|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2012 2:43:40 GMT 9
Thein Sein và một Miến Ðiện mới
Cuộc bầu cử dân chủ thành công đầu tiên ở Miến Ðiện vào đầu tháng 4 năm 2012 vang đi khắp thế giới. Niềm hy vọng của thế giới đã thể hiện qua buổi họp thượng đỉnh kinh tế thế giới G8, Miến Ðiện là quốc gia duy nhất được ca ngợi với nỗ lực cải tổ dân chủ của Tổng Thống Thein Sein và bà Aung San Suu Kyi lãnh tụ đảng đối lập.
Con đường dân chủ của Miến Ðiện bỗng nhiên ngời sáng, chỉ trong vòng mấy tháng Miến Ðiện đã cho thế giới thấy đặc tính dân chủ đa đảng ưu việt khác hẳn các cuộc cách mạng đẫm máu ở Syria, Trung Ðông, Bắc Hàn và các nước cộng sản còn sót lại.
Miến Ðiện với tân Tổng Thống Thein Sein từ hồi tháng 3 năm 2011 và tân thủ đô Naypyidaw có một bộ mặt mới nhờ bà Aung San Suu Kyi một lãnh tụ đối lập đấu tranh không mỏi mệt trong 24 năm qua. Các lãnh tụ thế giới không biết rõ Tổng Thống Thein Sein nhưng họ đã đặt hết niềm tin vào bà Suu Kyi, chính sách chống chính quyền của bà trở thành chính sách ngoại giao của Anh và Hoa kỳ đối với Miến Ðiện. Tháng 11 năm 2011 trước khi bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton viếng thăm Miến Ðiện, Tổng Thống Barack Obama đã gọi điện thoại để được sự chấp thuận của bà về chính sách ngưng cấm vận của Hoa Kỳ. Thủ Tướng David Cameron cũng đã gọi bà trước khi Ngoại Trưởng Anh William Hague qua Miến Ðiện. Ông Hague sau buổi họp với Tổng Thống Thein Sein đã nghĩ tân tổng thống của chính quyền quân phiệt Miến Ðiện thành tâm cải tổ vì bà Suu Kyi đã cho ông Hague biết bà đã nghĩ như vậy.
Ðảng Dân Chủ của bà Aung San Suu Kyi thắng lớn với bà là một trong 41 tân đại biểu (tổng số 44) một phần cũng nhờ sự uyển chuyển của chính đảng Dân Chủ, đảng đã thay đổi chính sách đảng trong 22 năm qua, công nhận hiến pháp mới của Miến Ðiện và Quốc Hội cũng như tham gia bầu cử với ứng cử viên Suu Kyi, và cũng nhờ vậy mà kết quả bầu cử năm 2012 không bị chính quyền quân phiệt xóa bỏ như năm 1990.
Những sự thay đổi bất ngờ ở Miến Ðiện bắt đầu từ tháng 7 năm 2011 sau khi bà Suu Kyi gặp ông Bộ Trưởng Aung Kyi, cho đến nay cả hai đều không cho biết rõ chi tiết buổi họp. Tháng 8, bà Suu Kyi xuất hiện trước đám đông ở Rangoon không bị bọn côn đồ của chính quyền đánh phá như năm 2003 (hơn 2,000 côn đồ tấn công đoàn xe của bà ở Depayin, âm mưu ám sát bà, giết hơn 70 người trong đoàn, bà sống sót nhờ anh tài xế cứu). Vài ngày sau bà gặp Tổng Thống Thein Sein ở tân thủ đô dẫn đến nhiều thay đổi, báo chí không còn bị kiểm duyệt chặt chẽ, tin tức của đài VOA và BBC không bị chính quyền xem là tin tức láo của bọn phản động, mạng lưới thông tin không bị chận. Chính quyền Miến Ðiện còn lập ủy ban nhân quyền, Quốc Hội cho phép thành lập nghiệp đoàn lao động và được quyền biểu tình. Bất ngờ nhất là chính quyền Miến Ðiện trở mặt với Trung Cộng, ngưng chương trình xây đập nước Myitsone ở Ðông Bắc Miến Ðiện. Tháng 10 năm 2011, thêm 100 tù nhân chính trị được thả , sau đợt 651 người vào tháng 1 năm 2011 Hiệp định đình chiến được ký giữa quân đội quốc gia Tatmadaw và quân đội kháng chiến nhân dân Karen lần đầu tiên trong 65 năm chiến tranh. Người ta vẫn không hiểu tại sao ông Thein Sein một ngày bỗng nhiên trở thành một Gorbachev của Á Châu. Những người thân cận của ông đã nghĩ là trận bão khủng khiếp Nargis vào ngày 5 tháng 5 năm 2008 giết 140,000 dân Miến Ðiện khi ông mới lên thủ tướng một năm đã cho thấy sự bất lực của các chính quyền độc tài trước thiên tai, cũng như ảnh hưởng của ông bố, một tu sĩ Phật giáo, đã làm ông thay đổi.
Lady Aung San Suu Kyi
Giống như bất cứ cuộc cách mạng nào đã thành công trong quá khứ, phải có sự hợp tác uyển chuyển giữa hai địch thủ. Qua sự thành công của cuộc bầu cử tháng 4 năm 2012, bà Aung San Suu Kyi đã cho thấy bà là một tấm gương cho các nhà đấu tranh dân chủ bất bạo động. Con người mảnh mai, đẹp, văn hóa cao, nói tiếng Anh giỏi, linh hoạt, thông minh, lúc nào cũng có hoa gài trên mái tóc, ăn mặc quốc phục phụ nữ Miến Ðiện, gương mặt trở nên thân thuộc chẳng những trong nước mà cả thế giới, mặc dù họ không đọc được tên phiên âm của bà cũng như không rõ xứ Miến Ðiện ở đâu trên bản đồ thế giới. Bà Aung San Suu Kyi giữ được tinh thần kẻ sĩ Á Ðông “uy vũ bất năng khuất”. So với các lãnh tụ đấu tranh bất bạo động khác bà có phần hơn. Ông Nelson Madela trong thời kỳ đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc của chính quyền Nam Phi đã chấp nhận vũ trang gây đổ máu trong khi bà Suu Kyi cương quyết chống cách mạng vũ trang trong vòng 22 năm qua. Khác với Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, bà Suu Kyi đã chấp nhận, không trốn tránh tù đày bắt bớ và chịu xét xử ở tòa án để cả thế giới thấy rõ bộ mặt chính quyền khủng bố độc tài thay vì sống lưu vong.
Máu đấu tranh có sẵn trong người bà Suu Kyi. Ông Tướng Aung San cha của bà được xem như là cha đẻ của Miến Ðiện, là một người có tài, tham gia phong trào sinh viên tranh đấu chống Nhật, chống Phát Xít, đồng minh với Anh, thương thuyết dành độc lập cho Miến Ðiện, ông bị ám sát khi bà mới 2 tuổi vào năm 1947.
Bà Khin Kyi mẹ bà Suu Kyi là một người đàn bà sống kỷ luật nghiêm nghị với con, thành lập đoàn thanh nữ Miến Ðiện, theo học trường Anh trong thời kỳ sáng sủa của Miến Ðiện sau thế chiến thứ hai ở Rangoon. Thời kỳ đó tương tự như ở miền Nam Việt Nam, phát triển kinh tế và tự do và cũng như Việt Nam Cộng Hòa, thập niên 1960 Miến Ðiện đã thay đổi vì đảo chính của Tướng Ne Win (phụ tá của ông Aung San). Chính quyền quân phiệt chủ trương quốc hữu hóa, kiểm duyệt báo chí, đuổi người ngoại quốc về nước, bắn giết đàn áp sinh viên biểu tình, “xã hội chủ nghĩa với đặc tính Miến Ðiện” được thành lập đi giống con đường xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Quốc! Vì thời thế, đại sứ đàn bà đầu tiên của Miến Ðiện Khin Kyi đã sống lưu vong ở Anh, nhờ vậy bà Aung San Suu Kyi có cơ hội gặp ông Nerhu, học thơ Tagore và gặp để học được tinh thần bất bạo động của thánh Gandhi trong thời kỳ bà học tại Oxford năm 1964.
Khi học ở Oxford, bà Suu Kyi được xem là một cô sinh viên có ý chí năng động, tình cảm đầy nhiệt huyết, bạn bè cùng lớp gọi cô là Suu. Ði học cô luôn luôn mặc quần jean màu trắng, không chạy đua theo phong trào đời sống mới phóng túng tình dục, thất tình một lần với một chàng sinh viên người Pakistan, thử uống rượu đúng có một lần còn hoàn toàn giữ được tinh thần Á Ðông cổ truyền với bạn học ở Oxford đa số là người Ấn và Pakistan.
Trong 20 năm sau, bà Suu Kyi về Luân Ðôn, thời kỳ buồn vì bà không biết sẽ làm gì, sẽ đi đâu, không đạt được thành quả nào đáng kể trong nghề nghiệp cũng như học vấn cho nên khi dọn về New York bà bị bạn bè chọc ghẹo là nhờ phe đảng mà bà được làm việc ở Liên Hiệp Quốc với Tổng Thư Ký U Thant (bạn của ông bố). Bà kết hôn với ông Michael Aris học giả về Tây Tạng, ông chồng không thực tế cho nên hôn nhân của bà không hoàn toàn hạnh phúc và trong thời gian này mặc dù làm việc ở Liên Hiệp Quốc bà Suu Kyi không hoạt động chính trị và không tham gia vào cộng đồng tị nạn ở Anh cũng như ở Hoa Kỳ cho đến khi một biến cố quan trọng đã thay đổi cuộc đời bà. Năm 1988, bà mẹ Khin Kyi bị tai biến mạch máu não, bà phải về Rangoon chăm sóc mẹ đúng thời kỳ Miến Ðiện khủng hoảng sinh viên xuống đường chống nhà độc tài Ne Win. Miến Ðiện trong thời khủng hoảng, đối lập chia rẽ, công đoàn công nhân thiếu đoàn kết, giới trí thức cũng như giới quân nhân thiếu người lãnh đạo. Trong sáu tháng, bà Suu Kyi không tham gia xuống đường biểu tình nhưng rồi những người bạn của ông bố đã nhắc đến bố bà, một lãnh tụ với chương trình xây dựng đất nước độc lập và dân chủ dở dang đã khiến bà đồng ý tổ chức buổi họp của các thành phần chống đối ở biệt thự của bà mẹ trong khu đại học.
(54 đường đại học). Diễn văn đầu tiên trước công chúng của bà ở ngôi chùa nóc vàng Shwedagon ở Rangoon, ngôi chùa thiêng nhất, nằm trong trung tâm đất nước và con người Miến Ðiện. Ðám đông với đa số là người trẻ tuổi mang băng vàng trên tay áo tượng trưng cho lòng mong muốn dân chủ đa nguyên đa đảng. Hàng trăm ngàn người chú ý bài nói chuyện của bà, nhưng sống lâu ở nước ngoài và có chồng người Anh đã bị nhiều người đặt vấn đề: “Liệu trong 28 năm sống bên ngoài đất nước bà có hiểu rõ các vấn đề của Miến Ðiện?” Bài diễn văn còn trên You tube cho thấy câu trả lời đầy lòng yêu nước đã thuyết phục được đám đông: “Sống ở nước ngoài nhiều năm nhưng tình yêu và tấm lòng dành cho đất nước của tôi không bao giờ suy suyển. Vấn đề là: ‘Tôi biết quá nhiều!’” Di sản và tinh thần chống thực dân của ông bố Aung San đã biểu lộ ngày hôm ấy, so với tinh thần độc tài chỉ biết quyền lợi cá nhân và quyền lợi đảng của đám quân phiệt Ne Win. Một tháng sau đó, thủ đô Rangoon gần như bị bỏ trống cho sinh viên và công nhân đấu tranh trước khi chính quyền đàn áp và tàn sát biểu tình. Ðảng Dân Chủ Quốc Gia của bà Suu Kyi được thành lập và bà đi khắp nước để thành lập các chi nhánh đảng ở các tỉnh nhỏ trong thời gian này.
Hình ảnh dân Miến Ðiện nhớ mãi trong thập niên 1980-1990 là bà Suu Kyi giống như chàng sinh viên Trung Hoa biểu tình ở Bắc kinh đứng trước xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Ở Danubyu, thành phố đồng bằng Irrawaddy, để chống lại lệnh phải rời thành phố, bà Suu Kyi đi bộ một mình trên đường, thách đố lính đứng trước mặt bà lên đạn cầm súng bắn! Bà được xem là anh hùng nhưng bà đã nói rất thành thực và khiêm tốn khi được hỏi cảm tưởng của bà lúc ấy: “Khi đứng trước nguy hiểm, bạn phải quyết định và bạn không bao giờ biết bạn sẽ phải quyết định như thế nào”. Ðể chống lại lệnh đóng cửa báo chí và đàn áp đối lập của chính quyền Ne Win, đảng Dân Chủ tạo ra những ngày lễ: Ngày lễ nhân quyền Miến Ðiện, ngày tưởng niệm sinh viên bị tàn sát, ngày chống Phát Xít, ngày bất tuân dân sự, v.v.
Bà bị giam tại gia 3 năm bắt đầu từ tháng 7 năm 1989. Khác với các nhà trí thức như nhà bác học Sakharov ở Nga, Nelson Mandela ở Nam Phi hay các nhà tranh đấu nhân quyền Việt Nam và Trung Hoa, bà từ chối chọn cuộc sống lưu vong dù bị áp lực của chính quyền quân phiệt Miến Ðiện và áp lực của chồng con.
Bà Aung San Suu Kyi đã sống đúng với những gì bà nói. Khi bắt đầu bị giam tại nhà, giám đốc tình báo Miến Ðiện Khin Nyunt đã mở thơ và quà của bà trong đó có son phấn, video tape tập thể thao của Jane Fonda. Ông Nyunt mỉa mai trên mặt báo, bà mệnh phụ (những người dân nghèo Miến Ðiện gọi bà là lady) đã sống khác người nghèo mặc dù lúc nào cũng nói tranh đấu cho người nghèo. Bà lập tức ngưng nhận quà, kể cả đồ tiếp liệu của chính quyền, bán bàn ghế trong nhà để mua thực phẩm. Bà sống trong nhà, làm việc nhà, tập thể dục, ngồi thiền trong 3 năm, vì vậy bà bị bệnh thiếu dinh dưỡng, bệnh thiếu sinh tố A và D nên tóc rụng và mắt mờ.
Năm 1990, đảng dân chủ thắng 392/485 ghế ở Quốc Hội nhưng bị chính quyền hủy bỏ không công nhận kết quả ngược lại bà được giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Giống như trường hợp Lưu Hiểu Ba năm 2011, cả thế giới biết đến bà nhưng chính quyền nhất định không trả tự do.
Như những tù nhân chính trị và những người được giải Nobel Hòa Bình, bà Suu Kyi đã viết những tiểu luận chính trị mặc dù bà viết ít. Bài tiểu luận nổi tiếng nhất là “Tự do không sợ hãi”: Không phải là quyền lực đã làm tha hóa con người mà chính là sự sợ hãi. Dân sợ chính quyền độc tài nhưng những kẻ cầm quyền cũng sợ mất quyền. Chính sự sợ hãi dẫn đến tham nhũng, phe đảng, bè phái, con ông cháu cha, ngu dốt và chia rẽ. Tướng lãnh độc tài cũng là người, họ không phải là thần thánh và họ cũng sợ hãi như thường dân. Bàn tay của những kẻ cầm quyền độc tài sợ nhất là những mảnh thủy tinh.
Những bàn tay thô bạo bóp bể những ly nước (tượng trưng cho dân) và những ly nước bể với những mảnh thủy tinh vụn đâm vào tay họ.
Con người nhỏ bé mảnh mai, sau khi ông chồng mất vì bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến năm 1999, vẫn cương quyết đương đầu chống độc tài. Bà được xem là mềm mỏng, uyển chuyển như nước, không nhường bước và nước Suu Kyi bén hơn mảnh thủy tinh. Sức mạnh của nước như triết lý của Lão Tử “Thủy thiên lợi vạn vật, nhi bất tranh” hay “Ngôn thiện tính” (nói biết giữ lời) với “Tâm thiện uyên, dữ thiện nhân” (xử thế hợp lòng nhân).
Cách mạng ở mỗi quốc gia có mỗi đặc tính. Cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc năm 1989 nhờ ông Vaclav Havel với tinh thần bác ái của Thiên Chúa Giáo, “yêu kẻ thù”. Ðấu tranh dân chủ của bà Aung San Suu Kyi thành công là nhờ cuối thời kỳ bị giam, tư tưởng triết học chính trị của bà chuyển đổi qua Phật Giáo, mấy năm bị giam của bà giống như Bồ Ðề Ðạt Ma sư tổ ngồi thiền đối mặt vào vách tường, lúc đầu bà ngồi thiền mỗi ngày để tâm định, dưới ảnh hưởng của Phật Giáo Miến Ðiện, sau đó những tư tưởng triết lý từ bi, vô úy làm đúng, nghĩ đúng, như những lời Phật Thích Ca dạy đã giúp bà nhìn thấy: “Chỉ có sự thật dẫn đến hài hòa cho mọi người, dẫn đến sự tử tế và có ích cho mọi người”. Những năm sau nhờ tư tưởng Phật Giáo bà không chủ trương dùng những lời lẽ quá khích đả phá giới quân nhân và chính quyền. Bà khuyên các đảng viên đảng Dân Chủ quên đi những tổn thất trong thời kỳ cách mạng Cà sa Saffron, quên đi những xa hoa phí phạm của chính quyền khi dọn thủ đô từ Rangoon về Nayapidaw cũng như quên đi kỳ bầu cử gian lận năm 2010 nhờ vậy mà cuộc tranh đấu dân chủ ở Miến Ðiện năm 2012 khác hẳn các cuộc cách mạng bạo động ở Trung Ðông, Syria, Tunisia, Egypt, Zimbabwe.
Ngày 1 tháng 4 năm 2012, ở làng quê nghèo cạnh ven sông, Wah Theinkha, những người nghèo gồm nhiều nhóm sắc tộc đã thức dậy sớm, đi theo bà qua các địa điểm bầu phiếu. Những người nhà quê yêu bà bồng con cầu chúc “Mẹ Suu sống lâu trăm tuổi” và bà đã thắng cử nhờ tấm lòng yêu người. Miến Ðiện đi vào một thời kỳ mới nhờ bà, một phụ nữ đẹp từ trong ra ngoài mặc dù còn phải đợi đến kỳ tổng tuyển cử năm 2015 mới biết rõ sự thành thật của chính quyền quân phiệt và chúng ta mong rằng Lady Aung San Suu Kyi không lầm tin vào Tổng Thống Thein Sein như Tổng Thống George W. Bush đã lầm khi nhìn vào mắt nhà độc tài Vladimir Putin và tin rằng đã nhìn thấu tâm hồn ông ta!
Việt Nguyên
22 tháng 5, 2012
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 6, 2012 4:52:02 GMT 9
Bài viết này tóm tắt bài khảo luận “In Quest of Democracy”trong: Aung San Suu Kyi, Freedom from Fear, Penguin Books, 1991.Dân chủ và Phật giáo* Cao Huy Thuần Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật. Đối với tôi, rất chủ quan, bà là người chính trị duy nhất thời nay nắm đúng tư tưởng Phật giáo và hành động đúng với tư tưởng đó. Bà là người lãnh đạo Phật tử duy nhất không xa lý thuyết của Phật một bước trong mọi hành động chính trị. Lý thuyết của Phật nói: vô uý! Bà gan dạ, can trường. Lý thuyết của Phật nói: từ bi! Bà không căm thù, dù là đối với những người đã chà đạp bà. Chỉ với một người lãnh đạo như vậy mới làm được tôi tin khi nói đến dân chủ trong Phật giáo. Tôi tin lý thuyết ấy không phải là lý thuyết suông. Không phải là ý thức hệ. Nó thở nơi người phụ nữ mảnh khảnh mà quắc thước ấy. Vậy thì, đâu là những chỗ trùng hợp giữa Phật giáo và dân chủ? Đâu là nền móng Phật giáo trong hành động vì dân chủ của bà? Trước khi xây từng viên gạch, hãy hỏi một câu ưu tiên: thế nào là dân chủ đối với một người dân Miến Điện bình thường, bình dân, ít học? Mà có thật là họ muốn dân chủ không? Hay đó là triết thuyết ngoại lai? Bà nói: hỏi như vậy là khinh miệt người dân Miến Điện, khinh miệt người dân bất cứ ở đâu, vì dân chủ là ước muốn của mọi người mà mạnh nhất chính là ở các nước nhân dân bị đàn áp. Ở các nước ấy, dân chủ được hiểu rất đơn giản và rất thực tế: làm sao có được một chính phủ tốt, không đàn áp. Làm sao? Phật giáo đáp ứng câu hỏi ấy của người dân trên 5 điểm: 1. Phải có một chính phủ dân cử. Người dân ít học có thể không hiểu những vấn đề cao xa, nhưng họ biết rất rõ bầu cử ai để đại diện cho họ. Bầu cử trung thực, trong sạch, tôn trọng sự lựa chọn thực sự của người dân: ấy là điều kiện tiên quyết của dân chủ. Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư, khinh thường nhu cầu xây dựng một nền kinh tế hợp lý, đưa lên địa vị lãnh đạo những người thiếu đạo đức và khả năng. Áp dụng lời nói đó vào bối cảnh chính trị của Miến Điện từ 1962, bà thấy: quyền dân chủ bị tước đoạt mà không đủ cố gắng để chiếm lại; giá trị đạo đức và chính trị bị xói mòn mà không được cộng đồng chung sức cứu vãn; kinh tế suy thoái; lãnh đạo không trong sạch, thiếu lương tâm. Riêng về điểm cuối cùng, thế giới sử quan của đạo Phật là: khi một cộng đồng chính trị bị suy đồi, rơi từ tình trạng tinh khiết khởi thủy xuống tình trạng hỗn loạn xã hội và đạo đức, một ông vua được bầu lên để tái lập hòa bình và công lý. Người cầm quyền có được địa vị ấy vì ba chức tước: Mahasammata, “vì được bầu lên do sự thỏa thuận nhất trí của dân chúng”; Khattiya, “vì cai trị trên một lãnh địa nông nghiệp”; Raja, “vì thu phục được lòng kính mến của dân chúng nhờ tôn trọng dhamma (đức độ, công bằng, luật pháp)”. Ông vua được trả lương để thi hành nhiệm vụ, lương đó được tính bằng thóc. Bà Aung San Suu Kyi nhấn mạnh điều mà các học giả ngày nay công nhận trong tư tưởng về vương quốc của Phật giáo: quyền lực của ông vua đặt trên cơ sở một hợp đồng xã hội. Một hợp đồng với dân, chứ không phải do thiên mệnh hay thượng đế nào ban cấp. Nếu muốn dùng chữ “con”quen thuộc thì ông vua là con dân, không phải con trời. Mahasammata là mô hình của các vương quốc Ấn Độ ngày xưa và của cả Đông Nam Á. Ngày nay, vua không còn nữa, nhưng tư tưởng về ông vua do dân bầu lên, do dân thỏa thuận, được một nhà lãnh đạo Đông Nam Á đánh thức ra khỏi giấc ngủ ngàn năm trong thư viện để nhập cuộc chơi với tư tưởng Rousseau: dân chủ không phải là lý thuyết ngoại lai. 2. Từ dân mà ra, ông vua không có tính gì là thiêng liêng cả, không phải muốn cai trị thế nào tùy ý, chỉ chịu trách nhiệm với trời hoặc thượng đế. Do đó, yếu tố căn bản thứ hai trái ngược với tư tưởng quân chủ tuyệt đối và trùng hợp với tư tưởng dân chủ hiện đại là: quyền hành đi đôi với bổn phận. Bổn phận đó, Phật giáo kể ra rất rõ: ông vua có Mười Bổn Phận, Bảy Phòng Ngừa để chống lại suy thoái, Bốn Cứu Giúp đối với dân chúng, chưa kể vô số điều lệ hướng dẫn hành động như Mười Hai Thực Tiễn của người cầm quyền, Sáu Đặc Tính của lãnh tụ, Tám Đức Độ của vua, và Bốn Phương Cách để chiến thắng nguy hiểm. Kể rõ như vậy là vì một luận lý nằm sâu trong truyền thống chính trị: xem ông vua như là một trong năm kẻ thù hoặc năm hiểm nguy cần phải chế ngự bằng cả một hệ thống đạo đức để ràng buộc bất cứ ai nắm quyền lực trong tay. Bà Aung San Suu Kyi nói thêm: dân tộc Miến Điện có quá đủ kinh nghiệm trong lịch sử về quyền lực độc tài để ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải nhắc nhở những bổn phận ấy. Đó là: bố thí, đạo đức, hy sinh, liêm khiết, nhân từ, nghiêm khắc với mình, không giận dữ, không bạo lực, nhẫn nại, và không làm trái (với ý muốn của dân). Bổn phận đầu tiên, rất quan trọng trong tư tưởng Phật giáo, là bố thí (dana). Điều này có nghĩa là người cầm quyền phải có khả năng mang lại của cải, thịnh vượng cho dân. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, an ninh kinh tế của dân phải được đảm bảo. Bổn phận thứ hai, đạo đức (sila), buộc ông vua phải nêu gương sáng trong việc giữ năm giới của người Phật tử: không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không nghiện rượu. Ngày xưa, dân tin rằng muốn tìm nguyên do của quốc nạn, cứ nhìn đạo đức của vua. Vua vô đạo thì nhà tan nước mất. Bổn phận thứ ba, paricagga, có khi được dịch là rộng lượng, có khi được hiểu là hy sinh. Rộng lượng thì trùng nghĩa với bố thí, mà bố thí cho đến tận cùng, rốt ráo, thì có thể hy sinh cho đến tất cả của cải, tính mạng, vì lợi ích của dân. Đây là bố thí của bồ tát mà dân tộc Miến Điện thấm nhuần qua những chuyện tiền thân của Phật. Áp dụng vào đời sống chính trị ngày nay, bổn phận này có nghĩa là người cầm quyền đem hết sức mình để phụng sự cho đất nước, đặt ích lợi chung trên ích lợi riêng, cho đến mức có thể hy sinh cả quyền lợi riêng. Bổn phận thứ tư, liêm khiết (ajjava), ngày nay là vấn đề nhức nhối không riêng gì ở Miến Điện. Thiếu liêm khiết thì thối nát từ trên xuống dưới, khỏi cần nói thêm. Điều phải nói thêm là: liêm khiết ở đây còn có nghĩa là lương thiện, thành thật trong tương quan với người khác. Ngạn ngữ Miến Điện có câu: “Người cầm quyền thì nói thật; người thường thì thề thốt”. Phải thề thốt thì người thường mới giữ lời. Còn người cầm quyền thì có bổn phận phải nói thật với dân. Đừng tưởng chính trị là mảnh đất của dối trá. Dân chúng có ngu đến bao nhiêu cũng biết khinh những chính quyền nói láo, lấy nói láo làm hệ thống cai trị. Trong một nước Phật như Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi khuyên người làm chính trị nên nói thật như chính danh hiệu của Phật, Tathagata, “Bậc đã đến với Sự Thật”. Phật khuyên nhủ: “Hãy thẳng như mũi tên, một lời nói thốt ra không lạc thành hai”. Bổn phận thứ năm, nhân từ (maddava), còn có nghĩa là biết xúc động trước cảnh khổ của dân, biết lấy trách nhiệm, biết hành động theo phương châm “người cầm quyền là sức mạnh của kẻ yếu thế”. Đạo đức đó đã thấm nhuần tâm hồn người dân Miến Điện qua văn học, qua truyện cổ. Một ông vua có thể đày cả con mình lên mạn ngược vì đã gây khổ cho dân: “Trong vấn đề thương yêu, không phân biệt giữa dân và con, thương dân cũng như thương con, đó là đức hạnh của vua”. Bổn phận thứ sáu, cần kiệm (tapa), buộc người cầm quyền phải sống đơn giản, biết kiềm chế mình, nghiêm khắc với mình, hướng thượng, vun trồng kỷ luật tâm linh. Ngày xưa đã vậy, ngày nay, khi hoang phí đã tràn lan từ trên xuống dưới, cần kiệm lại càng là tiếng kêu thống thiết của dân, của nước, của người đói thiếu cơm, người khát thiếu nước. Bổn phận thứ bảy, thứ tám và thứ chín - không giận dữ (akkadha), không bạo động (ahimsa), nhẫn nại (khanti) - liên hệ với nhau. Người cầm quyền lực trong tay mà nổi thịnh nộ thì hậu quả khó lường. Hãy nhẫn nại và đối đãi rộng lượng, khôn ngoan, ngay cả đối với những thách đố, xúc phạm của những người mà mình có thể giết như giết muỗi. Bạo lực là trái với tinh thần Phật giáo, ngay cả đối với người cầm quyền. Hơn cả mọi người, người cầm quyền phải nhớ lời Phật dạy, thắng sân hận bằng từ bi, thắng điều ác bằng điều lành, thắng keo kiệt bằng bố thí, thắng dối trá bằng chân thật. Người cầm quyền nào cũng phải lấy hình ảnh của vua Ashoka (A Dục) để làm gương: một đại vương trong một đại quốc vẫn có thể cai trị bằng từ bi và bất bạo động. Bổn phận thứ mười (aviradha) có thể tách riêng ra để minh chứng nòng cốt dân chủ trong Phật giáo. Không làm trái với ý muốn của dân. Trong nhiều chuyện tiền thân của Phật - mà dân Miến Điện nằm lòng - có chuyện thái tử Vessantara bị vua đày vì … bố thí nhiều quá, bố thí hết kho của nhà nước, bố thí luôn cả con bạch tượng mà nhà nước quý như quốc bảo. Bà Aung San Suu Kyi kết luận chuyện này: thái tử đã bố thí con voi mà dân không thỏa thuận nên bị vua đày. Thỏa thuận của dân là cơ sở chính đáng của quyền lực. Rất thực tiễn, bà cũng biết có người sẽ bắt bẻ: đó chỉ là những bổn phận lý thuyết, người cầm quyền không thực hiện thì ai làm gì được họ? Thế nhưng, không ai không có chút lương tâm, nhất là trong một nước Phật giáo mà ai cũng tin có Phật tính trong lòng, không người cầm quyền nào ở Miến Điện, xưa cũng như nay, không nghĩ rằng những bổn phận đó đã nằm sâu trong văn hóa và niềm tin tôn giáo của dân tộc họ, của cha mẹ họ, của chính họ. Nhà nước Myanmar có suy đồi đến bao nhiêu đi nữa, xã hội của họ vẫn còn vững, còn sạch, còn đạo đức, còn mang hồn Phật, chuyện Phật, lời Phật trong lòng. Lấy những lời đó làm nền móng để cùng với những ý tưởng mới xây dựng dân chủ, còn gì hợp với lòng người hơn? 3. Ý tưởng mới và lời Phật dạy còn trùng hợp như thế trong vấn đề quyền của con người. Hỏi một người dân Miến Điện ít học nhất: dân chủ là gì, họ sẽ trả lời: “Tôi muốn được đi làm việc tự do, hòa bình, không làm hại ai, chỉ kiếm gạo nuôi con mà không bị lo lắng, sợ hãi gì cả”. Đâu cần lý thuyết gì cao xa! Mà có đủ cả: một đời sống thanh bình, trọng nhân phẩm, tự do không bị thiếu thốn, sợ hãi. Quyền của con người là triết lý ngoại lai? Vậy thì ai nói: “Ta là Phật đã thành, mỗi người là một vị Phật sẽ thành”? Có ai nói hơn như thế không về địa vị của con người? Ai nói: “Được sinh ra làm người là khó, khó như con rùa đui sống dưới đáy biển trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần mà lại chui đúng cái đầu vào lỗ hổng của một khúc gỗ bềnh bồng giữa đại dương”? Chẳng lẽ làm người quý như vậy mà bị khinh như cỏ rác, chẳng có chút quyền gì? Và ai thuyết giảng cho các người Kâlâma cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ: “Đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tiếng đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng… đừng tin vì công thức… đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình… ” Chẳng lẽ tự do tư tưởng cũng là ngoại lai? Thật là nhục mạ dân tộc Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi nói như vậy, khi ai đó dám nói rằng người dân nước ấy chưa đủ trình độ để hiểu và để hưởng những quyền được ban bố trong bản Tuyên Ngôn 1948. Nhưng có nên làm cách mạng để lật đổ những quyền lực coi con người như cỏ rác? Lật đổ các ông tướng ở Yangon? Từ trong gian khổ, đàn áp, đày đọa, bà vẫn một lòng, một lời, một đường lối duy nhất: bất bạo động. Dân chủ là mục đích mà phương tiện để thực hiện chỉ có thể là dân chủ. Vì sao? Vì cách mạng, dù thành công, cũng không bảo đảm được tương lai dân chủ. Bạo lực đẻ ra bạo lực, lịch sử thế giới đã nhiều lần chứng minh. Cho nên: 4. Trật tự và luật pháp là phương tiện. Dân chủ là quyền được nói khác, nghĩ khác, và đồng thời là bổn phận phải giải quyết những khác biệt bằng phương tiện hòa bình. Dân chủ giúp mọi thay đổi chính trị được thực hiện mà không cần đến bạo lực. Những chế độ được dựng lên bằng cách mạng bạo lực có khuynh hướng dùng bạo lực để duy trì quyền lực “cướp”được. Luật trong các nước đó không phải là luật được hiểu trong các nước dân chủ. Dân chủ là tình trạng trong đó luật là tối thượng để bảo đảm an ninh và trật tự cho người dân. “Luật”ở đây phải được hiểu là công lý, và “trật tự”phải được hiểu là kỷ luật mà dân chúng chấp nhận vì nhu cầu công lý được thỏa mãn. Luật đó chỉ có thể được làm ra do một cơ quan lập pháp được dân bầu trung thực và chỉ có thể được áp dụng đúng đắn khi các tòa án được độc lập thực sự. Luật và trật tự như vậy mới hợp với tinh thần Phật giáo. Trong Phật giáo, khái niệm luật đặt căn bản trên từ dhamma mà ta dịch là “pháp”. Pháp đặt sức mạnh trên sự ngay thẳng, đức độ, không phải trên quyền lực để cưỡng chế bằng những nguyên tắc thất nhân tâm. Luật đó tương ứng với công lý được quan niệm để bảo vệ kẻ yếu, kẻ thất thế. Ở đâu mà công lý như vậy không có, ở đấy an ninh, hòa bình vắng bóng. Dân tộc Miến Điện từ xưa đã ví hòa bình và an ninh như bóng mát giữa trưa hè chói chang: Bóng cây thật mát Bóng cha mẹ còn mát hơn Bóng thầy còn mát hơn nữa Bóng của người cầm quyền lại càng mát hơn Nhưng mát nhất là lời dạy của Phật.Tại sao bóng đó mát nhất? Vì lời dạy của Phật là sự thật, ngay thẳng, đức độ, từ bi. Bà Aung San Suu Kyi nói: đó là những đức tính mà dân tộc của bà thấy trước mắt khi tranh đấu cho dân chủ. Chưa hết. Còn một điểm thứ năm này nữa, đặc biệt nơi con người phụ nữ lãnh đạo ấy, đặc biệt nơi dân tộc Miến Điện của bà, mà nếu không có, chắc chắn bà đã không thể thành công: sức mạnh tâm linh. 5. Sức mạnh tâm linh. Bàng bạc trong khắp các bài viết và phỏng vấn của bà, ở đâu cũng toát ra sức mạnh tâm linh. Ở đây, trong quan niệm của bà về dân chủ, sức mạnh tâm linh đó được dồn vào một điểm, cũng rất đặc biệt: “Dân tộc Miến Điện, bà viết, không phải chỉ muốn một thay đổi chính phủ, mà là một thay đổi về những giá trị chính trị”. Đây là một niềm tin thông suốt từ những năm bị cấm cố cho đến khi được trả tự do. Trong một phỏng vấn trên tờ New York Times khi được tự do, bà lặp lại y nguyên những gì bà viết trước đó: “Điều chúng tôi muốn là một sự thay đổi về giá trị. Thay đổi chính thể có thể tạm thời, nhưng thay đổi giá trị là một công trình dài hạn. Chúng tôi muốn những giá trị trong nước tôi thay đổi. Chúng tôi muốn một nền tảng vững chắc cho sự đổi thay. Dù cho thay đổi chính thể có thể xảy ra, nếu những giá trị căn bản không thay đổi, thì một thay đổi chính thể có thể đưa đến một thay đổi chính trị khác và cứ như thế, như thế mãi”. Những giá trị gì bà muốn thay đổi? Một mạch văn từ đầu đến cuối, đây là những câu viết cách đây hơn hai mươi năm: “Gia tài bất hạnh của độc tài chỉ có thể dẹp bỏ nếu khái niệm quyền hành tuyệt đối như là nền tảng của cai trị được thay thế bằng khái niệm tin cậy như là nguồn gốc của quyền lực chính trị: tin cậy của dân vào quyền và khả năng quyết định về vận mạng của dân tộc, tin cậy lẫn nhau vào những nguyên tắc của công lý, tự do và quyền của con người”. Bà giải thích: “Trong Phật giáo, bốn đức hạnh đưa đến hạnh phúc, đứng đầu là saddha, tin cậy vào những giá trị đạo đức, tâm linh và trí tuệ”. Đâu có cần phải trích dẫn thuyết tin cậy của Locke? Truyền tin cậy đó vào một xã hội đã mất lòng tin, không phải bằng cách kêu gọi bạo lực mà thông qua niềm tin trí tuệ, là tinh tuý của cuộc tranh đấu vì dân chủ của bà. Đó là niềm tin căn cứ vào những giá trị tâm linh truyền thống của dân tộc bà, được củng cố bằng những tư tưởng tiến bộ mới trên thế giới. *** Dân chủ không phải chỉ là những định chế chính trị. Dân chủ còn là những giá trị văn hóa và xã hội. Ở Myanmar, dù tướng tá có hư hỏng, văn hóa đó vẫn còn tốt, xã hội đó vẫn còn tốt, con người ở đó vẫn còn tốt, vẫn còn cùng nhau chia sẻ một đạo đức chung. Văn hóa đó, xã hội đó, con người đó đẻ ra được người phụ nữ đó. Văn hóa đó, xã hội đó, con người đó đang làm bà mụ thai nghén cho dân chủ. Và, tất nhiên, bảo vệ độc lập, chống ngoại xâm. 2012 Thời Đại Mới
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 2, 2015 1:32:08 GMT 9
MYANMAR VÀ VIỆT NAMNguyễn Mạnh Trí vietbao.com/a246148/myanmar-va-viet-nam. MỤC LỤC TỔNG QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HAI NƯỚC NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA MYANMAR NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA VIỆT NAM ĐƯỜNG ĐI ĐỀ NGHỊ CHO VIỆT NAM TỔNG QUÁT Sau nhiều thập niên nằm dưới quyền lãnh đạo của giới quân nhân, cuộc tổng tuyển cử mới rồi tại Myanmar nói chung được cho là dân chủ nhất trong 25 năm. Liên minh Dân chủ Toàn quốc, do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo, đã giành được thắng lợi lịch sử trong cuộc tổng tuyển cử ngày 8/11/2015 vừa qua: đảng của bà chiếm được đa số tuyệt đối 80% ở cả Hạ viện và Thượng viện Miến Điện. Quân đội vẫn được hưởng 25% ghế và kiểm soát các bộ chính gồm quốc phòng, nội vụ, biên giới và công an. Tình hình thay đổi tại Myanmar đang tạo nên cảm hứng cho những nhà bình luận thời sự trong và ngoài nuớc và thậm chí một số nhà hoạt động trong nước đã kêu gọi “cách chức đảng Cộng Sản Việt Nam”. Trước khi bàn đến điều này, chúng ta cần nói đến vị trí và lịch sử cận đại của Myanmar và Việt Nam. ĐỊA LÝ Myanmar và Việt Nam cùng nằm trong lục địa Đông Nam Á với nền văn hóa Phật giáo. Myanmar có diện tích gấp đôi và dân số bằng 60% của Việt Nam. Đồng bằng châu thổ Irrawaddy của Myanmar (50,400 km²) và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (40,548 km²) của Việt Nam là hai vựa lúa của vùng Đông Nam Á . Đồng bằng sông Cửu Long và Irriwaddy Myanmar có tổng diện tích 678,500 km² với dân số 55 triệu người là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới. Myanmar có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2,185 km. Myanmar có đường bờ biển dài 1,930 km dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới. Sông Irrawaddy, con sông dài nhất Myanmar, gần 2,170 km, chảy vào Vịnh Martaban. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý. Trong khi đó, Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực đông nam bán đảo Đông Dương với diện tích vào khoảng 331,698 km², dân số khoảng 93 triệu người. Hình thể nước Việt Nam có hình chữ S, khoảng cách từ bắc tới nam (theo đường chim bay) là 1,648 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây là 50 km. Đường bờ biển dài 3,260 km không kể các đảo. Chiều dài đường biên giới Việt –Trung khoảng 1,406 km. BỐI CẢNH LỊCH SỮ Trong Thế chiến thứ hai, Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của tướng Aung San (thân phụ của bà Aung San Suu Kyi) và năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Uỷ ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác. Ngày 4 tháng 1 năm 1948, quốc gia này trở thành một nước Cộng hòa độc lập, với cái tên Liên bang Myanmar và Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia. Năm 1961, U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên Hiệp Quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc; ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và đã đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên Hiệp Quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi. Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1988, quân đội Myanmar đã dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối sự quản lý kinh tế yếu kém và sự áp bức chính trị. Ngày 8 tháng 8 năm 1988, quân đội nổ súng vào những người biểu tình trong vụ việc được gọi là cuộc Nổi dậy 8888. Tuy nhiên, cuộc biểu tình năm 1988 đã dọn đường cho cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, do Aung San Suu Kyi lãnh đạo, thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử 1990, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Kết quả của cuộc bẩu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Aung San Suu Kyi được quốc tế công nhận là một nhà hoạt động vì dân chủ tại Myanmar, đoạt Giải Nobel Hòa bình năm 1991. Bà đã nhiều lần bị quản thúc tại gia. Dù có lời kêu gọi trực tiếp từ Kofi Annan tới Than Shwe và áp lực của ASEAN, hội đồng quân sự Myanmar vẫn kéo dài thời hạn quản thúc tại gia đối với Aung San Suu Kyi thêm một năm ngày 27 tháng 5 năm 2006 theo Luật Bảo vệ Quốc gia năm 1975, trao cho chính phủ quyền cầm giữ hợp pháp bất kỳ người nào. Hội đồng quân sự ngày phải đối mặt với sự cô lập quốc tế. Vào tháng 12 năm 2005, lần đầu tiên tình trạng của Myanmar đã được thảo luận không chính thức tại Liên Hiệp Quốc. ASEAN cũng đã bày tỏ sự thất vọng của mình với chính phủ Myanmar. Tổ chức này đã thành lập Cuộc họp kín liên nghị viện ASEAN đề bàn bạc về sự thiếu dân chủ tại Myanmar. Sự thay đổi chính trị lớn ở nước này hiện vẫn khó xảy ra, vì sự phủ quyết của Trung Quốc. Ngày 8-11-2015, hàng chục triệu người dân Myanmar đã đi bỏ phiếu với kỳ vọng vào tương lai trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1990. Ngày 10-11-2015, đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ (NLD) Myanmar do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo đã giành khoảng 75% trong tổng số ghế Quốc hội trong đó, NLD có 96 ghế, bao gồm 49 ghế hạ viện. Đảng Đoàn kết phát triển liên bang (USDP) cầm quyền chỉ có 3 ghế hạ viện. Tuy nhiên, quân đội Myanmar vẫn sẽ nắm giữ nhiều quyền lực chính trị. Trong khi đó, lịch sữ cận đại Việt Nam ở trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt. Định mệnh của dân tộc trong bối cảnh quốc tế đã tạo ra đảng Cộng Sản Việt Nam cùng với 2 đảng Cộng Sản đàn anh Liên Xô và Trung Quốc. Tháng 8 năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, họ kém thành công hơn ở miền Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa độc lập và thống nhất từ miền Bắc tới miền Nam. Tiếp đó từ 1946-1954 là Chiến tranh Đông Dương giữa Việt Minh với sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc và thực dân Pháp với sự hậu thuẩn của Hoa Kỳ đang cố gắng trở lại Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn toàn nỗ lực của Pháp nhằm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông Dương. Sau trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954 để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là đình chiến và tạm thời phân đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự có ranh giới tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp và Quốc gia Việt Nam. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả 2 miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Khoảng 1 triệu người, đa số theo Công giáo và ở miền Bắc đã di cư vào Nam. Tuy nhiên cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Pháp rút quân, tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng 80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử và hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Giai đoạn từ 1959-1975 là Chiến tranh Việt Nam với sự tham dự trực tiếp của Hoa Kỳ. Từ năm 1959, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn cho tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận này là Quân Giải Phóng Miền Nam đã tấn công rộng lớn ở nông thôn miền Nam. Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa và gửi 17,500 "cố vấn" đến Việt Nam. Tuy nhiên những mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và chính quyền Ngô Đình Diệm về phương thức đối phó với Cộng Sản đã dẫn đến cuộc đảo chính và ám sát Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa và thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964 là cái cớ để tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến. Số lượng quân đội đội Mỹ lên tới khoảng 540,000 người vào thời điểm cao nhất. Chiến tranh bắt đầu bùng nổ năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, còn Liên Xô và Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và lực lượng cố vấn. Sau giai đoạn đảo chính liên tiếp, năm 1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng Hòa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969. Sau chiến dịch Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ bắt đầu để lộ ý định muốn chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Tháng 1 năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa bắt buộc phải ký Hiệp định Hòa bình Paris. Nhưng với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, đến giữa tháng 3 năm 1975, quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được Sài Gòn, chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố đầu hàng. Hai miền của Việt Nam được thống nhất thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tuy nhiên, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như: chủ trương thống nhất mọi mặt theo tiêu chuẩn miền Bắc; các cuộc tấn công liên tục của quân đội Khmer Đỏ, v.v ... đã làm cho quốc gia mới này rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, đời sống sút kém gây ra một làn sóng người vượt biên ra nước ngoài bắt đầu từ năm 1978. Đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên đến 774.7% vào năm 1986. Những khủng hoảng này đã gây sức ép đổi mới cả về chính trị và quản lý kinh tế. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HAI NƯỚC TRANH CHẤP QUYỀN LỰC Liên minh Dân chủ Toàn quốc, do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo đã giành được thắng lợi lịch sử trong cuộc tổng tuyển cử ngày 8/11/2015 vừa qua, tuy nhiên, quân đội vẫn được hưởng 25% ghế và kiểm soát các bộ chính gồm quốc phòng, nội vụ, biên giới và công an. Những vấn đề phát triển kinh tế và kiểm soát xung đột chủng tộc có được sự đồng ý ngầm của hai bên nhưng vấn đề hóc búa nhất là vấn đề kinh tài của các nhóm lợi ích. Trong khi tại Việt Nam, đảng Cộng Sản nắm giữ vấn đề kinh tài thì tại Myanmar, quân đội vẫn giữ độc quyền trong lãnh vực này. Báo cáo của tổ chức Global Witness cho rằng ngọc bích với tổng giá trị gần 31 tỷ USD đã bị khai thác từ các mỏ ở Myanmar trong năm 2014. Báo cáo ước tính con số cho thập niên trước có thể lên tới hơn 120 tỷ USD. Thành thử tất cả phụ thuộc vào đảng của bà Aung Sang Suu Kyi và phe quân sự có thể tìm được một nền tảng chung trong vấn đề phân chia quyền lực. Đồng thuận hay không là vấn đề chưa thể đoán được. QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC Cả Myanmar và Việt Nam đều chia sẻ biên giới khá dài với Trung Quốc nhưng Việt Nam với Biển Đông như là một bao lơn nhìn ra Thái Bình Dương đã trở thành mục tiêu xâm lăng đầu tiên của Trung Quốc. Trong gần 30 năm dưới thời quân phiệt, bị quốc tế cô lập, Trung Quốc là nước độc nhất ủng hộ Myanmar tại Liên Hiệp Quốc. Kể từ khi tổng thống Thein Sein lên nắm quyền từ 2011, Myanmar bắt đầu một số động tác có tính chất dần dần tách khỏi quỹ đạo thân Trung Quốc trước đây. Trung Quốc là một yếu tố mà cả Việt Nam và Myanmar không thể bỏ qua được khi hoạch định chính sách của mình. Hy vọng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và các cường quốc trong vùng như Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, hai nước Myanmar và Việt Nam có thể tìm được một thế cân bằng trong mối bang giao với người khổng lồ Trung Quốc phía Bắc. NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA MYANMAR LIÊN HỆ GIỮA VIỆT NAM - MYANMAR VỚI TRUNG QUỐC Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến xung đột vũ trang giữa Việt Nam với Campuchia và Trung Quốc trong lịch sữ cận đại. Ngay trước khi Việt Nam thống nhất, Trung Quốc đã có những hành động muốn giữ nguyên trạng. Một nước Việt Nam thống nhất sẽ là một cản lực lớn trong âm mưu tiến về phía Nam của Trung Quốc. Sau chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tháng 5 năm 1975, quân đội Khmer đỏ đã tấn công đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam. Từ năm 1975-1978, tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra thường xuyên, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, quân đội Khmer đỏ nhiều lần tiến hành các cuộc đột kích vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Trong thời gian tiếp đó, số lượng cố vấn Trung Quốc tại Campuchia đã lên tới 20,000 người. Vào tháng 12 năm 1978, quân Khmer đỏ mở các cuộc tấn công lớn vào các tỉnh biên giới từ Tây Ninh đến Kiên Giang, thị xã Hà Tiên bị chiếm. Việt Nam ở trong tình trạng phải giải quyết vấn đề. Trong các giải pháp xấu, Việt Nam đã chọn giải pháp ít xấu nhất. Quân đội Việt Nam tổ chức phản công, tới ngày 7 tháng 1 năm 1979, họ tiến quân vào thủ đô Phnom Penh, ngày 8 tháng 1. Sự kiện Việt Nam phản công và lật đổ chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia là một cái cớ để Trung Quốc vốn ủng hộ chế độ Khmer đỏ có lý do tấn công xâm lược Việt Nam với tuyên bố của Đặng Tiểu Bình "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học". Ngày 17 tháng 2 năm 1979, với một lực lượng khoảng 300,000 quân, Trung Quốc đã bất ngờ tất công vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam từ Móng Cái tới Lào Cai, sau đó đã chiếm được thủ phủ các tỉnh này. Sau những bất ngờ ban đầu, Việt Nam đã tổ chức phản công lại và cùng với những quân đoàn thiện chiến được chuyển từ chiến trường Campuchia ra đã dần giành lại được lợi thế, tới ngày 18 tháng 3 năm 1979 Trung Quốc tuyên bố rút quân. Sự kiện này đã gây nên cuộc khủng hoảng "nạn kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người Hoa và Việt gốc Hoa chạy khỏi Việt Nam về Trung Hoa hoặc gia nhập nhóm “thuyền nhân” chạy sang nước khác. Cuộc chiến này cũng đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hơn 13 năm sau tới năm 1992, hai nước mới bình thường hóa lại quan hệ ngoại giao. Việt Nam cũng phải chịu sự cô lập từ quốc tế. Tháng 3 năm 1988 Trung Quốc mở cuộc hải chiến vào các bãi đá Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa và chiếm đóng Gạc Ma của Việt Nam. Trong khi đó, Myanmar là nước may mắn không có xung đột vũ trang với Trung Quốc. Trước 2011, Trung Quốc là nước độc nhất ủng hộ Myanmar tại Liên Hiệp Quốc. Ai cũng biết Trung Quốc chẳng tử tế gì với Myanmar. Trung Quốc cần tuyến giao thông từ Vân Nam vào biển Andaman trong trường hợp eo biển Malacca bị phong tỏa cũng như các tài nguyên khoáng sản của Myanmar. Nếu Trung Quốc đánh gục được Việt Nam thì bất chiến tự nhiên thành, các nước Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia cũng từ từ rơi vào tay Trung Quốc. DÂN CHỦ HÓA Nhìn lại bối cảnh lịch sử từ năm 1948, Myanmar đã trở thành một nước cộng hòa độc lập dưới tên Liên bang Myanmar với Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia. Dù rằng sau đó, đã có một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win cầm đầu và quân đội đã nắm chính quyền trong 26 năm nhưng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ do Aung San Suu Kyi lãnh đạo vẫn là lực lượng đối lập được đa số dân chúng ủng hộ. Trong cuộc bầu cử 1990, đảng của bà đã thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Kết quả của cuộc bầu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Tổng thống Thein Sein nhậm chức kể từ 2011 và bắt đầu thi hành những cải tổ cần thiết. Ngày 8/11/2015, hàng chục triệu người dân Myanmar đã đi bỏ phiếu với kỳ vọng vào tương lai trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1990 và đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ (NLD) lại một lần nữa chiến thắng áp đảo. Như vậy, khác với Việt Nam, dân chúng Myanmar đã có một truyền thống dân chủ kể từ 1948. NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA VIỆT NAM ĐỔI MỚI KINH TẾ Năm 1986, Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi mới", cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Công cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất khẩu. Trước 1989, Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu: 1-1.5 triệu tấn gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm: 4.5 triệu tấn (năm 2004), 4.9 triệu tấn (năm 2005), đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67.4%) và năm 2005 lạm phát chỉ còn 8.5%. Năm 2004 Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 7.7%, đứng vị trí thứ hai trong khu vực sau Singapore. Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau 11 năm đàm phán. Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Đến năm 2015, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ. Cuối năm 2015, hiệp ước TPP mà Việt Nam là 1 thành viên đã được mọi nước chấp thuận. Những điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam tính đến 2015: Việt Nam đã vượt trên Philippines và Thái Lan, hướng tới soán ngôi Singapore để trở thành nhà xuất khẩu điện tử lớn thứ năm trong khu vực trong hai năm tới, DBS dự đoán. Phòng Thương mại Mỹ (AmCham) tại VN vừa đưa ra dự báo xuất khẩu của VN vào Mỹ trong năm nay đạt khoảng 29.4 tỉ USD, lần đầu tiên đứng đầu ASEAN về xuất khẩu vào thị trường này. Ngân hàng Đầu tư Goldman Sachs đặt tên 11 thị trường mới nổi tiếp theo ra đời như một cách để giúp các nhà đầu tư chú ý hơn đến các nền kinh tế đang phát triển khác ngoài các quốc gia BRICS. N-11 bao gồm Bangladesh, Ai Cập, Mexico, Indonesia, Iran, Nigeria, Pakistan, Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc và Việt Nam. Theo báo cáo xếp hạng các quốc gia thịnh vượng nhất thế giới của Viện Nghiên cứu Legatum, Việt Nam đứng thứ 55, tăng một bậc so với năm ngoái và tăng 7 bậc so với năm 2013. Năm nay thứ bậc xếp hạng của Việt Nam cao hơn Nga ba bậc (đứng thứ 58), hơn Indonesia 14 bậc (thứ 69). Theo Phòng Thương mại và Đầu tư Anh quốc, Việt Nam được dự báo sẽ trở thành một trong 10 nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong một vài thập kỷ tới. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs mới đây cũng đã dự báo nền kinh tế Việt Nam, hiện đứng thứ 55 trên thế giới, sẽ vươn lên vị trí 17 vào năm 2025. Trong khi đó, kinh tế Myanmar trước năm 2011 là một trong những nền kinh tế kém phát triển nhất thế giới, đã phải chịu hàng thập kỷ trì trệ do quản lý yếu kém và cấm vận quốc tế. Năm 2011, khi chính phủ của tân thủ tướng Thein Sein nắm quyền điều hành đất nước, Myanmar đã thi hành một chính sách cải cách nhiều mặt bao gồm việc chống tham nhũng, chỉnh sửa tỷ giá hối đoái, sửa luật đầu tư nước ngoài và thuế. Đầu tư nước ngoài tăng từ 300 triệu USD trong năm 2009-10 lên 20 tỷ USD trong năm 2010-11, tương đương 667%. GDP của Myanmar là 113 tỉ USD (ước lượng 2013) so với 184 tỉ của Việt Nam (2014). Trong báo cáo công bố cuối năm 2015, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự đoán kinh tế Myanmar sẽ đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 9.5% vào năm 2030 và thu nhập bình quân đầu người của Myanmar cũng sẽ tăng từ mức 900 USD hiện nay lên gần 5,000 USD trong năm 2030. KHÔNG CÓ XUNG ĐỘT VỀ SẮC TỘC VÀ TÔN GIÁO Nếu so với Myanmar thì Việt Nam có những điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều lần: một đất nước không có mấy các xung đột về sắc tộc và tôn giáo. Trong cuộc chiến biên giới 1979 mà mổi bên thiệt hại mấy chục ngàn người thì sự thiệt hại về phía Việt Nam là các dân quân người thiểu số sinh sống dọc biên giới Trung-Việt. Trong khi đó, tại Myanmar, với dân số khoảng 55 triệu người mà sắc tộc chính là Burmese (Bamar) chỉ chiếm có 68% lại có đến 135 “chủng tộc quốc gia chính thức” trong đó có 8 nhóm chính như Shan, Karen, Kachin, Roghingya … chiếm đến 32% dân số Myanmar. Theo LHQ, tình hình tại Miến Điện cho thấy các vấn đề nội bộ, nhất là thù hằn sắc tộc và tôn giáo, vẫn còn sâu nặng, và tạo điều kiện cho tác động từ bên ngoài. Cùng lúc, hòa giải giữa các nhóm sắc tộc ly khai tại bang Kachin (540,000 tới 1- 1.5 triệu người), người Shan giáp Vân Nam với chính quyền Miến Điện vẫn chưa có cơ hội hoàn tất, dù đã có Trung Quốc vừa đóng vai trò trung gian vừa là kẻ gây ảnh hưởng. Ngoài ra, ước tính có khoảng 800,000 người Rohingya ở bang Rakhine miền Tây Nam, tuy nhiên họ thường được biết đến dưới cái tên là "người Bengal", tức những người đến từ quốc gia láng giềng Bangladesh. Người Rohingya theo Hồi giáo, không có quyền công dân theo hiến pháp Miến Điện. Người theo Phật giáo và Hồi giáo ở bang Rakhine tấn công lẫn nhau, khiến chính phủ phải ban bố tình trạng khẩn cấp và ra lệnh giới nghiêm ở một số khu vực. Chính quyền Myanmar, dù là quân đội hay là đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ (NLD) mà bà Aung San Suu Kyi là lãnh tụ, vẫn có sự đồng ý ngầm trong chiến lược đối phó với các nhóm sắc tộc. blank Các nhóm chủng tộc tại Myanmar ĐƯỜNG ĐI CỦA VIỆT NAM Nếu so sánh với Việt Nam thì Myanmar may mắn hơn nhiều, một phần nhờ hoàn cảnh lịch sữ, phần khác nhờ bản sắc dân tộc. Bà Aung San Suu Kyi một lãnh tụ đối lập đấu tranh không mỏi mệt trong 24 năm qua với chủ trương bất bạo động. Bà đã bị chính quyền quân sự quản thúc tại gia 21 năm nhưng may mắn vẫn sống còn. Khi kết quả bầu cử mang lại chiến thắng vang dội cho NLD trong năm 2015, rất nhiều người ca ngợi bà Aung San Suu Kyi là vĩ đại, nhưng bên cạnh đó Tổng thống đương nhiệm Thein Sein cũng hoàn toàn xứng đáng là người anh hùng của dân tộc Myanmar trong lịch sử hiện đại. Nếu không có Thein Sein thì cuộc bầu cử không thể diễn ra như mong đợi của bà Aung San Suu Kyi và nhân dân Myanmar. Rất tiếc, Việt Nam không có những người như bà Aung San Suu Kyi và Tổng thống Thein Sein đã đặt quyền lợi quốc gia lên trên những khác biệt về ý thức hệ. Về phần Việt Nam, dù rằng ở trong một thể chế khác, trong thập niên 80, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã bàn cùng một số người khác, trong đó có Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đến thăm Myanmar để có cuộc gặp gỡ với những người lãnh đạo của Myanmar lúc bấy giờ là ông Thống chế Than Shwe. Và họ có nói với nhau rất nhiều những việc là làm sao có thể trao đổi những kinh nghiệm để tiến lên cho cả hai bên. Rất tiếc là những trao đổi như thế sau này bị ít đi và kết quả không được rõ lắm. Trong thời gian vừa qua, những nhà bình luận và đấu tranh trong nước thích dùng chữ “thoát Trung”. Dù rằng muốn nói lên sự lệ thuộc của Việt Nam đối với Trung Quốc, đây là danh từ mang nhiều cảm tính và tiêu cực. Thực tế là sự mất cân bằng giữa Việt Nam và Trung Quốc trên các phương diện kinh tế, quân sự. Với sự hoàn tất của hiệp ước TPP, kinh tế của Việt Nam trong 10, 15 năm nữa sẽ đủ mạnh để có sự cân bằng với Trung Quốc. Hợp tác với các cường quốc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi và một vài nước ASEAN cùng chung hoàn cảnh, Việt Nam sẽ có đủ sức về mọi phương diện để tạo một thế đối trọng với Trung Quốc hầu đem lại ổn định và thịnh vượng cho mọi quốc gia trong vùng. Một cách khách quan thì không có gì nhiều để Việt Nam học hỏi từ Myanmar ngoài vấn đề dân chủ hóa. Việt Nam cần có một sự liên hệ chiến lược với Myanmar trong mọi lãnh vực vì Myanmar trong thời gian sắp đến có tiềm năng tăng trưởng rất lớn. Nếu Việt Nam không giữ được mức phát triển tương đương thì khả năng Myanmar vượt qua Việt Nam là điều chắc chắn. Có nên học hỏi điều gì từ Myanmar là vấn đề của những người lãnh đạo Việt Nam. THAM KHẢO Các mạng BBC, VOA, RFI và RFA. Các mạng trong nước và hải ngoại. Myanmar - Wikipedia tiếng Việt. Việt Nam - Wikipedia tiếng Việt. Bài viết “NMT-103115-Thâm thủng mậu dịch Việt Nam-Trung Quốc” Bài viết “NMT-072115-QT-H ệ thống kinh tài Trung Quốc” Hồ sơ: NMT-113015-QT-Myanmar va Vietnam.doc Nguyễn Mạnh Trí E-Mail: prototri2012@yahoo.com Tu chỉnh: 30 tháng 11 năm 2015
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2023 13:31:56 GMT 9
Chiêm ThànhĐầu Thế kỷ IX (SCN) Giao Châu tách khỏi Liên Bang Đại Đường, chỉ hơn thế kỷ sau đã thành một quốc gia ương ngạnh, hung hãn ở phương Nam. Tai họa, nỗi thống khổ bi ai cho người Chiêm bắt đầu từ đó. Kỳ 2: Indrapura diệt vong, cuộc hôn nhân chính trị Chế Mân - Huyền Trân công chúa Người Chiêm thuộc giống Nam Đảo, mắt sâu, mũi thẳng, tóc xoăn rõ ràng dị chủng so với Đại Việt vốn là thứ dân hỗn tạp phần đa đã hòa huyết với Hán tộc mà thành. Sắc dân này không giỏi làm lúa, mà thạo việc đi buôn đường biển, họ thường đánh cướp các xứ lân bang cướp tải sản, súc vật, đem về, còn tù binh thì bán làm nô lệ. Những lão già Chăm - Ảnh Sông Hàn chụp lại tại khu Tháp Ponaga - Khánh Hòa Vàng son một thủaQuãng cuối Thế kỷ II, tại huyện Tượng Lâm (có lẽ là vùng từ Quảng Bình vào đến đèo Hải Vân), Khu Liên (tên một thủ lãnh quân sự, hoặc một danh xưng của người bản địa dành cho một nhân vật có quyền lực và đáng kính trọng) đã đánh lùi được ách đô hộ của người Hán, kiến quốc lập đô. Vậy là Lâm Ấp ra đời. Trong khi đó các cư dân Nam Đảo di cư tới miền trung Việt Nam cũng dần dần hình thành những thực thể quốc gia. Không gian văn hóa Chăm mở ra bao gồm toàn bộ miền Trung Việt Nam ngày nay. Chăm Pa đại thể gồm 5 tiểu quốc là Indrapura (vùng Quảng Bình, Quảng Trị - tương đương với lãnh thổ Lâm Ấp) - Amaravati (vùng Quảng Nam, Thừa Thiên) - Vijaya (Bình Ðịnh) - Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa) - Panduranga (Phan Rang, Phan Rí). Các tiểu quốc này nhiều khi còn khởi binh chinh phạt lẫn nhau như trường hợp Dương Mại II chạy nạn Đàn Hòa Chi cũng tiện tay chiếm luôn Vijaya, Kauthara; Panduranga sau này cũng tấn công vào Vijaya. Giới quý tộc Chăm ban đầu tiếp nhận Ấn Giáo hình thành nên một khu biệt văn hóa đối xứng với phương Bắc là Giao Chỉ chịu ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc. Điều đặc biệt là người Chăm rất ham viễn du, các bi ký của họ còn kể về những người Chăm đã việt biển sang Ấn Độ, hoặc sang tận Ả Rập học đạo. Sau này Chiêm Thành còn tiếp nhận cả Phật giáo (tiểu thừa), Hồi giáo. Từ kiến trúc, đến vũ điệu, âm nhạc, cái gì người Chăm cũng không kém cạnh Việt tộc, thậm chí còn ưu việt hơn. Người Chăm kiểm soát việc buôn bán hương liệu, gốm sứ, tơ lụa giữa hai thế giới China và Ấn Độ. Vì quảng đại giao thương mà Chăm giầu có, họ xây lên các tháp cho việc thờ phụng (ngày nay ta gọi là Tháp Chàm), thánh địa Mỹ Sơn – Quy mô kiến trúc – thổ mộc còn bằng mấy lần Đại Việt thời hưng thịnh. Đến thường dân cũng may vàng vào quần áo; và có thời kỳ ánh sáng Lâm Ấp tỏa ra khắp vùng Đông Nam Á, khiến các nước trong khu vực lần lượt tìm tới cầu thân. Năm 446, Đàn Hòa Chi đã thực hiện cuộc tấn công cướp phá Lâm Ấp đem về cho Lưu Tống tới hơn 10 vạn cân vàng. Liên bang Chiêm Thành (Xương tinh và Bà Rịa nằm phía nam Chiêm Thành, tương ứng với đất Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa Vũng Tàu ngày nay) - nguồn Wiki Liên bang Chăm trước có kinh đô ở miền Quảng Nam, tức là thành Sư Tử, sau đổi lên Phật Thệ (Tại Hương Thủy - TTH) và Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn) là kinh đô danh tiếng cuối cùng của Chiêm quốc. Khi mà người Việt còn là dân Giao Châu, thuộc về Đế quốc Trung Hoa thì Liên bang Chăm đã hùng mạnh ở phương nam, họ mấy lần đánh trả phương Bắc xâm lăng, có thời kỳ táo gan vua Chăm còn đệ đơn xin Thiên tử cho cai quản Giao Châu. Sử Việt mỉa mai rằng con ếch mà lại muốn nuốt con bò. Về quân sự, họ thạo nhất là Thủy hải chiến, từng dùng thủy binh đi xuyên qua sông Cửu Long, ngược lên tận hồ Tonlé Sap đánh bại thủy quân của Đế chế Kh’me giết chết cả quân vương nước này. Ở phía Bắc, nếu không ưng ý với Thiên tử, hoặc chính quyền Giao Châu, Thủy Quân Chăm sẵn sàng vượt biển đánh phá, cướp bóc. Sau này đại chiến Trần – Chiêm; Chế Bồng Nga cũng dẫn thủy quân công phá đánh cho quân nhà Trần thất điên bát đảo, Nghệ Tông phải bỏ cả kinh thành chạy trốn. Oai hùng giầu sang là thế, nhưng thời đại trầm luân, ngàn năm thống khổ bi ai của người Chiêm bắt đầu đấy là khi người Việt lập quốc, rồi tự cho mình là hoàng đế của phương Nam bắt lân bang triều cống. Ngàn năm, trước sau Chiêm Thành đại chiến với người Việt mười lần. Từ Tiền Lê đến Nguyễn Triều, triều đại nào của người Việt cũng sẵn lòng đổ thêm nỗi thống khổ, bi ai cho người Chiêm. Tháp Chàm loang máuViệt tộc lập quốc, lãnh thổ ven vùng châu thổ sông Hồng, vùng trung du phụ cận, đồng bằng và trung du Thanh – Nghệ. Nhờ cư trú ven các con sông nên nông nghiệp rất phát triển, lương thực đủ đầy, lại học theo cách trị nước của Trung Quốc nên sớm trở nên hung hãn. Đại Việt bắc phạt chiếm hết đất của Tày – Nùng, Tây bình nuốt trôi đất của Ngưu Hống (tức là quốc gia người Thái ở miền Tây Bắc ngày nay), Nam tiến chuốc bi ai cho Chiêm Thành. Người Chiêm cũng nhận thức rõ mối đe dọa từ Đại Việt. Đặc biệt là từ khi Lý triều thành lập, các vị quốc vương đều chú ý tới phương Nam lập ra các kho đụn tích trữ của cải và miền Thanh – Nghệ thì sầm uất bởi các hoạt động buôn bán đường biển. Họ sợ người Việt mạnh lên sẽ thế chân họ trong dòng thương mại biển Đông. Cuộc cướp phá đầu tiên mà người Việt nhắm vào Chiêm Thành diễn ra vào năm 982. Lê Hoàn thân đánh Chiêm thành cướp sạch vàng bạc, mỹ nữ, tàn phá thành trì, hủy bỏ đền thờ, mồ mả. Sau Tiền Lê đến Lý cũng được thể hà hiếp, cướp đất, giết vua Chiêm thành, cướp của giết người không từ một thứ gì. Lý Thái Tông giết vua Chiêm Sạ Đẩu, lại toan hiếp vợ của ông ấy là nàng Mị Ê, giết cả vạn dân Chiêm, bắt 5000 người đem về. Lý Thánh Tông nam chinh cũng cướp bóc, đánh giết khốc liệt không kém. Ông bắt người Chiêm 5 vạn đem về làm nô lệ. Đến thời Lý, coi như Chiêm Thành đã mất gần hết tiểu bang Indrapura bao gồm toàn bộ lãnh thổ từ nam Cửa Sót đến đất Quảng Trị, đến thời Trần, họ mất toàn bộ phần bắc đèo Hải Vân. Một tháp Chăm tại Phú Yên - photo by Sông Hàn Cái đốm sáng duy nhất trong cuộc trường chinh kháng Việt của Chiêm thành ấy là sự xuất hiện của vị vua lẫy lừng Chế Bồng Nga. Trong hơn 20 năm, vị quân vương này đánh cho quan binh nhà Trần thất điên bát đảo, giết chết Trần Duệ Tông trong đại chiến Đồ Bàn (1377), 12 lần bắc tiến lấy lại hết đất cũ Chiêm Thành khiến Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phải bỏ cả kinh thành chạy trốn. Không may cho Chiêm Thành, năm 1389, Chế Bồng Nga bị súng thần công của Đại Việt – do Trần Khát Chân chỉ huy – bắn chết. Sau cái chết của ông Chiêm suy vi không gì cứu vãn. Đến khi Lê Thánh Tông hạ Đồ Bàn (1471), chiếm đất lập làm Thừa tuyên Quảng Nam thì coi như Chiêm Thành chỉ còn chờ ngày mất nước. Các tiểu quốc Chiêm mỗi lần đứng lên chống Việt tộc xâm lăng lại chỉ nhận được kết cục là thành bị phá, vua bị giết, dân bị bắt làm nô lệ. Người Việt cướp giết người Chiêm chưa đủ lại cướp luôn cả nơi thờ tự của họ. Đến Minh Mạng Nguyễn triều, tiểu quốc cùng còn giữ nền tự trị của người Chiêm là Thuận Thành bị đổi thành phủ Ninh Thuận, Minh Mạng ban lệnh cho quân lính sáng phải cắt ba đầu Chiêm mới được nhận lương. Chiêm Thành rực rỡ vàng son đã lụi tàn để lại nỗi thống hận Đồ Bàn. Tháp Chàm rêu phong, rỉ máu, mả Hời đêm nghe tiếng vong khóc hờ thống thiết. Nhưng vì sao người Việt chăm chỉ thảo phạt Chiêm thành như vậy? Mỗi lần thảo phạt đều tuân theo cách tam quang (Đốt sạch, giết sạch, phá sạch). Đó chẳng phải vì sinh tồn mà vì lợi. Chiêm Thành giầu có, là một quốc gia quật cường, đối thủ số 1 của người Việt trong hành trình tranh bá phương Nam, đập bỏ uy thế Chiêm Thành, lân bang không ai là không khiếp sợ Đại Việt. Vàng bạc châu báu, mỹ nữ, nô lệ được cướp từ Chiêm về càng làm tăng uy thế và sự giầu có cho các quân vương Đại Việt. Quan trọng hơn tiêu hủy một cường quốc thương mại biển người Việt mới có thể soán ngôi Chiêm Thành trở thành một trạm chung chuyển trên con đường tơ lụa biển Đông. *********************** Chiêm Thành kỳ 2: Đại Việt xâm lăng, Indrapura diệt vongNhiều người Việt Nam chúng ta biết về Chiêm Thành nhưng không biết về một liên bang đa chủng tộc từng rất giàu có nằm tại duyên hải miền Trung. Nhiều người trong chúng ta biết về những tháp Chàm nhưng không biết về chữ Chăm và rằng người Việt với rất nhiều nỗ lực vẫn không thể có được chữ viết của riêng mình. Nhiều người trong chúng ta biết thanh gươm mở cõi nhưng không biết đến những cuộc cướp bóc kiểu tam quang mà cha ông đã tiến hành với người Chăm trong suốt ngàn năm. Quãng Thế Kỷ IX, Thế Kỷ X, trên vùng đất từ nam Cửa Sót (Hà Tĩnh) vào tới tận sát Bà Rịa, là lãnh thổ Liên bang Chăm gồm 4 tiểu quốc: Indrapura, Vijaya, Kauthara, Panduranga. Riêng Panduranga nằm trong không gian văn hóa Chăm, chung biên giới chính trị Chiêm Thành nhưng là một tiểu quốc được nhận định là ương ngạnh, ưa phản loạn, thậm chí nếu cần còn sẵn lòng đánh trả lại chính quyền trung ương. Indrapura nổi lên như vương quốc đứng đầu trong liên hiệp các tiểu quốc Chăm (hoặc Liên bang Chăm). Tiểu vương quốc này có lãnh thổ từ nam cửa Sót (Hà Tĩnh) đến hết đất Quảng Nam. Trong đó, phần đất nam Cửa Sót – Bắc Hải Vân là Lâm Ấp của Khu Liên khi xưa; nam Hải Vân đến giáp ranh Bình Định thuộc về tiểu quốc Amaravati. Có lẽ trong thời kỳ Hoàn Vương Quốc, Amravati đã thống nhất với Indrapura chăng? Sự suy vong của Indrapura - Ảnh Bảo tàng nhân học - ĐH KHXH và NV Hà Nội Kinh đô của Indrapura ban đầu nằm ở Quảng Nam sau đó thiên di ra phía Bắc đặt tại Thừa Thiên Huế ngày nay tức là thành Phật Thệ còn được dân gian gọi với cái tên thành Lồi. Đại Việt tấn công, Indrapura mất nửa lãnh thổThế kỷ X, Đại Việt kiến quốc, sức nước hùng mạnh; vàng của Chiêm Thành cũng hấp dẫn quân vương Đại Việt không kém gì vàng của Quảng Nguyên (Cao Bằng). Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh trù phú lên, con đường thông thương qua Khai Trại (có thể là cửa khẩu Cầu Treo ngày nay) nối thông vùng đất này với Chân Lạp, Ai Lao. Đại Việt gây sức ép nặng nề lên Indrapura, chiến tranh bùng phát. Cuộc chiến Đại Việt – Chiêm Thành thế kỷ X – XI có lẽ chỉ giới hạn trong chiến tranh Việt và Indrapura, Kinh đô Chiêm là Phật Thệ ở Thừa Thiên Huế ngày nay bị tàn phá, chứ không phải là thành Đồ Bàn (tại Bình Định) như vẫn lầm tưởng. Thành Phật Thệ - thành Lồi - giờ chỉ còn là đống đổ nát hoang vu (nguồn VNEX) Quy mô, sự đẫm máu của cuộc chiến này chỉ hơn chứ không kém các cuộc chiến mà người Việt chống lại phương Bắc xâm lăng. Về phía Chiêm Thành, Vijaya và các tiểu vương quốc phía nam không bị tàn phá. Trong 87 năm, Đại Việt ba lần kéo đại binh chinh phạt Chiêm Thành. Năm 982, sau chiến thắng Tống, Lê Hoàn viện cớ Chiêm giam giữ sứ của Đại Cồ Việt, kéo quân đánh, tàn phá kinh đô Phật Thệ; năm 1046, Lý Thánh Tông đánh Chiêm cướp phá thành trì, bắt vợ vua Chiêm cùng 5000 tù binh, vàng bạc đem về; ít nhất vài vạn người Chiêm chết trong cuộc chiến này; năm 1069 Lý Thánh tông đánh Chiêm bắt 5 vạn tù binh. Đó là chưa đến kể những lần tấn công Chiêm Thành của nhà Tiền Lê (vào các năm 995, 997), các cuộc tấn công của các thân vương, đại quan nhà Lý như thái tử Phật Mã (sau là Lý Thái Tông), Lý Thường Kiệt... Trong khi đó tại biên giới phía Bắc, sau hai lần chiến tranh, Tống Việt hữu hảo tới hàng trăm năm. Nhiều khi chiến tranh nổ ra bởi những lý do nghe ... rất buồn cười. Đại Việt sử ký toàn thư chép lại việc Lý Thái Tông hỏi quần thần như sau: "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ gì? Uy đức của trẫm không đến họ chăng? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở chăng?". Thế là Đại Việt viễn chinh, chiến tranh bùng phát. Sử sách của Việt Nam thường cho rằng Chiêm Thành chủ động gây ra chiến tranh: họ quấy rối biên giới, hoặc liên kết với Tống để xâm lăng Đại Việt. Nhưng thực tế, để chinh phục Indrapura giầu có, Đại Việt đã dày công chuẩn bị cả trăm năm trời. Lê Hoàn sau khó nhọc trên đường hành quân nam chinh, đã quyết định dốc nhân lực, vật lực quốc gia đào kênh nối kinh sư (Hoa Lư) tới tận Cửa Sót, Lê Long Đĩnh tiếp tục hoàn thiện kênh đào này. Thái tổ Lý Công Uẩn cử con thứ là Lý Nhật Quang đến trấn nhậm tại Nghệ An, lập ra vài trăm kho lương, hàng trên khắp chiều dài Thanh Nghệ, Thái tử Phật Mã (con Lý Thái Tổ) kinh lý phương Nam, đánh trả Chiêm thành... Cùng với khai hoang, lập ấp, sự chuẩn bị trên đã khẳng định quyền lực của Thăng Long tại vùng đất Nghệ An – Hà Tĩnh, cung ứng đủ lương thảo, hậu cần cùng các thông tin cần thiết cho các cuộc viễn chinh sau này. Từ việc đơn thuần là đánh cướp tài sản, nhân lực, Đại Việt giờ đã hoàn toàn đủ sức mạnh để thôn tính đất đai của Chiêm Thành, bành trướng lãnh thổ. Áp lực của Đại Việt lên Indrapura lớn đến nỗi tiểu vương quốc này không chống lại thì bị mất nước bởi kế sách tằm ăn dâu, chống lại thì Đại Việt phát động đại xâm lăng. Sau ba lần chinh phạt quy mô lớn, cùng vô vàn các cuộc trấn áp, bình định, hăm dọa, Indrapura oai hùng một thủa bị khuất phục. Họ mất 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh, lãnh thổ chỉ còn lại vùng đất tương ứng với Huế và Quảng Nam – Đà Nẵng ngày nay. Văn bia của Harivaman ghi lại: Kẻ thù đã vào vương quốc Champa, tự xưng là những kẻ cầm quyền; đã cướp đi tài sản của hoàng gia và của cải của chư thần; đã phá hủy đền thờ, tu viện, nơi an cư, làng mạc và các tự viện khác cùng với ngựa, voi, trâu bò và mùa màng; đã hủy diệt mọi thứ trong các tỉnh thành của vương quốc Champa; đã cướp đoạt những ngôi đền thờ thần Srisanabhadresvara và tất cả những phẩm vật mà các vị vua trước kia đã phụng hiến cho thần Srisanabhadresvara; đã vơ vét tất cả của cải của thần và cướp đi những nhân sự tùy thuộc ngôi đền, các vũ nữ, nhạc công… những người phục dịch cùng với tài sản trù phú của Srisanabhadresvara; ngôi đền bị cướp sạch và bỏ phế… Lưỡi gươm mở cõi đã làm tam hoang kinh thành Phật Thệ, hàng vạn tù binh Chiêm bị bắt về được các vua Lý cho lập trại ở rải rác từ Nghệ An ra tới tận Phú Thọ, vàng bạc theo đó chất đầy trong kho triều Lý, văn hóa (kiến trúc, phật giáo Tiểu Thừa) du nhập ra bắc. Indrapura đã cố gắng phục hưng sau cuộc chiến 1069, nhưng sau đó họ tiếp tục gặp rắc rối với các cuộc tiến công của Chân Lạp tức là đế quốc Kh’me và áp lực của Đại Việt vẫn không ngừng gia tăng. Tiểu quốc Indrapura suy vong, vai trò của Vijaya nổi lên. Hôn nhân chính trị Huyền Trân – Chế Mân: xóa sổ Indrapura; sự hưng vượng của Vijaya Đại Việt sử ký toàn thư chép: sau khi trở về từ Vijaya, năm 1305, Trần Nhân Tông đã quyết định gả con gái Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Đó là cuộc hôn nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Để cưới được cô công chúa của Đại Việt, nhà vua Chế Mân đã phải dâng 2 châu Ô – Lý làm lễ vật. Nhưng! Chiêm Thành theo thể chế Liên Bang mà Vijaya có lãnh thổ tại khu vực Bình Định ngày nay lại chỉ là một trong các tiểu vương quốc trong liên bang đó. Chế Mân có quyền gì mà cắt đất vốn chẳng phải của mình cho Đại Việt làm đồ dẫn cưới? Chế Mân vốn là anh hùng chống Toa Đô, cũng là vị minh quân của Vijaya, sao lại hám công chúa Đại Việt đến mức cắt đất làm quà cưới? Và đặc biệt, người Chăm theo Mẫu hệ, phụ quyền. Đàn ông làm chủ gia đình, nhưng mọi tài sản kể cả đất đai lại thuộc về người vợ. Vua nắm quyền lực chính trị, quân sự nhưng đó là để bảo vệ tài sản của Hoàng Hậu, ông không được quyền đem bán, đổi chác bất cứ cái gì thuộc về tài sản của bà. Ngai vàng vua Chăm còn có thể được chọn từ các thân tộc họ vợ, ngai vàng đó cũng được coi là một tài sản của Hoàng Hậu. Thế thì chuyện Chế Mân dám cắt đất nhà vợ để lấy thêm vợ mới càng trở lên vô lý. Điều gì lý giải việc Chế Mân cắt Ô, Lý làm quà dẫn cưới Huyền Trân công chúa? Bước vào giữa thế kỷ XIII, một tai họa mới ập đến cho cả Đại Việt và Chiêm Thành, đó là cuộc xâm lăng của Mông Nguyên. Trong vòng 30 năm từ 1258 đến 1288, Đại Việt phải chống trả rất vất ba cuộc tấn công của quân Mông Cổ, sau này là nhà Nguyên. Trong khi đó tiểu vương quốc Vijaya phải chống đỡ trước cuộc tấn công của thủy binh Toa Đô (một danh tướng nhà Nguyên). Sau chiến tranh, cả Đại Việt và Vijaya đều bị tàn phá nặng nề, riêng Đại Việt còn phải tiến hành chiến tranh với Ai Lao hao tổn rất nhiều nhân lực, tiền của. Có lẽ cư dân trên tiểu vương quốc Indrapura cho rằng đây là cơ hội để họ khôi phục lại lãnh thổ cũng như uy thế của Lâm Ấp thủa nào. Phần đất Nam đèo Hải Vân và Thừa Thiên Huế lúc này vẫn là lãnh thổ của họ, phần từ nam Cửa Sót đến hết Quảng Trị đã bị Đại Việt thôn tính. Liên minh Đại Việt – Vijaya (vốn được hình thành từ cuộc chiến chống Mông – Nguyên) lập tức đối phó. Năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông kinh lý phương Nam, sang tới tận Vijaya kết thân với Chế Mân. Ông ở lại thành Vijaya (Đồ Bàn) hơn tám tháng trời. Trong tám tháng đó, không biết hai vị quân vương đã định ước với nhau những gì? Rất có thể, hai bên đã đi đến thống nhất việc xóa sổ và chia nhau lãnh thổ Indrapura chăng? Theo đó, quân Trần nam tiến chiếm nốt phần phía bắc của tiểu quốc này là Ô, Lý rồi đổi thành Thuận Châu, Hóa (Huế) châu; Vijaya bắc tiến lấy hết phần đất phía nam. Đèo Hải Vân thành biên giới mới giữa Việt với Chiêm. Huyền Trân được coi như một biểu tượng, hoặc đơn giản là làm tin để củng cố thêm liên minh giữa Đại Việt với Vijaya. Và để con tin này đến được Vijaya phải mất tới 5, 6 năm trời. Với sức mạnh của Liên minh Đại Việt - Vijaya, Indrapura bị thôn tính hoàn toàn. Từ đầu thế kỷ thứ XIV, sử sách Đại Việt ghi lại những lần cứ sứ đoàn đến Đồ Bàn - tức Vijaya, và không còn đề cập tới thành Phật Thệ thủ phủ của Indrapura. Sau khi thôn tính xong phần lãnh thổ của Indrapura, Vijaya hùng mạnh làm bá chủ không gian chính trị Chiêm Thành, họ đủ tự tin để cất quân viễn chinh Đại Việt. Chế Bồng Nga – Vua của Vijaya đã ít nhất 12 lần bắc tiến, chiếm lại hầu hết đất cũ của Liên bang Chiêm Thành, đánh ra tới tận Thăng Long, tàn phá kinh đô Đại Việt. Nếu ông không bị đại bác của Trần Khát Chân bắn trúng (1390), có lẽ lịch sử và những quốc gia ở Đông Dương đã thay đổi.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2023 14:40:36 GMT 9
Một số hồ nghi về chiến tranh Việt – Chiêm thế kỷ X - XINói về chiến tranh Việt – Chiêm, sao lục ra thì hàng chục tài liệu, đông tây kim cổ đủ cả, người đọc nhìn rất hoa mắt đau đầu, mà viết theo lối từ chương, trích dẫn đủ tài liệu tham khảo cũng khiến bố cục bài vở trở thành một thứ nghiên cứu nửa mùa rất thiếu tính hấp dẫn. Vũ nữ đài thờ Trà Kiệu, điêu khắc Champa thời Trà Kiệu, thế kỷ 10, hiện vật Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng. Giờ vắn tắt thế này cương giới và thành Phật Thệ (thủ đô của Liên Bang Chăm) có một số chỗ (tôi thấy) chưa được rõ ràng. Cửa Sót hay là Hoành Sơn?Biên giới phía Bắc của Liên bang Chiêm Thành (hay liên bang Champa) là ở Hoành Sơn (tức Đèo Ngang) cách chỗ anh X cho Formosa xây nhà máy luyện sắt không xa. Các tài liệu của ta, của tây, của ta ở tây, của Chăm ở Mỹ đều viết thế. Trong An Nam Chí Lược của Lê Tắc có nói về một quả núi (không rõ ở đâu) chia đôi Nam – Bắc tục truyền rằng cây trên núi ấy cũng ngả theo hai hướng Bắc Nam. Champa trong quá trình lịch sử: Pièrre-Bernard Lafont - Vương quốc Chăm Pa: địa dư, dân cư và lịch sử Tuy nhiên trong Việt Sử Lược bộ sử được coi là cổ nhất của Việt Nam viết vào thời Trần có nói về Nam Giới - tức Cửa Sót. Chẳng hạn như việc Lê Hoàn (sau là Lê Long Đĩnh) đào kênh từ Cửa Sót, cho mở đường từ Cửa Sót, Lý đi đánh Chiêm thành qua Nam Giới... Mà Nam Giới tại Cửa Sót thì sao biên giới Chăm lại chỉ đến Hoành Sơn (lùi sâu hơn 50 - 60km)? Dọc theo đoạn tàn dư của sông Lam đổ ra cửa Sót còn có núi Nghèn (nghẹn – ý rằng nước đến đó thì nghẹn lại) có phải chăng núi này mới chính thực là chỗ phân chia Nam Bắc? Có phải chăng thời kỳ Indrapura hưng khởi trở lại (nửa sau TK IX), tiểu quốc này đã chiếm được phần từ Hoành Sơn đến nam Cửa Sót)? Hoành Sơn – Đèo Ngang – là cương giới phía Bắc của Hoàn Vương Quốc (Quyền vua về nước cũ) và là cương giới Việt – Chăm sau trận chiến 982? Hoặc giả có chỗ nào tôi không hiểu hết thì cũng mong mọi người chỉ rõ. Phật Thệ là thành nào?Cũng các tài liệu của ta ở ta, ta ở tây, của tây ở tây, cho rằng sau năm 1000 Kinh đô Champa - Phật Thệ - là Vijaya (Đồ Bàn, hay Chà Bàn). Gs, Ts Pièrre-Bernard Lafont trong Vương quốc Chăm Pa: địa dư, dân cư và lịch sử cho rằng Lý Thánh tông đã tấn công vào Đồ Bàn phá hủy thành này. Giáo sư Nguyễn Văn Huy (Đại học Paris) trong “Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam” cũng chung ý kiến với Pièrre-Bernard Lafont. Tuy nhiên các sách sử VN trong giai đoạn này chỉ nói về Phật Thệ như là kinh đô của Champa và danh xưng Đồ Bàn, hay Chà Bàn (như tôi thấy) chỉ xuất hiện trong sử Việt vào Thế kỷ XIV - XV. Xem lại một số dữ kiện lịch sử thì thấy: Thời kỳ Indravarman II (trị vì từ 859 đến 890) – người được cho là đã khai mở ra thịnh thế của Indrapura, cũng là người rất sùng đạo Phật. Sau sự suy yếu của Hoàn Vương Quốc (854), Indravarman II đã nhanh chóng đưa Indrapura trở lại những ngày tháng vinh quang vốn có. Thậm chí tiểu quốc này còn cố gắng dùng tôn giáo để làm hỗ trợ cho chủ thuyết về một Champa thống nhất. Đây là thời mà các tu viện Phật Giáo, giảng đường, Phật Viện được xây dựng rất nhiều tại Indrapura nói chung và tại thủ phủ của tiểu quốc này nói riêng. Phật Thệ - Phật Thành gợi ý rất rõ ràng về thành của Phật tức là thời kỳ mà Phật giáo đặc biệt hưng thịnh tại Indrapura tại Huế, hoặc là tại Đồng Dương (Quảng Nam). Văn bia của vua Harivaman dựng vào năm 1078 (10 năm sau cuộc viễn chinh của Lý Thánh Tông) được tìm thấy tại Mỹ Sơn, Quảng Nam. Văn bia này kể lại việc quân Đại Việt đánh phá vương quốc Champa, cướp đi những tài sản mà vương quốc đã dâng hiến cho thần linh, hủy hoại tu viện, nhà cửa làng mạc và vua Harivaman đã “giết sạch kẻ thù” phục hưng lại Nagara Champa, khôi phục những ngôi đền. Xem các bước chuẩn bị và năng lực viễn chinh của thủy – hải quân Đại Việt trong thế kỷ X - XI việc đi đến được tận Quy Nhơn Bình Định đốt phá, chém giết, cướp bóc Vijaya, (có vẻ) không khả thi lắm. Đánh phá Vijaya kéo theo đó là những vấn đề như quá xa hậu phương (trực tiếp là vùng Nghệ An), khó khăn lương thảo, không hợp thủy thổ... Nhà Trần trong nỗ lực bành trướng lãnh thổ về phương Nam (thế kỷ XIII – XIV) chỉ có thể giành thắng lợi ở vùng biên giới phía bắc của Liên Bang Champa; cuộc tấn công vào thành Vijaya của Trần Duệ Tông (1377) đã thất bại thảm hại, ông trở thành vị vua duy nhất của Việt Nam tử trận - ngay dưới chân thành. Đạo quân viễn chinh của nhà Hồ cũng bị thành Vijaya chặn lại; trước đó, thủy binh Nguyên Mông – do Toa đô chỉ huy cũng lực bất tòng tâm khi muốn khuất phục Vijaya – đang là lãnh tụ của Liên bang Chiêm Thành. Phải chăng vào thời Lý, quân Đại Việt chỉ đánh cướp đến vùng Thừa Thiên Huế, hoặc quá lắm là đến Quảng Nam chứ chưa phạm vào Vijaya (ở Bình Định)? Và cuộc chiến tàn khốc mà Đại Việt nhắm vào Chămpa kỳ thực là cuộc chiến Đại Việt với Chiêm trên địa phận tiểu vương quốc Indrapura, mà trọng tâm là thành Phật Thệ - nằm ở Huế hoặc Quảng Nam? Kinh đô mới của Chămpa tại Vijaya không bị tàn phá như chúng ta lầm tưởng?
