|
Post by Can Tho on May 1, 2013 8:19:21 GMT 9
Bùi Chí Vinh: Giai thoại của thi sĩ
MỤC LỤC :
- PHÁT MINH CỦA THI SĨ - GIAI THOẠI CỦA THI SĨ (phần 1) - GIAI THOẠI CỦA THI SĨ (phần 2) - GIAI THOẠI CỦA THI SĨ (phần 3) - GIAI THOẠI CỦA THI SĨ (phần 4)
- PHÁT MINH CỦA THI SĨ
Về trí nhớ của tôn sư Lê Quý Ðôn
Hồi nhỏ tôi rất phục Lê Quý Ðôn, thần đồng về mặt trí nhớ. Theo truyền thuyết ông có thể đọc vanh vách những gì mình chỉ nhìn thoáng qua hoặc nghe qua một lần, ông đã từng cứu bồ một bà chủ quán rượu bị mất sổ ghi nợ chép trên vách vì cháy nhà. Ông cũng đã từng thoát một trận đòn của thân phụ nhờ ứng đối trước mặt khách của cha một bài thơ Ðường Luật về rắn mà câu nào cũng đề cập đến từng chủng loài bò sát.
Tôi không “xịn” như tiên sinh Lê Quý Ðôn, nhưng theo lời bạn bè thì trí nhớ cũng thuộc hàng cao thủ. Từ lúc 11 tuổi đến nay tôi đã làm trên 1000 bài thơ đủ nội dung thể loại và tự hào thuộc tối thiểu cũng hơn 800 bài mình ưa thích. Khác với bậc trí giả Lê Quý Ðôn, tôi bắt buộc phải thuộc thơ mình vì yếu tố thời thế. Nói hú họa, chẳng may tôi bị bọn cường quyền bạo chúa nào đó bịt miệng thì với trí nhớ trời cho, ít ra tôi cũng để dành một số lượng thơ cần thiết để lại cho thế nhân qua ghi chép hoặc khạc thơ truyền khẩu trong bàn rượu thân hữu.
Năm nay bước qua tuổi ngũ thập tri thiên mệnh đáng lẽ trí nhớ kém dần, nhưng cũng may roi vọt cuộc đời không ngừng quất vào nên trí nhớ của thi sĩ lần lượt lại khôi phục. Nếu thiên tài Lê Quý Ðôn có bài thơ thất ngôn bát cú câu nào cũng nói về RẮN thì tôi cũng nối chí cha ông bằng bài thơ năm chữ câu nào cũng nói về CHÓ, vừa mua vui trong bàn rượu, vừa được chủ quán cho “xù” trong việc trả tiền. Nhân đây, bằng trí nhớ cá nhân, tôi chép lại bài thơ RẮN của Lê Quý Ðôn và bài thơ CHÓ của tôi để mọi người tủm tỉm cười chơi.
BÀI THƠ RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC
Chẳng phải LIU ÐIU cũng giống nhà RẮN đầu biếng học lẽ không tha Thẹn đèn, HỔ LỬA đau lòng mẹ Nay thét, MAI GẦM rát cổ cha RÁO mép chỉ quen lời lếu láo LẰN lưng cam chịu vệt năm ba Từ nay TRÂU lỗ siêng năng học Kẻo HỔ MANG danh tiếng thế gia
Sáng sớm nghe tiếng KHUYỂN Giữa trưa bén mùi CẦY Chiều bước vào quán CẨU Chú TUẤT nằm đâu đây
Tiếng ÐỒNG QUÊ là NAI Tiếng giang hồ là CỚM Gần MỰC thì chú đen Gần đèn thì chú ÐỐM
Thăm chú nhớ BÁNH TRÁNG Mới nhất BẠCH nhì VÀNG Nhâm nhi dăm XỊ ÐẾ Mới tứ VỆN tam KHOANG
Về bà Hồ Xuân Hương, thuỷ tổ thơ tiếng lái
Ngoài trường hợp độc đáo của tôn sư Lê Quý Ðôn về mặt trí nhớ như đã nói ở trên, còn một nhân vật nữa trong văn học sử Việt Nam mà tôi cực kỳ ngưỡng mộ. Ðó là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, từng được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”, từng được coi là một trong những người phụ nữ hiếm hoi trên trái đất dám thực hiện nữ quyền một cách triệt để nhất trong thời đại phong kiến trên đe dưới búa bất chấp có thể bị nguy hại đến tính mạng. Tuy nhiên, những danh xưng ấy vẫn chưa đủ để nói về sự mở mang ngôn ngữ của bà. Theo tôi, thiên tài Hồ Xuân Hương còn là thủy tổ làm thơ về tiếng lái, là chưởng môn nhân đầu tiên của môn phái “đảo ngữ” một cách kỳ ảo tạo nên tứ thơ đối nghịch khôn lường mà những người đi sau như Bùi Giáng tha hồ kế thừa để phát huy nghệ thuật chơi chữ.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ ngôn ngữ hai mặt, người đời thường truyền tụng là thơ “đố tục giảng thanh”. Nhưng thơ tiếng lái của bà lại chơi đòn tréo ngoe là “chuyển thanh sang tục”.
Một minh chứng trong bài “KIẾP TU HÀNH” như sau:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Vị gì một chút tẻo tèo teo Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió cho nên phải lộn lèo
Nếu chịu khó đọc kỹ và có máu giang hồ một chút, ai nấy phải bật cười bởi “đá đeo” tức là “đéo đa”, “trái gió” tức là “chó dái”, “lộn lèo” tức là “lẹo… l”
Một thí dụ khác trong bốn câu đầu bài thơ “CHÙA QUÁN SỨ ”:
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? Chày kình, tiểu để suông không đấm Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo…
Tương tự bài trước, nếu chiết tự ba chữ “đáo nơi neo” tức là “đéo nơi nao”, “suông không đấm” tức là “đâm không sướng”, “đếm lại đeo” tức là “đéo lại đêm”.
Sự tài hoa của nữ sĩ họ Hồ biến thành phát minh mở đường cho các thi sĩ. Tôi không có máu ngông cuồng như Bùi Giáng khi xài tiếng lái bắt chước bà, tôi cũng không sử dụng tiếng lái trong chốn phòng the, tôi “thảy” tiếng lái của thế kỷ 21 vào những nỗi đau thế thái nhân tình, những trận phong ba cơm áo tạo nên tiếng cười cay đắng cho những ai đang bị áp bức. Ít nhất tôi cũng thu thập từ truyền khẩu, giai thoại của nhân dân để viết hơn 10 bài thơ tiếng lái, xin chép ra đôi bài sau để mọi người thưởng lãm. Ðó là 2 bài thơ mang tựa “ QUỐC KỲ ” và “ ĐẢO NGỮ HÀNH ”.
QUỐC KỲ
CỜ VÀNG thì tình CÀNG VỜ CỜ XANH sao rụng CÀNH XƠ xác cành CỜ ĐỎ ông CÒ ĐỠ anh CỜ HỒNG cái CÒNG HỜ nhanh lắm bồ Treo CỜ GÌ đỡ KỲ GIỜ? Ê, CỜ TÂY hạ CẦY TƠ ra đời!
ĐẢO NGỮ HÀNH
Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần Muốn in báo phải làm đầy tớ Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn
Ta nào phải là ông Hàn Tín Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY
Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO
Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?
Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN
GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả? CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!
KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ
LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần…
Về loại thơ “bỏ dấu xuống chữ” của chính tôi
Sau những cơn sress nặng về cơm áo gạo tiền công danh địa vị phù phiếm hư ảo, con người ta luôn cần có sự thư giãn. Nối tiếp tiền nhân, tôi tự thể nghiệm mình qua kiểu thơ chơi chữ đời mới cho thanh thản tâm hồn. Cụ thể tôi bỏ các dấu gồm “dấu huyền, dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng” xuống các mẫu tự của 24 chữ cái hoặc các từ để chúng thành thơ.
Xin giới thiệu cùng các bạn một số bài thơ về chữ A, B, C, các từ bão, quậy, thớ như sau:
A
Con gái ta thường kêu bằng: ả Ðôi khi đụng “xẩm” đổi thành: a Các em xinh đẹp thì ta: á Giống Chung Vô Diệm thì ta: ạ Á ạ gặp ta cũng phải: à
B
Nhìn em, ta muốn: bế Muốn bế thì phải: bê Bê em như bê: bệ Bê bệ dễ rớt: bể Ðặt xuống giường, ta: bề
C
Trong tình yêu không xài: xể Làm như thế hai đứa: xệ Thà rằng giận nhau, ta: xê Ta đi bộ, em đạp: xế Lúc gối chăn, bụng sẽ: xề
BÃO
Giữa cuộc đời giông: bão Ta ruột xé gan: bào Văn miếu nuôi cường: bạo Triều đình nuôi hổ: báo Mình ta nuôi chiêm: bao
QUẬY
Ở biển ta là cá: quẫy Sao ngươi đem bỏ mặt: quầy Giang hồ có câu phải: quấy Lẽ nào ta chịu lăn: quay Lẽ nào ta không dám: quậy
THỚ
Có con ong: thợ Không thèm hít: thở Khí hậu đền: thờ Cho nên có: thớ Mật thành ra: thơ
19.7.2008
- GIAI THOẠI CỦA THI SĨ (phần 1)
Vừa rồi sau khi ra mắt hai tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH và THƠ ĐỜI BÙI CHÍ VINH trong nước lẫn trn mạng, tình cờ tôi được nghe một số giai thoại hay hoặc không hay của thiên hạ bàn tán về mình. Đối với tôi, hay hoặc không hay đều vẫn là giai thoại. Nhưng giai thoại phải có cơ sở xác đáng, có thực tế chứng minh, có những người trong cuộc chứng kiến thì giai thoại đó mới trường tồn, truyền khẩu hợp lý và khoa học được. Những giai thoại đồn đại chung quanh hình tích, sự đi đứng, năng khiếu làm thơ ứng khẩu của tôi xuất hiện ngay từ sau giải phóng, lúc tôi còn rất trẻ, đang làm việc tại một tờ báo và chỉ mới 21 tuổi đầu. Giai thoại mỗi ngày mỗi phát triển thêm lúc tôi đi bộ đội, rồi đi giang hồ, rồi làm đủ mọi thứ nghề để sống, thậm chí cả giai thoại lúc tôi bày tỏ chính kiến của mình…
Trong phạm vi bài viết này tôi xin mở đầu bằng một giai thoại quái đản nhất vừa nghe được. Sự quái đản ở đây tùy nghi ai muốn hiểu sao thì hiểu trong khi câu thơ đồn đại về tôi lại khởi nguồn từ một tình bạn rất đẹp. Cụ thể từ hai câu thơ tam sao thất bổn sau đây :
“Trọc đầu BÙI làm sao CHÍ ở Nhục còn chưa có lấy gì VINH”
Và họ nói rằng hai câu thơ trên là do Bùi Giáng ứng khẩu tặng tôi trong bàn nhậu lúc tôi đang múa may chữ nghĩa, khiến tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Suy nghĩ như thế không riêng gì tôi mà những người quen biết tôi đều phải phì cười. Bởi một lẽ đơn giản, tác giả hai câu thơ trên không phải là Bùi Giáng tiên sinh mà là ông anh Mặc Tuyền, một nhà thơ kiêm kịch tác gia bụi đời làm “chọc quê” tôi khi tôi mạt lộ đang ngồi ở vĩa hè phụ sửa xe cùng anh Phan Văn Bồng tự Bế Văn Bồng mưu sinh kiếm sống vào thời điểm cuối thập niên 80 đói rách. Thời điểm ấy nạn dịch bo bo khoai mì hoành hành, mâm cơm không có gạo trắng mà ăn, Mặc Tuyền cố kiềm chế sự ngông cuồng của tôi nên làm hai câu khá cảm động. Vừa chơi chữ, vừa nói về chữ “nhục”, nhục ở đây có nghĩa là “thịt”, thi sĩ lớn cỡ nào mà đầu cạo trọc và thiếu thịt ăn thì bao tử cũng đói meo và chí khí lẫn chí mén cũng đi chơi chỗ khác.
Còn Bùi Giáng tiên sinh đương nhiên thuộc về đẳng cấp khác. Ông và tôi không phải huynh đệ hoặc thân thiết tri kỷ nhưng khi gặp nhau chưa bao giờ ông dèm pha biếm nhẽ thế hệ sau mình. Giai thoại giữa tôi và ông độc đáo hơn nhiều. Cách đây hơn 20 năm tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn trước 1975 là Hồ Hảo Hớn) vi hành xuống miệt Gò Vấp chợ Long Hoa lúc nửa đêm. Nhằm vào lúc Bùi Giáng rời chùa Long Huê gần đó ra chợ quậy tưng bừng khói lửa với một cây chổi rách tượng trưng cho ấn kiếm. Gọi là ấn kiếm vì Bùi Giáng luôn vỗ ngực xưng vương bất cứ lúc nào cao hứng. Đêm đó chúng tôi ngồi uống rượu vĩa hè chứng kiến “vua cỏ” Bùi Giáng làm bà con chạy tán loạn và nhìn ông múa chổi tiến về phía chúng tôi. Ong vừa đi vừa khạc thơ rồi dòm trừng trừng vào mặt tôi. Trong cơn say xỉn ngất trời, Hồ Lê Thuần xúi tôi đọc thơ đáp lễ. Thế là người ngồi người đứng xuất khẩu thành thi qua lại liên tục. Không biết Bùi tiên sinh “phê” thơ tôi ra sao, chỉ biết Người tự động quỳ xuống bàn chúng tôi dâng cây chổi rách lên và tuyên bố “Đêm nay Trẫm thay mặt cựu hoàng Bảo Đại giao ấn kiếm cho thế hệ Hồ Chí Minh”. Câu nói đầy tính “chính trị” và đối phó của Bùi Giáng bắt buộc tôi phải nhận cây chổi và làm một bài thơ tặng ông tại chỗ, có chép lại nhét túi ông đàng hoàng, xin mạn phép ghi ra đây để khép lại lời đồn về sự “tâm phục khẩu phục” của tôi trước Bùi Giáng :
CÁCH LẠY CỦA BÙI GIÁNG
“Liên tồn, l… tiên, liền tôn” Bác Bùi chưa gặp đồng môn đây mà Ta hăm bảy tuổi đăng khoa Bác hơn sáu chục mới là Trạng Nguyên “Bác đi, bi đát” cơn điên Để mua trí tuệ “l… tiên, liên tồn” “Riêng ta” thành “ra tiên” con Lúc say xỉn vỗ hậu môn cười khà “Bán dùi Bùi Giáng” xót xa “Bình Chí Vui” ta vốn là “Bùi Vinh” Bác không màng nhắc triều đình Có đâu ta nỡ cố tình làm vua Chi bằng giữa chợ say sưa Bùi to Bùi nhỏ đi lùa các em Kìa sao bác lạy như điên Đợi ta đỡ dậy chiêu hiền nữa sao ?!?
Ngoài ra tôi còn chép cho Bùi tiên sinh bài thơ BÌNH CHÍ VUI khi ông muốn tôi bình tĩnh chí nam nhi trở lại để có thể tồn tại trước bọn sâu bọ làm người. Tôi đã làm bài thơ này theo “môđen “ tiếng lái và chơi chữ của ông :
BÌNH CHÍ VUI
“Bùi Chí Vinh, Bình Chí Vui” Không bình chí, chắc tiếng cười mất tiêu Chí trong bình, chí mốc meo Chui ra bình, chí mới nhiều nhục vinh Bùi làm thiên hạ giật mình Sờ ngay “cái đó” kẻo em mếch lòng “Bùi như lạc” nhậu sướng không? “Trần như nhộng” Bùi tồng ngồng đái chơi Bất bình nên chí chưa vui Các em nên gọi ông Bùi Chí Vinh
Chuyện gặp Nguyễn Đức Sơn giang hồ hơn. Trước đó khi mạn đàm về thi ca cùng đồng nghiệp, tôi luôn luôn khẳng định miền Nam trước giải phóng có 4 chưởng môn nhân đại diện cho 4 trường phái thi ca tiêu biểu. Đó là Bùi Giáng thơ trên trời, Nguyễn Đức Sơn thơ dưới đất, Thanh Tâm Tuyền thơ tự do kiểu Tây phương, Tô Thùy Yên thơ hành cổ điển kiểu Đông phương. Vì thế lần hạnh ngộ Nguyễn Đức Sơn trên cao nguyên Đại Lào sơn lam chướng khí, tôi đã ăn những gì ông tự trồng tự hái và đã đấu khẩu những gì ông muốn.
Nguyễn Đức Sơn vốn sở trường thơ lục bát và nổi tiếng trước những bài thơ tinh gọn đến mức độ tối thiểu về chữ mà vẫn dào dạt ý tứ. Có bài thơ chỉ hai câu, mỗi câu hai chữ như “Cái lỗ – Tối cổ” đủ nói hết về chế độ mẫu hệ, về nơi khai sinh ra loài người. Có bài thơ chỉ ba câu, mỗi câu một chữ như “Hột – Thì – Le” đủ nói hết về bản chất sinh tồn thiện ác của nhân loại. Và tôi đã mượn những ý thơ độc đáo đó để đưa vô bài thơ làm tặng ông như một thứ giai thoại truyền khẩu :
ĐỤNG ĐỘ NGUYỄN ĐỨC SƠN
“Hột thì le” thật đó sao ? Ta dân “thảy lỗ” đến chào đồng môn Xưa nay hai kẻ du côn Ít khi đời sống cô hồn như nhau Như miếng trầu khác miếng cau Nhưng có cau, chẳng có trầu, như không Như không sinh chuyện động phòng Hột sao le được “nụ hồng thi ca” Như không sinh nở đàn bà “Cái lỗ tối cổ” thành ra tầm thường
Ta thừa văn, bác dư chương Hôm nay một chén Hồ Trường chao nghiêng “Thiên tài” nhờ lỗ “tai thiền” Buồn lên núi hú chẳng phiền Tarzan Buồn hái nấm luyện thành sâm Buồn quay vào vách thương thầm Đạt Ma Buồn hơn xuống động bẻ hoa Buồn hơn chút nữa kiếm ta đỡ buồn
Kiếm ta ta cứ ngông cuồng Sánh vai với Nguyễn Đức Sơn cũng kỳ “Kỳ “ thì theo “Thiệu” mà đi Ta theo bác đã chắc gì tịnh tâm Chẳng thà bút vẩy thơ đâm Rong chơi đợi trận cát lầm đi qua Đừng khen chê trước mặt ta Sợ e tiếng gáy làm gà ghét nhau Chẳng thà trong cuộc bể dâu Cưa nhau chén rượu cho sầu chia hai…
Riêng đối với Phạm Thiên Thư thì tôi “quậy” theo kiểu bụi đời hơn. Năm 1980 tôi được nghỉ phép mặc đồ bộ đội rách xác xơ đi lang thang cùng Hoàng Linh qua đường Lý Chính Thắng (tức Yên Đỗ cũ). Hoàng Linh là bạn giang hồ của tôi, anh là con trai nhà văn Hoàng Ly và là em vợ Phạm Thiên Thư lúc đó. Anh giới thiệu tôi với Phạm tiên sinh đang mở tiệm hớt tóc và bỏ mối rượu ngay trên đường này.
Cuộc hội ngộ diễn ra y chang truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ngoài trời mưa tầm tã, bên trong tiệm Phạm tiên sinh ngừng hớt tóc cho vị thân chủ mặt mũi kỳ dị và kéo vị ấy ngồi xuống rót chai rượu màu xanh tiếp tôi và Hoàng Linh. Sau tuần rượu đầu đàm đạo về thơ, vị khách lạ đứng dậy chỉ vào mặt tôi và phán “tuổi Giáp ngọ phải không, sanh vào cuối tháng 9 âm lịch phải không, chào đời nửa đêm phải không?” Rồi ông ta đứng dậy bỏ đi một mạch. Lời phán của kẽ dị nhân khiến tôi hoang mang nhưng hai anh em Phạm Thiên Thư, Hoàng Linh chỉ khẽ gật gù khoái trá. Đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu dị nhân đó là ai và tại sao chỉ sau một quẻ Dịch ông ta lại biết ngày giờ năm sinh tháng đẻ của tôi trong khi cả bàn không ai biết. Hôm đó trong lúc cụng ly nghe Phạm tiên sinh thố lộ về cuộc đời trôi nổi lên voi xuống chó của ông làm tôi ngậm ngùi vô tận. Tôi thừa biết họ Phạm sở trường về thơ bốn chữ nên ứng khẩu tặng ông bài thơ cùng thể loại mà ông ưa thích. Bài thơ như sau :
GHẸO PHẠM THIÊN THƯ
Rượu Phạm Thiên Thư Thơ Bùi hiền sĩ Một chén càn khôn Đất trời túy lúy
Tưởng huynh tên “Thị” Nên mới vào chùa Dè đâu tửu sắc Cũng ghiền nam mô
Huynh giữ một bồ Chứa toàn thịt chó Ta giữ bồ kia Chứa toàn tín nữ
Vì huynh quân tử Như Nhạc Bất Quần Ta đành tiểu tử Như Điền Bá Quang
Tiếu Ngạo cung đàn Một gian lều cỏ Huynh mới bẻ gươm Ta còn mãi võ
“Đoạn Trường” hai chữ Huynh ngâm nát lòng “Vô Thanh” đâu chứ Cửa thiền huynh trông
Ta con nhà tông Giống lông giống cánh Quen ngủ chiếu rơm Dùng cơm khổ hạnh
Gặp chiều mưa lạnh Chén tạc chén thù Đem thơ tặng Phạm Đếch cần Thiên Thư !
Cũng trong thời gian đó tôi lang bạt rất nhiều nơi, làm quen với nhiều người, trong đó có thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết vô là tác giả tập thơ CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI nổi tiếng. Nguyễn Bắc Sơn có hẹn hò đâu với Trần Mạnh Hảo nên rủ tôi lên chung cư Hội Văn Nghệ số 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa lai rai ba sợi chơi. Khi đi, tôi có rủ thêm Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao là hai chiến hữu giang hồ cùng cạn chén tang bồng hồ thỉ.
