Post by NhiHa on Jun 4, 2013 6:54:55 GMT 9
Nghệ thuật múa rối muôn màu, muôn vẻ
(VienDongDaily.Com - 11/01/2013)
Băng Huyền/Viễn Đông
Con rối dây đã hoàn thành với người mẫu Keith Anthony - ảnh: David Trần
Người nghệ sĩ dùng bàn tay đỡ con rối, đồng thời điều khiển độ chuyển động của mí mắt, nhãn cầu, lông mày và miệng con rối; còn tay kia điều khiển đôi tay của con rối cử động linh hoạt, khiến con rối trở nên vô cùng sinh động, khéo léo đến từng chi tiết trong từng hành động, biến câu chuyện mà con rối kể lại trở nên lung linh, huyền ảo, ly kỳ hấp dẫn, cuốn hút không chỉ với lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng, mà với cả người trưởng thành.
Múa rối là một nghệ thuật độc đáo. Bao gồm nghệ thuật xếp trò, nghệ thuật tạo hình con rối, vốn được chế tác công phu, và kỹ thuật điêu luyện của người nghệ sĩ điều khiển con rối trong khoảng không gian trình diễn, ánh sáng sân khấu, cùng âm nhạc phù trợ, chắp cánh cho con rối biểu cảm nội tâm, tình huống sân khấu thật lôi cuốn.
Đang tạo hình con rối dây ở trường Puppets in Prague - ảnh tài liệu lưu trữ của trường
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên và ước mơ về Rối
Mong muốn phổ biến nét độc đáo của nghệ thuật múa rối và truyền tình yêu của mình qua nghệ thuật này đến với nhiều người, vào tháng 2 năm 2011, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên được sự bảo trợ của Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ – VAALA và Kenneth Picerne Foundation, đã mở lớp dạy múa rối miễn phí dành cho các học viên thiếu nhi lẫn người lớn, ngay tại văn phòng của hội VAALA.
Khi còn ở Việt Nam, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên từng theo học một thời gian bộ môn Hát Bội tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, và đã tốt nghiệp đạo diễn sân khấu tại trường này khi ông theo học ngành đạo diễn sân khấu và diễn xuất bên thoại kịch. Riêng về múa rối, ông có học như một bộ môn, là phương tiện để giúp giáo viên dạy các em nhỏ tiểu học, ngay trong thời gian ông học trường Sư Phạm Sài Gòn trước năm 1975. Khi sang định cư tại Hoa Kỳ, ông đã theo học nhiều khóa huấn luyện về bộ môn múa rối, đặc biệt là múa rối sử dụng dây qua chương trình “Puppets in Prague” (“Múa Rối ở Tiệp Khắc”) được thực hiện tại Washington D.C.
Ông cũng từng theo học kịch câm dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ Pháp Marcel Marceau, cha đẻ của nền kịch câm hiện đại thế giới, vào năm 2003.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên có tham gia trình diễn một số tiết mục múa rối cho trung tâm Vân Sơn, do chính ông biểu diễn và sáng tạo, mang tên “I who have nothing”, “Uyên ương hồ điệp mộng”, “Khúc hát đào nương”. Qua những tiết mục rối này, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên đã lột tả được cái “thần” của nhân vật, thổi vào con rối hồn khí của người diễn, điều khiển con rối qua các động tác dứt khoát, linh hoạt và đạt sự tinh tế của nghệ thuật rối.
Dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, các học viên lớp Múa Rối tại hội VAALA đã được học những kỹ thuật căn bản của nghệ thuật múa rối, cách làm con rối, luyện giọng, tự viết kịch bản và dàn dựng biểu diễn một vài tiểu phẩm. Khóa học kéo dài một năm, một tuần 2 buổi học, đã kết thúc vào tháng 2 năm 2012, với 3 buổi diễn trước các khán giả do các học viên của lớp tự dàn dựng và trình diễn các tiết mục từ 5 đến 10 phút.
Chân dung của Trần Tường Nguyên - ảnh: Jonathan Narvaez
Nói về mục đích của lớp học này, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên tâm sự: “Tôi nhận thấy trong bao năm qua, ngay trong cộng đồng của chúng ta tại Hoa Kỳ, không có buổi diễn múa rối nào, nên tôi muốn có thêm một hoạt động nghệ thuật để đóng góp cho các bộ môn nghệ thuật trong cộng đồng được phong phú thêm. Ngoài ra mục đích lớn nhất khi mở lớp học đó, tôi muốn đào tạo những người nghệ sĩ không chuyên, có khả năng làm rối, tự sáng tạo câu chuyện theo suy nghĩ của họ, giúp họ tự khai thác khả năng sáng tạo của mình một cách độc lập. Vì làm nghệ thuật mà không độc lập, thì sẽ không bộc lộ được hết những suy nghĩ của mình. Tôi giúp học viên mạnh dạn làm những gì mình muốn làm, chứ không phải sợ cái này, sợ cái kia, sợ người ta không hiểu. Nghệ thuật thì không có đúng, sai, mà rất cần sự sáng tạo được khai phóng, người thực hiện làm theo cảm nhận của mình, phát triển suy nghĩ độc lập của mình, chứ không theo bài bản nào. Để rồi sau khi kết thúc khóa học, tôi rất mong các học viên sẽ tiếp tục sáng tạo thêm từ căn bản nghệ thuật rối đã học được, để tham gia các tiết mục múa rối của mình trong những lễ hội ở trường học, những buổi họp mặt, hội hè trong cộng đồng”.
Định nghĩa về con rối, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng với những vật vô tri dưới mọi hình thù, cục gỗ, khuc cây, tờ báo… thông qua sự điều khiển, người nghệ sĩ làm sao cho những vật ấy cử động, nhúc nhích được, biểu đạt điều gì đó, thì nó trở thành con rối. Theo nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, nếu mình tự làm được con rối, thì mình sẽ diễn được. Người nghệ sĩ múa rối cần phải tự làm con rối của mình, khi diễn con rối sẽ có hồn hơn.
Vẻ đẹp muôn màu của Rối
Múa rối giống như xiếc, âm nhạc, nó có đặc tính dân tộc và quốc tế, tồn tại dưới nhiều hình thức trình diễn, là loại hình nghệ thuật sân khấu có nhiều thể loại con Rối khác nhau, xuất hiện ở hầu hết các quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời.
