|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:43:45 GMT 9
Sex và triều đạiTạ Chí đại Trường Trich VAN HOCSớm mai lên núi hái chè, Gặp thằng phải gió nó đè em ra. Em van nó cũng chẳng tha... (Ca dao) Mồng một tháng giêng (1501), vua về Tây Kinh, cấm các quan không được sai quân cờ chở vợ con, đĩ đi theo, bừa bãi tình dục... (Toàn thư, XIV, 23b) Sex, hiểu như là giới tính liên hệ với dục tính không thường thấy trong sách sử. Vẫn có thể thấy đàn ông làm vua, đàn bà làm hoàng hậu, thứ phi - với vài bà ngang ngược nhảy lên ghế rồng trị nước khiến đàn ông tức tối gán cho các bà đủ thứ tên xấu xa. Giới tính ghi ở đây là điều không thể tránh né, nhưng được sử quan hiểu rằng không cần bàn đến vì lẽ đương nhiên của sự phân biệt phái tính. Rồi lại vẫn có đấy, các quan thị ẩn khuất cúc cung phục vụ nội cung hay ra mặt lấn át triều đường, cả đến tung hoành giữa chốn ba quân, nhưng cũng phải nói đến vì đây là một tổ chức xã hội, tuy là riêng cho một tầng cấp ở đỉnh cao. Vẫn có đấy các đoạn văn phẩm bình những ông vua mê đắm tửu sắc, dâm loạn... Tuy nhiên các lời cao ngạo này của sử thần lại chỉ nhắm mục đích biện minh cho một lí thuyết sử học thiên về đạo lí chính trị được dạy dỗ từ các bậc thầy Khổng nho, càng xa cỗi gốc càng nghiêng về một tinh thần nghiêm túc thanh giáo, xa rời đến mực khinh ghét một sinh hoạt cơ bản nhất của con người vốn là đầu mối của sự tồn tại, phát triển, điều mà những người đại diện Thánh giáo này vẫn thực hiện thường xuyên, và dân chúng dưới quyền họ lại đưa lên thành tôn giáo, hay ít ra là một tín ngưỡng sâu đậm trong tâm hồn với những bằng cớ vật chất không thể chối cãi. Sex và các cấp bậc nho thần Muốn tìm tính chất giới tính trần trụi, hay có liên hệ với dục tính trong sử Việt phải đi ngược dòng thời gian của tài liệu còn giữ lại qua bao sửa đổi của người sau. Điều này thì không phải chỉ là chuyện của Việt Nam - Đại Việt. Bởi vì không có Việt Nho mà chỉ có nho-Việt học của người Trung Quốc, của Khổng Nho. (Cho dù muốn theo ông Kim Định như cả trong, ngoài nước hiện nay người ta cũng đang bắt chước để che giấu một niềm tự ti vạn kiếp, thì "Việt nho" của thời Viêm Đế gì đó cũng không phải là của tập họp người chỉ còn một tên giữ lại được trong lịch sử cổ đại là Lạc Việt, có ông vua gốc "Man Lão" họ Đinh làm việc "đại nhất thống" - chữ của Phạm Công Trứ 1665, có các vua gốc Trung Quốc họ Lí, Trần, Hồ, gốc Mường họ Lê, Nguyễn - không kể ông Quang Trung Nguyễn Huệ hình như cũng có máu Thượng Tây nguyên trong người.) Nho Giáo qua các lí thuyết gia triều Tống mang tính cách thanh giáo gay gắt, khai triển từ cơ sở nghi lễ thích dụng cho quân quyền, được tuyên dương trong các triều Minh Thanh. Nó có một thời gian dài đủ để tác động sâu xa trên các nho thần Việt Nam và đi vào sử sách. Tuy nhiên Trung Quốc không phải chỉ có Nho Giáo nên cổ sử của họ thời Tam Hoàng Ngũ Đế còn có chuyện rồng giao phối rải tinh khí trước sân chầu, văn khắc đời Hán còn có hình bà Nữ Oa và ông Phục Hi quấn đuôi vào nhau, Đạo gia như Cát Hồng, một thời làm huyện lệnh Câu Lậu ở Giao Chỉ, chỉ rõ phương cách thi hành tính dục để thành tiên thánh... Nho Giáo lại cũng không phải là Tống Nho cho nên ông Khổng Tử ngay cả khi bàn về đạo trị nước cũng không phải chỉ nói chuyện tôn ti, cương thường mông lung. Mà rất cụ thể. Bị vạ vì nàng Nam Tử, ông cũng biết than "Ta chưa thấy ai hiếu chính như hiếu sắc", nhưng trong đạo Tề gia ố trước giai đoạn Trị quốc, Bình thiên hạ, ông có dặn cách xử trí cho người đàn ông đa thê của thời đại ông: "Người thiếp dù có già, nếu chưa tới 50 tuổi thì cũng nên gần gũi 5 đêm một lần." (Lễ kí, dẫn theo Reay Tannahill, Sex in History, New York 1982, trang 184. Bản dịch của Nguyễn Tôn Nhan: Kinh Lễ, Nxb. Văn học 1998 không có câu này, có lẽ vì dịch giả đã lược bỏ nguyên bản rất nhiều.) Đó không phải là chuyện riêng tư trong phòng kín, bởi vì nếu không giữ yên gia đạo, nếu có xảy ra xào xáo thì hàng xóm biết chuyện, mất mặt, làm sao thi hành việc công, làm sao lấy được lòng tin cậy của vua chúa? Nho gia Việt không biết được chuyện đó. Họ được huấn luyện theo một thiên hướng khác nên không thể tin rằng có ý thức tính dục trong câu nói của bậc Vạn thế Sư biểu. Chỉ trong tinh thần phe phía họ mới sáng suốt lên khi công kích đạo Phật: "Khuyến thiện trừng dâm, con ai đẻ tháng Tư mồng Tám?" Còn thì họ vẫn nghe đến câu "Thư trung hữu nữ nhan như ngọc" nhưng cứ coi như một lời khuyến khích học vấn thanh cao mà không thấy hàm ý sử dụng hình ảnh sex của người xưa, lúc chưa bị những lời giáo huấn về "lễ" che lấp. Cũng như khi họ kính cẩn quỳ lạy Hoàng Đế, lết tới ôm gối theo kiểu "bảo tất" học được của vua Thanh, cũng có thể tưởng tượng những gì thầm kín trong cung thất nhưng cứ xưng tụng bậc Con (của ông, bà) Trời (đẻ ra) theo kiểu "nói dậy mà không phải dậy." Chỉ có ông vua mới chỉ ra sự thật không ai dám nói đó, và có lọt ra ngoài, có lưu truyền lại hậu thế thì không phải qua tai, qua miệng của người trong nước, người ở trong nước. Giá như đừng có ông Tây Chaigneau giúp việc cho Nguyễn ánh, giá ông con lai tên Đức không di tản qua Pháp viết hồi kí thì hậu thế không biết Gia Long đã dạy cho cậu bé bài học sinh lí đầu đời như thế nào. Và để người Việt ngày nay hãnh diện đã có ông vua, trước cả người nước Mĩ, biết sự giáo dục sinh lí cho trẻ con quan trọng là dường nào: Nó có cơ làm đảo lộn cả một ý thức hệ! Như đã biết, quyển Toàn thư là do tập họp sử quan nhiều đời viết nên. Phần của sử quan thời Lê Trung hưng khô khốc, buộc Lê Quý Đôn phải chê bai. Thời Lê sơ có ông vua ngày nay được coi là "nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn" (tiểu mục trong quyển sách kỉ niệm 500 mất của Lê Thánh Tông, xuất bản năm 1998), trừ một lời đâm-ngang của ông Trần Quốc Vượng, nhưng ngày xưa ông sử quan Vũ Quỳnh chỉ có thể nói mơ hồ về căn bệnh "xã hội" của ông hoàng đế, một phần chắc vì e sợ lời nói không thanh tao, phần khác vì vấp phải khả năng kiến thức y tế của thời đại. Trước ông một thế hệ, sử quan Ngô Sĩ Liên, dưới quyền của ông vua luôn luôn đề cao thánh giáo, đã dọn lại sách sử cũ, quyết định "lễ nhạc... chẳng có điều gì sai mà không sửa đổi" (Biểu dâng sách), cho nên đã xoá bỏ nhiều ghi chép của người trước tuy không thể nào tước sạch, chỉ vì người trong quá khứ đã không sống như thời ông, đi theo một lí tưởng chẳng bao giờ đạt được của tầng lớp ông. Sự cách biệt đó thấy rất rõ khi so sánh Toàn thư với Đại Việt sử lược, quyển sách tuy cũng của nho thần nhưng là người của thời đại về trước, lúc họ vẫn chỉ là gia thần giữa một đất nước có sinh hoạt không gì mâu thuẫn hơn nền chính giáo họ theo đuổi, nên chỉ đành bấm bụng than van (Lê Quát). Chẳng ở đâu trong Toàn thư thấy được đoạn văn này: "(Năm Ầt tị, 1185) Kiến Ninh Vương là Long ích đốc suất quan lính hơn 12 000 người đi đánh bọn Sơn Lão ở sách Linh để báo thù trận La Ao. Quân kéo đến đóng ở thôn Đỗ Gia, Long ích bắt giữ hết cả (người ở đó). Bọn Đinh Võ kêu than một cách thảm thiết. Người đi theo là Nguyễn Đa Cẩm thấy bọn Đinh Võ bị bắt làm tù, khoái chí bèn la mắng nhục mạ và đái vào miệng bọn Đinh Võ. Giống rợ Lão có tính hung hãn bèn cắn âm hành của Đa Cẩm. Đa Cẩm dùng tay đánh, Đinh Võ sẹo mất cả mồm. Đa Cẩm cũng ngã xuống đất gần chết. Do đó Long ích mới sai các quan chức làm con cá gỗ khớp mồm bọn Đinh Võ, xong, dùng gậy đánh chết rồi đem phơi khô thịt của bọn ấy". (Chép gần nguyên văn trong bản Đại Việt sử lược do Nguyễn Gia Tường dịch, TP. Hồ Chí Minh 1993, tr. 226.) Hình như đây là đoạn văn độc nhất trong sử cũ có nhắc đến bộ phận sex mà Ngô Sĩ Liên đã lược bỏ có lẽ vì "thô vụng" như ông đã cho biết khi biên tập sách xưa. Đoạn văn phát biểu bằng chữ Hán nên ta không biết người xưa gọi những cái đó là gì - có lẽ cũng gần gần như người nay với chút âm ngữ tất phải thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên với một chút còn sót lại đó, ta cũng có dịp để nghĩ rằng nếu Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu hay các Thực lục của Đinh, Lê còn nguyên vẹn chắc sẽ cung cấp cho ta những cung cách xử trí tuy thô lỗ nhưng rất sát thật với đời sống hàng ngày của người xưa như thế. Giống đực và giống cái trên triều đình Trên tột đỉnh quyền bính của nước Việt chỉ có một người đàn bà được sử ta cho là đã xưng "vương": Trưng Trắc. "Vua nước/dân Việt" đó (Việt điện u linh tập, 1329) lại chỉ được vua Trần phong là "Phu nhân" chỉ vì các ông không công nhận có vua đàn bà. Trước Trần có một cô bé làm kẻ lót đường cho dòng họ nhưng cũng bị né tránh chữ "vương". Chúng ta người đời nay vẫn không thể tranh luận được gì nhiều hơn. Chúng tôi từng nhắc đến các dấu vết rất nhiều trong thời có sử về vai trò nổi bật của người phụ nữ Việt nắm giữ giềng mối truyền thống. Tuy nhiên lại cũng biết rằng việc cầm quyền thật sự là của người đàn ông thuộc dòng nữ chứ không phải là đàn bà. Có lẽ, theo với thời gian, tổ chức xã hội phức tạp hơn, nhất là trải qua ngàn năm thuộc trị, người chủ tể mang vương hiệu của hệ thống quân quyền Bắc phương không thể là đàn bà tuy sự ghìm giữ của thói tục địa phương vẫn còn giữ lại cho họ một địa vị cao trong xã hội mà với thời gian cũng phải thu hẹp dần. Từ uy lực truyền thống chuyển qua sức mạnh của giới tính Chính vì nhận ra sự níu kéo của truyền thống nói trên mà chúng ta không lấy làm lạ như các sử quan nho thần về việc các ông vua Đinh, Lê và vài ông vua Lí đã lập nhiều hoàng hậu. "Hoàng hậu" chỉ là một cách gọi thuận tiện cho sử quan khi phải nói về vợ các ông vua. Đúng, đó chỉ là vợ các ông Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lí Công Uẩn..., giản dị có thế mà thôi. Tuy nhiên vẫn có điều nói thêm về các bà vợ này với vai trò khuất lấp nhưng không che giấu hết sự thật lịch sử bên dưới các danh hiệu vương giả vay mượn của họ. Ta chú ý đến một số hoàng hậu có chữ "quốc" kèm theo: Kiểu Quốc, Cồ Quốc của Đinh Tiên Hoàng, Trịnh Quốc của Lê Đại Hành, Tá Quốc của Lí Thái Tổ. Hẳn không phải các bà đó vốn có tên cùng âm, mang ý nghĩa xa lạ khác nhau nhưng do sự diễn dịch của sử quan, đã tạo ra sự đồng âm bắt buộc. Sau ngàn năm Bắc thuộc, người thủ lãnh đã xưng vương thì các bà vợ phải được gọi với tên trang trọng của tầng lớp thượng lưu Trung Quốc. Trừ bà Ca Ông còn có dáng Di Lão gốc như của Đinh, tên các bà khác đều nghe rất kêu: Đan Gia, Trinh Minh, Đại Thắng/Thánh Minh (Dương Hậu), Phụng Càn Chí Lí, Thuận Thánh Minh Đạo. Vậy thì chữ Quốc trên chỉ có nghĩa là "nước", các bà trên là đại diện của một "nước". Các ông vua có tôn hiệu chữ Hán dài dằng dặc, các bà vợ có tên sang cả, hẳn là do các quan học chữ Hán/nho (hay chính người Hán như trường hợp Hồng Hiến của Lê Hoàn) đặt ra. Họ đã từng ghi chép sử kiện của triều đại dựa theo các biến động tương tự ở phương Bắc: Cuộc tranh chấp giữa Ngô Xương Văn và Đinh Bộ Lĩnh với trung gian Đinh Liễn có dáng như chuyện giữa Hạng Vũ và Lưu Bang, chuyện Lê Hoàn cướp ngôi Đinh chỉ là kết quả đương nhiên của thời đại, từ người nắm quân binh, vậy mà được diễn tả như cuộc binh biến Trần Kiều của Triệu Khuông Dẫn lấy ngôi nhà Hậu Chu. Ý thức bắt chước cho được ngang tầm với người cai trị cũ khiến cho cái cổng ngoài của kinh đô Hoa Lư mang tên một biên ải của Trung Quốc, cửa Đồng Quan, nơi đó thay vì có quan quân bị lưu đày canh chừng sa mạc, lại có người đầy tớ (hoành) tước Phúc hầu tên Đỗ Thích, ngủ giữa trời nằm thấy sao rơi vào miệng, nhân dịp trở về nhà chính, liền làm việc thí nghịch tưởng là để hoàn thành thiên mệnh đã trao. Những cuộc phân tranh sau khi thành phần đế quốc Đường ở phương Nam sụp đổ cũng tạo nên những lãnh chúa địa phương mà hình tượng Thập nhị sứ quân không phải chỉ có 12 người, đã cho ta thấy tính chất manh mún của nó. Ngô Quyền xưng vương trên phần đất đô hộ cũ, phải coi đó là nước, nước Đô Hộ. Nhà Đinh có tên nước được ghi lại là Đại Cồ Việt nhưng còn lưu dấu tên của triều trước khi phong cho ông lãnh chúa Lê Lương ở một vùng ái Châu mà quyền hành ông hoàng đế không với tới, là "ái Châu, Cửu Chân Đô quốc dịch sứ", nghĩa giản dị là "ông quan phụng mệnh coi đất ái Châu, Cửu Chân của nước Đô (hộ)". Thật ra đây là ông vua nhỏ, cũng như vô số vua nhỏ khác chiếm quyền trên thân xác tan rã của cựu phủ Đô hộ. Tính chất liên minh khu vực của thời kì hậu thuộc địa thấy rõ với trường hợp Dương Đình/Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện, Ngô Quyền, với Trần Lãm và Đinh Bộ Lĩnh, và các liên hệ hôn nhân mà Đinh Tiên Hoàng dùng với Ngô Nhật Khánh, với em Trần Lãm. Ta biết được nhà Lí áp dụng liên hệ hôn nhân để lấy vây cánh là nhờ tài liệu ghi lại dồi dào hơn nhưng điều đó không phải đã không từng xảy ra về trước. Các bà được coi là hoàng hậu ngang nhau có nguyên nhân hẳn là từ những thế gia ngang ngửa quyền hành trong vùng, những tập họp địa vực hoặc cũng tự xưng là "quốc", hoặc được nâng cấp là "nước" để ngang tầm với phía thông gia. Và sử quan thời đại cũng lại có một mẫu hình phương Bắc để chính danh cho sử sự: lịch sử Xuân Thu Chiến Quốc với các "nước" tranh giành nhau trên quyền bính tột đỉnh mà không mất sự gián đoạn giao tiếp bên dưới, ở đây là của thời cựu thuộc địa. Quan niệm về sự đối kháng tập đoàn trong tính cách chiến tranh khu vực ít nhiều gì cũng cho thấy rơi rớt hình thức xung đột bộ lạc, trong đó tù binh nữ được coi như là chiến lợi phẩm, thể hiện nơi việc Lê Hoàn sử dụng các người vợ lớn nhỏ, các người hầu cận, ca kĩ của chúa Chàm sau trận chiến 982. Và cũng chính trong tâm thức thời đại đó mà các bà vợ "Di" có quyền "tay hòm chìa khoá" một khu vực như dưới đời Lí tiếp theo ngay sau đó, còn những đứa trẻ sinh ra, vốn thường bị ruồng bỏ vào thời gian sau, lúc này lại được công nhận chính thức, đương nhiên hưởng quyền lợi như các anh em khác mẹ khác để rồi theo khả năng riêng, cướp được chính quyền, nối nghiệp cha dù với sinh hoạt khác lạ đã khiến cho sử quan đẩy vào địa vị tội nhân của lịch sử: Đó là trường hợp Lê Ngoạ Triều ta đã bàn tới. Sự sử dụng nữ tù binh của phe chiến thắng đương nhiên là có tính chất ép buộc nhưng cũng có thể thấy là điều bình thường. Trường hợp gặp phản kháng như Mị Ê là đặc biệt. Lí Thái Tông là "the right man in the wrong place". Ông hấp tấp không lường được tâm cảm của kẻ thấy cảnh nước mất nhà tan còn sờ sờ trước mắt, và còn có sông nước thuận tiện bên cạnh tù binh, chứ nếu ông từ từ đưa về Thăng Long, an trí ở cung Ngân Hán xây xong thì Mị Ê hẳn cũng như Bà chúa Lẫm, Bà chúa Dệt Lĩnh nào đó được chia phần ruộng của ông hoàng đế điền chủ, sẽ thu lúa ruộng, trông coi quan nô tì trồng dâu nuôi tằm, an hưởng phúc mới, không cần phải tạo ra một cái chết bất đắc kì tử làm hoảng sợ ông vua của một thời lẫn lộn thần người, phải xây miếu đền để cầu xin tha thứ. Các nho thần về sau cũng chỉ là làm việc phụ hoạ, tán tụng người chết theo quan điểm của mình học được, vừa tỏ lộ được sự thông thái vừa để vớt vát uy tín của đấng quân vương vốn chưa từng sống như mình tưởng. Sinh hoạt riêng tư ở cung đình tuy không bày tỏ nhưng ta thấy được sự biểu lộ tính dục trong các tên cung điện. Bỏ qua các tên sang cả thì ta thấy "cung" chỉ là "phòng", "điện" chỉ là "nhà" để hiểu những diễn biến bên trong mà không ngạc nhiên. Lê có các điện Phong Lưu, Tử Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc, và chỗ nằm ngủ được gọi là Trường Xuân. Các danh xưng cùng ý nghĩ đó khiến ta ngờ rằng người đặt tên lầu Đại Vân mà Lê Hoàn khoe với Tống Cảo, hẳn có chủ ý liên hệ với chuyện "mây mưa". Lí Thái Tổ cho mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, có nghĩa là con rồng cao cấp sẽ đi qua cửa ấy để hưởng thú vui chăn gối, cũng như tất phải nằm chung với cung nữ nên một chỗ ở của những người này có tên là Long Thuỵ (nên sửa chữ "thuỵ" của bản chính thành: Con-Rồng-mỏi-mệt-thiếp-đi), cùng tên với điện Long Thuỵ được giảng rành rẽ: "làm chỗ cho vua ngủ nghỉ", cái cung được xây cùng với cung Thuý Hoa cho cùng mục đích mà khi nơi này xong thì có việc khánh thành trang trọng, đại xá, ban thưởng, trong khi sử quan không hề nói đến cuộc khánh thành nào khác. Lí Nhân Tông thì có cung Hợp Hoan (1089) mà sử quan không cần phải giải thích công dụng của nó, còn chúng ta thì có thể hiểu ngay. Vì Lí có chút đổi khác. Là dân lưu vong, Lí không có cơ sở bản thổ ở Hoa Lư nên phải dựa vào binh lực và hệ thống tôn giáo có sẵn mà phá vỡ truyền thống. Vẫn còn các bà vợ mang chức "hoàng hậu" nhưng chen vào là một phân biệt cấp bực, cho bà vợ mang tên Lập Giáo đứng trên hết với quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn những người kia. Sự dời đô về gần gũi trú quán quê nhà, với thủ phủ Đại La cũ có thói tục sinh hoạt thuộc địa hẳn là quen thuộc hơn so với thời ở hang động Hoa Lư , đã đem lại tự tín cho triều mới hơn, nên lại có sự đổi thay. Lí Công Uẩn có ba bà hoàng hậu mới mà ý nghĩa loại bỏ những người cũ nằm trong ghi chép "lại lập ba hoàng hậu" và tên mới đầu bảng của hoàng hậu Tá Quốc. Nước bây giờ chỉ có một, và vị thế tôn giáo phù trợ phải theo bà Lập Giáo tụt xuống sau cùng. Từ đây, ảnh hưởng vào triều chính của người phụ nữ Đại Việt không dựa vào truyền thống cũ nữa mà đi theo quy trình chung nhất của nhân loại các thời trung cổ, là sử dụng âm mưu của giống cái chen chúc trong một cung đình phức tạp, nhiều thứ bực nhưng cũng dễ đảo lộn. Điều đó thấy ngay trong đời thứ hai của nhà Lí. Lí Thái Tông vẫn lập 7 hoàng hậu nhưng có một hệ thống cung đình (1041) hợp với tình hình mới trong đó có thêm nhiều vợ nhỏ khác chủng loại (như người họ Đào ở Chân Đăng tây bắc 1033), và hẳn ông không chừa các nữ tù binh Chàm tập họp vào cung Ngân Hán 1046 - cái tên có ý nghĩa của một sự xa cách đường đất mà nay lại được tiếp cận chung chạ. Cho nên vị trí "hoàng hậu" thấy là bình thường trong quá khứ nay có thêm dấu vết của sự thiên lệch ưu ái. Toàn thư không nói gì hơn, chuyện năm 1035 "lập người thiếp yêu (không rõ tên) làm Thiên Cảm Hoàng hậu, phong Hoàng tử Nhật Trung làm Phụng Càn Vương". Tuy nhiên chúng ta lại thấy rằng tôn hiệu của bà được dùng làm một phần niên hiệu của vua sau trận thắng Chiêm Thành (Thiên Cảm Thánh Vũ) và cổ tiền gia ngày nay còn giữ được các đồng tiền có chữ "thiên cảm", "(phụng) càn vương". Phụng Càn Vương chỉ đứng sau Thái tử Nhật Tôn (Thánh Tông sau này) và từng cầm quân đánh giặc (1043), giữ kinh thành khi cả vua và thái tử cùng xuất chinh (1037). Rồi ông mất tăm dạng, gây thắc mắc hữu lí cho người sau, vì nếu ông chết bình thường thì ắt cũng phải được ghi chép cẩn thận như những người ít có tầm quan trọng hơn ông nhiều. Chỉ biết Công chúa Ngọc Kiều (1042-1113), con ông, còn được sử ghi lại là làm con nuôi Thánh Tông, được Thần Tông phong là Ni sư. Hệ thống cung đình có thứ bực của Lí đã thành hình, tuy còn chông chênh nên khiến phát sinh nhiều mâu thuẫn trong việc thế tập, thể hiện bằng những cuộc âm mưu hoặc phản kháng vũ lực. Thân Lợi làm loạn trong hai năm 1140-41, được sử quan cho là "tự xưng" con của người thiếp không được Nhân Tông thừa nhận nhưng có thể là đúng như đã cáo với nhà Tống, và nếu ta xét theo khả năng tập họp binh lực được nhiều người theo của ông. Trái lại, Thiên Lộc con người thiếp yêu của Thần Tông lại suýt được lên ngôi nếu không có cùng một lúc cả ba bà phu nhân tranh đấu theo kiểu vừa hối lộ, vừa làm áp lực tình cảm với ông vua chỉ còn chút hơi tàn, để đổi di chiếu. Cái đà của áp lực phái tính đó trong cung cấm khiến cho uy lực dòng nữ ngày xưa đang lây lất trong triều Lí, lại có dịp tồn tại trong sự kèn cựa chiếm đoạt quyền hành. Việc cậu bé 3 tuổi Thiên Tộ (Anh Tông) lên ngôi làm nổi bật vai trò những người bên ngoại họ Đỗ trên chính trường. Mẹ Thần Tông họ Đỗ (+1145), bà nội của ông vua bé con, đã đem em là Đỗ Anh Vũ vào nắm quyền. Thoáng về trước ta đã thấy có những người họ Đỗ trong đó có Đỗ Thiện mà người ta đoán là tác giả Sử kí, người được lệnh đi báo cho cha mẹ ruột việc Thần Tông lên ngôi, chứng tỏ dấu vết liên hệ bà con. Đỗ Anh Vũ có tiếng xấu với sử quan nho thần nhưng công tích với triều đại cũng không bị phủ nhận cùng với bia đá còn lại ngày nay đã giúp cho sử gia K. W. Taylor thêm một bài nghiên cứu. ("Voices Within and Without: Tales from Stone and Paper about Đỗ Anh Vũ (1114-1159)" trong Essays into Vietnamese Past, Cornell University 1995, 59-80.) Về sau lại có một bà Đỗ (Chiêu Linh) Thái hậu khác (Đỗ Thuỵ Châu +1190) phù trợ cho một Đỗ An Di/Thuận (+1188) là em trai, lên nắm quyền. Đến cuối đời càng thấy xuất hiện nhiều người họ Đỗ nổi chìm theo với sự suy tàn của triều đại. Điều ta chú ý ở đây là việc Đỗ Anh Vũ tư thông với Lê Thái hậu (Cảm Thánh, vợ Thần Tông) khiến xảy ra một âm mưu triệt hạ bất thành dẫn đến một suy luận có thể xa hơn về xã hội, hình luật thời ấy. Tính chất tư thông, cung cách chăm lo gỡ tội cho tình nhân của bà thái hậu khiến ta thấy có một chút gì bình thường thế nhân trong sinh hoạt đương thời. Như mọi tình nhân mê mệt khác, bà thái hậu buông rèm trị nước thay ông vua nhỏ, đem vàng bạc đút lót phe đảo chính, vận động phân rẽ phe này (trường hợp đối với Đàm Dĩ Mông), uyển chuyển làm theo luật nước để lật ngược thế cờ thua thành thắng, tạo nên một kì tích trong chính trường cũng như tình trường. Cũng bình thường đối với thời đại, như trường hợp một ông quan khác, Thiếu sư Mạc Hiển Tích tư thông với Thái hậu Đỗ Thuỵ Châu mà các quan đều né tránh. Chuyện ghi chép trong Đại Việt sử lược vào năm 1189, có gây cho ta thắc mắc về thời điểm (Mạc Hiển Tích trúng tuyển kì thi năm 1086, không thể hiện diện vào năm 1189, chưa kể còn làm việc quậy phá nội cung, và còn được sử ghi bị vua đày vào năm 1190 sau khi Thái hậu mất) nhưng có thể đã xảy ra vào một lúc nào đó. Chỉ có Thái tử Long Xưởng đi quá giới hạn mới gây tai hoạ cho mình. Toàn thư chép rằng "(Thái tử) Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết" nên phế làm thứ nhân và bắt giam. Chuyện này thì cũng từng xảy ra ở nước làm gương mẫu cho Đại Việt: Trung Quốc. Tuy nhiên, ĐVSL (trang 215) có chi tiết lạ hơn: "Long Xưởng có tính hiếu sắc. ở trong cung có cung phi nào được vua yêu quý, Long Xưởng cũng đều tư thông cả. Nhà vua rất ghét sự vô lễ ấy. Bà Nguyên phi là Từ thị được vua yêu, Hoàng hậu ghen bèn sai Long Xưởng lén lút đến tư tình để gây sự ngờ vực cho nhà vua, muốn rằng Từ thị từ đó bị vua đối xử nhạt nhẽo đi. Từ thị cứ tình thực tâu vua. Vua giận bèn phế Long Xưởng." Như vậy có nghĩa là trong cung vua, người ta khá dễ dàng tư tình, từ quan triều với mẹ vua, đến thái tử với các "dì" của mình, ông vua có biết cũng làm ngơ trừ phi động đến "cục cưng". Cho nên ta không lấy làm lạ về chuyện đời Trần. Và ở đây là bắt đầu từ trong dân chúng, dù đã xảy ra ở nhà hào phú.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:44:24 GMT 9
Từ bảo tràng của Đinh Khuông Liễn đến cây cột đá chùa Giạm Sử quan nho thần trong khi hạ bút để tuyên dương thánh giáo đã gạt hẳn những sự kiện xảy ra trái với ý thức hệ của mình. Người sau biết được những mảnh vụn rải rác là nhờ sự vô tình của các ông hay chỉ vì lớp sơn chuyển hoá mà các ông phủ lên đã không che lấp được hết quá khứ. Khảo cổ học Việt Nam ngày nay đã đào được các cột đá khắc kinh của Đinh Khuông Liễn dựng năm 973 và của các năm sau đó. Kinh khắc được ông Hà Văn Tấn khảo sát kĩ càng (Hà Văn Tấn, "Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư", và "Cột kinh Phật thời Đinh thứ hai ở Hoa Lư" trong Theo dấu các văn hoá cổ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr. 786-832). Ông cho biết kinh (bài chú) khắc trên hai loạt cột tuy có khác nhau một ít nhưng chỉ là một bản với mục đích cầu thọ của Mật Tông. Ông cũng chỉ rõ tính chất khác nhau của Mật Tông và Thiền Tông, ngành Phật vẫn thường được coi là chủ đạo ở Việt Nam nhưng qua bằng chứng ở các cột kinh này thì lại tỏ ra có liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên sự thông thái của ông vẫn bị những người "nghiêm túc" che chắn nên ta có thể chen vào một vài suy nghĩ thường tục hơn. Cột kinh có hàng chữ " Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ ... Nam Việt Vương" thêm bằng cớ xác nhận cho ghi dấu năm giáp tí kèm theo, là cột khắc năm 973, năm Liễn được vua Tống phong tước trên. Nam Việt Vương là tước trong nước (986), chức tước trong ngoài có đủ cho Liễn khắc kinh cầu thọ mong hưởng phú quý lâu dài. Nhưng loạt kinh tràng thứ hai thì rõ ràng là dấu hiệu ăn năn cầu thọ vì đã giết người, lại giết một đệ tử của Phật, Đại đức Đỉnh Noa Tăng Noa / Hạng Lang, nên hẳn phải được khắc trong hoặc sau năm 979. Kinh và chú của Mật Tông, vốn qua tay thiền sư Trung Quốc, chỉ là chữ (mà lại là ẩn ngữ), không thể cho ta biết sinh hoạt đi theo các bài ấy như thế nào. Đặc điểm của phần lớn các hệ phái tư tưởng Ần Độ, trong đó có Phật Giáo, là nằm ở sự mưu tìm Giải thoát bằng suy tưởng, trong khi Mật Giáo lại nhắm vào hành động (Reay Tannahill, sđd, tr. 222-223), như ông Hà Văn Tấn thấy họ "chú trọng đến các nghi lễ tôn giáo thần bí." Nhưng không hẳn vì họ "tiếp cận với Đạo Giáo (Trung Hoa)" - ít ra là đối với những người theo Mật Tông ở Đại Việt mà dấu vết để lại khiến ta phải hoài nghi. Điều đó có bằng cớ trong truyện Man Nương của Lĩnh Nam chích quái, quyển sách có thời điểm xuất hiện cuối Trần, tương đương với ĐVSL, nghĩa là không bị ràng buộc về tính cách thanh giáo như khi ta phải so sánh với tác phẩm của Ngô Sĩ Liên. Một chứng minh khác là Vũ Quỳnh khi phỏng theo truyện cũ để viết Tân đính Lĩnh nam chích quái (Bùi Văn Nguyên dịch thuật, chú thích, dẫn nhập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tr. 149) đã dàn xếp cảnh chùa chiền theo tính cách nam nữ riêng biệt, hợp với phong khí Nho học của Hậu Lê, điều không xảy ra trước lúc "sửa mới". Song ở cả hai bản đều có phần về nhà sư Ần Độ biết thuật kì lạ "làm phép đứng/nhảy một chân" và khi bước ngang qua bụng Man Nương đang ngủ thì khiến cô gái thụ thai. Địa điểm diễn tiến của truyện vẫn được coi là ở vùng chùa Dâu ngày nay, nơi phát xuất của một dòng Thiền Tông có tên là Nam Phương. Tên đó, nhà sư Ần Độ đó, tính chất thụ thai thần bí trong truyện tích cho ta thấy tính chất Mật Giáo của Ần Độ ở đây đã đậm nét hơn những gì lưu lại trong sách vở từ Mật Tông Trung Hoa. Không phải chỉ có dựng đạo tràng làm phép hô phong hoán võ, phục hổ giáng long, bay trên không, đi dưới nước, hay khắc kinh tràng ghi bài chú Đà la ni cầu thọ đã từng dùng cho ông vua Thiện Trú xưa... Nghi lễ của Mật Giáo Ần diễn tiến trong cảnh uống rượu, nhai thịt, ăn cá, điều mà Mật Tông Phật của Miến Điện thi hành khiến cho phái Tiểu thừa ở đấy lấy làm căn cứ để công kích tính chất tà đạo của đối thủ tuy không biết rằng những người này coi lạc thú như là thứ cần bồi đắp chứ không phải để xua đuổi, tránh xa. Sư đời Lí ở "giới trường, tịnh xá công khai uống rượu, ăn thịt, ở thiền phòng thì 'gian dâm' với nhau" không đợi đến Đàm Dĩ Mông tố cáo (1198). Nghi lễ Mật Giáo Ần có hành động giao hợp như chứng tích đạt được sự hoà hợp của tiểu ngã và Đại Ngã (vũ trụ). Vì thế câu thần chú linh nghiệm nhất, thường được sử dụng nhất: án ma ni bát di hồng / Om mani padme hum, có nghĩa theo tín đồ Việt là "Thanh tịnh: thân, khẩu, ý," nhưng nguyên gốc lại mang hình thức tính dục là "châu báu nằm trong hoa sen" - một cách nói thanh tao hơn của câu: "cái lingam nằm trong cái yoni". (Reay Tannahill, sđd, tr. 223-225). Chúng ta không biết hệ phái (Thiền Tông) Nam Phương chịu ảnh hưởng Mật Giáo Ần như đã nói trên trong chừng mực nào, nhưng chùa Dâu còn giữ lại đến nay hòn đá cầu mưa của Lí Trần Hồ gọi là Thạch Quang Phật, "có dáng một sinh thực khí nam" như xác nhận của người quan sát, và chùa còn có tên chùa Dặn (Rặn), nghĩa là từng giữ một cái yoni nào đó. Hòn đá như "cái nắm tay" đó chẳng thể nào là"cái nghiên đá" của sử gia nho thần, đã nấp dưới danh hiệu Phật Pháp Vân trong Toàn thư, nhưng chúng ta biết được đích danh nhờ sự tranh chấp ngôi vị hoàng đế giữa Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương qua câu đố thử thách của Hồ Quý Li vào đầu 1400. Cái yoni từng nằm trên trống đồng. Và trong dân gian còn có tục thờ nõ nường, rước sinh thực khí nam nữ, biểu diễn hành động giao hợp, qua mặt thời kì thanh tẩy xã hội chủ nghĩa, để còn tái hiện lễ hội Trò Trám (lấp đầy?) trong năm 2001, mở màn lễ Mật làm việc tính giao thật sự cho trai gái làng Dục Mĩ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, dưới sự chứng kiến của phóng viên ngoại quốc quay phim làm tài liệu. (Tin của nguyệt san Khởi hành, California, số 55, tháng 5-2001, trang 3). Xa tuốt về phía nam, trong đầu thập niên 1970, một người ở Phan Thiết còn nhớ trước 1945, hàng năm người Chàm thường tụ về một khu vực đồng trống bên ngoài thành phố để tế thần, với nghi lễ như trò Trám trên. Bánh dầy có dáng một cái yoni mà câu vè: Trúc Phê có tiệc bánh dầy, Bên á hả miệng bên này chày đâm, như một hình tượng về hành động fellatio đã có trong ngôn ngữ thường tục. Và tập họp "bán trôn nuôi miệng" có vẻ chứng tỏ người ta đã biết về kê-gian / anal intercourse. Những người chép bài chú Đà la ni cho Đinh Liễn hẳn là có chứng kiến những lễ hội tương tự trong thế kỉ X của họ. Lí Thánh Tông đem bộ linga yoni của Chàm về trong trận 1069 (từ Thuỷ Vân, bắc Quảng Trị?), tuy hành động mang ý nghĩa thu phục thần linh kẻ chiến bại nhưng lại không cho ta thấy là dị ứng với tục thờ Bà Chúa Xứ, bởi vì họ Lí đã đặt Bà làm chủ đàn Viên Khâu (1154), nơi vốn theo ý nghĩa gốc của nó là chỗ thờ ông Thiên, cha của vua, như Việt điện u linh tập còn ghi. Sự tiếp nhận không gây thắc mắc chứng tỏ trong các phong tặng của đời Trần tiếp theo: 1285 Địa Kì Nguyên Quân / Bà Chúa Xứ, 1313 Ứng Thiên Hoá Dục / Theo Đạo Trời Sinh Sôi Nảy Nở, và 1288 Nguyên Trung / Vốn Thẳng Cứng Xuyên Suốt (nếu ta loại bỏ ý nghĩa chuyển hoá che lấp của chữ Hán sử dụng mà trở về với nghĩa đen của hình tượng cụ thể, như ta đã nhìn thấy ý nghĩa đá trong các tước phong Quả nghị, Cương chính cho thần Cao Lỗ.) Các chùa gốc thờ thần Po Yan Dari Chàm, vào thời kì "bắc tiến" về sau, dưới lốt tổng hợp của Bà Chúa Xứ, đã xuất hiện ở Miền Bắc hoặc dưới tên thô lỗ mà chính xác: Bà Banh / Bà Đanh, Bà Chúa Ngựa, hoặc dưới tên chuyển hoá ẩn tàng, nôm hoặc nho: chùa Bà Ả, Nhà Nàng, Thiên Phúc (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Hà Nội 1993, tr. 248 / bia 1620, tr. 332 / bia 1622, tr. 474 / bia 1562). Tất cả chứng tỏ một sinh hoạt cúng lễ rất nghiêm chỉnh về cái giống trong suốt lịch sử Việt. Lại thấy hai trường hợp chữa bệnh hiếm muộn trong đời ông vua Thánh Tông và ông sau. Chúng tôi đã dựa vào truyền thuyết cho tới ngày nay và một sơ hở của sử quan mà cho rằng (Thần, người và đất Việt) thời đó, các ông pháp sư đã nghĩ rằng có thể sử dụng thân xác mình làm phương tiện chữa bệnh. Không hẳn là một sự lợi dụng nhưng là một tin tưởng kiểu của Mật Giáo đem vào hành động. ở cấp cao trên triều đình thì có một ông sư thực thụ (Từ Đạo Hạnh) và