Rượu vào lời ra. Tôi và Nguyễn Bắc Sơn thay phiên nhau khạc thơ chan chát. Có lẽ Nguyễn Bắc Sơn không ngờ tôi là một kẻ hậu sinh chưa hề có tên tuổi trước giải phóng mà khạc thơ quá đã, nên anh “bốc” liền một câu : “Thằng cha Bùi Chí Vinh này làm bài thơ nào cũng hay hết, nhưng thơ họ Bùi là Đồ Long Đao, còn thơ Nguyễn Bắc Sơn ta mới là Ỷ Thiên Kiếm”. Nguyễn Bắc Sơn đâu biết câu phát biểu đó vô tình làm “mồi” cho một bài thơ giai thoại về anh và tôi sau này. Bài thơ được tôi ứng khẩu tại chỗ như sau :
CÁCH NHẬU VỚI NGUYỄN BẮC SƠN
“Ta làm thơ bài nào cũng hay” Nghe gã Nguyễn Bắc Sơn nói thế Té ra gừng già ngươi chưa cay Ta chỉ hạt tiêu mà rơi lệ Làm thơ ta làm từ bụng mẹ Đợi ngươi nổi tiếng là ta sinh Sinh sau đẻ muộn giống Hạng Thác Cho người Khổng Tử đỡ hợm mình Sinh sau đẻ muộn giống chim hạc Cho đàn cò đói đỡ ăn đêm
Nhà ngươi bốc ta cứ như chưởng : Rằng thơ ta ngông như Tạ Tốn Câu trước câu sau Đồ Long Đao Vần dưới vần trên Ỷ Thiên Kiếm Đao kiếm dành cho bọn cường hào Có đâu đưa vào thơ bố trận Tại đời lắm muối nên thơ mặn Chứ thiết gì ta nghiệp võ công Kìa coi hoàng đế Quang Trung đó Đến chết còn ghê chữ má hồng
Tiếc rằng ngươi không là thiếu nữ Thiếu nữ bốc, ta thành vua Trụ Nhà ngươi bốc, ta thành bia hơi Uống say bọt bay hết lên trời…
Đối ẩm với Nguyễn Bắc Sơn tại nhà Trần Mạnh Hảo mà quên nhắc đến họ Trần thì quả là điều không phải phép. Khi tôi 15 tuổi tham gia phong trào sinh viên học sinh đấu tranh đô thị ở Sài Gòn thì bộ đội Trần Mạnh Hảo đã siết cò AK ở trong rừng. Ngay giải văn học TPHCM đầu tiên sau giải phóng 1976 – 1977 tôi và Trần Mạnh Hảo đã biết nhau khi anh đoạt giải thơ với tập TIẾNG CHIM GÕ CỬA còn tôi đoạt giải thơ với tập HẠNH PHÚC CÓ THẬT. Tôi với anh còn thân nhau bởi cùng đi lưu diễn đọc thơ các trường đại học cùng với Nguyễn Duy, Văn Lê, Nguyễn Nhật Anh. Phải nói thật tôi thân với Trần Mạnh Hảo hơn những nhà thơ ngoài Bắc khác một phần vì quê quán cha tôi thuộc tỉnh Nam Định, đồng hương với anh.
Trần Mạnh Hảo và tôi mỗi người đều tạo ra những sóng gió và dư luận riêng bởi cá tính và thơ của mình. Trong bàn nhậu đám đông, tôi và anh luôn luôn giữ vai trò chủ lực trong việc đọc thơ phục vụ bè bạn bằng thơ trí nhớ hoặc thơ ứng khẩu. Ai cũng khẳng định rằng tôi và anh đều có trí nhớ đặc biệt, thuộc lòng bất kỳ bài nào của mình viết ra, cho dù là viết giỡn chơi. Thậm chí giới giang hồ mỗi lần nghe tôi và anh đấu khẩu bằng thơ đều gọi là “Nam Chinh, Bắc Chiến”. Một lần ngồi dưới chân cầu Công Lý trước nhà chị Phương Huệ, có mặt khá đông bá tánh tín đồ Phật Giáo, Trần Mạnh Hảo đã cao hứng đọc oang oang bài thơ chinh phục thiên hạ. Bằng trí nhớ tôi chép ra đây sau một thời gian quá lâu hơn 20 năm, nếu có sơ xuất hoặc thiếu câu nào đoạn nào mong Trần Mạnh Hảo thông cảm :
PHÙNG PHẬT, SÁT PHẬT
Phùng Phật phải sát Phật Sát Phật, Phật quay về Ngộ rồi mà chưa ngộ Tỉnh tỉnh mà mê mê
Thúy Kiều vừa thành Phật Mười lăm năm tu hành Cõi tâm là cõi Phật Lầu không lầu không xanh
Phật tự thân người đẹp Không dưng, sao Phật Bà A Di Đà sát Phật Phật hóa thành đôi ta !
Tôi thấy tình hình căng quá bèn giải thoát cho các tín đồ Phật Giáo bằng bài thơ thức ngộ sau đây :
PHÙNG PHẬT, CỨU PHẬT
Trần Mạnh Hảo sát Phật Giữ lại mình Quan Âm Nói theo kiểu phàm tục Diệt dục mà sinh dâm Nói theo kiểu cờ bạc Úp Tây mà lật Đầm Nói theo Bùi hiền sĩ Muốn vậy chìa hai trăm !
Bao giờ cũng vậy, những cuộc đấu khẩu thơ giữa tôi và Trần Mạnh Hảo đều làm thiên hạ bật cười nhẹ nhõm tới bến sau khi thần kinh căng thẳng cũng tới bến. Anh em văn nghệ mà. Những người có khả năng khuấy đảo thiên hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay, tại sao lại không biết thương nhau bảo vệ nhau trước những cặp mắt cú vọ của đám tiểu nhân rình mò tâu hót ám hại.
Một giai thoại nữa có liên quan tới Trần Mạnh Hảo khi họ Trần dẫn theo hai vị chức sắc thuộc tỉnh Hà Nam Ninh đến Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo ăn nhậu và ra câu đối thách thức. Chuyện đó đã hơn 15 năm. Hôm đó tôi đang ngồi uống bia dưới gốc cây đa cùng với Nguyễn Quốc Chánh, Đoàn Vị Thượng … và nhiều anh em văn nghệ khác. Hai bên chào nhau và ráp bàn. Trần Mạnh Hảo tuyên bố “Có một câu đối chúng tôi ra vế mà từ Bắc vô Nam chưa ai đối được hoàn hảo về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu các bạn trong bàn giải được, chúng tôi cá độ một chầu nhậu thả giàn”.
Vế đối ra như sau :
“BATA đi giày vải”
Phải thú thật là vế ra quá độc. Bởi băng “Hà Nam Ninh” của Trần Mạnh Hảo gồm đúng 3 người, mà cả 3 đều đi giày vải, và giày vải đều mang hiệu BATA. Thế là anh em chiến hữu đều hướng mắt về phía tôi. Trong tình thế chỉ mành treo chuông, tôi gật đầu cái rụp. Sau 15 phút động não nhằm xác minh một đơn vị tiểu thủ công nghiệp mang tên “Đại Chúng” chuyên sản xuất dép râu ở Chợ Lớn, tôi hùng hồn đứng dậy đối lại như sau :
“ĐẠI CHÚNG lết dép râu”
Câu đối lại đã quá rõ ràng. Khi ba cán bộ đi giày Bata thì đám đông đại chúng nghèo khổ đành phải mang dép râu lết bánh. Thế là sau một hồi tranh cãi gọi điện thoại bàn xác minh cơ sở sản xuất dép lốp Đại Chúng có thật hay không thì băng Trần Mạnh Hảo đành phải chung độ chứ còn phải hỏi.
Cũng trong giai thoại về câu đối, nhân đây tôi nhắc chuyện này như một nén nhang thắp tặng linh hồn hai vị thuộc giới văn nghệ đã khuất. Đó là hai nhà thơ trào phúng Tú Rua và bác Cử Tạ vốn là hai nhân vật nằm trong hai câu đối của tôi. Chuyện xảy ra vào cuối thập niên 80 khi tôi và Lê Dụng (con trai cố nhạc sĩ Hoàng Việt) đến nhà Tú Rua chơi. Nhà thơ trào phúng Tú Rua vừa là chủ tiệm may đắt khách vừa là một cộng tác viên đắc lực của báo Văn Nghệ TP nơi Lê Dụng công tác. Trong lúc trà dư tửu hậu chén tạc chén thù ông chủ tiệm may Tú Rua cao hứng phán một câu “Nghe đồn Bùi Chí Vinh có khả năng ứng tác về ca từ thi phú cổ điển. Vậy ông có ngon làm hai câu đối nói về chí khí của Tú Rua tôi trong sáng như sao Tua Rua trên bầu trời đêm thì tôi sẵn sàng đãi ông và Lê Dụng suốt một ngày khắp các quán Sài Gòn”. Lời phán của Tú Rua như một tiếng sét đánh ngang mày. Mà đã là sét đánh thì nháng lửa và tung tóe như sao. Bất giác tôi liên tưởng đến bác Cử Tạ phụ trách mục “Ôn Cố Tri Tân” trên báo Long An cuối tuần thường hay bốc thuốc Đông Y ở khu Ông Tạ. Tôi nháy mắt với Lê Dụng như một nhân chứng vàxuất khẩu thành…hai câu đối như sau:
TÚ RUA “rua” SAO RUA CỬ TẠ tạ ÔNG TẠ
Tôi thấy Lê Dụng khoái trá còn Tú Rua lặng người. Trong ba từ “rua” của vế trên thì chữ “rua” thứ nhì là tiếng Pháp có nghĩa là “bắt tay”. Tương tự trong ba từ “tạ” của vế đáp thì chữ “tạ” thứ nhì thuộc tiếng Hán có nghĩa là “vái chào”. Và kết quả là chúng tôi say xỉn quắc cần câu như thế nào có lẽ các bạn cũng hình dung ra được.
Cũng trong thập niên 80 tôi thường xuống khu Ong Tạ giao du với gia đình nhà văn Lưu Ngũ và các hảo hớn anh chị sống ngoài vòng pháp luật ở khu vực đó. Lưu Ngũ xuất thân là cựu trung úy Biệt Động Quân của quân đội Sài Gòn sau giải phóng đi học tập cải tạo và trở thành nhà văn bất đắc dĩ nhờ đoạt giải văn học thành phố năm 1976 – 1977 với truyện dài VŨNG LẦY . Anh chán ghét chiến tranh đến mức độ chỉ muốn làm con người, nhưng làm con người giữa thời đại “bo bo” và “xuyên tâm liên” thì quả khó làm sao. Trong một đêm nhậu đã đời với những kẻ “Đảng nghi ngờ, nhân dân chú ý” chúng tôi đã đi lang thang trên đường phố chỉ toàn xe đò chạy bằng than, nhìn thấy những chiếc xích lô kiếp ngựa thồ mà phu xe toàn là cựu chiến binh bộ đội lẫn quân đội chế độ cũ, chúng tôi tiếp tục nhìn thấy những giọt lệ ứa ra từ các mệnh phụ phu nhân, các tiểu thư nghèo khổ phải “đứng đường” đón khách kiếm tiền độ nhật. Bài thơ SINH NGHI HÀNH mở đầu một giai thoại truyền khẩu sau này ra đời từ đó:
SINH NGHI HÀNH
Sinh nghi ta viết một bài hành Vợ nghi chồng, em út nghi anh Cha nghi con cái, bè nghi bạn Thủ trưởng thì nghi hết ban ngành Láng giềng dòm ngó nghi hàng xóm Ngoài đường nghi phố chứa lưu manh Ngay ta khi viết bài in báo Cũng nghi mình kiếm chác công danh Trời ơi, mọi chuyện sinh nghi thật Chén kiểu thường nghi kỵ chén sành
Thời buổi công hầu như chén cứt Thiếu chó, mèo ăn cũng rất nhanh Mèo ăn cho chó leo bàn độc Vừa sủa vừa nhai riết cũng rành Trẻ con khát sữa, ai cho bú Vú mẹ gầy, sâu rúc nồi canh Quang Trung bỏ núi Tây Sơn xuống Hoảng hốt vì gương vỡ chẳng lành Nguyễn Du chỉ một đêm dạo phố Đoạn Trường ngồi viết lại Tân Thanh Thúy Kiều phát triển nhiều như thế Thảo nào đất nước hóa lầu xanh Nhà tù phát triển nhiều như thế Kẻ sĩ làm sao dám học hành
Ta làm thơ mà lòng đứt ruột Suốt đời bao tử chạy loanh quanh Lãnh tụ nói “đói quên nghi kỵ” Ơn ấy ngàn năm sáng sử xanh
Trước khi tạm ngưng phần đầu bài viết GIAI THOẠI CỦA THI SĨ này, tôi thiết tưởng không có gì ý vị hơn khi nhắc đến một ông bạn phương xa là Nguyễn Lương Vỵ. Hồi còn ở trong nước chưa định cư ở Mỹ, Nguyễn Lương Vỵ sống cùng địa phương với tôi và những lúc buồn bã cô độc, anh thường ghé nhà rủ tôi nhâm nhi chén rượu quên sầu. Anh buồn vì một lý do cực kỳ giản dị : anh là một con người chứ không phải một con thú hoặc một cỗ máy. Thậm chí anh còn rung động nhanh hơn con người bình thường một bậc, bởi anh là… thi sĩ.
Nguyễn Lương Vỵ thường ngồi bứt tóc trong lúc đánh cờ tướng. Đánh xong bàn cờ là tóc anh rụng như mưa. Anh sống nửa dại nửa khôn nửa tỉnh nửa điên như thế nên phải tự giải thoát mình trong triết lý Phật Giáo. Mỗi lần say xỉn anh thường thuyết giảng cho tôi nghe về tiểu thừa đại thừa, về sắc sắc không không, về cõi luân hồi sát na sát khí… để cho tôi “choáng” mà bớt quậy. Nào dè tôi quậy còn tưng bừng hơn. Tôi có tặng anh bài thơ sau đây trươc khi anh sum họp gia đình bên Mỹ :
PHẬT SỐNG
Chư huynh bàn về tu luyện Đứa đại thừa, đứa tiểu thừa Đứa nào cũng sắp thành Phật Chỉ mình ta còn gươm khua
Đời này nói đến hơn thua Biết bao giờ cho hết chuyện Ta thấy chư huynh yêu chùa Cũng là tự thân bảo hiểm
Nhưng tu như vậy còn kém Biết khôn lựa gốc bồ đề Có người tu hang Pắc Bó Sau này thành Phật sướng ghê !
7 - 2008
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2014 3:28:46 GMT 9
thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc Nhìn lại tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc qua cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” Hàn Mạc Tử là một thi sĩ có tài. Ông sinh năm 1912, lớn lên bị bệnh nan y và qua đời năm 1940 khi người Pháp còn đô hộ Việt Nam. Thơ văn và những mối tình lớn nhỏ của ông tạo thành một biến cố văn học tại Việt Nam sau khi ông chết. Cả một thế hệ cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 bừng dậy vì những vần thơ trữ tình đầy nước mắt của ông. Nhất là những vần thơ thi sĩ dành cho bà Hoàng Thị Kim Cúc, người yêu trong mộng của ông. Năm 1939 thế giới chiến tranh bùng nổ. Năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp kéo theo cuộc cách mạng chống Pháp giành độc lập. Đất nước chia cắt. Sau đó là cuộc nội chiến khốc liệt, Nam Bắc thống nhất, dân tình phân ly, chia rẽ. Thế nhưng hiện tượng văn học Hàn Mạc Tử hình như không bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn chính trị tại Việt Nam. Trước chiến tranh, trong chiến tranh, và sau khi thống nhất, ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, trong nước cũng như hải ngoại giới văn học vẫn viết về Hàn Mạc Tử mà không hề bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp Quốc-Cộng. Trong đó có các nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Võ Long Tê và Nguyễn Đình Niên, Nguyễn Bá Tín … Và mới đây cuối năm 2013, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà Kim Cúc, người cháu gọi bà Cúc bằng cô ruột là bà Hoàng thị Quỳnh Hoa cho xuất bản cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” (nhà xuất bản Đà Nẵng – Hiệu sách Tường Tâm, Huế phát hành). Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” tiết lộ nhiều tư liệu liên quan đến mối tình Hàn Mạc Tử – Kim Cúc trước đây chưa được công bố do bà Kim Cúc chuyển lại cho bà Quỳnh Hoa trước khi qua đời tại Sài gòn năm 1988 do một tai nạn lưu thông. Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” thì sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, qua thơ văn được phổ biến, bà Kim Cúc biết tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho mình, nên bà đã thu thập và lưu giữ mọi tư liệu liên quan đến Hàn Mạc Tử. Bà Kim Cúc rất buồn phiền vì đa số sách hay các bài viết về mối tình của Hàn Mạc Tử đối với bà đều sai sự thật. Bà nghĩ những gì chung quanh Hàn Mạc Tử là chuyện văn học cần được đính chính, chưa nói đến cần được đính chính để giữ gìn uy tín của gia đình bà . Cá nhân bà từ năm 1971 từng biên thư cho các nhà văn nhà thơ viết không đúng về Hàn Mạc Tử. Và mấy chục năm sau bà nhờ giáo sư Võ Long Tê, ông Nguyễn Đình Niên, một giáo sư cùng dạy trường Đồng Khánh Huế, và cô cháu Quỳnh Hoa viết sách đính chính. Ông Võ Long Tê là người nhận được nhiều tư liệu do bà Kim Cúc gởi đến, nhưng vì một lý do nào đó sách ông hứa viết vẫn chưa ra đời. Ông Nguyễn Đình Niên thì bận việc dạy học và dịch kinh. Cuối cùng bà Quỳnh Hoa – như đã nói – đã thực hiện lời yêu cầu của người cô xấu số bỏ công nghiên cứu, viết và in cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” – LTCN. Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” nhà thơ Hàn Mạc Tử có tên là Nguyễn Trọng Trí, gốc làng Thanh Thủy, Thừa Thiên. Đầu thập niên 1930 ông là một công chức chập chững vào đời làm việc tại ty Đạt Điền Quy Nhơn. Năm 1932, cụ tham tá Hoàng Phùng, thân sinh cô Kim Cúc cũng được đổi từ Huế vào Ty Điền Địa Quy Nhơn. Cô Kim Cúc, một thiếu nữ xinh đẹp năm đó vừa tròn 19 tuổi đi theo thân phụ. Chàng thanh niên Nguyễn Mạnh Trí gặp cô Kim Cúc tại một hội chợ do chính quyền bảo hộ tổ chức hằng năm tại Quy Nhơn. Bị tiếng sét ái tình, Trí tìm cách tiếp xúc với cô, nhưng cô Kim Cúc, vốn thuộc gia đình giáo dục khắt khe, cô luôn tìm cách tránh né. Nhân Trí làm việc cùng sở với Hòang Tùng Ngâm, em con chú con bác với cô Kim Cúc nên đã thổ lộ tâm sự với bạn và nhờ bạn làm cánh nhạn đưa thơ. Nể bạn Ngâm nhận thơ nhưng không chuyển, nghĩ là không thích hợp với gia phong, và khuyên Trí nếu yêu cô Kim Cúc thì nên nhờ mai mối đi hỏi chính thức. Có ít nhất hai lần Hàn Mạc Tử tìm cách đón gặp cô Kim Cúc trên đường phố định ý đưa thư, nhưng cô Kim Cúc né tránh không tiếp chuyện, cũng không nhận thư. Về mai mối thì văn học không ghi lại gì rõ ràng hơn là câu chuyện mơ hồ đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử nhờ một người cậu đến nhà thăm ông cụ của cô Kim Cúc dọ ý, nhưng thấy không xong ông giả vờ để quên một bức thư Hàn Mạc Tử viết cho bạn kể lể sự thầm yêu trộm nhớ Kim Cúc của mình (LTCN – trang 62) Chuyện dạm hỏi này là nguyên nhân của lời đồn “gia đình Kim Cúc đã từ chối lời cầu hôn của Hàn Mạc Tử với lý do không môn đăng hộ đối” mà ông Quách Tấn đã viết trong số 73 báo Văn năm 1967 (LTCN – trang 28). Sự thật là, cô Kim Cúc theo đúng gia phong đất thần kinh của thời đại, nghiêm cấm phụ nữ tiếp xúc với phái nam nên cô không có một tình ý gì với Hàn Mặc Tử qua những cố gắng tiếp xúc làm quen và chuyện mai mối của người thi sĩ. Dư luận cho rằng Hàn Mạc Tử thất tình nên năm 1932 đã bỏ Quy Nhơn vào Sài gòn lập sự nghiệp. Đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử trở lại Quy Nhơn, và mấy tháng sau thì cô Kim Cúc theo thân sinh trở về Huế. Nổi thất vọng của Hàn Mạc Tử trở nên chất chứa. Năm 1937 Hàn Mạc Tử bị bệnh cùi, một chứng bệnh nan y. Ông đau khổ vì mối tình ôm ấp không được đáp lại, lại đau đớn vì cơn bệnh hành hạ thể xác, nhưng ông dấu bố mẹ vào nằm điều trị tại trại cùi Quy Nhơn và chỉ biết thổ lộ nổi lòng với người bạn thiết là Hoàng Tùng Ngâm. Bệnh càng nặng mối tình của Hàn Mạc Tử càng nóng bỏng và thơ của ông càng rung động lòng người đã giúp đưa Hàn Mạc Tử vào bầu trời vinh quang của văn học Việt Nam sau khi ông qua đời . Thương bạn, năm 1939 Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho chị Kim Cúc yêu cầu cô viết thư thăm hỏi Hàn Mạc Tử. Và cô Kim Cúc đã gởi một tấm bưu thiếp (carte postale) cô mua tại tiệm ảnh Tăng Vinh in hình một thiếu nữ chèo đò trên sông Hương với vài lời thăm hỏi, không đề ngày, không ký tên. Cảm động, Hàn Mạc Tử đáp lễ với bài thơ viết tay: Ở đây thôn Vỹ Giạ Sao anh không về chơi thôn Vỹ ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, Vườn ai mướt qua xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền Gió theo lối gió, mây đường mây; Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay . Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ? Có chở trăng về kịp tối nay ? Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ? Đầu thơ Hàn Mạc Tử viết mấy lời: Túc hạ, Có nhận được bức ảnh Bến Vỹ Dạ lúc hừng đông, hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến nghĩa năm xưa thì phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào đó được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho . Thăm túc hạ bình an và vui vẻ . Hàn Mạc Tử (ký) – (Xem bút tự của Hàn Mạc Tử – LTCN – trang 88 & 89) Ngày 11-11-1940 Hàn Mạc Tử qua đời tại trại cùi Quy Nhơn và chuyện tình của ông qua những bài thơ đẫm nước mắt, chứa đầy máu và trăng trở thành một đề tài lớn trong giới văn học khắp ba kỳ. Tuy không có quan hệ tình cảm qua lại gì trước với Hàn Mạc Tử, danh tiếng, thơ văn và mối tình phong kín đậm đà của Hàn Mạc Tử đã làm cho quả tim Kim Cúc rung động. Đáp lễ bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Giạ” (sau này giới văn học tự động viết lại chữ “Dạ” cho đúng chính tả) bà Kim Cúc chép lại bài thơ của Hàn Mạc Tử và viết một bài cảm tác cùng tên bên cạnh, với lời nhập đề: Ngày đầu Xuân đề tặng hương hồn anh H. M. Tử, người tài hoa bạc phận, một tâm hồn tha thiết yêu đương, và một cuộc đời vô cùng đau khổ. (LTCN – trang 91) Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ Thầm giữ trong lòng một ý thơ Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm . Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ ! Một mình một cõi với nước mây Với cả đau thương với hận này Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây. Hồn anh lẫn khuất tận mô xa, Hoa biết cùng ai thổ lộ ra Tuy sống giữa đời phức tạp ấy Ai biết tình ai vẫn đậm đà ! H.H. thôn nữ H. H. là Hoàng Hoa, một bút hiệu khác của bà Kim Cúc. Sau đây là thủ bút của bà Kim Cúc (LTCN – trang 91) Tháng 11 năm 1942 nhân lễ giỗ lần thứ hai của Hàn Mạc Tử, bà Kim Cúc đã viết một bài văn xuôi ca ngợi thành tích văn học của Hàn Mạc Tử trong đó bà cho rằng mộng thành danh của Hàn Mạc Tử đã thành: Âm dương đôi ngã làm sao nhắn Sự nghiệp trăm năm chí đã thành Trong bài văn xuôi này Kim Cúc tự cho là người thân của Hàn Mạc Tử cám ơn ông Quách Tấn đã hết lòng sốt sắng đối với Hàn Mạc Tử và ước mong rằng ông Quách Tấn sẽ nổ lực thu góp xuất bản thơ của Hàn Mạc Tử nhiều hơn nữa (LTCN – trang 104) Một năm sau cũng nhân lễ giỗ lần thứ ba của Hàn Mạc Tử bà Kim Cúc viết một tự truyện nhan đề: “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê”(LTCN – trang 107). Tự truyện được phóng tác dựa vào những tâm tình của Hàn Mạc Tử đối với cô Kim Cúc gởi cho bạn năm 1936. Người “Gái Quê” trong tự truyện chính là cô và cũng là nhan đề của tập thơ “Gái Quê” in năm 1936 của Hàn Mạc Tử trong đó chan chứa mối tình kín đáo của Hàn Mạc Tử dành cho cô. Lời văn của tự truyện ướt át không che dấu sự đáp ứng ân tình muộn màng của bà Kim Cúc dành cho Hàn Mạc Tử. Bà trích dẫn từng câu từng ý trong tập thơ “Gái Quê” để diễn lại cơn sóng lòng của Hàn Mạc Tử trong từng giai đoạn yêu đương của Tử mà bà không hề biết. · Chàng thơ thẩn vì yêu: “Tứ gió xuân đi gió hạ về Anh thường gởi gắm mối tình quê Bên em mỗi lúc trên đường cái Hóng mát cho lòng được thỏa thuê” Em có ngờ đâu trong những đêm, Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm, Anh đi thơ thẩn như ngây dại Hứng lấy hương nồng trong áo em (Trích “Âm thầm” – Gái Quê) · Chàng thất vọng quyết bỏ xứ “Quy Nhơn” vào miền Nam “xa ngút ngàn” để xây đắp sự nghiệp. Nước non muôn dặm tình đương nặng Sự nghiệp trăm năm chí chửa thành · Chàng trở về cũng để chỉ: …. Nép mình trong cánh cửa Hé nhìn dáng điệu của người yêu Bước đi ngượng ngịu trên đường cái Mỗi lúc ngang qua trước mặt lều. (Trích “Tôi không muốn gặp” – Gái Quê) · Chàng từng điên cuồng không kềm chế được khi nghe tiếng đàn trong nhà Kim Cúc vọng ra: Đêm nay ta lại phát điên cuồng Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng Đứng rũ trước thềm nghe ngóng mãi Tiếng đàn the thé ở bên trong (Trích “Tình thu” – Gái Quê) Qua tự truyện “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê” Kim Cúc viết “về sau lâu lắm có lẽ những nén hương tâm chàng đốt chân thành quá nên đã kinh động đến lòng người thiếu nữ vô sự kia …. Nhưng mà đáng buồn cho thi sĩ, thiếu nữ vẫn không thể làm thỏa lòng chàng được…”. Cô Kim Cúc không giải thích tại sao tim cô đã kinh động mà cô không thể đáp trả. Phải chăng gia đình cô không thuận như tin đồn và ông Quách Tấn đã viết năm 1967 và năm 1971 cô Kim Cúc đã yêu cầu đính chính, nhưng 17 năm sau (1988) khi xuất bản cuốn “Đôi nét về Hàn Mạc Tử” ông Quách Tấn vẫn giữ nguyên đoạn đó (LTCN – trang 28). Theo “Lá Trúc Che Ngang”, trong những điều chuyện thêu dệt chung quanh mối tình Hàn Mạc Tử – Kim Cúc, bài viết “Ba mối tình của Hàn Mạc Tử” của ông Kiêm Đạt đăng trong một tờ Phụ Nữ Diễn Đàn năm 1985 tại Nam California là có tính thêu dệt nhất (LTCN – trang 181). Ba mối tình ông Kiêm Đạt nói đến là ba mối tình với Mộng Cầm, Thương Thương và Kim Cúc. Theo bà Quỳnh Hoa, nội dung bài viết của ông Kiêm Đạt hoàn toàn không đúng sự thật, nhất là khi ông viết rằng giữa Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc đã có “những ngày yêu thương cuồng nhiệt”. Cuốn“Lá Trúc Che Ngang” có một đặc điểm. Nó không làm cho “chuyện tình của cô tôi” thêm hoang đường mà chỉ có mục đích trả lại sự thật cho văn học. Sự thật đó là: Có một mối tình giữa nhà thơ Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc. Nhưng nó không ướt át hai chiều như các cây bút nổi tiếng thời đó và sau này tô vẽ. Nó là mối tình của Hàn Mạc Tử đối với một người thiếu nữ xuân sắc đang tuổi dậy thì trong khung cảnh thơ mộng của thành phố biển Quy Nhơn. Nàng biết, nhưng lễ nghi ràng buộc không cho phép nàng đáp lại. Rồi để nó đi qua như nước chảy qua cầu, cho đến khi nhà thơ yểu mệnh năm 28 tuổi. Và cơn bão văn học sau đó đã làm động lòng người thiếu nữ một thời chưa dám yêu . Cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi”của bà Quỳnh Hoa là một đóng góp lớn cho văn học. Nó cho thấy trước khi Hàn Mạc Tử chết đó là mối tình một chiều. Bà Kim Cúc chỉ viết một tấm thiệp nhỏ an ủi người bệnh và thi sĩ đáp lễ bằng một bài thơ. Ngoài ra hai người chưa từng trao đổi một lời qua lại. Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” giúp cho những ai viết về Hàn Mạc Tử sau này có những tư liệu chính xác . Nhưng còn một câu hỏi cuốn “Lá Trúc Che Ngang” không có câu kết luận: Bà Kim Cúc không lấy chồng, tu tại gia, sống một cuộc đời ăn chay niệm Phật có phải vì cô đã yêu và sống vậy để đáp ân tình người đã khuất không? Bài thơ cảm tác đáp bài “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và trong tự truyện “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê” tình yêu muộn màng của bà Kim Cúc đối với Hàn Mạc Tử đã thể hiện rõ nét. Trong cái khung văn hóa của đất thần kinh thập niên 1940, một người con gái chưa chồng đặt bút xuống với nội dung và cách hành văn đó là một nhìn nhận “công khai và minh bạch” quả tim mình đã có chủ bởi một người đã khuất. Cho nên nếu bà Kim Cúc ở vậy cũng không phải là một điều ngạc nhiên. Nhờ bà Kim Cúc kho tàng thi văn Việt Nam thêm phong phú nếu chỉ nói đến bài thơ “Ở đây thônVỹ Dạ” và tập “Gái Quê”. Cuộc đời ở vậy của bà Kim Cúc đã làm cho văn học sử Việt Nam có thêm một thiên tình sử cực đẹp. Và cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” đã giúp làm nổi bật nét đẹp hiếm có này./. March 14, 2014 Trần Bình Nam ************************************* GIẢI MÃ “BÍ ẨN” CUỘC TÌNH HÀN MẶC TỬ & MỘNG CẦM Trong một lần may mắn được gặp nữ sĩ Mộng Cầm, tác giả bài báo đã được nghe bộc bạch những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm. Từng ngâm nga thơ Hàn Mặc Tử, từng nghe chuyện tình của Hàn thi sĩ với Mộng Cầm, rồi từng nghe đi nghe lại ca khúc “Hàn Mặc Tử”của Trần Thiện Thanh, bất ngờ vào mùa hè năm 1997, tôi lại có dịp ngồi cạnh “người đẹp của thi nhân”, nơi một quán cà phê sân vườn mang tên Mộng Cầm. Quán là một căn nhà lợp tranh, cạnh đại lộ Nguyễn Văn Linh, khu Nam Sài Gòn, xung quanh có nhiều ao bèo thả cá để khách có thể vừa câu cá vừa nhâm nhi cà phê. Chủ quán là đôi vợ chồng bác sỹ Mộng Đào và Phạm Thiên Bê, con gái và con rể của bà Mộng Cầm. Đây thôn Vĩ Dạ, một vết cứa đâm tim Người ta chỉ mới được biết về mối tình lãng mạn của Mộng Cầm – Hàn Mặc Tử qua sách báo. Nhưng bên cạnh mối tình đẹp như mơ ấy, còn có một đời thường với rất nhiều bí ẩn. Mộng Cầm- Huỳnh Thị Nghệ, người thiếu nữ trong mộng ngày xưa ấy của Hàn Mặc Tử, trước mặt tôi bây giờ là một cụ bà ở tuổi tám mươi. Tuy vậy, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét kiêu sa. Thốt nhiên bà mở lời: “Vào tuổi này rồi chẳng còn gì để giấu”. Rồi bà kể như từng phân đoạn hồi tưởng, qua hơi thở có khi hụt hẫng, đứt quãng, dường như là những lời sám hối, tiếc thương. Quê Mộng Cầm ở Phan Thiết, gần lầu Ông Hoàng nhưng thân sinh bà lại ra làm việc tận Nghệ An. Và ngày 17/7/1917, bà được sinh ra ở đó nên mới có tên “cúng cơm” là Huỳnh Thị Nghệ. Thì ra, tên Nghệ là do sinh ở Nghệ An. Sau đó bà được gửi về trọ ở nhà ông cậu ở Phan Thiết học trường Pline Exercices. Mộng Cầm là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu nên bà cũng có “máu thơ văn”. Tên Mộng Cầm xuất hiện từ khi bà làm thơ gửi đăng báo. Qua những vần thơ trên báo, Hàn Mặc Tử đã tìm đến làm quen, bày tỏ tình cảm với bà qua bài Muôn năm sầu thảm, với câu mở đầu “Nghệ hỡi Nghệ”…Bài thơ ấy, bà Mộng Cầm vẫn thuộc nằm lòng từ đó đến nay. Hàn Mặc Tử là tình yêu đầu đời của bà. Bà nhìn ra bầu trời tím hoàng hôn ngoại ô Sài Gòn hồi tưởng… Một mùa hè, năm xưa, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Phan Thiết thăm Mộng Cầm. Hàn hỏi ở đâu có cảnh đẹp thì đưa anh đi thăm cho biết. Mộng Cầm đã đưa Hàn Mặc Tử lên lầu Ông Hoàng. Đó là một ngọn đồi thấp, nhưng lên đó vào những đêm trăng tỏ, có thể nhìn thấy Mũi Né và thị xã Phan Thiết mờ ảo, lấp lánh đèn hiệu hay đèn ghe chài như những viên kim cương khổng lồ. Nào ngờ, đây lại là lần đi chơi sau cùng của hai người. Hàn Mặc Tử ra Huế, sau đó vào Quy Nhơn, điều trị bệnh phong ở bệnh viện phong Quy Hòa, và mất ở đó . Tại sao Hàn Mặc Tử lại ra Huế? Bây giờ thì Mộng Cầm nói hết những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm. Đó là Hàn Mặc Tử có mối tình đầu với một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc. Thân sinh của Hoàng Cúc làm quan chức trong Sở Đạc điền ở Quy Nhơn. Sau khi biết Hàn Mặc Tử theo đuổi con gái mình, do không thích văn nhân, thi sĩ nên ông đã tìm cách đưa Hoàng Cúc về Huế. Thế là Hàn Mặc Tử ra Huế tìm và sau đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ này tuyệt hay nhưng Mộng Cầm lại ghét cay, ghét đắng… Bà trải các câu thơ ra và dằn hơi từng tiếng, khác với các nghệ sĩ ngâm thơ ngọt ngào. Và dằn cho đến câu cuối. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Lá trúc che ngang mặt chữ điền…” Không biết lần này ra Huế, Hàn có tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu như lần trước, hồi cuối năm 1931, khi còn là Phong Trần hay không? Bấy giờ thi sĩ mới 19 tuổi, tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, giữa vòng vây của mật thám Pháp. Do trước đó, từ năm 1930-1931, Hàn đã nổi tiếng với bút hiệu Phong Trần là nhờ lời giới thiệu của cụ Phan. Lúc bấy giờ cụ Phan bị Pháp bắt an trí ở Huế. Cụ lập Mộng Du thi xã với mục đích quy tụ những nhà thơ yêu nước, Hàn Mặc Tử gửi đến thi xã 3 bài thơ yêu nước là Thức khuya, Chùa Hoang và Gái ở chùa (sau in lại trong “Lệ Thanh thi tập”). Mở đầu bài “Thức khuya” có câu: “Non sông bốn mặt ngủ mơ màng/Thức chỉ mình ta dạ chẳng an…” và được cụ Phan rất tán thưởng “…Từ ngày về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế…Ước ao có ngày gặp gỡ”. Cụ đã họa lại và cho đăng báo. Bài họa bài “Thức khuya” mở đầu: “Chợ lợi trường danh tí chẳng màng/Sao ăn không đặng ngủ không an…” Ngoài Hoàng Cúc và Mộng Cầm ra, Hàn Mặc Tử còn có hai người tình nữa là Mai Đình nữ sĩ và Ngọc Sương, chị gái của thi sĩ Bích Khê. Mối tình của Mai Đình nữ sĩ không sâu đậm, chỉ là “tình văn chương”, còn với Ngọc Sương thì như ngọn gió mát thoảng qua đời Hàn mà thôi (theo Quách Tấn, một người bạn thân thiết của thi sĩ). “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu” Mối tình của Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm chẳng đi đến đâu. Mộng Cầm bộc bạch: Với hai lẽ, một là bà là con nhà phong kiến, cha mẹ luôn cản trở bà lấy một người Công giáo, lại là văn nhân, thi sĩ. Nhưng quan trọng hơn là lúc ấy bà quá thương Hàn Mặc Tử. Theo bà hiểu thì người bị bệnh phong gần đàn bà sẽ rất mau chết. Vì vậy, bà cố tránh để Hàn Mặc Tử mau chóng bình phục, sau đó sẽ liệu lần với cha mẹ. Nhưng tiếc là Hàn không qua khỏi… Bây giờ người đọc thấy những vần thơ hai người viết cho nhau rất thắm thiết, nhưng thật sự cho đến lúc Hàn Mặc Tử mất, giữa Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử không hề có chuyện gần gũi. Thời ấy, mới cầm tay nhau là đã run lắm rồi. Sau này nhớ lại những kỷ niệm với cố nhân, Mộng Cầm có bài thơ “Kỷ niệm Hàn Mặc Tử ở lầu Ông Hoàng”, một bài thơ chưa bao giờ phổ biến, được bà chép tay, nét chữ đã phai màu, trao cho tôi.: Sương sa trong lúc hoàng hôn Đường lên dốc đá sáng dần bể xanh Triều dâng con nước mênh mông Chuông chùa văng vẳng tiếng lòng xôn xao Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu? Hồn xưa anh mất cảnh gieo sầu Mây mù phủ kín vòng bình địa Căm hờn tháp cũ cuộc bể dâu Thật cảm động, như một chiều tình cờ được nghe thơ nhạc giao duyên, vì khi bà Mộng Cầm ngâm nga: “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu” thì cô con gái, bác sỹ Mộng Đào mở lớn nhạc bài “Hàn Mặc Tử“. Sau khi Hàn Mặc Tử mất, Mộng Cầm lập gia đình và sinh được 7 người con. Người bạn đời của bà cũng biết rõ mối quan hệ của bà với Hàn Mặc Tử nhưng vẫn tôn trọng nhà thơ quá cố. Con gái lớn của bà là Mộng Đào, là bác sĩ, đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm trước, Thành phố mới Nam Sài Gòn được khai hoang trên đồng phèn, Cảnh chiều buồn vắng vẻ, khi tiễn chân tôi ra cổng, bà níu tay tôi dặn dò: “Anh coi có bạn bè nhạc sỹ, nhờ phổ bài thơ này ra bài hát dùm tôi”. Ngày 23/7/2007, bà Mộng Cầm qua đời tại số nhà số 300, Trần Hưng Đạo, Phan Thiết. Theo lời trăng trối của bà Mộng Cầm, cô con gái Hồ Mộng Đức đã mai táng bà trên lưng đồi lầu Ông Hoàng. Và lầu Ông Hoàng từ lâu đã đi vào tâm thức bao thế hệ khi nghe những bài hát về mối tình lãng mạn này, như Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm Ca… và cả bài ca vọng cổ Tâm sự Mộng Cầm… Thế mà đến nay tôi vẫn chưa nhờ ai phổ nhạc bài thơ “Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?” của bà được. Tác giả Lê Văn Sâm (2012)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2014 17:04:09 GMT 9
Thi sĩ Đinh Hùng và, ngôi nhà cuối cùng, nơi ông đã ở. (Kỳ 1) (06/25/2011 08:55 AM) (Xem: 17281) Đinh Hùng, một vì sao bắc đẩu, Du Tử Lê. LNĐ: Ký sự văn nghệ dưới đây của nhà thơ Du Tử Lê, viết về thi sĩ Đinh Hùng, được trích từ tác phẩm “Năm Sắc Diện, Năm Định Mệnh” do nhà Tao Đàn Saigon, ấn hành tháng 6 năm 1965. Họ Lê viết bài này năm 1964, cách nay đúng 47 năm. Nhận thấy bài viết còn nhiều lỗi chính tả, cũng như cách sắp xếp các tiết mục, chú thích không thống nhất, nên chúng tôi đã xin phép tác giả để biên tập lại. Công việc hoàn tất vào cuối tháng 6 năm 2011. Khi đánh máy lại từ sách, bài viết dài tới trên 30 trang. Do đó, chúng tôi quyết định chia làm nhiều kỳ, để bạn đọc và thân hữu dễ theo dõi. Cũng với sự cho phép của tác giả, chúng tôi cho bài viết những nhan đề mới. Nhân đây, chúng tôi cũng xin được cám ơn nhà thơ Thành Tôn, người đã cho lại chúng tôi, tập sách này. Trân trọng, Ban Biên Tập dutule.com ---------------------- Thi sĩ Đinh Hùng và, ngôi nhà cuối cùng, nơi ông đã ở. (Kỳ thứ nhất.) Cảm nghĩ của tôi về Đinh Hùng trước khi được tiếp xúc với ông, ở hai trạng thái thật dị biệt. Ngày còn cắp sách đến trường, cũng như mọi cậu học trò mê thơ văn, tôi tìm gặp Đinh Hùng trong những bài thơ đăng rải rác trong các báo, qua những bài báo, những tập sách loại phê bình văn học nghệ thuật… Tôi đã vẽ trong trí tưởng tượng thơ ngây, non nớt của mình, hình ảnh một chàng lãng tử ngơ ngác giữa giòng đời mà, hành trang chỉ là những mộng ảo, những ước mơ dang dở, những trăng gió bướm hoa, những thiên thai bồng đảo. Và võ khí tự vệ của ông, chỉ là tấm lòng đắm đuối, thiết tha không tưởng về một thiên đường đã mất. Tôi nghĩ về ông bằng khuôn dáng lý tưởng đó. Tôi nghĩ đời sống ông giống như đời sống của trích tiên, ngày đêm mơ mộng tiêu dao. Tôi cũng nghĩ, người thi sĩ đó phải là người có nhân dáng thư sinh, khoan thai, dịu đàng, tâm hồn không bao giờ phải rộn phiền thế cuộc… Rồi khi lớn lên, tập tễnh làm văn nghệ, mỗi khi viết được một bài thơ, một đoạn văn đắc ý, tôi sung sướng, rộn ràng gò lưng chép lại, nắn nó t từng chữ từng nét (mặc dù càng nắn nót, chữ của tôi càng thêm xấu,) xong gửi tờ báo tôi thích. Lúc này, tôi bắt đầu giao thiệp với vài bạn đồng sở thích. Họ kể cho tôi nghe rất nhiều điều xấu xa về Đinh Hùng. Như một người bị tình phụ, tôi bắt đầu có ý nghĩ không tốt về ông. Hình ảnh đẹp về một Đinh Hùng, thi sĩ, như một con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư trong mùa thu buồn thiếu phụ đã không còn. Nó nhường chỗ cho vóc dáng một ông cai thầu văn nghệ…Cũng từ đó, tôi rất bực dọc mỗi khi đọc thơ ông. Tôi nghĩ ông không chỉ tự lừa dối ông mà còn lừa dối mọi người, khi hạ bút viết những bài thơ bàng bạc ý nghĩa khinh mạn cuộc đời. Những bài thơ chan chứa tình người phảng phất nét siêu hình đông phương, hay u hoài chua xót, như những hạt lệ còn vướng đọng trên mi người trinh nữ vừa vuột mất thiên đường trong giấc mộng. Tuy vậy, tôi chưa hề biết mặt ông. Cũng như tôi chưa hề biết cuộc sống thực của ông ra sao. Những cảm nghĩ phức biệt, những hình ảnh trừu tượng cứ dềnh lên trong trí tôi mỗi khi nghĩ tới ông… Mỗi khi tiếng nói đầy giai điệu từ đài phát thanh vang vọng đến tận đáy tâm hồn tôi. Những giây phút đó, tôi nghĩ không lẽ một con người có giọng nói đầy tình cảm, quyến rũ như thế lại có thể, xấu xa thủ đoạn vậy sao? Không