Được biết trên thế giới, các loại múa rối được phân loại dựa theo vị trí của người điều khiển. Nếu người nghệ sĩ điều khiển khuất ở phía dưới, đưa rối hiện hình lên bên trên, thì đó là loại rối tay, rối que. Rối tay gồm một cái đầu bằng gỗ gọt và một túi vải rộng lam thân mình, con rối hoạt động được là nhờ các ngón tay và bàn tay của người điều khiển. Rối que gồm một que điều khiển đầu và mình con rối và các que phụ điều khiển hai tay con rối.
Diễn viên điều khiển rối từ trên nhìn xuống, mà tung tăng uốn lượn cho sự chuyển động của rối, uyển chuyển và sinh động là loại rối dây. Rối dây là loại con rối có đầy đủ các bộ phận chính yếu như đầu, cổ, mình, chân tay... ghép vào nhau bởi các khớp có thể cử động được. Bộ máy điều khiển gồm một bàn máy có các dây dài nối xuống các bộ phận cần phải cử động của con rối.
Điều khiển rối từ sau ra trước hay điều khiển ngang là loại rối Nhật Bản. Rối Nhật Bản có kích thước rất lớn (0,8 mét đến 1,3 mét) gồm đầy đủ các bộ phận của cơ thể người. Có ba người điều khiển đứng đằng sau con rối. Người điều khiển chính làm cử động đầu và tay phải con rối. Người điều khiển thứ hai lam cử động tay trái con rối và người thứ ba điều khiển các chân con rối.
Đây là ảnh tiết mục múa rối "Khúc Hát Đào Nương" với Lương Nhật Tiến - ảnh: Đỗ Quang
Rối đen là rối đòi hỏi kỹ xảo và kỹ thuật biểu diễn khá cao. Khi trình diễn, trên sân khấu mắc phông màu đen để che giấu diễn viên, sử dụng một loại đèn đặc biệt có ánh sáng cực tím và các diễn viên phải mặc trang phục màu đen để khi trình diễn khán giả không thể nhìn thấy các diễn viên đang hiện diện trên sân khấu. Rối đen cho phép tạo sự thay hình, đổi dạng bất ngờ của con rối, gây cảm giác huyền ảo, ma quái, thần bí cho nhân vật và câu chuyện. Khác với những loại rối thông thường, những con rối trong nghệ thuật rối đen được tạo hình từ những mảnh vải sặc sỡ hay các vật liệu phản quang, có thể bay bổng, nhảy múa trên không trung theo ý của người điều khiển…
Rối bóng, là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ điển, kết hợp những yếu tố của âm nhạc, múa, sự ứng khẩu nhanh trí, những tấn hề vui nhộn, và thay vì trực tiếp nhìn thấy những con rối, khán giả chỉ nhìn thấy cái bóng của chúng.
Nét đẹp của Múa Rối Việt Nam
Nhận xét về nghệ thuật múa rối của Việt Nam, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên nói rằng, khi nói đến múa rối, người ta chỉ hình dung đó là con rối diễn trên sân khấu, nhưng nói đến múa rối ở Việt Nam, mọi người sẽ hình dung ra có hai loại hình: rối cạn, diễn trên sân khấu như của thế giới, và độc đáo vô cùng là rối nước. Khái niệm rối nước, chỉ có ở Việt Nam, và của riêng đồng bằng miền Bắc thôi, chứ miền Nam cũng không có nghệ thuật này.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng múa rối nước của Việt Nam không chỉ độc nhất vô nhị so với thế giới, mà còn là nghệ thuật tuyệt diệu tựa thế giới thần tiên, kỳ ảo, đã thu phục tình cảm của ông thật trọn vẹn khi ông có cơ hội thưởng thức những tác phẩm rối nước khi còn ở Việt Nam.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên không phải là khán giả duy nhất mến yêu nghệ thuật rối nước Việt Nam. Nghệ thuật này không chỉ thu phục được các khán giả trong nước, mà với khán giả ngoại quốc, rối nước Việt Nam cũng được yêu thích. Rối nước của Việt Nam, không thuộc về các loại rối tay, rối dây, hay rối que… như của thế giới, mà lại là rối sào phối hợp với rối dây. Dụng cụ là mỗi cây sào dài độ 2 thước rưỡi - 3 thước, có khi dài hơn. Người diễn viên điều khiển được dễ dàng là nhờ sào ở dưới nước. Nước che cả sào, dây và các máy móc đặt trước để thể hiện những trò diễn như bắt cờ, đánh đu... người nghệ sĩ điều khiển rối nước không phải là từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, hay người điều khiển phải ẩn mình vào con rối như ở Nhật… Mà người điều khiển phải cách khoảng thật xa, nhờ hệ thống dây đặt trước với một số cọc, và con rối dính với dây và cây cọc đó. Người điều khiển ở sau mành tre, hai tay luồn sau qua tấm mành và điều khiển sào hoặc dây làm cho rối cử động. Xin được nói chi tiết hơn về những độc đáo của nghệ thuật rối nước trong một bài viết khác.
Nghệ thuật múa rối không chỉ hấp dẫn người xem về hình thức trình diễn đa sắc màu, mà còn có nội dung đa dạng. Múa rối có khả năng biểu đạt mọi nội dung trong đời sống con người và xã hội. Tác phẩm đó có thể được thể hiện qua những trò diễn, những tiết mục ít sử dụng lời nói, với nội dung phản ảnh bản sắc văn hóa riêng biệt, thông qua các phong tục, tập quán và tôn giáo của mỗi vùng miền, mỗi lãnh thổ quốc gia khác nhau. Hay tác phẩm đó sẽ đề cập đến các sắc thái tình cảm trong tình yêu, sang hèn, vui, buồn, về cái thiện, cái ác, về anh hùng, tiểu nhân, và mọi cung bậc tâm lý, đạo đức của đời sống con người, thông qua các truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết và sử thi. Hoặc tác phẩm đó tập trung phản ảnh những vấn đề của xã hội, như vấn đề ô nhiễm môi trường thiên nhiên, ô nhiễm trong môi trường xã hội và trong các mối quan hệ giữa ngươi với người…
Qua nhiều tài liệu mà người viết tìm hiểu, được biết riêng về nghệ thuật rối cạn Việt Nam, xuất hiện ở hầu hết các dân tộc thiểu số, thì con rối là vật hiển linh trừ tà ma treo trước cửa nhà, mộ người mới chết, trong các lễ hội…
Nghệ thuật rối dây, rối que dùng để diễn các tích truyện Trung Quốc cổ xưa như Quan Công, Trương Phi, Sơn Hậu… thường được những sắc tộc phía Bắc Việt Nam như Tày, Nùng, Thái… biểu diễn. Các sắc tộc phương Nam, miền Trung và Tây Nguyên, người Chăm thì có rối tay, rối bóng, thường diễn các tích thần thoại Ấn Độ. Còn người Tây Nguyên, Khmer miền Nam có các trò rối que, rối dây, mang dấu tích văn hóa vùng Đông Nam Á.