một ông gián tiếp làm việc truyền đạt (Đại Điên, sư chùa Thánh Chúa dạy cho Nguyễn Bông.) Địa điểm chùa, tên Cánh đồng Bông của nạn nhân còn lại ngày nay chứng tỏ một phần sự thật. Cả hai thầy pháp đều làm cùng một việc chữa bệnh là "lẻn vào nhà tắm" (như Từ Vinh, cha Từ Đạo Hạnh, lẻn vào chỗ ở của cung nhân), hẳn vì thế mà sử quan ghi là "việc bị phát giác". Thánh Tông giận sai chém Nguyễn Bông, nhưng Sùng Hiền Hầu lơ chuyện vợ mách. Điều đó được kể ở Thiền uyển tập anh đời Trần, chứng tỏ người đương thời từng in trí theo một lí thuyết để không cho là chuyện ghi lại có ý nghĩa "lợi dụng bậy bạ". Cho nên, Lí Nhân Tông, chủ nhân cái mukhalinga Việt Hán, nằm trong sinh hoạt của thời đại, hẳn là không có phản ứng phủ nhận khi biết rằng bản thân cao quý con-Trời được xưng tụng giữa chốn triều đình của mình lại đồng thời cũng nằm trong con cu đá kia. Ông hoàng đế - điền chủ còn chăm chút ruộng nương, gần như không bỏ sót một mùa cấy gặt, một khu vực cung cấp lợi tức của mình, biết xây cầu qua sông để nối liền trang trại bao la, tính chuyện tằn tiện tiêu pha cả khi sắp nhắm mắt, buông xuôi hai tay, cách sống như thế của con người tuy được thời thế cho nằm ở tột đỉnh xã hội, nhất định là không phủ nhận mà còn chia xẻ với những tin tưởng của người dân dưới quyền mình. Cho nên ông đã cho xây tháp chứa linga, cầu kì đến gần 6 năm (1088-1094), năm 1105 lại xây thêm ba tháp ở nơi ấy nữa, tính chất trân trọng đối với thần vật này thật không thể chối cãi. Sử quan Lê Văn Hưu (1274) có thấy mà không gọi "cây cột đá chùa Giạm" như người ngày nay, cây trụ đá chạm rồng xây dựng gần trăm năm trước, mà ông lấy hình ảnh cái nạo sửa chữ cao quý của thánh Khổng để che lấp thực tế "thô tục" của cái linga ông còn biết ý nghĩa đích xác. Cũng như các ông vua Trần của ông. Trần nữ - con gái nhà họ Trần Sinh hoạt tính dục của người họ Trần thường bị các sử quan đời sau chê trách. Với ông vua (Thái Tông) thì chê trách nhẹ nhàng: "Chốn buồng the cũng có điều hổ thẹn", căn cứ trên đạo lí: "Bỏ luân thường, mở mối dâm loạn". Nhưng với ông quan (Trần Thủ Độ) thì lời chửi mắng "thói chó lợn" được tung ra như để hả ấm ức không thể thốt ra hết với vua. Tuy nhiên các chứng nhân đương thời thì lại không có thái độ hùng hổ ấy. Lê Văn Hưu chỉ chê gián tiếp về các cách tung hô xưng tụng, Lê Tắc không nói một lời về sinh hoạt gia tộc phía chủ. Hai người kia là thủ hạ của dòng họ cầm quyền không nói làm gì, nhưng Hồ Nguyên Trừng đối kháng, ít ra cũng thuộc dòng họ "cướp ngôi", thế mà trong hồi kí Nam Ông mộng lục, ông này cũng không nhắc đến điều gọi là sự dâm loạn của họ Trần như người sau. Phan Phu Tiên (1455) đổ thừa cho người thứ nhất (TháiTông) là "mở mối dâm toạn... đầu têu cho Dụ Tông" sau này. Nhưng sử quan chỉ nói cho sướng miệng chứ Trần Cảnh lấy chị dâu là do sự sắp đặt ép buộc của Trần Thủ Độ và bà mẹ vợ Linh Từ, nguyên Trần nữ - con gái họ Trần. Ông đã trốn đi nhưng thấy "vua ở đâu thì cung điện (xây) ở đó", nên phải trở về. Sinh hoạt phóng khoáng, buông lung là của cả người họ Trần, của người đương thời chứ không phải do Thái Tông khởi xướng. Hãy cho rằng Trần Quốc Tuấn cướp Công chúa Thiên Thành, con Thái Tông, em con chú của mình, là muốn phá gia đình kẻ đã làm tan rã nhà mình, trước khi được nghe lời trối phải báo thù của cha. Tuy nhiên khi Thái Tông gả con cho người cùng thân tộc gần (có thể là em ruột) thì rõ ràng đó là điều bình thường của thời đại, sử quan không xoi mói ra để thấy là loạn luân. Lại thêm, xét cung cách tự nhiên của Quốc Tuấn lẻn vào nơi cô gái đã hứa hôn đang ở gia đình người vị hôn phu, thì ta thấy có sự thuận thảo giữa đôi bên, có sự đồng ý của cô gái, đồng thời cũng thấy có sự ngang bướng của con trai họ Trần như kiểu ông hoàng tử Trần Duy lẻn ra ngoài cung đánh nhau, ăn cướp (1254) - hẳn không phải vì thiếu tiền mà chỉ vì nhu cầu tung hoành, để chứng tỏ sự dũng cảm của mình. Liên hệ thân tộc trong hôn nhân họ Trần do đó càng chòng chéo, khó có thể xác định cách xưng hô với nhau theo cách ta thường dùng ngày nay. Cho nên ta không quan tâm về việc Trần Hoảng (Thánh Tông sau này) lấy em gái Trần Quốc Tuấn, mà chỉ chú ý rằng cậu thái tử mới được làm vua, lấy vợ (tháng 8 âm lịch) vài tháng (tháng 11) là đã có con ngay! Đó là chứng tích sinh hoạt tính dục mạnh của con gái họ Trần mà người còn lưu lại nhiều bằng cớ hơn vì có thời sống đời dân dã là: Trần thị / Trần Nhị nương - Huệ Hậu / Thiên Cực Công chúa / Linh Từ Thái hậu, một loạt tên với địa vị càng lúc càng cao cùng công tích với dòng họ càng sâu dày khiến cho sử quan khó tính phải quay lại xưng tụng. Nói nhiều về bà chúa này là ĐVSL mà một tên, suy ra có sự xuyên suốt các tài liệu, là Thiên Cực Công chúa (+1259). Toàn thư tuy chép sơ lược về thời nhiễu nhương chuyển tiếp Lí Trần nhưng cũng cho ta thấy tên bà vào lúc thành lập xong triều đại mới. Họ cho biết sau khi Lí Huệ Tông tự tử thì bà bị "giáng làm Thiên Cực Công chúa, gả cho Trần Thủ Độ..." (1226) Tuy tên tước này xuất hiện muộn sau tài liệu của ĐVSL nhưng lại là khởi đầu để cho sử gia dùng theo kiểu hồi cố, vì lúc họ Trần chưa làm vua thì không thể có danh hiệu "công chúa" được. Tác giả ĐVSL chắc sử dụng nó theo thói quen đời Trần là thời gian sử quan sinh sống, như Trần Thủ Độ đã dùng chữ "công chúa" khi nói với người khác về vợ mình. ĐVSL còn gọi là "Cô Hai họ Trần". Trần Lí còn một người con gái nữa được gọi là "Cô Ba họ Trần" gả cho Nguyễn Đường (1215) để ràng buộc người này khỏi thông đồng với Nguyễn Nộn, đến khi người này bị tử trận (chết ngay sau đó) lại gả cho Đoàn Văn Lôi (1218), một người con của Đoàn Thượng thủ lãnh của hệ thống họ Đoàn ở Hồng Châu. Vì các thứ bực này mà ta khó chấp nhận Trần Tự Khánh (+1223) là "anh" của Trần thị theo Toàn thư, vì đã có người anh cả là Trần Thừa (cha Trần Cảnh / Thái Tông). Tuy nhiên nếu xếp Trần Tự Khánh sau cả Cô Ba, thì tuổi ông ta có thể là quá nhỏ so với những hoạt động chính trị và quân sự vốn có tác động rất lớn trong việc gây uy thế họ Trần, dẫn đến việc chiếm ngôi mà Trần Thủ Độ chỉ là người kế tục. Chúng ta chờ đợi sự giải quyết rành rẽ, và bây giờ trở lại với Cô Hai. Lại phải thấy ĐVSL không bao giờ liên kết Cô Hai và Công chúa Thiên Cực: Cô Hai họ Trần đi với Hoàng tử Sảm (Huệ Tông sau này), còn Công chúa Thiên Cực chỉ xuất hiện trong những chuyện thông dâm hấp dẫn với người khác mà thôi. Nhưng không thể vì sự tách biệt này và vì Thiên Cực được dẫn trong đời Lí mà có thể cho rằng Thiên Cực là một công chúa của Lí. Nhà Trần khá kiêu ngạo nên không thể lấy tên hiệu một công chúa Lí phong cho bà vợ ông Trần Thủ Độ đầy quyền uy và là mẹ vợ của Thái Tông, người không chịu gọi Bà là Công chúa mà phong cho chức Quốc mẫu, có "xe kiệu, mũ áo, quân hầu đều ngang với hoàng hậu." Điều trở ngại khác là trong chuyện thông dâm với Tô Trung Từ/Tự (6âl.1211) thì sách có nói rõ chồng cô là Quan nội hầu Vương Thượng. Ta phải gỡ rối điều này, cũng là dịp nối kết Cô Hai với Công chúa Thiên Cực ố tất nhiên là cũng không được hoàn hảo, như nhiều vấn đề khác. Có một Quan nội hầu Vương Thượng ở tận Lạng Châu "xa xôi hiểm trở..." như lời Đàm Dĩ Mông can Huệ Tông khi ông vua muốn dẫn gia đình lên đấy tránh Trần Tự Khánh, tuy rằng cuối cùng ông vẫn có mặt nơi ấy (đầu 1214). Lạng Châu trong tranh chấp cũng thường đổi chủ. Tháng Giêng âl. 1212, Đinh Khôi đánh Lạng Châu, cướp các tài vật trong nhà Công chúa Thiên Cực rồi kéo đi. Điều này có vẻ như chứng tỏ có một Thiên Cực khác biệt với Cô Hai họ Trần, nhưng cũng có thể giải thích là một cách ghi sự việc hồi cố của sử gia vì sự hiện diện của Huệ Tông và Trần thị ở Lạng Châu về sau. Bởi vì chuyện Tô Trung Từ thông dâm với Thiên Cực lại xảy ra ở Gia Lâm, nơi này rõ ràng là cách xa Lạng Châu, khó thể liên kết với Quan nội hầu Vương Thượng, mà lại gần với Thăng Long của Cô Hai đang làm nguyên phi nơi ấy hơn, và cô cũng từng ở trong nhà Tô Trung Từ trước kia. Chuyện Phạm Du thông dâm với Thiên Cực đã xảy ra khoảng thời gian Cô Hai lấy Vương tử Sảm (tháng 7âl. 1209), và điều này là đáng chú ý: Phạm Du bận bịu với Thiên Cực, lỡ hẹn quân tình, bơ vơ bỏ thuyền lên bộ liền bị hai tướng bắt đưa cho Vương tử Sảm giết đi. Không phải ngẫu nhiên mà kẻ ngoại tình bị bắt lại được dẫn giải về cho ông chồng bị mọc sừng. Lê Tắc (An Nam chí lược, Huế 1961, 222) cho biết trước "hồi gần đây", lúc chưa có chuyện chuộc tiền thế mạng thì người chồng được tự chuyên giết chết gian phu. Tên Vương Thượng cũng có thể hiểu theo nghĩa khác. Đó là chữ theo lối ngày nay, viết thường, chỉ sự tôn xưng : "Vương thượng" chỉ Vương tử Sảm, lúc bấy giờ đã được họ Trần bỏ Vương tử Thầm, tôn là Thắng Vương. Sự nối kết "Vương thượng" với Quan nội hầu Vương Thượng ở Lạng Châu là lầm lạc của sử gia, hay của người sau chép lại sách. Như thế ta gần như đã nối kết được Công chúa Thiên Cực và Cô Hai họ Trần trong thời chưa vinh hiển, còn đầy quá khứ buông lung, phóng túng như những người con gái, con trai khác của thời đại. Đã nói, ĐVSL không chừa những chi tiết sỗ sàng, thường tục như chuyện Nguyễn Tự (1212) , một tướng ngang ngửa tung hoành thời đại, đánh trận bị trúng tên, về nghỉ, hơn 10 ngày "vì lầm lỡ ăn nằm với đàn bà nên khí độc phát lên mà chết"! Ông cậu Tô Trung Từ không chừa cả cô cháu nên ban đêm lẻn vào nhà, bị giết rồi cũng được cháu Trần Tự Khánh chôn cất tử tế. Cô Hai họ Trần "có nhan sắc" (sử quan nhắc lại nhận định của Vương tử Sảm), lấy chồng tuy thuộc dòng hoàng phái, có cơ nối ngôi Trời, nhưng lúc bấy giờ chỉ là người long đong, nên cô không quên nhìn sang kẻ khác. Đoạn văn của ĐVSL kể lại không thô tục nhưng đầy hấp dẫn, mở rộng lối cho dòng tưởng tượng: "Nhà vua (Cao Tông) sai Phạm Du đến lộ Hồng để huấn luyện quân sĩ sắp đánh người ở Thuận Lưu. Biết đã đến lúc dân Hồng đi đón mà Phạm Du còn cùng với Công chúa Thiên Cực tư thông, không ngờ qua khỏi giờ phút ấy thì đã sai hẹn với người Hồng rồi. Phạm Du bèn lên thuyền theo đường sông mà đi đến bến Cổ Châu mới dừng lại, rồi theo đường bộ đến xã A Cảo thuộc vùng Ma Lãng thì bị người ở Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải bắt đưa cho Vương tử Sảm giết đi." Một chuyến phiêu lưu tình ái đầy hấp dẫn mà thiếu người khai thác thành trường thiên tiểu thuyết hoặc phim ảnh bây giờ! Khúc dạo đầu của Cô Hai họ Trần khiến ta không lấy làm lạ với sinh hoạt tính dục của người họ Trần về sau. An Sinh Vương Trần Liễu nhân nước lụt chèo thuyền vào cung họ Lí hiếp dâm cung phi tiền triều (1238), tuy vẫn bị phạt cho phải phép nhưng cung Lệ Thiên ấy lại được đổi tên là Thưởng Xuân, tỏ rõ một ám ảnh thích thú của toàn dòng họ mới vừa sang cả, được dịp thành hình. Đã nói chuyện Trần Quốc Tuấn. Đã nói chuyện Thái tử Trần Hoảng (Thánh Tông). Hãy kể thêm chuyện Trần Khánh Dư và Công chúa Thiên Thuỵ, vợ Hưng Vũ Vương Trần (Quốc?) Nghiện. Nhân Tông tuy trị tội sai đánh chết nhưng dặn không để cho chết, và "gian phu" tiếp tục làm tướng, ngang tàng. Chuyện buông lung của nhà họ Trần không đủ giấy để kể hết. Đến như anh họ Đỗ (Khắc Chung) được mon men làm họ Trần mà cũng "kết" với gái họ Trần, vợ vua Chàm, tuy có bị dân chính thống chửi mắng phải tránh né, nhưng rốt cục chỉ khi chết đi mới bị trả thù trên cái xác! Điều đáng chú ý là sự chủ động của những người con gái họ Trần trên việc tìm người phối hợp giữa sự o ép của tình thế. Cái ego đàn ông của họ Trần không phải không mạnh. Trần Duệ Tông đánh Chiêm, tự thân xông tới, bị đại tướng can ngăn, liền chê: "Ngươi thật là đàn bà" rồi sai lấy áo đàn bà mặc cho! Nhưng bà Thiên Cực một thời tung hoành trên tình trường, đã chuyển sức xung động của mình vào việc quân cơ. "Khi... kinh thành thất thủ, Linh Từ ở Hoàng Giang, giữ gìn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con các tướng soái thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền các nhà chứa giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân." (Ngô Sĩ Liên). Đến cuối đời, vai trò đàn ông hết nổi bật, còn thêm tàn tạ nữa, thì hành tung của các bà lại hiển hiện rõ rệt như vào thời dòng họ còn là dân dã. Hoàng hậu của Phế Đế (+1388), năm 1393 đi chơi hồ Tây với Trần Nguyên Uyên (+1395), bị Nghệ Tông đem gả cho em Uyên là Trần Nguyên Hãng (+1399) để làm nhục, rốt lại trong biến loạn Minh (1406) thấy cùng với Trần Nguyên Chỉ chạy ra Đồ Sơn. Ông Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy thế nước nghiêng ngửa, hạ giá kết thân với họ Hồ nổi lên cũng khiến cho cô Thái bắt chước cha, có thai với anh đồ dạy học sợ tội bỏ trốn, không biết có phải từ đó đã sinh ra đại công thần Nguyễn Trãi sau này của triều Lê hay không. Nhưng nổi bật nhất là Công chúa Thiên Ninh (tên Bạch Tha, Ngọc Tha), con Minh Tông (+1357), lấy chồng năm 1342, trong biến loạn 1370 thấy có hai con đủ lớn để âm mưu giết Dương Nhật Lễ, không thành. Con chết, mẹ chết, Thiên Ninh đóng vai trò tích cực trong việc lật đổ Dương Nhật Lễ, xúi ông anh Trần Phủ lừng khừng, nhút nhát: "Anh phải đi đi (tránh nạn)! Em sẽ đem bọn gia nô dẹp nó cho!" Với công phục nghiệp cho họ Trần, bà được đổi tên là Quốc Hinh / Hương-thơm-của-nước, với tước phong Lạng Quốc Thái trưởng công chúa. Tuy nhiên lại cũng giống bà tổ Thiên Cực, bà không thấy thắc mắc về khía cạnh sinh hoạt tính dục của mình. Có cậu em Hoàng đế, vì danh y Trâu Canh cứu khỏi chết đuối lúc 3 tuổi, "châm" chữa sao đó mà bị liệt dương, Thiên Ninh liền chịu lấy thân mình chữa bệnh. Chuyện kể là năm 1351, lúc cậu vua 15 tuổi đã lấy vợ từ hai năm trước, còn bà chị thì đã được gả chồng chín năm trước đó nữa. Sử quan cẩn thận ghi lại bài thuốc, chắc là để dành cho người sau, vì thấy rằng "quả nhiên công hiệu": "Giết đứa bé con trai, lấy mật hoà với dương khởi thạch (?) mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột của mình thì sẽ hiệu nghiệm". Không biết các ông vua sau có dùng hay không nhưng công lao Trâu Canh đã khiến ông khỏi chết khi mắc tội thông dâm với cung nữ, còn được mời chữa bệnh khi Minh Tông hấp hối 1357. Hẳn Trâu Canh không phải chỉ chữa bệnh bằng bài thuốc mà còn bằng ngôn từ dẫn dụ, động tác làm gương vì sử ghi rằng ông ta "ra vào cung cấm hay dùng những câu kì lạ, những kế quỷ quyệt để huyễn hoặc Dụ Hoàng". Sử quan nhà Lê còn thấy con cháu Trâu Canh nối nghiệp nhà trong đời mình, trong lúc dân gian ngày nay thì thích thú riêng với bài thuốc của Trâu Canh mà chắc là không thể thực hiện được, nên chuyển qua chuyện truyền kì về anh nông dân ngờ nghệch tìm được loại dây thảo ở bờ mương, vạt suối nào đó, quàng vào thì cường dương còn tháo ra thì hết hiệu nghiệm! Cao độ sinh hoạt tính dục buông thả của nhà họ Trần tập trung vào chuyện Trần Dụ Tông, nên không lấy làm lạ là đã nảy sinh truyện Hà Ô Lôi của Lĩnh Nam chích quái, ghi lại dưới đời ông vua này, còn có cả thời điểm rành rẽ "Thiệu Phong thứ sáu" (1346). Truyện nói về một chàng trai sinh từ sự phối hợp giữa người trần và một vị thần, một chuyện thần lén lút cướp vợ viên quan đi sứ vắng nhà, sinh ra một cậu bé đen xấu nhưng nhờ Lã Động Tân làm phép nên có được giọng hát mê mệt lòng người. Dụ Tông mê Quận chúa A Kim mà không được thoả mãn mới bảo Ô Lôi đi dụ để bêu xấu, và Ô Lôi thành công. Các nhân vật, trừ Dụ Tông, đều có dáng lịch sử nhưng không rõ ràng. Đặng Sĩ Dinh, viên quan đi sứ có vợ bị thần hiếp, người làng Ma La, gộp lại giống như tên của ông thám hoa Đặng Ma La đỗ vào đời Thái Tông (1241). Huy Từ Hoàng hậu giống như được nhớ từ tên hiệu một bà phi của Anh Tông: Huy Tư. Và Minh Uy Vương, người giết Ô Lôi, như là đảo ngược của con Lí Thái Tông: Uy Minh Vương Lí Hoảng mà vai trò trấn nhậm Nghệ An hướng về nam khiến ông còn được thờ xa hơn, ví dụ như ở Bình Định. A Kim chỉ là tên tượng trưng của dòng cành vàng lá ngọc, cũng như Ô Lôi là trỏ hình dạng đen đúa của nhân vật chính. Tuy nhiên nếu loại bỏ những thêm thắt, ta thấy truyện có một cốt lõi thật, đáng lưu ý, nhất là với tình hình khả năng nho sĩ đương thời, rõ ràng họ chưa đủ sức viết được một "tiểu thuyết" của sáng tạo mà chỉ là tô vẽ từ "những chuyện góp nhặt... lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn" theo con đường chắc là thành công hơn Hồ Tông Thốc chỉ vì gần với nguồn thông tin hơn mà thôi. Dụ Tông mê người tôn thất là chuyện-thường của họ Trần. Dịch giả Lê Hữu Mục đã dựa vào thời gian xảy ra truyện tích, và lầm lạc với đời sống của anh Dụ Tông, Cung Túc Vương Trần Nguyên Dục, lấy người con hát sinh ra Dương Nhật Lễ sau được nối ngôi, mà đoán định niên đại ra đời của Lĩnh Nam chích quái (Sài Gòn, Khai trí xb. 1961, tr. 15.) Ông cho đó là chuyện của Dụ Tông chứ không phải của người anh nên xếp đặt sự thật sít sao từ chuyện đời thường qua sách vở để tìm ra luận chứng cho mình. Về phần chúng ta chẳng tìm cách kết tội người xưa, nhưng sự kiện Nguyên Dục cướp vợ từ tay người chồng họ Dương cũng được Lê Tắc nói về một ông vua khác cướp vợ hứa hôn của người (tương đối thất bại). Tên vua không được nói rõ, tên ngưới phụ nữ chỉ nhớ được từ quê quán (Vạn Xuân phi), nhưng Lê Tắc hàng Nguyên từ 1285 thì hẳn là chuyện đã xảy trước đời Trần Dụ Tông gần một thế kỉ (An Nam chí lược, tr. 238). Nhưng ở truyện Hà Ô Lôi, ta lại thấy nhiều tình tiết, tâm cảm thời đại hơn các dòng sử khô khan, đồng thời truyện cũng hé mở cho những suy đoán bất ngờ hơn. Trước hết là ở hình dạng nhân vật, được tả là "da thịt đen như mực", đen "nhưng da láng như mỡ", được cả tiên Đồng Tân khen "đẹp lắm" trước khi tiếp sức thêm giọng hát tuyệt vời ngoài tính chất thông minh mẫn tiệp khác. "Đen" ở đây rõ ràng là da đen theo giống chứ không phải vì giang nắng! Đời Trần đã có rất nhiều giao tiếp với hải đảo dân có màu da sậm hơn người Việt, vậy thì việc có một người con lai như thế không phải là điều lạ. Thời Lê Trung hưng có người lấy lái buôn ngoại quốc sinh con đen mà chắc vì sĩ diện con Rồng cháu Tiên người ta đã cho bà ta mãi đến sau hai năm xa chồng mới sinh con! Ô Lôi lúc lớn lên được vào hầu trong cung Dụ Tông. Phía trời Tây, triều đình người Ả Rập đã có rất nhiều nô lệ da đen "làm loạn" ở hậu cung như còn truyền lại trong Ngàn lẻ một đêm, huyền thoại về khả năng tình dục của người da đen có ở khắp nơi, cho nên cung đình họ Trần thêm một Ô Lôi cũng không là mới. Vậy phải chú ý đến sự "sủng ái" của vua đối với "tân khách" Ô Lôi. "Vua thường bảo ở triều rằng nếu ai có thấy Ô Lôi gian phạm con gái nhà ai, bắt nó đến đây thì vua thưởng tiền một ngàn quan, nếu giết nó thì phải bồi thường một vạn quan. Đi chơi đâu vua cũng thường cho nó đi theo." Tuy sử quan khen bài thuốc của Trâu Canh, nhưng chắc là không "công hiệu" lắm vì rốt cục Dụ Tông không có con, lúc chết đi phải để Dương Nhật Lễ lên thay. Vậy thì Ô Lôi trong triều, với những điều ghi lại "nhẹ nhàng" kia, chứng tỏ là một "boy friend" của Dụ Tông, điều đã thấy rất nhiều ở thời Cổ Hi Lạp, cũng như trong chữ Hán "đoạn tụ" (cắt ống tay áo), từ tích Hán Ai Đế (6-1 tCn.) phải cắt ống tay áo của mình mới trỗi dậy được mà không làm kinh động người yêu-trai (Đổng Hiền) đang ngủ mê mệt nằm đè lên (Hán thư, Đổng Hiền truyện). Nhu cầu sex ở người bị liệt dương cũng thấy ở Đàng Trong, thời chúa cuối đời Nguyễn. Lê Quý Đôn ghi lại (Phủ biên tạp lục, bản dịch Hà Nội 1964, tr. 65): "(Nguyễn Phúc Thuần) tuổi trẻ thích chơi bời múa hát, có bệnh không gần đàn bà được, sai người con hát yêu dâm loạn với cung nữ để làm vui". Ngờ rằng sự rối loạn dục tính của Phúc Thuần đã có mầm mống từ cha của ông: Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã cho gọi con trai là con gái, con gái là con trai, nhưng dấu hiệu phía nữ không thấy, chỉ rõ rệt là phía nam như, cũng Lê Quý Đôn cho biết Nguyễn Phúc Hiệu (con trai trưởng) được gọi là Đức mụ, còn Phúc Dương (cháu) được gọi là Chị Dương. Phúc Khoát có 15 con trai, không kể con gái, như vậy không thể là "bất lực", nhưng sự việc đổi-giống như thế tỏ ra ông có khuynh hướng đồng tính trong người. "Người con hát yêu" của Phúc Thuần, ở trường hợp Trần Dụ Tông là Hà Ô Lôi. Ô Lôi không phải chỉ là trường hợp đồng tính mà là lưỡng tính. Có lẽ hiếm có trường hợp văn chương sex trong sách xưa như ở đây. "Giọng phúng vịnh (của Ô Lôi) như đùa gió cợt trăng, như mây bay nước chảy làm cho ai cũng thích nghe, đến đàn bà con gái càng thích nghe hơn." Quận chúa A Kim "nghe tiếng hát Ô Lôi... véo von như tiết điệu Quân thiên... ý tứ thê lương" liền cho vào chầu hầu. "Thanh âm thấu cả trong ngoài, Quận chúa vì thế cảm động mới thành bệnh uất kết, dần dà đến ba bốn tháng bệnh càng nặng thêm... Một hôm Ô Lôi đêm vào hầu bệnh... Quận chúa không ngăn được tình dục mới bảo Ô Lôi rằng: 'Từ ngày mày vào đây, vì giọng hát của mày mà ta thành bệnh'. Rồi cùng Ô Lôi giao thông, bệnh dần dần bớt." Họ Trần chấm dứt vai trò lịch sử của mình, với cái đuôi ngắn ngủi của họ Hồ cũng là đóng kết luôn cả một giai đoạn sử nước Việt từ thời độc lập. Một giai đoạn mới sẽ bắt đầu với sự khích động của một thời thuộc trị nữa. Khi Thánh giáo lên ngôi. Tạ Chí Đại Trường
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:49:49 GMT 9
Trẻ thơ, xem Thầy tôi viết trướng liễn, tôi vui mắt mà biết yêu chữ. Chữ nghĩa có chi đó thần kỳ, khiến tôi lớn lên đam mê sách vở thành ra vụng dở việc đời, vợ con đùa cợt không sai. Xin gợi lại chuyện bút pháp ngày xưa. Chắc không khỏi có chỗ lờ mờ. Chữ là để viết ghi chú sự việc, làm sách làm văn. Bút pháp cũng chỉ là viết chữ. Nhưng là một lối viết chữ công phu, theo phương pháp và lề thói riêng, biểu hiện một phong cách sinh hoạt, không dùng làm văn, viết sách được. Họa hoằn, bút pháp có thể dùng viết một bài văn ngắn. Văn dài không viết nổi, vì phải dụng công nhiều. Nói đến bút pháp là nói đến các bức hoành (viết ngang), bức trướng (viết dọc), và liễn (hai câu đối). Gọi chung là trướng liễn thương ai chịu lạnh lùng...(thơ Phan thanh Giản đọc chại: trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng). Có khi cũng gọi là liễn đối. Trướng liễn viết lúc vui, viết lúc buồn, có khi viết cho mình, có khi viết cho người, công trình mỗi lúc mỗi khác. Thời học Hán, tường nhà nào cũng có treo trướng, treo hoành, treo liễn, như ngày nay treo tranh vẽ hay treo ảnh. Không phải nhà nho, cũng có người sính treo, mượn điều trang trí nhà cửa mua chút văn học làm vui. Bút pháp là cung cách nhà nho dùng xử thế. Vui cũng dùng đến, buồn cũng dùng đến. Những biến cố bất thường, nhất là chuyện đau buồn, trướng hoành trang trọng, thường được dùng hơn cả. Gặp vận hội may mắn, có thể dùng trướng hoành, nhưng ít chữ thành cô đọng, không nói hết điều vui thích. Câu đối hợp cảnh hơn, nên thường dành riêng cho các dịp này, thù tạc vãng lai, trà dư tửu hậu, hoặc để phúng thích, trào lộng, cợt đùa giữa bạn bè. Liễn nhiều, trướng hoành hiếm, vì thế. Chữ Hán dùng bút lông, viết mà như vẽ. Viết đến mức tinh vi, chữ viết thành tranh, là bút pháp. Nhà nho dùng bút pháp ký thác tâm sự vào chữ, như họa sĩ gởi chút linh hồn vào tranh. Viết chữ đẹp đã là nghệ thuật, chữ nước nào cũng thế. ở lớp nhất trong giờ viết tập, thầy Niên dạy tôi nghệ thuật viết đẹp, nắn nót một số chữ cái la tinh, hoặc tròn, hoặc dài, hay gothique. Nghệ thuật bút pháp thì khác, không chỉ đơn thuần viết chữ cho đẹp, mà còn là cách thế người viết tung hoành nét bút mà hành văn, lấy chữ nghĩa thăng hoa tâm sự của mình. Viết đẹp đã đành, nhưng chữ đẹp còn là thứ yếu. Nội dung gởi gắm bên trong chữ nghĩa mới đáng kể. Nội dung chữ nghĩa tầm thường, là loại bút pháp mua chợ Tết. Nội dung kiệt xúc, chữ nghĩa thành bất hủ. Bài "Lan đình tự" của Vương Hy Chi (307-365) muôn đời truyền tụng, mãi đến nay còn bày bán ở Ba lê, là do sự kết tinh này giữa bút pháp và văn chương. (Xin xem Simon Leys - L'humeur, l'Honneur, l'Horreur. Ed. R. Laffont 1991 - Và xem MiFu and the Classical Tradition of Chinese Calligraphy. L. Laderose - Princeton University Press 1979). Người quân tử, lúc đau buồn, đau tử biệt, đau sinh lý, đau đời dâu biển, phải làm chủ hoàn cảnh. Không thố lộ, tự nhiên nhi nhiên, nỗi mình mình biết, không để cho vương vấn lòng người. Những lúc ấy, nhà nho thường tự vấn, suy nghĩ về sự việc xảy đến cho mình, tự mình nói chuyện với chính mình. Đau cái đau của mình, nhà nho vượt lên trên hoàn cảnh, mượn bút mực ký thác tâm sự vào chữ nghĩa, dùng lương tri mà giữ lòng thanh thản. Và đấy chính là lúc cần phóng bút viết một bức hoành, hay một bức trướng, chọn chữ nghĩa cô đọng, súc tích, không cẩu thả, để giấu kín tâm tình. Năm chữ có khi đã là thừa, thường chỉ vài ba cũng đủ. Muốn hiểu, phải am tường điển tích, biết đến nơi các ẩn dụ bên trong. Tôi mất mẹ, Thầy tôi dùng bút pháp để chịu tang. Tục huyền, Thầy tôi lại bút pháp khúc quanh của đời mình. Lúc vận hội hanh thông, vui con mọn mới sinh, con gái vu qui, con trai thi đỗ, nhà nho dùng câu đối mừng điều hạnh ngộ. Nhưng phúc không được hưởng tận, dù chỉ là bằng chữ nghĩa. Nói đến chuyện may mắn một đời, người quân tử vui cái vui của mình, nhưng giữ mực khiêm cung, nhấn lên phúc phận trời cho, chứ không mang tài cán ra khoe mẻ hơn người. Và vui thích dù đến cực kỳ, vẫn giữ độ chừng mực, liễn đối không dài dòng quá vài ba mươi chữ. Nhưng khi phúng thích, có thể không cần giữ gìn quá đáng. Trà dư tửu hậu, bản chất trào lộng cho phép nhà nho phóng túng, nhất là nếu viết cho người. Vui buồn có trọng đại, mới viết trướng viết hoành, nên chữ nghĩa rất cân nhắc. Hoàn cảnh đổi, trướng hoành phải thay cho đúng nhịp đời. Bức trước nhường chỗ trên tường cho bức đến sau, đánh dấu một khúc quanh mới trong gia đạo. Nếu là chuyện sầu thảm, phải dẫn điều an ủi theo lẽ cùng thông, quan niệm ở đời sướng hay khổ, đã đến cực độ tất quay chiều mà thay đổi, không nên trách Trời già độc địa...' Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa' (Kiều), nhà nho chịu ảnh hưởng nhà Phật, xem chuyện đau khổ con người trải qua, là việc thưởng phạt thừa trừ theo luật quả báo. Cũng đau xót như người, nhưng nhà nho dùng bút pháp mà hy vọng, ai không tường, ngỡ là cam phận. Hoành trướng đã treo, bao giờ cũng treo gian nhà giữa, như một ký hiệu mệnh trời, giúp con người vượt qua hoàn cảnh, tự mình hoà hợp với chính mình, để cuộc sống từ đấy trở về nhịp cũ, an lành. Con cháu sinh sau, nhìn vào trướng, đọc lại chuyện thăng trầm của ông cha, có thể tìm đạo lý ẩn dụ mà học việc đời. Sướng, khiêm cung giữ mình. Khổ, không tuyệt vọng. Còn về chuyện sống chết, thì phụ mẫu, phu phụ, hay một người thân nào khuất bóng khi đủ tuổi trời, người quân tử tri thiên mệnh, biết đấy là lẽ vạn vật sinh hóa tự nhiên, nên có đau xót vẫn không bi phẫn quá độ. Đấy là các bài học căn bản mà bút pháp nghiêm đường đã gieo vào thần trí còn non của tôi. Người quân tử sống theo đạo nhân. Trướng đối là phong cách thể hiện đạo làm người bằng chữ nghĩa, điều mà nhà nho lo giữ hằng ngày. Tôi đến giờ vẫn không quên chuyện kết thân giữa Thầy tôi và một người hủi. Ông bạn già này của Thầy tôi mang bệnh nan y, nếu biết được, nhà nước bắt phải vào trại người cùi. Ông lẩn tránh mọi người, và bạn bè lẩn tránh ông. Chờ đêm đã sâu, ông thường đến nhà trò chuyện với Thầy tôi, người duy nhất quanh vùng còn chịu tiếp ông như trước, giữ cho ông một chút tình người ông đang mất dần. Rồi tự nhiên thành thói quen. Nhà dành sẵn cho ông một ghế dài, song song ghế Thầy tôi, ông đến nằm vào đấy. Lúc bàn chuyện đời hay chuyện sách vở, lúc yên lặng không ai nói một lời. Luôn luôn giữ ý, ông không nhận chi khác, ngay cả một chén trà. Sau vài giờ hàn huyên, câu chuyện đã vãng, ông bạn cùi đứng lên cáo từ, đi lẫn vào đêm tối. Trong nhà lo ngại truyền nhiễm, Thầy tôi biết mà không hề nói chi. Năm năm sau, ông bạn cùi mất, Thầy tôi cho đốt chiếc ghế ông bạn xấu số thường nằm, và cũng không nói chi. Thầy tôi nghĩ là không có chi đáng nói: bạn bè đều lẩn tránh, ông già cùi đang cần đến tình người, Thầy tôi không từ chối, đãi ông như trước kia đã giao thân, kín đáo giữ gìn một tí, đủ rồi. Công phu hàm dưỡng Nhà nho giữ đạo làm người. Vui hay buồn cũng cảm xúc như mọi người, nhưng khác người thường, ở chỗ, khi một biến cố xảy đến cho mình, biết hàm dưỡng giữ mình. Phóng dật, vui đùa ? Có thể đến chỗ Nguyễn công Trứ vai mang một gánh giữa đồng, thuyền quyên ứ hự..., hay Cao bá Quát một thầy, một cô, một chó cái..., nhưng đấy là mặt phúng thích vẽ ngoài, mà nội tâm bao giờ cũng cẩn trọng. Hạnh ngộ ? Tránh tự phụ kiêu căng. Đau khổ ? Sống đời dâu biển như mọi người, nhưng dần dà tách mình ra ngoài hệ lụy nhất thời. Trong cảnh một biến cố lớn nào bất ngờ xảy đến cho mình, nhà nho thường dùng chữ nghĩa chôn chặt tâm sự vào bút pháp. Trước hết là lọc lại hiểu biết và kinh nghiệm bản thân, đối chiếu sự việc xảy ra với sách vở đã xem, vận dụng vốn liếng ý thức và đạo lý, rồi nghiệm nghĩ, giữ sao cho thái độ mỗi lúc hợp với đạo người, tâm lý không bi phẫn, dù biến cố có thế nào. Qua nhiều đêm hàm dưỡng như thế, khi lòng đã lắng đọng thanh thản, thái độ đã lấy lại quân bình, chữ nghĩa tự nhiên nhi nhiên mà đến. Có khi phải kiêng khem nhiều chuyện, nhất là chuyện phòng khuê, giữ không bận bịu này khác, để tâm trí an tĩnh mà suy tư. Công phu hàm dưỡng này biểu hiện một nghệ thuật sống mà bút pháp diễn dịch thành chữ nghĩa, người quân tử giữ lòng mình không để lụy đến ai. Chữ viết nên, phải đẹp đã đành, nhưng ý tứ và tư tưởng bên trong phải thực hàm súc. Thầy tôi hạ nho, thận trọng không phô trương bút pháp trướng hoành, danh dự này dành cho các bậc đại khoa. Lúc cần, chỉ dùng liễn. Nhưng mỗi khi viết câu đối như một lần hành lễ. Phải sẵn sàng đủ cả. Đất đã quét sạch bụi, giấy hay vải căng thực ngay thẳng trải lên trên. Mầu đỏ, mầu trắng, tùy chuyện vui hay buồn. Mực Tàu mài nhuyễn đúng độ. Viết lông nhiều cỡ lớn nhỏ. Một lò trầm khói nhẹ thoang thoảng mùi hương. Thầy tôi khăn đóng, áo dài, thái độ nghiêm túc hay thong dong, tùy lúc đáng vui hay đáng buồn. Trên mặt giấy, mỗi chữ sẽ viết, Thầy tôi đặt sẵn một đồng tiền đánh dấu trung tâm. Gỡ đồng nào ra là viết lên chữ nấy. Ngồi lên chân, dạng gối hai bên bìa giấy, người tì lên cánh tay trái đặt sát đất, tay phải thong thả mân mê các ngón cho nhuần trước khi cầm lấy bút. Ngâm đầu bút vào mực, lăn qua lăn lại vài bận cho lông bút quyện mực dính chặt vào nhau, đặt đầu bút lên mép nghiêng ấn nhẹ cho nhả mực, rồi lại ngâm bút vào mực, ấn bút lên mép nghiêng lần khác. Cứ thế mà làm không hấp tấp, lúc thấy bút mực đã thuần thục mới dừng tay. Trên câu liễn còn tinh khôi chưa viết, đưa mắt cho tôi gỡ từng đồng tiền khỏi mặt giấy, Thầy tôi nhìn vào chỗ trống, hoa bút múa một điệu múa thần kỳ. Và trước mắt tôi, trẻ thơ thích thú, nghệ thuật hiện lên: một chữ đẹp, viết theo bút pháp chính truyền. Tay Thầy tôi múa nhẹ nhàng, nhưng chắc nịch. Chữ trước, chữ sau, theo một số cử động liên tục giống nhau. Nhịp viết không vội vàng nhưng không do dự. Chữ viết ra đều đặn, nhất quán. Nét chữ láng, đường mực trơn, không chắp vá. Hệt như tôi phải đọc thuộc lòng trôi chảy, không vấp váp, các bài ngụ ngôn La Fontaine với thầy Niên lớp nhất. So sánh như thế có phần gượng ép, nhưng quả các ngón tay Thầy tôi thuộc nằm lòng nghệ thuật bút pháp nhà nho. Và không phải ai cũng thuộc được nằm lòng như thế. Các cử động Thầy tôi, vừa chi li vừa nhẹ nhàng, gieo vào mắt trẻ thơ nhiều khoái cảm. Người không am tường có thể nghĩ nhà nho hình thức lôi thôi, viết thì cứ viết đẹp là đủ, cần chi phải dụng công đến thế. Nhưng nhà nho không quen làm dáng. Nghệ thuật khác, nghi thức khác. Mà bút pháp là nghệ thuật, nghệ thuật sống, không phải là nghi thức. Nghi thức không thay đổi, quen làm ai làm cũng giống ai, và ai làm cũng được. Nhưng đã dùng bút pháp, nhà nho không phải viết, mà sống một đoạn đời nào đó của mình. Lề thói bút pháp phải giữ hai điều : - Viết một chữ, bút chỉ lấy mực một bận. - Chữ viết xong mới nhấc bút, để viết sang chữ kế. Đã hạ bút, bút không tiếp thêm mực, không cất lên khỏi mặt giấy, khi chữ viết chưa xong. Chữ, nét nhiều nét ít không đều, nét gầy nét đậm khác nhau, không phải chữ nào cũng cần một độ mực bằng nhau. Bút lấy đủ mực để không hụt mực giữa chừng. Viết, có nét trước nét sau, không lẫn lộn được. Đưa bút nhịp nhàng theo trật tự các nét chữ, không sai, không vấp. Quả đúng là hình thức, nhưng nép theo hình thức, bút pháp lại là công phu nội tâm, nhằm hàm dưỡng hai đức lớn trong đạo làm người: kiệm ước và trung thực. Chữ đẹp, cần bút hút đủ mực dùng. Đừng hút mực thừa, chữ sẽ nhòe thành hỏng. Đời đẹp đủ sống (tri túc) là vừa. Giầu sang, thừa của tất hỏng. Đã hạ bút, đừng nhấc bút nửa chừng, bỏ dở chữ đang viết, rồi viết tiếp. Sống, không xao lãng cảnh đời đang sống, giữ cho mình trung thực với mình. Bất dâm, bất di, bất khuất, bao giờ cũng như bao giờ. Lòng không đổi thay theo cảnh. Lề thói như trên, không buộc ai phải theo. Viết như viết thường ngày, có người viết cũng đẹp chán, không cần đến bút pháp gói ghém thêm chi vào chữ nghĩa. Cũng hệt như thơ. Không ai buộc phải làm thơ. Thợ thơ cũng chán câu trầm câu bổng, chẳng cứ phải tải hồn thơ. Nhưng bút tháp vẫn nhiều nhà có danh, thơ vẫn có nhiều thi sĩ. Và Trung quốc giàu những danh sư bút pháp, còn lưu tiếng đến nay. Vương Hi Chi và Lan đình phú nêu trên đây là một. Tuổi còn thơ, tôi ngắm mặt ngoài chữ đẹp mà chưa nhuần bên trong tâm lý còn sâu. Nhưng cũng nhận ra Hán tự có chi đó thiêng liêng trong cách Thầy tôi dùng bút pháp. Tôi trân trọng chữ nghĩa thành thói quen, học theo người lớn hễ thấy chữ Hán rơi là nhặt lên. Nhặt chữ Hán, thực ra không phải là dị đoan hay tôn giáo. Chỉ là cung cách hàm dưỡng tiếp theo bút pháp, trọng hình tượng của chữ đó thôi. Với bút pháp, Hán tự vượt lên trên chữ viết. Trang trí lên tường, chữ Hán viết đại tự thành tranh, mang linh hồn vào mọi cảnh nhà, kể cả những nhà hàn vi nhất. Một hiện tượng dân gian bất ngờ và phổ biến: các gia đình nghèo, kém thua người, bao giờ cũng dành tiền mua ở chợ Tết, mang về treo lên tường nhà đủ ba chữ Phúc Lộc Thọ, trên giấy đỏ lốm đốm vàng sao. Nhà nước duy vật đẩy tôi ra nước ngoài tị nạn. Tôi mang theo hai bức trướng, mỗi bức hai đại tự, của một ông bạn viết tặng. Ông bạn là nhà sư, người đã từng làm Hoa kỳ rúng động một thời vào các năm 60 (ngôn từ báo chí Tây phương), biết tôi sùng Khổng, dùng chữ nghĩa tiễn tôi. Bàn tay nhà Phật thoăn thoắt múa theo điệu nhà nho, đưa tôi trở về đoạn đời trẻ thơ, thích thú dưới gối Thầy tôi 50 năm trước. Trên đường ly hương, bút pháp nhà sư nhắc tôi cách thế nhà nho sống an nhiên bình thản. Nhưng đã lâu rồi, tôi không còn giữ thói quen nhặt chữ Hán rơi.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:50:52 GMT 9
