|
Post by NhiHa on Jan 25, 2011 3:48:21 GMT 9
saigonnhonews.com/category/nhin-lai-lich-su/linhvnch.wordpress.com/tr-tuong-tran-thanh-phong/?fbclid=IwAR2HXzj8u6s2H0VC8pTdKDE_IgP9hZ7Q3NzhSxQpcMS4RoJ6ioaplU3BPCA Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần Tác Giả: Nguyễn Lý Tưởng
Khởi đi từ việc quân Pháp đã cho tàu chiến đến gây hấn và đánh chiếm nước ta vào thế kỷ 19 và những nhà ái quốc đã hô hào duy tân tự cường, nâng cao dân trí để cùng đấu tranh dành lại độc lập cho đến khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Cộng Sản áp đặt lên đất nước ta, gây nên cuộc nội chiến giữa những người quốc gia yêu chuộng tự do và những người Cộng Sản chủ trương bành trướng chủ nghĩa duy vật, làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng. Kết quả là ngày Quốc hận 30-4-1975 và sự có mặt của gần 2 triệu người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay. Vì không thể sống chung với chế độ Cộng Sản độc tài, họ đã bỏ hết nhà cửa tài sản, bỏ cả quê hương mồ mả tổ tiên, bạn bè, người thân v.v. để vượt biển đi tìm tự do. Cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền vẫn được tiếp tục nhằm xóa bỏ chế dộ Cộng Sản tại Việt Nam. Trong biến cố 30 tháng 4, 1975, Cộng Sản VN đã thắng về quân sự, nhưng chúng không thắng được chí khí bất khuất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và toàn thể nhân dân Miền Nam. Vì thế chúng đã lập ra các nhà tù cải tạo để giam giữ, hành hạ những người đã phục vụ cho chế độ VNCH trước đây. Chúng đã đày đọa anh em chúng ta tận những nơi rừng thiêng nước độc ở miền Bắc. Ðói rét, bệnh hoạn, xa gia đình, xa quê hương, một số anh em đã bỏ xác trong các trại tù tập trung cải tạo, một số sống sót sau hàng chục năm bị ngược đãi, đã được trở về trong cảnh gia đình tan nát, đất nước lầm than. Nhờ sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc, của các quốc gia yêu chuộng tự do và nhất là các phong trào đấu tranh cho nhân quyền trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, nên sau 15 năm dưới chế độ CS, một số các cựu sĩ quan, viên chức của chế độ VNCH cùng với gia đình đã được đoàn tụ với thân nhân ở nước ngoài hoặc được định cư tại Mỹ. Thực tế đã cho chúng ta thấy rõ, chủ nghĩa CS đã đem lại cho Việt Nam một nền kinh tế suy sụp, dân chúng phải sống trong cảnh nghèo đói, bị áp bức. Nền luân lý, đạo đức, văn hóa của tổ tiên hoàn toàn bị suy đồi, con người sống với nhau không còn tình cha con, tình vợ chồng, tình làng xóm nữa, mà đã trở thành những kẻ gian dối, phản bội, hận thù giai cấp, duy vật, mất niềm tin vào Thượng Ðế, vào các tôn giáo nhất là đạo thờ kính ông bà tổ tiên. Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta không quên công lao và xương máu của chiến sĩ đồng bào đã đổ ra vì tự do, độc lập và để ngăn chận chủ nghĩa CS vô thần. Trong số những anh hùng vô danh đó, có một số người đã được báo chí, sử sách nêu tên như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ và một số sĩ quan, binh sĩ đã lấy tấm thân đền nợ nước, thà chết vinh hơn sống nhục, đã tự tử không chịu đầu hàng, không chịu trao thân cho kẻ thù bắt bớ, giam cầm, tù tội. Tuy thân xác họ ngày nay đã ra tro bụi, nhưng tên tuổi của họ, tinh thần của họ vẫn còn sống mãi trong sử sách, sống mãi trong lòng mọi người. Cứ mỗi lần kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng 4, báo chí, đài phát thanh và qua các cuộc họp mặt của đồng bào trong các buỗi lễ, các cuộc meeting, người ta lại nhắc nhở đến họ, vinh danh họ. Người xưa thường nói: "Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần" nghĩa là khi còn sống làm Tướng chỉ huy quân đội, khi chết trở nên Thần Thánh được nhân dân tôn thờ). Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung v.v. là những anh hùng trong sử sách Việt Nam, tuy đã chết nhưng vẫn còn được sùng kính như những vị thần thánh của các tôn giáo. Họ là những vị thần của dân tộc Việt Nam và sẽ phù hộ cho chúng ta trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng, chống CS, đem lại tự do, thanh bình và thịnh vượng cho dân tộc. Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta hãy nhớ đến một số các vị anh hùng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất trước kẻ thù, đã nêu gương trung liệt đối với tổ quốc và đồng bào. Hôm nay, chúng tôi xin được phép nói về "Ngày Quốc Hận 30-4" bằng nhắc lại cuộc sống và những giây phút cuối cuộc đời của những vị Tướng đã hy sinh mạng sống mình để chứng tỏ lòng trung thành với tổ quốc bất khuất trước kẻ thù: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật tại Cần Thơ Ông là một người xuất thân từ một dòng họ danh giá ở đất Thừa Thiên (Huế), tổ tiên từ đời nầy qua đời khác có công giúp chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thái bình cho dân chúng. Sử sách còn nhắc đến Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Ðăng có công phá được giặc cướp ở Truông Nhà Hồ qua câu ca dao mà dân gian thường truyền tụng: "Yêu em, anh cũng muốn vô, Sợ Truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang" Ðó là lời người con trai ở Ðàng Ngoài nhắn gởi cho người con gái ở Ðàng Trong và người con gái đáp lại: "Phá Tam Giang ngày rày đã cạn, Truông nhà Hồ Nội Tán dẹp yên". Nguyễn Khoa Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức, một học sinh tốt, một sĩ quan có tinh thần trách nhiệm. Ông ở bất cứ đơn vị nào cũng được anh em binh sĩ và cấp chỉ huy kính phục. Với nhiều công lao trên các chiến trường, từ thiếu úy ông đã được thăng dần lên tới Thiếu Tướng và được làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, bộ chỉ huy đóng tại Cần Thơ, chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực Miền Tây (Ðồng bằng sông Cửu Long) là nơi dân cư đông đúc, ruộng đất phì nhiêu, là một vùng chiến lược quan trọng. Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương rồi trốn chạy ra ngoại quốc, cụ Trần Văn Hương cũng từ chức vào trao quyền lãnh đạo quốc gia cho Ðại Tướng Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã phản bội lại lời cam kết bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tuyên bố đầu hàng CS mà không có một nỗ lực chiến đấu nào mặc dầu quân đội vẫn còn, lãnh thổ vẫn còn, chưa mất hết tất cả. Trước lệnh buông súng đầu hàng của Dương Văn Minh, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã bình tĩnh, tập họp quân đội dưới cờ, thông báo tình hình. Sau đó ông đã ngồi tại văn phòng tư lệnh, dùng súng tự sát để trở về với tổ tiên anh hùng, cương quyết không để cho tấm thân làm Tướng phải bị sỉ nhục bởi quân thù. Tất cả sĩ quan, binh lính và đồng bào nghe tin đó đều không cầm được nước mắt. Tướng Lê Văn Hưng, Tự Lệnh Phó cũng đã tự tử theo vị chỉ huy của mình để tỏ rõ cái chí bất khuất của một vị Tướng lãnh anh hùng của quân đội VNCH. (Ghi chú của Tòa Soạn: Theo các nhân chứng và tài liệu đáng tin cậy, Tướng Hưng tự sát TRƯỚC Tướng Nam. Căn cứ vào bài viết của Bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng thì ông tự sát hồi 8 giờ 45 tối 30/4/75, lúc đó Tướng Nam còn sống, có gọi điện thoại chia buồn và an ủi. Sách Nguyễn Khoa Nam cho biết Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát vào khoảng 7 giờ sáng ngày 1/5/75). Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng Sinh năm 1933 tại Hóc Môn, Gia Ðịnh, xuất thân từ trong một gia đình trung lưu, nhưng gương mẫu đạo đức, được cha mẹ giáo dục nên người trung, tín, hiếu, để. Là học sinh giỏi tại trường Trung Học Huỳnh Khương Ninh, Ða Kao, Sàigòn, lớn lên trong cảnh chiến tranh, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên năm 1954 trước hiệp định Genève (20-4-1954), tốt nghiệp sĩ quan và phục vụ quân đội dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm từ 1954 đến 1963 chỉ huy từ đại đội đến tiểu đoàn. Năm 1967, ông chỉ huy Trung Ðoàn với cấp bậc Trung Tá, năm 1968 lên Ðại Tá, năm 1971 Tư Lệnh Sư Đoàn 5. Năm 1972 ông có công bảo vệ tỉnh Bình Long, giải tỏa áp lực Việt Cộng bao vây tỉnh nầy và được báo chí thời đó gọi là "anh hùng tử thủ Bình Long-An Lộc", tiêu diệt hàng chục ngàn lính Việt Cộng. Năm 1973 tư lệnh sư đoàn 21 Bộ binh ở miền Tây. Năm 1974 ông làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV dưới quyền Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi được tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, các Tướng ra đầu hàng hoặc chạy trốn, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lịnh vùng IV tự tử, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng trở về nhà gặp vợ con và bạn bè, sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, ông đã tự tử tại tư dinh của Phó Tư Lệnh Quân Ðoàn vào lúc 8 giờ 30 tối hôm đó để lại một người vợ và bốn người con, ba gái, một trai. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Xuất thân từ một gia đình trung lưu tại miền Bắc Việt Nam. Sau khi học hết chương trình Trung Học, ông tình nguyện vào trường Võ Bị Ðà Lạt, là trường đào tạo sĩ quan hiện dịch, mãn khóa với cấp bực Thiếu Úy và được chọn vào Binh Chủng Nhảy Dù, một binh chủng thiện chiến của quân đội. Năm 1954, trong lúc tình hình chiến sự rất sôi động tại các chiến trường miền Bắc, ông được thả dù xuống căn cứ Ðiện Biên Phủ, nơi có khoảng hai mươi ngàn lính Pháp Việt đang trấn giữ và bên ngoài có khoảng 60.000 lính Việt Minh đang bao vây tấn công. Tại đây ông được thăng Trung Úy tại mặt trận. Ngày 7 tháng 5, 1954, căn cứ Ðiện Biên Phủ bị Việt Minh chiếm, ông và các sĩ quan, binh sĩ bị Cộng Sản bắt làm tù binh. Sau hiệp định Genève 20-7-1954, nhờ sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Ðông Dương can thiệp, ông và các bạn được trao trả và được trở về miền Nam. Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng của Lực Lượng Ðặc Biệt do Ðại Tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau 1963, ông được đưa ra Quảng Ngãi giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Năm 1966, ông được thuyên chuyển về Huế làm Tư Lệnh Phó cho Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng tại Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Sau Tết Mậu Thân 1968, ông làm Tư Lệnh Biệt Khu 44 tại Ðồng Tháp Mười, năm 1970, ông trở về Huế làm Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh với cấp bậc Chuẩn Tướng, sau đó được thăng Thiếu Tướng. Sau các trận đánh của VC vào vùng giới tuyến Quảng Trị mùa hè 1972, ông được về làm Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Quang Trung gần Saigon, sau đó lại về làm Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng núi rừng Cao Nguyên miền Trung. Sau hiệp định Paris 1973, Việt Cộng lợi dụng quân Mỹ rút, đã tăng cường xâm nhập quân lính, xe tăng từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn và dọc biên giới Lào đã tạo áp lực nặng nề cho vùng cao nguyên Pleiku, Ban Mê Thuột. Năm 1974, Việt Cộng đánh chiếm tỉnh Phước Long và vùng Ba Biên Giới Việt-Miên-Lào, tháng 3, 1975, Việt Cộng tấn công vào Thị Xã Ban Mê Thuột đồng thời chiếm Quảng Trị. Trước tình hình đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái khỏi Pleiku để giữ vùng Duyên Hải. Quyết định sai lầm đó đã khiến cho cả một quân đoàn VNCH tan rã, hàng triệu cán bộ, công chức và gia đình cũng như đồng bào phải bỏ nhà cửa, tài sản chạy thoát thân, gây nên tình trạng hỗn loạn toàn miền Trung. Nhân đà thắng lợi đó, Cộng Sản Hà Nội ra lệnh đem quân ào ạt tiến vào miền Nam...Ngày 30 tháng 4, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đang nằm điều trị tại bệnh viện Ðồn Ðất (Grall) Sàigòn, nghe tin Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trốn ra khỏi nước, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh và Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Tướng lãnh, sĩ quan, các cấp chính quyền, dân chúng mạnh ai nấy chạy thoát thân, ông quyết định tự tử để trọn lòng trung với quốc gia. Trước mặt vợ con, bạn bè ông đã nói lời từ giả, căn dặn mọi người đừng hợp tác với CS, sau đó ông uống thuốc độc tự tử, không để cho CS bắt ông lần thứ hai. Vợ con, bạn bè của ông, những người đã chứng kiến giây phút đau lòng đó không ai là không cảm thương cho một vị Tướng khi sa cơ thất thế, chỉ có đem cái chết đền nợ non sông mà thôi. Sau khi ông chết rồi, Việt Cộng đã tịch thu hết nhà cửa, tài sản của ông khiến cho vợ con phải cảnh không nhà của, tiền bạc, đành tìm đến nương tựa bà con bạn bè rất nhục nhã. Người biết chuyện, không ai mà không thương mến ông. Thiếu Tướng Trần Văn Hai Xuất thân từ một gia đình trung lưu, sau khi học hết Trung Học, tình nguyện vào quân đội, trải qua các đơn vị được tiếng là một người tư cách, gương mẫu, tận tụy phục vụ cho quốc gia. Ông cũng có tác phong một người cách mạng, ngày từ tuổi trẻ ông đã gia nhập đảng Ðại Việt để tranh đấu giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, xây dựng cho đất nước một chế độ tự do dân chủ. Ông đã từng giữ các chức vụ Tỉnh Trưởng, Tư Lệnh Biệt Ðộng Quân và Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trải qua các chiến trường, ông chứng tỏ là một cấp chỉ huy có khả năng và trong sạch. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền ai cũng thương và phục ông. Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và Việt Cộng trên đường tiến vào Saigòn, ông trở về nhà tắm rửa sạch sẽ, thay áo quần mang đầy đủ quân phục, huy chương và quân hàm Thiếu Tướng, rồi cho gọi vợ con, thân nhân lại, nói rõ ý định và tự tử bằng súng. Trước khi chết, ông cũng đã chuẩn bị chỗ nằm xứng đáng với danh giá của một vị Tướng. Ðược tin đó, bà con bạn bè cũng như nhiều người đã từng phục vụ dưới quyền ông rất thương tiếc và chạy đến thăm viếng. Cùng với cái tang của đất nước, gia đình ông cũng chịu một đại tang của người chồng, người cha, người anh đã sống cuộc đời trong sạch, gương mẫu đạo đức, nêu cao tiết nghĩa, trung thành với quốc gia dân tộc. Những hạng người như thế, trên đời nầy đã dễ gì có được. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, danh giá tại Thị Xã Sơn Tây, dòng họ Lê nhiều người đỗ đạt, đã từng giữ chức vụ lớn trong chính quyền quốc gia như Trung Tướng Lê Nguyên Khang v.v... Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ là con đầu trong một gia đình gồm hai em gái cùng mẹ và một em trai cùng cha khác mẹ, hiện còn ở Việt Nam. Ông gia nhập quân đội và được đưa vào học trường Ðập Ðá Huế, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy (1951), về phục vụ tại Tiểu Đoàn 19 BVN dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Ðỗ Cao Trí (sau nầy là Trung Tướng), lên đại úy được đi làm Quận Trưởng Bến Cát (Bình Dương) sau lên đến Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5, năm 1972 Phụ Tá Hành Quân cho Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc. Ông là người đầu tiên dùng M.72 hạ xe tăng của Việt Cộng tại mặt trận Bình Long - An Lộc, từ đó binh sĩ mới thêm tin tưởng trong việc sử dụng loại vũ khí mới nầy. Sau đó được thăng cấp Ðại Tá về làm Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21, bị thương trong khi ngồi trên trực thăng quan sát hành quân, máy bay bị bắn rơi, gãy chân phải nằm bệnh viện. Khoảng 1974 về làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 thay Tướng Trần Quốc Lịch. Trung Tá Văn, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Ðoàn 5, đã kể lại cho ông Lê Nguyên Hoàng (anh con bác của Tướng Lê Nguyên Vỹ) giờ phút cuối của chuẩn Tướng như sau: Ngày 30 tháng 4, 1975, khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thì Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đã họp Bộ Tham Mưu và các trưởng phòng lại và nói với anh em rằng:"Mặc dầu có lệnh trên, nhưng tôi cương quyết không đầu hàng. Tôi sẽ có cách tự xử trí riêng đối với tôi. Anh em ai lo thân nấy, chạy được thì chạy". Trong khi bên ngoài, Việt Cộng bắc loa kêu gọi đầu hàng nhưng ông vẫn bình tĩnh và ra lệnh cho nhà bếp tổ chức một bữa tiệc rượu mời anh em. Sau khi ăn uống no say, ông đứng dậy đi vào phòng bên cạnh. Lát sau có tiếng súng nổ, mọi người chạy vào thấy ông ăn mặc quân phục tề chính, mang huy chương và quân hàm chuẩn Tướng nằm chết trên giường. Ông đã dùng súng bắn xuyên cằm lên đầu, tự tử. Tất cả sĩ quan đều có mặt khi Việt Cộng vào, Tướng Việt Cộng thấy như vậy đã nói :"Ðây mới xứng đáng là con nhà Tướng". Anh em xin đem chôn tại sân bộ tư lệnh bên cạnh cột cờ, nhưng Việt Cộng không cho. Cuối cùng phải đem chôn trong vườn cao su, ở ngoài đồn. Trong lúc chiến trận xảy ra thì vợ con của ông đã chạy theo dòng người di tản ra ngoại quốc. Hai ngày sau khi ông chết, người vợ của Trung Tá Tuân (Quận Trưởng Bến Cát, là anh ruột bà Lê Nguyên Vỹ) đi gặp Việt Cộng, nói dối là vợ của ông Lê Nguyên Vỹ, xin nhận xác chồng về chôn. Bà con đã đào mộ, lấy xác đem về chôn ở Hạnh Thông Tây, có lập bia mộ rõ ràng. Năm 1987, bà mẹ của ông ở Bắc vào cùng ông Lê Nguyên Hoàng đi cải táng, lấy cốt của chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đem thiêu để mang về thờ ở từ đường họ Lê tại quê nhà ở Sơn Tây. Ông Lê Nguyên Hoàng đã quan sát kỹ thấy sọ của chuẩn Tướng có vết đạn xuyên qua. Chúng tôi viết lại mấy dòng nầy, qua lời kể của ông Lê Nguyên Hoàng hiện đang sinh sống tại thành phố Garden Grove, California. Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng tôi xin đốt nén hương tưởng niệm các bậc anh hùng "sinh vi Tướng, tử vi thần" và những sĩ quan, binh sĩ cũng như những người yêu nước và đồng bào vô tội đã chết trong ngày 30 tháng 4, 1975 và trong suốt cuộc chiến từ 1945 đến nay. Sau ngày 30-4-1975, máu của những người yêu nước vẫn còn đổ ra trong các cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Gương trung dũng của quí vị là gương sáng cho muôn đời noi theo. Nguyễn Lý Tưởng
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:09:06 GMT 9
Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân – Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh Trương Quang Ân (1932-1968) Dương Thị Kim Thanh (1931-1968) Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952. Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt. Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ) Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi. Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh… Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận. Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu. Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy. Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954. Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị. Thành phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba. Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối. Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai. Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu. Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân độị Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn. Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương. Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng. Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn. Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7. Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ. Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp: - Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi! Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính. Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn. Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn: - Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe! - Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá! - Đại úy Hợp vội vã trả lời. - Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố? - Thiếu tá Ân hỏi gấp. - Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau! - Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc! Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu. - Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở. - Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm: - Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa? Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời: - Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi! Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:10:01 GMT 9
Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ.
Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng: - Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã! Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu: - Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu! Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười: - Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm! Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại.
Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định.
Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định: - Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được!
Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần: - Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.
Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào thời điểm 1966-1967): - Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!
Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.
*** Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách. - Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!
Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán. Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng: - Vào hàng! Vào hàng! Phắc!
Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát: - Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích: - Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh!
Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định.
Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù.
Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã.
Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng.
Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.
Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại.
Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống.
Nhưng mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại.
Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ – Tướng Quân.
Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập.
Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ.
Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan: - Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa.
Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!” Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc.
Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng: - Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!!
Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời.
Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc.
Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa của phu nhân.
Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân.
Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:33:27 GMT 9
Ðô Ðốc Chung Tấn Cang Cuối tháng 4 năm 1975, Sàigòn trong cơn hốt hoảng. Tổng Thống Thiệu từ chức, giao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cụ Hương, dưới nhiều áp lực, phải nhường quyền lại cho Ðại Tướng Dương Văn Minh, với hy vọng có một giải pháp ôn hòa trước sự tiến quân ồ ạt của Cộng quân. Nhưng hy vọng mỗi lúc mỗi mỏng manh. Sàigòn khi nào bị tràn ngập? Ngưng chiến được chăng? Chánh Phủ lui xuống Vùng IV để dễ cầm cự? Và lui binh cách nào...? Các câu hỏi cứ đan quấn vào nhau, mỗi lúc mỗi thêm rắc rối. Giữa lúc khó khăn ấy, Phó Ðô Ðốc Chung Tấn Cang, sau nhiều năm biệt phái đảm nhiệm các trách vụ ngoài Hải Quân, đã trở lại Hải Quân, quân chủng mà ông đã xuất thân với đầy ưu tư gắn bó. Nhưng chẳng được bao lâu, thời cuộc tính bằng ngày, và quanh Sàigòn Cộng quân đã có mặt. Thủy trình huyết mạch, hơi thở của Sàigòn trong bao lâu là con sông Lòng Tàu và Soai Rạp phải được giữ vững. Và đó còn là con đường cuối cùng của đoàn tàu của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa rời Sàigòn, đem theo hầu như tất cả chiến hạm khiển dụng với hơn 27.000 quân nhân và đồng bào. Ra đi đúng lúc, không sớm , trước khi quá muộn. Ra đi nghiêm túc và an toàn. Ðó là cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ luật Sau 25 năm, dù có ác ý đến đâu, chưa ai có thể chỉ trích được, nếu không nói là đây những lời khen ngợi người điều động toàn thể hạm đội, từ lúc manh nha kế hoạch, cho đến khi trao các chiến hạm lại cho Hải Quân Hoa Kỳ, là Phó Ðô Ðốc Chung Tấn Cang. Sau gần 25 năm im tiếng, lần đầu tiên ông đã dành cho người viết một cuộc mạn đàm gần cả một ngày. Ông đã về hưu, mắt yếu, không đọc được nhiều, nhưng trí nhớ còn tốt. Bên ly rượu chát như một thời phong lưu đầy quyền uy của một vị Ðô Ðốc Hải Quân. Ông chậm rãi kể về cuộc lui binh ấy và cả về cuộc đời ông. Ðược hỏi, ai là người có công nhất trong kế hoạch này, ông cười và đáp, "Tất cả mọi người như anh biết, sức mạnh của Hải Quân là sức mạnh tập thể. Trên con tàu không phải một mình ông Hạm Trưởng làm được mọi việc, mà là sự hợp lực hài hòa, khéo léo của tất cả mọi người. Tàu tách bến mà anh thủy thủ làm giây không buông giây đúng lúc thì con tàu làm sao ra được. Chuyến đi nói trên là công lao của tất cả anh em Hải Quân thuộc mọi cấp bậc. Và cũng là truyền thống tột đẹp của Hải Quân mình." Một cách cụ thể, ai là người thảo kế hoạch, lo thi hành kế hoạch, ông đáp "Khi đất nước đã đến lúc phải tính chuyện đi hay ở, người giúp tôi soạn thảo kế hoạch là ông Chí (Phó Ðề Ðốc Nguyễn Hữu Chí), Tư Lệnh Hành Quân Biển, ông Sơn (Nguyễn Xuân Sơn, Ðại Tá Tư Lệnh Hạm Ðội) ông Kiểm (Ðại Tá Ðỗ Kiểm, Ðại Tá Tham Mưu Phó Hành Quân) ông Luân (Ðại Tá Chi Huy Trưởng Tiếp Vận) và ông Khuê (Ðại Tá Phạm Mạnh Khuê, Tham Mưu Phó Hành Quân Biển). Ðó là lúc sửa soạn." Ông ngừng một chút và tiếp "Ðâu như hôm 26/4/75, tôi có họp Bộ Tham Mưu lại, nói rõ ý định là phải ra khỏi Sàigòn. Mà đi là cùng đi tất cả. Ra khỏi Sài-gòn, giữ lấy toàn thể lực lượng rồi sẽ tính sau. Bây giờ các tàu bè phải lấy đầy dầu nước, tiếp liệu càng nhiều càng tốt....Ông Luân có hỏi, thế phiếu phát thế nào. Tôi cười, đến giờ này mà còn phiếu gì nữa. Ai mang được bao nhiêu cứ ra sức mà mang." Sự ra đi cuả đoàn tầu có tính cách chiến lược, vậy trước khi có quyết định này, Ðô Ðốc có được chỉ thị cuả Tổng Thống hay chính phủ không? Ðô Ðốc Cang đáp:" Giưã lúc mà tình hình quân sự và chính trị rối loạn như thế, ông Dương Văn Minh không có một quyết định gì. Tôi có gặp ông, hỏi, ông chỉ đáp:" Tuỳ các anh..." Vì thế tôi đã chỉ thị bằng miệng cho Ðại Tá Sơn, Tư Lệnh Hạm Ðội để sẵng sàng đem Hạm Ðội ra biển. Và một cách cụ thể, tôi đã đặc biệt nhắc ông Sơn phải dành 2 chiếc Dương Vận Hạm với tất cả các phương tiện truyền tin và tiếp liệu, một chiếc dành cho chính phủ khi phải rời Sài Gòn bằng đường thuỷ, chiếc kia dành cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Với loại chiến hạm này có bãi đáp cho hai trực thăng." Nhưng rồi Tổng Thống Minh không xử dụng. Ðô Ðốc Cang đáp:" Trước khi đoàn tầu ra đi, tôi có cho Ðô Ðốc Diệp Quang Thuỷ,Tham Mưu Trưởng lên gặp ông Minh. Ông vẫn không có quyết định nào khác, chỉ nói:" Thôi các anh đi đi.." Như thế Tổng Thống Minh muốn rời Sài Gòn bằng đường thuỷ rất dễ dàng. Ðô Ðốc Cang tiếp:" Ðúng thế, đó là một quyết định can đảm và đầy trách nhiệm. Ðúng hay sai lại là vấn đề khác. Còn ở ngoài biển, ai là người đắc lực nhất? Ðô Ðốc Cang lại cười và nói: "Nhiều người kể công mình lắm. Sai cả. Người giúp tôi nhiều nhất, đắc lực nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu là ông Hùng (Phó Ðề Ðốc Ðinh Mạnh Hùng). Nếu phải nói lời cám ơn, hay tưởng thưởng thì chỉ có ông Hùng." Ông lại cười và tiếp: "Mới đây có người nói là ông Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ta chi là một vị sĩ quan liên lạc, giữa Hải Quân Mỹ và đoàn tàu của Hải Quân Việt Nam không hơn không kém. Khi đoàn tàu vào hải phận Phi Luật Tân, Chánh phủ Phi không cho vào, vì đoàn tàu còn treo cơ Việt Nam Cộng Hòa. Chính tôi đã đề nghị, trảlại tàu chiến của Mỹ cho Mỹ, theo tinh thần tài liệu viện trợ MAP (Military Aid Program), vì tàu của Mỹ giao cho Việt Nam Cộng Hòa sử dụng, khi không sử dụng nữa thì phải trao lại cho Mỹ, và đoàn tàu vào Subic, là căn cứ của Mỹ, chứ có vào đất Phi đâu". Vẫn cười , ông tiếp "Ông Armitage yêu cầu đoàn tàu đi thẳng đến Guam. Tôi bảo, không được. Gần 30 ngàn người trên tàu, bao nhiêu vấn đề. Mà dù có đi Guam cũng phải vào Subic để tiêp tế đã chứ... Thế là đoàn tàu vào Subic, căn cứ của Mỹ, mình giao tàu lại cho Mỹ. Trước đó mình đã tổ chức làm lễ hạ quốc kỳ Việt NamCH rất long trọng và cảm động" Khi đoàn tàu rời khỏi Sàigòn, đã ở ngoài biển, mà Tổng Thống Dương Văn Minh không đầu hàng thì sao !" Ông đáp: "Thì ít nhất ta vẫn giữ được toàn lực lượng của Hải Quân mình. Khi ấy, nếu thời cuộc thuận tiện ta lại quay trở lại, vào Cần Thơ chẳn hạn. Ở đó vấn đề tiếp liệu còn đầy đủ. Dầu nhớt và đạn dược còn nhiều. Nhưng Sàigòn, hôm đó ấy là ngày 29/4/1975, đoàn tàu phải ra cái đã. Ra trước khi tụi nó tiến sát vào bờ sông Soai Rạp, Lòng Tàu. Và như chúng ta thấy, hôm sau 30/4/1975, khi chúng ta ở ngoài khơi an toàn rồi, ông Minh tuyên bố đầu hàng. Lúc ấy có một số tàu rời Saigòn, một số bi bắn. Chiếc tàu nào có ông nhà báo Chu Tử, bị đại bác của xe tăng Việt Cộng bắn đó.... Chậm mấy tiếng là hỏng hết." Còn Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh? Ðô Ðốc Cang lại cười và nói: "Ông Minh lo về liên lạc, nên các chiến hạm chỉ nghe thấy tiếng ông ấy. Nhưng trên thực tế, từ lúc tàu ra đi, cho đến khi giao tàu cho Mỹ, trên đường đi chúng ta đều tiếp cứu các ghe xuồng của đồng bào vượt biển hệ thống chỉ huy do tôi điều khiển vẫn rất nghiêm chỉnh. Tuy đất nước đã lọt vào tay Cộng Sản, nhưng đoàn tàu vẫn còn trương cờ Việt Nam Cộng Hòa, và phải nói là trên tất cả các chiến hạm, kỷ luật vẫn được duy trì, không hề có sự rối loạn nào. Ðó là công lao của tất cả mọi người, thuộc mọi cấp bậc. Tôi hãnh diện về tinh thần ấy, và cám ơn tất cả anh em." Ðược hỏi lý do thành lập Lực Lượng Ðặc Nhiệm 99, ông cười rồi thong thả đáp:" Từ xưa đến nay, trong nghệ thuật chiến tranh, tiến đã khó, lùi lại càng bội phần khó hơn. Trong lúc lui, lực lượng hậu vệ là quan trọng nhất. Lát nưã đây, anh tiếp xúc với Ðại Tá Dõng, Tư Lệnh Lực Lượng này để nắm vững mục đích về việc thành lập LLÐN 99, nhất là sự hữu hiệu cuả nó trong việc bảo vệ Sài gòn, nhất là thuỷ lộ huyết mạch Lòng Tào và Soài Rạp." Trở lại với vấn đề bảo vệ bờ biển Việt Nam, chuyện xâm nhập,được nhắc lại về con tàu của Việt Công vào Vũng Rô ngày 19/2/1965, trong tài liệu của Việt Cộng, đây là thứ 23 con tàu này đã xâm nhập vào ờ biển miền Nam. Ðiều quan trọng là, ngoài việc tàu họ xâm nhập, họ còn có đơn vị bến bốc dỡ hàng, và di chuyển đi ngay, có nghĩa là họ nắm được dân, Ðô Ðốc Cang, cười và hỏi lại: " Anh đi tàu, các anh khám xét các ghe thuyền trên biển, các anh khám xét giấy tờ của họ, các anh có biết giấy đó thật hay giả, người cấp là ai..." Ông nhấp một hớp rượu vang nhỏ, rồi tiếp: "Ðó là vấn đề. Lẽ ra tại các đơn vị quanh bờ biển, bờ sông, phải do Hải Quân cai quản... Ðó là vấn đề, và ai họ giao cho mình. Tế nhị lắm. Cái khó là ở đó. Rộng hơn nưã, được hỏi tại sao Miền Nam mất về tay Cộng Sản? Ông đáp: "Trước hết, ta không nắm được tiếp vận. Mỹ họ nắm, khi họ buông là ta nguy. Hơn nữa ta không có chiến lược lâu dài các chánh phủ thay nhau như cơm bưã, nhất sau vụ Ðệ I Cộng Hòa bị lật đổ. Cuộc chiến của chúng ta lại chỉ là tự vệ. Cộng Sản nó tấn công đơn vị mình. mình giữ được kể là đã thắng, thì cái thua đã có từ căn bản". Rồi ông lại hỏi ngược lại người viết; " Chúng ta như anh với tôi, đều yêu nước cả. Ta đâu có ưa gì thằng Tây. Tại sao ta lại chiến đấu bên cạnh Tây đánh Việt Minh." Người viết ngồi im, ông tiếp: "Tầu hay Tây đều là người ngoài, lâu hay mau, như thứ bệnh ngoài da, từ từ ta sẽ tìm cách trừ đi được. Còn cái anh Cộng Sản, lại là thứ Cộng Sản Việt Nam, đó là một thứ bệnh từ trong máu, phải lo chữa trước. Bệnh Cộng Sản nó thấm vào máu, nguy hiểm lắm. Ðó là cái lý mà ta ở bên cạnh Tây đánh Cộng Sản" Vẫn ly rượu nho trên tay, ông tiếp: "Tôi sinh năm 1926 tại Gia Ðịnh. Lúc mới lớn, tôi rất ghét Tây. Tôi đã định ra bưng theo kháng chiến rồi đó chứ. Nhìn thằng Tây nghinh ngang trên đất nước mình, tôi bực lắm. Giữa lúc ấy tôi có hai ông cậu, là hai vị linh mục, đi theo kháng chiến bị Tây bắt, nhốt ở bót Catinat. Sau được thả ra, gặp tôi, tôi tỏ ý muốn ra bưng, hai ông cậu tôi giận lắm, mắng rằng, mày có ngu không. Ra đó ai tin mày, mày bị lợi dụng rồi mất xác thôi...Rồi thời cuộc đưa đẩy, tôi đã là sĩ quan hàng hải, lúc thành lập Hải Quân, tôi vào Hải Quân. Bản thân tôi, tôi không ưa nếp sống Quân Ðội. Nhưng bà cụ thân sinh tôi lại khác, cụ nói, đã là quân nhân con không được hèn. Chết thì chết, không bao giờ hàng cả. Con chết ở đâu má đến đó lấy xác con về. Không bao giờ hèn nhát hàng giặc." Vẫn cười, ông tiếp: "Nếu tôi còn làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô, có lẽ tôi sẽ ở lại chống tụi nó cho tới chết...." Người viết bàng hoàng như vừa nghe qua câu chuyện cũ trong Cổ Học Tinh Hoa. Ðợi cho sự bàng hoàng lắng lại, một câu hỏi khác được nêu lên là "Với tư cách là một vị sĩ quan cấp Ðô Ðốc, trong những ngày đầu tại Mỹ, Ðô Ðốc có gặp những khó khăn, những phiền lụy gì không?" Ông dơ tay như cản câu tôi nói và trả lời ngay: "Bảo rằng cực ư. Lúc ở bên nhà đi hành quân nguy hiểm, đói khát, thiếu thốn bao nhiêu. Giờ đi làm, cũng chỉ vừa sức, và đầy đủ phương tiên an toàn, vừa sẵn có thuốc men khi đau yếu, có gì là khổ. Bảo là nhục ư. Nếu ở lại bên nhà, dưới sự hành hạ của Việt Cộng, cái nào nhục hơn..." Nói về những vui, buồn trong đời quân ngũ, ông chậm rãi: "Cái vui và cái buồn đi đôi với nhau. Lúc mới ra trường, ông Chơn (Ðô Ðốc Trần Văn Chơn) đổi xuống chiếc LCM, tôi đổi xuống 2 chiếc LCVP, và nằm chung với anh em đoàn viên. 5 cái giường vải tháo ra. Lau sàn gỗ cho sạch, thầy trò nằm chung bên nhau. Anh em vui buồn có nhau. Khi đeo tới lon Thiếu Tá rồi, xa lính. Công việc lúc này chỉ còn có cái bàn và cái ghế, mất vui." Ông lại nhấp một hớp rượu nhỏ và tiếp: "Năm 58, ở Trà Vinh, lúc thành lập Gian Ðoàn 23 Xung Phong, sinh hoạt với anh em đoàn viên, tôi còn nhớ anh Lạc, Hạ sĩ cơ khí. Anh Lạc có một cô bồ bán dừa tươi ở bên kia sông. Mỗi buổi trưa anh ta lội qua bên kia sông tán cô bồ, khi về lại mang cho tôi một tái dừa tươi. Dễ thương lắm. Rồi đi hành quân tại Sa Ðéc, anh ta chết. Bị mìn." Nói tới đó nét mặt ông đổi khác, chìm lắng, bâng khuâng. Suốt bưã, ông hầu như chẳng ăn bao nhiêu chỉ nhấm nhấp ly rượu chát. Giọng nói ông như mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn và thấp thoáng sự bồi hồi. Ông nói: " Lính tráng lương lậu đâu có bao nhiêu mà mỗi lần vi phạm kỷ luật bị trừ lương, ghi điểm rồi làm sao lên lon. Do đó, thấy tôi chỉ nhốt mà không ghi vào quân bạ. Ðứa nào nặng lắm, tôi đưa ra hỏi:" Thay vì 8 ngày tù, giờ mầy chịu tám hèo được không? Lính tráng như hiểu được lòng tôi, nên bị đánh mà vẫn vui." Hớp một hớp rượu nữa, định nói thì phu nhân cuả ông, tóc đã bạc, vẻ mặt thật phúc hậu, nhắc:" Ông ăn đi chớ." Rồi bà quay sang nói với chúng tôi: "Hôm nay ông ấy vui lắm đấy. Ít khi ông nói nhiều thế." Ðô Ðốc Cang lại tiếp: "Lúc ấy, nhằm năm đầu thành lập Hải Quân ấy mà, quanh tôi nhiều anh em đoàn viên là người Bắc. Vui lắm. Có lần đi hành quân tại Ðồng Tháp Mười, tàu vừa nhô ra khỏi đầu con kinh, anh đoàn viên gốc Bắc Kỳ kêu lên:" Úi chà..." Tôi hỏi gì thế chú. Anh ta chỉ ra cánh đồng trước mặt và nói:" Mênh mông như bể..." Cuộc mạn đàm tới đây coi như tạm đủ. Ðã 4 giờ 30 chiều. Chúng tôi gồm anh Trần Chấn Hải, Tổng Hội Trưởng Hải Quân và anh Thân, một cựu đoàn viên thâm niên Hải Quân, định cáo từ ra về. Ông nghiêm mặt và nói: "Từ sáng đến giờ, tôi trả lời cuộc phỏng vấn cuả....các ông nhà báo. Bây giờ là lệnh. Các anh hãy ở lại ăn bữa cơm nữa, rồi muốn hỏi thêm cái gì cứ hỏi? Các vị phu nhân của Ðô Ðốc Cang và Ðại Tá Dõng cũng hùa theo "Ðây là đất núi, có ai thèm ở lại chơi đâu...", nên chúng tôi đành phải ngồi lại, ăn một bữa cơm chiều nữa. Trong khi chờ cơm, cuộc mạn đàm mỗi lúc mỗi thêm vui, đầy thân mật. Ðại Tá Dõng chủ nhà nhướng mắt nhắc tôi. "Hỏi đại đi, hỏi gì cứ hỏi...". Ðô Ðốc Cang, vẫn xoay xoay ly rượu vang trước mặt, liên tục kể thêm về những phiền lụy, những hiểu lầm giữa anh em Hải Quân với nhau, ông cười luôn miệng và nói "Tôi đã ngoài 70 rồi. Tụi trẻ cũng đã học hành xong, công việc êm ả. Tôi đã làm xong việc đời. Tôi chỉ còn chờ hai việc: Vào nhà thương và theo về với Chúa". Chúng tôi ngồi nghe bỗng thấy quanh quất đâu đây như một lời từ giã. Ðô Ðốc Cang tiếp: "Nghĩ lại chuyện đời thật như mặt trời chiều. Tôi không giận ai. Tôi còn mừng là đã có những quyết định đúng lúc, tránh những điều đáng tiếc..." Ông tiếp tục nói, nhưng lại dặn: "Thôi, viết lại các phần trên thôi nhé. Phần vừa nói, để đến khi tôi về với Chúa, lúc ấy các anh có muốn viết thì viết." Cơm tôi xong, trời đã tối. Khí núi đã có phần hơi se lạnh. Ông bà Ðô Ðốc Cang và ông bà Ðại Tá Dõng đều ra ngoài cửa bắt tay từ giã chúng tôi. Ông Dõng nói: "Ðất núi, mấy khi có khách vui như hôm nay." Xe chuyển bánh. Qua kính xe, tôi thấy Ðô Ðốc Cang đội cái nón đi biển do anh Hải tặng. Khuôn mặt ông chìm vào bóng tối, chỉ thấy cái huy hiệu trên nón sáng loáng hiện rõ cái neo nằm giữa hai hàng lá lúa vàng tươi. Phan Lạc Tiếp P.S: Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang đã từ trần ngày 24-1-2007 tại tư gia, thọ 81 tuổi
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:23:14 GMT 9
1. Tướng Cao Văn Viên (1921-2008)