Nghệ thuật múa rối thông qua con rối, cùng với ngôn ngữ của rối, khi thì có lời thoại, khi thì là ngôn ngữ kịch câm, với hình ảnh và âm nhạc được hòa quyện chặt chẽ với nhau trong một trò chơi đầy cảm hứng, kích thích trí tưởng tượng của người xem. Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nghệ thuật múa rối vẫn được các nghệ sĩ như nghệ sĩ Trần Tường Nguyên tiếp tục gìn giữ, và phổ biến, để thêm thi vị cho đời sống tinh thần của mọi người. - (BH)
Nghệ thuật rối nước Việt Nam
(VienDongDaily.Com - 26/01/2013)
Băng Huyền/Viễn Đông
Trước khi được đẽo, khắc, tô màu, chúng vốn là những khối gỗ mộc mạc, vô tri, nhưng dưới bàn tay khéo léo của các nghệ nhân gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau, những con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, khiến chúng trở nên có hồn. Mặc dù các nghệ sĩ cũng điều khiển những con rối làm trò như các loại hình rối khác, nét đặc biệt của nghệ thuật rối nước là lấy mặt nước làm sân khấu biểu diễn. Mỗi con rối mộc mạc, đơn sơ thể hiện vẻ đẹp hồn nhiên, thuần khiết, ngộ nghĩnh, thơ ngây qua các tích trò dân gian, được diễn vào những dịp lễ lạc, hội làng, ngày vui, ngày Tết cổ truyền. Rối nước là nghệ thuật dân gian, làng quê Việt. Những cánh đồng lúa mênh mông, cùng chen lẫn là những đầm, hồ, sông, ngòi, ao… là điều kiện cho múa rối nước có thể tồn tại và phát triển trong dân gian từ ngàn xưa. Khởi nguồn của nghệ thuật này với các nghệ sĩ điều khiển con rối, những nghệ nhân làm ra con rối đều là nông dân gắn bó với ruộng đồng. Qua trò diễn rối nước, người dân đã gửi gắm vào đó bao mơ ước, bao điều giản dị để làm nên một không khí hội hè đình đám nơi thôn quê.
Sân khấu rối nước - ảnh tham khảo: Wiki
Sân khấu đồng quê
Âm thanh rộn ràng của trống nổi lên, rẽ tấm mành trúc, xuất hiện một con rối là chú Tễu để tóc trái đào, thân hình tròn trĩnh, da trắng hồng, đôi mắt đầy vẻ tinh nghịch và miệng tươi cười, mặc chiếc áo nẹp không tay, không khuy cài để hở cái bụng quả dưa rồi cất tiếng hát giới thiệu chương trình. Chú là một nhân vật tưởng tượng từ thượng giới xuống gỡ những rắc rối của trần gian, của những trò rối. Hát xong, chú tiến lại bánh pháo treo trên một cây sào cắm giữa ao và châm lửa. Pháo nổ ran mặt nước và ban đồng ca cất tiếng hát báo hiệu sắp kéo cờ. Những lá cờ nổi lên từ mặt nước và đi tới cột cờ phần phật trước gió. Tiếng trống càng thêm rộn rã. Những điệu múa uyển chuyển khi cá chép hóa rồng bay lên trời cao. Con hạc xòe hai cánh, mổ lên cổ một con rùa đang rẽ nước mặt hồ, vừa bơi vừa lắc lư đầu… trong không gian với đình làng, cây đa, lũy tre và những cánh bèo xanh dập dềnh trên mặt nước.
Khi xem các tích trò của rối nước, khán giả có thể bắt gặp cả một làng xã Việt Nam hồn hậu, xinh tươi và không kém phần hài hước, hay những cảnh đời thường ngày, những sinh hoạt dung dị đến ngạc nhiên, ngợi ca "thú điền viên ruộng đồng" của người nông dân Việt. Các trò diễn thường được mở đầu bằng sự giới thiệu của chú Tễu, đó có thể là những sinh hoạt đời thường như: công việc nhà nông, câu ếch, cáo bắt vịt, giã gạo, xay lúa, cha cầy, mẹ cấy, em bé chăn trâu, anh chị quăng chài, thả cá, chăn vịt, dệt khung cửi… Cùng các trò vui dân gian như hát chèo, hát tuồng, cả làng vui hội hè, đấu vật, chọi gà, chọi trâu, đua ngựa, đấu kiếm, đánh đu, đua thuyền, thi bơi, múa lân, múa rồng, múa tiên… Ngoài ra còn có các tích trò mang tính lịch sử như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đinh Bộ Lĩnh, Hưng Đạo Đại Vương, Lê Lợi... Những tích trò này thường chỉ diễn theo đoạn nhưng mang nội dung nhất định để người xem hiểu được ý đồ của đoạn diễn. Hay các tiết mục mang nghi thức tôn giáo Tô Tượng Đúc Chuông, Vinh Quy Bái Tổ, rước thánh, rước thần… Hoặc trích đoạn một số tích cổ: Thạch Sanh, Tấm Cám…
Sự thô vụng cứng nhắc của các con rối gỗ được dung hòa một cách tuyệt vời với màn nước mềm mại, phản quang lung linh. Nước vừa cản trở, vừa hỗ trợ, phối hợp, làm uyển chuyển, biến hóa khôn lường màu sắc và hình khối của con rối. Nước giấu trong lòng mọi bí ẩn của trò rối. Nhân vật thoắt ẩn, thoắt hiện trên mặt nước nửa như bí ẩn, nửa như phơi bày. Những tiếng trống, tiếng pháo, âm vang qua nước và khoảng không thoáng, rộng cũng trở nên dịu dàng, dễ nghe hơn.