Một hiện tượng xã hội Hàm dưỡng đạo lý là việc người quân tử chuyên tâm, theo nhiều cách thế, mà bút pháp là một. Bút pháp không phải việc làm thường xuyên, vì nhà nho ít có dịp viết trướng liễn cho mình. Nhưng lại thường viết cho người. Bút pháp loại này chủ trí thức hơn đạo lý, thuộc phạm vi giao tế và sinh hoạt hằng ngày, không phải công trình hàm dưỡng nội tâm mà là một hiện tượng xã hội rất phổ biến. Không phải ai cũng viết được liễn đối. Nhưng nhiều người cần có liễn đối treo nhà, mỗi lúc gặp hoàn cảnh vui hay buồn, muốn ghi nhớ: khóc vợ chết, con chết, mừng vợ mới sinh, con thi đỗ, con nên vợ chồng. Để lưu một kỷ niệm về sau, nên thuở chưa có máy ảnh, cần đến chữ nghĩa. Có nhà nho nào gần đấy mà xin chữ càng hay, nếu không, cậy một người viết mướn, viết cho vài hàng khóc vợ, mừng con. Người viết mướn, chợ Tết năm nào cũng có mặt. Còn ngày thường, quanh quẩn thế nào cũng có người, để mời đến nhà viết giúp. Mỗi cảnh vui buồn, văn chương đã sẵn. Chọn một câu hợp tình hợp cảnh, ông ta phóng bút khóc hộ vợ cho người vừa chết vợ, hay mừng hộ con cho người mới sinh con. Bút pháp có thể họ không kém ai, nhưng đây là nghệ sống, người viết không chú ý đến thuật văn, miễn nhà chủ thù lao phải chăng, đình đám thế nào cũng được văn vẻ, nhưng chỉ bằng những sáo ngữ quen dùng. Nếu một nhà nho nhận lời viết hộ, không có chuyện thù lao. Ai mang tiền mua được bút pháp nhà ông Yên đổ ? Mà ai có việc, lại không thèm chữ ông Yên đổ ? Còn Yên đổ, ai đến "xin chữ" ông cũng cho, bất luận sang hèn. 'Chữ Thánh hiền ', có người đến cửa 'ăn mày' , nhà nho không có quyền từ khước. Người viết mướn, sống nhờ chữ nghĩa, không phải lo đến văn, vì đã sẵn xuân du phương thảo địa. . . . hạc giá vân du. . . v. v. Còn nhà nho thì sống với chữ nghĩa, ngay cả khi viết hộ người. Gia chủ chỉ phải theo nghi thức mang ít nhiều vật phẩm đến lễ. Như cha mang quà tết thầy dạy con mình, là được. Giao tế thông thường đấy thôi, không sợ từ chối. Nếu là bạn bè cậy nhau, thì lại là dịp các cụ tùy cảnh ngộ mà phóng bút, phúng thích, đùa cợt lẫn nhau. Nhà nho, đã mang chữ cho ai, phải là một sáng tác, không thể cho ai sáo ngữ, như người viết thuê. Ngoại trừ kẻ xin chữ quyền uy, cho hắn chữ không thú vị chi, nhưng từ chối hắn không tiện. Trong tình huống ấy, muốn không lộ liễu, nhà nho sử dụng sáo ngữ, người sành biết đấy là cách thoái thát. Nhưng có lúc sáo ngữ bất ngờ thành văn chương cẩm tú. Như câu chuyện còn truyền tụng sau đây. Tiền quân Nguyễn văn Thành, từ Gia định mang quân nhà Nguyễn bắc tiến, đạp đổ nhà Tây sơn, chấm dứt nội chiến, thống nhất giang sơn, được Gia long phong làm Bắc thành Tổng trấn. Ông tướng đại thắng cho lập đàn truy điệu "bộ đội", tự mình soạn bài văn tế chiến sĩ trận vong chợt nhớ thuở tấm cừu treo trước gió. . . ngày nay còn làm đề tài văn học giáo khoa. Nhưng ông Thành khiêm tốn, nhường sĩ phu Bắc hà danh dự soạn cho mình đôi câu liễn dán vào hai cột cổng đền. Danh dự này khiến làng nho Thăng long bối rối. Gần hai trăm năm sau, trí thức Sài gòn tất đã bối rối như trên, nếu Văn tiến Dũng cũng học đòi khiêm tốn như Tiền quân Thành, mà dành cho trí thức Sài gòn danh dự tán dương bộ đội miền Bắc, sau khi mang quân cộng sản Nam tiến, đuổi tướng tá Cộng hòa chạy như có cờ, rồi thôn tính thành Phiên an. Bị "bộ đội" miền Nam chiếm lĩnh, người Thăng long lưu luyến cựu trào có gan tày liếp cũng dám đâu từ chối. Lại không biết vượt biên, vượt biển như dân Bến nghé Đồng nai hai trăm năm sau! Mà chìu lòng ông Tổng trấn, thì chữ nghĩa thế nào đây cho phải ? Chẳng lẽ tự mình sáng tác ai-điếu "kẻ thù". Tất phải dùng sáo ngữ tránh né. Nhưng dễ gì đào ra hai câu đối chẳng đặng đừng này, để kín đáo gởi gắm bên trong chữ nghĩa vay mượn lòng khinh miệt quân Nam cho bõ ghét. Khó lòng qua mắt, bỡn cợt ông Tiền quân! Làm đại tướng mà ông lại thâm nho, trận thắng lớn kia, bài văn tế nọ, còn hôi hổi nóng. Không biết xử trí thế nào, nên các cụ chần chờ. Một anh khóa trẻ thấy các bậc tiền bối lóng cóng, bèn đề nghị hai câu : Nhật mộ hương quan hà xứ thị Cổ lai chinh chiên kỷ nhân hồi. Câu đối khắc lên cột, ông Thành khoái mà các nhà đại khoa Bắc hà cũng khoái. Nhưng khoái mỗi bên một cách. Các cụ khoái, vì câu chuyện khó xử mà lại được êm xuôi. Làng khoa bảng Thăng long làm một việc tối kỵ giữa nhà nho, là rửa tay vay mượn chữ người, không muốn thốt tự chân tình, dùng sáo ngữ cung chiêm. Sự khinh nhờn này không lẽ che được mắt ông Tiền quân ? Thâm nho như ông sao không nhận ra nhỉ ? Vậy mà ông Thành vui vẻ thực tình suốt buổi lễ, đọc câu đối cười vang khoái trá, không cần giải thích theo thường lệ. Vế trước, rút từ bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu. Vế sau, rút từ bài Lương châu từ của Vương Xương Linh. Hai bài thơ Đường này cổ kim truyền tụng. Nhưng tách khỏi toàn bài mỗi bài một câu làm hai vế đối, thì câu nào cũng chỉ còn trơ ý hiện, theo nghĩa đen, mất hẳn cái hay toàn bộ thi cảnh dồn trọn vào câu thơ. Bùi khánh Đản dịch câu đối như sau. Vế trên: "Bóng chiều đã ngả đâu làng cũ". Thiếu cảnh lầu Hoàng hạc, thiếu cảm quan chim vàng bay mất, thiếu khung trời xưa mây trắng, thiếu cỏ thơm, thiếu sông tạnh, thiếu cây bày, câu thơ rời thi cảnh để làm một vế câu đối, nên chỉ còn nói được nỗi lữ khách nhớ nhà, bình thường và tầm thường theo ý hiện, ai cũng có lần cảm xúc như thế, đâu chờ Thôi Hiệu nói lên. Vế dưới: "Xưa nay chinh chiến mấy ai về" . Không có mỹ tửu, không có dạ quang, không dục ẩm, không túy ngọa, không sa trường, không có mã thượng, chỉ còn trơ lời than thở như xin đừng ai cười kẻ háo chiến vong thân, không được trở về. Rõ là lời dè bỉm lính chết trận vô duyên. Người không từng biết hai bài thơ bất hủ nói trên, chỉ hiểu ý hiện hai vế đối, chẳng thấy có chi đặc sắc. Nhưng đã là thơ Thôi Hiệu, thơ Vương Xương Linh, thì ai còn bắt bẻ được. Đạo văn để tránh cảnh khó xử đến như thế là tuyệt. Các cụ khoái trí vì lẽ ấy; ông Thành thâm nho, lại khoái vì lẽ khác. Sĩ phu Bắc hà đạo văn đấy Tiền quân biết rõ, nhưng không chê văn đạo, vì đạo tài tình quá ? Làng nho Thăng long không ngớt khen thầy khóa mẫn tiệp, tránh cho cả làng một tình huống khó xử. Không ngờ là đã hớ nặng. Lúc hội ý, nho sĩ Bắc thành chỉ còn biết kêu trời: văn đạo lại thành văn trác tuyệt! Tách ngoài hai bài thơ gốc, ý câu nào cũng tầm thường. Ghép hai câu lại, vế này làm khung cho vế kia, hai vế đối nhau bỗng thoát sáo vượt hẳn gốc thơ mượn, tạo một thi cảnh khác biến thành hai tiếng bi hoài của sĩ phu Thăng long khóc tử vong Gia định. Còn chi lâm ly hơn, cho thương vong Giản phố ! Còn chi bẽ mặt cho nhân sĩ Thăng long bằng! Giữa hai nhà nho xin nhau chữ, thì là việc giao tế trong làng, bút pháp cho người, xem như cho mình. Nếu là bạn cố tri, càng thêm cẩn trọng. Thế nào cũng cho mang đến nhà bạn hai hàng chữ mới, do mình sáng tác. Gia chủ chọn chỗ tối thượng lên tường. Chữ nghĩa chúc tụng: thêm trọng thể cuộc vui. Chữ nghĩa phúng điếu: tăng nét u hoài tang lễ. Nếu là chữ của một đại nho, tiếng đồn gần xa, làm danh dự gia chủ. Ngày nguyên đán, nhà nào cũng cần bút pháp để có vài ba chữ dán lên tường ăn Tết cho ra vẻ. Phải thay các bức Phúc Lộc Thọ Tết trước, Tết này úa chữ, úa màu. Đỏ đã nhạt, vàng đã phai, sợ năm mới mất hên. Các ngày cận Tết là những ngày mùa của người viết câu đối mướn. Mà cũng là những ngày duy nhất dân quê thấy cần chữ nghĩa. Người viết thuê phần đông không ở trong làng nho, bán chữ không sợ làng chê. Nhà nho xem chữ nghĩa viết thuê hạ cấp không làm, nhưng không bình phẩm. Bút pháp thành nghề viết mướn, đã mang lại cho nước ta một nét đặc thù hiếm thấy: chợ Tết. Từ thành thị đến thôn quê, Tết đến, chợ nào cũng nhộn nhịp hơn thường. Nhưng ngoài cảnh mua bán chen chúc giá đắt giá hời, không có chi thanh lịch hơn khi dân quê vây quanh xin chữ "ông Đồ". Người không biết chữ, đến mua chữ ông mỗi bận xuân về, tự nhiên thành ra văn vẻ. Ông đồ già, quen gọi ông như thế bất luận ông có dạy học hay không, áo xanh ngày lễ bạc mầu, khăn lượt chít đầu sờn nếp, ngồi khom lưng trên tờ giấy đỏ rảy phẩm vàng óng ánh, mọi người chăm chú nhìn mấy ngón tay gầy múa bút viết nên từng chữ mực đen nhánh. Mầu sắc và chữ nghĩa đánh vào tâm tưởng mọi người, dù có biết chữ hay không. Cảnh tượng đẹp mắt này, mươi lăm ngày trước Nguyên đán, lôi cuốn người đi chợ Tết như đi hội, để mua sắm mừng xuân, và có dịp làm quen với chữ nghĩa. Nhưng dần dà theo đà học mới, thành thị thôn quê đổi khác, cảnh ông đồ già viết thuê chợ Tết đi vào quên lãng, còn trơ lại chỉ mấy vần bi hoài dưới đây của Vũ đình Liên. Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượngmúa rồng bay Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu ? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. . . Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay. Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay. Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? Chợ Tết là dịp người viết thuê kiếm được khá tiền, đỡ cảnh túng quẩn quanh năm. Chữ nghĩa và pháo nến, dân quê phải sắm đủ. Ắn một cái Tết tưng bừng trong cảnh xuân sang, con người muốn thay mùa theo vạn vật. Người nước ta ham học hành, thích sách vở, có lẽ cảnh mua chữ chợ Tết phần nào đã là nguyên nhân tâm lý chiều sâu. Không gian đạo lý Bút pháp mang tính đạo lý và xã hội. Không hẳn là thầy đồ, người viết thuê tất cũng đã có học hành, thuần thục giá trị tinh thần sân Trình cửa Khổng, có là viết thuê cũng không dùng chữ nghĩa ngoài vòng lễ giáo. Nếu lại là nhà nho cầm bút, dù có cho ai sáo ngữ, vẫn muốn răn đời. Mà răn đời là chuyện đạo lý. Nhà nước bao giờ cũng dựa trên đạo lý trị dân. Nếu tỉnh nào có ai góa chồng đang tuổi thanh xuân, ở vậy nuôi con không đổi tiết, tỉnh thần phải trình tấu về triều. Nhà vua ân tứ bốn chữ: ' Tiết hạnh khả phong', tưởng thưởng người quả phụ đức hạnh, năm mươi năm còn dư lệ khóc chồng. Đấy là một bức hoành nền vàng chữ đỏ. Bút pháp triều đình không đẹp cũng là sang, phải thượng lên gian chính giữa nhà, và hạ những gì đã treo sẵn trước, dù một bức đại tự của một bậc đại nho. Của vua ban làm danh dự cho nhiều thế hệ hậu sinh. Dưới mọi hình thức, bút pháp biểu hiện tinh thần nho học, ảnh hưởng trên ếp sống chung cả nước. Hơn hai nghìn năm qua, Khổng giáo vẫn còn phổ cập sâu rộng ở thôn quê, nơi ngày xưa nhà nho thường sống và mở trường dạy học. Đạo thánh thầy dạy trẻ con, dân quê tôn trọng thầy đồ, theo con em mà vâng phục những lời thầy giáo huấn. Phụ huynh chịu chung ảnh hưởng, đến cả người không biết chữ, cũng thấm nhuần lễ nghĩa. Những đêm trăng sáng họp ở đình làng đập thóc, trai gái được dịp hẹn hò qua lời ca giọng hát đối đáp nhau, có muốn trao đổi ân tình cũng giữ trong vòng lễ giáo, phải đạo làm người. Họa hoằn mới xảy chuyện trên bộc trong dâu lãng mạn. Từ phương Tây đến du nhập vào Đại việt đã năm trăm năm, sách vở nhiều, giáo sĩ học thức cao, đạo Chúa vẫn chưa bén đất nông thôn đến như thế. Bài giảng trên núi không ra ngoài các giáo đường nguy nga, để thần học Do thái Ky tô có hy vọng thay chỗ cho lễ giáo nước ta. Đạo làm người mà Thầy tôi sống đã nhẹ nhàng ngấm đậm vào tâm hồn tôi, không phải qua một lời giảng nhật tụng nào. Thế mà ở trường Thiên hựu, ngồi chung với bạn học người Pháp và người Nam Thiên Chúa, tôi đã phải học đạo Ky tô thật kỹ. Để xưng tụng ông Ngô đình Diệm, tay chân ông thường xem ông là thần tượng, trước sau vẫn đề cao ở ông tinh thần đạo Khổng. Không biết đấy là điều đạo Ky tô tối kỵ. Một hình thức giao tế xã hội Cố nhiên bút pháp đã ứng dụng rộng rãi trong phạm vi giao tế xã hội. Nếu miếng trầu là đầu câu chuyện các bà, thì bút pháp là then chốt giao tình, giữa bạn hữu các ông với nhau. Làng nho thường nghèo túng, chỉ có chữ nghĩa để làm quà nhau. Bạn bè gặp điều tang tóc, nhà nho không chia buồn suông. Bạn bè ăn mừng hạnh ngộ, nhà nho không chia vui bằng quà cáp. Đây là những dịp mượn bút pháp mà phơi bày tình bạn: hoặc tiếc thương người quá vãng, hoặc tán dương tư cách bạn hiền. Vài hàng liễn đối bày tỏ tình cảm chân thành tự mình thảo, tự mình viết. Tối kỵ là sáo ngữ. Vắt óc mà thảo mà viết, chứ không phải chuyện làm lấy có. Để cho bạn biết lòng mình quí bạn. Không vật phẩm nào làm quà sang hơn chữ nghĩa. Một món quà như thế, nếu là chữ của một đại nho, tiếng truyền ra, bạn bè tranh nhau đến dự lễ để thưởng thức, khiến đình đám thành linh đình, hay tang tóc thêm bi thiết. Nếu là giữa các bậc đại nho, không phải chỉ là vấn đề giao tế chia buồn chia vui với nhau, mà còn là chuyện văn chương rất thú vị trong làng. Đình đám xong, còn là dịp vượt quá vòng giao tế mà nói chuyện chữ nghĩa, thưởng thức trướng liễn treo đầy tường gia chủ. Ai chọn câu nào, xướng lên câu ấy cho cử tọa cùng nghe, rồi nêu lên giá trị chữ nghĩa được dùng, vạch các điển tích ẩn bên trong. Hậu sinh học chưa đến nơi, nhân đấy mà học. Chẳng khác một bài giảng văn cao học thời nay. Có chi vấp váp, có ngay thầy chỉ dẫn. Thường thường không bàn đến lối văn cử tử, vì không phải lúc luyện thi. Trong phạm vi giao tế, cử tọa có thể phóng túng tìm đến các nghĩa lý "Ngoại thư". Đây là dịp hạng sinh đồ thưởng thức cái học quảng bác của các bậc thầy, biết thêm về tư tưởng bách gia, những tư tưởng mà Tam trường không dung nạp. Tập diễn giải các hình ảnh mà vài ba chữ bút pháp trên liễn đối vẽ nên, tìm ý nghĩa ẩn trong mỗi câu mỗi chữ. Trò không kham, đã có thầy sẵn đó, chỉ dẫn tận tình. Vì cũng là dịp các cụ tranh nhau hơn kém. Tuy là phần khổ học, nhưng thầy khóa nào cũng ham học, không từ nan. Vì có nhiều thú vị, khi ý nghĩa các ẩn dụ được dịp phơi bày thấu đáo, mình không ngờ được, nếu cái học còn non. Hán tự bản chất cô đọng. Năm ba chữ trình bày đủ ý. Mà ý nhiều, nên chữ nghĩa thường ẩn dụ. ẩn dụ là nghệ thuật Hán văn. Phải tinh thông chữ nghĩa, thuộc lòng điển tích, có biết ngoại thư, rành trò chơi chữ, mới đủ trang bị để phơi bày những gì được ẩn dụ bên trong vài ba chữ cô đọng. Các môn đồ vui mà chịu khó để rộng thêm kiến thức. Nhưng là dịp các cụ vượt ra ngoài vòng cử tử, đưa văn chương ra khỏi đạo Tam trường, tìm đến các trường phái nghịch với nền học Khổng chính truyền. Cao ly, Nhật và ta, thường gọi là đồng văn với người Tàu. Nên người không tinh, dễ tưởng ta và Tàu văn hóa giống nhau. Chế độ thi cử mấy trăm năm qua dùng Hán tự và lấy Khổng học làm chính thống, đã tạo một vẻ ngoài dễ khiến hiểu lầm như thế. Hồ Quí Ly và Nguyễn Huệ đã hai bận, cách nhau hơn ba trăm năm, mang cái học Nôm thay cho học Hán, nhưng không bền, thành ra đâu lại hoàn đấy. Nhưng mặt thực đời sống xã hội hai dân tộc khác hẳn nhau. So sánh phụ nữ Trung hoa và phụ nữ Việt nam chẳng hạn, cả hai đều vắng mặt ngoài xã hội, nhưng địa vị họ khác hẳn nhau trong gia đình. Người đàn bà Tàu, đối với chồng con, không có cái quyền uy mềm mại của người đàn bà Việt. Sinh hoạt xã hội nước ta đã có qui củ từ lâu, trước khi bị người Tàu đô hộ. Trung hoa cho ta mượn chữ, mượn trường, khai triển nền học chung giữa hai dân tộc. Nhân đấy ông cha ta mở mang văn học, phát triển văn hóa theo Tàu phần nào, nhưng học thuật vẫn giữ bản sắc văn hiến uyên nguyên vốn đã khác Trung quốc. Nhà nho nước ta bị trường ốc kiềm hãm theo cái học chính thống để thi cử, đã biết lợi dụng các ngày hội dân gian, các đình đám này khác, nằm ngoài các câu thúc cử tử, mà phô diễn bản sắc dân tộc, nêu rõ khác biệt giữa nước ta và nước Tàu. Cùng một học thuật, cùng một đạo lý, nhưng các mẫu số chung này du nhập vào nước ta, ứng dụng vào con người bản thổ, đã tạo nên một nền văn hiến khác. Người Việt, sống trong nề nếp gia đình có sẵn, sinh hoạt trong một xã hội có qui củ rồi, đã biết ứng dụng văn hóa Trung quốc mà tôi luyện cho mình một cá tính riêng, những giá trị tinh thần đặc biệt, để không thành người Hán. Cái học chính thống bó buộc quá đáng tư duy, thành ra đình đám lễ lược là những cơ hội nhà nho thoát ra ngoài vòng học thuật phải đạo, đào bới những giá trị đích thực, những chân lý đặc biệt. Các cơ hội như thế, phần nào mở một không gian xuất sáo cho tư tưởng con người, khiến cho việc giao tế trong xã hội mang nhiều thú vị. Bút pháp châm biếm thóa mạ Người nước ta có tính hài hước. Hình thức hài hước nhẹ nhàng thường nhật, là việc bông đùa giữa dân gian bằng lời ăn tiếng nói. Nói qua nói lại cười chơi một lúc rồi thôi, không ai để ý đến nữa. Nặng hơn một bậc, là hài hước bằng các câu hát, câu vè, câu sấm, do hiện tượng truyền miệng, nên câu chuyện không dễ một lúc mà dứt được, còn nhắc đi nhắc lại, có khi mãi đến con cháu về sau vẫn chưa quên. Trạng Quỳnh tiêu biểu cho hình thái này, trong dụng ý châm biếm hơn là đùa cợt. Cả hai hình thức hài hước bằng miệng này đều nôm na, nên dễ hiểu ngay. Nhưng khi hài hước vượt bực trở thành thóa mạ, phải dùng đến chữ nghĩa, thì lại khác Đây là hình thức châm biếm nhắm vào hạng người quyền uy trong xã hội, có thể gặp phản ứng tai hại, nên phải bí hiểm tột độ. Phải nhờ đến chữ nghĩa, dùng ẩn dụ để có thể vừa cay, vừa kín, nên phải là chữ Hán. ẩn dụ bằng Hán tự rất hợp, vì ít người hiểu thấu. Nhưng dùng hình thức ẩn dụ, phải là người hay chữ và chơi chữ thạo, rành thuật nói lái, như Trạng Quỳnh. Dùng chữ, thì thường lẫn lộn nghĩa Hán nghĩa Nôm. Và nghĩa mỗi chữ có thể lái qua lái lại tha hồ. Ai muốn hiểu thế nào tùy ý. Rành rành là những lời nịnh văn hoa, nhưng chủ ý thóa mạ, kẻ phàm phu không tài nào nhận ra ẩn đụ, nếu không có người chỉ dẫn. Phải thực mẫn tiệp mới khám phá ra điều thóa mạ được gói ghém bên trong những lời tán tụng quá đà. Thời Quốc trưởng Bảo đại, vào các năm 50, một thủ tướng từ Sài gòn ra kinh lý Bắc phần, được đón tiếp trọng thể ở Thăng long, nơi làng nho còn đông. Bốn chữ đại tự, trên một cổng chào đồ sộ, đập vào mất mọi người: Đại Điểm Quan Thần (người đứng đầu trăm quan). Ông thủ tướng này tinh thông Hán học, lại là người mẫn tiệp. Chữ nghĩa đơn sơ, nhưng lời ca tụng ông quá ngọt, ông khoái trí thưởng ngoạn không kịp suy nghĩ gì khác. Lễ chào mừng chấm dứt, nghĩ lại một tích tắt, ông hiểu ra, thì đã trễ. Phải thực hay chữ mới chơi chữ đến chỗ thần kỳ như trong câu chuyện trên. Nhưng các bậc đại nho không hạ mình mang chữ nghĩa để ẩn dụ mà thóa mạ người. Nhà nho bình thường, nói chung như Thầy tôi, hay chữ đến đâu cũng không cho cách chơi chữ nhục mạ này là hay. Tôi nhắc đến câu chuyện để tỉ dụ, nhưng không nhắc tên người và không diễn giảng thêm, là trọng tinh thần ấy của cha. Hồ Sĩ Khuê (trích từ Hình Bóng Cũ, nguyên tác viết bằng tiếng Pháp, tác giả tự chuyển sang tiếng Việt) * Một vài học giả dùng hai chữ "thư pháp" để dịch chữ calligraphy, thay cho hai chữ "bút pháp" thường dùng để dịch chữ style. Chú giải của Tòa soạn Văn Học
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:54:44 GMT 9
Hai chữ Bát Bát của Nguyễn Khuyến
Trần văn Tích Nhắc đến Nguyễn Khuyến, chúng ta thường nghĩ đến một nhà thơ của làng quê ao chuôm chiêm trũng, một ngòi bút tự trào, một tấm lòng chân thành thắm thiết đối với thê tử bằng hữu, một tác gia vừa nôm vừa hán và cả nôm cả hán v.v.. Nhưng dường như chưa có ai để ý đúng mức đến chi tiết nhà nho làng Yên đổ rất chăm chỉ đếm tuổi đời. Niên kỷ là một thông tin thi ca mà người hàn sĩ, anh khoá Thắng, ông giải nguyên, vị Tam nguyên, rồi viên quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu thường ưa thích nhắc đến, và nhắc đến rất chính xác, theo một nhịp độ ngắn và một tần số cao, y như một công chức tự khai lý lịch hành chánh. Mới hai mươi chín tuổi - tuổi ta! - đã có thơ ghi lại niên tuế : Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi, Tuổi đã ba mươi kém một thôi. (Vị đệ tự trào) (1) Từ tuổi trung niên trở đi, thi sĩ đều đặn cắm mốc thời gian. Và thời điểm chuyển biến là năm năm mươi tuổi, năm cáo quan về nghỉ hưu non. Chúng ta đều biết chẳng phải chỉ vì nhân đáo trung niên vạn sự hưu, nên nhà nho treo ấn trở lại vườn Bùi khi gánh nặng thời gian lịch học trên đôi vai gầy vừa tròn nửa thế kỷ : Ngũ thập hưu ông, bán mẫu đường,(2) Bắc song cao ngoạ bán thanh lương. (Túy hậu) (Ông lão về hưu năm mươi tuổi với cái ao nửa mẫu, Nằm khểnh bên song phía bắc, được chút ít mát mẻ) (Sau khi say) Ngô niên ngũ thập triếp huyền cư, Quốc ngũ nguyên canh, tuế ngũ trừ. (Tự thuật) (Ta mới năm mươi tuổi đã cáo quan về nghỉ, Nước đã năm lần thay niên hiệu, năm đã năm lần tết) (Tự thuật) Ngũ thập suy niên bạch phát tân, Bất kham ưu bệnh, thả ưu bần. (Bài muộn) (Tuổi năm mươi đã già yếu, tóc bắt đầu điểm bạc, Chỉ lo ốm lo nghèo, khó lòng chịu nổi). (Giải buồn) Ngũ tuần bạch phát tiễn hưu quan, Thất xích hoàng tâm dục mãi quan. (Tuế đinh hợi, hữu nhân...) (Năm mươi tuổi tóc bạc, mừng về nghỉ việc, Muốn mua cỗ áo quan gỗ hoàng tâm bảy thước) (Năm đinh hợi, có người...) Ông chẳng hay ông tuổi đã già, Năm mươi ông cũng lão đây mà! (Lên lão) Tuần tự sau đó là những dòng thơ vẽ bức tranh thang tuổi tác. - Quá năm mươi tuổi: Bách niên khuất chỉ kim du bán, Thập sự luân tâm cửu bất như. (Kiến lại) (Bấm đốt tay cuộc đời trăm năm nay đã quá nửa, Trong mười việc nghĩ lại có chín không vừa ý) (Thấy nha lại đến) - Năm năm mươi mốt tuổi: Năm mươi mốt tuổi tôi hay, Xem chừng tóc bạc, răng lay, mắt loà. (Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi) - Năm năm mươi ba tuổi : Đồi nhiên mao phát tiệm sam sam, Bất giác niên đăng ngũ thập tam. (Xuân nhật thị chư nhi) Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ, Nay đã năm mươi có lẻ ba. (Ngày xuân dặn các con) - Năm năm mươi bốn tuổi: Khả liên ngũ thập tứ niên ông, Diện cấu, tu ban, nhỡn hựu hồng. (Tự thán) (Đáng thương ông già năm mươi tư tuổi, Mặt sạm, râu đốm, mắt lại đỏ) (Tự than) - Năm năm mươi lăm tuổi : Ngô niên ngũ thập ngũ niên linh, Xú thái ban ban lão tận hình. (Lão thái) (Tuổi ta đã năm mươi lẻ năm, Tất cả mọi cái xấu đều lộ hết) (Về già) Ngô niên, thê niên ngũ thập ngũ, Ngô tử mãi mộc tương vi quan. (Tuế chế) (Tuổi ta, tuổi vợ ta đều năm mươi lăm, Con ta mua gỗ định làm áo quan) (Sắm gỗ thọ) Tính tuổi xuân thu trăm lẻ chục, Nửa phần về bác, nửa phần tôi. (Mừng anh vợ) - Năm năm mươi sáu tuổi : Ngô niên ngũ thập lục chi niên, Hàn vũ vi phi nhị nguyệt thiên. (Xuân hứng) (Tuổi ta là tuổi năm mươi sáu, Mưa lạnh lất phất, trời đang tháng hai). (Hứng xuân) - Năm sáu mươi tuổi : Trời hẹn ngày, cho ba vạn sáu, Ta chung tuổi, mới một trăm hai. (Gửi bác Châu Cầu) - Ngoài sáu mươi tuổi : Nhàn thời ngô tự khán kim ngô, Lục thập dư niên nhất trượng phu. (Bệnh trung) (Lúc rỗi tự nhìn cái thân ta, Một đấng trượng phu ngoài sáu mươi tuổi) (Trong lúc ốm) Ngô niên lục thập dư, Hốt sinh lưỡng chỉ trảo. (Chỉ trảo) (Tuổi ta đã sáu mươi có lẻ, Bỗng nảy sinh hai móng tay) (Móng tay) - Năm sáu mươi bảy tuổi : Công niên thiểu dư tuế, Dư bệnh hựu công tiên. (Vãn đồng niên Vân đình Tiến sĩ Dương Thượng thư) Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày.(3) (Khóc Dương Khuê) - Năm bảy mươi bốn tuổi, bài thơ tính tuổi cuối cùng, trước khi mất một năm: Năm nay tớ đã bảy mươi tư, Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ. (Đại lão) Nhà thơ làng Vị hạ còn chân tình nhớ rõ tuổi tác bạn bè thân thuộc: - tuổi ông hương sinh họ Nguyễn : Ngũ thập kỳ nho anh vị hài, Ngũ gian mao ốc hỉ sơ tài. (Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn thị trang) (Ông là nhà nho năm mươi tuổi mà con còn ẵm ngửa, Mừng cho ông mới dựng được năm gian nhà tranh) (Ngày hè đề nhà hương sinh họ Nguyễn) - tuổi ông bạn học Lê Sĩ Nhân ở Chi long : Tiên ngã sinh lai thập thất tuế, Thử hồi năng đắc thái bình tao. (Tặng song khế Chi long sĩ nhân Lê đài) (Bác sinh trước tôi mười bảy năm, Lúc đó có gặp cảnh thái bình chăng) (Tặng bạn học là bác Lê ở Chi long) Không những chỉ tính toán tuổi tác để gần như viết thành một cuốn niên phổ, trong suốt cuộc đời thiếu mười ngày đủ bảy mươi bốn năm - Nguyễn Khuyến mất ngày 05.02.1909 - quan Hoàng giáp đã nhiều lần làm thơ nhắc đến số năm vật lý, lịch học, chẳng hạn trong các thi phẩm chữ hán sau đây : - nửa năm : Bắc phiên Dương niên ông hành thứ. - một năm : Ký Khắc niệm Dương niên ông, Tặng hành nhân Nguyễn đài, Dữ Thị độc Trần đài ẩm thoại. - hai năm : Thanh giang tự thị thử. - bốn năm năm : Ký Duy tiên án sát sứ. - sáu năm : Kiến lại. - sáu bảy năm : Châu giang Bùi thượng thư kinh hồi, dục phỏng bất quả, thi dĩ ký. - bảy năm : Vãn thiếp Phạm thị; Tiễn môn đệ Nghĩa định Sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ (kỳ nhất); Tiễn môn đệ Nghĩa định Sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ (kỳ nhị). - mười năm : Thư ký Nam đốc Dương niên ông. - mười hai năm : Ký trình Sử quán Bích khê Hoàng Sư Cát. - hai mươi năm : Thoại tăng, Xuân hứng. - ba mươi năm : Ký phỏng Dương thượng thư, Hoàn kiếm hồ. - bốn mươi năm : Dữ hữu nhân Đồng, Tốn dạ thoại; Bùi viên biệt thự hỉ thành. - sáu mươi năm : Dao xỉ. Đương nhiên công việc liệt kê như thế này chỉ là một toan tính có chức năng dẫn liệu, nó không hề đầy đủ. Nguyễn Khuyến cần mẫn viết niên giám vận văn để lại cho chúng ta, rõ nhất là thời gian từ năm mươi đến sáu mươi tuổi. Không chủ yếu nhằm vào việc miêu tả quá trình hình thành tính cách bản thân trong tương quan với hoàn cảnh, nhà thơ ghi lại mỗi năm hay mỗi vài ba năm những câu chuyện đời tư, dật sự, những trạng thái đạo đức, phong hoá. Nguyễn Khuyến chăm chỉ năm này qua năm khác ký thác cho ngàn sau những mảnh đời hiện thực, không hư cấu. Nhà nho làng Vị hạ truyền đạt những niên điểm sinh sống cá nhân hoặc bằng hữu, nhiều khi có cả can chi thời gian, có cả địa chỉ nhân vật hẳn hoi. Đọc những bài thơ chữ nôm chữ hán với câu thơ ghi thời gian thường là câu thứ nhất, chúng ta có cảm tưởng thi sĩ bước từ lĩnh vực thi ca sang loại hình văn học ký. Ngòi bút dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh động, chứ ít xây dựng các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái quát đứng đằng sau những hàng chữ khối vuông: tác giả thể hiện nó và bắt người đọc thể hiện nó bằng suy tưởng. Cho nên các tiểu tiết của tác phẩm thi ca Tam nguyên Yên đổ mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư duy. Tính chính xác của chi tiết hiện thực - trong trường hợp chúng ta đang bàn là niên đại, niên kỷ - phản ảnh chân dung, cử chỉ, hành vi, ngôn ngữ, nội tâm nhà thơ. Những năm, niên, tuế, tuần v.v.. trong ngôn ngữ thi ca Nguyễn Khuyến mang bản chất sáng tạo khái quát, biểu hiện cảm xúc của chúng. Chúng "nói" nhiều hơn chính chúng. Các con số vốn dĩ vô hồn bỗng nhiên có khả năng thể hiện, giải thích, minh xác cấu tứ nghệ thuật của hồn thơ; chúng trở thành tiêu điểm, tụ điểm của tư tưởng, tâm tình tác giả trong thi phẩm. Năm, niên, tuế, tuần v.v..hoá thân thành chi tiết nghệ thuật trong thi ca Nguyễn Khuyến. Những tín hiệu thời gian trong các bài thơ gắn chặt với cá tính nghệ thuật của nhà thơ, cho dẫu đó là những câu thơ nói rõ tuổi đời tác giả (Vườn Bùi chốn cũ, Vịnh lụt, Mừng anh vợ v.v..) hoặc những câu thơ khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình ở một chặng đường đời cụ thể của nhà thơ (Lên lão, Đại lão v.v..). Từ một góc độ nhất định và ở một chừng mực nhất định, Nguyễn Khuyến, qua loạt bài thơ ghi thời gian, là một người cảm nhận rõ ràng lịch sử. Và con người Nguyễn Khuyến từ thuở bắt đầu biết làm thơ cho đến những năm cuối cổ lai hy là vậy. Chính xác, kỹ lưỡng, trí tuệ sáng, ký ức tốt. Cho đến...