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2023 15:33:42 GMT 9
Người ChămDân tộc Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia Người Chăm, người Chăm Pa hay người Champa (tiếng Chăm: Urang Campa; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, Chónchèat Cham), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời, người Cham...,, là một sắc tộc thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc từ Đông Nam Á hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Từ thế kỷ 2 đến giữa thế kỷ 15, người Chăm cư trú tại Chăm Pa, một lãnh thổ tiếp giáp của các quốc gia độc lập ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Họ nói ngôn ngữ Chăm, thứ ngôn ngữ mà trước đây vẫn được người Chăm nói, và ngôn ngữ Tsat được dùng bởi con cháu người Utsul của họ trên đảo Hải Nam của Trung Quốc, hai ngôn ngữ Chamic từ ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo của ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm và người Mã Lai là những dân tộc Nam Đảo lớn duy nhất định cư ở lục địa Đông Nam Á thời kỳ đồ sắt trong số những cư dân Nam Á (Austroasiatic) cổ hơn. Người Chăm Phụ nữ người Chăm với trang phục truyền thống bên tháp cổ . Tổng dân số500.000 trên toàn thế giới.Khu vực có số dân đáng kể Việt Nam :178.948 Campuchia : 259.000 Malaysia: 14.000 Thái Lan : 4.600 Hoa Kỳ: 4.200 Pháp : 1.100 Lào : 600 Ả Rập Xê Út: 100 Ngôn ngữChăm, Haroi, Khmer, Việt, Mã Lai Tôn giáo :Đa phần theo Hồi giáo dòng Sunni, Bani, Ấn Độ giáo. Ngày nay có số theo Tin Lành, Thiên chúa và số còn lại là tín ngưỡng địa phương. Sắc tộc có liên quan : Người Utsul Người Gia Rai Người Ê Đê Người Ra Glai Người Chu Ru Người Mã Lai Người Indonesia Người Philippines Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người , năm 2009 là 161.729 người, xếp thứ 14 về dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo phân loại của Joshua Project có hai nhánh là Chăm Tây với tổng dân số 331 ngàn cư trú ở Việt Nam, Campuchia và các nước khác, và Chăm Đông với tổng dân số 135 ngàn cư trú chủ yếu ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhóm Chăm H'roi cư trú ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Gia Lai với tổng dân số 45 ngàn người. Lịch sửXem thêm: Vương quốc Champa Xem thêm: Lịch sử Chăm Pa Chăm Pa (xanh lục) vào khoảng năm 1100 Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia Chăm Pa độc lập trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Ở Việt Nam, người Chăm có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo như người Gia Rai, người Ê Đê, người Ra Glai và người Chu Ru. Bên ngoài Việt Nam, người Chăm có quan hệ gần gũi với người Mã Lai. Trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã băng qua đường biển vào thiên niên kỷ đầu tiên TCN từ Malaysia và Indonesia (Sumatra và Borneo), cuối cùng định cư ở miền trung Việt Nam hiện đại. Do đó, người Chăm gốc có khả năng là người thừa kế của các nhà hàng hải Nam Đảo từ Nam Á, những người có hoạt động chính là thương mại, vận tải và có lẽ cả cướp biển. Không hề hình thành một chế độ dân tộc nào để lại dấu vết trong các nguồn tài liệu viết, họ đã đầu tư các cảng ở đầu các tuyến đường thương mại quan trọng nối Ấn Độ, Trung Quốc và các đảo của Indonesia, sau đó, vào thế kỷ 2, họ thành lập vương quốc Chăm Pa, rồi để Việt Nam dần dần chiếm lấy lãnh thổ. Các mô hình, niên đại di cư vẫn còn được tranh luận và người ta cho rằng người Chăm, nhóm dân tộc Nam Đảo duy nhất có nguồn gốc từ Nam Á, đến Đông Nam Á bán đảo muộn hơn qua Borneo. Đông Nam Á lục địa đã được cư trú trên các tuyến đường bộ bởi các thành viên của ngữ hệ Nam Á, chẳng hạn như người Môn và người Khmer khoảng 5.000 năm trước. Người Chăm là những người đi biển thành công của người Nam Đảo từ nhiều thế kỷ đã đông dân cư và sớm thống trị vùng biển Đông Nam Á. Những ghi chép sớm nhất được biết đến về sự hiện diện của người Chăm ở Đông Dương có từ thế kỷ 2 SCN. Các trung tâm dân cư xung quanh các cửa sông dọc theo bờ biển kiểm soát xuất nhập khẩu của lục địa Đông Nam Á, do đó thương mại hàng hải là bản chất của một nền kinh tế thịnh vượng. Văn học dân gian Chăm bao gồm một huyền thoại sáng tạo, trong đó người sáng lập ra chính thể Chăm đầu tiên là Thiên Y A Na. Xuất thân từ một nông dân khiêm tốn ở đâu đó trên dãy núi Đại An, tỉnh Khánh Hòa, các linh hồn đã hỗ trợ bà khi bà đi du lịch Trung Quốc trên một khúc gỗ đàn hương trôi nổi, nơi bà kết hôn với một người đàn ông hoàng tộc và có hai người con. Cuối cùng, bà trở lại Chăm Pa để "làm nhiều việc thiện trong việc giúp đỡ người bệnh và người nghèo" và "một ngôi đền đã được dựng lên để vinh danh bà", ngày nay được biết đến là Tháp Po Nagar. Lịch sử ban đầuNgười Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga (thế kỷ 12-13 SCN). Người Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 13 SCN Giống như vô số các thực thể chính trị khác của Đông Nam Á, các chính quốc Champa đã trải qua quá trình Ấn hóa kể từ thời kỳ sơ khai do kết quả của nhiều thế kỷ tương tác kinh tế - xã hội được chấp nhận và giới thiệu các yếu tố văn hóa và thể chế của Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ 8 trở đi, người Hồi giáo từ các vùng như Gujarat bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trong thương mại và vận chuyển của Ấn Độ. Các ý tưởng Hồi giáo đã trở thành một phần của làn sóng trao đổi rộng lớn, đi trên con đường như Ấn Độ giáo và Phật giáo nhiều thế kỷ trước. Người Chăm đã tiếp thu những ý tưởng này vào thế kỷ 11. Có thể thấy điều này trong kiến trúc của các ngôi đền Chăm, có những điểm tương đồng với kiến trúc của các đền Angkor. Ad-Dimashqi viết vào năm 1325, "đất nước Champa ... là nơi sinh sống của người Hồi giáo và những người sùng bái thần tượng. Đạo Hồi đến đó vào thời Caliph Uthman ... và Ali, nhiều người Hồi giáo đã bị trục xuất bởi Umayyad và Hajjaj , bỏ trốn ở đó ". Daoyi Zhilüe ghi lại rằng tại các cảng Chăm, phụ nữ Chăm thường kết hôn với các thương nhân Trung Quốc, những người thường xuyên quay lại với họ sau các chuyến đi buôn bán. Một thương nhân Trung Quốc từ Tuyền Châu, Wang Yuanmao, buôn bán rộng rãi với Chăm Pa và kết hôn với một công chúa người Chăm. Thế kỷ 12, người Chăm đã chiến đấu với một loạt các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer ở phía tây. Năm 1177, người Chăm và đồng minh của họ mở cuộc tấn công từ Biển Hồ và đánh chiếm kinh đô Angkor của người Khmer. Tuy nhiên, vào năm 1181, họ đã bị đánh bại bởi vua Khmer Jayavarman VII. Tiếp xúc với Hồi giáoHình ảnh mô tả người Chăm trong cuốn bản thảo Boxer Codex từ năm 1590 Hồi giáo đến với Chăm Pa lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ 9, song, nó không trở nên quan trọng trong cộng đồng người Chăm cho đến sau thế kỷ 11. Người Chăm di cư đến Sulu được gọi là Orang Dampuan. Chăm Pa và Sulu giao dịch thương mại với nhau, dẫn đến việc các thương gia người Chăm đến định cư ở Sulu, nơi họ được gọi là Orang Dampuan từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 13. Những Orang Dampuan đã bị tàn sát bởi những người Sulu Buranun bản địa ghen tị do sự giàu có của Orang Dampuan. Buranun sau đó bị Orang Dampuan tàn sát trả đũa. Thương mại hài hòa giữa Sulu và Orang Dampuan sau đó đã được khôi phục. Người Yakans là hậu duệ của Orang Dampuan sống ở Taguima, người đã đến Sulu từ Chăm Pa. Sulu tiếp nhận nền văn minh ở dạng Indic từ Orang Dampuan. Một số người Chăm cũng vượt biển sang bán đảo Mã Lai và ngay từ thế kỷ 15, một thuộc địa của người Chăm đã được thành lập ở Malacca. Người Chăm chạm trán với Hồi giáo Sunni ở đó vì Vương quốc Hồi giáo Malacca đã chính thức là Hồi giáo từ năm 1414. Vua Chăm Pa sau đó trở thành đồng minh của Vương quốc Hồi giáo Johor; vào năm 1594, Champa đã gửi lực lượng quân sự của mình để chiến đấu cùng với Johor chống lại sự chiếm đóng Malacca của người Bồ Đào Nha. Giữa năm 1607 và 1676, một trong những vị vua Chăm Pa đã cải sang đạo Hồi và nó trở thành một đặc điểm nổi trội của xã hội Chăm. Người Chăm cũng sử dụng bảng chữ cái Jawi. Một người phụ nữ Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc, Việt Nam Các ghi chép lịch sử ở Indonesia cho thấy ảnh hưởng của Nữ hoàng Dwarawati, một công chúa Hồi giáo đến từ vương quốc Chăm Pa, đối với chồng của bà, Kertawijaya, vị vua thứ bảy của Đế chế Majapahit, đến nỗi hoàng gia của Đế chế Majapahit cuối cùng đã chuyển sang đạo Hồi, mà cuối cùng đã dẫn đến sự chuyển đổi sang Hồi giáo của toàn bộ khu vực. Ngôi mộ của công chúa Chăm Pa có thể được tìm thấy ở Trowulan, nơi đóng đô của Đế chế Majapahit. Trong Babad Tanah Jawii, người ta kể rằng vua Brawijaya V có một người vợ tên là Dewi Anarawati hay Dewi Dwarawat, một người con gái Hồi giáo của vua Chăm Pa. Người Chăm có quan hệ thương mại và văn hóa chặt chẽ với vương quốc hàng hải Srivijaya, và Majapahit sau đó ở Quần đảo Mã Lai. Một nhân vật quan trọng khác của Chăm Pa trong lịch sử Hồi giáo ở Indonesia là Raden Rakhmathay hay Hoàng tử Rahma, người còn được gọi là Sunan Ampel, một trong những Wali Sanga (Chín vị thánh), người đã truyền bá đạo Hồi ở Java. Ông được xem như là tâm điểm của Wali Sanga, bởi vì một số người trong số họ thực sự là hậu duệ của ông và/hoặc học trò của ông. Cha của ông là Maulana Malik Ibrahimm còn được gọi là Ibrahim as-Samarkandy ("Ibrahim Asmarakandi" đối với tay người Java), và mẹ của ông là Dewi Candrawulan, một công chúa Chăm Pa cũng là em gái của Nữ hoàng Dwarawati. Sunan Ampel sinh ra ở Champa vào năm 1401 CN. Ông đến Java vào năm 1443 CN, để thăm dì là Hoàng hậu Dwarawati, một công chúa Chăm Pa, người đã kết hôn với Kertawijaya (Brawijaya V), vua của Đế chế Majapahit. Truyền thuyết địa phương nói rằng ông đã xây dựng Nhà thờ Hồi giáo vĩ đại của Demak (Masjid Agung Demak) vào năm 1479 CN, nhưng các truyền thuyết khác lại quy cho Sunan Kalijaga. Sunan Ampel qua đời ở Demak năm 1481 CN, nhưng được chôn cất tại Nhà thờ Hồi giáo Ampel ở Surabaya, Đông Java. Sự sụp đổSự bành trướng mạnh mẽ của người Việt vào năm 1720 dẫn đến sự thôn tính hoàn toàn của vương quốc Chăm Pa vốn đã bị suy yếu và cuối cùng vương quốc đã bị tan rã vào thế kỷ 19 bởi Hoàng đế Việt Nam Minh Mạng. Để đối phó, vị vua Hồi giáo cuối cùng của Chăm Pa là Pô Chiên đã tập hợp dân chúng trong nội địa và chạy trốn xuống phía nam Campuchia, trong khi những người dọc theo bờ biển di cư đến Trengganu, Malaysia. Một nhóm nhỏ chạy về phía bắc đến đảo Hải Nam của Trung Quốc, nơi ngày nay họ được gọi là người Utsul. Nhà vua và những người tị nạn ở Campuchia sống rải rác trong các cộng đồng trên lưu vực sông Mê Kông. Những người ở lại các tỉnh Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết của miền Trung Việt Nam đã được hòa nhập vào chính thể Việt Nam. Các tỉnh của người Chăm dần bị chúa Nguyễn đánh chiếm. Sau khi Việt Nam xâm lược và chinh phục Chăm Pa, Campuchia đã cung cấp nơi ẩn náu cho những người Chăm Hồi giáo trốn thoát khỏi sự tiêu diệt của Việt Nam. Năm 1832, Hoàng đế Việt Nam là Minh Mạng sát nhập phần lãnh thổ cuối cùng của vương quốc Chăm Pa. Điều này dẫn đến việc thủ lĩnh Hồi giáo Chăm Katip Suma, người được đào tạo ở Kelantan, tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại người Việt. Người Việt sau đó được cho rằng đã cưỡng bức người Chăm theo đạo Hồi phải ăn thằn lằn và thịt lợn và người Chăm theo đạo Ấn Độ phải ăn thịt bò nhằm chống lại ý muốn trừng phạt của họ và đồng hóa họ với văn hóa Việt Nam. Chiêm Thành (xanh lục) trong khoảng thế kỷ 12. Tại Việt NamTrước thế kỷ 7, có một vương quốc tên Lâm Ấp của người Chăm, tồn tại từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, Lâm Ấp có nhiều thay đổi, đặc biệt là liên tục xây tháp Ân giáo và dựng bia tiếng Phạn, lịch sử bắt đầu được rõ ràng. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campapura, Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc, Hoàn Vương Quốc và Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh trong thời vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đại là nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chiêm Thành). Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Champa được phục hồi nhưng chia thành các tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt vào thời vua Thánh Tông nhà Lê để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Chính Hòa thứ (1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Tuy nhiên, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc dĩ phải cầu hòa với người Champa và cho phép người Chăm phục hồi Thuận Thành trấn (Khu tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và Chăm Pa được ghi rõ trong "Nghị định Ngũ điều" vào năm Vĩnh Thạnh thứ 8 (1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau giải thể khu tự trị vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của vua Chăm Pa có Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ Gạch), một vị hoàng tử anh hùng, giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận ngày nay) phụ trách khu vực miền núi sau Cách mạng tháng Tám. Phù điêu mô tả thủy chiến giữa người Chăm và người Khmer ở đền Bayon. Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và vùng Tây Nguyên, tỉnh Salavan và một số nơi của Lào. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng các vị chúa Panduranga thì thuộc dòng Pandu nên Champa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là hai quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ hai nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là hai quốc gia riêng. Lịch sử của vương quốc Champa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm bị giết và 30.000 quân bị bắt làm tù binh. Sau đó, tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục tồn tại dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long trong bốn đạo: đạo Panrang (đạo Phan Rang tức tỉnh Ninh Thuận), đạo Kraong (đạo Long Hương hay đạo Liên Hương tức huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), đạo Parik (đạo Phan Rí tức huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) và đạo Pạjai (đạo Phố Hài, huyện Hàm Thuận Bắc - Hàm Thuận Nam - Hàm Tân và thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Đến thời vua Minh Mạng, trấn Thuận Thành đã bị xóa sổ và trở thành phủ Ninh Thuận. Tại Campuchia và những nơi khácTương tự như quốc gia của người Việt ở phía Bắc, người Chăm có lịch sử tiếp xúc và định cư lâu đời ở quốc gia Chân Lạp của người Khmer ở phía Nam. Tại Chân Lạp, từ lâu đã có cộng đồng người gốc Mã Lai, Java sang sinh sống. Do tương đồng trong ngôn ngữ và tôn giáo, người Chăm từ lãnh thổ Chăm Pa đã cộng cư với người gốc Mã Lai ở Chân Lạp. Năm 774, vương triều Sailendra ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc Chân Lạp, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. Đầu thế kỷ thứ 9, vua Khmer là Jayavarman II mới giải phóng được đất nước, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á là Đế quốc Khmer (802-1434). Từ những năm 944 và 945, quân Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara của người Chăm. Năm 1080, quân đội Khmer lại tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa.. Năm 1170, vua Chăm là Jaya Indravarman đã tiến đánh Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm. Vua Khmer là Jayavarman VII đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Và tới năm 1203, quân Khmer chiếm được kinh đô Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Thất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia và các quốc gia khác như Malacca. Cộng đồng người Chăm và người Hồi giáo gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực. Năm 1594, chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca. Cùng lúc này, quân Ayutthaya một lần nữa đánh bại Chân Lạp, tàn phá kinh đô Lovek. Các thế lực người Chăm, Mã Lai, Java và ngoại quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan tranh nhau giành ảnh hưởng tại Campuchia. Nhiều nhóm người gốc Chăm Mã Lai còn ám sát cả các vua Chân Lạp. Từ năm 1642, tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang Hồi giáo và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm. Năm 1672, vua Chân Lạp là Chey Chetta III lại bị một nhóm Chăm Mã Lai sát hại. Năm 1692, chúa Nguyễn chinh phạt tiểu quốc Panduranga khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Năm 1747, vua Chân Lạp là Chey Chettha VII (1709-1755) chống đối chúa Nguyễn và hay ức hiếp người Côn Man (người Chăm, Mã Lai). Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh đón hơn 5.000 trai gái dân Côn Man về trú dưới chân núi Bà Đinh (Bà Đen). Từ đây đã đánh dấu gia đoạn "hồi hương" của những nhóm người Chăm từ Chân Lạp về lại lãnh thổ Đàng Trong. Vào năm 1796, một thủ lĩnh người Chăm từng sống ở Kedah tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác là Tăng Mã, thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan. Có ý kiến cho rằng Tuan Phaow trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp. Năm 1783, hai vị quan Chân Lạp là Ốc nha Nhum Rạch Bèn (Thượng thư bộ Hình) và Ốc nha Cao La Hâm Sưu (Suos) (Thượng thư bộ Thủy Hải quân, Samdach Chau Phraya Kalahom) từ nước Xiêm trở về bắt và giết vị Chiêu Chùy (Tể tướng) thân Đàng Trong là Mô. Nhum Rạch Bèn sau đó lại mâu thuẫn và giết cả và Cao La Hâm Sưu. Hay tin Cao La Hâm Sưu bị giết, thủ lĩnh người Chăm Mã Lai (Đồ Bà, Java) là Toàn Sét Cháu Voi Vuốt (hoặc Doun Set từ tỉnh Tbong Khmum) khởi loạn, tiến đánh Oudong, Nam Vang. Doun Set sau đó tự xưng thủ lĩnh ở Oudong và sắp đặt quân gốc Chăm Malay chốt giữ Chroy Changva và Phnom Penh. Năm Giáp Dần (1784), Chao Phraya Abhaya Bhubet giết được Toàn Sét (Doun Set), viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà. Năm 1793, phiên vương Thuận Thành trấn là Po Tisuntiraidapuran (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá/阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Một vị hoàng thân Chăm là Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Po Krei Brei được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình. Năm 1794, vua Chân Lạp là Ang Eng lên ngôi và sau đó tin dùng các nhóm lính người Chăm Mã Lai. Một người Mã Lai tên Tuon Set Asmit (Tuon Pha, Tuen Phaow) được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Đến thời vua Ang Chan II, nhiều người gốc Chăm Mã Lai giữ chức cao trong triều đình Chân Lạp như Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha) giữ chức Tể tướng, Samdech Chau Ponhea Tei (Tham đích Tây, Tham đích Châu Bôn Nha) nắm quân đội. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Chăm Pa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia. Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Chân Lạp Ang Chan II mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về tay các quan Trà Long và La Kiên. Người Chăm Mã Lai ở Chân Lạp được nhà Nguyễn tin dùng. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương cho sắp xếp quân đội để bảo hộ Chân Lạp, trong đó: lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên) xếp làm hai cơ An Man Nhất và An Man Nhị. Mỗi cơ mười đội, mỗi đội 50 người. Dùng người đầu mục là Hu Khiêm làm Suất cơ cơ An Man Nhất, Đỗ Cố làm Phó suất cơ, Tôn Ly làm Suất cơ cơ An Man Nhị, Hàn Ông làm Phó suất cơ. Sai họ chiêu tập cho đủ số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Tới năm 1835, khi lập Trấn Tây thành, nhà Nguyễn đặt quân Chăm Mã Lai làm ba cơ, Nhất, Nhị, Tam (dân Chàm 823 người làm cơ cơ An man Nhất và Nhị; dân Chà Và 223 người làm cơ An man Tam). Ba cơ An Man này của người Chăm Mã Lai được nhà Nguyễn khen ngợi "chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh". Khen thưởng Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm (Hu Khiêm), Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Tuy nhiên, việc ưu ái người Chăm Mã Lai của nhà Nguyễn cũng khiến họ bị người Khmer bản địa nghi kỵ, ganh gét và xua đuổi. Cùng năm 1834, mùa đông, tháng 12, hơn 30 sách người Mán Chàm ở gần thành Quang Hoá thuộc Gia Định (nay là tỉnh Tây Ninh), tình nguyện xin phụ thuộc vào Đại Nam. Từ năm 1847, quân Nguyễn rút khỏi Chân Lạp, vua Ang Dương lên nắm quyền ở Campuhia. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), người Chàm là Chàm Ôn, Chàm Núi trước đây bị thổ phỉ bắt hiếp xua dồn đi, nay mang gia quyến xin về châu Quang Hoá (nay là Tây Ninh) dựng nhà ở. Năm 1857, đầu mục người Chàm là Ả và Ôn ở hai xã Đông Tác, Tây Thành, phủ Tây Ninh thuộc Gia Định lại về lập ấp. Năm 1858, một số cuộc nổi dậy nổ ra như người Khmer ở gần biên giới Tây Ninh và đặc biệt là người Chăm Mã Lai ở Tbuong Kmoum. Người Chăm Mã Lai nổi dậy dưới sự kêu gọi của các thủ lĩnh Tuon-Him (Tôn Hiên), Tuon-Su (Tôn Ca?) và Tuon-it (Tôn Ích). Hàng nghìn người Chăm Mã Lai chạy sang Châu Đốc tỵ nạn. Dân số và cư trúNgười Chăm ở Việt Nam và Campuchia. Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mâu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác. Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 1.300.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 950.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam. Malaysia thực tế có trên 50.000 người, Thái Lan khoảng 4.000 người... Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsul ở đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia. Trong thế kỷ XX, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Người Chăm ở Lào có hơn 800 hộ gia đình trong đó có 3000 người sống ở thủ đô Viêng-chăn, cộng đồng này di cư từ Campuchia do sự diệt chủng của Khơ-me Đỏ. Cư trú ở Việt NamTrên lãnh thổ Việt Nam, năm 2019 có khoảng 178.948 người Chăm sinh sống, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.517 người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Bình Thuận (39.557 người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Phú Yên (22.813 người), An Giang (11.171 người), Thành phố Hồ Chí Minh (10.509 người), Bình Định (6.364 người), Đồng Nai (8.603 người), Tây Ninh (4.014 người). Bình Dương (2.358 người) Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận, và Chăm Nam Bộ. Chăm H'roi (Chăm hời) bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh Gia Lai, Phú Yên, Bình Định, trong đó tập trung chủ yếu ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định và huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa của Phú Yên; tổng số khoảng 33.000 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân gian thờ đa thần và tổ tiên, ngày nay có số theo Tin lành đặc biệt là ở Gia Lai. Chăm Panduranga hay Đông Chăm gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Chăm Panduranga (Chăm Phan Rang); tổng số khoảng 119.000 người (Ninh Thuận: 72.000; Bình Thuận: 47.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận có 2 nhóm chính phân theo tín ngưỡng là Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bà La Môn) và Chăm Awal (Chăm Bàni - Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Ngoài ra còn có một nhóm nhỏ người Chăm Bà Ni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống vào thập niên 1960 do tiếp xúc với người Chăm Nam Bộ. Chăm Nam Bộ hay còn gọi những tên khác nhau, như Tây Chăm, Cham Baraw, Cham Muslim, Jawa Ku bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai và nhiều tỉnh khác nhau tại Nam Bộ số 37.000 người. Sự hình thành nhóm Chăm Nam Bộ ở Tây Ninh khởi đầu từ năm 1755 khi tướng Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm bị hà hiếp trên đất Chân Lạp về định cư ở núi Bà Đen. Tới thời Minh Mạng, từ năm 1834, người Chăm từ Chân Lạp tiếp tục về định cư ở 2 huyện Tân Ninh và Quang Hoá. Thời Tự Đức, người Chăm lại tiếp tục tới Quang Hóa định cư vào các năm 1849, 1857. Các làng Chăm ở tỉnh An Giang (huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, thị xã Tân Châu). Tại Châu Đốc, từ năm 1818, vua Gia Long đã cho tu sửa bảo Châu Đốc và chiêu dụ người Việt, Hoa, Chăm, Khmer đến định cư. Nhóm này gọi là Chăm Châu Đốc. Tới năm 1841, nhà Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp, nhiều người Chăm cũng theo về định cư ở An Giang. Tới năm 1859, người Chăm ở Campuchia nổi dậy chống vua Ang Duong. Bị đàn áp, hàng nghìn người Chăm sang Châu Đốc tị nạn. Tới giai đoạn Khmer Đỏ, từ 1975, nhiều người Chăm từ Campuchia tiếp tục sang Châu Đốc lánh nạn. Trong 2 nhóm người Chăm Nam Bộ ở Tây Ninh và An Giang lại có 3 nhóm nhỏ: Nhóm người có nguồn gốc từ quần đảo Mã Lai và Indonesia, được gọi Chăm Chà-và (Cham Chvea, Cham Java, Cham Jva), tên gọi này có thể bắt nguồn từ người Jawa Kur, người Hồi giáo nói tiếng Khmer. Người Jawa Kur là con cháu của những thủy thủ đến từ Malaysia, Indonesia, họ kết hôn với phụ nữ Khmer bản địa và con cái của họ nói tiếng Khmer nhưng theo đạo Hồi (dòng Sunni). Người Jawa Kur hiện còn sống tại nhiều vùng Campuchia và vùng Châu Đốc (tỉnh An Giang, Việt Nam). Do có sự tương đồng về nguồn gốc Nam Đảo, người Chăm từ Việt Nam và người Jawa Kur đã sống cùng nhau ở Campuchia, tạo thành một cộng đồng và có chung tín ngưỡng Hồi giáo Sunni. Nhóm người Chăm từ Nam Trung Bộ đã sống hòa đồng với người Jawa nói trên và theo Hồi giáo Sunni, và tự xưng là người Hồi giáo dòng Sunni. Nhóm người Chăm từ Nam Trung Bộ nhưng không theo đạo Hồi "mới" của người Jawa Kur mà vẫn giữ lại đạo Hồi có từ lúc ở miền Trung Việt Nam. Nhóm này bị 2 nhóm trên gọi là Chăm Jahed (Chăm xấu, cũ). Có thể xem họ giống với người Chăm Bani ở Bình Thuận. Người Raglai được coi như một nhánh gần gũi của dân tộc Chăm. Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và được công nhận là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Ngoài ra những dân tộc theo ngữ hệ Nam Đảo sinh sống tại cao nguyên Tây Nguyên như người Churu, Ê Đê và Gia Rai đều có liên hệ về mặt chủng tộc, lịch sử, văn hóa, kinh tế... mật thiết với người Chăm. Cư trú ở Campuchia và những nơi khácTại Campuchia, người theo Hồi giáo (người Muslim) gọi là Khmer Islam và hầu hết họ là người Chăm. Năm 2008, Campuhia ước tính có khoảng 320.000 đến 700.000 Người Hồi giáo, chiếm khoảng 2,4 đến 5,2 dân số cả nước. Họ sinh sống tập trung tại các tỉnh Kampong Cham, Tbong Khmum, Kampong Chhnang và Phnom Penh. Người Muslim ở Campuchia có thể tạm chia làm ba nhóm là Chăm, Imam Sann và Chvea. Nhóm người Chăm chiếm xấp xỉ 70% tổng số người Muslim ở Campuchia. Họ có nguồn gốc từ vương quốc Chăm Pa và trong tôn giáo, họ dùng kinh Quran, theo hệ phái Suni, cầu nguyện 5 lần một ngày. Nhóm người Imam Sann (Cham Jahed, Cham Bani, Cham Sot) chiếm khoảng 5% tổng số người Hồi giáo ở Campuchia. Họ cũng có nguồn gốc từ Chăm Pa nhưng họ sử dụng chữ viết Chăm dựa trên ký tự Ả Rập và họ chỉ cầu nguyện vào ngày thứ Sáu. Nhóm người Chvea (Jawa Kur) còn lại chiếm khoảng 25% tổng số người Hồi giáo ở Campuchia. Họ có nguồn gốc từ đảo Java và các vùng quanh bán đảo Malaysia. Một số cộng đồng Chăm sau khi sang Campuchia lại tiếp tục sang Malaysia và Thái Lan. Họ đều có nguồn gốc từ miền Trung Việt Nam, di cư khỏi vùng đất cũ của mình do sự Nam tiến của Đại Việt cách đây nhiều thế kỷ. Đa số họ theo Hồi giáo Sunni và có tiếp xúc chặt chẽ với người Malaysia và Indonesia do có cùng tôn giáo và ngôn ngữ cùng thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia. Tôn giáo - Tín ngưỡngBài chi tiết: Hồi giáo tại Việt Nam Chămpa từng theo một dạng của Ấn giáo Tamil Shaivism, tới từ miền Nam Ấn Độ qua đường biển. Khi các thương gia Ả Rập, Ba Tư dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hoa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm. Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có niên đại vào thế kỷ XI đã được phát hiện. Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung Hoa trong suốt thời kỳ nhà Đường (618–907), và các nhà buôn Ả Rập và Ba Tư trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ không phải với các dân tộc khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm theo Hồi giáo theo kiểu Ba Tư (chú trọng Ali như phái Shia) một cách truyền thống trong vùng Đông Dương. Ngược lại đa số người Chăm ở Campuchia và Miền Tây Nam Bộ của Việt Nam, theo Hồi giáo phái Sunni, thực hiện các trụ cột như cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và thực hiện hành hương hajj đến thánh địa Mecca. Đại diện người Chăm Campuchia đã tham gia vào cuộc thi quốc tế ngâm thơ Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur. Các cộng đồng người Hồi giáo các phe Sunni Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo, và được đứng đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình Kaum Jumaat, duy trì một sự thích nghi thần học Hồi giáo phái Shia, theo đó họ cầu nguyện chỉ vào Thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Ở Việt Nam cũng có nhóm tương tự được gọi là adat Bini (Bà Ni, Ăwal, Triều Nguyễn gọi là Ni Tục). Một số thành viên của nhóm này có tham gia vào cộng đồng Chăm Hồi giáo Sunni và đang xảy ra sự chia rẽ, tranh cãi giữa Kaum Jumaat (Shia) và các phe Sunni tại Campuchia, Bini và các phe Sunni tại Việt Nam. Một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã sang các nước Hồi giáo theo các phe Sunni để nghiên cứu về Hồi giáo có xu hướng phải bắt chước cả tôn giáo lẫn phong tục Ả Rập, họ tin rằng người Chăm phải bỏ toàn bộ phong tục xưa và trở thành một người như Mã Lai, như Ả Rập. Tại Tây Sumatra, người Minangkabau lưu truyền huyền thoại về võ sư Harimau Campo (hổ Champa). Harimau Campo cùng với các võ sư Ninik Datuak Suri Dirajo (từ Padang Panjang), Kambiang Utan (dê rừng Campuchia), Kuciang Siam (mèo Xiêm), Anjiang Mualim (chó Gujarat) là 5 tông phái chính của môn võ Pencak Silat. Ở Việt Nam, có khoảng 60.000 người Chăm theo adat Cham (Bà Chăm, Ahiér, Triều Nguyễn gọi là Chiêm Tục). Mặc dù cả hai adat - adat Cham và adat Bini đều là adat có ảnh hưởng của Hồi giáo (1 phần) nhưng sự nhầm lẫn của người Pháp cho rẳng adat Cham là đạo Bà La Môn (Ấn giáo) đã dẫn đến quan niệm sai lầm khó sửa lại, là họ tự cho rằng mình là tín đồ Ấn giáo! Tất nhiên, ngày nay họ không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế. Các đền thờ vua được coi là các vị thần Ấn giáo hóa thân xưa được gọi là Bimong trong tiếng Chăm. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là Po Adhia hay Po (đọc a-sá), tiếp theo là Po Tapáh và thấp nhất là Po Paséh. Masjid Jamiul Azhar ở xã Châu Phong, Tân Châu. Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính: Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Cham; Bini ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Bini, là 1 tôn giáo mang đậm tín ngưỡng dân gian Champa, có ảnh hưởng nhưng độc lập với Hồi giáo. Sunni (văn bản nhà nước ghi là Islam) ở An Giang và Nam Bộ theo Hồi giáo các phe Sunni, đặc biệt là phái Shafi'i, họ có mối liên hệ gắn bó với thế giới các phe Sunni bên ngoài, chủ yếu thông qua Hồi giáo ở Đông Nam Á như Malaysia. Ngoài ra, cộng đồng Chăm H'roi ở miền núi theo tín ngưỡng dân gian cũng có thể xếp vào nhóm thứ nhất. Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm và gần 31.000 người Bini. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Chăm và 11 làng Bini. Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người Chăm và khoảng 10.000 người Bini . Tại tỉnh An Giang có 9 xã có người Chăm sinh sống, trong đó khoảng 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú và Châu Thành, gần như toàn bộ theo Hồi giáo Sunni. Người Chăm ở Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ cũng hầu hết theo đạo Hồi. Kinh tếPhụ nữ Chăm ở Châu Đốc dệt vải theo phương pháp truyền thống Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi. Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỷ. Vì có nét sinh hoạt văn hóa đặc biệt nên làng Chăm Đa Phước thuộc huyện An Phú cũng là địa điểm du lịch thu hút du khách đến xem kỹ thuật dệt thổ cẩm. Vải Chăm có mẫu mã đặc sắc khác hẳn những hàng dệt của sắc tộc khác. Cách thức dệt còn theo lối truyền thống trên khung cửi nhưng đến thế kỷ 21 thì nguyên liệu sợi và phẩm màu không còn sản xuất ở địa phương nữa mà là mua ở nơi khác mang về dệt. Tổ chức cộng đồngTrung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm Ninh Thuận nằm trên địa bàn của phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, 02/2022 Người Chăm thường sinh sống tập trung trong palei Cam (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Palei là người đóng vai trò rất quan trọng trong Palei. Luật tục Chăm ghi: “ Ếch có nắp đậy hang; Làng có chủ cai quản. ” Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả: “ Cây to lan tỏa một lòng, Xòe ra che mát cho người dừng chân. ” Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng. Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người. Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối. Chế độ Việt Nam Cộng hòaDưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, Cham có hai quận riêng tự điều hành; có Trường Trung học Pô-Klong ‘dành riêng’ cho Cham để tiếp nối được truyền thống giáo dục ông bà. Hôn nhân gia đìnhChế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm quy định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già. Nhà cửaMặt trước ngôi nhà chính trong khối nhà ở và sinh hoạt của một gia đình người Chăm - Phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ. Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo. Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữa là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà. Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.). Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác. Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận. Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò được làm xa nhà ở. Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang. Trang phụcCó những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực. Trang phục namTrang trí gấu váy Chăm Phú Yên tại bảo tàng dân tộc học Nhóm nhạc công người Chăm với trang phục nam truyền thống Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần sọc, ngoài quấn váy. Trang phục truyền thống của người Chăm Ninh Thuận . Trang phục nữTrang phục của người Chăm Hroai Phú Yên Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quấn lên đầu, khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng. Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc. Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm. Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng. Người Chăm nổi tiếngNgười Chăm có danh tiếng Tên Sinh thời Hoạt động Khu Liên Thế kỷ 2 Quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, lãnh đạo nhân dân Tượng Lâm nổi dậy chống lại Nhà Đông Hán cai trị Mỵ Ê Thế kỷ 11 Vương phi Quốc vương Chiêm Thành Sạ Đẩu (tức Jaya Sinhavarman II). Khi quân Đại Cồ Việt chiếm được thành Phật Thệ, đã bắt nhiều người đưa về, trong đó có cả Mỵ Ê. Đến Lý Nhân bà nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn. Jaya Indravarman IV ?-1192 Vua Chăm Pa của Vương triều thứ 11, từng dẫn quân xâm lăng Đế quốc Khmer năm 1177. Chế Bồng Nga ?-1390 Po Binasuor, Vua thứ ba của Vương triều thứ 12 liên bang Chăm Pa, từng dẫn quân đánh phá Thăng Long 3 lần, về sau tử trận ở Đại Việt. Chế Ma Nô Đà Nan ?-1407 * Tướng nhà Trần và nhà Hồ, người gốc Chiêm Thành. Ông tham gia cuộc chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407, tử trận. Chàng Lía Thế kỷ 18 *Thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Đàng Trong thời Chúa Nguyễn thế kỷ 18. Căn cứ khởi nghĩa nay thuộc xã Ân Đức, huyện Hoài Ân tỉnh Bình Định. Les Kosem ?-1976 "Sĩ quan quân đội Liên hiệp Pháp, sau là Chuẩn tướng quân đội Campuchia (Cộng hòa Khmer) có vai trò quan trọng trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và cuộc nội chiến Campuchia. Là người theo chủ nghĩa dân tộc phục quốc Champa, ông từng giữ chức Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Champa (FLC), một trong những lãnh tụ FULRO. Chế Linh 1942-... Ca sĩ, nhạc sĩ nổi danh từ thập niên 60, quê Paley Hamu Tanran, gần Phan Rang, nay thuộc xã Phước Hữu, Ninh Phước, Ninh Thuận. Sau năm 1975 ông vượt biên và định cư tại Toronto, Canada. Mohamed Hamim 1940- ? Kiến Trúc Sư Đại Học Sài Gòn. Sau 1975: Đinh cư ở Nam California USA. Từ Công Phụng 1942-... Nhạc sĩ tiêu biểu cho tân nhạc Việt Nam trong thập niên 1960-1980. Hiện đang định cư tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Quê Ninh Phước, Ninh Thuận. Po Dharma 1945-2019 Nhà nghiên cứu văn hóa sử quốc tịch Pháp, sinh ở huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Năm 1972 ông sang Campuchia rồi sang Pháp du học, năm 1986 lấy bằng Tiến sĩ. Ông nghiên cứu khoa học tại Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) chuyên về lịch sử và nền văn minh Champa, có công trình khoa học viết bằng tiếng Pháp và Mã Lai, và tiếng Chăm tiếng Việt. Mã Điền Cư 1954-... Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 9, 10, 11, 12, 13 (2011-2016). Quê xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận Inrasara 1957-... Tên thật là Phú Trạm, nhà thơ, nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật, nhà phê bình văn học. Quê thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận. Đàng Năng Thọ ? Nhà điêu khắc, giám đốc trung tâm văn hóa Chăm, Phan Rang. Lưu Văn Đức 1967-... Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021). Quê xã Phước Thái, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận Trung Dũng 1967-... Doanh nhân người Mỹ gốc Chăm Việt. Bố Thị Xuân Linh 1970-...Đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14. Quê xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận Đàng Thị Mỹ Hương 1973-...Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14. Quê xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận Đăng Vũ 1977-... Chế Đăng Vũ ca sĩ dòng nhạc vàng. Quê tỉnh Lâm Đồng. Xem thêmVương quốc Champa Lịch sử Champa Hồi giáo Chăm Islam Hồi giáo tại Việt Nam Côn man Chú thích Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số 2019. p. 44. Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê, 19/12/2019. Truy cập 1/09/2020. Joshua Project, Western Cham. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022. Joshua Project, Eastern Cham. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022. “NGƯỜI CHĂM”. Cổng Thông tin điện tử Ủy ban Dân tộc. “Nhà thơ Inra Sara và tâm sự, ưu tư của người Cham ở Việt Nam”. BBC. 18 tháng 11 năm 2022. “Biểu 6: Dân số chia theo thành thị/nông thôn, giới tính, nhóm tuổi và dân tộc, 1/4/2009” (PDF). Trung tâm Tin học Thống kê khu vực I, Tổng cục Thống kê. Các dân tộc Việt Nam Lưu trữ 2018-10-03 tại Wayback Machine. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, 2016. Truy cập 01/04/2017. Các dân tộc Việt Nam Lưu trữ 2018-06-22 tại Wayback Machine. Trang thông tin điện tử Ban Dân tộc tỉnh Hậu Giang, 2012. Truy cập 01/04/2017. Joshua Project, Haroi. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022. Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.73. Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.78, 188; Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.33. Bản tiếng Anh của bia Mỹ Sơn ca ngợi thắng lợi của nhà vua ở trang 218 trở đi. Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.35; Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.84. Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.89 và tr. 188; Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.36. Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.36. Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.243. Manguin, "The Introduction of Islam into Campa", tr.12. Eng, Kok-Thay (2013). From the Khmer Rouge to Hambali. Rutgers, The State University of New Jersey Mak Phoeun & Po Dharma, “Première intervention”, p. 312; Mak Phoeun, “La communauté cam au Cambodge du XV au XIX siècle” in Actes du Séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, le 23 mai 1987 (Paris: Centre d’histoire et civilisations de la péninsule indochinoise, 1988), p. 88-90; id., Chroniques royales du Cambodge (de 1594 à 1677) (Paris: pefeo, 1981), p. 207f., 378f. (henceforth crc). Philipp Bruckmayr (2019). Nhóm người Chăm này có lẽ là tổ tiên của nhóm người Chăm Jahed (Chăm cũ) sau này. Claudia Seise (2009) Collins 2009: 27-28 Collins, William. 2009. “Cham Muslims,” Ethnic Groups of Cambodia, Phnom Penh: Center for Advanced Studies, 2009. Chauvea - Tể tướng Theo Đại Nam thực lục. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007. Trích Đại Nam thực lục tập 01: Năm 1812, Nặc Chăn cảm khóc dâng biểu tạ ơn. Lại bắt kẻ bạn thần là Đồng Phù (xưa bị tội với nước, trốn sang Xiêm, đến nay lại về) đưa đến Kinh xin mệnh lệnh triều đình. Vua [Gia Long] dụ rằng: “Đồng Phù đã biết ăn năn tội lỗi, ngươi nên đem lòng thực mà vỗ về cho nó vui lòng lập công. Cái lỗi đã qua hà tất bắt tội!”... Nặc Chăn dâng biểu cho ốc Nha Tôn La Kha Đồng Phù làm Chiêu Chùy... Gặp Chiêu Chùy nước Chân Lạp là Đồng Phù đến chầu, vua [Gia Long] triệu cho yết kiến hỏi han... Lại dụ vua Chân Lạp: "... quan Phiên trở xuống, ai không theo lệnh cho Đồng Phù trị theo quân pháp”. Người tên Bèn có chức là Oknya Yomreach (ឧកញ៉ាយោមរាជ, hoặc Phraya Yommarat พระยายมราช) - tương đương Bộ trưởng Tư pháp Người tên Suos (សួស) có chức Oknya Kalahom (ឧកញ៉ាក្រឡាហោម) - Bộ trưởng Hải quân Phiên âm của Toun Set - một danh xưng chỉ thủ lĩnh, thầy dạy giáo lý người Chăm Malay. William Collins, “Cham Muslims,” Ethnic Groups of Cambodia. Khin Sok, Le Cambodge entre le Siam et le Viêtnam (de 1775 à 1860) (Paris: pefeo, 1991), p. 42f., 50; gdtc, p. 120. Kiernan, Ben. 2008. The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia under the Khmer Rouge, 1975-79 (third edition), New Haven and London: Yale University Press. Trang 254. Hợp tuyển Archives royales du Champa có hai văn bản mang ký hiệu CAM-37 và CAM-38. Collins 2009: 29 Vương Quốc Champa: Lịch sử 33 Năm Cuối Cùng, 1802-1835, Po Dharma, Paris 1987. Trà tri Long, Chakrei Long - Bộ trưởng Chiến tranh. Sau này còn được gọi là Chưởng Cơ Trà Long, Chiêu Chuỳ Long, Chauvea (Tể tướng) Long. Còn được gọi là Vệ úy La Kiên Tức người gốc Mã Lai, Java. Đại Nam thực lục. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007. Tập 07. Theam, Bun Srun (1981). Trang 165. "Thailand's World: Cham People Thailand". Thailandsworld.com. Archived from the original on ngày 19 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2017. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Table 5, page 134 Jawa Kur nghĩa là Java Khmer. Trước kia nước Chân Lạp từng bị đế quốc Sailendra ở đảo Java đô hộ. Hoàng tử Chân Lạp là Jayavarman II sau khi bị bắt làm con tin ở Java đã trốn về và giải phóng Chân Lạp, xây dựng nên đế quốc Angkor. Do đó, có thể người Chân Lạp có thói quen gọi những người từ quần đảo Mã Lai là người Java. 2008 Cambodia National Institute of Statistics, www.nis.gov.kh/nis/census2008/Census.pdfOKAWA Reiko. Hidden Islamic Literature in a Cambodian Village: The Cham in the Khmer Rouge Period. Meiji Gakuin review International & regional studies (2014) T. Mohan and Va Sonyka (2015), Imam San Followers: We Are Muslims. Khmer Times Agnès De Féo (2005), The syncretic world of the 'pure Cham'. The Phnom Penh Post India's interaction with Southeast Asia, Volume 1, Part 3 By Govind Chandra Pande, Project of History of Indian Science, Philosophy, and Culture, Centre for Studies in Civilizations (Delhi, India) p.231,252 “Vietnam”. Truy cập 8 tháng 3 năm 2015. Interview with High Priest or Po Adhia of Ninh Thuan province and his assistant, ngày 23 tháng 12 năm 2011 Interview with priest or Po Guru near Ma Lam town, and the director of Binh Thuan Cham Cultural Center, Bac Binh district, ngày 22 tháng 12 năm 2011 “"Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang đến năm 2010 ban hành Quyết định số 1987/QĐ-UBND ngày 03 tháng 9 năm 2009 của UBND tỉnh An Giang"”. "Thoi thóp làng du lịch..." Tham khảo Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Người Chăm. Tiếng Việt Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (toàn tập). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (toàn tập). Nhà Xuất Bản Thuận Hóa. Nguyễn Văn Huy. Tìm hiểu người Chăm Việt Nam. Trần Trọng Kim (1919), Việt Nam sử lược. Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Tiếng Anh và ngoại ngữ khác Alberto Pérez Pereiro (2012). Historical Imagination, Diasporic Identity And Islamicity Among The Cham Muslims of Cambodia Lưu trữ 2017-08-08 tại Wayback Machine. ARIZONA STATE UNIVERSITY Claudia Seise (2009). The Cham Minority in Cambodia: Division within - Introduction to Contemporary Changes in Cham Communities. State Islamic University of Yogyakarta Philipp Bruckmayr (2019). Cambodia's Muslims and the Malay world: Malay language, Jawi script, and Islamic factionalism from the 19th century to the present. Leiden; Boston: Brill, [2019] OKAWA Reiko. Hidden Islamic Literature in a Cambodian Village: The Cham in the Khmer Rouge Period. Meiji Gakuin review International & regional studies (2014) Kiernan, Ben. 2008. The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia under the Khmer Rouge, 1975-79 (third edition), New Haven and London: Yale University Press. Collins, William. 2009. “Cham Muslims,” Ethnic Groups of Cambodia, Phnom Penh: Center for Advanced Studies, 2009. Betti Rosita Sari (2017). Transnational Migration And Ethnic Entrepreneurship Among The Cham Diaspora In Malaysia. Research Center for Regional Resources-Indonesian Institute of Sciences Omar Farouk. Cambodia, Muslim Minority in. Oxford Islamic Studies Online. Jean-Michel Filippi (2011). The long tragedy of Cham history. The Phnom Penh Post Scupin, Raymond (1989), Cham Muslims of Thailand: a haven of security in Mainland Southeast Asia. Journal Institute of Muslim Minority Affairs. Omar Farouk Bajunid (1999), The Muslims in Thailand: A Review (<Special Issue>Islam in Southeast Asia). Center for Southeast Asian Studies Kyoto University. Mohamed Effendy Bin ABDUL HAMID (2006), Understanding the Cham Identity in Mainland Southeast Asia: Contending Views. Sojourn: Journal of Social Issues in Southeast Asia. Vol. 21, No. 2, Dynamics of the Local (October 2006), pp. 230–253 (24 pages) Jean-Michel Filippi (2011), The long tragedy of Cham history. The Phnom Penh Post. Scupin, Raymond (2007), Cham Muslims of Thailand: a haven of security in Mainland Southeast Asia. Institute of Muslim Minority Affairs. Journal, Volume 10, 1989 - Issue 2. Nicolas Weber, Exploring Cam Narrative Sources for History of the Cam Diaspora of Cambodia, Nalanda-Sriwijaya Centre Working Paper No 17 (Feb 2015), www.iseas.edu.sg/nsc/documents/working_papers/nscwps017.pdf[liên kết hỏng] MOHAMED EFFENDY BIN ABDUL HAMID (2008-02-28). Revisiting Cham Ethnic Identity in Vietnam and Cambodia: The Concept of "Ethnic Passport". ScholarBank@NUS Repository. Danny Wong Tze Ken (2004), Vietnam-Champa Relations and the Malay-Islam Regional Network in the 17th–19th Centuries. Kyoto Review of Southeast Asia. Issue 5 (March 2004). Islam in Southeast Asia. Federico Sabeone (2017), Islam in Cambodia: The fate of the Cham Muslims. European Institute for Asian Studies Killean, R., Hickey, R., Moffett, L., Viejo Rose, D., So, F., & Orn, V. (2018). Cham: Culture & History Story of Cambodia. Documentation Center of Cambodia. Bruckmayr, P. (2014). The Cham Muslims of Cambodia: From Forgotten Minority to Focal Point of Islamic Internationalisation, The American Journal of Islamic Social Sciences. K. W. Taylor (2013). A History of Vietnamese. Cambridge University Press. p. 301. ISBN 978-0-521-87586-8. MOHAMAD ZAIN Musa, NIK HASSAN SHUHAIMI Nik Abdul Rahman, ZULISKANDAR Ramli, ADNAN Jusoh. CONSEQUENCES OF THE 1858 MALAY-CHAM REBELLION IN CAMBODIA. Malaysian Journal of History, Politics & Strategic Studies, Vol. 40 (2) (December 2013): 44-74 @ School of History, Politics & Strategy, UKM; ISSN 2180-0251 (electronic), 0126-5644 (paper) T. Mohan and Va Sonyka (2015), Imam San Followers: We Are Muslims. Khmer Times Agnès De Féo (2005), The syncretic world of the 'pure Cham'. The Phnom Penh Post xts Các dân tộc Campuchia theo vùng Khmer Khmer Trung · Khmer Krom · Khmer Surin Khmer Loeu Kuy · Pnong · Xtiêng · Brâu Malay-Polynesia Chăm · Gia Rai · Êđê Thái Thái · Lào · Shan Hán/Hoa Hoa (nói chung) · Quảng Đông · Khách Gia · Mân Nam · Triều Châu Khác Việt xts Các dân tộc tại Việt Nam xếp theo nhóm ngôn ngữ Nam Á Ngữ chi Việt:ChứtMườngThổKinh Ngữ chi Bahnar:Ba NaBrâuChơ RoCoCờ HoGiẻ TriêngH'rêMạM'NôngRơ MămXơ ĐăngXtiêng Ngữ chi Cơ Tu:Bru-Vân KiềuCơ TuTà ÔiPacoh Ngữ chi Palaung:Kháng Ngữ chi Khơ Mú:Khơ MúƠ ĐuXinh Mun Tiếng Khmer:Khmer Ngữ chi Mảng:Mảng Tai-Kadai Tày–Thái:Bố YGiáyLàoLựNùngSán ChayTàyThái Thái TrắngThái ĐenThái Đỏ Kra:Cờ LaoLa ChíLa HaPu Péo H'Mông–Dao Ngữ tộc Miền:Dao Ngữ tộc H'Mông:H'MôngPà Thẻn Hán-Tạng Ngôn ngữ Hán:HoaNgáiSán Dìu Nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến:CốngHà NhìLa HủLô LôPhù LáSi La Nam Đảo Nhóm ngôn ngữ Chăm:ChămChu RuÊ ĐêGia RaiRa Glai xts Các dân tộc Thái Lan theo ngôn ngữ Thái Isan · Khorat Thai · Khün · Lanna · Lào · Lào Ga · Lào Krang · Lào Lom · Lào Lùm · Lào Ngaew · Lào Song · Lào Ti · Lào Wieng · Lự · Thái Đông Bắc · Thái Bắc · Nyaw · Nyong · Phu Thái · Phuan · Saek · Shan · Thái nam · Tai Bueng · Thái Đỏ (Thái Đăng) · Thái Đen (Tai Dam) · Tai Gapong · Kaleun · Tai Nüa · Tai Wang · Tai Yuan · Thái (Thái trung tâm) · Yoy Malay-Polynesia Chăm · Mã Lai · Moken · Moklen · Pattani · Satun · Urak Lawoi Môn–Khmer Bru · Chong · Mani · Khmer · Kintaq (Negrito) · Kuy · Kensiu (Negrito) · Môn · Nyahkur (Nyah Kur, Chao-bon) · Nyeu · Pear · Sa'och · So · Việt Khơ Mú Khơ Mú · Lua · Mlabri · Phai · Pray · Tin Palaung Blang · Lamet · Lawa · Mok · Palaung (De'ang, Đức Ngang) Tạng-Miến Akha · Bamar · Bisu · Karen · Kayah · La Hủ · Lật Túc · Lô Lô (Di) · Mpi · Pa'o · Phrae Pwo · Phunoi · Pwo · S'gaw · Ugong · Tiếng Trung Quốc Hoa (nói chung) · Quảng Đông · Khách Gia (Hakka) · Hán · Phúc Kiến · Triều Châu H'Mông-Miền H'Mông · Dao/Ưu Miền Khác Ấn Độ · Nhật · Triều Tiên · Farang · Bồ Đào Nha · Iran
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2023 15:46:46 GMT 9
CÔNG KHÓ CỦA TỔ TIÊN TRONG VIỆC MỞ NƯỚC VỀ PHƯƠNG NAM Chiến tranh giửa Chiêm Thành và Đại Việtkimanhl.blogspot.com/2017/07/cong-kho-cua-to-tien-trong-viec-nuoc-ve.htmlNgày hôm nay Việt tộc chúng ta đang thừa hưởng một di sản qúi báu của tiền nhân để lại là một mảnh đất hình cong chử S chạy dài từ Ải Nam Quan tới mủi Cà Mau bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa, là phải nhớ ơn công trình mở nước về phương nam của tổ tiên chúng ta qua 10 thế kỷ. Mọi công dân nước Việt đều phải cố gắng giử gìn, đó là một thứ nhiệm vụ thiêng liêng mà tổ tiên đã giao phó cho các thế hệ đi sau. Không một ai có thể nhân danh hay dùng bất cứ quyền lực gì để dâng bán cho ngoại bang đều bị kết tội là phản bội tổ quốc. Không có luật pháp nào có thể tha thứ hoặc xử nhẹ cho tội tày trời này. Hôm nay những người cộng sản vì tham vọng nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á, theo lệnh quan thầy Nga Xô, tức đệ tam quốc tế đã nhận viện trợ từ súng đạn Nga Tàu để bắn giết đồng bào miền bắc và nam, sau đó phải trả lãi bằng cách cắt đất, biển, đảo dâng cho Tàu Cộng để trả nợ. hành động này được ghi nhận từ thời hồ chí minh rồi tiếp đến các đời cộng sản cầm quyền sau này như: Nguyễn văn Linh, Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng...đây chính là những tội đồ của Việt tộc đang được sự che chở của băng đảng Mafia csVN, đang ngang ngược thách thức với toàn dân VN về tội bán nước cho Tàu Cộng mà tập đoàn csVN đang vi phạm. Căn nhà VN, không phải do hồ chí minh và đảng cs tạo dựng ra, đó là di sản của tiền nhân để lại cho con dân nước Việt, nó không phải tài sản của đảng hay của họ "hồ". Thế nên những người cầm quyền không được phép được cắt nhượng cho đàn anh Tàu Cộng. Tất cã mọi người đều có bổn phận phải giữ gìn tài sản chung này. danlambaovn.blogspot.com/2012/06/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-2-ho.htmlCái nhà là nhà của ta Công khó ông cha lập ra Cháu con phải gìn giữ lấy Muôn năm với nước non nhà Xóm làng là làng của ta Xương máu ông cha làm ra Chúng ta phải gìn giữ lấy Muôn năm với nước non nhà (bài hát cộng đồng) BỐI CẢNH THỜI KỲ CHIẾN TRANH CHIÊM THÀNH - ĐẠI VIỆTVào thời Trung cổ (tk thứ V tới XV), các quốc gia muốn tồn tại đều phải dùng chiến tranh để giải quyết cho sự sống còn của quốc gia và dân tộc mình. Đây là những thế kỷ có sự hiện diện của Chăm Pa và VN chúng ta ở phương Đông. Vào thời này mọi quốc gia trên thế giới từ Âu đến Á đều phải hiểu ngầm: muốn tồn tại thì phải chiến đấu để vươn lên. Qui luật đó tuy không có văn bản nhưng các nước đều tuân thủ triệt để, thế nên vùng địa lý chính trị trên thế giới luôn thay đổi, các đường biên giới đều được vẽ bằng máu. Chiến tranh đâu đâu cũng có rất khốc liệt tàn nhẩn dùng đế hủy diệt lẩn nhau. Trong bài viết này tên gọi của nước Champa còn được gọi là Tương Lâm, Lâm Ấp, Chiêm Thành theo từng thời gian biến động của lịch sử. Thời đại có sự hiện hữu của Đại Việt và Chiêm Thành là thời kỳ mà mọi quốc gia trên thế giói đều tuân thủ một quy luật “Quốc gia nào thích nghi tốt nhất sẽ là quốc gia trường tồn”. Quy luật này sau đó đã được Darwin hình thành" thuyết Tiến Hóa"vào thế kỷ 19. Các nhà khoa học cho rằng các chủng tộc trong loài người cũng giống như các loài động vật phải biết đấu tranh sinh tồn, trong đó kẻ mạnh sẽ thống trị và tiêu diệt kẻ yếu. Thế nên địa lý thế giới về đường phân chia ranh giới các quốc gia thay đổi không ngừng. Nước nào mạnh về quân sự là đem quân đi thôn tính các quốc gia khác. Ngày xưa nếu như Đại Việt chúng ta không mạnh về quân sự, thì từ lâu đã không còn mảnh đất để gọi là VN. Trong quá khứ người Chàm không đũ sức vượt qua được các thế lực mạnh chung quanh để vươn lên thì bị quật ngã và xóa sổ. Không thể trách và càng không nên nguyền rủa là Việt tộc đã chiếm hữu nước Chiêm Thành, để rồi ngày nay gặp một quả báo, đó là sự cai trị của loài qủi đỏ csVN. Nói thư thế là gán ép tôn giáo vào việc chính trị thời trung cổ, thời mà tư tưởng con người chưa phát triển cao, con người chỉ biết lấy sức mạnh để giải quyết tồn vong của quốc gia và dân tộc mình, trong đó có các dân tộc như: Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành cùng nhau tranh sống. Việc chiếm hữu đất đai để vẽ ra lằn ranh biên giới quốc gia là một sự đấu tranh cần thiết trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa đế quốc và dân tôc cực đoan mà tất cã các quốc gia trên thế giới tứ Âu sang Á đều phải dọn mình để bước vào sân chơi này. Đại Việt, Trung Hoa, Chân Lạp, Chiêm Thành đều thấu hiểu nguyên tắc sinh tồn này trong thời trung cổ trước khi có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ra đời vào năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt. Chiêm thành và Đại Việt đều sẳn sàng cho cuộc thư hùng và phải mất trên 14 thế kỷ mới chấm dứt. Giai đoạn đầu của cuộc thư hùng gần 7 thế kỷ (từ thứ III đến thứ X), nước VN đã nhiều lần bị quân Cham Pa sang tấn công cướp phá tại Giao Châu, Nhật Nam, Cửu Chân...Đây là thời gian mà VN đang bị Tàu đô hộ lần II đất nước dưới sự cai quản của các quan Thái Thú. Sự chống trả với quân Chiêm Thành do quân Tàu đãm trách. Cho đến khi VN lấy lại được chủ quyền đất nước vào năm 939, từ đây các triều đình của Đại Việt mới tính đế chuyện dẹp giặc Chiêm Thành để bảo đảm an ninh cho dân tộc Đại Việt sống trong yên bình. Giao Châu (chữ Hán: 交州) là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Hoa. Sau khi Sĩ Nhiếp chết (226), Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô cho Lữ Đại (Lã Đại) làm Thứ sử và Giao Châu (mới) gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam Việc Chiêm Thành mất nước vào tay Đại Việt là một điều tất yếu của lịch sử trong một giai đoạn. Người viết tuy là con dân nước Đại Việt nhưng không hề đứng trên quan niệm cúa phe thắng cuộc để nhìn và phê phán. Chỉ đưa ra những bối cảnh và những quy luật sống còn vào giai đoạn mà Đại Việt và Chiêm Thành cùng nhau tranh sống một cách quyết liệt. Số phận Chiêm Thành rơi đúng vào thời trung cổ để rồi bị xóa sổ trong thời đại mà mọi quốc gia đều dùng vũ lực làm kim chỉ nam trong mọi việc giành độc lập hay vẽ đường biên giới địa lý quốc gia. Đôi bên khi tham chiến đều phải thừa biết "không thắng thì thua", mà khi thua là mất hết. Chiêm Thành bị xóa sổ vào giai đoạn mà chủ nghĩa đế quốc thịnh hành, khi mà vấn đề nhân quyền còn là chuyện hoàn toàn xa lạ với mọi người trên thế giới. Khái niệm Nhân Quyền bắt đầu phát triển vào thế kỷ 18, nước Pháp là nước được coi là cái nôi về Nhân Quyền. Năm 1789 khi cuộc cách mạng đòi nhân quyền đầu tiên trên thế giới xảy ra, đó là lúc nhân dân bị trị đứng dậy đòi quyền sống phá ngục Bastil. Rồi cũng chính tại cái nôi về nhân quyền của thế giới, một thời gian không lâu sau đó, người Pháp đã xua quân sang VN để biến nước ta thành một thuộc địa của Pháp. Vậy thì, cho tới ngày Chiêm Thành bị xóa sổ vào năm 1832, được coi đó như là điều tất yếu của sử thế giới đã dành cho số phận một quốc gia không may mắn. Cũng như bao quốc gia khác Đại Việt muốn tồn tại được trong một khu vực chung quanh toàn là hổ báo, thì Việt tộc hơn bao giờ hết phải hết sức cố gắng vươn lên để sống để bảo vệ bời cõi. Một đất nước bé nhỏ luôn chuẩn bị nội lực để chống lại các đàn hổ báo hung tợn (Trung Hoa, Chân lạp, Chiêm Thành) mà sinh tồn. Như thế mới biết công khó của tổ tiên Đại Việt trong bảo vệ và mở mang bờ cỏi về phương nam lớn lao và khó nhọc biết chừng nào. Việt tộc đã bị người Trung Hoa cai trị gần 1000 năm, trong thời gian này người Việt phải nhịn nhục sống để rồi vươn lên lấy lại được những gì đã mất, chứ không hề oán than hay đổ lỗi là phạm vào luật nhân quả như người Chàm khi bị mất nước. Nên, khi ai nói người Việt chúng ta đang bị nhân quả báo ứng, đó là câu nói hoàn toàn sai lạc. Nếu ai là người nói đến luật nhân quả báo ứng của Phật Giáo trong việc Đại Việt xóa sổ Chiêm Thành, xin hãy cho biết: VN đã trải qua 3 lần quốc nạn là bị người Trung Hoa đô hộ 3 kéo dài gần 1000 năm, Việt tộc trước đó đã làm gì ác mà phải gặp quả báo như vậy?? Nếu không có câu trả lời, thì xin hãy từ bỏ ngay lập tức những suy nghỉ thiếu luận cứ khoa học và đầy ác ý nhằm khích động hận thù giửa hai dân tộc Việt - Chiêm, trong đó có một số sử gia thiếu tính khách quan người Chiêm khi viết về đoạn sử đẩm máu của Đại việt và Chiêm Thành. Người viết ghi lại hết quá trình lịch sử của Chiêm Thành trước và khi bị xóa sổ một cách khách quan bằng chứng liệu có trong sử Việt, Chiêm Thành, Pháp và Trung Hoa để ra đưa ra nhận định riêng của người viết. Việt tộc khi bị đế quốc Trung Hoa chiếm đóng đã phải lấy máu mình để đổi lấy nền độc lập nếu một khi đã đũ mạnh, còn không lấy lại được độc lập thì vĩnh viển bị xóa sổ như các quốc gia Phù Nam, Chàm... Dân tộc VN, trong tương lai còn phải xóa bỏ sự cai trị của cộng sản trên quê hương VN. Trong khi đó người Do Thái phải mất 2000 năm mới về lại nơi quê hương đã mất. Đó là những hình ảnh của một thời mạnh được yếu thua. Trong thời đại này khi phê phán một hiện tượng từng xảy ra trong lịch sử không nên nhìn sự việc qua lăng kính tôn giáo, rồi cố tình gán ép vào cho một cái tội không phù hợp với thời trung cổ, vì chính các tôn giáo cũng đã từng đem quân đi chiếm hữu đất đai và diệt người Hồi Giáo như cuộc Thập Tự Chinh (không liên tục giữa năm 1095 và 1291 và tiếp tục vào thế kỷ XV ở tây Ban Nha và Đông Âu) Người Chiêm Thành nguyền rủa Việt tộc sau khi mất nước, nhưng họ quên một điều quan trọng, đó là bản chất của người Chiêm Thành vào thời trung cổ rất hiếu chiến, khi nào họ mạnh liền đưa quân sang VN để đánh phá và chiếm đất. Họ đã nhiều lần tấn công vào đất Việt, trong khi đất nước chúng ta đang bị người Tàu đô hộ lần II. Từ lúc mới dựng nước, Chiêm Thành đã từng đưa quân sang tấn công và cướp phá nước ta liên tục. Bối cảnh VN trong lúc đó là một nước bé luôn bị các nước láng giềng rình rập để đem quân vào cướp phá. Chiêm Thành là mối nguy hiểm lớn cho các triều đình VN, sức ép về quân sự của Chiêm Thành không thua gì Trung Hoa. VN trước thế kỷ thứ X chỉ là một nước nhỏ bé hơn tất cã các nước có đường biên giới chung. Nghe bản nhạc " Hận Đồ Bàn" để thấy sự tự hào và hảnh diện về một thời cường thịnh của Chiêm Thành. Vào lúc mà họ tự hào thì Việt tộc chúng ta phải chịu cảnh lầm than khổ sở vì sự chém giết cướp bóc phá hoại của người Chiêm Thành trên quê hương của Đại Việt, nhiều lần Vua quan nhà Trần phải bỏ Thăng Long để đi lánh nạn. "....Về kinh đô Ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù ... Triền sóng xô Muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ ... Tiệc liên hoan Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn Dạ yến ban Cung nữ dâng lên khúc ca Về Chàm. Một thời oanh liệt Người dân nước Chiêm Lừng ghi chiến công Vang khắp non sông...." Người Việt quốc gia khác với người Chiêm Thành, khi nước VNCH mất, họ không than thân trách phận, coi thất bại là một bài học cho tương lai, họ không lấy luật nhân quả của Phật giáo để lồng vào cái thất bại của người đi trước. Sau tháng 4/1975 khi di tản ra ngoại quốc lánh nạn, 42 năm qua, lớp người đi trước tìm đũ mọi cách vừa tham gia tích cực trên các mặt trận cứu quốc vừa chiến đấu vừa xây dựng một đội ngũ cho công cuộc giải thể tập đoàn Mafia csVN bằng một chiến lược lâu dài. Thành quả này của người dân nước VNCH rồi đây chắn sẽ họ sẽ nhìn thấy lại quôc gia của mình bị mất. Chiêm Thành đánh Chân Lạp tàn phá di tích Angkor WatSau khi được thành lập nước, vua Ayuthya của Chiêm Thành tiến đánh Chân Lạp, cai trị Chân Lạp trong 5 năm (1352-1357). Năm 1353 Ayuthya lại đánh Chân Lạp và chiếm Angkor Wat. Một ông hoàng thân của Chân Lạp trốn thoát về Ba-san (Kongpong Cham) xây dựng căn cứ, tổ chức lực lượng và giải phóng Angkor năm 1396. Các cuộc xâm lược của Chiêm Thành liên tiếp do Ayuthya chỉ huy đã triệt phá Angkor Wat. Năm 1432, cảm thấy không đủ sức lực chống lại Ayuthya, vua Ponhea Yat của Chân Lạp bỏ Angkor, về lập đô ở căn cứ Ba-san rồi ở Chakdomut (bốn mặt sông) ở địa điểm Phnôm Penh hiện nay. Thời kỳ Angkor Wat của Chân Lạp đến đây chấm dứt. Năm 1520 kinh đô lại dời về Lôvếch trước sự xâm chiếm của Chiêm Thành. Xin cho biết nhân quả báo ứng nào cho việc làm này của người Chàm? CHAMPA VÀ NHỮNG LẦN ĐÁNH PHÁ VNNước Champa đầu tiên có quốc hiệu là Tương Lâm, rồi sau đó là Lâm Ấp, Hoàn Vương, sau cùng là Chiêm Thành. Đời vua Hóa Đế vào năm Nhâm dần 102 ( Nhà Đông Hán) có người của huyện Tượng Lâm hay sang quấy phá. Tượng Lâm là tiền thân của nước Lâm Ấp tức Chiêm Thành. Trong đời Tam Quốc, những người Lâm Ấp thường hay sang cướp phá và quấy nhiểu quận Nhật Nam và quận Cữu Châu. Thế nên vua nhà Hán mới cử một quan đến để giử gìn an ninh cho vùng này ( Sử Trần Trọng Kim , tr.49) Năm Quí Sữu 353, người Lâm Ấp, đời vua Mục Đế đời Đống Tấn, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu, đánh vua Lâm Ấp là Phạm Phật. Đến năm Kỷ Hợi 399, Phạm Bồ Đạt, cháu của Phạm Phật mang quân sang đánh lấy hai quân Nhật Nam và Cữu Chân. Nhưng sau đó bị quan Thái Thú Giao Chỉ là Đổ Viện đánh đuổi người Lâm Ấp lấy lại hai Châu đó. Đến năm 413 Phạm Bồ Đạt lại đem quân sang phá quận Cữu Chân. Con của Đổ Viện là Đổ Tuệ Độ làm thứ sử Giao Châu đem binh đánh đuổi và chém được tướng Lâm Ấp là Phạm Kiện, bắt được hơn 100 người (Sử Trần Trọng Kim , tr.50). Dòng dỏi Phạm Bồ Đạt làm vua truyền được mấy đời, sau đó bị một quan Lâm Ấp là Phạm Chư Nông cướp mất ngôi, rồi truyền lại cho con là Phạm Dương Mại. Lúc đó bên Tàu phân ra Nam Triều và Bắc Triều, nhân cơ hội đó Phạm Dương Mại đem quan sang quấy phá Giao Châu. Lúc bấy giờ Giao Châu thuộc Nam Triều-Nhà Tống. Đến đời Văn Vũ Đế năm 433, Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn lạc nên sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin được cai trị xứ Giao Châu chúng ta, nhưng vua Tống không chấp thuận lời yêu cầu của Phạm Dương Mai.( Sử Trần Trọng Kim , tr.51). Từ đó nước Lâm Ấp thường xuyên quấy phá Giao Châu ở mạn Nhật Nam và Cữu Chân. Vua Tống sai thứ sử Đàn Hòa Chi và Tông Xác là phó tướng đem quân đi đánh Lâm Ấp. Phạm dương Mại đem quân ra chống. Nhưng thua, cùng với con chạy thoát được. Hai tướng Tàu vào Lâm Ấp chiếm được nhiều vàng bạc của cải. Đến đời Lý Bôn năm 543, người lâm Ấp lại đưa quân sang quấy phá quân Nhật Nam của Giao Châu. Lý Bôn sai tướng Phạm Tu đánh vào Cữu Đức ( Hà Tĩnh), người Lâm Ấp thua chạy về nước. Đến năm Nhâm Tuất 602 vua nhà Tùy sai tướng Lưu Phương sang đánh Nam Việt hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ đánh không lại nên ra hàng. Từ đấy nước ta bị bắc thuộc thêm 336 năm nửa. Đến đời nhà Đường bên Tàu 618-907, đời Đường Thái Tông, Lâm Ấp lúc đó có vua mới là Phạm Đầu Lê tên là Chư cát Địa lên ngội và đổi tên Lâm Ấp thành -Hoàn Vuơng Quốc. Từ đó Chiêm Thành với cái tên mới là Hoàn Vương. Và vua mới này hay đưa quân sang đánh phá Giao Châu và chiếm giữ Châu Hoa và Châu Ái. Năm Mậu tý 808 đời vua Đường Hiến Tông, quan đô hộ là Trương Chu đem quân sang đánh nước Hoàn Vương, vua nước Hoàn Vương lui về Quảng Tĩnh, tức Quảng nam và Quãng Nghĩa bây giờ và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành. Nước việt chúng ta vào thời nhà Đường không những bị Chiêm Thành cướp phá thường xuyên mà bị nước Nam Chiếu cũng thường sang cướp phá giết hại người Giao Châu chúng ta rất nhiều .( Sử Trần Trọng Kim , tr.65). Nước Nam Chiếu có quốc hiệu là Đại Mông quốc rồi lại đổi là Đại Lễ, ở phía nam Trung Hoa vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Chi%E1%BA%BFu. Nước VN chúng ta tới thời Ngô Quyền (939 - 965) thì đánh đuổi được Tàu, giành độc lập về cho xứ sở. Trong thời gian này quân Hoàn Vương không thấy sang cướp phá nước ta. Đến năm Qúi Tị 993 nhà Tống phong cho Lê Đại Hành làm Giao Chỉ Quận Vương. Rồi đến năm 997 phong cho là nam Bình Vương. Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại trong nước ta, vua Lê Đại Hành tiếp chiếu mà không lạy, lấy cớ đi đánh giặc bị ngã ngựa chân đau không qùi hành lễ. Vua Tống biết nói dối nhưng đành làm ngơ. Đời vua Lê Đại Hành lúc mới lên ngôi năm 980 nước có cử 2 sứ sang Hoàn Vương ( Chiêm Thành), nhưng vua Chiêm Thành lúc bấy giờ bắt giử hai sứ của nước ta. Đến khi vua Lê Đại Hành đánh xong quân nước Tống sang xâm lăng nước ta. Phía bắc nước ta đã tạm ổn,vua Lê Đại Hành thân chinh cầm quân sang đánh Hoàn Vương, đây là lần đầu tiên, sau ngày Ngô Quyền lấy lại được độc lập cho VN vua mới đem quân sang đánh Hoàn Vương để trả thù, Vua chiếm được kinh đô, từ đó Chiêm Thành mới chịu khuất phục và triều cống cho VN.( Sử Trần Trọng Kim , tr.91) Rồi các cuộc đánh phá của Chiêm Thành và các nước Chân Lạp vẩn thường xuyên xảy ra trên đất Đại Việt một khi họ mạnh hơn Đại Việt. Vua quan nước Đại Việt xem Chiêm Thành là một nước khó thể sống chung lâu dài sau nước Tàu. Trong suốt Thế kỷ thứ 3 cho đến đời nhà Lý gần 700 năm, nước Chiêm Thành luôn đem quân sang đánh và cướp phá nước ta mặc dù VN còn đang bị đô hộ bởi quân Tàu. Người Chiêm đã nhiều lần cướp phá trên đất Việt thì không nên trách Đại Việt đem quân sang Chiêm để trừng phạt. Từ năm 939 sau tây lịch, Đại đế Ngô Vương Quyền chém đầu thái tử Hoàng Thao trên Bạch Đằng Giang, đuổi quân Nam Hán chạy về Tàu, chấm dứt vĩnh viễn 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu nền độc lập cho cháu con Hồng Lạc và tổ quốc VN. Từ đó, mới có các sự chuẫn bị chinh phạt Chiêm Thành và công cuộc nam tiến mới được tiến hành qua các nhà Hậu Lý, Trần, Hậu Lê và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong liên tục trên 600 năm, mới thành tựu. THỜI KỲ HÙNG MẠNH CỦA CHAMPAĐó là thời Chế Bồng Nga (Che Bonguar/ Po Binasor hay Po Bhinethour), là niên hiệu của vị vua thuộc vương triều thứ 12 nước Champa (Sau năm 877, nhà Đường Trung Hoa gọi xứ Champa là Chiêm Thành quốc). Trong thời kỳ này, vương quốc Champa rất là hùng mạnh. Trong vòng ba mươi năm (1360 -1390), Chế Bồng Nga đã thu hồi lại được những vùng đất bị mất, quân Chăm đã ba lần đánh vào Thăng Long. Đến năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, bị nội phản, Chế Bồng Nga tử trận, chấm dứt trang hùng sử của đất nước Champa: Nhà Trần lấy lại những vùng đất đã mất, vương quốc Champa xuống dốc để từ đó lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp. Trong triều đại nhà Lý, tổng cộng quân Đại Việt có khoảng 10 lần đem quân đánh sang Chiêm Thành (1020, 1043, 1044, 1069, 1075, 1104, 1132, 1167, 1216, 1218). Các vua hay các quan như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành v.v. đã đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Sau mỗi lần chinh phạt, vua Chiêm Thành lại cầu hòa, cử người sang cống nhưng sau đó lại tiếp tục chống đối. Một sự kiện quan trọng nhất là vào năm 1069, Chiêm Thành đem quân ra cướp phá vùng Nghệ An - Hà Tĩnh. Vua Lý Thánh Tông thân chinh dẫn 10 vạn quân nam chinh vào tận kinh đô Chiêm Thành đánh bại và bắt được vua Chiêm đưa về Thăng Long, để chuộc vua Chiêm bị vua Lý thánh Tông bắt, triều đình Chiêm Thành đã cắt phần đất phía Bắc dâng cho Đại Việt là vùng đất Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay, sau sự kiện này biên giới phía nam của Đại Việt lần đầu tiên tiến đến sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Đây là lần đầu tiên nước Chiêm Thành bị thu hẹp vì chuộc mạng cho vua Chiêm, chứ không do Đại Việt đánh chiếm. LỊCH SỬ CHAMPA -PART 1Đến thế kỷ thứ 14, vua Chế Mân dâng 2 châu Ô và Lý (Quảng Trị-Thừa Thiên) cho vua Trần Anh Tôn để xin cưới Huyền Trân công chúa. Như vậy sau bao thế kỷ chia phân, toàn bộ Việt Thường Thị lại trở về với Đại Việt. Chế Bồng Nga (Che Bonguar/ Po Binasor hay Po Bhinethour), là niên hiệu của vị vua thuộc vương triều thứ 12 nước Champa (Sau năm 877, nhà Đường Trung Hoa gọi xứ Champa là Chiêm Thành quốc). Trong thời kỳ này, vương quốc Champa rất là hùng mạnh. Trong vòng ba mươi năm (1360 -1390), Chế Bồng Nga đã thu hồi lại được những vùng đất bị mất, quân Chăm đã ba lần đánh vào Thăng Long. Đến năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, bị nội phản, Chế Bồng Nga tử trận, chấm dứt trang hùng sử của đất nước Champa: Nhà Trần lấy lại những vùng đất đã mất, vương quốc Champa xuống dốc để từ đó lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp. Nghiên cứu trang Champaka Info: www.champaka.info/index.php?option=com_content&view=article&id=836:kynien&catid=34:lichsu&Itemid=28. Một vị tiến sĩ của người Champa viết về cuộc diệt chủng người Chăm thơi vua Minh Mạng, nhưng tất cã chứng minh của vị tiến sĩ này hoàn toàn không thuyết phục, chỉ thấy vị tiến sĩ này viết bằng thứ mực căm hờn. Cuối cùng vị tiến sĩ này này bị vướng vào một mâu thuẩn trong việc lên án Vua Minh Mạng diệt chủng là: trích ".. dân tộc Champa hùng mạnh trở thành một tập thể thua trận, chỉ còn sóng sót chưa đầy 100.000 người trong hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, đang lâm vào cảnh nghèo đói khốn cùng, đang sống trong không gian xã hội không tổ chức, không nhà lãnh đạo tinh thần và không dự án tương lai, chờ ngày bị diệt vong....(?!) hết trích. Tác giả nói nước Chiêm Thành bị xóa sổ, dân Chiêm Thành bị diệt chủng, nhưng ta thấy đoạn kết của vị tiến sĩ này viết: "còn sống sót 100.000 người", như vậy sao gọi là diệt chủng? Thế nên có nhiều lý luận từ những người Chiêm Thành cho rằng việc xóa xổ Chiêm Thành đã làm cho người Việt chúng ta mang tội diệt chủng và sẽ bị quả báo (?!) đó là những lên án một cách cực đoan thiếu luận cứ khoa học chứng minh mà chỉ dựa vào lòng căm thù khi bị mất nước. Điều đó càng không đúng, vì người Chiêm Thành từ khi còn là nước Tương Lâm, Lâm Ấp, Hoàn Vương đã nhiều lần sang đánh phá, cướp tài vật của các vùng Giao Châu. Cữu Chân, Nhật Nam..Nếu như thời buổi lúc đó, các quan thái thú Tàu không ngăn chận được thì VN đã hoàn toàn bị xóa sổ. Đó là những thiên niên kỷ mà các quốc gia trên toàn thế giới đều phải tôn trọng một qui luật chung không có viết trong văn bản mà viết bằng máu :"chỉ có mạnh mới tồn tại". Tổ tiên Việt tộc rất vất vả để giử nước trước sức mạnh của nước Tàu ở phương bắc, phía nam là quân Chiêm Thành. Có những lúc VN chúng ta bị quân Chiêm Thành áp đảo, mạnh mẽ nhất là lúc quân Chiêm Thành đánh ra tới Thăng Long vua quan của chúng phải bỏ Thăng Long mà chạy. Trong giai đoạn 1367–1389, Chế Bồng Nga từng 12 lần xua quân Bắc phạt Đại Việt nhằm tái chiếm các vùng đất Châu Ô và Châu Lý vốn được chuyển giao sang chính quyền Đại Việt trong thời gian cai trị của vua Chế Mân. Năm 1377, khi thành Đồ Bàn bị quân đội nhà Trần tấn công, Chế Bồng Nga đã lãnh đạo quân đội chống cự rất mãnh liệt, khiến vua Trần Duệ Tông bị tử trận trong trận chiến này. Thắng lợi này của Chế Bồng Nga khiến Thượng hoàng Trần Nghệ Tông khiếp đảm, sau này hễ Chế Bồng Nga bắc tiến là Lê Quý Ly ( Hồ Qúi Ly) phải bỏ kinh thành chạy dài. Tới đây chúng ta có thể gọi chiến tranh giửa Đại Việt và Chiêm Thành nhằm giải quyết sự trường tồn của hai dân tộc một cách triệt để không khoan nhượng. Trong các cuộc bắc tiến Chế Bồng Nga đã có tổng cộng 3 lần đánh vào tận kinh đô Thăng Long. Năm 1389, Chế Bồng Nga tử trận tại trận Hải Triều. Cái chết của ông khép lại một trang hùng sử trong lịch sử Chăm Pa. Chế Bồng Nga được xem là vị vua vĩ đại cuối cùng của vương quốc Chăm Pa vì sau khi ông mất, nước Chăm không còn quật khởi như trước được nữa, từ đó sức ép của quân Chiêm Thành mới giảm dần. Qua dòng lịch sử do người Việt ghi chép lại, hay từ các sử gia ngoại quốc, hoàn toàn không thấy nói tới sự tàn ác dã man của quân Việt đối với tù binh hay dân chiến nạn người Chàm. Sự việc đã xảy ra suốt dòng lịch sử, khi người Việt trên con đường nam tiến, tới đâu cũng tận tình bảo quản những di tích lịch sử của người Chiêm để lại, đồng thời hòa đồng với họ khi đã sống lẫn lộn, tôn trọng tôn giáo riêng tư của kẻ khác, cho nên nói người Chiêm sau khi mất nước phải hòa đồng vào dân tộc VN là đúng, nhưng bảo người Việt đã diệt chủng và đồng hóa Chiêm Thành như đã xảy ra dưới thời vua Minh Mạng, là một bịa đặt không ai tin được. Câu hỏi cuối cùng được đặt ra, là tại sao hơn ba thế kỷ tiến hóa, tính từ niên lịch 1693 tới ngày nay, nhân số trong cộng đồng sắc tộc Chàm, vẫn không thấy gia tăng quá con số 100.000 người, nếu so với người Minh Hương, Khmer hay cả với các sắc dân thiểu số cao nguyên? Khó có thể giải thích vì người Chàm dù bị vong quốc, họ vẫn tiếp tục sống với lối khép kín bao đời, theo bản làng thị tộc. Ngoài ra các giới lãnh đạo cộng đồng Chàm, vẫn còn đầu óc phân chia giai cấp, nại lý do bảo tồn văn hóa truyền thống thị tộc, nghiêm cấm đồng bào mình hướng ngoại và kết hôn với các thị tộc Chàm khác, dù đều là người Chiêm Thành. Dân Champa có bao nhiêu người theo chiều dài lịch sử chính người Champa cũng chỉ là phỏng đoán, không có một chứng liệu khả tin nào để ghi nhận? Do đó nếu nói vua Minh Mạng diệt chủng và sự việc đó như thế nào? con số bị diệt chủng là bao nhiêu không có ai đưa ra được con số cụ thể, tất cã đều cũng chỉ là dựa vào những lời đồn. Xin hãy đọc một bài viết do người Champa viết về dân số Champa qua các thời đại. www.champaka.info/index.php?option=com_content&view=article&id=352:dan-s-&catid=36:xahoi&Itemid=18NƯỚC CHĂM PA (Chiêm Thành)Theo các tài liêu của người Champa viết những năm sau này thì Vương Quốc Champa là một Quốc gia độc lập, tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 7 đến năm 1832 trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. www.nguoicham.com/blog/159/l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-v%C6%B0%C6%A1ng-qu%E1%BB%91c-champa/. Nhưng theo sử Trung Hoa và VN thì Champa đựoc ghi nhận chính xác trong sử Chămpa (Chiêm Thành) tồn tại từ năm 192 và kết thúc vào 1832. tất cã đất sát nhập vào Đại Việt. Ngày nay tại các vùng có người Chàm sinh sống vẩn còn các di tích đền đài xưa của nước Chămpa ( Chàm). Dân tộc Người Chăm, (tiếng Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm , dân Chiêm Thành, người Hời nay là một thành phần của 54 dân tộc Việt vào khoảng 161.729 người theo lần kiểm tra dân số vào 01/04/2009. Theo tác giả Mường Giang, thì Champa thuộc Việt thường e-cadao.com/queta/ranhgioichamquasulieu.htmChiêm Thành xưa làvùng địa lý của Việt Thường, cho nên vua Gia Long trong lúc cầu phong với nhà Thanh, đã viết: "Ngay từ thời lập quốc, lãnh thổ của Tổ tiên ta bao gồm cả vùng đất Việt Thường". vanhoanghean.com.vn/PDF/Ch6.pdfCăn cứ vào sử Trung Hoa, vùng này đời Tần gọi là Lâm Ap, thuộc Tượng Quận. Đời Hán đổi thành huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam của Van Lang, lúc đó đã bị người Tàu cưởng chiếm và đô hộ, sau khi tiêu diệt nhà Triệu của người Việt. Năm thứ 2 Vĩnh Hòa Hậu Hán, vua Thuận Đế, có viên công tào trong huyện tên Au Lân, nổi lên giết quan huyện, chiếm xứ này, tự xưng làm vua Lâm Ap. Đến đời nhà Tuỳ chiếm lại đất này, cải thành Sung Châu rồi lại đổi thành Lâm Ap như cũ, thống hạt 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang và Nam Cực. Cuối đời Trinh Nguyên nhà Đường (785) bỏ hẳn. Cũng theo Trung Hoa sử, đời Đại Đường có xứ Việt Thường, qua triều cống một con rùa thần đã được 1000 tuổi, lưng rộng trên 3 thước, trên có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua sai chép lấy và gọi là lịch rùa. Bùi Dương Lịch (1757-1828) có viết cuốn Nghệ An ký, đề cập tới đất Việt Thường nhưng biên giới thì từ phía bắc Thanh Hóa tới đèo Hải Vân. Tác phẩm trên cũng cho chúng ta nhiều ý niệm lịch sử có trước các thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, sống theo chế độ du mục, thì ở Việt Thường Thị đã có chữ viết. vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Th%C6%B0%E1%BB%9Dng Khi đề cập tới nước Chiêm Thành xưa nay hầu hết các sữ gia đều đồng chung quan điểm là nước Chiêm Thành ra đời từ đầu thế kỷ thứ 2 sau TL và tồn tại tới năm 1832 thì bị diệt vong. Về lãnh thổ, thì hầu hết các nguồn tài liệu đều nói nước Chiêm Thành nằm trên duyên hải miền Trung Việt Nam, phiá bắc từ Đèo Ngang vào tới Bình Tuy ngày nay. Trong suốt chiều dài lịch sử, hầu như biên giới giữa Việt-Chiêm không bao giờ cố định vì chiến tranh triền miên giữa hai nước. Và cứ mỗi lần như thế, thì biên giới lại thay đổi cho tới năm 1471, lần đầu tiên vua Lê Thánh Tôn mới cho dựng bia đá trên núi Thạch Bị (đèo Cả, giữa Phú Yên -Khánh Hòa), từ đó ít ra trên giấy tờ mới thấy có sự minh định. Với người Chàm, thực tế chưa bao giờ có một ý niệm ranh giới đối với các lân bang. Theo quan niệm của đạo Bà La Môn, rồi sau này là Hồi Giáo thì nước Chiêm Thành, được coi như là một tập hợp giữa các làng và biên giới nước, được tính từ khoảng không gian giữa kinh đô tới tận các làng mạc xa nhất của người Chàm. Quan niệm cổ này, mãi tới những năm 1955-1975, vẫn được Chính Phủ VNCH cho áp dụng khi tổ chức hành chánh quận Phan Lý Chàm của tỉnh Bình Thuận. Chúng ta biết người Chiêm suốt dọc dài lịch sử, phần lớn làng mạc chỉ tụ tập ở châu thổ các sông ngòi và các hải cảng, nên đa số đất bị bỏ hoang thành rừng. Điểm này, vua chúa Chiêm Thành lại đem yếu tố tín ngưỡng ra áp dụng để thay thế cho các minh định theo điều kiện kinh tế hay quân sự. Cho nên nói lãnh thổ Chiêm Thành chạy dài tới tận Bình Tuy, vì ở cực nam này vẫn có một số làng Chàm sinh sống tại Phố Châm, Phố Hải, trong khi gần cả trăm cây số từ Đồ Bàn vào Khánh Hòa hay từ Phan Rang vào Phan Thiết, đều là rừng núi hoang vu không có bước chân người, nên mới phát sinh câu tục ngữ truyền khẩu "cọp Phú Yên-Khánh Hòa, ma Bình Thuận " là vậy. Tóm lại chỉ có dân bản địa và triều đình mới hiểu đâu là ranh giới của làng mình, vì nó chỉ có tên gọi nhưng không có trong bản đồ và văn kiện. Theo truyền khẩu, thì vua Chàm là chúa tể sơn hà hay Po-tana-raya, chủ nhân ông tất cả mọi thứ trong nước, dù thực tế chỉ có quyền hạn, tại các làng mạc cùng chung tín ngưởng. Đó là sự bất di bất dịch không ai có quyền xâm phạm vì đã được thần linh xác nhận qua trung gian của đồng cốt. Do trên khi gây chiến tranh, người Chiêm biện lý rằng đó là quyết định của thần linh, chứ không phải là xâm lược. Cũng do cái ý niệm thiêng liêng như vậy, mà mỗi cá nhân phải có bổn phận gắn liền đời mình với mảnh đất quê hương, để không bị làm con ma trơi bất hạnh khi phải chết ngoài làng mình. Sự ràng buộc khiến người Chiêm không muốn xuất ngoại, nên dù đã vong quốc, sống trong một tổ quốc khác, nhiều người Chiêm Thành cứ tiếp tục cho là mình vẫn lệ thuộc vào chính trị và hành chánh của quốc gia . Quan niệm này tới khi VN hoàn toàn bị Cọng sản đệ tam quốc tế đô hộ, có một số ít người Chàm bị nguy hại tới tính mạng, vì liên hệ với Chính phủ Quốc Gia VN, nên mơi chịu bỏ xóm làng của mình mà vượt biển hay tới nước ngoài, tìm tự do Căn cứ vào sự thay đổi diện tích của nước Đại Nam vào thời nhà Nguyễn để biết diện tích của nước Chămpa rộng lớn như thế nào? Diện tích VN từ thời nhà Nguyễn đến nay vẫn không thay đổi bao nhiêu, rộng 331.000 km2, chia ra Bắc phần 115.700km2, Trung phần bao gồn vùng duyên hải, dãy Trường Sơn và cao nguyên phía nam, từ Thanh Hóa vào tới giáp ranh tỉnh Biên Hòa là 147.600 km2 và Nam phần 67.700km2. Như vậy nước Chiêm Thành buổi đó, từ nam đèo Ngang vào tới Bình Tuy, đất đai xét cho cùng chẳng có bao nhiêu. Riêng cao nguyên Nam Trung phần, nằm giữa vĩ tuyến 11 độ - 15 độ 30 bắc và kinh tuyến 105 độ 30, chạy dài từ bắc xuống nam trên 450 km và đông sang tây 150km, diện tích chừng 65.000 km2, nằm trong tứ giác giới hạn bởi sông Bùng (Quảng Nam), biên giới Việt-Lào-Miên và các con sông Đồng Nai-Sài Gòn. Dãy Trường Sơn chạy từ sông Mã tới sông Búng, phần còn lại tức cao nguyên Nam Trung Phần. Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên. Nhưng được ghi nhận hiện diện và tồn tại tương đối chính xác nhất là vào năm 192 tới 1832 (16 thế kỷ). Cũng dựa theo sử liệu, hiện nay có hai giả thuyết nói về biên giới của Chiêm Thành. Thuyết thứ 1 của A.Bergaigne, E.Aymonier, L.Pelliot là những nhà nghiên cứu Pháp thế kỷ XIX và XX, cho rằng lãnh thổ Chiêm Thành gồm duyên hải và cao nguyên Trung Phần, từ Quảng Bình vào tới Bình Thuân. Giả thuyết trên đã bị các nhà nhân chủng học đánh đổ vào hậu bán thế kỷ XX. Thuyết thứ 2 của một nhóm giáo sư Pháp, thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học Ba Lê, thực hiện vào năm 1975. Nhóm này căn cứ vào các văn bía viết bằng chữ Phạn cũng như những di tích của người Chàm còn lưu lại trên các vùng đất mà họ có mặt. Tóm lại thuyết này chẳng những đồng ý lãnh thổ Chiêm Thành bao trùm cả duyên hải lẫn cao nguyên Trung phần, mà còn chứng minh người Chiêm Thành không phải chỉ có người Chàm, mà còn bao gồm nhiều sắc tộc khác tại cao nguyên. Để biện minh lập luận trên, nhà nghiên cứu đưa vua Po Ramo người Churu, đã làm vua Chiêm Thành từ 1627-1651 và còn đi xa hơn khi nói dòng họ này tiếp tục làm vua qua 14 đời, tới năm 1786 mới chấm dứt, trong khi nước Chiêm Thành thật sự đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới năm 1693. Tất cả những giả thuyết trên ngày nay cũng chẳng có gì mới lạ, khi chúng ta được đọc những sử liệu của Trung Hoa, Chân Lạp và Đại Việt, viết về lịch sử Chiêm Thành, trong khi những nhà nghiên cứu không nói rõ về xuất xứ của những di tích Chàm còn để lại ở Phù Nam, Chân Lạp hay Lào qua các cuộc chiến dành qua kéo lại và trên hết là một phần cao nguyên bị đô hộ bởi người Chàm trên 300 năm. Đại uý người Pháp là Doudart de Lagrée, trong phái đoàn thám hiểm sông Cửu Long, từ đất Miên vào năm 1866, đã nói thật chí lý "không ai có thể biết được biên giới nước Chiêm Thành như thế nào, nhưng chúng ta có thể định vị bằng niên lịch, vì chúng thay đổi theo từng giai đoạn. Mỹ sơn thung lũng thần linh và nghệ thuật Chiêm Thành bị nhiều nước láng giềng tàn pháSự tàn phá nước Chiêm Thành không phải riêng do Đại Việt tàn phá trong chiến tranh mà trước đó đã bị các quan thái thú tại VN dẩn quân đi sát phạt, rồi đến Chân lạp nhiều lần tấn công vào Chiêm Thành đã cướp phá và hủy diệt nhiều di tích cổ của người Chiêm. Ví dụ như Tháp Bà Po Nagar tại Kauthara, bị Chân Lạp phá huỷ nhiều lần, cho tới khi châu này thành tỉnh Khánh Hòa của Đại Việt vào thế kỷ thứ XVII, mới được người di dân VN, bảo quản và giữ gìn giá trị văn hóa này cẩn trọng cho tới hôm nay. Ngoài ra, Chiêm Thành cũng bị người Tàu tàn phá hai lần vào năm 605 và 1282, người Nam Dương cướp phá vào các năm 774, 787 nhưng tàn bạo nhất vẫn là những sự trả thù dã man của Chân Lạp trên đất Chiêm Thành vào những năm 950, 1190 và thời gian chiếm đóng từ 1203-1220. Sự đối xử tàn bạo của người Chân Lạp và những năm này không thấy các nhà sữ học người Chiêm lê án (?!). Nói chung nhìn về mặt sử liệu thì Đại Việt là nạn nhân của nhiều nước làng giềng hùng mạnh như Trung Hoa, Chân lạp và Chiêm Thành. Riêng áp lực của Chiêm Thành nặng nề không kém như nước Trung hoa vào thời đó. Đặt trường hợp, nếu như đũ mạnh trong thời gian này, thì Chân Lạp đã bị Vua Ayuthya của Chiêm Thành xóa sổ trên bản đồ, và đồng hóa luôn dân Chân lạp. Điều này cho thấy sức mạnh của Chiêm Thành không đồng đều chỉ nhất thời, nạn tiểu vương cũng làm cho Chiêm Thành suy yếu từ nội tại. Nội bộ các tiểu vương đấu đá không ngừng, nên đưa đến việc diệt vong là điều tất yếu của lịch sử. Chiêm Thành cũng đã từng liên minh với Chân Lạp để đánh Đại Việt, không những như thế. Đến đời Văn Vũ Đế năm 433, Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn lạc nên sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin được cai trị xứ Giao Châu chúng ta, nhưng vua Tống không chấp thuận. Năm 1132 có sự phối hợp của quân Chiêm Thành, và quân Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An. Thái uý Dương Anh Nhĩ chỉ huy quân Thanh Hoá và Nghệ An đánh tan được quân Chân Lạp và quân Chiêm Thành.Tham vọng nuốt chửng VN của Chiêm Thành không lúc nào bị quên lảng trong suốt thời gian tồn tại của nước Chiêm Thành. Quá trình thu phục Chăm Pa:1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura. 2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất. 3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế. 4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi. 5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, được triều thần Chiêm Thành dâng cho đất tới Phú Yên. 6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà. 7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành gần như bị xóa tên trên bản đồ. 8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử Chăm Pa. Tóm lại Chiêm Thành mất nước là do họ tự đạo diễn. Cuộc nam tiến của Đại Việt chẳng qua cũng chỉ là một ngẫu cảm trùng hợp. Sự đụng chạm nếu có trong quá khứ, chẳng qua vì cá nhân trong lúc cùng sống lẫn lộn, hay trường hợp vua Minh Mạng đối xử gay gắt với cá nhân những người Chàm tại Bình Thuận, có liên hệ tới cuộc phản loạn của Lê văn Khôi tại thành Gia Định, đó là những người Champa đi theo Lê văn Duyệt không chịu lệ thuộc triều đình Huế, nhưng đây chỉ là vấn đề ngoại lệ của lịch sử. Ngày nay Chiêm Việt hòa đồng, đồng bào Chàm chỉ mất có triều đình nhưng giữ lại gần như đầy đủ các công trình sáng tạo tại các đền, chùa, thánh tích nổi tiếng của dân tộc mình ở điện Ngọc Trản (Huế), thánh tích Mỹ Sơn, Đồng Dương, Tháp Bà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Sau rốt nền văn minh Chiêm Thành vẫn tồn tại qua mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, kể cả tín ngưỡng của người Việt Trung Phần. Trong gần 300 làm chủ cao nguyên, người Chàm còn để lại nhiều di tích như các tháp Yan Mun, Dranglai ở gần Cheo Reo (Phú Bổn), tháp và tường thành Eahleo ở Bản Đôn (Darlac) và nhiều Rasung Batau (thùng dùng tắm rửa theo nghi thức tôn giáo) ở Ban Mê Thuột, Keudeu, Meteung, Kontum. Theo Henri Maitre trong Jungles Moi, thì sau khi chiến thắng Chiêm Thành, những quan chức và quân sĩ Chàm từ cao nguyên đã rút về Khánh Hòa, còn triều đình nhà Lê chỉ ấn định một đường ranh giới, phân chia Kinh-Thượng mà thôi. Tuy người Chàm không lưu lại các tác phẩm lịch sử, nhưng ngày nay nhờ có viện bảo tàng cổ vật Chiêm Thành, được xây dựng từ năm 1915 ở thành phố Đà Nẵng, với nhiều tác phẩm nghệ thuật và điêu khắc của người Chiêm, có thể gần như liên tục từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ thứ XV. Người Chàm trong chế độ VNCH:Trong thời VNCH (1955-1975), chính phủ có một bộ phát triển sắc tộc, dành riêng cho các sắc dân thiểu số trong đó có người Chàm. Ngay từ thời Pháp thuộc, vua Bảo Đại có ban hành bộ luật Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, nhưng vẫn cố tránh làm đảo lộn nếp sống cổ truyền của đồng bào thiểu số, trong đó có người Chàm, nên đả ban hành thêm đạo luật số 51 ngày 25-5-1943 với đặc ân cho người thiểu số, trong đó có Chàm khỏi thi hành. Vì vậy cho nên với pháp luật thời đó, chỉ áp dụng luật Chàm để xử họ và tôn trọng chế độ mẫu hệ bao đời. Thời VNCH (1955-1975), tại các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có đông người Chàm cư ngụ. Trong sự tế nhị và nâng đỡ, chính phủ đã bổ nhiệm các quận trưởng và phó quận, phần lớn là người Chàm, để dễ dàng hành sử với đồng bào của họ, vì các Quận Trưởng Chàm đều kiêm nhiệm chánh án tòa sơ thẳm trong vùng. Ngày nay đọc lại danh sách các viên chức hành chánh cao cấp của tỉnh Bình Thuận, tính đến ngày 30-4-1975, ta mới thấy tình người giữa Việt-Chiêm, thật ấm áp và đầy ý nghĩa. - Quận Trưởng Phan Lý Chàm: Thiếu Tá Đặng Chánh Anh. Phó QT là đốc sự Ya Pha (còn sống tại VN). - Quận Trưởng Hàm Thuận: Trung Tá Dụng văn Đối. - Quận Thiện Giáo: Phó QT, đốc sự Nguyễn Trọng Chống (còn ở VN). - Quận Hải Ninh: Phó QT, đốc sự Đắc Hữu Thiên (ở Mỹ). - Quận Tuy Phong: Phó QT, đốc sự Lâm Quang Chân (đã chết trong tù cải tạo VC). - Quận Hải Long: Phó QT, đốc sự Mai Tường (ở Mỹ). - Đác văn Kiết, Tham sự hành chánh, Trưởng Ty Phát triển sắc tộc Bình Tuy. - Nhiều Sĩ Quan giữ các chức vụ quan trọng tại TK.Bình Thuận, Ninh Thuận. Nổi tiêng nhất tại địa phương, có ai sánh nổi Thiếu Tá Thô Thêm, Tiểu Doàn Trưởng TD 230 ĐPQ/BT hay Đại Uý Đặng Phiên, ĐĐT/ĐPQ đã cùng với một số sĩ quan ĐPQ. Bình Thuận, trong đó có Đại Uý Nguyễn Văn Ba, Cựu học sinh Trung Học PBC, xuất thân sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, đã mất tích, trong khi vượt traị tù VC ở Lương Son, quận Hòa Đa, Bình Thuận. - Nhiều công chức, cán bộ và giáo chức.. Tất cả những viên chức trên đều là người Chàm. Những cái nhìn tiêu cực đầy thiên vị và không phân biệt được trắng đen của một ít người khi viết những trang sử cận đại, xét cho cùng một phần do sự mâu thuẩn địa phương, mà thời nào cũng có trong xã hội người Việt. Nghỉ đến công khó của tổ tiên trong việc mở mang bờ cõi phương Nam, với 10 thế kỷ đi vẽ lằn ranh biên giới với các quốc gia xung quanh đã nói lên được một sự hy sinh vô bờ bến của hàng triệu sinh linh. Chỉ đáng tiếc một điều là cho tới nay vẩn còn những lời phê bình về hành động này của tổ tiên Việt tộc hoàn toàn không trung thực và không khách quan của một số người Việt lẩn người Chiêm. Ngày nay, Việt tộc còn phải chứng kiến những đứa con hoang csVN đang ngày đêm phá hoại các di sản về vật chất của tiền nhân đã để lại cho con cháu, chúng dâng đất, dâng biển phản bội lại tổ tiên và Việt tộc. Lê Kim Anh 1.7.2017
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 18:34:37 GMT 9
Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền TrungNguyễn Văn Huy* nghiencuulichsu.com/2016/08/31/cong-dong-nguoi-thuong-tren-cao-nguyen-mien-trung/Tìm hiểu lịch sử những cộng đồng dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam là một bổ túc cần thiết cho mọi dự án xây dựng Việt Nam tương lai. Bài viết tóm lược sự hình thành cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung, những phong trào phản kháng của người Thượng trong thời Pháp thuộc và dưới các chế độ chính trị của Việt Nam, để hiểu và nâng đỡ những đồng bào đang chia sẻ mảnh đất Việt Nam chung. I. Sự hình thành cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung Thượng là tên gọi chung những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung Việt Nam. Dân số người Thượng hiện nay trên 1,6 triệu người (tương đương với 1,9% dân số toàn quốc), được chia thành 19 nhóm khác nhau, đông nhất là các nhóm Bahnar, Sedang, Hré, Mnong, Stieng thuộc ngữ hệ Môn Khmer (Nam á) và Djarai, Rhadé, Raglai thuộc ngữ hệ Malayo Polynésien (Nam Ðảo). Ðịa bàn cư trú của người Thượng có hình giọt nước, rộng trên 60.000 cây số vuông, từ vừng rừng núi phía Tây các tỉnh đồng bằng duyên hải miền Trung (bắt đầu từ Quảng Bình xuống Ðồng Nai) đến tận biên giới Lào và Kampuchea với các tỉnh Kontum, Gia Lai, Ðắt Lắc, Lâm Ðồng (gọi chung la Tây Nguyên) và chấm dứt trên những sườn đồi phía Nam dãy Trường Sơn trong các tỉnh Ðồng Nai và Sông Bé. Mỗi nhóm Thượng sinh trú trong một địa bàn riêng biệt với những ngôn ngữ, phong tục, tập quán riêng. Mật độ dân số trung bình khoảng 30 người trên một cây số vuông; tỷ lệ tăng trưởng dân số trung bình là 2% một năm. Ngày nay người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ: 40% dân số trên Tây Nguyên. Sự hội nhập của người Thượng vào cộng đồng dân tộc Việt Nam còn rất mới, chưa tới 50 năm (từ 1954 đến nay), do đó còn rất nhiều điều để khám phá. Các tên gọi về người Thượng Triều đình và người Việt Nam xưa gọi chung những sắc dân sinh sống trong vùng rừng núi, chưa thấm nhuần văn minh đồng bằng, là Man di, Thổ dân hay Liêu thuộc; khi chống lại trung ương thì bị gọi là rợ, loạn. Vào giữa thế kỷ 19, lần đầu tiên tiếp xúc với những sắc dân sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn, người Pháp gọi chung tất cả là Mọi. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, danh xưng mọi xuất hiện từ thế kỷ 18 khi Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh. Triều thần nhà Lê (Trương Tuân và Dương Trọng Tế) thời đó gọi quân Tây Sơn là quân Mọi. Sở dĩ có tên gọi này vì quân Tây Sơn đa số là người Thượng (đảm trách phần nhiệm tải người và vật dụng), kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn ống, mình trần trùng trục. Chưởng Tiến, một lục lâm hảo hán thời đó, mắng quân Tây Sơn là lũ Hồng Mao, mọi lông đỏ vì trên đầu mỗi binh sĩ đều vấn vải đỏ và giắt lông chim (một phong tục của người Bahnar khi lâm trận). Không biết danh xưng Mọi có từ bao giờ, người Pháp nói rằng người Việt đã gọi những sắc dân cư ngụ trên vùng rừng núi phía Tây đồng bằng duyên hải miền Trung là Mọi từ lâu đời, với nội dung kinh bỉ những người có đời sống còn man dã, dữ tợn. Ngày nay danh xưng Mọi tuy không còn phổ biến nhưng trong dân gian vẫn còn những biến nghĩa tiêu cực khi muốn hạ thấp nhân phẩm hay khinh miệt đối phương với những cụm từ: làm mọi (làm không công, làm tôi tớ), man mọi (kém văn minh), mọi rợ (dã man), thằng mọi (người không có văn hóa). Trong thực tế danh xưng Mọi xuất phát từ lối phát âm của người Mường: Mơl, có nghĩa là người. Khi các giáo sĩ phương Tây đầu tiên đến Thanh Hóa vào cuối thế kỷ 16, họ đã dựa theo cách phát âm của người địa phương gọi những sắc dân sinh sống trên vùng rừng núi là Mwal, phiên âm ra theo tiếng la-tinh Việt ngữ hóa là mơ-oa l hay mơ-oai. Thật ra không có sắc dân nào tên mới cả, mỗi sắc dân đều có một tên riêng đi kèm, như Mơ Mường là người Mường. Khi cộng đồng người Việt từ các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh theo Nguyễn Hoàng vào Nam (tức miền Trung ngày nay) lập nghiệp đầu thế kỷ 16, họ gọi chung người miền núi là mơ-oai vì không biết đặt tên gì. Với thời gian, do cách phát âm riêng biệt của người Thanh Nghệ Tĩnh, danh xưng mơ-oai biến âm thành mọi. Từ đó về sau mới có các tên Mọi Ðá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Ðá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ những sắc dân Thượng sinh trú ở phía Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và Biên Hòa. Có người dùng chữ người Sơn Cước cho có vẻ văn minh hơn, nhưng danh xưng này bao hàm tất cả những cư dân bản địa sống trên vùng núi non hay cao nguyên miền Bắc lẫn miền Trung, do đó không thể dùng để chỉ riêng người Thượng. Người bình dân gọi tất cả những thổ dân không phải là người Việt có nước da ngâm đen sinh sống bên cạnh họ là người miền ngược, người miền núi, thượng bang, người thiểu số, người sắc tộc, v.v… Các chế độ chính trị gọi là đồng bào sắc tộc. Chế độ cộng sản còn đi xa hơn, đồng hóa danh xưng sắc tộc (ethnie) với dân tộc (nationalité) theo cách gọi của Liên Xô cũ và Trung Quốc; sắc tộc thiểu số đổi thành dân tộc thiểu số, mỗi sắc tộc là một dân tộc (dân tộc Rhadé…), chính vì thế ngày nay người Việt trong nước thường gọi chung người Thượng là người dân tộc (?). Trong bài này tác giả sử dụng danh xưng Thượng, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung, hay Tây Nguyên. Thượng có nghĩa là ở trên, người Thượng là người ở miền cao hay miền núi. Ði tìm lịch sử Cộng đồng người Thượng từ khi xuất hiện cho đến nay chưa bao giờ kết hợp lại thành một quốc gia. Mỗi nhóm sắc tộc, tùy từng thời điểm, hùng cứ một nơi, quay quần quanh một vị thủ lãnh hay một dòng họ. Sống trên một địa bàn hiểm trở, chung quanh là núi rừng ẩm ướt, dụng cụ sinh hoạt chính của người Thượng là gỗ rừng, văn minh của người Thượng có thể gọi là văn minh thảo mộc, những di tích không tồn tại lâu dài với thời gian. Gần đây nhiều di chỉ khảo cổ trên Tây Nguyên vừa được khám phá, nhưng những phát hiện này dừng lại ở thời đại đồ đá cách đây từ 10.000 đến 30.000 năm, giai đoạn cận kim hoàn toàn thiếu vắng. Thêm vào đó người Thượng không có chữ viết, tìm hiểu nguồn gốc hay lịch sử của người Thượng chính vì vậy rất là khó khăn. Những huyền thoại dân gian truyền khẩu của người Thượng phần lớn do những giáo sĩ người Pháp chép lại, tính chất có thực của những chuyện này rất khó kiểm chứng. Mặc dầu vậy, với quyết tâm, chúng ta vẫn có thể tìm hiểu sự hiện diện của những đồng bào này qua lịch sử các thế lực xưa trong vùng: Phù Nam, Angkor, Chiêm Thành, Xiêm La và Ðại Việt, để từ đó nối lại những mắt xích thiếu sót trong lịch sử các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử của người Thượng cũng là tìm hiểu gốc tích của dân tộc Việt Nam, bởi vì ngày nay người Thượng là công dân của nước Việt Nam, tổ tiên của họ cũng là tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam. Từ khởi thủy, trên Tây Nguyên không có chủng tộc nào có những tên gọi như ngày nay. Tổ tiên người Thượng phần lớn là người đồng bằng chạy lên cao nguyên lánh nạn và ở lại luôn; với thời gian, những hòa trộn chủng tộc giữa các nhóm di dân cũ và mới làm nảy sinh những nhóm sắc tộc khác nhau. Cũng nên biết rừng núi Trường Sơn trước khi được sát nhập vào Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là địa bàn lánh nạn lý tưởng cho những người thích sống tự do, từ chối sự thống trị của các thế lực đồng bằng. Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, cư dân đầu tiên trên Tây Nguyên mang nặng yếu tố Veddoid (hay Négroid, dáng người nhỏ thấp, tóc đen xoắn, da ngâm đen, xuất hiện cách đây từ 10.000 đến 5.000 năm), sống theo bầy ngoài trời, biết săn bắn, chế tác dụng cụ và vũ khí bằng xương thú và đá đẽo. Những đợt di dân về sau, mang nặng yếu tố Mélanésien (dáng thấp, nước da ngâm đen, tóc đen dợn sóng, cách đây từ 6.000 đến 5.000 năm) và Indonésien (từ sông Indus tới, dáng người cao to, tóc đen dợn sóng, da không đen sậm, cách đây từ 5.000 đến 2.500 năm) tiến bộ hơn, kết hợp với những nhóm có trước tạo thành các nhóm Thượng Môn Khmer ( người da đen, tóc quắn, xấu xí và sống khỏa thân, nếp sống đơn giản, không trộm cắp theo mô tả của Khương Tài, sử gia Trung Hoa vào thế kỷ 4) ở sâu trong lục địa địa và nhóm Thượng Malayo Polynésien (dáng vạm vỡ, da ngâm đen, tóc đen dợn sóng) từ duyên hải lên. Cả hai nhóm đều nắm vững kỹ thuật chế tác vật dụng bằng gốm, dệt vải, rèn luyện kim loại thô sơ và làm rẫy. Nhờ những đóng góp mới này người Thượng bắt đầu biết kết hợp thành bộ lạc, dựng nhà sàn, chăn nuôi trâu bò và thuần dưỡng voi rừng để chuyên chở hay xung trận. ý thức quyền lực ngày càng rõ nét, những bộ tộc lớn thường tấn công những bộ lạc nhỏ và yếu hơn để bắt phụ nữ và nô lệ phục vụ mình. Nhờ đất đai còn hoang trống, những nhóm nhỏ và yếu hơn, không muốn bị sát hại hay bị làm nô lệ, trốn vào các chốn rừng sâu; sống tách biệt với thế giới bên ngoài những nhóm này càng trở nên lạc hậu và yếu kém hơn. Sự di chuyển theo đàn thú rừng và lối canh tác du mục cũng làm thay đổi yếu tố thuần chủng của từng nhóm. Với thời gian, tranh chấp về không gian sinh tồn và lãnh đạo giữa những bộ tộc lớn ngày càng gắt gao, một số đã nhờ các thế lực tại đồng bằng (Phù Nam và Chiêm Thành) lên can thiệp và chấp nhận triều cống. Từ đó sự hiện diện của người Thượng bắt đầu xuất hiện trong những ghi chép của các triều vương đồng bằng, từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 19. Ðến thời Pháp thuộc, những nhóm sắc tộc Thượng lần lượt được khám phá và liệt kê trong các văn bản. Sự hình thành các nhóm Thượng Vào đầu công nguyên, xuất hiện hai vương quốc của người Malayo Polynésien lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam và Chiêm Thành. Lãnh thổ Phù Nam rộng từ Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng ảnh hưởng tỏa lên Thượng Lào và Bắc Miến Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều vương quốc nhỏ sinh hoạt độc lập với nhau dọc các đồng bằng eo hẹp miền Trung đến chân dãy Trường Sơn về phía Tây: Lâm êp hay Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình), Aryaru (Phú Yên), Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Bình Thuận). Sinh hoạt chính của người Malayo Polynésien là trồng lúa nước và buôn bán. Ðể tìm thêm nguồn hàng quí hiếm trao đổi với các thuyền buôn nên Ðộ, người Malayo Polynésien mở rộng tầm kiểm soát lên các vùng rừng núi đồng thời khuất phục luôn các nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ trước. Một phần lớn dân cư bản địa, người Môn, từ chối sự thống trị mới này đã chạy sang đồng bằng các sông Menam (Thái Lan), Salween và Irrawaddy (Miến Ðiện) lập nghiệp; một số ít hơn trốn lên cao nguyên Trường Sơn. Một sắc dân khác, người Khmer, rút lên cao nguyên Korat (phía Tây Thái Lan) lánh nạn và ở luôn trên đó. Từ thế kỷ 5 người Khmer trở nên hùng mạnh, tiến xuống đồng bằng đánh bại Phù Nam và thành lập đế quốc Angkor vào giữa thế kỷ 7. Các triều vương Angkor dồn mọi nỗ lực xây dựng hệ thống dẫn thủy nhập điền và những đền đài đồ sộ bằng đá quanh Siem Reap. Những đại công tác này đòi hỏi một nguồn nhân lực khổng lồ, các sắc dân sinh sống quanh khu vực đều bị bắt về làm nô lệ và đã không nhiều thì ít tiêm nhiễm yếu tố văn hóa Khmer trong sinh hoạt hay trở thành hăn người Khmer bởi chính sách đồng hóa. Từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 15, nhiều đoàn nô lệ đã băng rừng vượt núi chạy lên cao nguyên Trường Sơn lánh nạn, hòa trộn với những nhóm Môn có sẵn từ trước tạo thành các nhóm hợp chủng Môn-Khmer (như các nhóm Bahnar, Sedang, Brâu, Hré, Kor, Mnong, Mạ, Koho, Stieng, Choro… ngày nay), với những trình độ văn hóa và kỹ thuật khác nhau tùy theo mức độ sống chung với người Khmer tại Biển Hồ và các nhóm Malayo Polynésien từ duyên hải miền Trung tiến lên sau này. Về phía Ðông, từ thế kỷ 2, lãnh thổ các tiểu vương quốc Indrapura và Amaravati của người Chăm chịu áp lực nặng nề của người Trung Hoa ở Giao Chỉ. Mỗi lần bị đánh bại, dân cư Chăm rút lên Trường Sơn lánh nạn; một số đã ở lại hòa trộn cùng những nhóm Môn Khmer có sẵn để trở thành các nhóm Bru, Tà Ôi (Pacoh), Ktu, Djé Triêng. Giữa thế kỷ 5, Chiêm Thành bị quân Tống tấn công và đại bại, dân cư Amaravati băng Trường Sơn chạy vào Champassak (Nam Lào) lánh nạn, một số lớn đã ở lại và tạo thành các nhóm Djarai với sự pha trộn ít nhiều yếu tố Môn Khmer. Ðến cuối thế kỷ 7, quân Java từ Biển Ðông tràn vào đánh phá Aryaru và Kauthara, một phần lớn dân chúng đã chạy lên cao nguyên Darlac tị nạn và tạo thành các nhóm Rhadé. Vào giữa thế kỷ 16 quân Chiêm tại Panduranga bị quân Việt đánh bại, một số người Chăm chạy lên cao nguyên Di Linh tá túc, hòa hợp với các nhóm Koho và Mạ để trở thành các nhóm Raglai. Về sau, vào đầu thế kỷ 19 thành trì cuối cùng của người Chăm tại Panduranga lọt vào tay nhà Nguyễn, một số người Chăm rút lên cao nguyên Ðồng Nai, hòa trộn với các nhóm có trước để trở thành người Churu. Qua mô tả tóm lược này, tiến trình hình thành các nhóm người Thượng này có vẻ giản dị nhưng trên thực tế rất là phức tạp. Sự pha trộn giữa các nhóm, tự nhiên hay bị ép buộc, để trở thành một tập hợp khác làm thay đổi thường xuyên địa bàn cư trú của mỗi nhóm. Nhiều nhóm đã tan biến đi, nhiều nhóm mới được thành lập và còn giữ tên cho đến ngày nay. Cho đến nửa đầu thế kỷ 20, tiến trình chuyển hóa của người Thượng vẫn còn tiếp diễn: các nhóm Sedang, Bahnar và Djarai ở Kontum, các nhóm Mạ, Koho, Stieng và Mnong ở Di Linh đang có kết hợp tự nhiên để trở thành những tập hợp khác nhưng sự xâm nhập của người Pháp vào cao nguyên đã làm khựng lại tiến trình hợp chủng này và chấm dứt hăn vào giữa thế kỷ 20 khi người Kinh xuất hiện trên cao nguyên. Thêm vào đó, nhóm Thượng nào được các thế lực đồng bằng hỗ trợ thường hay áp đảo các nhóm khác, nhỏ và yếu hơn, để đồng hóa. Trên cao nguyên Kontum, người Bahnar tự gây thanh thế để củng cố cộng đồng của mình. Trên cao nguyên Pleiku và Darlac các nhóm Djarai và Rhadé được người Chăm ủng hộ thường áp đảo các nhóm nhỏ hơn để duy trì yếu tố thuần chủng của mình. Trên cao nguyên Attopeu, người Sedang, Cùa và Sô săn lùng các nhóm yếu hơn, bắt làm nô lệ bán cho người Thái và Lào. Trên cao nguyên Ðồng Nai và Sông Bé, các nhóm Mnong Bhiet và Stieng hợp tác với các triều vương Khmer đánh phá lẫn nhau. Trong hai cuộc chiến Ðông Dương vừa qua, cộng đồng người Thượng gần như phân hóa vì bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh giành độc độc lập và ý thức hệ giữa các phe phái. Ðiều đáng lưu ý là các nhóm Thượng trên cao nguyên, trừ trường hợp Pháp và Mỹ, gắn bó với các thế lực đồng bằng thuộc văn minh nên Ðộ hơn là với những người thuộc văn hóa Trung Hoa. Trong quá khứ và ngay trong hiện tại, người Thượng mặc dù có bị đàn áp, ức hiếp hay có chống trả lại các cuộc xâm nhập của người Chăm, Khmer và Thái nhưng quan hệ của họ đối với các cộng đồng có nền văn hóa nên Ðộ lúc nào cũng dễ dàng, sự kiện này cần nên lưu ý. Quan hệ với người Chăm và Khmer Do xuất thân từ các vùng đất thấp, quan hệ giữa người Thượng và các thế lực đồng bằng đã rất chặt chẽ. Người Thượng cần gạo muối và dụng cụ kim khí, người đồng bằng cần phẩm vật rừng xanh, cả hai cộng đồng vẫn còn trao đổi qua lại cho đến ngày nay. Thêm vào đó là những quan hệ quyền lợi và quyền lực, các thế lực đồng bằng cần người miền núi để bổ sung nhân lực trong các công trình xây dựng hay quân đội, nhất là voi trận, nhằm tăng cường uy thế; các nhóm miền núi cần người đồng bằng hỗ trợ để bảo vệ địa vị áp đảo của mình. Sau mỗi thất bại các nhóm Thượng phân hóa thành các chi bộ nhỏ sống rải rác khắp nơi dọc các con suối, các thung lũng lòng chảo hay trên các triền núi, đời sống vô cùng khó khăn vì bị tản mát. Về phía các vua Chăm và Khmer, mỗi khi thua trận, thường dâng cống phẩm vật rừng xanh (cọp, nai, voi, ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, cánh kiến, mật ong, vàng bạc, đá quí) do người Thượng cung cấp cho phe thắng trận để xin thần phục. Theo dõi những ghi chép còn lại trên bia đá của các triều vương Angkor và Chiêm Thành cũ, quan hệ qua lại giữa hai khu vực đã được nhiều lần nhắc đến. Tại Chiêm Thành, tù trưởng các bộ lạc lớn của người Thượng được phong tước chiến sĩ (Ksatriya), có quyền lập gia đình với phụ nữ Chăm và ra vào cung đình. Các vua Chiêm Thành cũng thường được các tù trưởng Thượng gả con gái để duy trì quan hệ quyền lực. Năm 914 một tiểu vương Chăm gốc Bahnar tên Mahindravarman được giao cai quản cao nguyên Kontum và khi chết được chôn tại Kon Kor trong thung lũng sông Bla, gần Kontum. Nam 1145, vua Khmer Suryavarman II với sự giúp đỡ của người Stieng và Mnong, sau đó là của người Rhadé và Djarai, băng Trường Sơn vào chiếm kinh đô Vijaya (Bình Ðịnh) của người Chăm. Năm 1150, sau khi đánh đuổi quân Khmer về bên kia dãy Trường Sơn, vua Chăm Jaya Harivarman tấn công người Rhadé, Djarai và các nhóm Thượng khác, mà họ gọi chung là Kirataê, do Vansaraja (êng Minh Diệp), một người Rhadé và là anh rể của nhà vua, để tái lập trật tự trong nước. Tàn quân của Vansaraja vượt sông Gianh vào Ðại Việt cầu cứu, vua Lý Anh Tôn sai tướng Nguyễn Mông cùng 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa vào tiếp cứu nhưng bị đánh bại, Nguyễn Mông và Vansaraja đều bị tử trận. Toàn bộ các thung lũng ven núi nơi người Thượng cư trú đều đặt dưới sự kiểm soát của Chiêm Thành. Tại Chân Lạp, sự lớn mạnh của Chiêm Thành đe dọa thế đứng của đế quốc Angkor, trong suốt thế kỷ 12 quân Khmer với sự hỗ trợ của người Thượng đã nhiều lần băng rừng Trường Sơn tiến vào đánh phá Chiêm Thành. Những thế kỷ sau, nơi cư trú của người Thượng trở thành khu vực trái độn và là nơi giao chiến giữa Angkor và Chiêm Thành. Năm 1282, lãnh thổ Chiêm Thành bị quân Mông Cổ chiếm đóng. Hoàng tử Harajit cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi trốn lên cao nguyên Ya Heou (An Khê) lánh nạn và chiêu mộ được 20.000 binh lính Thượng (đủ cả các sắc tộc lớn nhỏ) kháng chiến. Lực lượng du kích của Harajit gây nhiều thiệt hại cả về nhân mạng lẫn vật liệu chiến tranh cho quân Mông Cổ. Năm 1283, Toa Ðô dẫn hơn 5.000 binh sĩ, 100 tàu chiến và 250 thuyền đổ bộ vào Quảng Ngãi và Bình Ðịnh, tiến lên cao nguyên Kontum-Pleiku tiễu trừ quân kháng chiến nhưng vì không quen khí hậu nóng ẩm và thiếu tiếp liệu phải lui về đồng bằng. Quân Chiêm và quân nhà Trần đã hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân Mông Cổ ra khỏi lãnh thổ năm 1285. Năm 1288 Harajit lên ngôi vua, hiệu Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), quan hệ giữa người Chăm và người Việt, giữa người Thượng và người Chăm ngày càng thắm thiết, nhiều đền đài Chăm được dựng lên ở Yang Mun, Yang Prong và Drang Lai. Từ thế kỷ 14 trở về sau, chiến tranh giữa Chiêm Thành và Ðại Việt xảy ra thường xuyên, cộng đồng người Thượng trên cao nguyên là nguồn nhân lực bổ sung cho quân đội Chiêm Thành. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn chiếm thành Ðồ Bàn (Bình Ðịnh) và chia lãnh thổ Bắc Chiêm Thành ra nhiều xứ để cai trị, trong đó có xứ Nam Phan bao gồm vùng đất phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh và cao nguyên Kontum, Pleiku, Darlac. Kể từ giai đoạn này, dân cư Ðại Việt mới biết người Thượng nhưng vì tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Trung Hoa nên các sắc dân không thuần chủng Kinh đều bị cách ly. Người Manê (Thượng) luôn bị nghi kỵ và nhiều phòng tuyến ngăn cản sự tiếp xúc giữa Kinh và Thượng được thành lập. Những năm mất mùa, người Ðá Vách (Hroi, Kayong, Cùa, Hré, Ktu, Krem) thường tràn vào các thôn xã người Kinh cướp bóc lương thực. Năm 1540, vua Lê Trang Tôn phong Bùi Tá Hán làm trấn thủ đạo Quảng Nam với mục đích trừ loạn Ðá Vách ở phía Nam Quảng Ngãi gồm các huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà. Sau khi dẹp xong loạn Ðá Vách, Bùi Tá Hán thi hành chính sách chư hầu đối với người Thượng (thuộc man) và mở rộng giao thương hai chiều: cung cấp muối gạo, vải vóc và nhận lại ngà voi, sừng tê giác, quế, kỳ nam, mật ong. Chính sách này đã mang lại sự yên bình cho toàn khu vực trong gần 200 năm. Trong cùng thời gian đó, đồng loại của họ phía Tây Trường Sơn sống trong loạn lạc. Năm 1587, người Ai Lao từ cao nguyên Sébang Hien tiến xuống chiếm thung lũng Sedon, Sekong, Sesan, Sesu (tả ngạn sông Mékong) và được người Sedang tiếp sức, đánh đuổi các bộ lạc Pacoh, Brilar, Halang lên các khu rừng rậm và núi cao phía Ðông của Ðại Việt. Người Ai Lao còn tràn vào thung lũng sông Srepok của Chân Lạp, chiếm cứ khu vực sinh sống của người Bahnar và Djarai dựng làng Bandon. Ðến đầu thế kỷ 17, cuộc Nam tiến của người Ai Lao dừng lại trên cao nguyên Darlac. Năm 1601, người Djarai, được Chân Lạp hỗ trợ, đẩy quân Ai Lao lui về phía Bắc. Quan hệ giữa người Khmer và Djarai được thiết lập và kéo dài cho đến năm 1860 khi các giáo sĩ Pháp đến cao nguyên. Quan hệ với người Kinh Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, người Thượng là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của các thế lực tranh chấp. Mỗi khi thua trận quân chúa Trịnh hay chúa Nguyễn thường rút lên vùng núi phía Tây lẩn tránh; phe thắng trận truy kích theo, đánh tràn vào các bản làng Thượng và bắt dân Thượng khuân vác quân dụng và nộp lương thực. Nhiều nhóm Thượng đã phải chạy qua xứ Nam Chưởng (trước kia là Láng Cháng, Bắc Lào) lánh nạn. Trong thế kỷ 17, người Thượng (Raglai và Churu) và người Chăm tiếp tục kết hợp cùng nhau chống lại cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn. Năm 1629, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên tiến quân vượt sông Ðà Rằng, thành lập Trấn Biên dinhđến tận chân núi Thạch Bi (đèo Cả). Vua Chăm Po Romé bị thua phải giảng hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa, cũng là vợ thứ ba và là vợ út của Po Romé, gọi là Po Bia út, tức hoàng hậu Akaran (vợ thứ nhất là Po Bia Suthi, người Chăm con vua Po Ehklang, không có con trai; vợ thứ hai là con một tù trưởng Rhadé ở Attopeu tên Po Bia Tanchan). Năm 1697, người Ðá Vách (Hré, Ktu, Pacoh, Bru) phía tây Bình Trị Thiên nổi lên phản đối sưu cao thuế nặng. Năm 1714, Trà Xuy (một người Hré) lãnh đạo dân Thượng phía Tây Cam Lộ kiểm soát một vùng đất rộng lớn phía Tây Quảng Trị. Năm 1722, người Hré tiến chiếm Minh Linh (còn gọi là Hồ Xá thuộc tỉnh Quảng Trị), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Ðăng Khoa đi đánh dẹp nhưng bị chết trong đám loạn quân. Quân Thượng hùng cứ khu vực cận sơn cho đến 1760 khi Nguyễn Cư Trinh làm tuần phủ Quảng Ngãi, ông phải mượn sự tích Sãi Vãi để khích động tinh thần binh sĩ mới dẹp yên được người Thượng. Nguyễn Cư Trinh thành lập Quảng Ngãi đồn dinh gồm sáu đạo canh phòng các vùng cận sơn và áp dụng chính sách dân vận để thu phục người Ðá Vách. Năm 1765, Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần thành lập trấn Ðiện Bàn tại Quảng Nam và cho xây dựng một trường lũy (tường thành bằng đất bện tre, có hố chông bằng cây tầm vông hay tre già vót nhọn) từ Trà Mi (Quảng Nam), Trà Bồng, Nghĩa Hạnh, Minh Long, Ba Tơ (Quảng Ngãi) đến An Lão, Hoài nên, Phù Mỹ (Tây Bắc Bình Ðịnh) đề phòng người Thượng. Năm 1770, khâm sai Trần Ngọc Chu mới dẹp yên được loạn Ðá Vách, nhưng kéo dài lâu. Năm 1773, quân Thượng lại nổi lên ở Quảng Nam và Quảng Ngãi chống lại chính sách phân biệt đối xử. Năm 1775 tại Hải Lăng, hai lãnh tụ Lâm và Mộc, người Tà Ôi, lãnh đạo cuộc kháng chiến ở các huyện Cam Lộ, Ðăng Xương, Minh Linh chống lại chúa Trịnh. Trong cuộc nội chiến Tây Sơn-chúa Nguyễn, cao nguyên Trường Sơn là nơi ẩn lánh của phe thua trận và là hậu cứ cho những cuộc tiến quân khác của các phe lâm chiến. Năm 1771, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổi lên tại Tây Sơn, một làng trên cao nguyên An Khê thuộc tỉnh Bình Ðịnh, lãnh địa của người Bahnar. Phong trào Tây Sơn được người Bahnar, Hré, Kor, Sedang, Rhadé, Djarai và nhiều nhóm Thượng khác bên Lào giúp người và giúp của. Nhiều tù trưởng Thượng tại Bình Ðịnh còn gả con gái cho anh em Tây Sơn làm hầu thiếp. Quân Tây Sơn có ba đạo: một đạo gồm toàn người Hoa (đa số là quân cướp biển), một đạo gồm toàn người Thượng (do tù trưởng Bok Kiom, người Bahnar, chỉ huy) và người Chăm, hai đạo này họp thành tả quân và hữu quân; đạo thứ ba gồm toàn người Kinh họp thành trung quân. Khi Nguyễn Huệ hai lần mang quân ra Bắc (1788-1789), binh sĩ Thượng và Chăm đã tỏ ra đắc lực trong việc vận chuyển người và lương thực. Nguyễn Huệ mất năm 1792, người Thượng tiếp tục ủng hộ Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng chống lại chúa Nguyễn nhưng cuối cùng vẫn bị đánh bại. Sợ bị Gia Long trả thù, con cháu nhà Tây Sơn chạy lên cao nguyên lẩn tránh và được người Sedang hết lòng che chở. Từ đó cộng đồng người Thượng bị canh phòng nghiêm nhặt, mọi quan hệ với đồng bằng đều bị cắt đứt. Năm 1804, hai năm sau khi lên ngôi, Gia Long cho dựng lại các tuyến phòng thủ phía Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi, gọi là Trấn Man (nơi ngăn giữ người Man), nay là Ðiện Bàn, gồm 4 nguyên: Ðà Bồng, Cù Bà, Phù Bà và Ba Tơ và 5 đạo. Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khắc Tuân củng cố tuyến phòng thủ này với sự thành lập nhiều đồn lũy tại những nơi trọng điểm, nhiều khu dinh điền và đồn điền đưa dân đồng bằng lên khai thác, đồng thời giáo hóa một số bộ lạc Thượng ven ranh nghề canh tác lúa nước và chăn nuôi. Năm 1819, tả quân Lê Văn Duyệt xây thêm Tịnh Man Trường Lũy (thành lũy để dẹp yên giặc Man) bằng đá và đất cao 2 thước, dầy 1 thước, dài trên 90 cây số, từ Trà Bồng qua Sơn Trà, Minh Long phía đông Ba Tơ (Quảng Ngãi) đến Nước Giao, Gò Bùi thuộc An Lão (Bình Ðịnh) để ngăn chặn người Thượng. Mặt ngoài trường lũy có hào chông và hàng rào cây với 115 đồn, mỗi đồn có 10 lính canh. Quan hệ với triều Nguyễn Do bị cắt đường liên lạc với đồng bằng miền Trung, tình hình trên cao nguyên rất là loạn lạc dưới triều nhà Nguyễn và đời sống của người Thượng trở nên cơ cực vì bị người Nam Chưởng và Xiêm La ức chế. Người Bahnar rút về phía Ðông dọc sông Bla sinh trú, người Halang trốn lên đỉnh núi Mang Rai, người Rhadé Kpa chạy về phía Nam hồ Taklak (Lạc Thiện) lập nghiệp, người Chom Puon và Brao sinh sống dọc đèo Lao Bảo ẩn vào rừng sâu, người Mnong Bhiet di tản sang Kratié. Nhiều nhóm đã bị diệt chủng hay bị đồng hóa, đến nay không còn dấu tích. Tại một số nơi, quân Xiêm La còn xúi người Thượng đánh phá các làng ven núi của người Việt để bắt người và cướp lương thực. Trước sự đe dọa của Xiêm La, năm 1827 tù trưởng Chiêu Nội dẫn 3.000 dân đinh chạy qua Ðại Việt xin bảo hộ và dâng luôn 28 sở ruộng ở Kham Mouan làm nội thuộc. Minh Mạng đổi tên Kham Mouan thành Trấn Ninh và phong Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ, cai quản 7 huyện và phong các thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Tin Ðại Việt chịu bảo hộ và giúp các thổ dân chống lại Xiêm La và Nam Chưởng loan đến các nhóm thiểu số khác tại Ai Lao. Tù trưởng Tam Ðộng (Tourakom) và Lạc Phán (Pak Sane) trước kia trực thuộc Vạn Tượng cũng dâng đất xin nội thuộc, Minh Mạng liền chia làm hai phủ: Trấn Tĩnh và Lạc Biên và giao cho các đầu mục bản địa cai quản. Về sau có thêm tù trưởng các xứ Xa Hổ (Sa Noi), Sầm Tộ (Sam Teu), Mang Soan (Mouan Som), Mang Lan (Mouan Ham), Trình Cố (Xieng Khoan), Sầm Nứa (Sam Neua), Mường Duy (Mouan Yut), Ngọc Ma (Na Noi), Cám Cát (Kham Keut), Cam Môn (Kham Mouan) và Cam Linh (Kham Len) về xin nội thuộc, tất cả đều được vua Minh Mạng nhận bảo hộ và phong quan. Minh Mạng lập thêm ba phủ: Trấn Biên (Xa Hổ, Sầm Tộ, Mang Soạn và Mang Lang), Trấn Ðịnh (Cam Cát, Cam Môn và Cam Linh) đặt dưới sự quản lý hành chánh của Nghệ An, còn phủ Trấn Nam (Trình Cố, Sầm Nứa và man Duy) trực thuộc Thanh Hóa. Các nhóm Mường và Hmong (Mèo) sinh sống tại Mang Vang (Na Khang), Na Bí (Prasie), Thượng Kế (Keng Kok), Tả Bang (Ta Lam), Xương Thịnh (Song Khone), Tầm Bồn (Tchépone), Bà Lan (Pha Lane), Mang Bổng (Mouan Phin) và Lang Thời (Phak Kha Nhia) cũng xin về nội thuộc, được chia làm 9 châu do các đầu mục cai quản, trực thuộc Cam Lộ. Như vậy toàn bộ lãnh thổ miền Trung Lào (Vientiane, Xieng Khoang, Hua Phan, Bolikhamsay, Kham Moun và Savanakhet) đều nội thuộc Ðại Việt. Người Thượng sinh trú tại vùng Hạ Lào thường bị người Thái hiếp đáp cũng chạy qua Ðại Việt cầu cứu. Từ 1829 trở về sau, vua Thủy Xá của người Djarai thường sai người mang lễ vật triều cống và được ban tặng lại áo mão, tước phẩm triều đình và mang họ do vua đặt. Nhưng đời sống cửa người Thượng ngày càng khó khăn, lễ vật triều cống thưa dần rồi ngưng hăn, thỉnh thoảng họ còn tràn vào các làng xã của người Việt tại vùng giáp núi để cướp lương thực. Năm 1863, vua Tự Ðức phong Nguyễn Tấn làm tiểu phủ sứ Trấn Man để ngăn chặn người Thượng. Nguyễn Tấn đổi Trấn Man thành Nghĩa Ðịnh Sơn Phòng Trấn, ghi chép những phong tục tập quán, ngôn ngữ của người Thượng để quan quân học tập. Sơn Phòng Trấn gồm bốn châu: Trà My, Nghĩa Hành, Ðức Phổ và Bồng Sơn. Năm 1866-1867, các bộ lạc lớn của người Thượng xin thần phục, đến năm 1869 thì tất cả các bộ lạc nhỏ ở vùng rừng sâu phía tây An Lão (Bình Ðịnh) đều ra hàng. Con cháu Nguyễn Tấn là Nguyễn Ðộ và Nguyễn Thân tiếp tục cai trị Sơn Phòng Trấn cho đến năm 1891. Vua Tự Ðức ra chỉ dụ nới rộng lãnh thổ lên các vùng trung nguyên, chương trình này sau đó bị đình chỉ vì triều đình Huế phải tập trung sức lực đối phó với quân Pháp đang làm áp lực trên khắp lãnh thổ. Sổ bộ về dân số người Thượng thời Nguyễn không có vì người Thượng không có họ mà chỉ có tên. Dưới thời Tự Ðức, để tiện việc ghi chép, các quan lại triều đình (chánh tổng và tổng nguồn là những chức quan cai trị vùng Thượng) đặt cho mỗi làng Thượng một họ Việt chung tùy theo suy luận của mỗi người, chăng hạn như Ðinh (tráng đinh), Hồ (loạn quân), Man (dã man) v.v… Từ đó người Thượng vùng Nam Ngãi đều mang họ Ðinh, người Vân Kiều mang họ Hồ, người Thượng ở Bình Ðịnh và Phú Yên mang họ Man, v.v… Sự hiểu biết về người Thượng chỉ rõ dần khi người Pháp mở rộng lãnh thổ lên cao nguyên. Công lao đầu tiên thuộc về các giáo sĩ, tiếp theo là của những nhà phiêu lưu, mạo hiểm. Những ghi chép của họ đã giúp chính quyền thuộc địa Pháp dễ dàng cai trị cao nguyên. Người Việt sau này, thừa hưởng di sản hiểu biết đó, đã không biết làm thăng hoa thêm. II. Người Thượng và những phong trào phản kháng dưới thời Pháp thuộc Từ giữa thế kỷ 16 người Việt bắt đầu tiếp xúc giáo lý đạo công giáo, số người theo đạo càng ngày càng đông, nhiều họ đạo lớn được thành lập. Nhưng từ thế kỷ 19 trở về sau, đạo công giáo bị bách hại, phong trào tìm đường lên cao nguyên lánh nạn trở nên mạnh mẽ, cộng đồng người Thượng qua đó đã được biết đến. Sự xâm nhập của người Pháp, và của người Kinh sau này, vào không gian sinh tồn của người Thượng là tiền đề của những phong trào hợp tác hay phản kháng của người Thượng. Quan hệ với các giáo sĩ Pháp Tại Việt Nam, người Thượng đã được các giáo sĩ phương Tây biết đến từ thế kỷ 17. Năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những nhóm dân cư phía Bắc Nam Phần là Kemoy (Kẻ Mọi). Giáo sĩ Marini Romain đề cập tới các vua Hỏa Xá và Thủy Xá (người Djarai) từ 1646. Năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes xác nhận xứ Rumoi (Rú Mọi) nằm ở giữa Lào và Annam. Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João de Loureiro xuất bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Người Mọi đen và Champa); giáo sĩ De La Bissachère lội ngược sông Mékong lên phía Bắc và khám phá các nhóm Thượng sinh sống dọc hai bờ sông. Năm 1765, giáo sĩ Pigues lên đến thượng nguồn sông Prek Chlong (Kampuchea) và tiếp xúc với các nhóm Stieng, Proue, Queraie, Penong, v.v…, rồi trở về không. Năm 1770, giáo sĩ Juguet vào Prek Chlong giảng đạo cho người Stieng rồi chết vì kiệt sức (1774). Tháng 5-1775, giáo sĩ Faulet thành lập họ đạo Chlong rồi cũng chết vì bệnh sốt rét rừng (1776). Sang thế kỷ 19 những hiểu biết về Tây Nguyên rõ ràng dần; khi thiết lập Ðại Quốc Họa Ðồ năm 1838, giáo sĩ Taberd dùng chữ mọi để chỉ những nhóm dân sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn. Tuy vậy, những cố gắng này không có tiếp nối. Phải chờ đến thời Tự Ðức, việc cấm đạo trở nên dữ dội ở đồng bằng, cố gắng tìm đường lên cao nguyên mới được hồi sinh. Tại Tây Nam Phần, năm 1857, giám mục Lefèbvre cho người vào nơi sinh trú của người Stieng, phía Tây Bắc Gia Ðịnh, tìm nơi trú ẩn và năm 1861, giáo sĩ Azémar thành lập được họ đạo Brơlam (Bình Long) nhưng bị Pou Kombo (một lãnh tụ Khmer) đốt năm 1867. Giáo sĩ Vuillaume, khi trốn các cuộc lùng bắt đạo tại Phan Rang năm 1865, đã chạy lên cao nguyên Di Linh sinh sống với người Mạ và Sré. Nhưng sự khám phá Tây Nguyên và người Thượng chỉ qui mô hóa từ giữa thế kỷ 19. Tại Trung Phần, năm 1847, giám mục cai quản giáo phận Ðông Nam Phần tại Bình Ðịnh, Etienne Cuénot cử ông Nguyễn Do, một tín đồ người Kinh, đi từ Trạm Gò đến An Khê vào lãnh thổ người Djarai Hadrong. Năm 1850, Nguyễn Do dẫn bốn giáo sĩ Pháp (Combes, Fontaine, Dourisboure, Besombes) vào nơi cư trú của người Bahnar, Rengao, Sedang và thiết lập các họ đạo tại Kon Xolang, Kon Koxam và Kon Rohai. Khi về đồng bằng mỗi phái đoàn vẽ lại bản đồ và ghi chú chi tiết phong tục tập quán của từng nhóm sắc tộc đã tiếp xúc. Ðó là những tài liệu về cao nguyên miền Trung chưa từng được biết. (Năm 1776, khi vào Nam kiểm kê, Lê Quí Ðôn có ghi lại một số quan hệ giữa các vua Hỏa Xá và Thủy Xá với triều đình xứ Ðàng Trong, nhưng những mô tả này chỉ dựa trên lời thuật chứ không do giao tiếp trực tiếp). Trong thời kỳ này người Sedang, Djarai và Stieng còn rất hiếu động, họ thường đánh bắt người Bahnar Reungao, Sedang Halang và Mnong Bhiet bán làm nô lệ cho người Thái và người Lào. Năm 1862, nhân bệnh đậu mùa làm chết nhiều người trên cao nguyên, các thầy phù thủy Thượng cho rằng sự hiện diện của các giáo sĩ Pháp là nguyên nhân của tai ương và kêu gọi dân chúng nổi lên đánh đuổi. Khoảng 400 quân Sedang từ phía Bắc tràn xuống tấn công các làng công giáo Bahnar. Các bộ lạc Djarai từ phía Nam sông Bla cũng tiến lên chiếm đóng khu vực canh tác của người Bahnar. Năm 1871, một đàn châu chấu bay đến phá hoại tất cả mùa màng của người Thượng gây ra nạn đói, các tù trưởng Djarai và Sédang lại hô hào dân chúng nổi lên đốt phá các làng đạo Bahnar. Cũng nên biết Bahnar là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết dựa theo mẫu tự la-tinh do các giáo sĩ dòng Thừa Sai soạn năm 1861. Trước sự đe dọa này, các giáo sĩ Pháp giúp người Bahnar chống trả lại và còn thành lập một đội võ trang gồm 1.200 người năm 1883 để đánh trả lại những cuộc tấn công của các nhóm khác. Sự hiện diện của các giáo sĩ công giáo làm thay đổi hăn tương quan quyền lực trên Tây Nguyên. Người Bahnar trước kia là nạn nhân của người Djarai và Sedang nay biết tự vệ hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, các giáo sĩ Kinh còn dạy cho người Bahnar cách trồng lúa nước, bắp, cây bông gòn và nghề chăn nuôi (heo, bò, trâu, ngựa, gà, vịt). Ðời sống của người Bahnar nhờ đó đã được cải thiện hơn, không bao lâu sau dân số Bahnar tăng nhanh và trở thành một nhóm hùng mạnh. Ðầu năm 1888, toàn quyền Constans và tổng thư ký Klobukowski cử David Mayréna (một tay phiêu lưu khôn ngoan và gan dạ) lên Attopeu tìm vàng. Mayréna được các giáo sĩ Pháp giúp đỡ tận tình và nhờ tài bắn súng rất hay, đánh kiếm rất giỏi đã chinh phục hầu hết các làng Sedang tại Dakto. Sau thành công dễ dàng này, Mayréna thành lập vương quốc Sedangê ngày 3-6-1888, có hiến pháp, có quốc kỳ và huy hiệu riêng. Mayréna tự xưng là êMarieÐệ Nhất, vua người Sedangê. Không chịu thua, ngày 20-6-1888, các giáo sĩ Pháp cũng cho ra đời Liên Bang Bahnar-Reungao-Sedang, phong một lãnh tụ Bahnar tên Krui làm tổng thống Cộng Hòa Bahnarê. Liên bang mới này liên hiệp với vương quốc Sedang tuyên chiến với người Djarai. Danh tiếng của Mayréna đe dọa uy quyền của Xiêm La, lúc đó gần như đặt trọn Tây Nguyên dưới quyền kiểm soát, và làm chính quyền thuộc địa Pháp tại Ðông Dương lo ngại; cả hai tìm cách triệt hạ ảnh hưởng của Mayréna trên phần đất này. Nhân một chuyến du hành sang Châu Âu tìm hậu thuẫn tháng 1-1889, Mayréna bị cấm trở về Ðông Dương và chết cô đơn trên một hòn đảo ngoài khơi vịnh Thái Lan (tháng 11-1890). Tháng 3-1889, công sứ Qui Nhơn Guiomar lên Kontum giải tán vương quốc Sedang và khuyên người Thượng gia nhập Liên Bang Bahnar-Rengao do Hội truyền giáo Kontum cai quản. Ðiều này không làm hài lòng người Sedang, Djarai và Rhadé, họ rút vào rừng sâu tổ chức chống phá sự hiện diện của Pháp. Kể từ đó cao nguyên miền Trung trở nên mất an ninh và chính quyền thuộc địa Pháp thay mặt giáo hội công giáo bảo vệ các làng đạo, đồng thời mở rộng tầm kiểm soát trên khắp Tây Nguyên. Chống phá sự xâm nhập của người Pháp Mục tiêu chiến lược của Pháp trong thời kỳ này là loại trừ ảnh hưởng của Xiêm La, mở rộng lãnh thổ về phía Tây, thiết lập vòng đai bảo vệ quyền lợi lâu dài của Pháp tại Ðông Dương. Ðể thực hiện, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức dọ thám các vùng đất lạ, đo đạc địa hình và ghi chép phong tục tập quán của người Thượng; xây dựng hệ thống đồn bót và cơ quan hành chánh tiền phong để cai trị và vô hiệu hóa sự chống đối của các nhóm Thượng bất phục tùng. Sự xâm nhập của quân đội Pháp vào sâu trong nội địa Ðông Dương, nhất là sau khi đuổi quân Xiêm sang bên kia bờ hữu ngạn sông Mékong và thành lập nước Lào dưới sự bảo hộ của Pháp tháng 10-1893, làm nổ bùng một phong trào phản kháng dữ dội trên khắp cao nguyên, từ 1893 đến 1914. Tại Nam Lào, năm 1901, Khomadan, một người Phù Thái đồng thời cũng là thầy pháp, kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp trên cao nguyên Boloven, từ Oubon đến Bassac. Ðầu năm 1902, người Kha và Sedang giết đồn trưởng Henri tại Nongpol, giết cai đội Sicre tại Kapeu, tấn công Savannakhet, bao vây Saravane. Chính quyền thuộc địa Pháp phải cử nhiều đoàn quân chính qui lên Nam Lào tái lập an ninh nhưng quân của Khomadan cầm cự cho tới 1907 mới bị vô hiệu hóa. Tại Bình Trị Thiên, phong trào Cần Vương từ 1888 lôi kéo một số khá đông người Thượng chống lại quân Pháp cho đến 1897. Năm 1898, Pháp tiếp thu hệ thống phòng thủ cao nguyên của triều Nguyễn (Sơn Phòng Trấn). Người Thượng trước kia được hưởng qui chế độc lập với triều đình Huế nay bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của Pháp đã đứng lên chống lại. Tháng 6-1901, người Ktu tại A Sơ, A Dong và A Bạc tấn công đồn An Ðiềm (Ðại Lộc, Quảng Nam) gây thương tích cho nhiều binh lính. Năm 1903, người Hré do Tổng Ren và Tia Các cầm đầu đánh phá các đồn Mang Gia, Nước Vo và Nước Dinh (Quảng Ngãi); tháng 4-1907 họ đánh phá Ðức Phổ, tháng 11 chiếm đồn Ðồng Mít (Quảng Ngãi) và chỉ bị dẹp yên cuối năm 1910. Người Tà Ôi nổi lên sát hại nhiều sĩ quan và binh lính Pháp trên thượng nguồn sông Sé Pouc (Quảng Trị và Thừa Thiên) năm 1911. Trên vùng đất giữa Attopeu và Kontum, từ 1900 đến 1910, người Sedang chống phá dữ dội sự xâm nhập của quân Pháp vào xây dựng đường sá. Năm 1900, lãnh tụ Thăng Mậu dẫn quân Sedang tấn công các làng công giáo dọc hai bờ sông Psi và Poko tại Kontum, gây thương tích cho nhiều binh lính Pháp. Từ tháng 5 đến tháng 6-1901, người Sedang tấn công đồn Psi, bắn trọng thương đồn trưởng Robert. Những làng công giáo khác trong khu vực (Dak Drei, Dakto và Krong Kno) cũng bị đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1902 khi Pháp đem quân chủ lực lên đánh dẹp. Năm 1904, họ tấn công nhiều đồn bót và làng xã dưới sự bảo trợ của quân đội Pháp trong vùng. Tháng 2-1907, phong trào nổi dậy của người Sédang tại Plei Beer bị dập tắt. Năm 1909, hai đồn Dak Sut và Dak To bị chiếm đóng, linh mục Jules Vialleton quản hạt Kontum bị giết. Tháng 8-1910, quân Sedang tràn vào Trà Mi,Trà Giác, Toumorong, Mang Buk, Mang Ri và Tiên Phước (Tây Nam Quảng Nam), đánh phá rồi rút đi. Năm 1921, đồn Dak Pha phía Bắc Kontum bị tấn công. Tại Kontum, người Bahnar qua trung gian các giáo sĩ tỏ ra qui phục hơn các nhóm khác, nhưng sau một thời gian bị bóc lột (làm sâu không công, các chủ đồn điền chiếm đất một cách quá đáng) và bị các bộ lạc Thượng khác thù ghét, người Bahnar đã nổi lên chống lại. Tháng 1-1901, họ chiếm làng Kon Chorah (An Khê, Bình Ðịnh) rồi rút về tử thủ tại làng Plei Bring gần Chợ Ðồn. Tháng 1-1907, quân Pháp bị đẩy lui tại làng Kon Klot, viên giám đốc đồn điền Delignon-Paris bị bắn chết và nhiều binh lính khác bị thương; phong trào chống đối chỉ bị dẹp yên khi đại quân Pháp từ Bình Ðịnh lên, do cai đội Sauvalle chỉ huy. Từ 1918, những đồn điền quanh An Khê bị người Bahnar Halakong đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1922. Người Djarai tại Pleiku đã chống trả dữ dội các cuộc hành quân của Pháp từ cuối 1894 đến đầu 1897. Sau đó, từ 1902 đến 1904, họ tiếp tục chống trả các cuộc hành quân khác của quân Pháp vào Pleiku và Kontum. Ngày 7-4-1904 viên thanh tra Prosper Odend’hal bị vua Hỏa Xá Oi Ât giết; Vincillionni tiến vào An Khê thành lập quận Cheo Reo, Oi Ât phải chạy lên thượng nguồn sông Ayun trốn. Thời gian sau,viên trú sứ Darlac Bardin xây dựng các đồn Plei Tour và Chợ Ðồn, đầu năm 1905, để canh chừng người Djarai. Tuy vậy những làng công giáo vẫn thường xuyên bị người Djarai tấn công, một số giáo dân Kinh, được trang bị vũ khí tối tân, tổ chức các cuộc hành quân trả thù những làng Djarai lân cận. Cuối cùng đồn trưởng Chợ Ðồn, Renard, dàn xếp với hai lãnh tụ Tay (tù trưởng 21 làng Djarai tại Pleiku) và Khun (tù trưởng 7 làng Djarai tại An Khê, hứa thôi truy kích vua Hỏa Xá tình hình mới yên. Ngày 23-5-1905, 46 trưởng làng và 200 chiến sĩ Djarai quanh An Khê làm lễ qui phục Pháp tại làng Plei Tay (nơi cư ngụ của Tay, nay là Pleiku). Tuy vậy chính sách phân biệt đối xử của người Pháp trên Tây Nguyên (ưu đãi người Bahnar) làm người Djarai bất mãn, từ 1906 đến 1909 họ lại tổ chức tấn công các làng công giáo quanh Pleiku, Plei Kuen, Plei Bong, Plei Tour và Plei Rach. Tình hình chỉ tạm lắng yên trong hai năm và đến năm 1911 họ lại nổi dậy đánh phá An Khê. Cộng đồng người Rhadé được biết đến năm 1894 khi phái đoàn bác sĩ Yersin bị tấn công tại sông Poko bởi người Rhadé Pih. Từ sau ngày đó, cao nguyên Darlac trở thành địa bàn thám hiểm chính của Pháp trên cao nguyên. Năm 1899, viên trú sứ hạt Attopeu, Bourgeois, thành lập đồn Bandon và chiêu dụ được Phet Lasa, một lãnh tụ Lào tại Bandon (Bản Ðôn), và Khun Jonob, một lãnh tụ Mnong trong vùng. Cả hai đã giúp Pháp thu phục các lãnh tụ Rhadé Kpa (Me Wal và Me Kheune năm 1900) và nhiều lần đánh bại người Rhadé Pih do tù trưởng Ngeuh lãnh đạo tại Ban Tour, Ban Trap và Ban Tieuah năm 1903. Trên thượng lưu sông Năng, phụ lưu sông Ðà Rằng, năm 1901 quân Pháp bị người Rhadé Mdhur phục kích tại làng A Mai (gần M’Drack và Cheo Reo) làm một sĩ quan bị thương nặng (trung úy Péroux), quân Pháp chỉ làm chủ khu vực quanh Dak To. Năm 1905, Me Sao, một lãnh tụ Rhadé Mdhur chiếm đồn Bandon, quân Pháp phải dời về Buôn Ma Thuột và Bandon chỉ được giải tỏa năm 1907, khi Me Sao bị Henri Maitre đánh bại tại làng Me Leap. Trên cao nguyên miền Nam, cường độ những cuộc chống đối có phần cao hơn miền Trung. Người Mnong và Stieng đã tỏ ra rất tích cực trong việc chống lại sự xâm nhập vào không gian sinh tồn của họ. Sự khám phá cao nguyên Lang Bian vào cuối thế kỷ 19 kích thích phong trào xây nhà dựng cửa nghỉ mát tại Ðà Lạt. Nhiều đoàn thám hiểm được cử đi khắp nơi đo đạc địa hình. Bất mãn trước chính sách bắt dân Thượng làm sâu xây dựng đường sá quá đáng, đầu năm 1901 lãnh tụ Tre Lương Pe hô hào người Chil và Lat tại Lang Bian nổi lên chống lại và gây thương tích cho viên chỉ huy trưởng Canivey và nhiều binh lính khác, nhưng vì sức yếu thế cô phong trào bị dẹp tan hai tuần sau sau đó. Từ 1901 đến 1904, dưới sự lãnh đạo của Nơ Trang Long (Pou Trang Long), một lãnh tụ Mnong Bhiet, người Stieng và Mnong đã chống trả dữ dội sự xâm nhập và gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên một địa bàn rộng lớn từ Bình Long, Tây Ninh đến Kratié. Từ 1905 đến 1908, quân Pháp thành lập một hệ thống đồn bót nối liền với nhau (Sré Lvi, Sré Ktum, Sré Onès, La Palkei, Le Rolland, Snoul, Bù Ðăng, Bù Ðốp, An Bình, Bà Rá, Bà Ðen, Chứa Chan, Tà Lài, Bù Nông, Bù Tiên, Bou Pou Sra, Bou Méra…) bao vây không gian sinh tồn của người Stieng và Mnong chứ không dám tiến vào. Tháng 7-1914, Henri Maitre bị Nơ Trang Long giết, người Thượng làm chủ toàn bộ khu vực Ba Biên Giới (Cambodge, Nam Kỳ và Trung Kỳ) từ 1915 đến 1933. Rất nhiều sĩ quan Pháp và binh lính Khmer bị giết trong khoảng thời gian này và cộng đồng người Thượng miền Nam bị đặt ra ngoài pháp luật. Tháng 5-1935, Nơ Trang Long bị bắt và bị xử tử, phong trào chống Pháp tạm lắng xuống. Chính sách Thượng vụ của Pierre Pasquier Ngày 30-7-1923, Pierre Pasquier, khâm sứ Pháp tại Huế, ban hành chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên (thông tư số 578-ca): cai trị trực tiếp những vùng đã bình định, bao vây và cô lập những vùng chưa qui phục. Ðối với những vùng Thượng đã được bình định, Pháp cắt đứt quan hệ giữa người Thượng với người ngoại quốc (Kinh, Khmer, Chăm, Lào, Hoa, Thái và giáo hội công giáo); tôn trọng phong tục tập quán của người Thượng; xây dựng đường sá, trường học, chợ búa; cố định nơi cư trú, huấn luyện cách canh tác trên đất bằng; ấn định số ngày làm sâu (corvée), khai thác và cấp đất cho các đồn điền trồng cây công nghiệp; tuyển dụng binh lính, đào tạo nhân sự trung gian; lập đồn bót, xây dựng cơ quan công quyền; đàn áp các phong trào nổi loạn và đòi tự trị; tổ chức những buổi lễ truyền thống hàng năm nhận sự qui phục của người Thượng. Nói thì dễ nhưng làm rất khó, người Thượng chưa sẵn sàng hợp tác với Pháp vì không muốn bị gò bó vào cuộc sống lệ thuộc. Thêm vào đó giáo hội công giáo bị loại ra khỏi mọi chương trình phát triển cao nguyên, quan hệ hợp tác giữa các giáo sĩ và viên chức chính quyền trong việc mở mang cao nguyên gần như không có. Giáo hội công giáo đặt nặng chương trình giáo dục thần linh, văn hóa và nhân đạo, trong khi chính quyền chú trọng vào việc đào tạo nhân sự trung gian hơn là khai hóa người Thượng về mặt kinh tế và xã hội. Hậu quả là các giáo sĩ chỉ lo cho người Bahnar và chính quyền Pháp chỉ giúp người Rhadé, các nhóm khác tùy thuộc mức độ phục tùng mà nhận sự giúp đỡ. Người Rhadé, vừa đông vừa có thể lực được giới chính giới Pháp nhiệt tình nâng đỡ, đã trở thành nhóm ưu tú nhất trong cộng đồng người Thượng. Người Djarai và Sedang, mặc dù cũng đông dân và thân thể cường tráng, nhưng không được ưu đãi bằng vì trước kia đã chống lại người Pháp. Tuy vậy ba cộng đồng lớn này là cột trụ chính trong chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên. Con cháu các nhân sĩ Rhadé, Djarai và Sedang trong làng được tuyển chọn vào học các lớp huấn luyện văn hóa, y tế và quân sự để thay thế các bậc cha anh và trở thành giai cấp trung gian giữa chính quyền Pháp và quần chúng Thượng. Những thanh niên này còn được huấn luyện để nghi kỵ và thù ghét người Kinh và, khi cần, cầm súng chống lại người Kinh. Quan hệ giữa người Kinh và người Thượng trong giai đoạn này chính vì vậy rất là lạnh nhạt, đúng như người Pháp mong muốn. Năm 1932, tiểu đoàn chính qui lính Thượng (1er Bataillon des Tirailleurs Montagnards du Sud Annam) đầu tiên được thành lập, gồm một đại đội chỉ huy gồm toàn người Rhadé đóng ở Buôn Ma Thuột, một đại đội toàn người Rhaựdé đóng ở Buôn Djen Drom, một đại đội toàn người Djarai đóng ở Pleiku và một đại đội toàn người Sedang đóng ở Kontum. Tiểu đoàn này có nhiệm vụ phụ giúp người Pháp đào tạo các tân binh Thượng được tuyển dụng sau này. Từ 1933 đến 1942, năm tiểu đoàn chính qui khác được thành lập để giúp Pháp bình định những khu vực chưa qui phục, với tổng quân số 2.172 người gồm đủ mọi sắc tộc Thượng. Bộ chỉ huy các lực lượng này, do sĩ quan Pháp điều khiển nhưng người Rhadé nắm vai trò điều động, đóng tại Buôn Ma Thuột. Binh lính Thượng bị cấm mang vợ Việt lên cao nguyên sinh sống sau khi mãn dịch. Thập niên 1930 có lẽ là thập niên yên bình và hạnh phúc nhất của người Thượng, Tây Nguyên phát triển với nhịp độ nhanh để bắt kịp đồng bằng. Người Thượng được sinh hoạt và canh tác tự do theo phong tục và tập quán của họ. Hệ thống đường bộ, phi đạo, nhà cửa, dinh thự, cơ sở hành chánh, trường học được tu bổ và xây dựng thêm rất nhiều. Năm 1932, Pháp còn cho xây nhiều khám lớn tại Buôn Ma Thuột, Dak Pek và Lao Bảo để giam giữ những tù nhân chính trị gốc Kinh, trong đó nhiều cán bộ cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Minh. Giáo hội công giáo cũng nhân dịp xây thêm nhà thờ, tu viện, trường học và cơ sở từ thiện để tăng cường sự hiện diện. Hội Trồng Trọt Pháp được thành lập năm 1930 để bảo vệ quyền lợi các chủ đồn điền và đưa người Việt lên cao nguyên làm việc. Tuy vậy, đối với người Việt, Tây Nguyên vẫn là vùng sơn lam chướng khí, ít người dám lên định cư nên sau khi mãn hạn hợp đồng (quân sự, hành chánh và kinh tế), di dân Việt thường về lại đồng bằng sinh sống. Việc cấp phát đất quá đáng cho các chủ đồn điền trên cao nguyên khiến chính quyền Pháp tại mẫu quốc ra lệnh cho ủy Ban Guernut sang Ðông Dương điều tra từ 1937 đến 1938, nhằm hạn chế việc đưa người Việt lên cao nguyên làm việc, giới hạn diện tích cấp đất cho các công ty nông nghiệp lớn và thành nhiều khu dự trữdành cho người Thượng. Giữa hai làn đạn Từ sau thập niên 1940, cộng đồng người Thượng sống những ngày đen tối. Cuộc sống tự do giữa thiên nhiên bị chấm dứt, người Thượng bị lôi cuốn vào những tranh chấp mà họ không chủ động và còn kéo dài cho tới ngày nay. Năm 1941, chính quyền thuộc địa Pháp buộc phải hợp tác với Nhật quản trị Ðông Dương. Lợi dụng tư cách đồng minh với Nhật, tháng 5-1941 Thái Lan xua quân qua sông Mékong chiếm lại những phần đất đã nhượng cho Pháp năm 1893 (Ðông-Bắc Cambodge và Nam Lào). Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp tại Ðông Dương, toàn bộ nhân viên dân sự, quân đội và các chủ đồn điền Pháp bị bắt; một số đơn vị quân sự Pháp trốn sang Lào và lên Vân Nam, trong đó tiểu đoàn 4 và 5 Thượng. Trên cao nguyên, quân đội Nhật kiểm soát trực tiếp binh lính Thượng do Pháp đào tạo và toàn bộ hệ thống giao thông để chuyển vận người và vũ khí. Một số làng Thượng được Nhật trang bị để dẫn họ di chuyển trong rừng sâu. Khẩu hiệu á Châu của người á Châu của Nhật được một số trí thức Thượng hưởng ứng, nhưng ngày 19-8-1945 giấc mơ này tan biến, Nhật đầu hàng phe đồng minh và người Thượng bị lôi cuốn vào phong trào Việt Minh. Sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945 của Nhật, các tù nhân chính trị gốc Kinh bị giam giữ trong các nhà giam được trả tự do, đa số đã về lại đồng bằng nhưng cán bộ Việt Minh đã ở lại lại vận động trí thức và binh sĩ Thượng theo họ chống Pháp, với hứa hẹn quyền tự trị khi cách mạng thành công. Hai chữ tự trị như có ma lực hấp dẫn người Thượng, họ hưởng ứng một cách tận tình. Không cần một cố gắng nào, phong trào Việt Minh hốt trọn nhiệt tình của dân Thượng, nhất là những thành phần ưu tú Rhadé và Djarai, mà Pháp đã tốn gần nửa thế kỷ mới đào tạo được. Nhân sĩ và binh lính Thượng theo Việt Minh hô hào dân chúng Thượng chiếm đóng các cơ sở hành chánh và quân sự của Pháp do Nhật để lại và tham gia những ủy ban hành chánh lâm thời (tên nhân vật Thượng được đề cập đến trong giai đoạn này vì có liên quan đến những phong trào chống đối hay ủng hộ người Kinh sau 1954): – Thị xã Buôn Ma Thuột có các ông Y Ut Nie Buon Rit, Y Plo Eban, Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Nie Kdam, Y Tlam K’bour, Y Nue Buon Krong, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok (tất cả là người Rhadé). Trung sĩ Y Sok Eban sau 16 ngày bị giam giữa đã tuyên thệ trung thành với Việt Minh và được giao nhiệm vụ bảo vệ Buôn Ma Thuột. – Thị xã Pleiku có ông Rcom Thep (người Djarai). – Thị xã Kontum có ông Trần Quang Tường, một người công giáo, làm chủ tịch, và các ông Prem, Deppe (cả hai là người Bahnar). Ðại đa số người Bahnar công giáo không theo Việt Minh. – Huyện Buôn Hô có các ông Y Wang Mlo Duon Du, Y John Nie Kdam và Y Yon Ecam (tất cả là người Rhadé). – Huyện Cheo Reo có các ông Nay Der, Nay Moul, Nay Phin, Rcom Briu, Rcom Pioi, Rcom Brim, Siu Ken, Siu Nang, Ksor Ni và các bà Rcom H’dit, Rcom H’trul (tất cả là người Djarai). Phụ cận Cheo Reo có các ông Rcom John tại Buôn Sam và Kpa Yan tại Plei Kli. – Huyện Tân Khai (tỉnh Ðồng Nai Thượng) trong thung lũng Ða Nhim, có các ông Touneh Han Din, Touneh Han Tin, Ya Yu Sahau, Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Bahnaria Ya Don (tất cả là người Churu). Những người không theo Việt Minh và tình nghi trung thành với Pháp đều bị xử tử, đó là các ông Y Say Ktla, Y Lak Eban, Y Hong, Y Wan, Y Tum, Y Blam, Y San, Y Tuk, Y Blol, Y Flak, Y Ho, Y Bung, Hiai, Sui, Gao, Duen, Blon, Sa, Bok, That, Ky, Cecrec, Hny và rất nhiều viên chức Thượng khác. Nhiều người phải trốn vào rừng sâu như các ông Y Kju, Y Kao, Y Ang, Touneh Han DÐang.. chờ Pháp đến giải vây. Chính sách Thượng vụ của Thierry d’Argenlieu Tháng 8-1945, đề đốc Thierry d’Argenlieu được cử làm cao ủy Ðông Dương và tướng Leclerc làm chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Pháp tái chiếm lại Ðông Dương. Ngay khi vừa đến Sài Gòn tháng 9-1945, Leclerc tung các binh đoàn tinh nhuệ nhất của Pháp tái chiếm những tỉnh và thị xã tại đồng bằng trên tay Việt Minh; tháng 6-1946 quân Pháp lần lượt chiếm lại những thành phố và thị xã lớn trên cao nguyên miền Trung. Một số binh sĩ và công chức Thượng theo Việt Minh đã ra qui hàng và được Pháp trọng dụng trở lại vì thiều người, đó là trường hợp các ông Y Sok Eban, Y Tuic Mlo Duon Du, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok, Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Touneh Han Din, Ya Yu Sahau, Bahnaria Ya Don… Chính trong giai đoạn này, giới lãnh đạo Thượng bị phân hóa, một số theo Pháp và một số khác theo Việt Minh như các ông Y Ngong, Y Wang, Y Nue, Y Tlam, Phem, Depp… D’Argenlieu áp dụng triệt để chính sách chia để trị, ông cho thành lập Liên Bang Ðông Dương trong Liên Hiệp Pháp ngày 1-11-1945, Cộng Hòa Nam Kỳ ngày 25-5-1946 và Xứ Thượng Nam Ðông Dương (Pays Montagnard du Sud Indochinois) ngày 27-5-1946. Xứ này gồm tất cả những vùng đất có đông người Thượng cư ngụ, thủ đô ban đầu là Ðà Lạt, sau đó dời về Buôn Ma Thuột, ông Marcel Ner làm thụ ủy. Ðể đánh dấu sự kiện trọng đại này, d’Argenlieu tổ chức một loạt lễ tuyên thệ (qui tụ tất cả già làng, binh sĩ, nhân sĩ và trí thức Thượng trung thành với Pháp) tại Buôn Ma Thuột, Ðà Lạt và Kontum (tháng 6 và tháng 8-1946). D’Argenlieu tin rằng với sự ra đời của xứ Thượng này Pháp sẽ có tiếng nói mạnh khi thảo luận với Việt Minh về việc thống nhất Việt Nam trên bàn các hội nghị sơ bộ tại Ðà Lạt (từ 19-4 đến 11-5-1946) và tại Fontainebleau (tháng 7 và 8-1946). Trong hội nghị Ðà Lạt lần hai (8-1946), d’Argenlieu chỉ mời các phái đoàn Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ, Cambodge, Lào và Thượng; Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ không được mời. Ðại diện phái đoàn Xứ Thượng Nam Ðông Dương có các ông Y Djac Ayun, Touprong Hiou, Touneh Han Ðang… tham dự với tư cách quan sát viên. Nhưng ngày 5-2-1947, d’Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Xứ Thượng Nam Dương chết yểu. Việt Minh cũng không chịu thua, tháng 1-1946 một đại hội dân tộc được tổ chức tại Hà Nội, trong đó rất nhiều nhân sĩ Thượng được mời tham dự, trong đó có các ông Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Der, Nay Phin. Nhiều người khác được cử vào quốc hội Việt Minh tháng 3-1946: các ông Y John Nie Kdam, Y Klam, Y Thang Nie Kdam, Y Yan Phong, Y Pe, Y Hing, Y Ni, Rcom Briu, Rcom H’trul, Huk… Buổi họp quốc hội khóa 2, ngày 29-10-1946, các đại diện Thượng (các ông Y John Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Phin, Y Ngong Nie Kdam và Y Ut Nie Buon Rit) chính thức được hứa hẹn qui chế tự trị dành cho người Thượng. Sự kiện này làm các cán bộ Thượng hài lòng và nhiệt thành hợp tác với Việt Minh chống Pháp. Tháng 12-1946, lữ đoàn lính Thượng gồm nhiều sắc tộc được thành lập do các sĩ quan Rhadé chỉ huy. Từ 1947 đến 1954, người Thượng theo Việt Minh gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên cao nguyên.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 18:35:55 GMT 9
Chính sách Thượng vụ dưới thời Bảo Ðại
Ðể đối phó với tình thế mới, chính quyền thuộc địa Pháp sử dụng giải pháp Bảo Ðại và thành lập thêm nhiều xứ Thượng tự trị thân Pháp khác để cô lập phong trào Việt Minh trên chính trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng rừng núi với người thiểu số.
Tháng 7-1947, Xứ Thượng Nam Ðông Dương được khai sinh trở lại do đặc ủy Gigal cai trị. Tháng 3-1948, Liên Bang Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Thỏa ước ngày 8-3-1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp, theo đó những sắc dân không phải người Kinhê (non-annamites) được hưởng qui chế riêng. Ðể thực hiện dự án xứ Thượng tự trị, Pháp dành cho Bảo Ðại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ trung thành với Pháp của người Thượng ngày 30-5-1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền sau đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ chức các xứ Thượng.
Ngày 15-4-1950 Bảo Ðại ban hành Dụ số 6 thành lập hoàng Triều Cương Thổê (Domaine de la Couronne), gồm Xứ Thượng miền Nam và Xứ Thượng miền Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng. Ranh giới và diện tích Xứ Thượng miền Nam giống như diện tích và ranh giới Xứ Thượng Nam Ðông Dương trước kia, gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm cửa ngõđổ ra Thái Bình Dương.
Ðối với người Thượng miền Nam hay miền Bắc, đời sống của họ không có gì thay đổi, các chức vụ tổ chức và quản trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay người Pháp. Qui chế đặc biệt dành cho Xứ Thượng miền Nam, ký ngày 21-5-1951, dành cho người Thượng nhiều ưu đãi về quyền sử dụng đất nơi sinh trú. Quân đội hoàng triều gồm toàn người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.
Ðể hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo Ðại ban hành Chương trình phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do Nguyễn Ðệ soạn thảo, ngày 11-2-1952, theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Ðệ đổi thành Chương Trình Công Tác Xã Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là khu trù mật. Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ.
Qua chương trình này, phong trào Việt Minh mất địa bàn bám trụ và tìm cách phá hoại. Lợi dụng sự vắng mặt của quân chủ lực Pháp trên cao nguyên (lúc đó đang tập trung trên vùng Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh hô hào dân chúng Kinh Thượng rời bỏ các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia các đoàn dân công tải đạn đánh Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục giao thông chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chấm dứt chiến tranh và phân chia Việt Nam thành hai vùng đối nghịch. Khoảng 120.000 người tập kết ra miền Bắc, trong đó có gần 6.000 người Thượng, những người này được huấn luyện chính trị và quân sự để trở vào miền Nam sau 1956 giúp phe cộng sản chuẩn bị một cuộc chiến tranh khác tàn khốc hơn.
Xứ Thượng miền Bắc, thuộc Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa, được tổ chức thành nhiều vùng tự trị như Khu Thái Mèo tự trị (29-4-1955), Khu Việt Bắc (10-8-1956), Khu Lào Hạ Yên (25-3-1957) gồm các tỉnh Lão Cai, Hạ Giang, Yên Bái. Tất cả đều bị giải tán tháng 9-1959 và trở thành những tỉnh bình thường.
Tại miền Nam, qui chế Hoàng Triều Cương Thổ bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bãi bỏ ngày 10-8-1954, Xứ Thượng miền Nam trở thành một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Từ sau 1954, cộng đồng người Thượng tiếp tục bị phân hóa, địa bàn cư trú của họ trở thành những bãi chiến trường đẫm máu trong cuộc chiến mới. Nhưng người Thượng vẫn không quên đòi quyền tự trị, một quyền mà họ hằng ao ước từ thời Pháp thuộc; lần này họ sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị và quân sự như người Kinh, với sự giúp đỡ của người Mỹ và người Khmer.
III . Sự hội nhập khó khăn của người Thượng vào cộng đồng quốc gia Việt Nam
Hiệp định Genève 1954 mở đầu một giai đoạn hợp tác mới giữa người Thượng và người Kinh trên cao nguyên. Nhưng sự hợp tác này đã diễn ra không tốt đẹp như mong muốn, người Kinh chưa quen sinh hoạt bình đăng với người Thượng và ngược lại. Bất hạnh lớn của người Thượng trong giai đoạn 1954-1975 là nơi sinh trú của họ có một tầm quan trọng chiến lược trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, bất cứ phe tranh chấp nào cũng đều muốn làm chủ địa bàn chiến lược này và lôi kéo cộng đồng người Thượng theo họ chống lại phe kia. Tùy theo những lượng định thời cuộc khác nhau, cộng đồng người Thượng đã có những phản ứng khác nhau để rồi dẫn đến cùng một hậu quả: người Thượng không có tiếng nói trên chính quê hương của họ.
Tây Nguyên những ngày đầu dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa
Cuối tháng 7-1954, thủ tướng Ngô Ðình Diệm đề nghị quốc trưởng Bảo Ðại hủy bỏ qui chế Hoàng Triều Cương Thổ và được chấp thuận ngày 10-8-1954. Năm sau, ngày 11-3-1955, Bảo Ðại phê chuẩn Dụ số 21 sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ Việt Nam và đặt khu vực này dưới quyền quản trị của Việt Nam Cộng Hòa (trong thực tế chỉ Xứ Thượng miền Nam mà thôi, Xứ Thượng miền Bắc thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa). Cùng ngày, Ngô Ðình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 61 thành lập Tòa Ðại Biểu Chính Phủ thay thế Tòa Khâm Sứ, bổ nhiệm ông Vĩnh Dự làm đại biểu chính phủ (tỉnh trưởng) tại Buôn Ma Thuột và ông Tôn Thất Hối làm đại biểu tại Ðà Lạt. Trong cùng thời gian, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu Pháp giao lại những cơ sở hành chánh và quân sự do họ nắm giữ, đồng thời chuẩn bị kế hoạch đưa những người di cư từ miền Bắc lên cao nguyên lập nghiệp.
Ngày 10-8-1955 Pháp rút quân khỏi cao nguyên, chấm dứt chính thức chế độ Hoàng Triều Cương Thổ. Thành phần trí thức và sĩ quan Thượng tin rằng sau khi tiếp thu cao nguyên họ sẽ được chính phủ Ngô Ðình Diệm trọng dụng. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy, tất cả những chức vụ chỉ huy đều do những viên chức gốc Kinh từ đồng bằng lên nắm giữ. Những đơn vị quân đội Thượng (Sư đoàn 4 bộ binh, 7 tiểu đoàn cơ động cùng những đơn vị tác chiến khác, khoảng 10.000 người) đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Những cơ quan hành chánh, giáo dục và y tế đặt dưới quyền quản trị của Tòa Ðại Biểu Chính Phủ.
Người Thượng chưa được chuẩn bị để sống chung với người Kinh. Cao nguyên miền Nam vào năm 1955 có khoảng 700.000 dân Thượng, đông hơn dân số Kinh vào thời điểm đó nhưng người Thượng chỉ đảm nhiệm những vai trò thứ yếu hay không có vai trò nào cả. Tại Darlac và Pleiku, các tỉnh trưởng còn buộc người Thượng phải ăn mặc chỉnh tề (đa số dân Thượng trong giai đoạn này vẫn còn đóng khố) khi vào những cơ quan công quyền trong thành phố. Thêm vào đó, thành phần di cư người Kinh tỏ ra khinh miệt người Thượng tại những vùng cộng cư. Giọt nước đã làm tràn ly là chính sách đồng hóa (diễn văn ngày 12-6-1955) và cải cách điền địa (Dụ số 57 ngày 22-10-1956) của thủ tướng Ngô Ðình Diệm: phân biệt đối xử, bãi bỏ các tòa án phong tục, cấm dạy tiếng thổ ngữ và phủ nhận quyền sở hữu đất đai (polan) của người Thượng. Một phong trào chống đối ngấm ngầm hình thành, một số trí thức, cán bộ và binh sĩ Thượng bất mãn bỏ về làng, một số khác vẫn ở lại cơ quan nhưng không làm việc. Cán bộ cộng sản nhân cơ hội trà trộn vào một số buôn làng tuyên truyền và kích động dân Thượng chống lại chính quyền miền Nam.
Tây Nguyên có tầm quan trọng đặc biệt đối với các chiến lược gia Hoa Kỳ, đó là cửa khẩu ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội cộng sản miền Bắc vào miền Nam. Sự hiện diện của du kích quân cộng sản do đó gây nhiều lo âu cho các cố vấn Mỹ lúc đó đang huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1956, nhiều phái đoàn MAAG (The US Military Assistance Advisory Group) được gởi lên cao nguyên quan sát tình hình và xây dựng cơ sở huấn luyện binh lính Thượng chống du kích. Tổng thống Ngô Ðình Diệm (đắc cử ngày 24-10-1956) cũng cho thành lập Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng.
Phong trào BAJARAKA
Năm 1957 một số trí thức Thượng kết hợp lại thành một nhóm phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng trên cao nguyên với các chính quyền địa phương. Không được trả lời thỏa đáng, năm 1958 họ thành lập tổ chức BAJARAKA (chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên Tây Nguyên: BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) và vận động dân chúng Thượng chống lại chính quyền miền Nam. Những người lãnh đạo phong trào gồm có các ông Y Bham nuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp (nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr (trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor… Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt dành cho người Thượng: ông Y Bham nuôl công khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền “biệt lập” về hành chánh và chính trị.
Trước sự chống đối này, Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ được nâng lên thành Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng (nghị định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế, nhằm kêu gọi người Thượng hợp tác với chính phủ xây dựng đất nước và chống cộng trong tinh thần Kinh Thượng bình đăng và đoàn kết. Trong thực tế văn phòng này đã không đưa ra một chính sách nào cụ thể.
Tháng 5-1958, phong trào gởi hai kháng thư, do ông Y Bham nuôl cùng 16 đại diện sắc tộc khác ký tên, tố cáo những hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Ðình Diệm đối với các sắc tộc thiểu số; kể lại những đóng góp của các dân tộc miền núi trong việc chống lại quân phiệt Nhật, Việt Minh và Việt Cộng; yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng có một “lãnh thổ biệt lập” (“un territoire à part”, nguyên văn). Thư viết bằng tiếng Pháp được gởi đến tòa Ðại Sứ Pháp và Liên Hiệp Quốc, và thư viết bằng tiếng Anh gởi đến tòa đại sứ Hoa Kỳ và các tòa đại sứ khác tại Sài Gòn. Kháng thư viết bằng tiếng Anh, do giáo sư David Nuttle (người Mỹ) chuyển tới tòa đại sứ Hoa Kỳ, tỏ ý không muốn đặt Tây Nguyên trực thuộc vào chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà muốn được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hoa Kỳ. Trong kháng thư gởi Liên Hiệp Quốc, phong trào xin được sát nhập vào vương quốc Lào như người Pháp đã làm năm 1893.
Ngày 30-7-1958, phong trào gởi một phái đoàn gồm bốn người về Sài Gòn gặp đại sứ Hoa Kỳ qua trung gian David Nuttle. Cùng thời gian, Y Bham nuôl thành lập ủy Ban Tự Trị Trung ương, trụ sở đặt tại Pleiku, chỉ huy tất cả các cơ quan tỉnh lỵ, quận huyện trên Tây Nguyên. Nhiều ủy ban địa phương được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Kontum và Di Linh. ủy Ban tuyển mộ sĩ quan và binh lính Thượng đang phục vụ trong chính quyền miền Nam, chọn một lá cờ tượng trưng cho sự “biệt lập” (xanh dương, trắng và đỏ như cờ Pháp nhưng phía trên góc trái có 4 ngôi sao màu vàng tượng trưng cho bốn sắc tộc chính) và phổ biến một thư ngỏ mang tên “Nguyện vọng đấu tranh của đồng bào Thượng”. Thư ngỏ này thực ra là một cáo trạng đối với chính quyền Ngô Ðình Diệm, liệt kê những hành vi phân biệt đối xử của người Kinh đối với người Thượng trong mọi lãnh vực, từ chính trị, hành chánh, an ninh quân sự, tư pháp, kinh tế đến văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.
Trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào Bajaraka tổ chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt (Y Bham nuôl, Y Dhơn Adrong, Y Dhê Adrong, Y Nuin Hmok, Y Wick Buôn Ya, Y Het Kpor, Y Tluốp Kpor, Y Sênh Niê, Y Bun Sor, Y Yu êban, Y Thih êban, Touneh Yoh, Siu Sip, Paul Nưr, Nay Luett…), những thành phần có uy tín như sĩ quan và công chức Thượng đang công tác trên cao nguyên đều bị thuyên chuyển về đồng bằng. Cộng đồng người Thượng như rắn mất đầu đã bị cán bộ cộng sản nằm vùng tuyên truyền và lôi kéo theo họ chống lại chính quyền miền Nam; không những thế, một số thanh niên Thượng ưu tú còn được tuyển mộ ra Bắc học tập rồi đưa vào Nam hoạt động cho phe cộng sản.
Trước đe dọa mới này, tháng 10-1958, chính quyền Ngô Ðình Diệm kêu gọi Kinh Thượng hợp tác chống cộng và hứa sẽ cải tổ sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội miền Thượng. Văn Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên, nhiều học sinh Thượng được đưa về Huế và các thành phố Qui Nhơn, Nha Trang, Ðà Lạt học trong những trường trung học kỹ thuật. Một số cán bộ Thượng được đưa về Sài Gòn tu nghiệp tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn Phòng Xã Hội không hoạt động gì cả, các học sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ (bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ). Ðời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn. Những lãnh tụ Thượng còn lại đều tỏ ra bất mãn nhưng bất lực. Trong các cuộc bầu cử Quốc Hội pháp nhiệm I (1956), ứng cử viên Touprong Hrou đơn vị Tuyên Ðức-Lâm Ðồng bị bỏ tù vì những tội vu vơ, pháp nhiệm II (1958) ông Y Prong Kbor đơn vị Ðắt Lắc bị xóa tên, pháp nhiệm III (1960) ông Y Klong đơn vị ÐÐắtLắc bị buộc phải rút tên.
Trong thời gian từ 1956 đến 1962, chuyên viên và cố vấn Hoa Kỳ đã có mặt khắp Tây Nguyên. Việc tranh thủ người Thượng gây nhiều tranh chấp giữa cơ quan CIA và Tòa Ðại Sứ Mỹ trong chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ:
– Cơ quan CIA chủ trương võ trang trực tiếp người Thượng vì họ rất thiện chiến trong các rừng rậm. Cố vấn quân sự Mỹ vào khắp buôn làng, tổ chức phòng thủ, trang bị súng cá nhân, thành lập các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng (CIDG-Civilian Indigenous Defense Group) và Lực Lượng Ðặc Biệt (Special Force) gồm 18.000 người (1967) thuộc đủ mọi sắc tộc Thượng (Rhadé, Bahnar, Sédang, Kaho, Bru…).
– Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ chủ trương kêu gọi sự hợp tác về lâu về dài của người Thượng, đặc biệt là phát triển văn hóa, xã hội, y tế và tín ngưỡng nhằm nâng cao mức sống. Các mục sư tin lành được nhìn như sự tiếp nối của các giáo sĩ công giáo Pháp thời trước nên rất được mến mộ. Nhiều phái đoàn đặc vụ dân sự USOM, USAID, các tổ chức thiện nguyện đến chữa bệnh, hướng dẫn cách thức canh tác nông nghiệp, xây cất nhà cửa, giúp đỡ vật chất và sáng tạo chữ viết la tinh hóa của từng thổ ngữ để giảng dạy. Nhiều trường phổ thông vừa dạy tiếng địa phương, vừa dạy tiếng Việt và tiếng Mỹ được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum, Ðà Lạt. Nhiều sinh viên Chăm và Thượng được ghi danh vào Viện Ðại Học Ðà Lạt.
Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP)
Năm 1963, người Mỹ quyết định can thiệp mạnh tại Việt Nam. Chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ tháng 11-1963, tất cả các biện pháp ban hành dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa đều bị hủy bỏ. Nhờ sự can thiệp của Mỹ, tất cả những lãnh tụ phong trào Barajaka đều được phóng thích.
Tin tưởng được Mỹ ủng hộ, tháng 3-1964 những người lãnh đạo phong trào Barajaka thành lập Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên hay Front de Libération des Hauts Plateaux, gọi tắt là FLHP (tên chính thức được mặt trận sử dụng) hay Mặt Trận Cao Nguyên. Lần này mặt trận có sự tham gia của nhiều sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại miền Trung. Mặt trận cho phổ biến một bản hiệu triệu bằng ba thứ tiếng (Pháp, Chăm và Rhadé) đòi quyền tự trị và chủ trương tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động. Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham nuôl đại diện, tham gia mọi sinh hoạt chính trị trên khắp cao nguyên để giúp chính quyền miền Nam xây dựng một chính sách Thượng vụ thích hợp. Phe chủ trương bạo động, do Y Dhơn Adrong cầm đầu, kêu gọi cán bộ dân vệ và biệt kích Thượng gia nhập FLHP chống lại chính quyền.
Sự kiện này làm giới chỉ huy quân sự miền Nam lo ngại, những cuộc hành quân trên Tây Nguyên từ tháng 3 đến tháng 5-1964, do tướng Vĩnh Lộc chỉ huy, phần lớn để phá vỡ những căn cứ của quân Thượng hơn là các mật khu cộng sản. Phe bạo động bị lùng quét gắt gao phải chạy qua Kampuchea lánh nạn. Tại đây họ lập căn cứ quanh đồn Bốt Chá (Camp Le Rolland cũ), tỉnh Mondolkiri phía đông bắc Kampuchea cách biên giới Việt Nam 15 cây số, rồi cử người xâm nhập vào các buôn làng ven biên giới kêu gọi thanh niên Thượng gia nhập FLHP. Hoa Kỳ khuyến cáo Việt Nam Cộng Hòa thương thuyết với người Thượng để tìm một giải pháp sống chung. Ngày 5-5-1964, chính phủ miền Nam mời 64 nhân sĩ Thượng ôn hòa, đại diện các sắc tộc, về Sài Gòn họp để tổ chức một đại hội gồm 55 đại diện sắc tộc tại Pleiku ngày 26-8-1964 do Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II chủ trì.
Lo sợ bị loại khỏi các cuộc thương thuyết, phe bạo động chuẩn bị một cuộc nổi dậy võ trang do đại úy Y Nam êban chỉ huy. Ðêm 19-9-1964, các toán biệt kích thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt và các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng đánh chiếm một số đồn bót lớn quanh Quảng Ðức và Ðắt Lắc: trung sĩ Klé chiếm thị trấn Bù Ðăng, thiếu úy Y Bách êban tấn công đồn Sarpa, Y Djao Niê tiến vào buôn Miga (Ðức Lập), Y Bhan Kpor vây đồn Bù Ðốp và Bu Briêng. Quân phiến loạn làm chủ quốc lộ 14, đánh đồn Srépok rồi tiến vào Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh kêu gọi dân Thượng nổi lên chống lại người Kinh để xây dựng một quốc gia độc lập. Trong cuộc nổi dậy này, 35 sĩ quan và binh sĩ Kinh bị thiệt mạng, quận trưởng quận Ðức Lập (Quảng Ðức) bị bắt sống. Kinh ngạc và giận dữ, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật, đã phản ứng dữ dội. Lệnh thiết quân luật được ban hành ngay sáng 20-9-1964, mọi ngả ra vào Buôn Ma Thuột đều bị chận xét gắt gao, Sư Ðoàn 23 cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp được huy động đến vây quanh đài phát thanh, một số tiến về những những đồn bị chiếm đóng. Phiến quân Thượng chống trả dữ dội. Các đồn Bù Ðăng, Miga, Bu Briêng, Srépok và nhiều cầu trên quốc lộ 14 đều bị chiếm lại, trừ đồn Sarpa vẫn còn nằm trong tay phiến quân.
Trước biến cố này, đệ tam tham vụ Tòa Ðại Sứ Mỹ trên cao nguyên, Beachner, khuyên Vĩnh Lộc nên thương thuyết. ông Y Bham nuôl, đại diện phe ôn hòa, phó tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột, được mời đến Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn 23 tham khảo ý kiến rồi được cử vào đài phát thanh thương thuyết với phiến quân. Sau khi dàn xếp xong với phe nổi loạn im tiếng súng, Y Bham được Beachner đưa về nhà riêng thảo luận. Buổi chiều cùng ngày, đại úy Darnell đích thân đưa những lãnh tụ Thượng khác (Y Bhim, Y Dhou) vào nhà Beachner họp. Cuộc thương lượng với đại diện Tòa Ðại Sứ Mỹ và chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham nuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP, những chỉ huy phiến quân (Y Dhơn Adrong, Y Sênh Niê, Y Nuin Hmok, Y Nam êban) không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Kampuchea. Thỏa thuận xong, ngay chiều 20-9, Y Bham nuôl trốn sang Kampuchea, sau khi để lại một kháng thư gởi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đòi quyền tự trị trên cao nguyên. Tại biên giới, Y Bham nuôl được tướng nhảy dù Lès Kossem (một người Khmer gốc Chăm) cùng Y Bun Sor ra đón và đưa về Camp le Rolland nghỉ ngơi rồi tức tốc được chở về Phnom Penh họp.
Ngày 23-9-1964, ông Beachner và tướng Vĩnh Lộc cùng một số nhân sĩ Thượng thành lập Ban Ðại Diện Lâm Thời Người Thượng tại Buôn Ma Thuột do ông Y Char Hdok (hiệu trưởng trường Nguyễn Du) làm chủ tịch, ông Y Chôn Mlô Duôn Du (nhân viên Nha Ðặc Trách Thượng Vụ) làm cố vấn. Beachner cử Y Chôn Mlô Duôn Du làm trung gian thương nghị giữa Việt Nam Cộng Hòa và FLHP. Sau bốn ngày thương nghị, Y Chôn Mlô Duôn Du loan báo phe FLHP chấp nhận buông súng và thương nghị.
Ngày 28-9-1964, tướng Nguyễn Khánh cùng tướng Vĩnh Lộc đến đồn Sarpa nhận sự đầu hàng của 233 binh sĩ FLHP. Lễ gắn huy chương cho những người Thượng có công hòa giải được diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (Buôn Ma Thuột). Lợi dụng sự khoan hồng, một số phiến quân FLHP và các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng còn kẹt lại chạy sang Kampuchea gia nhập vào lực lượng của ông Y Bham ênuôlđồn trú tại Camp Le Rolland.
Mặt Trận Thống Nhất Ðấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị áp Bức (FULRO)
Tại Kampuchea, những lãnh tụ FLHP họp ngày đêm chuẩn bị thành lập một phong trào đấu tranh mới. Chính quyền Kampuchea, qua trung gian Lès Kossem, cật lực giúp đỡ sự ra đời một tổ chức mới qui mô hơn gồm đủ mọi sắc tộc. Lãnh tụ các nhóm Khmer Krom, Chăm và Thượng FLHP được quân đội hoàng gia Kampuchea đưa về Phnom Penh họp.
Tối ngày 20-9-1964, dưới sự chủ tọa của Sihanouk, Lès Kossem cho ra đời một tổ chức mang tên Mặt Trận Thống Nhất Các Sắc Tộc Thiểu Số (Front Uni des Races Minoritaires-FURM) gồm ba mặt trận: Mặt Trận Giải Phóng Champ?a (Front de Libération du Champa-FLC) do Lès Kossem lãnh đạo (bí danh Po Nagar), Mặt Trận Giải Phóng xứ Kampuchea Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom-FLKK) do Chau Dera làm đại diện và Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux-FLHP) do Y Bham nuôl cầm đầu. Nhưng danh xưng FURM không được Y Bham chấp thuận và sau nhiều bàn cãi sôi nổi các phe chọn một tên chung là Mặt Trận Thống Nhất Ðấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị áp Bức, tiếng Pháp là Front Uni de Lutte des Races Opprimées (Lutte chứ không phải Libération như nhiều người thường lầm tưởng), gọi tắt là FULRO để xưng danh trong các hoạt động tại Việt Nam và trên chính trường quốc tế.