Mục đồng cưỡi trâu - ảnh tham khảo: Thomas Schoch/Wiki
Chỉ có tại Việt Nam
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, dù chưa một lần có cơ hội học nghề tạo ra những con rối nước, chưa một lần được học cách điều khiển rối nước, nhưng qua những lần xem các nghệ sĩ rối nước biểu diễn khi ông còn sống ở Việt Nam, trước khi đến định cư tại Mỹ, cùng những kinh nghiệm của ông đã có trong việc trình diễn, sáng tạo ra rối dây, rối que… ông luôn luôn dành tình cảm trìu mến và thán phục đối với các nghệ nhân, nghệ sĩ trình diễn nghệ thuật rối nước Việt Nam.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên nhận xét múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống độc đáo, một sáng tạo đặc biệt của người Việt ra đời cách nay cả ngàn năm. Múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, còn múa rối nước thì trên thế giới chỉ duy nhất chỉ có tại Việt Nam, và là một sáng tạo văn hóa độc đáo của riêng người dân trồng lúa nước vùng châu thổ sông Hồng ra đời cách nay cả ngàn năm. “Nhưng do triều đình, quan lại địa phương không sẵn sàng ủng hộ, coi nhẹ những môn nghệ thuật diễn xướng dân gian, nên múa rối nước mất đi chỗ dựa chính thống và gần như nó không tồn tại trong cuộc sống tầng lớp trên. Tuy nhiên, dưới sự bao bọc và dung dưỡng của dân gian, rối nước đã phát triển mạnh mẽ ở các làng quê và nó tồn tại dưới hình thức phường hội. Cũng chính vì thế, rối nước có một quá trình không đồng nhất và nó mang nhiều sắc thái của mỗi địa phương hay từng vùng miền. Sự đa dạng về phong cách, khác nhau chất liệu thể hiện, hay khác nhau về đặc trưng vùng miền nhưng lại có chung một một nền tảng văn hóa, văn minh lúa nước dân tộc Việt”.
Vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật rối nước
Qua sự hiểu biết của bản thân và tìm hiểu thêm từ tài liệu đã được phổ biến trên mạng lưới toàn cầu, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng nét độc đáo của sân khấu trình diễn rối nước chính là các "nhân vật" đều hoạt động ở dưới nước. Từ con trâu đến con rồng ở dưới nước mà vẫn phun ra lửa mới thật là tài nghệ.
Những con rối diễn ở sân khấu Thủy Đình, được xây cố định dưới ao, hồ, hay bể chứa nước lớn (đối với những sân khấu di động dùng để đi lưu diễn). Sân khấu được dựng lên ở giữa mặt nước với kiến trúc cân đối, tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Buồng trò, sân khấu với cờ, quạt, cổng hàng mã... là một khu đình làng thu nhỏ với những mái uốn cong, lung linh phản chiếu trên mặt nước. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chương trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối cùng.
Những con rối nước dân gian nếu làm bằng gỗ tốt sẽ nặng và chìm, do đó chúng thường được làm gỗ sung, là chất liệu thông dụng để tạc con rối, vì loại gỗ này nhẹ và dai, rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới nước. Sau khi con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, chúng được các nghệ nhân trang trí để tôn thêm tính cách cho từng nhân vật đặc sắc hơn. Dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại, những con rối này đều có hai phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động. Trò rối nước là trò khéo, lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt.
Máy điều khiển rối có hai dạng: máy dây và máy sào. Tất cả các bộ phận máy điều khiển con rối đều được giấu kín dưới mặt nước. Nghệ sĩ điều khiển chúng qua sợi dây nối từ quân rối tới vị trí của mình. Hai tay, hai chân chỉ huy, mắt dõi theo hành động của quân rối vẫy vùng trên sóng nước. Thông thường mỗi buổi diễn cần rất nhiều người, đôi khi 2-3 người mới điều khiển được một con rối. Rối nước được thiết kế có đế bằng gỗ cùng các phụ kiện lắp ghép bên trong nên rất nặng. Người điều khiển cần có sức khỏe và tập trung để di chuyển con rối uyển chuyển, nhịp nhàng. Từ sau tấm mành, người nghệ sĩ thao tác từng cây sào, thừng, vọt… hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước dùng các máy dây giấu dưới nước để điều khiển con rối. Một phần họ tận dụng sức nước để lái và làm cho con rối nổi, phần thì dùng tay điều khiển các máy dây. Nhờ vậy mà họ có thể làm cho các con rối xuất hiện hay biến đi rất nhanh. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa đôi tay khéo léo của người nghệ sĩ thông qua sợi dây làm cho quân rối biến hóa khôn lường, tạo cho người xem những cảm xúc buồn, vui, như chính những con rối đang vẫy vùng trên mặt nước.
Âm nhạc múa rối
Rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc trong múa rối nước giúp gắn kết các tiết mục với nhau. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chính của trò rối nước, nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng miền Bắc. Tích trò rối nước thường không lời, nếu có thì chỉ là những câu ca dao mang tính chất giới thiệu, minh hoạ, làm nền... Cho nên, rối nước cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. Các phường hội dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ. Ngoài ra còn có pháo, tù và hỗ trợ đắc lực cho trò diễn. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động. Loại hình nghệ thuật này còn là sự kết hợp ăn ý của dàn nhạc, hệ thống ánh sáng, khiến màn biểu diễn rối nước trở nên vô cùng sống động. Cùng với cảnh sắc thiên nhiên hài hòa thơ mộng của sân khấu ao làng, với đất, nước, mây, gió, cùng hiệu ứng khói, tia lửa, sương mờ như khói lam chiều, lan tỏa trên mặt nước, trên những mái đình ngói đỏ cong vút và những con rối là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian, dẫu khô cứng, nhưng trên mặt nước, chúng lại trở nên duyên dáng, biến hóa một cách kỳ ảo tuyệt vời.