Một ngày mùa Hè năm 2002 tôi nhận điện thoại. Người ở đầu giây xin nói chuyện với “anh Kỳ Phong.” Trả lời là tôi đang nghe, người bên kia tiếp tục: “Anh Kỳ Phong, tôi là Cao Văn Viên. Tôi nghe nói anh đang dịch một cuốn sách tôi viết. Nếu anh không bận, tôi xin gặp anh nói chuyện vài tiếng. Tôi đến nhà anh được không?” Rất ngạc nhiên, nhưng tôi trả lời được, và chỉ đường cho ông đến nhà. Buông điện thoại xuống, tôi chưa hiểu tại sao ông đại tướng gọi mình, và có chuyện gì để nói? Hay là ông không muốn tôi dịch quyển sách ông viết cho trung tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ ra tiếng Việt? Ngồi suy nghĩ để dự đoán câu chuyện đối thoại sẽ là gì. … Chừng một tiếng sau tôi thấy một chiếc xe Ford loại nhỏ chạy vào truớc cửa. Từ trong nhà nhìn ra, tôi thấy một ông già yếu, lưng hơi còng xuống, một tay chống cây gậy, tay kia cố gắng đóng cửa xe lại. Thấy cảnh đó tôi giựt mình: Người trong điện thoại mà tôi đã nói chuyện có một giọng nói rất khoẻ mạnh, nếu không nói là giọng khoẻ như của một trung niên. Nếu đã biết ông yếu như vậy, tôi không thể để ông lái xe đến nhà. Tôi vội vàng chạy ra xe và nói với ông, “Thưa bác, từ đây về sau bác cần gì, cháu sẽ đến gặp bác. Bác không nên lái xe đường xa như vậy đến đây.” Và đó là bắt đầu sự quen biết của tôi đối với bác Cao Văn Viên. Vài năm trước trước khi tôi được gặp bác Viên, tình cờ tôi có đọc qua cuốn The Final Collapse do bác Viên viết và được trung tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ xuất bản năm 1985. Cuốn The Final Collapse là một trong 17 quyển sách loại chuyên đề, viết về chiến tranh Việt Nam, do Center of Military, the United States Army bảo trợ và xuất bản. Vì đây là một loại sách chuyên môn — mà lại do chánh phủ xuất bản giới hạn — nên không phổ quát bên ngoài giới không chuyên môn, và ít thấy ngoài thư viện công cộng. Tôi thấy quyển sách có nhiều điều lý thú. Ðầu năm 2002 tôi bắt đầu dịch quyển The Final Collapse ra tiếng Việt (Hơn 10 năm trước, tôi cũng dịch một quyển cũng do Center of Military xuất bản, Lam Son 719, của thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh. Sách nói về cuộc hành quân đánh qua Lào tháng 2-1971. Nhưng Lam Son 719 bản Việt ngữ chỉ được đăng từng kỳ trên báo địa phương chứ không được xuất bản ra thành sách.). Có lẽ trong thời gian dịch quyển The Final Collapse, bạn bè đến nhà chơi, thấy công việc tôi đang làm rồi nói ra ngoài; và bác Viên nghe được chuyện. Mục đích của bác Viên đến là để hỏi tôi về bản tiếng Việt của The Final Collapse. Gặp nhau, bác Viên hỏi tôi quyển sách đã dịch như thế nào rồi, có khó khăn không … rồi bác đi thẳng vào vấn đề. Bác nói là bác không đồng ý lắm về quyển The Final Collapse: quyển sách viết xong hơn bốn năm rồi mới được cho ra đời; bìa sách là hình một chiếc xe tăng có lá cờ cộng sản … tất cả đều đi ngược lại ý muốn của người viết. Nhưng chỉ là một người viết contract, ông không có được quyết định trong ban biên tập/ xuất bản. Bây giờ thấy tôi dịch bản này ra tiếng Việt, bác Viên hỏi tôi là có thể nào cho ông đọc bản thảo và thêm vào những phụ chú để giải thích khi thấy cần. Bác Viên cũng nói thêm là trong những năm qua, nhiều sách và bài báo viết về thời gian ông làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (TTMT/ QLVNCH) … những tác giả đó, hoặc với một ác ý, hoặc chưa hiểu thấu sự vụ bên trong nên viết như vậy. Bác Viên đề nghị đây là một cơ hội cho ông đặt lại vấn đề cho đúng chổ. Một vài phụ chú, một lời bạt là đủ để nói lên tâm sự của ông. Tôi đồng ý với đề nghị của bác Viên không do dự, với hai lý do rất đơn giản: Tôi có quyết định cuối cùng trong bản thảo; và, đây là cơ hội cho độc giả nghe tiếng nói của đại tướng Cao Văn Viên — một người ít nói về những chuyện đã xảy ra; những biến cố đưa đến sự thất thủ của Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi về, bác Viên đề nghị chương trình làm việc: hai tuần gặp nhau ăn trưa một lần, để trao đổi bản thảo và sửa bản thảo. Tôi đồng ý. Ðến đây tôi xin được nói về tư cách của bác Viên. Tôi thích ông: ông có ngôn từ, lối nói chuyện, và đùa giỡn của tánh tình người miền nam … tôi thấy ông thật tự nhiên qua những đối thoại. Tôi để ý một điều: trừ lần đầu tiên trên điện thoại ông gọi tôi là, “anh Kỳ Phong,” từ sau đó, lúc nào ông cũng thân mật gọi tôi đơn giản là “Kỳ Phong.” Lúc nào cũng vậy. Riêng tôi, tôi ở xa và dưới ông còn hơn “kính nhi viễn chi;” tôi quá nhỏ đối với ông. Tôi chưa bao giờ gọi ông bằng chức vụ. “Bác Viên” là lối xưng hô duy nhất tôi xử dụng — khi nói với ông ở ngôi thứ nhất hay nói về ông ở ngôi thứ ba. Tôi thích sự vui tính của ông. Vì hai tuần đi ăn trưa một lần, đôi khi tôi giành trả tiền, đôi khi ông nài nỉ trả tiền … và đôi khi người chủ quán phở “biếu không” bửa ăn trưa! Sau vài lần tranh nhau trả tiền, ông đề nghị: luân phiên thay nhau trả. Dĩ nhiên tôi đồng ý. Một hôm đang ăn trưa, ông nhìn tôi, vẻ mặt tư lự, rồi buột miệng lẩm bẩm “hhmm …” Tôi ngạc nhiên, hỏi có chuyện gì? Ông cười lớn lên và nói, “Hhmmm, không biết hôm nay ai trả tiền ta?” Tôi cũng cười, thấy thật vui với ông đại tướng. Mùa Thu năm 2003 bản tiếng Việt của The Final Collapse ra đời với tựa là Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa. Ở Lời Bạt và phần Phụ Chú, bác Viên có thêm vào hai phần mà ông chưa bao giờ nói ra cho đến lúc đó: Vai trò của ông trong cuộc đảo chánh 1-11-1963 (ông bị bắt nhốt ở bộ tổng tham mưu vì từ chối không tham dự/ ủng hộ); và vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến (chỉ là một hộp thư liên lạc giữa tổng thống Thiệu và các tư lệnh Quân Ðoàn). Ðại tướng Cao văn Viên vào lính rất muộn so với lứa tuổi. Sanh năm 1921, gia nhập quân đội và ra trường sĩ quan Vũng Tàu năm 1949. Mang lon thiếu úy năm hai mươi tám tuổi. Khi ông được thăng chức thiếu tướng năm 42 tuổi (3-3-1964), ông là sĩ quan được lên cấp tướng trễ nhất so với các tướng lãnh của thời 1960-1967 — So với các ông Trần Văn Ðôn, mang thiếu tướng năm 38 tuổi; Tôn Thất Ðính, 35; Nguyễn Cao Kỳ 34; Lê Nguyên Khang, 33; Nguyễn Văn Thiệu, 40. Tướng Viên cũng là sĩ quan cuối cùng được lên cấp tướng theo hệ thống quân đội Pháp: đại tá lên thiếu tướng, thay gì lên chuẩn tướng như trong hệ thống quân đội Hoa Kỳ mà QLVNCH bắt đầu áp dụng từ tháng 8-1964. Trong thời gian gặp tướng Viên, tôi có hỏi ông nhiều chuyện và được giải thích cặn kẻ. Nhưng cũng có nhiều chuyện tôi không dám hỏi vì sự tế nhị của câu chuyện. Những chuyện tôi ngại hỏi như: Có phải tướng Viên được lên tướng vì đã đích thân chỉ huy — và bị thương — trong cuộc hành quân Quyết Thắng đánh vào mật khu Việt Cộng ở Giồng Bầu, Hồng Ngự, hay là ông đã có công giúp tướng Trần Thiện Khiêm, tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” tướng Dương Văn Minh vào đầu năm 1964? Hay là kết quả của cả hai thành tích trên? Một thắc mắc khác là, làm sao từ một sĩ quan đại tá bị bắt giữ vì không theo phe đảo chánh, tướng Viên được trả lại quyền chỉ huy trưởng lữ đoàn Nhảy Dù rồi được cho gia nhập vào trung tâm của quyền lực của Hội Ðồng Tướng Lãnh chỉ hơn một năm sau đó? Suy luận từ những gì nghe được từ tướng Viên — suy luận là vì tôi chưa bao giờ hỏi thẳng hay nghe tướng Viên nói chi tiết về những gì được viết ra đây — tôi nghĩ ông được lên tướng một phần từ chiến công trong cuộc hành quân Quyết Thắng (3-1964); một phần đến từ cuộc chỉnh lý 1964; và phần còn lại đến từ liên hệ và vai trò của ông trong những năm xáo trộn 1964-1967. Trong cuộc chỉnh lý của tướng Khánh năm 1967, Lữ Ðoàn Nhảy Dù dưới quyền của đại tá Viên (lúc đó vẫn còn đại tá) đã bắt giữ những tướng liên hệ đến cuộc đảo chánh năm 1963, và những sĩ quan thuộc về phe của tướng Minh. Ở mặt ngoài tuy trung tướng Khánh là người cầm đầu cuộc chỉnh lý, nhưng bên trong, quyền thế thật sự nằm trong tay trung tướng Khiêm và những sĩ quan trẻ có quân trong tay. Sau khi lên thiếu tướng ông Viên nằm gần với trung tâm quyền lực hơn. Năm 1964, ông là một trong những “Young Turks” đang thật sự chỉ huy quân đội. Một tài liệu từ tòa đại sứ Mỹ liệt kê những “người lãnh đạo trẻ” của năm 1964 là các ông Thiệu, Kỳ, Viên, Lê Nguyên Khang, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Bảo Trị, Tôn Thất Xứng, Nguyễn Thanh Sằng, Ðặng Văn Quang, Vĩnh Lộc, Nguyễn Chánh Thi, Dư Quốc Ðống, Chung Tấn Cang. (Young Turks là tên gọi chung một số sĩ quan, chính trị gia trẻ của đế quốc Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ sau này, vào cuối thế kỷ 19. Những người trẻ này có nhiều quyết định rất “cấp tiến” so với giới lãnh đạo thế hệ trước, với hy vọng cứu vớt sự suy đồi của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn đầu thập niên 1900s.) Trong bốn năm 1964-67 — cho đến khi bầu cử quốc hội và tổng thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa hoàn tất (3 tháng 9-1967) — giới lãnh đạo quân lực VNCH thay đổi liên tục. Trong giai đoạn này, muốn giữ được quyền chỉ huy và không bị lưu đày ra nước ngoài không phải dể. Phải có tài ngoại giao và sự dũng mãnh của mình đối với các sĩ quan đồng nghiệp. Tôi nghĩ tướng Viên có hai yếu tố đó. Tôi dựa sự phán đoán này vào vài chuyện tôi nghe và tìm hiểu được (qua tài liệu). Trong cuộc hành quân ở Kiến Phong năm 1964, đại tá Viên đích thân chỉ huy tại mặt trận. Trong lúc giao tranh, hỏa lực của Việt Cộng đàn áp mạnh … thấy nguy hiểm, người sĩ quan Thiết Giáp có mặt tại đó là Lý Tòng Bá, nói với đại tá Viên nên vào bên trong xe thiết vận xa để chỉ huy và tránh đạn. Nhưng đại tá Viên trả lời, “Mình chỉ huy, phải ở trước mặt lính thì lính mới đánh. Lính không thấy mặt người chỉ huy thì làm sao đánh hăng được (tôi nghe tướng Viên nói chuẩn tướng Bá là vai cậu hay chú gì đó của Bác Gái, và trong liên hệ gia quyến bên vợ, tướng Bá có vai trên tướng Viên). Chuyện đánh nhau trong cuộc hành quân này tôi được anh Ðoàn Kim Tuấn, sĩ quan tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tham dự xác nhận (trung tá Tuấn, khoá 9 Thủ Ðức, sau này về làm việc ở Nha Kỹ Thuật). Tháng 5-1966, khi biến động miền Trung lên tận cao điểm, chính phủ của thiếu tướng Kỳ có cơ nguy sụp đổ vì những biến loạn đó. Hội đồng Tướng Lãnh quyết định đem quân ra miền Trung để biểu dương uy thế của chính quyền trung ương. Tối ngày 4 tháng 4-1966, tướng Kỳ và Viên, đại tá Nguyễn Ngọc Loan, hai tiểu đoàn TQLC, một số đơn vị tâm lý chiến, an ninh quân đội, và cảnh sát dã chiến bay ra Ðà Nẵng. Một bộ tư lệnh dã chiến được thiết lập ở Ðà Nẵng, để từ đó quân chánh phủ sẽ tiến ra Huế. Tướng Viên có nói với tôi về biến cố này. Ông nói tướng Kỳ chỉ ra đó một ngày rồi về vì phải nói chuyện với trung tướng TQLC Hoa Kỳ, Lewis Walt, đang chỉ huy quân lực Mỹ ở Vùng I, và là người có nhiều thiện cảm và đang bảo vệ tướng Nguyễn Chánh Thi. Khi tướng Viên vừa bước chân xuống phi trường, tướng Thi gọi điện thoại cho ông ngay: “Viên ra đây làm gì vậy. Trở về Sài Gòn đi.” Tướng Viên trả lời ngay, “Anh không thể nói chuyện với một tổng tham mưu trưởng như vậy được.” (Hai ông Viên và Thi là bạn cùng khóa ở Vũng Tàu với nhau. Tướng Thi nói chuyện như vậy chắc đang dùng ngôn từ của bạn bè đồng khóa) Tướng Viên ở lại Ðà Nẵng chỉ huy cho đến khi tình hình miền Trung tạm yên ổn. Tình trạng xáo trộn ở Vùng I được coi là chấm dứt khi Hội Ðồng Tướng Lãnh cho các sĩ quan liên hệ trong vụ biến động về hưu. Tháng 10-1966, thời gian này có nhiều tranh chấp đang xảy giữa các sĩ quan gốc Nam, gốc Bắc trong hội đồng tướng lãnh. Sự tranh chấp không chỉ xảy ra trong giới quân nhân mà còn lan ra giới công chức cao cấp hàng tổng bộ trưởng. Ở hội nghị thượng đỉnh Manila, tháng 10-1966, không biết chuyện gì đã làm cho trung tướng Nguyễn Hữu Có, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng, “nói đùa” trước các ông Thiệu, Kỳ, Viên, và đại sứ kiêm phó tổng trưởng ngoại giao Bùi Diễm, là “trở về nước lần này chúng ta phải lột da Bùi Diễm.” Trong sự yên lặng ngỡ ngàng của những người có mặt, Tướng Viên lên tiếng, “Ai muốn lột da Bùi Diễm thì phải đi qua lữ đoàn Nhảy Dù của tôi.” Theo lời ông Bùi Diễm, áp lực về sự chia rẽ gốc nam bắc nặng nề đến độ làm ông chán nản, phải xin đi làm đại sứ để tránh tình trạng nhức đầu đó một thời gian. Tướng Viên là người sẳn sàng “làm” khi đến lúc thấy phải “làm.” Ông kể cho tôi nghe lý do tại sao ông cố gắng đi học thêm văn bằng văn chương ở đại học. Ông nói trong thời gian còn làm sĩ quan báo chí ở bộ tổng tham mưu, bài viết nào của ông cũng đều bị một sĩ quan cấp trên sửa. Ông rất bực mình … và đến gặp người sĩ quan có văn phòng ở lầu trên, yêu cầu ông ta đừng sửa bài viết nữa. Nhưng chuyện “bỉnh bút” vẫn xảy ra sau đó. Tướng Viên nói, ông gặp người đó một lần cuối, nói rằng ông không chấp nhận chuyện sửa bài như vậy nữa. Tướng Viên kể, “… và bác chỉ chờ cho chuyện sửa bài xảy ra một lần nữa, bác sẽ chờ tên đó bước xuống cầu thăng là bác “đục” nó ngay. … Nhưng may chuyện đó không xảy ra. Sau đó bác muốn đi học thêm để coi mình có học được như người khác hay không.” Khi trả lời với tướng Nguyễn Hữu Có như vậy, tướng Viên chấp nhận hậu quả, hoặc là tồn tại trong hội đồng tướng lãnh như một thế lực, hoặc là bị lưu đày ra khỏi trung tâm quyền lực — nếu không nói là ra khỏi nước như trường hợp của một số tướng lãnh trong giai đoạn 1965-1967. Năm 1965-67, trung tướng Có là thế lực trong Hội Ðồng Tướng Lãnh. Thế lực của tướng Có đáng sợ đến độ hai ông Thiệu, Kỳ phải tìm cách đưa ông ta ra khỏi Việt Nam: đầu năm 1967, trong khi tướng Có đi kinh lý ở Ðài Loan, khi máy bay đến Hồng Kông, tướng Kỳ thay mặt hội đồng tướng lãnh gởi một điện tín cho tướng Có, không cho phép ông trở lại Việt Nam. Cùng lúc hội đồng tướng lãnh bổ nhiệm tướng Viên giữ luôn chức tổng trưởng quốc phòng. Tướng Viên kiêm nhiệm chức tổng trưởng quốc phòng và tổng tham mưu trưởng cho đến tháng 11-1967, khi tướng Nguyễn Văn Vỹ lên thay. Có người nói tướng Viên an toàn trong hội đồng tướng lãnh cho đến những ngày cuối cùng vì ông được sự tin tưởng của tướng Thiệu và tướng Khiêm (cũng như chuyện tướng Viên trở về chỉ huy lữ đoàn Nhảy Dù là do tướng Khiêm giúp đỡ bổ nhiệm). Chuyện này người viết không được rõ. Nhưng tướng Viên có nói lúc còn là trung úy, ông và đại úy Thiệu ở chung một nhà khi cả hai đang phục vụ ở tiểu khu Hưng Yên, Bắc Việt. Ông còn nói thêm, “Hai người ở chung một nhà. Phía sau nhà là một cái ao. Tắm rửa, giặt giũ gì cũng đến từ nước trong ao đó … bây giờ nghĩ lại còn rùng mình.” Liên hệ và được sự tin tưởng của tổng thống Thiệu như thế nào thì tôi không tướng Viên nói, nhưng theo những tài liệu Hoa Kỳ đọc được sau này, tướng Viên có công hàn gắn — dù sự hàn gắn không được lâu dài — những rạn nức giữa ông Kỳ và ông Thiệu, khi hai người cùng quyết định ra tranh cữ tổng thống tháng 9-1967. Tướng Viên rất được sự tin tưởng của hai đại tướng Westmoreland và Abrams, và quan trọng hơn, của đại sứ Ellsworth Bunker. Trong hồi ký A Soldier Reports, ngoài chuyện nói về liên hệ chân tình giữa hai người, tướng Westmoreland có kể một câu chuyện vui. Ngày Quân Lực 19 tháng 6-1967, tướng Viên nhảy dù biểu diễn. Nhưng thay vì đáp được vào khán đài trước mặt quan khách, dân chúng ngưỡng mộ … dù của tướng Viên bị gió cuốn và đáp xuống đường phố Sài Gòn. Gặp tướng Viên, tướng Westmoreland nói đùa, “Ông quá quan trọng cho quốc gia để tiếp tục chơi trò chơi nguy hiểm này.” Tướng Viên trả lời, “Nhưng phải tiếp tục nhảy saut để nâng cao tinh thần lính dù.” Sau đó tướng Westmoreland đề nghị tướng Viên đừng nhảy dù giải trí nữa, ông sẽ cho người dạy tướng Viên lái trực thăng. Cũng từ đó MACV có chương trình huấn luyện trực thăng cho các sĩ quan cao cấp VNCH muốn theo học. Nói về chuyện nhảy dù: Ðến năm 1960 tướng Viên mới có bằng Dù. Nhưng dù sao bằng Dù của tướng Viên vẫn “thâm niên” hơn của tướng Thiệu. Năm 1964 tướng Thiệu mới nhảy saut đầu tiên để được chứng chỉ nhảy dù! Qua sự thân mật của liên hệ, tướng Viên đốc thúc tướng Westmoreland cấp tốc cung cấp súng AR-15 (M-16 sau này), đại liên M-60, và phóng lựu M-79 cho quân lực VNCH. Những thử nghiệm đầu tiên về hàng nhu yếu phẩm bán ở quân tiếp vụ, thành hình cũng nhờ sự hợp tác của MACV và BTTM. Sự liên hệ giữa tướng Viên và người thừa nhiệm tướng Westmoreland ở MACV cũng thân, nếu không nói là thân hơn. Tài liệu đến từ quyển The Abrams Tapes cho thấy sự kính trọng của tướng Abrams — và những sĩ quan trong ban tham mưu MACV — đối với tướng Viên. Có một lần tướng Abrams tuyên bố trong một buổi họp về tư cách của tướng Viên, “Tướng Viên chưa bao giờ nói dối với một chuyện gì. Khi không thể nói được thì ông nói không nói được. Nhưng khi ông nói một chuyện gì rồi, thì tôi tin đó là sự thật.” Cũng trong quyển sách về hồ sơ mật của MACV nói trên, một đôi khi ta thấy được tình cảm chân thật giữa hai người sĩ quan cao cấp, kính trọng nhau, khi một tình trạng khó xử xảy ra. Chuyện xảy ra trong giai đoạn Việt Nam Hóa cuộc chiến. Hình như trong nguyên thủy của kế hoạch rút quân, Hoa Kỳ dự định sẽ để lại một số quân tác chiến để phòng thủ ở Việt Nam như trường hợp ở Ðại Hàn và Tây Ðức. Nhưng không hiểu tại sao kế hoạch bị thay đổi, và người Mỹ quyết định rút tất cả quân ra khỏi chiến trường. Có lẽ vì tin theo kế hoạch nguyên thủy của tổng trưởng quốc phòng Melvin Lair … tướng Abrams đã hứa với tướng Viên tương tự. Nhưng khi kế hoạch thay đổi từ trên, Abrams không biết phải ăn nói ra sao, giải thích làm sao cho tướng Viên hiểu. Không biết sau đó tướng Abrams có nói gì với tướng Viên, hay giải quyết như thế nào. Nhưng trong một buổi họp đầy đũ các tướng lãnh tham mưu MACV, tướng Abrams nói: “Tôi vẫn thường nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm như vậy.” Lời nói chân tình của một đại tướng thâm niên đối với tướng Viên như vậy, đã nói lên tất cả sự kính trọng của tướng Abrams về tướng Viên. Ðại tướng Abrams mang lon thiếu úy năm 1936, và là đại tướng năm đại tá Viên được thăng cấp tướng. Trong The Bunker Papers — một tường trình hàng tuần về tình hình quân sự chính trị VNCH của đại sứ Bunker, gởi thẳng cho tổng thống Lyndon Johnson (và tiếp tục gởi cho đến nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Richard Nixon) — tên của tướng Viên được đại sứ Bunker nhắc đến nhiều trong năm 1967. Nhất là trong hai, ba tháng trước ngày bầu cử tổng thống. Trong thời gian này tướng Viên là một conduit giữa các tướng lãnh và tòa đại sứ, thông báo cho chánh phủ Mỹ biết ý định của nhóm, hay giải quyết những khó khăn trong vấn đề chỉ huy và điều khiển giữa hai bộ tư lệnh Việt-Mỹ. Nhưng quan trọng hơn, khi hai ông Thiệu, Kỳ không nhường nhau và quyết định ra ứng cử tổng thống ở hai liên danh khác nhau, vai trò của tướng Viên trở nên quan trọng. Tướng Viên có nói với người viết một vài chi tiết về chuyện này. Ông nói vì tướng Thiệu thay đổi quyết định liên tục: Ban đầu ông Thiệu đồng ý đề nghị của hội đồng tướng lãnh là ông Kỳ sẽ tranh cử tổng thống với lá phiếu của quân đội. Sau khi ông Kỳ đắc cữ ông Thiệu sẽ trở là tổng tham mưu trưởng kiêm tổng trưởng quốc phòng. Nhưng hôm sau ông Thiệu đổi ý, tuyên bố ông sẽ từ chức và tranh cữ như một thường dân! Tướng Viên, đang là tổng trưởng quốc phòng và tổng tham mưu trưởng, phải quyết định. Trước đó tướng Viên (cùng với các tư lệnh quân đoàn) không những đệ đơn lên ủy ban kiểm soát bầu cử ở quốc hội không đồng ý cho ông Dương Văn Minh ra ứng cữ, ông còn bay qua Thái Lan gặp mặt tướng Minh (đang bị lưu đày ở Bangkok) để chuyển đạt ý kiến của hội đồng tướng lãnh — một nhóm 50-60 sĩ quan cao cấp QLVNCH đang đại diện quân đội. Trước sự đổi ý liên tục của ông Thiệu, thứ Bảy, 1 tháng 7-1967, ông Viên đưa cho ông Thiệu một tối hậu thư của hội đồng tướng lãnh: Ông Thiệu và ông Kỳ sẽ ứng cữ chung liên danh quân đội, ông Thiệu tổng thống; ông Kỳ phó tổng thống; ông Kỳ sẽ có toàn quyền bổ nhiệm thủ tướng, hội đồng tổng bộ trưởng, và các tư lệnh cao cấp của quân đội. Ðó là sự nhân nhượng cuối cùng của ông Kỳ. Theo lời của tướng Viên thuật lại, trung tướng Nguyễn Ðức Thắng là người viết những cam kết đó trên một tờ giấy, và tướng Viên là người đưa tướng Thiệu tờ cam kết đó. Theo tường trình của đại sứ Bunker gởi về cho tổng thống Johnson, hội đồng tướng lãnh đi đến quyết định này sau “48 tiếng đồng hồ, trong một căn phòng đầy khói thuốc.” Và ông Thiệu chấp nhận quyết định của hội đồng tướng lãnh.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:23:55 GMT 9
Về liên hệ của tướng Viên và tổng thống Thiệu. Tướng Viên giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, và là đại tướng lâu nhất trong QLVNCH. Tướng Viên — qua những gì đã viết và nói ra — đệ đơn xin từ chức năm lần từ năm 1969 nhưng tổng thống Thiệu không chấp nhận. Theo tài liệu giải mật sau này, tổng thống Thiệu muốn thay ông Viên từ năm 1969, nhưng tại sao không thực hiện ý định đó thì không hiểu được. Sau vụ bắn lầm vào trường trung tiểu học Phước Ðức ở Chợ Lớn ngày 3 tháng 6-1968, gây tử thương một số sĩ quan thân cận với tướng Kỳ, tổng thống Thiệu nhân dịp đó thay đổi toàn bộ những chức vụ trong quân đội. Ông Thiệu giữ tướng Viên lại chức tổng tham mưu trưởng chỉ vì ông Viên không có tham vọng chính trị và không phải loại tướng hay làm “làm hoảng.” Hai tác giả, thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh và chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, trong The South Vietnamese Society (viết cho Center of Military, The United States Army), cũng suy luận theo chiều hướng đó. Ðiều này cũng phù hợp với một số tài liệu giải mật về sau. Một tài liệu cho thấy trung tướng Hoàng Xuân Lãm là một nhân chứng một lần tướng Viên muốn từ chức: Trong một buổi họp quân sự ngày 9 tháng 3-1971 để quyết định về tình hình mặt trận Lam Sơn 719, tướng Lãm xin tổng thống Thiệu cho từ chức vì sự quản trị và điều khiển hành quân của ông đối với hai tướng Lê Nguyên Khang (tư lệnh TQLC) và Dư Quốc Ðống (tư lệnh Nhảy Dù) không có hiệu nghiệm … ông xin được từ chức trở về dân sự. Khi nghe, tướng Viên đề nghị với tổng thống Thiệu cho tướng Lãm về thay ông ở bộ tổng tham mưu, để chính ông được trở về … dân sự! Dĩ nhiên tướng Lãm không chịu; ông Thiệu thì không muốn thay cả hai! Kết quả buổi họp: Tướng Lãm trở lại chỉ huy hành quân Lam Sơn 719; tướng Viên bay ra Khe Sanh để “nhắc” tướng Ðống là phải tuân theo hệ thống chỉ huy. Trong tác phẩm The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley, có một đoạn nói từ đầu năm 1969 tướng Abrams đã nghe chuyện tổng thống Thiệu sẽ thay thế tướng Viên nhiều đến độ ông nói với các sĩ quan tham mưu MACV, “… khi thì nghe tướng Lãm sẽ thay, khi thì tướng Trí sẽ thay … chừng nào xảy ra thì tôi mới tin …” Và đó là vào những tháng đầu của năm 1969. Tướng Viên bị giữ lại bộ tổng tham mưu, người viết nghĩ, vì ông Thiệu không còn tin ai hơn tướng Viên. Tin ở đây không có nghĩa là tin tướng Viên là người trung thành với mình: ông Thiệu tin tướng Viên là người sẽ không dùng lính để làm ẩu. Ngoài chức vụ TTMT, tướng Viên không được mời tham dự một hội đồng nào khác của chính phủ. Một dẫn chứng: Trong Ủy Ban Ðiều Hợp Tình Báo Quốc Gia do trung tướng Ðặng Văn Quang làm chủ tịch (đồng thời là Phụ Tá Ðặc Biệt Quân Sự và An Ninh cho tổng thống), với những ủy viên là đặc ủy trưởng Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo; Cục trưởng An Ninh Quân Ðội; hai Trưởng Phòng 7 và Phòng 2, BTTM; và, giám đốc Nha Kỹ Thuật. Chúng ta không thấy ông tổng tham mưu trưởng có tên trong danh sách ủy viên. Như tướng Viên đã viết và trả lời một vài phỏng vấn, ông đệ đơn xin từ chức từ khi biết tổng thống Thiệu muốn tìm một người khác thay ông từ cuối năm 1969. Khoảng cách giữa người tổng tham mưu trưởng và vị tổng tư lệnh quân đội càng xa hơn khi tổng thống Thiệu không còn để ý đến hệ thống quân giai, hay quân phong của quân đội, khi ông ra lệnh hay có liên hệ cá nhân với các sĩ quan dưới quyền của tướng Viên. Hành động của tổng thống Thiệu đã làm chính tướng Abrams để ý. Hai lần, cuối năm 1968 và đầu năm 1969, tướng Abrams nói trong buổi họp … là tướng Lãm liên lạc trực tiếp với tổng thống về vấn đề hành quân … tướng Ðỗ Cao Trí thì vào dinh Ðộc lập ăn cơm với tổng thống một tuần hai, ba lần. Liên hệ như vậy đặt tướng Viên vào tình trạng khó xử. Ðầu tháng 5-1972, khi tình hình ở Quảng Trị nguy ngập. … tổng thống Thiệu là người trực tiếp viết quân lệnh cho bộ quốc phòng và BTTM, ra lệnh bắt chuẩn tướng Vũ Văn Giai lập tức; và, ra lệnh tướng Lãm xử bắn những quân nhân có hành vi vô kỷ luật ở Huế. Dĩ nhiên trên cương vị tổng tư lệnh quân đội, tổng thống Thiệu có toàn quyền ra lệnh như vậy. Nhưng tại sao không ra lệnh cho BTTM/ tổng tham mưu trưởng thi hành lệnh của ông? Hành động của tổng thống Thiệu không phải là một thí dụ tốt để duy trì kỷ luật hệ thống quân giai. Ở đây người viết không có ý định đào sâu khoảng cách giữa tướng Viên và tổng thống Thiệu. Nhưng đó là những gì đã xảy ra.
Bác Viên hiền và ít nói; ít phê phán lời nói hay hành động người khác. Có thể trong thời gian biến động của những năm 1964-1967, tánh yên lặng và “ít có ý kiến” của bác Viên đưa đến sự kính trọng của những tướng lãnh trong hội đồng lãnh đạo. Tôi có dịp nghe chuyện từ tác giả viết từ điển Nguyễn Văn Tạo (đã quá cố; tác giả từ điển Việt-Anh/ Anh-Việt; Việt-Pháp/ Pháp Việt), một người hàng xóm quen biết của bác Viên ở Vạn Tượng. Bác Tạo gái nói lúc còn trẻ bác Viên nhìn hiền, hiền như kiểu một thầy giáo … khó tưởng tượng sau này ông ta trở thành một quân nhân chỉ huy lính …
Tôi và anh Lý Thanh Tâm, một sĩ quan trung thành, gặp bác Viên lần cuối vào ngày thứ Bảy, 8 tháng 12-2007. Bác Viên ngồi trên giường nói chuyện huyên thuyên … giọng nói vẫn mạnh. Tôi hẹn anh Tâm và bác sẽ trở lại thứ Tư, 12 tháng 12, 2007. … Thứ Ba 11 Bác gọi sớm và nói không thể gặp ngày thứ Tư. Hình như thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007, nhà làm sinh nhật trể cho bác. Sáng thứ Ba, 22 tháng Giêng, 2008, tám giờ sáng, tôi nhận một mass e-mail của anh Bùi Mạnh Hùng thông báo bác đã đi. Hơn chín giờ sáng tôi gọi đến nhà cao niên nơi bác ở để hỏi thăm. … Ðầu giây, bác Nguyễn Hữu Bầu nói … “Bác đang đứng trước xác bác Viên đây …” Tôi nói cảm ơn, rồi gọi cho bác Ðoàn Văn Nu ở Galveston, bác Nguyễn Thu Lương ở Montreal … hai bác đã đi hành quân với bác Viên từ thời còn ở tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.
Ngày Chủ Nhật cuối cùng của đám tang bác Viên, đại diện đông đủ quân binh chủng của quân lực VNCH đến tiễn bác lần cuối. Trung tướng Lữ Lan và đại tá Hoàng Ngọc Lung có đọc điếu văn. Trong bài điếu văn của bác Lung, ông nói ra một sự thật mà ông đã giữ kín cho đến ngày hôm đó: Khi ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống, dưới áp lực chính trị mới — giả định là áp lực của cộng sản Bắc Việt — ông Minh đã có kế hoạch bắt giữ năm (5) nhân vật đầu não của BTTM. Ðứng đầu danh sách năm người đó là đại tướng Cao Văn Viên.
Một đôi khi tôi nhớ lại những bữa ăn trưa vào mùa Hè 2002. Nhớ khi bác Viên hỏi tôi, “Hmmm, hôm nay ai trả tiền ta?” Lúc nào tôi cũng nói đến lượt tôi trả; và lúc nào ông cũng nói tôi nhớ lầm. Và nếu may mắn, người chủ quán sẽ nói, “Hôm nay nhà hàng đãi.” Hình như người chủ quán là cháu họ của bác Viên.
Nguyễn Kỳ Phong@yahoo.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó
Cao Văn Viên. Ðại tướng, tổng tham tham mưu trưởng QLVNCH (1967-1975). Sanh ngày 11 tháng 12-1921 tại Vạn Tượng, Lào. Tốt nghiệp trường trung học Pavie, làm huấn luyện thể thao tại một trường trung học sau khi tốt nghiệp trung học. Bị quân đội Nhật bắt giữ khi chính quyền Pháp ở Ðông Dương thất thủ. Trốn về Việt Nam, theo học trường sĩ quan Vũng Tàu và ra trường năm 1949. Lần lượt giữ những chức vụ như sĩ quan phòng tuyển mộ nhập ngũ, phòng báo chí bộ quốc phòng, trước khi đi thụ huấn khóa chiến thuật để về làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 10, năm 1952, ở Bắc Việt. Năm 1954 làm sĩ quan Ban 2, rồi Ban 4 ở tiểu khu Hưng Yên. Sau Hiệp Ðịnh Geneve 1954, rút về miền Nam, ông được chỉ định coi Tiểu Ðoàn 56 để tiếp thu tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1955-56, về làm sĩ quan ở Phòng 4 BTTM, trước khi được theo học trường Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ, năm 1956-57. Trở lại Việt Nam, với cấp bực trung tá, ông được vào làm ban tham mưu biệt bộ phủ tổng thống năm 1959. Tháng 11-1960, sau cuộc đảo chánh thất bại của nhóm trung tá Vương Văn Ðông và đại tá Nguyễn Chánh Thi, ông được chỉ định thay đại tá Thi làm tư lệnh lữ đoàn Nhảy Dù. Trong cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Ðình Diệm của các tướng lãnh vào tháng 11-1963, ông bị tạm giam tại bộ tổng tham mưu vì không ủng hộ trung tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chánh. Bị mất chức tư lệnh Nhảy Dù tạm thời, nhưng ngay sau đó được phục hồi. Ðầu tháng 1-1964, với cương vị tư lệnh Nhảy Dù, tướng Viên là thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lý hạ bệ tướng Dương Văn Minh. Tháng 3-1964 được thăng chức thiếu tướng sau khi bị thương khi đích thân chỉ huy cuộc hành quân nhảy dù vào căn cứ cộng sản ở Giồng Bầu, Hồng Ngự. Tháng 10-1965 được Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia bổ nhiệm làm tổng tham mưu trưởng QLVNCH với chức trung tướng. Trong thời gian biến động của bốn năm 1966-67, tướng Viên tham dự vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia. Tháng 3-1967 tại Hội Nghị Thượng Ðỉnh Ðảo Guam, tướng Viên đã đề nghị với tổng thống Lyndon Johnson về một chiến lược cô lập CSBV, bằng cách lập một hàng rào phòng thủ dọc theo vĩ tuyến 17; hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV ở Hạ Lào và Quảng Bình-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy trong năm 1967 đại tướng William Westmoreland đã ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso. Năm 1967 một lần nữa ông được sự tin tưởng của hội đồng các tướng lãnh là một sĩ quan không chánh trị khi được thăng chức đại tướng. Vào năm bầu cữ 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Ðồng Quân Lực giải quyết sự bế tắt giữa giữa trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cữ chức tổng thống trong và dưới sự ủng hộ của liên danh quân đội. Từ năm 1969 trở đi, vai trò của tướng Viên như một tổng tham mưu trưởng bị lu mờ đi khi tổng thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội thẳng qua lệnh tổng thống thay vì qua hệ thống quân giai của BTTM. Theo những gì do đại tướng Viên viết, là ông đã đệ đơn từ chức năm lần nhưng đều bị tổng thống Thiệu bác đơn. Trong những năm cuối của VNCH, vai trò tổng tham mưu trưởng của đại tướng Viên chỉ còn là một hư vị. Ngày 28 tháng 4-1975 tổng thống Trần Văn Hương chấp thuận đơn từ chức của tướng Viên. Ông rời chức vụ và Việt Nam một ngày sau đó.
Tài Liệu: Cao Văn Viên, The Final Collapse (1985); Những Ngày Cuối Của VNCH (2003); Vietnam: What’s Next? The Strategy for Isolation (1972); Lewis Sorley, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes, 1968-1972 (2004).
[Trích trong Từ Ðiển Chiến Tranh Việt Nam của Nguyễn Kỳ Phong]
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:53:24 GMT 9
đại tướng Cao văn Viên 1. Ðại tướng của tôi Bài viết về đại tướng Cao văn Viên gồm có ba phần, ghi nhận vào ba thời gian khác nhau. Năm 2003, năm 2005 và năm 2008. Mon General: (Tháng 10-2003) Mùa Ðông năm nay, niên trưởng Cao Văn Viên sẽ trải qua những ngày băng giá khó khăn. Năm nay 82 tuổi, ông mới bị té ngã. Tưởng đã quỵ luôn, nhưng một lần nữa y khoa Hoa Kỳ đã đỡ vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH đứng lên để tập cho ông đi lại từng bước ngắn. Chắc chắn là các bác sĩ và chuyên viên Mỹ đều không biết vị cao niên Á Châu này là người đã từng làm chức vụ gì ở Việt Nam. Bởi vì hàng ngày cũng không có nhiều người đến thăm ông. Sau trận té gẫy xương chậu, chân ông đã sưng thật to, nhưng mãi cả mấy tuần lễ sau ông mới có cơ hội chiếu điện và chữa trị chính thức. Trước đó ông tự xoa l dầu nóng và mùi Nhị Thiên Ðường thơm ngát cả căn phòng tại khu chung cư cao niên lầu hai của quận Fairfax miền Virginia. Ông đang cố gắng đứng lên tập đi trở lại trong một chương trình hồi phục để tránh phải ngồi xe lăn là điều mà tuổi già rất quản ngại. 30 năm trong quân ngũ, ông Cao Văn Viên chỉ sống với cấp trên và cấp dưới. Riêng cá nhân ông, gần như không có nhiều bằng hữu tương giao để chén tạc, chén thù. Gần 30 năm sống cuộc đời di tản, vị Ðại Tướng đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bây giờ cũng vẫn tiếp tục độc hành. Ông luôn luôn cố tránh liên hệ vào các tranh chấp chính trị ngay từ lúc còn trong quân đội cũng như trong hoàn cảnh di dân tỵ nạn hiện nay. Từ khi người vợ quán xuyến của ông qua đời, rồi đến người con trai duy nhất của ông cũng vắn số, ông Cao văn Viên đã trải qua những mùa đông cô độc ở Nữu Ước, hoàn toàn xa cách mọi người. Ông đi chợ nấu ăn lấy, đóng vai ông già Á Châu vô danh giữa chốn đô thị phồn hoa đông đảo nhất thế giới. Những năm gần đây ông dọn về ở luôn trong một căn hộ của khu chung cư ở miền Ðông Hoa Kỳ, bên cạnh Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn. Nơi đây đa số là người già Ðại Hàn. Ông tiếp tục đi chợ và nấu ăn lấy. Cô con gái lớn trưởng thành của ông đã tốt nghiệp luật, đi dạy học, lập gia đình và làm việc ở nơi xa. Ðời sống đã không cho phép cha con được gần nhau và vị tướng già cũng đã quen sống như thế. Bây giờ thực ra ông cũng không có nhiều nhu cầu. Người già ở Hoa Kỳ lợi tức thấp hoặc không có lợi tức được lãnh bao nhiêu thì niên trưởng Viên của tôi cũng lãnh được bằng đó. Số tiền này đã dành trả hết cho gian phòng ông đang cư ngụ. Trung tá Tâm là một sĩ quan hiếm hoi trong số các thân hữu quân ngũ còn lại quanh ông. Vâng, chính cái anh Tâm đó đang tìm cách xin cho niên trưởng của anh vào một Nursing Home có người săn sóc ngày đêm. Ðó là nhu cầu thực tế và là một ước mơ nhỏ bé của một con người đã một thời mang hình ảnh lớn lao của quân đội chúng ta. Vào đầu thập niên 50s, gặp nhau tại tiểu khu Hưng Yên, bên bờ sông Hồng Hà có 3 sĩ quan Việt Nam còn trẻ. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, quê Phan Rang miền Trung, lém lỉnh tinh ranh. Ðại úy Trần Thiện Khiêm quê miền Nam, ít nói, thâm trầm. Trung úy Cao Văn Viên, quê miền Bắc, cao lớn, trắng trẻo và đẹp trai nhất. Nếu coi đây là nhóm bạn đầu đời quân ngũ thì quả thực họ đã từng là chiến hữu. Và Trung úy Cao văn Viên lại là niên trưởng. Ông Viên tuy người Bắc nhưng thực ra vì cha mẹ làm ăn bên Lào nên ông ra đời tại Vạn Tượng và Thủ Ðô Vientian là dấu ấn của thân phụ đặt tên cho con trai. Vào thời còn trẻ trung, các sĩ quan quốc gia bắt đầu trưởng thành trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp. Các ông quan một, quan hai còn đeo trên vai những gạch kim tuyến vàng chóe với tương lai mở rộng một đời binh nghiệp. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng Trung úy Thiệu sẽ trở thành Tổng Thống. Ðại úy Khiêm trở thành Thủ Tướng và Trung úy Viên trở thành Ðại Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðó là chuyện sau này. Ðịnh mệnh quả nhiên đã có những ước hẹn với lịch sử. Cả ba người chiến binh Bắc Trung Nam, cùng thăng trầm với chiến tranh, với đất nước để cùng thăng tiến. Họ làm việc với nhau, họ chia nhau những chức vụ tối cao của quân đội và chính quyền. Cùng yểm trợ nhau, nhưng đồng thời cũng rất xa cách dù ở bên trong hay bên ngoài công vụ. Họ không còn ngồi với nhau những giây phút tửu hậu trà dư. Ông Viên đã nói rằng mối liên hệ của ông với Tổng Thống Thiệu hoàn toàn là công vụ. Các niên trưởng của tôi khi nói chuyện đều thưa gửi với nhau bằng chức vụ. Thưa Tổng Thống, Thủ Tướng, Ðại Tướng vân vân. Khách sáo vô cùng. Cái thời “toa moa” ngày xưa ở Secteur Hưng Yên bây giờ đã xa lắm rồi, chẳng ai còn nhớ nữa. Với sĩ quan Cao Văn Viên, từ cấp Úy lên cấp Tá, ông luôn luôn là người cần mẫn và hòa nhã. Bước ngoặt của đời ông là cánh chim bằng nhảy dù trên ngực áo. Khi ông còn là Trung Tá tại Tham Mưu Biệt Bộ lúc đó ông Nguyễn Chánh Thi đang coi Liên đoàn Nhảy dù. Cả hai cùng là bạn cũ. Thi rủ Viên học nhảy dù để gột rửa bớt cái vẻ sĩ quan văn phòng. Nhảy thì nhảy. Trung tá Viên lấy bằng Dù và tiếp tục ngồi bên Tham Mưu Biệt Bộ thời kỳ ông Diệm còn đang tại chức. Ðảo chính xẩy ra, Ðại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Dù chạy qua Cam Bốt. Tổng thống Diệm vừa thoát nạn, ngó tới ngó lui thấy ông sĩ quan thân cận gần gũi có bằng cấp nhẩy dù bèn đưa qua nắm liên đoàn Mũ Ðỏ. Từ đó ông Cao Văn Viên bắt đầu làm tư lệnh và cuộc đời đi vào khúc quanh mới. Nhảy dù vốn là đơn vị ưu tú của quân đội, nhưng mũ đỏ đang bị thất sủng vì cú đảo chánh hụt. Giai đoạn này là lúc thử thách của cả vị tư lệnh lẫn các tiểu đoàn nhảy dù. Hai bên thăm dò lẫn nhau. Ông Viên trở thành một vị Ðại Tá tư lệnh hăng hái xông xáo từ kỹ thuật nhảy dù đến các chiến trường trên khắp bốn quân khu. Ông lấy bằng huấn luyện viên Dù và nhảy biểu diễn tự điều khiển cùng với các cố vấn Hoa Kỳ. Cuộc đảo chánh ông Diệm lần thứ hai mới là giai đoạn đặc biệt của Ðại tá Cao Văn Viên. Trong khi hầu hết các tư lệnh quân đội đều ngả theo cách mạng thì riêng mình ông từ chối. Ðó là hành động mà sau này ông cũng không chắc là một thái độ khôn ngoan. Ông Viên thực sự cũng không muốn đóng vai anh hùng, nhưng chỉ muốn giữ tấm lòng chung thủy. Ðã có những người chống đảo chánh bị giết chết như vị Tư lệnh Hải quân, Tiểu đoàn trưởng Nhảy dù và sau này chính anh em Tổng thống Diệm cũng bị giết chết. Nếu viên Tư lệnh Nhảy dù không chịu theo cách mạng mà bị thanh toán thì cũng là chuyện có thể xảy ra. Nhưng chính bà vợ quán xuyến và can đảm đã lên tiếng khi ông chồng bị giam riêng một chỗ. Bà Viên đã quyết liệt can thiệp trực tiếp với tất cả các tướng lãnh đảo chánh mà ngày hôm trước vẫn còn là anh em thân hữu với gia đình ông. Cho đến sau này ông Viên vẫn còn ghi nhớ thái độ mạnh mẽ của người vợ đã cứu sống ông trong năm đảo chánh. Ông cũng không ngần ngại mà nói thẳng ra như thế. Sau khi cách mạng thành công, ngôi sao bản mệnh của ông lại trở nên rực rỡ. Phe thân hữu của Ðệ Nhất Cộng Hòa tuy đang bị thất thế nhưng vẫn kín đáo ca ngợi thái độ của vị Tư lệnh Nhảy dù. Ngay cả các tướng lãnh và sĩ quan phe cách mạng cũng đều vì nể thái độ của ông. Ông Cao Văn Viên gần như là người duy nhất không theo cách mạng nhưng vẫn được tiếp tục về chỉ huy nhảy dù. Ðịnh mệnh vẫn tiếp tục chiều đãi. Ông tham dự hành quân Cao Lãnh miền Tây đạt chiến thắng và bị thương. Thêm vào chiến thương bội tinh với ngôi sao đỏ, ông lên Thiếu Tướng với hai sao lấp lánh trên cổ áo và nón đỏ vẫn đội trên đầu.Trong thời gian đảo chánh ông Diệm xảy ra, ông Cao Văn Viên đã không có những kỷ niệm tốt đẹp với tướng Dương Văn Minh. Mấy năm sau, vào giai đoạn chỉnh lý bắt các tướng cách mạng giam lỏng trên Ðà Lạt và cô lập Big Minh thì cũng toàn là lính Nhảy dù của ông Cao Văn Viên. Vì vậy lại thêm một kỷ niệm không đẹp giữa hai người. Ðó cũng là lý do mà sau này ông nghĩ rằng không thể ngồi lại trong chính phủ Dương Văn Minh. Phải chăng đây cũng là một cái cớ chính thức để có thể ra đi vào đúng thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, đó là câu chuyện 1975. Trở lại với giai đoạn giữa thập niên 60s, từ giã nhảy dù, tướng Viên về làm Tư lệnh Quân đoàn III và sau cùng lên chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Với chức vụ quan trọng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tướng Viên là người có vóc dáng đường bệ nên trong các cuộc thăm viếng đơn vị, hình ảnh của ông cạnh các tướng lãnh Hoa Kỳ đem lại niềm hãnh diện cho các binh đoàn. Lớn tuổi hơn các tướng lãnh cùng thời, nhưng ông có khuôn mặt trẻ trung và giữ được thân thể gọn gàng của một cựu huấn luyện viên thể dục lúc còn niên thiếu. Mặc dù có dư luận chê trách, nhưng tướng Viên vẫn thực sự là người hiếu học ngay từ lúc còn làm Tư lệnh Quân đoàn III. Ông rất chịu những bài giảng về triết học bay bướm của thầy Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa đã một thời là Trung úy Quân nhu. Phần lớn các tư lệnh quân chủng và các quân đoàn đều kính nể vị Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng vốn từ bên Nhảy Dù đi lên. Ngay cả sau này khi các Tư lệnh Quân đoàn liên lạc thẳng với Tổng thống Thiệu những vẫn giữ lễ độ lịch sự với Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Viên có biệt nhãn với ngành Tiếp Vận vì ngày xưa ông đã từng là trưởng phòng 4 đầu tiên dưới thời quân đội quốc gia phôi thai năm 1954. Mặt khác, ông cũng giữ mối thiện cảm và theo dõi các hoạt động của binh chủng mũ đỏ mà ông luôn luôn hãnh diện đã góp phần trong binh nghiệp. Tướng Viên cũng được sự tin cậy và vị nể của các giới chức Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính ông cũng tự nhận thấy chưa bao giờ nghĩ đến ngày có thể lên đến chức tước lớn lao như vậy. Ông luôn luôn mong được làm tròn nhiệm vụ, nhưng ông không phải là hàng tướng lãnh nóng nẩy ồn ào, lấy gậy chỉ huy đập vào đầu sĩ quan, hay la hét thuộc cấp tối ngày. Tướng Viên cảm nhận vai trò phối hợp của một vị Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân như bên Ngũ Giác Ðài Hoa Kỳ chứ không phải là Tổng Tư Lệnh ban hành các lệnh trực tiếp. Như ông đã giãi bày trong tác phẩm mới xuất bản, khi nhận thấy bị Tổng thống Thiệu qua mặt giành trực tiếp quyền điều hành bộ máy chiến tranh thì ông lặng lẽ lui vào vai trò tư vấn cho đến khi xin từ nhiệm. Tháng 10-2003 khi dịch giả Nguyễn Kỳ Phong cho phát hành bản Việt ngữ tác phẩm của Ðại tướng Cao Văn Viên, phóng viên BBC Luân Ðôn có hỏi đi hỏi lại Kỳ Phong nhiều lần một câu hỏi. Ðó cũng là thắc mắc của rất nhiều thính giả và độc giả. Tại sao Ðại Tướng bị thất sủng, xin từ nhiệm lại không được chấp thuận. Dịch giả Kỳ Phong không thể thay mặt tác giả mà trả lời cho xuôi câu hỏi phức tạp này. Quả thực đã có lúc ông Thiệu muốn tìm người thay ông Viên nhưng không phải là dễ dàng. Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng phải lựa chọn trong các Tư lệnh Quân đoàn xuất sắc. Tướng Ngô Quang Trưởng với sự yểm trợ của phía Hoa Kỳ cũng không phải là người làm ông Thiệu an tâm. Tướng Ðỗ Cao Trí cũng đã được phía Hoa kỳ tiến cử trong danh sách nhưng ông Trí vừa nghe tin đã tuyên bố lăng nhăng nên đã làm ông Thiệu quản ngại và gạch tên ngay cả trước khi trực thăng của ông Trí lâm nạn.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:54:20 GMT 9
Ðối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, việc thay thế tướng Cao Văn Viên chưa phải là nhu cầu cấp thiết. Ông Thiệu hoàn toàn yên tâm với một vị Tổng Tham Mưu Trưởng dứt khoát không chịu tham dự vào các cuộc đảo chánh chính trị. Ông không sợ ông Viên làm phản. Trước sau như một tướng Viên đã kiên định như thế. Thông thường ông Viên thân với tướng Kỳ hơn là gần gũi ông Thiệu. Nhưng không bao giờ ông Kỳ rủ được ông Viên tham gia đảo chánh ông Thiệu, ngay như vào giờ thứ 25 của thời điểm năm 1975.Ông Thiệu và ông Viên, như trên đã viết ra, các niên trưởng của tôi sinh hoạt xa cách và khách sáo. Không có cái kiểu như thời kỳ còn ở Hưng Yên: “Này, Moi làm ở État Major lâu quá, thôi Toi kiếm thằng khác để Moi nghỉ một thời gian. Việc gì Toi cũng chơi thẳng với các Quân đoàn như thế thì còn cần Moi ở đây làm gì?” Không, các Sếp của tôi không ăn nói lăng nhăng như vậy. Ðại Tướng thưa rằng xin Tổng Thống cho tôi tạm nghỉ vì sức khỏe. Tổng Thống nói là xin Ðại Tướng vui lòng tiếp tục ở lại một thời gian. Bây giờ là lúc khó khăn, quân đội cần ổn định v.v... Và Ðại tướng Viên có lúc đã nhờ quân nhu tìm cho một số dụng cụ làm vườn để thực sự chuẩn bị vui thú điền viên, nhưng khi ông Thiệu nói như vậy đành chần chờ ở lại Bộ Tổng Tham Mưu cho qua ngày.