lẽ với cả một “Mê Hồn Ca”, lại không mang một chút sắc diện tâm hồn tác giả? Tôi băn khoăn tự hỏi, phải chăng những người bạn văn nghệ của tôi đã quá chủ quan, thiên vị, bất công, hay ghen tức với tài hoa của một thi sĩ khởi nghiệp thi ca từ tiền chiến, mà hôm nay lại càng chói lọi hơn. Những mâu thuẫn đó càng ngày càng xui khiến, thôi thúc tôi tìm đến ông để nhận diện gương mặt tâm hồn đích thực của ông. Một khuôn mặt không sơn vẽ, không son phấn giai thoại! Tôi có quen biết vài người thường giao thiệp với ông. Nhưng vì tự ái, vì mặc cảm mình chưa có “một cái gì” cho nên không bao giờ tôi thổ lộ điều ao ước đó với họ. Hơn nữa, giữa tôi và ông, cũng như giữa tôi và những người nổi tiếng khác, tôi vẫn thấy dường có một sự cách biệt (mơ hồ thôi) nhưng rất lớn. Dù khâm phục hay không, với tôi, họ vẫn là một thế giới mà tôi khó với tới. Tâm lý này, thực ra, cũng không là điều gì khó hiểu. Bởi chính cá nhân tôi, dù không là gì, mà đã có người bạn mới, sau buổi gặp lần đầu, đã thành thật, nói rằng, “hồi chưa biết mặt ông, tôi cứ tưởng ông ghê gớm, thần thánh lắm, hóa ra… cũng như mọi người.” Hay, “tôi tưởng anh to lớn già dặn lắm, ai ngờ lại rất nhỏ bé…” Vì thế, ngày này qua ngày khác, hình ảnh thi sĩ Đinh Hùng luôn biến đổi trong trí tưởng tôi. Khi thì đó là hình ảnh một Đinh Hùng lộng lẫy. Lúc khác, lại là một Đinh Hùng xấu xa, tùy những giai thoại tôi được nghe về ông. Mãi cho đến khi tôi in xong tác phẩm đầu tay, tôi mới nhờ T.P đưa lại nhà để tặng sách; với hàm ý muốn nhờ ông giới thiệu trên ban Thi Văn Tao Đàn của ông. Lần đó chúng tôi không gặp. Cách một tuần sau, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, nhưng khoảng đầu tháng Ba, 1964, chúng tôi trở lại. Căn nhà ông ở là một trong ba căn lầu liền nhau, có lối thang đi riêng, nằm ngay ngã ba TQK và NVT. Sau khi gõ nhẹ cánh cửa khép kín. Lắng tai, bên trong không một tiếng động. Tôi đã thất vọng. Nhưng đúng lúc ấy, cậu con trai đầu của ông ra mở cửa. Cảm giác đầu tiên của tôi là cái cảm giác ngơ ngẩn, lạc lõng trước khung cảnh lạnh lẽo, tối tăm của căn phòng ẩm mốc. Bốn bức tường nâu đã ngả mầu đen xám. Tôi nghĩ ít nhất căn nhà này cũng có tới trên 10 năm chưa một lần được tu bổ. Đối diện với cửa chính, trên tường cao là một trang thờ khá to, màu đỏ xẫm.Hình như đây là bàn thờ Phật. Hai bên bàn thờ là những câu đối viết trên giấy điều. Dưới chân tường một đống sách được gói ghém cẩn thận, phủ lên bởi tấm giấy dầu. (Sau này tôi được biết đó là mấy trăm cuốn thơ “Đường Vào Tình Sử!”) Bên tay phải là một tủ kính nhỏ. Loại tủ kính tôi nghĩ dùng để bày tách chén thì hợp lý hơn là để những cuốn sách đủ loại tây, tàu, ta, truyện, thơ, biên khảo ngổn ngang… Trên mặt tủ kính, gia chủ bày một bát hương, hai tấm ảnh, cụ bà, cụ ông. Có lẽ là song thân của thi sĩ. Bát hương còn trơ vài chân nhang lạnh. Đối diện với cái tủ kính này là căn buồng nhỏ. Giống như một nhà bếp. Với chiếc bàn gỗ, trên bày bừa bãi ít bát chén ly tách. Phía trái cửa chính để chiếc bàn tròn, kê sát góc nhà. Một bên kê một chiếc ghế. Bên kia ba chiếc. Đó là bộ salon, loại gỗ trơn. Một chiếc màn gió ngăn với phòng bên cạnh. Nếu không nhìn kỹ, ta có cảm tưởng tấm màn mầu vàng, kỳ thực nó thuộc loại vải sọc. Sở dĩ tôi dài giòng như vậy, là để bạn có thể hình dung một cách rõ ràng “phòng văn” của một thi sĩ tiếng tăm đã và đang lừng lẫy trong văn giới. Thú thực, tôi không thể ngờ căn nhà ông lại hoang vắng, tẻ nhạt, tiêu sơn đến thế. Cái nghèo quá rõ! Làm sao che đậy được khi các đồ vật đều mang dấu vết tàn phai của thời gian, của bụi bám thảm đạm. Cảnh trí này theo tôi, đã nói lên một phần nào bản sắc tâm hồn ông: -Coi thường đời sống vật chất. Không điểm trang chưng diện. Không dấu diếm. Cái vô trật tự không làm dáng, không giả tạo ngụy trang, thật thơ, thật đáng mến. Một tình cảm dịu nhẹ, hơi buồn (nhưng không hẳn là buồn), hơi bùi ngùi (nhưng không hẳn là xót xa) trải đầy tâm hồn tôi. Tôi không muốn nhìn lâu hơn những đồ vật trong căn phòng ấy. Một lát, Đinh Hùng từ phòng bên đi ra. Dáng dấp ông vội vàng, hấp tấp. Chiếc quần ngủ mầu nâu nhầu nát. Chiếc áo sơ mi dài tay trắng tinh, nút vàng chưa kịp cài. Tóc dài để xõa hai bên tai, như đôi cánh của một con gà sau cơn xáp chiến, rũ xuống xác xơ mệt mỏi. Ông dùng cả hai tay vuốt tóc, rồi bắt tay chúng tôi với nụ cười cởi mở, duyên dáng nở trọn. Sau khi nghe T.P giới thiệu, ông nhìn tôi và nói: - À, à, hay quá, hôm nay mới được gặp anh đây. Ông đưa tay ra dấu mời chúng tôi ngồi rồi vồn vã hỏi thăm về đời sống của T.P và tôi. Ông nói giọng nhanh, âm thanh reo vui ròn rã. Ông kể lại, trong quá khứ, ông đã chọn một số thơ dăng trên báo của tôi, cho cho ngâm trong ban Tao Đàn. Khi người con đem bình nước ra, ông trở vào phòng bên tìm cuốn “Đường Vào Tình Sử” tặng cho T.P. Cuốn sách được đề tặng cho T.P từ năm 1961 nhưng chưa có dịp gửi. Ông nói sẽ soạn một số sách tặng tôi sau. Cử chỉ, lời nói, nét mặt ông bộc lộ rõ cái chí tình, không kiểu cách, không đỏm dáng, làm tôi quên bẵng bao nhiêu thành kiến không đẹp về ông. Tôi có cảm tưởng như gần gũi và quen biết ông thuở nào rồi. Cái ý tưởng cần phải đề phòng, thận trọng không còn nữa. Điều ức đoán của tôi về ông hoàn toàn sai lạc. Tôi cảm động và lúng túng không biết nên nói gì! Từ đó tất cả những câu chuyện dĩ vãng được nhắc nhở lại. Nào là chuyện cách đây 10 năm T.P đến nhậu nhẹt tại nhà ông, say quá phải ngủ lại, tới chuyện in tập thơ “Đường Vào Tình Sử”. Thời gian ông làm cho các báo. Xen lẫn là những câu thăm hỏi về đời sống riêng của tôi cũng như những câu tôi hỏi có tính cách tra vấn về một số điều tiếng mà ông đang phải gánh chịu. Chính trong cuộc nói chuyện này, tôi được biết thêm nhiều sự thực đau lòng. Nhiều sự thực khó ai có thể tưởng tượng. Vậy mà nó có! Ông cũng cho biết hồi ông làm tờ tuần báo Người Việt Tự Do, phụ trách trang thơ, phải đọc nhiều, ông đã thực hiện một chương trình phát thanh đặc biệt dành riêng để giới thiệu thơ của ba người là Bùi Giáng, tôi và một người nữa. Đại ý ông nói, đó là ba người mà thơ của họ ít nhiều có sắc thái cá biệt, khó chìm lẫn. Chương trình này thâu xong thì xảy ra cuộc chỉnh lý: Tướng K, lật tướng M. Nên đài không cho phát… Buổi chiều tàn lúc nào chúng tôi không hay, đèn đường khu Tân Định đã bật sáng. Hai tiếng rưỡi trò chuyện cởi mở qua quá mau. Chúng tôi từ biệt ông, sau cái xiết tay thân mật lời dặn dò ân cần nhớ lại chơi… Hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được về ông trong buổi gặp đầu tiên này là hình ảnh của một thi sĩ tên tuổi, với hai thứ tóc trên đầu, và một thân xác héo khô, nhỏ bé, mất hút trong chiếc cầu thang hẹp xoáy trôn ốc. Trên đường về, T.P nói thêm với tôi về cái nhiệt tình của Đinh Hùng. Nhưng tôi biết trong chúng tôi, mỗi người đều ẩn chứa một cảm nghĩ riêng tư. Ở tôi là cảm nghĩ định mệnh mới khắt khe, cay nghiệt làm sao cho một thân tằm nhả tơ trong một đất nước có gần năm ngàn năm văn hiến, nhưng nghèo nàn, chậm tiến. Một đất nước chỉ dư thừa chiến tranh điêu tàn, khốn khổ. Một đất nước chỉ thừa máu xương, nước mắt. Biết đến bao giờ? Chừng nào? Bóng tối xã hội mới thôi bủa vây những con người tự nguyện hiến dâng đời mình cho văn chương nghệ thuật, như Đinh Hùng. Để ít nhất trong những tháng, năm chót của cuộc đời, họ còn được thấy ánh sáng vinh quang, và cũng ơn nghĩa hiến tặng của quần chúng đương thời!!! Du Tử Lê Đinh Hùng, tiểu sử (Kỳ 2) 07/02/2011 LNĐ: Ký sự văn nghệ dưới đây của nhà thơ Du Tử Lê, viết về thi sĩ Đinh Hùng, được trích từ tác phẩm “Năm Sắc Diện, Năm Định Mệnh” do nhà Tao Đàn Saigon, ấn hành tháng 6 năm 1965.
Họ Lê viết bài này năm 1964, cách nay đúng 47 năm. Nhận thấy bài viết còn nhiều lỗi chính tả, cũng như cách sắp xếp các tiết mục, chú thích không thống nhất, nên chúng tôi đã xin phép tác giả để biên tập lại. Công việc hoàn tất vào cuối tháng 6 năm 2011.
Khi đánh máy lại từ sách, bài viết dài tới trên 30 trang. Do đó, chúng tôi quyết định chia làm nhiều kỳ, để bạn đọc và thân hữu dễ theo dõi.
Cũng với sự cho phép của tác giả, chúng tôi cho bài viết những nhan đề mới.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin được cám ơn nhà thơ Thành Tôn, người đã cho lại chúng tôi, tập sách này.
Trân trọng,
Ban Biên Tập dutule.com Đinh Hùng tiểu sử và, giao tình với nhà văn Thạch Lam. Thi sĩ Đinh Hùng sinh ngày 3-7-1920 tại làng Trung Phụng, ngoại ô thành Hà Nội. Ngôi làng này nằm ngay sau lưng khu phố Khâm Thiên. Những ai đã từng ở Hà Nội, đều công nhận Khâm Thiên là khu ăn chơi nổi tiếng nhất. Đây là nơi tập trung các nàng ca kỹ tài sắc bốn phương. Gia đình ông thuộc giai cấp trưởng giả. Thân phụ ông sinh được sáu người con, hai trai bốn gái. Ông là con út. Theo tập tục, cũng như theo tâm lý, người ta thấy hầu hết những đứa con út trong gia đình thường được nuông chìu (quan niệm giàu con út, khó con út) và sớm phát triển các tình cảm, kinh nghiệm trênn nhiều bình diện hơn các anh chị. Vì ngoài sự được chăm chút, nâng niu của cha mẹ, con út còn được tiếp nhận những tình cảm, những kinh nghiệm trên nhiều bình diện phức tạp từ nơi anh chị. Đinh Hùng cũng rơi vào định lệ đó. Hơn nữa, ông còn được thừa hưởng giòng máu hào hoa, nghệ sĩ của thân phụ. Thuở đó, thân phụ ông là một trong những khuôn mặt thân quen, một khách chơi thường trực của khu phố Khâm Thiên. Không chỉ thế, thân phụ ông còn đem cả cô đầu về nhà, tổ thức thù tạc với bạn hữu thâm đêm, suốt sáng. Do đó tuổi thơ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí ẩm ướt tiếng ca, câu hò, tiếng sênh, tiếng phách. Trí óc non nớt của ông đã sớm in hằn thanh sắc của những nàng Kiều xóm Khâm Thiên, cùng cốt cách phong lưu tài tử của những tay ăn chơi lịch lãm. Cái cảnh trí mộng ảo quyến rũ mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương (cũng là anh rể của ông sau này,) đã ghi lại trong bài “Nghe Hát” “Phách ngọt, đàn say nệm khói êm tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm canh khuya đưa khách lời reo ngọc mơ gác tầm dương thoảng áo xiêm dù lạ nghìn thu xa tám cõi sen vàng như động phía chân tiên nao nao khói biếc hài thương nữ trở gối hoa lê rụng trắng thềm Sống trong khung cảnh đó, bản chất nghệ sĩ, nòi tình nơi Đinh Hùng như cá gặp nước, đã phát triển rất sớm. Năm lên 6, 7 ông đã chứng tỏ có năng khiếu về hội họa. Một người anh rể của ông là Đ/U, nhiếp ảnh gia Vũ An Đạm cho biết, ngay từ tấm bé, Đinh Hùng đã vẽ rất đẹp. Năm 13, 14 tuổi ông đã nghiện thuốc lào (một thứ kích thích cảm giác gấp trăm ngàn lần thuốc lá. Cái say của thuốc lào cũng ngất ngây, mê mẩn gần như thuốc phiện). Cũng tuổi này, ông mê một cô đào hát trẻ mới vào nghề, thường được thân phụ ông mời về nhà. Ta có thể coi đó là một hành vi hết sức táo bạo, liều lĩnh giữa một khung cảnh xã hội còn chịu ảnh hưởng sâu đậm đạo lý Khổng Mạnh. Giữa xã hội mà, người ta thường trực sống trong sự đề phòng miệng tiếng búa rìu. Mọi người hầu như sống không sống cho mình, mà sống cho cái khuôn mẫu ước lệ của xã hội ấy. Ngay khi bước chân vào trường Bưởi, ông đã cùng một vài người nữa, làm những tờ bích báo. Hoạt động văn nghệ đó, gây tiếng vang lớn trong trường, khiến Đinh Hùng phải bỏ học sau này. Năm đệ tứ, Đinh Hùng bắt đầu làm thơ. Nhưng ông dấu diếm không dám cho ai biết. Khi ấy, ông đã cảm thấy, thơ là một địa hạt của chữ nghĩa, kiến thức và kinh nghiệm. Bây giờ ông vẫn còn giữ nguyên quan niệm đó, và phủ nhận tất cả những trường hợp người ta gọi là thần đồng thi ca. Như cách đây khá lâu, ở Pháp, một thời dư luận xôn xao, bàn tán khi báo chí loan tin thần đồng thơ, cô bé Drouet 11 tuổi với những bài thơ nhỏ thật sâu sắc, trong sáng. (1) Tới năm dọn thi tú tài phần nhất, ông mới bắt đầu để mọi người biết tư cách thi sĩ của mình. Sau khi đỗ tú tài phần nhất, một lần nữa, ông bị ban giám đốc nhà trường cảnh cáo rằng, nếu muốn tiếp tục việc học thì hãy thôi làm văn nghệ. Ngoài ra, ông còn bị nhiếc móc về mái tóc bù rối nghệ sĩ nữa. Chạm tự ái, ông làm đơn xin thôi học. Nhờ gia đình khá giả, ông tiếp tục sự học bằng cách tới thư viện. Nhưng cũng từ đó trở về sau, không bao giờ ông thi thêm một khóa nào khác. Sau khi rời bỏ học đường, Đinh Hùng chính thức hoạt động văn nghệ, và bắt liên lạc với những văn nghệ sĩ đương thời. Tác phẩm đầu tiên của ông được đăng trong giai phẩm “Mùa gặt mới” của ông Lê Văn Văn, giám đốc nhà xuất bản Tân Việt, ấn hành năm 1940. Tùy bút ấy sau được chọn đăng trong cuốn “Việt Nam Văn Học Bình Giảng” của Phạm Văn Diêu (chúng tôi sẽ trích dẫn trong phần sau.) Song song với “Mùa Gặt Mới”, phê bình gia Vũ Ngọc Phan xuất bản tuần báo Hà Nội Tân Văn. Qua trung gian Nguyễn Đức Chính, bạn học của Đinh Hùng, ông đưa nguyên một tập thơ cho Vũ Ngọc Phan coi trước. (2) Ông Phan đồng ý nhận đăng dần dần những bài thơ có trong tập này. Vài số sau, Vũ Ngọc Phan giao hẳn trang thơ cho Đinh Hùng phụ trách. Ông kể, thủa đó người làm thơ không bao nhiêu! Nên chẳng có ai gửi thơ tới. Chỉ có thi sĩ Vũ Hoàng Chương, lúc đó đang in cuốn thơ “Say”, đưa bản vỗ cho ông đăng dần, với lời giới thiệu của Mạnh Phú Tư. Sau hai tháng cộng tác, được 8 số, ông chấm dứt cộng tác với Hà Nội Tân Văn. Cũng từ đấy, ông không còn chỗ để đăng thơ. Nhưng bù lại Đinh Hùng được quen biết nhà văn Thạch Lam. Ông nhớ lại rằng, hồi đó Thạch Lam cho xuất bản cuốn “Hà Nội 36 phố phường”, ông viết thư cho Thạch Lam, đại ý nói là một trong những người hâm mộ Thạch Lam từ lâu, nay viết thư xin góp ý về bài “Thịt Chó”. Nhà Thạch Lam ở sâu trong xóm làng Trung Phụng. Mỗi khi xuống phố ông đều phải đi qua nhà Đinh Hùng. Một hôm Thạch Lam ghé vào nhà Đinh Hùng. Ông sửng sốt, kinh ngạc… Những tưởng thư viết gửi Thạch Lam, cũng chỉ như trăm ngàn trường hợp khác. Ông nói: “Đây là một khích lệ lớn lao đối với tôi.” Nhờ Thạch Lam giới thiệu, Đinh Hùng quen biết hầu hết các nhà văn trong nhóm T.L.V.Đ như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ…Và một số văn nghệ sĩ khác nữa, như Huyền Kiêu, Nguyễn Tuân… Riêng Thạch Lam, Huyền Kiêu và ông sau này kết nghĩa anh em… Ngoài ra, ông còn kết bạn với thi sĩ Trần Dần. Cùng Trần Dần, ông lập một nhóm thơ, lấy tên là “Nhóm Thơ Tượng Trưng.” Năm 1945, khi chiến tranh Việt Pháp lan tràn tới Hà Nội, theo lớp sóng tản cư, ông chạy vào Hà Đông rồi Vân Đình. Thời gian này ông bị V.M trưng dụng bắt làm việc cho Sở Thông Tin khu 2 (Liên khu 2). Ông nói, thời gian ấy, ông bị khai thác triệt để ở lãnh vực hội họa. Họ bắt ông vẽ ảnh của những người đang cộng tác với Pháp tại miền Nam, như B.S Nguyễn Văn Thinh, Lê Khắc Hoạch để vẽ truyền thần, rồi cho in vào truyền đơn, kèm theo ít câu vè sỉ nhục… Một trường hợp đau xót hơn cả là họ bắt ông vẽ lại chân dung nhà văn, lãnh tụ cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Họ cho in vào truyền đơn đem phân phát phổ biến tất cả các khu, các vùng, với những lời chửi rủa thô bỉ… Làm việc cho thông tin khu 2 được chừng 3 năm, khi V.M ngày càng xiết chặt, ép văn nghệ sĩ vào con dường phục vụ giai đoạn, phục vụ chính trị, ông cảm thấy không thể kham nổi, bèn cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương bỏ trốn về Thái Bình. Ở Thái Bình, ông cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương mở một ngôi trường nhỏ trong một làng tương đối còn yên ổn. Nhờ dân làng đa số trọng chữ nghĩa, ông sống êm thấm được chừng 1 năm. Tới đầu năm 1950, quân viễn chinh Pháp cùng quân đội Bảo Hoàng mở cuộc hành quân tảo thanh Thái Bình. Một số dân chúng không chạy kịp, bị lùa về vùng do quân Pháp kiểm soát. Trong số những người bị lùa, có cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương lẫn Đinh Hùng. Từ vùng Pháp kiểm soát, còn được gọi là vùng “tề”, ông cùng họ Vũ tìm đường trở về Hà Nội. Với năm năm lưu lạc gian truân, Đinh Hùng đã sáng tác được hai tác phẩm. Thơ là tập “ Tiếng Ca Bộ Lạc,” và văn là tập “Tiếng Ca Đầu Súng”, loại bút ký. Ở Hà Nội, Đinh Hùng cộng tác với một số anh em có mặt trong thành như Ngọc Giao, qua giai phẩm “Lửa Cựu,” “Hoa Sen”. Riêng giải phẩm “Kinh Đô Văn Nghệ” thì do chính ông chủ trương. Kế tiếp, ông lại cùng hai nhà văn Kỳ Văn Nguyên và Thanh Nam trông nom tờ tuần báo “Hồ Gươm”. Năm 1951, ông lập gia đình. Các bút hiệu Thần Đăng, Hoài Điệp Thứ Lang của ông ra đời trong khoảng thời gian này.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2014 17:07:19 GMT 9
