|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 7:52:22 GMT 9
Chó đồng tổ chức xóm làng vô cùng rộng lớn (VienDongDaily.Com - 28/11/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Từ những năm đầu thế kỷ thứ 19, những người tiền phong khai phá nước Mỹ đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một loài thú gậm nhấm nhỏ đã tổ chức những thành phố riêng cho chúng rộng mênh mông bát ngát, chiếm có tới cả ngàn dặm vuông. Họ đặt tên cho chúng là “Prairie Dogs” và gọi vùng đất nơi chúng định cư là thành phố “town”. Họ từng thấy một thành phố của chúng tại Texas rộng vào khoảng 25.000 dặm vuông và chứa có tới 400 triệu con chó đồng. Thật là một con số vĩ đại, ta khó lòng tưởng tượng nổi, vì nó rộng hơn cả tiểu bang Hawaii có 6.450 dặm vuông, tiểu bang Maryland 10.577 dặm vuông và tiểu bang New Hampshire có 9.304 dặm vuông. Còn nói về dân số lại kinh khủng hơn nữa, vì chỉ riêng về một thành phố chó đồng ở Texas số chó đồng đã cao tới 400 triệu con, gần gấp đôi dân số Hoa Kỳ thống kê vào năm 1970 là 203.185.000 người. Đó là chưa kể suốt dọc miền Tây nước Mỹ, đều có lẻ tẻ xóm làng chó đồng ở những cánh đồng cỏ từ Mễ Tây Cơ lên cho tới Gia Nã Đại. Hai con chó đồng Prarie Dog đang hôn nhau - ảnh tham khảo: Mila Zinkova/Wiki. Prairie dogs, người ta gọi là chó vì tiếng kêu của chúng như chó cắn, nhưng theo các nhà khoa học chúng thuộc loại sóc. Thân hình chó đồng béo mập, dài khoảng một foot, nặng từ 1 pound rưỡi cho đến 3 pound, lông ngắn, dầy, màu xám nâu. Đôi mắt nhỏ tròn như hạt nhãn, má xệ, chân ngắn và có chiếc đuôi cũng ngắn và dẹp. Với đôi chân trước khỏe, móng sắc, chúng đào hầm làm nhà ở rất nhanh. Đầu tiên chúng đào thẳng sâu xuống cả đến 12 feet hay hơn, rồi sau đó mới đào ngang. Như vậy khi gặp nguy hiểm chúng chỉ lao vào hầm là tự rớt xuống thật nhanh, sau đó nó mới đào ngang thành những phòng để ngủ và phòng chứa thức ăn. Trên mặt đất ngay cửa ra vào, chúng cào đất tạo nên một vòng tròn gờ cao đến 2 hay 3 foot, bao quanh lỗ hang, để ngăn ngừa nước mưa không cho chảy xuống làm ngập hầm. Chúng ăn lá cây, côn trùng để sống và thường gậm nhấm luôn cả rễ, nên nơi lãnh địa của chúng không có cây to. Chó đồng thích sống tập đoàn và đơn vị nhỏ nhất của chúng gọi là nhóm (Coterie), coi như một gia đình gồm có một con đực, từ một đến 4 con cái và những con con, sống chung cùng cha mẹ trong vòng 2 năm. Điểm đặc biệt của chó đồng là khi gặp nhau chúng ôm lấy nhau và hôn môi nhau. Có lẽ từ môi chúng có toát ra một mùi đặc biệt để chúng nhận ra nhau. Theo đúng qui luật, nhóm nào chỉ biết nhóm đó không bao giờ xâm phạm sang ranh giới của nhóm láng giềng và ngay từ nhỏ chó đồng đã được răn dạy về qui luật này, nên sau khi lớn lên chúng đều giữ rất đúng khuôn phép. Tuy vậy, nhưng khi canh gác, thì mỗi cá nhân đều có bổn phận canh chừng cho tất cả. Khi trời nắng, chúng đều mon men chui ra khỏi hang để kiếm ăn. Trong khi đó nhóm nào cũng có một con ngồi chồm hổm trên gờ đất để quan sát. Khi thấy động tĩnh, chỉ cần một con kêu lên là tất cả đều chạy ùa về hang nhảy xuống là biến mất nhanh như chớp. Kẻ thù của chúng phần lớn là cáo, chồn và chim ưng. Nhưng trừ chim ưng, từ trên trời lao xuống cắp một con bay lên để ăn thịt, tương đối dễ dàng, còn các con thú khác chỉ bắt được chó đồng khi chúng ở ngoài rìa thành phố của chúng. Người ta thường thấy loại rắn rung chuông và chim cú đất thường hay luẩn quẩn ở những hang chó đồng. Phải chăng chúng là bạn thân thiết với loại thú trên. Mãi sau này người ta mới biết, giống cú đã dùng hang hầm bỏ trống của chó đồng để coi như là nhà của mình, còn rắn mò mẫm vào hang chó đồng chỉ là để săn mồi, bắt chó đồng con ăn thịt. Hai con chó đồng giống Phi Châu Meerkat - ảnh: Nick Út (gửi riêng cho Viễn Đông) Loài người là kẻ thù số một của chó đồng Nơi nào có chó đồng, chúng đều đào hang xây nhà lung tung thành cả một vùng đất đó đểu lởm chởm những gờ, những lỗ. Hơn nữa chúng lại thường cắn chết những cây lớn cho quang cảnh được sáng sủa, hầu cho chó đồng dễ quan sát kẻ thù. Như vậy là đã phá hoại trang trại và đất đai của những nhà nông sinh sống nơi đó. Đồng thời những hang đào rất nhiều của chó đồng thường gây ra những vụ gẫy chân của ngựa và bò, một khi chúng vô tình bước lọt vào lỗ hang của chó đồng. Tự nhiên chó đồng đã gây ra ác cảm đối với số nông dân và họ nhất định phải tận diệt loại chó đồng. Nhiều biện pháp được áp dụng nhưng không kết quả, sau có một loại “thuốc độc dễ dùng” được tung ra thị trường và nhiều người dùng thấy hiệu quả. Thế là từ đó, ngày theo ngày, số lượng chó đồng được giảm thấy rõ. Ngày nay người ta chỉ dành cho chó đồng một khoảng cánh đồng cỏ nhỏ ở những nơi hẻo lánh để chúng sinh sống và số lượng của chúng luôn luôn được kiểm soát chặt chẽ. Loài chó đồng thật lớn bên Phi Châu Khác với loại chó đồng ở châu Mỹ, tại Phi châu và một phần Á châu lẫn hòn đảo Madagasca, có một loại đặc tính y hệt, cũng kêu như tiếng chó, cũng sống tập đoàn rất đông đảo, cũng đào hang để trú ngụ và cũng cắt phiên nhau để canh gác, nhưng lại to lớn hơn và ăn những sâu bọ, côn trùng, thằn lằn, cóc nhái và chim chóc để sống. Người ta gọi chúng là Meerkat. Giống này hình thù giống như chó đồng, nhưng to lớn bằng con chó thật và có đặc điểm khác với chó đồng là chúng không ngồi chồm hổm, mà lại đứng thẳng trên đôi chân như người. Nếu nhìn thấy chúng từ xa, ta tưởng tượng như thấy một đoàn người trần truồng, hai tay buông xuôi như e thẹn muốn che giấu một bộ phận nào muốn giấu, trông thật ngộ nghĩnh và buồn cười. Trong lãnh địa riêng biệt chúng sống theo đúng qui luật, đều thay phiên nhau lãnh trách vụ, nào đi kiếm thức ăn, trông chừng trẻ nhỏ không cho chạy lang bang sang địa phận của nhóm khác, hoặc đứng nghiêm chỉnh làm tên lính gác, mắt láo liên nhìn quanh, hầu phát giác sự có mặt của kẻ thù, để kêu lên báo động cho cả đoàn chạy trốn. Vì bị người ta săn bắn quá dữ dằn, giống này hiện nay còn rất ít. Có chăng chỉ còn tập trung một số nhỏ ở sa mạc khô cằn Kalahari rộng 200.000 dặm vuông thuộc nước Botswana và miền Tây Nam Phi Châu. Các nhà vạn vật học thế giới đang cố gắng duy trì giống nòi này vì chúng hiền lành và dễ dạy, tuy nhiên vì tính thích sống tập đoàn đông đảo, nên nếu sống đơn lẻ chúng dễ u buồn mà chết. Hồ Sĩ Viêm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:16:42 GMT 9
Con nai vàng ngơ ngác (VienDongDaily.Com - 24/10/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Hươu đuôi trắng - ảnh: Scott Bauer/USDA. Sự việc đã xẩy ra từ lâu lắm rồi, từ năm 1967, tức là năm mà các nhà khoa học Hoa Kỳ khám phá thấy một vài con hươu nai hoang dã sinh sống dọc theo khu rừng nằm giữa hai tiểu bang Wyoming và Colorado mắc phải một chứng bệnh bí ẩn, mà người ta gọi là “Chronic Wasting”, một triệu chứng cứ gầy mòn dần rồi lăn ra chết. Sự việc nếu có thế, thì chẳng có gì quan trọng, một vài con dã thú ở địa phương mắc bệnh rồi chết, trong khi nhưng con khác vẫn mạnh khỏe, sinh sôi nẩy nở đầy đàn và nhởn nhơ vui đùa sẽ tạo ra quang cảnh rừng thêm sinh động. Nhưng, đến lúc số lượng chúng quá cao thì cũng có gây nhiều phiền nhiễu cho những trục giao thông băng qua khu rừng. Những xe hơi khi qua vùng này phải hết sức cẩn thận, vì loài hươu nai thường băng qua xa lộ bất chợt, rất dễ sinh ra tai nạn. Theo thống kê, trong một năm chỉ riêng tại tiểu bang Wisconsin không thôi, mà đã có đến 40.000 con hươu bị chết vì xe hơi đụng phải. Tuy nhiên địa phương nào có nhiều hươu nai lại giàu, vì chúng sẽ kéo gọi những tay súng, coi săn bắn như một ngành