Cũng phải ghi lại là trong chức vụ cao cấp nhất của quân đội, tướng Viên đã có lần phác thảo kế hoạch tấn công ra Bắc và đó là một trong các phương cách tự vệ mãnh liệt nhất. Tuy nhiên chắc chắn rằng phía Hoa Kỳ hoàn toàn không yểm trợ và ông Thiệu không thể nào đơn phương quyết định được. Thêm vào đó, một trong các quyết định quan trọng nhất của tướng Cao Văn Viên là xử dụng tướng Ðồng Văn Khuyên từ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận lên Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Tiếp Vận rồi là Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Ông Khuyên đã không phụ lòng tin cậy của tướng Viên trong các chức vụ này và đặc biệt ông cũng được Hoa Kỳ hoàn toàn yểm trợ. Và chính guồng máy Tiếp Vận với viện trợ Mỹ là con bài tẩy của chiến tranh Việt Nam.
Trong phần ghi chú của tác giả Cao Văn Viên viết trong tác phẩm Việt ngữ mới phát hành, một đề nghị chiến lược tối mật quan trọng nhất cho chiến tranh Việt Nam là việc bỏ đất, triệt thoái do Tổng Cục Tiếp Vận, Tổng Tham Mưu soạn thảo. Hoàn toàn dựa vào bài toán quân viện, nghiên cứu khả năng thực sự giữ đất, giữ dân, Việt Nam Cộng Hòa muốn tồn tại thì phải thu về các vùng đồng bằng và duyên hải. Kế hoạch phải áp dụng ngay từ sau Hiệp Ðịnh Paris chứ không thể căng mỏng quân lực ra khắp nơi theo kiểu dành dân lấn đất và chôn chân các đơn vị Tổng Trừ Bị tại các tiền đồn. Ðại tướng Viên đã chỉ thị tướng Ðồng Văn Khuyên lên trình riêng Tổng Thống để rồi không hề nghe được bất cứ một chỉ dấu gì của ông Thiệu cho đến những ngày đau thương 30 tháng 4-1975.
Chuyến đi thăm: (Tháng 4-2005)
Ba mươi năm trôi qua như một giấc mộng dài. Tháng tư năm 2005 từ San Jose CA, chúng tôi lên thủ đô tổ chức họp mặt anh em chiến hữu trại Trần Hưng Ðạo. Ðây chính là tổng hành dinh của bộ Tổng tham Mưu ngày xưa. Ba mươi năm hội ngộ, gặp lại lần đầu nhưng ai cũng biết đây là lần cuối. Ðại tướng lấy lý do già yếu nên không đến được. Hội họp xong, tôi nhờ trung tá Tâm đưa đến thăm ông.
Tháng tư là tháng không vui mà cảnh trí nơi ông ở trông thật là buồn. Tâm nói rằng, đại tướng rất đúng hẹn và rất nguyên tắc.
Khi chúng tôi bước vào phòng khách của khu cao niên Á châu, “Mon General” đã đứng chờ sẵn, quần áo chỉnh tề. Hình ảnh của vị tướng lãnh cao lớn mang 4 sao, áo hoa dù, mũ đỏ không còn nữa. Ðại tướng của tôi bây giờ là một cụ già tóc bạc lưng còng, vóc dáng nhỏ bé, chỉ còn lại cặp mắt long lanh, và tiếng nói dịu dàng.
Chúng tôi ngồi xuống bên nhau nói chuyện không có chủ đề. Trung tá Tâm ngồi một bên luôn luôn để ý săn sóc cho ông cụ. Bao nhiêu câu hỏi cần tìm hiểu vị niên trưởng mà tôi đã chuẩn bị bây giờ buông xuôi hết. Nào là rút quân, nào là tử thủ, từ chuyện ông Thiệu đến chuyện ông Kỳ, chuyện Mỹ, chuyện Tàu. Trong cái buổi chiều buồn và ảm đạm đó, tôi chợt thấy tất cả đều trở nên vô nghĩa. Toàn quân, toàn dân, cấp trên cấp dưới, bây giờ không quá khứ, chẳng vị lai. Lời người xưa còn vẳng bên tai. Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng. Tướng lãnh thua trận, không thể nói mạnh.
Bây giờ là tháng tư, 30 năm sau ngồi đây mà đổ tội cho ai. Nhất tướng công thành, vạn cốt khô. Mà công thành, có thành công cho cam. Tôi không hỏi và ông cũng chẳng nói. Tôi đưa cả hai tay cho ông nắm thật chặt. Hình như có một lời ca từ 50 năm trước trong bài Tình Lính: Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay; Ông nắm thật chặt và Ông bắt đầu giảng cho tôi về Thiền Tông và Phật Pháp. Chẳng có thu thanh, thu hình phỏng vấn gì cả. Hai mươi năm chinh chiến điêu linh và ba mươi năm lưu lạc tù đầy của cả đạo quân nay bỏ qua một bên để ngồi bàn về đường đi của Phật. Trước khi chia tay, tôi ngỏ lời xin đại tướng một di vật cho viện Bảo tàng.
Ông nói: Tôi có còn gì đâu. Bèn hỏi rằng hôm niên trưởng ra đi đem theo cái gì. Ông cho biết có cầm cái cặp. Bên trong có cuốn sách viết về đạo Phật. Tôi xin ông cuốn sách đó, có bút tự ghi dấu của đại tướng. Quay sang anh Tâm, tôi xin xác nhận, khi nào... Chúng tôi ra xe, ông cụ đứÔng ngó theo... Giữa những người lính trẻ ngày xưa, cuộc ra đi nào cũng có thể là lần cuối. Bây giờ chúng tôi là những người lính già, chắc chắn phải hẹn nhau gặp lại ở nơi khác.
Lần cuối. (Tháng Giêng 2008)
Giây phút .. khi nào.. đã đến. Ðại tướng Cao văn Viên ra đi ngày 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, VA. cũng không xa nơi ông cư ngụ những ngày sau cùng. Gia đình tuy đơn chiếc nhưng chiến hữu rất đông đảo.
Những vị niên trưởng lừng lẫy của tôi, quý vị do thời thế tạo nên. Lúc còn trẻ tôi có thể đã kỳ vọng và trách cứ quý vị rất nhiều, nhưng bây giờ cấp dưới chúng tôi cũng già rồi, tôi đã suy nghĩ khác đi nhiều. Quả thực chúng ta không thay đổi được định mệnh và không vượt qua được thời thế. Tôi cũng đã từng là anh Thiếu Úy trẻ Bắc kỳ của mùa thu 1954, bây giờ cũng đã cao niên như mọi người. Tôi bao dung với chính tấm thân già của mình. Nhìn cuộc đời nhẹ nhàng hơn và tôi thông cảm với niên trưởng Cao Văn Viên.
Tôi vẫn hình dung những buổi chào cờ đầu năm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lá cờ sao của Ðại Tướng Tổng Tư Lệnh bay trên nhà lầu chính. Tướng Cao Văn Viên đội mũ đỏ, áo hoa dù đứng giữa hàng quân để đọc nhật lệnh tại Vũ Ðình Trường Tổng Tham Mưu mênh mông. Hàng chục ông tướng xếp hàng ngang. Trên 50 cấp Ðại Tá xếp hàng dọc. Các sĩ quan, HSQ và binh sĩ của các phòng sở với đủ mọi loại quân phục Liên Quân. Bên trái là đoàn xe với quân cảnh hộ tống thật uy nghi lẫm liệt. Phía xa là trực thăng riêng đậu chờ sẵn.
Cách đó thật xa hơn nữa về cả không gian lẫn thời gian là hình ảnh Trung úy Cao Văn Viên trẻ trung của Secteur Hưng Yên trên chiến trường Bắc Việt. Rồi đến những ngày qua khi niên trưởng Cao Văn Viên sống một mình từ Nữu Ước đến DC. Ông chậm chạp đi bộ từ chợ về nhà, leo lên lầu hai của căn phòng nhỏ, tự mình chuẩn bị bữa ăn. Sáng nay ông ăn món gì? Bánh mì trứng hay trứng bánh mì? Ông có uống sữa hay không? Ông còn nhớ gì đến chuyện di tản ở miền Bắc 1954. Chuyện di tản ở miền Nam 1975. Trung úy Thiệu ngày xưa nay đã đi xa rồi, Ðại úy Khiêm ngày xưa vẫn im lìm như thuở nào. Và Trung úy Viên ngày xưa mãi mãi vẫn cô đơn.
Tuổi trẻ và danh vọng rồi cũng qua đi. Ai rồi cũng chỉ còn lại một mình. Khi ra đi lần cuối cũng chỉ có một mình. Tất cả quý niên trưởng và chúng tôi ai cũng muốn sống lại cái thời đeo lon cấp Úy của tuổi hoa niên. Phải mà được làm lại từ đầu thì chúng ta sẽ làm biết bao nhiêu điều tử tế hơn, đẹp đẽ hơn, cho bản thân, cho chiến hữu và cho đất nước. “Tuổi hoa niên cùng mặc áo chinh y. Lòng mở rộng giữa dòng đời ấm áp. Tám mươi năm, kiếp người như gió thoảng. Chiều cô đơn về chậm hồn cao niên.”
San Jose, tháng 1/2008
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:00:46 GMT 9
Đại Tướng Cao Văn Viên (1921 - 2008) Tác giả: Trần Đông Phong 1. Đại Tướng Cao Văn Viên (1921 - 2008) Kể từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, người nắm giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu lâu đời nhất,từ 1965 đến 1975, tưc là gần 10 năm, là Đại Tướng Cao Văn Viên, kế đó là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, gần 8 năm, từ 1955 đến 1963, còn những vị khác thì thời gian họ nắm giữ chức vụ này rất ngắn ngủi, có người chỉ chừng vài năm, có người chỉ chừng vài tháng mà thôi. Tuy nhiên trong số những vị này, Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất đã nắm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng khi quân số của Quân Lực VNCH lên đến trên 1 triệu người cả nam lẫn nữ và vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, ông đã được Tổng Thống Trần Văn Hương bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hòa do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ. Theo bản tiểu sử chính thức của Việt Tấn Xã (Who’s Who inVietnam, VNTTX Saigon, 1974,) ông Cao VănViên sinh tại Vientiane (Vạn Tượng,) thủ đô nước Lào ngày 11 tháng 12 năm 1921. Ông theo học trường trung học của người Pháp ở Vientiane và sau khi tốt nghiệp bằng Diplome (trung học Đệ Nhất cấp), ông đi làm công chức trong ngành Kho Bạc (ngân khố) tại thủ đô nước Lào. Ông không phải là một người tình nguyện gia nhập vào quân độïi khi còn ở tuổi đôi mươi như những vị sĩ quan khác mà chỉ gia nhập vào quân đội một cách bất đắc dĩ sau khi bị bắt cầm tù. Có nhiều người từng quen biết với Đại Tướng Cao VănViên cho biết rằng ông Cao Văn Viên trở về Việt Nam với ý định tham gia kháng chiến chống Pháp nhưng lại bị quân đội Pháp bắt khi ông trên đường trở về Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 1940. Thấy ông nói tiếng Pháp thông thạo, quân Pháp bắt ông phải đi theo họ để làm thông ngôn (thông dịch viên) cho đến khi người Pháp mở lớp huấn luyện sĩ quan để phục vụ cho Vệ Binh Cộng Hòa ở Nam Việt (Gardes Républicaines du Sud Vietnam,) ông đã được gửi đi thụ huấn khóa này. Ông tốt nghiệp lớp Huấn Luyện Sĩ Quan tại Cap St Jacques (Vũng Tàu) vào năm 1949, lúc bấy giờ đã gần 30 tuổi, cùng một khóa với các ông Nguyễn Chánh Thi, sau này là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông Nguyễn Hữu Hạnh, sau này là Chuẩn Tướng, được ông Dương Văn Minh bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì mọi người mới biết Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã theo Cộng sản từ trước. Theo ông Phạm Văn Liễu thì Tướng Cao Văn Viên đã từng giữ chức vụ chỉ huy những đơn vị tác chiến từ đầu thập niên 1950 tại Bắc Việt cùng với các sĩ quan sau này nắm giữ những chức vụ lãnh đạo trong guồng máy chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa như Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, Trung úy Trần Thiện Khiêm, Trung úy Tôn Thất Đính, Trung úy Đặng Văn Quang v.v. [1] Tướng Cao VănViên đã từng làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 10 ở Tiểu Khu Hưng Yên, (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng có một thời phục vụ tại tiểu khu này với ông Cao Văn Viên,) tiểu đoàn trưởng Tiểâu Đòan 56, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù, Tư Lệnh Quân Đoàn III trước khi được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1965. Ông cũng đã từng giữ chức vụ Tùy Viên Quân Sự tại Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Washington trong hai năm rồi sau đó được cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu (CGS) của quân đội Hoa Kỳ tại Fort Leavenworth vào năm 1956-1957. Một trong những người bạn cùng khóa với ông tại Ft Leavenworth là Trung Tướng Harold G. Moore, người đã chỉ huy trận đánh Ia Drang vào năm 1965. Tướng Moore sau này là tác giả cuốn sách “We’re Soldier Once…and Young”[2] và cuốn sách này đã được quay thành phim rất ăn khách với tài tử nổi tiếng Mel Gibson đóng vai tướng Harold Moore, vớiù sự cộng tác của tài tử Đơn Dương ở Việt Nam. Cũng vì đóng phim này mà Đơn Dương bị chính quyền Cộng sảnViệt Nam gây ra rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có sự can thiệp tích cực của giới nghệ sĩ Hollywood cho nên Đơn Dương sau cùng mới được di dân sang sinh sống ở Hoa Kỳ. Sau khi trở về nước, Trung Tá Cao Văn Viên được Tổng Thống Ngô Đình Diệm cử làm Tham Mưu Trưởng Tham Mưu Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống và sau cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960, Trung Tá Cao Văn Viên được cử giữ chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Ngày 3 tháng 3 năm 1964, Đại Tá Cao Văn Viên được vinh thăng Thiếu Tướng sau khi bị thương trong lúc đang chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù hành quân trong vùng biên giới Việt-Miên. [3] Ông là người sĩ quan cấp đại tá sau cùng được thăng lên chức vụ thiếu tướng 2-sao vì sau đó thì Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã sửa đổi lại quy chế và cấp bậc trong quân đội, cho thiết lập thêm cấp bậc chuẩn tướng 1-sao giống như là Brigadier General trong quân đội Hoa Kỳ. Sau khi được thăng lên thiếu tướng, Tướng Cao Văn Viên được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng 3 ChiếnThuật ở Biên Hòa vào năm 1964. Một năm sau đó, vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, ông lại được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sang năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng sau khi Hiến Pháp VNCH được ban hành vào ngày 1 tháng 4 năm 1967 thì ông từ chức Tổng Trưởng Quốc Phòng, chỉ còn giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng cho đến tháng 4 năm 1975. Tướng Cao Văn Viên là người rất hiếu học. Trong thời gian phục vụ tại Phủ Tổng Thống, ông đã tự học và thi đậu cả hai bằng tú tài I và II, sau đó ông lại còn tiếp thục theo đuổi việc học tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và đã lấy được văn bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp. Sau năm 1975, ông Cao Văn Viên cùng một số sĩ quan Việt Nam, Cam-Bốt và Lào được Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ mời cộng tác để viết lại về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến tranh Đông Dươngï và hai tác phẩm của ông đã được trung tâm này xuất bản trong bộ sách Indochina Monographs vào thập niên 1980, đó là cuốn “Leadership” xuất bản vào năm 1981 và “The Final Collapse” xuất bản vào năm 1983. Cuốn The Final Collapse đã được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra Việt ngữ dưới tựa đề “Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa” xuất bản vào năm 2003. Ngoài ra ông đa õcùng với cựu Trung Tướng Đồng Văn Khuyên viết cuốn “Reflections on the Vietnam War” được xuất bản vào năm 1980. Sau ngày di tản sang Hoa Kỳ, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cư ngụ tại tiểu bang Virginia và ông sống một cuộc đời rất thầm lặng, ít liên lạc với bên ngoài cũng như là rất ít xuất hiện trước đám đông, kể cả những buổi họp mặt của các hội đoàn cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Bà Cao Văn Viên đã từ trần cách đây ít lâu và vì tình trạng sức khỏe trở nên rất suy yếu, trong những năm gần đây, ông Cao Văn Viên được đưa vào sống trong một nhà an dưỡng cho người cao niên tại niên tại Arlington thuộc vùng ngoại ô thủ đô Washington D.C. Suýt Bị Phe Đảo Chánh 1-11-1963 Thủ Tiêu Cuốn “The Final Collapse” do cựu Đại Tướng Cao Văn Viên viết từ thời 1976-1977 và đã được xuất bản vào năm 1983, tuy nhiên đến 20 năm sau cuốn sách này mới được dịch ra tiếng Việt với sự cho phép của tác giả. Trong bản dịch tiếng Việt nhan đề “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hòa,” tác giả có viết thêm phần “lời bạt” vì tác giả “muốn có đôi lời để giải thích về một hai chú thích ở bản Anh ngữ…” Về chuyện cuộc đảo chánh 1-11-1963, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: “Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác: “Trưa ngày 1-11-1963, khi trình diện Bộ Tổng Tham Mưu để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù,) tác giả được đưa lên gặp Tướng Dương Văn Minh thay vì Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên Quân như thường lệ. “Tướng Minh hỏi: “Tụi “moi” đảo chánh, toa nghĩ sao?” “Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay?” “Đó là nguyên văn câu hỏi và trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của Tướng Minh chỉa súng “carbine” vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm tình của một số tướng tá theo phe đảo chánh và sự can thiệp của vợ mình.[4] Vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Cao VănViên không theo phe đảo chánh và“chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” nhưng có một số sĩ quan khác lại không được may mắn như vậy. Sáng ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên cũng như tất cả các vị tư lệnh mọi quân binh chủng và giám đốc nha sở tại Sài Gòn đều được lệnh cuả Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VNCH, mời về họp tại Bộ Tổng Tham Mưu. Đúng 1 giờ 30 chiều, Trung Tướng Dương Văn Minh, nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng tuyên bố với tất cả sĩ quan hiện diện rằng Quân Đội đã đứng lên làm đảo chánh chế độ Ngô Đình Diệm. Tướng Minh hỏi từng người ai không theo “cách mạïng.” Đại Tá Cao Văn Viên và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt từø chối không theo và cả hai ông đều bị quân cảnh còng tay rồi nhốt trong một căn phòng tại Bộä Tổng Tham Mưu. Cùng bị nhốt chung với hai vị đại tá nói trên còn có Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, Chỉ Huy trưởng Thiết Giáp và Đại Tá Trầân Văn Trung, Tùy viên Quân sự tại tòa Đại sứ Việt Nam tại Paris vưà mới về nuớc v.v.[5] Tối hôm đó, Đại úy Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tùy viên của Dương Văn Minh, mang Đại Tá Lê Quang Tung và em trai cuả ông là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt sang nghiã địa cuả Hội Bắc Việt Tương Tế cạnh Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết. Không ai được biết một cách chính xác người nào đa õra lệnh xử tử hai vị sĩ quan này, nhưng chỉ trong vòng một ngày 2 tháng 11, viên sĩ quan tùy viên này của Tướng Dương Văn Minh đã giết chết 4 mạng người, nếu kể thêm cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Cho đến bây giờ, thân nhân cuả hai ông Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu cũng không thể nào tìm được di hài cuả họ mặc dù đã cố cất công hỏi thăm tìm kiếm từ năm 1963. Người duy nhất biết đích xác nơi chôn vùi hai vị sĩ quan này là Đại úy Nhung, nhưng ông này đã “dùng dây giày tự tử” sau cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964. Một vị sĩ quan khác cũng cùng chung số phận với hai vị sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt này, đó là Đại Tá Hồ TấnQuyền, Tư Lệnh Hải Quân. Sáng ngày 1 tháng 11, Đại Tá Hồ Tấn Quyền được một sĩ quan Hải Quân cũng là bạn cuả ông là Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực mời đi Thủ Đức để ăn mừng sinh nhật cuả ông Quyền. Sau này có nhiều người thắc mắc tại sao Đại Tá Quyền lại đi Thủ Đức ăn sinh nhật vào buổi sáng ngày 1-11 vì trên nguyên tắc, ông là tư lệnh một quân chủng thì đã phải nhận được lệnh về dự phiên họp đặc biệt tại Bộ Tổng Tham Mưu vào trưa hôm đó, tại sao ông lại đi Thủ Đức vì một việc riêng cuả ông? Một nguồn tin từ trước năm 1975 nói rằng theo cuộc điều tra của An Ninh Hải Quân sau này thì người tài xế lái chiếc xe traction cuả Đại Tá Quyền kể lại rằng dường như Đại Tá Quyền có vẻ không muốn đi nhưng hai người sĩ quan kia đi hai bên có vẻ như là ông bị kèm ở giưã. Trên xe, Đại Tá Quyền ngồi ở giưã, Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực ngồi bên phải và Đại Úy Nguyễn Kim H.G. ngồi bên trái ở băng sau. Điều này cho thấy là ông Quyền bị áp lực cuả hai ông sĩ quan thuộc cấp vì theo lễ nghi quân cách thì vị tư lệnh bao giờ cũng phải ngồi ở vị trí bên phải chứ không ngồi ở giưã. Khi xe chạy qua vườn cao su Thủ Đức (lúc bấy giờ Xa lộ Biên Hoà đang được xây cất), người tài xế nghe có tiếng cãi cọ ở phía sau, rồi có tiếng súng nổ. Đại Tá Quyền là người khá to lớn, ông lại có võ nên cả hai vị sĩ quan kia phải khó khăn lắm mới hạ nỗi ông Quyền. Người tài xế được lệnh ngừng xe lại, hai người kia đẩy xác Đại Tá Quyền xuống rừng cao su rồi sau đó xe lại chạy về Bộ Tổng Tham Mưu. Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị đâm chết bằng nhiều lát dao, không biết rõ ai làøthủ phạm, tuy nhiên cả hai ông sĩ quan ngồi cùng ông Quyền ở sau chiếc xe traction đó sau này đều được thăng chức và không hề bị truy tố về tội sát nhân. Trung Tá Lực đã qua đời tại Pháp cách đây ít lâu, còn ông Nguyễn Kim H. G, thì vẫn còn sống tại Hoa Kỳ. Đại Táù Hồ Tấn Quyền nhất quyết không chịu theo phe đảo chánh do đó mà ông đã bị hạ sát. Người viết được may mắn có quen biết với một vị sĩ quan hải quân, người này là bạn của Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực. Trong một cuộc gặp gỡ gần đây tại Westminster, California, vị cựu đại tá Hải Quân này có kể cho người viết nghe những chi tiết về việc Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền bị giết vào năm 1963 theo lời tường thuật của chính Trung Tá Lực (mới được thăng chức sau ngày đảo chánh) và những chi tiết này hoàn toàn không giống như nguồi tin vưà nói ở trên. Trung Tá Lực cho biết rằng ông đã được “móc nối” về vụ đảo chánh và được lệnh phải tìm cách cô lập hoặc đưa Đại Tá Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 vì phe đảo chánh không muốn các đơn vị hải quân chống lại đảo chánh. Sáng ngày hôm đó là ngày lễ Toussaint (Các Thánh) cho nên công chức và quân nhân được nghỉ nưả ngày, Đại Tá Quyền cùng Thiếu Tá Lực đi đánh quần vợt. Sau đó, Thiếu Tá Lực mời Đại Tá Quyền đi lên Thủ Đức nhậu để mừng sinh nhật của ông Quyền. Ông Quyền không muốn đi vì ông nói rằng chiều hôm đó ông phải vào trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Quyền vẫn không chịu đi nhưng vì ông Lực năn nỉ hết lời cho nên cuối cùng thì ông nhượng bộ nhưng đòi ông Lực phải về sớm. Ông Lực thường lái xe riêng, một chiếc xe hiệu Vauxhall của Anh, tuy nhiên lúc đó ông bảo người tài xế của Đại tá Quyền sang lái chiếc xe của ông và chính ông Lực thì lái chiếc xe “Traction” của ông Quyền. Đại Tá Quyền ngồi cạnh Thiếu Tá Lực ở băng trước, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ngồi đằng sau. Khi xe chạy lên tới vườn cao su Thủ Đức, Thiếu Tá Lực mới nói cho Đại tá Quyền rằng các tướng lãnh đang đảo chánh tại Sài Gòn và yêu cầu ông Quyền theo phe đảo chánh. Ông Quyền nghe nói như vậy thì giận lắm, ông từ chối không chịu theo đảo chánh, mặt ông đỏ rần lên và ra lệnh cho Thiếu Tá Lực phải quay xe trở lại Sài Gòn. Ông Lực không nghe lời, cứ lái xe chạy thẳng và lúc đó thì Đại Tá Quyền rút một con dao găm trong người đâm vào tay phải của ông Lực mấy nhát. Ông Lực phải cố gắng lắm mới giữ được chiếc xe khỏi bị lật và trong lúc đó thì Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ở đằng sau rút khẩu súng lục Colt-12 bắn một phát vào sau gáy ông Quyền. Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết ngay trên chiếc xe traction của ông. Sau đó hai ông Lực và Hương Giang ngừng xe trong rừng cao su, khiêng xác ông Quyền dấu vào sau cốp xe rồi lái thẳng về Bộ Tổng Tham Mưu trình diện các tướng lãnh. Vị sĩ quan hải quân này cho người viết biết rằng ông gặp Trung Tá Nguyễn Văn Lực chỉ mấy ngày sau cuộc đảo chánh và thấy tay phải của ông Lực vẫn còn bị băng bó. Ông còn cho biết thêm rằng Trung Tá Lực có nói với ông nguyên văn như sau: “cả hai thằng chỉ được có ba trăm ngàn chứ mấy!” Sau đó ông Lực được thăng lên trung tá và được Hội Đồng Cách Mạng cử đi làm Tùy Viên Quân Lực tại Đại Hàn. Sang năm 1964, sau cuộc chỉnh lý thì ông Lực được lệnh phải về Sài Gòn trình diện. Khi ông Lực về đến Sài Gòn thì có người mách ông ta rằng có thể ông sẽ bị bắt, do đó ông đã đào ngũ và chạy sang Nam Vang rồi sang sinh sống ở Pháp. Cố Hải Quân Đại Tá Phạm Gia Luật có thời làm Tùy viên Hải Quân tại London có cho người viết biết rằng hồi đó ông vẫn thường sang Pháp chơi và vẫn đến thăm bạn cũ là cựu Trung Tá Nguyễn Văn Lực đang làm chủ một tiệm ăn nhỏ ở Paris. Ông Nguyễn Văn Lực đã qua đời tại Pháp. Vị cựu đại tá hải quân này cũng cho biết Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang sau đó được thuyên chuyển về Thủy Quân Lục Chiến và có người kể lại rằng trong nhà ông ta có chưng hình của cố Đại tá Hồ Tấn Quyền trên bàn thờ vì ông bị hồn ma của Đại Tá Quyền về “phá” hoài. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Hương Giang hiện vẫn còn sống tại Hoa Kỳ. Người viết hỏi vị đại tá này có nên viết tắt tên của Đại úy H.G. hay không thì ông trả lời rằng không cần thiết vì trong Hải Quân ai cũng đều biết chuyện này. [6] Cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ lúc đó là Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống chống lại phe đảo chánh có nói về hai viên sĩ quan Hải Quân này như sau: “…Sau đó, Đại đội 3 đóng ở Sở Thú báo cáo bắt được một thiếu tá Hải Quân tên là Lực và một đại úy tên là Giang, họ tưởng quân của Lữ Đoàn là quân của phe đảo chánh nên nhờ báo cáo lên Tổng Tham Mưu là họ đã giết được Đại Tá Quyền, Tư Lệnh Hải Quân rồi. Đại đội 3 xin tôi quyết định về hai ông này. Tôi ra lệnh phải giam giữ hai ông cẩn thận để sau này Tổng Thống quyết định…. “Sau cách mạng, Thiếu Tá Lực được lên trung tá. Đại úy Giang, người cùng Thiếu tá Lực giết Đại Tá Quyền, sau cũng lên trung tá và anh cũng sang Mỹ tỵ nạn, cùng ở San Diego như tôi. Chúng tôi cũng đôi khi gặp nhau…” [7] Trung Tướng Trần Văn Đôn cũng có nhắc đến chuyên Đại Tá Hồ tấn Quyền bị giết: “tại câu lạc bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Dương Văn Minh cho tôi biết tin Trung Tướng đã ra lệnh quân sĩ về thủ đô sớm hơn trù liệu vì Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã bị giết sợ e đổ bể… Từ đó tôi ra lệnh không được cho bất cứ ai ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham Mưu vì tôi sợ bị tiết lộ…”[8] Trong ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên may mắn chỉ bị còng tay nhưng không bị giết. Sự may mắn đó có lẽ là nhờ ở sự can thiệp của một người bạn cũ thời cùng phục vụ tại Tiểu khu Hưng Yên ở Bắc Việt, lúc đó đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu: Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, một trong những người đã được chứng kiến từ đầu đến cuối mọi diễn tiến của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 vì khi đó văn phòng của tướng Trần Thiện Khiêm là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, có nói đến việc Đại Tá Cao Văn Viên bị bắt giữ như sau: “Một lúc sau đó, tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm: - Thưa Thiếu Tướng, tôi thấy giữ Đại Tá Viên (Đại Tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù), dưới phòng họp không tiện lắm. Xin Thiếu Tướng cho phép đưa Đại Tá Viên lên ngồi ở văn phòng tôi và tôi chịu trách nhiệm. - Được rồi, chú đưa Đại Tá Viên lên phòng chú đi.”[9] Như vậy có lẽ nhờ được ngồi trong văn phòng của Đại úy Phạm Bá Hoa ở ngay bên ngoài văn phòng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và cũng nhờ tình bạn giữa Đại Tá Cao Văn Viên với Tướng Khiêm mà những tướng khác trong phe đảo chánh đã không giết ông như trường hợp Đại tá Lê Quang Tung. Về sau, khi Tướng Cao Văn Viên trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng, ông Phạm Bá Hoa được Tướng Viên giữ lại làm Chánh Văn phòng của ông cho đến khi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ. Một nhân vật nữa cũng bị còng tay nhưng may mắn không bị giết là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Theo cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng của ông cho biết như sau: “Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống kể với tôi rằng khi ông đi họp ở Tổng Tham Mưu vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 thì bị Thiếu Tá Thiệt, Quân Cảnh, còng tay với nhiều sĩ quan cao cấp mà phía đảo chánh gọi là “người tin cậy của Tổng Thống Diệm.” Ông cằn nhằn Thiếu tá Thiệt: “Sao kỳ vậy anh Thiệt? Tôi là sĩ quan cao cấp được Tổng Tham Mưu mời họp mà anh lại còng tôi?” Thiếu tá Thiệt trả lời: “Thưa Trung Tá, tôi không dám, nhưng đây là lệnh của Đại Tá Quan.” Thật vậy, sau này tôi mới biết địa vị quan trọng của Đại Tá Nguyễn Văn Quan từ lúc tổ chức đảo chánh, rồi ông được coi như là phụ tá của Trung Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu đảo chánh sau trở thành quốc trưởng.” [10] Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi sau này có cho người viết biết rằng vào ngày hôm sau, 2 tháng 11 năm 1963, mấy vị sĩ quan bị bắt đước gặp Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tá Khôi đã nói với Tướng Minh rằng các ông chỉ là những sĩ quan trong quân đội, mỗi người đảm trách một chức vu nào đó để thi hành nhiệm vụ mà Bộ Quốc Phòng giao phó chứ không có quyền chọn lựa gì cả. Ông hỏi Tướng Minh tại sao mà những sĩ quan phục vụ cho quân đội chứ không phải là Việt Cộng mà lại bị quân đội dưới quyền lãnh đạo của ông Minh còng tay? Ông Khôi cho biết thêm rằng sau đó ông Dương Văn Minh ra lệnh mở còng cho các sĩ quan đang bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Huỳnh Ngọc Hiền, Đại tá Trần Văn Trung, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện v.v. Tuy nhiên theo Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ thì sau ngày đảo chánh, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi lại bị nhóm tướng lãnh “cách mạng” giam ở khám Chí Hòa (173). Trong một cuộc tiếp xúc dành cho người viết tại tư gia của ông tại thành phố Garden Grove, California, cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi cho biết rằng ông được Đại Uùy Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm gọi điện thoại mời lên họp tại Bộ TTM vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 và sau khi ăn trưa tại câu lạc bộ sĩ quan thì tất cả các sĩ quan được mời sang Phòng Họp tại Tòa Nhà Chánh tức là Văn Phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng. Vào khoảng hai ba giờ chiều gì đó thì Thiếu tá Thiệt đến gặp nhửng sĩ quan mà ông có tên trong một danh sách và còng tay họ lại. Đại Tá Khôi cho biết ông Thiệt căn cứ vào danh sách và có người thì bị còng riêng, có người thì bị còng chung với người khác. Đại tá Khôi phản đối và đòi được nói chuyên với Trung Tướng Dương Văn Minh. Đến chiều tối thì Tướng Minh vào phòng và khi thấy Đại Tá Khôi đang bị còng thì ông ra lệnh cho Thiếu tá Thiệt mở còng cho ông. Đại Tá Khôi hỏi Tướng Minh là ông ta có nói cuyện với Tổng Thống Diệm hay không thì ông Minh nói rằng ông Diệm có nói chuyện với Thiếu Tướng Khiêm. Ông Minh nói thêm rằng “Tôi không có mang ơn nghĩa gì với gia đình họ Ngô và tôi sẵn lòng để cho họ ra đi. Nhưng mà họ còn ngoan cố, trốn ra khỏi Dinh Gia Long rồi tìm cách liên lạc với chỗ này chỗ nọ…Tôi sợ rằng tôi không còn có thể bảo đảm an ninh cho họ được nữa…” Ông Khôi nói rằng tối hôm đó những sĩ quan bị bắt được ăn cơm mang cơm từ Câu Lạc bộ Sĩ quan sang rồi khoảng chừng lối 11 giờ thì ông Khôi cùng một số sĩ quan được đưa sang phòng khác và anh em Đại Tá Lê Quang Tung thì lại được đưa sang một phòng khác nữa. Đó là lần cuối cùng ông nhìn thấy hai vị sĩ quan này…Ngày hôm sau ông bị các tướng lãnh cách mạng nhốt vào khám Chí Hòa. Cựu Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi có tiết lộ cho người viết một chi tiết quan trọng có liên quan đến kế hoạch chống đảo chánh của ông Ngô Đình Nhu. Ông Khôi nói với người viết rằng khoảng một vài hôm trước ngày cuộc đảo chánh diễn ra, ông Ngô Đình Nhu đã đưa ra một kế hoạch nhằmn bắt giữ một số tướng lãnh và sĩ quan bị nghi ngờ là có thể đang âm mưu đảo chánh. Theo kế hoạch này thì nếu có lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đơn vị được giao phó cho việc đi bắt này sẽ là Lực Lượng Đặc Biệt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Quang Tung, một vị sĩ quan được xem như là người trung thành nhất với chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Khôi nói rằng em trai của ông là Đại úy Nguyễn Ngọc Hạp, lúc bấy giờ là sĩ quan tùy viên của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã kể lại với ông rằng vào khoảng ngày 31 tháng 10 năm 1963, ông Nhu đã trình với Tổng Thống Ngô Đình Diệm yêu cầu thi hành kế hoạch bắt giữ các tướng lãnh nhưng Tổng Thống Diệm đã bác bỏ sự yêu cầu này vì ông cho rằng ông là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội thì không thể nào ra lệnh bắt giữ các sĩ quan khi mà họ chưa có làm điều gì phạm pháp.[11] Tổng Thống Diệm Có Ý Định “Ẩn Trốn” Trong Nhà Đại Tá Viên? Khi xảy ra vụ đảo chánh 1-11-63, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng còn ở Hoa Kỳ, tuy nhiên trong cuốn “The Palace File,” ông có đề cập đến chuyện Đại Tá Cao Văn Viên hồi đó, vì theo ông thì cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã kể lại cho ông nghe khi ông phỏng vấn ông Thiệu ở Luân Đôn hồi năm1976. TS Hưng viết rằng: “Theo Tướng Tôn Thất Đính thì khi Đại Tá Cao Văn Viên từ chối không ủng hộ “cách mạng,” Tướng Dương Văn Minh ra lệnh thủ tiêu ông Viên, nhưng Tướng Đính đã cứu mạng ông Viên và nói với ông Minh rằng Đại Tá Viên sẽ không chống lại cuộc đảo chánh, nhờ vậy mà ông Viên chỉ bị nhốt tại Bộ Tổng Tham Mưu chứ không bị thủ tiêu. Ông Viên đã đồng ý để cho hai ông Diệm và Nhu đến ẩn trốn trong nhà ông, tuy nhiên, bà Cao Văn Viên, người vẫn thường đánh mạt chược với tướng Tôn Thất Đính, đã tiết lộ rằng chiều ngày 1-11-63, khi trong Dinh Gia Long gọi điện thoại cho bà thì bà cho họ biết rằng ông Viên đã bị bắt và nhà cuả bà đang bị canh chừng. Do đó, TT Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã đến nhà Mã Tuyên trong Chợ Lớn để tá túc.”[12] Người viết có phối kiểm với Đại Tá Trần Văn Thăng, cựu Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cựu Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc gia về chuyện Đại Tá Cao Văn Viên bị nhốt ở Tổng Tham Mưu vào ngày đảo chánh 1-11-1963, Đại Tá Thăng lúc đó là Chánh Sở 3 An ninh Quân Đội dưới quyền của Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn III. Ông Thăng cho biết rằng người đã can thiệp với Trung Tướng Dương Văn Minh không nên thủ tiêu Đại Tá Cao Văn Viên hồi đảo chánh năm 1963 không phải là Trung Tướng Tôn Thất Đính vì lúc bấy giờ Tướng Đính đang chỉ huy và điều động các đơn vị đảo chánh tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở đại lộ Lê Văn Duyệt. Người đã can thiệp cho Đại tá Cao Văn Viên chính là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, lúc bấy giờ đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/ Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và ngày hôm đó ông đang ngồi ở Bộ Tổng Tham Mưu bên cạnh Trung Tướng Dương Văn Minh. Đại Tá Thăng nói thêm rằng: “Hơn nưã, Tướng Khiêm là bạn thân của Đại tá Cao Văn Viên.”[13] Điều này rất đáng tin vì theo Đại Tá Phạm Bá Hoa thì “tôi quen biết chưa nhiều với Đại Tá Viên, nhưng theo bà Khiêm nói lại, theo đó thì Thiếu Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Khánh và Đại tá Viên rất thân nhau, nhất là từ khi ba vị này còn là sĩ quan cấp úy và cùng chiến đấu ở mặt trận Na Sản trên đất Lào trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp. Và ba gia đình này cũng thân nhau vì có nhiều thời gian sống chung nhau ở Hà Nội trong khi các ông cùng ở mặt trận. Đó là nguyên nhân.” [14] Tướng Cao Văn Viên cũng phủ nhận chuyện Tổng Thống Ngô Đình Diệm dự định đến “ẩn trốn” trong nhà của ông vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 theo như lời ông Nguyễn Tiến Hưng thuật lại trong cuốn sách của ông. Một người bạn của Đại Tướng Cao Văn Viên có cho người viết biết về nội dung của cuộc điện đàm giưã Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 do chính Tướng Cao Văn Viên kể lại như sau: “Khi nghe tiếng điện thoại reo, bà Cao Văn Viên nhắc điện thoại và nói “a-lô” thì từ đường dây bên kia có tiếng nói giọng Huế “Mụ Viên đó hỉ !” Nhận ra đó là giọng của ông Ngô Đình Diệm, bà Viên bèn chào: “kính chào Tổng Thống.” Ông Diệm hỏi: “Có Đại tá Viên ở nhà không?” Bà Viên nói rằng “Thưa Tổng Thống, nhà con đi họp trên Tổng Tham Mưu từ hồi sáng, hiện vẫn còn bị giữ trên đó chưa có về nhà.” Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói với bà Viên: “Nói với ông Viên tôi gởi lời thăm. Thôi chào Mụ Viên hỉ !” Đại tướng Cao Văn Viên kể lại như thế và nói rằng nội dung cuộc điện đàm cuối cùng giưã Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều 1 tháng 11 năm 1963 chỉ có như vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm không hề nhờ bà Cao Văn Viên cho đến nhà ẩn náu như có người đã đồn đại hoặc đã viết vào sách báo. Đại Tướng Cao văn Viên nói với người bạn này rằng ông rất kính trọng và kính phục tư cách của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi còn tại chức cũng như là trước khi từ giã cõi đời. [15] Cuốn “The Final Collapse” do cựu Đại Tướng Cao Văn Viên viết từ thời 1976-1977 và đã được xuất bản vào năm 1983, tuy nhiên đến 20 năm sau cuốn sách này mới được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với sự cho phép của tác giả. Trong bản dịch tiếng Việt nhan đề “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hòa,” tác giả có viết thêm phần “lời bạt” vì tác giả “muốn có đôi lời để giải thích về một hai chú thích ở bản Anh ngữ…” Về chuyện cuộc đảo chánh 1-11-1963, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: “Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác: “Trưa ngày 1-11-1963, khi trình diện Bộ Tổng Tham Mưu để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù,) tác giả được đưa lên gặp Tướng Dương Văn Minh thay vì Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên Quân như thường lệ. “Tướng Minh hỏi: “Tụi “moi” đảo chánh, toa nghĩ sao?” “Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay?” “Đó là nguyên văn câu hỏi và trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của Tướng Minh chỉa súng “carbine” vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm tình của một số tướng tá theo phe đảo chánh và sự can thiệp của vợ mình. “Sáng ngày 2 tháng 11, 1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, Tổng Thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên Bộ Tổng Tham Mưu họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, TT Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, TT Diệm điện thoại một lần nưã. Khi được biết không còn hy vọng, TT Diệm không nói gì thêm và cũng không khi nào ngỏ ý đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không có ai mời TT Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.” [16] Trong một đoạn khác, cũng trong phần “Lời Bạt,” ông Cao Văn Viên nói rõ hơn là trong cuộc đảo chánh 1963, Tướng Dương Văn Minh có ý định giết ông: “Tác giả không hợp tác với Tướng Dương Văn Minh vì ông ta có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963…” [17] Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” vì vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã bị còng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu vì không chịu tham gia với phe đảo chánh. Ba tháng sau, vào ngày 30 tháng 1 năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh lãnh đạo một cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của các tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh TT Ngô Đình Diệm là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim v.v. để lên cầm quyền. Lựïc lượng nòng cốt được sử dụng trong cuộc đảo chánh này, được mệnh danh là “Chỉnh Ly,ù” là Lữ Đoàn Nhảy Dù vẫn do Đại Tá Cao Văn Viên làm tư lệnh.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:01:47 GMT 9
Không Ủng Hộ Đảo Chánh, Dù Là Đảo Chánh Ôn Hòa
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng thì sau khi chứng kiến hai tử thi cuả anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm trong chiếc thiết vận xa ở Bộ Tổng Tham Mưu năm 1963, cơn ác mộng triền miên cuả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này là nguy cơ bị ám sát hay đảo chánh. Ông Thiệu đã cho TS Nguyễn Tiến Hưng biết rằng khi từ Dinh Gia Long về đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông ta thấy chiếc thiết vận xa đi đón TT Ngô Đình Diệm đang đậu ở trước sân và ông đã ra lệnh cho người tài xế mở cửa sau chiếc xe này. Khi được nhìn thấy xác cuả cố TT Diệm và ông Nhu đầy vết dao đâm chém và vết đạn nằm trên sàn xe đẩm máu, ông kinh hoàng và muốn xỉu. Ông giở nón và nghiêng mình trướùc hai xác chết. Tổng Thống Thiệu sau này nói rằng “nếu tôi tìm được Tổng Thống và bào đệ của ông ta trong Dinh Gia Long thì tôi đã có thể đưa hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu trên một chiếc xe Jeep mui trần. Không có ai dám giết hai người đó giưã thanh thiên bạch nhật như vậy được.”[18]
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói rằng cuộc đảo chánh 1963 cũng là một bài học thật đắng cay cho TT Nguyễn Văn Thiệu về tầm quan trọng của sự trung thành của giới sĩ quan dưới quyền ông. Có nhiều người đã phê bình gay gắt TT Thiệu cho rằng căn bản mà ông đã dựa vào đó để chọn Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội chỉ vì ông đánh giá cao sự trung thành của ông Cao Văn Viên đối với TT Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Khi Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng phỏng vấn ông Thiệu tại London vào năm 1976, ông Thiệu đã bày tỏ với ông Hưng nỗi lo sợ của ông đối với việc người Mỹ có thể ám sát ông rồi đổ thưà cho Việt Cộng hoặc đảo chánh ông. Ông Thiệu biết rằng văn phòng của ông bị người Mỹ nghe lén và sống trong một tình trạng luôn luôn âu lo cho sinh mạng của ông. Ông Thiệu nói với ông Hưng rằng “ tôi chỉ có an tâm trên sân quần vợt, ngay khi mà tôi bỏ chiếc vợt xuống thì cái bóng ma đảo chánh lại trở về với tôi.”[19]
Chính vì vậy mà TT Thiệu đã chọn một vị tướng lãnh không có tham vọng chính trị, một vị tướng lãnh thuần tuý quân sự chỉ biết phục vụ cho quân đội mà thôi để đặt vào địa vị lãnh đạo quân đội. Người đó là Tướng Cao Văn Viên.