ĐINH HÙNG VÀ THI PHẨM ĐẦU TAY "MÊ HỒN CA" (Kỳ 3) 07/10/2011 Năm 1954, thi sĩ Hồ Dzếnh, giám đốc nhà xuất bản “Tiếng Phương Đông,” sau đổi lại là “Bình Minh,” cho in thi phẩm “Mê Hồn Ca” của Đinh Hùng. Nhưng bất hạnh cho ông cũng như cho thi sĩ Hồ Dzếnh là hiệp định Genève thình lình được ký kết giữa Việt Minh và thực dân Pháp. Đinh Hùng đành phải lên máy bay với 200 cuốn thơ đầu tay cùng vài bộ quần áo cũ! Rất may cho tác giả “Mê Hồn Ca” là ở Sàigon, vùng đất mới, ông đã được một số anh em quen biết cũ, mời cộng tác với tờ “Tự Do” cùng Như Phong, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan… Sau đấy, ông cũng nhận lời cộng tác với các báo khác như: Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong, Người Việt Tự Do, Tiểu Thuyết Tuần San v.v… Ngoài ra ông còn dạy học, viết truyện, làm đài phát thanh, đóng kịch…. Tóm lại là ông làm rất nhiều nghề. Năm 1961, ông được trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc với thi phẩm “Đường Vào Tình Sử.” * Thi sĩ Đinh Hùng không bao giờ đặt vấn đề Cũ, Mới trong thi ca. Ông quan niệm tất cả chỉ là hình thức diễn tả ý tình. Điều quan trọng là có nói được điều mình muốn nói, và người đọc có hiểu, hay cảm được không? Kỹ thuật cũng không mấy quan trọng (?) “Cần nhất người làm thơ thể hiện được bản sắc thi sĩ…” Hay bốn chữ mà ông thường dùng “gương mặt linh hồn”. Ông nhấn mạnh, bản sắc đó là sự không trộn lẫn; không vay mượn. Và, một điều nữa là phải luôn tìm đường hướng mới cho thi ca. Vẫn theo ông, thế giới thi ca là thế giới mênh mông vô cùng tận… Nói về tình trạng thi ca bây giờ, ông cho rằng nhờ phương tiện ấn loát cũng như phổ biến dễ dàng hơn trước rất nhiều, nên thi ca đã bành trướng mạnh, nhanh nhưng chỉ lan tràn về chiều rộng, về lượng mà thôi. Về phẩm, trái lại rất ít. Nói riêng về thơ xuất bản trong năm 1964, thi sĩ Đinh Hùng cho biết, ông thấy đa số những thi phẩm gửi tới cho ông, tức cho ban Tao Đàn, là loại thi ca phục vụ giai đoạn! Ông kết luận: “Cái mình khác và hơn Cộng Sản là ở chỗ mình còn tình, còn mộng. Mình không thể sống như mất tự do theo lối CS được. Mình còn cái giá trị làm người, còn giữ được thiên chức cao quí đó. Dù có cưỡng bức nghệ sĩ phải sáng tác theo một đường lối nào đó như CS đã áp dụng ở ngoài Bắc, thì rồi cũng có lúc bản năng tự do vùng dậy…Như trường hợp Nhân Văn Giai Phẩm là thí dụ điển hình”. * Thi sĩ Đinh Hùng “kết nghĩa” với nàng tiên nâu khá sớm. Nhưng ông vẫn giữ được vẻ hào hoa, tao nhã của một văn nhân. Nhiều người tỏ ý khắt khe với thi sĩ Đinh Hùng ở khía cạnh này. Tôi nghĩ với một người như Đinh Hùng, nếu không có chất kích thích trên, chắc đâu chúng ta đã có một “Mê Hồn Ca.” Nói thế không có nghĩa là tôi ca ngợi hay đề cao sự kiện trên. Tôi chỉ muốn nói, nếu chúng ta đã chấp nhận một Đinh Hùng thi sĩ tài hoa, thì chúng ta không nên hẹp hòi mà từ chối, hay lên án một Đinh Hùng “đi mây về gió”. Cũng như phần đông những nghệ sĩ khác, thi sĩ Đinh Hùng quen làm việc khuya, kể cả đọc sách. Ông làm việc khi không còn trông thấy mặt người trong nhà. TÁC PHẨM Ngoài “Mê Hồn Ca” (1954), “Đường Vào Tình Sử” (1961), thi sĩ Đinh Hùng còn một tác phẩm loại dã sử võ hiệp, là truyện “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu”, do nhà Nguyễn Đình Vượng ấn hành, dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Tác phẩm chưa xuất bản của ông có gồm có: “Tiếng Ca Bộ lạc” (thơ), “Tiếng Ca Đầu Súng (ký sự), và 8 truyện dài loại dã sử tiểu thuyết. * Dưới đây chúng tôi xin lục dẫn tùy bút “Cảm Thu” đăng trong giai phẩm “Mùa Gặt Mới” xuất bản tại Hà Nội năm 1940. Đây cũng là sáng tác đầu tiên của thi sĩ được đăng trên báo, đồng thời cũng đã được in trong cuốn “Việt Nam Văn học Bình Giảng” (VNVHBG) của Phạm Văn Diêu, như chúng tôi đã viết ở trên. Cảm Thu, Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ… Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ? Nắng ở đây vẫn là nắng vàng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi vẫn ngờ như không sự thay đổi, vì lại thấy mình đi trên con đường này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và nay cũng thấy thu về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh? Và gió nào vương vấn hồn tôi, hay cũng chỉ là dư thanh của một ngày xưa cũ? Chao ôi! Buồn lại nhiều rồi, nhưng chỉ buồn như năm trước. Lòng tôi chẳng biết tìm ai mà nhớ, hôm nay nhớ lại buồn qua mới thấy nắng kia nhiều dĩ vãng. Tôi nhớ một người lữ khách nào xưa, ra đi từ một mùa thu… Thế rồi cũng một mùa thu trở lại những bước đầu tiên trên con đường bạn, mắt buồn như nước, mảng tìm hồn mình hiu hắt trong hồn thu mới… Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và lại cả rừng cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều. … Từ hôm rời chân ở bến sông vàng. Từ biệt con thuyền phiêu bạt, tôi đã hết nhớ dãy núi xanh phơn phớt đằng xa và bâng khuâng trở lại con đường quê thân mật. Đi trên đất đó, giữa hai ruộng ngô thơm nghe ngào ngạt… Hương này có phải hương xưa? Ôi! Những dây đậu vẫn còn non mà luống khoai lang đã xanh tươi rồi nhỉ? Đi trên đất đỏ, bên những luống rau cải cúc và dẫm lên cỏ may vàng. Đây là những con bướm cũ, những cánh hoa xưa. Và này đây tất cả Ngày xưa: từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn… Thôi! Thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió sầu mây, chỉ hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng! Thương nhớ vì sao! Tôi sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đóa xuân hồng thuở cũ. ĐINH HÙNG (Trích trong VNVHGB của Phạm Văn Diêu) Như “từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn”, qua đoạn văn này, Đinh Hùng cho ta cái cảm tưởng bắt gặp hồn mình, một tâm hồn thơ trẻ, đang bay bổng cùng hồn thu hiu hắt. Cùng cánh bướm đồng nội, cùng hoa nắng dĩ vãng… Để thấy: “… buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều”. Nhưng sự thực linh hồn chúng ta, nhất là một thứ “linh hồn còn trẻ” làm gì có hình thù, có màu sắc cho ta cầm bắt hay nhìn ngắm được chân dung. Chính ở điểm đó Đinh Hùng đã thành công khi ông cho ta cảm tưởng giáp mặt với linh hồn thơ trẻ mà thời gian đã tàn nhẫn cướp mất. Chỉ để lại cho chúng ta những ngậm ngùi, những dư âm thảng thốt, những mùi hương đã tàn, bay theo từng cánh bướm, từng sắc hoa bông phù dung một sáng nào nở trắng… MÊ HỒN CA (1940-1954) Sự nghiệp thi ca của Đinh Hùng, cũng như mọi người, nghĩa là cũng bắt đầu với vài bài thơ nho nhỏ, ý vay mượn, ảnh hình khuôn sáo. Mãi cho đến khi ông gặp thi sĩ đàn anh Thế Lữ, dần dà ông tự tìm được cho mình một bản sắc, một lối thoát cho tiếng thơ. Ta có thể coi Thế Lữ là người khuyến khích và nâng Đinh Hùng rất nhiều trong bước khởi đầu. Chính ông cũng nói: “Hồi đó mỗi khi làm xong một bài thơ tôi thường tìm Thế Lữ, đọc cho ông ta nghe. Nhưng lần nào cũng vậy, nghe xong Thế Lữ lắc đầu bảo: Chưa được, chưa được, cậu cần phải chịu khó, tìm kiếm hơn nữa. Tôi buồn quá, tự ái nổi dậy, tôi nghĩ thế nào cũng phải làm cho được một bài thật hay, không lẽ cứ để hắn (Thế Lữ) chê hoài?...” Sau một thời gian, khi yêu thầm một nàng cô đầu ở Khâm Tiên, ông làm một bài thơ lấy tên là “Kỳ Nữ”, đem cho Thế Lữ coi. Lần này Thế Lữ im lặng một lát, gật đầu bảo: “Được lắm! Cậu nên làm theo loại này”. “Mê Hồn Ca” từ đó hình thành. Đinh Hùng, từ “Đường vào tình sử,” giải thưởng văn chương 1961. Nếu tính từ năm Đinh Hùng in “Mê Hồn Ca” 1954, cho tới “Đường Vào Tình Sử” 1961 thì hai thi phẩm cách nhau gần 7 năm trời. “Đường Vào Tình Sử” gồm 60 bài thơ “Truyện Lòng” và “Tiếc Bướm”, in tại nhà in Kim Lai, mang tên nhà XB Nam Chi Tùng Thư, gồm 2000 quyển trên giấy tốt. Với tác phẩm này, ông được lãnh giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Nhưng nói tới Đinh Hùng, người ta thường nhắc tới “Mê Hồn Ca” nhiều hơn. Vì Mê Hồn Ca mới xứng đáng và tiêu biểu cho những gì là Đinh Hùng, tức gương mặt đích thực tâm hồn ông. Tác phẩm “Đường Vào Tình Sử” được in sau MHC tới 7 năm trời nhưng sự thực lại gồm cả những bài đã được làm trước. Nhận xét đầu tiên của tôi khi đọc xong tập “Đường vào Tình Sử” là ở tập này, Đinh Hùng không đều tay. Ông không tạo được cho mình một cõi riêng. Một vùng bao la thần kỳ mang tên Đinh Hùng. Ở tập thơ này, theo thiển ý của tôi, nó mang nhiều tánh cách đánh dấu giai đoạn, ghi khắc kỷ niệm chứ không hoàn toàn mặc khoác một giòng tư tưởng. Tuy thế với “Đường Vào Tình Sử,” người đọc cũng bắt gặp cái nguồn mang mang, bàng bạc tinh thần Đông Phương. Tinh thần tìm về cõi mộng, lấp lánh vũ trụ miên trường. Theo thi sĩ thì kiếp sống vốn phù du. Cuộc đời vốn vẩn đục. Chỉ duy linh hồn, duy tình người, là có những giá trị đáng cho chúng ta xưng tụng. Giữa một xã hội như xã hội VN ta hiện nay, khi những giá trị tinh thần, ngày càng mất giá, vật chất ngày càng là cái đích cho con người lao ném cả cuộc đời, thân kiếp mình vào cuộc giành giựt, chém giết lạnh lùng kia, thì Đinh Hùng vẫn cố giữ phong thái “thi sĩ” của mình. Ông vẫn tin tưởng, tìm về nguồn suối ngọt ngào của tâm hồn, của tình người. Thơ ông vẫn mênh mang những nỗi sầu xưa cũ của đất nước. Những quá khứ buồn vui của quê hương. Ông vẫn nuối tiếc cái mà ta có thể gọi là “thiên đường đã mất”. Giữa những tiếng thơ mặc khoác chiếc áo hiện sinh với nhiều hình ảnh, tư tưởng phá phách, nhiều nôn mửa, vay mượn, hoặc cái tối tăm, tuyệt vọng giả tạo của một số nhà thơ hôm nay, nhiều độc giả đã trở về để tìm gặp Đinh Hùng. Như tìm lại, thở lại cái không khí ảo huyền mê mộng bao la, dịu nhẹ trong một số thi bản, rải rác suốt 110 trang thơ khổ lớn. Chúng tôi kính mời quý bạn đọc, thưởng thức một vài bài thơ của thi sĩ Đinh Hùng, trích từ thi phẩm “Đường Vào Tình Sử”. Những bài nói lên phần nào bản chất “Nòi tình, kiếp mộng” của thi sĩ, đồng thời là những bài được rất nhiều người ưa thích. TÌNH TỰ DƯỚI HOA Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng có nàng thiếu nữ đẹp như trăng mắt xanh lả bóng dừa hoang dại thăm thẳm nhìn tôi không nói năng Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay ôi mộng nào hơn giấc mộng này mùi phấn em thơm mùa hạ cũ nửa như hoài vọng nửa như say Em đến như mây chẳng đợi kỳ hương ngàn gió núi động hàng mi tâm tư khép mở đôi tà áo hò hẹn lâu rồi – Em nói đi Em muốn đôi ta mộng chốn nào ước nguyền đã có gác trăng sao truyện tâm tình dưới hoa thiên lý còn lối bâng khuâng ngõ trúc đào Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ nắng trong hoa với gió bên hồ dành riêng em đấy khi tình tự ta sẽ đi về những cảnh xưa Rồi buổi ưu sầu em với tôi nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời vai kề một mái thơ phong nguyệt hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười. (3) DẠ HỘI Đèn quanh thủy tạ, hội đêm hè Em đến phương nào? Đây ngựa xe Đây nước hoa chìm giăng ẩn hiện Thơ phòng khánh tiết nhạc Schubert Mời các cô em trang điểm vào má hồng gợn chút mới thanh tao thuyền thơ anh đợi nghiêng tình tứ nghìn chiếc hôn bay thoảng phấn Đào Khiêu vũ đêm nay, mộng trá hình Trong vườn quên lãng áo ai xanh? lòng ai hóa bướm phù tang nhỉ ta chọn nhầm hoa lẫn ái tình Tha thiết trời tây gái đẹp về phương này ta hẹn với Tây Thi thẹn đâu trinh bạch bàn tay phấn tuyết nguyệt dài chăng, phải đợi kỳ Tuổi hạ giăng tròn em vẫn si lẳng lơ, ai nép mặt hoa quỳ Phượng liên nàng ấy điên vì mộng lạc gió thần tiên kịch Shakespeare… CẶP MẮT NGÀY XƯA (gửi hương hồn Thạch Lam) …………………. …………………. Ai biết lòng anh thương nhớ đâu gần nhau không nói nói không sầu cầm tay hỏi mộng buồn như tủi thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu Tôi cảm thương vì hai chúng ta tuổi đang xuân mà bóng sang già đêm nào tôi mộng buồn riêng gối anh đã nằm yên dưới mộ hoa Anh lánh mùa xuân nép cửa sầu đêm nằm ghê gió lạnh canh thâu. gặp nhau nắm chặt tay lần cuối anh khép hàng mi,chẳng nguyện cầu Tôi đến tìm anh, vuốt mắt hiền đêm sầu chìm đáy mắt vô biên vọng thanh nghe rợn hồ cô tịch tôi hiểu lòng anh chưa toại nguyền Tôi lạc hồn Xuân giữa Cố Đô hỏi giăng, giăng mọc nước Tây Hồ hỏi hoa, hoa vẫn thôn đào liễu lòng hỏi riêng lòng: Đâu bạn xưa Trăng nước vô tình, gió đẩy đưa đời tôi muôn vạn ngả tình cờ chiêm bao phảng phất tôi thường gặp cặp mắt anh nhìn như trẻ thơ XIN HÃY YÊU TÔI Xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ! tôi chép thơ ca tụng miệng hoa cười ôi những nàng như liễu mắt xa xôi! Yêu tôi nhé, tôi vẫn người mê đắm! xin hãy yêu tôi những lòng hoa thắm xuân đã hồng, thu biếc tôi làm thơ cửa phòng tôi, giăng lưới nhện mong chờ buồn phơ phất mới trông chiều ngóng gió ……………………. Em có má hồng dạo lòng qua đó bởi vô hình không biết đấy mà thôi trời của tôi mà Thu cũng của tôi để em tới em làm người khách lạ miệng kia xinh sao tình lơ đãng quá tôi không yêu sao có má em hồng? tôi không buồn sao có mắt em trong? tôi không mộng sao có lòng em đẹp? nay đến trước xin yêu hồn khép nép tự trời xanh rơi xuống để gần em một tờ hoa đính ước gởi thơ kèm si tình thế mà sao hiu quạnh mãi yêu tôi với! Tôi làm thơ ân ái để yêu người và cũng để người yêu để các em qua từng bước diễm kiều trong cảnh nước non tình tôi xếp đặt …………………… Các em dịu dàng sao tàn nhẫn thế mà lòng tôi hoài vọng cứ đa tình Hãy yêu tôi vì tôi biết em xinh Tôi biết khóc để cho Tình cảm động hãy yêu tôi vì tôi làm nên Mộng hãy yêu tôi vì tôi dệt nền trời em đi trong trời mộng đó em ơi theo áo nhẹ bay cao hồn vũ trụ xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ một hôm nay Tình ghé bến thu Hồng tôi khổ rồi em có yêu không? TIẾC BƯỚM HAY LINH HỒN HOÀI ĐIỆP Độ em còn trèo cây khế vịn hái quả xanh bên tường có phải chúng mình còn bé cho nên đời rất thơm hương Nắng vàng năm xưa đã tắt cô bé ngày xưa đã lớn rồi hoa hồng vừa nở hé trên môi và một trời thu trong mắt Ngày xưa bướm trắng mây vàng ta sống trong vườn tiên giới bây giờ lạc xuống trần gian tôi đi tìm bồng lai mới Em là tiên nữ diễm kiều vịn hái hoa trong vườn quí dò theo những bước thương yêu còn tôi đi làm thi sĩ Ngày mai giấc mộng tan vàng em cứ giữ lòng xuân đẹp nếu hoa ngày cũ phai hương đã có linh hồn Hoài Điệp. Du Tử Lê --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Chú thích: (3) “Tự Tình Dưới Hoa” được cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương soạn thành ca khúc với nhan đề “Mộng dưới hoa.” Năm 1990, cơ sở Vincent and Company đã thực hiện tuyển tập nhạc “Mộng dưới hoa – 20 bài thơ phổ nhạc của Phạm Đình Chương,” họ Phạm đã ghi nơi trang 3, nguyên văn như sau: “Sau nhiều năm xa cách, gặp lại Đinh Hùng trong làn sóng di cư vĩ đại từ miền Bắc vào Nam. Cộng tác với ông trong chương trình Thi Nhạc Giao Duyên của đài phát thanh Saigon, những lúc rảnh rỗi thường cùng nhau đàm đạo về Thi Ca. Viết ‘Mộng Dưới Hoa’ năm 1957, nguyên bài thơ mang tựa đề Dưới Hoa Thiên Lý.’” Nhan đề đầu tiên của bài thơ này là “Dưới Hoa Thiên Lý.” Khi in thành sách, thi sĩ Đinh Hùng đã cho nó một tựa khác. Đó là “Tự Tình Dưới Hoa.” Cũng trong bài thơ ấy ó câu “nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời,” đã được cố nhà văn Mai Thảo dùng làm tựa cho một truyện dài của ông. Đó là cuốn tiểu thuyết “Cũng đủ lãng quên đời.”
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2014 17:09:13 GMT 9
Đinh Hùng, nói về ban Tao Đàn và, những sự kiện chung quanh. (Kỳ 5.) 07/27/2011 Nói đến những hoạt động của thi sĩ Đinh Hùng mà không nói tới ban Tao Đàn, theo tôi là một thiếu sót lớn. Những hoạt động văn nghệ của ông tại miền Nam, nhất là mấy năm gần đây, ngoài việc viết báo, dạy học, đóng kịch…. Mọi phạm vi hoạt động hầu như thu hẹp lại, và chỉ còn việc chủ trương ban Tao Đàn là đáng kể mà thôi. Vì, Tao Đàn là một hoạt động thuần túy văn nghệ; lại hiện diện liên tục gần mười năm… Vì thế, trong nhiều buổi tiếp tiếp xúc với ông, thi sĩ Đinh Hùng đã cho biết khá nhiều về những dữ kiện chung quanh Ban Tao Đàn. Và, dưới đây là phần ghi chép chi tiết mà, theo chính người đứng đầu ban Tao Đàn, thi sĩ Đinh Hùng, cho là đáng ghi nhận. Tác giả “Mộng dưới hoa” cho biết: Ban Tao Đàn được thành lập từ năm 1955, do Đinh Hùng đứng tên, cùng sự góp sức của Thanh Nam, Thái Thủy, Tô Kiều Ngân. Buổi phát thanh ra mắt nhằm ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, với các giọng ngâm nam là: Tô Kiều Ngân, Hoàng Thư…Giọng nữ có Giáng Hương, Mộng Hoàn, Bích Hiền. Phần nhạc phụ họa có các nhạc sĩ Ngọc Bích, Phạm Đình Chương, Vĩnh Phan. Riêng Vĩnh Phan xử dụng đàn thập lục, đệm cho phần cổ thi và tiếng sáo Tô Lang (tức nhà văn Tô Kiều Ngân.) Một hai năm sau, Tao Đàn đã giới thiệu với thính giả hâm mộ một số giọng ngâm mới như Hồ Điệp, Bích Liễu, Lệ Liễu; sau nữa có Quách Đàm, Thái Hằng. Qua một thời gian thử thách, những giọng ngâm không bản sắc, đã bị đào thải. Nhưng ngược lại, cũng có hai giọng ngâm nổi bật đó là Hồ Điệp và Quách Đàm. Sau đấy, Ban Tao Đàn lại giới thiệu với thính giả một số giọng ngâm trẻ… Vẫn theo đánh giá của thi sĩ Đinh Hùng thì hai giọng ngâm trẻ có khả năng thay thế lớp đàn anh, đàn chị là Hoàng Oanh và, Quang Minh. Vẫn theo thi sĩ Đinh Hùng thì giữa khi tầm ảnh hưởng của Ban Tao Đàn mở rộng tới nhiều tầng lớp thính giả khác nhau thì, bất ngờ, nhà văn Tô Kiều Ngân, cộng tác viên đầu tiên của Ban Tao Đàn, rút lui cùng với nhà văn Thanh Nam. Đó là thời gian ông Lê Văn Duyên được cử giữ chức giám đốc nha vô tuyến. Nhà văn Tô Kiều Ngân được mời vào chức vụ chánh sự vụ sở chương trình. Thời lượng phát thanh của Ban Tao Đàn đang từ ba buổi mỗi tuần, bị rút dần xuống còn hai. Rồi một. Song song với sự kiện vừa kể, đài Saigon lại có thêm một ban thi văn khác. Ban này do hai nhà văn Thanh Nam, Mai Thảo, đứng tên. Đó là ban “Tin Thơ.” Tuy thế, thi sĩ Đinh Hùng cho biết, mỗi khi giới thiệu tên những người phụ trách, ông vẫn kể Tô Kiều Ngân, Thanh Nam…cho tới khi ai đó, chính thức yêu cầu bỏ tên… Sau hai tháng ngồi ghế chánh sự vụ, nhà văn Tô Kiều Ngân lại trở về với nhiệm vụ cũ, khi giám đốc Lê Văn Duyên bị thay thế bởi ông Thái Văn Kiểm! Ban “Tin Thơ” sau đó cũng ngưng hoạt động. Nhân cơ hội này, thi sĩ Đinh Hùng trình bày với ông Thái Văn Kiểm về trường hợp của Ban Tao Đàn. Tân giám đốc Thái Văn Kiểm nói, làm đơn theo thủ tục, ông sẽ căn cứ vào đó, hầu có thể cho xếp lại chương trình. Tiếc thay, mọi việc chưa ngã ngũ thì, ông Thái Văn Kiểm đã bị thay bởi ông Nguyễn Ngọc Linh. Một lần nữa đường hướng hoạt động lại đổi khác. Vấn đề ban Tao Đàn coi như được… “cất kỹ!” Ở thời điểm này, hoạt động của đài Saigon dành ưu tiên cho vấn đề quốc sự. Nên ý định ban đầu của thi sĩ Đinh Hùng là: “Đặt các vấn đề về đường hướng thi ca,” không thực hiện được! Tác giả “Mê hồn ca” còn cho biết thêm: “Ngay cả việc cho trình bày các thi phẩm cũng gặp rất nhiều trở ngại. Lý do, tôi chủ trương chú tâm tới khía cạnh nghệ thuật và văn chương… Trong khi những người nắm vận mệnh đài, lại chú trọng tới khía cạnh cách thời cuộc!