thể thao, đến tụ tập rồi đóng cả triệu Mỹ kim tiền giấy phép cho ngân quĩ địa phương, cũng như làm giàu cho ngành săn bắn cả tỷ Mỹ kim trong một mùa. Chính kẻ viết bài này từng có một người bạn, khi lái xe hơi qua một khu rừng ở Minnesota, đã đâm vào một con nai chạy ngang đường. Chiếc xe hơi bị móp méo một chút ở phía đầu, nhưng máy móc còn tốt nguyên và những người đi trên xe tuy có xanh mặt vì sợ hãi, nhưng hoàn toàn vô sự. Họ xuống xe quan sát con nai, thấy mập mạp béo tốt và đã chết, nên khênh nó buộc lên mui xe rồi đem đến trình cho cơ quan cảnh sát gần đó. Những người cảnh sát tốt bụng sau khi lập tờ báo cáo đầy đủ đã hỏi chủ xe có muốn lấy con nai đó không. Khách trên xe toàn là dân nhậu, nên họ vui vẻ nhận lời và chở con nai đi. Họ mang về thành phố gạ bán được một số tiền, đủ để sửa lại chiếc xe lành lặn như cũ, còn một miếng thịt lớn được tặng, họ đã tổ chức một bữa ăn nhậu vui như Tết. Không những chỉ một số người Việt Nam thích ăn thịt nai, mà thực ra người dân Mỹ cũng mê ăn thịt rừng vô kể. Không thế sao mỗi năm họ đã lặn lội vào rừng săn bắn giết bắt cả 400.000 con cả hươu lẫn nai, để ăn thịt. Do đó, ngành buôn bán về loại thịt này cũng bành trướng mạnh mẽ, người ta chở đi phân phối cùng khắp. Cũng như những trại nuôi và nhốt nai cũng mọc lên nhanh nhản tại hầu như khắp các tiểu bang miền Trung và Nam Mỹ. * Một biến cố thình lình gây nỗi bất hạnh lớn lao cho cả người lẫn giống hươu nai Vào năm 1990, ông Wayne Waterhouse một cư dân tại tỉnh Chetek thuộc tiểu bang Wisconsin đi săn được một con hươu. Lòng hân hoan, ông mở một bữa tiệc và nghĩ đến bạn hiền, ông liền mời một người bạn thân là Roger Marten ở tỉnh Mondovi cách đó 50 dặm đến ăn nhậu, sẵn có một người bạn nữa từ tiểu bang Minnesota bên cạnh sang chơi, Waterhouse liền mời nhập tiệc luôn. Họ ăn uống vui vẻ, rồi giải tán, có ngờ đâu, 3 năm sau, ông Waterhouse ngã bệnh và từ trần. Tiếp đó không lâu, ông Marten không hẹn mà cũng đã theo chân bạn hiền xuống tuyền đài, trong khi cả hai người mới cùng đều 66 tuổi. Còn lại một người là ông James Botts, khi đó đã trở lại quê nhà và tiếp tục sống một cuộc sống bình thường. Cho đến 6 năm sau nữa, tự nhiên ông Botts thấy đôi cánh tay mình cử động ngượng nghịu, hình như chúng không còn tuân theo mệnh lệnh của óc nữa. Ông muốn viết một danh sách đồ hàng, mà ngọn bút kéo lê xiên xẹo thành chữ viết nguệch ngoạc như gà bới. Tuy thấy lạ lùng, nhưng ông coi như tại vì mình mệt. Ít hôm sau nữa, lái xe đạp đi có việc, ông thấy một bàn tay như không còn gân cốt, không nắm chặt được chiếc ghi đông xe. Rồi khi đóng một chiếc cửa lưới bị bung, ông ta cảm thấy không thể sử dụng được cả cái máy rập đinh nữa. Thế rồi vài tuần sau, Botts bị mù không còn nhìn thấy gì và miệng cũng câm luôn không nói được. Ông ta bắt đầu run rẩy và lắc lư quá mạnh, đến nỗi bà vợ và 4 đứa con phải túc trực luôn bên cạnh để ôm lấy chồng và cha, mỗi khi ông lên cơn. Đến ngày sinh nhật thứ 55 của ông, bà vợ đã phải đút từng thìa thức ăn vào mồm ông và… ít ngày sau nữa, ông trút hơi thở cuối cùng. Botts từ trần vào ngày 27 tháng 7 năm 1999. Sau khi giảo nghiệm, người ta được biết ông Botts chết vì bệnh Creutzfeldt-Jakob, một bệnh chết người chưa có thuốc chữa, do óc bị rối loạn, một thứ bệnh đang gây đau khổ cho toàn nhân loại, vì cứ trong một triệu người lại có một người bị bệnh này giết hại. Gia đình ông Botts tự hỏi, nỗi oan khiên đau khổ của ông Botts phải chăng là do số phận an bài. Vì chỉ có ít ngày sau, gia đình một người bạn cũ từ 6 năm trời mất liên lạc, nay bỗng nhiên gọi phôn lại. Cú điện thoại này là do một người con của gia đình ông Waterhouse gọi tới. Cậu này đã kể lại cho Judy con của ông Botts biết, cha của mình cũng bị chết vì bệnh Creutzfeldt-Jakob từ năm 1993. Nguồn tin này làm cho Judy ngạc nhiên, vì trong kỳ hè đó báo chí ờ Minnesota, nơi Judy ở, có đăng tin bên Wisconsin các nhà khoa học vừa tìm ra một số hươu tại đây bị bệnh Chronic Wasting. Tự nhiên Judy liên tưởng đến bữa nhậu nhẹt thịt nai của cha mình với ông Waterhouse cùng ông Marten. Vậy, những sự kiện đó có liên quan gì với nhau không? Anh nêu lên ý nghĩ của mình và nhờ một tờ báo địa phương đăng tải. Không ngờ bài báo này lại được các chuyên viên y tế tại tiểu bang và cả liên bang chú tâm tới. Họ cho biết thêm, bệnh Creutzfeldt-Jakob đã giết hại hai người bạn là Waterhouse và Botts, có thời kỳ tiềm phục từ 10 đến 15 năm, trước khi để lộ ra bất cứ một triệu chứng nào. Bệnh này cũng cùng một loại với Chronic Wasting disease đã giết hại các hươu nai. Không những thế, hai loại bệnh kể trên lại cùng họ hàng với cả bệnh Bò Điên, một thứ bệnh đã giết hại nhiều triệu con bò bên Âu Châu, vì đã làm cho óc não những con bò bị bệnh lỗ chỗ như miếng bọt biển. Người ta còn nhớ thời kỳ kinh hoàng đó, khi mà bệnh Bò Điên đã nhảy qua được hàng rào ngăn chặn từ chủng loại chúng, để nhẩy sang tấn công loài người và đã giết ít nhất là 125 người đã ăn thịt bò, sinh ra chứng bệnh như Creutzfeldt-Jakob.Vậy, chứng bệnh giết hại hươu nai Chronic Wasting có thểõ nhảy từ giống hươu nai sang con người . Để tìm hiểu, Trung Tâm Kiểm Soát Và Phòng Ngừa Bệnh Dịch Liên Bang tại Atlanta đã mở cuộc điều tra phân tích những mẫu vật óc còn giữ lại của ba người từng ăn thịt nai là Waterhouse, Botts và Marten. Riêng của Marten, nguyên nhân từ trần được ghi do bệnh Pick, cũng là một thứ bệnh do óc não bị xáo trộn, nhưng nhiều nhà khoa học khác đã cho rằng ông ta chết cũng do bệnh Creutzfeldt-Jakob. Cuộc tìm kiếm được tiến hành mạnh mẽ, tuy nhiên các khoa học gia vẫn chưa tìm được một kết quả xác thực nào. Nguồn tin được lan rộng và nhiều cơ quan y tế danh tiếng như WHO cũng nhảy vào trợ giúp. Chính cơ quan này trong năm 1999 đã tuyên bố với nhiều dè dặt rằng, họ không thấy một chứng cớ khoa học nào tỏ ra bệnh Chronic Wasting của hươu nai có ảnh hưởng đến con người. Tuy nhiên họ lại khuyến cáo mọi người đừng nên ăn những bộ phận nào của hươu nai nghi ngờ bị nhiễm bệnh. * Chuyên viên về thú hoang Hoa Kỳ và Gia Nã Đại nhóm họp Cái chết của 3 người vì ăn thịt nai, tuy chưa hoàn toàn rõ rệt, nhưng đã làm mọi người sợ hãi. Các nhà hữu trách càng muốn biết cặn kẽ, hoặc 3 cái chết đó là do một sự ngẫu nhiên, hoặc chính thực họ chết vì ăn phải thịt nai nhiễm bệnh. Đồng thời họ muốn kiểm soát có bao nhiêu hươu nai tính đến ngày nay đã bị mắc bệnh Chronic Wasting. Do đó đã có một hội nghị giữa các chuyên viên về dã thú hai nước Hoa Kỳ và Gia Nã Đại được mở ra vào ngày 6 tháng 8 vừa qua tại Denver, tiểu bang Colorado. Sau 2 ngày nhóm họp, một bản báo cáo cho hay, khởi đầu người ta thấy một con hươu bị bệnh tại chân đồi nhiều bụi rậm gần Fort Collin, nhưng qua 10 năm sau, bệnh đó đã lan tràn lẻ tẻ trong cả giống hươu nai ngoài hoang dã, lẫn những con nuôi trong các trại ở các tiểu bang như Kansas, Montana, Nebraska, New Mexico, Oklahoma, South Dakota, Wisconsin và Wyoming, cũng như tại 2 tỉnh của Gia Nã Đại là Saskatchewan và Alberta. Tuy có một số tiểu bang, như New Mexico người ta tìm thấy chỉ có một con hươu ngoài hoang dã bị bệnh mà thôi. Nhưng, trong khi đó tại tỉnh Saskatchewan bên Gia Nã Đại lại có đến trên 100 con hươu nai nuôi trong các trại bị nhiễm bệnh. Như vậy, tỷ số những con bị nhiễm bệnh đã được liệt kê từ 0,002 phần trăm cho đến trên 20% tính theo đoàn hươu nai kiểm chứng được. Tuy nhiên, nhiều chuyên viên còn tiết lộ, họ chưa hiểu cái bệnh quái ác này lan truyền ra sao giữa các con thú ngoài hoang dã, cũng như những thú nuôi trong các trại, đồng thời cũng chưa