|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 15:45:02 GMT 9
Xứ Khmer, Người KhmerTrên đại vùng văn hóa Nam Bộ Lê Văn Hảo chimviet.free.fr/dantochoc/hatcailuong/cailuo01.htmTừ 20 năm nay, người Khmer có lẽ là một trong vài sắc tộc thiểu số được các nhà dân tộc học, folklore học và văn hóa học Việt và Khmer quan tâm nhiều nhất, từ Ngô Đức Thịnh với Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long (Hà Nội, 1984) tới Nguyễn Văn Huy với Cộng đồng người Khmer tại miền Nam (Paris, 1993). Người Khmer là sắc tộc cuối cùng mà người Việt ở cuối chặng đường tiến về Nam đã gặp gỡ, chung sống và giao hảo với nhiều thiện cảm, có lẽ vì đức tính hiền hòa, kín đáo và văn hóa độc đáo đẹp đẽ của họ. Nhà báo Bửu Ngôn viết : "Ở Nam Bộ bạn có thể gặp người Hoa khắp nơi, họ là chủ quán ăn, chủ tiệm tạp hóa... Nhưng người Khmer thì ít thấy, mặc dầu họ đông không kém. Lý do là người Khmer có khuynh hướng sống khép kín trong sóc, xa thành phố" (Du lịch ba miền, ba tập, "Đất phương Nam", "Về miền Trung", "Hành trình phương Bắc", nhà xuất bản Trẻ, Sài Gòn, 2004). Nếp sống của họ có thể khép kín nhưng văn hóa thì rất cởi mở như cửa Phật rộng mở tại gần 500 ngôi chùa Miên ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Bảo tàng Khmer và ngôi chùa Khmer đặc sắc Với dân số hơn một triệu, người Khmer đã có chính thức hai viện bảo tàng văn hóa Khmer, một ở Trà Vinh, một ở Sóc Trăng, với các bộ sưu tập mặt nạ Chằn, các nhạc cụ, các bộ y phục, các bộ sách lá buôn và những báu vật khác của văn hóa Khmer. Mỗi ngôi chùa Khmer lớn hay nhỏ cũng là một bảo tàng về mặt kiến trúc cũng như về nghệ thuật điêu khắc. Nhà người Khmer đơn sơ, mái lá, vách lá nhưng ngôi chùa thì phải là kiên cố, hoành tráng, lộng lẫy, với tư cách là một cơ sở gồm ba chức năng : tôn giáo, giáo dục và văn hóa. Trong chùa không có tiếng chuông, tiếng mõ vì đạo Phật Khmer thuộc tông phái tiểu thừa nhưng ngôi chính điện của chùa là một tòa nhà đồ sộ với bộ mái nhiều tầng, ngói màu vàng rực, các góc mái cong vút lên hình ngọn lửa hay đuôi rắn thần. Tượng Phật Thích Ca, Tiên Nữ, Người Chim, Chằn hung dữ... đều là những tác phẩm mỹ thuật gây ấn tượng mạnh. Khuôn viên chùa rất rộng, với nhiều cây cổ thụ có khi um tùm như rừng cho nên chim chóc thường tụ về. Nổi tiếng nhất trong các ngôi chùa Khmer là các chùa Âng, Samrong Ek, Kompong Chrây, Cò Giồng Lớn, Phật Lớn, Khléang, Srâychô Mahatup (Mã tộc), còn gọi là Chùa Dơi, Salon còn gọi là Chùa Chén Kiểu, Siemcang... Những lễ hội giàu ý nghĩa nhân văn Người Khmer có rất nhiều lễ hội quanh năm nhưng quan trọng nhất là lễ hội vào năm mới (Chol Chnam Thmay), lễ hội chào mặt trăng (Ok Ang Bok) và lễ cúng tổ tiên (Donta). Lể hội vào năm mới là lễ hội trọng thể nhất, diễn ra vào ba ngày 13, 14, 15 tháng Chet, tức vào giữa tháng Tư dương lịch (nếu là năm nhuận thì kéo dài bốn ngày). Ngày thứ nhất của Chol Chnăm Thmay là lễ rước đại lịch tại chùa địa phương. Mọi người lễ Phật, nghe thuyết pháp rồi tham gia các cuộc vui chơi, múa hát tới khuya. Ngày thứ hai là lễ dâng cơm và đắp núi cát. Trước và sau khi ăn, các nhà sư tụng kinh chúc phúc để tạ ơn những người đã làm ra vật thực và mang nó đến cho nhà chùa ; sau đó dưới sự điều khiển của vị sư cả Achar, mọi người đua nhau đắp cát thành nhiều ngọn núi nhỏ theo tám hướng và một ngọn núi lớn ở trung tâm, tượng trưng cho vũ trụ, ở trong khuôn viên chùa. Ngày thứ ba là lễ tắm tượng Phật, tắm sư : sau khi dâng cơm sáng cho các sư, mọi người đem nhang đèn, lễ vật và nước có ướp hương thơm đến trước bàn thờ để tắm tượng Phật, sau đó tắm (tượng trưng) cho các vị sư sãi cao niên rồi ai về nhà nấy làm lễ tắm tượng Phật tại nhà, dâng cỗ bàn cúng tổ tiên, chúc phúc cha mẹ. Lại tiếp tục vui chơi, múa hát : thả đèn trời, đốt ống lói, đánh quay lửa, ném còn, kéo co, đấu vật, đánh võ, chạy đua, múa trống xà dăm, múa ramvong, lâm thôn, hát a day, brop cay, xem biểu diễn sân khấu kịch hát dù kê và sân khấu kịch múa rô băm, thưởng thức nhạc truyền thống từ các dàn nhạc phleng siem, phleng khmer. Lễ hội cúng trăng (lễ hội chào mặt trăng) là lễ hội lớn thứ nhì của người Khmer được tổ chức vào đúng đêm trăng rằm tháng 10 âm lịch để tỏ lòng biết ơn trăng là vị thần bảo vệ mùa màng, ban bố hạnh phúc cho con người. Lễ hội được cử hành trước sân nhà hay sân chùa, với những lễ vật : chuối, bưởi, cam, khóm, khoai lang, khoai mì, khoai môn, và đặc biệt không thể thiếu là món cốm dẹp. Sau khi khấn vái xong, đợi tuần hương cháy hết, người già gọi các em bé lại ngồi xếp thành hàng và chắp tay lại, rồi từ từ bốc những nhúm cốm đút vào miệng từng em. Sau lễ cúng trăng là các cuộc vui chơi và trình diễn văn nghệ qua lời ca, tiếng nhạc, điệu múa và tiếng trống dồn dập rộn ràng, có khi kéo dài trắng đêm với hàng ngàn người tham dự trong chùa, ngoài sóc. Tiếp theo đêm lễ cúng trăng, sáng hôm sau là hội đua ghe ngo, sinh hoạt lể hội văn hóa thể thao lớn nhất của người Khmer, thu hút hàng trăm ngàn người xem. Khi pháo lệnh nổ, những chiếc ghe ngo dài như con rắn khổng lồ nổi lên mặt nước lao vút đi như tên bắn. Tiếng hò reo cổ vũ náo nhiệt, tiếng trống thôi thúc cuộc đua vang động cả một vùng sông nước rộng lớn. Từ sau 1975, nhiều cuộc đua ghe ngo chung cho cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức đều đặn trên sông Hậu, tại thành phố Sóc Trăng. Khách thập phương, người Khmer, người Việt, người Hoa... về dự hội có năm lên tới hơn 300.000 người như vào năm 2002. Lễ cúng tổ tiên, ông bà (Donta) là lễ hội lớn thứ ba của người Khmer tổ chức linh đình trong ba ngày, từ 29 tháng 8 đến mồng 1 tháng 9 âm lịch. Ngày thứ nhất là ngày cúng lễ nghênh đón ông bà bằng những mâm cỗ thịnh soạn, cúng sáng, cúng chiều tại nhà. Sau đó mọi người đi chùa, mời linh hồn tổ tiên nghe sư sãi tụng kinh, rồi cùng con cháu tham dự văn nghệ múa hát vui chơi thâu đêm suốt sáng. Ngày thứ hai tiếp tục mời ông bà vui chơi với con cháu tới chiều tối. Ngày thứ ba (mồng 1 tháng 9) là ngày cúng tiễn đưa linh hồn ông bà về chốn ở cũ nơi Niết Bàn : mỗi gia đình mời bà con họ hàng, láng giềng chòm xóm tới cúng vái, sau đó cùng nhau dùng cỗ rồi vui chơi, múa hát cho tới tận khuya. Trong ngày này nhà nào khá giả còn mời sư sãi đến tụng kinh, cầu phước cho thêm phần long trọng. Chấm dứt lễ hội Donta là nghi thức thả những chiếc thuyền nhỏ làm bằng bẹ chuối, cau, dừa... xuống sông suối, hoặc mương rạch quanh nhà để ông bà đi đến nơi về đến chốn. Việc tổ chức thờ cúng ông bà tổ tiên thành một lễ hội lớn chung cho toàn sắc tộc trong không khí lạc quan hồ hởi của toàn thể cộng đồng, với sự hiện diện trọng thể của ngôi chùa và các sư sãi cùng với nhiều sinh hoạt vui chơi và văn nghệ truyền thống là một hình thức biểu hiện thuần phong mỹ tục đáng khâm phục. Lê Văn Hảo (Paris)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 15:55:18 GMT 9
Nghệ thuật Cải lương. Vài nét lịch sử . Ðặc điểm . Âm nhạc . Âm điệu . Thế nào là một giọng ca hay? . Vọng cổ hoài lang . Vì sao cải lương được nhiều người đón nhận? . Mỗi người một câu hỏi . Ðời thường nghệ sỹ. . Chân dung nghệ sỹ Vài nét Lịch sửHai tiếng "Cải lương" có nghĩa là "Sửa đổi cho tốt hơn". Từ xưa ở Việt Nam không có lối diễn tuồng nào khác hơn là hátChèo hay hátTuồng (ở Bắc Phần) và hát bội (ở Trung và Nam Phần). Ðến 1917, khi cải lương ra đời, người mình nhận thấy điệu hát này có thể tân tiến hơn điệu hát bội, nên cho đó là một việc cải thiện điệu hát xưa cho tốt hơn. Vì lẽ ấy người mình dùng hai tiếng "Cải lương" để đặt tên cho điệu hát mới mẻ này. Ngoc Huyen - Kim Tu LongTrước kia ở rải rác trong các tỉnh Nam Phần (Nam bộ) có những ban tài tử đờn ca trong các cuộc lễ tư gia, tân hôn, thăng quan, giỗ,... Nhưng không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng. Qua năm 1910, ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, tục gọi Tư Triều gồm bản thân Tư Triều (chơi đờn kìm), Chín Quán (đờn độc huyền), Mười Lý (thổi tiêu), Bảy Vô (đờn cò),Cô Hai Nhiễu (đờn tranh) và Cô Ba Ðắc (ca). Ban tài tử này đờn ca rất hay vì phần đông đã được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp mới về. Năm 1911, Nguyễn Tống Triều muốn đưa ca nhạc ra trước công chúng, nên thương lượng với chủ nhà hàng "Minh Tân khách sạn" ở ngang ga xe lửa Mỹ Tho – Sài Gòn để ban tài tử đờn ca giúp vui cho thực khách. Người đến nghe ngày càng đông. Nhận thấy sáng kiến này có kết quả khả quan, Thầy Hộ, chủ rạp hát bóng Casino, phía sau chợ Mỹ Tho, muốn cho rạp hát mình đông khán giả bèn mới ban tài tử đến trình diễn mỗi tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu và đã được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Sân khấu thời bấy giờ cũng được dàn dựng rất đơn giản. Cái màn bạc dùng làm bối cảnh (fond), kế đó có lót một bộ ván, trước bộ ván có để một cái bàn chưn cheo. Hai bên sân khấu có để cây kiểng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem thật nghiêm trang. Sáng kiến đưa đờn ca tài tử lên sân khấu của Tư Triều từ năm 1912 tại Mỹ Tho đã lan tràn đến Sài Gòn và nhiều tỉnh ở Nam Phần. Năm 1913 – 1914, chủ nhà hàng ở sau chợ Mới, Sài Gòn, là "Cửu long giang" nghe danh tiếng ban tài tử nên đã xuống tận nơi để mời về. Ông Năm Tú là người có công nhất trong việc gây dựng lối hát Cải lương buổi ban đầu. Ông mướn thợ vẽ tranh cảnh phỏng theo lối trang trí rạp hát Tây Sài Gòn. Ông mua sắm y phục cho đào kép khá chu đáo và nhờ nhà văn Trương Duy Toản soạn tuồng. Ông cất một cái rạp hát rộng lớn và đẹp đẽ gần chợ Mỹ Tho để cho ban ca kịch của ông trình diễn. Ðiệu hát cải lương chính thức hình thành từ đó và ngày càng phát triển mạnh, nhiều Ban được thành lập. Có thể nói, sân khấu cải lương là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chính xác hơn là xã hội Nam bộ lúc bấy giờ. Chính vì vậy nó trưởng thành rất mau. Vài ba năm đầu thập kỷ 20, nó còn đang chập chững những bước đầu tiên. Năm 1931 nó đã chính thức được giới thiệu ở ngoài nước với danh nghĩa một loại hình nghệ thuật hiện đại ngang hàng tuồng chèo đã có nhiều thế kỷ lịch sử. Nó ra đời thu hút được đông đảo khán giả và hát bội chịu phần thua kém. Từ Nam Kỳ nó Bắc tiến và tuồng, chèo dần dần nhường bước. Trong hơn nửa thế kỷ, sân khấu cải lương vượt xa các loại hình sân khấu khác về thế mạnh, có thời kỳ nó giữ địa vị độc tôn, thu hút khán giả nhiều hơn các loại sân khấu khác, chỉ kém có điện ảnh. Tìm về nơi đầu nguồn của sân khấu cải lương, người ta gặp những sự kiện xã hội, lịch sử sau đây: Nam Bộ, xứ Nam kỳ cũ, vốn có một phong trào ca nhạc tài tử. Nó là sự phát triển của phong trào đàn cây. Trong các cuộc tế lễ, ma chay, người ta mời ban nhạc tới diễn tấu, không dùng các loại trống, kèn và các loại nhạc cụ gõ khác và chơi một số bản của nhạc lễ có viết thêm lời ca và một số bản của nhã nhạc từ miền Trung đi vào. Phong trào này dần dần phát triển sâu rộng khắp toàn dân. Nhạc cụ được bổ sung, cải tiến. Người ta thêm vào các bài ca nhạc dân gian hoặc sáng tác thêm những bài hát mới. Các địa phương có những ban ca nhạc tài tử nổi tiếng với các danh cầm như: Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Bảy Triều... và các danh ca như Ba Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc... tiếng tăm đồn đại khắp nơi. Phong trào ca nhạc tài tử lôi cuốn mọi giới đồng bào nhất là công chức, thợ thủ công, nông dân, công nhân. Khởi đầu, nhạc và lời ca được biểu hiện qua hình thức Ca-ra-bộ (một trình thức diễn xuất thô sơ) với một số nghệ nhân không chuyên, được phục vụ trong những buổi tiệc tùng, giải trí, trà dư tửu hậu ở thôn xóm và bài ca được hâm mộ nhất thời bấy giờ là "Bùi Kiệm thi rớt trở về". Ca-ra-bộ được đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần phát triển và con đường phát triển tất yếu của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội thành "hát bội pha cải lương" rồi tiến lên chuyển mình thành một loại hình riêng để diễn các loại tuồng tàu, tuồng kiếm hiệp vào đầu và cuối thập kỷ 40. Ngày càng được quần chúng hâm mộ thưởng thức, nó tiến xa hơn trên đường nghệ thuật, với nhiều nghệ sĩ có tên tuổi tham gia và đến đầu thập kỷ 40, nó đã mang đầy đủ tính chất khá hoàn chỉnh. Và đặc biệt với Nghệ sĩ Nhân Dân Năm Châu, nó trưởng thành thành một loại sân khấu có tính nghệ thuật khá cao. Năm Châu vốn có học Tây, hâm mộ sân khấu Tây phương, nhất là kịch cổ điển Pháp, đã tâm huyết đưa số hiểu biết phong phú, đa dạng của mình vào cải lương, tạo thành một sân khấu riêng biệt - trường phái Năm Châu" với lực lượng nghệ sĩ lừng danh lúc bấy giờ là Phùng Há, Ba Vân, Tư út, Tư Anh và quí giá nhất là soạn giả Trần Hữu Trang, tác giả nhiều kịch bản nổi tiếng, trong đó có Ðời cô Lựu và Tô ánh Nguyệt cho đến nay, vẫn còn ghi sâu trong ký ức bao người. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp cho du nhập vào nước ta những phim ảnh, sách báo và những đĩa hát, về sau có nhiều đoàn kịch hát Trung Quốc sang biểu diễn tại Sài Gòn.Do đó, nghệ thuật cải lương có cơ hội thu hút thêm tinh hoa sân khấu của nước ngoài như cách diễn xuất, sử dụng một số bài bản nước ngoài phù hợp với cách diễn tấu của dàn nhạc cải lương, học tập cách sử dụng bộ gõ bổ sung thêm kèn mới vào dàn nhạc cải lương. Trong giai đoạn này, âm nhạc cải lương chịu ảnh hưởng của phương pháp diễn tấu mang tính sân khấu xuất phát từ nội dung chủ đề của kịch bản. Trong giai đoạn đầu của cải lương, đề tài khai thác của kịch chủ yếu dựa vào thơ ca được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Việt Nam như: Kim Vân kiều, Lục Vân Tiên, Trưng Trắc Trưng Nhị v v... hoặc phóng tác theo các vở tuồng hát bội như: Phụng Nghi Ðình, Xử án Bàng Quí Phi, Mộc Quế Anh v v... Âm nhạc được dùng trong các vở này bao gồm gần hết là các bài bản cải lương, trong dàn nhạc cải lương có các nhạc cụ của dàn nhạc tài tử, có nhạc cụ gõ và kèn hát bội. Từ năm 1930 trở đi khuynh hướng cải lương xã hội thực thụ ra đời dưới sự chỉ đạo của nhóm Năm Châu, Tư Trang, Năm Nở, Bảy Nhiêu, Tư Chơi v v... lúc đầu phỏng theo truyện phim và kịch của Pháp như: Bằng hữu binh nhung, Sắc giết người, Giá trị và danh dự v v... Về sau nhóm này dựa vào đề tài Việt Nam như: Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường v v... Các bài hát tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu cải lương như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ phàng), Tango mysterieux (trong Ðóa hoa rừng). Lúc bấy giờ trong một đoàn cải lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì ngồi ở trong, còn dàn nhạc jazz thì ngồi ở trước sân khấu. Trong những thời gian sau cải lương bị ảnh hưởng của một số khuynh hướng Quảng đông và kiếm hiệp nhưng những khuynh hướng này ít được người ủng hộ, nhất là ở các vùng nông thôn. Các vở có tính chất tâm lý xã hội đều dựa vào sự tích Việt Nam như Tô ánh Nguyệt, Ðời cô Lựu... nhưng về âm nhạc thì lại chịu ảnh hưởng ở âm nhạc Tây Âu. Cải lương càng ngày càng hiện đại hóa và đó là công đầu của Năm Châu vì không có con người này, khó có một sự chuyển mình đầy tính cổ điển và nghệ thuật của cải lương. Do đó, có thể nói Năm Châu phải được đánh giá là vị "Tổ cải lương hiện đại", một vị tổ có thật... Từ sau Hiệp định Geneve (1954), cải lương càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại hình nghệ thuật, một bộ môn sân khấu có khả năng thu hút hàng đêm cả vạn triệu khán thính giả say mê đến với nó tại các nhà hát hay bên chiếc radio. Do sáng kiến của ông Trần Tấn Quốc, một ký giả kỳ cựu, giải Thanh Tâm được thành lập năm 1958 và liên tiếp mỗi năm kế sau đều có phát Huy chương vàng và Bằng danh dự cho những nam nữ nghệ sỹ trẻ tuổi có triển vọng nhất trong năm. Giải Thanh Tâm hiện thời được gọi là giải Trần Hữu Trang là giải thưởng có tiếng vang lớn trong giới nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật cải lương. Nghiên cứu toàn bộ lịch sử cải lương qua những nét đại thể, ta thấy rõ ràng loại hình nghệ thuật này mang một đặc điểm rất nổi bật. Ðó là nền nghệ thuật mang tính giải phóng của người nông dân bị áp bức và mất nước, phải vùng lên để chiến đấu cho sự sống còn của tầng lớp mình, dân tộc mình. Tiếng nói của họ là tiếng ca bất khuất và đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm mà Ðời cô Lựu là một vở tiêu biểu. Tác giả của nó, Trần Hữu Trang vốn là một nông dân, một nghệ sĩ trí-thức. Ðặc điểm của sân khấu cải lương Năm 1920 đoàn hát mang tên Tân Thinh ra mắt khán giả, Tân Thinh không dùng tên gánh mà dùng tên đoàn hát và ghi rõ đoàn hát cải lương, dưới bảng hiệu có treo đôi liễn như sau: Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh. Ðôi liễn ấy đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của sân khấu cải lương. Như trên đã nói, cải lương vốn là một động từ mang nghĩa thông thường trở thành một danh từ riêng. Cải lương có nghĩa là thay đổi tốt hơn khi so sánh với hát bội. Sân khấu cải lương là một loại hình sân khấu khác hẳn với hát bội cả về nội dung vở soạn lẫn nghệ thuật trình diễn. 1- Bố cụcNguyen Thanh ChauCác soạn giả đầu tiên của sân khấu cải lương vốn là soạn giả của sân khấu hát bội. Nhưng các soạn giả của thuộc lớp kế tục thì nghiêng hẳn về cách bố cục theo kịch nói: vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo sự tiến triển của hành động kịch. Vai trò của soạn giả, đạo diễn không lộ liễu trước khán giả mà ẩn sau lưng nhân vật. Ban đầu, các vở viết về các tích xưa (mà người ta quen gọi là tuồng Tàu) có khi còn giữ ít nhiều kiểu bố cục phảng phất hát bội, nhưng các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội) thì hoàn toàn theo bố cục của kịch nói. Càng về sau thì bố cục của các vở cải lương (kể cả các vở về đề tài xưa cũng theo kiểu bố cục của kịch nói). (Nguyễn Thành Châu,soạn giả, đạo diễn kiêm diễn viên, 40 năm trong nghề đã nâng cao trình độ Cải lương của nước nhà) 2- Ðề tài và cốt truyệnNgoc GiauCác vở cải lương ngay từ đầu đều khai thác các truyện Nôm của ta như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên hoặc các câu truyện trong khung cảnh xã hội Việt Nam. Sau đó chiều theo thị hiếu của khán giả sân khấu cải lương cũng có một số vở soạn theo các truyện, tích của Trung Quốc đã được đưa lên sân khấu hát Bội và được khán giả rất ưa thích. Sau này nhiều soạn giả, kể cả soạn giả xuất thân từ tân học cũng soạn vở dựa theo truyện xưa của Trung Quốc hoặc dựng lên những cốt truyện với nhân vật, địa danh có vẻ của Trung Quốc nhưng những cảnh ngộ, tình tiết thì của xã hội Việt Nam (Ngọc Giàu trong vở "Tình yêu và lời đáp") 3- Ca nhạcPhuong KhanhCác loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi là ca kịch vì ở đây ca kịch giữ vai trò chủ yếu. Là ca kịch chứ không phải là nhạc kịch vì soạn giả không sáng tác nhạc mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc cho phù hợp với các tình huống sắc thái tình cảm. Như vậy, nói chung về ca nhạc, sân khấu cải lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú của Nam Bộ. Trên bước đường phát triển nó được bổ sung thêm một số bài bản mới (như Dạ cổ hoài lang sau này mang tên Vọng cổ là một dân ca nổi tiếng của sân khấu cải lương). Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Quốc nhưng đã được phổ biến từ lâu trong nhân dân Việt Nam, đã Việt Nam hóa. (Phương Khanh, một trong những diễn viên nổi tiếng ở buổi đầu sân khấu Cải lương) 4-Diễn xuấtKim LanDiễn viên cải lương diễn xuất một cách tự nhiên, nhất là khi diễn về đề tài xã hội thì diễn viên diễn xuất như kịch nói. Khác với kịch nói ở chỗ đáng lẽ nói, diễn viên ca, cho nên cử chỉ điệu bộ cũng uyển chuyển, mềm mại theo lời ca. Dù không giống như cử chỉ điệu bộ của diễn viên kịch nói, mà vẫn gần với hiện thực chứ không cường điệu như hát bội. Cải lương cũng có múa và diễn võ nhưng nhìn chung là những động tác trong sinh hoạt để hài hoà với lời ca chứ không phải là hình thức bắt buộc. (Diễn viên Kim Lan) 5-Y phục Thanh Thanh TamTrong các vở về đề tài xã hội diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời. Trong các vở diễn về đề tài lịch sử dân tộc, về các truyện cũ của Trung Quốc, phóng tác từ những câu chuyện, hay các vở kịch từ nước ngoài thì y phục của diễn viên cũng được chọn lựa để gợi ra xuất xứ của cốt truyện và của nhân vật, nhưng cũng chỉ mới có tính là ước lệ thôi chứ chưa đúng với hiện thực. (Thanh Thanh Tâm, một trong những giọng ca hay được nhiều người mến mộ ở TPHCM) Âm nhạcChúng ta đều biết không có một nền âm nhạc nào không mang tính kế thừa và phát triển, hai mặt này đi song song với nhau, cùng nằm trong hiện tượng văn hoá-nghệ thuật qua nhiều thế hệ, bắt gốc từ yếu tố tộc người trong thời kỳ sơ khai. Nó đã ăn sâu và tác động vào điều kiện tâm-sinh lý của con người, và mang tính di truyền. Nó là một hiện tượng mang tính qui luật tạo thành mầm mống cho ngôn ngữ âm nhạc dân tộc. Âm nhạc cải lương cũng không tách khỏi qui luật này. Người ta thường nói cải lương xuất phát từ Nam Bộ, đó là cách nói rút gọn, nhưng đứng về mặt lịch sử thì nhạc cải lương là một loại nhạc sân khấu, được phát triển dựa trên phong trào ca nhạc tài tử (phong trào chơi nhạc không chuyên nghiệp lan rộng khắp Nam bộ thời trước). Loại nhạc này bắt nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước ta. Nó nằm trong kho tàng văn hóa dân tộc, và đồng thời phát triển với những cuộc di dân về phương Nam của ông cha ta. Cũng những cây đàn ấy, càng đi khỏi vùng đất Tổ thì càng trở nên linh động với những màu sắc mới lạ và biến thành một loại hình nghệ thuật độc đáo dân tộc. Có thể nói đó là đức tính của con người Việt Nam được hun đúc qua những cuộc di dân lớn, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, vượt qua muôn nghìn khó khăn gian khổ để xây dựng thôn ấp, phát triển xã hội. hinh14.jpg (4963 bytes)Âm nhạc cải lương chịu ảnh hưởng của hai nền nhạc lớn đã có từ thời cổ và tồn tại đến bây giờ, đó là nền ca hát dân gian và nền nhạc khí dân gian. Hai nền nhạc này tạo cho cải lương một phong cách đặc biệt, do đó trong âm nhạc cải lương, yếu tố ca hát và yếu tố nhạc khí cùng thúc đẩy nhau phát triển và tạo ra một hình thức đối lập trong nhiều bè, mở đường cho sự nảy nở của tính chất sân khấu. Tại Nam Bộ, hiện nay nhân dân chỉ còn được nghe khí nhạc thuộc loại tế tự (nhạc lễ) còn âm hưởng của nhạc cung đình thì đã thuộc về dĩ vãng. Từ khi chữ Nôm bắt đầu xuất hiện thì thơ ca dân gian càng phát triển, chữ Nôm dùng để sáng tác các bản nhạc. Sau thắng lợi vẻ vang của ba lần chống quân xâm lược Nguyên, nghệ thuật âm nhạc và hát xướng càng phát triển mạnh và mãi cho tới thời nhà Lê, ngoài các bậc công hầu ra, trong hàng sĩ phu phần đông đều có hiểu biết về niêm luật âm nhạc. ở Huế đã hình thành nền nhã nhạc, yếu tố bác học làm cơ sở cho sự kế thừa và phát triển của phong trào ca nhạc tài tử Nam bộ. Nghệ thuật âm nhạc miền Trung dần dần phát triển ra khắp thôn xã song song với sự phát triển của một vài yếu tố âm nhạc dân gian Trung Quốc. Phương thức cải biến vật chất thành nhu cầu cần thiết cho con người, ảnh hưởng khá lớn đến phương thức biểu hiện tư tưởng bằng hiện tượng nghệ thuật. Tài khéo léo và óc sáng tạo của con người làm thay đổi rất nhiều các loại hình nghệ thuật phù hợp với thẩm mỹ quần chúng lúc bấy giờ. Nhạc cải lương được hình thành từ trong lòng người Việt Nam cần cù và gian khổ, lớn lên trong những thử thách đầy khó khăn nguy hiểm mà con người đấu tranh để sinh tồn. Nhạc miền Trung khi phát triển vào Nam bộ thì bị mất một phần đặc điểm, chủ yếu là bị lệ thuộc vào tiết tấu sinh hoạt và ngôn ngữ của người dân Nam bộ. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, xã hội Nam Kỳ bị phân hóa nhanh chóng, sự đổ vỡ có mức độ của ý thức hệ phong kiến trong xã hội Nam Kỳ chủ yếu là do phương thức sản xuất mang yếu tố tư bản xuất hiện, tư tưởng và tình cảm con người đã thoát ly dần những tục tập cũ kỹ, lỗi thời. Sự thoái trào của nền nhạc lễ để nhường cho phong trào của ca nhạc tài tử phát triển từ trong lòng của nó là một sự kiện rất mới. Phong trào dân ca được quần chúng ưa thích dần dần phát triển trong toàn Nam bộ và trở thành phong trào ca tài tử. Số người biết đàn biết ca ngày càng đông, nhất là ở vùng nông thôn, với hình thức nghệ thuật đơn giản tao nhã như vậy, người nông dân nào cũng có thể học tập được. Trong khối quần chúng to lớn, sau này đã xuất hiện nhiều nhân tài của nghệ thuật âm nhạc và sân khấu cải lương. Nhạc tài tử dần dần phát triển về nội dung lẫn hình thức, tiếp thu thêm những luồng nhạc khác như dân ca địa phương, hò, lý, nói thơ...đồng thời có một sự cách tân trong toàn bộ nhạc lễ: trước kia nhạc lễ chỉ là loại khí nhạc, sau khi được cách tân thì trở thành những ca khúc tự sự với nội dung phản ánh tinh thần của thơ ca truyền thống như: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Kim Vân kiều, Lục Vân Tiên... Phong trào đó phát triển từ thành thị đến nông thôn thành nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp, kể cả giới trí thức trong những cuộc liên hoan, hội hè, cưới hỏi và song song với sự phát triển đời sống vật chất, nhạc tài tử đem đến cho họ một tình cảm mới mẻ. Phong trào tạo thành những trung tâm như Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Thơ, Bạc Liêu... Ngoài những cố gắng sáng tạo thêm hình loại khúc thức mới, các nhà âm nhạc còn khái quát hóa toàn bộ hệ thống điệu thức trong nhạc truyền thống và phân chia thành các loại hơi chủ yếu như: hơi Bắc, hơi Nam, hơi Oán, v.v.. Hơi Bắc khái quát các điệu thức mang tính chất trong sáng, vui khỏe. Hơi Nam khái quát các điệu thức mang tính chất trang nghiêm và đồng thời được phân chia thành một số hơi cụ thể như sau: hơi Xuân, hơi Ai, hơi Ðảo. Hơi Oán là hơi được sáng tạo sau này, hoàn toàn thoát ly những hình thức cấu tạo theo kiểu nhạc lễ, đó là hơi thở của cuộc sống thời bấy giờ. Sự phân chia thành các loại hơi, xuất phát từ các mẫu giai điệu hoặc điệu thức giai điệu có tác dụng lập thành các mô hình âm thanh, và xếp loại các âm hình cơ bản (motif) được sử dụng trong quá trình nhạc khúc. Trong thực tế đời sống hằng ngày của nhân dân ta, chúng được cấu trúc trên nguyên tắc tập hợp và mang những ý nghĩa cụ thể đã trở thành một tập quán trong sự sáng tạo âm nhạc qua nhiều thời đại. Ðể minh hoạ, dưới đây sẽ giới thiệu một lớp Văn Thiên Tường nhan đề là Bá Lý Hề: Vì tình kia thân sanh sao đắng cay Thay thương thay đương khi gian truân Bâng khuâng lúc chia tay Thiếp yểm lụy ngỏ cùng chàng Vì cảnh nhà hàn vi Nên mới chia ly Khi đưa nhau nắm tay dặn dò Ðến lúc đắc lộ chàng có nghĩ Ðến chút tình tào khang Tay dâng chén này hôm nay Khuyên lương nhân Vững lòng rủi dong lần bước sang Cách núi ải Non cao vực thẳm ráng dò Em lo đương khí Qua đèo ải ngăn ghềnh đá chập chồng Sớm thơ nhạn tả mấy hàng Cho nhãn những điều Ðiều ấm lạnh dường bao Trên đây là lời ca diễn tả tâm trạng vợ Bá Lý Hề tiễn chồng lên đường lập công danh. Hình thức cấu trúc của loại này, khác với cấu trúc chân phương của nhạc lễ, chịu ảnh hưởng hình thức thơ liên hoàn, mỗi đoạn gồm tám câu. Về mặt nghệ thuật, nhạc tài tử trong giai đoạn này đã đóng góp nhiều yếu tố mới trong đời sống âm nhạc của quần chúng, được bà con nông dân ưa mến và bảo vệ đã tiến đến một thời kỳ rực rỡ hơn bao giờ hết, mở đầu cho sự xuất hiện một loại hình nghệ thuật mới, đó là nghệ thuật sân khấu cải lương. Từ một hình thức ca hát thính phòng của phong trào nhạc tài tử, một bộ phận tách ra mang tính chất diễn xướng (nói lối, ngâm thơ, ca hát) tức là hình thức ca ra bộ (vừa ca vừa ra bộ). Như vậy, đứng về mặt nghiên cứu của âm nhạc, chúng ta thấy có hai phong cách, trong phương pháp diễn tấu nhạc cụ và ca hát, đó là phong cách tài tử và phong cách cải lương. Phong cách tài tử: mang tính chất thính phòng, không đông người, được tổ chức ở trong nhà, công viên, trên thuyền lúc đêm trăng đi sâu vào chiều sâu của tình cảm, người đàn và hát chủ yếu là để phục vụ người nghe. Phong cách cải lương: thể hiện tính sân khấu, vì trung tâm của nghệ thuật diễn xuất là diễn xuất, các bộ môn nghệ thuật khác như âm nhạc, giúp nó đạt đến một hiệu quả nhất định, hợp thành toàn bộ một hình thức nghệ thuật sân khấu. Vấn đề ca hát hoặc diễn tấu nhạc cụ trong cải lương cũng phải mang tính chất hành động- không như biểu diễn theo phong cách tài tử vì đặc trưng của sân khấu cải lương là ca hát. Ca hát tài tử và ca hát sân khấu là hai lĩnh vực khác nhau và trong mỗi lĩnh vực đều có những nghệ sĩ tiêu biểu. Chẳng hạn, trong ca hát sân khấu cải lương, có những ngôi sao như Phùng Há, Ba Vân, Năm Châu... và những ca sĩ tài tử nổi tiếng như cô Tư Sang, cô Ba Bến Tre, cô Tư Bé, Năm Nghĩa...Những tác giả âm nhạc tài tử như ông Sáu Lầu (Cao Văn Lầu), ông Bảy Triều, những tác giả nhạc sân khấu như các ông Mộng Vân, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Sáu Hải v v... đã đóng góp nhiều sáng tác mới phù hợp với đà phát triển của nghệ thuật cải lương, trong đó có bài vọng cổ cho đến bây giờ đã trở thành một chủ đề lớn về âm nhạc, mà nhiều nghệ sĩ nhờ đấy phát huy một sức sáng tạo và xây dựng nên sự nghiệp nghệ thuật cho bản thân mình. Nếu như những hạt giống đó không nảy mầm từ trong lòng dân tộc và nuôi dưỡng của nhân dân qua nhiều thế hệ, thì nghệ thuật cải lương không thể tồn tại cho đến ngày hôm nay. Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đờn dây tơ và dây kim, không có kèn trống như hát bội. Có sáu thứ đờn thường dùng trong điệu cải lương như sau: 1. Ðờn kìm: đờn Kìm cũng gọi là "Nguyệt cầm" có hai dây tơ và tám phím. Tiếng kìm tuy không trong và thanh như tiếng Tranh hay Lục huyền cầm, nhưng cũng có âm hưởng nhiều nên khi hòa với cây Tranh nghe rất hay. Tùy hơi cao thấp của diễn viên, đờn Kìm có thể đờn năm dây Hò khác nhau. 2. Ðờn Tranh: đờn Tranh hay đờn Thập Lục có 16 dây. Tiếng đờn Tranh được thanh tao nhờ dùng dây kim và nhấn tiếng có ngân nhiều. Cũng như cây kìm, đờn Tranh có thể đổi bực dây Hò tùy theo hơi cao thấp của người ca. 3. Ðờn Cò: Cây Cò, cũng gọi là đờn Nhị, có hai dây tơ, không có phím và dùng cây cung để kéo ra tiếng. Ðờn Cò là cây đờn đắc dụng nhất của âm nhạc Việt Nam. Nó chẳng khác nào cây Violon trong âm nhạc Âu Mỹ. Luôn luôn có mặt torng hát Bội, Cải lương, nhạc Tài tử,... 4. Ðờn Sến: Cây Sến có hai dây tơ và có đủ bậc như cây Banjo, nên đờn ít nhấn và có nhiều chữ lợ nghe ngộ. Có khi đờn ba dây nghe hơi như đờn Tỳ. 5. Guitare: Cây Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm, có sáu dây kim, nhưng thường đờn có năm dây. Tiếng thanh như đờn Tranh, khi đờn bực cao. 6. Violon: Cây Violon, cũng có tên là Vĩ Cầm, có bốn dây tơ và cung kéo như đờn Cò. đờnnày dùng phụ họa với cây Guitare hay cây Tranh để đờn Vọng cổ nghe hay, nhưng ít dùng đờn các bản khác vì tiếng nó kêu lớn làm lấn áp mấy cây đờn kia. 7.Cây Sáo: Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong điệu Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi. Thành thử người ta phải theo bậc Hò bất di bất dịch ấy. 8. Cây Cuỗn: Cây Cuỗn giống như cây Kèn, nhưng không có cái Loa. Âm điệuThanh Thanh TamBài ca Cải lương đặt theo bản đờn, nên kịch sỹ phải tùy âm nhạc, không được tự do phô diễn hết tài năng của mình như trong điệu hát Bội. Ca dư hơi thì trễ đờn, còn thiếu hơi dứt trước đờn. Kịch sỹ bị bó buộc trong khuôn khổ nhịp đờn, dầu có hơi hám nhiều cũng không thể vượt ra ngoài nhịp vì sợ ca lỗi nhịp.Lúc sau này, trong điệu Cải lương có bản Vọng cổ thêm nhiều nhịp. Bài ca vọng cổ đặt không ăn sát câu đờn, miễn vô đầu và dứt câu đờn, ca cho trúng hơi, trúng nhịp. Nhờ vậy, có nhiều kịch sỹ được tự do phô bày hết khả năng của mình. (Nghệ sỹ Thanh Thanh Tâm) Một khuyết điểm thứ hai là đương nói chuyện kế bắt qua ca. Trừ một ít danh ca biết cách "mở hơi" cho câu ca của mình có hứng thú, còn phần đông vô ca nghe khô khan lã chã lắm, không có mùi vị chút nào. Lỗi ấy một phần do ban âm nhạc thờ ơ, không thuộc chỗ nào sắp ca đặng giao đờn trước hầu gợi ý cho khán giả có cảm giác vui buồn trước khi nghe ca, như bên âm nhạc hát Bội. Cải lương được chỗ ưu điểm là nhờ âm nhạc biết tùy hơi cao thấp của kịch sĩ để lên dây Hò, nên kịch sỹ ca đúng hơi "thiên phú" của mình không rán hơi quá như bên hát Bội. .Thế nào là một giọng ca cải lương hay? Phuong KhanhCải lương có những làn điệu bài bản cố định, từ đó nhạc sỹ thiết kế để phù hợp với tâm trạng từng nhân vật. Trong ngần ấy mẫu gốc, làn điệu cơ bản, hát thế nào cho hay, cho đẹp, có hơi ấm tình cảm và bản sắc riêng hoàn toàn phụ thuộc vào tài nghệ điều khiển, thao túng nhịp điệu của từng diễn viên hát cải lương. Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm. Một giọng ca hời hợt, chỉ thấy lời mà không thấy lòng người, không phải là giọng ca hay. Ngay cả một giọng ca điêu luyện về kỹ thuật mà không có linh cảm, có cái "hồn" thì cũng chỉ là một giọng ca chết, không sinh khí. Một giọng ca hay là giọng ca lột tả đến cùng tình cảm của câu hát, của tâm trạng nhân vật bằng tất cả rung động của trái tim người hát và bằng cả quá Thanh Thanh Hientrình khổ luyện, tìm ra được cách biểu hiện tốt nhất. Khi nội dung bài hát đã thấm vào lòng diễn viên, đã biến thành máu thịt, thì các kỹ thuật gieo câu, nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy, đều là kết quả sự xúc động tình cảm sâu sắc của người hát. Một người rất ít nghe cải lương, thậm chí chưa nghe bao giờ, cũng có thể xúc động khi nghe một giọng ca truyền đạt chính xác sắc độ tình cảm của lời bài hát, của nhân vật như: yêu thương, nhớ nhung, buồn bã hoặc căm uất, giận hờn... Tùy cách chế ngự điều khiển của từng diễn viên với bài bản cải lương, sẽ quyết định từng màu sắc riêng biệt của mỗi giọng ca. Mỗi người sẽ tạo ra một chất giọng riêng, không lẫn vào đâu được. Và người ta dễ dàng nhận ra một Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Mỹ Châu... hay út Trà ôn, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh... trên sân khấu phía Nam. Một giọng ca hay trên sân khấu chỉ có thể được coi là hoàn hảo nếu không tách rời nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Thanh Thanh TamVì vậy, tiêu chuẩn thứ hai của giọng ca hay là biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa ca và diễn. Nếu diễn viên chỉ chú ý đến lời hát mà không quan tâm đến nhân vật thì khán giả chỉ có thể nhớ đến con người thật của anh ta chứ hoàn toàn không gắn với một hình tượng nhân vật nào cả. Ðiều đó giống như là nghe hát những bài vọng cổ hơn là một vai diễn ca hay. Ngược lại, nếu diễn viên diễn xuất thật hay mà ca dở thì mọi người lại không nghĩ mình đang xem cải lương! Cần thiết phải có sự kết hợp hài hòa, nếu không xem như thất bại. Trong cải lương, giọng ca là vô cùng quan trọng nhưng không phải là tất cả. Vì thế, có được một giọng ca "trời phú" thì cần phải rèn luyện, trau dồi để ngày càng tiến bộ hơn với những vai diễn thật sự có "hồn". Vọng cổ hoài lang Người yêu, yêu đến si tình, nhưng người ghét thì ghét cay, ghét đắng. Chỉ nghe tên đã muốn đào đất đổ đi, có khi vì sự ghen ghét ấy mà sân khấu cải lương cũng bị vạ lây. Có lẽ vì thế mà sau khi ra đời bài Vọng cổ đã phải bao lần thay tên, đổi họ "hóa thân", mới sống được tới ngày hôm nay. Cao Van LauDạ cổ hoài lang (Vọng cổ hoài lang) ra đời được hơn nửa thế kỷ. Nó đã làm cho nền móng cho nhiều bài vọng cổ không ngừng phát triển. Ðó là một hiện tượng có liên quan đế cuộc đời tác giả-nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Xuất thân từ một gia đình bần nông thuộc tỉnh Long An (trước là Tân An), lúc lên sáu tuổi, nhạc sĩ đã phải cam chịu cảnh bị áp bức bóc lột như muôn ngàn gia đình nông dân nghèo khổ khác. Tuy còn nhỏ nhưng cậu bé Cao Văn Lầu đã chứng kiến nhiều sự ngang trái trong cuộc sống tha phương cầu thực, rày đây mai đó, hết làm nghề này lại chuyển sang nghề khác và trong con tim nhỏ bé đã chớm nở dần những xúc cảm về cuộc đời. Từ khi gia đình định cư ở một vùng đất biển Bạc Liêu thì tính nghệ sĩ của chàng trai ngày càng được thể hiện rõ rệt. Ðược sự dạy bảo cẩn thận về âm nhạc của lão nghệ sĩ Hai Khị, Cao Văn Lầu bắt đầu cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp âm nhạc. Nhạc sĩ rất thành thạo về môn nhạc lễ và nhạc tài tử khi nhạc sĩ đang độ 20 tuổi và cũng đồng thời với phong trào "ca ra bộ" bắt đầu phát triển ra khắp lục tỉnh Nam Kỳ lúc bấy giờ. Chi Linh -Thanh HangBản Vọng cổ trước hết có tên là Dạ cổ được nhạc sỹ Cao Văn Lầu sáng chế hồi năm 1920 (sau ba năm khi cải lương ra đời). Sanh 1890, ông Sáu Lầu được 30 tuổi khi ông chế bản Vọng cổ. Lúc ấy ông cưới vợ được 10 năm, nhưng không có con. Cha mẹ ông buộc phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự. Ông buồn rầu không còn muốn làm ăn gì nữa. Ban ngày ra ngoài đồng, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói trước khi chia tay. Ông biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi "Dạ cổ hoài lang" (Ðêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng), có ý để kỷ niệm mối tâm tình của vợ ông với ông. Không biết có phải ông trời vì thấu hiểu và cảm thông cho đôi vợ chồng mà ít lâu sau, vợ ông thụ thai... Về sau, bản nhạc ấy được đổi tên là "Vọng cổ hoài lang" cho rộng nghĩa thêm (Trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng). Biên bản nguyên thủy của "Dạ cổ hoài lang" của ông Sáu Lầu như sau: Từ là từ phu tướng, Bửu kiếm sắc phong lên đàng. Vào ra luống trông tin chàng, Ðêm năm canh mơ màng. Em luống trông tin nhàn, Ôi, gan vàng quặn đau. Ðường dầu xa ong bướm, Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang. Còn đêm luống trông tin bạn, Ngày mỏi mòn như đá vọng phu. Vọng phu vọng, luống trông tin chàng, Lòng xin chớ phụ phàng. Chàng hỡi chàng có hay, Ðêm thiếp nằm luống những sầu tây. Biết bao thuở đó đây xum vầy, Duyên sắt cầm đừng lạt phai. Thiếp cũng nguyện cho chàng, Nguyện cho chàng hai chữ bình an. Mau trở lại gia đàng, Cho én nhạn hiệp đôi. Bài Dạ Cổ Hoài Lang không những khái quát được tâm tư tình cảm của một lớp người ở thời đại đó, mà còn nêu lên tính độc đáo của một loại hình mới về nghệ thuật âm nhạc được phát triển dựa trên những đường nét cổ truyền. Ðiều này đã nói lên bản lĩnh của tác giả do được rèn luyện và tích lũy vốn nghệ thuật dân gian lâu đời một cách vững chắc. Nó hoàn toàn thoát ly những đường nét định hình của nền nhạc truyền thống, không chạm trổ hoa mỹ, không dài dòng văn tự như một số bài bản trong nền cổ nhạc. To Kim HongVề cấu tạo âm hưởng đó là sự phối hợp một cách khéo léo những điệu thức khác nhau làm cho tác phẩm được tăng cường sức hấp dẫn và sự thể hiện phong phú về mặt hình tượng nghệ thuật, khiến cho người nghèo cảm như thấy có cuộc đời của mình ở trong đó. Trong cái buồn man mác có chất chứa nỗi oán hờn tủi nhục. Bài Dạ Cổ Hoài Lang không phải là bài ca tâm sự của một con người cụ thể. Nó đã hòa đồng nỗi lòng của một con người trong nỗi lòng của hàng triệu con người khác đang phải sống một cuộc đời cơ cực. Dạ cổ hoài lang là một bản vọng cổ có hình thức cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh cho một làn điệu bài bản, làm nền tảng cho vốn ca nhạc cải lương. Dạ cổ hoài lang đã sống với sân khấu cải lương gần 80 năm và vẫn được nhiều người hâm mộ. Vì sao cải lương được nhiều người đón nhận? Hát Bội là lối diễn xuất cho một lớp người biết thưởng thức xem, còn Cải lương là lối diễn cho mọi thành phần xem. Từ giới thượng lưu đến những người bình dân đều có thể là khán giả của cải lương. Nghệ thuật cải lương rất dễ hiểu. Lời văn giản dị, gần gũi với đời sống hàng ngày. Nội dung các vở cải lương thường đi sát với quần chúng. Khi xem tuồng xã hội, khán giả có cảm tưởng hoàn cảnh của các vai tuồng có thể xảy đến cho mình và do đó sự cảm xúc càng thêm mạnh và in sâu vào trí não. Ngoài ra, cải lương có đủ các thú tiêu khiển "cầm ca thi họa" để cho khán giả thưởng thức. Trước hết có âm nhạc cổ điển, nhạc Âu và ca ngân nhiều bản tân và cổ. Kế đó có những lời văn và câu thơ soạn theo lối dễ hiểu... Cải lương còn cho xem những tranh cảnh hội họa và gợi khiếu thẩm mỹ về kiến trúc và xây dựng vở kịch, từ hình thức đến nội dung. Sau hết là cách sử dụng ánh sáng trên nhiều màu sắc tươi đẹp của y trang và tranh cảnh. Mỗi người một câu hỏi Nghệ sỹ ưu tú Lệ Thủy So với mấy năm trước, dường như năm nay chị ít đi hát tăng cường cho các đoàn tỉnh mà chị làm việc từ thiện nhiều hơn, vì sao vậy?Le Thuy Năm nay mưa gió nhiều, bà con làm ăn ngày càng khó nên đi coi hát không đông. Ða số các đoàn bị kẹt mưa, phải ăn nằm lây lất. Mấy năm trước kể từ năm có trận lụt lớn, thấy bà con khổ sở, tôi cũng không yên. Nhờ có quan hệ rộng tôi đã tập hợp được một nhóm bạn có lòng hảo tâm (có cả một số người ở nước ngoài) sẵn sàng ủng hộ khi tôi kêu gọi. Tất nhiên mình luôn phải đi đầu... Gần đây nhất, không chỉ có mình tôi mà còn nhiều nghệ sỹ khác nữa như Kim Cương, Hồng Nga... NSƯT Thanh Tòng Anh đã làm gì cho sân khấu tuồng cổ? Theo anh điều gì là khả thi để vực dậy cải lương tuồng cổ Việt Nam? Tôi chỉ thực hiện được một số trích đoạn tuồng cổ trên sân khấu công viên Ðầm Sen, Kỳ Hòa... như An dương Vương, Lưu Bình Dương Lễ, Bức ngôn đồ Ðại Việt, Ngọn lửa Thăng Long... không có điều kiện để dàn dựng một vở hoàn chỉnh cho các em, các cháu. Ðáng mừng là các cháu Trinh Trinh, Tú sương, Quế Trân... đã có tay nghề khá vững vàng. Làm nghệ thuật không thể chắp vá. Chỉ có một sân khấu nghiêm túc, hoàn chỉnh về kịch bản dàn dựng và diễn xuất mới mong vực dậy sân khấu cải lương. NSƯT Nam Hùng Nam Hung - To Thanh HungHơn 4 năm qua, anh miệt mài với công việc từ thiện ở Ban ái hữu, không chỉ vận động mạnh thường quân giúp đỡ cho nghệ sỹ nghèo mà còn đề xuất xin Hội bảo trợ bệnh viện miễn phí cho nghệ sỹ nghèo vào khám, chữa bệnh: vận động mọi người bỏ tiền trồng cây ở Khu Dưỡng lão... Bản thân anh rất ít đi hát, làm như vậy có phải anh có "hậu phương" vững chắc? Tuổi tôi bây giờ đôi ba tháng nhận show truyền hình, tôi diễn, vợ tôi diễn. Ðôi lúc tôi cũng được mời dàn dựng vài vở cải lương. Nhưng cảnh tình mấy năm qua cuộc sống vợ chồng tôi... hết sức khó khăn. Nhưng, làm từ thiện mà nghĩ đến bản thân mình thì làm sao công việc trọn vẹn được? Thời gian qua làm được nhiều việc ở Ban ái hữu cũng là nhờ Hồng đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều. "Hậu phương của tôi đó". NSƯT Tô Kim Hồng Tôi từng thấy chị ghen trên sân khấu (vai bà quan huyện vở Ngao Sò ốc hến) thật dễ sợ. Ông Hùng đi hoài, bỏ nhà bỏ cửa để một mình chị lo, y như hồi trước ông quan huyện đi khám..."