…” Cuối cùng, phạm vi sinh hoạt của Ban Tao Đàn, phải thu hẹp trong khuôn khổ ngâm nga, nhận định lẻ tẻ về một vài thi phẩm, một vài nhà thơ! Thỉnh thoảng thi sĩ Đinh Hùng cũng chọn ngâm dăm ba bài thơ cổ hoặc, tiền chiến, theo yêu cầu của thính giả. Khi ban Tao Đàn có sáng kiến giới thiệu những nhà thơ mới cùng tác phẩm của họ, ông nhấn mạnh, ông đã bị dư luận xì xầm ít nhiều! “Nhưng, chỉ cần một vài người hiểu chủ tâm giới thiệu những tài năng thi ca mới của tôi, với riêng tôi cũng đủ bù đắp, lấp đầy những điều tiếng ghen ghét, tỵ hiềm của kẻ khác!” Thi sĩ Đinh Hùng tâm sự. Nhìn từ một khía cạnh nào đó thì, giữa kỷ nguyên cơ khí, chiến tranh khốc liệt, giữa khi những giá trị thiêng liêng ngày càng bị mất giá! Giữa khi mãnh lực của đồng tiền, nhu cầu vật chất tiến gần địa vị độc tôn, thì sự có mặt của ban Tao Đàn (cũng như những ban thi văn khác) trên đài phát thanh quả là cần thiết. Mà đóng góp của thi sĩ Đinh Hùng, chính là bước khởi đầu. Bước tiên phong. Ông là người thứ nhất mở một sinh lộ mới, cho thi ca đến với đại đa số quần chúng. Du Tử Lê --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Chú thích: (3) Bốn chữ “cũng đủ lãng quên đời” trong câu thơ này, về sau, được nhà văn Mai Thảo lấy làm tựa đề một tiểu thuyết nổi tiếng của ông. (4) “Tự Tình Dưới Hoa” được cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương soạn thành ca khúc với nhan đề “Mộng dưới hoa.” Năm 1990, cơ sở Vincent and Company đã thực hiện tuyển tập nhạc “Mộng dưới hoa – 20 bài thơ phổ nhạc của Phạm Đình Chương,” họ Phạm đã ghi nơi trang 3, nguyên văn như sau: “Sau nhiều năm xa cách, gặp lại Đinh Hùng trong làn sóng di cư vĩ đại từ miền Bắc vào Nam. Cộng tác với ông trong chương trình Thi Nhạc Giao Duyên của đài phát thanh Saigon, những lúc rảnh rỗi thường cùng nhau đàm đạo về Thi Ca. Viết ‘Mộng Dưới Hoa’ năm 1957, nguyên bài thơ mang tựa đề "Dưới Hoa Thiên Lý.’” Tưởng cũng nên nói thêm, nhan đầu tiên của bài thơ là “Dưới Hoa Thiên Lý,” khi in thành sách, thi sĩ Đinh Hùng đã cho nó một tựa mới là: “Tự Tình Dưới Hoa.” Nói đến Đinh Hùng, người ta thường nghĩ ngay tới “Mê Hồn Ca,” tác phẩm đầu tay của thi sĩ do nhà xuất bản “Tiếng Phương Đông” của Hồ Dzếnh ấn hành tại Hà Nội năm 1954. Tập thơ chia làm 4 phần: 1. Nguyên thủy 2. Chiêu niệm 3. Thần tượng 4. Mê hồn Với những tiêu đề này, tác giả đã cho người đọc một ý niệm khái quát về vũ trụ thi ca mang tên ông. Đọc xong tập thơ, gấp lại, trong tôi một khoảng trống lớn dần, lớn mãi cùng nỗi buồn nhè nhẹ nhưng thấm thía. Không biết tại sao tôi buồn? Cũng không một hình ảnh, một cảnh sắc nào lưu dấu trong tôi. Hình như tất cả đã tan đi, loãng ra theo dòng thơ cuồng xiết trôi về một trời nào xa vắng, một thiên đường nào, mà đôi lần trong vô thức tôi đã mơ tưởng, đã phác dựng. Cùng một lúc, tôi nhớ tới Xuân Diệu, tới Chế Lan Viên, tới Huy Cận, tới Thế Lữ, tới Hồ Dzếnh… Tới những khuôn mặt tiền chiến, hơn một lần soi đậm vóc dáng họ, trong vòm trời văn học nghệ thuật Việt Nam… Tôi hình dung khung cảnh Hà Nội thuở 1940-1944.. Tôi hình dung tới những cao lâu, tửu điếm, nhà hát… Cuối cùng, Đinh Hùng trong cốt cách lãng tử cô đơn, lăn vào cuộc sống âm vang tiếng sênh, tiếng phách, của những đêm hoan lạc suốt sáng để quên. Quên thân phận tôi mọi trâu chó của một kẻ mất nước. Một tên nô lệ sống trên đất nước mình, mà mang tâm thức kẻ lạ mặt, một ngoại nhân sống giữa quê người. Giữa trạng huống đau thương đó, Vũ Hoàng Chương tìm quên trong “Say.” Chế Lan Viên khóc vay thương mướn một dân tộc đã diệt chủng. Xuân Diện dìm mình trong thế giới ái tình tuổi trẻ, hưởng thụ vội vàng. Đinh Hùng cũng dựng tạo cho riêng ông một cõi trú. Một thế giới khả dĩ dung nạp được tâm hồn đam mê cuồng nhiệt của ông. Thế giới đó là thế giới thủa sơ khai. Thủa những bon chen, những trì kéo của kiếp người chưa trở thành những đòi hỏi, những định luật thiết yếu. Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản Mất tinh thần từ những thuở xa xôi Ta về đây lạ hết các ngươi rồi Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống …………………………………… Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ Ta thản nhiên khi trở lại núi rừng Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng (Trích Bài ca man rợ) Thế giới thi ca của Đinh Hùng qua “Mê Hồn Ca,” là một thế giới lạ kỳ, mang đầy bản chất sơ khai. Có người cho ông thuộc phái tượng trưng hay siêu thực. Nhưng theo tôi, dù siêu thực, tượng trưng, điều quan quan trọng nằm ở chỗ Đinh Hùng đã là…Đinh Hùng, có một khoảng trời riêng, bi thảm bọc vây cố hữu. Một khung trời hư ảo với những xung động dẫn về cội gốc: Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ ta nằm trên cỏ lắng tai nghe thèm ăn một chút hoa man dại rồi ngủ như loài muôn thú kia Cố thi sĩ Hàn Mạc Tử khi sinh thời, cũng có những khát đói thần bí huyễn hoặc đó: “Trời hỡi làm sao khi đói khát - Gió trăng có sẵn làm sao ăn” (thơ Hàn Mặc Tử.) Nhưng người ta còn có thể giải thích một cách thỏa đáng bởi căn bệnh nan y: bệnh cùi, mà nhà thơ của chúng ta chẳng may phải mang nặng. Ngược lại, với Đinh Hùng, lời giải đáp có phần khó khăn hơn. Có người cho rằng vì bất mãn, thất vọng với hiện đời, thi sĩ mơ tưởng thuở đời sống của nhân loại còn sơ khai. Thuở thực phẩm chính yếu của con người còn là cây cỏ, hoa trái… Người khác lại cho rằng thế giới không tưởng vượt xa, cao trên cuộc sống trần tục, giữa không khí hôn mê, u trầm đó, thi sĩ Đinh Hùng đã bẵng quên thể xác để tâm hồn hóa nhập vào cõi ảo…Nên trong những giây phút xuất thần, thi nhân trực cảm những đói khát kỳ dị. Theo tôi thì sự thực không hẳn đã là như thế. Bởi ngoài những khát vọng bất thường bộc lộ trong giòng thơ huyễn hoặc, thế giới thi ca của thi sĩ Đinh Hùng vẫn là thế giới của tình yêu, với những xúc động băn khoăn rất người: ta thường có những buổi sầu ghê gớm ở bên em ôi biển sắc rừng hương em lộng lẫy như muôn ngàn hoa sớm em đến đây như đến tự thiên đường… Những khắc khoải về tình yêu trong thơ ông, như những đường biểu diễn được đẩy lên tới điểm mức cao nhất: Ta trong đó thấy trời ta mơ ước thấy cả bóng một vầng đông thuở trước cả con đường sao mọc lúc ta đi cả chiều sương mây phủ lối ta về khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ Tuy nhiên ở mặt khác của thương nhớ, tương tư thần tượng hư ảo kia lại là một người con gái có thực. Một kỹ nữ, thành phần bị xã hội xưa xếp vào loại thấp kém nhất. Nhưng với thi sĩ thì nàng kỹ nữ đó muôn đời vẫn là thần tượng, là lối thoát cho những đam mê dồn nén. Như tác giả cho biết, đó là mối tình một chiều. Một thứ tình tuyệt vọng: em đài các lòng cũng thoa son phấn hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ Nếu đạo giáo là cõi trú thích ứng nhất của những tâm hồn yếu đuối, ê chề thất lạc trong cuộc sống thực tế, khiến họ chọn tôn giáo làm con đường giải thoát siêu hình cần thiết, thì Đinh Hùng lại chọn cho ông một tôn giáo khác. Đó là tôn giáo tình yêu. Nói cách khác, ông chủ trương một thứ đạo gọi là ‘đạo ái tình”. Loại đạo của hầu hết những kẻ sinh ra trót mang trong hơi thở, trong mạch máu “nòi tình”. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ không mấy ngạc nhiên khi thấy tiếng thơ của thi sĩ luôn là tiếng gọi kêu cầu ân ái, hay những tiếng than van, oán trách kẻ phụ bạc. ta đã muốn trở nên người vô đạo tất cả em đều bắt ta trở nên khổ não và oán hờn căm giận tới đau thương và yêu say mê mệt tới hung cuồng và khát vọng đến vô tình vô giác Vì thi sĩ chấp nhận tình yêu như một lẽ sống tối thượng để quên, để xa, để lẩn trốn trước thực trạng xã hội ngày một bi đát, tối đen. Sự tự ru mình vào cõi hôn mê đã đưa linh hồn thi sĩ lênh đênh vào những vòm trời cao rộng, với những thương đau khắc khoải không ngờ. Tình yêu, với ý thức thi sĩ cần thiết bao nhiêu thì sự đền bồi của nhan sắc, của tượng thần, của giai nhân cũng tàn nhẫn hắt hủi bấy nhiêu. Bởi thi sĩ thâm cảm được luật tương đối, cùng những hữu hạn, bất lực của thân phận làm người. Một hữu hạn không bao giỡ cưỡng vượt nổi định mệnh khắt khe tàn bạo. Nó cũng như nước không bao giờ chảy ngược, hoa phải có ngày tàn. Khát vọng dâng tràn như sóng cuồng, bão loạn mà đời người thì ngắn ngủi, phận người thì nhỏ nhoi trước vũ trụ vô biên, thiên nhiên huyền bí! Nên ngay tại giây phút đạt tới cực điểm của nồng độ đam mê, đỉnh cùng của khát vọng, thi sĩ vẫn linh cảm được những bất lực của mình: Niềm khát vọng ta ghi vào huyết sử dưới chân em thơ lạc mất linh hồn ta đau xót trong mỗi giờ tình tự ta khóc nhiều cả lúc trao hôn (ác mộng) Tôi nghĩ, nếu ai kia bảo Đinh Hùng đã lẩn trốn vào tháp ngà để tìm lấy cho mình những phút giây thần tiên, huy hoàng hoặc để đắm chìm linh hồn trong niềm hoan lạc hưởng thụ; trốn chạy những đau thương đổ vỡ của cuộc đời thì e có phần thiên lệch, bất công. Bởi, nếu chúng ta cảm thông được tiếng thơ của một Chế Lan Viên qua “Điêu tàn” – một khoảng trời thâm u, thê thảm, một huyệt mộ vùi sâu cơ đồ của cả một dân tộc – ai dám bảo Chế Lan Viên lánh xa sự thực phũ phàng để tìm về cõi mộng hầu thỏa mãn nhưng khát thèm êm ái, ve vuốt tâm hồn – trái lại, Chế Lan Viên đã đau khổ gấp trăm ngàn lần cái đau khổ mà thường nhân phải gánh chịu, trong thực thể xã hội đương thời! Cũng vậy, Đinh Hùng lẩn trốn thực trạng đau thương của thời thế bằng cách trầm mình trong thiên đường tình ái. Nhưng chính tại cõi trú thanh sắc nặng phần lãng mạn này, nhà thơ đã đau khổ thêm một lần nữa. Thế giới phấn hương, hoa bướm chẳng những không giúp nhà thơ quên bớt dằn vặt, vò xé mà nó còn tạo thêm hoàn cảnh để thi nhân nhìn rõ đau thương, đày đọa – Tôi muốn nói ở mảnh đất đắm đuối truy hoan kia, Đinh Hùng càng thấu cảm cái mệnh số cô đơn, cái ta lạc loài, hoang liêu thêm hơn rất nhiều: ôi giữa trời thơ, những đêm hiền hậu con chim nào kêu vang tiếng trần ai mấy thu xanh hờn thác lẻ u hoài thời xa vắng mờ hương lòng trái đất trong tay nàng ta ngả mình ngây ngất nghe rõ ràng trên thịt ấm da xuân ngực dâng cao hơi thở đã mau dần mùi cỏ lá bỗng thoảng hồn thương nhớ ta ngẩng lên mặt nàng buồn muôn thuở ngắm hoa sao lay động dưới khe nguồn chung mối sầu thơ thẩn với trăng suông bên sườn núi có con hươu vàng điệp Loay hoay lặn ngụp trong mối sầu cao ngút, trong khát vọng vô biên không đường giải thoát, Đinh Hùng quay ra thương tiếc vẩn vơ, than trách số mệnh. Nhưng từ bước chân vô vọng rạc rời trong thế giới tình yêu, ông lại tạo dựng cho mình một niềm tin mới. Một cõi ẩn trú mới. Đó là thế giới huyền bí. Thế giới linh thiêng của những hồn oan thác, và những hoang sơ từ vạn kỷ: quên tình ái ta phá tan cung điện đi ngoài sao thầm lặng khóc trời xanh xa mắt em xa ánh sáng kinh thành Chia tay người tình ở đây không có nghĩa tác giả đã rời bỏ được những khao khát, đam mê tình ái, hương phấn yêu đương, để tìm về cõi tâm linh, vô hình, vô ảnh. Cái cõi giới chỉ cho ông những câu hỏi, không câu trả lời: em mộng về đâu? em mất về đâu? từng đêm tôi nguyện tôi cầu đây màu hương khó là mầu mắt xưa em đã về chưa? em sắp về chưa? trăng sao tắt ngọn đèn mờ ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn (Gửi người dưới mộ) Tới đây, tiếng thơ của thi sĩ có phần mong manh, nhẹ nhàng thanh thản hơn. Nó không còn là âm hưởng của những cuồng vọng đắm say, điên cuồng. Nó cũng không còn là những giận hờn, những trách móc, oán than của mặc cảm bị ruồng rẫy phản bội nữa. Nó là những lời tâm sự ngỏ bày, những kể lể, những cầu xin thể hiện lòng ngưỡng mộ, thanh khiết: Hỡi hồn tuyết trinh Hỡi người tuyết trinh Mê em ta đã thoát thân hình Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm (Gởi người dưới mộ) Nếu thơ là tiếng nói của đam mê cùng cực, thì thi sĩ Đinh Hùng đã đạt được tới nguồn cội. Suốt thi tập, với 40 bài là những bản ngợi ca tình yêu cuồng nhiệt. Những điệp khúc ái ân đắm lòng, cao độ của một tâm hồn lạc lõng, ngơ ngác giữa chợ người, muốn tìm về núi rừng, nguyên thủy. Ngay với những đam mê không tưởng về một thế giới hư vô thần kỳ, người ta cũng bắt gặp một Đinh Hùng tha thiết, mê man với phong cách độc đáo. Tựa trong ông đã sẵn chứa một phần vũ trụ hoang sơ, rừng rú. Trong thế giới mê hoặc, mờ ảo của một ý thức, trộn lẫn cùng những trực cảm, và những ảo giác hư huyễn của tiền kiếp nào đã qua đi, nhờ thế mà tác giả đã giữ được riêng cho mình một niềm tin, một nguồn sáng riêng soi rực tâm thức. Trận cười tan hợp núi sông Cơn mê kỳ thú lạ lùng cỏ hoa Hý trường đổi lớp phong ba Mượn tay ngụy tạo xóa nhòa biển dâu Với niềm tin tưởng mãnh liệt đó, thi sĩ đi từ cuộc sống phồn tạp tới cõi siêu thoát, bằng những bước chân kiêu ngạo, khinh bạc. Cái kiêu bạc tất nhiên của một kẻ tự tách mình khỏi một thực tại đời sống bon chen, biển lận. Sự vượt lên, rời xa, để xây dựng cho mình một thế giới khác, thế giới nằm ngoài tầm trí tưởng đám đông, đã đưa thi nhân tới cảm thức cô đơn ghê lạnh. Trên viễn trình về thấu nguồn cội, thi sĩ là người duy nhất – kẻ độc hành không một ánh mắt vời theo: Cuối thời loạn thương một vùng sao mọc ta bước lên chân nhịp bước thần kỳ trở về đây xơ xác mảnh tàn y giữa hoang địa hiện hồn tòa u ngục bừng mắt dậy lửa hồi sinh đỏ rực thịt xương về trong cổ mộ xôn xao hỏa thiêu rồi làn tử khí lên cao chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ hoa thanh quý nở bừng trang diễm sử thiên tiên đâu về tắm bến sông đào ta nghiêng mình làm một trái non cao (Mê hồn ca) trăng bỏ ta đi trăng ảo huyền mấy trùng biển lạ nhớ bình nguyên sầu ta đong khắp trường giang thủy vào cuộc tuần du lại đắm thuyền ta hát lên trời muôn thuở trước giờ đây còn lắng khúc giao duyên thân lưu lạc trở về sông núi ngươi gọi hồn ai hỡi đỗ quyên Từ đó, niềm kiêu hãnh khinh bạc cuộc đời của thi nhân đã đưa thi nhân xa dần, xa dần… để gần thêm, gần thêm mãi cô đơn và cuối cùng cô đơn không còn là một màng lưới bủa vây bên ngoài nữa, mà chính tâm hồn thi nhân là những hình ảnh của cô đơn hiu quạnh đó: đi vào mộng những sơn thần yên ngủ em! kìa em! đừng gọi thức hư vô hãy quỳ xuống, đọc bài kinh ái mộ: hồn ta đây thành tượng giữa vô cùng. (Trời ảo diệu) Thế giới thi ca Đinh Hùng là một thế giới thần kỳ mang đầy bản sắc sơ khai, rừng rú. Phải chăng, thi sĩ muốn quay về, muốn dựng lại xã hội tự tính tức một xã hội bộ lạc thuở hoang vu. Thời con người còn sống với tính bản tự nhiên, không lý trí, thủ đoạn, với những suy tính, mưu cầu thỏa mãn dục vọng, sản phẩm hãnh tiến của xã hội văn minh tiến bộ. Nhưng đó là thứ văn minh vật chất; văn minh kỹ thuật… Mà mặt bên kia của chúng là sự trì kéo con người về cõi đìu hiu nhân tính. Bàn về kỹ thuật vận dụng ngôn từ hình ảnh, có người đã cho rằng ông là một “phù thủy ngôn ngữ” – vì sự khéo lựa chọn những ngôn từ, ảnh hình, âm điệu. Cũng có một đôi người không đồng ý với những lý luận theo cách của họ. Theo thiển ý của tôi thì thời gian đã làm xong công việc sàng lọc cay nghiệt của nó. Mọi bài xích chỉ là những tỵ hiềm nhỏ nhen, đi ra từ mặc cảm thấp kém. Bởi vì, hiển nhiên, thời gian đã để lại cho chúng ta những hạt ngọc thi ca mang tên Đinh Hùng. Từ đấy, thử nghĩ, nếu vườn hoa thi ca Việt Nam thiếu vắng một Đinh Hùng, thiếu vắng một “Mê Hồn Ca” thì thiệt thòi của đời sống tinh thần chúng ta sẽ là một thời thòi rất lớn. Du Tử Lê (Saigon, 1964.)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2015 4:57:10 GMT 9