biết cách kiểm soát chúng như thế nào. Một số chuyên viên nghi ngờ, chính phần vụ buôn bán thịt và chuyên chở giống hươu nai từ nơi này đến nơi khác đã làm cho bệnh Chronic Wasting lan truyền xa rộng. Giả dụ như giống nai bị bệnh tại Colorado truyền sang đến Wisconsin là do phương tiện của người chuyên chở, chứ giống hươu nai làm sao đi bộ được cả quãng đường xa đến 1.000 dặm đó. Tuy ngày nay có nhiều tiểu bang đã ra lệnh cấm không cho chuyên chở cũng như bán thịt hươu nai, nhưng theo hồ sơ người ta được biết, sở dĩ nhiều nai tại tỉnh Saskatchewan Gia Nã Đại bị bệnh có thể là do một con nai nhập cảng từ South Dakota, Hoa Kỳ, vào năm 1989. * Cuộc tàn sát hươu nai trừ dịch Vào năm 2002, tiểu bang Wisconsin do không thể kiểm soát nổi căn bệnh bí ẩn Chronic Wasting giết hại giống thú hoang hiền lành, nên đã ra lệnh triệt hạ cho bằng hết 25.000 con hươu nai đang sinh sống trong vùng. Wisconsin đã chia các khu rừng có hươu nai sinh sống thành hai vùng đặc biệt, một vùng nghi ngờ có nhiều con nhiễm bệnh, gọi là vùng nóng phải thanh toán gấp rút, còn vùng kia được coi còn lành mạnh sẽ nghĩ đến sau. Mỗi vùng có khoảng 25.000 con, cả hươu lẫn nai. Khởi đầu, họ mướn thật nhiều nhóm thợ săn lành nghề cho đi tuần tiễu ban đêm tại khu rừng phía Tây Nam tiểu bang, dùng đèn chiếu thật sáng để kêu gọi lũ hươu nai ngơ ngác, rồi xả súng bắn chết hết, ngay cả những con mới sinh còn bé tí. Sau cuộc hạ sát, họ chở tất cả về một trung tâm thu gom xác hươu tại một thị xã gần đó. Tại đây, từ sáng sớm đã có nhóm chuyên viên tụ tập, họ thay đổi nhau làm việc 15 giờ một ngày, để cưa riêng từng đầu hươu ra, hầu tức tốc gói lại cẩn thận và gửi đến phòng thí nghiệm. Những người nào sợ máu chắc chắn không thể nào làm việc được tại đây, vì nơi nào cũng toàn máu là máu. Mới đầu họ quăng xác hươu vừa bắn chết tối qua lên một chiếc bàn máu dài trơn tru bóng loáng, để chờ được cưa, cắt cái đầu riêng ra. Những xác hươu nai nằm bất động trông thật tội nghiệp. Kia, con hươu đực, mắt còn mở trừng trừng như nuối tiếc, trên đầu còn cặp sừng dài nhiều nhánh trông thật mềm mại vì lông tơ mướt như nhung còn bao trọn cặp sừng, chứng tỏ nó mới mọc lên còn tràn đầy sức sống. Bên cạnh là một con nai cái, đôi mắt nhắm nghiền, nhưng chiếc lưỡi sưng to lại thò ra, bị cắn chặt giữa hai hàm răng nghiến sát, như đang nguýt ngoéo oán trách, sao thân phận mình lại quá đau buồn như vậy. Nối tiếp là hai con nai baby, vóc dáng nhỏ nhắn xinh xinh, với bộ lông nâu vàng óng nuốt, còn điểm những chấm trắng mờ mờ, chứng tỏ chúng mới ra đời chưa được bao lâu. Đứng đầu bàn, người chuyên cưa cắt, đâu có thời giờ ngắm nghía, ông ta lặng lẽ không nói một lời, điều khiển cưa máy nhằm thẳng góc xuống xương lưng và cắt cái xoẹt, mỗi một con hươu chỉ một lát là xong. Trong khi đó một nhóm người khác đã chầu chực sẵn, đón nhận từ cái đầu hươu, để cho vào một túi nylon lớn, rồi gấp xếp cẩn thận, sau đó mới xếp vào một chiếc thùng ướp lạnh, hầu gửi đến cho phòng thí nghiệm. Mùi máu tanh, mùi thịt hôi thối xông lên cùng khắp, lan ra tận bên ngoài, khiến Carl Batha, người điều khiển toàn phòng, khịt khịt chiếc mũi rồi cười gượng nói: “Một công việc không có ai ưa nổi”. Ấy vậy mà toàn thể đã phải ở lại làm việc cho đến bao giờ cắt hết sạch 25.000 chiếc đầu của giống hươu nai. Thật khủng khiếp và thương tâm. * Tìm hiểu sơ qua về giống hươu nai Tính chung gia đình hươu nai trên toàn thế giới có khoảng 60 loại. Riêng tại Mỹ có tất cả 5 loại, gồm White-tailed deer (hươu đuôi trắng), Mule deer (hươu tai lừa), Caribou (nai tuần lộc), Elk và Moose. Để điểm sơ qua, hươu đuôi trắng cao khoảng 3 bộ rưỡi và nặng độ 200 pound. Đuôi nó dài một bộ phía trên lông màu nâu, nhưng lông bên dưới lại màu trắng. Khi chạy bay biến, thì chiếc đuôi ruỗi thẳng ra sau, làm cho người ta thấy rõ rệt phần đuôi trắng. Do đó nó đã mang tên là Hươu đuôi trắng. Mule deer hình dáng gần giống như hươu đuôi trắng, chỉ khác có đôi tai lớn rộng đầy lông, trông như tai lừa. Vì thế nó đã có tên là Hươu tai lừa. Elk, còn có tên nữa là Wapiti, do người bản xứ đặt cho nó trước tiên. Nó có thân hình khá lớn, từ vai trở xuống có chiều cao từ 4 đến 5 bộ và con đực có đôi sừng lớn, đẹp và cân đối, người săn bắn rất thích để làm đồ trang trí ở phòng khách. Vào mùa Hè, con Wapiti cái thường sống riêng biệt với con nhỏ, trong khi những con đực cũng tụ tập thành một bầy khác đi kiếm ăn riêng biệt. Đến mùa Thu, những con đực đều rống lên vang động khắp rừng để kêu gọi những con cái trở về. Và chúng cũng đánh nhau loạn xạ, để dành phần thắng chiếm đoạt người tình. Trong cuộc chiến này, nhiều khi chỉ có một con còn sống. Moose là con lớn nhất trong gia đình họ Hươu. Từ vai trở xuống cao từ 5 đến 6 bộ rưỡi và về mùa Thu nó nặng tới trên 1.000 pound. Chỉ có con đực mới có sừng, một cập sừng lớn có nhiều nhánh bẹt ra như cánh quạt, đến mùa đông thì cập sừng này rụng và sẽ mọc lại cập khác vào mùa Xuân. Moose thích sống đơn độc và lặng lẽ, nhưng đến mùa Thu nó lại hoạt động mạnh mẽ lắm, thường dùng sừng đánh nhau để tranh giành con cái. Moose bơi rất giỏi và cũng chạy rất nhanh trên tuyết. Caribou không lớn con lắm, từ vai trở xuống chỉ cao từ 3 rưỡi đến 4 bộ, nhưng đặc biệt khác với các loại hươu, là cả con đực và con cái đều có sừng. Chúng còn một điểm khác biệt nữa, là gần khuỷu chân có một sợi gân cứng, lúc di chuyển, một khớp xương chân đụng vào gân tạo ra một tiếng “Cách” nghe rất rõ. Vì vậy khi cả đoàn chúng đi, những tiếng lách cách vang lên như tiếng giầy đinh của đoàn lính tập trận nghe rất lạ và người hiểu ngay đó là đoàn caribou chạy qua. Caribou cũng có ở Âu Châu, nhưng nơi đây người ta gọi là Reindeer. Loại hươu này là loại hươu độc nhất được nuôi dậy thuần thục để giúp đỡ cho con người, để kéo xe hay chở đồ và đồng thời cũng dành cho con người sữa, thịt và da. Hiện tại, tại vùng Bắc Âu có một sắc tộc du mục gọi là người LAPPS vẫn còn chăn nuôi giống hươu Reindeer này. Hồ Sĩ Viêm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:23:53 GMT 9
Lịch sử vườn bách thú (VienDongDaily.Com - 02/05/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Có thể nói, trong chúng ta không một ai là chưa từng một lần đến viếng thăm Vườn Bách Thú hay còn gọi là Sở Thú. Theo thống kê thì khoảng một phần hai mươi dân số thế giới đã đi thăm sở thú hàng năm, làm nổi bật nơi này là chốn giải trí hấp dẫn vào bậc nhất đối với nhân loại. Người ta đã kể, vườn thú Parque Zoologico de Chapultepec tại thành phố Mexico City ở Mễ Tây Cơ, hàng năm đã đón tiếp đến 5 triệu dân chúng đếm thăm viếng. Ngoài ra, các vườn thú nổi tiếng khác ở Đông Kinh, Bắc Kinh, Chicago, Washington D.C., Mạc Tư Khoa và Madrid, hàng năm cũng có đến trên 3 triệu hành khách đến vui chơi và ngắm thú vật. Tên dài của vườn bách thú là Zoological Garden, nhưng người ta chỉ gọi vắn tắt là Zoo. Chữ zoo theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những loài vật sống”. Đối với nhân loại, việc bắt giữ thú vật hoang để nuôi và dạy dỗ cho thuần thục đã được thực hiện từ thời Đồ Đá. Theo di tích lịch sử còn ghi lại, có thể vườn thú đầu tiên của con người thiết lập là vào thời văn minh Arpachiya, nơi vùng đất của Iraq bây giờ, vào khoảng 4.500 năm trước Tây Lịch (B.C.). Người thời đó đã biết đánh bẫy chim bồ câu để nuôi dạy làm chim nhà. Sau đó, trong thời văn minh Ấn Độ, vào thời gian từ 3300 đến 2500 B.C., người ta biết thuần thục hóa giống gà rừng và dạy dỗ một số voi để làm những công việc nặng. Tuy nhiên, sự xuất hiện những vườn thú rõ rệt nhất là vào