Thông qua các tích trò của rối nước, người xem cảm nhận được sắc thái của hội làng, phảng phất những mơ ước bình dị cho cuộc sống, với vẻ đẹp dịu dàng, man mác đồng quê, sự chịu thương chịu khó tần tảo sớm hôm lo cho cuộc sống, hay sự quật cường anh dũng bảo vệ nơi chôn rau cắt rốn khi kẻ thù xâm chiếm bờ cõi giang sơn của cha ông, biến những tích trò rối nước, một vẻ đẹp của nghệ thuật dân gian Việt thật trần tục gần gũi lại vừa linh thiêng, huyền ảo, diệu kỳ. -(BH)
(VienDongDaily.Com - 11/01/2013)
Băng Huyền/Viễn Đông
Con rối dây đã hoàn thành với người mẫu Keith Anthony - ảnh: David Trần
Người nghệ sĩ dùng bàn tay đỡ con rối, đồng thời điều khiển độ chuyển động của mí mắt, nhãn cầu, lông mày và miệng con rối; còn tay kia điều khiển đôi tay của con rối cử động linh hoạt, khiến con rối trở nên vô cùng sinh động, khéo léo đến từng chi tiết trong từng hành động, biến câu chuyện mà con rối kể lại trở nên lung linh, huyền ảo, ly kỳ hấp dẫn, cuốn hút không chỉ với lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng, mà với cả người trưởng thành.
Múa rối là một nghệ thuật độc đáo. Bao gồm nghệ thuật xếp trò, nghệ thuật tạo hình con rối, vốn được chế tác công phu, và kỹ thuật điêu luyện của người nghệ sĩ điều khiển con rối trong khoảng không gian trình diễn, ánh sáng sân khấu, cùng âm nhạc phù trợ, chắp cánh cho con rối biểu cảm nội tâm, tình huống sân khấu thật lôi cuốn.
Đang tạo hình con rối dây ở trường Puppets in Prague - ảnh tài liệu lưu trữ của trường
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên và ước mơ về Rối
Mong muốn phổ biến nét độc đáo của nghệ thuật múa rối và truyền tình yêu của mình qua nghệ thuật này đến với nhiều người, vào tháng 2 năm 2011, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên được sự bảo trợ của Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ – VAALA và Kenneth Picerne Foundation, đã mở lớp dạy múa rối miễn phí dành cho các học viên thiếu nhi lẫn người lớn, ngay tại văn phòng của hội VAALA.
Khi còn ở Việt Nam, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên từng theo học một thời gian bộ môn Hát Bội tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, và đã tốt nghiệp đạo diễn sân khấu tại trường này khi ông theo học ngành đạo diễn sân khấu và diễn xuất bên thoại kịch. Riêng về múa rối, ông có học như một bộ môn, là phương tiện để giúp giáo viên dạy các em nhỏ tiểu học, ngay trong thời gian ông học trường Sư Phạm Sài Gòn trước năm 1975. Khi sang định cư tại Hoa Kỳ, ông đã theo học nhiều khóa huấn luyện về bộ môn múa rối, đặc biệt là múa rối sử dụng dây qua chương trình “Puppets in Prague” (“Múa Rối ở Tiệp Khắc”) được thực hiện tại Washington D.C.
Ông cũng từng theo học kịch câm dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ Pháp Marcel Marceau, cha đẻ của nền kịch câm hiện đại thế giới, vào năm 2003.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên có tham gia trình diễn một số tiết mục múa rối cho trung tâm Vân Sơn, do chính ông biểu diễn và sáng tạo, mang tên “I who have nothing”, “Uyên ương hồ điệp mộng”, “Khúc hát đào nương”. Qua những tiết mục rối này, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên đã lột tả được cái “thần” của nhân vật, thổi vào con rối hồn khí của người diễn, điều khiển con rối qua các động tác dứt khoát, linh hoạt và đạt sự tinh tế của nghệ thuật rối.
Dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, các học viên lớp Múa Rối tại hội VAALA đã được học những kỹ thuật căn bản của nghệ thuật múa rối, cách làm con rối, luyện giọng, tự viết kịch bản và dàn dựng biểu diễn một vài tiểu phẩm. Khóa học kéo dài một năm, một tuần 2 buổi học, đã kết thúc vào tháng 2 năm 2012, với 3 buổi diễn trước các khán giả do các học viên của lớp tự dàn dựng và trình diễn các tiết mục từ 5 đến 10 phút.
Chân dung của Trần Tường Nguyên - ảnh: Jonathan Narvaez
Nói về mục đích của lớp học này, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên tâm sự: “Tôi nhận thấy trong bao năm qua, ngay trong cộng đồng của chúng ta tại Hoa Kỳ, không có buổi diễn múa rối nào, nên tôi muốn có thêm một hoạt động nghệ thuật để đóng góp cho các bộ môn nghệ thuật trong cộng đồng được phong phú thêm. Ngoài ra mục đích lớn nhất khi mở lớp học đó, tôi muốn đào tạo những người nghệ sĩ không chuyên, có khả năng làm rối, tự sáng tạo câu chuyện theo suy nghĩ của họ, giúp họ tự khai thác khả năng sáng tạo của mình một cách độc lập. Vì làm nghệ thuật mà không độc lập, thì sẽ không bộc lộ được hết những suy nghĩ của mình. Tôi giúp học viên mạnh dạn làm những gì mình muốn làm, chứ không phải sợ cái này, sợ cái kia, sợ người ta không hiểu. Nghệ thuật thì không có đúng, sai, mà rất cần sự sáng tạo được khai phóng, người thực hiện làm theo cảm nhận của mình, phát triển suy nghĩ độc lập của mình, chứ không theo bài bản nào. Để rồi sau khi kết thúc khóa học, tôi rất mong các học viên sẽ tiếp tục sáng tạo thêm từ căn bản nghệ thuật rối đã học được, để tham gia các tiết mục múa rối của mình trong những lễ hội ở trường học, những buổi họp mặt, hội hè trong cộng đồng”.
Định nghĩa về con rối, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng với những vật vô tri dưới mọi hình thù, cục gỗ, khuc cây, tờ báo… thông qua sự điều khiển, người nghệ sĩ làm sao cho những vật ấy cử động, nhúc nhích được, biểu đạt điều gì đó, thì nó trở thành con rối. Theo nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, nếu mình tự làm được con rối, thì mình sẽ diễn được. Người nghệ sĩ múa rối cần phải tự làm con rối của mình, khi diễn con rối sẽ có hồn hơn.
Vẻ đẹp muôn màu của Rối
Múa rối giống như xiếc, âm nhạc, nó có đặc tính dân tộc và quốc tế, tồn tại dưới nhiều hình thức trình diễn, là loại hình nghệ thuật sân khấu có nhiều thể loại con Rối khác nhau, xuất hiện ở hầu hết các quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời.