điền thổ" vậy, chị đã từng ra tay chưa? (Ðỏ mặt) Không có đâu Ông đi đâu mình biết hết. Tính ổng không có liếc ngang liếc dọc mà chỉ có... nhậu thôi. Nhưng nếu có ghen thì mình sẽ... ghen đằm thắm hơn bà quan huyện nhiều. NS Thoại Mỹ Mỹ có tin vào duyên số không? Tại sao? Thoai My(Cười, một lúc sau e dè nói) Em... có chấm tử vi; ở cung phu là lận đận, nhiều lá số cũng nói như vậy, nhưng em không tin lắm. Em không phải là người cả tin. Hồi đó đến giờ đi coi cho vui nhưng ít khi để bụng chuyện bói toán (vì thường chỉ làm mình thêm lo thôi). "Ðường dài" không biết ra sao, hiện tại nói chị đừng cười, em có lận đận nên cũng hơi tin chút xíu. Còn sau này... biết ra sao ngày sau? Chẳng biết còn lận đận cỡ nào nữa chị ơi... NS Minh Vương Là một người đàn ông –nghệ sỹ, anh quan niệm như thế nào về hạnh phúc? Trong cuộc sống gia đình, trong mối quan hệ vợ chồng, hạnh phúc là hai người phải biết tôn trọng nhau, Thiếu sự "tương kính" này thì không thể có sự êm ấm, nếu có thì hoàn toàn giả tạo. Tôi không phải là người cầu kỳ, khó tính, cũng không mơ hạnh phúc ở ngoài tầm tay. Quan niệm của tôi đơn giản lắm. Niềm vui, hạnh phúc chỉ trong tầm tay mình, do mình tự tạo lấy, đâu có cái gì tự nhiên đến mà mình không phải trả giá? Tôi cũng không hẳn là người thích phiêu lưu, đôi khi chỉ vì hoàn cảnh đẩy đưa... Thực lòng tôi không muốn làm điều gì xúc phạm người khác, nhứt là phụ nữ! NS Thanh Ngân Có gì thay đổi trong cuộc sống và trên bước đường nghệ thuật của Thanh Ngân? Thanh NganEm rất vui sướng khi đoạt Huy chương vàng giải Trần Hữu Trang. Từ lần thử thách ấy em thấy mình vững vàng hơn trong nghề nghiệp, nhưng vẫn còn phải học hỏi nhiều. Cuộc sống của em bây giờ bận rộn lắm. điều làm em lo lắng là làm sao mỗi bài ca, mỗi trích đoạn của em đều phải thực sự có chất lượng... NS Châu Thanh Mặc dù anh không được... bảnh trai lắm, nhưng tôi biết có rất nhiều cô "chết" vì anh. Có lúc nào nghĩ lại anh thấy mình có lỗi với... một ai đó không? (Im lặng một lúc khá lâu rồi bắt đầu nói... cà lăm) A... à... để dò lại xem. Nếu... nếu... nói không thì mọi người có tin không? Ðó là... là chuyện hồi đó, xa xưa lắm rồi, lúc trẻ ai mà không có chút chút. Riêng tôi, có "ít xịu" hà. Bản tính tôi không phải là người lãng mạn, thiệt tình là vậy. Hiện tại, gia đình tôi đã ổn định, sau 10 năm lang thang tôi đã "quẹo" trở về "bến" cũ... và có thêm đứa con thứ ba. . Vài nét lịch sử . Ðặc điểm . Âm nhạc . Âm điệu . Thế nào là một giọng ca hay? . Vọng cổ hoài lang . Vì sao cải lương được nhiều người đón nhận? . Mỗi người một câu hỏi . Ðời thường nghệ sỹ . Chân dung nghệ sỹ trích " Câu Lạc Bộ Văn Hóa" vietnamnet.vn/vnn3/vhvietnam
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 16:11:18 GMT 9
Chữ quốc ngữ bành trướng từ Nam ra Bắc Nguyễn Phú Phong
1. Chữ quốc ngữ buổi đầu ở Nam Kỳ thuộc Pháp Từ quốc ngữ dùng ở chương này dùng để chỉ tiếng Việt và chữ viết theo mẫu tự La Tinh. Tình hình dạy quốc ngữ ở Nam Kỳ từ buổi đầu Pháp mới chiếm đóng có những điểm đáng nêu ra sau đây.
Ngày 17.2.1859, ngay khi đổ bộ lên Sài Gòn, đô đốc R. de Genouilly đã thấy có mặt tại đây một chủng viện và một truờng học gọi là Trường d'Adran do Hội Truyền Giáo Nước Ngoài thiết lập. Học sinh trường này học đọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng được học tiếng LaTinh, đôi khi vài chữ/tiếng Pháp nhưng rất hiếm. Dĩ nhiên, quân viễn chinh Pháp phải nhờ đến Hội Truyền Giáo để được cung cấp những người thông ngôn đầu tiên; các người này về ngoại ngữ chỉ biết tiếng La Tinh, nhưng một thứ tiếng La Tinh tồi.
Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp, các người này về sau trở thành những giáo sư đầu tiên về bộ môn tiếng Việt. Học viên người Âu của trường này đều xuất thân từ bộ binh hoặc hải quân Pháp. Ðiều đáng ghi nhận là trường này vốn là cơ sở hành chánh chứ không phải giáo dục.
Ngày 31.3.1863, đô đốc Bonard ra quyết định tái lập các hạt giáo dục cũ (do nhà Nguyễn thiết lập) với các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo; tạo chỗ cho học sinh các loại: học sanh, tú tài, cử nhân; tái lập các cuộc thi hương (mà kỳ đầu tiên phải được thực hiện năm 1864). Kiến thức về chữ quốc ngữ không bắt buộc trong các kỳ thi nhưng thí sinh biết thứ chữ viết này được ưu đãi hơn.
Bắt đầu năm 1866, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được khởi sự nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ; giáo hội lần hồi mở trường ở Mỹ Tho, Vĩnh Long và Chợ Lớn. Các trường học nhà dòng được chính quyền thuộc địa trợ cấp, đã phát triển đáng kể trong 5 năm trời.
Dưới thời đô đốc Ohier, năm 1869, một số trường được lần lượt mở ra ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giộc, Ích Thanh (?), để dạy cho bọn tráng niên chữ quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp.
Ngày 17.11.1874, đô đốc Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Nền giáo dục này được tuyên bố là miễn phí và tự do, tuân theo qui định chung của giáo dục quốc dân ở Pháp. Việc giáo dục (ở Nam Kỳ lúc đó) chịu mệnh lệnh trực tiếp của giám đốc nội vụ và đặt dưới sự giám sát của các trường quận mà trách nhiệm thuộc về các viên chức hành chánh.
Các trường làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lỵ, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc ngữ. Có sáu trung tâm thanh tra: Sài gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng, mỗi nơi đều có một trường Pháp.
Có thể nói rằng buổi đầu thời Nam Kỳ thuộc địa Pháp, tổ chức giáo dục ở đây còn đang trong thời kỳ mò mẫm, việc đem chữ quốc ngữ thay thế hẳn chữ nôm và chữ Hán có khi phải khựng lại, bằng chứng là việc tái lập các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo, và tổ chức lại các cuộc thi hương.
Việc thứ hai đáng ghi nhận là giáo dục được đặt dưới quyền của một viên chức nội vụ, tức là phụ trách an ninh.
Nhận xét thứ ba là vì nhu cầu hành chánh mà người Pháp lúc bấy giờ học tiếng Việt và những người này đều xuất thân từ quân đội.
Có một sự khác biệt lớn giữa người Việt và người Pháp hay người ngoại quốc trong việc học quốc ngữ. Người Việt học quốc ngữ là học đọc và học viết tiếng mẹ; ngữ nghĩa và cú pháp tiếng Việt họ đã nắm. Còn người ngoại quốc học quốc ngữ thì phải rèn luyện cú pháp, ngữ nghĩa, đọc và viết. Người Việt học chữ Hán không phải học viết mà thôi mà còn học đọc, học nghĩa, học cách dùng, tóm lại là học một ngoại ngữ.
Nói chung bước đầu của chữ quốc ngữ ở miền Nam gặp nhiều khó khăn vì nhiều lý do. Tại những người chủ xướng là ngoại nhân đi chinh phục. Tại họ là những quân nhân chỉ lấy những biện pháp cấp thời để giải quyết những vấn đề giai đoạn nên không có một cái nhìn lâu dài. Tại việc giáo dục mới mà chữ quốc ngữ là công cụ chuyển tải chính mặc dù có những kiện tướng như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huyụnh Tịnh Của, phải đương đầu với một hàng ngũ còn hùng mạnh thuộc trường học Hán-nôm truyền thống mà đại diện là các nhà nho yêu nước như Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, v.v. Cuộc đối địch không thuần xảy ra giữa hai chữ viết của một ngôn ngữ mà còn giữa hai thái độ chính trị, hợp tác và chống đối; giữa các tôn giáo, đạo Ky Tô một bên, và Nho, Ðạo và Phật, bên kia.
2. Chữ quốc ngữ lan rộng ra phía Bắc
Sau khi được sử dụng làm chữ viết "chính thức" của tiếng Việt ở Nam Kỳ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ bành trướng ra phía Bắc. Những biến cố lịch sử có tác động vào, hoặc đánh dấu lên, sự bành trướng này là:
- Ngày 15.3.1874, Triều đình Huế ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Nam Kỳ, từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam.
- Ngày 25.4.1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tử tiết.
- 25.8.1883, Triều đình Huế ký với Pháp hiệp ước Harmand thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
- 6.6.1884, Triều đình Huế và Pháp ký hiệp ước Patenôtre theo đó nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Như vậy từ đây chữ/tiếng Hán nhường bước cho chữ/tiếng Pháp trên mặt ngoại giao. Một cách lặng lẽ trong các cuộc giao thiệp quốc tế, tiếng Việt/chữ quốc ngữ hoàn toàn vắng bóng, chịu sự "bảo hộ" của tiếng Pháp.
- 27.1.1886, Tổng thống Pháp bổ nhiệm Paul Bert sang cai trị Trung-Bắc Kỳ, mở đầu chế độ văn quan thay chế độ võ quan trước đó. Cũng năm này Paul Bert thiết lập Băc Kỳ Hàn lâm viện (Académie Tonkinoise).
- 1895, Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Vương mà Phan là chủ tướng cũng tắt theo. Bài thơ tuyệt bút của Phan Ngự sử nói lên tâm sự của một người bầy tôi phò vua cứu nước theo quan niệm của một nhà nho yêu nước truyền thống được viết bằng Hán văn.
- 1896, Toàn quyền Ðông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trường Quốc học Huế.
- 6.6.1898, Toàn quyền Ðông Dương đặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hương trường thi Nam Ðịnh. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, hội thoại, đọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hương chính mà còn đỗ cả kỳ phụ sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan.
Việc đưa tiếng Pháp làm môn thi ở Trường Nam Ðịnh là một biến cố quan trọng vì tính cách biểu tượng của trường thi này trong chế độ khoa cử theo nho học của Việt Nam. Trần Văn Giáp (1941: 2) có nói qua lịch sử tỉnh Nam từ đời Hùng Vương để kết luận: "Trong khoảng một trăm năm trước đây, tỉnh Nam-định sở dĩ có tiếng, toàn quốc thiếu-niên nào bậc anh-tuấn, nào người ngu-độn, ai ai cũng chú-trọng đến tỉnh Nam, là vì có trường-thi hương ở đó."
- 15.12.1898, Toàn quyền Ðông Dương Paul Doumer ra nghị định thành lập Phái đoàn Khảo cổ học Thường trực tại Ðông Dương (Mission Archéologique Permanente en Indochine), đến 20.10.1900 đổi gọi là Trường Viễn Ðông Bác Cổ (Ecole Française d"Extrême-Orient) .
- 30.12.1898, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về chế độ báo chí ở Ðông Dương.
- 20.6.1903, Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định thành lập Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d"apprentis mandarins) theo chỉ thị ngày 9.2.1897 của Tổng thư ký Phủ Toàn quyền Ðông Dương. Ngày 18.4.1912 Trường Hậu bổ Hà Nội đổi thành Trường Sĩ hoạn (Ecole des Mandarins). Ngày 15.10.1917, Toàn quyền Ðông Dương ra nghị định lập Trường Pháp chính Ðông Dương (Ecole de Droit et d"Administration) thay cho hai trường Sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế (thiết lập ngày 5.5.1911).
- 27.4.1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc kỳ.
- 5.1904, Thành lập Hội Duy Tân ở Quảng Nam. Hội này do Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể làm hội trưởng mà mục đích là Khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến. (Xin đừng lẫn lộn Hội Duy Tân với Phong trào Duy Tân do Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng chủ xướng.)
- 7.1905, Mở đầu Phong trào Ðông du của Duy Tân hội. Phan Bội Châu viết Khuyến quốc dân du học văn.
- 8.3.1906, Toàn quyền Ðông Dương cho thiết lập Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l"enseignement indigène).
Như vậy từ đầu thế kỷ 20 trở đi, sau khi cuộc đấu tranh vũ trang của Phong trào Cần Vương tan rã, nước Việt Nam dưới mắt người Pháp, xem như đã dược bình định, nhà cầm quyền Pháp bắt đầu đặt để những cơ chế về hành chánh, giáo dục để cai trị các xứ thuộc địa và bảo hộ. Các cơ chế chính quyền của Triều đình nhà Nguyễn dần dần hoặc bị thay thế hoặc bị làm suy yếu đi không còn thực quyền. Hán học, nền tảng của công cuộc đào tạo sĩ phu, quan chức nhà Nguyễn, theo đó cũng tàn tạ nhường chỗ cho lớp quan chức mới xuất thân từ các trường Pháp-Việt. Chữ quốc ngữ từ trong Nam lan ra đất Bắc, xen vào các kỳ thi; biết quốc ngữ trở thành một yêu cầu để bước vào quan trường. Tuy vậy vào cuối thế kỷ 19, những bước đầu của quốc ngữ ở miền Bắc còn rất e dè, như lời tự thuật của nhà nho Nguyễn Bá Học: "Tôi lúc mới học quốc-ngữ thường không dám học to tiếng, chợt có khách đến phải giấu ngay sách vào trong túi áo, hình như có hai mươi bốn mẫu-tự quốc ngữ, là một cái sách bí-mật cấm thư". (xem Cụ Nguyễn-Bá-Học, Nam Phong, số 50, aoủt 1921, tr. 167).