thời kỳ các vị vua cổ Ai Cập từ năm 2800 đến 2500 B.C. Những hình ảnh còn ghi lại trong các lăng tẩm và phần mộ có ghi rõ các giống thú như chó, hươu, khỉ và chồn. Nhưng những giống vật này, người xưa chỉ di chuyển để chúng quen với thủy thổ, hơn là thuần thục chúng. Trong những vị vua Ai Cập nổi tiếng nhất về vấn đề này có Vua Thutmose II, người đã mang nhiều giống cây lạ, cùng chim và thú vật về trồng trọt và nuôi nhốt trong vườn lăng tẩm ở Karnak. Sau đó, Hoàng Hậu Hatshepsut, người rất ưa thích thú vật, vào năm 1500 B.C., đã sai người đi lùng bắt nhiều giống thú trong các rừng hoang dã dọc theo bờ biển Phi Châu để làm đầy vườn thú của mình. Bà đã sưu tập nhiều giống khỉ, rồi hươu cao cổ, báo và nhiều thứ chim lạ. Cuối cùng là vua Rameses II bắt chước tiền nhân, Hoàng Hậu Watshepsut, thêm vào cho vườn thú Hoàng Gia cả sư tử và đà điểu. Trong khi đó tại phương Đông, khoảng 500 năm sau đó, Hoàng Đế Wen Wang ở Trung Hoa có thiết lập một vườn thú rộng tới 1.500 mẫu, để nhốt chứa các loại thú rừng có trong lãnh thổ, do người dân bắt và cống hiến. Ông đã đặt tên cho vườn thú này là “Vườn Thông Minh”. Vườn thú của ông ngoài các thú rừng còn có cả rùa và cá. Sự thiết lập vườn thú đã trở thành một truyền thống, một tập tục của các vị hoàng đế Trung Hoa, để tỏ lộ uy vũ, giàu sang và lớn mạnh, nên các vị vua tiếp nhiệm tiếp tục duy trì vườn thú cho mỗi ngày một thêm lớn hơn, mới mẻ hơn và nhiều kỳ lạ hơn. Đến nổi, khi nhà doanh thương lẫn thám hiểm Tây phương là Marco Polo, lúc viếng thăm Trung Hoa vào năm 1200, đã phải rùng mình khiếp sợ trước vườn thú Kublai Khan gần cung điện nhà vua, vì sự quá lớn rộng, nhiều hoa thơm cỏ lạ và nhiều giống thú kỳ lạ, mà ông chưa bao giờ từng nhìn thấy. Theo trong lịch sử, người đầu tiên của nhân loại để ý đến việc sưu tầm các thú vật lạ trên trái đất để nghiên cứu là Đại Đế Hy Lạp Alexander the Great. vào hồi thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Trong những cuộc chinh chiến đánh Đông, dẹp Bắc tại các vùng rộng lớn ở Âu Châu và Phi Châu, Đại Đế Alexander the Great khi bắt gặp một con thú gì lạ, ông đều sai quân gửi về cho thày học là nhà học giả nổi danh Aristotle. Nhờ vậy, nhờ có cả 300 thú vật có xương sống để quan sát, tìm hiểu về hình dáng, hoạt động và nếp sống của chúng, mà Aristole mới viết được cuốn “Lịch Sử về Động Vật” đầu tiên và rất có giá trị của con người. Từ đó mục đích thiết lập vườn thú của Hy Lạp cũng khác biệt, chúng là nơi nghiên cứu công cộng dùng cho tất cả mọi người, do đó các sinh viên Hy Lạp thường đến vườn thú, để tìm hiểu, một môn cần thiết trong chương trình học vấn của họ. Trong khi đó tại La Mã, các vua chúa và các nhà quyền quí cũng thiết lập nhiều vườn thú, nhưng là của tư nhân, nhằm mục đích khoe sự giàu sang, phú quí và là đấu trường để họ tổ chức những cuộc giác đấu, chém giết nhau giữa người và người, giữa thú vật và người, cùng giữa thú vật và thú vật. Những cuộc đấu này đã thành một phong trào lớn mạnh tại La Mã và người dân rất náo nức được xem các cuộc chém giết và cắn xé nhau. Nhiều trận đổ máu thật kinh hoàng và có khi chỉ trong một ngày, trên 5.000 thú dữ lẫn cả con người, bị phanh thây trên đấu trường. Vì nhu cầu cần thú dữ tham dự các cuộc đấu lên cao, các người săn bắt càng đi lùng ráo riết ở các vùng gần, cũng như các rừng thật xa. Họ đã bắt về nào hổ, báo, sư tử, bò rừng, trâu rừng, cùng các con tê giác, hà mã và voi. Rất nhiều thú rừng bị bắt và chuyên chở về La Mã, đến nổi một vài giống coi như gần diệt chủng, rất khó tìm thấy nữa. Khi phong trào giác đấu ở La Mã xẹp rồi, người ta nhận xét không còn lấy một con hà mã trong thung lũng sông Nile ở Ai Cập, không còn sư tử ở Mesopotamia và không còn lấy một con voi ở Bắc Phi Châu. (Còn tiếp tuần tới)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:26:11 GMT 9
Lịch sử vườn bách thú (Tiếp theo) (VienDongDaily.Com - 09/05/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Tranh vẽ Vườn Bách Thú Luân Đôn, 1835, thuộc bộ sưu tập Viện Bảo Tàng Luân Đôn, không rõ tên họa sĩ. Tại Âu Châu vào thời Trung Cổ hầu như không có một vườn thú nào danh tiếng. Các vị lãnh chúa có thiết lập vườn thú cũng chỉ là những chuồng nhốt nhỏ, một vườn cá nhân dành riêng cho các lãnh chúa và thân nhân coi chơi, hoặc là để làm vật tặng, trao đổi giữa các nhà cầm quyền. Như vào năm 1254, vua nước Anh là Henry III có nhận được một vật tặng từ hoàng đế nước Pháp Louis IX, một con voi. Đây là con voi đầu tiên mà người nước Anh được nhìn thấy. Mãi đến thế kỷ thứ 9, một nhóm tu sĩ thuộc dòng Benedictine ở vùng St Gallen, Thụy Sĩ, có mở được một vườn thú mà cách kiến trúc của họ cũng khá tân kỳ, na ná giống như các vườn thú hiện tại. Trong khoảng thời gian 1564 đến 1575, dưới sự trị vì của Hoàng Đế Maximilian II, kinh thành La Mã đã thiết lập được 3 vườn thú, trong đó có vườn Schonbrunn. Vườn này đặt tại thành phố Vienna đã đứng vững lâu nhất và đến năm 1752, dưới thời Vua Francis I, đã tiếp nhận các thú vật ở hai vườn kia dồn lại và tiếp tục mở cửa cho dân chúng vào xem cho đến tận ngày nay. Khu vườn này trở thành vườn thú có lâu đời nhất trong thế giới hiện tại. Sau này vào thế kỷ thứ 18, có nhiều vườn thú rất tân tiến được thành lập ở Âu Châu. trong số đó có chừng 30 vườn đã sống quá 100 năm và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, trong đó có vườn thú Madrid ở Tây Ban Nha và vườn Jardin de Plantes ở Pháp. Tại Mỹ, vườn thú lâu đời nhất là vườn Central Park Zoo ở Nữu Ước thiết lập từ năm 1864. Còn phần lớn các vườn thú khác ở Hoa kỳ đều được xây dựng sau thời kỳ nội chiến và vào đầu thế kỷ thứ 20. Trong khi đó các dân tộc xưa cũ tại châu Mỹ đã biết cách nuôi thú và làm chuồng trại nhốt thú vật từ lâu. Ngay từ năm 1519, khi các nhà thám hiểm, đồng thời là các thực dân Tây Ban Nha đến Mễ Tây Cơ, họ đã vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy vườn thú lớn rộng của người Aztec. Trong vườn này người Aztec đã nuôi nhiều giống thú, cả chim, loài bò sát và cá. Trong đó có nhiều giống thú riêng biệt của châu Mỹ, như con bison, loại trâu rừng lông bờm, mà người Âu Châu chưa một lần nhìn thấy. Vua Aztec là Montezuma có những người tùy tùng tài ba biết cách bắt các thú vật, hiểu cách ăn uống của từng giống thú và cách săn sóc sức khỏe cho chúng. Nhưng không may mắn là các người thực dân Tây Ban Nha, lóe mắt vì vàng và các các đồ quí giá của dân tộc Aztec, nên không thiết gì đến các thú vật và đã tàn phá vườn thú quí báu của người Aztec. * Cách kiến trúc vườn thú xưa và nay Xưa kia, vườn thú chỉ là những cũi lớn để nhốt thú. Đó là những nhà tù của thú vật. Chúng sống khốn khổ và chết rất sớm. Cho mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, vào năm 1907, một người Đức buôn bán thú vật tên là Karl Hagenbeck mới nghĩ ra cách xây cất một sở thú như thế nào, để các giống vật sống như ở ngoài thiên nhiên. Ông sử dụng các nguyên liệu xi măng, gạch đá, để tạo dựng một phong cảnh như nơi những con thú từng sống. Thay vì ngăn cách chúng bằng những hàng rào, ông đã cho đào những con hào sâu chia riêng biệt, giống thú không thể nhảy sang ăn thịt lẫn nhau được, mà trái lại các du khách đứng nhìn xa, lại tưởng chúng sống chung nhau hòa bình. Ông đã tạo dựng một sở thú theo ý kiến trên tại vườn thú Hamburg thuộc tỉnh Stellingen ở Đức. Vườn thú này đã có tiếng vang lan rộng. Các người đảm trách về các sở thú trên thế giới đã kéo đến dây để học hỏi. Họ đều thấy quả thực vườn thú Hamburg, nhìn bao quát giống như một khu rừng ở Phi Châu thu nhỏ. Nơi