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:55:31 GMT 9
Nguyễn Khuyến mở đầu một bài thơ chữ Hán bằng câu : Ngã niên trị bát bát. Cũng có dị bản ghi là: Ngã niên cập bát bát. Đây là một câu thơ và một bài thơ gây thắc mắc, tạo bàn cãi nhiều. Thi phẩm là một bài ngũ ngôn khá dài, nội dung tóm tắt cuộc đời nhà thơ trước khi chuyển qua dặn dò con cháu nên tổ chức tang lễ của mình như thế nào. Cho nên có tài liệu văn học ghi đầu đề bài thơ là Di chúc, Bài di chúc hay Di chúc văn: - Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sao lục, tập II, Đại Nam in lại ở quốc ngoại, trang 79; - Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà Xuất bản Văn học, Hà nội, 1979, trang 167 (chữ quốc ngữ) và 444 (chữ hán phiên âm); - Hợp tuyển thơ văn Việt nam 1858-1920, Huỳnh Lý chủ biên, Nhà Xuất bản Văn học, Hà nội, 1984, trang 412; - Thơ Nôm, Bùi Văn Bảo, Nhà Xuất bản Quê hương, Toronto, Canada, trang 51.(4) Riêng cuốn Nguyễn Khuyến - tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội, 1984, ghi đầu đề là Trị mệnh và cho biết các văn bản chữ hán đều chép là Trị mệnh chứ không phải là Di chúc (trang 564). Chi tiết này đáng để ý. Đầu đề một bài thơ, một cuốn sách thường có hai chức năng chính: thông tin và khiêu động. Chức năng thông tin đề cập chẳng hạn đến nội dung đạo đức hay triết học như La Nausée ; chức năng khiêu động nhằm cật vấn trí tuệ, kích thích tưởng tượng, chẳng hạn Les Fleurs du Mal. Chọn hai chữ trị mệnh làm đầu đề bài thơ, Nguyễn Khuyến đã dùng chữ rất đắt. Về điển tích, nó dẫn chuyện từ Xuân Thu tam truyện, Tả truyện, Tuyên công thập ngũ niên, Tần nhân phạt Tấn. Mùa thu tháng bảy, Tần Hoàn công đánh Tấn. Tướng Tấn là Ngụy Khoả đánh tan quân Tần, bắt được Đỗ Hồi, người nổi tiếng khoẻ nhất nước Tần. Bố Ngụy Khoả là Ngụy Vũ Tử nguyên có người thiếp yêu không con. Ngày thường, Ngụy Vũ Tử dặn con khi mình chết hãy cho người thiếp về lấy chồng, đến khi bệnh nặng thì lại dặn phải chôn người thiếp cùng với mình. Lúc bố chết, Ngụy Khoả cho người thiếp về, lấy cớ là theo lời dặn lúc cha còn tỉnh (trị mệnh) chứ không theo lời cha lúc đã bán hôn mê (lọan mệnh). Nguyên văn chữ hán viết về lời Ngụy Khoả lập luận: "Tật bệnh tắc loạn, ngô tòng kỳ trị dã" (ốm nặng thì trí loạn, ta theo mệnh lúc còn sáng suốt). Khi lâm chiến với Đỗ Hồi, Ngụy Khoả cứ thấy thấp thoáng hình bóng một ông già liên tục kết cỏ vào chân ngựa Đỗ Hồi khiến Đỗ Hồi vướng ngã rồi bị bắt. Đêm Ngụy Khoả nằm mộng thấy ông già hiện về nói : "Tôi là cha người thiếp mà ông đã gả chồng cho. Vì ông theo mệnh lúc sáng suốt nên nay tôi báo đền." (nguyên văn chữ Hán: ). Khi soạn bài minh cho mộ chí Phó Chính Nghị, Lục Du, nhà thơ nhà từ lớn đời Tống, viết : "Công vong dạng thì, (...) tuy nguyệt nhật mạc bất hữu trị mệnh." [Thời gian ốm đau,(...) ông qua ngày qua tháng vẫn không có lời trị mệnh]. Thẩm Kình đời Minh, trong Song châu ký, viết : "Khả liên cổ nhân tòng kỳ trị mệnh, bất tòng kỳ loạn mệnh." (Đáng thương người xưa theo lời trị mệnh, không theo lời loạn mệnh). Mathews' Chinese-English Dictionary, Harward University Press, Cambridge, Massachusetts, 1966, mục từ 1021, trang 141, giảng nghĩa trị mệnh (chữ trị bộ thủy, như trị bệnh, trị liệu thuộc thuật ngữ y học) là dying requests that may be carried out; còn Herbert A. Giles, tác giả A Chinese-English Dictionary, Volume II, Bernard Quaritch, London,W., 1912, ở mục từ 7962, trang 987, chữ mệnh, thì hiểu tòng trị mệnh là to carry out rightful behests given as dying injunctions, as opposed to loạn mệnh (chữ hán, TVT phiên âm sang quốc ngữ) behests which should not be carried out. Nguyễn Khuyến vốn rất thích Lục Du. Trong bài Tiễn người quen, nhà thơ nhắc đến Kiếm Nam thi cảo của thi nhân từ gia họ Lục: Bến Tầm dương đọc câu giang thượng, Thơ Kiếm Nam còn thoảng làm chi. Nguyên văn chữ Hán : Tống khách trùng ngâm giang thượng cú, Ưu thời nan bổ Kiếm Nam thiên. Nhà nho của chúng ta còn có cả một bài thơ chữ hán nhan đề Độc Kiếm Nam thi tập. Câu chuyện Ngụy Khoả-Đỗ Hồi là một điển rất quen thuộc của thi ca hán-nôm. Theo truyền thống văn chương chữ nghĩa đó, Nguyễn Khuyến lấy hai chữ Trị mệnh đặt đề cho bài thơ dặn dò con cháu về hậu sự là chuyện thông lệ tự nhiên và hợp tình hợp cảnh. Đề bài Trị mệnh đã được bảo chứng, nhà nho đã "nạp bản" nó cho thư tịch văn học Việt nam. Bây giờ xin đến điểm xuất phát, bây giờ xin bàn về hai chữ bát bát. Thông thường, bát bát nghĩa là tám mươi tám. Nghĩa thông dụng đó được dùng khi đánh số trang sách chẳng hạn. Nhưng nếu hiểu bát bát trong câu thơ Nguyễn Khuyến là tám mươi tám thì đây là một thủ pháp cách điệu bất chấp sự thật, và đó không thể là phong cách nhà nho làng Vị hạ. Nhà thơ của chúng ta suốt cả đời chi ly cẩn trọng tính tuổi, ghi tuổi, nhẩm tuổi, nhớ tuổi để rồi khi không nói sai cả tuổi bản thân lúc sáng tác một thi phẩm với chủ đích nhấn mạnh lời dặn của mình cho con cháu là lời phát biểu lúc sáng suốt, có suy nghĩ chín chắn, cần phải làm theo! Sáng suốt, chín chắn mà mở đầu bằng sai lầm, lẫn lộn! Và sai lầm về một vấn đề không thể sai là tuổi tác, lẫn lộn về một thông tin không thể lẫn là niên kỷ! Tuổi tác, niên kỷ của chính mình chứ không phải của tha nhân! Cho nên có nhiều phần chắc Nguyễn Khuyến chẳng hề ghi sai mà chỉ có thể người đời sau hiểu lời thơ không đúng. Vì vậy bài viết đã dẫn trên Tập san Y sĩ cho rằng "(...)tính như vậy, cụ chỉ thọ 76 tuổi (...)" và "vậy tuổi thọ cụ năm đó đã 88 rồi." Còn cuốn Hợp tuyển thơ văn Việt nam 1858-1920 dẫn thượng thì...bí quá nên đành chú thích huê dạng: "Nguyễn Khuyến mất năm 1909, thọ 75 tuổi; có lẽ xưa, các cụ thường tăng tuổi thọ."!! Hai chữ bát bát dùng trong văn cảnh sinh học, y học không có nghĩa tám mươi tám mà có nghĩa sáu mươi tư. Tương tự như vậy, trong thư tịch sinh lý học, bệnh lý học Trung y, thất thất là bốn mươi chín, không phải bảy mươi bảy. Tập sách gối đầu giường của các cụ lương y, sách Hoàng Đế Nội kinh Tố vấn, viết, và viết ngay ở chương đầu tiên, chương Thượng cổ thiên chân luận, khi bàn về sinh lý sinh dục chính thường nam nữ (dịch thoát và dịch gọn) : "Hoàng Đế hỏi: Người đến tuổi già thời không sinh con, vì tinh lực hết chăng? Hay là tại số trời? Kỳ Bá thưa: Con gái bảy tuổi thời thận khí đầy đủ, răng đổi tóc dài; hai bảy thì thiên quý sinh ra, nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, kinh nguyệt đúng kỳ xuống nên mới có con. Đến năm ba bảy, thận khí điều hoà, chân nha mọc hết. Đến năm bốn bảy, gân xương đều bền rắn, tóc dài hết mực, thân thể khoẻ mạnh. Đến năm năm bảy, dương minh mạch suy, vẻ mặt bắt đầu khô khan, tóc bắt đầu rụng. Đến năm sáu bảy, mạch của ba kinh dương suy kém ở trên, vẻ mặt khô khan hẳn, tóc bạc. Đến năm bảy bảy, nhâm mạch hư, thái xung mạch kém, thiên quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con. Con trai tám tuổi thì thận khí đầy đủ, tóc dài, răng đổi. Đến năm hai tám, thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy tràn, âm dương điều hoà nên mới có con. Đến năm ba tám, thận khí điều hoà, gân xương cứng mạnh, chân nha mọc hết. Đến năm bốn tám, gân xương đầy đủ, cơ nhục nở nang. Đến năm năm tám, thận khí suy dần, tóc rụng, răng se. Đến năm sáu tám, dương khí suy kiệt ở trên, vẻ mặt khô khan, râu tóc đốm trắng. Đến năm bảy tám, can khí suy, sự cử động của gân yếu, thiên quý giảm, tinh ít, thận tượng sút, toàn thân mỏi mệt. Đến năm tám tám, thiên quý hết, tinh thiếu, thận suy, hình thể tột bực, răng tóc đều rụng." Trong đoạn kinh văn này, các số liệu hai bảy, ba bảy, bảy bảy v.v.. phải được hiểu là mười bốn, hai mươi mốt, bốn mươi chín chứ không phải hai mươi bảy, ba mươi bảy, bảy mươi bảy; hai tám, ba tám, tám tám v.v..là mười sáu, hai mươi tư, sáu mươi tư, chứ không phải hai mươi tám, ba mươi tám, tám mươi tám. Nguyên văn chữ hán các câu quan trọng, trực tiếp liên hệ đến bài viết này, như sau : - "thất thất, nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu, thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã." - "bát bát, thiên quý kiệt, tinh thiểu, thận tượng suy, hình thể giai cực, tắc xỉ phát khứ." Nhưng không phải chỉ y khoa, sinh lý mới hiểu theo cung cách vừa kể. Văn chương phong nhã cũng có cùng lề lối tính toán. Chẳng hạn bài tứ tuyệt được xem là do khẩu khí Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lúc còn niên thiếu với hai câu đầu: Tứ thất uẩn hung trung Bát bát thám dịch tượng (Bốn bảy chứa chất trong lòng Tám tám xét tượng Kinh Dịch) trong đó bát bát nhằm chỉ sáu mươi bốn trùng quái. Chẳng hạn trường hợp đôi câu đối tương truyền đã được trao đổi trong sứ trình Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi nơi triều đình phương bắc, ghi lại trong Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề : Lạc thủy thần qui đơn ứng triệu, thiên số cửu, địa số cửu, cửu cửu bát thập nhất số, số số hỗn thành tam đại đạo, đạo hợp nguyên thủy thiên tôn nhất thành hữu cảm. Kỳ sơn minh phượng lưỡng trình tường, hùng thanh lục, thư thanh lục, lục lục tam thập lục thanh, thanh thanh hưởng triệt cửu trùng thiên, thiên sinh Gia Tĩnh Hoàng đế vạn thọ vô cương. Không cần chú giải nghĩa lý, chỉ cần lưu ý là vế ra có cửu cửu bát thập nhất nghĩa là chín chín = tám mươi mốt (chứ không phải chín mươi chín) và vế đối có lục lục tam thập lục nghĩa là sáu sáu = ba mươi sáu (chứ không phải sáu mươi sáu). Hiểu bát bát là sáu mươi tư cũng là lối hiểu của Herbert A. Giles (tlđd ), mục từ 8504, trang 1039 và Mathews (tlđd ) mục từ 4845, trang 670: trong cả hai tài liệu tham khảo, bát bát đều được chuyển sang Anh ngữ là sixty-four. Do hiểu bát bát là tám mươi tám nên các tài liệu văn học đã dẫn (Văn đàn bảo giám, Thơ văn Nguyễn Khuyến, Hợp tuyển thơ văn Việt nam 1858-1920, Thơ Nôm) ghi bản dịch bài Trị mệnh sang quốc ngữ tương truyền là do chính Nguyễn Khuyến chấp bút với câu đầu: Kém hai tuổi xuân đầy chín chục. hoặc : Còn hai xuân nữa đầy chín chục. Nhà thơ làng Vị hạ vốn có nét đặc biệt là sáng tác những thi phẩm liên kết hai dạng hán và nôm, qua hình thức tự diễn nôm những bài thơ chữ hán của chính mình. Nhưng nếu thế thì cách hiểu nghĩa câu đầu bài thơ Trị mệnh trở thành một nghịch lý. Để giải đáp bài toán này, có ức thuyết cho rằng bài dịch nôm thật ra vốn không phải của nhà thơ mà do Phó bảng Trần Tán Bình, môn sinh Nguyễn Khuyến, dịch trong buổi lễ đưa ma quan Hoàng giáp (Thơ văn Nguyễn Khuyến, tlđd, trang 167, chú thích 1), và người dịch đã không hiểu đúng ý chủ nhân nguyên tác. Chuyện hai chữ bát bát chưa chấm dứt. Nguyễn Văn Huyền, tác giả Nguyễn Khuyến - tác phẩm, chú thích rằng: "Theo Từ Hải, 'bát bát' còn được phát âm là 'ba ba' để gọi những người tuổi tác, theo cách gọi của các tộc người phía nam Trung Quốc. Tác giả dùng chữ này với nghĩa ấy và cũng để đối chữ với 'cửu cửu' ở câu dưới." Và Nguyễn Văn Huyền cho đăng một bản dịch mới sang quốc ngữ của Ngô Linh Ngọc với câu đầu : Tuổi ta kể cũng đà đến cõi mà không đăng bài "Di chúc" chữ nôm rất quen thuộc từ trước đến nay. Trước hết, cần nói rằng từ điển Từ Hải có ấn bản ghi hai chữ bát bát như Nguyễn Văn Huyền cho biết, có ấn bản không ghi hai chữ đó. Và nếu có ghi bát bát thì từ điển yêu cầu tham chiếu mục từ ba ba (khán ba ba điều). Tuy nhiên là từ điển phổ thông nên Từ Hải thích nghĩa không đầy đủ. Các từ điển lớn, loại bách khoa, giải thích chi tiết hơn. - Hán ngữ đại từ điển, La Trúc Phong chủ biên, quyển 2, Joint Publishing Co., Ltd., Hongkong, 1988, ghi cho từ bát bát ba nghĩa với nghĩa thứ nhất là tiếng gọi người già cả (lão giả chi xưng), nghĩa thứ hai là sáu mươi tư (bát bát đích thừa tích, tức lục thập tứ ), nghĩa thứ ba là để gọi hai vật khác nhau hoặc ngược nhau (vị nhị vật phân dị hoặc tương bội). - Trung văn đại từ điển, đệ tứ quyển, Trung quốc văn hoá nghiên cứu sở, Trung hoa dân quốc ngũ thập nhị niên nhị nguyệt xuất bản, The Encyclopedic Dictionary of the Chinese Language, Vol.4, The Institute for Advanced Chinese Studies, Feb.1963, ghi cho bát bát năm nghĩa với ba nghĩa đầu tương tự như Hán ngữ đại từ điển, và hai nghĩa sau thì không liên quan đến nội hàm hai chữ bát bát của Nguyễn Khuyến. Từ điển này ghi nghĩa 1 của bát bát như sau: "Di ngữ vị lão thành giả dã hoặc xưng ba ba, bả bả. Kim nhân do dĩ chi xưng phụ dã. Thông nhã : bát bát, ba ba dã, kim Hồi giáo dĩ lão thành giả hô bát bát, kỳ thanh cận bả. Chính tự thông : bả di ngữ xưng lão giả vi bát bát hoặc ba ba, hậu nhân nhân gia phụ tác bả tự." Đại khái từ điển cho biết bát bát là chữ giống người di (mọi rợ!) dùng để gọi người già cả, cũng xưng là ba ba, bả bả, rồi từ đấy, dùng để gọi bố. Theo Thông nhã thì bát bát là ba ba; Hồi giáo gọi người già là bát bát, nghe như bả. Theo Chính tự thông thì các sắc tộc di gọi người già là bát bát hay ba ba, người đời sau nhân đó thêm chữ phụ vào để tạo thành chữ bả. Còn nghĩa thứ hai là nghĩa toán học quen thuộc : kỳ thừa tích vi lục thập tứ dã [(tám) nhân lên với (tám) thành sáu mươi tư]. Tuy nhiên lập luận của Nguyễn Văn Huyền không giàu tính thuyết phục vì bát bát để chỉ người già cả không phải là chữ nghĩa văn chương tao nhã. Mục văn tuyển trong cả hai bộ từ điển bách khoa đồ sộ đều không trích dẫn câu thơ câu văn chữ hán nào có hai chữ bát bát. Trong khi đó thì Hán ngữ đại từ điển trích tuyển thư tịch liên quan đến bát bát với nghĩa sáu mươi tư : "Hán thư, Luật lịch chí thượng : Thống bát quái, điều bát phương, lý bát chính, chính bát tiết, hài bát âm, vũ bát dật, giám bát phương, bị bát hoang, dĩ chung thiên địa chi công, cố bát bát lục thập tứ." Các khái niệm bát âm, bát dật, bát hoang, bát phương, bát quái, bát tiết là những khái niệm quen thuộc của nền văn hoá Hán tộc thuộc các lĩnh vực nhạc học, khiêu vũ, địa lý, dịch học, lịch học. Vả lại động từ trị (hay cập) trong câu thơ Nguyễn Khuyến mang hàm nghĩa vừa đúng, vừa vặn, đạt đến, đạt được. Cho nên túc từ của nó không thể có nội dung bất định, mơ hồ. Cho nên chỉ có thể hiểu Ngã niên trị bát bát (hay Ngã niên cập bát bát) là : Tuổi ta vừa chẵn bát bát, tức là vừa chẵn sáu mươi tư. Hiểu khác đi thì không ăn khớp với văn cảnh câu thơ trong toàn bài thơ và nhất là không phù hợp với phong cách sáng tác "ghi niên phổ" mà Nguyễn Khuyến theo suốt cả cuộc đời mình. Huống chi thơ Nguyễn Khuyến thường hay dùng lối song quan, một từ có hai nội hàm ngữ nghĩa, có nghĩa mặt chữ và nghĩa bóng ngầm. Bát bát đối với cửu cửu : Ngã niên trị bát bát, Ngã số phùng cửu cửu. thì số từ, loại từ, vị trí và nhiệm vụ ngữ pháp đều hoàn chỉnh, cân bằng; ngoài ra về nội dung tức là về ý thì hai câu thơ - gọi là hai vế đối cũng được - được đặt với ý tương quan và song quan. Bát bát và cửu cửu, cả hai không được hiểu theo nghĩa dụng ngữ thường nhật mà theo nghĩa đặc thù sinh học (bát bát), dịch học (cửu cửu). Vốn dĩ số Nguyễn Khuyến là số dương cửu, giống như số Dương Khuê : Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, Phận đẩu thăng chẳng dám than trời. (Khóc Dương Khuê) Tuổi thì sáu mươi tư, số thì hội dương cửu. Nguyễn Khuyến được sáu mươi bốn tuổi vào năm 1899. Năm đó vinh vệ khí huyết chắc chưa đến nỗi suy kiệt bất túc. Hai bán cầu đại não còn đủ khả năng hưng phấn. Biết rằng và muốn rằng phải trị mệnh nên Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ khá lâu trước khi từ trần: mười năm. Chỉ ba năm sau, năm 1902, nhà thơ sẽ bảo và mới bảo rằng mình sắp xuống huyệt : Thẩn dư bệnh thả bần, Hành niên cận khâu huyệt. (Nhâm dần hạ nhật) (Huống chi ta đã ốm lại nghèo, Tuổi tác gần kề miệng lỗ) (Ngày hè năm Nhâm dần) Vốn là một tay cự phách trên trường văn chương cử tử, đã học chữ Hán đến bạc đầu, đã thi đỗ đến Tam nguyên, nhưng nhà nho hay chữ có vẻ không sính khoe chữ. Tuy nhiên nhờ tài dùng chữ chính xác, nhờ khéo tận dụng khả năng tạo hình và gợi cảm của từ ngữ nên thơ Nguyễn Khuyến dời bước được từ khuynh hướng ước lệ cố hữu của thi ca cổ để sang lĩnh vực tự sự tả cảnh hiện thực. Bài Trị mệnh dùng chữ kép bát bát như một số liệu sinh học, toán học. Cho nên có nhiều phần chắc nó chỉ có thể có nghĩa là sáu mươi tư. Và nếu hiểu như vậy thì có lẽ câu thơ dịch mở đầu lời dặn sáng suốt thay vì Kém hai tuổi xuân đầy chín chục nên là Kém sáu tuổi xuân đầy bảy chục. Trần văn Tích 22.01.02 1) Vị đệ tự trào nghĩa là tự giễu khi chưa đỗ. Năm sau nhà thơ sẽ đỗ giải nguyên trường Hà. (2) Đường là cái ao hình vuông. Đây chắc là cái ao đã trở thành bất tử trong bài Thu điếu (Mùa thu câu cá). (3) Nguyễn Khuyến sinh ngày 15.02.1835, Dương Khuê sinh năm 1839. Như vậy, kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác là bốn năm. Dương Khuê mất năm 1902, tính ra lúc này Nguyễn Khuyến được 1902 - 1835 = 67 tuổi. (4) Ghi theo Tập san Y sĩ, Hội Y sĩ Việt nam tại Canada chủ trương, số 152, tháng 01.2002, trang 15.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:58:28 GMT 9
Ngày 11 tháng Chín tản mạn
Trần doãn Nho * Trong cái thế giới đang trỗi lên của xung đột chủng tộc và đụng độ văn minh, niềm tin của người Tây phương vào tính phổ quát của văn hóa Tây phương gánh chịu ba nan đề: nó sai lầm, nó vô luân và nó nguy hiểm (In the emerging world of ethnic conflict and civilizational clash, Western belief in the universality of Western culture suffers three problems: it is false, it is immoral, and it is dangerous) * Những nhà phê bình cho rằng Hoa Kỳ là một dối trá bởi vì thực tế của nó quá khác xa với lý tưởng của nó. Họ lầm. Hoa Kỳ không phải là một dối trá; nó là một tuyệt vọng. Nhưng nó có thể là một tuyệt vọng chỉ bởi vì nó cũng là một hy vọng (Critics say that America is a lie because its reality falls so far short of its ideals. They are wrong. America is not a lie; it is a disappointment. But it can be a disappointment only because it is also a hope) SAMUEL PHILLIPS HUNTINGTON 1. Không hiểu sao, mỗi lần nhớ lại biến cố 11/9, hình ảnh chiếc máy bay từ từ đâm vào tòa nhà World Trade Center xuất hiện trong tôi bằng hình ảnh một trò chơi game điện tử. Hình ảnh của cả tòa nhà sụp xuống cũng thế. Như game. Như một xảo thuật điện ảnh. Như một trò chơi trẻ con. Hơn thế nữa, như một chuyện cổ tích. Hai tòa nhà chọc trời hiên ngang, sừng sững vươn mình như một niềm kiêu hãnh thiên cổ của Hoa Kỳ, đùng một cái, biến mất. Cuối tháng 10 rồi, đi ngang qua đó, không muốn vào. Chỉ nhìn thôi, từ xa, từ ngoài highway. New York vẫn thế với những nhà cao tầng chen chúc. Những hộp người. Những hộp dịch vụ. Empire State Building đó, cũ kỹ và vẫn ngạo nghễ. Tượng Nữ Thần Tự Do đó, lặng lẽ nhìn biển cả mênh mông, ngẩn ngơ, lẻ bạn. New York chật ních người, chật ních việc, nhưng vừa thừa một khoảng trống. Một khoảng trống buồn... Mười năm qua, những tiến bộ thần kỳ của ngành điện tử càng ngày càng biến cái ảo thành cái thực. Ngày 11/9, ngược lại, biến cái thực thành cái ảo. Cho đến giờ này, sau khi đã nghe biết bao nhiêu điều liên hệ đến biến cố rồi, mà cảm giác đó trong tôi vẫn nguyên nhưthế. Không đổi. Vẫn là một cảnh ảo. Vẫn là một xảo thuật. Vẫn là một chuyện cổ tích. Cảm giác kinh hoàng, đau đớn được thay thế bằng cảm giác ngẩn ngơ và một đầu óc...vô niệm. Chúng ta, những người đã từng sống trong cảnh bom rơi đạn lạc, giữa chiến trường đổ máu hay những ngày Mậu Thân kinh hoàng với xác người nằm trôi sông, trôi trên ruộng đồng, trên nóc nhà thành phố, với những hầm chôn tập thể, đã quá quen với chết chóc và tàn phá. Lần này, nỗi kinh hoàng không phải chỉ là từ sự đổ nát, không phải từ con số hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn, mà là kinh hoàng vì sự cực kỳ đơn giản của hành động khủng bố. Cực kỳ đơn giản trong cái cực kỳ tinh vi của nó, đưa đến một hậu quả bội phần khủng khiếp. Chỉ trừ tác giả của vụ tấn công, có thể trí tưởng tượng của con người chưa vươn tới được một sự kiện như thế. Ngay cả nhà văn nổi tiếng Hoa Kỳ về những chuyện giả tưởng Tom Clancy, tác giả của hai bộ truyện rất ăn khách "Debt of Honor" và "Executive Orders" - một cuốn kể chuyện một máy bay cảm tử đâm vào tòa nhà Quốc hội Capitol giết chết tổng thống, toàn thể quốc hội, nội các và các quan tòa Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (Debt of Honor), và cuốn kia kể chuyện một lãnh tụ Hồi giáo tổ chức tấn công khủng bố chống "The Great Satan" bằng bom nguyên tử của nhà nghèo, tức là vũ khí vi trùng (Executive Orders) - cũng thú nhận là, với ngày 11/9, sự thật đã vượt qua trí tưởng tượng con người, ngay cả những tưởng tượng kỳ quái nhất. Truyện giả tưởng Clancy, dù sao, cũng mới dừng ngang ở chỗ hư cấu. Ngày 11/9 là siêu hư cấu! Francois Heisbourg (1) gọi loại khủng bố mới này là "siêu khủng bố" (superterrorism), đối đầu với"cường quốc siêu đẳng" Hoa Kỳ (hyper-puissance). Nhiều năm trước đây, Walter Laqueur đã đặt tên cho chủ nghĩa khủng bố trong thế giới hiện đại là "postmodern terrorism" (2), khủng bố hậu hiện đại. Còn William Saletan (3) gọi loại khủng bố này là "human terror". Theo Saletan, liên tiếp nhiều năm, nhữngchính khách, những nhà chiến lược, chuyên gia và tướng lãnh quân đội Hoa Kỳ, đã bao phen cãi nhau về cái gọi là "National Missile System". Những người ủng hộ chương trình cho rằng Hoa Kỳ không có hệ thống bảo vệ những thành phố khỏi bị tấn công bởi hỏa tiễn. Những kẻ chống đối thì cho rằng một hệ thống như thế, nếu có, cũng không ngăn được những kẻ khủng bố mang những trái bom "suitcase" (bom đựng trong "va-li") vào Hoa Kỳ. Cả hai đều sai. Những kẻ khủng bố kiểu mới không cần hỏa tiễn, chẳng cần bom, cũng không cần "suitcase". Họ chỉ cần một cái bằng lái xe, Saletan nói. Phương tiện di chuyển đã có Hoa Kỳ cung cấp: những chuyến bay thương mại. Chất nổ cũng do Hoa Kỳ cung cấp: một bình máy bay chứa đầy nhiên liệu. Tất cả cái họ cần thì rất đơn giản: một ít người biết lái máy bay thương mại và sẵn sàng chịu chết. Khủng bố mới là loại khủng bố ở ngay trong nhà mình và biết biến những vật dụng bình thường của mình thành vũ khí, dùng chúng để giết công dân Hoa Kỳ. Điều khôi hài là những dụng cụ này không có ai, dù thông minh, cẩn trọng đến đâu, dù có óc tưởng tượng thần kỳ đến mức nào, nghĩ rằng chúng có thể trở thành vũ khí. Ngay cả dù hiện nay đã trải qua biến cố 11/9 rồi, không ai trongchúng ta dám tự hào có thể đoán được những vật dụng nào sẽ có thể được biến thành vũ khí giết người hàng loạt trong tương lai, gần hay xa. Điều kinh hoàng còn ở chỗ: có những người mà ý chí tự sát đạt đến trình độ cao nhất. Họ chuẩn bị cái chết của chính mình một cách tỉnh táo, bền bỉ, và vô cùng ngoạn mục. Một trong những tay không tặc, Mohamed Atta, một ngày trước 11/9, đã viết thư cho người yêu ở Đức, bảo rằng anh ta rất vinh dự được chết và cho biết thế giới sẽ chứng kiến những thay đổi vĩ đại như thế nào. Ngày 12/11, New York lại hứng chịu thêm một thảm kịch mới: một chiếc máy bay của hãng hàng không Hoa Kỳ American Airlines rớt tại Queens, khi vừa cất cánh khỏi phi trường JFK chừng ít phút. Khi bản tin được loan báo, cả Hoa Kỳ nghẹt thở theo dõi. Cả thế giới cũng nghẹt thở theo dõi. Thị trường chứng khoán vừa mở cửa, khựng lại. Các chỉ số Dow Jones , Nasdad...tuột dốc. Mọi người, không ai bảo ai, sững sờ tự hỏi: một vụ không tặc tự sát mới khi Hoa Kỳ đã được đặt trong tình trạng phòng ngự vô cùng nghiêm ngặt với bao nhiêu thứ báo động thường xuyên lớn, nhỏ hay sao? Sau một ngày căng thẳng, cả thế giới thở phào nhẹ nhõm khi được biết: vụ rớt máy bay chỉ là một tai nạn (chẳng biết có phải là do chính phủ khôn khéo giấu giếm hay không) đồng thời Hoa Kỳ vừa đạt được thắng lợi tại Afghanistan: lực lượng đối lập vừa chiếm được thủ đô Kabul. Các chỉ số Dow Jones, Nasdad...lên vùn vụn. Nỗi đau vì tai nạn hoàn toàn bị lấn át bởi niềm vui, niềm hân hoan vì vụ việc không do khủng bố. Một điều khôi hài mới lại xảy ra: chỉ trừ thân nhân những người xấu số, dường như người ta nhanh chóng quên mất hai trăm mấy chục người chết trong vụ rớt máy bay. Tuy thế, cảm giác phập phồng, lo lắng về những ngày sắp tới vẫn còn tồn tại trong mỗi người. Hình thức khủng bố mới này thiên hình vạn trạng, không một biện pháp đề phòng nào, dù chặt chẽ và tốn kém đến đâu, có thể bảo đảm an toàn trăm phần trăm. Khủng bố vẫn như lưỡi gươm Démoclès treo trên đầu Hoa Kỳ. 2. Hậu quả trước tiên có tính chất sâu xa và dài lâu nhất sau 11/9 là sự tổn thương về mặt tinh thần của người dân Hoa Kỳ. Niềm kiêu hãnh, tự hào của Hoa Kỳ bị đánh một đòn chí tử. Cả một xứ sở hùng mạnh tưởng chừng như bất khả xâm phạm ấy bỗng nhiên bị trúng đạn ngay tại những điểm mạnh nhất và cũng nhạy cảm nhất của nó: Ngũ Giác Đài và Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và may không thôi thì luôn cả Tòa Bạch ốc. Người ta bỗng nhận ra ngay là anh khổng lồ này hóa ra rất dễ bị tổn thương. Một cụm từ mới phát sinh: "vulnérabilité américaine" - "American vulnerability" (tính dễ tổn thương của Hoa Kỳ). Suốt mấy chục năm, cả khối Cộng Sản tổ chức chặt chẽ với bom đạn, hỏa tiễn hùng hậu không hề làm rụng một sợi lông chân của Hoa Kỳ, thế mà chỉ cần một nhúm người không vũ trang, chịu hy sinh thân mạng, có thể làm rúng động đến tận nền tảng của Hoa Kỳ, đảo lộn hoàn toàn "giấc mơ Mỹ". Ronald Tiersky, giáo sư chính trị học ở đại học Emherst (Hoa Kỳ), cho rằng biến cố đó "gây nên một chuyển đổi căn bản những điều kiện của chiến tranh". Nó chứng minh rằng, không cần sử dụng đến các vũ khí có tính tàn sát tập thể, một kẻ yếu cũng có thể gây nên những thiệt hại không tưởng tượng nổi cho kẻ mạnh, bằng những phương tiện thông thường, thậm chí tầm thường nhất (4). Nó cho thấy dự án quốc phòng chống hỏa tiễn của chính quyền Bush, trong phút chốc, trở thành không thực tiễn, nếu không muốn nói là vô dụng. Lần đầu tiên, Hoa Kỳ bị đặt trong thế thủ. Đùng một cái, người Mỹ cảm thấy tham vọng của họ thu nhỏ lại. Vị thế của một kẻ chuyên môn đi ban phát ân huệ và cứu vớt những dân tộc khác bỗng có cơ lật ngược. Họ chân thành nói đến mấy chữ "bảo vệ quê hương" (homeland defense). Lòng yêu nước được đề cao hàng ngày trên các hệ thống truyền thông. Họ treo cờ. Treo trong nhà, ngoài nhà, treo trong xe, ngoài xe, gắn trước ngực. Các đường phố, cửa tiệm toàn cờ là cờ. Họ cảm thấy bất an, yếu đuối. Họ thắp nến cầu nguyện, đi nhà thờ cầu nguyện. Lần đầu tiên, họ cảm thấy cái bi thiết của một nạn nhân, một kẻ thua cuộc. Nhìn họ nghiêm chỉnh treo cờ, nghiêm chỉnh hát quốc ca, thắp nến cầu nguyện, ta sẽ thấy hết nỗi xúc động của họ sâu xa và thành thật biết chừng nào. Họ bỗng trở nên yêu thơ. Họ trích thơ, làm thơ, email cho nhau thơ, dán thơ lên bến xe, trong công viên, tại trạm xe bus - toàn là những bài thơ nói về thảm kịch, về sự đau thương, mất mát, đổ vỡ. Họ đột nhiên bị kéo về đời thường với những ước mơ bình thường, khiêm tốn. Những mốt miết cầu kỳ hậu hiện đại - sản phẩm của những lúc bình an và đời sống vật chất thừa thãi - đột nhiên biến mất. Bi kịch kéo họ từ trên trời hạ xuống trần gian. Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Lần này, họ vừa đứt tay vừa đổ ruột luôn. Tổng thống Bush gọi hành vi khủng bố này là hèn nhát (cowardly). Đó là ông nói trong tư thế của một lãnh tụ quốc gia. Thực sự trong thâm tâm, người Mỹ hãi hùng: tại sao có người chọn cái chết một cách bình thản dường ấy? Tại sao những kẻ khủng bố không sợ chết, trong lúc chỉ cần một giọt máu chảy là đã làm cho họ cảm thấy kinh khiếp. Biến cố 11/9 thành ra một điểm phân chia giữa hai thời kỳ lịch sử. Người ta nói đến "tiền-11/9" và "hậu-11/9". Nó có nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau: chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa...Nhà văn William Hazelgrove, thuộc viện "Ernest Hemingway Foundation", người đứng ra tổ chức dự án "The Author Project" thực hiện tuyển tập "For our Fallen Countrymen" tưởng niệm thảm kịch 11/9, phát biểu: "Tôi cảm thấy như đang sống ở một giai đoạn khác. Có cuộc sống trước 11/9 và cuộc sống sau 11/9". 3. Chủ nghĩa khủng bố không phải là điều gì mới mẻ trong lịch sử nhân loại. Ngay từ cuối thế kỷ thứ 19, các nhà nước quân chủ Ấu châu đã phải đối phó vớinhững hoạt động khủng bố. Chủ yếu là những vụ ám sát các nhân vật có thế lựccủa các nhà cầm quyền đương thời. Chủ nghĩa khủng bố xuất phát từ một lý thuyết mới phát sinh vào thời đó: vô chính phủ (anarchism). Các hành động khủng bố thường diễn ra đơn lẻ hoặc trong một vài nhóm "anarchists" rất nhỏ, không liên tục. Rồi lần lượt trong thế kỷ 20, ta chứng kiến những kẻ khủng bố tả khuynh, hữu khuynh và mới đây là những kẻ khủng bố có xu hướng chủng tộc hay ly khai hoặc cả hai gọi là "ethnic-separatists". Khác với loại khủng bố thế kỷ 19, chủ nghĩa khủng bố càng ngày càng phát triển về chất lượng, tổ chức và tầm mức, trở thành những lực lượng, không những chỉ nhằm phá hoại mà là tiến đến lật đổ các nhà cầm quyền. Khủng bố trở thành công cụ của các tổ chức hay phong trào chính trị như Muslim Brotherhood, Palestinian Hamas (ở Palestine), Irish Republican Army (ái Nhĩ Lan), Kurdish Extremist (Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ), Tamil Tigers (Sri Lanka), Basque Homeland and Liberty (Tây Ban Nha). Ngoài ra, các đảng Cộng Sản, trong những cuộc chiến tranh lật đổ, cũng sử dụng tối đa các hình thức khủng bố. Nhưng nói chung, tất cả các hình thức khủng bố trên đều có tính địa phương, giới hạn trong một vùng hay một quốc gia, giới hạn về mục tiêu cũng như về thời gian. Biến cố 11/9 gây ra bởi một loại khủng bố hoàn toàn mới với tầm mức lớn hơn nhiều. Loại khủng bố này không quốc gia, không chính phủ, không tên tuổi (hay giấu tên tuổi). Việc tiến công đồng loạt vào những nơi có tính biểu tượng của Hoa Kỳ cho thấy mục tiêu của nó rộng lớn và lâu dài. Những kẻ chủ trương không chỉ nhằm trừng trị, trả thù hay đánh đổ một chính phủ, một chính sách nào đó, mà là nhằm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của nền chính trị (và qua đó, quân sự, kinh tế, văn hóa...) toàn cầu. Trước hết, nó nhằm đánh sụp Hoa Kỳ không chỉ với tư cách là một quốc gia, mà còn với tư cách của một biểu tượng, biểu tượng cho một nền văn minh. Nó đánh vào một hệ thống mà Hoa Kỳ là đầu não. Chẳng thế mà, với những lần khủng bố trước đây nhắm vào các cơ sở kinh tế, ngoại giao quân sự của Hoa Kỳ ở nước ngoài, hầu hết các nướcẤu châu biểu lộ một thái độ gần như bàng quan, thậm chí tỏ ra - dù không hoàn toàn công khai - hí hửng, vì một Hoa Kỳ kiêu ngạo bị sửa lưng cho bõ ghét. Lần này, họ - không nhữngcác chính phủ, mà còn dư luận, các cơ quan truyền thông và các phe nhóm đối lập - bày tỏ một sự hoảng hốt, khủng khiếp thấy rõ y như chính nước họ bị tấn công. Ta hãy đọc một trích đoạn tiêu biểu dưới đây trên tờ "Le monde" (Pháp) (5) hai ngày sau ngày khủng bố: "Trong tình hình bi thảm hiện nay khi mà chữ nghĩa có vẻ chẳng đủ sức nói lên được hết nỗi xúc động của mỗi người, cái đầu tiên đến ngay trong đầu óc là điều này: tất cả chúng ta đều là người Mỹ (Nous sommes tous américains!). Tất cả chúng ta đều là người New York, cũng như tổng thống John F. Kennedy đã từng tuyên bố vào năm 1962 ở dưới chân bức tường Bá Linh "tất cả chúng ta đều là người Bá Linh" vậy. Giống như vào những lúc nguy nan nhất của lịch sử chúng ta, làm sao mà chúng ta không cảm thấy liên đới một cách sâu xa với dân tộc này và xứ sở này, xứ sở Hoa Kỳ, xứ sở mà chúng ta quá gần gũi và xứ sở mà chúng ta nợ hai chữ tự do, và do đó, nợ tình liên đới". Cũng nên biết rằng "Le monde" (cũng như nhiều tờ báo lớn ở Pháp) thường không mấy ưa người Mỹ và không bỏ lỡ cơ hội nào để chỉ trích các chính sách của chính phủ Hoa Kỳ, nhất là trong những vụ như vụ "impeachment" năm 1999 hay vụ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2000. Theo "Le monde", ngày 11/9 đánh dấu sự khởi đầu một kỷ nguyên mới. Siêu cường đơn độc Hoa Kỳ đã tìm ra đối thủ, đó là chủ nghĩa khủng bố kiểu mới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, thế giới dường như mất cân bằng, thiếu đối trọng, trông có vẻ ổn định, nhưng nguy hiểm. Hoa Kỳ, trong sự cô đơn với cái siêu mạnh của mình, không còn hấp dẫn được người ta theo mình nữa (như hồi còn chiến tranh lạnh), ngược lại càng ngày càng hứng chịu sự thù ghét từ nhiều phía. Rất dễ hiểu: cái gì trông Hoa Kỳ cũng có vẻ độc quyền, từ quân sự đến kinh tế, văn hóa và các thứ linh tinh khác. Vốn đã nghênh ngang, anh chàng Đông Phương Bất Bại này càng nghênh ngang hơn và do đó càng...cô đơn. Bởi thế, loại khủng bố mới này như một sức mạnh man dã mới (nouvelle barbarie), tuân theo một thứ luận lý man dã (logique barbare), một loại hư vô chủ nghĩa kiểu mới không kiểm soát, trở thành một đối lực. Nó tạo ra hậu quả đôi, một mặt, giúp làm quân bình cái thế độc quyền của Hoa Kỳ, nhưng mặt khác, do tính tùy tiện, nó đâm ra còn nguy hại hơn cả sự độc quyền. Những phương tiện kỹ thuật mới lại càng làm cho nó đi xa hơn mục tiêu đầu tiên của nó, chẳng hạn như dự tính của nhóm Bin Laden muốn chế tạo loại bom nguyên tử bẩn (dirty bombs). "Le monde" kết luận: "Voilà pourquoi, aujourd'hui, nous sommes tous américains!" - đó là lý do tại sao hôm nay, tất cả chúng ta đều là người Mỹ! 4. Tôi tự hỏi: giả sử như, vì vậy, Hoa Kỳ (như ta vẫn biết hiện nay) bỗng nhiên biến mất, thì sao? Tất nhiên, điều đầu tiên là thế giới sẽ không còn được dịp trông thấy những điều "chướng tai gai mắt" mà Hoa Kỳ thường làm nữa, như hôm nay dọa đánh nước này, mai kia dọa cấm vận nước khác; sẽ chẳng còn ai đem bom ném vào Iraq, vào Afghanistan; sẽ chẳng có ai đòi các nước khác phải tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do dân chủ; sẽ chẳng có ai đặt điều kiện này nọ để được hưởng quy chế tối huệ quốc; sẽ chẳng có ai đòi nước này không được thử vũ khí hạt nhân, đòi nước nọ không có quyền sản xuất vũ khí vi trùng; sẽ chẳng còn những tờ đô la làm mưa làm gió từnhững nước nghèo mạt rệp ở Phi châu cho đến một làng mạc xa xôi nào đó ở Trung Quốc. Và gì nữa: Bắc Hàn sẽ đánh Nam Hàn? Trung Quốc sẽ đánh chiếm Đài Loan và xua quân qua cho Việt Nam thêm một bài học? Nga sẽ chiếm hết các nước Châu Ấu? Đức Quốc xã sẽ tái sinh? Iraq sẽ mang bom vi trùng thả xuốngAnh? Ần Độ sẽ tấn công Pakistan? Và rồi: Ai sẽ thả đồ cứu đói xuống các nước Phi châu? Ai chi tiền cho Liên Hiệp Quốc?Vân vân và vân vân. Câu trả lời có thể sẽ là: Không đến nỗi như vậy đâu. Không có mợ chợ cũng đông. Không có Hoa Kỳ, thế giới có lẽ sẽ ổn định hơn vì không còn nước nào bóc lột. Không có ai dọa cấm vận, nên mọi người ăn ở hòa thuận nhau. Không có một Hoa Kỳ quá giàu nên do đó cũng chẳng còn có nước nào nghèo. Không có Hoa Kỳ viện trợ, nên không còn những tay độc tài. Không có Hoa Kỳ ăn xài vung vít, nên thế giới đỡ tốn kém, nguồn tài tài nguyên không còn bị phung phí (theo một tài liệu, một mình Hoa Kỳ đã xài đến 1/5 số nhiên liệu của thế giới hàng ngày). Hay là, rốt cuộc, cũng sẽ có một nước nào đó nổi lên đóng vai trò của Hoa Kỳ? Và cuối cùng, mọi chuyện sẽ lại diễn ra y như hiện nay? Ai mà biết được như thế nào! Anh chàng bình luận viên đài truyền hình Toronto nước Canada tên là Gordon Sinclair đã bày tỏ cảm tưởng về Hoa Kỳ sau biến cố 11/9 như sau: "Đã đến lúc nói thẳng ra rằng dân tộc Hoa Kỳ là một dân tộc độ lượng nhất và là một dân tộc ít được thông cảm nhất trên thế giới. Đức, Nhật và ở một mức độ ít hơn là Anh và Ý đã được Hoa Kỳ cứu vớt ra khỏi cảnh tàn phá vì chiến tranh do Hoa Kỳ đổ hàng tỷ đô la vào và tha nợ cho hàng tỷ đô la khác. Vậy mà rồi không nước nào trong các nước trên trả, dù chỉ là trả tiền lời cho số nợ còn lại của Hoa Kỳ. Khi Pháp có nguy cơ bị sụp đổ vào năm 1956, chính Hoa Kỳ nhảy vào cứu và phần thưởng mà Hoa Kỳ nhận được là bị sỉ nhục ngay trên đường phố Paris. (...). Khi có động đất ở những thành phố xa xôi, chính Hoa Kỳ vội vã ra tay cứu giúp. Ầy thế mà mùa xuân này (2001), 59 khu dân cư Hoa Kỳ bị những cơn lốc san bằng, chẳng có ma nào đến giúp. Kế hoạch Marshall và chương trình Truman đã bơm hàng tỷ đô la vào các xứ kiệt quệ Ấu châu, bây giờ báo chí ở các nước đó đang viết những bài lên án Hoa Kỳ là những kẻ đồi trụy và chuyên làm giàu nhờ chiến tranh. (...). Tôi có thể kể cho bạn nghe hàng 5000 lần người Mỹ vội vàng giúp đỡ các dân tộc khác khi họ gặp khó khăn. Bạn có thể kể cho tôi nghe xem, dù chỉ một nước thôi, vội vã chạy đến giúp Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ gặp khó khăn? Theo tôi, chẳng hề có một sự giúp đỡ nào từ ngoài vào, ngay cả khi có động đất ở San Franscisco. Người láng giềng của chúng ta luôn luôn phải tự đối phó lấy một mình". Kể cả bây giờ, sau vụ khủng bố 11/9! Bênh Mỹ, phục Mỹ đến thế thì thôi! 5. Sự lên tiếng tức thời của các nước châu Ấu, rồi Nga rồi Trung Quốc, Nhật, Canada, Úc...cho thấy có mộttâm thức tập thể "nous sommes tous américains" đó ở nơi hầu hết các nước phát triển. Dường như chính phủ (và có thể là đại đa số nhân dân ) các nước đó, không phải chỉ chia sẻ nỗi đau của Hoa Kỳ, mà còn là cảm nhận nỗi đau đó như là nỗi đau của chính mình. Họ cảm thấy chuyện khủng bố này đụng đến một cái gì sâu xa nhất của nền văn minh, nền văn minh Tây phương. Đây không chỉ là sự trả thù cho chỉ đơn thuần một sự việc, một biến cố đơn lẻ, mà có thể gọi là một sự trả thù có tính cách lịch sử! Trong bài phân tích có tựa đề "The Roots of Muslim Rage" (6), Bernard Lewis nêu bật lên những đặc điểm lịch sử dẫn đến sự thù nghịch của những người Hồi giáo đối với Hoa Kỳ nói riêng và đối với Tây phương nói chung. Hồi giáo, cũng như các tôn giáo khác, chủ trương tình huynh đệ và hòa bình. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, khi chủ trương chỉ có một đấng tối cao duy nhất để tôn thờ là God, thì đồng thời cũng phát sinh ra một ý niệm đối nghịch: kẻ thù của God. Kẻ thù của God tất nhiên phải là kẻ ác và đồng nghĩa với quỷ, với satan. Bởi thế mà luôn luôn phải có một cuộc tranh đấu để chiến thắng ác quỷ. Trong cái nhìn của Hồi giáo cổ xưa - và hiện nay đang được những người bảo thủ làm sống lại -, thế giới và toàn thể nhân loại phân chia thành hai phe rõ rệt: thế giới của đạo Hồi (the House of Islam), nơi các luật Hồi giáo được tôn trọng, và thế giới của những người ngoại đạo (House of Unbelief) mà những người Hồi giáo có bổn phận phải mang trở lại Islam. Nhưng phần lớn thế giới lại nằm ngoài Islam, không những thế, ngay trong nội bộ thế giới Islam, theo cái nhìn chính thống, cũng bị xáo trộn vì những kẻ thiếu niềm tin và thường xuyên vi phạm luật Hồi giáo, khiến cho đạo Hồi bị bào mòn dần. Chính vì thế mà những người chính thống, trong quá trình lịch sử, luôn luôn nhắc đến Jihad, tức là thánh chiến, chống lại những kẻ thù ngoại đạo. Giữa cái thế giới ngoại đạo đó, những người ở phía Đông và Nam (ý chỉ các nước phương đông theo Phật giáo và Ần giáo) không có đe dọa nào nghiêm trọng, do đó không có những tranh chấp trực tiếp với Islam. Nhưng ngược lại, ở phía Tây và Bắc, người Hồi giáo, ngay từ lúc mới thành hình, đã cảm thấy bị đe dọa bởi một tôn giáo khác mà tham vọng không thua gì Hồi giáo, đó là Thiên Chúa giáo, một hạn từ mà từ lâu, người Hồi giáo vẫn xem là đồng nghĩa với Ấu châu. Cuộc tranh chấp giữa hai địch thủ này bắt đầu khi Islam mới ra đời cho đến nay đã kéo dài gần 14 thế kỷ. Đó là một chuỗi dài những cuộc tấn công và phản công, Jihads và Crusades, chinh phục và tái chinh phục. Trong 300 năm qua, kể từ khi thất bại trong cuộc phong tỏa Vienna năm 1683 và sự trỗi dậy của các đế quốc thuộc địa Ấu châu ở á và Phi châu, đạo Islam phải trở về thế phòng ngự. Và nền văn minh Thiên Chúa giáo và những nhánh phái phát sinh từ đó, đã mang hầu như toàn thế giới, kể cả Islam, vào trong quỹ đạo của nó. Islam thất bại, không những đã không phản công lại được mà còn bị lép vế hoàn toàn trước Tây phương (the West), tượng trưng cho Thiên Chúa giáo, và bị ảnh hưởng nặng nề, từ nếp sống, cách cai trị, chế độ chính trị cho đến các hình thức sinh hoạt khác. Trong nhãn quan của người Hồi giáo, sự thành lập Hoa Kỳ - một sự kiện trung tâm, đánh dấu cho sự lớn mạnh của Tây phương - là mộtsản phẩm của Tây phương, một thứ "European enterprise". Vì Hoa Kỳ là một dân tộc trong đó, ưu thế về mọi mặt thuộc về châu Ấu. Người châu Ấu đông nhất. Ấu châu cho nó ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa, cách sống. Di dân chủ yếu là từ Ấu châu. Rất ít người đến từ các xứ Islam. Nếu có ai đến thì họ lại là những người biến chất, nghĩa là đã cải đạo sang Thiên Chúa giáo rồi. Sự hiện diện của những người này không những chẳng làm suy yếu ảnh hưởng của Ấu châu chút nào mà còn làm mạnh thêm ảnh hưởng có sẵn đó. Thực ra, có một giai đoạn , trước thế chiến thứ hai, khi thế giới Hồi giáo bắt đầu chuyển mình tiến lên thời hiện đại, vô tình hay hữu ý, họ đã chấp nhận những giá trị mới của Tây phương thì Hoa Kỳ không được (hay bị) nhìn như là những kẻ thù. Nhưng sau thế chiến thứ hai, chịu ảnh hưởng của những tư tưởng bài Mỹ xuất phát từ tuyên truyền của chủ nghĩa Cộng Sản cũng như từ chế độ Quốc Xã Đức và đặc biệt là từ một số nhà văn, nhà tư tưởng Đức (các nước Hồi giáo chịu ảnh hưởng mạnh của các luận thuyết Đức) như Martin Heidegger, Rainer Maria Rilke, Ernst Junger...rồi về sau này được tăng cường thêm bởi loại chủ thuyết của thế giới thứ ba (Third Worldism), ấn tượng về Hoa Kỳ thay đổi hoàn toàn. Hoa Kỳ, từ đó, được xem là một nước văn minh nhưng không văn hóa; giàu có tiến bộ về vật chất, nhưng giả tạo, vô hồn; kỹ thuật cao, nhưng thiếu trí tuệ, thiếu chất sống và tinh thần nhân bản. Vân vân và vân vân. Những tư tưởng trên, tự bản chất, không mang hậu ý bài Mỹ, mà chỉ nhằm hạ thấp giá trị của Mỹ, coi Mỹ như một tay trọc phú ít học, giàu có là nhờ cơ hội và sự khôn lanh quỷ quyệt hơn là nhờ tài năng. Nhưng những trí thức Hồi giáo, vốn chịu ảnh hưởng nặng từ Ấu châu, kết hợp cùng với các truyền thống Hồi giáo và các vướng mắc lịch sử, đi từ chỗ chống Tây phương (anti-Westernism) một cách chung chung đến chỗ cụ thể hóa, đơn giản hóa thành chống Mỹ (anti-Americanism). Theo Seumas Milne (7), trong con mắt của thế giới Hồi giáo, anh chàng Hoa Kỳ khổng lồ đã tạo nên một hệ thống tài chánh và thương mại toàn cầu nhằm phục vụ cho quyền lợi của họ, phá bỏ những hiệp ước nào thiệt hại đến quyền lợi của họ. Hoa Kỳ gửi quân đi đến từng góc địa cầu, thả bom ở Afghanistan, ở Iraq, Sudan, Yugoslavia, duy trì chính sách cấm vận đối với Cuba, Iraq, ủng hộ Israel, kẻ thù bất cộng đái thiên của Islam. Tóm lại, Hoa Kỳ tự tung tự tác làmnhư thể thế giới này là của riêng họ. ở đâu họ cũng nhúng tay vào bảo ban, dọa nạt, can thiệp. Kết quả là họ bị thù ghét khắp nơi. Những gì xảy ra vào ngày 11/9 chỉ là hậu quả của sự thù ghét dai dẳng đó mà thôi. Milne Seumas viết: "Chính Hoa Kỳ đã đổ tài nguyên vào cuộc chiến tranh năm 1980 để chống lại một chế độ được Liên Sô ủng hộ ở Kabul vào lúc mà các thiếu nữ có thể đi học và phụ nữ có thể đi làm. Bin Laden và tổ chức "Mujahideen" của ông ta đã được CIA huấn luyện và vũ trang khi đất nước Afghanistan trở thành một vùng đất hoang cằn cỗi và lãnh tụ Cộng Sản Najubullah của nó bị treo cổ trên cột đèn đường thành phố với bộ phận sinh dục nhét trong mồm (để làm nhục). Nhưng rồi Bin Laden quay sang chống người bảo trợ Hoa Kỳ của mình. Để trừng phạt đứa con ngang bướng, Hoa Kỳ liền thi hành một chính sách cấm vận đối với chế độ khiến đẩy cả 4 triệu người đến bên bờ vực của nạn đói".(...). "Giờ đây, chính quyền Bush tập hợp một liên minh quốc tế lấy theo mẫu chiến tranh chống khủng bố của Israel, y như thể những hành động giận dỗi như thế đã có một sự hiện hữu tách khỏi những điều kiện xã hội đã phát sinh ra hành vi khủng bố. Nhưng cứ mỗi một "hệ thống khủng bố" bị nhổ bỏ thì một hệ thống khác sẽ mọc lên, cho đến khi những bất công và bất bình đẳng sản xuất ra chúng được xem xét đến" Kể ra thì một lập luận như vậy đối với các chính sách của Hoa Kỳ không chứa đựng điều gì mới lạ. Người Cộng Sản và các nước thuộc thế giới thứ ba đã dùng gần nguyên một thế kỷ để chống đối Hoa Kỳ trên nhiều mặt trận khác nhau. Và hậu quả là: chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ và chủ thuyết tự do dân chủ kiểu Mỹ cứ bành trướng một cách...trái tai gai mắt. Bởi vì, nếu nói Hoa Kỳ đã đóng góp một phần nào đó vào việc tạo nên bất công, nghèo đói và nhiều thứ tệ nạn khác tại nhiều nước chậm tiến (độc tài, tham nhũng...), lại không thể đổ cho Hoa Kỳ chịu trách nhiệm về tất cả mọi chuyện. Mặt khác, không thể phủ nhận việc Hoa Kỳ cũng đã mang lại biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho thế giới mà chẳng nước nào đủ sức làm được.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 7:59:26 GMT 9
6. Trong những ngày tiếp liền sau biến cố 11/9 thì có lẽ một trong những bài báo được nói đến nhiều nhất là bài "Sự đụng độ của các nền văn minh" (The clashes of civilizations) (8) của tiến sĩ Samuel P. Huntington, giáo sư về quan hệ quốc tế tại đại học Harvard. Huntington đã khẳng định ngay trong đoạn mở đầu bài viết nói trên như sau: "Tôi cho rằng (9) nguồn tranh chấp căn bản trong thế giới mới này sẽ không chủ yếu là ý thức hệ hay kinh tế. Những sự phân chia lớn lao trong nhân loại và nguồn tranh chấp ưu thế sẽ là văn hóa. Các thực thể quốc gia (nation states) sẽ vẫn là những diễn viên quyền năng nhất trên sân khấu chính trị quốc tế, nhưng những tranh chấp chính trị toàn cầu chính vẫn sẽ xảy ra giữa những quốc gia và những nhóm có những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là chặng mới nhất của diễn tiến tranh chấp trong thế giới hiện đại" Tại sao lại có sự đụng độ giữa các nền văn minh như vậy? Theo Huntington, trên thế giới có 7 hoặc 8 nền văn minh khác nhau: Tây phương, Trung Hoa, Nhật, Hồi giáo, Ần Độ giáo, Slavic-Chính thống giáo, Châu Mỹ La Tinh và có thể là Phi châu. Có sáu yếu tố đưa đến sự đụng độ: - Các nền văn minh khác biệt nhau về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống và quan trọng nhất là khác biệt về tôn giáo. Mỗi một nền văn minh có những quan điểm khác nhau về liên hệ giữa thần/ người, cá nhân/cộng đồng (hay nhóm), công dân/nhà nước, cha mẹ/con cái... - Thế giới ngày nay đã trở thành nhỏ hơn, qua đó, các chủng tộc, các truyền thống cọ xát nhau, hòa lẫn vào nhau, tác động lẫn nhau do tình hình di dân, truyền thông, trao đổi, giao lưu văn hóa. - Tiến trình hiện đại hóa kinh tế và thay đổi xã hội khiến quốc gia không còn là nguồn xác địnhcăn cước cá nhân nữa (source of identity). Chính vì thế, người ta có xu hướng trở lại truyền thống tôn giáo để xác định căn cước của mình, do đó, tạo thành phong trào gọi là "fundamentalism" (chính thống cực đoan)(10). Chúng ta thấy có những fundamentalists Phật giáo, fundamentalists Thiên Chúa giáo, fundamentalists Judaism, fundamentalists Ần giáo, và đặc biệt phát triển rầm rộ về cả số lượng lẫn chất lượng là các fundamentalists Islam. Hầu hết những người tham gia phong trào, lạ thay, lại là tuổi trẻ, những người có học vấn khá cao, những chuyên viên, kỹ thuật gia trung cấp, những doanh gia và những người chuyên nghiệp. Huntington đồng ý với George Weigel cho rằng chủ trương "làm sống lại niềm tin tôn giáo (insecularization) là sự kiện ưu thế vào cuối thế kỷ thứ 20". Đó là một sự "trả thù của Thượng Đế" (la revanche de Dieu), theo Gilles Kepel. - Sự tăng trưởng của ý thức văn minh (civilization-consciousness). Chính sự tăng trưởng này khiến cho Tây phương đạt đến đỉnh cao quyền lực của mình. Nhưng mặt khác, chính điều đó lại dẫn đến hiện tượng "trở về nguồn", tức là trở về với những nền "văn minh phi -Tây phương" (non-Western civilizations) ở nhiều nước: Asianization ở Nhật, Hinduization ở Ần Độ, re-Islamization ở các xứ Trung Đông. Tình hình đó đưa đến sựhình thành thế giới theo chiều hướng "giải-Tây phương hóa" (de-Westernization) hay bản-xứ-hóa (indigenization) thay vì Tây-phương-hóa như trước đây. - Những đặc tính và khác biệt về văn hóa khó thỏa hiệp hơn chính trị và kinh tế. Có thể có những người Cộng Sản chuyển thành dân chủ, những người giàu trở thành nghèo hay ngược lại. Nhưng không dễ dàng chuyển một người Nga thành người Estonia, hay một người Việt thành Tàu. Mặt khác, người ta có thể là một người lai nửa Pháp nửa Ả Rập hoặc là công dân của hai xứ sở, nhưng khó thể có người nửa Thiên Chúa giáo nửa Hồi giáo. - Sự gia tăng các khối kinh tế vùng (economic regionalism), một mặt, khiến gia tăng thêm ý thức văn minh, mặt khác, khiến các nước có cùng một nền văn minh liên kết với nhau và các liên kết vùng đó chỉ thành công nếu họ đặt căn bản trên cùng một nền văn minh. Các nước cùng chung văn hóa dễ có tương quan với nhau về mặt kinh tế, chẳng hạn như China -Hồng Kông - Đài Loan - Singapore. Chiến tranh lạnh chấm dứt lại càng khiến họ nhanh chóng vượt qua biên giới của ý thức hệ để đến với nhau: China và Đài Loan chẳng hạn. Hoặc tổ chức "Economic Cooperation Organization" mang 10 nước không-Ả Rập Hồi giáo lại với nhau: Iran, Pakistan, Turkey, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Tadjikistan, Uzbekistan và Afghanistan. Vậy tuyến phân chia giữa các nền văn minh đã thay thế các biên giới chính trị và ý thức hệ của thời "chiến tranh lạnh" như là những điểm bùng nổ tạo nên khủng hoảng và đổ máu. Từ đó, Huntington cho rằng cuộc chiến tranh thế giới sắp tới, nếu có, sẽ là một cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh. "The next world war, if there is one, will be a war between civilizations". Hai cuộc chiến tranh thế giới trước đây cũng như chiến tranh lạnh, tuy dính líu đến toàn thế giới, thực sự vẫn là cuộc chiến tranh giữa các xứ có cùng một nền văn minh. Đó là tranh chấp nội bộ trong nền văn minh Tây phương hay nói theo William Lind, đó là những cuộc "nội chiến Tây phương" (Western civil wars). Cuộc chiến tranh sắp tớisẽ chủ yếu ở chỗ: chiến tranh giữa nền văn minh phương Tây và các nền văn minh Còn Lại, "The West versus the Rest". Hay nói một cách khác, đó là sựphục thù của những nền văn minh phi -Tây phương chống lại những giá trị và quyền hành Tây phương. Trong cái nhìn của những người trong các nền văn minh đó, cácý niệm mà Tây phương đề ra không có giá trị phổ quát như họ từng rêu rao trên nhiều phương diện, chẳng hạn như chủ nghĩa cá nhân, khái niệm về tự do, dân chủ, vấn đề lập hiến, nhân quyền, bình đẳng, kinh tế thị trường...Tây phương chỉ sử dụng quyền hành và sức mạnh quân sự cũng như kinh tế để áp đặt các giá trị của họ lên các nền văn minh khác. Xuất phát từ nhận thức đó, xứ sở của các nền văn minh khác sẽ là nỗ lực hiện đại hóa, nhưng không Tây phương hóa,"to modernize not to Westernize". Từ đó, Huntington tiên đoán là sẽ có một sự liên kết quân sự và kinh tế giữa các nền văn minh để chống Tây phương, trong đó, "hình thức quan trọng nhất của sự hợp tác này là sự liên kết hai nền văn minh Khổng giáo - Hồi giáo" (Confucian-Islamic connection). 7. Riêng về quan hệ giữa hai nền văn minh Tây phương và Hồi giáo, Huntington cho rằng sự xung đột đã tồn tại từ cả 13 thế kỷ nay của hai nền văn minh, sau một thời gian dài có vẻ lắng dịu, bắt đầu gay gắt trở lại và mức độ gay gắt càng ngày càng tăng. Nhất là sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991. Những quốc gia Hồi giáo cảm thấy giận dỗi và bị sỉ nhục hơn trước sự hiện diện quân sự của Tây phương tại vùng Vịnh và sự bất lực không thể tự định đoạt được số phận của riêng họ. Mặt khác, xu hướng tiến tới thể chế dân chủ kiểu Tây phương, thay vì tăng cường ảnh hưởng của Tây phương thì lại tăng cường lực lượng chính trị chống Tây phương. Hiện tượng này lại trùng hợp với tình hình căng thẳng về di dân tại các nước Ấu châu nhất là di dân từ các nước Ả Rập hiện đang là một trong những vấn đề âm ỉ trong các xã hội Tây phương. Trong phần cuối bài tiểu luận đặc biệt này, Huntington viết: "Bài này không quả quyết (argue) rằng những căn cước văn minh (civilization identities) sẽ thay thế tất cả các loại căn cước khác, rằng thực thể quốc gia sẽ biến mất, rằng mỗi một nền văn minh sẽ trở nên một thực thể chính trị đơn thuần rõ ràng, rằng những phe nhóm trong mỗi nền văn minh sẽ không tranh chấp và thậm chí đánh nhau. Bài này trình bày những giả thiết cho rằng sự khác biệt giữa các nền văn minh là có thực và quan trọng; ý thức-văn minh mỗi ngày mỗi gia tăng; xung đột giữa các nền văn minh sẽ chiếm chỗ ý thức hệ và các hình thức xung đột khác để trở thành hình thức xung đột chiếm ưu thế toàn cầu; quan hệ quốc tế, một trò chơi mà các nền văn minh Tây phương đóng trong lịch sử sẽ càng ngày bị "giải -Tây phương hóa" (de-Westernized) và trở thành một trò chơi trong đó các nền văn minh không -Tây phương là những diễn viên chính chứ không còn là những đối tượng đơn giản; các cơ sở chính trị quốc tế, an ninh và kinh tế thành công có lẽ phát triển bên trong những nền văn minh hơn là xuyên qua chúng; tranh chấp giữa các nhóm trong những nền văn minh khác nhau sẽ thường xuyên hơn, chắc chắn hơn và bạo động hơn giữa các nhóm trong cùng một nền văn minh; những xung đột bạo động giữa những nhóm trong các nền văn minh khác nhau dễ xảy ra nhất và là cội nguồn leo thang nguy hiểm nhất có thể dẫn đến những cuộc chiến tranh toàn cầu; trục quan trọng hàng đầu của chính trị thế giới sẽ là các tương quan giữa "Tây phương và phần Còn Lại"; tầng lớp lãnh đạo trong một số nước không-Tây-phương (non-Western) bị xáo trộn sẽ cố gắng đưa xứ sở của họ trở thành một phần của Tây phương nhưng trong hầu hết các trường hợp họ sẽ gặp phải những trở lựcto lớn khi thực hiện; điểm trung tâm của xung đột trong tương lai gần sẽ là giữa Tây phương và nhiều xứ Hồi giáo và Khổng giáo" (...) "Những nền văn minh phi-Tây-phương sẽ tiếp tục tìm cách sở đắc sự thịnh vượng, kỹ thuật, kỹ xảo, máy móc và vũ khínhư là thành phần của hiện đại hóa. Họ cũng sẽ tìm cách hòa giảitính hiện đại với nền văn hóa và các giá trị truyền thống của họ. Sức mạnh kinh tế và quân sựcủa họ trong tương quan với Tây phương sẽ gia tăng". 8. Bài báo của Huntington vừa công bố là gây ra một sự tranh cãi dữ dội giữa phe bênh và phe chống. Bênh cũng lắm, mà chống cũng nhiều. Kể từ ngày công bố, tuy "The clash of civilizations" đã được dịch ra 26 thứ tiếng và được đem ra bàn cãi trong nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế, luận điểm chính "sự đụng độ của các nền văn minh" bị những người không đồng quan điểm đả kích kịch liệt. Thậm chí Huntington bị lên án là ngụy biện, lếu láo. Có người cho rằng thứ suy nghĩ của Huntington là "rất nguy hiểm về phương diện đạo đức", một "thứ tiên tri tự thỏa mãn" (self-fulfilling prophecy). Có người mang tất cả các bài viết của ông cùng với bài nói trên ra chế giễu bằng một tựa đề nhái tựa đề của ông "The clash of the two Huntingtons" Sau biến cố 11/9, luận điểm của Huntington lại có dịp mang ra tranh cãi. Một trong những người gay gắt bài bác quan điểm của Huntington là tiến sĩ Edward W. Said, giáo sư văn học đối chiếu tại đại học Colombia. Trong một bài tựa đề "The clash of ignorance" (11), vị giáo sư này không ngần ngại dùng những từ ngữ khá nặng nề để lên án ông, như gọi ông là "một cây viết tồi", "một nhà tư tưởng bất lịch sự". Luận điểm cho rằng Tây phương và Hồi giáo là hai nguồn căn cước lớn của nhân loại đã được đặt ra một cách bất cẩn. Công thức "The West versus the Rest" được nhiều người mang ra chứng minh cho biến cố 11/9, là một công thức vụng về, hoàn toàn thiếu tính thuyết phục. Thực ra, theo Said, biến cố 11/9 xuất phát từ những động lực bệnh hoạn và được hành xử bởi một nhóm nhỏ những kẻ có đầu óc bất thường, cuồng tín tôn giáo và ưa phá hoại. Lịch sử là lịch sử chung và tất cả mọi người, Phật giáo,Thiên Chúa giáo, Hồi giáo hay Ần độ giáo đều dự phần trong đại dương lịch sử. Cho nên, tìm cách phân chia chúng theo tiêu chuẩn tôn giáo và văn minh là điều vô ích. Chúng ta đang sống trong thời đại căng thẳng thật, nhưng đó là căng thẳng giữa sức mạnh và sự bất lực, giữa lý trí và sự ngu dốt, giữa công bằng và bất công" (...) "Luận điểm về sự xung đột giữa các nền văn minh cũng như cụm từ "Chiến tranh giữa các thế giới" là một thứ phô trương, chỉ có hiệu quả nhằm tăng cường sự kiêu hãnh phòng ngự hơn là thừa nhận một lý giải có tính phê phán của mối tương thuộc lẫn nhau trong thời đại chúng ta". Nhiều người khác không đồng ý với Huntington, nhưng không chỉ trích gay gắt như kiểu nói trên, mà chỉ đưa ra một cách giải thích khác về khủng bố. Chẳng hạn như Gérard Chaliand, giáo sư thỉnh giảng tại các đại học Berkeley, UCLA. Trả lời cho một cuộc phỏng vấn (12), ông nhận xét vụ khủng bố 11/9 chủ yếu "không phải là một sự 'xung đột giữa các nền văn minh'. Xung đột này đã từng xảy ra rồi hồi thế kỷ thứ 19 với sự bùng nổ của chủ nghĩa thực dân Ấu châu trong thế giới á, Phi. Hiện nay, không hề có xung đột với thế giới Hồi giáo. Chuyện khủng bố chủ yếu là những nhóm rất nhỏ những người Hồi giáo cực đoan, có khả năng gây tai họa rất ghê gớm, nhưng chỉ có một tương lai khiêm nhường, ngược lại với nguyện vọng của họ. (...). Hiển nhiên là những kẻ gây ra khủng bố quan trọng vừa rồi với biết bao nhiêu nạn nhân, không đòi hỏi gì cả. Mục đích chỉ là để chứng tỏ sự yếu ớt của Hoa Kỳ và làm cháy bùng lên ngọn lửa nhiệt tình nơi những cảm tình viên. Giấc mơ của những người Hồi giáo là tái tạo một "Oumma", một loại cộng đồng Hồi giáo không có tính quốc gia mà là tính liên-Hồi (pan-musulmane). Mục tiêu rõ là ảo tưởng, cũng như chủ nghĩa liên-Ả rập (pan-arabisme) hay liên-Phi châu (pan-africanisme), nhưng những người Hồi giáo cực đoan này lại có khả năng gây nên tổn hại đáng kể". (...). "Chủ nghĩa khủng bố sẽ có thể bị làm cho suy yếu do sự hủy diệtnhững nơi ẩn náu của họ. Nhưng người ta không thể tận diệt nó được" Chẳng hạn như nhà văn nổi tiếng Nhật Haruki Murakami. Theo Murakami (13), cuộc chiến giữa khủng bố và chống khủng bố không phải là một cuộc đụng độ giữa các nền văn minh, lại càng không phải là một cuộc thập tự chinh, mà là sự va chạm giữa những hệ thống - có thể gọi là những mạch điện (circuits) - không ăn khớp với nhau, khiến tạo nên một cái gì tương tự như một vụ nổ. Hai mạch điện va chạm nhau đó, một là mạch mở và cái kia là mạch kín. "Mạch mở là xã hội mà chúng ta hiện đang sống và mạch kín là thế giới của những kẻ cuồng tín tôn giáo. Đó là những người Hồi giáo thuộc khuynh hướng cực đoan hoặc là những nhóm nhỏ như giáo phái Aum Shinrikyo ở Nhật Bản. Trong một mức độ nào đó, cả hai nhóm có cùng một tính cách. Thế giới của họ là một thế giới toàn hảo, bởi vì họ tự khép chặt lại". Trong vũ trụ của những kẻ cuồng tín, "nếu bạn có bất kỳ vấn đề nào, luôn luôn có người cung cấp cho bạn câu trả lời. Mọi điều trông rất dễ dàng và sáng tỏ và bạn cảm thấy hài lòng miễn là bạn có lòng tin". Trong vũ trụ mở, trái lại, "mọi điều có vẻ bất toàn. Chúng ta có nhiều thú tiêu khiển, nhưng cũng có nhiều thiếu sót, nhược điểm. Và thay vì sống hạnh phúc, trong hầu hết trường hợp, chúng ta hay giận dỗi và bị khủng hoảng. Nhưng ít ra, mọi điều rộng mở. Bạn có quyền chọn lựa và quyết định cách sống của bạn".(...). "Thật dễ dàng nếu muốn tìm lối vào mạch điện kín này, những chẳng dễ dàng chút nào khi muốn tìm lối ra. Những kẻ điều khiển thường mở lối vào mạch kín một cách tự do. Nhưng họ không dành cho lối ra, bởi vì họ muốn đẩy những tín đồ của họ vào trong thế kẹt. Lúc đó, những người này trở thành những chiến sĩ sẵn sàng làm theo lệnh. Tôi cho rằng họgiống như những kẻ đã lái máy bay đâm vào hai tòa nhà đó (ở New York)" Những nhận định trên của nhà văn không hẳn chỉ là những phát biểu ngẫu phát tiếp theo sau biến cố đầy xúc động tại New York ngày 11/9, mà xuất phát từ những suy gẫm rút ra được sau một thời gian dài tìm hiểu vụ tấn công khủng bố ngay trên chính đất nước ông vào ngày 20/3/1995 tại hệ thống đường hầm xe lửa Tokyo do giáo phái Aum Shinrikyo thực hiện. Kinh nghiệm về vụ tấn công 1995 và vụ 11/9 cho thấy hiện chúng ta đang sống trong một tình hình mà Murakami gọi là một "hỗn loạn thế giới mới" (new world chaos). Ông phát biểu:"ở Nhật, hầu hết mọi người đều cho rằng vụ tấn công khủng bố ở Hoa Kỳ là vấn đề riêng của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước mạnh nhất trên thế giới và dân Hồi giáo không thích Hoa Kỳ, cho nên có chuyện khủng bố. Hoàn toàn không đúng, theo tôi. Cùng một điều như thế sẽ có thể xảy ra ở bất cứ đâu: Tokyo, Berlin, Paris...Bởi vì hiện có một cuộc chiến tranh giữa những mạch điện mở và những mạch điện kín, nghĩa là giữa những trạng thái tinh thần khác nhau. Đây không phải là vấn đề về những quốc gia hay xứ sở, không phải là về tôn giáo, nhưng mà về những trạng thái tinh thần (states of mind). Thảm kịch New York là điềm báo cho một giai đoạn mới mẻ đối với xã hội Hoa Kỳ. Đây là cuộc tấn công đầu tiên vào nội địa Hoa Kỳ và người ta biết rằng Hoa Kỳ là rất dễ bị tổn thương. Mọi điều đã không còn như trước nữa" (...) "Không ai biết rồi ra mọi điều sẽ tốt hơn hay tệ hại hơn. Nhưng chúng ta phải tập làm quen với sự hỗn loạn mới. Chúng ta phải bình tĩnh trước sự hỗn loạn này. Sẽ không có một giải pháp đơn giản và rõ ràng cho nó. Cuộc chiến tranh giữa hai trạng thái tinh thần sẽ còn diễn ra lâu dài". 9. Trong số những người bênh vực Huntington nhiệt tình, có RobertD. Kaplan. Qua một bài khá dài viết về Huntington có tựa đề "Trực diện với thế giới" (Looking the world in the eye) (14), ông cố làm sáng tỏ nhiều điểm trong các công trình lý luận của Huntington, trong đó có luận điểm "Sự xung đột giữa các nền văn minh". Kaplan quả quyết rằng, dù bị bêu riếu và sỉ nhục, quan điểm của Huntington về thế giới sẽ trở thành hiện thực trong những thập niên tới. Cuộc tấn công khủng bố vừa qua, không những không làm lu mờ đi quan điểm đó mà còn góp phần làm sáng tỏ thêm nó đồng thời làm sáng tỏ thêm toàn bộ công trình lý luận của Huntington. Trong quá khứ, Huntington đã nhiều lần cảnh cáo rằng thật là vô nghĩa khi mong mỏi những dân tộc không phải Hoa Kỳ lại trở thành giống Hoa Kỳ một cách đáng kể. Điều này, theo Huntington, sẽ chỉ làm hại chính nghĩa của Hoa Kỳ mà thôi. Ngay từ những năm đầu thập niên 1950, Huntington đã đề cập đến tính tạm thời, mong manh của nền an ninh Hoa Kỳ mà phần lớn là nhờ có cái may mắn về phương diện địa lý. Trong tương lai, chắc chắn may mắn đó sẽ không còn và Tây phương cũng như Hoa Kỳ sẽ đối phó với những kẻ quá khích từ những nền văn hóa khác không chấp nhận văn hóa Hoa Kỳ và Tây phương, tìm cách lôi kéo Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh văn hóa (civilizational war). Huntington viết "Trong cái thế đang trỗi lên của các cuộc xung đột chủng tộc và đụng độ văn minh, niềm tin của người Tây phương vào tính phổ quát của văn hóa Tây phương hứng chịu ba điều: nó sai, nó vô luân và nó nguy hiểm". Huntington cho rằng Osama Bin Laden rõ ràng hy vọng ông ta có thể khêu lên một cuộc đụng độ về văn hóa giữa Tây phương và Hồi giáo. Hoa Kỳ phải tránh đừng để điều đó xảy ra, chủ yếu là phải tập hợp một liên minh chống khủng bố xuyên qua các đường ranh của những nền văn minh. Ngoài ra, Hoa Kỳ phải nhân cơ hội này để hoàn thành hai điều: trước hết, lôi kéo những quốc gia Tây phương đoàn kết với nhau chặt chẽ hơn; thứ đến, cố gắng hiểu một cách cụ thể hơn các dân tộc khác đã nhìn thế giới dưới con mắt của họ như thế nào". Thế giới chúng ta hiện đang sống "là một nơi nguy hiểm, trong đó có nhiều dân tộc rất phẫn nộ về sự giàu có, sức mạnh và nền văn hóa của chúng ta và chống đối một cách mãnh liệt nỗ lực của chúng ta tìm cách thuyết phục họ hoặc ép buộc họ thừa nhận những giá trị của chúng ta về nhân quyền, dân chủ và tư bản chủ nghĩa. Trong thế giới này, Hoa Kỳ phải phân biệt giữa những người bạn thực sự sẽ luôn luôn ở bên cạnh chúng ta và chúng ta luôn luôn ở bên cạnh họ bất chấp mọi khó khăn; những đồng minh cơ hội mà nơi họ, chúng ta chỉ có một số quyền lợi chung; những kẻ cạnh tranh chiến lược mà với họ, chúng ta có một quan hệ hỗn hợp (không rõ ràng); những địch thủ mà với họ chúng ta có thể thương thuyết; và những kẻ thù ghê gớm luôn luôn tìm cách tiêu diệt chúng ta trừ phi chúng ta tiêu diệt họ trước" Robert Kaplan rất tâm đắc với một nhận xét khác của Huntington trong "American Politics": "Những nhà phê bình cho rằng Hoa Kỳ là một sự dối trá bởi vì thực tế (mà nó hoàn thành) quá khác xa với lý tưởng (mà nó đặt ra). Họ lầm. Hoa Kỳ không phải là một sự dối trá; nó là một điều tuyệt vọng. Nhưng nó có thể là một điều tuyệt vọng chỉ bởi vì nó đồng thời cũng là một niềm hy vọng" Nói tóm lại, nói quanh nói quất, Huntington là một người yêu nước...Hoa Kỳ của ông. Ông buộc những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ phải biết hành động bằng một sự suy gẫm thấu đáo mọi tình huống ngay trongbản chất của nó để tìm cách đối phó. Thế thôi! 10. Trong số những người thích Huntington,có tôi. Khoảng một tuần lễ sau biến cố 11/9, tôi tình cờ được đọc Huntington. Thành thật mà nói, tôi khoái các lập luận của ông. Chúng lạ. Chúng ngộ. Chúng mới. Chúng làm ta chưng hửng khi mới đọc. Đọc Huntington, phải chịu khó đọc hết và suy gẫm. Ông ta có lối lý luận bao biện, đôi khi... ngụy biện, nhưng thành thật. Và đặc biệt, nó không có tính áp đặt độc đoán. Nó mở cho ta đi vào một cảnh trí rộng hơn, cao hơn, xa hơn. Nó khiến cho ta nhìn qua khỏi những gì ngoài tầm mắt. Tôi thích cái mà Robert Kaplan gọi là "tính chất tương phản trong các ý tưởng của Huntington" (contrarian nature of Huntington's ideas). Nghe nó có vẻ như mâu thuẫn, nhưng lại là những mâu thuẫn thú vị, chứa một hay nhiều phần sự thực. Chẳng hạn nhưông bảo "tham nhũng đôi khi cũng tốt", hoặc "sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ đôi khi ít hơn là chúng ta hằng tưởng nghĩ", vân vân. Tôi bị thuyết phục. Cuộc đụng độ của các nền văn minh! Nghe như tựa đề của một truyện khoa học giả tưởng. Trong cái tối tăm, mù mịt, lo lắng, bối rối, hoang mang sau biến cố 11/9, bỗng nhiên đọc được bài báo viết trước đó tám năm, người viếtdường như "thấu thị" được sự việc, lý giải nguồn gốc sâu xa của nó, giải mã nó, vén lên tấm màn bí ẩn đằng sau - không phải chỉ đơn thuần cho một sự kiện mà cho một chuỗi sự kiện, không phải cho một tình huống mà cho nhiều tình huống, không phải cho một đoạn lịch sử mà trên chiều dài lịch sử. Huntington luôn luôn luận về cái tổng thể, bận tâm với cái tổng thể và tìm cách nắm bắt bản chất của nó. Đọc ông, đừng chỉ nhìn thấy có Bin Laden, có Afghanistan, có biến cố 11/9...Khởi từ đó, nhưng hãy nhìn qua khỏi đó. Ông ta đúng hay sai? Sẽ đúng hay sẽ sai? Rất có thể ông sẽ sai, vì dù sao, những gì ông viết ra vẫn chỉ là luận thuyết. Nhưng riêng tôi, tôi thích ông sẽ đúng. Tại sao? Tôi cũng chẳng biết tại sao. Và nói quanh nói quất, tôi bỗng sực nhớ ra, tôi thích Huntington cũng chỉ vì tôi cũng là một người...Mỹ! Chẳng thế, sao tôi có quốc tịch Mỹ, sao tôi sống trên đất nước này, sao tôi sung sướng thụ hưởng những tiện nghi của nó, được luật pháp của nó bảo vệ, được nó nuôi dưỡng và thậm chí được quyền .. chưởi nó bằng thích. Sau ngày 11/9, tôi đau theo nỗi đau của nó, lo lâu theo nỗi lo âu của nó, chia sẻ những thiệt thòi mà nó phải chịu, đóng góp cho nó những gì nó cần, và mong cho nó đượcmau tai qua nạn khỏi. Hóa ra, tôi là một người Mỹ hoàn toàn như... Huntington, chỉ trừ một điều: tôi vẫn là người Việt. Trần Doãn Nho (12/2001) 1. Nhật báo "Le monde" (Pháp) ngày 12/9/01 2. Tạp chí "Foreign Affairs", tháng 9 & 10/1996 3. Báo "Slate" ngày 11/9/01 4. "Le monde", ngày 12/9/01 5. Xã luận "Le monde" ngày 13/9/01 6. Nguyệt san "The Atlantic Monthly", tháng 9/1990 7. Báo "Guardian" ngày 13/9/01 8. Tạp chí "Foreign Affairs", mùa thu 1993. 9.Nguyên văn "Itis my hypothesis that..." (Tôi giả thiết rằng...) 10. Có người dịch là "trọng căn" 11. "Le choc de l' ignorance", bản Pháp dịch của Francois Cartano, "Le monde" ngày 26/10/01 12. "Le monde", ngày 17/9/01 13. Theo Howard W. French, "New York Times", ngày 15/10/01 14. Nguyệt san "The Atlantic Monthly", số tháng 12/2001
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 8:01:28 GMT 9
Chúng ta lơ là với văn học á châu đã quá lâu