3. Bước ngoặt quyết định của chữ quốc ngữ
Nhưng bước ngoặt quyết định dẫn đến sự thành công của chữ quốc ngữ là do chính các nhà nho trong hàng ngũ Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục.
Phong trào Duy Tân phát động từ năm 1905 ở Quảng Nam với ba lãnh tụ: Trần Quý Cáp (1871-1908), quê huyện Ðiện Bàn, Quảng Nam, đậu tiến sĩ năm 1904; Phan Châu Trinh (1872-1926), quê huyện Tiên Phước, Quảng Nam, đậu phó bảng năm 1901; Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), quê huyện Tiên Phước, Quảng Nam, đậu tiến sĩ khoa hội thi năm 1904. Bộ ba này năm 1905 nhân chuyến vào Nam, đến Bình Ðịnh, mượn tên ứng thí trong một kỳ thi đã làm hai bài thơ Chí thành thông thánh và Danh sơn lương ngọc đả kích những người còn bát cổ văn chương thụy mộng trung (ngủ mê trong giấc mộng văn chương bát cổ). Hai bài thơ này rõ ràng tấn công vào nền cựu học, bài xích cái học cử nghiệp, mở đầu cho chủ trương tân học sau này của Phong trào.
Ðông Kinh Nghĩa Thục khai giảng tháng 3, 1907 tại phố Hàng Ðào, Hà Nội, chương trình noi theo đường lối tân học của Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các sĩ phu sáng lập có cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng của Trường; cụ huấn Nguyễn Quyền, giám học; cụ án Nghiêm Xuân Quảng, v.v., và một số nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, v.v. Trọng tâm các trước tác của Ðông Kinh Nghĩa Thục nhắm vào hai mặt, đánh đổ và xây dựng. Ðánh đổ các hủ tục, lối nhắm mắt học từ chương theo kiểu khoa bảng cũ, các tư tưởng thoái hoá của tầng lớp sĩ phu thủ cựu. Xây dựng bằng cách hướng sự học vào các khoa học kỹ thuật mới, xem nặng thực nghiệp, chấn hưng công thương nghiệp. Và nhất là kêu gọi học chữ quốc ngữ.
Từ buổi đầu cuộc chiếm đóng Nam Kỳ của Pháp đến khi Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục ra đời, nửa thế kỷ trôi qua, chữ quốc ngữ đã lột xác dưới mắt các sĩ phu Việt Nam. Chữ quốc ngữ trước kia bị xem như một toan tính của chính quyền thuộc địa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam, như một vũ khí đi chinh phục của ngoại nhân, bây giờ được đón tiếp như một công cụ chuyển tải hữu hiệu những tư tưởng yêu nước, những tri thức mới. Như vậy là từ một công cuộc La Mã chữ viết bị ép buộc, việc áp dụng chữ quốc ngữ đã chuyển thành một cuộc La Mã hoá đồng thuận và tự nguyện. Và chuyện lột xác này phần lớn lại do tác động của các nhà nho, của các ông tiến sĩ, phó bảng, thám hoa, cử nhân triều Nguyễn, những người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, tinh thông chữ Hán.
Lập trường của ba vị Trần, Phan và Huỳnh, của Phong trào Duy Tân, đối với chữ quốc ngữ thực quá rõ ràng qua Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ mà tác giả chắc là Trần Quý Cáp, có đoạn:
... Chữ quốc ngữ là hồn trong nước Phải đem ra tính trước dân ta Sách các nước, sách Chi Na Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường... Bài thơ này cũng được xếp vào thơ văn của Ðông Kinh Nghĩa Thục (xem Vũ Văn Sạch và đtg, 1997: 110) chứng tỏ rằng hai phong trào đều có những chủ trương giống nhau về ngôn ngữ và chữ viết. Hơn nữa một người như Phan Tây Hồ chẳng hạng lại cùng hoạt động ở cả hai bên. Khuyên học chữ quốc ngữ không phải là một trào lưu cách biệt mà là một bộ phận trong một phong trào qui mô hơn có thể gọi là sách lược học văn minh theo đường lối mới.* Như vậy ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy xuất hiện một hiện tượng khác của phong trào, việc cổ động hớt tóc:
Cúp hè! cúp hè! Tay mặt cầm kéo Tay trái cầm lược Cúp hè! cúp hè! Ðủng đỉnh cho khéo. Bỏ cái ngu mày, Bỏ cái dại mày, Học theo người Tây. Hãy còn ăn mặn, Hãy còn nói láo, Phen này ta cúp, Phen sau ta cạo. (Vè cúp tóc) Phản ứng lại phong trào hớt tóc, nổi lên vụ án thế phát về phía chính quyền: những người có mái tóc hớt ngắn bị các quan bắt bớ. Các nhà nệ cổ cũng làm thơ chống đối: Mồ cha, mả mẹ anh đâu? Còn vua còn chúa, hỏi anh cúp cái đầu thờ ai? Chữ rằng phục quốc Tây lai, Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình. Nước Nam mình còn miếu, còn đình, Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta, Làm chi khác thể ông thầy chùa, Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên đua cúp đầu. Xem thế, cái phạm vi của nền văn minh mới mà phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục cổ vũ thật là đa dạng, rộng rãi và bao quát. Việc dạy và học quốc ngữ trong ý đồ Pháp hoá (francisation) dân thuộc địa của chính quyền Pháp ở Ðông Dương trở thành một chủ trương nhằm giáo hóa dân chúng của các nhà nho thức thời mà mục đích cuối cùng vẫn là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho nước nhà. 4. Thắng lợi vĩnh viễn của chữ quốc ngữ
Như vậy chữ quốc ngữ loại hẳn chữ nôm để dùng viết tiếng Việt trên toàn cõi Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 và từ đó danh từ chữ quốc ngữ thường được dùng để chỉ tiếng Việt nhiều hơn để chỉ chữ viết. Cứ đọc kỹ Bài hát khuyến học ở trên thì ta thấy ngay. Khi nói Chữ quốc ngữ là hồn trong nước thì các cụ nhà nho muốn nói Tiếng Việt là hồn trong nước chứ chẳng lẽ trước khi chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo Âu Châu phát minh nước ta không có hồn hay sao? Sau này có kẻ hậu bối dựa heo câu hát này mà nói lên lời Tiếng ta còn thì nước ta còn. Còn trong hai câu: Sách các nước, sách Chi Na. Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường... thì quả là chữ nghĩa ở đây là thuộc về từchứ không thuộc về tự, và dịch ra thì dịch ra tiếng Việt chứ không thể dịch ra chữ quốc ngữ hiểu như chữ viết.
Tình hình thắng lợi của chữ quốc ngữ trong cuộc cạnh tranh với chữ nôm và sự lẫn lộn giữa chữ viết (chữ quốc ngữ) và ngôn ngữ (tiếng Việt) được thể hiện rõ trong bài diễn văn của đại úy Jules Roux* đọc ở Toà Ðốc lý quận 6 Paris, ngày 6.7.1912 nhan đề là: Le triomphe définitif en Indochine du mode de transcription de la langue annamite à l"aide des caractères romains ou " Quốc ngữ" [Cuộc thắng lợi vĩnh viễn của phương thức ghi tiếng Annam bằng con chữ La Mã hay "Quốc ngữ"]. Dưới đây xin trích ra một số đoạn của bài diễn văn nói lên sức mạnh và sự thành công của quốc ngữ theo quan điểm của một người Pháp có thiện cảm và tin tưởng vào tiếng Việt.
Trước hết Roux xác nhận quốc ngữ - Roux dùng quốc ngữ thay vì chữ quốc ngữ - là:
" đồ nghề dùng để phổ biến một cách thần diệu tư tưởng phương Tây... là yếu tố xâm nhập mãnh liệt vào một dân tộc... nhờ vào sự ổn định ngữ nghĩa đem lại cho các từ của tiếng An Nam, quốc ngữ sẽ có sứ mạng làm công cụ chuyển tải những tư tưởng của chúng ta [tức người Pháp] có mòi góp phần vào sự phát triển xứ thuộc địa Ðông Duơng to lớn của chúng ta...
" Phần tôi [tức là Roux], tôi không thù ghét gì chữ Hán nhưng thứ chữ này đối với quốc ngữ trong 30, 40 năm tới đây sẽ giống như tiếng La Tinh đã trở thành đối với tiếng Pháp như ngày nay... "Việc giảng dạy quốc ngữ đã toả lan với một tốc độ chóng mặt ...
" Tư tưởng và sự vật được họ [ những người Việt du học ở Paris ] diễn tả bằng những chữ Hán thích hợp. Những chữ Hán này, thường là chữ đôi, phát âm theo một cách nào đó trong tiếng Việt, và cách phát âm này được ghi lại rất chính xác bằng quốc ngữ. Các từ mới này dưới dạng quốc ngữ ... càng ngày càng làm giàu cho tiếng An Nam ...
"... Hậu quả khác: ngôn ngữ này [tức tiếng Việt], được viết bằng con chữ La Mã như thế, có chiều hướng trở thành đa âm tiết ... Như vậy những từ như tự-do, đồng-bào, tự-lập, bảo-hộ, được ghép bằng hai từ đơn âm hiện nay lập thành, đồng thời cùng với số động từ khác, những từ hai âm tiết chân chính mà sự biến chuyển tự nhiên của quốc ngữ rốt cuộc sẽ bỏ bớt cái gạch nối để trở thành những từ nối liền (tựdo, đồngbào ... ghi chú thêm của NPP) giống như các từ Pháp portemonnaie hay portefeuille (thay vì porte-monnaie hay porte-feuille, ghi chú thêm của NPP).
"Như vậy, quốc ngữ ... xâm nhập mọi thứ. Nó được dạy mọi nơi ...
"Chính là thông qua quốc ngữ mà dân An Nam gắn bó với nền văn minh Pháp và chính cũng qua quốc ngữ mà chúng ta xáp lại gần với dân tộc này...
" Tướng Pennequin hiện đang chỉ huy quân đội ở Ðông Dương, có viết năm 1909 : 'Quốc ngữ là công cụ chân chính để đưa tư tưởng chúng ta xâm nhập vào dân An Nam ...
"... Thật đáng buồn thay trong một thời gian dài quốc ngữ không những không được quan tâm mà còn bị chống đối.'
"Ông Farjenel, người học chữ Hán từ 20 năm nay... đã nói như sau:
'Ở Bắc Kỳ, thế hệ mới đã dốc lòng học quốc ngữ mà họ nhận ra cái thế hơn trội đối với chữ tượng hình nhất là trên phương diện dễ học. Chỉ những thầy đồ già mới nuối tiếc cái kiểu viết cổ lỗ sĩ (archaique) của chữ tượng hình.'
"Một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kỳ định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc quảng bố như nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn này cũng nói thêm rằng [việc dùng quốc ngữ] phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và càng nhiều càng hay, cho các thông tri của các quan lại gửi đến người dân ...
"Năm 1909, ở Hanoi có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau Ðaây:
1. Ðưa ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông - chữ nho hay chữ nôm - bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp ;
2. Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định... ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ An Nam ...
"Khâm sứ Bắc Kỳ tuyên bố là không đặt vấn đề gạt bỏ văn tự Trung Quốc để thay thế bằng quốc ngữ.
'Mọi cuộc phiên viết theo ngữ âm dành cho tiếng An Nam hay Hán-Việt đều thiếu sót và đưa đến nhiều chỗ không rõ ràng. Ông Simoni [Khâm sứ Bắc Kỳ] viện lý do là số lượng âm tiếng An Nam hay Hán-Việt rất giới hạn nên rất khó khăn để phân biệt chúng nếu không dùng chữ tượng ý. [Vấn đề từ đồng âm, chú thích NPP]'
"Nhưng đó chính là điểm mà tôi (Roux) phản bác bằng cách nêu lên sự sử dụng càng ngày càng tăng trong quốc ngữ những từ đôi, những từ này đem lại cho tiếng An Nam tính chính xác ...
"... Không, ông Khâmsứ ơi! Các cuộc phiên viết theo ngữ âm dành cho tiếng An Nam, nhất là Hán-Việt, sẽ đáp ứng và sự phiên viết này sẽ không gây ra nhầm lẫn khi các ông đồ An Nam dùng quốc ngữ để thông qua những chữ đôi ..."
Tóm lại để chứng minh cái thế thượng phong của chữ quốc ngữ, Roux đã triển khai hai điểm chính sau đây:
1. Dưới mắt một sĩ quan thuộc địa, quốc ngữ là một phương tiện tốt, có hiệu năng để truyền bá văn minh phương Tây, để xâm nhập tư tưởng dân bảo hộ, và nhất là công cụ tiện lợi để soạn thảo công văn hành chánh, điều hành chính quyền.
2. Theo quan điểm của nhà nghiên cứu thì Roux tuy thường lẫn lộn giữa chữ viết và ngôn ngữ nhưng vẫn có cái nhìn sáng suốt về sức mạnh và sự phong phú của tiếng Việt. Khác với một số người kể cả người Việt, xem trọng chữ Hán, tức tiếng Trung Quốc, cho là chữ của thánh hiền, chữ của bác học (langue savante), dè bĩu chữ nôm, tức tiếng Việt, cho nôm na là cha mách qué, thì Roux tin tưởng là quốc ngữ, hiểu theo nghĩa vừa chữ viết vừa ngôn ngữ, có thể diễn tả những ý niệm trừu tượng trong nghệ thuật, khoa học, chính trị, văn học, v.v..., có thể giúp "ổn định ngữ nghĩa các từ." Ðối với chữ quốc ngữ mà một số người cho là kém hơn chữ nôm vì có quá nhiều từ đồng dạng đồng âm thì Roux phản bác lại, nói rằng các từ này sẽ được hiểu nghĩa rõ ràng qua các từ đôi (hay từ ghép). Thông qua các từ đôi này với số lượng càng ngày càng nhiều, tiếng Việt có chiều hướng trở nên đa âm tiết. Ðó là một nhận định khá đúng đắn của Roux. Qua chương trình hành động của Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục, qua tình hình và nhận xét của viên quan ba pháo binh Jules Roux, thì quốc ngữ thắng lợi hoàn toàn. Chữ viết La Tinh hoá trở thành quốc tự và quốc ngữ/tiếng Việt chứng tỏ có đủ sức để trở thành một ngôn ngữ khoa học, nghệ thuật, chính trị. Còn cái điều cho tiếng Việt đã đạt đến độ một ngôn ngữ văn chương trác tuyệt chưa thì đã được chứng minh qua các tác phẩm nôm như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm ở thế kỷ 18, và nhất là Truyện Kiều ở đầu thế kỷ 19.