đây, một đoàn ngựa vằn đang ăn cỏ, ngay bên cạnh một cặp sư tử đang chờn vờn nhau. Phía xa hơn nữa mấy con hươu sao đang uống nước trên một dòng suối chẩy róc rách. Còn nơi kia, hai con voi khổng lồ đang đùa nhau, dùng vòi tung những nắm rạ bay lả tả khắp nơi, không để ý gì đến cặp gấu trắng nằm lim dim mắt trong một hang động xây rất khéo. Vườn thú Anh quốc đã bắt chước đầu tiên và sau này các sở thú khác trên thế giới hầu hết đã xây cất lại, rập đúng khuôn mẫu của vườn thú Hamburg. * Mục đích của sở thú Sở thú được thiết lập nhắm vào một số mục tiêu. Mục tiêu chính yếu là đại đa số quần chúng vốn rất quan tâm và tò mò muốn biết về thế giới thú vật. Thứ hai là các nhà khoa học nhờ vào sở thú để nghiên cứu về các động vật đang sinh sống trên trái đất. Họ quan sát để tìm hiểu cách hoạt động, sự ăn uống của chúng như thế nào, sự khôn lớn của chúng ra sao, cùng sự chung đồng và khác biệt của chúng với loài người. Đối với các nhà động vật học, sở thú là một loại trường học, để họ học hỏi, theo dõi dễ dàng, mà ngoài thiên nhiên họ không thể thực hiện được. Giả dụ như đời sống của một con thú dữ, ngoài thiên nhiên nó không bao giờ sống được qua tuổi già, vì theo luật rừng, “Mạnh được yếu thua”, lúc nó yếu, chính nó đã bị con khác ăn thịt rồi. Nơi sở thú, được bảo vệ, nó có thể sống được qua tuổi già. Gần đây nhiều con thú ở ngoài thiên nhiên bị đe dọa diệt chủng, thì sở thú là nơi người ta dồn những con sống sót vào, để bảo vệ, để dinh dưỡng, để cho chúng phát triển trở lại, lúc nào hết hiểm họa lại cho chúng trở lại thiên nhiên. Đối với trẻ em, sở thú đem lại nhiều lợi ích vì các thú vật rất hấp dẫn các em. Người ta đã thấy, đối với các em nhỏ sự tiếp xúc và hiểu biết từ hồi còn thật bé rất có ảnh hưởng đến đời sống của chúng sau này. Do vậy, vì sao các cơ quan phụ trách về sở thú thường hay gửi về trường những bài đọc về thú vật, những hình ảnh, những phim chiếu và ngay cả những con thú đã được dạy dỗ thuần thục. Như vậy khi các em có dịp đi viếng thăm sở thú, hoặc đi theo nhà trường, hoặc theo bố mẹ, các em thấy nhiều quen thuộc và thu lượm được nhiều lợi ích. Sở thú còn tạo dịp cho các em tiếp xúc hẳn với thú vật, như cho các em cưỡi, hoặc kéo xe bởi những con ngựa nhỏ, con đà mã (llama), một loại thú giống như lạc đà nhưng nhỏ bằng con bò con, con lạc đà. hay ngay cả bằng con voi. Sở thú còn là nơi dành để huấn luyện trẻ nhỏ. Người ta nhận xét một số người đến lúc lớn mà vẫn sợ từ con chó nhỏ, đến con mèo nhỏ. Tìm hiểu nguyên do, thì phần lớn những người này hồi còn bé đã sống trong những khu chung cư, không được phép nuôi súc vật. Những kinh nghiệm, học hỏi từ khi còn thơ ấu, rất là quí báu. Do vậy nhiều nước đã nghĩ đến trẻ em và đã thiết lập những loại sở thú dành riêng cho trẻ con. Vào đây trẻ con được chơi đùa trong những gian nhà lớn rộng, thiết trí như những trang trại. Các em có thể tiếp xúc với những con đà mã, con dê, con cừu và các con bê. Nước Anh đã thiết lập đầu tiên tại Luân Đôn, một sở thú dành cho trẻ em từ trước hồi thế chiến thứ nhì. Hoa Kỳ cũng mở vào năm 1938 tại Philadelphia một sở thú lấy tên là Baby Pet Zoo. Để tóm lại, hiện nay trên thế giới có khoảng 1.000 sở thú trong 100 quốc gia. Mỗi một sở thú có một đặc điểm riêng, có cái thật lớn có thể chứa tới 7.000 loại thú vật, có nơi có đủ loại các thú vật lạ trên thế giới, lại có sở thú chỉ nuôi những giống thú có trong quốc gia mình. Một sở thú đặc biệt là vườn thú ở Jerusalem, gọi là Biblical Zoo, chỉ chưng ra những con thú được đề cập đến trong Kinh Thánh.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:42:28 GMT 9
Nàng chỉ đẻ khi bên tai nghe tiếng thủ thỉ của chàng(VienDongDaily.Com - 04/10/2010) Hồ Sĩ Viêm/ Viễn Đông Nhiều loại vẹt lớn nhỏ và mầu sắc khác nhau, nhưng đặc điểm chung của chúng ai nhìn cũng biết ngay – ảnh: Peter Békési/Wiki. Người Việt Nam Quốc gia thường gọi những cán bộ Việt cộng là Vẹm. Cái tên này gom trọn hai chữ V-M là Việt Minh ghép vào giữa chữ Ẹ tức là con VẸT. Ám chỉ cán bộ Việt cộng nói như con vẹt, nói luôn mồm đến khó chịu và nói mà không hiểu câu mình nói, chỉ lập lại những lời học lóm được của người khác. Có rất nhiều mẩu chuyện khôi hài do các cán ngố Việt cộng đã lầm lỗi vấp phải làm cho người quốc gia vừa cười vừa khinh bỉ. Một thí dụ điển hình: năm 1975 khi xâm chiếm được miền Nam, cán bộ Việt Cộng được nước lên tiếng dậy đời. Để chỉ cho đồng bào giữ vệ sinh khu mình ở, cán bộ Việt Cộng đã đọc loa vang vang khắp Chung Cư Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn, Quận Ba, khuyên đồng bào mỗi nhà phải đào một cái lỗ trước cửa để đổ rác cho khỏi ruồi muỗi. Phương pháp giữ vệ sinh này thực hiện trong rừng già thì đúng, nhưng thực hiện ở thành thị, ngay chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tòa nhà 3 từng lầu, thì sai, vì sàn đúc bằng bê tông sao mà đào được. Dù có đào thủng thì lầu trên đổ xuống lầu dưới thì đâu còn vệ sinh nữa. Nhiều người phê bình Việt Cộng nói Dai, nói Dài, nói Dốt... thật đúng quá. Tuy nhiên nếu so sánh Vẹt với Việt Cộng thì tội nghiệp cho vẹt quá, vì vẹt có nhiều đức tính mà Việt Cộng không có. Thí dụ Vẹt yêu đồng loại, yêu gia đình, vợ chồng chung thủy, yêu con thắm thiết và chịu hy sinh tất cả cho con và hơn hết vẹt có bộ cánh màu sắc lộng lẫy, tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên thêm phần đẹp đẽ, rực rỡ. Để tìm hiểu thêm, chúng tôi xin cống hiến quí bạn đọc một số tài liệu trong thế giới của loài vẹt.Vẹt có cả thẩy 315 giống trên khắp thế giới, phần lớn ở vùng nhiệt đới và những miền ấm áp. Chúng có giống nhỏ nhất độ 3 inch chiều dài, cho đến loại thật lớn cỡ 3 bộ (36 inch). Tất cả đều có bộ lông thật đẹp, mầu sắc sáng tươi, lại có con điểm thêm cả bộ mào và lông đuôi dài duyên dáng. Đặc biệt là hầu hết giống vẹt đều có thể tập cho nói được tiếng người. Vẹt đều có hình dáng và cách sống hao hao giống nhau, nên mỗi khi chúng ta gặp một loại vẹt, dù mầu sắc và hình dáng lớn nhỏ khác nhau thế nào chăng nữa, chúng ta đều biết ngay đó là giống vẹt. Chỉ có tại New Zealand có hai loại vẹt đặc biệt. Một là giống Vẹt Cú, Owl parrot, có mặt giống con cú, không biết bay, nhưng lủi rất nhanh. Hai là loại vẹt Kea, to con, mỏ sắc hay rình bắt những cừu non, mổ banh ruột để ăn lớp mỡ bao bọc thận của cừu. Miền Đông Nam Á Châu cũng có giống vẹt đặt biệt đó là giống Hanging parrot, khi ngủ chúng trúc đầu xuống như con dơi. Chỉ trừ loại vẹt Kea ở New Zealand là ăn thịt, còn tất cả đều ăn hoa quả, trái cây, và các hột đậu để sinh sống. Vẹt thích sống hợp quần, nên có khi một bầy của chúng lên tới hơn một triệu con. Người dân tại Úc làm việc ở men rừng thường giật mình bởi những tiếng kêu xào xạt, koét koét, rồi một bầy chim, như một đám mây xanh, mù mịt bay qua, rợp cả bóng nắng của mặt trời. Đó là bầy két uyên ương (Budgetigar) thay vùng đi kiếm ăn. Đi đâu cũng bay thành đoàn. Chốc chốc, chúng dừng bay, xà xuống đậu trên một cây khô trụi lá. Cái cây bỗng dưng trở thành linh hoạt. Hàng ngàn con chim đậu xít nhau làm như những nụ hoa xanh mơn mởn, nhú lên từ thân cây khô cằn, lao xao như rung rinh trong gió. Những du khách may mắn thấy được cảnh này thì thấy nó đẹp vô ngần, chỉ phải nhớ giơ máy ảnh hay máy quay phim, để thu lại cái kỷ niệm khó quên này. Giống két uyên ương này dài khoảng 7 inch, thân màu xanh lá cỏ, đầu điểm mầu vàng sáng, có những nét vằn mầu đen chạy suôi theo đuôi mắt và chiếc đuôi dài nhọn mầu xanh lam. Người dân bản xứ thường gọi chúng là betcherrygah có nghĩa là “Thức ăn ngon” vì họ thường bắt