Tạ quốc Tuấn Ban biên tập tạp chí Văn Học trong Thư Tòa Soạn số báo 183 tháng 7/2001 đã có nhận xét rằng các nhà văn học Việt-nam "chỉ quan tâm đến các biến chuyển trong sinh hoạt văn hóa Tây phương, nhất là những nước có ảnh hưởng chính trị đến VN như Pháp, Hoa-kỳ, Nga", đến độ "biết rõ một vụ ái tình lẻ của một nhà thơ Mỹ", nhưng lại "lơ là với những biến chuyển của các dân tộc sống gần kề" nên đã "mù tịt về tình trạng khốn khổ của những nhà văn Đài-loan khi phải bỏ viết lách bằng tiếng Nhật để học lại từ đầu tiếng Hoa." (tr. 2) Nhận xét này rất đúng và chúng tôi muốn thêm một ý nữa là chúng ta đã lơ là chẳng những với cá nhân các nhà văn học mà còn toàn thể nền văn học của từng nước Á-châu nữa. Thực vậy, xưa kia khi còn ở trong nước hay nay đang sinh sống ở ngoại quốc, thử hỏi có mấy nhà văn học hay nghiên cứu văn học người Việt-nam đã quan tâm đến văn học của các nước láng giềng, lân cận nhất và có liên hệ lâu đời nhất với Việt-nam là Ai-lao và Cao-miên. Ngay cả nước có cùng chung một nguồn văn hóa, một gốc văn tự cổ với chúng ta, và, theo nhiều người, còn có con cháu của một dòng họ đã từng cai trị Việt-nam là họ Lý vẻ vang lẫy lừng, là Triều-tiên (còn gọi là Cao-ly hay Hàn-quốc), thế mà chưa có mấy ai, nếu không thể nói là không có ai, nghiên cứu, viết về văn học nước này hay dịch các tác phẩm văn học của nước này sang Việt ngữ để mọi người có thể thưởng thức, học hỏi. Còn nói chi đến văn học của các nước á-châu khác như Thái-lan, Mã-lai-á, Tân-gia-ba, Phi-luật-tân, Nam-dương (Indonesia), Ba-tư, và xa hơn nữa là các nước Trung-đông, Cận-đông, v.v. Chúng tôi cũng đồng ý là ít nhất có vài nhà văn học và nghiên cứu văn học người Việt-nam đã quan tâm đến văn học của Ấn-độ, Nhật-bản, và nhất là Trung-quốc. Tuy nhiên, số người quan tâm đến văn học Ấn-độ lại rất ít, lác đác vài người, và những người này lại chỉ chú ý đến có một người và những tác phẩm của người đó là Rabindranath Tagore, hay, quá lắm là tác giả của tác phẩm Kama Sutra thôi. Họ không quan tâm, nếu không thể nói là không hề biết đến các nhà văn học khác đã đóng góp rất nhiều cho văn học Ấn-độ xưa cũng như nay. Chẳng hạn có ai biết đến và tìm hiểu tại sao nhà văn Ấn-độ Prem Chand được kính trọng nhất ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, tác giả của 300 truyện ngắn, 12 truyện dài, vài vở kịch, chuyện phim, và hàng chục luận văn. Ngòi bút ông mạnh đến nỗi chính phủ thuộc địa Anh khi còn cai trị Ần-độ đã coi ông là một đe dọa lớn lao và năm 1910 đã cho đốt hết các tác phẩm của ông. Hay như C. Rajagopalachari, người được các nhà văn học đương thời ở nam bộ Ấn-độ tôn là "niên trưởng văn học" (literary dean); như Khushwant Singh, tác giả được các nhà văn học và nghiên cứu văn học người Âu-Mỹ rất ưa chuộng và có nhiều tác phẩm được dịch sang ngoại ngữ hay được chọn in trong hầu hết các tuyển tập văn học quốc tế; như Khwaja Ahmad Abbas, tác giả của vài chục tác phẩm viết bằng tiếng Urdu, ngôn ngữ quan trọng thứ nhì ở Ần-độ hiện tại (sau tiếng Hindi) và phần lớn đã được dịch sang hơn một chục ngoại ngữ cũng như sang nhiều thổ ngữ Ấn-độ khác. Còn về phía thi ca, thử hỏi có nhà văn học hay nghiên cứu văn học người Việt-nam nào để ý tới G.S. Sivarudrappa, nhà thơ viết bằng tiếng Kannada, một trong những thổ ngữ quan trọng của vùng Bombay, và đã dung hòa một cách khéo léo thi ngữ và các hình tượng mới với truyền thống thi ca cổ điển Ần-độ cùng là phát triển các âm vận và hình thức thi ca mới. Hay có ai biết đến Aruda (tức Bhagavatula Sankara Sastri), một trong những thi sĩ danh tiếng viết bằng tiếng Telugu, ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Dravidian ở nam bộ Ấn-độ, người rao giảng một cách giải thích khác về thuyết nhân quả (karma). Ần-độ còn có Sahir Ludhianvi, thi sĩ của tình yêu nhân loại và tình yêu nam nữ và cũng là người hô hào xã hội Ấn-độ nên có một thái độ tự do hơn và bình đẳng hơn trong quan hệ giữa con người và con người. Đấy là chưa kể những người như nhà văn nữ, kịch tác gia và ký giả Dina Mehta, người đã hai lần trúng giải thưởng về kịch (năm 1968 và 1976) và các truyện ngắn của bà đã được đăng trong các tạp chí ở Ấn-độ, Anh, Hoa-kỳ, Nam-Phi, Hương-cảng, Úc. Hoặc như Amrita Pritam, nhà văn và nhà thơ nữ đầu tiên được trao Giải Thưởng Sahitya Akademi (giải thưởng văn học cao nhất của Ấn-độ) năm 1956 và đã bắt đầu sáng tác từ năm mới 11 tuổi. Hay là nhà văn nữ Bharati Mukherjee có tập truyện ngắn Darkness được New York Times Book Review coi là một trong những sách hay nhất trong năm, một số truyện ngắn khác của bà được in trong Best American Short Stories 1987, tác phẩm The Middleman được trao giải thưởng 1988 National Book Critics Circle về bộ môn tiểu thuyết và có nhiều tác phẩm được ghi vào trong danh sách các sách phải đọc ở cấp trung học và đại học Hoa-kỳ. Ngay cho dù có những người quan tâm đến văn học Nhật-bản thì họ lại chỉ chạy quanh những thi sĩ hài cú như Basho, Buson, Issa, Moritake, Shiki, v.v, của thời xa xưa, mà chẳng chú ý đến những nhà thơ hài cú của thời hiện đại như Takahama Kyoshi, Takano Suju, Hashimoto Takako, Tsuda kiyoko, v.v., chứ đừng nói tới các thi sĩ hiện đại khác của các thể thơ khác như hiện đại thi (thơ tự do), đoản ca (tanka). Chúng tôi nhìn nhận là đã có một số người dịch sang Việt ngữ một số tiểu thuyết của một số nhà văn hiện đại Nhật-bản và lác đác có người giới thiệu sơ qua một vài nhà văn đó, nhất là khi có người được giải thưởng Nobel về văn học. Tuy nhiên con số những người này hãy còn quá ít. Chưa có ai tìm hiểu tại sao nhà văn Watanabe Jun'ichi có tác phẩm nutssurakuen riêng ở Nhật-bản đã bán được ngót 3 triệu cuốn, đấy là chưa rõ bản dịch Anh ngữ (A Lost Paradise) và bản dịch Hoa ngữ (Thất Lạc Viên) bán được bao nhiêu cuốn. Hoặc như tại sao nhiều người Mỹ thích đọc truyện của Banana Yoshimoto, của Murakami Haruki (trong Văn Học số 185, th. 9/2001, trong mục Tin Văn, ông Thế-Quân đã giới thiệu sơ qua tác giả này, tr. 150-151), v.v. Có lẽ văn học của một nước Á-châu được nhiều người Việt-nam, từ nhà văn học hay nghiên cứu văn học đến những người bình dân biết đến, quan tâm tới là văn học Trung-quốc. Tuy nhiên, họ lại chỉ chú ý, nhắc lại, nghiên cứu, phiên dịch các tác giả, các tác phẩm, các tư trào, các kỹ thuật, nhiều nhất là của hai triều đại Đường (618-907) và Tống (960-1280), với những Lý-Bạch, Đỗ-Phủ, Vương-Duy, Hàn-Dũ, Bạch Cư-dị, Lý Thanh-chiếu, Tô Đông-pha, v.v., và lác đác một vài tác phẩm cổ hơn của các tác giả khuyết danh như Kinh Thi, Thượng Thư (hay Kinh Thư)... Hầu như không mấy ai viết về các nhà văn học thời Nguyên (1280-1368) như: Quan Hán-khanh, Lô-Chí, Mã Trí-viên; thời Minh (1368-1644) chẳng hạn Cao-Khải, Lâm-Hồng, Trầm-Châu, Từ-Vị; thời Thanh (1644-1911), thí dụ: Triệu-Dực, Hoàng Cảnh-nhân, Cố Thái-thanh, v.v., hoặc các nhàvăn học của những thời Tần (221-206 TCN), Hán (206 TCN - 221 SCN), v.v., cũng như các thể loại tản khúc, kịch, tiểu thuyết của các thời đại đó. Còn về văn học hiện đại của Trung-quốc thì nhiều lắm chỉ biết đến những tên tuổi như Lỗ-Tấn, Ba-Kim, Mao-Thuẫn, Tào-Ngu, Quách Mạt-nhược, Đinh-Linh, và gần đây hơn nữa là Quỳnh-Dao (một vài người lại còn viết lầm là Quỳnh-Giao), Kim-Dung. Tệ đến nỗi có vị chuyên môn giới thiệu các sinh hoạt văn nghệ thế giới lại đã không biết đúng tên của một nữ văn sĩ Trung-quốc hiện đại rất nổi tiếng chẳng những là ở Hoa-lục và Đài-loan (bà là mẫu mực cho các văn sĩ trẻ Đài-loan học hỏi, noi theo) mà còn ở trong các cộng đồng Hoa-kiều hải ngoại lẫn trong giới các nhà văn học, nghiên cứu văn học người Âu-Mỹ là Trương ái-linh mà lại cứ nhắc đi nhắc lại mãi tên Trương ái-liên. Như vậy họ làm sao biết đến Thu-Cẩn, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, kiêm lãnh tụ cách mạng (người phụ nữ đầu tiên được trao phó việc chỉ huy một chi bộ đảng cách mệnh) và đồng thời cũng là nhà văn học nữ đầu tiên trong lịch sử văn học Trung-quốc bị hành quyết khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống vương triều ngoại tộc Mãn-Thanh. Rồi hỏi có mấy ai biết đến Tiêu-Hồng, nhà văn nữ đa tài bạc mệnh, đã phải sống lang thang đây đó, đói rét, trong nhiều năm miền Hoa-bắc lạnh lẽo và chết trong bệnh tật, nghèo túng giữa Thế Chiến thứ II. Còn nói chi đến biết được trong khi cha Phùng Hữu-lan nổi danh thế giới là nhà triết học hiện đại của Trung-quốc (tác phẩm của ông được trích dẫn, giảng dạy ở trường Đại học Văn khoa Sằi-gòn trước năm 1975) thì con gái Tông-Phách là nhà văn nữ tên tuổi từ thập niên 1980. Hoặc có mấy nhà văn học hay nghiên cứu văn học người Việt-nam biết tới hai nhà thơ nữ sáng giá của Trung-quốc hiện đại, mẹ là Trịnh-Mẫn đã đứng vững trên thi đàn Trung-quốc từ thập niên 1940 mà không hề bị sóng gió của các chiến dịch, kể cả cuộc Vô Sản Giai Cấp Văn Hóa Đại Cách Mệnh, vùi dập, và con gái là Đồng-Uất, nhà thơ nữ ngây thơ siêu hiện thực, một sự ngây thơ đến có thể chuyển biến sang huyền bí. Lại mấy ai biết đến là ở Đài-loan có thi xã Sáng Thế Ký với xã viên đa số là quân nhân và cựu quân nhân các cấp thuộc nhiều binh chủng, nhất là hải quân, và có người đã từng phục vụ ở Việt-nam (nhà thơ Lạc-Phu, sĩ quan hải quân, đã làm sĩ quan thông dịch viên và cố vấn trong Phái Bộ Viện Trợ và Cố Vấn Quân Sự Trung-hoa Dân Quốc ở Nam Việt-nam năm 1965-1967, và sau khi về Đài-loan đã cho xuất bản tập thơ Tây-cống Thi Sao). Cũng ở Đài-loan còn có nhà văn nữ Lý-Ngang, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết, đặc biệt là trung thiên tiểu thuyết Sát Phu đã trúng giải nhất Liên Hợp Báo Trung Thiên Tiểu Thuyết Tưởng năm 1983, đã được in lại tới ngót 20 lần từ năm 1983 , được quay thành phim và đã được dịch sang 4 thứ tiếng là Anh, Pháp, Đức và Nhật. Hơn nữa, hai chị của Lý-Ngang (tên thực là Thi Thục-đoan) là Thi Thục-thanh và Thi Thục-lưu cũng là nhà văn, nhất là Thi Thục-lưu đã xuất bản nhiều tác phẩm văn học có tiếng. Hơn nữa, cả Lý-Ngang lẫn Thi Thục-thanh đều đã du học ở Hoa-kỳ và cùng học ngành hí kịch (Lý-Ngang tốt nghiệp viện đại học Oregon và Thi Thục-thanh viện đại học thị lập Nữu-ước). Tuy nhiên, người ta biết đến Lý-Ngang nhiều, và đó cũng là đầu mối những vụ tranh luận, ở điểm bà viết rất táo bạo về vấn đề tính dục, tuy rằng còn rất nhẹ so với vấn đề này trong các tác phẩm văn học của các nước Âu-Mỹ. Nói đến Lý-Ngang chúng tôi cũng không thể không nói đến việc hầu hết các nhà văn học và nghiên cứu văn học người Việt-nam đa số chỉ chú trọng đến các nam tác giả hơn nữ tác giả. Xin kể một thí dụ. Cuốn Thơ Đường của cố giáo sư Trần-trọng-San chỉ điểm sơ qua 3 nữ thi sĩ là Tiết-Đào, Đỗ Thu-nương và Trần Ngọc-lan, và vài bài thơ của họ. Mặt khác, trong cuốn Thơ Tống giáo sư có bài về hai nữ thi sĩ Lý Thanh-chiếu và Chu Thục-chân thôi. Trái lại, riêng đối với thi sĩ và thi phẩm thời nhà Đường chúng tôi đã thu thập được các bài thơ của 64 nữ thi sĩ khác (có lẽ còn có nhiều người hơn nữa mà chúng tôi chưa kiếm được). Về phần tiểu thuyết, ngoài phần lớn các tác phẩm của nhà văn nữ Quỳnh-Dao đã được dịch sang Việt ngữ và có một vài bài hoặc sách đã viết về tác giả, và một truyện cực ngắn của một nhà văn nữ Đài-loan khác là Viên Quỳnh-quỳnh đã được dịch và đăng trên báo Văn Học này (dịch giả để nguyên tên viết theo phương pháp phanh âm, hay pinyin, lối đọc Hoa ngữ là Yuan Qiongqiong) chúng tôi chưa biết có tác phẩm của nhà văn nữ hiện đại Trung-hoa nào khác, dù là ở Hoa-lục hay ở Đài-loan, Tân-gia-ba, hoặc ở các nước khác, đã được dịch sang Việt ngữ. Đối với các nhà văn học nữ của các nước á-châu khác, kể cả Ần-độ và Nhật-bản, thì còn tệ hơn nữa. Chúng tôi không được biết có nhà văn, nhà thơ nữ nào được các nhà văn học hay nghiên cứu văn học người Việt-nam lưu tâm đến hay dịch các tác phẩm của họ. Trên đây chúng tôi mới chỉ nói đến cá nhân các nhà văn học Á-châu và các tác phẩm của họ. Còn về các trào lưu văn học, các phái văn học, các kỹ thuật văn học, v.v., của các nước Á-châu, nhất là trong hiện đại, người ta cũng không quan tâm đến nốt. Ngay cả văn học Trung-quốc mà có nhiều người quan tâm, nghiên cứu, cũng chỉ là đối với văn học cổ đại, hay quá lắm là văn học hồi tiền bán thế kỷ thứ 20 thôi. Còn văn học Trung-quốc từ hậu bán thế kỷ thứ 20 cũng như văn học Đài-loan từ thời Nhật thuộc (1895-1945) cho đến nay như thế nào ít người biết đến. Không mấy người biết được phản ứng của giới văn học ở Hoa-lục qua các chiến dịch Bách Hoa Tề Phóng (Trăm Hoa Đua Nở), Đại Dược Tiến (Bước Nhảy Vọt), Vô Sản Giai Cấp Văn Hóa Đại Cách Mệnh (Cách Mệnh Văn Hóa), Phê Khổng Phê Lâm (Phê Bình Khổng Tử và Phê Bình Lâm-Bưu; còn gọi là Phê Lâm Phê Khổng, Phê Khổng Bình Lâm), cũng như là những biến cố đưa đến những phản kháng về chính trị như vụ Thiên-an Môn, thì làm sao họ biết được sự xuất hiện của dòng Thương Ngân Văn Học (Văn Học Vết Sẹo), của thi phái Mông Lung, của thi phái Hậu Mông Lung (còn gọi là Tân Trào), v.v. Mặt khác, ở Đài-loan trong thập niên 1930 xuất hiện dòng Hương Thổ Văn Học là dòng văn học hướng về đồng quê, dùng đồng quê làm bối cảnh cho công cuộc để kháng chính sách đô hộ dã man của người Nhật-bản trong thời Nhật thuộc. Rồi khi mới chấm dứt trận Kháng-Nhật Chiến Tranh (1937-1945) thì lại xuất hiện dòng Lãng Tử Văn Học, hay văn học tìm về nguồn của những con người sống xa tổ tịch hay xa nơi chôn rau cắt rốn. Dòng Lãng Tử Văn Học mở đường cho sự tái sinh của dòng Hương Thổ Văn Học nhằm chống lại những cái xấu, cái ác xã hội của sự đô thị hóa, kế hoạch hóa và kỹ nghệ hóa Đài-loan trong thập niên 1960-1980, cũng như để chống lại dòng văn học phản Cộng mang nhiều tính tuyên truyển hơn là tính văn học. Còn về văn học Nhật-bản, chúng ta đâu có biết rằng các tác phẩm văn học hiện đại đã thôi không còn diễn tả một xã hội thâm nghiêm kín cổng cao tường, một xã hội trì trệ, đen tối, u buồn đầy chém giết, nhiều chết chóc mà đã quay sang diễn tả một xã hội mở cửa, tự do, một xã hội phát triển mạnh và nhanh như những chiếc xe lửa đầu đạn phóng vụt. Những tác phảm văn học hiện đại Nhật-bản không còn được dán nhãn hiệu jun bungaku (thuần văn học) nữa mà đã được mệnh danh là fuikkushon (dịch âm từ Anh ngữ fiction, tiểu thuyết), với những thay đổi chẳng những về nội dung mà còn cả về kỹ thuật nữa. Trong những tác phẩm này cuộc sống không còn phải chỉ gồm có áo kimono, thảm tatami, món cá sushi, mà còn có cả nào là quần áo jeans, nào là thủy sàng (water beds), nào là hamburgers và bên cạnh những cuộc sống hôn nhân do cha mẹ thu xếp theo lễ giáo, theo phong tục, những đại gia đình tam đại, ngũ đại, còn có những cuộc sống chung của những cặp nam nữ không cần biết đến giá thú, nghi lễ, hoặc bên ngoài giá thú, ngoại tình, những tiểu gia đình chỉ gồm có vợ chồng con cái, những tác phẩm đầy rẫy những đề tài ám ảnh, dục vọng, đố kỵ, ghen tuông, thù hận, những tác phẩm nói lên những va chạm hay dung hòa giữa mới và cũ, giữa đông và tây. Đó là những tác phẩm nói lên những con người phẫn khích với những bất công xã hội, những con người đã phơi bày cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt của người làm việc trong thành phố chật chội, kiềm chế, những tác phẩm ca tụng tính cách quan trọng của cá nhân, những tác phẩm của những tác giả đề cao từ nhân bản lý tưởng đến hiện thực chủ nghĩa, những người đã biết phối hợp văn phong siêu thực chủ nghĩa hiện đại với những đề tài qui ước cổ điển, những con người dùng lịch sử tiểu thuyết như vũ khí xã hội để cố cải cách trật tự xã hội lỗi thời và giải phóng dân Nhật-bản khỏi ách thống trị của các tập tục phong kiến hay để làm phương tiện xác định những sự thực căn bản chung cho mọi người trong mọi thời. Nói tóm lại, những dòng văn học Nhật-bản hay những thời kỳ văn học chứng tích của những giai đoạn lịch sử huy hoàng tráng lệ hay những đau thương tủi nhục, đen tối, như thời đại Chiêu-hòa (Showa) với 14 năm chiến tranh khói lửa bao trùm thế giới, bom đạn tàn phá Nhật-bản, nhất là hai quả bom nguyên tử rơi trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, rồi lần đầu tiên trong lịch sử đã bị ngoại nhân chiếm đóng, đã được các nhà văn nhà thơ ghi lại qua những tác phẩm nói lên các kinh nghiệm cũng như cảm nghĩ của người dân Nhật-bản trong thời kỳ này, những tiến bộ quanh co khúc khuỷu, đầy gian truân để tiến lên trình bộ tiến bộ cao cấp hiện nay. Cũng vậy, các nhà văn học Ấn-độ đã nói lên hay đề cập một cách cụ thể và xác thực về xã hội Ấn-độ, những người đã đưa ra những nhận xét hay phương thức giải quyết các vấn đề gay go, khúc mắc. Những tác phẩm, những ý tưởng của những nhà văn học đã tranh đấu chống lại mọi áp bức nhằm trói buộc họ, không cho họ được tự do phơi bày những tệ nạn của xã hội, những xấu xa của những người ăn trên ngồi trốc, chống lại những sự đàn áp người dân nghèo khó, chống lại những kẻ kỳ thị giai cấp đã tàn sát tiện dân (intouchables, untouchables, Harijan), những nhà văn học đã bị những kẻ cường hào ác bá hay chính trị gia đối xử một cách tàn nhẫn như là bị đánh què chân, lòi con mắt, bị lấy giày đập đầu chỉ vì đã phơi bày những sự bẩn thỉu của họ. Chúng ta cũng cần tìm hiểu các nhà văn học cố tẩy trừ những đồi phong bại tục đã ăn sâu vào tận xương tủy của các cơ cấu xã hội mà không ai dám cải tổ, xóa bỏ, như là vừa tắm rửa trong sông Hằng (Ganga), vúc nước sông lên uống theo nghi lễ tôn giáo cổ truyền lại vừa tiểu tiện hay đại tiện ngay tại đó, hay là tục thiêu sống cô dâu không mang đủ của hồi môn về nhà chồng, việc bắt cóc con nít đi làm ăn mày, việc mua bán đàn bà làm kỹ nữ, v.v. Chúng ta cũng cần tìm hiểu nền văn học đa dạng của các quốc gia Trung-đông, Ả-rập, hiện đang phát triển nhanh chóng không thua gì nền văn học của các nước Tây phương. Nền văn học hiện đại Ả-rập tìm cách thoát ly dòng chủ lưu văn học truyền thống Ả-rập. Có đọc những tác phẩm của các nhà văn học Ả-rập chúng ta mới thấy được sức sáng tác mạnh mẽ của nền văn học hiện đại Ả-rập, với những tiêu chuẩn nghệ thuật cao nhất và thuần thục nhất không thua gì các nhà văn học Ấu-Mỹ. Hơn nữa nền văn học hiện đại Ả-rập còn cho chúng ta thấy được những biến đổi căn bản và sâu xa đã và đang xảy ra tại những nước trong vùng Trung-đông và nhất là vùng Vịnh Ả-rập. Đáng kể nhất là những nỗ lực của các nhà văn học nữ trong một khối xã hội trọng nam khinh nữ, còn nặng hơn xã hội Trung-quốc thời quân chủ phong kiến, muốn phá bỏ bức tường bảo thủ hủ lậu đã giam cầm họ hàng bao nhiêu thế kỷ. Có đọc những tác phẩm văn học Ả-rập chúng ta mới thấy được là mặc dù thế giới Ả-rập ngày nay chia ra thành nhiều quốc gia độc lập lớn nhỏ, nhưng văn học Ả-rập lại luôn luôn nhất quán, bao gồm một tập thể thống nhất với nhiều dị biệt địa phương. Sự lơ là đối với văn học á-châu của các nhà văn học hay nghiên cứu văn học người Việt-nam khi còn ở trong nước trước năm 1975 có thể hiểu được và có thể chấp nhận được. Vì chiến tranh kéo dài 30 năm, chúng ta thiếu nhiều phương tiện, kể cả phương tiện tài chính, để có thể tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu văn học á-châu. Điều đáng nói hơn nữa là ở cấp trung học và tại các trường đại học văn khoa hay khoa học nhânvăn, văn học Tây phương được chú trọng và giảng dạy nhiều hơn là văn học á-châu.Vì vậy, trong khi các tài liệu văn học hay về văn học Tây phương đầy rẫy thì văn học á-châu bị lơ là ngay tại các cơ sở chuyên đào tạo những nhà nghiên cứu văn học. Kết quả là chúng ta có rất ít tài liệu văn học hay về văn học á-châu phổ biến trong nước thì làm sao đào tạo ra được những người biết quan tâm đến văn học Á-châu. Tuy nhiên, sự lơ là của các nhà văn học hay nghiên cứu văn học hiện đang sống ở ngoại quốc thực đáng tiếc. Bên cạnh cuộc sống vật chất sung túc hơn, dư dả hơn, so với những người còn ở trong nước, họ lại có nhiều phương tiện hơn để tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu về văn học á-châu nếu họ muốn. Chung quanh họ ở không thiếu gì các tài liệu văn học và về văn học á-châu cùng là các dịch phẩm của nhiều tác phẩm văn học á-châu, nhất là những người sống ở Hoa-kỳ, Anh, Pháp, Đức, Hòa-lan, Bỉ, v.v., vì ở những nước này có những trung tâm, những cơ quan, những trường đại học, những hiệp hội chuyên nghiên cứu về văn học á-châu quan trọng trên thế giới. Thế mà cho tới nay có mấy người Việt-nam chịu bỏ chút thời giờ ra tìm hiểu văn học Á-châu? Sự lơ là đối với văn học Á-châu đã kéo dài quá lâu rồi. Bây giờ chính là lúc các nhà văn học và nghiên cứu văn học người Việt-nam nên có một sự hy sinh (tiền, thời giờ, trí óc) để bù đắp sự thiếu thốn gây ra bởi sự lơ là kể trên, ngõ hầu có thể hướng dẫn những người khác kém may mắn hơn, kém phương tiện vật chất và nhất là tinh thần, đi vào vườn hoa trăm sắc nghìn hương của các dân tộc sống chung quanh hay trên cùng một đại lục, để tìm hiểu họ, học hỏi những kinh nghiệm của họ cũng như cách thức họ giải quyết những vấn đề cảm thông những đau khổ hay hạnh phúc của họ, chia sẻ với họ những hy vọng, những ước vọng, những kỳ vọng. Tạ Quốc Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 8:04:14 GMT 9
"đối thoại sử học" Tây Sơn, lại nhìn từ bên trong
Tạ chí đại Trường Lạm tặng: Nhà hoạt động chính trị Nguyễn Gia Kiểng để khỏi sợ Quang Trung Nguyễn Huệ (và các nhân vật lịch sử khác) làm hại đến tinh thần dân tộc; Và Giáo sư Phan Huy Lê, người giúp Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam chôn Đô đốc Long lần thứ hai, đưa chiến thắng đến tận bên kia thế giới. ■ Biến động Tây Sơn tuy ngắn ngủi, tồn tại chỉ có 31 năm (1771-1802), nhưng đã gây nên sự đảo lộn lớn lao khiến kẻ thù đương thời, triều thần họ Nguyễn, cũng phải thán phục: "Kẻ kia, Nhạc Huệ, không có một miếng đất cắm dùi, thế mà vươn tay hô một tiếng, người theo cả vạn..." Vì thế, tuy vẫn gọi họ là "nguỵ" mà sau khi chiến thắng, các sử quan họ Nguyễn vẫn dành cho Tây Sơn cả một "quyển" trong Đại Nam liệt truyện (Quyển 30). Tiếng khen càng ồn ào hơn khi với thời đại quan niệm vương quyền suy tàn xoá ranh giới chính thống, nguỵ tặc, cùng lúc với công tích chống lực lượng ngoại quốc nổi bật với thời đại giành độc lập dân tộc ngày nay, đưa địa vị của Quang Trung Nguyễn Huệ lên đỉnh cao của lịch sử nước nhà. Chủ đích của những lời tán dương đôi khi không phải vì người xưa, mà cốt vì người nay, để tô vẽ cho bản thân từ những oai hùng có thật và cả những điều tưởng tượng. ít ai nhắc cho kẻ khác những tấn tuồng bại vong vốn cũng có thật như chính của đời sống. Không thấy ai nhắc lại tiếng kêu thét của cô bé khi thấy con voi cuốn vòi xông tới: "Mẹ ơi cứu con với!" để viên nữ tướng ngậm ngùi: "Đến thân mẹ cũng còn không giữ nổi, làm sao cứu con?" Không nghe ai nhắc lời người em trách anh, khi thấy người tù binh cựu hoàng đế ăn miếng cơm ân huệ trước khi bị ra pháp trường tùng xẻo: "Nhà mình thiếu gì mâm vàng mâm bạc mà ăn của nhà người..." Không nhắc lại, một phần vì lẽ có ảo tưởng về sự hoàn hảo của con người, vì muốn tự dối mình để che giấu điều tủi nhục về phía phe mình ưa thích, hay giản dị hơn, có lẽ vì thói quen huênh hoang chỉ ưa nói về thành công, chiến thắng, như một thôi thúc tự bên trong để che lấp niềm tự ti sâu kín. Lời phẩm bình thường chỉ nhắm về phương diện tranh chiến - hay suy diễn căn cứ từ đấy mà ra. Cho nên thật có chút thích thú cho người đời nay khi thấy được nhận xét của Phan Huy Chú: "Gần đây, nhuận triều Tây Sơn phong chức quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá..." (Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, bản dịch Hà Nội 1993, trang 533). Lời nhận xét tuy không mất tính chất phe phía, hãnh diện từ một truyền thống quan chức có từ hàng mấy trăm năm, được "mệnh vua phong thì lấy làm vẻ vang", có "phong khí hay như thế" nhưng cũng cho thấy một khía cạnh xác thực từ phía đối nghịch - còn hơn là chửi mắng, hay lờ đi. Có điều ông không nhắc tới chuyện đứng chung với các phu quét chợ, lính đẩy xe đó là một người trong dòng họ: Thuỵ Nham hầu Phan Huy ích, hay một người có tên tràn ngập khắp nước ngày nay nhờ sử quan mới, cũng cùng dòng họ Phan Huy, tôn vinh lên: Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông. Ông Phan không cho thấy các Đô đốc, Đại đô đốc (các chức thường thấy của Tây Sơn) đẩy xe, quét chợ nào có tên là gì, nhưng những người đi theo triều mới, nhờ công tích lên cao, một chút xuất thân hèn mọn, nhỏ bé không những không bị che lấp, lại được trưng ra để làm vẻ vang thêm, nên ta còn giữ được tên. Ví dụ hàng thần Tây Sơn Nguyễn Văn Trương, lập công cho Nguyễn ánh đến mức trở thành như một thứ Tư lệnh hải quân ngày nay, chưa từng biết Vọng Các mà được kể là "công thần Vọng Các", người đó "gốc là chăn trâu". Cùng nghề với Nguyễn Nhạc "buôn trầu", theo với thời đại đi buôn nguồn, trở về với Nguyễn ánh, có "Thượng đạo Tướng quân" Nguyễn Phúc Long ngu ngơ, ngớ ngẩn, có Chu Văn Tiếp làm Bình Tây Đại đô đốc, liều lĩnh theo thói "buôn Mọi" nên chết sớm... Cho nên, chỉ lận đận khuất lấp là các người còn ở phe chiến bại, thoáng thấy ở một cái tên, không còn họ, hay có tên còn họ mà cũng mù mờ, lẫn lộn: Đặng Văn Chân/Chấn/Trấn, một loạt tướng, hầu với công tích chiến trận cũng ngang tàng như ai: Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy, Hô hổ hầu ngay từ lúc khởi đầu..., Đại đô đốc Lộc, Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Long/Mưu, (vẫn là) Hô hổ hầu đốc thúc Hậu quân (và có mặt cả trong tiến trình ngoại giao sau khi thắng trận), của trận Đống Đa oai hùng...Ngay như Vũ văn Dũng mà tước Chiêu viễn hầu (đặc biệt giữa đám Đô đốc thân cận triều mới) chứng tỏ tài năng của ông ta dưới mắt Quang Trung, thế mà ta có biết gì hơn đâu?) Không thấy ai là "phu quét chợ, lính đẩy xe" nhưng xét theo tình hình bình thường thì nếu không có anh em Tây Sơn, bà Bùi Thị Xuân chắc chỉ múa roi doạ Trần Quang Diệu, hay vung vẩy đi "coi" (thu) lúa ruộng vào mùa gặt, nếu không phải là còng lưng đi cấy chứ không oai hùng ngồi bành voi dẫn năm ngàn quân thúc đánh luỹ Đâu Mâu, suýt đảo ngược tình thế tuyệt vọng - ít ra cũng trong một lúc. Danh tướng Trần Quang Diệu "ngu ngơ", không tính chuyện lo đề phòng "tàn dư nguỵ Nguyễn" đến không thèm giết binh tướng đầu hàng ở thành Đồ Bàn, người đó chẳng biết ông "Xã tắc" là ông tổ tên Lê gì-gì mà họ Lê phải cúng tế cả. Gốc tích binh tướng Tây Sơn đã mù mờ từ lúc khởi phát, càng tàn lụi thêm vì sự thất bại cuối cùng của họ. Chuyện đàn áp của Gia Long đã được nói nhiều, tuy xét ra thì cũng là bình thường, trừ phi muốn thiên vị quá quắt. Người dân Bình Định khiếp hãi lại càng khiếp hãi thêm vì có ông Đại đô đốc Lê Chất, đầu hàng triều mới làm đến Tổng trấn Bắc Thành, tưởng là khiến dân cùng xứ dựa hơi yên tâm một chút, nhưng chỉ vì chút ngang tàng thời chiến không kềm được trong thời bình, tuy có giữ được thân lúc sống vẫn không tránh khỏi lúc đã chết còn bị san bằng mả, vợ con bị cầm tù, bị giết. Đến cuối thế kỉ XIX, khi Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa Cần vương (bị bắt ngày 6-5-1887, dân địa phương cho là vì Trần Bá Lộc bắt mẹ ông, nên tự đi đầu hàng) thế mà vẫn còn bị triều đình Huế (đã theo Pháp) coi là muốn "phục hồi Nguỵ Tây"! Cho nên khó lòng tìm chứng tích lịch sử chính xác về các tướng Tây Sơn, và khi có chứng tích thì phải dè đặt. Nhưng không thể gạt bỏ, sổ toẹt. Chúng tôi đã có lần gạt bỏ nguồn tin địa phương nói Vũ Văn Dũng là người Bình Định, trốn được vạ nhà Nguyễn, chỉ vì danh xưng Chiêu Viễn hầu là người ở xa rõ rệt quá (Hải Dương, một "lính đẩy xe" của quân đội họ Trịnh?) Lịch sử đã trở thành truyền thuyết, tuy còn giữ lại vài sự kiện lẻ loi trong dân chúng như chuyện Nguyễn Nhạc chui vào cũi nạp mình để đánh phá phủ thành Quy Nhơn, vẫn được người Pháp nghe từ cuối thế kỉ XIX, nhưng để đưa thêm vào sách vở thì lại lạc loài nhiều vì phải trải qua một truyền thống truyện kể lâu ngày của Đàng Trong. Một ông quan của chúa Nguyễn, Nguyễn Khoa Chiêm khi viết về sự kiện không xa đời mình (Nam triều công nghiệp diễn chí) mà vẫn không tránh khỏi giọng "tiểu thuyết hoá", hẳn là ảnh hưởng của lối kể diễn nghĩa Tam Quốc mà các thương nhân Trung Hoa đã đem sang, lối "viết sử" tràn lấn kinh Xuân Thu hay Tư trị thông giám, Cương mục... Không lấy làm lạ điều đó vì có chứng cớ là trí thức thế hệ trước ông đã từng đọc Tam quốc chí diễn nghĩa, Phong thần... (Chu Thuấn Thuỷ, Kí sự đến Việt Nam năm 1657, bản dịch An Nam cung dịch kỉ sự, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xb., 1999, trang 57). Địa phương Bình Định cũng có truyền thống kể chuyện vè riêng, theo lối Hô bài chòi, diễn dịch từ các chuyện thời sự khích động đã xảy ra trong vùng, mở ra đến các truyện tích hát bội đơn giản hoá đi. Hô bài chòi trong khoảng sân trống giữa trò chơi đánh bài (trên) chòi vào dịp Tết, hô bài chòi trên tấm chiếu trải ra với vài "nghệ sĩ" áo sờn vai, cầm sanh gõ nhịp hay có khi sang hơn với cây đờn cò, nơi góc chợ chiều lúc xẩm tối, ở bất cứ khoảng đường trống nào nơi đô hội, có người xem. Đem sự thật đơn giản về chuyện một người vợ công chức từ thành Bình Định của Nam triều xuống Quy Nhơn thăm chồng nằm bệnh viện, lúc trở về bị người phu xe giết cướp của ở cây cầu bây giờ đã thành tên của nạn nhân, so với vè "Cô Thông Tằm" của lời hô bài chòi thì ta thấy rõ dấu vết của tình tiết tưởng tượng cần thiết cho nhu cầu biểu diễn. "Cô Thông Tằm", "Dư Đành" thì còn nằm ở địa phương nhưng "Vè Chàng Lía" (Văn Doan) thì đã đi được khắp đất nước. Vì thế truyện tích về các nhân vật Tây Sơn đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đã được ghi lại với rất nhiều tính chất tiểu thuyết hoá. Thứ tự anh em Tây Sơn bị đảo lộn vì vai trò nổi bật của Nguyễn Huệ: anh Hai Trầu, chú Ba Thơm, thầy tu Lữ thay vì chú Bảy Lữ, anh Tám Huệ ("Thơm" chắc là suy diễn từ [hoa] huệ. Điều này chứng tỏ ông Hồ Hữu Tường ít ra là cũng biết đến các bản văn này.) Giáo Hiến lánh nạn Trương Phúc Loan chỉ lộ diện khi bất đắc dĩ ra tay chống cướp đền ơn chủ nhà cưu mang mình trong cơn lỡ bước. Bùi Thị Xuân đánh cọp giải vây cho Trần Quang Diệu rồi thử tài, kết hôn... Tuy nhiên, cũng như trong chuyện kể về nhân vật Dư Đành, có đoạn tướng cướp này vào lúc xẩm tối, mò ra Ngã ba Phú Tài (giao điểm Quốc lộ 19 và số 1 cũ) xin, và ăn được cả gánh của những người đàn bà mang than đốt từ trên núi Ông Chà xuống, ta vẫn không thể phủ nhận được sự hiện diện của Dư Đành, kẻ đã được nằm trong một bài hô Bài chòi ở địa phương. Dù sao thì nhắc chuyện Tây Sơn ngay ở Bình Định, bởi người Bình Định cũng là một việc làm can đảm, có sự kết hợp của một tình thế suy yếu quyền bính nhà Nguyễn bên trên với sự can thiệp khởi đầu của người Pháp. Lại cũng phải công nhận rằng các bài vè về nhân vật Tây Sơn chỉ xuất hiện trên sách báo sau 1975 nhờ sự lưu tâm của nhà nước mới muốn dùng biểu tượng Tây Sơn như bằng cớ liên kết với quá khứ và địa phương về chính nghĩa thống nhất họ vừa thực hiện xong. Trong hiện tại, chúng tôi không có các bản văn cũ đã được Sở Văn hoá và thông tin Nghĩa Bình in ra như Tây Sơn văn thần liệt truyện, Tây Sơn danh tướng anh hùng truyện của Nguyễn Bá Huân (1848-1899), Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì (1854-1922). Chúng tôi biết được các điều này qua quyển Trên đất Nghĩa Bình, tập I, (Quy Nhơn: Sở Văn hoá và thông tin Nghĩa Bình xuất bản 1988). do tập nhóm tác giả Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Vũ Minh Giang, Nguyễn Quang Ngọc được trung ương phái vào khảo sát, viết lên, và sách nằm lạc loài ở chợ trời Chợ Lớn khi vào tay chúng tôi. Sách qua được Mĩ vì tính cách chính thức của nó, khác với một quyển khác bị từ chối vì xuất bản trước 1975. Chúng tôi không biết gì hơn về Nguyễn Bá Huân ngoài nhận xét rằng những truyện kể tiểu thuyết hoá bằng thơ của ông mang tính cách tôn trọng Tây Sơn rõ rệt qua các đề tài: "Tây Sơn tiềm long lục", "Cân quắc anh hùng truyện", "Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện", nhưng cũng mang dấu vết tinh thần Khổng Nho khi đề cao khí tiết của Võ Tánh, Ngô Tòng Châu trong việc giữ thành Đồ Bàn. Nhưng với Nguyễn Trọng Trì thì tác giả Trương Toại ("Xã thôn Bình Định có các nhà khoa bảng Hán học", trong Đặc san Bình Định, Bắc California, 2001, tr. 113) cho biết ông là người huyện (sau là phủ) An Nhơn, đỗ cử nhân năm 1876, có tên gọi thông tục là "Nghè Trì", một điều lí thú ngoài lề nhưng cũng cần biện minh. Trong phong trào Cần vương ông theo Mai Xuân Thưởng, làm Hiệp trấn "thứ" (một loại chiến khu) Hương Sơn (núi Thơm ở Cảnh Vân, Tuy Phước?) và bị tước cử nhân, như vậy không thể thi hội tiếp để đậu tiến sĩ như chữ "nghè" gợi ý. Ông Võ Phiến có lưu ý rằng ở Bình Định người ta thường "phong" chức "nghè" cho cả những người chẳng đỗ đạt gì ráo trọi! Thật ra thì trong các ghi chép của người ngoại quốc đến Đàng Trong vẫn thường có tập nhóm từ "ông Nghè X" để chỉ một ông quan văn cao cấp nào đó. (Ví dụ ở Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621 (bản dịch), Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1998, trang 133.) Chúa Nguyễn chưa từng mở khoa thi tiến sĩ cho nên các "ông nghè" kia hẳn chỉ là những văn chức đương thời mà thôi. Có thể nghĩ rằng tâm trạng ước mong khoa bảng nhưng cũng có chút riễu cợt đã gợi nên cách gọi kia ở các địa phương. Vậy thì chỉ vì tiếng gọi "Nghè Trì" trong dân chúng mà các người đưa ra trình sách của Nguyễn Trọng Trì đã cho ông đậu tiến sĩ thôi. Nhưng cũng như khi xét Nam triều công nghiệp diễn chí, không thể bỏ hết những điều Nguyễn Trọng Trì đã viết vì cho rằng đó là bịa đặt. Bằng chứng có ít đi tuy cốt lõi vẫn còn. Tác giả Nguyễn Trọng Trì đã liệt kê được một số người dưới đề mục Tây Sơn lương tướng, trong đó có tên Đô đốc Đặng Văn Long giống tên với người mà Hoàng Lê nhất thống chí cho là cầm Hữu quân với voi ngựa đánh quân Điền Châu bức bách Sầm Nghi Đống phải tự tử. Chắc chắn Nguyễn Trọng Trì không bị ảnh hưởng từ các tài liệu mà ngày nay ta thường dẫn chứng. Các tay sĩ tử ngày xưa không có nhiều sách vở để học như ta tưởng, nhất là về sử Việt. Xét bản thân gia đình, chúng tôi thấy có quyển Toàn thư in ở Nhật cuối thế kỉ XIX (đã mất trong khoảng 1950) mà sách này thì không có chuyện đánh Thanh. Trong một gia đình học Nho để đi thi khác ở Bình Thuận, chúng tôi chỉ thấy có một loại Bắc sử giản lược về đời Đường, Tống. (Cho một người bạn mượn, sau 75 bị Phường bắt đăng kí, và mất tiêu!) Chính biên Liệt truyện sơ tập của triều Nguyễn, nơi có Quyển 30 nói về Nguỵ Tây thì mãi đến năm 1889 mới được đề nghị in, với thời gian in xong, cất ở Quốc sử quán thì hẳn là ông "nghè Trì" bị tước bằng cử nhân không thể nào thấy tên Đô đốc Mưu trong ấy. Và lại càng không thể đọc được Hoàng Lê nhất thống chí trong gia đình Ngô Thì, xa tận ngoài Bắc để biết tên Đô đốc Long. Tên Đô đốc Long (hay Đặng Văn Long) là từ địa phương truyền đến tai ông "nghè Trì". Lại chẳng cũng có chi tiết rõ rệt là cầm quân Hữu quân (mơ hồ như với trường hợp Đô đốc Đặng Tiến Đông) nhưng cũng có chi tiết đánh Thanh, chi tiết lời khen của Cảnh Thịnh có thể thấy như ở bất cứ sắc phong nào. Cả một chiến dịch 1789 to lớn còn sót lại dấu tích nhờ cái gò trở thành tên riêng Đống Đa thờ viên tri phủ Điền Châu kia (chắc là để vui lòng Càn Long) cho nên sử gia ngày nay (vốn thường co rút ở một địa phương) thấy tên viên tướng Đô đốc Long mù mờ thật không xứng. Và ông Phan Huy Lê tưởng là đã tìm được một người có tiểu sử rành rẽ hơn để thế vào: Đô đốc Đặng Tiến Đông với sắc phong, bia đá, tượng thờ... Rồi nổi lên là một thành phần của cuộc tranh cãi giữa hai phe trong nước, sôi nổi năm vừa qua (2000). Phe bác bỏ yếu thế hơn nhưng không phải là không có lí. Các tác giả Hoàng Lê... của dòng Ngô Thì nổi danh, ghi chép về chính thời đại mình sống, nhận ra đủ tên họ các nhân vật tham gia vào biến động, sao lại quên tên Đặng Tiến Đông của một dòng họ danh giá phù Lê Trịnh, để lầm ra tên một ông Đô đốc Long cụt ngủn, nếu không phải vì lẽ người cầm quân kia là một nhân vật thoảng qua của Tây Sơn, từ phương Nam, không dính líu nhiều đến Bắc Hà? Quang Trung xuất quân đánh một trận quyết định như thế, sao lại không sử dụng những người thân tín từng xông pha trên mạc với mình mà dùng một "người mới" (tránh chữ "hàng tướng" chạm đến tự ái địa phương của tác giả Phan Huy Lê) chen vào giữa các tên rõ ràng xa lạ với Bắc Hà? Sử gia Phan Huy Lê được giao trách nhiệm vào tận quê hương Tây Sơn để chứng tỏ khả năng ưu việt của phe xã hội chủ nghĩa, nhưng vì đã lỡ phát hiện Đô đốc Đông trước (1974) nên không cần để tâm đến tài liệu địa phương, và do được Nhà nước công nhận thành tích, đặt tên đường (từ Hà Nội, theo tinh thần "dân chủ tập trung" vào đến tận thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000) cho vào bảo tàng, vào từ điển bách khoa, viết giáo trình làm pháp lệnh cho học sinh đi thi (Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục 2000), nên ông Phan càng không thể nhận mình kết luận có hơi vội vã (1999). Chức quyền Đảng cũng như Nhà nước địa phương ở Bình Định thì theo thói quen tuân phục từ thời phong kiến, có văn minh hơn với nguyên tắc chính trị "tập trung dân chủ", nên hạ bệ ông Đô đốc Long, đem ông Đô đốc Đông vào thờ ở Bảo tàng Quang Trung, lại cẩn thận rước sao bằng sắc, tượng của ông này từ Hà Tây vào, kèm theo làm chứng cớ lịch sử cho muôn đời con cháu Bình Định mai sau. Con cháu ông đô đốc được ông sử gia vinh danh thì tất nhiên càng không chịu lùi bước trước các chỉ trích nên đòi xem bia đá, bằng sắc của nguỵ Tây Sơn phong cho ông Đô đốc Long (giống như có người bây giờ đòi xem huy chương tưởng lục của Việt Nam Cộng hoà, nói là để sắp xếp bậc lương trong chế độ mới) mà không nhớ lời thánh hiền dạy: "Mình không muốn ai giựt bàn thờ nhà mình thì đừng đi giựt bàn thờ nhà người ta!" (kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân.) Mọi sự việc bắt đầu bằng một sự cố công tìm "phát hiện mới" của sử gia, đưa đến kết luận có ẩn tàng một sự tự phụ địa phương "Chỉ có Xứ Ta mới có người tài ba" rồi nhờ một chiến thắng quân sự mới nổi lên thành một chân lí lịch sử được ban phát từ trên tột đỉnh quyền hành đi xuống dân chúng. Người-viết-lịch-sử không như người-làm-lịch-sử, không chộp được nhà cửa, vàng bạc (16 tấn chớ có ít đâu!) thì ráng tìm cái danh nhờ cậy như thói quen bản thân, như vướng víu rơi rớt của thời sử thần xưa. Và đến con cháu danh nhân thì chịu ép thêm một phận, đi kiếm cái bàn thờ! Cho nên con cháu họ Đặng cứ yên tâm. Sai lầm đã gắn liền với một chế độ, một quyền lực thì không dễ gì xoá bỏ mà không làm mất mặt người đương quyền. Theo quy luật "sự chiếm hữu lâu dài sẽ trở thành đương nhiên", tin chắc rằng Đô đốc Đông sẽ vững vàng ngôi vị trong lịch sử, thay thế Đô đốc Long mãi mãi. Cũng như "Anh hùng" Nguyễn Văn Bé của thời chống-Mĩ được ca tụng lỡ đà (bởi vì thật ra là một hồi chánh viên), nay đã được đặt tên đường ở thành phố Quy Nhơn rồi đấy! (Còn có ở nơi nào khác nữa không?) "Sống như anh" Nguyễn Văn Trỗi đã được ông Tố Hữu, thi sĩ quan chức lãnh tụ Đảng, chứng kiến hô khẩu hiệu ngoài pháp trường thì dù có phát giác của người luật sư biện hộ, rằng anh đã khóc lóc trong nhà giam, cũng