FULRO chọn cờ hiệu hình chữ nhật, ba màu: bên phải màu xanh lục có ngôi sao trắng nằm trong hình lưỡi liềm, ở giữa có 3 sọc trắng xen kẽ với 4 sọc xanh dương, bên trái là màu đỏ. Ngôi sao trắng trong lưỡi liềm trắng tượng trưng cho người Chăm theo đạo Hồi tại Kampuchea và Việt Nam. Bảy sọc trắng xanh dương tượng trưng cho bảy sắc tộc lớn người Thượng: Bahnar, Djarai, Radhé, Kaho, Sedang, Mnông, Mạ. Màu đỏ tượng trưng cho tinh thần đấu tranh.
FULRO có ba cơ quan lãnh đạo: Hội Ðồng Tối Cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội Ðồng Bảo Trợ do Po Nagar (Lès Kossem) làm chủ tịch và ủy Ban Chấp Hành Trung ương do Y Bham làm chủ tịch. Trong thực tế, Y Bham sống nhờ vào Lès Kossem nên không có thực quyền nào cụ thể ngoài uy tín cá nhân. Lès Kossem có phương tiện và có lực lượng nên nắm hết mọi quyền hành. Lès Kossem còn kéo theo một số người Thượng và người Chăm vào FLC để gây thêm vây cánh và cho người về Việt Nam lôi kéo một số thanh niên Chăm qua ngõ Châu Ðốc vào Kampuchea.
Mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức thống nhất nhưng FULRO có ba lực lượng khác nhau:
1. FULRO Khmer do Chau Dera làm chủ tịch, nhưng vì bận tổ chức đội phòng vệ cho Sihanouk tại Phnom Penh nên không thể sinh hoạt, mọi quyền hành đều nằm trong tay Lès Kossem. Hội Ðồng Tối Cao của Chau Dera đổi thành ủy Ban Chấp Hành Tối Cao do Lès Kossem lãnh đạo.
2. FULRO Chăm, do Lès Kossem chỉ huy, là tổ chức có tầm vóc nhất. (Kampuchea có 250.000 người Khmer gốc Chăm, đa số sinh sống tại Kompong Cham). Về đối nội, FULRO Chăm có ba ban: Ban tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam móc nối cơ sở, phá hoại do Huỳnh Ngọc Sắng, một người Chăm sinh sống tại Bình Thuận, làm đại diện. Ban kinh tài thu thập tiền đóng góp của dân chúng, tiếp tế cho hậu cứ của Y Bham nuôl tại Camp Le Rolland, do Tôn ái Liên, một người Chăm tại Châu Ðốc, làm trưởng ban và vợ Lès Kossem, người nhận thầu cung cấp lương thực cho các căn cứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam để kiếm thêm tiền, làm phó. Ban phát triển giáo dục cử người đi du học ngoại quốc nghiên cứu về dân tộc Chăm. Về đối ngoại, Lès Kossem vận động các quốc gia ngoại quốc và thành lập nhiều tổ chức Chăm tại hải ngoại ủng hộ nhóm FULRO Chăm. Năm 1970, Lès Kossem sang Bangkok gặp hai vị tướng lục quân và không quân Thái gốc Chăm trong quân đội hoàng gia và những lãnh tụ Thái gốc Chăm thành lập Tổ Chức Người Chăm Chính Thống Tiến Bộ ủng hộ FULRO Chăm. (Thái Lan có 400.000 người Thái gốc Chăm đến lập nghiệp từ thế kỷ 15). Sau đó Lès Kossem đến Djakarta gặp tổng thống Sukarno và được hứa sẽ có 8.000 binh sĩ trong hai lữ đoàn nhảy dù (paracommando) Nam Dương sang yểm trợ FULRO Chăm phục hồi vương quốc Champa khi hữu sự. Lès Kossem nhận viện trợ của Indonesia thông qua Suseno, tùy viên quân sự tòa đại sứ Indonesia tại Phnom Penh. (Indonesia có khoảng hai triệu người Indonesia gốc Chăm, tổ tiên những người này đã sang Indonesia và Mã Lai lập nghiệp từ thế kỷ 14 đến 16). Quốc gia kế tiếp là Mã Lai và các nước ả Rập (Algérie), Nhật Bản nhận giúp FULRO Chăm tu sửa lại các đền đài. (Mã Lai có 200.000 người Mã Lai gốc Chăm lập nghiệp từ thế kỷ 14). Sau cùng Lès Kossem sang Pháp và êu Châu vận động nhân sĩ chính trị và tôn giáo Pháp tổ chức những cuộc hội thảo về văn minh Champa và cấp học bổng cho một số sinh viên Chăm vào học những trường đại học lớn tại Paris (Sorbonne), Aix en Provence… Trong các buổi hội thảo này, những trí thức Chăm và Pháp cho in những tài liệu nhắc nhỡ sự kiện Champa bị Việt Nam xâm thực và mong muốn được các chính quyền phương Tây giúp phục hồi hay nhìn nhận vương quốc cũ.
3. FULRO Thượng do Y Bham nuôl làm chủ tịch, tiếp tục bị phân hóa. Nhóm Dân Sự ôn hòa do Y Bham nuôl lãnh đạo, gồm các ông Y Dhê Adrong, Y Prêh, Y Bling, Y Thih êban, Y Ngo Buôn Ya, Y Sênh Niê, Y Nhiam Niê…, chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để FULRO Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức. Nhóm Quân Sự quá khích do Y Dhơn Adrong lãnh đạo, gồm các ông Y Bhan Kpor, Y Nam êban, Y Nuin Hmok…, chủ trương sử dụng bạo lực để thành lập quốc gia độc lập bằng cách uy hiếp những đồn bót quân sự, tấn công các chuyến xe đò dân sự trên các quốc lộ 14 và 22 cùng những liên tỉnh lộ khác của Việt Nam Cộng Hòa dọc vùng Tam Biên.
Ðể gây thanh thế, từ 29-7 đến 2-8-1965, nhóm Quân Sự cử 200 FULRO Thượng vượt biên giới tấn công và chiếm giữ đồn Buôn Briêng và khi rút lui còn dẫn theo 181 Dân Sự Chiến Ðấu Thượng (dân vệ). Sau đó trung tá Y Djao Niê dẫn một trung đoàn FULRO Thượng về đóng tại Buôn Buor (Ðắt Lắc), gần một cây cầu trên quốc lộ 14, kềm chế nhóm Dân Sự của Y Bham nuôl do Y Dhê Adrong làm đại diện tại Buôn Ma Thuột, lúc đó đang kêu gọi binh sĩ FULRO Thượng mang vũ khí về nộp chính quyền miền Nam.
Trong thời gian này phe cộng sản gia tăng áp lực tại miền Nam Việt Nam, Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị, do Y Bih Aleo lãnh đạo, cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức nhiều cuộc đánh phá khắp Tây Nguyên. Hoa Kỳ muốn được rảnh tay trong nỗ lực tiến công tiêu diệt các mật khu cộng sản trên Tây Nguyên yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương thuyết với FULRO Thượng tìm một phương thức sống chung và hợp tác chống sự xâm nhập của quân cộng sản. Một đại hội các sắc tộc Thượng được triệu tập tại Pleiku từ ngày 15 đến 17-10-1964, gồm 73 thân hào nhân sĩ Thượng và đại diện chính quyền Sài Gòn để hình thành một chính sách Thượng vụ hợp tình hợp lý: tái lập quyền sở hữu đất đai và các tòa án phong tục, dạy tiếng Thượng ở cấp tiểu học, chấp nhận sự tham chính của người Thượng, giúp đỡ thiết thực hơn người Thượng và nâng Nha Ðặc Trách Thượng Vụ thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ (trước đó, ngày 5-5-1964 Nha Công Tác Xã Hội miền Thượng đổi thành Nha Ðặc Trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng, ngày 7-10-1964 trực thuộc Phủ Thủ Tướng). Nhóm Dân Sự ôn hòa, do ông Y Nhiam và bà Hzáp (vợ Y Dhê Adrong) đại diện, được phó đại sứ Hoa Kỳ Alexis Johnson và đại tướng Morton bảo trợ từ Kampuchea về Buôn Ma Thuột thành lập Ban Ðại Diện Chính Phủ Lâm Thời Cao Nguyên.
Ngày 2-8-1965, Y Dhê Adrong cầm đầu một phái đoàn từ biên giới Kampuchea về Sài Gòn thương thuyết. Một tuyên cáo chung kêu gọi FULRO Thượng hợp tác trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp sống chung và chống cộng được ký kết. Vài hôm sau, ngày 16-8-1965, từ Camp Le Rolland Y Bham nuôl gởi đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa một văn thư đòi: xác nhận lãnh thổ Thượng từ vĩ tuyến 17 đến Ðồng Xoài gồm cao nguyên Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Phú Bổn, Ðồng Nai thượng, Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và một phần các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, gọi chung là Liên Bang Cao Nguyên trong Cộng Hòa Liên Bang Việt Nam; có quốc kỳ riêng; có quân đội riêng, giảm số người Việt Nam di cư lên cao nguyên bằng con số trước năm 1954. Y Bham đề nghị tổ chức các cuộc thương thuyết tại Buôn Ma Thuột hoặc tại Manille (Philippines) nhưng yêu sách này không được Sài Gòn chấp thuận.
Ba tuần sau, ngày 23-8-1965, Y Dhê Adrong dẫn một phái đoàn khác từ Camp Le Rolland đến Buôn Ma Thuột họp. Phái đoàn Việt Nam, do hai tướng Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc đại diện, yêu cầu quân FULRO phải buông súng xuống mới chịu thảo luận. Buổi lễ nạp vũ khí của 500 FULRO Thượng tại Buôn Buor được cử hành ngày 15-9-1965, tướng Vĩnh Lộc đưa phái đoàn Y Dhê Adrong, Y Ngo Buôn Ya, Y Bun Sor, Y Nhiam Niê, Y Sênh Niê về Sài Gòn gặp đại diện của Hoa Kỳ (các ông Peterson và Anderson) và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để thảo luận về qui chế đặc biệt dành cho người Thượng, một lực lượng quân sự 150.000 người dưới sự chỉ huy của FULRO, một quốc kỳ tương đương với quốc kỳ của Việt Nam Cộng Hòa, một phái đoàn độc lập có quyền đi dự những hội nghị quốc tế, quyền tiếp đón trực tiếp các đại diện của Hoa Kỳ và các nước khác, quyền triệu tập một Ðại Hội Ðồng Dân Tộc Thiểu Số, thành lập một phái đoàn Ðại Diện Dân Tộc Thiểu Số…
Trong khi đó, từ 29-7 đến 2-8-1965, nhóm quá khích, sau khi tố cáo Y Bham nuôl bị mua chuộc, bí mật tổ chức bạo loạn, họ rải truyền đơn hô hào “Cao Nguyên của người Cao Nguyên!”, “Thực dân Kinh cút đi!”. Vài tháng sau, từ ngày 12-đến 18-12-1965, Y Dhơn Adrong cùng Y Nuin Hmok và thiếu úy Y Nam êban dẫn một nhóm FULRO gồm đại đội 296 Ðịa Phương Quân, trung đội 1/503 Nghĩa Quân Thượng do thượng sĩ Nay Rí chỉ huy tấn công đồn Phú Thiện (tỉnh Phú Bổn) sát hại 32 người và làm bị thương 26 người. Sau đó Y Nam êban cùng Y Tam Uông, đội trưởng và đội phó đại đội 281, chỉ huy lính Thượng chiếm đồn Krong Pách, giết hết binh sĩ Kinh. Tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Klam chỉ huy đột nhập Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Quảng Ðức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO. Tướng Vĩnh Lộc chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật huy động Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tấn công vào những nơi bị chiếm, bắt được một số tù binh và truy đuổi tàn quân FULRO gay gắt. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, được sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ, ra lệnh cho Vĩnh Lộc nương tay và để những nhân vật quan trọng và sĩ quan cao cấp Thượng chạy sang Kampuchea.
Tin nổi loạn tại Việt Nam đến Camp le Rolland, Y Bham nuôl sai con rể là trung tá Y Em chận bắt những phần tử quá khích tại vùng biên giới. Y Dhơn Adrong và Y Nuin Hmok bị Y Em bắt và đem về Camp le Rolland xử tử, Y Bun Sor chạy thoát về Phnom Penh báo cáo. Tướng Lès Kossem, không dám phản đối quyền lãnh đạo FULRO Thượng của Y Bham nuôl, lên Camp le Rolland thương lượng và cử hai người Chăm vào những chức vị cao bên cạnh Y Bham nuôl là Ðằng Năng Giáo (bí danh Yang Neh) làm đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch đặc trách chính trị và nội vụ, và Thiên Sanh Thi giữ chức tư lệnh Quân Khu 3 (Ninh Thuận và Bình Thuận) kiêm sư đoàn trưởng Sư Ðoàn Po Romé. Hai người Chăm này có nhiệm vụ kềm chế những quyết định thân thiện Việt Nam của Y Bham nuôl. Y Bun Sor được Lès Kossem phong làm phụ tá quân sự đặc trách FULRO Thượng tại Phnom Penh.
Tuy không bằng lòng về sự canh chừng này, Y Bham nuôl vẫn ra lệnh cho Y Dhê Adrong về Việt Nam thương thuyết với Paul Nưr, đại diện chính quyền miền Nam. Các cuộc thương lượng kéo dài gần một năm. Tin tưởng vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, phong trào FULRO đòi hỏi rất quyết liệt và tỏ ra không nhân nhượng về yêu cầu thành lập Liên Bang Cao Nguyên Việt Nam, quyền có quốc kỳ, quyền có quân đội riêng và quyền đại diện chính thức. Lo sợ Y Bham nuôl phản bội lý tưởng ban đầu là tranh đấu giành độc lập cho Tây Nguyên, ngày 20-9-1966 Lès Kossem và Chau Dera xua quân bao vây Camp Le Rolland rồi ép Y Bham nuôl ký giấy nhường lãnh thổ của người Thượng từ sông Srê Pok (Nam Lào và đông bắc Kampuchea) đến Pleiku cho Mặt Trận Giải Phóng Chiêm Thành (FLC). Nhưng âm mưu này không thành, trung tá Y Em mang quân đến giải vây và bắt sống một số binh sĩ Khmer và Chăm đang vây Camp le Rolland. Y Bham được giải thoát, giấy nhượng đất bị xé.
Ðể xoa dịu sự bất mãn của người Thượng, chính sách Thượng vụ phác họa ngày 17-10-1964 được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thi hành. Ðầu năm 1966, Y Chôn Mlô Duôn Du và Nay Luett đặt Văn Phòng Liên Lạc thuộc Nha Ðặc Trách Thượng Vụ ở Buôn Ma Thuột để thương nghị với Y Dhê Adrong. Ngày 12-2-1966, một đại hội Kinh Thượng được tổ chức tại Kontum lên án gắt gao nhóm quá khích và Tòa án Quân Sự Vùng II Chiến Thuật, họp tại hội trường Diên Hồng Pleiku, xử những quân nhân Thượng phản loạn cấp thấp (4 tử hình, 1 chung thân, 3 khổ sai 20 năm và nhiều án khổ sai 10 năm). Ngày 22-6-1966 Nha Ðặc Trách Thượng Vụ được nâng lên thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ, Paul Nưr làm đặc ủy trưởng, để chuẩn bị cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Paul Nưr và Y Bham ênuôl
Ngày 2-6-1967, Y Bham nuôl đích thân cầm đầu một phái đoàn đến Buôn Ma Thuột thương nghị và yêu cầu chính quyền miền Nam sớm ban hành qui chế riêng cho người Thượng. Một đại hội các sắc tộc thiểu số trên toàn quốc được triệu tập trong hai ngày 25 và 26-6-1967 để đúc kết các thỉnh nguyện chung của người thiểu số. Ba văn kiện được đệ trình lên chính phủ là bản thỉnh nguyện, bản kiến nghị và bản tuyên ngôn, tất cả đều được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy Ban Hành Pháp Trung ương, long trọng chấp thuận và cam kết sẽ cho thực hiện. Ngày 29-8-1967, đại hội các sắc tộc được tổ chức tại Buôn Ma Thuột dưới sự chủ tọa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc gia, và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy Ban Hành Pháp Trung ương. Chính phủ ký sắc luật số 033/67 cùng ngày ban hành Qui Chế Ðặc Biệt nâng đỡ người thiểu số theo kịp đà tiến bộ của dân tộc. Tháng 11-1967 Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa ủy nhiệm Bộ Phát Triển Sắc Tộc nghiên cứu một dự thảo luật về Hội Ðồng Sắc Tộc.
Năm sau, tháng 8-1968, Y Bham nuôl dẫn đầu một phái đoàn cao cấp gồm 28 người (Y Dhê Adrong, Y Prêh, Ksor Dút, Kpa Doh, Y Tôn, Thiên Sanh Thi, Huỳnh Ngọc Sắng, Zu Zol, Thạch Thân Apol, Chay Rithi, Sa Phol, Chau Chen, Chau Phước…) từ Camp le Rolland về Buôn Ma Thuột họp với Paul Nưr, Ya Ba, Châu Văn Mổ, Nay Luett, Nguyễn Hữu Oanh v.v… đòi hỏi những quyền lợi khác cho người Thượng nhưng không kết quả. Cuộc thương lượng cuối cùng ở cấp bậc cao nhất giữa Y Bham nuôl (với tư cách chủ tịch phong trào FULRO) và đổng lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng được tổ chức ngày 11-12-1968 đi đến một thỏa thuận như sau: phong trào FULRO được quyền có một hiệu kỳ nhưng không phải là quốc kỳ, Bộ Sắc Tộc được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do một người Thượng lãnh đạo, phái Ðoàn Sắc Tộc sẽ được thiết đặt tại Buôn Ma Thuột, một tỉnh trưởng hay phó tỉnh trưởng người sắc tộc sẽ được đề cử tại những tỉnh có đông người sắc tộc cư ngụ, những lực lượng địa phương quân sắc tộc (Thượng) sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan sắc tộc (Thượng), một sĩ quan hay hạ sĩ quan sắc tộc (Thượng) sẽ được đề cử ngay trong những đơn vị quân đội chính qui có đông người sắc tộc… Lễ ký kết sẽ được cử hành tại Buôn Ma Thuột đầu năm 1969. Phái đoàn Y Bham nuôl về Camp le Rolland thu xếp đồ đạc chuẩn bị sang Việt Nam ở luôn.
Sáng 30-12-1968, phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa vượt biên giới sang Camp Le Rolland đón Y Bham nuôl cùng gia đình và lực lượng FULRO Thượng về Buôn Ma Thuột. Nhưng trước đó vài giờ, Lès Kossem ra lệnh cho Y Bun Sor điều động hai trung đoàn quân đội hoàng gia Khmer đến bao vây Camp le Rolland. Ðằng Năng Giáo, Y Bhan Kpor, Y Nam êban, Ksor Dút, Kpa Doh, Kpa Blan chỉ huy đội cảm tử ập đến bắt cóc Y Bham nuôl và gia đình đưa về Phnom Penh. Y Em cùng một số thân tín bỏ chạy vào rừng. Phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa phải quay trở về Buôn Ma Thuột. Cùng ngày Lès Kossem bay lên Mondolkiri trấn an và thuyết phục binh sĩ FULRO Thượng còn lại phải tuân lệnh bộ chỉ huy FULRO mới đặt tại Phnom Penh.
Từ đó Y Bham nuôl bị giam lỏng tại Phnom Penh dưới sự quản chế của Lès Kossem. Một số thân tín Chăm và Thượng được Lès Kossem thăng thưởng và cất nhắc lên những chức vụ chỉ huy. Ngày 31-12-1968 Lès Kossem thành lập Hội Ðồng Nội Các Lâm Thời FULRO, chủ tịch là Yang Neh (Ðằng Năng Giáo), Souleiman (Thiên Sanh Thi) làm phó, đại tá Y Bhan Kpor tham mưu trưởng, trung tá Y Nam êban tham mưu phó. Nội các này bị Lès Kossem giải tán 10 ngày sau đó vì bất lực trong việc tổ chức điều hành. Ðể thay thế, Lès Kossem thành lập một ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao FULRO gồm toàn người Chăm do chính ông làm chủ tịch, Souleiman làm phụ tá đặc trách quân sự, El Ibrahim phụ tá đặc trách hành chánh, Mohamet phụ tá đặc trách tiếp vận. Y Bun Sor được cử đi du học tại trường Sorbonne Paris, Pháp.
Ðầu năm 1969, Lès Kossem giải tán Mặt Trận Cao Nguyên (FLHP) và cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa (Front de Libération des Hauts Plateaux et du Champa, gọi tắt là FLHPC) do Y Bhan Kpor làm chủ tịch. Y Bhan Kpor kêu gọi người Mỹ hãy ở lại Cao Nguyên với dân tộc Thượng. Tháng 6-1969, Lès Kossem tạm ngưng khóa huấn luyện FULRO tại Phnom Penh, đưa các khóa sinh lên Mondolkiri và Rattanakiri thay thế lực lượng của Y Bham nuôl. FULRO Chăm được giao vai trò lãnh đạo tại Mondolkiri (Ðặng Nô, Ðồng Tập, Kinh Hoài Diệp…) và tại Rattanakiri (Ðằng Năng Giáo, Kpa Toh, Tạ Văn Lành), nhưng nhóm FULRO Thượng tại đây không chấp nhận sự chỉ huy của Y Bhan Kpor, họ chỉ tuân phục Y Bham nuôl mà thôi. Ngày 29-7-1969 Lès Kossem họp với Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Ðại Ðủ (Po Dharma), Thiên Sanh Thi, Hoàng Minh Mộ, Ðặng Văn Thủy, Y Bhan Kpor, Y Nam êban, Kpa Doh tại Phnom Penh tìm người làm chủ tịch FULRO nhưng không thành, ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao FULRO Chăm đảm nhận luôn việc điều hành nhóm FULRO Thượng. Giữa tháng 4-1975, Phnom Penh bị thất thủ, Y Bham nuôl cùng vợ con chạy vào tòa đại sứ Pháp tị nạn. Quân Khmer đỏ tràn vào tòa đại sứ bắt tất cả những ai không phải là người Pháp hay có quốc tịch ngoại quốc, toàn thể gia đình ông Y Bham ênuôlbị quân Khmer đỏ hành quyết ngay trong sân tòa đại sứ.
Trở lại Việt Nam, hiệp ước chung cuộc cuối cùng được ký kết giữa ông Paul Nưr, đại diện Việt Nam Cộng Hòa, và Y Dhê Adrong, đại diện phe FULRO chứ không với Y Bham nuôl như đã dự trù. Lễ ký kết được diễn ra trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 1-2-1969 dưới sự chủ tọa của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Văn Hương. Cờ Việt Nam Cộng Hòa treo cạnh cờ FULRO với những biểu ngữ “Tình đoàn kết Kinh Thượng muôn năm”, “Hoan hô các anh em FULRO trổ về phục vụ quốc gia”…
Theo tin tình báo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1969, có 5.471 người qui thuận gồm 2.257 binh sĩ và nhân viên dân sự, 3.214 thân nhân gia đình và 895 súng ống đủ loại. Như vậy tổng cộng có gần 6.000 người qui thuận (ngày 15-9-1965 có hơn 500 người đã ra đầu thú).
Trong lời bế mạc buổi lễ, Y Dhê Adrong tuyên bố: “Kể từ ngày hôm nay, phong trào FULRO không còn nữa trên Cao Nguyên, bất cứ ai sử dụng danh nghĩa FULRO sau này để phá hoại sự đoàn kết Kinh-Thượng sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành của chính quyền”.
Hồ sơ FULRO đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa coi như kết thúc, một giai đoạn hợp tác mới được mở ra. Nhưng thực tế đã không giản dị như vậy, người Chăm và Thượng vẫn chưa có một chỗ đứng danh dự như mong muốn, phong trào FULRO tiếp tục đấu tranh trong bóng tối.
IV .Người Thượng vẫn trên đường tìm chỗ đứng
Năm 1969, những đòi hỏi chính đáng của nhóm FULRO Thượng ôn hòa đều được thỏa mãn, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền Nam. Giai đoạn từ giữa tháng 10-1969 đến đầu tháng 3-1975 có lẽ là thời kỳ vàng son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian đã quá ngắn ngủi để những dự án hội nhập người Thượng vào cộng đồng Việt Nam trở thành hiện thực. Hơn hai trăm ngàn trên tổng số một triệu người Thượng đã chết trong cuộc chiến. Sau ngày 30-4-1975, dưới chế độ cộng sản, phong trào FULRO, được dịp hồi sinh, đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá chống lại chính quyền cộng sản và bị trấn áp trong bạo lực. Cho đến nay người Thượng vẫn còn trên đường đi tìm chỗ đứng.
Chính sách Thượng vụ thời Ðệ nhị Cộng Hòa
Tại miền Nam, sau 1969, nhiều định chế chính trị và xã hội đã được thành lập để hội nhập người Thượng vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dưới áp lực của Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17-10-1964 và từ 25 đến 26-6-1967. Một số đòi hỏi của nhóm FULRO Thượng – trừ các quyền có lãnh thổ và quân đội riêng, quyền tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế – cũng được thỏa mãn. Những cựu thành viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Kampuchea về lại Việt Nam sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại địa phương nơi cư ngụ.
Ðể tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong Trào Ðoàn Kết Các Sắc Tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alêa. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22-4-1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhadé, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhắt Niê Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Dúk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuốt Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buăn). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nưr (người Bahnar), Y Chôn Mlô Duôn Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Ðắt Lắc, các ông Y Chôn Mlô Duôn Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Djarai) làm phó chủ tịch. Phong Trào Ðoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội Ðồng Sắc Tộc.
Hội Ðồng Sắc Tộc, được thành lập bởi sắc luật 014/69 ngày 14-10-1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến Pháp 1967, gồm 48 hội viên chính thức và 12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên chính thức và 4 dự khuyết do tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32 hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết sẽ được bầu tại các địa phương. Sắc lệnh 610 (28-10-1969) qui định số hội viên cho từng sắc tộc tùy theo dân số; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là người Kinh với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội Ðồng Sắc Tộc là Văn Phòng Thường Trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (người Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký, tất cả là người sắc tộc. Hội Ðồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên cứu từng vấn đề liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội Ðồng, trên nguyên tắc, là đưa ra những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến quốc hội điều trần và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong thực tế, Hội Ðồng này không có ảnh hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ thuần túy là một cơ quan tư vấn.
Cơ quan thực sự có quyền hành là Bộ Phát Triển Sắc Tộc được thành lập ngày 9-11-1967 nhưng chức vụ tổng trưởng chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày 22-12-1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST. ông Paul Nưr (người Bahnar) được cử làm tổng trưởng, các ông Ðoàn Chí Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người Chăm) làm tổng giám đốc và ông Y Chôn Mlô Duôn Du (người Rhadé) làm tổng thư ký. Bộ Phát Triển Sắc Tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25 ty và 65 chi nhánh.
Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người Thượng vào sinh hoạt chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực.
– Về chính trị, 90% các chức vụ quan trọng liên quan đến vấn đề sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn lại do các sắc tộc khác. Các sắc tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1 đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư ký, 1 tổng giám đốc công tác, 1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1 thanh tra trưởng, 4 thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh trưởng, 8 quận trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24 phó trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm tỉnh và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10 thanh tra học vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn định số ghế dành cho người Thượng trong quốc hội là 6 ghế và thượng viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về người Thượng, đa số là người Djarai và Rhadé.
– Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và 2.004 ấp có người sắc tộc cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng trực tiếp quản trị.
– Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học sinh theo học các trường trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao đăng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều cán bộ tại chức và sinh viên Thượng được cử ra nước ngoài tu nghiệp. Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn tại Pleiku, thành lập năm 1965, đào tạo hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng 10-1970 đổi thành Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Thượng (tương đương với Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đạo tạo khoảng 270 cán bộ hành chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Từ 1970 đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa tham sự hành chánh tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn.
– Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng đứng dưới cờ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan được điều chỉnh cấp bực ngày 1-2-1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.
– Về xã hội, quân đội và các hội thiện nguyện Hoa Kỳ (CORDS, USAID, USOM, World Relief…) đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và tiện nghi vật chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của người Thượng. Không một làng xã nào (đã bình định xong) không có điện nước và hệ thống đường sá đi tới. Tại mỗi trung tâm định cư, người Mỹ đã giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh mới. Sách giáo khoa bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa Kỳ sáng tạo trừ tiếng Bahnar và Rhadé đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu học. Các giáo hội Thiên Chúa Giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá; tại Pleiku và Kontum, các giáo sĩ Công Giáo mở các lớp học và trại cứu tế giúp dân Thượng. Các tòa án phong tục cũng được thành lập khắp nơi để phân xử những tranh chấp của từng sắc tộc.
Nói chung, giới trẻ Thượng thừa hưởng trực tiếp những cải tổ nhằm nâng cao mức sống vật chất và văn hóa. Tuy vậy, phần lớn thanh niên Thượng, quen với tiện nghi vật chất thành thị, xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture); xấu miệng hơn, người ta còn nói hiện tượng Việt hóa (?) của người Thượng.
Cũng nên biết là, do yêu cầu của chiến tranh, nhiều buôn làng Thượng buộc phải dời ra khỏi những khu oanh kích tự do (free fire zone) để định cư trong ấp chiến lược dọc các trục lộ giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị lớn, nếp sống và lối canh tác cổ truyền đã phần nào bị xao lãng. Phe cộng sản, mất địa bàn hoạt động, xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn là nơi diễn ra những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu tấn bom đạn đã dội xuống vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A Lưới, Chu Prong, Dakto, Plei Me, Toumơrong, Buôn Hô… là những sử tích trong chiến tranh Việt Nam.
Chống đối vẫn tiếp tục
Tại Việt Nam, chính quyền đồng nghĩa với quyền lực và quyền lợi, tranh chấp địa vị thường xuyên xảy ra mỗi khi phân bổ chức vụ. Những lãnh tụ Thượng trong chính quyền, vì chưa quen với sinh hoạt chung với nhau, đều giành tối đa quyền lợi về cho sắc tộc mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề cử người vào Hội Ðồng Sắc Tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai được chỉ định và ai phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu?) và làm cản trở sự điều hành của định chế. Vai trò của Bộ Phát Triển Sắc Tộc rất là quan trọng, ngân sách của bộ lớn hơn Bộ Chiêu Hồi và Bộ Lao Ðộng, tranh nhau nắm bộ này là ưu tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Djarai và Rhadé. Nhưng chính quyền Sài Gòn chỉ thường ưu đãi những người phục tùng chế độ, ngày 17-6-1971, Nay Luett, một lãnh tụ Djarai, thay Paul Nưr trong chức vụ tổng trưởng cho tới tháng 4-1975, cán bộ Rhadé đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu do đó rất bất mãn. Thêm vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh trong bộ càng làm những lãnh tụ Thượng tức tối, vì cho rằng chính quyền muốn kiểm soát hoạt động của bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.
Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, FULRO là phong trào của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng đều dồn cho người Thượng, do đó, trong Phong Trào Ðoàn Kết, đại diện các sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ, trừ người Chăm và người Khmer (vì sinh sống ở đồng bằng nên không được công nhận là những sắc tộc quốc gia). Riêng những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có quan hệ với chính quyền Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng đầu. Trong một cuộc bỏ phiếu tại quốc hội ngày 7-10-1969, 98 dân biểu ủng hộ thành lập một qui chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện Khiêm phủ quyết vì quyền lợi và an ninh quốc gia. Sự kiện này càng làm cho nhóm Khmer Chăm và Khmer Krom tại Kampuchea thêm bất mãn.
Phong trào FULRO hải ngoại:
Ðể làm áp lực với nhóm FULRO Thượng về qui chánh tại Việt Nam, cuối tháng 10-1969, Lès Kossem thành lập ủy Ban Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương, bên cạnh ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao do ông lãnh đạo và cử hai người Chăm, Hoàng Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên tổ chức. Nhưng đến cuối năm 1970 Lès Kossem giải tán ủy Ban Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương vì bất lực và thành lập ủy Ban Lãnh Ðạo FULRO do Y Bun Sor vừa từ Pháp trở về lên làm chủ tịch.
Ngày 18-3-1970, Lès Kossem giúp tướng Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray, do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Lès Kossem được Lon Nol giao toàn quyền tổ chức đội quân thiểu số tại Kampuchea gồm 7 tiểu đoàn sắc tộc thiểu số người Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long) và Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom lại thành hai lữ đoàn: Lữ Ðoàn 5 Bộ Binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek Ibrahim chỉ huy và Lữ Ðoàn 40 Biệt Kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan Kpor chỉ huy.
Lès Kossem cử người lên Mondolkiri kêu gọi lực lượng FULRO Thượng về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc Champa và thành lập Cộng Hòa Tây Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp tác với Lès Kossem và được bổ sung vào Lữ Ðoàn 40; số còn lại hợp tác với quân Khmer Ðỏ, được phe cộng sản Việt Nam trang bị và tiếp tế, chống lại Phnom Penh. Thủ lãnh FULRO Thượng Y Bham ênuôlvẫn bị giam lỏng tại Phnom Penh
Việc làm đầu tiên của Lès Kossem trong chức vụ mới là xúi giục các nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công các làng xã và ghe thuyền của người Việt quanh Phnom Penh và dọc lưu vực sông Mékong, làm dấy lên một phòng bài Việt trên khắp lãnh thổ Kampuchea tháng 4-1970. Sự sát hại người Việt một cách quá đáng buộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Kampuchea bảo vệ đồng thời phá luôn các căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt là tại khu Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài Gòn và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Kampuchea cũng chấm dứt.
Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer Ðỏ, cuối năm 1971 Lon Nol phong Lès Kossem hàm thiếu tướng và cử làm tổng trấn Phnom Penh; hai lữ đoàn sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ lực đánh lại Việt Nam, Lès Kossem thành lập Phái Ðoàn Vận Ðộng FULRO Hải Ngoại vận động các quốc gia dầu lửa hồi giáo ả Rập và Ðông Nam á ủng hộ phong trào FULRO của ông. Mở đầu cuộc vận động, Lès Kossem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai, Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin giúp đỡ tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Lès Kossem tập trung 15 lãnh tụ Chăm chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao: nhóm đi các nước ả Rập, do Primé đại diện, nhóm đi Ðông Nam á do El Ibrahim cầm đầu và nhóm đi êu Châu do chính Lès Kossem hướng dẫn.
Uy tín của Lès Kossem ngày càng lên cao, ngày 26-10-1972 ông được Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước Ðông Nam á giải thích lập trường của chính phủ Kampuchea. Nhân dịp này, ông vận động với các quốc gia hồi giáo Ðông Nam á giúp người Chăm phục hồi vương quốc Champa. Nhiều buổi hội thảo về nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc gia trong vùng được tổ chức tại các thủ đô Ðông Nam á và Châu êu, từ 1972 đến 1975, nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Lès Kossem đã không được toại nguyện, Khmer Ðỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc (Strung Treng, Kratié, Rattanakiri và Mondolkiri) và tiến dần về thủ đô Phnom Penh. Lon Nol gọi Lès Kossem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc đã chống trả dữ dội các cuộc tiến công của quân Khmer Ðỏ, cuối cùng thủ đô Phnom Penh cũng bị thất thủ. Ngày 15-4-1975, Les Kossem cùng gia đình và một số thân tín sang Pháp tị nạn.
Phong trào FULRO Dega:
Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước vào giai đoạn thương nghị, người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh, các phe thù địch chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.
Ðối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là những lãnh tụ Rhadé, Phong Trào Ðoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không thực sự tranh đấu cho quyền tự trị của người Thượng trên cao nguyên. Ðầu năm 1972, những người này thành lập Ban Bảo Vệ Dân Tộc, chống lại chính sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1972, Ban Bảo Vệ đổi tên thành Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Người Thượng (Front de Libération des Hauts Plateaux Montagnards-FLHPM), còn gọi là FULRO Dega – do Y Bham nuôl (vắng mặt) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch – tranh đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng. Dega theo tiếng Rhadé là những đứa con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa là một đầu voi trong vòng tròn màu vàng. Tổ chức này độc lập với phong trào FULRO ở Kampuchea.
FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là Cộng Hòa Dega và thành lập một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y Bliêng Hmok, Y Chôn Mlô Duôn Du, Kpa Koi, Y Bách êban, Y Prêh, Y Nguê, v.v… đảm nhiệm. Cộng Hòa Dega được chia thành năm quân khu: quân khu I gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh; quân khu II: cao nguyên Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên; quân khu III: cao nguyên Ðắt Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Ðức cũ); quân khu IV: cao nguyên Lang Biang (Tuyên Ðức cũ), Brah Yang (Lâm Ðồng cũ) và Gung Car (Ðồng Xoài cũ); và quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm FULRO Champa được giao cai quản quân khu V.
Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế hoạch thành lập nhiều lực lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van khuyến khích, để tranh quyền với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhất là với Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị do Y Bih Aleo lãnh đạo, trong chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt Nam, theo tinh thần Hiệp Ðịnh Paris 1973.
Ðể gây thế lực, phong trào Dega bí mật kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Ðầu năm 1975, lực lượng quân sự FULRO Dega có trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn cứ quân sự được thiết lập dọc biên giới Ðắt Lắc, Quảng Ðức và Mondolkiri.
Tháng 3-1975, quân cộng sản gia tăng áp lực trên cao nguyên. Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột ngày 19-3-1975, đại tá Y Blok êban (một lãnh tụ trong Mặt Trận Tự Trị Tây Nguyên) được phong làm chủ tịch ủy Ban Quân Quản và kêu gọi dân Thượng hợp tác.
Những lãnh tụ Thượng tại Sài Gòn, mất liên lạc với các tỉnh cao nguyên, loan báo nhiều tin khó kiểm chứng. ông Nay Luett, bộ trưởng Bộ Phát Triển Sắc Tộc, tố cáo FULRO Dega hợp tác với cộng sản đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Trong thực tế, quân Dega chỉ lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên sau khi quân đội miền Nam rút lui để chiếm một số quận huyện dọc biên giới.
Hay tin Buôn Ma Thuột thất thủ, Nay Luett thành lập Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc Cao Nguyên nhằm tập hợp tất cả lực lượng Thượng không cộng sản còn lại, kể cả những cựu thành viên FULRO Thượng, tái chiếm Tây Nguyên. Nhưng thời gian đã quá cấp bách để có một hành động cụ thể, những người lãnh đạo Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc cũng chạy theo đoàn người vĩ đại di tản sang Hoa Kỳ, số còn lại trở về cao nguyên sống lẫn trong dân.
Tại Sài Gòn, chiều ngày 30-4-1975 ông Y Chôn Mlô Duôn Du, tổng thư ký Bộ Phát Triển Sắc Tộc, đứng đầu ủy Ban Cách Mạng Dân Tộc Thiểu Số do ông thành lập để bàn giao Bộ Phát Triển Sắc Tộc cho đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi trở về Ðắt Lắc. Thời kỳ vàng son của người Thượng trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam chấm dứt.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 18:36:39 GMT 9
Phong trào cộng sản và người Thượng
Từ sau 1938, cán bộ Việt Minh thành lập nhiều mật khu trên các vùng rừng núi phía Ðông dãy Trường Sơn, cạnh các buôn làng Thượng, để chống Pháp. Sự kề cận này buộc những cán bộ Việt Minh phải giao tiếp với cộng đồng người Thượng để được tiếp tế và, qua đó, hiểu biết phong tục, tập quán của người Thượng. Tại Bình Ðịnh, cán bộ Việt Minh còn giả làm người Thượng để che mắt quân đội Pháp trong các cuộc bố ráp. Sau 1945, cán bộ Việt Minh chính thức xuất hiện trên cao nguyên và hoạt động ngay trong các thành phố lớn. Với khẩu hiệu dân tộc Tây Nguyên tự trị, phong trào Việt Minh đã thu phục toàn bộ thành phần ưu tú người Thượng do Pháp đào tạo. Hàng ngàn cán bộ và binh sĩ Thượng gia nhập phong trào Việt Minh và được giao những chức vụ quan trọng tại các địa phương như các ông Nay Phin (đại biểu Cheo Reo), Y Wang (đại biểu Ðắt Lắc), Nay Der (đại biểu Kontum, Pleiku kiêm chủ tịch ủy Ban Sắc Tộc), Y Klam (trưởng Ðoàn Thanh Niên Sắc Tộc) và các ông Y Ngô Buôn Ya, Y Thang Niê Kdam, Y John Niê Kdam là những sĩ quan cao cấp… Tiểu đoàn Cứu Quốc Quân Ðắt Lắc, do ông Y Bih Alêo chỉ huy, đã tham gia nhiều trận đánh lớn trên cao nguyên.
Sau 1954, khoảng 120.000 cán bộ Việt Minh từ miền Nam ra Bắc tập kết, trong đó có khoảng 6.000 người sắc tộc, đa số là người Rhadé và Djarai. Thanh niên Thượng tập kết được Chu Văn Tấn, chủ tịch ủy Ban Dân Tộc, cho đi học tại Trường Các Dân Tộc Thiểu Số Phía Nam tại Gia Lâm. Chương trình học tập văn hóa bằng tiếng Việt, trình độ tiểu học, gồm các bộ môn lịch sử và văn hóa Việt Nam. Các học viên Thượng còn được hướng dẫn sử dụng bản đồ, địa bàn và học tập chính trị (chủ nghĩa Mác Lênin và các khẩu hiệu chống Ngô Ðình Diệm). Cuối năm 1959, hơn 4.000 thanh niên Thượng đã tốt nghiệp từ trường này, mỗi khóa 400 người. Trong thời gian học tập, các học sinh được nuôi ăn ở và đưa đi thăm các danh lam thắng cảnh của miền Bắc. Thỉnh thoảng các lãnh tụ đảng cộng sản đến ủy lạo tinh thần học sinh Thượng.
Từ tháng 3-1955 trở đi, những học sinh Thượng ưu tú được gởi vào Trường Sư Phạm Trung ương để trở thành giáo viên và cán bộ sắc tộc. Thời gian học tập gồm 9 tháng, mỗi khóa đào tạo khoảng 410 cán bộ, trong đó có 120 người Thượng. Nhiều cán bộ Rhadé, Djarai và Sedang ưu tú, sau khi tốt nghiệp được đưa sang Liên Xô và Trung Quốc tu nghiệp trong những trường sắc tộc. ông Y Ngôn Niê Kdam, đại biểu quốc hội năm 1956, được đưa sang Liên Xô học tập chính trị và quân sự.
Trong thời gian này, Hà Nội chuẩn bị kế hoạch đưa cán bộ vào miền Nam vận động tổng tuyển cử, dự trù vào tháng 7-1956 theo qui định của hiệp định Genève. Các đoàn thám hiểm đầu tiên được cán bộ Thượng tập kết hướng dẫn, đi từ Nam Lào vào Tây Nguyên, rồi từ Tây Nguyên xuống Sông Bé tiến vào Tây Ninh. Cuộc tổng tuyển cử đã không xảy ra, tất cả ở lại nằm vùng trong các thôn xóm và vận động dân chúng chống lại chính quyền miền Nam.
Năm 1958, lợi dụng tình trạng xáo trộn trên cao nguyên, cán bộ cộng sản vào các làng Thượng tuyển mộ và đưa từng đợt 50 thanh niên ra Bắc học tập, sau đó đưa về Tây Nguyên hoạt động.
Ðể đối trọng với phong trào Bajaraka của Y Bham nuôl, tháng 10-1960 Hà Nội thành lập Phong Trào Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên, gọi tắt là Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên, do các ông Y Bih Aleo, Y Thang Niê Kdam, Y Ngôn Niê Kdam cầm đầu tại Kon Hanung. Phong trào này là một bộ phận của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (thành lập tháng 12-1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn (đường mòn hồ Chí Minh) vận chuyển người và vũ khí vào Nam.
Người Hré, Ktu, Bru Vân Kiều và Tà Ôi trên cao nguyên miền Trung được giúp đỡ tận tình vì nơi sinh trú của họ nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, giữa Khe Sanh và Nam Lào. Người Stiêng và Mnong trên cao nguyên miền Nam càng được chiếu cố vì địa bàn sinh sống của họ (phía Tây Bắc Sài Gòn) là nơi đặt bản doanh của cục R, cơ quan đầu não của phe cộng sản ở miền Nam. Sóc Bombo của người Stiêng đã một thời được thổi phồng như một thành trì chống Mỹ. Khu vực Tam Biên (nơi giáp ranh cũ giữa Kampuchea, miền Nam và miền Trung) gần như là vùng giải phóng. Qui chế tự trị được áp dụng ngay tại Dak Goklam, Ban Tăng, Ban Het, Dak Sút, Sa Thầy, Plei Ya… 40% thanh niên trong mỗi làng được huy động xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh.
Mặc dù được phong nhiều chức vụ danh dự trong các tổ chức vệ tinh của đảng cộng sản và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, như phó chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (ông Y Bih Alêo), chủ tịch các ủy ban sắc tộc, sĩ quan quân đội…, vai trò của những lãnh tụ Thượng rất là lu mờ. Họ không được tham gia vào bất cứ quyết định quan trọng nào liên quan tới cuộc chiến. Ban lãnh đạo cộng sản rất sợ người Thượng kết hợp lại với nhau nên đã bằng mọi cách ly gián hay gây chia rẽ các nhóm Thượng với nhau. Mọi liên lạc với các tổ chức Thượng khác, kể cả những tổ chức chống lại chính quyền miền Nam, đều bị ngăn chặn.
FULRO Dega và chính quyền cộng sản
Lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên giữa tháng 3-1975, dân chúng Chăm và Thượng thu nhặt vũ khí, quân trang và quân dụng, do quân lực Việt Nam Cộng Hòa vứt bỏ trong các cơ quan và dọc các quốc lộ 1, 14, 19, nộp cho lực lượng FULRO Dega. Với số lượng vũ khí và lương thực khô thu nhặt được, bộ tham mưu FULRO Dega, cảm thấy đủ khả năng đối đầu với quân đội cộng sản, ra lệnh cho các đơn vị FULRO chiếm nhiều đồn bót dọc vùng biên giới, một số buôn làng tại Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Quảng Ðức, Lâm Ðồng và Ninh Thuận. Lực lượng FULRO Dega và FULRO Champa lúc đó có trên 12.000 tay súng và hơn 8.000 du kích.
Tại Phan Rang, giữa tháng 4-1975, Huỳnh Ngọc Sắng (về lại Việt Nam từ đầu năm 1973) cùng Vạn Thanh Bình và Kiều Ngọc Quyên chỉ huy FULRO Champa quân khu V. Lực lượng Chăm, gồm 2.000 tay súng, thành lập những đội du kích bảo vệ thôn ấp. Cờ FULRO được treo khắp nơi. Khi bộ đội cộng sản tiến vào, du kích Chăm nổ súng chống lại, nhưng sau vài cuộc chạm súng các đội võ trang Chăm bị đánh bại dễ dàng, nhiều người bị thiệt mạng, một số bị bắt và một số khác trốn lên cao nguyên Di Linh hợp cùng các nhóm Dega tổ chức kháng chiến.
FULRO quân khu I chặn đánh các đường tiếp tế từ đồng bằng lên Kontum. FULRO quân khu II tấn công các buôn làng quanh Pleiku và Cheo Reo, sát hại nhiều cán bộ cộng sản. FULRO quân khu III chiếm các quận Lạc Thiện, Buôn Hô, Krong Pách… giết và làm bị thương hàng chục cán bộ và bộ đội, phục kích các đoàn xe quân sự và hành khách trên các quốc lộ 14 và 19. FULRO quân khu IV đánh phá các quận Ðơn Dương, Ðức Trọng, Lạc Dương, Di Linh, chặn xét xe đò trên các quốc lộ 15, 20 và 21. FULRO quân khu V, lôi kéo hàng ngàn thanh niên Chăm và Roglai vào bưng.
Tháng 6-1975, chính quyền cộng sản tung chiến dịch truy quét FULRO trên khắp Tây Nguyên. Nhiều cuộc hành quân qui mô, có chiến xa và trọng pháo yểm trợ, đánh thăng vào những sào huyệt của FULRO tại Ðắt Lắc, Lâm Ðồng và Tuyên Ðức. Những quận huyện và buôn làng bị chiếm đều lấy lại được, nhiều cán bộ FULRO Dega cao cấp lần lượt bị bộ đội cộng sản Việt Nam bắt (Y Chôn Mlô Duôn Du, Y Bliêng Hmok, Y Nguê, Y Djao Niê, Nay Guh, Nay Fun, Nay Rong) và bị giam trong các trại cải tạo tại Buôn Ma Thuột và Lâm Ðồng.
Hơn 2.000 quân FULRO Dega chạy sang Kampuchea lánh nạn và được Khmer Ðỏ tiếp nhận. Lực lượng này do đại tá Y Peng Ayun chỉ huy với ban tham mưu gồm nhiều sĩ quan cao cấp như trung tá Y Hinnie, Y Bhong Rcam, Y Yỗn, Kpa Koi, Htlon…, trong đó có cả mục sư Budar Su Kbông. Binh sĩ Dega được giúp đỡ và trang bị thêm để tiến qua Việt Nam đánh chiếm các làng ven biên tại Lâm Ðồng, Sông Bé và Ðắt Lắc. Những trận đánh tại vùng biên giới và dọc các quốc lộ trong những năm 1975 và 1976 rất là dữ dội.