Được biết trên thế giới, các loại múa rối được phân loại dựa theo vị trí của người điều khiển. Nếu người nghệ sĩ điều khiển khuất ở phía dưới, đưa rối hiện hình lên bên trên, thì đó là loại rối tay, rối que. Rối tay gồm một cái đầu bằng gỗ gọt và một túi vải rộng lam thân mình, con rối hoạt động được là nhờ các ngón tay và bàn tay của người điều khiển. Rối que gồm một que điều khiển đầu và mình con rối và các que phụ điều khiển hai tay con rối.
Diễn viên điều khiển rối từ trên nhìn xuống, mà tung tăng uốn lượn cho sự chuyển động của rối, uyển chuyển và sinh động là loại rối dây. Rối dây là loại con rối có đầy đủ các bộ phận chính yếu như đầu, cổ, mình, chân tay... ghép vào nhau bởi các khớp có thể cử động được. Bộ máy điều khiển gồm một bàn máy có các dây dài nối xuống các bộ phận cần phải cử động của con rối.
Điều khiển rối từ sau ra trước hay điều khiển ngang là loại rối Nhật Bản. Rối Nhật Bản có kích thước rất lớn (0,8 mét đến 1,3 mét) gồm đầy đủ các bộ phận của cơ thể người. Có ba người điều khiển đứng đằng sau con rối. Người điều khiển chính làm cử động đầu và tay phải con rối. Người điều khiển thứ hai lam cử động tay trái con rối và người thứ ba điều khiển các chân con rối.
Đây là ảnh tiết mục múa rối "Khúc Hát Đào Nương" với Lương Nhật Tiến - ảnh: Đỗ Quang
Rối đen là rối đòi hỏi kỹ xảo và kỹ thuật biểu diễn khá cao. Khi trình diễn, trên sân khấu mắc phông màu đen để che giấu diễn viên, sử dụng một loại đèn đặc biệt có ánh sáng cực tím và các diễn viên phải mặc trang phục màu đen để khi trình diễn khán giả không thể nhìn thấy các diễn viên đang hiện diện trên sân khấu. Rối đen cho phép tạo sự thay hình, đổi dạng bất ngờ của con rối, gây cảm giác huyền ảo, ma quái, thần bí cho nhân vật và câu chuyện. Khác với những loại rối thông thường, những con rối trong nghệ thuật rối đen được tạo hình từ những mảnh vải sặc sỡ hay các vật liệu phản quang, có thể bay bổng, nhảy múa trên không trung theo ý của người điều khiển…
Rối bóng, là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ điển, kết hợp những yếu tố của âm nhạc, múa, sự ứng khẩu nhanh trí, những tấn hề vui nhộn, và thay vì trực tiếp nhìn thấy những con rối, khán giả chỉ nhìn thấy cái bóng của chúng.
Nét đẹp của Múa Rối Việt Nam
Nhận xét về nghệ thuật múa rối của Việt Nam, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên nói rằng, khi nói đến múa rối, người ta chỉ hình dung đó là con rối diễn trên sân khấu, nhưng nói đến múa rối ở Việt Nam, mọi người sẽ hình dung ra có hai loại hình: rối cạn, diễn trên sân khấu như của thế giới, và độc đáo vô cùng là rối nước. Khái niệm rối nước, chỉ có ở Việt Nam, và của riêng đồng bằng miền Bắc thôi, chứ miền Nam cũng không có nghệ thuật này.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng múa rối nước của Việt Nam không chỉ độc nhất vô nhị so với thế giới, mà còn là nghệ thuật tuyệt diệu tựa thế giới thần tiên, kỳ ảo, đã thu phục tình cảm của ông thật trọn vẹn khi ông có cơ hội thưởng thức những tác phẩm rối nước khi còn ở Việt Nam.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên không phải là khán giả duy nhất mến yêu nghệ thuật rối nước Việt Nam. Nghệ thuật này không chỉ thu phục được các khán giả trong nước, mà với khán giả ngoại quốc, rối nước Việt Nam cũng được yêu thích. Rối nước của Việt Nam, không thuộc về các loại rối tay, rối dây, hay rối que… như của thế giới, mà lại là rối sào phối hợp với rối dây. Dụng cụ là mỗi cây sào dài độ 2 thước rưỡi - 3 thước, có khi dài hơn. Người diễn viên điều khiển được dễ dàng là nhờ sào ở dưới nước. Nước che cả sào, dây và các máy móc đặt trước để thể hiện những trò diễn như bắt cờ, đánh đu... người nghệ sĩ điều khiển rối nước không phải là từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, hay người điều khiển phải ẩn mình vào con rối như ở Nhật… Mà người điều khiển phải cách khoảng thật xa, nhờ hệ thống dây đặt trước với một số cọc, và con rối dính với dây và cây cọc đó. Người điều khiển ở sau mành tre, hai tay luồn sau qua tấm mành và điều khiển sào hoặc dây làm cho rối cử động. Xin được nói chi tiết hơn về những độc đáo của nghệ thuật rối nước trong một bài viết khác.
Nghệ thuật múa rối không chỉ hấp dẫn người xem về hình thức trình diễn đa sắc màu, mà còn có nội dung đa dạng. Múa rối có khả năng biểu đạt mọi nội dung trong đời sống con người và xã hội. Tác phẩm đó có thể được thể hiện qua những trò diễn, những tiết mục ít sử dụng lời nói, với nội dung phản ảnh bản sắc văn hóa riêng biệt, thông qua các phong tục, tập quán và tôn giáo của mỗi vùng miền, mỗi lãnh thổ quốc gia khác nhau. Hay tác phẩm đó sẽ đề cập đến các sắc thái tình cảm trong tình yêu, sang hèn, vui, buồn, về cái thiện, cái ác, về anh hùng, tiểu nhân, và mọi cung bậc tâm lý, đạo đức của đời sống con người, thông qua các truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết và sử thi. Hoặc tác phẩm đó tập trung phản ảnh những vấn đề của xã hội, như vấn đề ô nhiễm môi trường thiên nhiên, ô nhiễm trong môi trường xã hội và trong các mối quan hệ giữa ngươi với người…
Qua nhiều tài liệu mà người viết tìm hiểu, được biết riêng về nghệ thuật rối cạn Việt Nam, xuất hiện ở hầu hết các dân tộc thiểu số, thì con rối là vật hiển linh trừ tà ma treo trước cửa nhà, mộ người mới chết, trong các lễ hội…
Nghệ thuật rối dây, rối que dùng để diễn các tích truyện Trung Quốc cổ xưa như Quan Công, Trương Phi, Sơn Hậu… thường được những sắc tộc phía Bắc Việt Nam như Tày, Nùng, Thái… biểu diễn. Các sắc tộc phương Nam, miền Trung và Tây Nguyên, người Chăm thì có rối tay, rối bóng, thường diễn các tích thần thoại Ấn Độ. Còn người Tây Nguyên, Khmer miền Nam có các trò rối que, rối dây, mang dấu tích văn hóa vùng Đông Nam Á.