đâu làm anh mất tên đường đã đặt? Thật ra tên họ của một nhân vật lịch sử còn đầy đủ qua biến cố hay không lại tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố rủi ro có ngay từ lúc khởi đầu sự kiện. Ngay đến sử nhà Nguyễn cũng có rất nhiều tướng chỉ có tên, thiếu họ, trừ những người thuộc Quý huyện, Quý hương Tống Sơn của chúa. Tính chất thân tộc như thế cũng không tránh khỏi ở dòng họ Tây Sơn, và trong trường hợp này lại ảnh hưởng đến sự suy sụp của họ nữa. Khác với chúa Nguyễn, chúng ta không thấy các nhân vật phía nội của anh em Tây Sơn. Nhà Nguyễn tất là phải cố công tìm cho ra tông phả của nguỵ Tây để truy diệt, đào mả triệt hạ huyệt phát đế vương của họ, thế mà rốt lại sử quan cũng chỉ viết mơ hồ: "Tiên tổ là người huyện Hưng Nguyên... Ông tổ bốn đời bị quân ta bắt được, cho ở ấp Tây Sơn Nhất... Cha là Phúc dời đến ấp Kiên Thành..." Rốt lại chỉ có thứ tự Nhạc, Lữ, Huệ là đúng thôi - khác với người sau thấy vai trò Lữ lu mờ nên cứ in trí rằng Huệ là anh, lại bịa thêm "thứ ba" (vì Nhạc là lớn nhất nên có "anh Hai Trầu"!) Về người cha, Hoàng Lê nhất thống chí thêm được họ và chữ lót: Hồ Phi Phúc. Tuy nhiên nhờ nguồn gốc Hưng Nguyên (Nghệ An) mà người ta tìm ra gia phả họ Hồ ở đấy, và thấy có tên Hồ Phi Phúc, người dù có bị bắt trong chiến dịch nam sông Lam của Nguyễn, cũng không thể vào Nam sinh anh em Tây Sơn trong 100 năm sau! Không thấy một người họ Hồ nào tham gia chiến trận, hiện diện trên triều chính của 31 năm Tây Sơn. Có thể họ đã bắt chước anh em Nhạc mà đổi họ chăng? Có thể phần nhiều họ Hồ còn nằm ở An Khê (Tây Sơn Nhất) nhưng sao sau đó họ không tham gia vào hoạt động của người trong dòng? Chúng ta thấy có tên "Lại bộ" Hồ Đồng / Công Diệu còn làm quan dưới triều Nguyễn nhưng người này là tù binh của trận Đồng Tuyên 1783, và tư tưởng như sẽ thấy, đầy tính chất văn quan Nguyễn, không có dáng gì là phản loạn cả. Một tên Nguyễn Quang Hiển "cháu ruột" của Quang Trung có mặt lúc giao tiếp với nhà Thanh, nhưng đó là chuyện của thời hiển đạt. Như thế, bằng vào lí do gì đi nữa thì tính chất mờ nhạt của phía nội anh em Tây Sơn thật đã rõ rệt, khác hẳn với truyền thống ở gốc rễ Nghệ An. Và khác hẳn dấu tích về phía ngoại của anh em nhà này. Sử quan Nguyễn, trực tiếp hay gián tiếp, đã nói rất nhiều về phía dòng nữ của anh em Tây Sơn, một dấu vết hẳn là được lưu truyền một cách tự nhiên từ trong kí ức của dân chúng. Độc nhất, và trực tiếp về phía mẹ, là Đô đốc Tuyết, Nguyễn Văn Tuyết, (nhưng sử quan Nguyễn cũng gọi là Đinh Công Tuyết, họ Đinh của người Thượng phía tây Quảng Ngãi?) có mặt từ phút đầu cho đến lúc chót. Xuất hiện từ lúc đầu, có nghĩa họ Nguyễn là của mẹ chứ không phải từ họ Nguyễn nhờ cậy sau này. Cũng có nhân vật Nguyễn Văn Danh làm đến Thiếu bảo (1792), chức tước quan trọng xác nhận lời chú của sử quan "cùng họ với nguỵ" nhưng ta không thể biết gì hơn. Mơ hồ hơn, là trường hợp Nguyễn Thung, quan trọng, của thời mở đầu khởi loạn, nhưng nếu cho rằng có liên hệ thân thuộc thì đó cũng là từ họ Nguyễn của phía mẹ. Tiếp theo đó là những người phía nữ của anh em Tây Sơn. Các người con gái không có tên - trừ Thọ Hương gá cho Nguyễn Phúc Dương, nhưng chắc là còn ở lại, có thể gả cho người nào khác. Ta biết tên những người con rể danh tiếng: Phạm Công Trị / Nguyễn Văn Trị, Trương Văn Đa có mặt ở Gia Định lúc truy bức chúa Nguyễn (1783-84), Vũ Văn Nhậm chết thảm thương (1788) từ cuộc tranh chấp nồi da xáo thịt 1787. Trừ Vũ Văn Nhậm được ghi rõ ràng, ta phải đoán rằng hai người kia là rể của Nhạc. Nhưng tên "Trị" còn gây rắc rối: Sử nhà Nguyễn của giai đoạn gần kết thúc cho thấy "Phò mã" Nguyễn Văn Trị bị bắt khi giữ cửa Tư Hiền (12-6-1801) và Phạm Công Trị lại được xác nhận là cháu Nguyễn Huệ, làm Giả Vương đi sứ Thanh (1790) nhưng theo văn bản còn giữ đến ngày nay thì ông này có đi theo sứ bộ nhưng phải hộ tống Nguyễn Quang Thuỳ bị bệnh trở về nửa chừng. Có lẽ phải tách riêng hai người, một phò mã (trường hợp này thì Nguyễn Văn Trị có thể là rể của Nguyễn Huệ, vì bà Phạm Hoàng hậu có con gái) và một người cháu. Như thế là ta có thêm một nhân vật họ Phạm phía vợ Nguyễn Huệ xuất hiện trong lịch sử. Nguyễn Huệ có bà vợ họ Phạm mất trước ông, là mẹ của Quang Toản, người sẽ nối ngôi với niên hiệu Cảnh Thịnh, Bảo Hưng. Và ta thấy một loạt người họ Phạm hoạt động tích cực trong chiến trận, có người ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng vong của triều đại, dù có khi chỉ là gián tiếp. Phạm Ngạn có chức Hộ giá (của Nguyễn Nhạc) cầm quân vào Gia Định (1778), bị giết ở cầu Tham Lương (1782) đã gây nên trận chém giết thương nhân người Hoa ở Gia Định, chặn thêm một lối mở cho Tây Sơn đi vào thế giới bên ngoài. Phạm Văn Sâm một mình chống đỡ cho Gia Định khi Nguyễn Lữ bất lực, rốt cục chết dưới tay Nguyễn ánh, vì vị thế thân thuộc với Tây Sơn. Phạm Văn Hưng (+1795) đem quân cứu Gia Định không được, lại cũng đóng một vai trò lắt léo trong sự tranh chấp quyền hành từ phe phía ngoại. Những biến loạn cuối đời, có phần làm tan rã Tây Sơn, càng khiến cho thấy tình hình thế lực "phía ngoại" được quan niệm rộng lớn hơn là ta tưởng về sự kết thông gia trực tiếp. Trần Quang Diệu được các giáo sĩ đương thời gọi là "oncle maternel du roi". Thật ra, ông chẳng có bà con gì với Quang Toản, nếu áp dụng ngay cả theo cách tính thân thuộc của người Việt ngày nay. Mẹ của Phạm Hoàng hậu trước khi sinh Bà đã có một đời chồng họ Bùi. Sử quan Nguyễn cho biết rằng Bà X đó khi lấy họ Bùi đã đẻ ra (người sau này là Hình bộ thượng thư) Bùi Văn Nhựt, (Thái sư) Bùi Đắc Tuyên, đến khi lấy người họ Phạm mới đẻ ra Phạm Hoàng hậu (có lẽ sinh năm 1759). Còn Bùi Thị Xuân là "cháu gái họ của Tuyên". Vậy thì Quang Toản (Cảnh Thịnh) không có bà con gì với Bùi Thị Xuân cả, nhưng chỉ vì sự liên hệ với bà ngoại mà phải gọi Bùi Văn Nhựt, Bùi Đắc Tuyên là cậu. Sử quan Nguyễn luôn luôn xác nhận tính chất thân tộc này. Điều khá rắc rối là Bùi Thị Xuân theo chỉ dẫn của sử quan Nguyễn hẳn là ngang hàng với Quang Toản. Trong biến động giết Đắc Tuyên, người chủ xướng là Vũ Văn Dũng đã nhờ một người họ Phạm là Phạm Văn Hưng điều đình với Trần Quang Diệu mà mối liên hệ với Đắc Tuyên qua Bùi Thị Xuân thật rõ rệt. Cho nên vẫn có thể nhìn Trần Quang Diệu liên hệ với Quang Toản theo hướng họ Bùi, và giả định là Bùi Thị Xuân là cháu gái họ của Bùi Đắc Tuyên thật, nhưng Tuyên không phải là anh cùng mẹ khác cha với Phạm Hoàng hậu mà là phải ở trên một bậc. Vì khi nắm quyền, Tuyên đã trên 80 tuổi, nghĩa là sinh khoảng gần đầu thế kỉ, lớn hơn bà Phạm rất nhiều, đến trên dưới nửa thế kỉ, do đó Bà X không thể sinh Tuyên rồi 50 năm sau, lấy chồng khác sinh ra Phạm Hoàng hậu được. Quang Toản hơn 10 tuổi so với Đắc Tuyên hơn 80 tuổi, cách khoảng như là ông cháu thì phải hơn. Giả định như thế thì Quang Toản có thể gọi Bùi Thị Xuân là dì và gọi Trần Quang Diệu là dượng. Giáo sĩ Pháp không có chữ rắc rối đủ để chỉ các thứ bực thân thuộc của người Việt, nhưng đã dùng chữ "oncle maternel du roi" thì hẳn đã nghe dân chúng biết Quang Toản chịu gọi Quang Diệu là dượng rồi, nghĩa là tình hình thân thuộc đương thời được quan niệm hết sức rộng rãi. Người "cậu vợ" họ Bùi hẳn đã có chức quyền khi Quang Trung còn sống, và đến khi vua-cha chết đi, địa vị ông càng cao, với chức Thái sư đương triều vua-con Cảnh Thịnh, quyền hành ông càng lớn hơn một cách tự nhiên, xét theo chi tiết sinh hoạt trị nước từ trong một ngôi chùa, và có khi đến ngủ trong nhà vua con vào thời gian quyết định thay thế viên Tổng trấn Bắc Thành. Mâu thuẫn xảy ra, gây nên đổ vỡ chỉ vì chuyện nước không phải là chuyện nhà. Họ nhà Tây Sơn không thấy điều đó xảy ra lúc trước vì họ sống trong tình trạng chiếm đoạt liên miên, mọi mâu thuẫn nếu có, đều bị vùi lấp dưới sức mạnh của binh lực. Tuy nhiên, sự thất bại cũng lộ rõ ngay giai đoạn đầu trong việc giải quyết vấn đề Gia Định. Với binh lực, họ đã loại trừ gần hết dòng chúa Đàng Trong. Chỉ còn sót lại một cậu bé 17 tuổi mà tài năng được un đúc bằng biến loạn hơn là chính tự bản thân. Có thể nói hơi ngược đời là chính Tây Sơn đã nuôi dưỡng Nguyễn ánh trở thành Gia Long, ít ra là trong giai đoạn đầu. Bởi vì Tây Sơn không có khả năng tổ chức chính quyền để thực hiện ở đất Gia Định. Nguyễn Huệ đã thú nhận với Nguyễn Thiếp rằng: "Những người giúp việc trong nhất thời đều là kẻ mạnh bạo." Đất Gia Định của chúa Nguyễn cũng không phải là nơi có tổ chức chính quyền tương đối nghiêm chỉnh để Tây Sơn theo đà sức mạnh thu dụng được nhân lực chính trị nơi ấy như tìm được Trần Văn Kỉ ở Phú Xuân, Ngô Thì Nhậm ở Bắc Hà. Vào Gia Định họ chỉ cướp bóc lấy quân lương như khi Nguyễn Lữ chở 200 thuyền thóc về Quy Nhơn năm 1776, lấy không hết thóc gạo, cá muối thì ỉa vào đấy như đối với trường hợp Võ Văn Lượng, một anh chàng Triệu Cái của Lương Sơn Bạc Gò Công có Võ Tánh đóng vai trò Tống Giang. Chúng ta chỉ thấy Tây Sơn đóng quân ở Sài Gòn, dẫn quân càn quét rồi rút về, bỏ trống đồng ruộng sông nước biển cả mênh mông cho kẻ thua trận tập họp lại. Mà kẻ thua lại có dưới tay không phải toàn những "người mạnh bạo" - phần nhiều chỉ biết "chạy" thôi là khác. Nhưng kẻ thua, Nguyễn ánh lại có những người mang từ đất cũ được khuôn nắn theo một ý thức tổ chức cầm quyền đến 200 năm. Ưu thế đó họ có ngay từ lúc đầu để bù đắp yếu kém, và khai thác thuận lợi khi kẻ thù bận nơi khác, ngừng tay công kích. Lại cũng có thể nói xa hơn, là chính trong khi khai thác sự bất lực của Tây Sơn ở Gia Định mà họ đã làm chết ông Quang Trung anh hùng. Nguyễn Ánh tổ chức xong Gia Định thì bắt đầu đánh tràn ra phía bắc. Quân ông lần đầu tiên đánh vào trung tâm Tây Sơn, chiếm Thi Nại rồi trở về theo một chiến dịch chỉ kéo dài 10 ngày. Nhưng lực lượng chính của Tây Sơn lúc này là ở Phú Xuân. Trong tháng 5-1792, Gia Định đã nhốn nháo vì tin Tây Sơn sắp tràn vào trong một toan tính to lớn đánh hai mặt: đường bộ theo Lào xuống Miên đánh mặt sau, đường thuỷ vào Côn Lôn đánh từ Hậu Giang lên chận tuyệt đường rút lui của Nguyễn ánh, khỏi lo hậu hoạn như gần hai mươi năm trước. Tháng 8 năm đó có hịch Nguyễn Huệ loan báo cho dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn chuẩn bị đón quân Phú Xuân chinh nam. Nguyễn ánh nghe báo lực lượng đó là hai, ba mươi vạn quân. Người ngoại quốc thì thấy ở Phú Xuân có đến ba mươi ngàn quân tập luyện hàng ngày. Tất nhiên theo đà của những ông vua mở nước, Quang Trung không ngồi trong cung để nghe báo cáo. Thế mà tháng Quang Trung chết (16-9-1792) là 29 tháng 7 (thiếu) âm lịch, mùa gió (tây) Nam tháng 6 tháng 7 (âm lịch) nóng, nắng to: "nắng tháng tám nám lá bưởi", ông vua lo luyện quân, phải bệnh nặng bất ngờ không chữa được, nguyên nhân không phải cần là thầy thuốc danh tiếng mới biết. Ch. Borri đã biết về cái nóng, gió vào mùa này, cái nóng làm chết ông trấn thủ đỡ đầu linh mục ở Quy Nhơn, ông trấn thủ chỉ mải mê đi săn trong một ngày mà sốt mê man và chết chỉ trong một tuần! Cho nên chuyện Quang Trung kể với Trần Văn Kỉ về việc bị "liệt thánh" nhà Nguyễn đánh gậy lên đầu ngất đi cũng chỉ là chuyện mê sảng của bệnh, không cần phải là người bài bác "mê tín dị đoan" mới hiểu, và cũng không cần phải lưu ý về sự tâng công chuộc tội nhảy qua nhảy lại các triều đại của ông "tri kỉ" ngày xưa. Tây Sơn có thuận lợi hơn khi họ chiếm Phú Xuân, Bắc Hà. Sức mạnh quân lực của họ có tác dụng tích cực cho triều đại khi nhờ đó họ thu dụng được đám nho sĩ triều cũ giúp họ giải quyết vấn đề cai trị, điều mà họ không thực hành được ở Gia Định như đã nói. Nhưng đồng thời họ cũng chứa chấp một mầm mống tan rã ngay trong bản thân. Xung đột thường thấy là giữa võ tướng và văn thần. Ngô Văn Sở mỉa mai xúi Ngô Thì Nhậm "làm bài thơ đuổi giặc (!)" để võ tướng khỏi động đến "túi đao bao kiếm." (Qua đến thời Nguyễn thì thấy công thần Lê Văn Duyệt và hàng thần Lê Chất phối hợp hù doạ "lũ" văn thần Trịnh Hoài Đức, có hiệu quả một chừng mực lúc còn sống nhưng bị thù dai nên đến lúc chết đi gặp phải cảnh mả bị xiềng, bị san bằng, con cháu tru di.) Chúng tôi đã nói nhiều đến chuyện Trần Quang Diệu đòi đổ vật tế thần Xã tắc ở Nghệ An cho chó ăn. Nên chú ý rằng mâu thuẫn văn võ như ta thấy lại trùm lấp một mâu thuẫn văn hoá sâu xa hơn. Nguyễn Huệ biết mình cần người để tổ chức đất nước nên tìm cách vuốt ve các văn thần triều cũ, có phần nào trấn át các võ tướng dưới quyền như chứng tỏ trong lời nói ở Tam Điệp trước khi xuất quân đánh Thanh. Và đôi khi phải làm lơ, hay ép mình để cho các văn thần làm việc. Trong trận xung đột với Nguyễn Nhạc, Huệ đã để cho Hồ Đồng làm hịch mắng anh: "không có gì lớn hơn tội giết vua..." Vua đây là Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, chết năm 1779 ở Gia Định. Hồ Đồng là tù binh trận Đồng Tuyên 1783, được dùng làm Lại bộ của Tây Sơn và sẽ tiếp tục làm quan dưới triều Gia Long. (Sử quan Nguyễn dùng đến hai tên khác nhau, nhưng ta liên hệ sự kiện thì thấy chỉ là của một người.) Nguyễn Huệ để ông quan văn này tha hồ múa bút theo văn từ kinh sách học được, ông ta không cần nhớ rằng người giết "vua" năm 1779 là chính Nguyễn Huệ, chủ ông, và "vua" đó lúc này cũng không phải là vua của ông, còn nếu kể tội giết vua thì phải hài luôn tội phản thần của ông! Sau khi đánh Thanh xong thì có chuyện cầu hoà như Quang Trung đã toan tính lúc ở Tam Điệp. Tờ biểu xưng thần lúc đầu tuy có giọng nhún nhường cầu luỵ, nhưng vẫn còn vương mùi thuốc súng như vai trò của người tướng đã tham gia chiến trận (Hô hổ hầu) mang đi: "[L]ấy đường đường Thiên triều so được thua với nước mọi rợ nhỏ mọn, tất phải đánh cho đến cùng; làm nhàm việc vũ để thoả lòng tham tàn, chắc lòng Thánh đế không nỡ thế. Lỡ ra quân thì đánh triền miên không thôi, thế đến như vậy tất không phải lòng thần mong muốn, mà cũng không dám biết đến!" Bài biểu làm viên tướng Thanh được lệnh cầm quân báo thù (mà muốn cầu hoà) phải hoảng hồn: "Muốn cầu phong hay muốn gây đánh nhau nữa đây?" Thế là Quang Trung bảo Ngô Văn Sở: "Phàm gửi đi triều đình Trung Quốc, chuyên uỷ cho Ngô Nhậm cùng Phan Huy ích gửi đi hay trả lời lại đều cho phép tuỳ nghi mà xử trí." Nho thần Thăng Long qua mấy trăm năm giao thiệp với Thiên triều tất đủ văn từ quen thuộc để làm vừa lòng thượng quốc, cho nên mọi việc đều êm xuôi, kể cả việc a tòng với quan Thanh lừa gạt vua họ trong việc đưa người giả sang chầu! Sự chênh lệch văn từ, mối quan tâm biểu hiện ở đời, áp lực quyền bính giữa các vùng địa phương, thấy rõ trong phần chứng từ còn lại: Trên vùng Bắc Thành còn đầy dẫy các sắc phong, bia đá từ làng xã cho đến quan chức hầu bá, đô đốc... (qua biến loạn chỉ cần đục vài chữ), còn trên vùng Nguyễn Nhạc chỉ thấy mấy tờ giấy phong cho chủ bến đò, mương đập, xe nước! Có tìm được bằng sắc cao cấp hơn như của ông Nguyễn Đăng Lâm thì đó cũng là bằng giáp tiếp qua tay quan Thiếu phó (Trần Quang Diệu?)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2011 8:05:04 GMT 9
Như đã thấy, vai trò cá nhân của Quang Trung rất quan trọng trong việc điều hoà mâu thuẫn giữa văn thần và võ thần, mối mâu thuẫn còn mang tính chất chênh lệch văn hoá Nho nữa. Ông chết đi là có đổ vỡ, kéo theo cả những mâu thuẫn vốn nhỏ nhặt, nhân dịp lại trở thành lớn hơn. Lề lối cai trị gia trưởng của Bùi Đắc Tuyên hẳn là mâu thuẫn với quan niệm tổ chức quốc gia theo Nho giáo mà Trần Văn Kỉ thừa hưởng và đã chứng tỏ đúng trong thời gian Quang Trung trọng đãi ông. Nhưng ông chỉ là một văn thần, mối nguy hiểm cho Bùi Đắc Tuyên chỉ đến khi gặp người có binh lực. Đó là Vũ Văn Dũng, một chiêu viễn hầu đến từ nơi xa, Hải Dương, ít nhiều gì cũng cách biệt với sự tuân phục triều mới của các tướng vào sinh ra tử từ lúc ban đầu. Dũng cùng cai trị Bắc Thành với Ngô Văn Sở, và việc ông bị Bùi Đắc Tuyên đòi về Kinh, biết đâu chẳng là vì có xung đột với Ngô Văn Sở (cùng kiểu với Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm năm 1788 trước kia, cộng thêm với mâu thuẫn vì khác biệt địa phương)? Vì sau khi làm biến loạn là Dũng lo trừ Sở. Trần Văn Kỉ không binh tướng đành chịu đi phát phối, nhưng óc âm mưu của nho thần khiến ông nghĩ ra việc xúi bẩy đảo chính. Sự việc càng rắc rối hơn khi có vai trò Phạm Văn Hưng trong cuộc lật đổ Bùi Đắc Tuyên. Nhà họ Phạm đã xuất hiện với anh em Tây Sơn ngay từ lúc khởi đầu, thêm nữa lại mang tính cách thân thuộc nhiều hơn với vua đương quyền, thế mà họ phải lép vế vì nguyên tắc gia trưởng đã khiến cho quyền vào tay một ông già ở cấp bực cao hơn. Sau khi Quang Trung mất, Thái sư Bùi Đắc Tuyên "quản đốc trông coi các việc trong ngoài" và Thái uý Phạm Văn Hưng thì "cùng giữ việc quan trọng về quân quốc", rõ ràng kém hơn. Chiếm thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc (cuối 1793) là do Phạm Văn Hưng cầm quân, vậy mà đến giữa năm sau vào Quy Nhơn chuẩn bị phản công Nguyễn ánh, Bùi Đắc Tuyên cũng đi theo Phạm Văn Hưng để làm "tán nghị", nghĩa là với tiếng "bàn góp" không cho Hưng độc quyền. Có vẻ họ Phạm đã không bằng lòng với vai trò tột đỉnh đó của họ Bùi. Xung đột hai họ Bùi, Phạm thật rõ ràng. Trần Quang Diệu mang quân phản đảo chính về, có vẻ thắng thế nhất thời vì là tướng biên cương, lực lượng mạnh với uy vũ từ chiến trường, nhưng sau đó, dù làm một trong Tứ trụ đại thần vẫn bị tước binh quyền, điều đó chứng tỏ phe phản động với họ Bùi vẫn lo đề phòng. Rốt lại, sự đoàn kết lỏng lẻo giữa các tướng Tây Sơn không phải là do cố kết nội bộ mà là vì phải chống với kẻ địch phương Nam, như trường hợp Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. Triều Tây Sơn ngắn ngủi thật bởi nhiều nguyên nhân, và biến động Bùi Đắc Tuyên thường chỉ được nhắc vào lúc gần cuối đời nên đã trở thành không quan trọng mấy trong sự tồn vong của dòng họ. Tuy nhiên, xét kĩ thì thấy biến cố bất thường đó có nguyên nhân rất sâu vào thời đại, khu vực. Tương quan họ nội họ ngoại vẫn thường có ở các triều trước: Lí Trần, Trần Hồ, Lê của Uy Mục Đế. Tuy nhiên sự "đề phòng ngoại thích" lấn quyền, cướp ngôi chỉ là phản ứng của tinh thần phụ hệ, ngay cả việc họ Đỗ chuyên quyền dưới triều Lí cũng chỉ có tính chất tàn dư của một truyền thống dòng mẹ lay lắt, còn Uy Mục Đế dành quyền cho họ mẹ chỉ vì xuất thân hèn mọn, bị coi thường nên mới thiên về họ ngoại để lấy vây cánh. Còn trong trường hợp Tây Sơn, rõ ràng là một thói tục tự nhiên: Bà Phạm Hoàng Hậu có vai trò khuất lấp dưới uy vũ của Quang Trung, đã mất trước khi có những biến động xảy ra; họ Bùi chỉ có tính chất "họ ngoại" mỏng manh, thế mà vẫn được công nhận có quyền uy, nghĩa là vào thời ấy tiêu chuẩn thân tộc về họ ngoại đủ mạnh để ghép họ Bùi vào phía ngoại, không như ta tưởng bây giờ. Nghĩa là giá không phải là anh em Nguyễn Nhạc mà người thành công, ví dụ Chu Văn Tiếp, Nguyễn Thung... thì mối loạn bên ngoại vẫn có thể bùng ra. Vậy thì đất Quy Nhơn với quá khứ Vijaya, với ảnh hưởng các dòng "Man hạ, Man Thượng, Man Cao" (chữ của Lê Quý Đôn) đầy tính chất nữ, khi chuyển qua người Việt vẫn còn lưu trữ để ảnh hưởng đến triều đại Tây Sơn, hay một dòng họ nào đấy, nếu thành công lật đổ chúa Nguyễn vào thế kỉ XVIII. Tạ Chí Ðại Trường Thanksgiving 2001 *Ngoài các sách đã dẫn, chúng tôi chỉ dựa vào quyển Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771- 1802) cũ với những thắc mắc mới mà không có cách nào giải đáp được.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2012 5:28:16 GMT 9
Văn hóa “cà chớn” 25/12/2011 Văn Quang Tôi ngần ngại mãi khi viết đến hai chữ “cà chớn” này. Bởi cà chớn khó định nghĩa như thế nào cho chính xác. Cà chớn không hề có nghĩa là láo lếu, cũng không có ý nghĩa là xấu xa, nhảm nhí. Thí dụ bạn hẹn một người bạn đi uống cà phê, nhưng anh ta đến muộn, bạn phán là “thằng cà chớn”. Vậy không có nghĩa là anh bạn kia là một người bạn xấu. Hoặc bạn nghe một người bạn nào đó đùa dai một câu như “trông cô gái kia phốp pháp, có vẻ hạp với ông đấy”. Bạn chỉ có thể kết tội anh ta là cà chớn chứ không thể cho là anh ta nói láo. Đôi khi nó có nghĩa là xấu, đôi khi nó có nghĩa là vui đùa, đôi khi nó có nghĩa là không tốt, không xấu nữa. Thí dụ, bạn nói về một người bạn rằng: “Thằng ấy nó cà chớn thế thôi chứ không xấu bụng đâu”. Vậy cà chớn là không tốt cũng không xấu. Minh định về hai tiếng “cà chớn” Xem ra hai tiếng “ cà chớn” này rất khó dịch sang tiếng ngoại quốc. Xin nhờ các dịch giả, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học làm ơn dịch giùm. Tôi cứ nghĩ, nếu không là người Việt Nam thì khó mà hiểu nổi “cà chớn” có nghĩa là gì. Tuy nhiên người Việt Nam nào cũng có thể cảm nhận được, hiểu ngầm được hai tiếng này. Nhóm chữ “văn hóa cà chớn” tôi dùng ở đây mang tất cả các ý trên. Lại cũng xin xác minh rằng hai tiếng “cà chớn” đã có từ thời xa xưa chứ không phải chữ nghĩa hay lời nói mới phát sinh vào thời đại ngày nay ở Việt Nam (không phải chữ nghĩa VC). Tôi nhớ rằng khi còn nhỏ, khoảng trên dưới 10 tuổi, mỗi buổi chiều khi tôi mê đá bóng hay đánh bóng chuyền, bóng bàn, về nhà trễ, tôi thường bị anh tôi mắng là “thằng cà chớn”. Tôi nghĩ ông ấy đã dùng chữ này thật chính xác. Nếu tôi mê đánh đinh đánh đáo, anh tôi có thể mắng là “thằng bố láo, thằng lười, ham chơi hơn thích học”, nhưng tôi mê thể thao cũng như ông ấy thì ông không dùng chữ “láo” được mà chỉ có thể có thể cho tôi là “thằng cà chớn” là đúng nhất. Đôi khi người ta còn dùng là “cà chớn, cà cháo”, nhưng chữ “cháo” này không có nghĩa gì khác cả, chỉ là câu nói quen miệng cho trơn, cho xôm tụ thôi. Nhưng khi người ta nói “người ngợm đâu mà bẩn thế”, chữ “ngợm” ở đây có thêm nghĩa xấu, chứ nói về một người tốt, không ai thêm chữ “ngợm” vào cả. Thế mới biết chữ nghĩa Việt Nam thâm thúy lắm. Cũng cùng một nhóm chữ, nhưng mỗi trường hợp phải được hiểu theo một ý khác nhau và hiểu được đúng lại càng khó. Đôi khi chỉ còn là sự cảm nhận của những người cùng chung một dân tộc, một huyết thống. Tác phẩm cà chớn trên thị trường chữ nghĩa Trong những ngày gần đây, tại Việt Nam rộ lên những cái gọi là “tác phẩm văn học” được một vài nhà xuất bản tung ra thị trường chữ nghĩa rồi lại bị thu hồi khiến nó bỗng nổi tiếng và được nhiều người tò mò tìm đọc. Cái trò sách bị tịch thu bao giờ cũng bán chạy, tưởng như một “nghịch lý” mà không phải “nghịch lý” này trở thành một chiêu quảng cáo rất hấp dẫn, mang lại kết quả rất béo bở cho mấy nhà phát hành. Hai cuốn sách đã cho xuất bản, bày bán cả mấy tháng trời mới bị tịch thu. Đó lá cuốn “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” và cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ”. Cuốn sách “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” (tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, Sách Phương Nam & NXB Hội Nhà Văn 2011) sẽ phải thu hồi trong vòng 10 ngày, theo quyết định của chánh thanh tra Sở Thông Tin - Truyền Thông (Sài Gòn) ký ngày 01-11. Quyết định này còn buộc công ty sách Phương Nam phải nộp phạt 7,5 triệu đồng do cuốn sách trên “truyền bá lối sống dâm ô đồi trụy, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam”. Cuốn sách này gồm 13 truyện ngắn, được phát hành trên toàn quốc từ tháng 4-2011, tuy nhiên đến nay chỉ có Sàu Gòn quyết định tịch thu sách. Hiện đang gây nhiều tranh cãi, và khi tôi ra nhà sách chuyên “bán lậu” loại này cũng hết nhẵn.Vậy chúng ta sẽ bàn đến khi tôi mua được sách “lậu” kia. Trong bài này, tôi điểm qua cuốn sách được coi là rất kỳ cục cũng vừa bị tịch thu. Đó là cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ”. Mời bạn đọc nhìn vào nội dung cuốn sách xem nó mang lại những gì cho độc giả. “Sát thủ đầu mưng mủ” là cái quái gì vậy? Trước hết, ngay cái tên truyện “Sát thủ đầu mưng mủ” chẳng mang một ý nghĩa nào chứ đừng nói đến ý văn học hay giáo dục. Nó cũng chẳng là thứ truyện bằng tranh giải trí cho trẻ em. Nó có phần nào phản ảnh được tâm trạng... bừa phứa, ăn nói lung tung, kém văn hóa của một số lớp trẻ hiện nay ở các thành phố lớn mà người ta thích gọi là “tuổi teen”. Cuốn sách “Sát thủ đầu mưng mủ” do công ty Văn Hóa Truyền Thông Nhã Nam đặt hàng cho họa sĩ Thành Phong thực hiện và ông họa sĩ này đã mất 5 tuần để thực hiện các bức tranh. Mỗi bức tranh mang một “thành ngữ” mà ông tự nhận đây là cuốn sách thu thập “các thành ngữ sành điệu” của giới trẻ. Vậy sự “sành điệu” đó như thế nào? Từ trang bìa đến nội dung cuốc sách, người đọc được giới thiệu những bức vẽ có phần dễ dãi như loại biếm họa trên các trang báo hàng ngày, mục đích có lẽ chỉ để chọc cười. Cuốn sách tập hợp 120 câu nói thông dụng, cửa miệng hiện nay của giới trẻ như “Ngất ngây con gà tây”, “Phi công trẻ lái máy bay bà già”, “Thuận vợ thuận chồng, con đông mệt quá”, “Tào lao bí đao”, “Tự nhiên như cô tiên”, “Xấu nhưng biết phấn đấu”, “Đói như con chó sói”, “Một con ngựa đau, cả tàu được thêm cỏ”, “Một điều nhịn là chín điều nhục”, “Cái khó ló cái ngu”... Sự phản bội văn hóa và đạo đức dân tộc Cuốn sách “Sát thủ đầu mưng mủ” được phát hành trong tháng 10-2011. Vừa “ra lò”, nó đã nhanh chóng trở thành “cẩm nang” của hầu hết giới học sinh thành phố. Đọc những câu cú trên đây, hẳn bạn đọc đã thấy rõ có những câu vô nghĩa bị kết tội là rẻ tiền, là làm nghèo tiếng Việt cũng không sai. Cứ cái đà ấy cuốn sách kéo dài một cách trơ trẽn, đầu độc những cái đầu non trẻ. Chúng sẽ dựa vào sách để bắt chước, “sáng tạo” ra những câu cú tục tĩu, kỳ quái hơn nữa. Đã có rất nhiều ý kiến phản đối kịch liệt, cho rằng đây là một cuốn sách nhảm nhí, xuyên tạc thành ngữ, tục ngữ Việt Nam và làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Chị Thanh Hà, một nhân viên ngân hàng, lên tiếng: “Tôi không hiểu vì sao một cuốn sách nhảm nhí như vậy lại được kiểm duyệt để xuất bản. Những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông như 'Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ' bị cải biên, xuyên tạc một cách trắng trợn. Thử hỏi, với các cháu nhỏ lứa tuổi tiểu học khi cầm những cuốn sách này, các cháu sẽ học được điều gì?”. Hoặc những câu “Có chí thì ghê”, xuyên tạc mất ý nghĩa giáo dục tinh thần của câu “Có chí thì nên” của ông cha ta bao đời để lại cho con cháu noi theo. “Một điều nhịn là chín điều nhục”, “Cái khó ló cái ngu”... toàn là những câu phản lại truyền thống đạo đức Việt Nam. Việc phổ biến rộng rãi những câu nói này sẽ hình thành trong giới trẻ thói quen ăn nói hời hợt, nghèo nàn về văn hóa, thậm chí phản bội văn hóa. Vì thế, không thể in thành sách những câu nói như vậy. Đúng là một cuốn sách cà chớn chưa từng thấy trong lịch sử xuất bản văn học Việt Nam. Vậy mà nó còn được bán ra thế giới!!! Cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ” xuất hiện trên trang bán hàng trực tuyến Amazon (ấn bản Kindle, sách điện tử) với giá 7,99 Mỹ kim. Sách được bán theo nhượng quyền xuất bản ở Mỹ giữa công ty Nhã Nam - nhà xuất bản mỹ thuật - với Indochine Media Inc, một công ty truyền thông, có trụ sở tại Milpitas, California. Theo ông Dương Thanh Hoài, phó giám đốc công ty Nhã Nam, thủ tục chuyển nhượng quyền xuất bản “Sát thủ đầu mưng mủ” ra thị trường Mỹ và quốc tế đã được thực hiện ngay từ khi cuốn sách ra mắt bạn đọc trong nước, chứ không phải sau khi bị ngưng phát hành. Ông Thanh Hoài cho biết: “Chúng tôi rất vui vì đây là lần đầu tiên sách Việt Nam có thể xuất cảng ra thị trường nước ngoài, phục vụ cho những người Việt Nam muốn biết thêm về cái mới trong lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ trong nước". Bạn Nguyễn Huy Trương phản ứng ngay trên báo: “Khác gì một sự sỉ nhục tiếng Việt. Cuốn sách đầu tiên được xuất bản ra thế giới... là thế này đây? Nhiều lúc không hiểu các bác ấy nghĩ gì nữa, vì vài đồng tiền mà đem một sự bôi nhọ văn hóa Việt Nam ra bán cho thế giới? Buồn cười với câu nói của ông Phó GĐ Nhã Nam... 'cái mới trong lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ trong nước'. Ông cho cái này là cái mới, cái tiến bộ sao?”. Và cũng ở trên mạng, một độc giả đã khuyến cáo: “Vậy thì hãy chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận việc một ngày nào đó, con cháu các anh chị sẽ nghêu ngao rằng: 'Công cha như miếng rau câu/ Nghĩa mẹ như nước trong cầu chảy ra'”.Nếu thế thì chẳng còn gì để nói. Sự “xuống cấp” của văn hóa đến thế là cùng. Chắc bạn không ngờ được! Một vài nhận định về “văn hóa nghị trường” Vào những ngày giữa tháng 12 này, câu chuyện thời sự nóng bỏng nhất tại Việt Nam là việc bất ngờ tăng giá điện kể từ 20-12-2011, đúng vào thời điểm cuối năm và chính phủ đang ra sức kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả thị trường. Người dân coi đó là “cú đánh úp” vào đầu dân của ông Điện Lực Việt Nam. Tiếng ca thán nổi dậy đầy rẫy trên mặt báo và trong từng con hẻm nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta hãy đợi xem hậu quả của “cú đánh úp” này đi đến đâu, dịp khác chúng ta sẽ bàn tới. Trong mấy tuần vừa qua, có 3 bài cần thiết về cách chữa bệnh ung thư và tiểu đường được nhiều bạn đọc quan tâm, nên có một số tin thời sự, tôi phải gác lại. Nay xin tiếp tục về vài diễn biến trong lãnh vực thời sự vừa qua. Trong tuần cuối tháng 11-2011, sự kiện được người dân trong và ngoài nước Việt Nam chú ý đến nhiều nhất chính là lời tuyên bố của người đứng đầu chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trước quốc hội khẳng định về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tin này đã được rất nhiều cơ quan thông tin bình luận nên tôi không nhắc lại. Cũng trong kỳ họp này, còn có một số bộ trưởng những bộ được coi là “nóng” nhất đã đăng đàn trả lời các đại biểu (ở Việt Nam gọi các dân biểu là đại biểu). Không thể đi vào chi tiết quá dài dòng, ở đây tôi điểm qua một nét chính tượng trưng, trong những câu hỏi của các đại biểu và câu trả lời của các bộ trưởng. Ai cũng làm bộ trưởng được! Khuôn mặt nổi bật nhất và là người đầu tiên trả lời chất vấn là ông Đinh La Thăng, người đã hai lần “trảm hai tướng” dưới quyền khi đi thị sát các công trình do các viên chức này chịu trách nhiệm. Sau khi trả lời một số câu hỏi trước nghị trường, ông đại biểu Nguyễn Bá Thuyền chưa “thỏa mãn” nên đã đưa ra câu hỏi “rất nặng ký”: “Nếu cứ trả lời lòng vòng như thế thì ai cũng làm bộ trưởng được. Xin đề nghị Bộ Trưởng trả lời xem mấy năm thì có thể giảm được tai nạn giao thông, mấy năm thì giảm bớt được ùn tắc giao thông?". Trước các đại biểu tại nghị trường, Bộ Trưởng Đinh La Thăng nhã nhặn trả lời: “Chúng ta phải quyết tâm, cùng phải làm, chứ còn bây giờ bảo tôi khẳng định bao giờ hết tai nạn giao thông, bao giờ hết ùn tắc giao thông thì xin phép đại biểu là chưa khẳng định được. Chúng tôi chỉ mong rằng nó sẽ kiềm chế và giảm dần như mục tiêu chúng ta đưa ra là mỗi năm giảm từ 5% đến 10%”. Cú “trả đòn” như một cú đá thủng lưới của Messi Nhưng bên lề hành lang quốc hội, ông bộ trưởng Thăng đã trả lời câu hỏi của phóng viên: Phóng viên: "Ông suy nghĩ gì khi có đại biểu quốc hội cho rằng trả lời như ông thì ai cũng có thể làm được bộ trưởng?". Ông Thăng nói: "Tôi nghĩ bộ trưởng là do quốc hội phê chuẩn chứ không phải ai cũng làm được. Theo tôi, chúng ta đang nói đến văn hóa giao thông thì cũng cần có văn hóa về chất vấn”. Quả thật câu trả lời nhẹ nhàng mà rất thấm. Ông Thăng nói đến “văn hóa chất vấn” đúng nơi đúng lúc. Cú “trả đòn” của ông Thăng mềm mại như Messi đi bóng, đá một cú lượn vào góc chết, làm khung thành vỡ toang. Nhẹ mà đau lắm, các cụ ạ. Đúng là cần phải có “văn hóa chất vấn”, không thể để những thứ “ngôn ngữ cà chớn” chui vào nghị trường được. Điều đó thì chính các ông đại biểu phải tự ý thức lấy, chứ không có trường lớp nào dạy hay quy định nào ràng buộc. Người dân lại cảm thấy cần phải thận trọng hơn nữa với những lá phiếu bầu đại biểu của mình. Ông Đinh Xuân Thảo, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Lập Pháp của quốc hội đánh giá về các phiên chất vấn này như sau: “Một số câu hỏi không đúng nghĩa chất vấn, như chỉ hỏi thông tin, mang tính chất trao đổi. Nếu chỉ hỏi lấy thông tin, bộ trưởng trả lời xong, đại biểu tưởng thế là được. Qua loạt hỏi thấy rất ít đại biểu nắm chắc thông tin về nội dung chất vấn, thậm chí có thể đại biểu hỏi để cho cử tri nhìn thấy mình. Do các câu hỏi không đúng nên khó mà đạt được yêu cầu như mong muốn”. Đúng như vậy, theo dõi qua truyền hình, người dân nhận thấy có ông bà đại biểu cầm tờ giấy đọc cũng còn ngắc ngứ và câu hỏi chỉ để mà hỏi, chỉ để cho “nhân dân” nhìn thấy mặt mình trên diễn đàn quốc hội! Khi được hỏi: “Ông nghĩ sao về ý kiến chính các đại biểu phải có văn hóa chất vấn, văn hóa nghị trường?”. Ông Đinh Xuân Thảo nói: “Đúng là văn hóa nghị trường từ người điều hành cho đến người hỏi và người trả lời rất là cần thiết. Như lần trước, Chủ tịch Quốc Hội khóa 12 cũng nói không nên đao to búa lớn mà nên lạt mềm buộc chặt. Nếu nói nhẹ nhàng, có lý lẽ, sức thuyết phục thì giá trị hơn là nói như băm bổ hoặc trả lời như là ở bên ngoài. Đối với hoạt động nghị trường, phát biểu trao đổi cũng có quan điểm khác nhau nhưng cách tranh luận dùng lời lẽ thì cũng cần thể hiện văn hóa ứng xử". Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm về sự cần thiết phải có những đại biểu của dân có trình độ kiến thức cao hơn và phải biết ứng xử ít nhất là “văn hóa nghị trường”. - (VQ) 23-12-2011 Văn Quang
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 9:18:23 GMT 9
Hoài Nam Phật sử và hư cấu văn chương (Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, NXB Đà Nẵng và Công ty Văn hoá Phương Nam, 2007) 1. Từ Phật sử…
Trong tâm thức nhân gian, các bậc đại tôn sư, những người khai sinh các tôn giáo lớn trên thế giới hầu như tồn tại bằng sắc màu lấp lánh của huyền thoại nhiều hơn là bằng di sản tư tưởng hoặc hành trạng thực tế của cuộc đời họ. Đức Jesus Christ của đạo Thiên chúa, hay Đức Phật Thích Ca của đạo Phật đều là những nhân vật như vậy. Điều này không khó lí giải. Ở thời nào cũng vậy, quần chúng (đám đông thì chính xác hơn) bao giờ cũng có nhu cầu được gửi gắm niềm tin của mình vào một bản ngã siêu việt, ngoài mình. Họ tìm thấy ở các nhà tư tưởng khai sinh tôn giáo một đấng Thượng đế nhân hình, một quyền năng sinh tạo và huỷ diệt mạnh mẽ đến mức có thể thoả mãn mọi cầu khấn của chúng sinh. Trong ý hướng ấy thì tất nhiên, những phương diện Người của đại tôn sư khai môn lập giáo đều bị trừu tượng hoá, cái còn lại là những phương diện Thần thánh, nổi bật và phổ quát (ở đây, một ý tưởng của Nietzsche được chứng minh: nhân loại tỏ lòng biết ơn với các vĩ nhân bằng cách luôn luôn hiểu lầm họ!) Nói chung, đám đông không thích chấp nhận cái thực tế rằng Jesus Christ hay Thích Ca Mâu Ni trước hết cũng là những cá thể người như họ, cũng phải chịu sự chế định của những quy luật sinh – hoá trên thân xác vật chất và sự tác động của vi khí hậu văn hoá đương thời trên hành trình tập thành tư tưởng. Nhưng với các nhà nghiên cứu tôn giáo theo tinh thần duy vật luận thì khác. Tôi dùng cụm từ “các nhà nghiên cứu tôn giáo” với nội dung không chỉ nhằm vào giới học giả hàn lâm, mà mở rộng hơn, nó còn là các tiểu thuyết gia đã cất công sục sạo trong bề bộn tư liệu, ngõ hầu phục dựng cuộc đời và chân dung tinh thần của nhà tư tưởng đã khai sinh một tôn giáo, một triết thuyết. Về Jesus Christ, người ta thường kể tới Cuộc mưu sát các ảo ảnh của Tendriakov, Và hòn đá ấy đã trở thành Đấng Cứu thế của Silva Otero, Đoạn đầu đài của Aitmatov, Sự cám dỗ cuối cùng của Chúa (The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis và nhất là kiệt tác Nghệ nhân và Margarita của Mikhail Bulgakov v.v... Về Đức Phật, theo những gì tôi đọc được, ở ta đến nay đã có Ánh đạo vàng của Võ Đình Cường và Đường xưa mây trắng của Thích Nhất Hạnh [1] . Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái có thể kể là cuốn thứ ba.