Tại Ðắt Lắc, cuối tháng 5-1976, một số lãnh tụ Thượng bị giam (Y Djao Niê, Nay Ful, Nay Rong, Nay Guh cùng nhiều người khác) vượt ngục và ám sát ban lãnh đạo FULRO Dega cũ gồm các ông Kpa Koi, Htlon, Y Bách êban, Y Dhê Buôn Dap, Hmang Mbon… để giành quyền lãnh đạo. Tháng 7-1977, nhóm này thành lập một chính phủ mới, bộ chỉ huy đặt tại Lạc Dương, phía Bắc Ðà Lạt. Y Djao (bí danh thiếu tướng Dampa Kwei) tự phong thủ tướng và cử Ya Duk (người Koho) làm đổng lý văn phòng, Nay Guh bộ trưởng quốc phòng, Nay Rong (trung tá) bộ trưởng ngoại giao, Nay Ful bộ trưởng nội vụ (cả ba là người Djarai)… Tổ chức quân sự vẫn giữ y như cũ gồm năm quân khu, nhưng chỉ quân khu IV, do Paul Yưh (người Bahnar) làm tư lệnh, thực sự còn hoạt động. Vụ đảo chánh này làm nhiều cán bộ FULRO nản chí, một số buông súng ra đầu hàng, một số khác bỏ về làng làm nương rẫy.
Y Djao Niê cùng Huỳnh Ngọc Sắng lập nhiều chiến khu từ Ðơn Dương (Drang), Tùng Nghĩa (Laba) đến Sông Pha (Krong Pha) và phối hợp với thiếu tá Phong (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 302 Tuyên Ðức cũ) tấn công các đồn bót và sự di chuyển của bộ đội cộng sản trên cao nguyên Lâm Ðồng. Từ 1977 đến 1978, lực lượng du kích này – do Krajang Hput, người Koho, chỉ huy – đã tổ chức nhiều cuộc đột kích, đốt phá nhiều trụ sở ủy ban nhân dân xã, huyện bắn pháo vào các đồn bót, phục kích và bắt giữ những đoànđịa chất và lâm nghiệp, khủng bố những người làm nghề khai thác cây rừng, chận xét xeđò, bắt cóc và ám sát cán bộ thu mua lương thực trong các xã ấp quanh thị xã Ðà Lạt, các quận Ðơn Dương và Lạc Dương.
Nhưng tranh chấp quyền lực giữa các lãnh tụ FULRO với nhau làm tổ chức Dega yếu hăn đi. Y Djao Niê bị giết ngày 12-10-1978 tại Ðức Trọng, Y Ghok Niê Krieng lên làm thủ tướng ngày 22-1-1979, Ya Duk làm phó thủ tướng thứ nhất đặc trách nội trị và ngoại giao kiêm phó chủ tịch thứ nhất FULRO Dega, Paul Yưh là phó thủ tướng thứ hai đặc trách an ninh và quốc phòng; ban lãnh đạo phong trào đặt tại Ðầm Ròn (Lâm Ðồng).
Tổng kết từ 1975 đến 1979, khoảng 8.000 binh sĩ Dega bị loại khỏi vòng chiến, phần lớn bị chết dưới những trận tập kích của pháo binh và thiết giáp, số còn lại chết vì thiếu thuốc men và bệnh tật. Nhiều người chịu không nổi cảnh thiếu thốn trong rừng sâu đã ra đầu thú và đi ở tù. Sau 1980, phong trào kháng chiến Thượng, thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, yếu dần theo thời gian, những ổ kháng cự cuối cùng lần lượt bị tháo gỡ và đến cuối năm 1982 thì phong trào FULRO trên Tây Nguyên gần như tan rã, một số bị bắt, số còn lại ra đầu hàng.
Tại Kampuchea, hơn một ngàn người Thượng đã chạy qua Thái Lan tị nạn khi bộ đội cộng sản Việt Nam tiến vào Mondolkiri cuối năm 1979, hơn 200 binh sĩ Dega sau đó được sang Hoa Kỳ tị nạn và 800 người Stiêng được Pháp nhận vào Guyane (Trung Mỹ) năm 1986. Lực lượng Dega còn lại phân tán thành nhiều toán nhỏ sống lẫn vào dân chúng trong các buôn làng xa xôi.
Năm 1980, khoảng 1.500 FULRO Dega về lại Việt Nam hoạt động. Các toán du kích Thượng đột nhập vào các tỉnh Pleiku, Kontum, Ðà Lạt và Ðắt Lắc khủng bố, ám sát cán bộ xã ấp rồi rút về Kampuchea. Năm 1981, quân FULRO đặt mìn phá trạm biến điện tại Gia Lai Kontum, phục kích những toán công an tại Lâm Ðồng, chặn xét xe đò, kêu gọi dân Thượng chống lại Việt Nam và bắt theo nhiều thanh niên Thượng từ 15 tuổi trở lên vào bưng kháng chiến. Sự phản công của bộ đội cộng sản Việt Nam cũng rất dữ dội: năm 1984 có 358 FULRO Dega bị giết, 1.734 bị bắt, 600 vũ khí bị tịch thu. Từ 1985 đến 1990, bộ đội cộng sản Việt Nam tổ chức 63 cuộc hành quân trên Tây Nguyên, hạ sát 102 quân FULRO, bắt sống 167 người khác và vô hiệu hóa hơn 10.000 dân Thượng trong những buôn làng xa xôi, tất cả được dời về gần nơi thị tứ hay cạnh các trục lộ giao thông để dễ canh chừng. Thiệt hại về phía bộ đội và cán bộ cộng sản Việt Nam cũng rất cao, con số không được tiết lộ nhưng chắc cũng bằng hoặc hơn nhóm Dega Thượng vì không quen đường đi nước bước trong rừng và thường bị phục kích bất ngờ bởi những cựu biệt kích Thượng.
Chính quyền Khmer thân Việt Nam, trong những năm 1981-1983, cũng tổ chức nhiều cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt của lực lượng Khmer Ðỏ và FULRO Dega tại Mondolkiri nhưng bị thiệt hại nặng phải lùi về đồng bằng. Phải chờ đến năm 1986, với sự trợ lực của bộ đội Việt Nam, đại bản doanh FULRO Thượng tại Mondolkiri mới bị phá hủy, tàn quân FULRO tản mác khắp nơi. Tháng 9-1991, lực lượng UNTAC (United Nations Transitional Authority in Cambodia) của Liên Hiệp Quốc bắt gặp hơn 400 FULRO Thượng với 175 súng cá nhân sống lây lất trong rừng, tất cả được đưa sang Hoa Kỳ tị nạn năm 1992. Tháng 5-1998, một nhóm sáu người (gồm ba đàn ông, một đàn và hai trẻ em, trang bị bằng cung nỏ) thuộc lực lượng FULRO cuối cùng còn llẩn trốnbị bắt tại ÐÐắtLắc, phong trào FULRO tại Việt Nam và Kampuchea coi như chấm dứt.
Tuy vậy, tại hải ngoại, phong trào FULRO vẫn còn hoạt động. Y Bhan Kpor, thoát sang Thái Lan và được tị nạn tại Hoa Kỳ, tiếp tục lãnh đạo phong trào Dega tại hải ngoại. Y Jut Buôn Tô, cựu đốc sự hành chánh, và Kok Ksor là những người đại diện phong trào trong việc ký kết hay hợp tác với các tổ chức khác. Hiện nay có trên ba ngàn người Thượng tại Hoa Kỳ, đa số sinh sống tại hai tiểu bang North và South Carolina trong bốn thành phố: Raleigh, Greenboro, Charlotte và Spartanburg.
Người Thượng dưới chế độ cộng sản
Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên của Y Bih Alêo chết theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam năm 1976, những hứa hẹn trong thời chiến tranh về quyền tự trị của người Thượng không còn được nhắc đến, thay vào đó là chính sách dân tộc. dân tộc ở đây phải hiểu là sắc tộc thiểu số và chính sách dân tộc là chính sách phòng vệ biên giới, thuộc lãnh vực quốc phòng, chứ không phải để nâng cao đời sống người thiểu số.
Việt Nam có trên ba ngàn cây số biên giới đường bộ, một khu vực đang còn tranh chấp với các lân bang và là nơi sinh trú của các sắc tộc thiểu số. Ðịa bàn cư trú của người Thượng trên Tây Nguyên có một vị thế chiến lược quan trọng, đó là yết hầu của ba nước Ðông Dương: làm chủ Tây Nguyên là làm chủ Việt Nam, Lào và Kampuchea. Tây Nguyên chính vì vậy là một khu quân sự, do đảng cộng sản trực tiếp quản lý qua trung gian các chính quyền địa phương, mặt trận tổ quốc, quân đội và công an biên phòng. Một số làng-biên-giới được thành lập dọc biên giới Kampuchea và Lào, các làng Thượng ven biên được dời vào sâu trong nội địa.
Tùy theo mức độ phục tùng của từng nhóm Thượng mà sự kiểm soát của chính quyền tăng hay giảm. Những lãnh tụ thời chiến như Y Bih Alêo, Y Dhơn Niê Kdam, Nay Der, Nay Phin… đều đã già hay đã chết, những cán bộ và đại biểu Thượng đang còn trong đảng hay tại quốc hội và các chính quyền địa phương không có thực quyền, thành phần cán bộ trẻ không được tin cậy, mọi chức vụ quan trọng đều do người Kinh nắm giữ. Nơi cư trú của người Rhadé, Djarai, Bahnar và Stiêng bị canh chừng nghiêm ngặt, mọi ngỏ ra vào Tây Nguyên đều bị kiểm soát. Ðoạn đường từ Sài Gòn lên Ðà Lạt có hơn 20 trạm kiểm soát. Ðoạn đường từ Nha Trang lên Buôn Ma Thuột có trên 15 trạm kiểm soát. Ðoạn đường liên tỉnh từ Pleiku đến Kontum cũng có hơn 10 trạm. Du kích địa phương theo dõi gắt gao quan hệ của từng người trong làng, nhất là quan hệ với các tu sĩ và người ngoại quốc.
Phần lớn người Thượng ngày nay đã định cư và định canh, chỉ còn khoảng 300.000 người vẫn còn duy trì nếp sống du canh du cư. Từ sau 1976, đất công xã của các buôn làng đều bị tập thể hóa, các định chế mẫu hệ (nhà rông, nhà tập thể) bị giải tán. Các tòa án nhân dân thay thế các tòa án phong tục. Cán bộ lấn át vai trò của các già làng, thanh thiếu niên Thượng tại những nơi đông dân bị đoàn thể hóa. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính giảng dạy trong các trường học, tiếng mẹ đẻ cho trẻ em ở bậc tiểu học bị cấm. Tỷ lệ thất học trên Tây Nguyên cao nhất nước, 60% trẻ em Thượng không đi đến trường vì thiếu ăn và nghèo khó. Số học sinh tốt nghiệp trung học, rất ít, thường không tìm được việc làm phải trở về buôn làng canh tác nông nghiệp. Bệnh tật nhiệt đới (cùi, lao, kiết lỵ, sốt rét rừng…) là tác nhân gây tử vong cao trong cộng đồng người Thượng, nhất là trẻ em. Mọi trợ giúp nhân đạo bất cứ từ nguồn gốc nào đều bị thanh lọc gắt gao.
Tây Nguyên có từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta đất trồng trọt được nhưng hiện nay chỉ khai thác trên 400.000 mẫu. Từ 1976 đến nay, chính quyền cộng sản đã đưa hơn ba triệu người từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và hơn 70.000 người thiểu số từ các tỉnh thượng du miền Bắc lên Tây Nguyên khai thác số đất đai còn lại. Người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ: 1,6 triệu (30%) trên tổng dân số 5,4 triệu người. Theo luật sử dụng đất đai ban hành năm 1999, diện tích canh tác của người Thượng bị thu hẹp lại, mỗi hộ dân chỉ được thuê tối đa ba mẫu. Cũng nên biết trong mỗi nhà sàn (là một hộ) nhiều gia đình sống chung với nhau theo chế độ sở hữu tập thể. Luật sử dụng đất đai mới này phá vỡ nếp sống cổ truyền của người Thượng, vì mỗi nhà sàn phải phân tán thành từng hộ nhỏ để có thể thuê thêm đất canh tác, nếu không sẽ bị đói. Ðó là chưa kể nạn lợi dụng sự thật thà của người Thượng bởi những di dân bất hảo để chiếm đoạt những khu đất tốt dọc các con suối và các trục lộ giao thông. Tại một số nơi, do thiếu văn hóa, những di dân còn đối xử với người Thượng như những nô lệ.
Sự có mặt ồ ạt của di dân từ đồng bằng lên làm xáo trộn toàn bộ sinh thái trên Tây Nguyên. Do đời sống nghèo khó và không được chính quyền giúp đỡ, sự hủy hoại môi trường sinh sống của những di dân mới này rất là báo động. Hơn hai triệu hécta đất rừng trên các vùng đồi núi biến thành đồi trọc, gây hạn hán mùa khô và lũ lụt mùa mưa. Diện tích rừng từ 3,3 triệu hécta năm 1976 giảm xuống còn 2,5 triệu năm 1984 và ngày nay chưa tới một triệu. Ðó là chưa kể nạn khai thác gỗ rừng bừa bãi của các công ty quân đội và công an biên phòng tại các vùng biên giới để xuất khẩu. Thêm vào đó là nạn đào tìm kim loại và đá quí bằng hóa chất gây ô nhiễm môi sinh, nhiều loại thú quí như cọp, khỉ, công và rắn lục bị tuyệt chủng.
Tương lai của cộng đồng người Thượng rất là bấp bênh, vấn đề hội nhập người Thượng vẫn còn nguyên vẹn. Dân tộc Việt Nam đã trả những giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, chúng ta phải thức tỉnh và nhìn ra những vết xe đổ. Xây dựng đồng thuận dân tộc phải là ưu tư hàng đầu của những người muốn lãnh đạo Việt Nam tương lai
*Nguyễn Văn Huy là Tiến sĩ Dân tộc học, giáo sư phụ trách khoa Các Dân Tộc Ðông Nam Á tại Ðại Học Paris
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2023 18:12:13 GMT 9
7 QUAN ĐIỂM SAI LẦM VỀ VẤN ĐỀ ĐẤT ĐAI CỦA NGƯỜI PALESTINE
Do ảnh hưởng của những thông tin sai lệch, khá nhiều người đã chỉ trích Israel “chiếm đóng” đất của người Palestine, khiến xung đột Palestine-Israel xảy ra. Về vấn đề đất đai của người Palestine, Giáo sư Trương Bình, Khoa Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Tel Aviv, và là chuyên gia về các vấn đề Israel, đã bác bỏ những sai lầm liên quan đến vấn đề này. Quan điểm sai lầm 1 -------- Trước khi phân chia, 93% (các phiên bản khác nhau, một số cho là 95%, một số cho là tuyệt đại đa số) đất đai thuộc về người Ả Rập, và người Do Thái chỉ sở hữu 6% đất đai. Quan điểm sai lầm này thường đi kèm với một bản đồ trong đó Palestine có màu xanh lá cây, chỉ để lại một vài chấm trắng tượng trưng cho vùng đất của người Do Thái. GS Trương Bình phản biện Quan điểm này này nửa thật nửa dối: 6% đất đai của người Do Thái là đúng, còn 93% đất đai người Ả Rập là lời dối trá trắng trợn! Dù trong thời kỳ Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ hay thời kỳ uỷ trị của Anh, phần lớn đất đai ở Palestine đều thuộc sở hữu nhà nước (thuộc sở hữu công cộng hoặc thuộc sở hữu của nhà vua). Ví dụ, sa mạc Negev có diện tích hơn 13.000 km2 (khoảng 50% tổng diện tích của Palestine), trước Thế chiến thứ nhất, nó là vùng đất của Quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời kỳ ủy trị, là vùng đất hoàng gia, cũng là tài sản của Nữ hoàng Anh. Nó chưa bao giờ là đất đai tư nhân (ai mà ngu ngốc đến mức mua đất sa mạc vô dụng). Người Ả Rập muốn nói rằng đất đai lúc đó thuộc về họ, và họ không kiểm tra xem nó có căn cứ hay không. Vậy người Ả Rập nắm giữ bao nhiêu đất ở Palestine? Bất kỳ học giả có trách nhiệm nào cũng sẽ nói với bạn: Không ai biết cả! Tình trạng đất thuộc sở hữu của người Do Thái được đăng ký với cơ quan quản lý đất đai của Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh, tuy chỉ là 6% nhưng mọi mục đều được ghi rõ ràng bằng giấy trắng mực đen. Cho dù người Ả Rập có tuyên bố sở hữu bao nhiêu đất đai thì họ cũng khó mà đưa ra được các tài liệu liên quan để chứng minh điều đó. Nếu tính dựa trên quyền sở hữu đất đai đã đăng ký thì dù tỷ lệ đất đai của người Ả Rập có thể vượt quá 6%, thì cũng không nhiều hơn bao nhiêu (người Thổ Nhĩ Kỳ đã che giấu một phần đáng kể tài liệu đăng ký đất đai, nên không thể nào xác nhận hoàn toàn được). Quan điểm sai lầm 2 ------------ Người Palestine sở hữu đất Palestine theo quyền sở hữu Farah. GS Trương Bình phản biện Bởi vì họ không thể cung cấp bằng chứng về quyền sở hữu đất đai, các học giả Ả Rập và những người ủng hộ đã phát minh ra cái gọi là quyền sở hữu Farah, cho rằng người Palestine sở hữu đất đai theo cách này. Cái gọi là quyền sở hữu Farah đề cập đến cách phân bổ quyền sử dụng đất theo làng truyền thống của người Ả Rập, tức là mỗi làng giao đất cho mỗi hộ gia đình để canh tác hàng năm, gia đình nhận đất chỉ được sử dụng chứ không được sở hữu, nó sẽ được chỉ định lại vào năm sau. Ban đầu, đây là một hình thức sử dụng đất và không liên quan đến vấn đề quyền sở hữu. Các tài liệu nghiêm túc về hệ thống sở hữu đất đai của người Hồi giáo thường không coi Farah là một hình thức sở hữu đất đai. Tất cả các bài viết, thư tịch nói về hình thức sở hữu đất đai này, thường liên quan đến xung đột Israel-Palestine. Thế nên, trong hệ thống Farah không xác định rõ chủ sở hữu mảnh đất là ai, vị trí, quy mô mảnh đất và tình trạng giao dịch của mảnh đất. Không thể đăng ký vùng đất như vậy theo bất kỳ hệ thống đăng ký tài sản nào, vì vậy cả Đế chế Ottoman lẫn Chính quyền ủy trị của Anh đều không công nhận nó là quyền sở hữu đất đai, và đương nhiên Nhà nước Israel cũng vậy. Lùi một vạn bước rồi nói, thì ngay cả khi chúng ta công nhận kiểu sở hữu đất đai này, thì người Ả Rập cũng sẽ không có nhiều đất đai. Theo hai số liệu thống kê do chính quyền Anh tổng hợp vào những năm 1920 và 1930, diện tích đất canh tác ở Palestine là khoảng 33%. Năm 1942, Hội Quốc liên (tiền thân của Liên Hợp Quốc) tiến hành đánh giá và kết luận, tỷ lệ sở hữu đất đai của người Ả Rập ở các khu vực tập trung dân cư là khoảng 68%. Theo ước tính này, số lượng đất thuộc sở hữu của người Ả Rập sẽ là 33% nhân 0,68, tức là khoảng 23%. Ngay cả khi chúng ta thêm 10% cho người Palestine (có tính đến người Palestine ở các thành phố và thị trấn), thì đó chỉ là khoảng 30%. Nói cách khác, ngay cả khi chúng ta tính cả phần đất mà chúng ta không có bằng chứng, thì vẫn cách con số 93% mà người Ả Rập tuyên bố mười vạn tám nghìn dặm. Tel Aviv ban đầu được thành lập vào năm 1909 với tư cách là một cộng đồng Do Thái. Quan điểm sai lầm 3 ------------------- Có hơn 1,2 triệu người Ả Rập ở Palestine, chiếm 2/3 tổng dân số. Tuy nhiên, lãnh thổ Ả Rập nằm trong Nghị quyết phân chia chỉ chiếm 43% tổng diện tích của Palestine. Mặc dù chỉ có 600.000 người Do Thái, chưa đến 1/3 tổng dân số nhưng lãnh thổ của họ lại chiếm tới 57% tổng diện tích Palestine. Vì vậy, việc phân chia phân vùng là không hợp lý. GS Trương Bình phản biện Việc phân chia Palestine ban đầu là sự thành lập của hai quốc gia dân tộc và không liên quan gì đến dân số! Cũng giống như quyền thừa kế, nó liên quan đến danh phận, và không liên quan gì đến nhân khẩu của mỗi gia đình. Lùi một vạn bước rồi nói, cứ cho là có thể liên kết dân số với đất đai, thì quan điểm này vẫn là sự dối trá, vì nó che giấu vấn đề về chất lượng đất đai! Đúng là người Do Thái có 57%, nhưng 50% là sa mạc Negev kể trên, ngoại trừ một số ốc đảo, hầu hết đều là những khu vực không thích hợp cho con người sinh sống, đặc biệt là vào cuối những năm 1940. Ngay cả ở Israel hiện đại, sau khi phát minh ra công nghệ tưới nhỏ giọt tiên tiến, và sự phát triển của nền nông nghiệp sa mạc hàng đầu thế giới, phần lớn đất đai ở Negev vẫn không có người ở. Nói cách khác, chỉ có 7% đất được giao cho người Do Thái là có thể ở được, cộng thêm các ốc đảo riêng lẻ trên vùng đất hoang, tổng diện tích có thể ở được sẽ không vượt quá 10%. Còn 43% đất đai mà người Ả Rập thu được, ngoại trừ một lượng nhỏ đất gần Biển Chết, tất cả đều là đất có thể ở được. (Xem chi tiết bên dưới). Sơ đồ phân chia của Ủy ban Peel lúc đó, màu cam là nhà nước Do Thái, còn màu tím là nhà nước Ả Rập. (Hình ảnh trên mạng) Việc phân chia đất đai của người Palestine không phải là một chủ đề mới, ngay từ năm 1936, Ủy ban Peel của Anh đã đề xuất một kế hoạch phân chia, vào thời điểm đó, khoảng 80% đất đai, bao gồm cả Negev, được phân chia cho người Ả Rập, và người Do Thái được phân khoảng 20% đất ở phía Bắc. Người Ả Rập thẳng thừng bác bỏ điều này. Nghị định phân chia năm 1947, người Do Thái đã có được Negev mà người Ả Rập không muốn, diện tích đất đai của người Do Thái kém xa so với 80% mà người Ả Rập ban đầu có được, nhưng người Ả Rập vẫn không đồng ý. Trên thực tế, từ hai cách phân chia này, chúng ta có thể thấy một nguyên tắc cơ bản của việc chia đất: Bên nào được đất tốt thì được ít, bên nào được đất xấu thì được nhiều. Bất kể ai đưa ra phán xét, không ai có thể nói rằng đây không phải là một nguyên tắc công bằng. Vì vậy, việc người Ả Rập phàn nàn về việc phân chia đất đai không công bằng chỉ là một cái cớ, về cơ bản họ muốn tiến hành thanh lọc sắc tộc ở khu vực Palestine, bất kể phân chia như thế nào thì họ cũng sẽ không hài lòng. Quan điểm sai lầm 4 ----------------- Lãnh thổ của quốc gia của người Ả Rập (Palestine) bị chia cắt và mất sự nối liền. GS Trương Bình phản biện Một mảnh đất chia làm sáu mảnh, mỗi bên lấy ba mảnh, tự nhiên là không có sự nối liền với nhau. Các vùng đất của người Ả Rập (Palestine) không được sự nối liền với nhau, vậy làm sao các vùng đất của người Do Thái có thể được nối liền? Vấn đề hiển nhiên như vậy, nói một nửa, giấu một nửa, lừa gạt tất cả mọi người trên thế giới sao? Đó là thiểu năng trí tuệ. Quan điểm sai lầm 5 ---------------- Phần lớn lãnh thổ của quốc gia của người Ả Rập (Palestine) là đồi núi và đất đai cằn cỗi. Điều này không xảy ra với nhà nước Do Thái, quốc gia chủ yếu nằm ven biển và có đất đai màu mỡ. GS Trương Bình phản biện Đọc đến đây, những độc giả thông minh có thể tự mình bác bỏ lời nói dối này. Phần lớn đất đai của nhà nước Do Thái là vùng hoang dã Negev, không gần biển và cũng không màu mỡ. Những vùng đất màu mỡ nhất của người Do Thái là ở Thung lũng Jezreel, và đầm lầy Hura ở phía đông Galilee. Khi hai khu vực này nằm trong tay người Ả Rập, chúng là những vùng đầm lầy với đàn muỗi và bệnh sốt rét hoành hành. Chính người Do Thái đã mua những vùng đất này với số tiền khổng lồ, và biến chúng thành đất nông nghiệp màu mỡ bằng công nghệ hiện đại. Mặc dù nhà nước Do Thái có một số đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng ven biển, nhưng đây chủ yếu là nơi tọa lạc của hai thành phố hiện đại Tel Aviv và Haifa. Cả hai thành phố đều do người Do Thái thành lập, và dân số Ả Rập của họ chủ yếu là người nhập cư phụ thuộc vào nền kinh tế Do Thái. Ngay cả khi những vùng đất này được trao cho người Ả Rập, liệu người Ả Rập có sẵn lòng nhận lấy không? Mặt khác, vùng đất do người Ả Rập nhận được, vùng ven biển phía tây Galilee ở phía bắc được nối với Lebanon, được mệnh danh là Thụy Sĩ của Trung Đông, có cây thông, cây bách xanh, cỏ xanh và nguồn nước, có nguồn tài nguyên dồi dào, là một trong những vùng đất tốt nhất trong khu vực. Dải Gaza ở bờ biển phía nam có đất nông nghiệp cực kỳ thích hợp cho việc trồng trọt. Khu vực đồi núi trung tâm có nguồn nước ngầm khan hiếm tại chỗ, tuy không màu mỡ nhưng chắc chắn là khu vực thích hợp cho con người sinh sống, cũng không khá hơn vùng hoang dã Negev là bao. Thung lũng Jordan ở phía đông là vùng canh tác màu mỡ. Điều kiện như vậy vẫn bị cho là cằn cỗi, có phải chỉ có trời mới thích hợp cho bọn họ sinh sống? Quan điểm sai lầm 6 ---------------- Israel phục quốc vì chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu, thì nên phục quốc ở châu Âu chứ không phải ở khu vực Palestine. GS Trương Bình phản biện Quyền tự quyết của dân tộc bao gồm quyền của một dân tộc xác định và lựa chọn vùng đất mà mình sở hữu. Tất nhiên, việc thực hiện quyền này cần được cộng đồng quốc tế công nhận. Vì vậy, dân tộc Do Thái cũng như bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, đều có quyền lựa chọn quê hương cho mình. Sau khi được cộng đồng quốc tế công nhận, quyền của người Do Thái đối với mảnh đất của họ cũng thiêng liêng và bất khả xâm phạm như mối quan hệ của bất kỳ quốc gia nào với mảnh đất của mình. Về điểm này, nếu nhất định phải nhắc lại những câu chuyện lịch sử cũ, người Ả Rập càng không có quyền đưa ra những tuyên bố vô trách nhiệm. Nếu họ không xâm chiếm và chiếm đóng quê hương của người Do Thái, và nếu họ không ngăn chặn sự trở về của người Do Thái vào những năm 1930, thì Người Do Thái sẽ không bị buộc phải di dời đến mức đó, và ngay cả khi đối mặt với những vụ thảm sát, họ cũng không có nơi nào để đi. Quan điểm sai lầm 7 ------------------- Israel chiếm đất của người Palestine để thành lập nhà nước của mình. GS Trương Bình phản biện Câu nói này chỉ có một vấn đề: Tại sao người Palestine lại nói những vùng đất này là của họ? Việc xác định quyền sở hữu một mảnh đất có thể có một số hình thức: Quyền lịch sử, sự tồn tại thực tế, điều khoản hiệp ước quốc tế, và kết quả chiến tranh. Người Palestine chưa bao giờ xác lập quyền lực chính trị của riêng mình trong lịch sử, và chưa bao giờ có bất kỳ quyền lịch sử nào đối với vùng đất này, quyền sở hữu đất đai tư nhân không rõ ràng, sự tồn tại thực tế cũng là một mớ lộn xộn. Nghị quyết phân chia của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1947, thực chất là lần đầu tiên trong lịch sử người Palestine có được đất đai của mình một cách hợp pháp, tuy nhiên họ đã liên kết với các nước Ả Rập phát động chiến tranh tiêu diệt Israel, kết quả là hơn một nửa diện tích đất được giao đã bị chiếm đoạt. Trong thời gian ngừng bắn, người Palestine cũng bị mất đất, đường ranh giới này đã trao 80% đất đai cho người Do Thái, chỉ để lại 20% cho người Ả Rập, điều này hoàn toàn trái ngược với kế hoạch của Ủy ban Peel. Cần lưu ý rằng, việc người Palestine đã đoàn kết các nước khác phát động cuộc chiến tranh xâm lược Israel, điều này cho thấy họ không công nhận vùng đất mà hiệp ước quốc tế này trao cho họ, và chọn cách sử dụng chiến tranh để giải quyết vấn đề. Do đó sự phân chia đất đai sẽ được quyết định bởi kết quả của cuộc chiến. Người Ả Rập không thể dùng vũ lực khi họ cho rằng mình mạnh, rồi sau khi thua trong chiến tranh lại viện dẫn các nghị quyết của Liên hợp quốc, cho dù họ kiểm soát Liên hợp quốc bằng cách dựa vào quân số của mình, họ cũng không thể đạt được tất cả những điều tốt đẹp trên thế giới! Vì vậy, giải pháp của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề lãnh thổ Israel-Palestine dựa trên Đường Xanh chứ không dựa trên nghị quyết phân chia năm 1947. Kẻ xâm lược bại trận thường mất đất đai, đây là thông lệ quốc tế, và điều này đúng với các nước bại trận trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới. Trong cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất, Thủ tướng sáng lập Israel Ben-Gurion và "anh hùng hòa bình" Yitzhak Rabin, người sau này giữ chức thủ tướng hai lần, đã ở vùng Negev. Người Do Thái có quyền lịch sử không thể nghi ngờ là ba lần thiết lập quyền lực chính trị hiệu quả ở vùng đất này, và truyền thống chính thống của người Do Thái chưa bao giờ từ bỏ quyền này. Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hiện đại đã nâng cao sự hiện diện thực tế của dân tộc Do Thái trên vùng đất này thông qua các biện pháp pháp lý. Năm 1947, nhà nước Do Thái chấp nhận nghị quyết phân chia của Đại hội đồng Liên hợp quốc và nói rõ rằng họ sẵn sàng chung sống hòa bình với các quốc gia Ả Rập. Năm 1948, nhà nước Do Thái giành chiến thắng trong cuộc chiến chống xâm lược, mở rộng lãnh thổ một cách hợp pháp và được quốc tế công nhận. Do đó, dù nhìn từ góc độ nào, Israel xứng đáng có được từng tấc đất bên trong Đường Xanh, và Israel có thể trả lại phần đất nằm ngoài Đường Xanh bất cứ lúc nào (các khu định cư thực chất là những thứ có thể bị thu hồi ngay lập tức, bao gồm Bán đảo Sinai và Dải Gaza đều là tiền lệ), và không nằm trong quá trình thành lập Nhà nước Israel. Tóm lại, Israel chưa vượt ra ngoài thông lệ quốc tế trong việc chiếm đất chứ đừng nói đến việc thành lập đất nước trên đất Palestine! Trương Bình Thanh Hà biên dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 16, 2023 20:09:29 GMT 9
Cuộc chiến khốc liệt tại Ukraine đã bước vào tháng thứ hai. Sự kháng cự ngoan cường ngoài dự liệu của Ukraine là một bất ngờ cho Putin lẫn cả thế giới khi những người lính, người dân Ukraine đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ mình một cách đáng ngưỡng mộ. Có lẽ cũng cần nhìn kỹ hơn về chân dung Vladimir Putin, kẻ đã khởi xướng cuộc tấn công và sát hại người dân Ukraine hiện nay. Vladimir Putin, chân dung một tội phạm chiến tranh Đinh Yên Thảo
Năm nay sẽ tròn 70 tuổi, Vladimir Putin, có tên họ đầy đủ là Vladimir Vladimirovich Putin sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952 tại thành phố Leningrad thời Liên Xô cộng sản, hiện nay là St. Petersburg của Nga. Xuất thân trong một gia đình từng phục vụ cho cách mạng Nga và chế độ khi ông nội Putin là một đầu bếp riêng cho Lenin rồi sau đó là cả Stalin, cũng như cha Putin là một thương binh của Hồng quân Liên Xô. Putin theo học luật tại Đại học Leningrad, nơi giáo sư của ông ta là Anatoly Sobchak, sau này là một trong những chính trị gia hàng đầu của thời kỳ cải cách perestroika và tạo ảnh hưởng đến Putin. Việc học luật tại một quốc gia cộng sản thực chất chỉ mang tính danh nghĩa hay là sự chuẩn bị để tham gia vào guồng máy chính quyền hơn là làm gì khác vì luật lệ hầu như chỉ nằm trong tay đảng cộng sản và guồng máy an ninh. Sau khi ra trường, Putin gia nhập cơ quan tình báo KGB của Liên Xô và được huấn luyện để trở thành một nhân viên tình báo và hoạt động trong lĩnh vực tình báo nội địa, phần lớn là theo dõi khách nước ngoài và nhân viên ngoại giao các lãnh sự. KGB thực chất là một nơi tuyển chọn để huấn luyện và đào tạo giới lãnh đạo cho những thành viên gia đình các viên chức cao cấp trong đảng và quân đội trung thành với chế độ, những người phục vụ và bảo vệ chế độ, trấn áp mọi manh nha phản kháng hay đối lập. Putin đã làm việc hơn 15 năm cho KGB, trong đó có 6 năm sang làm việc tại Dresden thuộc Đông Đức cũ nên Putin cũng nói được tiếng Đức, ngôn ngữ ông ta đã theo học từ trung học. Năm 1990, các tài liệu ghi lại lời Putin nói rằng ông ta xuất ngũ KGB với quân hàm trung tá theo sau cuộc truất phế Mikhail Gorbachev, tuy nhiên cũng có thể Putin bị cách chức vì có xu hướng ủng hộ phe cải cách của Gorbachev. Putin bước vào con đường chính trị sau khi ra khỏi KGB. Ông ta trở thành cố vấn cho Sobchak, thị trưởng đầu tiên được bầu cử dân chủ của thành phố St.Petersburg. Đến năm 1994, Putin trở thành một phó thị trưởng của thành phố này. Năm 1996, Putin được đưa lên Moscow, gia nhập vào ban cố vấn tổng thống trong vai trò phó giám đốc quản trị Điện Kremlin, rồi phó văn phòng Kremlin. Trong khoảng thời gian này, Putin trình bày luận án tiến sĩ kinh tế mà theo viện nghiên cứu Brookings Institution, có 15 trang trong luận án đã cóp lại từ các cuốn sách của Mỹ. Đây là một điều khá thông thường trong các quốc gia cộng sản nhằm hợp thức hóa học vị và đánh bóng cho các thế hệ lãnh đạo tiếp nối. Năm 1998, Tổng thống Boris Yeltsin bổ nhiệm Putin làm giám đốc Cục An ninh liên bang FSB, hậu thân của KGB - một cơ quan quyền lực bậc nhất trong các thể chế cộng sản. Chỉ một năm sau, năm 1999 Yeltsin bổ nhiệm Putin làm thủ tướng và ngỏ ý muốn để Putin kế nhiệm mình. Và chỉ ba tháng sau, ngày 31 tháng 12 năm 1999, Yeltsin tuyên bố từ chức giao cho Putin làm tổng thống lâm thời. Ba tháng sau, Putin chiến thắng trong cuộc bầu cử và chính thức trở thành Tổng thống Nga ở tuổi 48. Putin được ủng hộ phần lớn về việc trấn áp những người ly khai tại Chechnya. Năm 2004, với quyền lực trong tay, tất nhiên Putin lại dễ dàng đắc cử nhiệm kỳ hai. Hiến pháp Nga không để một người làm tổng thống quá hai lần, năm 2008 Putin chọn người kế nhiệm là Dmitry Medvedev được bầu làm tổng thống và Putin làm thủ tướng, thực chất vẫn là người nắm quyền hành tại Kremlin. Đến năm 2012, Putin lại quay lại nhiệm kỳ tổng thống thứ ba, nhiệm kỳ mà Putin đã ra lệnh tấn công và chiếm đóng Crimea của Ukraine vào năm 2014, manh nha ý định chiếm luôn Ukraine như hiện nay. Năm 2018, Putin lại tiếp tục đắc cử nhiệm kỳ tổng thống thứ tư cho đến bây giờ. Từng là một giám đốc an ninh, Putin hiểu rõ cách tập trung quyền lực vào tay mình cũng như tạo ra một mạng lưới thân cận phục vụ cho mục tiêu đó. Các vụ trấn áp đối lập, bóp nghẹt truyền thông, bỏ tù hay ám sát những nhân vật hay ký giả phản đối đã xảy ra khá nhiều dưới thời Putin, đã bị truyền thông thế giới đưa tin nhiều, cũng như gặp sự chỉ trích từ các tổ chức nhân quyền thế giới. Bên cạnh đó, một giới tài phiệt cũng dựa vào Putin để thao túng và làm giàu trong nền kinh tế Nga và ngược lại, trở thành nguồn hậu thuẫn tài chính vững chắc cho Putin. Một sự cộng sinh giữa chính trị và kinh tế trong thể chế cộng sản hay độc tài. Các phân tích của các chuyên gia quốc tế cho biết rằng tâm lý của những sĩ quan KGB là được huấn luyện để trở thành những nhân viên an ninh cực đoan và không nhân nhượng. Họ là những người tin vào sự vĩ đại của Nga, vào ý niệm nước Nga là một đế chế vĩ đại. Đó là loại tâm lý đã được huấn luyện và nhồi nhét từ KGB về vai trò quyền lực của chính phủ là tối quan trọng, những vấn đề về dân chủ, tự do cá nhân hay nhân quyền chỉ là thứ yếu. Cuộc xâm lược Ukraine đã một lần nữa thể hiện bản chất và thái độ của Putin cực đoan và tàn bạo như vậy. Cuộc chiến phi nghĩa và phi lý đã kéo dài ngoài dự định của Putin, bất kể sự biểu tình của người dân trong nước hay các đòn trừng phạt kinh tế của thế giới sẽ gây vô vàn khó khăn cho người dân và cả nước Nga hiện nay lẫn lâu dài, Putin dường như chưa có những dấu hiệu ngưng thái độ hiếu chiến của mình, thậm chí cảnh cáo sẽ mở chiến dịch truy quét "những kẻ phản bội" ngay chính trong nước Nga, đẩy những người lính trẻ của Nga vào cái chết vô nghĩa và tiếp tục ra lệnh phá huỷ các cơ sở dân sự của người Ukraine, sát hại dân thường. Quyền lực và quyền lợi cá nhân của những kẻ độc tài, hay đúng hơn là một tội phạm chiến tranh như thế giới nói về Putin hiện nay, bao giờ cũng cao hơn quyền lợi của người dân và quốc gia mình, cũng như là mối đe dọa đến nền hòa bình thế giới. Đinh Yên Thảo
Cuộc chiến bảo vệ đất nước của Ukraine trước cuộc xâm lược của Nga đã bước vào tuần thứ ba. Bất luận Ukraine có thể cầm cự bao lâu hay sẽ chiến thắng quân đội bạo tàn của Nga, Ukraine đã chứng tỏ cho thế giới rằng, đây là một dân tộc đầy khí phách và quả cảm, xứng đáng được hưởng sự tự do bằng chính xương máu của mình. Ukraine, một dân tộc khí phách Đinh Yên Thảo Trả lời phỏng vấn với truyền thông thế giới ngay từ thủ phủ Kjiv của Ukraine, Tổng Thống Volodymyr Zelensky bảo rằng: "không phải tôi là biểu tượng mà chính đất nước Ukraine là biểu tượng". Biểu tượng của một dân tộc nhỏ bé không thần phục trước quân xâm lược, biểu tượng hào hùng về một hào khí dân tộc chống lại ngoại bang. Thế giới và giới truyền thông trong những ngày qua đã nhắc nhiều về người tổng thống Ukraine trẻ tuổi nhưng can đảm và đầy quyết tâm trong việc lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc mình trong cơn nguy biến. Không nhận mình là "biểu tượng" như truyền thông và người dân khắp thế giới ngưỡng mộ, ông khiêm cung trả lại nó cho tất cả người dân của mình. Ukraine đã may mắn có một lãnh đạo như Tổng Thống Volodymyr Zelensky. Sinh năm 1978, năm nay 44 tuổi, Zelensky sinh ra trong một gia đình trí thức, có cha là một giáo sư đại học và mẹ là một kỹ sư. Sử dụng tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ và có thể nói được tiếng Anh, Zelensky nhận được học bổng du học tại Do Thái nhưng cha ông không chấp nhận cho đi du học mà ở lại nước để học luật khoa. Cũng vậy, tốt nghiệp đại học luật nhưng ông lại chọn đi theo con đường kịch nghệ và điện ảnh, thành công và trở thành một tên tuổi trong làng giải trí Ukraine như một kịch sĩ hài và tài tử tài ba. Từ một kịch sĩ trong kỹ nghệ giải trí để trở thành một tổng thống không phải là con đường truyền thống của những chính khách thế giới nhưng sau khi đắc cử tổng thống Ukraine từ tháng 5 năm 2019, khó ai có thể hình dung được một tân tổng thống trẻ tuổi, chưa có nhiều kinh nghiệm trên chính trường và đối ngoại lại thể hiện khá nhiều bản lĩnh cùng tư chất lãnh đạo xuất sắc. Điều mà thế giới đã chứng kiến trong khoảng hai tuần qua. Chiến sự xảy ra khốc liệt trên vùng đất Ukraine khi Nga dốc quân tấn công quốc gia này. Để hiểu rõ hơn về cuộc chiến này, có lẽ cần điểm lại đôi điều về nó. Trên truyền hình quốc gia, Tổng thống Putin của Nga tuyên bố rằng Ukraine "đe dọa đến sự an toàn, phát triển và tồn tại của Nga" khi Ukraine muốn gia nhập khối NATO và tham gia vào Liên Hiệp Châu Âu (EU) dù Ukraine là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và sự tự quyết. Năm 2014, Nga đã chiếm bán đảo Crimea của Ukraine nhưng nhờ vào những nhóm ly khai và giới thân Nga tại đây, không phải một cuộc chiến tranh tổng lực như lần này. Các phân tích cho thấy Putin và quân Nga đã tính toán sai lầm khi tấn công vào Ukraine vì cho rằng khối EU có thể vì lợi ích kinh tế và sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng của Nga mà không thể phản ứng mạnh mẽ, nhất là Hoa Kỳ cũng đang đối diện cùng sự khủng hoảng kinh tế và dịch bịnh, khó lòng liên kết khối đồng minh. Tuy nhiên không xem lùi bước, Putin đang dốc toàn lực quân đội để tiêu diệt Ukraine, một điều đầy khó khăn cho Ukraine. Như nhiều người đã thấy, Hoa Kỳ và khối đồng minh phương Tây đã rất đoàn kết trong các biện pháp chế tài và cấm vận Nga, cũng như cung cấp vũ khí, tài chánh cho Ukraine trong cuộc chiến này. Nhưng dù sẽ gây nên áp lực lâu dài lên Nga, điều này cũng không thể mang hiệu quả tức thời, cản bước quân Nga nếu không trực tiếp tham chiến. Việc Hoa Kỳ và khối NATO không hay chưa thể phát động một chiến dịch quân sự trực tiếp đối đầu với Nga vì Ukraine là đồng minh chiến lược nhưng trên thực tế chưa thuộc về khối NATO hay EU, khác với nguyên tắc bảo vệ các đồng minh đã nằm trong hiệp ước phòng thủ chung. Khối đồng minh sẽ rất cân nhắc khi đưa quân đội của mình vào chiến đấu thay cho Ukraine, điều cần quốc hội các nước chuẩn thuận và sẽ khơi mào cho nguy cơ một thế chiến với Nga, một quốc gia có vũ khí hạch tâm. Phát động chiến tranh với Nga chỉ là giải pháp cuối cùng nếu Nga xâm phạm sang các quốc gia thuộc khối NATO, còn hầu hết lãnh đạo các quốc gia sẽ bảo vệ quân đội của mình, không đưa người lính vào một cuộc chiến tranh hay đặt người dân vào tình trạng nguy hiểm chừng nào còn có thể tránh được. Bài toán giữa lương tâm và quyền lợi quốc gia luôn khó giải quyết xác đáng. Người dân Ukraine dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống và nội các chính phủ Ukraine cũng hiểu điều này và phải tự sức mình chống chọi lại quân Nga. Nữ Đại sứ Ukraine tại Mỹ đã phát biểu rằng, "Chúng tôi không kêu gọi ai chiến đấu giùm chúng tôi, chúng tôi chỉ mong nhận được vũ khí và sự ủng hộ". Điều mà Mỹ cùng cả thế giới đang làm và làm ở mức tối đa đã có thể. Các nguồn tin tình báo cho thấy Putin và quân đội Nga đã tính toán sai lầm khi cho rằng Kiev sẽ thất thủ và đầu hàng dưới sự áp đảo của binh lính cùng vũ khí của Nga chỉ trong thời gian ngắn. Nhưng như đã thấy, thiệt hại nhân mạng và về khí tài đã lớn hơn mức quân Nga lầm tưởng, không chỉ thiệt hại binh lính, khí cụ mà đã có vài tướng Nga bị tử nạn. Họ đã đối diện với quân đội và người dân Ukraine dũng mãnh và can cường ngoài dự liệu. Trong một cuộc chiến không cân sức này, Ukraine cầm cự kiên cường như vậy đã là điều đáng nói. Nhưng điều ngạc nhiên và làm lay động, lẫn sự ngưỡng mộ với toàn thế giới là một tinh thần dân tộc tự cường và quả cảm, đầy khí phách của họ trong cuộc chiến bảo vệ tự do này. Xin chúc cuộc chiến đầy chính nghĩa của Ukraine sẽ sớm kết thúc và người dân Ukraine sớm trở lại đời sống yên bình. Glory to Ukraine! Đinh Yên Thảo
Những lời tuyên truyền dối trá lịch sử Khi những người bộ đội miền Bắc bị buộc tham gia vào cuộc Nam tiến, họ được tuyên truyền là vào để "giải phóng miền Nam" và cứu người dân miền Nam thoát khỏi "ách kìm kẹp của Mỹ Ngụy". Có nhiều người lính trẻ tin là vậy thật và nếu còn sống sót, họ ngỡ ngàng khi nhìn thấy một Sài Gòn phồn hoa và văn minh sau khi vào đến được Sài Gòn năm 1975. Nhưng không ai dám lên tiếng. Hơn 10 năm sau, sau năm 1986, một số văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc cũng từng tin như vậy mới bắt đầu thú nhận suy nghĩ sai lầm của mình qua dăm tác phẩm rời rạc và kín đáo. Bởi miền Nam là một quốc gia tự do và người dân chưa bao giờ muốn ai "giải phóng" họ, đẩy họ vào "những thiên đường mù", theo như cách nói của nhà văn Dương Thu Hương. Rồi chỉ vài năm sau, hầu như tất cả người dân Việt Nam đều hiểu rõ và lên tiếng về sự dối trá này cho đến nay. Nửa thế kỷ trôi qua, nước Nga đang lặp lại sự tuyên truyền dối trá lịch sử này. Những người lính Nga được bảo rằng họ đang thực hiện một "sứ mệnh cao cả" qua chiến dịch quân sự đặc biệt để "giải cứu" người dân Ukraine anh em ra khỏi một chính quyền tân quốc xã đang sát hại người dân Ukraine và họ sẽ được người dân Ukraine chào đón nồng nhiệt. Nhưng không, họ bất ngờ khi bị buộc phải pháo vào những công trình dân sự, bắn vào người dân thường có cả trẻ em và người già. Không có sự chào đón nào ngoài sự kháng cự quả cảm của những dân-quân Ukraine, những người anh hùng đang bảo vệ sự tự do và đất nước mình bằng máu. Người lính Nga trở thành quân cờ và công cụ cho những kẻ độc tài muốn đặt quyền năng và quyền lợi của mình cao hơn cả nước Nga. Lịch sử là câu chuyện quá khứ, nó dạy cho hiện tại những bài học để đừng tái diễn. Nhưng điều này chỉ có giá trị trong một thế giới tiến bộ, trong một cộng đồng quốc tế nhân bản và dân chủ. Còn với những kẻ độc tài, lịch sử là những gì mà cái đầu bạo tàn và tham lam của họ nghĩ ra. Chiến tranh. Những đổ nát không chôn được sự kiêu hãnh của một dân tộc. Chiến sự đã bước vào tuần thứ tư. Pháo vẫn rơi, đạn vẫn nổ và những con số dân thường thiệt mạng cứ lạnh lùng tăng cao. Những đoàn người tản cư thất thần tiếp tục rời bỏ quê hương. Ôi! chiến tranh và những lời dối trá. Cùng những ánh mắt trẻ thơ ... Đinh Yên Thảo
|
|