Trong hàng ngũ tướng lãnh Việt Nam, Đại Tướng Cao Văn Viên là người đã từng sống tại Hoa Kỳ lâu năm nhất, khoảng gần 4 năm kể cả thời gian làm tùy viên quân sự và theo học khoá CGS tại Fort Leavenworth. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân mà dường như ông có vẻ bị ảnh hưởng bởi truyền thống về vai trò cuả quân đội cuả người Mỹ, đó là quân đội chỉ có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ quốc gia. Do đó, không những ông không ủng hộ cuộc đảo chánh khi còn là đại tá chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù mà sau này khi nắm giữ vai trò lãnh đạo toàn thể quân đội trên một triệu người, Đại Tướng Cao Văn Viên từ chối không chịu tham gia một âm mưu đảo chánh nào, dường như là đã có 3 lần âm mưu đảo chánh như vậy.[20]
Đầu năm 1975, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến có tiết lộ vói người viết về một trong những âm mưu đảo chánh nhưng bất thành vì Đại Tướng Cao Văn Viên không chấp thuận tham gia. Theo nhà báo Như Phong thì cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình chính trị và quân sự tại Việt Nam đang trên đà suy sụp, nhất là sau khi Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, một số người đã quy trách TT Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm về nguy cơ Miền Nam có thể đi đến chỗ sụp đổ và họ dự định làm một cuộäc “đảo chánh ôn hòa”ø để lật đổ ông Thiệu rồiø đưa Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Theo nhóm người này thì nếu cuộc đảo chánh thành công, chế độ hợp hiến VNCH vẫn tồn tại, Hiến pháp vẫn tồn tại, tuy nhiên với Cụ Trần Văn Hương làm tổng thống thì Cụ sẽ đứng trên chính trị, giao quyền cho một chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội, có nghiã là chịu trách nhiệm trước quốc dân và Cụ sẽ giao cho quân đội hoàn toàn trách nhiệm trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản.
Nhà báo Như Phong nói rằng hồi đó, tất cả bốn vị tư lệnh quân đoàn và vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đều xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, đó là Đại Tướng CaoVăn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh QĐII, Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh QĐ III và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh QĐ IV và những người âm mưu tổ chức đảo chánh đã thuyết phục được đa số trong 4 vị tướng lãnh này. Theo kế hoạch cuả những người này thì 4 vị tư lệnh quân đoàn sẽ họp tại Bộ Tổng Tham Mưu dưới quyền chủ toạ cuả Đại Tướng Cao Văn Viên và họ sẽ mời TT Nguyễn văn Thiệu đến họp về tình hình quân sự rồi trong phiên họp này họ sẽ tuyên bố bất tín nhiệm ông Thiệu, đòi ông Thiệu từ chức hoặc là ép buộc ông Thiệu phải từ chức và sẽ mời Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế.
Nhà báo Như Phong nói với người viết rằng kế hoạch này đã thất bại vì Đại Tướng Cao Văn Viên chủ trương quân đội không làm chính trị, ông từ chối không chịu tham gia đảo chánh, dù là đảo chánh “ôn hoà.”
Không Có Tham Vọng Chính Trị
Đối với Đại Tướng Cao Văn Viên, quân đội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bảûo vệ hiến pháp và bảo vệ quốc gia. Đại sứ Bunker cho biết rằng “một bằng chứng cho hành động xây dựng của phiá quân đội đối với chính phủ mới là việc Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã ra lệnh cho Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị in cuốn Hiến Pháp 1967 với phần giải thích và phân phát cho mọi quân nhân các cấp trong quân đội với mục đích để cho mọi quân nhân có ý thức rộng rãi về bản Hiến pháp cũng như là các nghiã vụ của công dân, kể cả quân nhân trong quân lực.” [21]
Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đã nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên vì tính tình chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một lòng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử hình. Nhưng vì ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…” [22]
Đại Tướng Cao Văn Viên không hề có tham vọng chính trị, tuy nhiên vào năm 1967 thì suýt nưã ông đã trở thành Quốc Trưởng nước Việt Nam Cộng Hòa. Theo cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại trong cuốn hồi ký của ông thì:
“ Vào năm 1967, sau khi ông Thiệu tuyên bố ông dự định sẽ ra tranh cử Tổng thống, nhiều tướng lãnh trong Quân ủy (tạm dịch chữ “politburo”của ông Kỳ) đã đến gặp riêng ông Thiệu và đòi ông ta đừng ra tranh cử. Họ nói với ông Thiệu rằng tôi đã giữ chức vụ tối cao đó trong một thời gian quá lâu để chứng tỏ rằng tôi biết làm việc và tôi có được sự hậu thuẫn sâu rộâng trong Quân Lực VNCH.
“Các tướng lãnh nói với ông Thiệu rằng:
-Ông hảy để cho ông Kỳ ra ứng cử tổng thống, lo làm chính trị và đương đầu với người Mỹ còn ông thì hảy về làm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội.”
“ Ông Thiệu đã trả lời với các tướng lãnh rằng:
-Không! Nếu các anh không muốn cho tôi làm ứng cử viên đại diện cho quân đội thì tôi cũng chẳng cần đến quân đội nưã, tôi sẽ ra tranh cử một mình.”
“… Khi gần ngày hết hạn ghi danh ứng cử và công bố liên danh đại diện cho quân đội, tôi mời các tướng lãnh trong “quân ủy” họp lại. Tôi hỏi các tướng lãnh:
-Thời gian mà chúng ta cần để thuyết phục ông Thiệu đừng ra ứng cử đã qua rồi. Các anh muốn ai, ông Thiệu hay là tôi?”
-Chúng tôi muốn ông” các tướng đồng thanh trả lời.
-Được rồi, tôi chấp nhận,” tôi nói.
“Các tướng hỏi lại tôi:
-Ông làm thế nào để thực hiện việc đó?”
“Tôi trả lời:
-Dễ dàng thôi! Nếu mà ông Thiệu muốn có một cơ may hy vọng nào thì ông ta cần phải có sự ủng hộ của quân đội. Vậy thì chúng ta hảy cho ông ấy về hưu. Hảy để cho ông ta ra ứng cử với tư cách dân sự nếu ông ta muốn.”
“Tất cả mọi người gật đầu đồng ý.
“Tôi nói tiếp:
-Như vậy thì chức vụ quốc trưởng sẽ bỏ trống. Sự lưạ chọn hay nhất là Tướng Cao Văn Viên, ông Viên là người có cấp bậc cao và thâm niên nhất. Các anh có đồng ý không?”
“ Tướng Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng và tất cả các vị Tư lệnh Vùng đều ủng hộ ông ta. Ông ta là người tốt, một quân nhân giỏi và ông ta là một trong những người ủng hộ tôi mạnh mẽ nhất…”[23]
Như vậy, theo sự tiết lộ của ông Kỳ thì hồi năm 1967, nếu mọi sự xảy ra đúng như cái “quân ủy” của ông đã quyết định với nhau, có lẽ ông Thiệu đã bị cho về hưu và ông Cao Văn Viên đã trở thành quốc trưởng và khi đã làm đến chức vụ quốc trưởng thì không ít thì nhiều, đó là một chức vụ chính trị. Ông Cao Văn Viên không thích làm chính trị và may thay mọi sự đã không xảy ra như ông Kỳ và phe của ông dự định, ông Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã giữ Đại Tướng Cao Văn Viên ở lại chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH dù rằng theo ông Kỳ thì ông Viên là một trong những tướng lãnh ủng hộ ông mạnh nhất.
Theo cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn phòng cuả Tướng Cao Văn Viên đã viết trong cuốn Đôi Dòng Ghi Nhớ thì Tướng Cao Văn Viên thân với Tướng Nguyễn Cao Kỳ hơn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu vì ông đã được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH khi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là thủ tướng. Ít lâu sau đó, vào năm 1966, ông lại được Tướng Kỳ cử làm Tổng Tưởng Quốc Phòng thay thế Trung Tướng Nguyễn Hữu Có và kiêm luôn chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCHù, tuy nhiên sau khi Hiến pháp được ban hành thì việc kiêm nhiệm đó không hợp hiến do đó ông rời Bộ Quốc Phòng chỉ giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và ở lại chức vụ đó cho đến năm 1975.
Tướng Cao Văn Viên Đã Xin Từ Chức Năm, Sáu Lần
Có nhiều người chê trách Đại Tướng Cao Văn Viên khi ông giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, họ nói rằng ông chỉ ngồi đó làm “hộp thơ” còn tất cả mọi sự điều động về quân sự đều do TT Nguyễn Văn Thiệu quyết định. Họ nói rằng ngay cả hai vụ triệt thoái Cao nguyên và Vùng I đều do ông Thiệu ra lệnh, Đại Tướng Cao Văn Viên không biết gì cả.
Qua lời kể lại cuả cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết rằng “trên thực tế, mỗi vị tư lệnh quân đoàn là một “hòn đảo độc lập” và TT Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn liên lạc trực tiếp với họ. Không có một guồng máy trung ương nào về việc dự thảo các kế hoạch chiến tranh một cách hữu hiệu tại Bộ Quốc Phòng.” [24]
Trong cuốn “The Final Collapse” cuả ông, Đại Tướng Cao Văn Viên nói rằng “tất cả những quyết định về quân sự đều do TT Thiệu quyết định, Bộ Tổng Tham Mưu là hoàn toàn chỉ có tính cách cố vấn mà thôi.”[25]
Có lẽ vì cảm thấy bất lực không thể làm gì khác hơn để cải thiện guồng máy quân đội, Đại Tướng Cao VănViên đã xin từ chức mấy lần:
“Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưiidng quá lâu (trên 5 năm,) đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận.) Lý do tác giả hành động như vậy vì vào khoảng giưã năm 1970, sau một buổi họp với Đại Tướng Creighton Abrams (Tư Lệnh MACV,) ông ta cho biết theo tin tòa đại sứ Hoa Kỳ, TT Thiệu có ý định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi mãi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy mình không còn được “sủng ái” nên đã xin về hưu.” [26]
Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn phòng cuả ĐT Cao Văn Viên cho biết rằng “Đại tướng xin từ chức mấy lần rồi mà Tổng Thống không chấp thuận, cho nên Đại tướng nói là Đại tướng không làm việc nưã cho đến khi được từ chức…” Đại Tá Hoa nói rằng đó là lời cuả bà Cao Văn Viên nói với ông ta nhân hôm sinh nhật cuả bà. Ông cũng cho biết thêm là từ năm 1972, Đại tướng Cao Văn Viên đã đệ đơn xin từ chức lên Tổng thống Thiệu tất cả là 4 lần nhưng đều bị ông Thiệu bác bỏ, do đó hàng ngày ông lái trực thăng từ tư dinh trong Chợ lớn lên Bộ Tổng Tham Mưu “làm việc tại văn phòng nhưng cũng không làm hết việc cuả văn phòng nưã chứ vì những nhu cầu quan trọng do các vị tư lệnh trình xin Tổng Tham Mưu theo hệ thống quân giai thì Đại Tướùng Viên bảo các vị đó xin lên tổng thống…”[27]
Ông Trần Văn Đôn cũng cho biết như vậy. Theo ông Đôn thì “đã nhiều lần ông Viên bày tỏ ý không muốn giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng nữa, xin từ chức hoài nhưng ông Thiệu không chấp nhận.”[28]
Trong một cuộc phỏng vấn thu hình dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đã xin từ chức tất cả là 6 lần: “Trước khi cuộc hội đàm tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc vào năm 1973, tình hình quân sự càng thêm căng thẳng. Tổng Thống Thiệu, với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao quân đội, tập trung heat quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp về hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc Phòng chỉ còn là “hộp thơ” giữa tổng thống và Bộ Tổng ThamMưu. Vì không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đã năm, sáu lần xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại đợi người thay thế nhưng ông lại không có quyết định, Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm…”[29]
Như vậy, theo Đại Tướng Cao Văn Viên thì tuy giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng quyền bính thì do Tổng Thống Thiệu hoàn toàn nắm giữ. Điều này cũng không có gì lạ vì ngay cả thượng cấp của ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng và Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ Tướng cũng không hề được biết gì nhiều hơn ông.
Trong bài “Mạn Đàm Với Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên” cuả Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh ngày 1 tháng 9 năm 2001 tại California, Bác sĩ Viên, cựu Phó Thủ Tướng trong chính phủ cuả Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm đã kể lại rằng:
“Vụ Ban Mê Thuột làm tan hoang hết. Nội các không hề được hỏi ý kiến. Pas un mot (không mội lời.) Một ngày sau khi bỏ Pleiku, có nhóm hội đồng nội các. Sau chương trình nghị sự, Tổng trưởng Ngô Khắc Tĩnh dơ tay lên nói “thưa Thủ Tướng, tôi xin Thủ Tướng một đặc ân. Dầu sao chúng tôi cũng là nhân viên nội các, bà xã tôi vừa nghe tin mất Pleiku trên đài BBC và đài VOA mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ Tướng nếu có tin gì thì xin thông báo cho chúng tôi, chớ không thì kỳ quá!” Lúc đó trên bàn chủ tọa, Thủ Tướng Khiêm quay qua tôi ngồi phiá bên trái, nó nhỏ “moa cũng vậy.” Tôi ngạc nhiên hỏi lại “Bộ nói giả ngộ hay sao? Anh là Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, đại tướng 4 sao mà!.” Ông Khiêm gật đầu “thật chớ!” (nguyên văn.)
TS Lâm Lễ Trinh hỏi: “Không lẽ ông Thiệu lại quyết định một mình chuyện quá nghiêm trọng như vậy?” và BS Nguyễn Lưu Viên trả lời: “Tôi có nghe “hình như” Tổng Thống Thiệu có hội ý với hai tướng Cao Văn Viên và Phạm Văn Phú. Tuy nhiên sau tháng 4 năm 1975, tôi thoát được qua đảo Guam, có gặp một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tổng Tham Mưu, họ quả quyết ông Viên chỉ biết sau khi việc này xảy ra. Phủ Tổng Thống ra lệnh thẳng cho các tư lệnh vùng, không qua Tổng Tham Mưu, bằng một hệ thống trực tiếp. Vậy, ông Thiệu đã chỉ thị ngay cho Tướng Phú? Điểm này, nghĩ nên duyệt lại.” TS Trinh hỏi: “Tại sao Thủ Tướng Khiêm và anh không phản đối?” và BS Viên trả lời: “Phản đối cách nào và vì sao? Có biết đâu mà phản đối? Đây là vấn đề quân sự..”[30]
Trong cuộc tiếp xúc với Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu sĩ quan tuỳ viên và là người thân tín cuả Cố TT Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng, ông Nhựt cho biết là khoảng ngày 25 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có cho người mang đến trình lên cho TT Hương một lá thư dày cộm. Ông Nhựt nói rằng TT Hương đã ra lệnh cất ngay lá thư này vào tủ sắt và trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh, Cụ Hương đã ra lệnh đốt lá thư này đi. Đại úy Nhựt hỏi Cụ Hương sao Cụ không mở lá thơ xem Tưóng Phú nói gì về vụ triệt thoái Cao Nguyên nhưng Cụ Hương nhất định không đọc vì Cụ nói rằng Tướng Phạm văn Phú đang ở trong tình trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông trong việc di tản Quân Đoàn II và Cụ đã bắt phải đốt lá thư cuối cùng cuả tướng Phú trước mặt Cụ. Đại Úy Nhựt nói rằng có lẽ trong lá thơ đó, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có thể giải thích cho Cụ Hương về những lệnh mà ông nhận được từ TT Nguyễn Văn Thiệu và như vậy thì có thể làm sáng tỏ được nhiều ẩn khuất, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương ra lệnh đốt đi mà không đọc, do đó cho đến giờ này chỉ còn có Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất còn sống và một ngày nào đó, có thể Đại Tướng sẽ bạch hoá vấn đề này.[31]
Vai Trò Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH
Khi nghe nói rằng một ông đại tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng một quân đội trên một triệu người mà những chuyện đại sự như là di tản Quân Đoàn II từ vùng Cao Nguyên vể miền đồng bằng hoặc Quân Đoàn I có giữ Huế hay không mà ông Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng không biết gì hết về kế họch triệt thoái và chuyện Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ tướng cũng cho biết rằng rằng chính cấp trên của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng là Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng cũng là một đại tướng 4-sao mà cũng không biết gì nốt thì điều kỳ quái đó không ai có thể tin được.
Trong suốt hơn 30 năm qua, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống rất thầm lặng tại Hoa Kỳ, ông không hề tiếp xúc với bất cứ cơ quan truyền thông nào và cũng không hề trả lời một cuộc phỏng vấn nào trên báo chí. Một vài chi tiết về ông là do một số người khác kể lại, chẳng hạn như Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, một người bạn và cũng là phó thủ tướng trong nội các của ông một thời gian khá dài đã kể lại câu chuyện được ghi lại trong bài mạn đàm của Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh.
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng giữ thái độ im lặng, tuy nhiên khi cuốn The Final Collapse của ông được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt và xuất bản vào năm 2003 thì ông Cao Văn Viên có viết thêm một đoạn gọi là “Lời Bạt” từ trang 255 đến trang 268 trong đó ông có tiết lộ một số chi tiết có liên quan đến một vài vấn đề chính trị và quân sự hồi trước năm 1975 và cũng có thêm một đôi điều để đính chính một vài điểm không đúng với sự thật về cá nhân ông và quân đội trong cuốn sách “The Palace File” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Một trong những điều quan trọng trong phần này là vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ tháng 7 năm 1970 cho đến tháng 4 năm 1975.
Trong phần “Lời Bạt” cũng như là Phụ Bản A về “Vai Trò của Bộ Tổng Tham Mưu,” cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng vào tháng 7 năm 1970, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành một sắc luật cải tổ các cơ cấu quốc phòng và quy định vai trò cùng trách nhiệm của Bộ Tổng Tham Mưu.
Theo Tướng Cao Văn Viên thì “Bộ Tổng Tham Mưu được định nghĩa là một ban tham mưu của liên quân chủng, tạm thời có cơ cấu giống như một bộ tư lệnh Lục Quân. Không Quân và Hải Quân có bộ tham mưu riêng của các quân chủng đó…Trên thực tế và bản chất, Bộ Tổng Tham Mưu là một bộ tham mưu của Lục Quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia…, chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng trưởng quốc phòng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và sử dụng quân đội trong đường hướng do tổng thống định liệu.
“Nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu bao gồm:
-Tổ chức và phát triển quân lực. Sử dụng quân đội để bảo vệ quốc gia và bình định lãnh thổ.
-Thu thập, khai thác tin tứùc tình báo, phản gián có tích cách chiến lược và chiến thuật.
-Phát triển, bổ dụng, bảo trì và quản trị quân đội.
-Thiết lập cấp số quân đội quân đội và nhân viên dân chính cần thiết cho Bộ Tổng Tham MưuThiết lập kế hoạch tiếp vận, theo dõi và cung cấp vũ khí, quân nhu và quân dụng cho quân đội.
-Huấn luyện binh sĩ, nâng cao tinh thần và đời sống vật chất cho quân nhân các cấp.
-Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến. Khi được chỉ định, soạn thảo kế hoạch hành quân hỗn hợp với các quốc gia đồng minh đang chiến đấu tại Việt Nam.
-Soạn thảo và ban hành luật pháp căn bản về vấn đề giam giữ và đối xử với tù binh chiến tranh.
“Với vai trò và nhiệm vụ được viết ra thành từng chi tiết nhỏ, chúng ta nhận thấy nhiệm vụ của Bộ TTM không liên quan gì đến những quyết định tối hậu của cuộc chiến, đó là trách nhiệm của tổng thống…Bốn quân đoàn, trên lý thuyết, nằm dưới quyền điều khiển của Bộ TTM, tuy nhiên về bản chất của cuộc chiến và cấp số của các cuộc hành quân cho nên trách nhiệm về hành quân được hoàn toàn ủy thác cho tư lệnh các quân đoàn/quân khu. Tư lệnh các quân khu có trách nhiệm về hành chánh, tư lệnh các quân đoàn/quân khu có quyền hành và trách nhiệm trong một khu vực rộng lớn, Bộ TTM ít khi xen vào kế hoạch hành quân hay quyết định của các quân đoàn, trừ trường hợp có hành quân hay thám thính vượt qua biên giới hay quân đoàn yêu cầu cho tăng viện các đơn vị tổng trừ bị dưới quyền của Bộ TTM. Vị tư lệnh quân đoàn là người cớ luôn thẩm quyền về kế hoạch bình định và phát triển ở trong vùng trách nhiệm nên họ có thẩm quyền sử dụng tài nguyên quốc gia được chỉ định phân phối cho vùng và đặt các tỉnh trưởng dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là một quyền hạn mà Bộ TTM không bao giờ có được. Quyền hạn của các tư lệnh quân đoàn rất lớn. Họ thường liên lạc thẳng với tổng thống để nhận và thi hành quân lệnh. Và họ cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng thống…” [32]
Như vậy, theo tinh thần của sắc luật về vai trò của Bộ TTM được Tổng Thống Thiệu ban hành vào tháng 7 năm 1970 thì không thấy nói gì đến quyền điều động các đại đơn vị tức là 4 quân đoàn. Đại Tướng Viên cho biết rằng: “Khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, quốc sách “4 Không” ra đời, lúc mà tất cả mọi hoat động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh quân đoàn, quân khu cùng các tư lệnh quân binh chủng như Hải Quân, Không Quân v.v. được diễn ra trong Dinh Độc Lập thay vì ở Bộ TTM như thường lệ. Những buổi họp này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, Tổng Thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, Tổng Thống Thiệu đã đạt được quyền hành tuyệt đối, tập trung mọi quyền hành pháp, lập pháp và quân đội vào một mối duy nhất…” [33]
“…Khi Tổng Thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH thì Bộ TTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không quân và Hải Quân cũng như là liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng Liên quân của Bộ TTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, Đại Tướng Weyand, đã khuyến cáo chính phủ (Việt Nam) nên dành nhiều quyền hành cho Bộ TTM hơn.” [34]
Để chứng minh cho những điều nói trên, Tướng Cao Văn Viên cho biết tại Cam Ranh, chính Tổng Thống Thiệu quyết định và ra lệnh trực tiếp cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú “tái phối trí lực lượng”:
“Đây là lệnh trực tiếp của Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú tái phối trí lực lượng cơ hữu (lực lượng của quân đoàn) để tái chiếm Ban Mê Thuột. Do đó không có lý do gì Bộ TTM gọi gọi Tướng Phú về Sài Gòn để thiết kế việc rút lui. Ty lệnh quân đoàn và bộ tham mưu phải có khả năng làm việc đó. Trong kế hoạch rút lui, chính Tướng Phú chọn đường Liên Tỉnh lộ 7B để có yếu tố bất ngờ vì các trục lộ khác đã bị địch quân chiếm giữ…” [35]
Về tình hình tại Quân Đoàn I ở miền Trung, Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng Quân Đoàn I không báo cáo cho Bộ TTM biết về việc Sư Đoàn 1 Bộ Binh rút ra khỏi Huế về phía nam. Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ TTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ông cũng cho biết thêm rằng việc các tướng lãnh thuộc Quân Đoàn I rút lui trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về Bộ TTM. Chuẩn Tướng Thọ biết được việc này là qua báo cáo của hệ thống truyền tin Hải Quân…
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là
một vị tướng lãnh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.
Theo Trần Văn Đôn trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” thì ngày 23 tháng 4, sau khi nội các Nguyễn Bá Cẩn từ chức, ông gặp Dương Văn Minh và ông Minh yêu cầu ông Đôn nói với Đại tướng Cao Văn Viên nên ngồi lại ghế Tổng Tham Mưu Trưởng. Ông Đôn đề nghị ông Minh đến thăm ĐT Cao Văn Viên để nói chuyện đó vì có lần ông Viên dọa“ tôi sẽ từ chức ngay. Tôi không thể nào làm việc với ông Dương Văn Minh.”[36]
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:03:20 GMT 9
Chiều ngày 24 tháng 4 năm 1975, ông và Đại Tướng Cao Văn Viên vào gặp TT Trần Văn Hương để phúc trình về tình hình quân sự, TT Trần Văn Hương nói với hai ông là Cụ chia xẻ với số phận cuả anh em quân nhân tại chiến trường và sẵn sàng cùng chết với anh em chiến sĩ. Sau đó, TT Trần Văn Hương chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH. Đại Tướng Cao Văn Viên nhận lời tuy nhiên ông đã khẩn khoản xin với TT Trần Văn Hương cho phép ông được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương nếu Cụ Hương phải bàn giao quyền hành lại cho Dương Văn Minh và lời yêu cầu của Đại Tướng Viên đã được TT Trần Văn Hương chấp thuận.
Trưa ngày 27 tháng 4, sau khi Cụ Hương họp để bàn về việc đề nghị với quốc hội giao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh và cũng theo ông Trần Văn Đôn thì “buổi họp chấm dứt lúc 12 giờ trưa. Sẵn dịp đó ông Viên xin ông Hương ký sắc lệnh cho mình được nghỉ dài hạn không lương kể từø ngày đó với lý do “không thể làm việc dưới quyền ông Minh.” Ông Hương chấp thuận lời yêu cầu của ông Viên.”[37]
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: “Tối chủ nhật 27 tháng 4 năm 1975, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, vì thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả “trình miệng” với Trung Tướng Trần Văn Đôn đang là Tổng Trưởng Quốc Phòng trong nội các của Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, trình lên TT Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đã xin từ 5 năm về trước. Tổng Thống Trần văn Hương biết rõ chuyện này nên đã ký sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, Phụ tá của Tổng Thống Hương, hiện đang sống bên Pháp, biết rõ chuyện này.” [38]
Đại Tướng Cao Văn Viên xác nhận chuyện này trong cuộc phỏng vấn dành cho Tiến sĩu Lâm Lễ Trinh vào năm 2006: “Tuy nhiên khi Tổng Thống Trần Văn Hương nhường ghế cho Tướng Dương Văn Minh tháng 4 năm 1975, tôi cương quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. Tổng Thống Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27 tháng 4 năm 1975, tôi rời Việt Nam trong tình trạng hợp lệ.”[39]
Cựu Đại úùy Nguyễn Văn Nhựt, tuỳ viên của TT Trần Văn Hương, cho người viết biết rằng TT Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh này tối ngày 27 tháng 4 năm 1975 và đã cho nhân viên thuộc Phủ Tổng Thống mang tay vào Bộ Tổng Tham Mưu trao cho Đại Tướng Cao Văn Viên ngay trong đêm hôm đó.
Sáng ngày 28 tháng 4, trước khi TT Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh vào buổi chiều, ông Đôn đến văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng và gặp ông Cao Văn Viên để theo dõi tình hình quân sự. Ông Cao Văn Viên nhắc ông Đôn rằng ông đã được TT Trần Văn Hương cho nghỉ dài hạn và yêu cầu ông Đôn, với tư cách là Tổng Trưởng Quốc Phòng, chỉ định người thay thế. Ông Đôn nói rằng ngay lúc đó thì ông Minh gọi điện thoại đến và dặn ông Đôn cố giữ ông Viên ở lại chức Tổng Tham Mưu trưởng, đừng để cho ông Viên đi. Ông Đôn nói ông không biết xử sự ra sao vì nếu ông Tổng Tham Mưu trưởng chỉ đi vắng một thời gian thì ông có thể chỉ định một tướng lãnh khác xử lý thường vụ, tuy nhiên đằng này ôâng Viên nghỉ luôn thì việc đó phải do tổng thống, tổng tư lệnh tối cao quân đội chỉ định. Ông Đôn còn cho biết thêm rằng chiều hôm đó, ông Dương Văn Minh lại gọi cho ông ở Bộ Quốc Phòng và dặn ông hủy bỏ sắc lệnh mà TT Trần Văn Hương đã ký cho phép ông Cao Văn Viên được nghỉ dài hạn: “về lại văn phòng, tôi nhận được điện thoại của ông Minh dặn hủy bỏ sắc lệnh mà ông Hương đã ký cho phép ông Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó ông Hương đã gởi thẳng cho ông Viên rồi, lúc đó ông Hương chưa trao lại quyền tổng thống cho ông Minh.”[40]
Đây là một chuyện thật khôi hài vì ông Trần Văn Đôn chỉ là Xử lý Thường vụ Tổng trưởng Quốc Phòng thì làm sao mà ông ta lại có đủ thẩm quyền để huỷ bỏ một sắc lệnh do tổng thống đã ký? Lúc đó thì Cụ Hương chưa bàn giao và ông Minh cũng chưa có trở thành tổng thống cho nên cái sắc lệnh do Cụ ký vẫn có giá trị. TT Trần Văn Hương là người luôn luôn giữ chữ tín, trọng nguyên tắc và cẩn thận, Cụ biết rằng việc Đại Tướng Cao Văn Viên xin Cụ nghỉ dài hạn vì không thể phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh là chính đáng và đã được Cụ chấp thuận, do đó Cụ đã ký sắc lệnh và cho người mang trao tận tay cho ông Viên trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh vào buổi tối ngày 27 tháng 4 năm 1975.[41] Nhờ sự thông cảm của Cụ Trần Văn Hương, Đại Tướng Cao Văn Viên đã được mãn nguyện vì ông không thể nào phục vụ dưới quyền một người đã từng ra lệnh còng tay ông, đã từng nhốt ông và đã từng có ý định muốn thủ tiêu ông chỉ vì ông là một quân nhân, một quân nhân thuần tuý chỉ biết trung thành với “Quốc Gia, Danh Dự và Trách Nhiệm,” chỉ biết phục vụ Quốc Gia, phục vụ chính phủ hợp hiến hợp pháp, chứ không phục vụ cho một cá nhân hay một phe phái nào. Ông Cao Văn Viên đã giải thích nguyên nhân tại sao ông nhất quyết không phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh như sau: “Tác giả không hợp tác với Tướng Minh vì ông ta có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp và lý do quyết định nhất là đã ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm,) sức khoẻ kém và đã xin về hưu 3 lần rồi…” [42]
Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu tuỳ viên cuả TT Trần Văn Hương tiết lộ với người viết rằng khi Cụ Hương chỉ định ĐT Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh thì ĐT Viên có ngỏ lời yêu cầu với Cụ Hương xin cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh nhưng TT Trần Văn Hương không trả lời. Ông Nhựt nói rằng sau đó, ĐT Cao Văn Viên có gởi đến Phủ Tổng Thống một văn thư chính thức đề nghị cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH nhưng TT Trần Văn Hương cũng lại để sang một bên trên bàn viết. Ông Nhựt cho biết sau khi Cụ Hương ký sắc lệnh cho phép ĐT Cao Văn Viên được nghỉ giải hạn không lương vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, ông đã lấy hồ sơ về đề nghị của Tổng Tư Lệnh xin bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh QLVNCH đặt ngay ngắn trước mặt Cụ Hương nhưng Cụ Hương nói với ông Nhựt rằng Tướng Ngô Quang Trưởng đang ở trong tình trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông ta ở Quân Đoàn I, do đó dù rằng Cụ rất có cảm tình với TT Ngô Quang Trưởng nhưng Cụ không thể nào bổ nhiệm ông Trưởng thay thế cho ĐT Cao Văn Viên được.
Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên được TT Trần Văn Hương ký sắc lệnh cho phép được nghỉ dài hạn không lương ngày 27 tháng 4 năm 1975, vị tướng lãnh cao cấp nhất tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, do đó trên nguyên tắc Tướng Khuyên là Xử Lý Thường Vụ chức vụ này. Theo Frank Snepp thì vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, “Tướng Nguyễn Cao Kỳ đi lang thang trong hành lang vắng vẻ của Bộ Tổng Tham Mưu để tìm tướng Đồng Văn Khuyên nhưng ông Khuyên đã biến mất.”[43]
Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận dưới quyền Trung tướng Đồng Văn Khuyên, đã kể lại sự ra đi không một lờøi giả biệt với ông như sau:
“…Trung Tướng Khuyên đi thẳng lên xe Jeep, ông nhìn thẳng phía trước và im lặng trong khoảng 5 phút. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, và tôi nghĩ: “phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu từ đây?” Ông không nói một tiếng nào trong khoảng thời gian đó, sau cùng ông ra hiệu bằng tay và anh hạ sĩ quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người đưa tay lên trán chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu rằng tôi biết chuyện gì đang xảy ra…Tôi không chút phiền muộn nào đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt tôi, một lần từ biệt với biết bao hiểm nguy cho kẻ ở lẫn người đi! Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975…”[44]
Theo ông Trần Văn Đôn thì “8 giờ 15 sáng ngày 29-4-1975, tôi đến Tổng Tham Mưu, nhưng vừa tới cổng thì viên sĩ quan ở cổng chận tôi lại không cho vô vì bên trong đang bị pháo kích. Gần 20 phút sau, tôi vô văn phòng Trung tướng Đồng Văn Khuyên mà Đại Tướng Cao Văn Viên đề cử Xử lý Thường Vụ Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, tôi mơi ù biết ông Viên đã ra khỏi nước bằng chiếc trực thăng riêng đến cơ quan DAO là cơ quan lo việc tản cư của Mỹ, từ đó chở qua Bangkok, xong lấy phi cơ bay thẳng qua Mỹ. Ông Viên đi ngày 28 tháng 4 sau khi đã sắp xếp nội bộ Tổng Tham Mưu xong. Họ có sắp xếp trước, nếu không thì đâu có đi dễ dàng như vậy. Lúc đi ra khỏi nước ông Viên mặc quần jeans, sơ mi thường. Đến Bangkok, ông lấy vé phi cơ dân sự bay thẳng đến Hoa Thịnh Đốn như một du khách chứ không qua các thủ tục như các người tỵ nạn khác.”[45]
Cũng theo lời ông Đôn, ngay sau đó ông gọi điện thoại để báo cáo tình hình bi đát cho Dương Văn Minh và yêu cầu ông Minh chỉ định gấp cho một Tổng Tham Mưu trưởng mới và đề nghị nên cử Trung Tướng Vĩnh Lộc hay Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông Minh đã chỉ định Trung Tướng Vĩnh Lộc vào chức vụ này. Như vậy, Trung Tướng Vĩnh Lộc là vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH nhưng ông cũng đã rời khỏi Việt Nam vào tối 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thực ra thì dù ông Minh có muốn bổ nhiệm Trung tướng Trưởng làm Tổng Tham Mưu Trưởng thì cũng đã quá trể vì ông Trưởng đã rời Việt Nam theo trực thăng cuả Tướng Nguyễn Cao Kỳ, phi cơ này đáp xuống hàng không mẫu hạm Midway cuả Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 1 giờ 12 chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau đó hai ông được đưa sang chiến hạm Blue Ridge.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông Cao Văn Viên đã không dự lễ “trao quyền tổng thống” cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập vì vào buổi chiều ngày hôm đó ông không còn là Tổng Tư Lệnh hay là Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH nưã, ông chỉ là một thường dân mà thôi. Theo ông Trần Văn Đôn thì người đại diện cho Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tại lễ nhậm chức của ông Dương Văn Minh là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
Có nhiều người mến phục Đại Tướng Dương Văn Minh và họ xem ông ta như là một bậc anh hùng. Ông Minh đã được ca tụng là anh hùng đến hai lần trong đời của ông: lần đầu tiên ông được xưng tụng là “Anh hùng Rừng Sát” sau khi ông chỉ huy cuộc hành quân tiêu diệt Bình Xuyên tại Rừøng Sát vào năm 1955 và lần thứ hai ông được xưng tụng là “Anh hùng Cách Mạng” sau khi ông lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. Tuy nhiên cũng có một số người không những không xem ông Dương Văn Minh như là một bậc anh hùng, trái lại họ không phục ông Minh dù rằng ông Minh đã từng giữ những chức vụ như Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Quốc Trưởng và… Tổng Thống “trao quyền.”
Một trong những người đó là Đại Tướng Cao Văn Viên.
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không chịu phục vụ dưới quyền cựu Đại Tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chánh năm 1963, người đã ra lệnh còng tay ông và suýt nưã thì ông cũng bị thủ tiêu và khi ông Dương Văn Minh nhậm chức “tổng thống” vào giờ chót, ngày chót của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, ông đã không phải mặc quân phục trình diện trước ông tân tổng thống mà ông không phục vì ông cương quyết không nhận bất cứ chức vụ nào dưới quyền ông Dương Văn Minh. Theo ông Trần Văn Đôn thì cũng vào ngày ông Dương Văn Minh được TT Trần Văn Hương “trao quyền” tổng thống tại Dinh Độc Lập thì ông Cao VănViên đã để lại bản sao sắc lệnh cuả Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương, cho phép ông được nghỉ dài hạn không lương kể từ ngày 27 tháng 4 năm 1975 trên bàn giấy của ông rồi ra phi trường bay sang Bangkok, từ đó ông lên phi cơ thương mại bay thẳng sang Hoa Kỳ.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có một số dư luận đưa ra những sự đồn đại không những chẳng có mấy tốt đẹp mà lại còn có tính cách nhục mạ vị tướng lãnh cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ nói rằng Đại Tướng Cao Văn Viên đã “hèn nhát bỏ chạy ra ngoại quốc sau khi để lại trên bàn giấy lá đơn xin từ chức dưới tấm bảng 4-sao của ông.”
Điều này hoàn toàn không đúng sự thật.
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là một vị tướng lãnh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.
Ngược lại, vào cuối tháng 4 năm 1975, mọi quân nhân từ cấp tướng lãnh, các sĩ quan cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan và anh chị em chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 (trong số đó có cả người viết bài này đã may mắn nhảy lên được một chiếc xà lan của Hoa Kỳ rời khỏi Kho 5 ở Khánh Hội vào lúc 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975,) tức là trước ngày Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tất cả những người đó đều đã rời bỏ nhiệm sở một cách “bất hợp pháp” vì họ không hề nhận được lệnh hay sự cho phép của cấp chỉ huy trực tiếp để rời khỏi đơn vị, chỉ riêng có một mình cựu Đai Tướng Cao Văn Viên là đã ra đi một cách hợp pháp vì ông là người quân nhân duy nhất, vị tướng lãnh duy nhất đã được chính vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực tức là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà ký sắc lệnh chính thức cho phép nghỉ dài hạn không lương (một hình thức gần như được giải ngũ trong quân đội) và do đó, không còn có trách nhiệm gì nưã trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khi ông rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, không đầy một ngày trướùc khi “Tổng Thống” Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể các đơn vị trong QLVNCH buông súng đầu hàng quân đội Cộng sản Bắc Việt.
*
* *
Ttrong phần kết luận của bài phỏng vấn vị Đại Tướng khả kính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cách đây gần hai năm trước khi ông từ giã cõi đời, Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh có nói:
“Đại Tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức những người từng biết đến ông- thân hữu, bạn đồng đội cũng như những kẻ bất đồng ý kiến với ông- hình ảnh của lòng chung thủy, “trước sau như một,” không a dua, không phản trace, từ tốn khi phê bình, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp lên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một vị tướng lãnh phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu…”[46]
Đại Tướng CaoVăn Viên, vị tướng lãnh đã từng lãnh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong gần 10 năm sau cùng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ và no ấm cho mấy chục triệu nhân dân miền Nam để chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt đã từ giã đồng đội, từ giã cõi đời vào hồi 6 giờ 15 sáng ngày thứ ba 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 87 tuổi..
Đại Tướng Cao Văn Viên đã ra người thiên cổ.
Khi nói về những người chiến sĩ già đã ra đi về miền miên viễn, Thống Tướng Douglas MacArthur, một đại danh tướng của quân đội Hoa Kỳ từng nói một câu bất hủ:
“Những người lính gìà không bao giờ chết, họ chỉ tàn úa mà thôi!”
Tất cả mọi cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xin thành kính nghiêng mình trước sự ra đi của vị anh cả một thời của họ trong quân đội.
Đại Tướng Cao Văn Viên không chết, ông chỉ tàn úa với thời gian.
Trần Đông Phong
[1] PhạmVăn Liễu: “Trả Ta Sông Núi,” trang 244.
[2] Harold G. Moore : « We’re Soldier Once ...and Young, » trang 308.
[3] Đoàn Thêm: “Hai Mươi Năm Qua: 1945-1965,” trang 383.
[4] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hoà,” Vietnambibliography, Virginia, 2003. Trang 258.
[5] Trừ Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền bị giải ngũ và Trung Tá NguyễnNgọc Khôi chỉ lên đến cấp Đại tá, các vị sĩ quan khác nói trên về sau đều trở thành tướng lãnh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
[6] Mạn đàm với cựu Hải Quân Đại Tá NBT tại Westminster, California ngày 3-11-03.
[7] Nguyễn Hữu Duệ: “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm,” tác giả xuất bản, San Diego 2003, Trang 168-169.
[8] Trần Văn Đôn: “Việt Nam Nhân Chứng,” Xuân Thu, California 1989, trang 217.
[9] Phạm Bá Hoa: “Đôi Dòng Ghi Nhớ,” nhà xuất bản Ngày Nay, Houston, Texas, 1994,, trang 1-19
[10] Nguyễn Hữu Duệ: Sđd., trạng.
[11] Mạn đàm với cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi tại Garden Grove, California, tháng 9 năm 2005.
[12] Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: “The Palace File,” Harper & Row Publishers, New York, 1986 , trang 79
[13] Nói chuyện với cựu Đại Tá Trần Văn Thăng, Stanton, California, 12-2002.
[14] Phạm Bá Hoa: sđd, trang 1-19/20
[15] Nói chuyện với ông NVN, California, tháng 6/2003.
[16] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd., trang 258.
[17] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd., trang 267.
[18] Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter: sđd, trang 77
[19] Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter : sđd, trang 80
[20] Trần Văn Đôn: sđd, trang 463: “…ba lần ông Kỳ xin đảo chánh nhưng ông Viên không chấp nhận, nên ông Thiệu càng thích hơn..”
[21] Ellsworth Bunker: “Report To The President From Vietnam, September 20, 1967,” The Bunker Papers, Institute Of East Asian Studies, University Of California At Berkley, 1990, trang 169-170
[22] W.C. Westmoreland: “A Soldier Reports,” bản dịch Việt ngữ của Duy Nguyên, nxb Thế Giới, San Jose CA, 1996, trang 352-353
[23] Nguyễn Cao Kỳ with M. Wolf: “Buđha’s Child,”, trang 241-242.
[24] Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: sđd, trang 226
[25] Nguyễn Tiến Hưng & J. Schecter: sđd, trang227
[26] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 255.
[27] Phạm Bá Hoa: sđd, trang 8-217/219
[28] Trần Văn Đôn: sđd, trang 463
[29] Lâm Lễ Trinh : « Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên » ngày 27 tháng 2 năm 2006.
[30] Lâm Lễ Trinh: “Mạn Đàm Với B.S. Nguyễn Lưu Viên: Từ Hội Nghị La Celle St Cloud Đến Những Ngày VNCH Hấp Hối,” ngày 1 tháng 9 năm 2001
[31] Phỏng Vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, Stanton, California 10-2002
[32] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong : Sđd., « Phụ Bản A : Vai Trò của Bộ TTM, » trang 269-271.
[33] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong : Sđd., trang 256-257.
[34] Cao Văn Viên và Nguiyễn Kỳ Phong : Sđd., trang 262.
[35] Cao Văn Viên và NK Phong : Sđd., trang 142.
[36] Trần Văn Đôn: sđd.,trang 465
[37] Trần Văn Đôn: sđd., trang 470
[38] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 257.
[39] Lâm Lễ Trinh : Mạn đàm với ĐT Cao Văn Viên, » 17 tháng 2 năm 2006.
[40] Trần Văn Đôn: sđd, trang 474
[41] Phỏng Vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, 10-2002
[42] Cao Văn Viên và Nguyễn Kỳ Phong: Sđd, trang 257.
[43] Frank Snepp: “Decent Interval,” First Vintage Books Edition, 1978, trang 503.