Cuốn sách của Hồ Anh Thái được hình thành trên cấu trúc luân phiên (không đều nhau) giữa các chương Tôi, Đức Phật, Savitri. Trong đó, các chương Đức Phật được kể lại bằng giọng điệu khách quan của một nhân vật người kể chuyện “biết tất cả”. Nó khác với các chương Savitri, vốn là tự thuật của nàng Savitri về tiền kiếp của mình (người kể xưng Ta); khác với các chương Tôi, vốn là lời kể của nhà nghiên cứu Ấn Độ học về quá trình cùng Savitri hành hương trên đất Phật (người kể xưng Tôi). Không ngẫu nhiên có sự khác biệt về điểm nhìn trần thuật này giữa ba phần của tác phẩm. Bởi lẽ, các chương Đức Phật chính là topic chủ yếu trong toàn bộ cuốn sách: kể lại lịch sử đời Phật ở những mốc quan trọng nhất. Để tạo ra ấn tượng mạnh về tính chân xác của những điều được kể lại, lựa chọn nhân vật người kể chuyện “không là ai cả” nhưng lại “biết tất cả” là một lựa chọn tối ưu.
Nhưng nếu chỉ như vậy thì các chương Đức Phật trong tác phẩm của Hồ Anh Thái có lẽ cũng sẽ không đem lại điều gì mới khi ta đối chiếu chúng với những sự kiện đã được ghi lại trong kinh Phật. Cái mới ở đây, theo tôi, là quan điểm cá nhân của tác giả về Đức Phật, và từ đó, là cách tác giả xử lí những tư liệu liên quan xa gần đến Đức Phật mà anh đã dày công thu thập được trong suốt sáu năm sống trên đất Ấn Độ. Quan điểm ấy, nói một cách ngắn gọn, là tinh thần giải thiêng triệt để. Giải thiêng theo nghĩa quét sạch những mây mù huyền thoại bao quanh cuộc đời Đức Phật để hiển lộ chỉ một hiền triết, một nhà tư tưởng đã tìm ra con đường giải thoát. Thường xuyên có một sự phản biện ngầm của tác giả trước những chi tiết mang màu sắc huyền thoại về Đức Phật mà kinh điển Phật giáo đã ghi lại. Sự kiện Đức Phật ra đời chẳng hạn, đã được tác giả giải thiêng chỉ bằng hai câu bình luận của người kể chuyện: 1. “Hoàng hậu chửa trâu, người ta bảo nhau, có mang mười tháng rồi mà vẫn chưa lâm bồn”; 2. “Hoàng tử mới ra đời thì hoàn toàn tỉnh táo. Trắng hồng bụ bẫm. Xứ Ấn da trắng như vậy thì cũng coi như toả hào quang”. Cũng có thể thấy, tác giả đã “lờ”đi nhiều chi tiết huyền thoại khác - việc Đức Phật dùng phép thần thông để dẹp trừ các ma vương chẳng hạn - trong khi rất chú ý tăng cường các chi tiết hết sức đời thường về Đức Phật: Phật chỉ có thể làm chậm lại, chứ không thể ngăn cản việc bộ tộc Thích Ca của Ngài bị tàn sát dưới ngọn lửa hận thù của vua Vidudabha. Sự kiện Đức Phật nhập diệt cũng khá trớ trêu: Người chết vì những thứ bệnh hết sức “người đời” như đau khớp, đường ruột, huyết lị; trước thi thể của bậc đại giáo chủ, các đệ tử tại gia bàn qua bàn lại mãi mới đóng góp được một chút tiền mọn lo cho cho việc tang lễ, để rồi trên giàn hoả táng “đôi chân Phật bọc trong vải trắng vẫn còn chìa ra khỏi bệ củi. Lượng củi gỗ thu thập được quá ít ỏi”.
Tinh thần giải thiêng cũng xuyên thấm trong quan điểm của tác giả về quá trình Đức Phật hoằng dương đạo pháp và xây dựng giáo hội. Để một triết thuyết có thể trở thành một ý thức hệ tư tưởng – như sau này Phật giáo trở thành quốc giáo ở nhiều quốc gia Đông Á và Đông Nam Á - thì sự toả sáng từ bản thân nó chưa đủ. Cần phải có sức mạnh bảo trợ từ phía chính quyền. Và ở đây thì tác giả đã tái sử dụng khá nhiều chi tiết cho thấy Đức Phật là một lãnh đạo giáo đoàn khôn khéo đến thế nào trong việc tranh thủ cảm tình của các đại vương vùng bắc Ấn. Cuộc đối đáp – do Ngài tổ chức – giữa Phật và giáo sĩ danh tiếng Kassapa của đạo thờ Thần Lửa ngay trước mắt đại vương Bimbisara là một ví dụ rất sinh động: chính sự quy phục của vị giáo sĩ này đã gây ấn tượng mạnh cho Bimbisara và dẫn đến việc đại vương trở thành người bảo trợ tự nguyện cho giáo đoàn của Phật. Mặt khác, ở nhiều chi tiết rải rác, tác giả cũng chủ ý làm nổi bật một thực tế, rằng nguyên tắc tổ chức giáo hội và hệ thống giáo lí, giới luật của Phật giáo không hề là kết quả của sự mặc khải “một lần cho tất cả”. Nó là một quá trình điều chỉnh liên tục để đi dần đến hoàn thiện. Luật cấm người xuất gia uống rượu (giới tửu) chẳng hạn. Chẳng phải luật này đã có ngay từ ban đầu, mà phải chờ đến khi một nhà sư say rượu tại kinh đô Kosambi của tiểu vương quốc Vamsa, gây ra bê bối khiến vua Udena thiếu thiện cảm với giáo hội, lúc ấy Phật mới ban lệnh cấm rượu cho toàn thể tăng đoàn, không một ngoại lệ. Việc các nữ nhân có mặt trong giáo đoàn khất sĩ của Phật cũng vậy. Thoạt đầu Ngài không chấp thuận, dù đó là bà dì ruột Pajapati hay nàng Yasodhara, vợ Ngài (trước khi xuất gia). Chỉ tới khi lời cầu khẩn và nước mắt của những người thân khiến Ngài phải động lòng, cộng thêm sự thuyết phục tài giỏi của tôn giả Ananda, lúc ấy Đức Phật mới đồng ý trong giáo hội của Ngài ngoài tăng còn có thể có ni... Cứ thế, nhẩn nha trong cách kể chuyện và kiên trì với tinh thần giải thiêng triệt để, tác giả rút tỉa từ khối tư liệu của mình những chi tiết khả tín và đắc dụng, sắp xếp chúng để tạo nên một truyện kể của riêng mình về cuộc đời Đức Phật. Đức Phật đã trở thành nhân vật của Hồ Anh Thái. Nhân vật này hiện lên với diện mạo của một hiền giả, một triết gia, một nhà tư tưởng vĩ đại, nhưng vẫn không thôi đậm chất Người!
2. … đến hư cấu văn chương
Tuy nhiên, để có thể chính danh gọi Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái là một tiểu thuyết, cần phải căn cứ vào những chương Savitri, nơi mà tác giả để trí tưởng tượng tháo cũi sổ lồng, tự do hết mực trong hư cấu văn chương. Và chắc chắn, đây cũng là phần thú vị nhất của toàn bộ cuốn sách này.
Savitri là một cựu Kumari (tức Nữ thần Đồng trinh) theo tập quán phong thờ ở thung lũng Kathmandu thuộc xứ Nepal. Savitri hành nghề hướng dẫn viên du lịch, cô kể chuyện đời Phật và kể chuyện đời mình, mà cả hai cuộc đời ấy thì đều ở thế kỉ thứ VI, thứ V trước Công nguyên, tức là cách 25, 26 thế kỉ khi câu chuyện bắt đầu được kể lại! Người đọc hãy chú ý đến câu đầu tiên của chương Savitri đầu tiên: “Ta cũng có mặt trong lễ kén vợ của hoàng tử Siddhattha”. Chỉ bằng một thông báo ngắn gọn này thôi, ngay lập tức cái hố thẳm thời gian 25, 26 thế kỉ ngăn cách giữa lúc Savitri kể và lúc câu chuyện thực sự xảy ra đã bị san lấp. Chúng ta bị tác giả kéo tuột vào một thực tại không tưởng của thế giới nghệ thuật do anh tạo ra, rằng cô Savitri – người kể chuyện, và nàng công chúa Savitri có mặt trong lễ kén vợ của hoàng tử Siddhattha, là một! Và chính là với tư cách của người chứng kiến, hơn thế, người tham dự vào những sự kiện xảy ra ở thì quá khứ mà nhân vật nàng Savitri đã trở thành điểm mấu chốt để tác giả triển khai nhiều ý tưởng của mình.
Trước hết, Savitri là nhân tố bổ trợ cho tinh thần giải thiêng hoá Đức Phật mà tôi đã đề cập ở trên. Trong niềm ngưỡng vọng tuyệt đối trước bậc Đại Giác ngộ, các Phật tử thường có thói quen phóng đại mọi chi tiết của lịch sử đời Phật. Chẳng hạn, sự thờ ơ với những niềm hoan lạc trần thế mà Ngài hoàn toàn có thể tận hưởng khi còn là hoàng tử Siddhattha luôn được xem là dấu hiệu đầy quan trọng cho một sự ra đi vĩ đại, nhưng từ sự đánh giá của Savitri, thì: “Hoàng tử như lạc sang cõi khác. Hoàng tử hờ hững với cõi tục. Hoàng tử làm việc này mà đầu óc nghĩ sang việc khác. Mơ mơ màng màng hâm hâm hấp hấp”. Giọng điệu giễu nhại này – chừng như được tác giả mang từ tiểu thuyết Mười lẻ một đêm [2] sang – dứt khoát là một đối trọng với quan điểm thần thánh hoá Đức Phật. Hoặc, ở chương Savitri cuối cùng - được đặt ngay sau chương Đức Phật cuối cùng, như một “ngoại sử” được đặt bên cạnh “chính sử” về thời điểm Đức Phật nhập diệt – có chi tiết: “Giữa đám tín đồ địa phương nhốn nháo đùn đẩy việc cho nhau, ta tình nguyện nhận ngay việc tắm rửa cho giáo chủ... Giờ thì ta đã được tận tay múc nước tắm cho chàng. Lần duy nhất. Ta đã đi đến tận cùng thoả nguyện”. Sự thoả nguyện thấm đẫm một niềm ngậm ngùi của người đàn bà suốt đời ôm ấp hình bóng người yêu trong mộng tưởng. Nhưng điều có ý nghĩa hơn, là nó đã “người đời hoá” cái chết của một bậc đại tôn sư khai môn lập giáo: Ngài cũng không tránh khỏi cái chết, và khi chết rồi, Ngài hoàn toàn mất quyền tự quyết đối với tấm thân Tứ đại của mình!
Mặt khác, nhân vật nàng Savitri – cả ở tiền kiếp và hiện kiếp của mình – lại là một chứng nghiệm cho những tư tưởng mà Đức Phật đã giác ngộ cách đây 26 thế kỉ. Xuất thân đẳng cấp võ tướng (Kashtriya), xinh đẹp, và nhất là lại được giáo dục trong bầu khí quyển của nền văn minh Ấn Độ cổ đại, nơi đã sản sinh ra Dục lạc kinh (Kama Sutra), Savitri là người cực kì phóng túng trong quan hệ nam nữ. Nàng hưởng thụ khoái lạc nhục dục một cách tham lam, hối hả (ngay cả khi đã là một lão phụ, Savitri vẫn cần tới hơi trai trẻ hàng đêm!) Hưởng thụ như thể đó mới chính là mục đích sống của cuộc đời nàng. Đa tình tới mức gần như là một thứ nòi tình (mới bốn tuổi, gặp hoàng tử Sidattha lần đầu, nàng đã quyết tâm lớn lên sẽ lấy chàng bằng được), Savitri trọn đời ôm ấp trong tâm tưởng hình ảnh của nhà hiền triết xứ Kasi, thế nhưng, đó cũng là thứ tình yêu đầy những khát khao thể xác. Chung cuộc, nàng được cái gì? Các bạn tình lần lượt rời bỏ nàng ra đi, kẻ thì chết vì sắc dục quá độ, người thì trở thành khất sĩ trong giáo đoàn của Đức Phật. Hai lần nàng được chạm vào thân thể của “người yêu trọn đời trong tâm tưởng” (lần thứ nhất là lúc Phật toạ thiền trong đêm mưa bão, lần thứ hai là khi Ngài nhập diệt), nhưng cả hai lần nàng đều ôm trong vòng tay mình một thân xác không hồn, một thực thể trơ trơ trước ngọn lửa tình hừng hực. Suốt cuộc đời tiền kiếp Savitri chưa bao giờ ý thức được về cái khổ của phận người, nàng đắm chìm trong dục vọng thể xác, và cùng với nó, nàng bị đẩy vào bánh xe luân hồi. Có lẽ, đây chính là chiếc chìa khoá để mở ra bí mật của cái thực tại không tưởng mà nhà văn đã tạo tác ngay từ đầu (hai nàng Savitri ở hai thời đại cách nhau 26 thế kỉ, là một). Dấu chỉ để nhận ra yếu tố luân hồi chính là chi tiết về chiếc khăn xếp màu đỏ: ở tiền kiếp, công chúa Savitri đã xin hoàng tử Siddattha chiếc khăn xếp và giữ gìn nó như một bảo vật; ở hiện kiếp, cô bé Savitri được phong làm Nữ thần Đồng trinh khi chỉ chọn lấy chiếc khăn xếp trong một căn phòng cơ man đồ vật.
Trong một chương Tôi, nhà nghiên cứu Ấn Độ học - người kể chuyện xưng Tôi - đã cho biết thêm một chi tiết khá lạ lùng về nàng Savitri - hướng dẫn viên du lịch: cô luôn bật cười khanh khách mỗi khi chuẩn bị bước vào cuộc giao hoan với đàn ông. Không nén được. Vì khả năng nhìn xuyên qua bóng tối khiến cái trần trụi lố bịch và sự khiếm khuyết của bạn tình cứ đập vào mắt cô. Cô không muốn cười mà tiếng cười vẫn cứ bật ra, như dội một gáo nước lạnh dập tắt cái dục vọng đùng đùng của đám đàn ông, cuộc giao hoan bất thành. Tôi cho rằng, đây không phải là chi tiết nhằm cá biệt hoá nhân vật. Cái sự bật cười không đúng lúc này có lẽ là một thứ án phạt khiến cho Savitri phải trở thành Nữ thần Đồng trinh vĩnh viễn (dù cô đã bị truất ngôi), khiến cho cô không bao giờ được biết đến một trong tứ khoái của người đời. Nếu liên hệ với tiền kiếp của cô - nàng công chúa Savitri luôn khao khát và hầu như luôn thoả mãn với lạc thú thân xác – có thể nói, ở đây chúng ta đang chứng kiến kết quả vận hành của Nghiệp, của quy luật nhân quả tương tục trên các kiếp của một chúng sinh chưa được giải thoát.
“Có thể kể chuyện mà không lục tay trong những cái bao tải hay không?”
“Savitri là một cái đĩa CD. Anh có thể nghe được âm thanh trong một cái đĩa CD mà không cần máy đọc CD không?”
Đó là một đối thoại giữa Tôi và Savitri. Câu trả lời của Savitri là sự giải thích cho việc cô cứ luôn lục tay vào trong sáu chiếc bao tải khi kể chuyện đời Phật và kể về tiền kiếp của mình. Sáu chiếc bao tải, mỗi bao là một kí âm, hợp lại thành một câu thần chú: Om mani padme hum (úm ma ni bát mê hồng). Savitri không nói rõ cái gì ở trong sáu chiếc bao tải. Nhà nghiên cứu Ấn Độ học không hỏi. Nhà văn Hồ Anh Thái cũng không giải thích. Còn tôi, người viết bài này, thì đồ rằng trong đó là những công tắc điện. Khi Savitri thò tay vào, bật lên, cả một luồng ánh sáng mạnh đã hắt ngược trở về 26 thế kỉ trước, soi rọi diện mạo xã hội Ấn Độ thời Đức Phật. Người ta nhìn thấy ở đó đời sống xa xỉ và sự lộng quyền của các giáo sĩ Bà La Môn. Người ta nhìn thấy ở đó những nghi thức của lễ thanh tẩy và tập tục hoả thiêu người phụ nữ chết theo chồng. Người ta nhìn thấy ở đó sự thác đoạ truỵ lạc của đám tiểu thư công tử con nhà quan quyền phú hộ, nhìn tận mắt những ngón chơi bời của họ. Người ta cũng nhìn thấy ở đó rất nhiều phương cách tu hành kì lạ mà con người mày mò tìm đến để mong có được sự an lạc tinh thần v.v... Tất cả những hoạt cảnh ấy hợp lại, mang đến cho người đọc cái khoái cảm được du hí xuyên thời gian. Nhưng quan trọng hơn, nó mang đến một sự lí giải – theo cách của văn chương – rằng vì sao mà Đức Phật và tư tưởng của Ngài lại xuất hiện trên cõi thế.
Ở những trang đầu của cuốn sách, tác giả tả không gian vùng biên giới Ấn Độ – Nepal khi bất chợt có sương mù: “Trắng đục. Xốp. Rất mỏng rất nhẹ. Không thể biết bao giờ nó tan. Không thể nhìn thấy bất cứ cái gì ngay trước mặt mình”. Tất cả đều trở nên mù loà trong màn sương ấy, chỉ có Savitri là nhìn xuyên qua nó, cũng như nàng có thể nhìn xuyên qua đêm đen. Nhưng ở cuối cuốn sách, khi “không gian tự dưng vàng phơ phơ ra... Vàng nhờn nhợt. Vàng như một cái kẹo nhạt. Đất trời cứ bợt dần ra chờ đến khi trời tối” thì Savitri lại trở nên mù trong cái cảnh tranh tối tranh sáng nhập nhoạng ấy. Cô dắt nhà nghiên cứu Ấn Độ học đi trong sương mù, đi trong đêm đen. Còn khi “một ban ngày đang nhợt ra thoi thóp để sửa soạn nhập diệt vào đêm tối” thì nhà nghiên cứu Ấn Độ học lại chỉ lối cho cô. Vô minh có muôn hình vạn trạng. Chúng sinh nương tựa vào nhau mà mò mẫm đi trong các vùng vô minh. Thoát hẳn khỏi vô minh có lẽ chỉ có một người, nhưng người ấy nhập diệt đã từ rất lâu, phải vậy chăng?
[1]Thật ra, tôi cho rằng hai tác phẩm này chỉ là truyện kể về đời Phật qua thao tác “diễn nôm” từ kinh Phật, chưa phải là tiểu thuyết. [2]Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, NXB Đà Nẵng và Công ty Văn hoá Đông A, 2006
Nguồn: Báo Văn nghệ số ra ngày 12.5.2007
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 3:13:33 GMT 9
Nước Mỹ Số Một Vì “Toilet”saigonecho.com/index.php/doi-song/44470-nuoc-my-so-mot-vi-toiletThứ Tư, 01 tháng Bảy năm 2020 22:51 Tác Giả: Phượng Vũ Lợi tức đầu người (GDP) dân Na Uy đứng hạng 3 trên thế giới: 65,500 USD 1 năm, Mỹ hạng 7 = 50,000 usd, nhưng vật giá ở Na Uy cao hơn Mỹ gần 3 lần, xăng giá 11 usd /1 gallon, sale tax 25%, nhà hàng không cho miễn phí nước đá lạnh như Mỹ, khát phải mua 1 chai nước nhỏ giá 24 Krone = 4 USD, suy ra nếu so sánh GDP Mỹ với vật giá Âu Châu thì GDP Mỹ phải cao hơn 150,000 US!
Ngay giữa thành phố Oslo là công viên tên Vigelandsparken Sculpture Park có những bức tượng điêu khắc mỹ thuật, rộng 80 mẫu, hàng triệu du khách đến mỗi năm..nhưng chỉ có 1 nhà vệ sinh bên cạnh quán nước ngoài cổng, phải nhét đồng 10 Krones (1.75 USD) để sử dụng, nhìn đoàn người xếp hàng rồng rắn bên ngoài chờ là.. nhịn luôn !
Nước Mỹ số một…
Các công viên, các khu “rest area” dọc các xa lộ, thậm chí ở những buổi meeting, hội chợ… cũng có những cầu tiêu tạm cho mọi người dùng khi cần đến và chẳng bao giờ phải tốn một xu nào.
“Đi cho biết đó biết đây Ở hoài một chỗ, biết ngày nào “khôn”
Ông bà ta từ ngàn xưa đã có cái “nhìn xa trông rộng” thấy được nhu cầu phát triển sự hiểu biết, sự “khôn” lên qua việc đi đó đây. Vì thế ngày nay du lịch là ngành “kỹ nghệ không khói” nhưng đem lại lợi nhuận lớn cho rất nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra nhờ đi đó đây, ta mới có dịp mở rộng tầm nhìn, có dịp so sánh để “biết mình, biết người”.
Ở Mỹ lâu năm, quen hưởng những tiện nghi đời sống căn bản của mọi người trong xã hội ( kể cả người nghèo), riết trở thành quen, thấy bình thường và xem đó là lẽ đương nhiên.
Ví dụ như nhu cầu vệ sinh: ở Mỹ cầu tiêu công cộng có ở khắp nơi, giấy vệ sinh, giấy lau tay xài thoải mái, vòi nước uống cũng được thiết kế khắp nơi. Các công viên, các khu “rest area” dọc các xa lộ, thậm chí ở những buổi meeting, hội chợ… cũng có những cầu tiêu tạm cho mọi người dùng khi cần đến và chẳng bao giờ phải tốn một xu nào.
Nhưng khi du lịch ra nước ngoài khách mới “thấm thía”! Cái gì cũng phải trả tiền, kể cả nhu cầu vệ sinh (giá từ 1$ – 1.5$/1 lần, tùy nơi, tùy nước). Không phải chỉ tốn tiền mà còn “gian nan” khi hữu sự, để tìm cho ra “nơi cần đến”, ngay cả ở những thủ đô văn minh lẫy lừng lâu đời của thế giới! Tôi nhớ có một lần khi thăm thủ đô Paris, một người trong đoàn cần toilet, bác tài chạy xuôi, chạy ngược, vòng vòng mãi mà vẫn không tìm ra!
Cuối cùng một sáng kiến được nêu ra: tới một nhà hàng nào đó vô mua bất kỳ món gì đó để được đi toilet! Đó là nỗi khổ tâm lớn của các vị cao niên khi đi du lịch châu Âu, các vị phải nhắc nhau nhịn uống nước (điều này lại rất hại cho sức khỏe) để khỏi “khốn đốn” khi hữu sự!
Tôi nhớ một lần ở Rome, hướng dẫn viên dẫn một bà đi mãi qua đường này, tới ngõ nọ mà vẫn không tìm ra “nơi phải đến”, “bí” quá bèn hỏi: – Bà có chịu tốn 10 Euro để vô restaurant kia mua thứ gì đó để được đi WC không? – Nín hết nổi rồi, bây giờ không phải 10 Euro mà 20 Euro tôi cũng chịu luôn!
Có những WC có người ngồi thâu tiền còn đỡ, có những nơi, họ thiết kế sẵn phải bỏ đúng số tiền (cắc) quy định thì cổng mới mở cho vô. Khi đi du lịch đâu phải ai cũng có sẵn tiền cắc (Euro) trong túi, có một bà “mắc” quá nhưng không đổi được tiền cắc, nên phải mượn tứ tung trong đoàn, mỗi người thương tình móc hầu bao bỏ vô máy một ít, máy nuốt hết nhưng còn thiếu mấy xu, chưa đủ tiền, máy không mở cổng! Thật khốn đốn với máy móc vô tình!
Ở một số nước châu Á như Trung quốc, khách du lịch phải luôn thủ sẵn giấy vệ sinh trong bóp, vì trong toilet không có giấy vệ sinh. Tôi cứ bị ấn tượng mãi về một lần thăm Bắc Kinh (cách đây hơn 10 năm), đoàn du khách được một dàn các cô gái trẻ đẹp mặc xường xám đón chào tưng bừng ngay từ lối vào nhà hàng.
Nhà hàng thiết kế rực rỡ sang trọng, đèn đuốc sáng choang như… cung đình. Sau bữa ăn khi cần đi WC, tôi ngạc nhiên khi bước vào thấy có một bàn trải khăn trắng bóc, trên bàn có một bình hoa tươi thật to, đẹp, và một cô gái xinh đẹp rực rỡ mặc xường xám ngồi đó chỉ để làm nhiệm vụ phát cho mỗi khách 1- 2 miếng giấy vệ sinh nhỏ. Ôi “cung đình” mà không có giấy vệ sinh! Đúng là XHCN, hình thức trình diễn thì xôm tụ, nhưng nhu cầu căn bản thì không được đáp ứng.
Trong đời sống có những nhu cầu xem ra có vẻ nhỏ nhặt, tầm thường, nhưng khi cần đến mà không có thì nó trở thành một trở ngại lớn, khiến người ta “điêu đứng” vì nó. Nghe kể có một đoàn du khách nước ngoài viếng các lăng tẩm của triều đình Huế, đi từ lăng này đến lăng kia, cảnh đẹp hùng vĩ bao la…, bỗng một du khách cần đi WC, hướng dẫn viên tìm hoài không ra, bèn chỉ khách vào bụi cây xài đỡ,khách cương quyết không chịu! Vậy là cả đoàn phải ngưng tham quan, ra xe trở về khách sạn.
Phi trường ở Mỹ, ghế ngồi chờ đợi cho hành khách là ghế nệm dày và lúc nào cũng dư thừa, thậm chí lúc ít khách có thể nằm ngủ thoải mái. Toilet và vòi nước uống có khắp nơi, bây giờ lại có thêm những chỗ cho hành khách charge pin điện thoại, laptop, I pad, I phone… Nhưng khi tới phi trường Paris (Charles De Gaulles) những nhu cầu căn bản đó hình như biến mất.
Thực ra trước đây tôi đã đến phi trường Paris nhiều lần, nhưng đều đi ra ngay luôn. Lần này chuyến bay chuyển ở Paris trước khi tới Berlin nên tôi mới có cơ hội thâm nhập CDG. Trước hết khi máy bay đáp xuống CDG, tôi ngạc nhiên khi thấy phải đi cầu thang sắt xuống, với va li carry-on, nếu kéo đi thì nhẹ nhàng, nhưng phải xách nó lên và leo mấy chục bậc thang xuống thì không dễ chút nào! Sau đó, leo lên xe buýt chở vô phi trường.
Vô đây tôi lại tiếp tục chạy vòng vòng, mệt “bở hơi tai” vì phải xách carry-on lên xuống cầu thang nhiều lần đi từ khu này qua khu khác, phải qua khu x-ray (khám bằng tay là chính) rồi mới tới được cổng đổi chuyến bay! Khu nhà kiếng tương đối nhỏ nhưng có tới 12 cổng, mỗi cổng chỉ vỏn vẹn có một quầy nhỏ và một computer.
Có một số băng ghế sắt trong khu vực cho hành khách ngồi đợi nhưng quá ít so với nhu cầu, nên hành khách ngồi la liệt dưới đất, khắp lối đi. Một số ông thì ngồi vắt vẻo trên các lan can, bờ tường. Tôi vừa mỏi chân, vừa mệt vừa khát nước, nhưng nhìn quanh cả khu vực không thấy có vòi nước uống nào, cả WC cũng không có, chỉ thấy toàn người là người.
Khi lên được máy bay Air France, ngồi yên chỗ quan sát, tôi có cảm tưởng nó là “xe đò bay” thì đúng hơn (khi so sánh với máy bay Mỹ mà tôi vừa đi) vì ghế ngồi và thiết bị cũ kỹ như từ thế kỷ trước.
Lúc máy bay cất cánh tôi nghe nó gầm gừ “phành phành” rồi “ạch ạch” như đang cố sức nâng cái thân già nua bốc lên khỏi mặt đất, tôi chỉ lo nó rớt (may là tôi có mua bảo hiểm rồi nên đỡ lo). Cuối cùng sau một hồi “lắc lư con tàu” nó cũng bay lên được. Yên tâm rồi, tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi (vì chẳng có phương tiện giải trí nào: nhạc, tivi…).
Cơn khát nước làm tôi chợt tỉnh, thấy chung quanh ai cũng có ly nước, tôi bèn yêu cầu một nam tiếp viên cho xin ly nước, nhưng hắn trố mắt ra ngó tôi như tôi đang đòi hỏi một điều gì quá đáng, rồi hắn phớt lờ (đúng là tính “ga lăng” của đàn ông Pháp đã trở thành quá khứ). Có lẽ họ cho rằng họ chỉ phát nước theo giờ của họ, hết giờ là hết phát? Sau khi yêu cầu 2 lần không được, khát quá tôi đợi lúc bà tiếp viên trưởng đi ngang để lập lại yêu cầu, bà bảo tôi đợi một lát và mang đến cho tôi một ly nước nhỏ. Hình như nước trở thành hiếm quý và cách phục vụ lịch sự cũng hiếm quý luôn!
Ôi Air France! một thuở mơ ước khi tôi còn học trung học ở Sài Gòn, lúc nhìn những hình ảnh quảng cáo của Air France trên các tạp chí nước ngoài! Ôi mộng và thực đúng là “nghìn trùng xa cách”! Xin tạm biệt Air France và phi trường Paris (kinh đô ánh sáng một thời) mà không mong ngày gặp lại! Có lẽ từ đây nếu có du lịch Châu Âu, tôi phải lo học thuộc lòng câu của William Shakespear: “I always feel happy, you know why? Because I don’t expect anything from anyone.”
Tới phi trường Berlin (TXL) lại cũng phải đi cầu thang sắt xuống, rồi đi xe bus vô phi trường, xem ra phi trường này còn nhỏ và thiếu tiện nghi hơn phi trường Paris, tôi lại tiếp tục xách carry-on mệt nghỉ, chứ không kéo đi nhẹ nhàng như ở các phi trường Mỹ. May mà hai nước Pháp và Đức là hai nước lớn lại có nền kinh tế vững mạnh trong khối Châu Âu!
Đúng là có đi ra ngoài mới thấy tiện nghi ở nước Mỹ là số một, đó là chưa kể đến vụ so sánh giá cả hàng hóa ở Mỹ và châu Âu, hàng hóa ở Mỹ vừa nhiều vừa rẻ. Sau này về đến phi trường LAX tôi thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái, tất cả đều được chuẩn bị phục vụ chu đáo nhanh gọn, lịch sự.
Đúng là “sweet home” Ôi! “My beautiful America”. Bây giờ tôi mới cảm thấy thực sự yêu mến và tự hào về quê hương thứ 2 của tôi : Nước Mỹ yêu dấu! Quả là: “Phải chờ đến xế chiều Ta mới thấy ánh sáng ban ngày rạng rỡ biết bao!”
Nói đến niềm tự hào về nước Mỹ, tôi lại nhớ đến sự việc trên chuyến Cruise Coastal của Đức vừa đi. gày thứ hai lên tàu thì toilet trong phòng bị nghẹt, tôi gọi điện cho họ sửa mấy lần mà tình trạng vẫn không thay đổi, tôi phải xuống chỗ “Customer Service” để xếp hàng đi khiếu nại.
Thật ngạc nhiên khi họ “tỉnh bơ” cho biết không phải chỉ riêng phòng tôi mà các phòng ở tầng 2, 5, 8 đều bị như vậy, họ đang sửa, khi nào xong họ sẽ thông báo. Tôi bèn hỏi: – Trong khi chờ sửa, thì khách giải quyết vụ toilet ra sao? – Đi kiếm mấy cái toilet công cộng mà xài. – Nhưng chúng ở đâu?
Sau một hồi thắc mắc tới lui, họ mới chịu lục sơ đồ ra để tìm và cho biết một cái ở lầu 9, một cái khác ở lầu 4. Nghĩa là khi hữu sự phải “ôm bụng” chạy vòng vòng mấy tầng lầu để đi tìm cái toilet công cộng và xếp hàng chờ tới phiên. Chắc là dân Châu Âu quen kiểu này rồi nên không thấy phiền?
Trở về phòng, tôi bực bội kể lại cho chị bạn cùng phòng nghe, chị là bác sĩ hưu trí ở Đức. Sáng nay chị đã là nạn nhân “ôm bụng” chạy vòng vòng, may mà tình cờ tôi nhớ ra cái toilet công cộng ở lầu 9 cạnh bên nhà hàng, nên chỉ cho chị.
Do đó tôi tưởng chị là “đồng minh” bèn nói: -Hệ thống phục vụ trên tàu quá tệ! Đã vậy xem ra họ còn thản nhiên cho đó là chuyện nhỏ, không hề có một lời xin lỗi khách hàng. Ở Mỹ thì họ đã xin lỗi ríu rít rồi… Không ngờ chị phản ứng mạnh: – Mệt quá, Mỹ cái gì cũng tốt, cũng ngon lành hết! Dân Mỹ được nuông chiều quá hóa hư! Bởi vậy trên thế giới, Mỹ đi đâu cũng bị chúng ghét, bị khủng bố cho chết hết là đúng rồi! Lúc nào cũng đòi hỏi thứ này, thứ kia, còn đòi xin lỗi… “nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”…
Chị mắng cho một hồi “tràng giang đại hải” mà vẫn chưa hả cơn giận. Tôi ngơ ngác vì bỗng dưng mình bị “giũa” một trận te tua chỉ vì là “dân Mỹ” mà nào tôi có đòi hỏi điều gì cao cấp đâu, chỉ là những nhu cầu căn bản thôi.
Thôi “một sự nhịn chín sự lành”, nên tôi nín nhịn vì chị lớn hơn tôi nhiều, coi như mình nhịn “chị hai” trong nhà cho mọi chuyện êm xuôi tốt đẹp trong chuyến đi chơi! Suy ra mới biết tinh thần “bài Mỹ” ở các nước Âu Châu khá mạnh (ghé vô Nga 1 ngày thăm cũng phải nộp tiền làm đơn xin visa).
Kiểu này qua các nước Trung Đông chắc bị “xơi tái” quá, nhưng tôi nhớ một lần cách đây 5,6 năm dân Mỹ qua Ai Cập thì lại được đối xử như VIP, đi đâu cũng được ưu tiên và có xe jeep hộ tống “tiền hô, hậu ủng” rất oai!
Hôm sau tâm sự với một chị bạn khác về nỗi ấm ức bị mắng oan. Chị trả lời: – Chắc tại chị ấy ở Đức lâu, nên ngấm tinh thần “tự tôn dân tộc” của dân Đức, không muốn nước nào qua mặt, mà như vậy là tự ái dân tộc dỏm, vì dù gì mình cũng là người Việt Nam! (Chị cười) Ai bảo Mỹ giàu hơn, mạnh hơn nên dễ bị chúng ghét! Tôi chán ngán: – À thì ra vậy! Hèn gì em nghe người ta thường nói “ở đời mình thua – chúng khinh, mình hơn – chúng ganh ghét, mình bằng – chúng nói xấu”.
Không biết đến bao giờ các dân tộc trên thế giới sẽ sống với nhau trong tâm trạng “để hận thù người người lắng xuống” hầu không còn ai cảm thấy: “Đôi khi ta muốn thoát ly Đi thật xa khỏi cuộc đời này Xa lìa chuyện ganh đua với chê bai” (L.H.H.)
Dù sao nhờ có đi ra ngoài, có dịp mở rộng tầm nhìn, có dịp so sánh, tôi mới biết trân quý hơn những điều tôi đang được hưởng mỗi ngày ở xã hội này, mà đôi khi quá quen, tôi cứ xem đó là lẽ đương nhiên, là chuyện thường tình (giống như trong đời sống gia đình có nhiều người có phước có được những bà vợ, ông chồng rất tốt, rất tử tế, nhưng họ không hề biết quý và cứ nghĩ đó là chuyện đương nhiên và bình thường, cho đến khi không còn nữa mới hối tiếc thì đã muộn!).
Khi ý thức lại những tiện nghi của đời sống ở Mỹ mà tôi vẫn xem đó là chuyện bình thường, tôi mới biết đôi khi nó là niềm ước mơ của biết bao người trên thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Họ không chỉ cần những nhu cầu vật chất căn bản của đời sống nhưng còn cần những nhu cầu căn bản về tinh thần (quyền làm người, quyền tự do…) mà họ khát khao nhưng không hề được đáp ứng!
Xin cám ơn Chúa, xin cám ơn đời đã cho tôi có một cuộc sống tương đối an lành trên xứ Mỹ này, để từ đó tôi biết yêu thương và chia sẻ nhiều hơn với những mảnh đời bất hạnh khác nơi quê nhà, vì có thể “Một tình thương cho cuộc sống đang chờ đợi ta” bởi:
“Tình yêu là trái chín của mọi mùa Nằm trong tầm với của mọi bàn tay”(Mẹ Theresa)
|
|