[ Trở Về ] (*) - Roux, đại úy pháo binh thuộc địa, tiến sĩ luật, là bạn của cụ Phan Châu Trinh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 16:15:43 GMT 9
Tranh luận về việc áp dụng chữ quốc ngữNguyễn Phú Phong chimviet.free.fr/dantochoc/nguvan/npph053.htmSáng chế ra chữ viết để ghi lại một ngôn ngữ là một công việc thuộc lĩnh vực khoa học. Muốn thành công trong việc này, phải biết phân tích hệ thống ngữ âm, nhận diện những âm vị căn bản, lựa chọn những tín hiệu thích nghi và hiệu lợi, v.v. Bằng chứng là riêng chỉ để cải tiến chữ quố ngữ là một thứ chữ viết đã hình thành và áp dụng từ lâu mà đã phải triệu tập hết hội nghị này đến hội nghị khác, lấy ý kiến các nhà văn, các nhà ngôn ngữ học ( xem Viện Văn Học, 1961 ), rốt cuộc lại kết qủa thật là mỏng manh, chữ quốc ngữ hiện nay vẫn giữ nguyên một số điểm không hợp lý. Rõ ràng là sáng chế một thứ chữ viết đòi hỏi đến một tư duy khoa học. Nhưng khi đã có chữ viết rồi mà muốn đem ra áp dụng nó thì phải có một quyết định chính trị. Riêng trường hợp chữ quốc ngữ tuy được ra đời công khai từ giữa thế kỷ 17 - có thể lấy năm 1651 năm xuất bản cuốn Dictionarium annamiticum lusitanum, et latinum của A. de Rhodes làm khởi điểm dù rằng công cuộc sáng chế đã phải bắt đầu nhiều năm trước đó - nhưng phải chờ đến khi Pháp chiếm Sài Gòn - Lục Tỉnh thì mới có quyết định dùng chữ quốc ngữ một cách chính thức và rộng rãi. Quyết định dùng chữ quốc ngữ để ghi viết tiếng Việt thay thế chữ nôm được thể hiện qua việc phát hành tờ Gia Định báo tháng 4, 1865, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt và cũng là đầu tiên dùng chữ viếát theo mẫu tự La-tinh. Và trớ trêu thay đây là tờ báo do chính quyền Pháp ở Nam Kỳ chủ trương, do một người Pháp tên là Ernest Potteaux làm chánh tổng tài ( chức vụ này tương đương với chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ). Xin nhắc là vào năm 1865 Việt Nam đã mất ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường về tay người Pháp và đô đốc de la Grandière lúc bấy giờ là thống soái Nam Kỳ ( gouveneur de Cochinchine ). Thời gian đầu, Gia Định báo phát hành mỗi tháng một số. Mục đích của tờ báo đã được ông G. Rose nêu rõ trong văn thư đề ngày 9.5.1865 gửi Bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp ( xem Huỳnh Văn Tòng, 1973: 55 ): " Tờ báo này nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hoá và những tiến bộ về ngành canh nông... " Tờ Courrier de Saigon trong số 7, ngày 5.4.1865 có loan tin số ra mắt của Gia Định báo như sau : " Trong tháng này sẽ có số thứ nhất một tờ báo in bằng tiến An-nam thông thường. Dưới một hình thức thu hẹp ấn bản sẽ gồm các tin tức ở thuộc địa, giá cả nhiều loại hàng và một vài ý niệm hữu ích cho người bản xứ. Tờ báo sẽ ra hàng tháng và sẽ phát không trong các trường học để học sinh khá trong các làng mạc có thể đọc được ..." * Nhưng trước khi Gia Định báo ra đời, trong chính sách khuyến khích và đẩy mạnh việc dùng chữ quốc ngữ, năm 1861, thống đốc Charner đã cho phát hành cuốn từ điển nhỏ francais-annamite et annamite-francais, 96+157 trang, do viên sĩ quan hải quân Gabriel Aubaret soạn. Đây là cuốn tự điển (hay đúng ra là một cuốn từ vựng) song ngữ hai chiều Pháp-Việt và Việt-Pháp đầu tiên. Như vậy, năm 1651 với cuốn từ điển tam ngữ Dictionarium của A. de Rhodes thì chữ quốc ngữ được hoàn chỉnh để dùng như một công cụ truyền đạo. Mục đích này tuy nhiên không thể làm giảm giá trị khoa học công trình của A. de Rhodes và những người đi trước ông. Còn cuốn từ điển của G. Aubaret đánh dấu thời kỳ bắt đầu dùng tiếng Việt do người Pháp chủ trương trong công việc hành chính ở vùng Pháp chiếm đóng. Việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành chính Pháp ở Nam Kỳ song song với việc dạy tiếng Pháp cho các thông ngôn người Việt Nam được xúc tiến. Mà dạy tiếng Việt cho người Pháp nên thông qua thứ chữ viết nào, nếu không phải là chữ quốc ngữ là một thứ chữ viết rất gần chữ Pháp, do chính các người Âu Châu đặt ra, thêm nữa rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ nôm ? Việc đem chữ quốc ngữ sử dụng như chữ viết " chính thức " cho tiếng Việt không phải không gây ra một cuộc tranh luận giữa các giới thẩm quyền Pháp ở Nam Kỳ. Sau đây xin lược bày một số ý kiến và quan điểm tiêu biểu. 1. Quan điểm của Luro Eliacin Luro là thanh tra bản xứ vụ ( inspecteur des affaires indigènes ) trong chính quyền Pháp mới đặt ở Nam Kỳ. Luro còn là tác giả một giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho Trường các viên chức tập sự Pháp ( Collège des stagiaires ). Giáo trình này gồm 45 bài, dày 562 trang, đề cập đến các vấn đề tổ chức chính quyền Việt Nam dưới nhà Nguyễn, vấn đề địa bộ, thuế má, giáo dục, v.v. ( Cours d'administration annamite, Saigon, 1905 ). Qua giáo trình này ta thấy Luro là người thông hiểu khá nhiều về Việt Nam. Bởi vậy ý kiến của Luro về chữ viết và ngôn ngữ ở Việt Nam đáng được lưu ý. Sau đây là những đoạn trích dịch từ bài 38 về giáo dục quốc dân ( instruction publique ) của Luro : " Trước hết, bắt đầu ta phải gạt qua một bên những tư duy theo kiểu Âu Châu của chúng ta. Chúng ta phải hiểu ngay rằng chúng ta đứng trước một hệ thống chữ viết tượng hình ( hiéroglyphique ) chứ không phải ngữ âm. Trí nhớ cần thiết không còn là trí nhớ thuộc về âm tiếng, trí nhớ về từ, trí nhớ về ngôn ngữ. Chúng ta phải tạo ra một trí nhớ mới; một trí nhớ của đôi mắt, của người họa sĩ [ để học chữ nôm hay chữ Hán, NPP ]... Tất cả cái khó khăn trong việc học [ chữ tượng hình ] nằm trong trí nhớ của hình vẽ, của hình thể, phải vẽ, vẽ không ngừng trong những năm học đầu, đó là bí quyết. Chúng ta [ chính quyền Pháp ] đã phá bỏ những cái ấy [ cách giáo dục truyền thống của Việt Nam với ông đốc học ở cấp tỉnh, giáo thụ cấp phủ, huấn đạo cấp huyện, với chữ Hán, với tứ thư, ngũ kinh,... NPP chú thích ]. Xuất phát từ cái ý thoạt nhìn có vẽ quyến rũ là không có gì giản đơn hơn việc thay thế hệ tín hiệu tượng hình bằng hệ tín hiệu ngữ âm, chúng ta đã truất bỏ [...] các trường tiểu học tự do kiểu cũ. Thay thế các vị giáo học của các trường theo kiểu truyền thống, chúng ta đưa vào các đứa trẻ được huấn luyện trong những năm đầu của cuộc chiếm đóng, chỉ mới biết đọc, biết viết tiếng thông thường ( langue vulgaire ), và biết bốn phép toán. Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số qui định học sinh đến trường [...] Hậu quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta, kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh, và công cuộc giáo dục bắt buộc của chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân. Học đọc và viết theo ngữ âm là một trò chơi; khi người ta biết đọc biết viết, người ta không biết gì cả vì cũng thể như người ta ở trong tình trạng một con vẹt cầm bút. Biết đọc biết viết chữ Hán có nghĩa là đã bỏ ra vài năm thời niên thiếu vào những cuốn sách luân lý, lịch sử, học chúng và hiểu chúng. Như vậy thật sự có thể nói rằng [ học chữ Hán là ] đã thu nhận được giáo dục bởi vì các thầy giáo không xao lãng mặt này. Với hệ thống [ giáo dục ] của chúng ta [...] học sinh ra trường mà chẳng được dạy dỗ về luân lý, và không có một giáo dục nào cả. Nếu kết quả các trường học của chúng ta thâu lượm được là con số không thì phải dẹp hết chăng ? Chắc chắn là không. Nhưng không nên tạo lập thêm. Phải nâng cao đào tạo giáo viên, bắt họ phải biết tiếng quan thoại như họ hiểu biết tiếng thông thường ( vulgaire ); bắt họ phải dạy hai thứ tiếng đó, hai tiếng này còn cần thiết trong nhiều năm nữa ... Tôi không muốn sự dùng chữ tượng hình tiếp tục mãi. Nhưng tôi cho rằng muốn phá bỏ ( détruire ) chúng... thì phải hiểu biết chúng để vận động một cách cẩn thận. Tôi nhìn nhận rằng chúng không thể được thay thế hoàn toàn trước khi một ngôn ngữ bình dân hoàn hảo hơn được tạo ra, tôi biết rằng phương tiện duy nhất để chuyển từ tiếng Việt qua tiếng Pháp là việc sử dụng các con chữ la-tinh [...] Sau cùng tôi cho rằng sự thay thế một hệ chữ viết này bằng một hệ khác là không tùy thuộc vào một nghị định của chính phủ mà ý chí sẽ bị tan vỡ trước sức ỳ của dân chúng và trước sức mạnh của sự sử dụng trong thương mãi ... Thưa các Ngài, nguồn gốc của những sai lầm đó là người ta cứ tưởng là người ta có thể dạy trong vài năm cho một dân tộc quên đi được ngôn ngữ và phong tục của mình ... Bài này viết cuối năm 1873 và đánh dấu tình trạng giáo dục thời bấy giờ ". 2. Ý kiến của Etienne Aymonier Aymonier từng làm công sứ Pháp tại Bình Thuận, giám đốc trường thuộc địa, thành viên của Hội đồng Quản trị Hội Pháp-văn Liên-hiệp ( Alliance Francaise), biết tiếng Việt, tiếng Chàm và tiến Khmer. Lập trường của Aymonier là lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam. Dưới đây là những điểm quan trọng trong hai bài viết của Aymonier đã phát hành trong những năm 1886 và 1890. Trong bài viết năm 1886, có những đoạn như sau : " Cuộc thống trị của Pháp không thể nào thực hiện được nếu không có một hình thức biểu hiện tiếng An-nam bằng những con chữ Âu Tây... Đứng một bên cái công cụ cần yếu mà không hoàn toàn đó, có cách sử dụng đơn giản nhưng giới hạn đó ( tức là tiếng Việt, NPP ghi chú ), chúng ta cần phải gieo rắc vào người dân An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Quốc ." Trong bài năm 1890, Aymonier đã phát biểu : " Các nhà truyền giáo, những kẻ phát minh ra chữ quốc ngữ, đã sử dụng thứ chữ viết này để truyền đạo của mình. Chuyện này rất đúng nhưng phải nói thêm rằng công cụ này rất đơn giản, thật tiện lợi cho những ai chỉ nhắm vào một sự dạy dỗ có giới hạn những tư tưởng bình dân, luân lý, hay đạo giáo. Công cụ này không cho tiếp cận những chủ đề cao xa, văn chương hay khoa học. Vào cái thế mà cuộc đọ sức đáng lẽ phải xảy ra giữa tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, một bên là biểu hiện cho ảnh hưởng đạo đức trong quá khứ, bên kia đại diện cho sự thống trị ở tương lai; ở cái thế ấy người ta lại đi tìm một kẻ thứ ba, tiến An Nam, mà người ta đem sức ra phát hiện, làm cho thành tựu bằng nhiều hy sinh to lớn. Có ai nêu ra chuyện phải truất bỏ tiếng An Nam một cách đột ngột hay là từ từ ? Mà việc này có ở trong tầm sức của chúng ta không ? [...] Thực ra, vấn đề được đặt ra là thay thế trong chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Quốc, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự sử dụng ngôn ngữ này sẽ toả lan càng ngày càng lớn. Như thế tiếng An Nam sẽ tồn tại trong tình trạng hiện nay, tình trạng hiện có là do sự học hỏi và sử dụng tiếng Trung Quốc trong hàng thế kỷ, tình trạng của một thổ ngữ. Chúng ta hé thấy là tiếng An-Nam sẽ hao mòn nhanh. Các thanh điệu đã mất đi cái sắc sảo của chúng ở Nam Kỳ thuộc Pháp. Về lâu dài trong một tương lai xa, ngôn ngữ này chắc sẽ tắt đi và để lại một số chữ trong tiếng Pháp tương lai của xứ này [...] ... Tôi xin đưa ra lời nguyện ước sau đây : 1. Chương trình dạy chính thức ở Nam Kỳ thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp. 2. Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để thúc đẩy tiếng Pháp (...) Chớ nên dạy tiếng Pháp cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã, chỗ này chỗ kia, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong những làng thiên chúa giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ Đó là cách mà tôi gọi là cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ." 3.Suy nghĩ của E. Roucoules. E. Roucoules từng là hiệu trưởng Trung học ( Collège ) Chasseloup-Laubat ở sài Gòn, phó chủ tịch của Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des Etudes Indo- Chinoises ) và của Ủy ban địa phương Hội Pháp-văn Liên-hiệp. Trong một bài viết năm 1890, tựa là Le Francais, le quốc-ngữ et l'enseignement public en Indo - Chine.Réponse à M. Aymonier ( Tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và giáo dục quần chúng ở Đông Dương. Trả lời ông Aymonier ), có những suy nghĩ và nhận xét như sau : " Chữ viết này ( tức chữ quốc ngữ ) trên mọi mặt là tối ưu, và chúng ta sẽ sai lầm nếu không dùng đến nó. Phải chăng là đã đạt đến một điểm lớn nếu có thể cho cả một dân tộc có khả năng trong vòng vài tuần lể học viết được một ngôn ngữ nói thật thông thường... cũng như một ngôn ngữ hằng ngày, [... ] Người An Nam viết và viết rất nhiều. Số lượng thư từ mà họ gởi cho nhau nhiều vô số và số tiền bưu điện thu vào gia tăng rất đều là một chứng cớ về cái nhu cầu trao đổi giữa họ với nhau. [...] Ta không thể cho rằng tiếng An Nam thông tục có khả năng dùng vào các lập luận trừu tượng hay khoa học. Nhưng việc dạy ở cấp [ cao ] đó chỉ có thể dành cho những phần tử tinh hoa trong dân chúng, và thực hiện bằng tiếng Pháp, bằng tiếng Pháp đúng đắn và chân chính [ ... ] Sự dùng chữ quốc ngữ như chúng tôi đề ra đem đến một cái lợi tức khắc là không làm gián đoạn với quá khứ và những thói quen. Chúng tôn đã thu tóm vai trò chữ quốc ngữ đúng vào cái giá trị của nó, vai trò của một khí cụ tiện lợi và cần thiết. Và đó là vai trò duy nhất mà nó có thể cán đáng được. ... Chúng ta đừng quên rằng vào năm 1874, đề đốc Dupré đã muốn thử truyền bá tiếng Pháp và làm tỏa rộng sự phổ biến chữ quốc ngữ, chữ viết này đã được chính các nhà truyền giáo tạo ra và bày dạy; nhưng lúc bấy giờ thì chính họ chống đối việc dạy này và gây ra nhiều xung đột và vì thế chính quyền cao cấp của Đề đốc - Toàn quyền phải can thiệp. ... Không thể trông cậy vào một sự giúp đỡ hữu hiệu từ những người [ ... ] mà tinh thần đoàn thể chống lại việc truyền bá thứ chữ viết mà chính họ tạo nên, khi họ nhận thấy rằng nếu vào tay kẻ khác, thứ chữ viết này có thể làm nảy sinh ra một sự cạnh tranh đối với ảnh hưởng của họ." 4. Nhận xét về ý kiến của các viên chức Pháp Trước hết ta nhận thấy ngay rằng các viên chức Pháp thời ấy xem thường tiếng Việt, cho ngôn ngữ này là vulgaire( có thể tạm dịch là thông tục, tầm thường, NPP), không đủ sức để diễn tả những tư tưởng trừu tượng, ý hẳn là muốn so sánh với tiếng Hán và tiếng Pháp, là những ngôn ngữ lớn, đầy đủ. Cái nhìn này đúng là cái nhìn của những kẻ đi chinh phục, nhưng cũng có cơ sở vì cho tới thời điểm này dưới thời các triều đại vua chúa Việt Nam, tiếng Trung Quốc vẫn được xem trọng, được dùng trong công việc hành chính,sao viết sử sách, nói tóm lại như một ngôn ngữ chính thức, một ngôn ngữ ngoại giao, một ngôn ngữ của hạng trí thức học giả. Người ta vẫn cho chữ Hán là chữ ( của đạo ) nho, chữ của thánh hiền. Mục đích chính trong chính sách ngôn ngữ của chính quyền Pháp khi mới mới chinh phục Nam Kỳ không phải là xúc tiến phát triển tiếng của người bản xứ, tức là tiếng Việt, mà là nhắm truyền bá giảng dạy tiếng Pháp cho người dân mới bị chinh phục với ý đồ là tiếng Pháp sẽ dần dần thay thế tiếng Hán trong lãnh vực văn thư hành chánh, ngoại giao, sử liệu, ở cấp trung đại học..., nghĩa là tiếng Pháp phải trở thành ngôn ngữ của giới hành chánh và trí thức Việt Nam. Để lấp bằng sự thiếu thốn về phương tiện ( cần ngân sách to lớn để tăng thêm số giáo viên Pháp ) E. Aymonier ( 1890 : 34 ) không ngần ngại đề nghị dạy một thứ tiếng Pháp giảm gọn, đơn giản hoá đến mức quái gở. " Tôi [ Aymonier ] đề nghị tạm bỏ đi trong tiếng Pháp những điều không theo quy tắc chính tả, những khó khăn văn phạm, số lớn những từ đồng nghĩa và những từ trừu tượng, hầu hết các phép chia động từ ( ngoại trừ ở một số ngôi thứ ba số ít, và các động từ không ngôi ), như vậy sẽ còn lại một tiếng nói giảm gọn, " mọi (nègre)" chúng ta có thể hiểu thế, có dáng điệu nói của tỉnh lẻ, nhịp nhàng, nhưng cũng đủ để diễn tả những tư tưởng cụ thể. Ví dụ như từ amour sẽ loại bỏ đi vì có thể dùng aimer thay thế; parler dùng thay cho parole ." Nhưng dù muốn dù không, chính quyền thuộc địa Pháp vẫn có nhu cầu cho các viên chức của mình học tiếng Việt để tiếp xúc với dân bản xứ, và thi hành công cuộc cai trị những lãnh thổ vừa mới chiếm. Đối với người Pháp, lẽ dĩ nhiên, việc học tiếng Việt sẽ dễ dàng qua chữ quốc ngữ hơn là chữ nôm. Xin nhắc là trong thời gian đầu chinh phục Việt Nam, chính quyền Pháp ở Nam Kỳ đều nằm trong tay các đô đốc hải quân. Trong tình hình này, ta không lấy làm lạ là cuốn từ điển song ngữ Pháp - Việt đầu tiên được xuất bản là do một quân nhân, đại úy hải quân Gabriel Aubaret làm tác giả. Đó là cuốn Vocabulaire Francais - Annamite et Annamite - Francais, Bangkok, 1861, dày 157 trang. 5. Sự đề kháng của chữ nôm Trước tình thế nhà cầm quyền Pháp tỏ vẻ ủng hộ chữ quốc ngữ, tức là chữ viết theo con chữ La Tinh của tiếng Việt, thì giới nhà nho, tức tầng lớp trí thức Việt Nam lúc bấy giờ nghĩ sao ? Tất nhiên là họ chống đối vì nhiều lẽ. Thứ nhất vì chữ quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và cũng là công cụ truyền đạo thiên chúa. Ví dụ như Nguyễn Đình Chiểu không chịu chấp nhận một thứ chữ viết được đồng hoá với những kẻ xâm lược. Nét độc đáo của thời Nguyễn Đình chiểu là tuyệt đại đa số các tác giả yêu nước và chống Pháp đều sáng tác bằng chữ nôm (xem Nguyễn Đình Chiểu, 1973, tr.9) Chữ quốc ngữ còn có khi được gọi là " tây quốc ngữ tức là tiếng nói được viết ra bằng các con chữ Âu Châu " (P.G.V. ,1897, VI). Mà tên gọi này thì quá lộ liễu, nói lên rõ ràng nguồn gốc của thứ chữ viết này, khiến các nhà thức giả Việt Nam thời ấy khó có thể dùng nó để viết bài kêu gọi dân chúng chống ngoại xâm. Dùng chữ viết trở thành biểu tượng của một thái độ chính trị.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 16:56:45 GMT 9
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Qua vài nét văn hóa Miệt Vườn Nguyễn Văn Trần
"Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về"
I.- SƠ LƯỢC KHAI MỞ MIỀN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG.- 1.- Người ta nói "Miền" Đồng Bằng Sông Cửu Long để tách bạch một địa phương, tuy rộng lớn, trên một phạm vi rộng lớn hơn, đó là "vùng", như "vùng" Nam Thái Bình Dương, "vùng" Đông Nam Á, mà Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long chỉ là một "đơn vị" nằm trong vùng địa lý văn hóa Đông Nam Á .