Nghệ thuật múa rối thông qua con rối, cùng với ngôn ngữ của rối, khi thì có lời thoại, khi thì là ngôn ngữ kịch câm, với hình ảnh và âm nhạc được hòa quyện chặt chẽ với nhau trong một trò chơi đầy cảm hứng, kích thích trí tưởng tượng của người xem. Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nghệ thuật múa rối vẫn được các nghệ sĩ như nghệ sĩ Trần Tường Nguyên tiếp tục gìn giữ, và phổ biến, để thêm thi vị cho đời sống tinh thần của mọi người. - (BH)
Nghệ thuật rối nước Việt Nam
(VienDongDaily.Com - 26/01/2013)
Băng Huyền/Viễn Đông
Trước khi được đẽo, khắc, tô màu, chúng vốn là những khối gỗ mộc mạc, vô tri, nhưng dưới bàn tay khéo léo của các nghệ nhân gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau, những con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, khiến chúng trở nên có hồn. Mặc dù các nghệ sĩ cũng điều khiển những con rối làm trò như các loại hình rối khác, nét đặc biệt của nghệ thuật rối nước là lấy mặt nước làm sân khấu biểu diễn. Mỗi con rối mộc mạc, đơn sơ thể hiện vẻ đẹp hồn nhiên, thuần khiết, ngộ nghĩnh, thơ ngây qua các tích trò dân gian, được diễn vào những dịp lễ lạc, hội làng, ngày vui, ngày Tết cổ truyền. Rối nước là nghệ thuật dân gian, làng quê Việt. Những cánh đồng lúa mênh mông, cùng chen lẫn là những đầm, hồ, sông, ngòi, ao… là điều kiện cho múa rối nước có thể tồn tại và phát triển trong dân gian từ ngàn xưa. Khởi nguồn của nghệ thuật này với các nghệ sĩ điều khiển con rối, những nghệ nhân làm ra con rối đều là nông dân gắn bó với ruộng đồng. Qua trò diễn rối nước, người dân đã gửi gắm vào đó bao mơ ước, bao điều giản dị để làm nên một không khí hội hè đình đám nơi thôn quê.
Sân khấu rối nước - ảnh tham khảo: Wiki
Sân khấu đồng quê
Âm thanh rộn ràng của trống nổi lên, rẽ tấm mành trúc, xuất hiện một con rối là chú Tễu để tóc trái đào, thân hình tròn trĩnh, da trắng hồng, đôi mắt đầy vẻ tinh nghịch và miệng tươi cười, mặc chiếc áo nẹp không tay, không khuy cài để hở cái bụng quả dưa rồi cất tiếng hát giới thiệu chương trình. Chú là một nhân vật tưởng tượng từ thượng giới xuống gỡ những rắc rối của trần gian, của những trò rối. Hát xong, chú tiến lại bánh pháo treo trên một cây sào cắm giữa ao và châm lửa. Pháo nổ ran mặt nước và ban đồng ca cất tiếng hát báo hiệu sắp kéo cờ. Những lá cờ nổi lên từ mặt nước và đi tới cột cờ phần phật trước gió. Tiếng trống càng thêm rộn rã. Những điệu múa uyển chuyển khi cá chép hóa rồng bay lên trời cao. Con hạc xòe hai cánh, mổ lên cổ một con rùa đang rẽ nước mặt hồ, vừa bơi vừa lắc lư đầu… trong không gian với đình làng, cây đa, lũy tre và những cánh bèo xanh dập dềnh trên mặt nước.
Khi xem các tích trò của rối nước, khán giả có thể bắt gặp cả một làng xã Việt Nam hồn hậu, xinh tươi và không kém phần hài hước, hay những cảnh đời thường ngày, những sinh hoạt dung dị đến ngạc nhiên, ngợi ca "thú điền viên ruộng đồng" của người nông dân Việt. Các trò diễn thường được mở đầu bằng sự giới thiệu của chú Tễu, đó có thể là những sinh hoạt đời thường như: công việc nhà nông, câu ếch, cáo bắt vịt, giã gạo, xay lúa, cha cầy, mẹ cấy, em bé chăn trâu, anh chị quăng chài, thả cá, chăn vịt, dệt khung cửi… Cùng các trò vui dân gian như hát chèo, hát tuồng, cả làng vui hội hè, đấu vật, chọi gà, chọi trâu, đua ngựa, đấu kiếm, đánh đu, đua thuyền, thi bơi, múa lân, múa rồng, múa tiên… Ngoài ra còn có các tích trò mang tính lịch sử như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đinh Bộ Lĩnh, Hưng Đạo Đại Vương, Lê Lợi... Những tích trò này thường chỉ diễn theo đoạn nhưng mang nội dung nhất định để người xem hiểu được ý đồ của đoạn diễn. Hay các tiết mục mang nghi thức tôn giáo Tô Tượng Đúc Chuông, Vinh Quy Bái Tổ, rước thánh, rước thần… Hoặc trích đoạn một số tích cổ: Thạch Sanh, Tấm Cám…
Sự thô vụng cứng nhắc của các con rối gỗ được dung hòa một cách tuyệt vời với màn nước mềm mại, phản quang lung linh. Nước vừa cản trở, vừa hỗ trợ, phối hợp, làm uyển chuyển, biến hóa khôn lường màu sắc và hình khối của con rối. Nước giấu trong lòng mọi bí ẩn của trò rối. Nhân vật thoắt ẩn, thoắt hiện trên mặt nước nửa như bí ẩn, nửa như phơi bày. Những tiếng trống, tiếng pháo, âm vang qua nước và khoảng không thoáng, rộng cũng trở nên dịu dàng, dễ nghe hơn.