Văn Quang: Ngày cuối năm với bạn bèVăn Quang – Viết từ Sài Gòn Tết Nguyên đán là dịp đoàn viên, tụ họp anh chị em trong gia đình, sui gia và hàng xóm láng giềng, bạn bè gặp nhau. Những này trước Tết là những ngày tất niên hầu hết các công tư sở thường có buổi tiệc Tất Niên. Đôi khi có những người bạn thân mật hơn, họp mặt trong một gia đình nào đó cùng nhau thù tạc “chén chú chén anh.” Sở lớn làm tiệc tùng ở những nhà hàng, khách sạn sang trọng, sở nhỏ làm ở quán bình dân, có khi làm tiệc tất niên ngay ở vỉa hè. Cứ sau giờ tan sở là quán xá bắt đầu nhộn nhịp, nhiều dẫy bàn ghế xếp ngay bên đường, các cô các cậu còn nguyên đồng phục kéo nhau đến ăn tất niên rất rôm rả, những tiếng “dzô, dzô” ầm ỹ, rượu vào lời ra cứ như chỗ không người. Lúc đó quên hết mọi ưu phiền trong năm vừa qua, cố đi tìm một hy vọng cho năm mới sắp tới dù chưa biết cái hy vọng nhỏ nhoi đó là gì. Bìa một trong hàng chục tập thơ của Hà Huyền Chi Thời nay có nhiều gia đình có thân nhân ở nước ngoài về VN với nhiều lý do khác nhau, nhưng hầu hết là muốn thăm gặp lại những người thân, thăm viếng mộ tổ tiên hoặc mấy ông bà già đưa con cháu “thế hệ thứ hai thứ ba” về cho biết “cái xứ VN là như thế nào.” Trong bài trước tôi đã viết: “Riêng cánh già chúng tôi, những ngày cuối năm ở Sài Gòn, thường là có bạn bè ở nước ngoài về ghé thăm hoặc a lô hẹn nhau ở quán cà phê nào đó rồi kéo nhau ra đấu láo chuyện xa xưa, chuyện bây giờ, kẻ còn người mất. Nhiều chuyện cũng “lâm ly” lắm, những lúc đó mới thật sự biết rằng cuộc đời còn đáng sống. Nếu bạn sống ở Sài Gòn như tôi, suốt một năm chỉ muốn nằm nhà, muốn nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt cho xong chuyện đời mới thấy được niềm vui hội ngộ ấy như thế nào.” Bài này xin kể cùng bạn đọc đôi nét riêng tư về những cuộc hội ngộ ấy, gọi là chút tậm sự, ghi lại vài kỷ niệm vào cuối năm nay để bạn đọc cho vui trong những ngày cuối năm và thông cảm với “cánh già.” Nếu kể tất cả những người bạn có may mắn ra nước ngoài định cư về thăm tôi từ mấy năm qua thì quá nhiều. Bạn đồng đội, bạn làm báo, bạn ca nhạc sĩ, bạn “giang hồ,” bạn tù mà chúng tôi gọi là “bạn cùng chung một mối căm hờn trong cũi sắt,” tôi không thể kể hết. Tôi chỉ còn biết cảm tạ những tấm lòng của các bạn đã nghĩ đến “người ở lại.” Ở đây tôi chỉ kể đến vài người bạn tôi đã gặp vào dịp cuối năm nay. Hà Huyền Chi trong phim “Người Tình Không Chân Dung” Người lính nhảy dù Hà Huyền Chi, nay vẫn còn là “ông lão nhảy dù” Quán café bên Hồ Con Rùa Trước hết là gia đình ông tu bíp Hà Xuân Du đưa con cháu về VN trong kỳ nghỉ cuối năm. “Phái đoàn” của ông có tới gần 10 người đi từ Nam ra Bắc. Khi con cháu về Mỹ trước, ông bà ở lại thêm vài ngày thăm bạn bè. Bạn của ông hầu hết là gia đình không quân còn ở lại VN. Hai ông bà đến thăm nhà tôi trên cái chung cư cũ rích nghèo nàn “muôn năm cũ,” hôm sau ông còn hẹn tôi ra quán café “Nghệ Thuật” bên Hồ Con Rùa để “tâm sự lẻ.” Chúng tôi chọn quán này vì không có những chân dài phục vụ nên vắng luôn cả những cô cậu choai choai, đầu tóc như tài tử Hàn Quốc, nhạc khua ầm ỹ. Quán này hầu như chỉ có những người đứng tuổi vào đây. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện “bên này bên kia,” ai sống thế nào, cuộc đời dâu biển ra sao. Nhờ đó có thể biết tin tức khá chính xác về hầu hết bạn bè xưa cũ. Kẻ còn người mất với nỗi ngậm ngùi, niềm nhớ nhung thương tiếc vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức, có những kỷ niệm tuy nhỏ nhặt nhưng không thể phai mờ. Ngồi từ 9 giờ sáng, mãi tới 12g trưa quên cả đường về, mới chợt nhớ đã ngồi “ám quẻ” chủ quán quá lâu. Rồi cách đây vài hôm, Mai Bá Trác, gọi tôi cho biết đang ở Sài Gòn nhưng tất nhiên là “cậu Ba” còn về Đà Nẵng thăm mấy chục mẫu đất xưa. Thế nên chúng tôi đặt cho cái nick name “Cậu Ba Đà Nẵng.” Ngay sau đó là “thần đồng âm nhạc”… bây giờ đã có râu Hoàng Thi Thao cũng hiện diện tại Sài Gòn. Ông này quên địa chỉ mail của tôi nên phải “meo” về Mỹ hỏi ông Tạ Quang Khôi số điện thoại. Ngày hôm sau ông gọi lại và hai chúng tôi lại hẹn nhau ở quán Nghệ Thuật, vẫn chuyện ca nhạc sĩ sống ra sao, chuyện đá banh, chuyện tennis. Ông khoái nữ danh thủ quần vợt Ana Ivanovic đẹp chín, dịu dàng; tôi khoái cô bé Bouchard của Canada trẻ khỏe, xinh đẹp như minh tinh màn ảnh. Nhưng chúng tôi cùng chung một nhận định là xem tennis bây giờ giảm thú vị rất nhiều vì giải lớn nào cũng vào tay mấy đàn anh đàn chị như Djokivic, S. Williams. Nhưng câu chuyện tôi muốn kể với bạn đọc hôm nay, đó là chuyện một bài thơ cũ với những con người mới. Chuyện về bài thơ cũ Hôm sau anh Hoàng Khởi Phong vừa về Mỹ trở lại VN, anh hẹn tôi ở quán café Gió Bắc, cũng lại bên Hồ Con Rùa. Biết có Hoàng Thi Thao ở đây nên anh “a lô” cho Thao ra chơi. Thao nói ngay vừa ở quán Nghệ Thuật về đến phòng ngồi với bạn, nhưng rồi anh em cũng kéo nhau ra ngồi “đấu láo.” Trong lúc nhắc đến bạn cũ, Hoàng Khởi Phong hứng chí đọc ngay một bài thơ xưa mà anh cho là rất thú vị đối với anh. Tối về nhà, tôi vẫn còn thấy dư âm bài thơ như còn vương vấn đâu đây. Hôm sau tôi gửi “meo” nhờ anh HKP chép lại cho tôi bài thơ này, anh viết thư trả lời: “Anh Văn Quang và anh Hà Huyền Chi thân Bài thơ này có nhan đề là Hỏi Mộ, của anh Hà Huyền Chi mà tôi đọc lần đầu trong tập thơ “Saut Đêm,” xuất bản vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Đó là một bài thơ dài hơi, nói về cuộc tình của một cô nữ sinh trong trắng, yêu một người lính Nhẩy Dù. Phần tôi đọc cho anh Hà Huyền Chi nghe cách đây cỡ hai chục năm, và đọc cho anh Văn Quang nghe mới cách đây vài ngày là phần cuối của bài thơ này. Tôi chép ra đây để mong là anh Hà Huyên Chi có thể tìm lại đưọc nguyên bản. Đoạn cuối ấn tượng đến độ gần năm chục năm sau tôi còn nhớ đầy đủ, những đoạn đầu chỉ nhớ lõm bõm mà thôi.” Tôi lại phôn cho HK Phong nói ngay, “Thằng này là bạn chí cốt của tôi đấy ông ạ, để tôi meo cho nó gửi cho tôi nguyên con bài thơ đó.” Thế là hôm sau tôi “meo” cho Hà Huyền Chi và được trả lời ngay. Nhưng bạn tôi viết kiểu chữ như chữ Ả Rập. Tôi phải cho vào trang web “chuyển đổi font chữ Việt online” để đổi mã mới đọc ra chữ: “VQuang, HK Phong thân, A/ Máy hư ko bỏ dấu được B/ Tay hư ko viết dài được (stroke) C/ Bài Hỏi Mộ tao viết, có vài kỷ niệm vui sẽ kể sau.” Thì ra bạn tôi vẫn còn bị ảnh hưởng của cú stroke, tay chân còn loạng quạng. Tôi không phải giới thiệu thêm về bài thơ này, bởi bài thơ đã là một câu chuyện tình rất lãng mạn, rất đẹp và rất buồn và chỉ có thể là của một người lính và ra đời trong cuộc chiến của người lính VNCH. Mời bạn cùng đọc: HỎI MỘ (Thơ Hà Huyền Chi – 1963)Khi con chim đầu đàn chập chững bay xa Để lại đằng sau đôi cánh mỏng Những tiếng khóc em thơ Những tóc trắng mẹ già Chuyến độc hành ngày xưa đã trôi vào kỷ niệm Mang tâm tình của một chàng lính chiến Nhớ quê hương, thèm những phút giao tranh. Có một người con gái băng trinh Tuổi mười sáu, chưa xa lìa sách vở Yêu phượng đỏ, yêu luôn mầu Mũ Đỏ Hồn say mê theo dõi bước quân hành Người con gái học trò Men yêu vừa độ nở Gối mộng cuồng si, đêm đêm thầm nhớ Bóng dáng người yêu qua những canh dài Và vẫn bâng khuâng lo sợ Mỗi lần nghĩ đến tương lai. Nhưng tình yêu của hai người Không vì núi sông ngăn cách Người lính Nhảy Dù sau những lần hăng say đuổi giặc Vẫn nhớ về đôi mắt người xưa Và những nụ cười sao vỡ Chiếc dao găm long chuôi Mấy lần ghim trong xác địch Giờ khắc sâu vào lòng đá lời nguyền “Cho đến bao giờ cũng chỉ một mình em.” Người con gái học trò quên dần sách vở Miệt mài chép những thơ yêu Cuộc sống hai người thơ mộng biết bao nhiêu Nhưng người chiến binh nghèo Cay đắng ngậm mối tình dang dở Lần đầu tiên cầu hôn Gia đình nàng từ chối Người lính Nhảy Dù ôm mối buồn cô độc Xin đổi đi xa Cuộc sống âm thầm nơi hành lang biên giới Mang theo niềm thương yêu vời vợi Lời thề xưa trong nếp đá chưa mờ. Người con gái học trò Bây giờ mười chín tuổi Lớn lên bằng tình yêu Bằng những đau thương hờn tủi Ba năm dài sống trong vô vọng Viết hoài thư yêu rồi lại xé đi Rồi một ngày kia Người con gái không nguôi niềm thương đau Nàng đi tìm người yêu cũ Đẹp làm sao con đường Những kẻ yêu thương đang tìm về nhau Chiếc cổng đồn rêu phủ Giữa những hàng dương cao Cuộc hành trình đã đến ga cuối cùng Một nghìn hai trăm cây số Từng bước chân ngập ngừng Nói lên nhiều thương nhớ. Nhưng rồi người con gái học trò Ôm mặt mình nức nở Vì người yêu không về Không bao giờ về nữa Cuộc hành quân sáng nay Người lính Nhảy Dù đã đền xong nợ nước. Người con gái cúi đầu lặng bước Mái tóc tả tơi chiều gió bay Con đường vào nghĩa địa Không một vòng hoa trên tay Bóng nhỏ đổ dài, hoàng hôn lịm chết Hình ảnh người yêu ba năm về trước Nhòe giữa bờ mi nước mắt đầy. Người gác nghĩa địa sau một ngày mệt mỏi Đã bỏ về uống rượu giải phiền Nàng đi một mình âm thầm Giữa những hàng mộ mới Bia vô tình chưa kịp khắc họ tên Nàng hỏi mộ, không mộ nào chịu nói “Anh đâu rồi, sao chẳng trả lời em?” Nàng hỏi mộ, không mộ nào chịu nói “Anh đâu rồi, sao chẳng trả lời em?” Lời nguyền xưa gửi vào lòng huyệt tối. (Trích trong tập “Saut Đêm”)Thưa bạn đọc, Hà Huyền Chi vốn xuất thân từ binh chủng nhảy dù, sau năm 1963 anh mới chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến và làm trưởng Phòng Ấn Họa. Anh sáng tác bài thơ đó lúc anh còn là lính nhảy dù, khoảng 50 năm trước. Tôi muốn hỏi anh người con gái trong thơ là ai, nhưng thiết nghĩ điều đó không còn quan trọng nữa. Hãy cứ hình dung ra đó là một nữ sinh trường Trưng Vương, Gia Long hay Đồng Khánh… Bây giờ cô có thể đã yên phận bên một gia đình mới, gửi chuyện tình đầu đời vào “lòng huyệt tối” và cái “huyệt tối” đó nằm tận cùng trái tim thiếu phụ, không muốn tiết lộ tên thật. Cuộc đời này có biết bao nhiêu mối tình đầu tan vỡ, nhưng không nhẹ nhàng như TTKh, chuyện “hỏi mộ” quá đặc biệt bởi cái tính cách sâu đậm, âm thầm không kém phần cuồng nhiệt. Cái thời mà các “em gái hậu phương thương anh trai tiền tuyến” nói lên giá trị của người lính VNCH đối với người dân còn vang vọng mãi cho tới ngày nay. Câu chuyện tình và hình ảnh trong thơ đẹp như một huyền thoại. Với tôi, đó là một bài thơ chỉ có thể có trong thời chiến, nhưng hay trong mọi thời đại. Về tác giả Hà Huyền Chi, anh đã có hàng ngàn bài thơ trong hàng chục tập thơ đã xuất bản và có tới 80 pps do anh Hy Văn trình bày. Những nhà văn nhà thơ quân đội VNCH, mỗi người có một sắc thái riêng. Người ở không quân, hải quân, người ở bộ binh làm toát lên những màu sắc riêng của mình như Phan Nhật Nam với “mùa hẻ đỏ lửa” còn sống mãi với thời gian. Với Hà Huyền Chi có hàng ngàn đoản khúc, nhưng chỉ có người lính nhảy dù mới có thể có những rung cảm thật đặc biệt như thế này: “…Thân tàu mây vương lắc lư đường trăng Tôi tìm đâu đây một vết sao băng Để nghĩ về em nhiều đêm không ngủ Bóng gày ưu tư đôi mắt thâm quầng Điếu thuốc chuyền tay gắn trên môi nhau Mắt thoáng âu lo nhìn cuối thân tàu Ngọn đèn màu-xanh-yêu-tinh vụt sáng Từng hồi chuông ngân rờn rờn da đầu Vòm trời ngả nghiêng loáng chân mây xa Ô hay tàu trôi theo sông Ngân Hà Phóng mình tôi bay qua khuôn cửa nhỏ Nghe mình chơi vơi lưng dù nở hoa (Trích trong tập “Saut Đêm”) Chỉ người lính nhảy dù mới trải qua những cảm xúc ấy và với tôi, thơ Hà Huyền Chi hay nhưng chỉ có những bài về người lính nhảy dù là xuất sắc hơn tất cả. Bài thơ đầu tiên của anh được giới thiệu trong bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa năm 1960. Thời đó, anh cùng tôi viết trên nhiều nhật báo và tuần báo ở Sài Gòn. Anh cũng từng đóng vai người lính trong phim “Người Tình Không Chân Dung” của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc. Tôi sẽ giới thiệu kỹ hơn về Hà Huyền Chi trong tập “Viết Về Bạn Bè” cùng với những kỷ niệm giữa anh và tôi cùng nhiều bạn hữu sẽ do nhà xuất Tiếng Quê Hương ấn hành vào một ngày gần đây. Ngày cuối năm được gặp lại bạn bè là một hạnh phúc lớn với tôi rồi, chẳng còn mong gì hơn nữa. Năm sau chẳng biết có được gặp lại không. Nhân dịp này kính chúc quý bạn đọc cùng gia quyến một năm mới AN KHANG – MAY MẮN – HẠNH PHÚC. Văn Quang (Ngày 24 tháng Chạp năm Giáp Ngọ (12 tháng Hai, 2015)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 8, 2017 4:54:44 GMT 9
Nhớ Lê Đình Điểu, đọc thơ những năm 1950 Viên Linh/Người Việt Nhà thơ nhà báo Y Dịch Lê Đình Điểu (1939-1999). (Hình: Viên Linh cung cấp) Y Dịch là bút hiệu ký dưới những bài thơ xuất hiện vào nửa cuối thập niên 1950 ở Sài Gòn, tôi vừa đọc lại khi nhớ tới người bạn thuở thiếu thời có bút hiệu ấy, anh Lê Đình Điểu, mà ngày 24 Tháng Năm, cách đây đúng 18 năm, 1999, đã ra người thiên cổ. Anh không làm báo tư nhân trước 1975 ở Việt Nam, song căn bản là một nhà truyền thông. Sau khi đậu cử nhân Anh Văn tại Sài Gòn, anh qua Mã Lai học ngành báo chí và năm 1967 tốt nghiệp Học Viện Báo Chí ở Kuala Lumpur. Trước năm 1975, anh từng là giám đốc thông tin quốc nội thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Khi ra hải ngoại, Lê Đình Điểu một thời là chủ bút nhật báo Người Việt và chủ nhiệm bán nguyệt san Thế Kỷ 21 trong nhiều năm. Chẳng may chứng bệnh hiểm nghèo đã khiến anh ra đi từ thế kỷ trước, ở tuổi 60. Anh sinh ngày 12 Tháng Mười Một, 1939, ở làng hoa Ngọc Hà ngoại ô Hà Nội, chính quán Thanh Oai, Hà Đông. Còn nhớ trong thập niên 1950, một lần tôi ghé căn nhà anh cư ngụ với cha mẹ ở Khánh Hội, Sài Gòn, nhà chỉ có ba người vì anh là con một. Thân phụ anh là thông dịch viên trong quân đội từ thời Pháp thuộc. Căn nhà Khánh Hội lúc ấy ở khá sâu trong một khu đất trũng, từ ngoài đường vào hay từ khu nhà gỗ đi ra người ta phải bước đi trên những thanh ván gỗ. Lần ấy chúng tôi chưa ai tới tuổi 17, tôi tin thế, chỉ từ 17 trở xuống và tôi hơn anh một tuổi. Khi viết những dòng này tôi nhớ tới lần anh từ Paris qua, khoảng trước 1984, đi thăm tôi tại quận Arlington, Virginia, giáp ranh thủ đô Hoa Thịnh Đốn (do cha anh phục vụ trong quân đội Pháp, sau 1975 cả nhà đã xuất ngoại chính thức qua Pháp). Tôi còn nhớ mang máng anh nói trên đường qua California, anh đã ghé vùng thủ đô bằng hữu. Lúc ấy khoảng buổi trưa, đang làm trong một nhà in trên đường Lee Highway, tôi sửng sốt thấy Y Dịch hiện ra ngoài cửa. Một thoáng mấy tờ báo văn nghệ thiếu thời hiện ra, Y Dịch có thơ đăng nhiều lần trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của ông Lê Bá Thảng. Tôi đinh ninh anh còn ở trong trại tù Cộng Sản. Và tôi nhớ tiếng cười của Điểu. Có lẽ nhiều người bạn anh nhớ tiếng cười ấy. Cười ha hả, ròn tan. Cười như thế từ lúc thiếu niên. Gặp lại nhau tôi mới biết ông giám đốc thông tin quốc nội đã đi tù tập trung sáu năm, từ 1975 tới 1981. Dịp ấy hẳn anh cũng đi thăm ông giám đốc thông tin quốc ngoại cùng thời, là Nguyễn Ngọc Bích lúc ấy ở Springfield, không xa vùng tôi. Chúng tôi không thể nói chuyện lâu hơn 15 phút, song cuộc thăm viếng ngắn ngủi ấy của Lê Đình Điểu vẫn vang vọng lâu dài trong trí nhớ bằng hữu thiếu thời khi gặp lại nhau mấy chục năm sau trên xứ người. Chị Lê Đình Điểu đương nhiên biết sự quen biết giữa chồng chị và tôi từ thuở trung học Đệ Nhất cấp, nên nhiều năm sau khi anh qua đời, chị gửi cho tôi một sưu tập quý báu: những bài thơ thời thập niên 1950 mà anh sưu tầm, cắt ra từ các tuần báo, các tạp chí văn nghệ khi các “chàng thi sĩ” còn niên thiếu, trong đó có cả bài thơ đăng báo của tôi làm năm 1957, và vô số thơ của Điểu. Từ một yêu thích cá nhân thời niên thiếu – cắt những bài thơ mình thích dán vào một tập giấy trắng – Lê Đình Điểu vô tình đã để lại một sưu tập quý: những bài thơ thời thập niên 1950 phần lớn là những bài thơ được đăng báo trong thời gian từ Tháng Bảy, 1954, tới năm 1957. Con số không nhiều, nhưng rất đáng quý. Tôi tin rằng các tác giả có thơ được cắt dán, phần lớn nếu không phải là tất cả, trong có tôi, không mấy ai còn giữ được những bài thơ thời niên thiếu ấy. Sau 1954, nhất là trong khoảng năm năm từ 1954 tới 1958, báo chí từ vĩ tuyến 17 trở đi báo nào cũng có mục thơ dù không có trang văn nghệ. Sau này nhìn lại ta thấy tác giả những bài thơ ấy có lớp tuổi còn niên thiếu, chênh lệch chỉ vài tuổi, cỡ từ 15 tới 18 hay 19 tuổi. Trong sưu tập của Lê Đình Điểu, ba bài đầu tiên là của một nhà thơ danh tiếng, anh chọn có lẽ là nhằm vào nhan đề bài thơ: “Sông Núi Giao Thần,” “Những Hướng Sao Rơi,” “Hướng Dương Lòng Nguyện.” Những bài thơ của các tác giả niên thiếu đa số nói đến bến bờ, kẻ ở người đi, chia ly tiễn biệt, hướng về Hà Nội, hay đất Bắc… Hãy lưu ý những nhan đề từ trang đầu trở đi: “Ngoại Ô” (Song Nhất Nữ), “Mùa Trăng Đương Lạnh” (Tường Phong), “Mở Cửa Trùng Dương” (Viên Linh), “Chung Mùa Dân Tộc” (Cao Thâm), “Tâm Sự” (Ngô Thế Hoan), “Chưa Biết Bao Giờ Về” (Chế Tần Lĩnh), “Tin Về Hà Nội” (Chu Anh Thiện), “Thương Về Đất Bắc” (Tô Văn), “Liberté” (Paul Eluard) – “Tự Do” (Thanh Thuyền lược dịch), “Nhớ Xuân Bắc Việt” (Việt An), “Thương” (Trần Minh Phú), “Muôn Trai Tơ Đi Hái Vạn Môi Cười” (Tô Thùy Yên), “Tà Áo Màu” (Hoàng Hương Trang), “Nhớ Thủ Đô” (Nguyễn Hữu), “Nẻo Việt” (Mạc Ly Châu), “Cách Trở” (Diên Nghị), “Ở Lại” (Y Dịch), “Hà Nội Ơi!” (Thế Viên), “Đi” (Vũ An)… Có dịp tôi sẽ trở lại với sưu tập cắt dán này. Ở Lại (Y Dịch) Mai không đi nữa ư em Mộng treo đầu gió, môi mềm nhớ nhung Áo phơi nửa giấc đông phong Nhạt mùi cúc, đẫm sầu đong còn đầy. Mười năm đèn sách rồi đây Đầu hôm nhẩm lại trong tay có gì? – Mẹ đừng níu bước con đi (Trót cho con mộng từ khi ra đời!) Mẹ thì có một con thôi Hai mươi năm lẻ không rời nửa tay. Gió Đông thổi úa lau gầy Để con đi gió vào đày nhà ta! Lạy trời mưa gió chóng qua Mùa Xuân khoác áo hoàng hoa bên thềm. Mai không đi nữa đâu em Mộng treo đầu gió, môi mềm nhớ nhung Giấc đêm trừ tịch vô cùng Vẳng bên tai tiếng núi sông, lên đường. Ngực gầy dậy giấc quê hương Nửa thèm đi nửa lại thương mẹ già. (195…) Nếu Em Vào Đêm Nay (Y Dịch) Giữa lúc tương tư xây tròn khói thuốc Thoáng hình em bay cánh áo màu lam “Dúm cỏ tương tư” xin khói thuốc mơ màng Cho đậm sắc áo em đường nét ngọc. Khói sẽ cay nhớ chiều em ngồi khóc Nước mắt buồn anh nuốt với hôn mê (Như trong chiều nao nhấp ngụm cà phê) Phải vội vã cho tay đừng run rẩy. Chợt rên la như con mồi mắc bẫy Anh vẫy vùng trong lưới của tình yêu Muốn vung tay đập vỡ dáng yêu kiều Nhưng mắt bỗng mờ đi chìm đau đớn…
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 12, 2018 18:40:54 GMT 9
Nhà thơ Tô Kiều Ngân - từ trần - từ đời lính đến Tao Đàn - Văn Quang
Thi sĩ Tô Kiều Ngân Lâu lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng tôi cùng ở chung một thành phố Sài Gòn. Được tin anh từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến tôi ngỡ ngàng. Sau khi xác nhận, tôi gọi điện thoại cho Huy Sơn ở Mỹ trước tiên vì Huy Sơn và Tô Kiều Ngân cùng tôi từng có thời gian dài cùng làm việc trong tòa soạn 3 tờ báo của Quân Đội là Bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyệt san Phụng Sự và tuần báo Thông Tin Chiến Sĩ. Sau này Huy Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm tờ báo Lý Tưởng với Hoàng Song Liêm. Huy Sơn, sau khi ở tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.