[44] Phạm Bá Hoa: sđd, trang 9-287
[45] Trần Văn Đôn: sđd, trang 475
[46] Lâm Lễ Trinh: Mạn đàm Với ĐT Cao Văb Viên,” ngày 27 tháng 2 năm 2006
2008-01-23
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:59:23 GMT 9
Tướng Trần Văn Hai Người Lính Già (Ða Hiệu) -------------------------------------------------------------------------------- Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi ông Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội buông súng dâng miền Nam cho tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt làm tiêu tan nền tảng hợp pháp hóa sự xâm lăng của chúng thì một số quân nhân các cấp không chấp nhận đã tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng hoặc tự sát. Trong số các anh hùng đó, có các danh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân. Với mục đích góp thêm vài nét chấm phá rất thực để tưởng niệm một người quân nhân thuần túy bất khuất, coi quyền lực như không có và đôi khi gần như ngạo mạn, không tham sân si và cả cuộc đời chỉ nhằm đóng góp nỗ lục cho Ðất Nước... Phải thẳng thắn nhìn nhận là ít ai để ý và biết tới tân Thiếu Úy Trần Văn Hai tốt nghiệp Khóa 7 trường Võ Bị Ðà Lạt tình nguyện ra chiến đấu tại chiến trường Bắc Việt năm 1952 bổ nhiệm về phục vụ Tiểu Ðoàn 4 Việt Nam (Thiếu Tá Ðặng Văn Sơn Tiểu Ðoàn Trưởng, sau này là Ðại Tá Tư Lệnh Su Ðoàn 2 rồi Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện BÐQ Dục Mỹ). Sau khi đất nước bị chia đôi và người Pháp lần lượt trao trả quyền quản trị, điều khiển các quân khu lại cho Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam (đặc biệt là Quân Khu 4 trên cao nguyên từ trước vẫn hoàn toàn do các sĩ quan Pháp nắm giữ) và do một cơ duyên nào đó ông Hai gặp Ðại Úy Ðặng Hữu Hồng là một chuyên viên tình báo mới được bổ nhiệm lên cao nguyên làm Trưởng Phòng 2 Quân Khu 4 đã nhận thấy ông Hai rất có thiện chí với nhiều khả năng về tình báo nên đã đề nghị rút về phụ trách ban binh địa của Phòng 2 Quân Khu, sau đó vinh thăng Ðại Úy đi làm Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 81 địa phương đồn trú tại Phan Thiết rồi về làm Ðại Ðội Trưởng chỉ huy công vụ Trung Ðoàn 44 thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Năm 1961, sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ thì Ðại Úy Trần Văn Hai đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến trong tình thân thương cũng có mà thù ghét cũng không phải là ít. Khi Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ được thành lập để huấn luyện các đơn vị Biệt Ðộng Quân cũnh như rừng núi sình lầy, mưu sinh thoát hiểm cho sĩ quan, hạ sĩ quan của các đơn vị và sinh viên sĩ quan của trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ðại Úy Hai là một trong số những huấn luyện viên tận tụy làm viếc hết mình theo đúng quan niệm: Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, và mồ hôi của ông luôn luôn ướt sũng bộ đồ tác chiến như mọi người đã nhìn thấy. Năm 1964, Ðại Úy Trần Văn Hai được vinh thăng Thiếu Tá sau khi mang lon Ðại Úy liên tiếp 9 năm và được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên và cũng chính từ ở chức vụ này ông đã có dịp bộc lộ các cá tính và con người thực. Dưới đây là phần trích dẫn bài của Lôi Tam viết lại cuộc đối thoại của một nhóm quân nhân và công chức trẻ mà chính anh là một: - Tụi bây bỏ hết công việc ra đây mai mốt anh Mũ Nâu lại gọi vào chửi cho cả đám. Anh Mũ Nâu là biệt danh chúng tôi dùng để gọi Trung Tá Hai Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng vốn xuất thân là Biệt Ðộng Quân. - Ối ăn nhằm gì, chửi bới là nghề của anh ấy, không có chuyện cho anh ấy chửi, anh ấy bệnh ngay. Dưới mắt anh ấy cả nước này chỉ có mình anh ấy là khá, kỳ dư còn lại là lũ ăn hại, đái nát... - Tụi bây chửi anh ấy cũng tội nghiệp, phải công nhận là anh ấy có thiện chí. Nếu nước mình mà có vài mươi mạng như anh ấy thì cũng đỡ khổ. - Ðỡ qúa chứ cũng đỡ gì...chỉ riêng cái việc anh ấy không ăn bẩn là tao sợ anh ấy rồi... Chúng tôi kính phục Trung Tá Hai vì sự trong sạch, thái độ ngay thẳng và lòng yêu mến dân chúng thật tình của ông. Trong thời gian phục vụ dưới quyền ông, chúng tôi phải làm việc gấp hai ba lần hơn khi làm việc với các ông Tỉnh Trưởng khác nhưng cũng là thời gian mà chúng tôi thích thú nhất... ...Ông không bao giờ cười, họa hoằn lắm mới có một cái nhếch mép nhưng lại có máu khôi hài lạnh. Tôi nhớ sau cuộc hành quân t.ai Vũng Rô, một phái đoàn Tướng Tá Việt Mỹ đến Phú Yên tham dự cuộc thuyết trình về thành quả. Trong khi ông Hai đang thuyết trình về tổn thất địch thì một ông Ðại Tá Mỹ đứng dậy đặt câu hỏi là trong số thương vong của địch có bao nhiêu phần trăm do hỏa lực bộ binh? Trung Tá Hai không trả lời ngày, ông có vẻ suy nghĩ, một lát sau ông nói: - Tôi rất tiếc không thể trả lời câu hỏi của Ðại Tá lúc này được. Mọi người có vẻ ngạc nhiên, viên Ðại Tá Mỹ cau mày hỏi: - Tại sao vậy Trung Tá? Ông Hai hơi nhếch mép, tôi biết ông đang cố gắng nén cái cười ngạo mạn. - Tại vì tôi chưa kịp viết thư cho viên Tướng Cộng Sản ở vùng này. Lẽ ra tôi phải viết thư trước và yêu cầu hắn chỉ thị cho binh sĩ của hắn khi bị sát hại bằng hỏa lực phi pháo thì phải nằm riêng ra một chỗ và khi bị bộ binh bắn chết thì phải nằm riêng ra một chỗ để chúng ta dễ đếm và thống kê, lần này thì chịu, theo nhận định của Bộ Chỉ Huy hỗn hợp thì đầy là một cuộc hành quân phối hợp hoàn hảo của Hải, Lục, Không Quân, thương vong của địch rải rác lẫn lộn, tình thế cũng không cho phép binh sĩ của ta ở lại lâu tại vị trí giao tranh để làm thống kê tỉ mỉ, vì vậy tôi không thể trả lời được câu hỏi của Ðại Tá. Trung Tá Hai có thể nén cười được, nhưng chúng tôi thì không... Trung Tá Hai rời chức vụ Tỉnh Trưởng vì một chuyện rất nhỏ...Ông Tướng Tư Lệnh Vùng đang say mê một cô ca sĩ; biết rõ như thế nên một số các ông Tỉnh Trưởng trong vùng thi nhau làm vui lòng ông mỗi khi cô ca sĩ này đến trình diễn tại địa phương. Ông Hai không cần biết điều này và ông cũng không cần tìm biết làm gì vì bản chất của ông: thanh liêm, chính trực. Sau một lần không làm vừ lòng Tướng Tư Lệnh về những chuyện công vụ, một tháng sau ông Hai bị thay thế, chúng tôi tiễn ông ra máy bay trực thăng... và hành trang của ông là một túi vải nhỏ, loại mà các phi công thường sử dụng mỗi khi đi bay... - Tôi cám ơn các anh chị đã tận tình làm việc với tôi trong những tháng vừa qua, có thể người ta cho rằng mình là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết đục khoét. Nhưng tôi tin là mình đã làm đúng... Thảo luận với ông về những khó khăn trở ngại ông thường nói: Tôi biết, tôi biết, tôi đã di qua chiếc cầu đó rồi, đừng nản, sớm muộn gì đất nước mình cũng có ngày sáng sủa... ...Ông về làm Chỉ Huy Trưởng BÐQ vinh thăng Ðại Tá...Sau Tết Mậu Thân được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Biệt Khu 44, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 2, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Khi ông vừa rời Phú Yên về trình diện Bộ Quốc Phòng thì cũng đúng lúc chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân đang trống và ông Hai được bổ nhiệm điều khuyết để trở lại nơi ông đã xuất thân với những tình cảm thân thương. Vừa nhận chức với buổi họp tham mưu đầu tiên tại Bộ Chỉ Huy, ông đã giành tối đa thời giờ để lên lớp đúng theo danh từ mà Lôi Tam dùng để diễn tả các chỉ thị Tham Mưu chính yếu nhằm quét dọn rác rưới trong việc điều hành, thuyên chuyển nhân viên, sử dụng quỹ xã hội cách rất đúng đắn và những ngày sau đó đi thăm viếng các đơn vị, đặc biệt là những đơn vị trú đóng những căn cứ hẻo lánh, các trại gia binh và các thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện. Quyết định đầu tiên của ông là xuất quỹ xã hội trao tặng cho mỗ đơn vị 5000 dồng để tổ chức cây mùa xuân, ông quan niệm đây là tiền của anh em đóng vào thì họ phải được hưởng, và hơn nữa ông là một người trong sạch nên ông coi giá trị đồng tiền khá cao, tại mỗi đơn vị ông giơ cao bao thơ đựng tiền lập đi lập lại nhiều lần khiến mọi người phải cười thầm. Ðặc điểm của ông là luôn luôn lắng nghe và ghi nhận những khó khăn của các đơn vị trưởng và dù với cấp bậc khiêm nhượng ông không ngần ngại đến gõ cửa chính các vị Tư Lệnh vùng để trực tiếp can thiệp giải quyết vấn đề chứ không qua các vị Tham Mưu Trưởng. Ở đâu có đụng chạm, có khó khăn là có sự hiện diện của ông và đặc biệt là nhiều khi mùi khét của thuốc súng giao tranh chưa tan ông cũng không ngần ngại đáp trực thăng xuống để cùng chia sẻ ngay tại chỗ với đơn vị và đặc biệt với các cấp chỉ huy về những nỗi khó khăn gặp phải mặc dù đó không phải là nhiệm vụ chính yếu được ấn định cho chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng của ông là quản trị. Trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, chính ông đã trực tiếp điều khiển các Liên Ðoàn BÐQ hành quân giải tỏa vùng ven đô gây tổn thất nặng nề cho địch quân cũng như giảm thiểu thiệt hại cho dân chúng. Khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Ðốc CSQG, ông có đem theo một số sĩ quan và hạ sĩ quan để cùng tiếp tay với ông điều hành công vụ và ông đã tỏ ra rất cứng rắn đối với những người này. Trường hợp Ðại Úy La Thành H. cùng quê và được ông coi như một người em đỡ đầu được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 10 nhưng có những hành động lợi dụng chức vụ, tức khắc bị ông áp dụng biện pháp trừng phạt và trả về quân đội, trong đó có luôn cả chánh văn phòng của ông. Khi một đại diện của Giám Sát Viện phàn nàn với ông về những bê bối trong ngành Cảnh Sát, ông trầm ngâm trả lời: Tôi biết, nhưng vấn đền không thể giải quyết một sớm một chiều mà phải kiên nhẫn tìm ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt thì mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đã gặp khá nhiếu khó khăn, mình như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn mình làm những điều mình thấy cần phải làm. Tướng Hai là một quân nhân thuần túy, không biết hay nói cho đúng hơn là không bao giờ chịu luồn cúi. Khi mới nhận chức CHT/BÐQ và lúc đó uy quyền của Tân Sơn Nhất hay nói đúng hơn là Tướng Kỳ đang ở thế thượng phong nên có người đặt vấn đề là nếu ông muốn vững tiến thì cần phải tìm cách móc nối để lọt vào vòng ảnh hưởng, nhưng ông làm ngơ. Với ông, bè phái là một từ ngữ xa lạ. Theo tiết lộ của cụ Trần Văn Hương khi cụ được chỉ định làm Thủ Tướng thay thế Luật Sư Lộc, cụ đề nghị với Tổng Thống bổ nhiệm một tướng lãnh có khả năng chỉ huy chiến trường là Trung Tướng Ðỗ Cao Trí làm Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 và Ðại Tá Trần Văn Hai, một sĩ quan trong sạch làm Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát. Nhưng có lẽ đó cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nằm trong kế hoạch loại bỏ ảnh hưởng của ông Kỳ. Khi vừa nhận chức được ít lâu thì ông Bộ Trưởng Nội Vụ muốn đưa đàn em về coi Cảnh Sát Tư Pháp nên yêu cầu ông Hai cất chức Phụ Tá Tư Pháp là Luật Sư Ðinh Thành Châu, nhưng ông Hai thẳng thắn trả lời: Nếu ông Bộ Trưởng muốn thay xin cứ ban hành nghị định, tôi sẽ thi hành nhưng tôi không thấy LS Châu có lỗi lầm gì hết. Ðể dằn mặt và trả dũa về sự cứng đầu của ông, phụ phí cho Cảnh Sát đã bị cắt giảm quá một nửa, ông biết như vậy sẽ gặp rất nhiều trở ngại cho sự thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn làm những gì mà lương tâm ông nghĩ và coi đó là lẽ phải. Với thời gian hơn một năm làm TGÐ, ông Hai chỉ đến gặp Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng khi có lệnh hoặc vì công vụ phải đích thân trình bày, ngoài ra không bao giờ mon men cầu cạnh và chưa bao giờ người ta thấy ông mặc thường phục đi xe hơi mang số ẩn tế hoặc công xa lộng lẫy với xe hộ tống võ trang cùng mình chạy trước, chạy sau dẹp đường mà chỉ sử dụng chiếc xe jeep cũ của BÐQ mang theo với vài người cận vệ ngồi phía sau. Người ta cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy ông bị thay thế trở về Quân Ðội vì cụ Hương đã rời phủ Thủ Tướng và hơn thế nữa, các thế lực sẽ không thể chi phối các hoạt động của Cảnh Sát nếu còn để ông tiếp tục nắm giữ quyền điều khiển cơ quan này. Mùa hè đỏ lửa 72, Cộng quân đẩy mạnh các nỗ lực tấn công có tính cách trận điạ chiến cắt đứt các trục giao thông chiến lược, đặc biệt là đoạn Quốc Lộ 14 nối liền hai thị xã Kontum Pleiku và Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 Quân Khu 2 cũng vừa mới nhận chức muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của ông cũng như tạo một tiếng vang nên ra lệnh cho lực lượng BÐQ phải hành quân giải tỏa đoạn Quốc Lộ nêu trên với sư tăng cường của một Chi Ðoàn Thiết Kỵ giao tiếp với một thành phần của Sư Ðoàn 23 nhưng liên tiếp bị chận đánh không tiến lên được như ý muốn của ông nên trong một buổi họp tham Mưu, Tướng Tư Lệnh đã trút giận dữ cho là BÐQ không chịu đánh, ra lệnh thay thế các cấp chỉ huy liên hệ bằng những sĩ quan khác đồng thời còn hướng về Tướng Hai lúc này đã được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn và nói: Biệt Ðộng Quân của anh đó. Bị miệt thị và nhất là tự ái binh chủng của ông nên ông đã thẳng thắn đáp lễ là ông sẽ đứng ra trực tiếp điều khiển cuộc hành quân và ngay sau chấm dứt ông sẽ rời khỏi Quân Ðoàn 2 vì ông không thể cộng tác với một ông Tư Lệnh làm việc tùy hứng...Hai ngày sau đó lực lượng Biệt Ðộng Quân giao tiếp được thành phần tiếp đón từ Kontum tiến ra, Tướng Tư Lệnh đã bay tới nơi với một phái đoàn báo chí để ngợi khen cái bắt tay có tính quyết định này. Tuy nhiên, để giữ lời hứa, Tướng Hai yêu cầu được rời Quân Ðoàn 2, sau đó về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, nơi mà trước đây ông đã phục vụ với tính cách một huấn luyện viên nhỏ bé; nhưng ông chưa ngồi ở chức vụ này được bao lâu thì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 nên ông Hai được bổ nhiệm thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trong chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7, một đại đơn vị nổi danh với những vị Tư Lệnh tiền nhiệm yêu nước, trong sạch gồm cố Trung Tướng Nguyền Viết Thanh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một đơn vị đã hoạt động một cách hữu hiệu trong nhiệm vụ chận đứng sự xâm nhập của các đơn vị Cộng quân trong mưu toan cắt đứt đường liên lạc tiếp tế từ miền Tây về thủ đô và đó cũng là đơn vị đã chứng kiến hành động khí phách phi thường nhất của ông với niềm tin sắt đá sớm muộn gì đất nước mình rồi sẽ có ngày sáng sủa. Cùng các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Tướng Hai đã ghi đậm một nét son cho trang cuối của quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày quân lực, xin đốt nén nhang cho những tang trung liệt, những người đời đời là nỗi tiếc thương và niềm hãnh diện cho Quân Dân Miền Nam, cho mọi thế hệ, cho mọi thời đại của giòng sử đấu tranh Việt. -------------------------------------------------------------------------------- Người Lính Già (Ða Hiệu)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 13:04:08 GMT 9
Tướng Lê Nguyên Vỹ Thanh Sơn -------------------------------------------------------------------------------- Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, khi ông còn mang cấp bực Ðại Tá, vào khoảng tháng 6 năm 73, trong lúc vết thương ở chân của ông chưa lành hẳn, bước đi còn khập khễng và chống gậy vì bị tai nạn trực thăng khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21 BB. Ông là một vị chỉ huy gan dạ nổi tiếng nhất của Sư Ðoàn 5 BB lúc ông còn là Trung Ðoàn Trưởng: "Nhất Vỹ, nhì Gia" (Trung Tá Gia hình như họ Hà, Hà Văn Gia, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ). Ðây là câu nói tôi được nghe nhiều lần nơi sĩ quan và binh sĩ khi rời quân trường về trình diện Sư Ðoàn vào tháng 1-68. Rất nhiều đồng bào và anh em chiến sĩ thuộc các đơn vị bạn quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương cho đến các tỉnh biên giới Bình Long, Phước Long đều biết đến tên ông. Có lẽ một phần vì tinh thần chiến đấu kiên trì và dũng cảm, một phần vì tánh tình nóng nảy như lửa đốt của ông. Tinh thần kiên trì và dứt khoát chiến đấu chống cộng của ông đã biểu lộ qua câu chuyện của một sĩ quan tham mưu Sư Ðoàn kể cho tôi nghe "Ông Vỹ có một cô em gái đi theo VC, viết thư khuyên ông nên quay về với "Bác và Ðảng" và ông đã trao bức thư này cho An Ninh Quân Ðội VNCH để nghiên cứu". Sự chiến đấu dũng cảm của ông gần như mọi người thuộc Sư Ðoàn đều biết vào mùa hè đỏ lửa năm 72 ở An Lộc. VC lùa 3 Sư Ðoàn (Công Trường số 5, 7 và 9, Trung Ðoàn Thiết Giáp T54 và các đơn vị trọng pháo 130 ly để bao vây và tấn công thành phố An Lộc, tỉnh Bình Long. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn cùng với Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn đã tích cực điều động các đơn vị phòng thủ đẩy lui nhiều đợt tấn công ác liệt kéo dài ròng rã gần 3 tháng trời. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất, khi VC quyết định sử dụng toàn bộ lực lượng để dứt điểm chiến trường, chúng tung nhiều đợt pháo kích, sử dụng lực lượng xung kích chủ yếu, thiết giáp T54 và bộ binh kết hợp tiến thẳng vào trung tâm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Vì bị thiệt hại nặng nề do đạn pháo, các đơn vị phòng thủ VNCH phải co cụm lại từng tụ điểm để chống trả. Khi thấy chiến xa và bộ binh địch xuất hiện từ xa, tất cả các loại súng cối của ta bắn ra xối xả, khiến bộ binh VC phải giật lùi lại phía sau, chỉ còn thiết giáp VC vẫn một hàng dọc, theo đường phố tiến vào nơi phòng thủ của Tướng Hưng. Vì lần đầu tiên người lính VNCH nhìn thấy chiến xa địch và phần vì không tin tưởng vào vũ khí chống chiến xa M72, hầu hết đều kinh hoàng và tìm nơi ẩn nấp. Ngay cả đến những người lính phòng thủ trước cửa hầm của Tướng Hưng cũng vậy, khi nhìn thấy chiến xa đã tới gần, tất cả đều nhảy ào xuống hầm. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đã nhanh nhẹn chụp lấy một khẩu M72 của người lính đứng bên cạnh, ông bước lên miệng hầm. Trong khi ấy, Tướng Lê Văn Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay với ý định nếu VC tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã đến gần, nhưng vì chúng chưa định ra được chiếc hầm nào là hầm của Tướng Hưng đang thủ, chúng quay ngang, quay dọc để tìm kiếm. Thừa lúc ấy, Ðại Tá Vỹ đã bắn ngay một quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần reo hò, và họ lần theo từng căn nhà, từng bờ tường để bắn những chiếc còn lại. Kết quả là gần 50 chiếc chiến xa địch bị bắn cháy ngay trên trận địa. Tướng Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp khoảng cuối năm 1974 (tôi không nhớ rõ). Ông đã phải đương đầu với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn: vừa phải lo đối phó với áp lực của quân địch, và vừa lo chấn chỉnh nhân sự, củng cố đơn vị v.v...Ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, hết ở Bộ Tư Lệnh căn cứ tại Lai Khê, lại chạy tới các căn cứ của Trung Ðoàn, Tiểu Ðoàn để kiểm tra, đốc thúc đào hào, tu bổ hệ thống phòng thủ, đắp chướng ngại vật để cản chiến xa. Ông cũng lưu tâm đặc biệt việc rèn luyện tân binh, thường xuyên mở lớp huấn luyện và ôn tập cho các cán bộ và binh sĩ. Ðặc biệt về công tác bài trừ tệ nạn tham nhũng, ông làm rất hăng say. Sau khi Tướng Trần Quốc Lịch bị điều tra và bắt giam ở quân lao, một số các cấp chỉ huy khác đã bị trừng phạt: Thiếu Tá Hồ Ngọc S., TÐT/TÐ3/9, Ðại Úy H., ÐÐT/ÐÐ5 Trinh Sát bị giáng cấp xuống trung sĩ và một số nữa tôi không còn nhớ rõ. Việc bài trừ tham nhũng, không ai nghi ngờ thiện chí của Tướng Vỹ, ông rất nhiệt tình. Ông chỉ có một tật xấu mà tôi ghi nhận được là tính nóng nảy. Một câu chuyện tôi nghe được khi ông làm việc tại trung tâm hành quân, phòng 3 BTL/SÐ. Hôm ấy, một binh sĩ bị quân cảnh bắt về trình diện ông về tội đánh lộn và cướp giật ngoài chợ Lai Khê. Câu chuyện tôi nghe được khi ông đang đứng nói với một sĩ quan khác trươc cửa văn phòng: "Tôi chửi mắng cho một trận, mặt hắn cứ trơ trơ ra, không tỏ vẻ ăn năn hối hận gì. Thình lình tôi quay cây gậy đập tới tấp, cu cậu không biết đường mà đỡ, bị một trận nên thân!". Những việc như vậy, ông thường làm, nhưng lại chưa nghe ai nói ông cạo đầu nhốt chuồng cọp binh sĩ. Trong một buổi lễ khai giảng khóa huấn luyện tân binh, đứng trước cả ngàn người vừa tân binh lẫn cán bộ và lính cơ hữu của trung tâm huấn luyện ở Lái Thiêu, ông công kích kịch liệt trong gần một tiếng đồng hồ về tệ nạn tham nhũng. Ông nói rất nhiều, nhưng chỉ có một câu tôi nhớ hoài, không bao giờ quên: "Chúng nó đã móc ngầm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được". Trong một phiên họp ở BTL/SÐ, ông gọi những người được gởi gấm nhiều năm, hết đời Tư Lệnh này tới đời Tư Lệnh khác, sống lưu cựu tại trung tâm huấn luyện Sư Ðoàn là những con heo. Ông nói: "Chúng nó ăn no béo mập như những con heo". Ông muốn "bứng" đám người này đi mà cũng không làm được, Có lẽ vì họ có những cái "gốc" lớn mà rễ của nó đã mọc tới Sài Gòn. Sức lực của ông cũng có hạn, đôi vai ông cũng nhỏ bé như vai mọi người, không lớn rộng như vai Từ Hải! Tuy nhiên tôi ghi nhận, trong thời gian ông làm Tư Lệnh, tệ nạn tham nhũng, nếu không muốn nói đã bị chận đứng thì cũng phải giảm đi rất nhiều; không còn cảnh ăn chơi phè phỡn trong khi người khác cặm cụi làm việc. Nhìn chung, từ ngày Tướng Vỹ về Sư Ðoàn, ông đã cải tổ, xây dựng được nhiều vấn đề. Ông đã mang lại niềm tin tưởng cho mọi người . Việt Cộng càng ngày càng di chuyển người, vũ khí, lương thực về gần Sài Gòn hơn. Áp lực quân sự ngày càng gia tăng. Việc tiếp tế bằng phi cơ cho An Lộc và Chơn Thành quá tốn kém mà chỉ để bảo vệ những đống gạch vụn tại thành phố An Lộc và những vùng đất hoang vu, không người ở. Dân cư tại các làng mạc, đồn điền đều đã di tản để tránh bom đạn hồi năm 1972, một số chạy ngược lên Lộc Ninh, số còn lại chạy về Sài Gòn. Vào khoảng cuối năm 1974, các lực lượng phòng thủ An Lộc và Chơn Thành được lệnh triệt thoái. Một việc làm Tướng Vỹ buồn lòng không ít khi một Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 8 ở Chơn Thành rút lui, ông chỉ thị phải ưu tiên chở hỏa tiễn Tow về trên chuyến phi cơ đầu tiên để ông tái phối trí nơi khác (Tow là một loại hỏa tiễn chống chiến xa rất hiệu nghiệm và rất đắt tiền). Ông đích thân ra sân bay đón chờ. Khi chuyến bay đầu tiên hạ cánh, hàng bốc xuống hết, ông không thấy hỏa tiễn Tow đâu cả, mà chỉ toàn là hàng câu lạc bộ như bia, nước ngọt, cà phê, sữa, v.v...Thế rồi ông nổi cơn thịnh nộ, rồi đích thân lái xe jeep ủi sập hết đống hàng này. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, tỉnh lỵ Phước Long bị VC tràn ngập vào ngày 3/1/75, nhưng QLVNCH không có nỗ lực nào để tái chiếm. Những người chỉ huy quân sự nói chung và của SÐ5BB nói riêng đã bắt đầu lo ngại, nhưng tất cả đều đồng ý rằng, trong chiến tranh, hôm nay mất ngày mai chiếm lại là việc thông thường, không có gì lo âu quá đáng. Khi Ban Mê Thuột thất thủ, quân đội VNCH rút khỏi Cao Nguyên, miền Trung và khi tuyến phòng thủ miền Ðông (Phan Rang, Long Khánh) bị bể, những lực lượng còn lại của QLVNCH đang lui dần về phía cầu xa lộ Biên Hòa, tôi được lệnh chuẩn bị kế hoạch, trang bị nhẹ, dự trù trong trường hợp Sài Gòn thất thủ, sẽ lui dần về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu. Tôi không biết lệnh này xuất phát từ đâu! Lúc này những đoàn quân VC ở phía Bắc Sài Gòn đã ép sát với phòng tuyến của SÐ5BB. Ở phiá quận lỵ Phú Giáo, vào ngày 23 và 27/4/75, phi cơ phản lực, cứ 2 chiếc luân phiên nhau thả bom vào những vị trí tập trung của quân địch để ngăn cản sức tiến quân của chúng. Ðường bay nhào lộn kéo tới tận không phận quận Lái Thiêu. Cán bộ huấn luyện viên và các khóa sinh đều đưa mắt liếc nhìn, không ai nói với ai một lời, tất cả đã hiểu việc gì đang xảy ra. Trung tâm huấn luyện Sư Ðoàn chỉ chấm dứt các hoạt động huấn luyện bãi tập vào ngày 28/4/75 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Tình hình ở Sài Gòn lúc đó quá lộn xộn và các đơn vị du kích cùng quân địa phương VC đã xuất hiện ở nhiều nơi quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương. Khoảng 10 giờ đêm ngày 29/4/75, tôi đã nhìn thấy bộ binh và chiến xa của VC đang di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn (Sài Gòn - Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T54. Chúng chẳng thèm ngụy trang lá cây gì cả và đang di chuyển về hướng Sài Gòn. Thình lình tiếng súng cối 81 ly của TTHL/SÐ từ phía sau lưng bắn ra để cản bước tiến của chúng. Ðạn nổ bốc khói mịt mù xa lộ. Chỉ trong giây lát, chiến xa và bộ binh VC đã giàn hàng ngang tiến thẳng về phía TTHL. Những khẩu phòng không trên pháo tháp của chiến xa địch đang nhả đạn, bỗng dưng khựng lại. Chúng quay ngược ra xa lộ rồi tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Chúng đi rất vội vã, hối hả. Rõ ràng chúng đang được lệnh tránh giao chiến dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt. Sài Gòn vào giờ này đang hỗn loạn, miếng mồi thơm ngon, béo bở đang đợi chờ, chúng không thể chậm trễ được! Khoảng 8 giờ sáng, tôi không còn nhìn thấy một lực lượng nào của VC di chuyển nữa. Tôi vẫn đứng ở phía ngoài phòng tuyến suy nghĩ miên man...Chúng đã lợi dụng đêm tối, len lỏi, vượt nhanh ngang qua hông những điểm phòng thủ chính yếu của SÐ5BB, của tiểu khu Bình Dương. Chúng đã bỏ toàn bộ lực lượng của SÐ5BB về phía sau lưng rồi! Bỗng tôi chợt nhớ tới câu chuyện hơn một năm về trước, khoảng tháng 12 năm 73. Hôm ấy, như thường lệ, tới phiên trực, tôi đem bản đồ vào phòng riêng của Tướng Vỹ vào buổi tối để ông duyệt xét lại tình hình tổng quát mà có các chỉ thị cần thiết cho các kế hoạch hành quân hôm sau. Thông thường, ông chỉ lướt qua 15 phút, vì sĩ quan tùy viên đã báo cáo tình hình hàng giờ, rồi ông nói chuyệnh linh tinh với chúng tôi. Ông người tầm thước, khoảng 165cm, hơi mập, nước da đen sạm vì nắng, giọng nói hơi ồm ồm. Hình như ông đang bị cảm mất tiếng nên giọng nói hơi khó nghe. Tuy nhiên, tôi vẫn còn nghe rõ từng tiếng...Ông đang tỏ vẻ vui mừng về việc xúc tiến phòng thủ trong những tháng qua đạt kết quả tốt đẹp. Bỗng ông tâm sự: "Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ở ngoài này mà tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn..." Ðiều nghi ngờ của ông hôm nay đã trở thành sự thật. Trước tình thế này, Tướng Vỹ sẽ quyền biến ra sao? Tôi chờ đợi, nhưng tôi chợt nghĩ, tình hình sáng hôm nay đang diễn ra trên một quy mô lớn trên toàn quốc, đã vượt ra ngoài vùng trách nhiệm và quyền hạn của một vị Tư Lệnh Sư Ðoàn. Ông vẫn phải chờ lệnh, vì ông là một quân nhân có kỷ luật. Khoảng 9 giờ sáng, TTHL vẫn còn liên lạc tốt với BTL/SÐ. Lệnh từ TT/HQ/SÐ vẫn truyền đi: "Tất cả sẵn sàng tại chỗ, chờ lệnh". Tướng Vỹ đang chờ lệnh gì? Lệnh đánh tập kích phía sau lưng địch hay lệnh rút lui về Vùng 4? Ông chờ lệnh ai? Vào giờ này, Tổng Thống Tư Lệnh Quân Ðội, Thủ Tướng Chánh Phủ, Tổng TMT/QÐ, TMTL/LQ, Tư Lệnh Quân Ðoàn, đã chạy trốn hết rồi! Các tân Tổng Thống thì hoặc vì quá già nua, hom hem ốm yếu, hoặc vì còn đang bàng hoàng ngơ ngác trước kẻ thù, ai đủ tư cách và uy tín để ra lệnh cho ông? Khoảng 10 giờ sáng ngày 30-4-75, TTHL hoàn toàn mất liên lạc với BTL/SÐ (có lẽ giờ này, Tướng Vỹ đã tự sát và BTL đang rối loạn). Chỉ huy trưởng TT/HL vô cùng bối rối. Ông ra lệnh vắn tắt: "Di chuyển về hướng Sài Gòn". Dẫn đầu hàng quân là các khóa sinh lớp huấn luyện thái cực đạo. Ðoàn quân ra khỏi doanh trại chưa được 1/3, tôi đã nghe tiếng súng nổ ròn rã ngoài chợ Lái Thiêu (Chi Khu Lái Thiêu đã rút lui từ nửa đêm và VC đã chế ngự khu này). Trung Úy Bích, Trưởng Ban 2 TT đã bị trọng thương và lực lượng đi đầu bị thiệt hại nặng. Ðoàn quân phải lùi vào trong doanh trại để tìm hướng đi khác. Một vài anh em mở radio để nghe tin tức. Thình lình nghe được bản tin của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh. Lúc ấy giọng ông Dương Văn Minh nghe rất thểu não, tiếng mạnh, tiếng yếu tựa hồ như một người sắp hết hơi. Tôi không nhớ hết nguyên bản văn; nhưng có vài đoạn chính yếu, tôi còn nhớ rõ từng tiếng. Ðại ý bản văn nói, để tránh một cuộc đổ máu vô ích, ông kêu gọi binh lính VC ngừng tấn công và quân đội VNCH ở nguyên vị trí của mình vì ông đã: "Tôi tin tưởng sâu xa vào chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc của chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN" (nguyên văn) và ông tiếp: "Chúng tôi ở đây (tức Dinh Ðộc Lập) đang chờ những người anh em ở phía bên kia đến để làm lễ bàn giao..." Bản tin được lập lại nhiều lần liên tục. Sau khi nghe xong bản tin này, mọi người đều xôn xao nhốn nháo. Anh em khóa sinh lo sợ, trong khi làm lễ bàn giao VC nổi hứng đòi bàn giao luôn "cái chỗ đội nón", thế là hơn 1500 khóa sinh đủ các lớp huấn luyện, đã hè nhau đẩy sập cả cổng chính lẫn cổng phụ, vứt súng đạn, lột bỏ quần áo, chạy ra đường như một đàn ong vỡ tổ, trước sự ngơ ngác, bàng hoàng của cán bộ quân trường. Tại căn cứ phòng thủ của Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn, sau khi nghe xong bản tin trên đài phát thanh của Dương Văn Minh, anh em binh sĩ đã tự động vứt bỏ súng đạn để chạy về nhà. Tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn ở Lai Khê, cái mệnh lệnh mà Tướng Vỹ trông đợi từ nhiều ngày qua để ông thi hành hôm nay đã đến. Mệnh lệnh không đến bằng hệ thống truyền tin quân đội, mà đến qua làn sóng điện của Ðài phát thanh Sài Gòn: lệnh bàn giao! Từ ngữ nghe thật hiền lành và êm ái. Nhưng, tự cổ chí kim, các kẻ chiến bại, sau khi bị tước đoạt hết khí giới, thông thường thì chỉ có chết hoặc bị bắt cầm tù, chưa thấy ai làm lễ bàn giao bao giờ. Tại sao hôm nay, ông tân Tổng Thống miễn cưỡng lại dùng loại từ ngữ mập mờ này? VC vẫn bao vây căn cứ ở Lai Khê, đặt chốt ngăn chặn ở hai cổng phía Nam và phía Bắc. Chúng bắc loa chĩa vào bên trong căn cứ, phát thanh lời kêu gọi của Dương Văn Minh và kêu gọi Tướng Vỹ ra hàng. Ông chỉ đáp lại: "Yêu cầu các anh đối xử nhân đạo với thuộc cấp của tôi". Lúc đó, Tướng Vỹ triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lịnh bàn giao và lịnh bắt buông súng đầu hàng. Ông nói: "Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là lịnh bắt chúng ta buông súng đầu hàng..." Ông phải nói thẳng vì sợ có người hiểu quanh co, mập mờ. Rồi ông tuyên bố: "Vì tôi là một Tướng Chỉ Huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lịnh này. Tôi nghĩ thân làm Tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi". Ðoạn ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình. Tôi không được chứng kiến cảnh Tướng Vỹ tự sát và những diễn biến ở Lai Khê, chỉ viết theo lời tường thuật của anh bạn lúc tôi làm việc tại TTHQ. Tình cờ tôi gặp lại anh ít lâu sau đó. Trung Úy Khang, người sĩ quan trẻ tuổi, có rất nhiều nghị lực và rất giỏi môn võ Không Thủ Ðạo. Anh được tuyển chọn là sĩ quan tùy viên kiêm cận vệ của Tướng Vỹ. Con đường Tướng Vỹ chọn lựa ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lãm và nhiều vị anh hùng khác lựa chọn ngày trước. Ông đã xin nối gót. Ông không đi đơn độc một mình, vì vào giờ này, khắp nơi trên đất nước, đồng đội của ông, nhiều người cũng đang đi trên con đường như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Ngọc Cẩn, v.v... Ðược biết ngày nay, đồng bào và chiến sĩ trong nước đã suy tôn ông là Anh Hùng Dân Tộc. Và trong hàng ngũ của những người đang đấu tranh lật đổ bạo quyền ở trong nước, có đơn vị đã mang tên ông: Chiến Ðoàn Lê Nguyên Vỹ. -------------------------------------------------------------------------------- Thanh Sơn (Trích dặc san KBC)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 13:05:52 GMT 9
Tướng Lê Nguyên Vỹ
Một Trung Ðoàn Trưởng Xuất Chúng Nguyễn Văn Tín Ngày 24/03/1999 -------------------------------------------------------------------------------- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ là Tư Lệnh cuối cùng của Sư Ðoàn 5. Ông chọn tuẫn tiết thay vì chịu nhục đầu hàng giặc cộng tại sân cờ bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 ở Lai Khê ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông được chỉ định vào chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 vào tháng 11 năm 1973, ngay khi tốt nghiệp Ðại Học Chỉ Huy Cao Cấp và Tham Mưu bên Mỹ về nước. Trước khi đi Mỹ học, ông giữ chức Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5, phụ tá cho Ðại Tá Lê Văn Hưng. Trong trận đánh tử thủ An Lộc, ông đã sáng gía vì là người dũng cảm bắn hạ chiếc chiến xa T-54 đầu tiên khi đoàn chiến xa địch xông vào thành phố An Lộc dưới con mắt kinh hoàng bỡ ngỡ của các chiến sĩ tử thủ lần đầu tiên chạm trán chiến xa. Khi còn ở cấp Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5, dưới quyền chỉ huy của Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Hiếu, ông nổi tiếng là một Trung Ðoàn Trưởng tác chiến giỏi. Sau đây là một số tài liệu ghi nhận khả năng và quan điểm chiến sự của Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ do các Cố Vấn Mỹ lưu giữ. Lượng Giá Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, nhận chức ngày 20.12.68, 19 năm quân ngũ. Ðại Tá Vỹ là một chỉ huy trưởng xếp hạng trên trung bình. Ông hữu hiệu và hiếu chiến và nhiều sáng kiến khi chạm địch và khi huấn luyện binh sĩ. (Ðại Tá John G. Hayes, Cố Vấn Trưởng, ngày 7.2.1970). Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Chỉ Huy Trưởng Trung Ðoàn 8, SÐ5BB: Một sĩ quan tài ba. Rất nhiệt tâm, rất nghiêm chỉnh và rất được việc. Ông có nhiều triển vọng. Một người quốc gia nhiệt tình. Ðáng được thăng chức. (Trung Tá Roy E. Couch, Cố Vấn Phó, ngày 4.2.1970). Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Chỉ Huy Trưởng Trung Ðoàn 8...Trung Ðoàn Trưởng giỏi nhất trong Quân Ðoàn 3; đủ khả năng trở nên Sư Ðoàn Trưởng. (Cố Vấn Mỹ Quân Ðoàn 3). Quan Ðiểm Của Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ về Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Kính gửi: Tướng Ewell Qua: (1) Tướng Kinnard (2) Tướng Roberts (3) Ông Whitehouse Kính chuyển đạt Trung Tướng văn thư của Ðại Tá Hayes về cuộc viếng thăm Trung Ðoàn 8/SÐ5 của Tướng Haig ngày 24/1/1970. Tôi thiết nghĩ Trung Tướng sẽ quan tâm tới quan điểm của Ðại Tá Vỹ về những điểm sau đây: a. Yểm trợ pháo binh QLVNCH...thiếu sót khi pháo binh HK rút đi. b. Khả năng NQ/ÐPQ...dè dặt về khả năng của NQ/ÐPQ trong việc bảo vệ vùng đông dân cư. c. Cố Vấn HK cấp Tiểu Ðoàn...thiếu kinh nghiệm. d. Yểm trợ tiếp vận của QLVNCH... yếu kém. D.P. McAuliffe, Chuẩn Tướng, Cố Vấn Trưởng Phó. QÐ3 Tướng Haig thăm viếng các đơn vị của Trung Ðoàn 8 Chuẩn Tướng Haig thăm viếng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 vào lúc 1315 giờ ngày 24/1/70. Ông được Ðại Tá Vỹ thuyết trình về tình báo hiện tại, bao gồm QBV, lực lượng chính và các sinh hoạt của VC trong toàn vùng thuộc Trung Ðoàn 8. Ðại Tá Vỹ cũng trình bày tổng lược về Chương Trình Ðồng Tiến trong đó Trung Ðoàn 8 tham chiến với Sư Ðoàn 1 Bộ Binh HK. Ðại Tá Vỹ đề cập tới những lợi điểm đối với TÐ 8, tỷ như: Yểm trợ tác hiến dưới hình thức bao vây và lùng kiếm, pháo binh, trực thăng vũ trang, các toán lùng và diệt, năng động trong việc xử dụng các đại đội trực thăng xung kích. Ðại Tá Vỹ kết luận bằng cách trưng bày các thống kê về số địch bị loại đối chiếu với số thương vong bạn. Tướng Haig đặt những câu hỏi và tiếp nhận những lời bàn của Ðại Tá Vỹ như sau: a. Trung Ðoàn có nhận yểm trợ pháo binh trực tiếp đầy đủ tiếp sau sự rút lui của SÐ 1 BB HK không? Ðại Tá Vỹ khẳng định một cách dứt khoát là không! Ông nói là cần ít nhất một tiểu đoàn pháo binh yểm trợ cho trung đoàn của ông nếu các tiểu đoàn của ông nhận đủ sự yểm trợ phi pháo khi các tiểu đoàn này nới rộng phạm vi hành quân. Tướng Haig hỏi hiện tại có bao nhiêu pháo binh yểm trợ cho Trung Ðoàn 8, thì Ðại Tá trả lời có hai khẩu pháo 105 ly và hai khẩu pháo 155 ly tại Chánh Lưu, hai Khẩu pháo 105 ly tại Thới Hòa, và hai khẩu pháo 105 ly với hai khẩu pháo 155 ly tại Bến Cát. Ông giải thích sự sấp xếp này chỉ cho thấy cần yểm trợ thêm cho NQ/ÐPQ trong các cuộc hành quân của các đơn vị này vì hiện giờ pháo binh của QLVNCH phải yểm trợ cho các đơn vị chính quy và địa phương quân trong vùng hành quân của Trung Ðoàn 8. Ðại Tá Vỹ lưu ý là vấn đề này sẽ gia tăng khi các tiểu đoàn rút ra xa khỏi các vùng đông dân cư. Ngoại trừ được cung cấp thêm các dàn pháo binh, hoặc quân chính quy hoặc địa phương quân sẽ thiếu sự yểm trợ về pháo binh. b. Trung Ðoàn 8 thực thi bao nhiêu cuộc phục kích và loại nào? Ðại Tá Vỹ trả lời là mỗi tiểu đoàn thực thi "nhiều" cuộc phục kích mỗi đêm, và phần nhiều là loại cơ khí dùng mình claymore. Ông trình bày các kết quả thực hiện được trên đồ hình đối chiếu với tất cả các thương vong địch loại khác: trên 50% con số địch chết mới đây là do mìn claymore gây ra. Tướng Haig nhận định là kết quả của các cuộc phục kích này nói lên thành quả cao của đơn vị này. c. Ðại Tá có những khó khăn gì về lãnh vực truyền tin không? Ðại Tá Vỹ nói là không và ông có được hệ thống truyền tin tốt đẹp trong toàn Trung Ðoàn. d. Ðại Tá kiếm đâu ra các tân binh? Ðại Tá Vỹ nói là hầu hết các tân binh là lính động viên, nhưng cũng có một số ít là lính tình nguyện. Tướng Haig hỏi có phải phần đông lính của Trung Ðoàn 8 là do Quân Ðoàn 3 phái tới không? Ðại Tá Vỹ trả lời là không, họ tới từ khắp miền Nam Việt Nam. e. Ðại Tá nghĩ sao về khả năng tác chiến của NQ/ÐPQ trong vùng này? Ðại Tá Vỹ nói là đây là một vấn đề nan giải trong kế hoạch chuyển giao lại các địa phương quân lo phần an ninh cho các vùng do chính phủ kiểm soát để các tiểu đoàn QLVNCH có thể trở nên di động. Ông nói NQ/ÐPQ nghèo, rất yếu và không có khả năng chu toàn trách vụ liên đới trong kế hoạch này. Ông nói là không thể trông cậy NQ/ÐPQ bảo toàn các vị trí đóng quân về đêm và không tin tưởng họ có khả năng đứng vững chống cự tại các địa điểm đóng quân đã chuẩn bị sẵn. Tướng Haig nói ông rất ngạc nhiên nghe tới điều này vì ông được biết NQ/ÐPQ đang cáng đáng hầu hết các trận đánh và đang thi hành phận vụ cách rất tốt đẹp trong vùng Ðồng Bằng. Ðại Tá Vỹ trả lời là ông ám chỉ đến NQ/ÐPQ trong vùng hành quân của riêng ông, và ông đưa ra một lời thẩm định ngay thẳng và nghiêm minh về họ. Tướng Haig hỏi có thể làm gì để cải tiến lãnh vực này. Ðại Tá Vỹ liệt kê các điểm sau: (1) Ðặt một sĩ quan đã từng chỉ huy thành công cấp tiểu đoàn vào chức vụ quận trưởng. (2) Thực hiện một chương trình huấn luyện nghiêm chỉnh giúp NQ/ÐPQ đạt được khả năng chu toàn trách vụ của họ. Chương trình này có thể thực hiện được trong vòng 6 tháng. (3) Chỉnh đốn lại cấu trúc của tất cả các vị trí phòng thủ của NQ/ÐPQ theo tiêu chuẩn của SÐ 1 BB HK để loại bỏ mọi yếu điểm hiện có trong các vị trí này. Rất nhiều vị trí hiện hữu, lô cốt và công sự phòng thủ được thiết kế và xây cất một cách yếu kém và sẽ không chống nổi bất cứ một loại tấn kích nào. (4) Các sĩ quan biệt phái chỉ huy các đơn vị NQ/ÐPQ phải là những cán bộ đã được huấn luyện kỹ lưỡng và đã chứng tỏ khả năng tác chiến và chuyên nghiệp cao độ để gây sự tin tưởng cho các đơn vị này. (5) Cần có yểm trợ pháo binh trực tiếp cho NQ/ÐPQ. f. Ðại Tá cho vấn đề nào to lớn nhất trong sụ rút lui của các lực lượng HK tiếp diễn? Hỏa lực đầy đủ dưới dạng pháo binh, không trợ trực diện và trực thăng vũ trang dưới mọi hình thức. Các hỏa lực này cần có để trám vào lỗ trống do sự rút lui của các đơn vị HK. g. Tướng Haig hỏi tiếp người viết bài tường trình này sĩ quan cấp bậc nào được chỉ định làm cố vấn cho tiểu đoàn trưởng QLVNCH và những sĩ quan này có kinh nghiệm tác chiến tới mức độ nào. Tôi trả lời là cấp Thiếu Tá là được phép và hiện giờ tôi có hai thiếu tá và hai đại úy được chỉ định làm cố vấn cho tiểu đoàn trưởng; không có một viên sĩ quan nào có kinh nghiệm tác chiến. Tôi khẳng định rằng nỗ lực trong địa hạt ban cố vấn là phải tạo sĩ quan với kinh nghiệm tác chiến nếu muốn thực hiện được kết quả tương xứng trong những tháng hệ trọng tới. Tướng Haig trả lời là ông hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. 3. Tiếp theo buổi thuyết trình và bàn luận kể trên là những cuộc viếng thăm các căn cứ hỏa lực Kiến An và Apollo, tại đây cũng có những buổi thuyết trình ngắn về tình báo và hành quân do các chỉ huy trưởng Mỹ/ Việt cấp tiểu đoàn. Những bàn luận tiếp đó được ghi nhận như sau: a. Trung Ðoàn 8 có ý định gì tiếp theo sự rút lui của SÐ 1 BB HK? Ðại Tá Vỹ nói Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn của ông sẽ dời về căn cứ Lai Khê. Ba tiểu đoàn còn lại của ông sẽ tiếp thu ba căn cứ hỏa lực - có lẽ tại căn cứ Tennessee, Gela và Dominate. b. Ranh giới khu vực hành quân của Trung Ðoàn 8 sẽ ra sao? Ðại Tá Vỹ nói là ông chưa biết chắc chắn nhưng ông nghĩ rằng nó sẽ bao quát từ Nam Bến Cát tới lằn mức tưởng tượng chạy dọc theo đông bắc từ Mushroom đến Chơn Thành. c. Ðại Tá có cáng đáng nổi khu vực rộng lớn vậy không? Ðại Tá Vỹ nói là ông tin tưởng là được với cùng loại yểm trợ tác chiến mà các đơn vị HK hiện có. Nhưng ông nói nếu NQ/ÐPQ không chu toàn được phận vụ bảo toàn an ninh cho các trung tâm đông dân cư, các đơn vị QLVNCH sẽ buộc phải rút về bảo toàn an ninh cho các vùng đó và rồi các đơn vị QLVNCH trở lui lại vị thế của năm 1966. d. Tướng Haig đặt câu hỏi về hiệu năng của hệ thống phụng vụ yểm trợ tác chiến trực tiếp với các cố vấn. Hệ thống tổ chức tiếp vận hiện hữu có thể yểm trợ các đơn vị trong các vùng hành quân trong một thời hạn lâu dài không? Câu trả lời là có với điều kiện phải chú tâm vào nỗ lực kiện toàn và xử dụng hệ thống tổ chức tiếp vận hiện hữu của ban cố vấn. 4. Ðịa điểm thăm viếng chót trong lộ trình là căn cứ hỏa lực O'Keefe, nơi đặt Bộ Chỉ Huy của TÐ4/8. Khi vừa tới nơi, phái đoàn hay tin là tiểu đoàn trừ đang chạm địch tại cây số 15 bắc dọc theo quốc lộ với một lực lượng địch phục kích một đoàn xe. Tướng Haig ngỏ ý muốn bay lên quan sát trận chiến. Khi bay tới chiến trường, tôi bắt ngay được liên lạc vô tuyến với Thiếu Tá Dyer (Cố Vấn TÐ4/8) và có thể thuyết trình ngắn cho Tướng Haig về tình hình. Trong khi bay lượn trên không, chúng tôi trực tiếp quan sát nhiều phi xuất phi trục và trực thăng võ trang yểm trợ và các sinh hoạt của các đội toán lùng/diệt địch và pháo binh. Các câu hỏi của Tướng Haig xoay quanh các vấn đề về danh tánh và sức mạnh của các lực lượng bạn, sức mạnh của địch quân, số thương vong của bạn lẫn thù. Sau khi dời khỏi khu vực này, trực thăng trực chỉ về Bộ Tư Lệnh Tỉnh Bình Dương, tại đó Tướng Haig gặp Trung Tá Fleigh, Cố Vấn Tỉnh. Tướng Haig cám ơn Ðại Tá Vỹ về một buổi chiều hết sức bổ ích và lý thú rồi cáo từ. 5. Tóm lược, tôi cảm nghĩ là buổi thuyết trình, các cuộc thảo luận và thăm viếng cho thấy cảm nghiệm chân thành đầy tự tin của Trung Ðoàn 8. Tôi tin chắc là Tướng Haig tiếp nhận được cảm tưởng này và ý thức rằng thái độ này được dựa vào sự xác tín của QLVNCH là sự tiếp tục yểm trợ tác chiến HK là điều cần thiết trong tương lai tới này. -------------------------------------------------------------------------------- Nguyễn Văn Tín Ngày 24/03/1999