chúng để ăn thịt. Giống vẹt này, người Anh đã đem về xứ họ để gây giống từ năm 1840 và đến nay đã sinh sản được khá nhiều. Mặt khác, cũng như nuôi cá vàng, chọn lựa thức ăn khác biệt cũng đưa lại kết quả là thay đổi được cả mầu sắc của giống vật muôi, vì vậy hiện nay giống vẹt Uyên Ương có những bộ lông, mầu sắc khác hẳn với giống chim rừng. Hơn nữa vì sống với người quá lâu, từ thế hệ này đến thế hệ khác, giống uyên ương này có thể tập nói tiếng người một cách dễ dàng. * Vấn đề sinh nở của giống vẹt Sở dĩ người ta đặt cho giống vẹt Úc châu là vẹt Uyên Ương vì bao giờ chúng cũng bay cặp đôi hai con, luôn luôn bên nhau. Cặp trống mái một khi đã thành vợ chồng là chúng không bao giờ xa nhau. Chúng gù gù những câu tâm tình như chim bồ câu. Giọng của chúng lúc đó âm sắc khác biệt như đang rủ rỉ nói với nhau những lời yêu đương nồng thắm. Trong mùa sinh nở, giọng thủ thỉ của chúng vẫn thế nhưng trâm trầm hơn và hầu như có sức mạnh khích thích đến sự tăng nở buồng trứng của con cái rất nhiều. Hồi đầu thí nghiệm, trong mùa sinh đẻ nguời ta để một cặp vẹt vào trong một lồng, con trống cũng đạp mái, nhưng con mái không bao giờ đẻ trứng. Người ta thất bại trong việc chăn nuôi để sản xuất. Sau đó, nghiên cứu lại chiếc tổ của vẹt rừng, người ta thấy hai vợ chồng vẹt thường đào ngang sâu vào thân cây khoảng 6 inch, với bề rộng 2 inch. Sau đó lại đào sâu thẳng xuống lòng thân cây khoảng 12 inch nữa. Nơi sâu đó ánh sáng chỉ lờ mờ nếu không nói là tối thui. Tại đó vẹt mái đẻ trứng và ấp. Biết được thêm như vậy, các nhà chăn nuôi đặt chim mái vào chỗ tối cho nó đẻ, nhưng vẫn không đạt được kết quả. Sau cùng người ta tìm được yếu tố quan trong để cho vẹt mái đẻ trứng, đó là tiếng thủ thỉ trầm trầm của vẹt trống. Quả vậy, khi con mái đẻ trứng con vẹt đực luôn luôn đứng bên cạnh tổ gù gù, như một giọng hát đặc biệt của loài vẹt. Giọng hát này khích động con mái tăng trưởng buồng trứng và làm cho sự sinh nở dễ dàng. Ngày nay với một cái hộp kín và một băng cassette thu lại tiếng gù gù nhạc điệu trầm của chim trống là người ta có thể gây được cả bầy vẹt nhỏ. Do đó nước Anh ngày nay sản xuất được khá nhiều vẹt, để bán cho mọi người nuôi làm thú vật trong nhà. Trẻ con rất thích chơi với vẹt và dậy vẹt nói. Tuy nhiên vẹt làm nhiều người thích, thì cũng làm nhiều người buồn. Năm 1992, Tòa án Oxford nước Anh vừa xử một vụ kiện về vẹt. Nguyên ông Paddy Williams có nuôi được một con vẹt từ 4 năm qua và ông đã dậy cho nó nói được tên người. Và... trong một lúc vui vui ông còn dậy cho nó nói được cả tên ông hàng xóm là Mark Leach 43 tuổi. Hồi đó lân bang láng giềng còn thù tạc đi lại chơi với nhau vui vẻ, thì tiếng vẹt sao mà dễ thương, dễ làm cho người cười thích thú. Nhưng rồi, việc đời đâu có êm đềm mãi thế, nên có lần, vì một duyên cớ riêng tư, hai nhà cãi cọ nhau kịch liệt và đi đến độ thề không thèm nhìn lại mặt nhau. Tuy nhiên, phần con vẹt thì đâu có thế, nó vẫn thản nhiên vô tư lự, vẫn nặng tình cảm mến ông Leach, nên cả ngày cứ tên ông Leach mà gọi, có cả đến 100 lần. Tiếng gọi oen oét của con vẹt văng vẳng từ bên kia hàng rào làm hai vợ chồng ông Leach bực bội thật sự. Giờ đây, tiếng con chim này sao đáng ghét đến thế, âm thanh nó chói tai, giọng nó gọi tên xách mé, nghe như đang chửi rủa. Nên một hôm đó, cầm lòng không được, hai vợ chồng ông Leach đạp đổ hàng rào xông sang nhà ông Williams, túm lấy cổ con vẹt và quật thật mạnh vào một cây cột, làm nó chết tươi không kịp ngấp ngoải, rẫy rụa. Chuyện này được đưa ra kiện tại Tòa và tòa án Oxford đã phạt ông Leach 1.015 Anh kim và bắt phải đền cho ông Williams 590 đồng. Ông Williams được tiền đền, lại đi mua con vẹt khác, nhưng chắc chắn ông không còn dậy nó gọi tên Leach nữa.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:48:02 GMT 9
Thằn lằn phi hành trên nước, bay trên cây và nuôi như gà(VienDongDaily.Com - 09/03/2010) Giống Basilisk nổi danh là hung thần, nhưng lại có thể chạy được trên mặt nước – ảnh: Marcel Burkhard/Wikipedia. Hồ Sĩ Viêm Miền quê Việt Nam có rất nhiều hồ ao và trẻ con có một thú vui là dùng những mảnh sành, ngói, gạch hoặc đá ném thia lia trên mặt nước. Ai ném được xa, viên ngói nhẩy được nhiều lần, là thắng cuộc. Vì trò chơi này, nhiều em đã mơ tưởng, sau này mình cũng sẽ có tài chạy bay trên mặt nước. Nhưng rồi, chẳng một ai thực hiện nổi. Chính Kim Dung, nhà văn nổi tiếng về viết chuyện kiếm hiệp, cũng đã từng tưởng tượng cho một nhân vật trong chuyện của mình phi hành trên mặt hồ. Nhưng... trên thực tế thì loài người không làm nổi. Ấy vậy mà có một giống thằn lằn lại có thể thực hiện được điều trên. Theo câu chuyện huyền thoại từ hồi xa xưa, có một giống thằn lằn, trông như một con ác quỉ. Nó ẩn hiện vô lường, thoắt thấy đó rồi chớp mắt lại biến mất. Nhưng nếu có ai vô tình nhìn thấy, thì người đó sẽ hộc máu và chết tức tưởi. Nó nổi danh là con vật có sức giết người ghê gớm nhất. Người ta truyền kể cho nhau nghe câu chuyện, loài này đẻ trứng to bằng quả trứng gà và sẽ do nhiều con cóc ấp. Nó có thân mình như rắn và đầu như đầu rồng có mào nổi gồ cao. Nó thở ra một thứ khí độc vô cùng và giết chết mọi loài thú muốn tiến đến gần. Tuy nhiên, sau này người ta biết những lời đồn trên, chỉ là tin đồn nhảm. Sự thực, con vật ghê rợn trên chỉ là con Basilisk, một giống kỳ đà có mào. Một con thằn lằn Iguana, một giống “Gà Cây”, đang được vuốt ve trong khu trại Iguana sáng lập bởi nhà khoa học Dagmar Werner, nay không còn hoạt động nữa – ảnh: Michael Smith/Iguana Park. Giống này chạy rất nhanh. Chúng có thể đạt tới tốc độ từ 15 đến 16 dặm một giờ, xét về tỷ lệ, nếu nó to bằng người thì tốc độ đó sẽ là 800 dặm giờ. Vì sự nhanh nhẹn trên, người ta tưởng tượng như thấy chúng xuất hiện, rồi lại biến mất. Đặc biệt chúng còn có thể chạy được trên mặt nước, xoẹt qua từ bờ này sang bờ kia một chiếc ao như bay. Sở dĩ giống Basilisk nổi được, vì tuy thân hình cộng cả đuôi, dài khoảng 3 bộ, nhưng rất nhẹ. Hơn nữa giữa các ngón chân lại có một lớp màng mỏng, nên khi chạy trên nước, chúng xòe ra, nên lại càng nổi. Khi chạy, chúng nâng cao thân mình, co hai cẳng trước lên, rồi lấy đuôi làm thăng bằng, mà chạy chỉ bằng hai chân sau. Giống này có thể chạy xa đến một phần tư dặm trên mặt nước. Nếu khi hết sức thì chúng tự cho chìm xuống, nhưng không sợ chết đuối, vì chúng bơi rất giỏi. * Thằn lằn bay từ cây này sang cây nọ Thằn lằn, kỳ nhông có tất cả 3.000 loại. Xưa kia có giống thuộc loài khủng long Pterosaurs có thể bay được, nhưng sau khi giống này bị tiêu diệt, thì không còn con nào bay được nữa, mà chỉ còn có loại lướt gió. Đó là giống Draco, mà thường có tên là “Rồng bay”. Người ta từng thấy chúng bay từ cây này sang cây nọ rất xa, xa có tới 50 bộ, tức bằng khoảng cách giữa hai cột điện. Tuy nhiên không phải chúng bay, mà chúng chỉ lướt gió. Cánh của chúng chỉ là một lớp màng mỏng, chăng giữa từ 5 đến 6 cặp xương dính vào bên hông. Muốn bay, chúng phải leo lên đỉnh một cây cao, phóng mình ra không khí, rồi giương đôi cánh cho bọc gió, bay tít ra xa. Giống này sinh sống tại miền Trung châu Mỹ và miền Nam châu Á. * Hiền như bụt nhưng trông dữ như hung thần Theo các nhà khoa học, xưa kia Úc châu dính liền với Phi châu, Nam Mỹ châu và cả Ấn Độ. Nhưng từ triệu năm trước đã tách lìa và đứng riêng biệt thành một châu. Do vậy mà ngày nay lục địa đó còn giữ được nhiều giống thú thật đặc biệt, trong đó có con “Thằn lằn vành khăn”. Giống thằn lằn này dài khoảng 3 bộ, bình thường trông thật hiền lành, lặng lẽ bắt sâu bọ để sinh sống. Nhưng bất chợt một