Mục đồng cưỡi trâu - ảnh tham khảo: Thomas Schoch/Wiki
Chỉ có tại Việt Nam
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên, dù chưa một lần có cơ hội học nghề tạo ra những con rối nước, chưa một lần được học cách điều khiển rối nước, nhưng qua những lần xem các nghệ sĩ rối nước biểu diễn khi ông còn sống ở Việt Nam, trước khi đến định cư tại Mỹ, cùng những kinh nghiệm của ông đã có trong việc trình diễn, sáng tạo ra rối dây, rối que… ông luôn luôn dành tình cảm trìu mến và thán phục đối với các nghệ nhân, nghệ sĩ trình diễn nghệ thuật rối nước Việt Nam.
Nghệ sĩ Trần Tường Nguyên nhận xét múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống độc đáo, một sáng tạo đặc biệt của người Việt ra đời cách nay cả ngàn năm. Múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, còn múa rối nước thì trên thế giới chỉ duy nhất chỉ có tại Việt Nam, và là một sáng tạo văn hóa độc đáo của riêng người dân trồng lúa nước vùng châu thổ sông Hồng ra đời cách nay cả ngàn năm. “Nhưng do triều đình, quan lại địa phương không sẵn sàng ủng hộ, coi nhẹ những môn nghệ thuật diễn xướng dân gian, nên múa rối nước mất đi chỗ dựa chính thống và gần như nó không tồn tại trong cuộc sống tầng lớp trên. Tuy nhiên, dưới sự bao bọc và dung dưỡng của dân gian, rối nước đã phát triển mạnh mẽ ở các làng quê và nó tồn tại dưới hình thức phường hội. Cũng chính vì thế, rối nước có một quá trình không đồng nhất và nó mang nhiều sắc thái của mỗi địa phương hay từng vùng miền. Sự đa dạng về phong cách, khác nhau chất liệu thể hiện, hay khác nhau về đặc trưng vùng miền nhưng lại có chung một một nền tảng văn hóa, văn minh lúa nước dân tộc Việt”.
Vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật rối nước
Qua sự hiểu biết của bản thân và tìm hiểu thêm từ tài liệu đã được phổ biến trên mạng lưới toàn cầu, nghệ sĩ Trần Tường Nguyên cho rằng nét độc đáo của sân khấu trình diễn rối nước chính là các "nhân vật" đều hoạt động ở dưới nước. Từ con trâu đến con rồng ở dưới nước mà vẫn phun ra lửa mới thật là tài nghệ.
Những con rối diễn ở sân khấu Thủy Đình, được xây cố định dưới ao, hồ, hay bể chứa nước lớn (đối với những sân khấu di động dùng để đi lưu diễn). Sân khấu được dựng lên ở giữa mặt nước với kiến trúc cân đối, tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Buồng trò, sân khấu với cờ, quạt, cổng hàng mã... là một khu đình làng thu nhỏ với những mái uốn cong, lung linh phản chiếu trên mặt nước. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chương trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối cùng.
Những con rối nước dân gian nếu làm bằng gỗ tốt sẽ nặng và chìm, do đó chúng thường được làm gỗ sung, là chất liệu thông dụng để tạc con rối, vì loại gỗ này nhẹ và dai, rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới nước. Sau khi con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, chúng được các nghệ nhân trang trí để tôn thêm tính cách cho từng nhân vật đặc sắc hơn. Dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại, những con rối này đều có hai phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động. Trò rối nước là trò khéo, lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt.
Máy điều khiển rối có hai dạng: máy dây và máy sào. Tất cả các bộ phận máy điều khiển con rối đều được giấu kín dưới mặt nước. Nghệ sĩ điều khiển chúng qua sợi dây nối từ quân rối tới vị trí của mình. Hai tay, hai chân chỉ huy, mắt dõi theo hành động của quân rối vẫy vùng trên sóng nước. Thông thường mỗi buổi diễn cần rất nhiều người, đôi khi 2-3 người mới điều khiển được một con rối. Rối nước được thiết kế có đế bằng gỗ cùng các phụ kiện lắp ghép bên trong nên rất nặng. Người điều khiển cần có sức khỏe và tập trung để di chuyển con rối uyển chuyển, nhịp nhàng. Từ sau tấm mành, người nghệ sĩ thao tác từng cây sào, thừng, vọt… hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước dùng các máy dây giấu dưới nước để điều khiển con rối. Một phần họ tận dụng sức nước để lái và làm cho con rối nổi, phần thì dùng tay điều khiển các máy dây. Nhờ vậy mà họ có thể làm cho các con rối xuất hiện hay biến đi rất nhanh. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa đôi tay khéo léo của người nghệ sĩ thông qua sợi dây làm cho quân rối biến hóa khôn lường, tạo cho người xem những cảm xúc buồn, vui, như chính những con rối đang vẫy vùng trên mặt nước.
Âm nhạc múa rối
Rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc trong múa rối nước giúp gắn kết các tiết mục với nhau. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chính của trò rối nước, nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng miền Bắc. Tích trò rối nước thường không lời, nếu có thì chỉ là những câu ca dao mang tính chất giới thiệu, minh hoạ, làm nền... Cho nên, rối nước cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. Các phường hội dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ. Ngoài ra còn có pháo, tù và hỗ trợ đắc lực cho trò diễn. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động. Loại hình nghệ thuật này còn là sự kết hợp ăn ý của dàn nhạc, hệ thống ánh sáng, khiến màn biểu diễn rối nước trở nên vô cùng sống động. Cùng với cảnh sắc thiên nhiên hài hòa thơ mộng của sân khấu ao làng, với đất, nước, mây, gió, cùng hiệu ứng khói, tia lửa, sương mờ như khói lam chiều, lan tỏa trên mặt nước, trên những mái đình ngói đỏ cong vút và những con rối là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian, dẫu khô cứng, nhưng trên mặt nước, chúng lại trở nên duyên dáng, biến hóa một cách kỳ ảo tuyệt vời.
Thông qua các tích trò của rối nước, người xem cảm nhận được sắc thái của hội làng, phảng phất những mơ ước bình dị cho cuộc sống, với vẻ đẹp dịu dàng, man mác đồng quê, sự chịu thương chịu khó tần tảo sớm hôm lo cho cuộc sống, hay sự quật cường anh dũng bảo vệ nơi chôn rau cắt rốn khi kẻ thù xâm chiếm bờ cõi giang sơn của cha ông, biến những tích trò rối nước, một vẻ đẹp của nghệ thuật dân gian Việt thật trần tục gần gũi lại vừa linh thiêng, huyền ảo, diệu kỳ. -(BH)