Tô Kiều Ngân và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có một lý do riêng. Tô Kiều Ngân ở lại, có gia đình vợ con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở chui hết trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi đến chợ An Đông, cuối cùng về cái chung cư Nguyễn Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm cái “không”. Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc thân thứ thiệt, không đồng xu dính túi, không bạn bè, không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở “trại cải tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối đội phải nhờ tôi đến gieo hạt rau muống cho khu ruộng mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào cũng tốt. Thế mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ nhìn mấy cái hè phố mới được đào xới lên để lát gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau muống thì thành phố không thiếu rau. Cái ước mơ thật ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái gọi là “trại cải tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự thật! Bởi 12 năm, người ta dạy chúng tôi được có thế thôi và thành phố vào những năm đó toàn dép lốp, nón cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là “tăng gia sản xuất” cũng có thể được lắm chứ. Hè phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý nghĩ chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn. Tôi không rõ anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng không biết anh ở đâu. Cái ngõ Phan Văn Trị, nơi anh ở trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc anh còn ở đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn Bình Thạnh và rất ít khi lên trung tâm thành phố gặp bạn bè. Anh có những nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp tổ chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì đó, khoảng năm 2007-2008 tôi mới gặp lại Tô Kiều Ngân. Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi gặp nhau trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm 1977-78. Mừng cho người chết trong nhà tù “cải tạo” Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại, không phải đi lao động. Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy. Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng: – Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi. Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi. Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất:
“Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”. Đám tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời chúng tôi
Nhưng vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, chúng tôi đang làm những công việc cuối cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau lòng. Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp. Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng AK. Suốt con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như những bóng ma. Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái đám ma thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt. Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay nói lời từ biệt. Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu rằng lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. Tất cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó bỗng cất lên tiếng hát “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù. Đoàn tù tha hương cất bước lê trên đường…”. Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương tiếc những chiến sĩ bị giặc bắt cầm tù ở Sơn La. Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế. Hình ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này. Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những cái được gọi là “trại cải tạo”. Tô Kiều Ngân và cuộc đời binh nghiệp Có lẽ nhiều thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn” hơn là biết đến “đời lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng làm chung trong mấy tờ báo của quân đội. Trở lại chuyện xưa, khi tôi mới được lệnh về Nha Chiến Tranh Tâm Lý lúc đó còn trực thuộc Bộ Quốc Phòng, (sau này mới đổi tên thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu), từ năm 1957, khi tôi bắt đầu về làm Trưởng Ban Báo Chí (hồi đó chưa được gọi là Phòng), tôi phụ trách điều hành chung. Hồi đó anh Tô Kiều Ngân phụ trách tờ báo có tên là “Quân Đội”, sau này cụ Ngô Đình Nhu yêu cầu đổi tên, nên chúng tôi đề nghị và được chấp thuận đổi tên thành báo “Chiến Sĩ Cộng Hòa”, ra nửa tháng một kỳ. Báo dành chung cho mọi quân nhân. Tờ nguyệt san Phụng Sự, dành cho sĩ quan do anh Huy Sơn phụ trách. Tòa soạn vỏn vẹn chỉ có chừng 10 người, bởi việc in ấn đã do nhà thầu đảm nhiệm hàng năm. Chúng tôi chịu trách nhiệm biên tập phần nội dung. Ngoài 3 người chúng tôi còn các anh Viêm Hồng, Lý Quảng, Phy Phy… Sau này, khi Cục Tâm Lý Chiến về đường Hồng Thập Tự mới có thêm Huy Vân, Tường Linh, Vũ Công Uẩn. Rồi còn có cả anh Đỗ Tốn, tác giả “Hoa Vông Vang” trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, cũng về làm việc tại Ban Báo Chí. Nhưng ông “công tử con quan” đó chỉ đến cho có mặt rồi lại phóng xe đi. Anh lớn tuổi và cũng là nhà văn thuộc hệ đàn anh, vả lại anh về đó chẳng còn bao lâu đến ngày giải ngũ. Sau nữa có thêm Thanh Nam tái ngũ về làm báo CSCH cùng chúng tôi. Khi mới bước chân vào “nghề làm báo” tôi chỉ là anh viết lách, chưa hề quen với nghề nghiệp này. Công việc mới tuy có thích hợp với khả năng và mong đợi của tôi, nhưng thật ra nghề làm báo chẳng giống nghề viết lách tí nào. Nghề đọc văn người khác, chọn bài và sửa bài không dễ dàng. Bạn có biết bài học đầu tiên trong nghề làm báo của tôi là gì không? Đó là nghề sửa morrasse, tức là làm “thầy cò”. Những năm ấy, tất cả báo chí VN còn in typo, sắp chữ bằng tay rồi làm bản kẽm, hình ảnh làm clicher cho vào khuôn. Báo Quân Đội không phải kiểm duyệt nên không bị “đục bỏ”. Tuy nhiên làm thầy cò cũng không dễ. Phải biết các ký hiệu thay thế chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải biết “dàn trang”, biết trình bày từng bài dài ngắn sao cho đúng khuôn khổ tờ báo… Đó là chút xíu về “kỹ thuật” mà tôi phải học qua các anh Tô Kiều Ngân và Huy Sơn. Tôi và hai anh ấy cùng sửa morrasse, nhưng đến dernière morrasse cho nhà in chạy máy thì tôi phải ký. Tô Kiều Ngân rời khỏi báo Quân Đội Cuộc đời binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi làm tờ báo Tiếng Kèn của Địa Phương Quân ngoài Huế. Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa gia đình từ Huế vào Saigon. Chúng tôi cùng làm chung trong Ban Báo Chí từ năm 1957, lúc đó anh mang cấp chuẩn úy. Cho đến khi dọn về Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè. Một năm sau, tôi được lệnh đi Quân Khu 3 thành lập Đại Đội Văn Nghệ cho quân khu này dưới quyền tướng Đỗ Cao Trí. Đại đội này có cả sự đóng góp rất quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng. Khi Đại đội thành lập xong, đi trình diễn được ở các tỉnh thuộc quân khu, tôi trở lại Nha CTTL. Lúc đó Phòng Tài Liệu do anh Vũ Quang Ninh làm trưởng phòng đang thu thập tài liệu để làm cuốn “Trăm hoa đua nở” về vụ án “Nhân văn giai phẩm tại miền Bắc”. Tôi lại được lệnh về đây phụ giúp anh Ninh thu thập và phân tích những tài liệu này. Bỗng một buổi sáng, vào khoảng năm 1960, tôi được lệnh trở lại Ban Báo Chí ngay. Khi trở lại tòa soạn tôi mới biết anh Tô Kiều Ngân vừa được thuyên chuyển đi đơn vị khác, cũng trong ngành Chiến tranh chính trị (CTCT). Quả thật tôi không hề biết vì lý do nào. Có thể vì nhu cầu công vụ và cũng có thể vì những lý do khác. Tôi cũng không thể tìm hiểu rõ hơn. Anh đến tuổi được giải ngũ năm 1974 khi mang cấp Thiếu Tá phục vụ tại Phòng CTCT Trường Võ Bị Đà Lạt. Lúc đó, để đáp ứng quân số tăng, quân đội có hơn một triệu quân nhân, tờ báo Chiến Sĩ Cộng Hòa phát hành 200.000 số một kỳ, tính ra mỗi tiểu đội được 1 tờ. Sau đó vì nhu cầu tin tức chiến trường ngày một cao, chúng tôi phải làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ, ra khổ lớn hơn, tuần 1 kỳ gồm 8 trang. Đến “cuộc chơi” ở Ban Tao Đàn
Khoảng thời gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau chừng hơn 3 năm và cũng có khá nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ.
Tô Kiều Ngân rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it khi đi ăn chơi cùng chúng tôi. Anh hơn tôi đến 6 tuổi và đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê li bạt” … Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn rách như cái mền, nhưng thứ bảy chủ nhật lại ngứa chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt, vài lần rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh dành thì giờ cho ban Tao Đàn. Đó là khoảng thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là một trong những nhân vật chủ chốt của Ban Tao Đàn ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời quân ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một cuộc chơi. Nhưng cuộc chơi ấy lại để lại dấu ấn đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và thi ca VN. Theo anh Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban Tao Đàn rất đa dạng. Xin trích lược bài nhận định của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng: Những nhân vật then chốt của Ban Tao Đàn
“Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác. Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”. (ngưng trích).
Tiếng sáo của những cảm xúc
Thật ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác. Nếu so sánh với tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi người có một cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài thơ của tác giả và phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm rung động lòng người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi một bài như Thiên Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ họ Tô hơn. Từ biệt Tô Kiều Ngân, người cuối cùng của Tao Đàn ra đi Nhận được tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy Sơn và Hoàng Song Liêm, tôi gọi cho Hàm Anh (còn có bút danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con gái nhà phê bình Thượng Sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị với gia đình anh Tô Kiều Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở trong một xóm nhỏ thuộc quân Bình Thạnh. Người đón tiếp chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc cái cáo phó của gia đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ thấy một sự… hơi lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị Thìn, một bà là Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản cáo phó...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 31, 2020 6:07:19 GMT 9
Kỷ Niệm ‘Tao Đàn’ Phan Lạc Phúc
thi văn Tao Đàn
Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề “chiến binh lội ruộng” về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất.
Về Sài Gòn chưa biết ở đâu, tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy (đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn Thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến trong Bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:
... Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh Về đây cùng nhập một cơn say Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai Dăm bảy lòng sông ôm biển cả Coi đời dưới mắt nhẹ không ai Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén Thân thế chưa đau cát bụi này… Hồ Điệp
Sau hiệp định Genève 1954, nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì Gòn trước, 1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bấy giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới.
Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư gửi mẹ), kịch sĩ, kiêm “ngâm” sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ lưu đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một lũ “xê li bạt” ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông “Ống khói” tạm biệt nơi này vô Đại học sư phạm rồi.
Nhà này phải để sàn rộng rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ lưu đồn nên phải có chỗ cho “vũ sư” tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng, vừa múa vừa hát “Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn…”
Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau “phùng trường tác hí”. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay phượng múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà “Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu”. Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương rượu uống tì tì, càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát “Anh đến thăm em một chiều mưa”. Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.
Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ “văn nghệ”, khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm “sáo sĩ” Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa, (nhà văn nữ Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).
Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam Việt Nam vừa có một thể chế mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh, các đài của Pháp như Pháp Á, Con Nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa; đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát thanh có bổn phận phải “lớn lên” cho kịp với tình hình.
Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ “đem theo văn hóa của một triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam.” Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn. Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống văn hóa.
Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết là thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là “đại bản doanh” của chương trình Tao Đàn.
Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ hai là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương.
Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ, được đời nhớ mãi trong Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương, nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột(*) đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ Bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang đến thập niên ’60 (thế kỷ trước), sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.
Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói: “Mỗi một người bạn là một phần đời sống của mình”. Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh “bốc” đàn anh phán vậy thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng.
Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai? Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Phan Nghị… đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất “lên đường” là Huy Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại ngày xưa hồi ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn, tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe: “Vũ Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông đây”, người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vũ Đức Vinh người bạn thường gọi tôi “bạn cũ trên 50 năm” đã từ biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể lại (chuyện Tao Đàn); mai đây không biết còn kể lại với ai?
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 19:01:43 GMT 9
Về dịch bệnh thời vua Gia Long và cái chết của thi hào Nguyễn Duwww.caidinh.com/Thời điểm đầu thế kỷ 19 có nhiều tai họa tương tự như hiện nay. Dịch bệnh bùng phát ra sao, ảnh hưởng gì trong quá khứ, tác động ra sao đến dòng lịch sử mà chúng ta đang kế thừa? Âu cũng là một dịp để nhìn lại. Nước Việt của vua Gia Long đã ghi nhận thiệt hại có tới 206.835 ca tử vong vì dịch bệnh. Để khắc phục hậu quả, triều đình Huế đã xuất công quỹ 730.000 quan tiền để phát chẩn, mai táng. Dân số Việt Nam vào lúc đó có khoảng 10 triệu, tính ra tổng số thiệt hại nhân mạng là 2% (có nguồn sử liệu nói là 4%), một con số chóng mặt, ngay cả với dân số 90 triệu như bây giờ. Song hiện tại chiúng ta có rất ít tư liệu về dịch bệnh thế kỷ trước. Đại Nam thục lục chép sơ lược : Giáp tuất, Gia Long năm thứ 13 [1814] Quảng Đức có dịch. Sai dinh thần lập sở dưỡng tế ở Thế Lại (tên xã) cho người ốm ở, nhà nước cấp cho tiền gạo thuốc thang. Người chết thì cho tiền và vải để chôn (tiền 1 quan, vải 10 thước). Định lệ thuế bách công. Mỗi năm mỗi người nộp 1 quan 5 tiền, vải trắng 2 tấm. Người nào ứng dịch ở Kinh thì miễn. Năm này, vợ vua Gia Long là "hoàng hậu Tống thị băng, thọ 54 tuổi." Song sử không ghi rõ chết vì nguyên nhân gì. Người Âu tại Việt Nam thế kỷ 19 Ất hợi, Gia Long năm thứ 14 [1815] có hiện tượng người chết vô gia cư, người ốm bị xua đuổi. Hiện tượng này có phải tương tự như hiện nay, dân các vùng dịch sợ hãi chạy khỏi các ổ dịch và bị dân các vùng khác xua đuổi? Vua Gia Long đã ra dụ rằng: "Nuôi dân như nuôi con là việc đầu của vương giả phát chính thi nhân. Trẫm thường lấy lòng thương người mà làm chính sách thương người, mong xa gần đều thông đức hóa, phong tục trở nên thuần hậu. Gần đây nghe có người đau ốm giữa đường, dân sở tại đã không nhận nuôi lại còn ruồng đuổi, chẳng chút lòng thương xót giúp nhau, phong tục ấy rất là bạc bẽo. Từ nay quân dân đi đường có người đau ốm thì chủ quản ở làng xóm đều phải tùy tiện bảo dưỡng, không được ruồng đuổi, mỗi ngày nuôi dưỡng bao nhiêu, nhà nước trả tiền, chết thì cấp tiền chôn cất, để cho kẻ còn người mất đều được nhờ ơn, không một ai phải bơ vơ thất sở. (Cấp tiền nuôi dân và quân mỗi ngày 30 đồng; cấp tiền chôn quân 3 quan, dân 1 quan). " Triều đình phải lập bệnh viện, nhà dưỡng tế, quan trấn thủ kinh thành phó tướng quân Chấn Võ là Trần Văn Tín chết, song không phải tại trận tiền mà ở kinh thành, có phải tử vong vì liên quan nạn dịch? Ngày nay, có các ý kiến lo ngại dịch Covid-19 kéo dài sẽ khiến kinh tế nhiều nước bị suy thoái, thất nghiệp cao, căng thẳng xã hội dẫn tới xung đột, bạo loạn. Năm đó, ở Việt Nam, nạn cướp bóc, nổi dậy xuất hiện ở nhiều nơi: “Thổ phỉ Cao Bằng là Nông Văn Nho hợp đảng sang ăn cướp châu Quy Thuận nước Thanh. Thanh Hoa giặc nổi, cướp bóc các hạt Vĩnh Lộc, Yên Định. Thổ phỉ ở Thái Nguyên đánh cướp Võ Nhai. Hạ lệnh cho các phủ lỵ ở Bắc Thành đều chiếu theo số binh mà trữ hai tháng lương để chi dùng khi có việc.” Dịch từ Ấn Độ sang Tôi tìm lại các sách sử của Pháp thấy họ nhắc tới đại dịch lúc đó gọi là "Typhus Amaril", vào năm 1816 đã càn quét Ấn Độ. Vua Gia Long mất ngày 2/3/1820, thọ 58 tuổi. Xuất thân võ tướng, nếm mật nằm gai, môi trường rèn luyện cơ thể dẻo dai, thường thấy ở hiện tượng các tướng lĩnh đều rất thọ. Vậy cái chết của vua Gia Long trùng vào thời điểm này có phải vì dịch bệnh? Đây là một nghi vấn chúng ta cần xem xét. Thi hào Nguyễn Du cũng ra đi vào năm 1820, khi mới chỉ 54 tuổi. Vị vua mới đã có các chính sách cứu trợ, hoãn bắt lính, khoan sức dân. Đại Nam Thực lục ghi lại Dụ của vua Minh Mạng: "Gần đây lệ khí lan tràn từ Gia Định trở ra đến Quảng Bình nhiều người ốm chết, trẫm nghe thấy rất lấy làm thương. Phàm lính là để giữ nước, vẫn không thể thiếu được, mà đạo nuôi dân cũng nên rộng rãi. Vậy thông dụ cho ở Kinh và các thành dinh trấn phàm việc sung điền binh đinh trốn và chết đều hoãn lại, đợi sau khi lệ khí yên rồi sẽ bắt cũng chưa muộn." "Hữu Tham tri Lễ bộ là Nguyễn Du chết. Du là người Nghệ An rộng học giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Đến bây giờ có mệnh sai sang nước Thanh, chưa đi thì chết. Vua thương tiếc, cho 20 lạng bạc, 1 cây gấm Tống. Khi đưa tang về lại cho thêm 300 quan tiền. " Các bác sĩ Pháp vào đầu thế kỷ 19, là Pierre Lefort, Jean Guyon, Nicolas-Pierre Gilbert, Antoine Dalmas, từ năm 1818 đã tìm kiếm nguồn gốc của căn bệnh này, sau đó được gọi là "bệnh Siam" (bệnh sốt Thái lan). Đông Dương bị rất nặng sốt xuất huyết, người bệnh nôn ra máu đen, mà còn bệnh sốt vàng da, có thể là thêm bệnh viêm gan siêu vi trùng, hay chỉ là một? Dịch Typhus Amaril xuất hiện từ năm 1648 ở Yucatan (Mexico), được đề cập dưới thuật ngữ nôn mửa (nôn ra máu - đen - hoặc xuất huyết). "Sốt vàng da" đã chặn quốc tiến viễn chinh của Pháp qua qua kênh đào Panama (từ 1881 -1889, đã có hơn 22.000 công nhân xây dựng ở đây thiệt mạng. Tội ác của "bệnh Siam", "Typhus Amaril" rất nặng. 1793, ở Philadelphia, khoảng 5.000 người chết, bằng 10% dân số. 1805, 1/3 dân số Gibraltar chết. 1821, tại Barcelona, 20.000 người chết theo một số ước tính. 1878, ở Mississippi 13.000 người chết. Cần lưu ý là mặc dù đã có vaccine, dịch này đến nay vẫn hoành hành. Dịch tễ gia Max Theiler nhận giải Nobel 1951 nhờ tìm ra vaccine chống 'sốt vàng da” (yellow fever), song các năm1960-1962, tại Ethiopia, đại dịch sốt vàng da đã làm 30.000 người chết. Năm 1965, tại Sénégal có hàng trăm trường hợp tử vong. Năm 2010 chỉ riêng châu Phi và Nam Mỹ có tới 60.000 người chết. Trước một chuyến đi làm việc tại châu Phi, tôi phải tiêm 300 euro vaccine chích ngừa trước khi rời Paris vì thời nay dịch bệnh vẫn còn bên đó. Sử chỉ viết dịch từ Ấn Độ sang Hà Tiên rồi lây lan ngược lên phía Bắc của vương quốc của vua Gia Long thời ấy. Ai là những 'tác nhân' đem dịch tới? Chắc chắn là bằng đường biển – như hàng không, tàu cruise ship ngày nay – nhưng có phải là những quân nhân người Âu từng phục vụ vua Gia Long? Cần ghi lại các câu chuyện 'thời đại' Nhân đây, tôi muốn kể về một người Đài Loan có tâm với văn hóa Việt Nam để bổ sung thêm một nguồn tư liệu nữa về dịch bệnh và để nói rằng vào những những thời điểm đất trời chuyển mình thế này, người ta cần sống với giá trị gì. Câu chuyện trở lại với anh Hứa Xán Hoàng (anh Cao) trong bài tôi đã đăng trên trang BBC News Tiếng Việt về “hình ảnh rồng Lạc Long Quân”. Anh Cao có những trang sách chép về dịch bệnh thế kỷ 19, sưu tầm những bài thuốc, những tục lệ, bùa chú, lễ khấn cầu dân gian Việt Nam thường làm mỗi khi có dịch. Ảnh ông Hứa Xán Hoàng, nhà sưu tập sách cổ Việt Nam hiện sống ở Đài Loan Chúng ta hiện rất thiếu những tư liệu nói về những sự việc kể trên. Thiết nghĩ nhân loại nói chung học được từ những sự vấp ngã nhiều hơn từ tiếng kèn khải hoàn, băng cờ chiến thắng, đỉnh cao sáng rực, nên việc xử lý những gì bài học của tiền nhân là trách nhiệm lương tâm. Năm 1992, anh Hứa Xán Hoàng, thương nhân Đài Loan này sang Việt Nam ôm mộng làm giàu nhưng rồi “giác ngộ” về văn hóa, lịch sử Việt và bỏ công sưu tầm. Đến nay anh sở hữu một khối lượng không nhỏ sắc phong, chỉ dụ, văn bản gồm đủ các dấu triện: Mạnh Đức chi bảo, Chế cáo chi bảo, Thảo tội an dân chi bảo, Sắc chinh vạn dân chi bảo, Quốc gia tín bảo, Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành… nghĩa là đủ thứ chuyện từ thăng thưởng các hoàng thân, đại thần từ tước công hầu trở lên, thăng thụ từ tước hầu trở xuống, sai binh khiển tướng, răn dạy thần dân… Một phần câu chuyện về đại dịch thời Gia Long tôi kể trên là có được từ cảm hứng khi gặp anh. Anh Cao trao đổi với tôi: "Khi mới đến Việt Nam, tôi như bị một dạng trầm cảm, vì vừa làm ăn thua lỗ ở Đài Loan. Tôi thường ghé chùa Giác Lâm trên đường Lạc Long Quân, có cây bồ đề tuổi đời ba, bốn trăm năm, gốc cây phải mấy người ôm mới trọn. Trong chùa có hai kệ sách để Kinh Phật cổ, tôi thường lấy ra đọc. Tôi thích ngôi chùa vì đến đó cảm thấy được tĩnh lặng và từ đây, tôi lĩnh ngộ ra được đạo lý. Mấy hôm nay anh nhà báo có nhắc về chữ Tâm, làm gì cũng phải bằng trái tim của mình. Nhưng Tâm thì ở đâu? Tim là cái gì? Những người bình thường nghĩ rằng là, tâm chỉ cần nghĩ thôi. Thật ra không phải là như thế. Nếu bạn chỉ nghĩ thôi, bạn không biết nói ra thành lời, bạn không làm, bạn không hành động thì trái tim cũng như không có. Như vậy là nếu có tâm, cái nơi gần tâm nhất là phải nghĩ, phải tư duy và phải biết biểu đạt và phải làm. Tôi là một người sưu tập, tôi đã làm, tôi cũng đã nghĩ và tôi cũng biết nói ra để cho bạn nghe đó là cách tôi dùng tâm chăm chỉ. Ngôi chùa Giác Lâm đã ảnh hưởng lớn nhất đến tôi chính ở điểm này. Trong chùa có hai câu đối. Câu đôi bên trái có một chữ chân như chân thật (左丿為真). Câu đôi bên phải có một chữ chính như chân chính (右\為正). Chữ chân và chữ chính này, tôi không hiểu ý nghĩa là gì.Tôi đã đọc rất nhiều lần nhưng mà không đoán ra, (Tả丿-vi chân, Hữu\-vi chính). Sau đó có một hôm, tôi nghĩ ra, đôi chữ này có ý nghĩa như thế nào. Hai nét phải và bên trái của câu đối (丿\), ghép lại thành chữ ‘人 -Nhân. Vậy làm người cần có hai điều, thứ nhất là’ Thật’, thứ hai là ‘Chính’. Chính người Việt Nam dạy tôi, làm người là phải thật và phải chính. Anh Phong có hỏi tôi làm sao có duyên với Việt Nam thì chính từ chùa này, cũng chính từ trái tim tôi ". Xem ảnh anh Cao đi giảng kinh nghiệm điền dã về Việt Nam tại nhiều trường Đại Học Đài Loan, Trường Trung Sơn, Trung Quốc, hoặc hợp tác khai thác những thư tịch cổ, sách thuốc Việt Nam với các giáo sư Nhật, Mỹ, Hàn quốc, tôi thấy buồn. Ông Nguyễn Tuấn Cương, Viện trưởng Viện Hán Nôm Việt đánh giá: "Sưu tầm của ông Hứa Xán Hoàng vượt xa tất cả những tài liệu có trong thư viện Yenching của Đại học Harvard, Học viện Viễn Đông của Pháp, Toyo Bunko của Nhật, Đại học Leiden của Hà Lan cộng lại." Chính phủ Việt Nam có nên tặng Hứa Xán Hoàng một chiếc huy chương Lao động cho 20 năm đẹp nhất cuộc đời ông đã âm thầm hy sinh cho chúng ta? Thời gian, giặc giã, con người, thành kiến và dốt nát đã triệt phá gần hết kho tàng văn hóa của tiền nhân, mà ngay thời cận đại chúng ta cũng đã mất nhiều. Việt Nam 200 trăm năm trước tưởng chừng là một ốc đảo thanh bình, cuộc nội chiến Nguyễn-Tây Sơn đang dần dần lành vết thương, cũng không thoát được cuộc lưỡi hái của thần chết, dịch bệnh. Chiến tranh, bệnh dịch luôn là một phần của trào lưu quốc tế, liên kết Ấn Độ, Trung Hoa, Pháp, Việt Nam với cả những hòn đảo xa xôi giữa đại dương như vùng biển Caribbean. Ngày nay toàn cầu hóa làm dịch đi nhanh hơn, chúng ta đang tập trung tuyên truyền 'thành tích’ ghi điểm cho quan chức, rồi nhà nhà 'thi đua từ thiện', mà quên phần mất mát, đau thương? Nguyễn Du ra đi để lại câu giã biệt “Ba trăm năm nữa ai người khóc Tố Như?” Câu chuyện anh Hứa Xán Hoàng sưu tầm sách, thư tịch cổ Việt Nam trong lặng lẽ cũng như vậy. Ngày mai, ai là người khóc cho chúng ta? Albert Camus viết ‘Dịch hạch’, tác phẩm ghi lại một thời đen tối của châu Âu giữa thế kỷ 20, giờ đây có ai ở Việt Nam cầm bút để ghi lại nỗi đau nhân loại ngày hôm nay? Tôi chỉ hỏi, các bạn tìm câu trả lời. . Phạm Cao Phong (bbc.com, ngày 09.04.2020)
|
|