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 13:07:06 GMT 9
Lê Minh Ðảo, một người lính còn muốn làm lính VNCH ở cả kiếp sau
Nguyễn Tuyển -------------------------------------------------------------------------------- Tôi gặp lại ông 24 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, sau nhiều chuyện biển dâụ Ðúng hơn, tôi gặp lại ông sau 24 năm và một tuần lễ. Ngày 21 tháng 4 năm 1975, sáng sớm hôm đó ông ngồi ôm ca cà phê bên bờ rừng cao su ở Long Khánh, tôi sà tới hỏi thăm tình hình chiến trường. Cả ngày hôm trước, tôi bám theo đơn vị trinh sát tỉnh Long Khánh đánh cận chiến lựu đạn với địch tại trung tâm thị xã. Trinh sát tỉnh Long Khánh là một đơn vị giỏi, dũng cảm, kiên nhẫn diệt từng chốt địch và họ đã làm chủ được tình hình. Tôi đã nhảy vào Long Khánh từ mấy ngày trước trong nhiệm vụ phóng viên của Ðài Phát Thanh Sài Gòn. Tướng Lê minh Ðảo ngồi đăm chiêu cùng với ca cà phệ Tôi không nhớ rõ những điều gì đã hỏi ông, nhưng tôi nhớ rằng ông rất bình tĩnh, lúc ra lệnh cho các đơn vị dưới quyền ứng phó với hoàn cảnh trước mặt, lúc quay lại trả lời một vài câu hỏi của tôị Ông hiểu những gì còn lại trong tay ông cũng như hoàn cảnh chung quanh và tôi không thấy ông nóng giận hay thoáng nét sợ hãi. Ông là tư lệnh mặt trận Long Khánh chận đường tiến về phía Nam của đại quân Bắc Việt với đủ cả tăng lẫn pháo. Trong tay ông, sư đoàn 18 tuy không hoàn toàn nguyên vẹn nhưng đủ lực và đủ tinh thần, một số đơn vị địa phương quân, nghĩa quân diện địa của tiểu khu Long Khánh, một số tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân. Ông lập phòng tuyến chận địch từ cao nguyên đi xuống cũng như từ miền Trung đổ vào. Khoảng 10 giờ sáng, một đoàn trực thăng Chinook đổ Lữ Ðoàn Dù vào tăng phái cho mặt trận để cự địch. Sau 4 ngày đêm lê lết ở chiến trường, tôi nhảy lên Chinook ra Long Bình tìm cách về Ðài thông báo tình hình. Những gì tôi ghi nhận được ở chiến trường không hữu ích cho một bản tin có tính cách thông tin tuyên truyền nên tôi đã không viết gì cả. Tuy nhiên, buổi chiều, người trung úy sĩ quan báo chí Dù (lâu ngày tôi quên mất tên) gọi điện thoại viễn liên về Ðài rủ tôi vào "làm ăn" vì Dù đang bao vây một tiểu đoàn địch và kêu gọi họ đầu hàng. Anh bạn muốn tôi làm phóng sự để nâng cao tinh thần mọi người. Buổi tối hôm đó, tướng Ðảo nhận được lệnh bỏ mặt trận rút quân. Ðoàn người tất tả băng rừng theo con tỉnh lộ chạy về Phước Tuy rồi vòng về Long Bình vì con đường Long Khánh-Biên Hòa đã bị chặn. Ðó là lần sau cùng tôi gặp thiếu tướng Lê minh Ðảo ở mặt trận. Gặp ông lại ở Quận Cam ngày 28-4-99 trong chuyến ông đi thăm chiến hữu cũ, ông kể rằng ông đem được đại đơn vị về đến căn cứ Long Bình. Ba trung đoàn 43,48 và 52 tuy có sứt mẻ sau nhiều ngày trận mạc nhưng tất cả đều cố gắng chu toàn nhiệm vụ và không có đơn vị nào bỏ chạy cho đến khi nghe lệnh đầu hàng thông báo qua làn sóng truyền thanh buổi sáng ngày 30-4-75. Khi về tới Long Bình, ông chia quân ra giữ các địa điểm trọng yếu kéo tới Trảng Bom bênh cạnh các đơn vị khác không thuộc trách nhiệm chỉ huy của ông. Buổi chiều ngày 29-4-75, ông mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3. Cựu thiếu tướng Ðảo kể rằng buổi chiều ngày này bi lắm. Ông họp tất cả Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn trong hầm hành quân đặt tại Long Bình. Theo kế hoạch, trung đoàn 43 giữ Trảng Bom, trung đoàn 52 giữ Tam Hiệp/Tân Mai, trung đoàn 48 cùng BCH Sư Ðoàn ở lại Long Bình trong đêm. Khoảng 8 giờ tối, ông nhận được điện thoại của TT Vĩnh Lộc (thay thế DDT Cao văn Viên trong chức vụ Tham Mưu Trưởng) khen "Sư đoàn của anh được lắm, Tổng Tham Mưu không còn ai, quân anh ra saọ.." Tướng Ðảo trình báo tình hình thì nhận được lịnh "Ðưa sư đoàn 18 trấn bên này sông Ðồng Nai (mé Sài Gòn), ráng giữ 3 ngày sẽ có giải pháp". (Lúc này Dương văn Minh đã lên làm Tổng Thống). Ông Ðảo nói ông có yêu cầu ông Vĩnh Lộc cho yểm trợ không quân để ông thêm khả năng chống cự lại các cuộc tấn công của địch nhưng điều này đã không được thực hiện. Theo lời cựu thiếu tướng Ðảo, ông cho đặt pháo binh ở Nghĩa Trang Quân Ðội để yểm trợ cho cả Biên Hòa và Long Bình trong khi đơn vị tiếp vận được chuyển về Biệt Khu Thủ Ðô vì ông đã nghĩ tới chuyện phải rút về miền Tâỵ Ông nói ta còn nguyên Quân Ðoàn 4 với các sư đoàn 7,9,21 cùng các đơn vị diện địa nghĩa quân, địa phương quân đánh giặc rất hay, không kể các lực lượng Hòa Hảo nếu võ trang cho họ để đánh du kích, người Cộng sản chưa chắc đã nuốt ngay được toàn thể miền Nam. Theo ông, QDD 4 có dự trữ đạn dược ít ra cầm cự được vài tháng để chờ đợi vận động quốc tế yểm trợ chứ chưa đến nỗi phải đầu hàng một cách nhục nhã như vậy. Buổi sáng ngày 30-4-75, khoảng 8 giờ sáng, trên đường chuyển quân, ông đã không thể cho giật sập cầu Biên Hòa cản bớt sức tiến quân và xe tăng của địch vì ông không không có chất nổ và cũng không biết có đơn vị nào trách nhiệm trong việc giật cầu. Ðúng ra đây là một việc phải làm trên rất nhiều đoạn đường trong kế hoạch trì hoãn chiến. Trên đường chuyển quân về đến Cầu Sơn, sáng ngày 30-4, ông được thuộc cấp theo dõi tin tức trên đài phát thanh nói có lệnh đầu hàng từ ông tân Tham Mưu Trưởng, chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, yêu cầu các đơn vị buông súng. Cựu thiếu tướng Ðảo nói rằng ông có cảm giác như thấy trời sập. Ông gọi các đơn vị trưởng không còn thấy ai lên máy. Họ cũng đang có cảm giác tương tự như ông, không ai còn thiết cầm máy lên trả lời. Nhiều người lính Sư Ðoàn 18 đã đập cho gãy súng rồi vất đị Một số người nhắm vào xe tăng địch bắn và bị bắn trả lại thiệt mạng. Tướng Ðảo còn chừng một trung đội đi theo ông. Ông khuyên mọi người ai về nhà nấy rồi tính. Ông về đến nhà má ông vào buổi chiều bên Gia Ðịnh. Sáng hôm sau, mùng 1 tháng 5, ông mặc thường phục đi miền Tây thì được biết các tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng đã tự sát, ông len lỏi ở một số tỉnh cho đến ngày 9 tháng 5 mới quay về Sài Gòn trình diện theo lệnh của chúng bắt đi tù cải tạo. Ông nói rằng có hai điều dằn vặt ông trong tù là tại sao ta thua và sao ông lại ở lại đánh cho đến ngày chót làm gì vì chẳng làm được gì cả. Ông nói, theo ông, chúng ta thua vì Mỹ cố tình bỏ rơi miền Nam Việt Nam vì Hoa Kỳ không thể ôm cùng một lúc hai mặt trận. Một ở Việt Nam và một ở Trung Ðông. Họ cần giữ Trung Ðông vì khu vực này gắn liền tới huyết mạch nhiên liệu dầu hỏa của họ cũng như các khu vực khác của thế giới. Chúng ta thua vì không đủ tiếp liệu để đương cự cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Ðạn dược thiếu, nhiên liệu thiếu. Vì nhất định muốn bỏ rơi miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã ép VNCH ký vào một bản hiệp định để yên cho quân CSBV ở lại miền Nam mà không có một điều kiện nào đả động đến. Ðây là dấu hiệu báo trước cho chuyện chẳng lành. Trong cuộc họp mặt với khoảng gần 100 cựu quân nhân các cấp của Sư Ðoàn 18 tại quận Cam buổi tối ngày 29-4-99 cùng với một ít quân nhân thuộc các binh chủng khác, vị cựu thiếu tướng Tư Lệnh sư đoàn này đã nói một câu làm cho tất cả mọi người hiện diện xúc động bùi ngùi :"Kiếp sau, tôi vẫn muốn được làm một người lính VNCH." Cựu thiếu tướng Lê minh Ðảo năm nay 66 tuổi trông còn tương đối mạnh khỏe. Ông tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt khóa 10, lên tướng năm 39 tuổi khi đang có những trận đánh long trời lở đất ở An Lộc mùa hè 1972.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 13:09:40 GMT 9
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của Tướng Trần Văn Hai Trịnh Văn Ngạn -------------------------------------------------------------------------------- Lời người viết: Trong khoảng thời gian 1975-1977, người viết ở chung D (tương đương cấp tiểu đội) với Trung Úy Huỳnh Văn Hoa, sĩ quan tùy viên của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kiêm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Ðồng Tâm. Trước đó, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai đã từng là Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân, và cũng từng làm Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trong thời gian đi cải tạo, anh Hoa đã kể cho người viết nghe những giờ phút cuối của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai. Ông đã chọn cho mình một cái chết anh hùng như một số tướng lãnh khác của QLVNCH: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, v.v..."Tôi" trong bài này chính là Trung Úy Hoa. Căn cứ Ðồng Tâm, một căn cứ quân sự quan trọng nằm ngay yết hầu từ cửa ngõ từ miền Tây về Sài Gòn. Mọi ngày nhộn nhịp xe cộ, kẻ ra người vào, hôm nay vắng lặng như tờ...Lúc bấy giờ là 14 giờ 30 ngày 30/4/75. Sau khi theo vị Tư Lệnh họp mặt với các sĩ quan thuộc quyền ông lần cuối tại câu lạc bộ sĩ quan sư đoàn, tôi trở về phòng riêng trong dãy cư xá sĩ quan độc thân để tìm xếp đồ dạc cá nhân và chờ lịnh. Mới cách đây hơn 2 tiếng đồng hồ thôi, sau khi nhận được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và chờ "phía bên kia" đến bàn giao, Chuẩn Tướng Tư lệnh đã triệu tập tất cả sĩ quan và ông đã ngỏ lời cám ơn cùng chào từ giã các sĩ quan thuộc cấp của mình, đồng thời ông ra lệnh cho tất cả mọi người trở về gia đình thu xếp cho vợ con, tránh đụng độ với quân địch, đổ máu vô ích. Ðúng 15 giờ, điện thoại Tư Lệnh gọi tôi lên văn phòng của ông. Sau lễ nghi chào kính như thườg lệ, tôi đứng nghiêm đợi lệnh. Khác với mọi ngày, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không ngước nhìn tôi, ông ngồi im như pho tượng gỗ, dường như ông đang suy tư một điều gì... Một lúc sau ông ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế tiếp khách, trước bàn làm việc của ông, Khi tôi đã an tọa, ông mới bắt đầu lên tiếng một cách từ tốn: "Anh cám ơn em đã ở bên cạnh anh trong iờ phút cuối cùng này. Vận nước đã đến hồi như vậy, không thể làm gì hơn được. Là quân nhân chúng ta phải tuyệt đối chấp hành lịnh thượng cấp." Sau đó ông hỏi thăm gia đình tôi. Cuối cùng, ông mở ngăn kéo bàn làm việc, lôi ra một gói đồ gói bằng giấy báo, ông đưa cho tôi và nói rằng: "Sáng sớm ngày mai, em có thể trở về gia đình. Anh nhờ em đưa gói đồ này cho mẹ anh và nói với bà rằng, đây là quà của anh gởi cho bà, và bảo bà đừng lo lắng gì cho anh cả. Bây giờ em có thể về doanh trại thu xếp đồ đạc, từ giờ đến tối lúc nào cần tôi sẽ gọi." (Sau này tôi được biết trong gói quà ấy có 70,000 đồng cũng như có một số vật dụng cá nhân hàng ngày của Chuẩn Tướng Tư Lệnh). Ðứng dậy chào vị Tư Lệnh trở về doanh trại, lòng tôi bất ổn. Tôi linh cảm như sắp có điều gì ghê gớm xảy ra cho ông. Chờ mãi đến hơn 6 giờ chiều, không thấy điện thoại Tư Lệnh gọi, lòng tôi hết sức bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cuối cùng, tôi quyết định chạy bộ lên văn phòng Tư Lệnh... Căn cứ Ðồng Tâm rộng lớn chìm trong hoang vắng. càng đến gần văn phòng Tư Lệnh tôi càng hồi hộp. và rồi tôi cũng đến nơi. Ðèn đuốc trong văn phòng vẫn sáng như mọi ngày, nhưng một bầu không khí lạnh lẽo bao trùm. Tôi rón rén bước lại cửa văn phòng, nghe ngóng động tĩnh... Vẫn hoàn toàn yên lặng! Sau cùng, tôi liều đẩy mạnh cách cửa phòng làm việc của Tư Lệnh bước vào, một khung cảnh hiện ra trước mắt làm tôi hết sức ngỡ ngàng... Chuẩn Tướng Tư Lệnh ngồi gục đầu mê man trên bàn làm việc. Một ly rượu lớn đã cạn còn ở trên bàn. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi cấp tốc liên lạc với Tiểu Ðoàn Quân Y và bệnh xá Sư Ðoàn. Lúc ấy còn một vị Thiếu Tá bác sĩ ở bệnh xá. Tôi liền trình bày nhanh qua điện thoại tình trạng của Chuẩn Tướng Tư Lệnh. Chờ một lúc sau, ông Thiếu Tá bác sĩ lái chiếc xe jeep cứu thương đến văn phòng Tư Lệnh. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng Tư Lệnh nằm trên băng ca và chờ ông xuống bệnh xá Sư Ðoàn ngay. Lúc này ông đã mê man bất tỉnh. Tại bệnh xá, sau một hồi tận lực cứu cấp, vị thiếu tá bác sĩ buồn rầu báo cho tôi biết, vì thuốc độc đã ngấm vào máu khá lâu, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không qua được cơn nguy kịch... Chúng tôi lặng lẽ lau mặt cho ông, đặt ông nằm ngay ngắn trên băng ca và đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh đáng kính lần cuối. Sau khi lấy chăn đậy thi hài ông lại, tôi trở về doanh trại thu xếp đồ đạc, và quyết định khuya nay sẽ về Sài Gòn báo tin cho gia đình ông biết... Khi về đến Sài Gòn, tôi được biết gia đình Tư Lệnh gồm vọ, con và mẹ đã chạy vào lánh nạn ở nhà thương Grall. Sau khi gặp được gia đình ông trong nhà thương, gia đình ông quyết định bằng mọi cách phải mang xác ông về Sài Gòn. Sáng sớm hôm 01/05/75, mẹ ông và tôi, một già một trẻ, bao nguyên chiếc xe lambretta hoại ba bánh xuống căn cứ Ðồng Tâm. Chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sáng. Khác với hôm qua, hôm nay căn cứ tràn ngập người ra vào. Kẻ tìm con, người tìm chồng, kẻ đi hôi của v.v... Xe Honda chạy loạn xạ trong căn cứ. Khi xe lam của chúng tôi chạy đến cổng thì gặp một bộ đội cộng sản địa phương chận lại. Như đã sắp đặt trước, mẹ của Tư Lệnh xuống xe mếu máo: "Con ơi, má có thằng con bị bắt đi quân dịch, nghe nói đâu nó chết hôm qua, cho má vào nhận xác nó đi con! Tội nghiệp má quá, hòa bình rồi con ai cũng về nhà, riêng con má, không về nữạ..." Nói xong, không đợi cho tên bộ đội trả lời, bà giục tôi lên xe và hối tài xế xe lam chạy lẹ vào căn cứ. Tên bộ đội trẻ cứ đứng há hốc miệng ra nhìn, chẳng hiểu ra sao cả...Tôi hướng dẫn tài xế xuống bệnh xá sư đoàn. Sau đó cùng khiêng thi hài Tư Lệnh lên xe, và đưa về Sài Gòn. Về đến nhà thương Grall thì trời đã tối hẳn. Người ta xầm xì báo cho nhau biết chiều nay, ở đây, vừa cử hành đám tang Tướng Phạm Văn Phú. Phần tôi lúc này quá mệt mỏi, đầu óc vô cùng căng thẳng, không biết vợ con hiện giờ ở đâu... Sau khi tẩm liệm xác Tư Lệnh xong, tôi đứng yên lặng nhìn ông lần cuối, không dám chào theo nghi thức quân đội vì sợ Tư Lệnh bị lộ tung tích, gia đình ông sẽ gặp nhiều phiền toái. Cuối cùng, tôi cũng phải từ giã vị Tư Lệnh đáng kính với hai hàng nước mắt đầm đề về tìm vợ con... Tôi cũng xin nhắc lại một chi tiết đáng lưu ý, trước ngày 30/04/75 một tuần lễ, TT Nguyễn Văn Thiệu có phái một chiếc trực thăng xuống căn cứ Ðồng Tâm đón Chuẩn Tướng Tư Lệnh về Sài Còn, nhưng ông đã từ chối. Ông chỉ cho vợ con về Sài Gòn, và sau cùng ông đã chọn một cái chết anh hùng như tôi đã kể cho anh nghe... -------------------------------------------------------------------------------- Trịnh Văn Ngạn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2011 6:07:01 GMT 9
Gương liêm khiết Vietsciences- Nguyễn An Vinh Hiếm thay đức thanh liêm, thanh khiết, nhân hậu, độ lượng và cương trực !Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp. Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẵng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình. Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Nguyễn Văn Long **, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai: Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước. Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại. Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “…tính của Long là vậy, tôi biết Chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn. Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết. Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long: “…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng là siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình… …Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn…. … Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức. … Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai. …Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…” Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “…Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…” Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết. Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói: “…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận:…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình…” Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức. Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long. Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ. Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đổ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay. Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn. Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Dây điện và dây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố. Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn. Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít. Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát: Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn. Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động. Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân. Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục. Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi. Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngả. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long: Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào. Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn. Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẫm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng. * * * Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước. Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử Chu thich: * Cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng
** Ông sinh năm 1919 tại Gia Hội, Huế
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:44:51 GMT 9
Nguyễn Thái Học "Chết vì tổ quốc, chết vinh quang" Lê Ngọc Trác Mourir pour sa patrie C'est le sort le plus beau Le plus digne... d'en vie... (Chết vì tổ quốc Chết vinh quang Lòng ta sung sướng Trí ta nhẹ nhàng...) Bốn câu thơ bằng tiếng Pháp trên là của Nguyễn Thái Học đọc tại pháp trường trước khi bị Pháp xử chém vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Nội dung bài thơ nói lên lòng tự hào được vinh dự làm người cống hiến, hy sinh cho đất nước và dân tộc, thể hiện thần thái của người tử tù hiên ngang đón nhận cái chết trước mặt kẻ thù. Nguyễn Thái Học sinh năm 1901 tại làng Phổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là tỉnh Vĩnh Phúc). Lúc còn trẻ, Nguyễn Thái Học theo học trường cao đẳng sư phạm và cao đẳng thương mại Đông Dương ở Hà Nội. Nguyễn Thái Học là một trong những người thành lập đảng Quốc Dân Đảng Việt Nam. Trong những năm 20 của thế kỷ 20, trên đất nước ta đã xuất hiện nhiều tổ chức chính trị với mục tiêu là chống Pháp, giải phóng dân tộc. Việt Nam Quốc Dân Đảng là một trong những tổ chức chính trị tiêu biểu theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tiền thân của đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng là nhóm Nam Đồng Thư xã do Phạm Tuấn Tài thành lập tại Hà Nội. Nam Đồng Thư xã là cơ quan xuất bản những sách báo yêu nước thời bấy giờ, nhằm khích lệ tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc trong nhân dân. Đây cũng là nơi gặp gỡ của lớp thanh niên trí thức yêu nước có tinh thần chống Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 25 tháng 12 năm 1927 thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng và Nguyễn Thái Học được cử làm đảng trưởng. Khi mới thành lập, Việt Nam Quốc Dân Đảng chưa đề ra được một đường lối chính trị rõ ràng. Trong hơn 3 năm thành lập, đảng này đã thay đổi nhiều lần chính cương và điều lệ. Khi mới thành lập, đảng đề ra mục đích: "Trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới". Đến tháng 7 năm 1928, Quốc Dân Đảng xác định tôn chỉ là: "Chủ nghĩa xã hội dân chủ". Đến năm 1929, thay bằng ba nguyên tắc tư tưởng giống như cuộc cách mạng tư sản Pháp: "Tự do, bình đẳng, bác ái". Đến năm 1930, lại mô phỏng theo cương lĩnh của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, lấy chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên làm cương lĩnh mục đích chính trị. Thành phần tham gia chủ yếu của Việt Nam Quốc Dân Đảng là trí thức, viên chức, học sinh, thân hào nhân sĩ và binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Sau một thời gian tổ chức bí mật, đến đầu năm 1929, Quốc Dân Đảng đề ra chủ trương ám sát, khủng bố để kích động phong trào cách mạng. Sau khi Bazin - một trùm mộ phu người Pháp bị ám sát, thực dân Pháp tập trung triển khai kế hoạch khủng bố, bắt cầm tù những người yêu nước. Hàng loạt đảng viên và quần chúng có cảm tình với đảng bị bắt. Nhiều cơ sở tổ chức của đảng hầu như bị phá vỡ. Việt Nam Quốc Dân Đảng đang bị Pháp truy lùng ráo riết. Trước tình thế nguy cấp, ngày 17 tháng 09 năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng mở hội nghị tại Lạc Đạo (Hải Dương) vội vàng chủ trương khởi nghĩa vào ngày 10 tháng 02 năm 1930 bằng cách tấn công vào các trại lính và cơ sở quân sự của Pháp ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An... Nhưng do Pháp kiểm soát gắt gao, thời điểm khởi nghĩa của các địa phương không thể nổ ra cùng một lúc. Nguyễn Khắc Nhu chỉ đạo khởi nghĩa ở Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái... Nguyễn Thái Học chỉ đạo khởi nghĩa ở Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An. Đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930, khởi nghĩa tại Yên Bái. Nhưng đến sáng ngày 10 tháng 02 năm 1930, Pháp tập trung lực lượng phản công. Cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa ở các địa phương khác cũng bị thất bại nặng nề. Ngày 20 tháng 02 năm 1930, Nguyễn Thái Học và nhiều đồng chí của ông bị Pháp bắt tại làng Cổ Vịt, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Khi Nguyễn Thái Học bị bắt, tổng đốc Hoàng Trọng Phu (con của Hoàng Cao Khải), tay sai khét tiếng của Pháp đã mỉa mai hỏi Nguyễn Thái Học: "Sao lúc ở Cổ Vịt, thầy sẵn khí giới trong tay, thầy không giết bọn tuần phiên mà lại chịu bị bắt?". Nguyễn Thái Học đã thẳng thắn trả lời tên tay sai của thực dân Pháp: "Khí giới trong tay tôi là để giết bọn tham quan ô lại, bán nước hại dân, nỡ nào tôi lại giết những người vô tội?". Trước sự thất bại cay đắng của cuộc khởi nghĩa, nhiều nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Quốc Dân đảng bị giặc bắt, chuẩn bị nhận bản án tử hình, Nguyễn Thái Học vẫn bình thản phát biểu thể hiện chí hướng của mình: "Không thành công thì cũng thành nhân". Ngày 17 tháng 06 năm 1930, mười ba yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân Đảng gồm: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Bùi Tư Toàn, Đào Văn Nhật, Nguyễn Văn Tiềm, Hà Văn Lao, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn Cửu, Nguyễn Như Liên, Ngô Văn Du và Đỗ Văn Tú đều bị Pháp xử chém tại Yên Bái. Nguyễn Thái Học là người bị xử chém cuối cùng. Khi nói đến nhân vật lịch sử Nguyễn Thái Học, người đời thường nhắc đến Nguyễn Thị Giang, người đồng chí và vị hôn thê của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Thị Giang – người đời thường gọi là Cô Giang, bà sinh vào khoảng năm 1903 (?), quê tại Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Nguyễn Thị Giang là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc chi bộ Bắc Giang. Cô Giang còn có hai người em là Nguyễn Thị Bắc (Cô Bắc) và Nguyễn Tĩnh đều tham gia Quốc Dân đảng. Năm 1929, cô gặp Nguyễn Thái Học rồi hai người yêu nhau, trở thành người thân tín của Nguyễn Thái Học. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông bị Pháp giết tại Yên Bái. Cô Giang đã đến tận pháp trường để chứng kiến cái chết anh dũng của hôn phu và các đồng chí của mình. Ngay sau khi Nguyễn Thái Học lên máy chém, Cô Giang về nhà trọ, viết hai bức thư gởi cho song thân và gởi cho hương hồn Nguyễn Thái Học. Bức thư gởi hương hồn Nguyễn Thái Học, Cô Giang viết: "Anh đã là người yêu nước, không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước. Anh giữ lấy linh hồn cao cả để về dưới suối vàng chiêu binh rèn súng đánh đuổi quân thù... Phải chịu đựng nhục nhã mới mong có ngày vẻ vang. Các bạn đồng chí còn sống phải phấn đấu thay anh để đánh đổ cường quyền mà cứu đồng bào đau khổ...". Khởi nghĩa thất bại. Trước nguy cơ tan rã, phân hóa trong nội bộ đảng, cộng với nỗi đau mất người yêu, người đồng chí thân thương, Nguyễn Thị Giang chỉ muốn tìm đến cái chết thể hiện tấm lòng chung thủy của mình đối với Nguyễn Thái Học, Cô Giang trở về làng Đông Vệ, một làng nằm giáp làng Thổ Tang, quê hương của Nguyễn Thái Học, dùng súng lục tự tử. Trước khi chết, Cô Giang để lại bài thơ tuyệt mệnh: Thân không giúp ích cho đời Thù không trả được cho người tình chung Dẫu rằng đương độ trẻ trung Quyết vì dân chúng thề lòng hi sinh Con đường tiến bộ mênh mông Éo le hoàn cảnh buộc mình biết bao? Bây giờ hết kiếp thơ đào, Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây Dẫu rằng chút phận thơ ngây, Số đồng chí đã có ngày ghi tên Chết đi dạ những buồn phiền, Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình Quốc kì phấp phới trên thành Tủi thân không được chết vinh dưới cờ Cực lòng lỡ bước sa cơ Chết sầu, chết thảm, có thừa xót xa Thế ru? Đời thế ru mà? Đời mà ai biết, người mà ai hay... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc Dân đảng tổ chức. Sự kiện lịch sử này trở thành bài học kinh nghiệm quý giá cho các tổ chức chính trị trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm sau này. Cuộc khởi nghĩa chống Pháp do Việt Nam Quốc Dân đảng thực hiện vào năm 1930 thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc ta. Sự hy sinh to lớn và dũng cảm của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Giang cùng mười hai yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân đảng trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái là tấm gương sáng về lòng yêu nước, sống mãi cùng lịch sử đất nước và dân tộc ta./. Tài liệu tham khảo & trích dẫn: - Tân Việt Cách Mạng đảng của Nhượng Tống (1945) - Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2006) - Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam – Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1999) Lê Ngọc Trác
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:52:15 GMT 9
Hoàng Diệu : Ngàn năm sáng ngời chính khí Lê Ngọc Trác Kể từ năm 1867, cả miền Nam nước Việt đã hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1873, Pháp đưa quân đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ Nguyễn Tri Phương thất trận phải tuẫn tiết. Ấy vậy mà triều đình nhà Nguyễn vẫn chưa đề ra được một sách lược nào khả dĩ để bảo vệ đất nước. Vua Tự Đức lúng túng, bất lực trước sự sống còn của đất nước và dân tộc. Nội bộ triều đình phân hóa sâu sắc, chia ra nhiều phái: Phái chủ hòa gồm những nhân vật chính yếu như: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Lâm Duy Hiệp, Trương Quốc Dụng... ; Phái "bão hòa làm tay sai cho Pháp" gồm Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương... Phái chủ chiến đánh Pháp đến cùng gồm các quan đại thần: Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, Hoàng Diệu... Thời điểm này trong hàng quan lại của triều đình và sĩ phu trong nước đã rộ lên phong trào mang tư tưởng canh tân đất nước. Vào thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản Pháp đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, cần mở rộng thuộc địa, thông qua chiến thuật, chiến lược chiếm đóng, cai trị. Chính phủ Pháp quyết tâm xâm chiếm cả Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp đã lợi dụng tình hình chia rẽ trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn, chủ trương dùng vũ lực tiến đánh thành Hà Nội một lần nữa. Năm 1880, vua Tự Đức bổ nhiệm Hoàng Diệu làm Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình. Hoàng Diệu còn có tên là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu là Tĩnh Trai. Ông sinh vào ngày 10 tháng 2 năm 1829 tại làng Xuân Đài, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 1848, Hoàng Diệu đỗ cử nhân, năm 1853 đỗ Phó bảng. Ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước, , rồi được thăng chức Tri phủ huyện Tuy Viễn,tỉnh Bình Dịnh . Năm 1877, Hoàng Diệu được cử làm Tham tri Bộ Hình, Tham tri Bộ Lại, coi Viện Đô sát và được tham dự vào công việc Cơ mật viện. Ông cũng là người được triều đình cử giữ chức Phó toàn quyền đại thần để hiệp thương với sứ bộ Tây Ban Nha. Hoàng Diệu là người nổi tiếng công minh, thanh liêm và văn võ song toàn. Khi nhận chức Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình, Hoàng Diệu đã thấy rõ vị thế trọng yếu của thành Hà Nội. Ông tự nêu trong sớ tâu lên Tự Đức: "Thành Hà Nội như cuống họng của cả Bắc kỳ. Nếu một ngày tan tành như đất lở, thì các tỉnh miền Bắc lần lượt mất như ngói bung". Dự đoán thế nào Pháp cũng đánh thành Hà Nội, ngay khi trấn nhậm Hà Nội, Hoàng Diệu khẩn trương bắt tay vào việc đào hào, đắp lũy, tổ chức phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu. Ngày 26/03/1882, Đại tá Henry Rivière chỉ huy hơn 600 lính Pháp và 3 pháo hạm tiến quân theo đường sông Hồng để tiến đánh Hà Nội. 5 giờ sáng ngày 25/04/1882, Henry Rivière gởi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi phải triệt thoái quân đội, buộc quan quân phải tới dinh của hắn để trình diện. Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, phẫn uất trước thái độ ngang ngược của Pháp, ông liền phân công Án sát Tôn Thất Bá đi gặp quân Pháp để điều đình. Nhưng, đến 8 giờ 15 phút, Henry Rivière tấn công thành Hà Nội. Trước hỏa lực của quân cướp nước, Hoàng Diệu quyết liệt đối phó, ông chỉ huy quân sĩ chống cự ở phía Bắc. Trong khi ấy, Án sát Tôn Thất Bá chạy trốn và theo giặc Pháp. Khi đánh nhau, kho thuốc súng trong thành Hà Nội nổ. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh bỏ thành chạy. Thành vỡ. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung thảo tờ di biểu gởi vua Tự Đức rồi đến trước võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử. Trong di biểu gởi vua Tự Đức và triều đình, Hoàng Diệu đã viết: "Tôi học lực thô sơ, trách nhiệm quá lớn, được ủy thác giữ cả một phương diện, trong khi ba cõi chưa yên. Một gã thư sinh vốn chưa quen việc chính trị, mười năm hòa ước, tin sao được lòng kẻ thù. Tôi từ khi vâng mệnh ra đây đã được ba năm, thường huấn luyện quân sĩ, sửa sang thành trì, không những chỉ để củng cố đất ta, mà còn để ngăn chặn loài lang sói nữa. Dè đâu chim còn đang ràng tổ, thú đã vội thay lòng, ngày tháng hai năm nay bỗng thấy tàu Tây tu tập, đồn quân thêm nhiều, quân nó từ xa đến, lòng dân ta xôn xao. Tôi thiết nghĩ Hà Nội là cổ họng của miền Bắc, mà là đất trọng yếu của nước nhà, nếu một khi mà đổ sụp thì các tỉnh khác cũng tan rã theo, vì thế tôi lấy làm lo sợ, một mặt kíp tư cho các hạt lân cận, một mặt báo tin lên triều đình, xin cho thêm quân để kịp đối phó. Không ngờ mấy lần có chiếu xuống: Hoặc trách tôi là nắm binh quyền mà lòe nạt, hoặc kết tội tôi là xử lý chưa được thích nghi; cúi đọc lời phán truyền, thực nghiêm khắc hơn rìu búa! Kẻ dưới quyền thất vọng, khôn tính bước tiến lui. Vẫn biết rằng chuyên chế kém tài, đâu dám cậy cái nghĩa bậc đại phu ra giữ bờ cõi, chỉ nơm nớp tự mình nhắc nhở, phải kính theo tấm lòng thờ vua của người xưa. Hằng ngày bàn bạc với đôi ba người chức việc, có người bàn nên mở cổng cho chúng tự do ra vào; có người bàn nên rút hết quân đi, để chúng khỏi ngờ vực. Những kế đó dù tôi có phải nát thịt tan xương, cũng không bao giờ nỡ làm. Việc điều động chưa xong thì chúng liền giở mặt. Ngày mồng 7 tháng này, chúng hạ chiến thư, ngày hôm sau là chúng tiến đánh, quân chúng đông như kiến tụ, súng chúng gầm như sấm vang; ngoài phố lửa cháy tràn lan, trong thành ai nấy táng đởm, tôi vẫn gượng bệnh đốc chiến, đi trước quân lính, bắn chết được hơn trăm tên, giữ thành được nửa ngày. Vì chúng nó sung sức mà quân ta kiệt hơi rồi, lại thêm tuyệt đường cứu viện, thế lâm đường cùng, quan võ thị sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe gió cũng chạy theo nốt! Lòng tôi đau như cắt, một tay không thể duy trì. Đã không tài làm tướng, than thân sống cũng bằng thừa; thành mất cứu không xong, biết chắc chết không hết tội! Rút lui để tính toán về sau ư? Mưu trí đã thua Tào Mạt, cắt cổ để cho tắc trách, hành vi đành bắt chước Trương Tuần! Dám rằng trung nghĩa gì đâu, chẳng qua sự thế phải thế! Trung nguyên mà đắm chìm thành đất giặc, sống càng sạn mặt với nhân sĩ kinh kỳ, cô trung quyết sống thác với thành Rồng (Thăng Long thành) thì xin theo bậc tiên thần họ Nguyễn (Nguyễn Tri Phương) dưới chín suối! Mấy dòng lệ máu, muôn dặm cửa trời, chỉ mong rực rỡ đôi vầng, xét soi thấu tấc son là đủ! (Bản dịch của Hoàng Tạo)" Qua nội dung di biểu gởi vua Tự Đức. Và, cũng là lời tâm huyết cuối cùng của một người hết lòng vì nước, càng thấy rõ Hoàng Diệu là một con người cương trực, một lòng trung với vua, với nước. Hoàng Diệu đã phải đơn độc đấu tranh với những kẻ cơ hội đầu hàng. Ông một lòng quyết tâm đánh Pháp đến cùng để bảo vệ giang sơn. Càng thấy rõ triều đình và vua Tự Đức thiếu sáng suốt, không nhận rõ ai là trung thần, ai là nịnh thần sẵn sàng chạy theo làm tay sai cho Pháp. Hoàng Diệu là trung thần đơn độc giữa bối cảnh lịch sử rối ren thời bấy giờ. Thương tiếc và cảm kích trước sự hy sinh đầy bi tráng của Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội góp tiền mua áo quan, làm lễ mai táng Hoàng Diệu ở vườn Đốc học. 3 năm sau, gia đình ông ở Quảng Nam mới đưa hài cốt của ông về cải táng tại quê nhà. Trước sự hy sinh của Hoàng Diệu, một con người trung quân ái quốc, nhân sĩ Hà thành đã viết: "Hà thành chính khí ca" và "Hà thành thất thủ ca" ca ngợi Hoàng Diệu và lên án những kẻ tham sống sợ chết, đầu hàng làm tay sai cho giặc. Sĩ tử đất Hà thành đã làm thơ khóc Hoàng Diệu: Cô thành độc thủ chích thân đan Khảng khái như công, thế sở nan Cựu lục thiên thu truyền tiết liệt Cô thần nhất tử kiến trung can Thâu sinh thử nhật tâm do quí Nghịch tặc đương niên cốt dĩ hàn Thiên tải Nùng sơn tiêu chính khí Anh hùng đáo xứ lệ tương can. (Cô thành chống giữ một mình thôi Khảng khái như ông được mấy người Sách cũ nghìn năm gương tiết rọi Cô thần một chết tấm trung phơi Sống thừa ngày nọ tâm còn thẹn Giặc nghịch năm nao sợ rụng rời Nghìn thuở núi Nùng nêu chính khí Anh hùng đến đấy, lệ tuôn rơi). (Bản dịch của CHU THIÊN) Nghe tin Tổng đốc Hoàng Diệu mất, danh sĩ Nguyễn Cao – người từng thi đỗ giải nguyên khoa thi năm 1867 đã viết bài thơ khóc Hoàng Diệu với nỗi đau của tấm lòng một người tri kỷ: Đế giản Long biên Hoàng chế đài Hốt văn âm tín động bi ai Thành tri nan thủ ninh chung nhật Tặc bất câu sinh thệ cửu hồi Chính khí khẳng dung Dương thủy mỗi Hùng tâm ưng đái Hải vân lai Hồi đầu trấp lục niên tiền sự Tương đối luân tâm, hàn tửu bôi. (Trấn giữ Long biên vua chọn dùng Tin đâu ngao ngán tiếc Hoàng công Biết thành giữ khó còn qua buổi Với giặc thề không chịu sống chung Nước rợ khôn nhơ vầng chính khí Đèo Mây đưa lại chí anh hùng Việc hai mươi sáu năm về trước Chén rượu đồng tâm bỏ lạnh lùng). (Bản dịch của HOÀNG TẠO) Hoàng Diệu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, một người có chính khí cao, sống mãi cùng đất nước./. Tài liệu tham khảo và trích dẫn: - Thơ văn yêu nước thế kỷ XIX. (NXB Văn học, 1970) - Tiến trình lịch sử Việt Nam (Ngô Quang Ngọc chủ biên, 2006) - Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế, 1999) - Việt Nam lược sử (Trần Trọng Kim, 1999) Lê Ngọc Trác
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:53:54 GMT 9
Trương Định - Thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống Pháp Lê Ngọc Trác Từ năm Tự Đức thứ 11 trở đi, đất nước đi vào khúc quanh lịch sử. Pháp bắt đầu đưa quân xâm chiếm đất nước ta: Tấn công Đà Nẵng (1858), chiếm Gia Định (1859), chiếm Định Tường (1861), Biên Hoà và Vĩnh Long (1862). Một bộ phận đất đai của nước Việt Nam thân yêu lần lượt rơi vào tay thưc dân Pháp. Nhân dân khổ cực, lòng người ly tán. Nội bộ triều đình Tự Đức phân hoá. Đất nước trên bờ vực thẳm. Ấy thế mà Tự Đức và triều thần lại nhu nhược, không đề ra được một quyết sách nào khả dĩ để chống lại hiểm hoại xâm lăng của Pháp, nhằm bảo vệ đất nước. Khiếp sợ trước lực lượng hùng mạnh, vũ khí tối tân của Pháp, vua Tự Đức đã lệnh cho Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định ký hoà ước với thiếu tướng Hải quân Pháp Bonard đại diện cho Chính phủ Pháp vào ngày 09/5/1862. Hoà ước này được gọi là hoà ước Nhâm Tuất. Thực chất nội dung của bản hoà ước Nhâm Tuất là một văn bản triều đình Tự Đức đầu hàng, mở đường cho thực dân Pháp xâm chiếm đất nước ta. Thời điểm này, ngọn cờ chống Pháp đã chuyển hẳn sang nhân dân, mà đứng đầu là các nhóm nghĩa quân dưới sự chủ xướng và lãnh đạo của Đỗ Đình Thoại, Phủ Cậu, Thiên Hộ Dương, Quảng Tu, Nguyễn Trung Trực và Trương Định. Lực lượng nghĩa quân chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Trương Định là đông hơn cả, có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào chống xâm lăng, gây cho địch nhiều tổn thất. Giáo sư Trần Văn Giàu, trong tác phẩm “Chống xâm lăng” đã viết: “Trương Định thật sự là một vị anh hùng xuất chúng, xuất chúng nhất nhì trong cuộc Nam Kỳ kháng chiến”. Trương Định còn có tên là Trương Công Định. Ông sinh năm 1820 tại làng Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Trương Định sống ở quê hương Quảng Ngãi, mãi đến năm 24 tuổi mới theo cha là Trương Cầm, người giữa chức Chưởng lý Thủy sư vào Gia Định. Tại đây, Trương Định lập gia đình với bà Lê Thị Thưởng con gái của một nhà hào phú ở Tân An, Định Tường. Sau khi lập gia đình,ông ở luôn tại quê vợ. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của triều đình, Trương Định đứng ra chiêu mộ khoảng 500 dân nghèo khai hoang lập ấp. Với công lao ấy, ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên người đương thời thường gọi ông là Quản Định. Năm 1859, khi Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, Trương Định đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để ngăn chặn. Trong quá trình lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, Trương Định đã đánh thắng giặc Pháp ở mặt trận Thị Nghè, Cây mai… Năm 1860, dưới quyền của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương Định tham gia giữ đồn Kỳ Hoà, được triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Định đã tổ chức nhiều trận phục kích địch ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho Pháp bị tổn thất lực lượng rất nhiều. Sau khi ký hoà ước Nhâm Tuất, triều đình Huế cắt 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ giao cho Pháp. Triều đình vừa phong ông chức Lãnh binh, vừa buộc ông phải chuyển đi nhậm chức ở An Giang và giải tán nghĩa quân chống Pháp. Trước sự nhu nhược của Tự Đức, Trương Định cương quyết chống lại lệnh của triều đình, ở lại Gò Công, Mỹ Tho tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân và cùng nhân dân chống Pháp. Nghĩa quân và nhân dân tôn Trương Định làm Bình Tây đại Nguyên soái. Ông là người thương dân chân thành và yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, quyết tâm chống giặc Pháp xâm lược đến cùng. Trương Định từng tuyên bố: “Chúng tôi sẽ lấy lau làm cờ, chặt tầm vông làm vũ khí. Dứt khoát không bao giờ ngừng chống bọn giặc cướp nước”. Trong tuyên ngôn công bố với triều đình và nhân dân, Trương Định nêu rõ: “Từ năm thứ 12 của triều vua Tự Đức (1858), bọn man di tây phương đã xâm nhập xứ này. Chúng tiếp tục gây hấn, lần lượt chiếm ba tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hoà. Dân ba tỉnh này đã nếm qua mọi tai ương. Sau đó, một hoà ước đã ký kết với Nguyễn triều chỉ gây thêm lòng phẩn nộ và niềm thất vọng của nhân dân ba tỉnh. Nhân dân ba tỉnh này thiết tha muốn khôi phục địa vị cũ bèn tôn chúng tôi làm lãnh tụ. Vậy chúng tôi không thể dừng làm điều chúng tôi đang làm. Cho nên chúng tôi sẵn sàng chiến đấu ở miền Đông cũng như miền Tây. Chúng tôi sẽ đề kháng, chúng tôi sẽ xông pha và sẽ phá tan lực lượng quân địch…Dân chúng đã đã nói: Chúng ta chết chứ không chịu làm tôi tớ cho giặc…” Nội dung bản tuyên ngôn thể hiện lập trường và quyết tâm chống Pháp, bảo vệ đất nước của người thủ lĩnh nghĩa quân và của nhân dân Việt Nam. Lúc này, lực lượng nghĩa quân của Trương Định lên đến gần 6.000 người. Ông được những người chủ chiến ở triều đình, cũng như các nhân sĩ và nhân dân ủng hộ. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị, cùng nhiều danh sĩ ở Nam kỳ nhiệt tình ủng hộ Trương Định trong công cuộc chống Pháp. Trương Định đã liên kết được với các lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Đỗ Đình Thoại…cùng phối hợp tổ chức các trận đánh Pháp. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Chợ Lớn, Gia Định, từ biển đông đến biên giới Campuchia. Trong tác phẩm Suvernir de l’expédition de Cochinchine 1861 – 1862, xuất bản tại Paris năm 1865 đã viết về lực lượng chiến đấu của Trương Định như sau: “Họ đánh theo kiểu du kích, làm chủ nông thôn. Khi cần tiêu diệt một cứ điểm nào thì họ tập trung lại. Khi tấn công cũng như khi rút lui, họ biết lợi dụng vô số những chướng ngại vật tự nhiên của xứ họ. Một xứ có nhiều sông rạch, rừng bụi, đồng lúa, đầm lầy. Họ kín đáo lánh mình, thình lình xuất hiện, nổ súng tấn công…Làm cho đối phương luôn luôn ở trong thế đề phòng, mệt mỏi, kiệt sức, cuối cùng phải bỏ cuộc chịu thua…” . Từ căn cứ kháng chiến, nghiã quân của Trương Định liên tục tấn công các đồn, bốt của Pháp. Lúc này, quân Pháp một mặt huy động lực lượng hùng hậu bao vây căn cứ Gò Công, một mặt dụ hàng Trương Định. Nhưng, ông vẫn một lòng chống Pháp đến cùng. Ngày 26/02/1863, Pháp mở đợt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Trương Định buộc phải rút quân về Biên Hoà lập căn cứ ở Lý Nhơn và đưa một bộ phận nghĩa quân về Thủ Dầu Một – Tây Ninh để tiếp tục chiến đấu. Cuối năm 1864, trong một trận chiến tại căn cứ Tân Hoà, ông rơi vào vòng vây của quân Pháp. Do sự phản bội của Huỳnh Tấn, tên này trước kia từng theo ông chống Pháp đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến về làm tay sai cho Pháp. Trương Định và lực lượng nghĩa quân quyết tử chiến với giặc. Trong lúc chiến đấu, không may ông bị đạn bắn gãy xương sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định rút gươm tự sát vào ngày 20/8/1864, để bảo tồn khí tiết khi tuổi đời mới 44 tuổi. Cái chết của Trương Định là tổn thất lớn đối với phong trào kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ. Thương tiếc người anh hùng dân tộc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và 01 bài văn tế khóc người anh hùng: “Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân Đất Gò Công cây cỏ ủ ê Cảm niềm thần tử, hết lòng trung ái Xưa còn làm tướng, giốc rạng ngời hai chữ Bình Tây Nay thác theo thần, xin dựng hộ một câu phúc thán….” Cuộc khởi nghĩa chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược của Trương Định chỉ trong thời gian ngắn từ năm 1859 đến 1864 đã trở thành điểm son ngời sáng trong lịch sử dựng nước , giữ nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta. Và, Trương Định đã trở thành người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp xâm lược. Từ ngày Trương Định hy sinh vì đất nước đến nay đã tròn 145 năm (1864 – 2009), qua các thời kỳ, có nhiều tác phẩm lịch sử, văn học, báo chí, sân khấu…nói về cuộc khởi nghĩa và vai trò lịch sử của ông - Người anh hùng dân tộc. Cùng với các tác giả là người Việt Nam, còn có rất nhiều tác giả là người Pháp viết về cuộc khởi nghĩa của Trương Định với tất cả lòng khâm phục. Ngay cả Vial - một quan cai trị cao cấp của Pháp thời ấy đã gọi Trương Định là Nhà đại lãnh tụ của quân khởi nghĩa. Đối với nhân dân, đặc biệt là nhân dân Gò Công và miền Nam xem Trương Định là người anh hùng dân tộc. Và, là vị thần bảo hộ cuộc sống của mình. Qua bao đời nay, nhân dân Gò Công đã xây dựng, tu sửa, tôn tạo mộ, đền thờ và dựng tượng Trương Định. Hàng năm, tại Gò Công long trọng tổ chức lễ cúng tế, tưởng nhớ Trương Định. Trước năm 1975, hàng năm, lễ giỗ Trương Định được tổ chức vào ngày 17 và 18 tháng 7 âm lịch. Từ năm 1975 đến nay, hàng năm, vào hai ngày 19 và 20 tháng 8 Dương lịch, Gò Công đều tổ chức lễ hội Văn hoá anh hùng Trương Định. Đây là một trong những Lễ hội lớn ở miền Nam đất nước. Mục đích của lễ hội Trương Định là hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công đức của tiền nhân đối với dân tộc và đất nước. Hằng năm, công chúng đến với lễ hội với tấm lòng ngưởng mộ anh hùng Trương Định và nhận thức sâu sắc thêm về truyền thống yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc ta. Hình tượng Trương Định, người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống Pháp sống mãi với non sông, đất nước. Tài liệu tham khảo & trích dẫn: - Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 của Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (1995). - Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1999). - Vương triều cuối cùng của Phạm Minh Thảo (2007). - Trương Định - mệnh ấy yểu, nhưng danh ấy thọ của Phan Nam Dương (KTNN số 613/2007). - Anh hùng dân tộc Trương Định của Lê Sơn (VHNT số 07/2007). - Huyền thoại và lễ hội Trương Định của Nguyễn Thị Xuân (VHNT số 07/2007). Lê Ngọc Trác