Chúng ta ai cũng biết miền Nam Việt Nam chạy dài tận mũi Cà Mau thành hình theo bước Nam tiến của tiền nhơn .
Năm 1658, di thần nhà Minh , "Phản Thanh phục Minh", với 3000 quân tinh nhuệ, với chiến thuyền và võ trang hùng hậu, đến Thuận Hóa để xin được Chánh quyền Việt Nam giúp đỡ. Chúa Nguyễn, Hiền Vương, nghĩ nếu từ chối và đuổi đi, thiø đám tàn quân nầy vì cùn đường có thể đánh phá ta, nên tiếp đãi niềm nở, còn khoản đãi, phong chức và cho phép vào phía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù Lao Phố, và Định Tường với lời chỉ dẫn "đó là vùng đất mới của ta".
Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch là hai tướng nhà Minh chỉ huy lực lượng hải thuyền di tản về phương nam với lòng mưu cầu phục Minh sau này .
Tướng Trần Thắng Tài vâng lệnh Chúa Nguyễn dẩn một đoàn quân với chiến thuyền đi về vùng Biên Hòa để khai phá và định cư lập nghiệp. Họ mở mang thương mãi và chỉ trong ít lâu biến Cù Lao Phố thành một trung tâm thương mãi trù phú . Đến khi Tây Sơn tiến đánh vào Nam, một phần dân cư ở đây di tản về Bến Nghé sanh sống . Họ chuyên thu mua và bán nông phẩm từ phía Định Tường chở tới . Bến Nghé sau này trở thành Chợ Lớn và hoạt động kinh tế vẫn còn nằm trong tay người Tàu .
Trong lúc đó, tướng Dương Ngạn Địch dẫn một đoàn quân kéo về Định Tường định cư lập nghiệp. Cánh nầy chuyên vê nông nghiệp . Họ lập ra chín nông trại, dần dần mở mang ra thành Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ngày nay .
2.- Người Việt Nam theo chơn người Tàu tiếp tục bước Nam tiến và thành lập Chánh quyền ở những nơi dân cư ổn định đời sống . Nơi nào có Chánh quyền Việt Nam, nơi đó lập tức được hợp thức hóa trở thành lãnh thổ của Việt Nam . Tức nước Việt Nam định hiønh . Sự kiện lịch sử này hoàn toàn phù hợp với tinh thần công phàp ngày nay .
Người học sử có nhận xét đặc biệt về lịch sử lập quốc của Việt Nam, không giống lịch sử lập quốc của phần nhiều các quốc gia khác bởi "chính người Việt Nam từng bước lập thành nước Việt Nam". Chúng ta có thể mường tượng lịch sử lập quốc Việt Nam như một dòng nước từ trên vùng đất cao chảy loang ra vùng đất thấp . Nước chảy đến đâu thiø đất thắm nước là đất của dòng nước ấy. Mà Việt Nam cũng tắm mình trong dòng nước Nam Hải với các quốc gia khác trong Vùng Đông Nam Á .
Đất trong Nam là đất của Nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tẩu quốc, chạy vào Định Tường, Ba Giồng, được dân chúng miền Nam khắp nơi niềm nở đón tiếp và phục vụ nhà vua tận tình . Cũng vào thời gian ấy, Mạc Cữu từ Thái Lan qua, đặt chơn ở Hà Tiên, lập ra thương cảng, một thời buôn bán phồn thịnh . Sau nhiều lần bị Thái Lan và Cao Miên uy hiếp, Mạc Cữu chấp nhận thuần phục Nhà Nguyễn và được chúa Nguyễn phong chức quan, cai quản phần đất Hà Tiên để về sau nầy nối liền với Rạch Giá . Và lãnh thổ Nhà Nguyễn từ đó chạy dài tận mũi Cà Mau .
II.- TỔ CHỨC ĐỊNH CƯ VÀ MIỀN ĐỊA LINH NHƠN KIỆT 1.- Chánh quyền địa phương được thiết lập xong liền bắt tay ngay vào việc lo tăng gia sản xuất lúa gạo, hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh cá, ... để góp phần cải thiện đời sống dân chúng .
Cùng với hoạt động kinh tế, Chánh quyền còn quan tâm đến đời sống tinh thần của người dân, đứng ra lập đền chùa, miếu mạo, tổ chức quan hôn, tang, tế trong dân chúng . Đồng thời, trường học cũng xuất hiện để khai hóa dân trí con em trong làng xã . Những người có học chữ nho, y học, được Chánh quyền cho phép dạy học, chữa bịnh cho dân chúng .
Đến đây, chúng ta nhận thấy một sự kiện xã hội rõ nét ở địa phương mới khai khẩn này, đó là người Tàu và người Miên, vốn là chủ nhơn ở đây, chỉ chăm lo làm ăn, buôn bán, còn người Việt Nam đến sau, lại quan tâm tổ chức xã hội theo trật tự Nhà Nguyễn . Vì thế mà trong quá trình lập quốc, ít khi xảy ra những cuộc tranh chấp về chủ quyền đất đai gay gắt . Người Tàu và người Miên mặc nhiên nhìn nhận Chánh quyền Nhà Nguyễn và người Việt là chủ nhơn của phần đất này .
Cơ sở xã hội văn hóa được tổ chức như thế đã vững chắc cho đến khi thực dân Pháp đến xâm chiếm
2.- Có hai nơi được xem như Trung tâm văn hóa quan trọng của Miền Nam lúc bấy giờ, đó là Vĩnh Long và Định Tường . Hai nơi này đã đào tạo một Phan Thanh Giản thi đậu tiến sĩ . Ông bị lên án là ông quan nhu nhược, đầu hàng thực dân vì đã chấp hành hòa ước với Pháp năm 1862, nên sau đó ông đã chọn cái chết để tỏ tiết tháo sĩ phu . Dân miền Nam không quên những nhà Nho ái quốc và đầy tiết tháo khác, như Bùi Hữu Nghĩa thi đậu thủ khoa ; thủ khoa Huân chết sống với Mỹ Tho; Trương Công Định rạng danh chống Pháp ở đám lá Tối Trời, Gia Thuận, Gò Công; Thiên Hộ Dương, một điền chủ ái quốc chống Tây ở Đồng Tháp ; Nguyễn Trung Trực chống giữ vùng Nhật Tảo nêu cao tấm gương ái quốc và can trường mà ngày nay người Rạch Giá tôn thờ là vị thần linh :
"Lửa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần".
Đó là 4 vị sĩ phu Nam Hà xuất thân từ trung tâm văn hóa Định Tường và Vĩnh Long, sống chết cho Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Trong quá trình khai mở miền Nam, nhà Nguyễn chiêu mộ dân lập ấp đưa về miệt dưới như Ba Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá . Trong chương trình lập ấp, tức tổ chức định cư về mặt xã hội, chánh quyền nhà Nguyễn kêu gọi những tù phạm nếu hưởng ứng chương trình này họ sẽ được khoan hồng
Nhà Nguyễn theo đuổi mục tiêu chiến lược là mở rộng bờ cõi về phía Nam, thiết lập và củng cố chánh quyền miền Nam, tổ chức phòng thủ chống ngoại xâm .
3.- Khi thực dân Pháp đến, nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, nên họ cho bố trí lực lượng quân sự kỹ lưỡng . Nhưng vẫn không thiếu những người dân thường, dưới sự lãnh đạo hoặc ảnh hưởng những tấm gương sáng ái quốc của các sĩ phu Nam Hà, đứng lên từng nhóm chống Tây . Họ bị bắt và bị đày biệt xứ, tức bị đày qua Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, hoặc chính họ rời bỏ Hai Huyện mà chạy trốn qua những vùng đất mới này để lánh nạn :
"Cần Thơ là cảnh Cao Lãnh là quê Anh đi khỏi xứ Tào Khê Thoát vòng lao lý đâu dè gặp em".
Đồng thời, thực dân Pháp xoa dịu, tránh mọi phản ứng không cần thiết của dân chúng . Họ mở trường dạy học và mời các ông đồ ngày trước làm đốc học và thầy giáo . Học sinh không mấy người chịu đi học trường của Tây khai mở .
Khi thực dân Pháp tới thì Văn Miếu tiêu biểu nền Nho học vẫn còn . Lập tức, các giáo sĩ Vatican chiếm lấy ngay để biến làm nơi truyền giáo . Họ muốn vĩnh viễn tiêu diệt mọi mầm mống chống đối chính quyền thực dân vì Nho sĩ vẫn là "cái đầu" của xã thôn và đồng thời xóa tận gốc vết tích nền học vấn cũ ung đúc lòng yêu nước và tinh thần quật khởi trong dân chúng, thay thế vào đó là cái học mới theo nền văn minh Tây phương . Chính sự việc này còn là nguyên nhân sâu xa của tầng lớp sĩ phu chống đối thực dân Pháp và đợt sóng văn minh mới .
Trước lòng dân oán hận, thực dân Pháp phải cho duy trì những tập tục cũ như lễ lạc, tín ngưỡng dân gian . Ông già Ba Tri, tức nhà Nho ái quốc Nguyễn Đình Chiểu than thở, lòng đầy uất hận vì bất lực :
"Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn sáng mắt, ông cha không thờ ".
III- SƠ LƯỢC VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI 1.- Có nhiều người quan tâm phân biệt những vùng đất khác nhau, như, "Miệt Vườn" với Đồng Bằng Sông Cửu Long . Chữ "Miệt" chỉ một vùng đất ở xa theo vị trí địa lý đối với người nói chuyện, như "Miệt Trên" , "Miệt Dưới", "Miệt Cao Lãnh" , "Miệt Đồng Tháp", "Miệt Xà Toóng" , "Miệt Bảy Núi",...
"Miệt Vườn" chỉ những vùng đất cao, thấm nước ngọt, thuận lợi cho việc lập vườn tược cây trái . Nơi đây, cách sinh hoạt được tổ chức khác hơn so với những nơi người dân sanh sống bằng nghề làm ruộng . Từ đó, phong cách xã hội của người dân cũng khác . Họ có vẻ thanh tú hơn nông dân ở vùng ruộng nước . Khỏi phải nói, phụ nữ "Miệt Vườn" đẹp hơn phụ nữ "Miệt Ruộng" vô cùng .
"Đời phải đời thạnh trị Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui". (Câu hát dân gian)
Người miệt vườn hay miệt ruộng tuy có khác nhau về phong thái xã hội nhưng phần lớn họ đều nặng lòng ái quốc như nhau . Đó là nét văn hóa dễ nhận ở người dân của vùng đất mới này . Về cách tổ chức đời sống, họ ăn mặc đơn giản, ngắn gọn nên chiếc áo bà ba rất thích hợp với mọi người và mọi lứa tuổi . Nhà cửa thường xây cất tập trung theo trục giao thông như đường cái, ven sông rạch và mở toang ra bên ngoài, khác với miền Bắc, nơi thời tiết lạnh lẽo . Từ đó, tánh tiønh người miền Nam, nhất là miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, tỏ ra thật thà, bộc trực, không thích suy nghĩ, nói năng quanh co, bợ đỡ, xảo trá,... Trong quan hệ giao tiếp, họ luôn luôn nhiệt tình với lối xóm, bạn bè : "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Với bạn bè hay lối xóm, họ phải ăn ở với nhau cho "điệu nghệ", tức theo "đạo nghĩa" (nghĩa = công bằng, cho phải phải phân phân để không mất lòng nhau vì không ai bị thiệt) .
2.- Sau khi ổn định xong vùng đất mới với chế độ thuộc địa, người Pháp bắt đầu mở rộng sự xâm nhập văn hóa Tây phương. Họ mở trường dạy chữ quốc ngữ, chữ Tây chung với chữ Nho nhưng trọng chữ Tây hơn để sớm đào tạo một lớp quan chức mới, phục vụ cho bộ máy hành chánh thuộc địa . Lớp "sĩ phu" Tây học này được trả lương cao nên có đời sống vật chất dễ chịu và họ rời bỏ ruộng vườn ra sanh sống ở thành thị . Đây chính là lúc nhà Nho Tú Xương than thở :
" Cái học nhà Nho đã hỏng rồi Mười người đi học, chín người thôi..."
hoặc châm biếm cách thi cử theo chế độ mới :
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa, Lộng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra."
hoặc
" Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngoảnh đầu rồng." Than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả ông Phán:
"Nào có lạ gì cái chữ nho Ông Nghè ông Cống cũng nằm co, Sao bằng đi học làm ông Phán Tối rượu săm banh, sáng sửa bò."
Tuy nhiên, ở đây vẫn còn những Học Lạc, Thủ Khoa Huân, Đồ Chiểu, Sương Nguyệt Anh cố bám giữ cái học cũ . Họ làm thơ cổ bằng chữ nho . Nhưng những sáng tác của nho sĩ chỉ được một số ít người có học chữ nho đón nhận nồng nhiệt mà thôi . Trước trào lưu ồ ạt của văn minh tây phương, một số nhà nho đành chấp nhận "đầu hàng", quay ra dịch truyện tàu ra quốc ngữ, hoặc truyện bằng chữ nôm ra quốc ngữ . Từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu có những sáng tác, báo chí bằng chữ quốc ngữ như "Thầy Lazaro Phiền" , "Gia Định báo", "Nông Cổ Mín Đàm",... Truyện văn vần như Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Sáu Trọng, ... bằng quốc ngữ rất được rộng rãi giới bình dân ưa chuộng .
Những nho sĩ ái quốc cũng bắt đầu đón đọc những tác phẩm về tư tưởng tây phương, như của Montesquieu, J.J.Rousseau, qua Hán văn dịch từ tiếng Nhựt .