con thú nào tấn công, tức khắc nó chồm dựng hai chân trước lên, đấu ngước cao, đôi mắt sắng quắc giận dữ nhìn thẳng vào kẻ địch. Rồi lớp màng da quấn chung quanh cổ, bình thường chúng cụp xuống, nay đều giương lên tất cả, trông con vật to lớn hơn gấp bội. Lớp khăn này thật nhiều mầu sắc pha trộn giữa vàng, tím và xanh thép, nên thành một mầu kỳ dị trông dữ dằn. Phần lớn kẻ địch thấy thế đều khiếp sợ, tự động rút lui. Chờ cho đi xa, con thằn lằn vành khăn mới sụp màng cổ xuống và sinh hoạt bình thường. Còn nếu kẻ thù quá hung dữ và tiếp tục tấn công, thì con thằn lằn vành khăn cố dọa cho đến phút cuối cùng, rồi đành chịu chết, vì nó không có một phương tiện nào để chống trả địch. * Quái thú nọc độc Gila Người ta có nói nhiều đến con quái thú thằn lằn Gila, vì tính chất hung dữ vì quái dị của chúng. Nhưng một điều đặc biệt nhất là chúng là loài thằn lằn độc nhất có nọc độc. Giống này không lớn lắm, chỉ dài nhất có 2 bộ, trông cục mịch, xấu xí, đuôi ngắn và trông ngu đần. Da của chúng không bao bọc bởi vẩy như các loại thằn lằn khác mà trơn tru, mầu đỏ cam có điểm những vạch đen cùng khắp. Có người từng chứng kiến một cuộc chiến sống còn của con Gila với một con rắn lớn. Con rắn tung mình quấn tròn lấy con Gila, định dùng sức mạnh để bóp nghẹt. Con Gila kháng cự bằng cách há đôi hàm thật mạnh cắn chặt một khoanh thân mình rắn. Nọc độc của Gila tỏa theo nước miếng trôi vào vết thương của con rắn. Cuối cùng con rắn bị ngấm độc, thở khó khăn, đành thả lỏng thân mình cho con Gila thoát thân và chính nó sau một thời gian ngắn nữa bị nọc độc ngấm vào tim, đành ruỗi thẳng người mà chết. Giống Gila này thích sống đơn độc, bình thường rất chậm chạp. Nó thường nằm hàng giờ phơi nắng không hề động đậy. Nó không hay tấn công người, trừ phi bị khích thích bởi một sự việc gì. Con cái đẻ trứng mỗi lần từ 5 đến 13 quả. Như phần lớn loài thằn lằn, chúng không có tình mẫu tử, nên chỉ đẻ trứng rồi vùi xuống cát, mặc cho áng nắng mặt trời ấp ủ cho đến lúc nở con. Loại Gila này chỉ thấy xuất hiện về mạn sa mạc phía Tây Nam Hoa Kỳ và phần lớn là ở Arizona. * Thằn lằn sót lại cuối cùng của giống khủng long Về loài bò sát, các nhà bác học đã tìm tòi trong các di tích hóa thạch có đến 16 loại khác nhau. Nhưng ngày này chỉ còn có 5 loại là còn sống sót, đó là loại thằn lằn có 3.000 giống. loại rắn có 2.700 giống, loại rùa có 200 giống, loại cá sấu có 23 giống và loại Tuatara chỉ còn một giống độc nhất, sống chỉ trên một vài hòn đảo nhỏ ở Tân Tây Lan (New Zealand). Thằn lằn Tuatara là giống khủng long còn sót lại đến ngày nay – ảnh: Phillip C./flickr. Loại này, các khoa học gia đặt tên là Tuatara với tên khoa học là Sphenodon, tuy hình thù giống loại thằn lằn, nhưng đặc tính lại giống những con khủng long đã tuyệt chủng. Vậy nó chính là loại khủng long còn sót lại. Người ta đã tìm thấy hình thù và xương cốt hóa thạch của chúng có từng 200 triệu năm về trước, tức trước cả thời đại khủng long chỉ có từ 75 triệu năm. Các nhà bác học còn chưa hiểu tại sao loại Tuatara còn sống sót được đến ngày nay, trong khi các giống khủng long khác đều chết hết. Giống Tuatara sống rất chậm chạp. Cái tuổi dậy thì và động đực của chúng phải chờ ít nhất là 20 năm. Điều này thật đặc biệt đối với các loài thú vật ngày nay. Người ta đã thấy con đực sống đến trên 100 năm. Con cái mang trứng đến gần một năm mới đẻ và phải ấp đến 15 tháng trứng mới nở. Các nhà bác học rất quí loại Tuatara, vì hy vọng tìm tòi nơi con vật có từ 200 triệu năm trước này, nguyên nhân gì mà nó còn sống sót đến ngày nay, hầu áp dụng cho con người, để nhân loại trường tồn mãi mãi, dù sóng gió thời gian gay gắt, hay dù thiên nhiên biến đổi kinh hoàng. * Loại thằn lằn Iguana được coi là giống gà cây Nếu chưa quen, bạn trông thấy chúng sẽ khiếp sợ vì nó xanh lè mầu lá cây, da như có vẩy bao phủ kín, suốt dọc lưng gai lại mọc dài thẳng suốt và dưới cổ những làn da gấp nếp thành từng chùm rơi thỏng như cổ gà tây. Trông đã ghê sợ như vậy, thì đố bạn dám ăn. Thế nhưng bạn có biết, dân thuộc các nước ở miền Trung và Nam Mỹ châu rất thích ăn thịt giống này. Họ nói, chúng có một hương vị đặc biệt, gần giống như gà, mà lại còn thơm ngon hơn. Họ đã săn bắn và ăn thịt giống này có cả hơn ngàn năm rồi. Họ đã gọi giống thằn lằn này là “Gà Cây”. Iguana xanh – ảnh: Fred Hsu. Không như các giống thằn lằn khác, giống Iguana này chỉ ăn lá cây. Tuy nhiên ngày nay vì bị săn bắt nhiều quá, nên giống này đã dần dần khan hiếm. Một lý do nữa là các thành phố và các nông trại càng phát triển, người ta phải đốn cây, phá rừng và như vậy cắt luôn cả thứ cây đã nuôi sống Iguana. Như tại riêng nước Panama, gần một nửa rừng già nơi sinh sống của Iguana đã bị phát quang chỉ trong vòng có 40 năm trời. Người ta đã thấy, nếu không có một giải pháp mới nữa, giống Iguana, một thứ lương thực quí của miền Nam Mỹ sẽ biến mất hẳn trên trái địa cầu. Cũng do đó mà giới khoa học đã nghĩ đến vấn đề này. Một nhà vạn vật học tên là Dagmar Werner đã cố nghiên cứu nuôi giống này để phổ biến cho dân chúng miền Nam Mỹ. Bà đã thiết lập một trang trại bình dân, rẻ tiền, gọi là campesinos, để nuôi Iguana, lớn một chút lại thả ra, rồi khi chúng lớn ăn thịt được thì bắt lại. Giống này rất lớn, khi trưởng thành nó dài tới 7 bộ, bao gồm cả chiếc đuôi dài và mỏng, cùng cân nặng tới 30 pound. Người ta thường tìm thấy giống này ở các khu rừng già từ miền Nam Mexico cho tới Ba Tây và Paraguay. Các nhà khoa học nghiên cứu giống Iguana sống ở vùng biển tại dãy đảo Galapagos từ năm 1983 và thấy giống này đẻ trứng và vùi xuống cát dọc theo những hồ, ao, hoặc dòng suối. Họ còn thấy, khi mới nở, giống Iguana đã sống bên nhau trong nhiều tháng trời. Được sự hiểu biết trên, bà Werner quyết tâm tự nuôi lấy Iguana. Đầu tiên bà phải tìm trứng của chúng. Nhận thấy Iguana đẻ trứng trong đường hầm rất khó thu nhặt, nên bà tự tạo cho chúng những đường hầm riêng. Quả nhiên Iguana đã dùng đến các đường hầm này. Bà đã thu nhặt được trứng một cách dễ dàng. Bà tự ấp lấy trứng trong những thùng bằng plastic và tạo những điều kiện cho Iguana sinh sống, ẩn nấp và kiếm ăn. Ở ngoài thiên nhiên, Iguana con thường bị các giống thú như racoon, rắn và vài loại thú khác bắt ăn thịt, nên hao hụt rất nhiều. Còn đây nuôi trong trang trại, nên số lượng giữ được thật hoàn toàn. Sự thành công đầu của bà là đã nuôi được một lúc 8 ngàn con Iguana ở Panama và hàng ngàn con ở Costa Rica. Bà Werner cũng đã hướng dẫn dân chúng nuôi Iguana ngay tại sau vườn, bằng một phương pháp không tốn kém nhất. Về đồ ăn để nuôi chúng, giá tiền không quá 3 Mỹ kim cho một con. Do vậy khi Iguana lớn, sẽ là số lương thực quí cho gia đình, hoặc nếu thừa thải thì sẽ đem bán ra thị trường cũng sẽ kiếm được mối lợi lớn. Cũng do vậy mà dân chúng nhiều nơi tại Nam Mỹ đã gọi bà Dagmar Werner bằng Iguana Mama, tức là “Bà Mẹ Iguana”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 16, 2019 0:20:59 GMT 9