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 10:52:04 GMT 9
Danh Sách 162 Vị Tướng Lãnh QLVNCH 1 Thống tướng 5 Đại tướng 44 Trung tướng 44 Thiếu tướng 68 Chuẩn tướng Tên Họ Năm Sanh
Chức Vụ Cuối Cùng
001 Th.Tướng Bùi Đình Đạm 1926 Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực thuộc Bộ Quốc Phòng (1975) 002 Th Tướng Bùi Hữu Nhơn 1927 Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (1968) 003 Th.Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC (1975) 004 Ch.Tướng Bùi Văn Nhu Tư Lệnh Phó CSQG (1975) 005 Tr. Tướng Cao Hảo Hớn Tổng Trưởng Chương Trình Bình Định và Phát Triển (1975) 006 Đ. Tướng Cao Văn Viên 1921 Tổng TMT QLVNCH (1975) 007 Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang 1926 Tư Lệnh Hải Quân (1975) 008 Ch. Tướng Chung Tấn Phát Cựu Tham Mưu Trưởng QĐ & QK IV 009 Th. Tướng Chương Dzềnh Quay Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV (1975) 010 Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân (1975) 011 Tr. Tướng Dư Quốc Đống 1932 Tư Lệnh QĐ III (1975) 012 Th. Tướng Dương Ngọc Lắm Đô Trưởng Sài Gòn (1964) 013 Tr. Tướng Dương Văn Đức 1926 Tư Lênh QĐ & QK IV (1964) 014 Đ. Tướng Dương Văn Minh 1916 Tổng Thống VNCH (1975 ) 015 Th. Tướng Ðào Duy Ân Tư Lệnh Phó Diện Địa QĐ III (1975) 016 Th. Tướng Đoàn Văn Quảng 1923 Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1972) 017 Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi (1975) 018 Ch. Tướng Ðặng Ðình Linh Tham Mưu Phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận (BTL) Không Quân (1975) 019 Ch.Tướng Đặng Thanh Liêm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1964) 020 Tr. Tướng Đặng Văn Quang 1929 Phụ Tá An Ninh Phủ Tổng Thống (1975) 021 Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Sông (1975) 022 Cố Đ. Tướng Đỗ Cao Trí 1929 Tư Lênh QĐ & QK III (1971) 023 Th. Tướng Đỗ Kế Giai 1929 Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương (1975) 024 Ch. Tướng Ðỗ Kiến Nhiễu 1931 Đô Trưởng Sài Gòn (1975) 025 Th. Tướng Đỗ Mậu Phó Thủ Tướng Đặc Trách Văn Hóa (1964) 026 Tr. Tướng Đồng Văn Khuyên 1927 Tổng Cụng Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận (1975) 027 Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh 1935 Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải (1975) 028 Th. Tướng Hoàng Văn Lạc 1927 Tư Lệnh Phó Diện Địa QĐ I (1975) 029 Tr. Tướng Hoàng Xuân Lãm 1928 Chánh Thanh Tra Dân Vệ (1975) 030 Ch.Tướng Hồ Trung Hậu Chánh Thanh Tra QĐIII (1975) 031 Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải (1975) 032 Th. Tướng Hồ Văn Tố Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (1959) 033 Ch. Tướng Huỳnh Bá Tính Tư Lệnh SĐ 3 KQ (1975) 034 Ch. Tướng Huỳnh Thới Tây Tư Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương (1975) 035 Th. Tướng Huỳnh Văn Cao 1927 Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện (1971) 036 Ch. Tướng Huỳnh Văn Lạc 1927 Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB (1975) 037 Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh 1928 Tư Lệnh Hải Quân (1974) 038 Tr. Tướng Lâm Quang Thi 1932 Tư Lệnh Phó QĐ & QK I (1975) 039 Th.Tướng Lâm Quang Thơ 1931 Chỉ Huy Trương Trường VBQGĐL (1975) 040 Th. Tướng Lâm Văn Phát 1927 Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô (4/1975) 041 Th. Tướng Lê Minh Đảo 1933 Tư Lệnh SĐ 18 BB (1975) 042 Th. Tướng Lê Ngọc Triển Tham Mưu Phó Hành Quân TTM (4/1975) 043 Tr. Tướng Lê Nguyên Khang 1931 Phụ Tá Hành Quân Tổng TMT (1975) 044 Ch.Tướng Lê Nguyên Vỹ 1933 Tư Lệnh SĐ 5 BB (1975) 045 Ch. Tướng Lê Quang Lưỡng Tư Lệnh SĐ Nhảy Dù (1975) 046 Ch. Tướng Lê Trung Tường Tham Mưu Trưởng QĐ III (1975) 047 Ch. Tướng Lê Trung Trực Trưởng Phòng 4, BTTM (1975) 048 Ch. Tướng Lê Văn Hưng 1933 Tư Lệnh Phó QĐ & QK IV (1975) 049 Tr. Tướng Lê Văn Kim 1918 CHT Trường Cao Đẳng Quốc Phòng (1963) 050 Th. Tướng Lê Văn Nghiêm Tư Lệnh QĐ & QK I (1963) 051 Ch. Tướng Lê Văn Thân 1932 Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô (4/1975) 052 Ch. Tướng Lê Văn Tư Tư Lệnh SĐ 25 BB (1973) 053 Thống Tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham Mưu Trương QLVNCH (1963) 054 Tr. Tướng Linh Quang Viên 1918 Bộ Trưởng Nội Vụ (1967) 055 Cố Ch.Tướng Lưu Kim Cương KĐT Không Đoàn 33 Chiến Thuật, Tư Lệnh SĐ 5 KQ (1968) 056 Tr. Tướng Lữ Lan 1927 Chỉ Huy Trưởng Cao Đẳng Quốc Phòng (1975) 057 Ch. Tướng Lý Bá Hỷ 1923 Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô (1975) 058 Ch. Tướng Lý Tòng Bá 1931 Tư Lệnh SĐ 25 BB (1975) 059 Ch. Tướng Mạch Văn Trường Tư Lệnh SĐ 21 BB (1975) 060 Tr. Tướng Mai Hữu Xuân Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị (1964) 061 Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám (1975) 062 Tr. Tướng Ngô Dzu 1926 Tư Lệnh QĐ II (1972) 063 Cố Ch. Tướng Ngô Hán Đồng 1929 Tư Lệnh Pháo Binh QĐ I (1972) 064 Tr. Tướng Ngô Quang Trưởng 1929 Tư Lệnh QĐ & QK I (1975) 065 Cố Ch. Tướng Nguyễn Bá Liên Tư Lệnh Biệt Khu 24 (1969) 066 Tr. Tướng Nguyễn Bảo Trị 1929 CHT ĐH Chỉ Huy và Tham Mưu (1972) 067 Ch. Tướng Nguyễn Cao Albert Tổng Trưởng Dinh Điền (1964) 068 Th. Tướng Nguyễn Cao Kỳ Phó Tổng Thống VNCH (1967) 069 Tr. Tướng Nguyễn Chánh Thi 1923 Tư Lệnh QĐ I (1966) 070 Th.Tướng Nguyễn Chấn Á Cố Vấn tại Nha Chiến Tranh Chính Trị. 071 Th. Tướng Nguyễn Duy Hinh 1929 Tư Lệnh SĐ 3 BB (1975) 072 Ch. Tướng Nguyễn Đức Khánh Tư Lệnh SĐ 1 KQ (1975) 073 Tr. Tướng Nguyễn Đức Thắng 1930 Tư Lệnh QĐ IV (1968) 074 Th Tướng Nguyễn Giác Ngộ CHT Sở Du Kích Chiến (1956) 075 Cố Th. Tướng Nguyễn Huy Ánh 1934 Tư Lệnh SĐ 4 KQ (1972) 076 Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Biển (1975) 077 Tr. Tướng Nguyễn Hữu Có 1925 Bộ Trưởng Quốc Phòng (1967) 078 Ch. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tổng Tham Mưu Trưởng (4/1975) 079 Ch. Tướng Nguyễn Hữu Tần Tư Lệnh SĐ 4 KQ (1975) 080 Th. Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư Lệnh CSQG (1975) 081 Đ. Tướng Nguyễn Khánh 1927 Quốc Trưởng (1964) 082 Th. Tướng Nguyễn Khoa Nam 1927 Tư Lệnh QĐ & QK IV (1975) 083 Tr. Tướng Nguyễn Ngọc Lễ Chánh Án Tòa Án Quân Sự (1956) 084 Th. Tướng Nguyễn Ngọc Loan 1931 Tổng Giám Đốc CSQG (1968) 085 Ch. Tướng Nguyễn Ngọc Oánh CHT TT HL KQ (1975) 086 Ch. Tướng Nguyễn Thanh Hoàng Chánh Thanh Tra QĐ II(1974) 087 Ch. Tướng Nguyễn Thanh Sằng Tư Lệnh SĐ 22 BB (1966) 088 Phó Đề Đốc Nguyễn Thành Châu Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang (1975) 089 Cố Ch. Tướng Nguyễn Trọng Bảo TMT SĐ Nhảy Dù (1972) 090 Th. Tướng Nguyễn Văn Chuân 1923 Thượng Nghị Sĩ (1967) 091 Ch. Tướng Nguyễn Văn Chức 1928 Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Vận (4/1975) 092 Ch. Tướng Nguyễn Văn Điềm Tư Lệnh SĐ 1 BB (1975) 093 Ch. Tướng Nguyễn Văn Giàu Bộ Tư Lệnh Cảnh Lực (1975) 094 Cố Tr. Tướng Nguyễn Văn Hiếu 1929 Tư Lệnh Phó QĐ & QK III (1975) 095 Tr. Tướng Nguyễn Văn Hinh 1916 Tổng Tham Mưu Trưởng (1955) 096 Th. Tướng Nguyễn Văn Kiểm 1924 Trưởng Phòng Tổng Quản BTTM (1968) 097 Tr. Tướng Nguyễn Văn Là Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng (1975) 098 Ch. Tướng Nguyễn Văn Lượng Tư Lệnh SĐ 2 KQ 099 Tr. Tướng Nguyễn Văn Mạnh 1921 Tham Mưu Trưởng Liên Quân (1975) 100 Tr. Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô (1975) 101 Ch.Tướng Nguyễn Văn Phước 1926 Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Quân Khu IV, Đặc Trách Phụng Hoàng (1971) 102 Tr.Tướng Nguyễn Văn Quan Tổng Giám Đốc ANQĐ (1965) 103 Ch.Tướng Nguyễn Văn Thiện Tư Lệnh Biệt Khu Quảng- Đà (Quảng Nam-Đà Nẵng -1970) 104 Tr. Tướng Nguyễn Văn Thiệu 1923 Tổng Thống VNCH (1975) 105 Tr. Tướng Nguyễn Văn Toàn 1933 Tư Lệnh QĐ III & QK III (1975) 106 Th. Tướng Nguyễn Văn Vận 1916 (?) Tư Lệnh Đệ III Quân Khu (1954) 107 Tr. Tướng Nguyễn Văn Vỹ 1916 Bộ Trưởng Quốc Phòng (1973) 108 Tr. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi 1933 TL Tiền Phương QĐ &QK III (1975) 109 Cố Tr. Tướng Nguyễn Viết Thanh 1931 Tư Lệnh QĐ IV & QK IV (1970) 110 Tr. Tướng Nguyễn Xuân Thịnh 1929 CHT Pháo Binh (1975) 111 Th. Tướng Nguyễn Xuân Trang TM Phó Nhân Sự BTTM (1968) 112 Th. Tướng Phạm Ðăng Lân Cục Trưởng Cục Công Binh (1965) 113 Ch. Tướng Phạm Duy Tất CHT Biệt Động Quân QK II (1975) 114 Ch. Tướng Phạm Hà Thanh Cục Trưởng Cục Quân Y (1975) 115 Ch. Tướng Phạm Hữu Nhơn Trưởng Phòng 7 Bộ TTM (1975) 116 Ch. Tướng Phạm Ngọc Sang 1931 Tư Lệnh SĐ 6 KQ (1975) 117 Tr. Tướng Phạm Quốc Thuần CHT TT HL Đồng Đế (1975) 118 Th. Tướng Phạm Văn Đổng 1919 Bộ Trưởng Cựu Chiến Binh (1969) 119 Th. Tướng Phạm Văn Phú 1928 Tư Lệnh QĐ II & QK II (1975) 120 Tr. Tướng Phạm Xuân Chiểu 1920 Đại Sứ Nam Hàn (1969) 121 Th. Tướng Phan Ðình Niệm 1931 Tư Lệnh SĐ 22 BB (1975) 122 Cố Th. Tướng Phan Ðình Soạn 1929 Tư Lệnh Phó QĐ I & QK I (1972) 123 Ch. Tướng Phan Đình Thứ 1916 Tư Lệnh Phó QĐ II & QK II (1972) 124 Ch. Tướng Phan Hòa Hiệp Trưởng Đoàn LHQS 2 Bên (1974) 125 Ch. Tướng Phan Phụng Tiên Tư Lệnh SĐ 5 KQ (1975) 126 Tr. Tướng Phan Trọng Chinh 1926 Tổng Cục Trưởng Cục Quân Huấn (1975) 127 Ch. Tướng Phan Xuân Nhuận Tư Lệnh SĐ 1 BB (1966) 128 Tr. Tướng Thái Quang Hoàng Đại sứ Thái Lan (1963?) 129 Tr. Tướng Tôn Thất Đính 1926 Thượng Nghị Sĩ (1971) 130 Th. Tướng Tôn Thất Xứng Tư Lệnh QĐ I & QK I (1964) 131 Ch. Tướng Trang Sĩ Tấn Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành (1975) 132 Th. Tướng Trần Bá Di 1926 Tư Lệnh SĐ 9 BB (1968) 133 Ch. Tướng Trần Đình Thọ Trưởng Phòng 3 Bộ TTM (1975) 134 Tr. Tướng Trần Ngọc Tám 1926 Đại Sứ Thái Lan (1972) 135 Ch. Tướng Trần Quang Khôi CHT Lực Lượng Xung Kích QĐ III (1975) 136 Ch. Tướng Trần Quốc Lịch Chánh Thanh Tra QĐ IV (1975) 137 Cố Tr. Tướng Trần Thanh Phong 1926 Tư Lệnh CSQG (1971) 138 Th. Tướng Trần Tử Oai CHT Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1965) 139 Đ. Tướng Trần Thiện Khiêm 1925 Thủ Tướng Chính Phủ VNCH (1975) 140 Ch. Tướng Trần Văn Cẩm 1930 Phụ Tá HQ BTL QĐ II & QK II (1975) 141 Đề Đốc Trần Văn Chơn 1920 Tư Lệnh Hải Quân (1974) 142 Tr. Tướng Trần Văn Đôn 1917 Tổng Trưởng Quốc Phòng (1975) 143 Ch. Tướng Trần Văn Hai 1928 Tư Lệnh SĐ 7 BB (1975) 144 Tr. Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân VN (1975) 145 Th. Tướng Trần Văn Minh 1923 Đại Sứ Tunisia (1967) 146 Ch. Tướng Trần Văn Nhựt 1936 Tư Lệnh SĐ 2 BB (1975) 147 Tr. Tướng Trần Văn Trung 1925 TCT. TC. CTCT (1975) 148 Cố Tr. Tướng Trịnh Minh Thế Tư Lệnh Lực Lượng Cao Đài (1955) 149 Ch. Tướng Trương Bảy Chỉ Huy Trưởng Cảnh Lực (1975) 150 Cố Ch. Tướng Trương Hữu Đức 1930 Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (1972) 151 Cố Th. Tướng Trương Quang Ân 1932 Tư Lệnh SĐ 23 BB (1970) 152 Ch. Tướng Từ Văn Bê 1931 CHT BCH Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân (1975) 153 Th. Tướng Văn Thành Cao 1924 Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (1975) 154 Tr. Tướng Vĩnh Lộc Tổng Tham Mưu Trưởng (4/1975) 155 Ch. Tướng Võ Dinh TMT BTL Không Quân (1975) 156 Th. Tướng Võ Văn Cảnh 1922 Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ (1974) 157 Th. Tướng Võ Xuân Lành Tư Lệnh Phó KQVN (1975) 158 Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào 1935 Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải (1975) 159 Ch. Tướng Vũ Đức Nhuận Giám Đốc ANQĐ (1975) 160 Th. Tướng Vũ Ngọc Hoàn 1932 Cục Trưởng Cục Quân Y (1972) 161 Ch. Tướng Vũ Văn Giai Tư Lệnh SĐ 3 BB (1972) 162 Cố Ch. Tướng Lê Đức Đạt Tư Lệnh SĐ 22 BB (1972)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 12, 2011 2:20:17 GMT 9
Thieu tuong Nguyen Ngoc LoanGeneral Nguyễn Ngọc Loan (December 11, 1930[1]–July 14, 1998) was the Republic of Vietnam's Chief of National Police. Loan gained international infamy when he executed Nguyễn Văn Lém, a Viet Cong prisoner, in front of Vo Suu an NBC cameraman and Associated Press photographer Eddie Adams on February 1, 1968. The photo (captioned "General Nguyen Ngoc Loan executing a Viet Cong prisoner in Saigon") and film would become two of the most famous images in journalism and started to change the American public's views on their involvement in the Vietnam War.Một Tấm Ảnh! Chiến Tích Hay Oan Khiên? Chàng sinh viên đại học Saigon Nguyễn Ngọc Loan thực sự "xếp bút nghiên theo việc kiếm cung" để trở thành một trong số các tướng lãnh tài ba đảm lược trong những giai đoạn khó khăn nhất của Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Những hành động, phong cách, tư thái của cựu Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, rất bình dị và rất Người, nhưng thực sự đã đi vào huyền thoại. Chưa có một nhân vật nào, ở một cương vị quyền lực nhất, mà là người nghèo nhất, với một phong thái bình dân trong cung cách đối xử, cương quyết và nhạy bén với kẻ thù và đặc biệt thể hiện tình "huynh đệ chi binh" chân thành nhất xuất phát từ con tim. Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan được dư luận quốc tế chú ý qua hai chiến tích lớn và một tấm hình: Biến loạn miền Trung vào năm 1966. Biến cố Mậu Thân do Cộng Sản miền Bắc cố tình vi phạm thỏa hiệp hưu chiến vào dịp Tết, xua quân bất thần tấn công miền Nam trên toàn lãnh thổ. Tấm ảnh truyền đi khắp thế giới qua màn ảnh vô tuyến, được giải thưởng quốc tế của phóng viên Eddie Adams chụp lúc ông dùng rouleau ngắn nòng bắn chết tên Bảy Lốp tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Sư Vạn Hạnh-Minh Mạng & Vĩnh Viễn). Bọn phản chiến Hoa Kỳ, với sự phụ họa của giới truyền thông dùng đủ loại mũ, lên án cựu Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan là vi phạm nhân quyền, sát hại hàng binh...dẫn đến việc hai dân biểu: bà Elizabeth Holtzman và ông Harold Sawyer (Cộng Hòa thuộc tiểu bang Michigan) cùng tiến hành một vụ kiện, nhưng thất bại trong việc yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ tước quyền định cư và trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ vào cuối năm 1976. Chúng ta thử phân tích: Tối mồng 1 Tết Mậu Thân, Ty An Ninh Quân Đội tỉnh Gia Định bắt được một du kích với một bao tơi chứa 5 cây AK với lời khai "Việt Cộng sẽ tấn công Saigon Gia Định vào lúc 1 giờ sáng hôm sau". Tướng Loan lúc bấy giờ là người đứng đầu cơ quan: Cảnh Sát Quốc Gia, An Ninh Quân Đội và Tình Báo, không hề nghỉ Tết, cho lệnh chuyển tên du kích đó về Nha An Ninh Quân Đội và quyết định điều động thuộc cấp và một xe thiết giáp của Chiến Đoàn Thiết Giáp chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ trong vùng, (việc điều động này, về sau Đại Tướng Cao Văn Viên đã phạt Tướng Loan 10 ngày trọng cấm về "tội" điều động quân lực vượt thẩm quyền!!!) trấn giữ các vị trí trọng yếu, chuẩn bị đối đầu với kẻ thù. Đúng 1 giờ Việt Cộng bắt đầu tấn công, tuy bất ngờ, nhưng dưới sự chỉ huy của Tướng Loan, Saigon-Gia Định đã không mất một tấc đất. Cuộc chiến ác liệt xảy ra tại khu tứ giác Lý Thái Tổ-Sư Vạn Hạnh-Minh Mạng-Nguyễn Tri Phương mà Bảy Lốp là tên chỉ huy ác ôn nhất, đã đốt phá nhà dân, dùng trẻ em, đàn bà và người già làm lá chắn, bắn giết quân đội và cảnh sát tham chiến, kể cả hai phóng viên ngoại quốc. Tướng Loan ra lệnh bắt sống và đã chính tay bắn chết tên Bảy Lốp trước ống kính của phóng viên Eddie Adams. Bắn tên Việt Cộng Bảy Lốp, tướng Loan đã có thời gian suy tư cân nhắc và ông đã thực hiện trên tư cách của một vị chỉ huy chiến trường. Hành động của tướng Nguyễn Ngọc Loan chẳng những đã nói lên tinh thần trách nhiệm cao độ mà còn thể hiện được đức tính nhân ái đối với những chiến hữu của mình, biết đau niềm đau chung, biết xót thương những anh em đã vị quốc vong thân và biết thù đúng kẻ thù. Không một cá nhân quyền lực nào, không một thế lực to lớn nào có thể có đủ tư cách để bắt cựu Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan phải chịu trách nhiệm với những luận cứ hàm hồ, thiếu công minh. Vị tướng của chúng ta đã chiến đấu bên cạnh những người bạn đồng minh Hoa Kỳ, một đất nước nhân danh tự do, nhân quyền để ngăn chận làn sóng xâm lăng của bạo quyền Cộng sản quốc tế. Tướng Nguyễn Ngọc Loan của chúng ta đã nhân danh công lý, nhân danh lý tưởng và nhân danh lương tâm của một người liêm khiết, chiến đấu vì sự sinh tồn của dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Hành động kể trên, qua tấm hình, không hề vi phạm bất cứ một điều gì mà bọn xấu, với chiếc mặt nạ đạo đức giả đã cố tình áp đặt. Chúng ta không hề nghe ý kiến chính thức của Tướng Loan về dư luận chung quanh tấm hình. Chỉ được biết qua bài viết bày tỏ sự dằn vặt, ray rứt của Eddie Adams, sau khi nhận xét rằng "chính tấm hình của tôi đã hủy hoại cuộc đời và sự nghiệp của ông Nguyễn Ngọc Loan". Có đoạn nhắc lại câu nói của tướng Loan khi tác giả thăm ông tại thành phố Burke, Virginia: "Ông đã làm công việc của ông và tôi làm bổn phận của tôi". Hôm nay, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đã vĩnh viễn ra đi. Bài viết của Eddie lại xuất hiện trên nhiều báo có tầm vóc lớn của Hoa Kỳ, kể cả tờ Time. Trong số các vòng hoa phúng điếu, người ta thấy có vòng hoa của Adams và đặc biệt đính kèm tấm danh thiếp ghi giòng chữ viết tay bằng tiếng Anh: "General: I'm so, so, so...sorry. Tears are in my eyes" (tạm dịch: Thưa Thiếu tướng: Thật là đáng tiếc. Lệ đã tràn mắt tôi.) Tâm trạng của Eddie Adams, cho dù dưới góc cạnh rất Hoa Kỳ nhưng chắc chắn cũng đủ sức đánh ngã những lập luận buộc tội nhân danh đủ thứ, nào là nhân quyền, nào là nhân đạo, nào là luật chiến tranh v.v...để làm một công việc phản lại lý tưởng cao quý từ sự nhân danh của mình, và từ bọn người ấu trĩ về chính trị, ngây ngô về nhận thức dưới chiếc mặt nạ đạo đức giả đã rớt xuống. Đối với những người Việt chân chính, có tham dự vào cuộc chiến hay không. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan là một vị tướng lãnh can trường, đảm lược và bình dị nhất trong cuộc chiến tranh bảo vệ chính nghĩa của quân dân miền Nam. Trong tâm tư của người viết, tướng Nguyễn Ngọc Loan là một vị chỉ huy tài giỏi, đã chu toàn trách nhiệm trước lịch sử và đã trở thành một vị anh hùng của dân tộc Việt Nam. Xin một lần cuối, nguyện cầu anh linh Thiếu Tướng sớm siêu thoát. Hãy Lắng Tiếng Nói Trước 75, hồi anh Sáu còn sếp sòng 3 cơ quan mà chỉ tại cái tên không thôi, dù dân sự hay Quân Đội, nghe đến là đủ "ớn da gà" rồi, mặc dầu không có tội hoặc phạm lỗi lầm nào cả. Mới nghe nhắc đến tên thôi mà đã vậy huống hồ gì chạm mặt anh Sáu. Một sáng thứ 7, đang la cà ở đường Tự Do thì gặp Quế "Công Công", hắn rủ vào Tổng Nha chơi. Phòng hông của văn phòng, cửa mở, anh Sáu đang chợp mắt ở sofa, đám cận vệ quây quần dưới chân cầu thang làm một tí xập xám "còm", chờ "ổng" thức dậy để còn đi nữa. Ngồi ở cầu thang quay mặt về hướng cửa phòng, nhìn quanh quẩn một hồi chợt phát giác anh Sáu đã thức dậy, vừa tiến đến cửa vừa đưa một ngón tay lên môi làm hiệu bảo im, anh đứng nhìn đám "xây lố cố", miệng tủm tỉm cười rồi anh nhẹ nhàng lẻn đi mất. Sự kiện xảy ra quá đột ngột mà thấy cũng hay hay nên ngồi yên, thử xem phản ứng của mấy "thằng ông nội" này ra thế nào. Cả bọn đang im lặng chăm chỉ và nghiêm trọng binh bài, bỗng một tên liếc nhìn vào phòng rồi hốt hoảng vứt bài, la ầm lên: "'ng đi mất tiêu rồi". Thế là cả bọn quơ vội súng ống, chạy túa ra như bị..."Việt Cộng đuổi". Quế công công trách "chơi ác vậy cha! Thấy ổng bỏ đi mà không báo động cho tụi này biết". "Cho tụi bay bỏ cái tật cù lũ với mậu binh". Quế nhe răng ra cười. Cái thằng này mặt mày rất dễ thương mà khi cười trông nó..."Bắc Kỳ" dễ sợ. Trên đường về và mãi những lúc sau này, khi nào nhớ đến diễn biến đột ngột này vẫn còn bấm bụng cười hoài và thật không ngờ anh làm lớn mà vẫn còn trẻ trung, lâu lâu làm việc quá căng thẳng, đùa với "tụi nhỏ" một chút cho chúng chạy giãn gân giãn cốt chơi. Thảo nào thiên hạ đồn rằng anh Sáu có tánh "nghịch ngầm". Lần gặp gỡ thứ hai có vẻ "suspense" hơn, đó là trong lần Tổng Công Kích đợt hai của Việt Cộng. Đang nghỉ dưỡng thương chờ 29 ngày tái khám vì mảnh đạn B.40 vẫn còn ngoan cố nằm trong khớp xương mắt cá chơn phải (bị thương hồi từ cây số 17 chạy bộ về giải tỏa áp lực địch ở Mang Cá Huê-Mậu Thân đợt một) tại nhà ông anh ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, cách nhà Đại Tướng Viên một block. Buổi sáng đang đứng trong sân vừa nghe ngóng tình hình vừa tán gẫu với người làm và chú em con bà dì - chuẩn úy Biệt Động Quân mới "vô nghề" mấy tháng, về phép đang kẹt lại. Chú cọp con này cười cười nhìn tôi và nói: "Nhảy dù mấy anh yếu quá, trung úy, đại úy còn làm đại đội trưởng, bên BĐQ tụi em Chuẩn úy đã làm đại đội phó rồi". "– không dễ đâu em, cứ húc đi rồi sẽ biết đá biết vàng". Một loạt súng tiểu liên nổ dòn hướng nhà Đại tướng, độ vài phút sau, tiếng máy truyền tin của cảnh sát vang lên lồng lộng ngoài đường, chúng tôi vội mở cổng bước ra ngoài. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt là...anh Sáu, oai vệ trong quân phục tác chiến, áo giáp, đầu trần đi đầu đám cận vệ, tay cầm ống liên hợp, máy báo cáo có một tên VC bị CSDC đuổi chạy vào hẻm sau nhà Đại Tướng. Anh Sáu quát vào trong máy: "Rồi, bây giờ tình hình như thế nào? Phía trước đã yên chưa?" "Báo cáo tình hình yên tĩnh". Anh Sáu và tùy tùng tiến về hướng Sài Gòn. Nhân cơ hội nầy tôi bèn "mách nước" cho chú cọp con: "Đó thấy chưa, đánh giặc trong thành phố không phải dễ ăn đâu cưng, trong một vùng chưa có lực lượng của mình kiểm soát và làm chủ tình hình thì bất cứ ở chỗ nào cũng có thể có địch hết. 'ng gan quá, đi khơi khơi về phía trước lỡ thằng "ông nội" ở trong hẻm chưa bị thanh toán, nó quất ổng một phát thì sao?". Rồi sau đó nghe tin anh Sáu bị thương ở Thị Nghè, đã đưa vào bệnh viện Grall. Rồi anh được đưa qua Mỹ chữa thương, rồi anh trở về, ngày về, một phái đoàn báo chí và văn nghệ sĩ hùng hậu đã đến phi trường Tân Sơn Nhất đón tiếp anh, rất tiếc hồi đó bận hành quân nên không có mặt. Thế rồi nước mất nhà tan, trên đường lưu lạc tới Springfield Virginia, một lần theo anh "Đại" đến tiệm Les Trois Continents thăm anh Sáu. Ngồi buồn từ trong tiệm nhìn ra quan sát, anh thấy tụi này xuống xe nên anh đã khó khăn ra khỏi chỗ ngồi để đón tụi này. Nét mặt anh rạng rỡ vì lâu lâu có mấy thằng "Ma Gà" đến chơi. Anh tự tay đi pha mấy ly nước trà, không cho tụi này làm, kéo nhau ra một bàn vắng ngồi thiên hạ sự. Nhận thấy mỗi lần đến thăm, ông anh vui hẳn ra mặt nên sau đó khi nào tụi này có dịp gặp nhau bù khú đều có cho mấy đứa em đến đón "'ng". Đến gặp anh em đông đủ là anh Sáu vui chứ anh không ăn gì cả. Nếu có chút fromage "kha khá" còn không thì bánh mì chấm...nước mắm, uống thì anh chỉ uống bia, còn rượu thì cognac courvoisier với nước lạnh, trong khi tụi này uống Martell Medaillon với soda. Mặc dầu khi nào đến đón anh đi, bà chị dặn dò kỹ lưỡng là phải ép ông ăn và đừng cho ông uống nhiều, nhưng khi đã rời khỏi nhà, không có mặt bà chị thì không có thằng ma gà nào ép được anh nổi, mặc dù anh Đại và tụi này cố gắng ép anh nhiều lần, nhưng khi anh vừa cười cười vừa đưa ngón tay chỉ chỉ "Ê!Ê" là tụi này biết không thể ép anh được nữa, bởi vì tụi này còn biết là ở nhà, khi mà bà chị ra khỏi phòng là anh lén vứt thuốc và bánh mì vào sọt rác mà. Mặc dầu thấy anh vui nhộn vậy nhưng tụi này biết tụi này thông cảm rằng anh chỉ có vui được một lúc khi gặp mặt anh em, sau đó là cả một u buồn chồng chất sau vầng trán có vẻ ngang bướng của anh, có nhiều u uất mà anh không thể thổ lộ được. Tụi này ngồi nhìn anh, thương anh khi đêm sắp tàn, bàn tiệc chỉ còn lại một vài đứa cùng chung tầng số, anh ngồi trầm ngâm, mặt đanh lại, ly rượu đưa lên môi mà nước mắt anh ứa ra - Anh khóc cho vận nước, tình người và cả một cơ đồ đang phá sản -. Anh tâm sự: "Nếu cơ may một ngày nào đó tụi mình trở về thì lúc đó tụi mình đều là Nghĩa Quân cả, không Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Lực Lượng Đặc Biệt con mẹ gì cả, tụi mình chỉ là Nghĩa Quân. Nghĩa Quân đây là Nghĩa Quân của thời Lê Lợi khởi nghĩa, thời Cần Vương chống giặc ngoại xâm. Chỉ có đám Quân Đội tụi mình mới có thể nói chuyện "phải quấy" với đám quân đội phía bên kia vì hồi còn đánh nhau, hai bên đều cùng bị bịt mắt cả". Nhiều đêm khuya trong bàn tiệc, anh ngất ngưởng cất tiếng hát: "Hãy lắng tiếng nói...con tim chân chính..." Gặp anh lần cuối với Phạm Nhuận, Quế và Tự kỳ anh xuất viện lần thứ hai, anh đã không còn nói được và chỉ viết lên giấy, anh làm dấu mà Quế và Tự không hiểu ý nên loay hoay, khi đem tập giấy vào thì anh giận, xé tan tập giấy và đuổi tụi nó ra ngoài. Đứng lại nhìn anh, bóp chân anh và làm dấu hỏi anh có biết ai không, anh gật đầu và...nước mắt anh lại trào ra. Anh là ông anh bình dị cởi mở, được tất cả anh chị em mến mộ và cảm phục. Anh cũng là một ông anh có Tâm Bồ Tát và một Trái Tim Rất Là "Người". Vĩnh biệt anh Sáu.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2012 3:27:57 GMT 9
Tướng Trần Văn Trung: Một Nhân Cách Lớn(04/05/2012) Tác giả : Đỗ Xuân Tê Tôi nhớ khi thông báo với các chiến hữu trong ngành về tình trạng nguy kịch của tướng Trần Văn Trung khi nằm tại một bệnh viện tại Paris trước lễ Phuc sinh, anh Lê Trung Hiền có viết mấy dòng sau: Trung Tướng Trần Văn Trung, theo nhận định của chúng tôi, những quân nhân đã phục vụ nhiều năm tại Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị, không phải là thánh, nhưng là một vị chỉ huy trưởng, một tướng lãnh QLVNCH đức độ và liêm chính, rất đáng kính trọng và quí mến. Sự đánh giá chân tình và khách quan của người sĩ quan dưới quyền cũng là cách nhìn của đông đảo anh em chúng tôi, trong ngành nói riêng và các chiến hữu một thời sát cánh trong quân lực VNCH nói chung. Nếu vinh danh ông trong lễ phủ cờ một khi ông qua đời thì với tư cách một tướng lãnh, ông xứng đáng được tán tụng như một trong những khuôn mặt lãnh đạo có nhân cách lớn, một ông tướng vừa sạch, vừa đức độ, hết lòng phục vụ cho lý tưởng quốc gia và tập thể quân đội mà ông là một thành viên có mặt đến giờ phút chót của cuộc chiến. Nay bệnh tình dù có qua cơn hôn mê, nhưng sức khoẻ cũng đã ở tuổi gần chin chục, tôi muốn viết ít hàng về ông chủ yếu là nhắc lại vài giai thoại về ông tưóng đầu ngành để nếu bài viết có đến tay ông thì cũng là một điều an ủi, chí ít cũng có những đàn em, thuộc cấp còn nhớ đến ông trong niềm kính trọng, dù thế thái nhân tình có đảo lộn, quân đội có tan hàng, đất nước có sang trang. Mười năm trùng hợp với nền đệ nhị cộng hòa dưới triều Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người ta biết nhiều đến một khuôn mặt tướng lãnh: tướng ba sao Trần Văn Trung. Ông nổi tiếng vì đứng đầu một cơ quan đầu não về tinh thần của quân lực VNCH suốt mười năm liền, lại có bà vợ cựu hoa khôi nữ trung học Đồng Khánh (Huế). Hai người hay xuất hiện cặp đôi trong các Đại hội Nhạc trẻ tại Thủ đô nhân dịp gây quĩ Cây Mùa Xuân cho các chiến sĩ vào các năm chiến trường cao điểm cuối 60 đầu thập niên 70, với sự tham dự của cả chục ngàn giới trẻ Sài gòn tại các tụ điểm sân vận động Hoa lư và Thảo cầm viên. Tướng Trần Văn Trung. Nhìn dáng vẻ bề ngoài với cặp kính trắng trên khuôn mặt đượm nét trí thức của một người ở tuổi 40 khi ông vừa đeo một sao và mới về nhậm chức Tổng Cục trưởng CTCT, nhiều người không nghĩ ông là ông tướng. Nhìn bà ở lứa tuổi kém ông cả mười năm, người ta phải nhìn nhận bà có sắc đẹp sắc sảo, thon cao, đậm nét Tây phương. Trước đó nhiều năm ông có làm Tùy viên quân lực tại Tòa Đại sứ VNCH tại Paris, nên trong lối giao lưu đời thường, hai ông bà rất lịch thiệp, cởi mở, mang phong cách ngoại giao hơn là những người đơn thuần trong gia đình binh nghiệp. Cũng có thời có lời đồn thổi bà Hoài Nam thiên Cộng vì có bà mẹ nuôi là bà Tuần Chi, cựu hiệu trưởng trung học Đồng Khánh, người đã cùng thượng tọa Thích Đôn Hậu ra bưng theo Việt Cộng hồi Mậu Thân ở Huế. Thực chất phu nhân tướng Trung rất hiểu những người Cộng sản, lại có ý thức chính trị độc lập và chẳng ảnh hưởng gì khi có người trong gia đình theo phía CS. Ngược lại người ta hay khen bà có tướng vượng phu. Gần như vậy nếu ai tin tướng số. Trong cuộc đời làm tướng, ông chỉ một lần đảm nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng (tiểu đoàn khinh binh số 27 đầu tiên của quân đội quốc gia hay hành quân trên vùng châu thổ sông Hồng), về sau theo nhu cầu phát triển của quân đội, ông chuyển sang làm các công tác tham mựu cao cấp tại Bộ Tổng tham mưu. Ông cũng có duyên với ngành quân huấn, có lần đã chỉ huy quân truờng võ khoa Thủ Đức, nơi đào tạo hàng chục ngàn sĩ quan trừ bị cho quân đội quốc gia. Khi chiến tranh đi vào cuộc đọ sức giữa hai ý thức hệ thì ông được chuyển về làm Tổng cục trưởng Tổng cục CTCT, một cơ quan mà mô hinh tổ chức của nó bắt chước quân đội Trung hoa Dân quốc, nắm toàn bộ các công tác an ninh, tâm lý chiến, chính huấn, xã hội, quân tiếp vụ, văn hóa văn nghệ, báo chí và tuyên úy quân đội. Có người nói ông là người của tướng Thiệu nên mới được giao một chức vụ nhiều quyền lực như vậy, thực chất hai ông là bạn cùng khóa võ bị Đập Đá (tiền thân của Khóa 1 Đà Lạt), vì tin cậy nhau trong thời buổi dễ có binh biến lại biết tướng Trung không có mưu đồ chính trị và tham vọng cá nhân, nên tông tông đã buộc chân ông vào chức vụ này cho đến ngày tàn cuộc. Nói cho ngay cũng chẳng ông tướng nào có khả năng thích hợp hơn, nên khi được tín nhiệm trong trách nhiệm đầu ngành cũng một phần ông là con người luôn vì đại cuộc và chấp hành theo đúng vị trí của người lính. Chính ông cũng muốn giữ thế phi đảng phái trong quân đội, ông không để cho việc sử dụng các phương tiện của quân đội cho bất cứ liên danh nào, kể cả hai ông Thiệu-Kỳ. Ông Thiệu cũng không thể tổ chức hệ thống đảng trong quân đội miền Nam mà phải lấy đội ngũ giáo viên làm nồng cốt cho Đảng Dân Chủ của ông thông qua người cùng xứ là một Bộ truởng Giáo dục. Về trình độ, tướng Trung là người có khả năng viết và nói, lại giỏi ngoại ngữ và thích đọc. Gần như những diễn văn hoặc huấn thị viết cho các lãnh đạo từ tổng tư lệnh đến tổng tham mưu trưởng trong các dịp lễ lớn đều có chấp bút của ông, riêng các diễn từ của riêng ông, ông viết lấy. Các văn thư tham mưu quan trọng, các kế hoạch, đề án nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ hoặc phát động các chiến dịch địch vận hóa giải tuyên truyền của đối phương, ông không chỉ là người cho ý kiến mà tự tay chỉnh sửa, thêm bớt cho hoàn chính trước khi phổ biến đến các đơn vị để thi hành. Là người đứng đầu cơ quan phát ngôn của quân đội, nhưng ông ít khi xuất hiện trong các cuộc họp báo, rất thận trọng khi phát ngôn, đặc biệt những vấn đề nhạy cảm báo chí cần khai thác, nhất là dưới thời ông Thiệu rất nhiều vụ việc gây tai tiếng làm nản lòng chiến sĩ. Nhưng ông cũng biết lắng nghe dư luận quần chúng và tập thể chiến sĩ. Bản tin đầu tiên trong ngày trên bàn làm việc là mục Điểm báo quốc phòng, soạn riêng cho ông để vừa nắm tình hình chiến sự vừa xem báo chí truyền thông họ nói gì, để từ đó chủ động sửa sai, nhưng kết quả cũng chỉ là hạn chế khi thực chất các tướng chỉ huy chiến trường vẫn có thói quen rừng nào cọp nấy, hùng cứ nhất phương và các cán bộ CTCT cấp quân khu tiểu khu phải bó tay, không thể sánh với cán bộ chính trị của đối phương khi họ kiêm luôn cấp ủy tay chân của Đảng. Có một điều thú vị là dưới thời ông về tổng cục. ngành CTCT đã chọn danh nhân Nguyễn Trãi làm Thánh tổ cho ngành. Nhân vật lịch sử đã soạn Bình Ngô Đại Cáo với câu danh ngôn lấy chí nhân thay cường bạo/đem đại nghĩa thắng hung tàn và các khóa đào tạo SVSQ hiện dịch cho truờng Đại học CTCT đều lấy các danh hiệu Nguyễn Trãi 1. NT2, NT3…Ngẫu nhiên có sự trùng hợp là phe Hà-nội họ cũng vinh danh Nguyễn Trãi làm danh nhân văn hóa, xếp cao hơn cả Nguyễn Du về văn học. Khi xóa sổ chế độ miền Nam, họ lên án ngành của tướng Trung đã pham một tội ác là dám lấy nhân vật này làm thánh tổ, nhưng khi hằn học đọa đầy những người thua cuộc họ có biết đâu chính Nguyễn Trãi đã viết, “hận thù rồi kêu gọi trả thù thì oán mãi không thôi”. Nhớ lại đêm 29 khi tiếng động cơ trực thăng của TQLC Mỹ nổ đều trên nóc tòa đại sứ Mỹ để vội vàng đưa những người di tản cuối cùng ra hạm đội 7 trước khi cuốn cờ, thì tuớng Trung vẫn bận rộn với những cú điện thoại tại văn phòng của ông, nằm ngay cạnh sứ quán Mỹ. Lúc này nội dung các cuộc nói chuyện không còn là những vấn đề chiến sự, mà thực chất ông muốn xem giờ tàn cuộc sẽ theo chiều hướng nào. Vốn thân với Đại sứ Pháp tại Sài gòn, ông được ông Méreìllon đoan chắc sẽ có một giải pháp cho vấn đề Việt nam, thuận lợi cho cả bốn bên. Đại để miền Nam sẽ trung lập, ranh giới có thể mất Huế và mấy tỉnh miền Trung. Chuyện Sài gòn đổ máu là không thể có. Quá nửa đêm, ông sốt ruột lại thăm dò bên văn phòng Dương Văn Minh, nơi đây cho biết phía Bắc Việt đổi ý. Giải pháp do Đại sứ Pháp làm trung gian không thành. Sài gòn thực sự đi dần vào hôn mê. Vũ Văn Mẫu cho phát lời đuổi Mỹ ra khỏi nuớc, chuẩn bị cho tiến trình buông súng của phe miền Nam vào sáng hôm sau. Sáng 30, tướng Trung nhận được lệnh trở lại Bộ TTM để họp với tướng Vĩnh Lộc,Tổng tham mưu trưởng giờ thứ 25 của miền Nam. Họp khoảng một tiếng, xuất hiện chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông này vừa được DVM cử làm Tham mưu trưởng liên quân. Viên tướng một sao tỏ lộ ngay trong phiên họp ông là người của…Mặt trận giải phóng. Sau đó nghe kể lại, hai tướng cấp cao nhất của quân lực VNCH và vài người nữa ra bến Bạch Đằng, lên một con tàu nhỏ của Hải quân trực chỉ Cần Giờ. Khi tàu còn trên sông Lòng Tảo, cũng là lúc Dương Văn Minh kêu gọi tập thể chiến sĩ của ta buông súng. Con tàu đi thoát, tướng Lộc vào Mỹ (ông mới mất cách đây vài năm ), tướng Trung đi định cư tại Pháp, nơi ông có mối quan hệ lâu đời từ ngày làm việc tại Sứ quán VNCH ở Paris. Ra hải ngoại, ông hiểu thời và thế, ông sống ẩn dật tại vùng ngoại ô Paris. Nhưng nỗi hoài niệm về một thời Sài gòn vang bóng vẫn thôi thúc trăn trở trong ông. Ông vẫn đứng sau cộng đồng người Việt hải ngoại tại Pháp và tích cực hỗ trợ các hoạt động của tổ chức này trong các cao trào đấu tranh nhân quyền và tự do đích thực cho Việt nam. Ông tham dự đều đặn Ngày Quân lực mỗi năm và Lễ Chiến sĩ trận vong của Pháp. Qua báo chí hải ngoại, họ hay đưa tin và hình ảnh ông đăng đàn phát biểu rất sâu sắc trong những dịp lễ này. Ghi lại ít giai thoại và đôi điều tôi biết về ông không nhằm tâng bốc chân dung một vị tướng một thời chúng tôi phục vụ dưới quyền, mà trong thiện ý chỉ muốn chia sẻ góc nhìn về một phần đời của ông khi chính ông cũng như chúng tôi là chứng nhân của tấn bi kịch lịch sử còn phải nhắc nhớ nhiều những thập niên sau. Đỗ Xuân Tê (nhân tháng tư đen lần thứ 37)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 7, 2012 8:51:04 GMT 9