BẠN BIẾT GÌ VỀ CON NGỖNG? Thật thú vị, không phải ai cũng biết ( kể cả google ) 1. Ngỗng là loài ăn chay, thích nhất ăn cỏ và lúa, hoặc cơm trắng, chỉ vậy thôi. Nếu trong thố ăn của ngỗng, bạn bỏ ít tôm cá vào, ngỗng sẽ không bao giờ đụng đến cái thau đó nữa, dù là sau đó không có tôm cá - Hoặc bạn cố tình chỉ cho ăn tôm cá hay thịt, ngỗng thà nhịn đói cả tháng rồi chết chứ không ăn. - Hoặc bạn cố tình nhét thịt cá vào miệng, ngỗng sẽ ói ra DẪN ĐẾN: 2. NGỖNG CÓ TÁNH LINH RẤT CAO, nên dùng để giữ nhà, ngăn vong này nọ - chó thấy người bên ngoài cổng nhà là sủa, ngỗng thì khi nào người lạ vào đất/ nhà của bạn, ngỗng mới kêu to, khi nghe tiếng càng dồn dập và mạnh mẽ, chắc chắn có biến - mảnh đất vong nhiều, Thầy trừ chưa kịp, ngỗng ở 3 ngày trở lên là hết - chó không biết có bão, ngỗng nghe ngóng thời tiết biến chuyển rất tốt - trứng ngỗng được con mái ấp, con trống canh, ngoài chủ ra, ai cũng sẽ bị tấn công nếu đe doạ việc ấp trứng. Và trứng nếu đụng tay vào, sẽ bị thối. Nên dùng cái chén múc lên để lại bên trong nếu trứng bị lăn ra ngoài ổ - người chủ mới có toàn quyền với ngỗng, người lạ luôn bị ngỗng tấn công, đôi cánh ngỗng quạt mạnh có thể gãy tay - ngỗng rất chung tình, nếu một con chết đi, con kia thờ phụng trọn đời - Nếu muốn bán ngỗng con, dẫn người vô coi bắt ngay. Chứ để mai bắt là đêm đó ngỗng mẹ mổ cho chết hết đàn con, nhất quyết không cho con về tay người khác. 3. NGỖNG NHIỀU LỢI ÍCH MÀ NHÀ VƯỜN/ NHÀ RỘNG NÊN CÓ: - nghe tiếng ngỗng kêu, rắn và chuột lánh xa ít nhất vài trăm mét. - phân ngỗng bạn cứ rắc quanh vườn, quanh nhà, sẽ đuổi được rắn, kể cả rắn hổ đất, độc nhất, đang bò, gần đến nơi có chút xíu phân ngỗng, sẽ co mình chuyển hướng *** tuy nhiên, ngỗng ăn cỏ cây rất nhiều và sẽ xử hết vườn cây cỏ nhà bạn, nên nếu nhà đang có vườn cỏ đẹp, muốn nuôi ngỗng nên quây lưới lại một khoảnh vừa cho ngỗng ở và bơi lội dưới ao, tắm rửa - bà bầu ăn trứng ngỗng, nên ăn lạt và không chấm bất cứ món gì, kể cả muối, dĩ nhiên kỵ nước mắm - nếu ngỗng rụng cái lông, đem vào rửa sạch phơi khô gối đầu nằm, rất tốt cho một giấc ngủ yên về tâm linh lông ngỗng nướng lên cùng viên than hồng, rồi tán nhuyễn ra, trị viêm tai giữa rất hay, tiệt sạch ( riêng vụ này em đã có viết bài riêng về một chị bạn quen của em, trị dứt căn bệnh khó chữa dai dẳng gây đau đớn khổ sở cho chỉ ) Nguyễn Thị Thanh Nhàn **************************************************** vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%97ng_nh%C3%A0Đại cươngNgỗng nhà hay ngỗng nuôi (Danh pháp khoa học: Anser anser domesticus hay Anser cygnoides) là những con ngỗng được thuần hóa và chăn nuôi như một loại gia cầm để lấy thịt, trứng và lông ngoài ra người ta còn nuôi chúng để giữ nhà, canh gác khá hiệu quả. Chúng đã được thuần hóa ở châu Âu, Bắc Phi và châu Á. Ngỗng nhà châu Âu được thuần hóa từ ngỗng xám và ngỗng nhà châu Á cùng một vài giống ngỗng nhà châu Phi có nguồn gốc từ ngỗng thiên nga. Ngỗng nhà là loại gia cầm dễ nuôi, hay ăn, chóng lớn, ít mắc bệnh. Nuôi ngỗng có nhiều thuận lợi với đặc thù của ngỗng là có thể sử dụng rất hiệu quả thức ăn xanh và các loại phụ phẩm nông nhiệp. Con ngỗng được ví như một cỗ máy xén cỏ, khả năng vặt cỏ của ngỗng tốt hơn bò, ngỗng có thể vặt tận gốc cây cỏ, cả phần củ rễ, ngỗng ăn tạp các loại cỏ và không chê cỏ non, cỏ già, cỏ dại từ cỏ tranh đến lục bình ngỗng đều ăn được. Ngỗng chỉ ăn cỏ, ăn rau là chính, ít dùng lương thực. Nuôi trong 4-8 tháng ngỗng đã cho thu hoạch 4–7 kg. Có nhiều giống ngỗng cao sản như ngỗng trắng, ngỗng xám vằn, loại chân thấp, chân cao. Ngỗng là loại gia cầm có khả năng tăng trọng rất nhanh, chỉ sau 10 - 11 tuần nuôi, khối lượng cơ thể đã tăng gấp 40 - 45 lần so với khối lượng cơ thể lúc mới nở.[1] Sau khi nuôi 3-4 tháng, ngỗng choai lớn lên thường đạt trọng lượng 4- 4,5 kg, những giống ngỗng ngoại nhập có thể cao hơn, đạt 4,5– 5 kg. Nếu ngỗng được nuôi dưỡng chăm sóc tốt ngay từ đầu thì thời gian có thể rút ngắn không tới 3-4 tháng nuôi. Ở Pháp, ngỗng được nuôi để lấy gan để làm nguyên liệu cho món gan ngỗng béo, Ngỗng được nuôi bằng cách bị buộc nhồi nhét ăn uống hạt bắp khô quá mức để có bộ gan to. Gan ngỗng béo được chế biến thành món gan xay. Các tổ chức bảo vệ quyền động vật xem việc sản xuất món gan này là tàn nhẫn do cách thức buộc vịt, ngỗng ăn và ảnh hưởng xấu lên sức khỏe vịt, ngỗng do có bộ gan to quá cỡ. Chọn giốngChọn ngỗng cái có sức sinh sản tốt như lỗ huyệt ướt, xương chậu nở, có biểu hiện thích đi chung cùng ngỗng trống Giống ngỗng đã được chọn ở giai đoạn hậu bị, cần tiến hành chọn lọc lần cuối trước khi vào đẻ. Giữ lại những con giống đạt yêu cấu để chọn nuôi và nhân giống thì con mái phải khoẻ mạnh, dáng thanh, đạt khối lượng 3,6 - 3,8 kg, lỗ huyệt ướt, xương chậu nở, có biểu hiện thích đi chung cùng ngỗng trống, còn con trống phải khoẻ mạnh, dáng hùng dũng, đạt khối lượng 4 - 4,5 kg, gai giao cấu phát triển rõ ràng. Một số giốngMột số giống ngỗng cao sản, cho năng suất thịt, trứng cao gồm: Ngỗng Reinland (phát âm như là ngỗng Rên Lan) là loại ngỗng nhà có nguồn gốc từ vùng Reinland của Đức. Ngỗng có lông màu trắng tuyền. Ngỗng Hunggary: Được hình thành từ giống ngỗng địa phương với giống ngỗng sư tử Trung Quốc. Đời con cho màu lông xám và lông trắng. Người ta còn dùng giống ngỗng này để sản xuất gan. Ngỗng cỏ hay ngỗng sen phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Ngỗng cỏ được nuôi nhiều ở vùng đồng bằng và trung du. Ngỗng có hai loại hình chính là loại hình lông trắng và lông xám. Ngoài ra còn có ngỗng loang xám trắng do sự pha tạp. Ngỗng cỏ chịu kham khổ tốt và có khả năng kháng bệnh cao. Ngỗng xám là con lai giữa ngỗng cỏ/ngỗng sen với các giống ngỗng khác như ngỗng sư tử Trung Quốc, ngỗng Rheinland. Có ba loại màu: lông màu xám có loang trắng từ cổ tới bụng, chân, mỏ màu xám, lông xám hoàn toàn, mỏ có đốm trắng, ống chân vàng, bàn chân xám; lông xám có loang trắng, da chân màu vàng hoặc xám. Ngỗng Trung Quốc là giống ngỗng bắt nguồn từ Bắc Trung Quốc và Xiberi. Ngỗng có tầm vóc to trông dữ tợn, có lông xám, đầu to mỏ đen thẫm, mào đen. Mắt nhỏ và có màu nâu xám. Phần trên cổ có yếm da, thân mình dài vừa phải, ngực dài nhưng hẹp, xương to nhưng thịt màu hơi trắng. Chế độ ănNgỗng là loại gia cầm khá phàm ăn, các loại thức ăn được sử dụng trong chăn nuôi ngỗng gồm thức ăn xanh như rau, bèo, cỏ, củ, quả. Thắc ăn hạt như ngô, thóc, đậu tương, lạc củ, thức ăn bổ sung khoáng chất. Ngỗng sử dụng tốt và rất hiệu quả thức ăn xanh như lá rau, các loại bèo, các loại cỏ. Trong nuôi ngỗng thức ăn xanh chiếm 30 - 40% lượng thức ăn cung cấp hằng ngày. Ngoài ra trong thức ăn xanh còn có một số loại củ như khoai lang, sắn củ bỏ vỏ và bí đỏ. Thức ăn hạt gồm có ngô được sử dụng nhiều trong giai đoạn vỗ béo. Thóc là một phần lương thực được sử dụng trong chăn nuôi ngỗng, hạt đậu tương, lạc hay đậu phộng ngỗng sử dụng tốt các củ lạc cả vỏ sót và rơi vãi trên ruộng sau thu hoạch. Cám gạo có thể nấu chín hoặc trộn lẫn với rau xanh. Bệnh tậtKhi nuôi ngỗng với số lượng lớn, có thể ngỗng sẽ mắc phải một số chứng bệnh là thiệt hại đến đàn ngỗng và ngành chăn nuôi, gồm: Bệnh tụ huyết trùng hay còn gọi là hoại hụyết ngỗng, do vi khuẩn Pasteurellosis gây ra. Ngỗng rất mẫn cảm với bệnh này. Bệnh phó thương hàn với đặc trưng là ỉa chảy, viêm kết mạc và gầy sút. Khi ngỗng bị quá mệt do vận chuyển, chuồng trại chật chội, độ ẩm cao, bẩn, thiếu nước uống, sự biến đổi nhiệt lớn sẽ phát bệnh. Bệnh cắn lông, rỉa lông thường xảy ra ở các đàn ngỗng nuôi nhốt chật trội, không có sân vận động, chuồng trại ẩm ướt, thiếu ánh sáng. Do nhốt chung con lớn bé, hoặc do đưa các con mới về chuồng. Tham khảoBuckland, R., & Guy, G. (2002). Goose Production. Chapter 1: Origins and Breeds of Domestic Geese. FAO Agriculture Department. Hugo, S. (undated). Geese: the underestimated species. FAO Agriculture Department. Del Hoyo, J., Elliott, A., & Sargatal, J., eds. Handbook of Birds of the World Vol. 1: 581. Lynx Edicions, Barcelona. ISBN 84-ngày 85 tháng 10 năm 7334 Article "Geese" in Cyclopedia of American Agriculture, Volume III, Animals (1907)
|
|