Con Người & Cái Chết Của Tướng Lê Văn Hưng "Last Man Out", James E Parker Jr & Lý Minh Hào Qua Bài Ghi Chép Của Một Tình Báo Mỹ Không chê người đáng khen Không khen người đáng chêJames E Parker Jr, tác giả cuốn sách "Last Man Out – A Personal Account of the Vietnam War", là một giới chức tình báo của CIA rời khỏi Việt Nam cuối cùng vào ngày 01/05/1975 sau 10 năm phục vụ, giai đoạn đầu với vai trò một quân nhân, và giai đoạn sau trong ngành tình báo Hoa Kỳ. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tác giả tự hào là "I was among the first men in and I was the last man out" và cuốn sách trên được Đô Đốc Elmo Zumwalt, vị Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ trẻ tuổi nhứt trong lịch sử hiện đại, đánh giá là "sống động và thuyết phục... Một bổ sung quan trọng cho nền văn học kỷ nguyên Việt Nam". Được biết thêm, Đô Đốc Elmo Zumwalt trong thời kỳ cuộc chiến Việt Nam leo thang là chỉ huy trưởng Chiến Dịch SEALORDS (Southeast Asia Lake Ocean River and Delta Strategy) phát xuất từ Căn Cứ Năm Căn (Cà Mau). Và qua thời "Việt Nam hoá chiến tranh", ông đề xuất và thi hành kế hoạch ACTO (Accelerate Turnover to the Vietnam) nhằm chuyển giao và trang bị quân cụ hải quân nhanh chóng cho Việt Nam (Theo "Tự Điển Chiến Tranh Việt Nam" của Nguyễn Kỳ Phong). Đặc biệt trong "Last Man Out" rải rác trong nhiều chương, tác giả đề cập, qua ghi chép và nhận xét, đến nhiều nhân vật quân sự tên tuổi mà ông có nhiều cơ hội và thời gian làm việc chung, như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn. Tác giả mô tả tướng Nguyễn Khoa Nam điềm đạm, làm việc mẫn cán, chu toàn trọng trách tướng chỉ huy... Tướng Trần Văn Hai thâm trầm, khép kín, hút thuốc nhiều, và có vẻ ít nhiều định kiến với các cố vấn, giới chức Mỹ. Nhưng vị tướng này có tài quân sự, đã cho tác giả biết trước vào ngày 22/04 là Sàigòn đã bị Cộng Sản bao vây rồi sẽ "mất trong 7 ngày" sau đó, căn cứ theo sự thẩm định và ước đoán tình hình quân sự và những biến chuyển chính trị rất xấu cho miền Nam vào lúc bấy giờ. Tướng Hai nghiêm mặt, nâng cao ly cà phê được đặt trong chiếc bình giữ ấm, mời tác giả cụng ly để cầu nguyện cho những chiến sĩ đã hy sinh và chúc lành cho nhau... Tác giả dành cho Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (trong sách in là Canh, có lẽ tác giả quên cách viết chữ Cẩn) sự cảm mến nồng hậu. Trước khi làm tỉnh trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã nổi tiếng với những chiến công, nhứt là những trận đánh giải vây cho An Lộc, và một phần bên mặt bị thương, dù đã giải phẫu chỉnh hình vẫn còn để lại vết sẹo dài dọc theo hàm. Tác giả nhận xét Đại Tá Cẩn là "lính của lính, can trường và thanh liêm" (he was a soldier’s soldier, brave and incorruptible). Riêng Tướng Lê Văn Hưng, tác giả James E Parker, Jr ghi lại nhiều chi tiết hơn. Trong suốt thời gian về làm việc tại vùng châu thổ Cửu Long (Vùng 4), chủ yếu tại Cần Thơ và các tỉnh lân cận, tác giả do vai trò "case officer" trong ngành CIA nên luôn có dịp gặp Tướng Hưng. Ngày đầu tiên diện kiến ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tác giả "hơi lấy làm lạ" về cách đánh giặc và điều quân của Tướng Hưng là "thủ nhiều hơn công" khi đôi bên trao đổi và thảo luận, về kế hoạch quân sự trong vùng. "Tại sao lại đánh một trận chiến đang thua? "tác giả thắc mắc thì Tướng Hưng cười và hỏi lại: "Tôi còn có những lựa chọn gì nữa đâu?" rồi chậm rãi nói tiếp – "Đây là đất nước của tôi". Sau nhiều tháng liên tục làm việc để lập mạng lưới tình báo tại vùng châu thổ, tác giả ghi nhận Tướng Hưng dành rất nhiều thời giờ cho việc trận mạc: Sáng sớm thường đáp trực thăng đi thị sát và trao đổi với các đơn vị trưởng địa phương. Trở về họp tổng kết tại Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn và thỉnh thoảng họp khẩn về đêm. Càng về sau tác giả mới hiểu ra thêm tổng quan (outlook) của một ông tướng Việt Nam trong cuộc chiến giữa những người Việt Nam ngay trên quê hương của mình. Tướng Hưng tin rằng sự chiến đấu thực sự cho vùng châu thổ đang diễn tiến ở những nơi khác, có thể trong các cuộc họp hành ở Sài Gòn. Vả lại, là một người theo đạo Phật, ông tin vào định mệnh, những gì xảy ra với những hậu quả gì đem đến đều là sự an bài, xếp đặt trong vạn vật cả. Tuy nhiên, tháng 02/1975, theo đòi hỏi của cấp trên từ Cần Thơ và Sài Gòn, Tướng Hưng đã phát lệnh tấn công một lực lượng quân sự trọng yếu của Cộng Sản tại mạn đông của tỉnh Chương Thiện, nằm trong một mật khu lâu đời thuộc rừng U Minh – Theo tác giả, đây là chiến dịch động binh lớn nhứt và khổ cực nhứt của Tướng Hưng với những điều kiện khó khăn và phương tiện hạn hẹp. Chỉ còn cách tấn công địch theo lối "liệu cơm mà gắp mắm" thiếu hụt đủ thứ: Phi vụ không quân hạn chế nên không vận chuyển kịp thời các quân cụ, khí giới nặng, điều động nhanh các đơn vị chiến đấu tấn kích thần tốc. Quân đội Hoa Kỳ tuy để lại nhiều súng đại bác nhưng thiếu đạn, còn nhiều mìn claymore nhưng không có đủ bộ phận khởi động (activators), còn nhiều loại đạn dược, nhưng ngòi nổ đã tịt! Tuy vậy nhờ sự chỉ huy tài giỏi, sự can trường và thiện chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, lực lượng cộng sản Bắc Việt đã bị đẩy lùi sâu vào rừng U Minh khi kết thúc chiến dịch. Trận đánh lớn như vậy hẳn nhiên chiến trường tàn cuộc phải tang tóc, sự chết chóc và thương tật cả đôi bên phải nhiều. Tác giả ngậm ngùi ghi chép tâm trạng Tướng Hưng trong hoàn cảnh tàn cuộc chiến đó: General Hưng was not sure if he had, in fact, secured the net advantage. He had used much of his limited resources. For what?... He suffered extensive casualties. Tướng Hưng không biết chắc là trong thực tế mình có thắng lợi thực sự hay không. Ông ta gần như đã xả láng những gì còn có trong tay. Để cho gì đây? Ông đã chịu đựng bao thứ tai ương. Trong con người võ tướng còn có một văn nhân. Tác giả đã sống với Tướng Hưng những buổi chiều đằm thắm: Hỏi thăm chuyện gia đình, bàn chuyện nước Mỹ, chuyện thời sự, thảo luận văn chương. Kiến thức ông tướng uyên bác, nhiều nhà văn và tác phẩm văn chương Mỹ ông đề cập phần tác giả còn chưa đọc tới dù rằng là "mọt sách" đọc không dưới hai ba cuốn sách mỗi tuần. Còn Tướng Hưng ưa kể chuyện lịch sử Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương. Ông ăn nói cân nhắc, từ tốn, luôn tươi cười, ngay cả những khi tranh luận các vấn đề quan trọng. Tướng Hưng có được những nét tự tin đặc biệt và quanh người ông như toát ra vẻ thanh thản, trầm tĩnh. Tánh tình khả ái, rất dễ gây được cảm tình của mọi người từ ông tướng đã thu phục "con tim" của một điệp viên Mỹ, tạo thành tình bạn thân thiết giữa hai người. Và tác giả đã dành riêng phần lời bạt (Epilogue) để kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của Tướng Lê Văn Hưng. Dưới đây là phần dịch của Lời Bạt. Ngày 30/04/1975, đúng lúc 7 giờ tối, Tướng Hưng, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và cũng là người bạn của tôi, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ. Tướng Hưng cho vợ biết là có 10 người dân địa phương đến thỉnh cầu ông đừng chống trả với lực lượng Việt Cộng đang tiến quân vô thành phố. Họ nói bọn Cộng Sản sẽ pháo kích nát Cần Thơ thành đống gạch vụn và gây thương vong cho nhiều dân lành. Tướng Hưng nói với vợ rằng ông hiểu rõ chuyện đó và đồng ý sẽ không để thành phố Cần Thơ biến thành một bãi chiến trường tuyệt vọng. Ông cũng cho biết kế hoạch khẩn cấp rút lui cùng một số thuộc hạ vào một mật khu xa xôi vùng châu thổ đã hẹn trước, nơi sự sống khó tồn tại. Đầu hàng giặc không phải là một giải pháp lựa chọn. Tướng Hưng cũng không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một quan chức Việt Cộng trách nhiệm trong vùng, Thượng Tá Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Châu thổ Nam Bộ cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có một trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình. Vợ của Tướng Hưng bật khóc và năn nỉ ông hãy suy tính lại. "Tại sao mình không thể bỏ ra ngoại quốc giống như những người khác?", bà hỏi chồng. Tướng Hưng lập lại lần nữa với vợ về trách nhiệm riêng đối với xứ sở và binh lính. Ông ôn tồn và chậm rãi nối tiếp: "Mình đừng để anh bị mất lòng kiên định. Giờ đây cứ đánh tiếp cũng chỉ đem lại rắc rối và mất mát không những cho gia đình và bà con mình, mà còn cho binh lính và dân lành nữa. Và anh không muốn thấy mặt thằng Cộng Sản nào hết". Rồi Tướng Hưng đứng dậy, ôm vợ vào lòng, và rớt nước mắt. Sau cùng, ông nói cùng vợ: "Lẹ lên đi mình, tới mời Má và dẫn các con vô đây gặp anh". Khi người Má vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông rồi, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con. Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh. Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi cho ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó. Bầu không khí xung quanh nặng nề. "Tôi xin chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em", Tướng Hưng dứt câu. Tướng Hưng đưa tay lên chào và đưa tay bắt từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về. Một vài quân nhân vẫn đứng tại chỗ không chịu lui bước, nên Tướng Hưng buộc lòng phải bước tới đẩy và giục họ về. Rồi ông bảo vợ đừng có nài nỉ thêm điều gì nữa và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng (Hết trích). Sau phần Lời Bạt, và xếp cuối trang sách "Last Man Out" James E Parker Jr đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ hoa mỹ, lãng mạn và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ, hiệp khách Đông Phương: Do not stand by my grave and weep: I am not there. I do not sleep... I am a thousand winds that blow I am the diamond’s glint on snow I am the sunlight on ripened grain I am the gentle autumn’s rain When you awake in the morning’s hush I am the swift uplifting rush Of quiet birds in circle flight Do not stand by my grave and cry: I am not there. I did not die. Tạm dịch nghĩa: Đừng đứng bên mộ anh và nhỏ lệ: Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ đâu em. Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời Anh là kim cương lấp lánh trên tuyết lạnh Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa chín Anh là giọt mưa của trời thu êm ả Khi em thức giấc lúc ban mai thinh lặng Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao Những cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng Đừng đứng bên mộ anh và khóc lóc: Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em. Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh trên, tác giả James E Parker Jr xếp liền ngay sau phần mô tả cái chết của Tướng Hưng để xem như vòng hoa tang cho một ông tướng cốt cách hào hoa. Bởi vì trong đời thường và trong quân ngũ, Tướng Hưng vẫn không giấu được ngay cả dưới lớp quân phục những nét nho nhã và dáng hào hoa của một người đàn ông. Nhiều người nhận xét, Tướng Lê Văn Hưng “có tướng quan văn hơn là võ tướng", chẳng qua ông quan văn này phải khoác chiến y, áo giáp đỡ đạn trong thời chiến và trên chiến trường mà thôi ! Tướng Hưng cũng có tiếng là “người chịu chơi", nhứt là thời còn trai trẻ, sĩ quan còn mang lon cấp uý, cấp tá, nhiều phen “quậy tới bến" sau chiến trận được về lại hậu cứ nghỉ ngơi. Ôi, đó là những năm anh còn trẻ của một người trai thời ly loạn sống nay chết mai. Thiết nghĩ không ai quá khắt khe đối với ông tướng. Nhưng rồi ông tướng không mấy năm sau đó cũng có cơ hội, gặp thời thế để trả nợ chí trai và làm đẹp non sông: Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam. Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm "Last Man Out", tác giả James E Parker, Jr chính vì vậy đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt: I am not there. I did not die.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 15:43:29 GMT 9
Tu Sat (War Suicide) in Viet NamNghia Vo To die for one’s country is not only an act of bravery, it is THE act of bravery. For soldiers, it is just an extension of their military career, a part of their duty. As leaders have asked their soldiers to sacrifice themselves for the good of the society, it is only right for leaders to go through the same motion. They should practice what they have preached.
As war is seen as a noble act, tu sat serves as redemption in case of defeat. It is also a way to tell the enemy: “You might have won the battle/war but you don’t deserve to win because you don’t have the chinh nghia (just cause).” And t is not only just cause: it is the moral belief that the cause they are fighting for deserves their total sacrifice.
Although tu sat or tuan tiet means war suicide, there is no good corresponding word in English because the act itself is not practiced in the Christian West. Secondly, the word suicide does not convey the moral and courageous implication of the act. It is a closer equivalent of hara kiri or seppuku (1). Although hara kiri is practically a disembowelment, its practice varies from person to person. If the blade is thrust deeply enough, it could cause an immediate death through arterial bleeding. If inserted superficially, the still-alive victim would be beheaded by the assistant. While tu sat and hara kiri are technically different, the end-result is the same: the death of the person through his own hand or the hands of an assistant.
Vietnam is one of the rare few countries in the world where leaders killed themselves when they lost a war. We will review these cases of tu sat during the pre- and anti-colonial wars and the anti-communist war. I. PAST " TU SAT " At least seven leaders are known to have killed themselves for their country during the anti-colonial war: Vo Tanh, Ngo Tung Chau, Vo Duy Ninh, Truong Cong Dinh, Phan Thanh Gian, Nguyen Huu Huan, and Hoang Dieu. Many more officials could have committed suicide throughout history although their deeds have not been recorded. 1. Vo Tanh and Ngo Tung Chau Vo Tanh was one of the military warlords from Go Cong in the Mekong delta who had defeated the Tay Son around Gia Dinh Thanh (Saigon) in 1783 (2). Nguyen Anh—the scion of the Nguyen dynasty—realized he needed this valiant free spirit’s assistance if he wanted to succeed in his fight against the Tay Son. He recruited him in 1787 and gave him his sister as concubine. From then onward, Vo Tanh participated in most of Nguyen Anh’s battles against the Tay Son and proved to be one of his best generals. In March 1799, Vo Tanh’s troops besieged Qui Nhon—a port city in central Vietnam—which after four months of resistance surrendered. Nguyen Anh changed the city’s name to Binh Dinh (Pacified). He left Vo Tanh and Ngo Tung Chau in charge of the city and returned to his base in Saigon. Nguyen Anh at that time was battling a seasonal or “monsoon” war. In the spring, when the winds blew away from the Indochinese peninsula, he loaded his crack troops onto his sailboats in Saigon and headed toward a military target in the Vietnamese central coastal region. He dropped them off close to the target area where he met the rest of his troops that arrived by land. The whole army then attacked the target, which was decisively taken. He left some of his troops to guard the newly conquered area and headed home with the monsoon winds, which in November blew back toward the peninsula. Each year, he thus had a six-to-eight month-window to wage war as the winds shifted bi-annually (3). Realizing the strategic loss of Binh Dinh, which controlled access to Phu Xuan (Hue)—the Tay Son headquarters—Tay Son General Tran Quang Dieu decided to retake the city and its surroundings. In early 1800, he had his troops guard the land exits of Binh Dinh while a Tay Son naval fleet blocked the sea approach. Nguyen Anh in early April came to the rescue of Vo Tanh who was stuck inside the besieged Binh Dinh. It was a tough battle, which lasted until February 1801 (ten months) before the Tay Son fleet was destroyed after a bloody final 28 hour-sea battle. With the sea approach cleared, Nguyen Anh ordered Vo Tanh to get out of town: the latter refused to leave without his soldiers. Nguyen Anh realizing that the bulk of the Tay Son troops were encamped in front of Binh Dinh, concluded that Phu Xuan was defenseless and would be an easy target to take. Leaving Vo Tanh to hold the Tay Son army in place, he moved his fleet toward Phu Xuan and then up the Huong River where as expected he encountered minimal resistance. His troops took over the city on June 15, 1801—twenty-six years after he was forced to abandon it. Binh Dinh was still besieged by the Tay Son. For the last 17 months, the defenders had put up a valiant resistance. Running out of food supplies, they finally decided to kill their animals (horses and elephants) for their meat. Vo Tanh knowing the end had arrived discussed the surrender with General Dieu: he only asked the latter to spare his army. He then had a scaffolding built on which he stacked the remaining gunpowder. Dressed in full military regalia, he got up on the scaffolding and lit up the powder, which blew him up into pieces. That was the signal for his men to open the gates for the Tay Son to take over. Ngo Tung Chau had preceded him in death by taking poison. When General Dieu entered the citadel, he realized how brave his adversaries had been and had their remains buried with honor (4). 2. Vo Duy Ninh A combined Franco-Spanish force (2,500 French troops aboard 13 warships and 450 Spanish troops on a warship) attacked Danang on September 1, 1858. It met severe resistance from the Hue imperial troops, which were led by General Nguyen Tri Phuong. After five months of fierce combat, the invaders could only control an uninhabited stretch of shore. Frustrated, the French commander Rigault de Genouilly took two thirds of his troops and ships and sailed on February 10, 1859 toward Vung Tau where he thought he would face lesser resistance. He blasted his way along the Saigon River before taking the citadel of Gia Dinh on February 17, 1859 (5). Aware of the Danang attack by the French, General Vo Duy Ninh, the commander of Saigon-Gia Dinh citadel, thought that his troops needed some re-training to keep them abreast of new tactical maneuvers. The Vietnamese troops used breech-loading muskets and each soldier was able to practice shooting one single round each year. He unfortunately chose the wrong time for the exercise: he did it as the French came to town. The remaining troops that guarded the citadel were unable to hold against the French. Frightened by the massive shelling, they ran away. General Ninh aware of the defeat committed suicide instead of surrendering the Gia Dinh citadel to the invaders (6). 3. Truong Cong Dinh (1820-1863) Dinh, born in 1820 in central Vietnam moved with his father—a colonel—to Saigon. He later married a Dinh Tuong wealthy landowner’s daughter and used his wife’s financial resources to build a don dien (plantation). He enrolled impoverished workers and soldiers to assist him in his agricultural business. After Vo Duy Ninh committed suicide in February 1859, Dinh rallied around him imperial troops that had fled in disarray. With an army of about 1,000 troops, he began a guerilla warfare against the French. His initial military successes led the king to grant him the title of deputy commander of the southern forces. By 1861, his army grew to 6,000 men to back his military successes. The following year, he was promoted to commander of all the southern nghia quan (volunteer soldiers for a cause). The French were frustrated at not being able to crush the rebels as they were “everywhere and nowhere.” He then moved his troops to Go Cong where he continued his guerilla movement. When the 1862 Saigon treaty was signed (7), the Hue court cut off its support to Dinh and his nghia quan fearful that the French would use the insurrection as an excuse to expand their southern conquest. The court even ordered Phan Thanh Gian to pressure Dinh to lay down his arms. Dinh not only lost the logistical support of the imperial troops, the French were also free to focus their efforts solely on fighting the rebels. Local people who collaborated with the French gave the rebels new problems. Dinh, however, refused to comply with the court’s pressure arguing that his mandate came not from Hue but from the will of the people in the occupied territories. He gave himself the title of Great General for the Pacification of the Westerners and asked for the financial and moral support of the local people now that he had lost the court’s support. In February 1863, admiral Bonard encircled Dinh in his stronghold in Go Cong, from which he escaped after sustaining heavy casualties. On August 19, 1863 betrayed by a former rebel, he was ambushed and wounded. Facing imminent capture, he took his own life (8). Years later, Dinh’s wife returned to her hometown much impoverished. King Tu Duc felt that Dinh was a righteous man who deserved praise. He felt that he needed to support his widow who was alone, poor, sick, and miserable. He granted her a monthly allowance of twenty quan of cash and two phuong of rice. This was more than a mandarin could expect for his pay (9). 4. Phan Thanh Gian (1796-1867) Gian was the first southerner to pass the mandarinate exam—which would qualify him for an administrative or military position in the king’s government—with honors at the very young age of thirty. Many qualified candidates would not pass the exam until their mid forties. In 1831, he was appointed province chief of Quang Nam. The troops he sent to quell a Cham rebellion were defeated and caused him to be removed from his post. Although he was given another position, he learned to accept successes and failures in a dignified, stoic and almost fatalistic manner. The Hue court at the time of the French invasion was divided between the chu chien (hawks led by Nguyen Tri Phuong, Hoang Dieu, Ton That Thuyet, and Hoang Ta Viem) and the chu hoa (doves led by Phan Thanh Gian, Lam Duy Hiep, Nguyen Ba Nghi, and Truong Dang Que). Despite being hawkish, the chu chien were unable to think of any strategy to oppose the French. They did not contemplate mass resistance probably because the court had in the past so much antagonized the South that any thought in that direction might prove futile. They had taken down the Le Van Khoi rebellion, sentenced the leaders to death and massacred about 2,000 people. They had desecrated Le Van Duyet’s tomb and put three generations of his family to death. They had placed the South under the court’s control and sent all southern generals or lettered men away from the South, the upper leadership of which was no longer native. Southerners no longer felt like trusting the Hue government. The chu hoa felt that they could not resist the overwhelming fire power and military force of the foreigners. The court sent Phan Thanh Gian and Lam Duy Hiep to negotiate the Saigon treaty, which was signed on June 5, 1862. Besides the loss of three eastern provinces, freedom for Catholic priests to proselyte was granted throughout Vietnam. Tu Duc flew in a rage when he heard the news. By performing a necessary but unpleasant duty, Gian and his colleagues were not only vilified by the common people, they were also rebuked by King Tu Duc who called them criminals (10). Tu Duc, however, did not take any sanctions against them; on the contrary, he elevated Gian to Viceroy of the Southern Region and Resident Grand Dignitary and Plenipotentiary (Chanh Su Toan Quyen Dai Than). Gian being sixty-seven at that time requested permission to retire, but his request was denied. He was sent to France to negotiate the return of the three eastern provinces although he was not successful. He became aware of France’s technical and military advances. He saw trains running faster and farther than horses, ports crowded with ships armed with powerful guns, and gas lamps burning brighter than oil lamps. When he told Tu Duc about his assessments, the latter brushed away Gian’s apprehensions by saying: If faithfulness and sincerity are expressed Fierce tigers pass by, Terrifying crocodiles swim away Everyone listens to righteousness (11). Tu Duc—as the top Confucian man—implied that the French would respect a man of high rectitude like Phan Thanh Gian. Having seen his powers slipping away from him—loss of three provinces to France, unrest in North and central Vietnam, internal division between the chu chien and chu hoa—he could not help but ask himself why everything was falling apart under him. He probably wanted to reassure himself first. Akin to Montezuma who tried to stop the advance of the Spanish conquistadors with arrows and human sacrifices, akin to Nguyen Van Thieu who in 1975 tried to stop the advancing communists with the magic words of the Paris Agreements, Tu Duc attempted to repel the French with sharpened staves, swords, and righteousness. He would like to change, but the powerful chu hoa were hard to convince. There was heroism and self-righteousness in abundance in the Mekong delta. Nguyen Dinh Chieu (1822-1888) who was legally blind at that time heaped scorn on those who collaborated with the French. He would not touch anything that was western in origin like soap powder and forbid his children to learn the Romanized alphabet. How can a man of nghia betray his country? How can a man of nghia reject his family feelings? The Vietnamese, however, did not have the economic and technological means to build up a military response. The Hue government, as a Confucian state, did not have a foreign ministry and was not able to keep up with news and advances of the western world. The ministers at the Court locked in their gilded ivory tower and their thousand year-old Confucian learning did not care about what was happening in the modern world. The few who had traveled abroad like Nguyen Truong To and Phan Thanh Gian and talked about western technological advances were simply laughed at. The French using another pretext conquered three other provinces. Gian was forced to sign the 1867 treaty granting France the whole South—Cochinchina. He returned home dejected and declared: “But their (French) flag may not be allowed to fly above the fortress while Phan Thanh Gian is still alive.” He returned to the king all badges of office and the twenty-three royal awards he had acquired during a lifetime of distinguished service and intended to fast until he died. In contrast to other officials, he did not have a big estate or retinue to serve him. He was still alive two weeks later and finally died after taking additional poison (12). The chu chien sprang into action. They declared him guilty of the loss of the six provinces. Having killed himself, they thought he should be spared of posthumous decapitation. Tu Duc, however, revoked all his titles, positions and grades, had his name removed from the stele of the tien si degree-holders, and ordered his body exhumed and decapitated (tram hau) (13). “We leave for a thousand generations the sentence of tram hau. Thus we execute those who are already dead in order to warn those who are still living (14).” Thus died in infamy one of Vietnam’s greatest civil servants. As an abiding Confucian and a victim of the Nguyen’s failed policies of neo-Confucianism and self-isolation (15), he took the blame for the loss of the six provinces with equanimity. The thousand-generation sentence did not even last one generation. King Dong Khanh rehabilitated him 19 years later in 1886 and returned to his family his titles and medals. 5. Nguyen Huu Huan (?-1875) also known as Thu Khoa Huan (16) was one of the leaders of the resistance movement in the South. He was caught and forced to wear a cangue—a wooden framework around the neck as a portable pillory. It was a sign of infamy. He bit his tongue and died before being executed by the French. He left a few verses, which forever immortalized him. Folks on both sides, see what I’m bearing here? A moral burden, yes, and not a cangue! Beneath its weight, the scholar’s shoulders stoop; Around its neck, the hero flaunts his pride (17) 6. Hoang Dieu (1829-1882) Peasant unrest, tribal rebellions, Catholics, pirates, and the Le restoration movements contributed to the chaos in the North, which remained an unsettled region under the Nguyen regime. A French merchant trying to find a way to get to China through the Red river fought verbally with officials in Hanoi. In 1873, French officials in Saigon dispatched Captain Francis Garnier to solve the problem. The French overran the citadel, which was defended by 7,000 men. The 200-men-French force suffered only one casualty and two wounded. They went on and controlled four more provinces in the Red River Delta. Garnier was ambushed by the Black Flag river bandits and killed. A treaty was signed the following year with the Hue Court allowing the French to trade and to proselyte Catholicism all over Vietnam (18). Chaos resulted as the nghia quan joined the battle against the French. Tu Duc had to call on China for help. In 1882, French troops led by Captain Henri Riviere attacked the Hanoi citadel for the second time. The defense was better this time but the Vietnamese soldiers could not withstand the shelling of the naval artillery. The ammunition depot was hit and blew up. Soldiers scrambled for their lives. The commanding officer, General Hoang Dieu, calmly wrote the report and hung himself from a tree amidst the burning city. His body was brought back to his hometown Quang Nam for burial. Riviere went further but again was ambushed and killed by the Black Flags. It is interesting to note that while Tu Duc could not do anything against the French, the river brigands were able to kill two French officers and hold off their advance. II. MODERN TU SAT In 1975, as the fall of Saigon was taking place, many high-level officers and Saigon officials who refused to surrender took their own lives. 1. General Nguyen Khoa Nam (1927-1975), graduated from the Thu Duc Military Academy in 1953 as an Airborne officer. He fought against the Binh Xuyen in Saigon in 1955, and the Viet Cong around Saigon during the 1968 Tet offensive. He molded the 7th Division into one of the most efficient in the ARVN. As a three-star general and commander of the IV military region (IVMR), he used to drop by to support his soldiers during their military operations. A vegetarian, he led a simple life and followed Buddhist rules closely. Until the end, he requested every officer and soldier to remain at their post. When designated-President Minh announced his surrender to the communists, he reluctantly went along with the decision. He and General Hung gathered their staff and saluted the South Vietnamese flag one last time at the headquarters court. They then bid farewell to the staff and to each other. He went to the Phan Thanh Gian Military hospital in downtown Can Tho, to comfort and bid farewell to the hospitalized soldiers. When he returned to the headquarters, he was told that General Hung had taken his life. At 11 p.m., he called Mrs. Hung to offer his condolences. As a man of war, he did not believe in surrendering to people he thought he could defeat. Alone in his office, he put on his official white uniform along with his medals, sat on his desk and shot himself in the head in the early hours of May 1, 1975. His body was taken to the morgue and later he was buried at the Can Tho Military cemetery among his peers. In 1994, his remains were exhumed and cremated. His ashes are stored at the Gia Lam Pagoda in Gia Dinh. 2. Two-star General Le Van Hung (1933-1975) graduated from the Thu Duc Reserve Officers School class 5 in 1954 and was known as one of the five “Tiger officers” of the army. He was made general commander of the 5th ARVN division in 1972 when North Vietnamese General Giap unleashed a three-pronged attack on Quang Tri (I Corps), Kontum (II Corps) and An Loc (III Corps). General Hung and his 5th division defended An Loc for 95 days and defeated an overwhelming enemy force. General Hung was promoted to the post of deputy to General Nam. In late April 1975, these two generals had been offered evacuation thrice, but they flatly declined. By 4 p.m. on April 30, General Hung was still proclaiming he would not surrender to the Viet Cong. He later met his wife and son and told her to be brave and to raise his son as a man. He gathered his soldiers and told them: “I will not abandon you in order to evacuate my family. I cannot surrender in this shameful situation. If I have yelled at you on occasions, when mistakes are made, please forgive me.” He shook their hands and drove them out of his office, after which he locked himself in. A gunshot was later heard. His family and staff broke into the office and found the general, his arms outstretched, still convulsing with blood all over his uniform. He had shot himself into his heart at 8.45 p.m. on April 30, 1975 (19). 3. General Le Nguyen Vy (1933-1975), graduated from the Officers Candidate Course at the Regional Military School, MRII, at Phu Bai near Hue, class of 1951. He was a colonel at the battle of An Loc in 1972. As the attack raged on and as the enemy got closer, he single handedly took an M72 antitank gun to blast away a communist T54 tank. He became deputy commander of the 21st ARVN division and in 1974 went to the U.S. for military training. On his return, he became commander of the 5th ARVN division. When Saigon surrendered, he gathered his staff and bid them farewell. He locked himself in his office and shot himself with a Beretta 6.35. When the Viet Cong officer came to take over the military office, he calmly saluted the general and said: “This is how a general should behave (20).” 4. General Tran Van Hai (1925-1975), then a colonel, had parachuted himself at the famous battle of Khe Sanh in 1968. He became commander of the 7thARVN division in 1974 and was known as a brave and clean officer who also cared for his soldiers. In April 1975, President Thieu offered to take him out of the country, but he refused. He remained at his post and was notified of a heavy concentration of enemy troops across the border in Cambodia. He called the CIA representative to request air support, “We have them in the open. Now is the time to get them…I need help. Help me, CIA man.” But the agent could not do anything and the general later watched hopelessly as the enemy crossed the border and overran his troops. General Hai committed suicide instead of surrendering to the enemy. 5. General Pham Van Phu graduated from the Dalat Military Academy, class 8. He ordered the withdrawal from the II Corps under President Thieu’s insistence. The Viet Minh held him prisoner after the fall of Dien Bien Phu although they later released him. He vowed never to become prisoner of the communists again. He committed suicide on April 30, 1975. 6. Many more officers had committed suicide during the last days of the war. Colonel Le Cau, commander of the 47th Regiment and Colonel Nguyen Huu Thong, commander of the 42nd Regiment, both from the 22nd Division took their own lives instead of surrendering. Colonel Ho Ngoc Can, commander of the 15th Regiment 9th Infantry Division refused to surrender to the enemy. He and his men fought until the end and he was captured before he could kill himself. He asked to salute his flag the last time before being executed by a communist firing squad. Lieutenant Colonel Nguyen Van Thong saluted the Soldier statue in central downtown Saigon before pulling the trigger on himself. Around 2 p.m. on April 30, after a decent meal Major Dang Si Vinh had his wife and seven children drink some medicine before killing them and himself. His last note: “Forgive us. We do not want to live under a communist regime…” Former Prime Minister Tran Chanh Thanh fearing a fall into the hands of the communists he had deserted before 1954 ended his life by taking poison. This was a mass tu sat where at least five generals, four colonels, one major and a politician took their own lives in various places throughout South Vietnam. 7. Tran Van Ba belongs to an illustrious pedigree of southern Vietnamese nationalists. His great uncle Bui Quang Chieu—the founder of the Saigon Constitutionalist Party—was assassinated along with his four sons and a daughter in 1945 by the communists. His father Tran Van Van, a member of the South Vietnamese National Assembly, was also assassinated in 1966. Smuggled to France one month after his father’s death, Ba became President of the Vietnamese Students Association from 1972 to 1980 and denounced Hanoi’s “summary executions, military expansionism to Cambodia and Laos, and inducing the exodus of the boat people.” He returned to Vietnam in 1980 to continue the fight for freedom and democracy in his own homeland. He was jailed in 1984 and executed on false charges of treason in January 1985 despite international protests—including those of France President Valery Giscard d’ Estaign, Simone Veil and Laurent Fabius (21). The 2007 Truman-Reagan Medal of Freedom was posthumously awarded to Mr. Ba at the embassy of Hungary in D.C. on November 15, 2007. A memorial has been erected to Mr. Ba in Liege, Belgium and a street dedicated to him in Falls Church, VA by the Vietnamese community (22). By returning to Vietnam to fight communism, Ba knew he could be taken prisoner, jailed and possibly executed. He went ahead anyway. III. DISCUSSION Southerners have put up resistance against the French first then the communists. This may reflect the fact that in the 19th century the French landed first in the South forcing them to bear arms against the invaders. In the 20th century, southerners fought against the communists who had taken the power in North Vietnam in 1945. Vo Tanh and Ngo Tung Chau fought for the South. They sacrificed themselves to preserve their honor and not to fall in the hands of their enemies, the Tay Son. They at the same time tried to preserve their moral purity All these heroes lived for their nghia (righteousness): duty to their king and country. As Phan Thanh Gian was sixty-seven—this could be equivalent to today’s 80 or 85—he no longer wanted to work and had asked to retire but at the king’s insistence, he took on the position of Viceroy of the South. This was also a losing proposition because there was no way anyone could defend the South against the French who were mighty militarily as well as eager to conquer Vietnam. He had asked Tu Duc to reorganize the army, buy new guns and artillery pieces, but to no avail. The end-result was foreordained. Despite all these facts, he tried to deflect the blame away from the king by assuming himself all the blame. Truong Dinh wanted to fight on but the king told him to lay down his arms. He decided to carry on the insurgency anyway making sure to deflect the blame away from the king. During the anti-communist war, 300,000 South Vietnamese soldiers had lost their lives to defend South Vietnam against the Hanoi government. They were great, courageous men who had dedicated their lives to their country. When the latter sank, some killed themselves rather than surrendering. Instead of flying out, they preferred to die in their old Vietnam. The U.S. offered to fly Generals Nam and Hung out of the country, but they refused, accepting to die instead among their soldiers. General Le Minh Dao, the commander of the Xuan Loc region—the last bastion of resistance against the North Vietnamese during the Vietnam War—also declined to be air lifted by the U.S. in April 1975: he ended up being confined in a concentration camp for the next 18 years during which he almost lost his life. There was no greater dedication and self-sacrifice than this. These people had a very high sense of responsibility and morality. They were ashamed of handing over the troops under their command to the enemy or to turn themselves in. They felt they were betraying “not their emperor, but a sovereign state that had ceased to exist long before, whose ideals they, as military officers, still respected (23).” Although South Vietnam had lost the war, the fact that five generals and scores of colonels and other officers and civilians took their own lives at the end of the war showed that there was something bigger and larger than defeat or victory. There was pride and belief that what they were fighting for—freedom and dignity of human life—was worth more than life itself. By sacrificing themselves, they implied that life without freedom was not worth living. By dying, they made a mockery of communism, a theory they fought against and died to resist it. Westerners do not believe in taking their own lives when they lost the ultimate battle, although it is a known fact that ship captains would go down with their sinking ships. South Vietnamese Captain Nguyen Van Tha indeed went down with his destroyer HQ10 during the Spratly Islands (Truong Sa) battle against the Chinese in 1974. Easterners, on the other hand, were willing to die following crucial battle losses in order to preserve their honor. They did not want to surrender, to be caught and have to go through the shame of being held prisoner. By taking their own life, they still felt they had the control of their lives or had redeemed their honor. One soldier preferred to die with his glory intact. The other was willing to suffer from the humiliation of defeat. There is no intention to belittle those who had surrendered. They did it for various reasons: to save their troops or the civilian population; or because the commander-in-chief, President Duong Van Minh ordered them to surrender. Each man chose his version of glory, each man his pain and suffering. There is no right or wrong solution to the problem. Each person was the master of his own life. What is unique about the Vietnamese (at least the South Vietnamese) culture is that over many centuries, tu sat has been a part of their tradition. The Japanese share a similar tradition. Great numbers of officers, soldiers, and even civilians killed themselves when faced with defeat and the prospect of capture. They felt a man with honor would not allow himself to be captured by his enemy. Only hara kiri could erase shame, express ultimate devotion, or register protest (24) It should be noted that South Vietnam has been in existence since 1600 (25) while communism has been present only during the last seven decades. While southern nationalists believed in tu sat, northern leaders who demanded that soldiers sacrificed themselves for the Party, did not. Although General Vo Nguyen Giap who had sacrificed—in Vietnam we use the word nuong or roast—tens of thousands of North Vietnamese soldiers during the Tet attack and lost many more during the 1972 Eastern Tide attack had been demoted from his position of Commander of the People’s Army, he still held on to power and did not believe in killing himself. IV. CONCLUSION This study reveals a fairly high number of cases of tu sat throughout the centuries in Vietnam. Tu sat seems to be a unique southern nationalistic Vietnamese tradition akin to the Japanese hara-kiri or seppuku. NGHIA M. VO NOTES 1. Seppuku is the correct term while hara kiri is the commonly used word. The person disemboweled himself with his own sword and was beheaded by his assistant who in a sense completed the victim’s work. 2. The South (dang trong) had seceded from the North (dang ngoai) in 1600. During this revolutionary period (1771-1802), there was no central government in the South because the southern Nguyen had been toppled by the rebels Tay Son. The latter had expanded their control over the present-day central Vietnam while the Nguyen scion—Nguyen Anh—barely had control of the Mekong delta. In the North, the Chua Trinh controlled the house of Le. The warlords therefore roamed freely. They raised their own armies and fought for whomever they liked. 3. Nguyen Anh took 26 years to recover his ancestors’ throne. He was a methodical, conscientious, and careful person. Part of this had to do with the fact he had to rebuild his governmental infrastructure to raise funds to continue the war. Second, he wanted his army to have sufficient supplies and food they could use without having recourse to stealing from people. Everywhere his army went, he had new granaries built for their needs. Third, having lost many battles in the beginning of the war, he knew that help could come only with strings attached to them. 4. Le Thanh Khoi. Le Vietnam. Paris: Les Editions de Minuit, 1955: 318-21 5. McLeod MW. The Vietnamese Response to French Intervention 1862-1874. New York, NY: Praeger 1991: pp 43-44. 6. Ibid pp 52. 7. The three provinces of Bien Hoa, Gia Dinh Dinh Tuong were ceded to France along with a few commercial ports. The Catholic religion could be practiced freely throughout Vietnam. 8. McLeod pp 63-65. 9. Ibid 74. 10. Ibid 50-54. 11. Tran My Van. A Vietnamese Royal Exile in Japan. books.google.com/books?id=IkWLq_2lZ2MC&pg=PP1&dq=tran+My+van&lr=&ei=sZe0SMqyJ5TEzAS338H0Bg&sig=ACfU3U19tCi1hrqUxAo46zGUhmcz7LwCWg#PPA19,M1 12. Vo NM. Roots of Southern Nationalism in Vo NM, Dang CV, Ho HV. The Sorrows of War and Peace. Denver, CO Outskirts 2008 p 49. 13. The names and birthplaces of the graduates of the triennial examination are chiseled in stone steles that sat on stone tortoises housed at the Van Mieu (Temple of Literature). How could anyone decapitate a skeleton is anyone’s guess? But the king’s ruling had to be carried out and the decapitation had to be done. 14. McLeod pp 55-56 15. When Gia Long recovered his throne in 1802, his biggest mistake was to return to the old Confucian system to prop up his regime. Locked in this mentality, he and his descendants completely sealed their country (be quan toa can) to modernization and trade. This procedure in the end weakened their regime so much that it could not put up any resistance against the westerners. A few thousands of soldiers armed with guns and artillery were able to take over the whole country in a few years. 16. A cu nhan graduate of the regional examinations of 1852. 17. Translated by Huynh Sanh Thong. An Anthology of Vietnamese poems. New Haven, Yale. 1996: 84. 18. Jamieson NL. Understanding Vietnam. Berkeley, California 1995: 47-48 19. Dommen AJ. The Indochinese Experience of the French and the Americans. Bloomington, IN; 2001: 921-924 20. Vo NM. The Bamboo Gulag. Jefferson, NC: McFarland 2004 18-21 21. Follorou J. Quand la France cede aux pressions du Vietnam a propos d’une stele d’un square parisien. Le Monde 9/23/2008: www.lemonde.fr/asie-pacifique/article/2008/09/23/quand-la-france-cede-aux-pressions-du-vietnam-a-propos-d-une-stele-d-un-square-parisien_1098526_3216.html22. www.victimsofcommunism.org23. Dommen p 923. 24. French, SE. Code of the Warrior. Lantham, MD, Rowman & Littlefield 2003: 220-223. 25. Vo NM. Roots of South Vietnamese Nationalism in Vo NM, Dang CV, Ho HV. The Sorrows of War and Peace. 2008: 37-38.
|
|