Một lần nữa, những nho sĩ ái quốc chịu ảnh hưởng tư tưởng chính trị tây phương, đứng lên làm cách mạng chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc mà không "Cần Vương" nữa .
Tiếp theo, một lớp người mới, học trường Tây, chữ Tây ngay từ nhỏ, lớn lên, học xong, đỗ đạt trường Tây, họ kêu gọi dân chúng tập hợp lại chống Tây . Những người này khác hẳn với một số người đương thời với họ, học Nga, học Tàu, trình độ học vấn kém hơn họ nhiều nhưng lại theo Nga, theo Tàu, đánh mất hoàn toàn con người Việt Nam ỏ họ .
Những người học Tây mà theo Việt Nam đó là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Võ Thành Cứ, . . .
3.- Trong sinh hoạt văn hóa, một bộ môn nổi bật và hấp dẫn quần chúng mạnh nhất là hát bộ, hát cải lương và đờn ca tài tử.
Vào đầu thế kỷ qua, nhà in Phát Toán ở đường Nguyễn Văn Thinh, Sài Gòn 1, in và xuất bản "Bản đờn tranh và bài ca".
Người bấy giờ chơi đờn ca theo quan niệm là đờn ca chỉ để "di dưỡng tánh tình, giao cảm với bạn tri âm", hoàn toàn không có ý làm tiền nên còn được dân chúng và giới mộ điệu gọi là "văn nghệ tài tử".
Ngày trước, đờn ca, hát múa chỉ dành riêng và thạnh hành trong Cung điønh, nay mở rộng ra phục vụ dân chúng, mà lại là dân chúng miền Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Cải lương và nhiều bài hát còn lưu truyền cho tới ngày nay đều xuất phát từ miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởi vì miền này trù phú, người dân có đời sống sung túc nên có thời giờ và điều kiện nghĩ đến những môn giải trí tao nhã . Từ đó xuất hiện văn nghệ .
Tại Vĩnh Long, có ông Tống Hữu Định tổ chức ca hát tại tư gia của ông . Người ca hát đứng trên bộ ván và hát có bộ, tức có nhiều cử chỉ để diễn tả ý của bài hát .
Cũng ỏ Vĩnh Long, có ông Huờn, công chức tòa án, sáng tác bài ca cải cách, ông Phạm Đăng Đàng là một thầy đờn nổi tiếng, ông Trương Duy Toản là soạn giả tiền phong về cải lương . Ông Toản còn là ký giả và chủ bút báo Trung Lập . Về Từ Hải, ông ca ngợi tinh thần anh hùng, tranh đấu mà không vì "công hầu khanh tướng", lại phảng phất tinh thần yêu nước :
" ... Đường cung kiếm, cái chí nam nhi Núi sông là phận, từ đây quyết vẫy vùng cho sống dậy trần ai Rền một trời, đùng đùng xao động, Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc..."
Đờn ca chẳng riêng biểu diễn cho công chúng Đồng Bằng Sông Cửu Long thưởng ngoạn mà còn được đem qua tận xứ Pháp, tham dự như phần văn nghệ tại cuộc triển lãm quốc tế vào lúc bấy giờ .
Miệt vườn một thời nổi tiếng "ca nhạc tài tử với bộ điệu" đã ảnh hưởng mạnh đến những vùng xa xôi khác, như Sài Gòn . Ở Hậu Giang, lúc bấy giờ có ông Hai Khị, người gốc Minh Hương, giỏi về nhạc ; ông Sáu Lầu sáng chế bản "Dạ cổ hoài lang", tức bản vọng cổ còn lưu truyền đến ngày nay .
Năm 1917, ông André Thậm lập gánh xiệc có pha ca hát có điệu bộ .
Qua đó, chúng ta thấy cải lương ra đời từ miệt vườn, thâu thái cái hay cũ, đổi mới theo nhu cầu, hoàn cảnh địa phương .
Người dân đến đây định cư lập nghiệp cũng vận dụng óc sáng tạo để thích nghi với từng hoàn cảnh, điều kiện đất đai, nước gió . Nơi họ giữ ruộng cày cấy, nơi họ xạ lúa và nơi thì họ trồng đủ các loại cây ăn trái,...
Mỗi chọn lựa đều nhằm thích nghi để phát huy khả năng sản xuất .
Văn nghệ tài tử và cách tổ chức đời sống của người Việt từ miền ngoài vào đây theo bước nam tiến là hai nét đặc trưng của văn hóa dân tộc :
" Chuồn chuồn bay thấp Mưa ngập ruộng vườn Nghe lời nói lại càng thương Thương em, anh muốn lập vườn cưới em ". (Câu Hò)
Người miệt vườn có tiếng là văn minh -"Văn minh miệt vườn". Thế mà khi tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh tây phương, họ chẳng những ngỡ ngàng mà còn ú ớ nữa .
Năm 1917, máy hát dĩa chạy bằng dây thiều nhập vào Việt Nam . Nhà giàu miệt vườn là trong số những người mua sắm máy hát đầu tiên . Khi nghe máy hát, có nhiều người sợ hãi bảo nhau : "Trong đó, có hồn người ta bị bắt nhốt vào nên nó mới hát thành tiếng . Chứ máy bằng sắt thì làm gì nói ra tiếng người ta được". Còn thấy máy chụp hình thì họ càng sợ hãi hơn nữa, vì họ cho là máy chụp hình sẽ "hốt hồn vía" của họ mất đi .
4.- Khi phong trào cách mạng Duy Tân phát động năm 1919, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đến Mỹ Tho, Tân Châu, Cao Lãnh vận động quần chúng . Qua năm 1910, có thêm những nhà cách mạng, như ông Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoanh từ Côn Đảo được đưa về và chỉ định an trí ở Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc . Những nhân sĩ Nam Kỳ theo phong trào Duy Tân, Đông Du như các ông Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Nguyễn Thần Hiến, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Quang Diêu, gốc Nho học nên chịu ảnh hưởng Tôn Dật Tiên "Tiết chế tư bổn, bình quân địa quyền".
Hưởng ứng cuộc vận động cách mạng dân tộc của các nhà ái quốc này, thanh niên Nam Kỳ dấn thân theo chương trình Đông Du đông đảo hơn những nơi khác, và dân Nam Kỳ đóng góp tiền bạc cũng nhiều hơn những nơi khác .
Sách báo bằng quốc ngữ, nhờ những điều kiện thuận lợi của địa phương nên xuất hiện ở xứ Nam Kỳ phải nói là rất sớm, vào cuối thế kỷ 19 .
Về truyện, có "Thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quảng, mà ngày nay người đọc vẫn hiểu được như thường bỡi lời văn tuy có xưa nhưng vẫn không quá khác biệc với chữ nghĩa ngày nay .
Về báo, có Gia Định báo xuất bản vào cuối thế kỷ 19 và kéo dài làm nhiều chục năm, qua đến cuối thập niên đầu của thế kỷ 20 . Lục Tỉnh Tân Văn tiếp theo và tồn tại khá lâu . Nam Phong và Phong Hóa, Ngày Nay chỉ xuất hiện sau, vào cuối tiền bán thế kỷ 20 . Cũng như về tiểu thuyết, đến năm 1923 mới thấy Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, trong lúc ấy, tiểu thuyết quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh đã ra mắt vào năm 1916 .
Thế mà văn học sử chỉ thấy ghi tiểu thuyết quốc ngữ chỉ có Tố Tâm, Tự Lực Văn Đoàn và báo, chỉ có Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay . Điều đáng buồn là không được ghi nhận sự "có mặt" của sách báo Nam Kỳ, chứ không phải được ghi vào danh mục rồi bị phê bình là "dở quá", không xứng đáng là tác phẩm văn học !
5.- Một sự kiện văn hóa Đồng Bằng Sông Cửu Long nổi bật rực rỡ chỉ trong vòng không quá hai năm, thâu phục hơn 2 triệu người, đủ thành phần xã hội, nam nữ, tuổi tác và đưa số người này khuôn vào nếp sống hướng thượng, lành mạnh, đạo đức và đầy lòng ái quốc . Đó là sự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo vào năm 1939, tại Châu Đốc .
Các nhà ái quốc tiền bối đau lòng cho vận nước, không ngại gian khổ, bôn ba ra hải ngoại vận động cứu nước như phong trào Duy Tân, Đông Du . Nối tiếp công cuộc đó, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, trước tiønh hình thế chiến bùng nổ, vận mạng Việt Nam còn trong vòng kiềm chế của thực dân, bèn đứng lên vận động quần chúng ngay nơi Ngài sinh trưởng, tức quần chúng nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Ngài ý thức sức mạnh đánh đuổi ngoại bang giành độc lập cho đất nước không tìm ở đâu khác hơn là ở ngay đồng ruộng miền Nam . Cũng như về tu Phật, Ngài dạy "Phật tại tâm chứ đâu mà tìm".
Trào lưu văn minh Tây phương đã làm đảo điên xã hội, Ngài cổ súy chấn hưng phong hóa nước nhà, đồng thời thức tỉnh lòng ái quốc ở người dân để thành lập phong trào nhơn dân tranh đấu cứu nước. Ngài lấy đạo dạy đời làm căn bản :
"Đời không đạo, đời vô liêm sỉ Đạo không đời, đạo biết dạy ai".
và sống đời sống của người Phật Giáo Hòa Hảo lấy Tứ Đại trọng Ân làm kim chỉ nam :
"Tu đền nợ nước cho rồi Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen".
Trước đó, năm 1927, tại miền Đông xuất hiện Cao Đài Đại Đạo . Đây cũng là một tôn giáo ái quốc của xứ Nam Kỳ, vùng đất vừa mới được khai mở, thiếu cái gốc ngàn năm của đất Thăng Long hay đất Thần Kinh . Cao Đài xuất hiện ở miền Đông viø dân Hai Huyện văn minh hơn, có học Tây nhiều hơn, và số người làm việc cho bộ máy hành chánh của Tây cũng đông đảo hơn . Từ đó, cách tổ chức, hành đạo, truyền bá giáo lý của Cao Đài Đại Đạo đều mang tính khoa học tây phương . Người khai mở đạo là một vị Đốc Phủ Sứ . Những người cầm đầu mối đạo cũng là những người thuần tây học. Và Cao Đài mở rộng trong tầng lớp trung lưu, công tư chức Nam Kỳ .
lV.- GIỜ ĐÂY VÀ NƠI ĐÂY* Hội Ái Hữu Đồng Bằng Sông Cửu Long là một tập hợp những người Việt hải ngoại, ngày nay đến đây lập nghiệp .Tất cả cùng có chung quê hương thuộc vùng sông nước ấy .
Trước kia, tiền nhân của họ đã một lần rời bỏ làng xóm, quê hương theo bước chân nam tiến đến vùng đất xa xôi, từng bước định cư, lập nghiệp và cùng nhau thành lập miền Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Giờ đây, con cháu của họ lại một lần nữa rời quê hương của ông cha để lại, tản mạn ra hải ngoại ở khắp nơi . Rồi ở đây, họ cùng nhau dựng lại Đồng Bằng Sông Cửu Long với những con người "miệt vườn, miệt ruộng" thiệt, nhưng trên đất đai của xứ định cư .
Nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Long ở đây mới chính là "cái còn" của chúng ta, vì chúng ta đã dựng lại nó với tất cả tâm tình chân thật, với nếp văn hóa của lớp con cháu của những người trước kia khai mở nó .
"Cái còn" này chúng ta phải trân quý, gìn giữ . Nếu để mất một lần nữa là chúng ta bị mất hết, mất trọn vẹn gia sản tiền nhân.
Cũng như người con gái miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, trước làn sóng văn minh Tây Phương làm thay đổi nếp sống miệt vườn, cương quyết bảo vệ cho kỳ được cái nét đôn hậu ở người yêu :
"Áo bà ba, vạt ngắn vạt dài Em may cả đống đó, sao anh không bận, mà anh bận chi hoài cái áo bành- tô " ?
Quả thật, người con trai giật mình, thức tỉnh trước lời người con gái trách móc . Bổng tự nhiên anh cảm thấy những lời mộc mạc ấy có sức mạnh như một công án thiền . Không biết phải thốt lời gì khác hơn là tìm cách tự bào chữa cho mình . Lời ngụy biện nhưng rất có duyên chắc sẽ làm mát lòng người yêu :
"Áo bành- tô xấu mặt nhưng dễ nhìn Anh bận nó hoài... để có cái túi bự ... mà anh đựng cục tình của em... "
Nguyễn văn Trần, Nông dân " Miệt ruộng phèn " Cần Giuộc Ghi chú : *Ghi lại buổi nói chuyện hôm lễ giới thiệu Hội Ái Hữu ĐBSCL tại Vancouver, với vài sửa đổi nhỏ Áo Bành-tô là áo của Tây, như áo " Vết " ngày nay . Sơn Nam, Đồng Bằng Sông Cữu Long, Xuân Thu, TX, huê kỳ Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu giang, Phù Sa, Saì gòn, 1959 Phan Khoang, Lich sử Đàng Trong, Sài gòn, ( sd ) Nguyễn văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu, Những cuộc Khai phá Miền Hậu giang, Hương Sen, Sài gòn, 1972 Vài tài liệu của Văn Khố pháp, tài liệu Hội thảo về "Âu Á" ở Aix-en-Provence ( bảng chụp thiếu ngày )
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:34:07 GMT 9
Quận 4 Sài Gòn xưa, xóm đàn Tôn ĐảnPosted on April 12, 2020 by dongsongcu Quận Tư, ngoài nghể đóng giày Tây với những tiệm giày nổi tiếng như Giày Thành , Giày Gia, Giày Gia Phong vang danh một thời Quân Tư còn có Xóm đàn, là một làng nghề thủ công chuyên sản xuất đàn Guitar. Ngày nay tìm cho ra Xóm đàn Tôn Đản không phải dễ, phải hỏi những người lớn tuổi, để họ chỉ vô mấy con hẻm lớn, hẻm nhỏ, tới nơi rồi, nghe mùi keo, mùi gỗ, mùi véc ni, nhưng cũng phải ngó cho kỹ mới phát hiện ra vài cơ sở sản xuất đàn, vì nó nằm chung địa bàn với những nhà làm giày da…… Xóm đàn hôm nay heo hút là thế, muốn được hiểu hơn về cái gọi là làng đàn, thì phải quay về ngày xưa. Đó là khoảng thời gian cách đây hơn nửa thế kỉ. Theo những câu chuyện kể lại, thì Xóm đàn ban đầu là nơi có những người thợ mộc gốc Bắc di cư, thường nhận sửa những cây đàn hư của người Pháp đem tới. Khi đó đàn Guitar là hàng hiếm ở Việt Nam, muốn mua đàn, phải mua từ nước ngoài, vừa bất tiện mà giá lại mắc. Vậy là cùng với việc sửa chữa, những người thợ mộc khi ấy đã tự mày mò tìm hiểu cấu tạo của cây đàn, để tự làm ra những cây đàn Sài Gòn đầu tiên. Đàn Guitar, với sức hấp dẫn vốn có, nhanh chóng trở thành loại nhạc cụ được nhiều người tìm đến. Nắm bắt nhu cầu đó, người dân bắt đầu đầu tư vào ngành nghề này, ai có nhiều vốn thì mở xưởng, ai ít vốn thì làm gia công. Dần dần, nghề làm đàn trở thành nghề chính của dân trong xóm, người mở xưởng, người dạy nghề, học nghề, nghề làm đàn trở thành nghề ăn nên làm ra. Đọc thêm Sài Gòn dễ thương quá ! Đàn ở xóm Tôn Đản khi ấy, được phân phối khắp các cửa hàng ở nội thành, khi đó còn tập trung trên đường Hồ Văn Ngà, quận 1. Các tiệm nổi tiếng với cây đàn Tôn Đản khi đó là Mỹ Tín, Phùng Đinh, Đại Thành, Quảng Thành… Lâm Hào Cholon ..và từ các tiệm này, đàn Guitar đến tay dân chơi, nghệ sĩ chơi đàn với giá cả rất cạnh tranh. Trải qua nhiều thăng trầm , đến nay, Xóm đàn Tôn Đản tuy còn tồn tại, nhưng chỉ còn là chiếc bóng của ngày xưa. Các tiệm bán đàn xưa không còn, đàn Tôn Đản nay chỉ còn bán cầu may ở các cửa hàng Nguyễn Thiện Thuật, cạnh tranh mệt mỏi với đàn Trung Quốc. Theo một khảo sát, trong số 65 làng nghề của Sài Gòn, có 14 làng nghề có nguy cơ mất đi, và Xóm đàn Tôn Đản nằm trong danh sách rủi ro đó…… Ít ai biết Nữ nghệ sĩ cải lương tài danh Lệ Thủy xuất thân từ Xóm Tôn Đản và Guitar điện phím lõm cũng ra đời từ đây – Xóm nghèo nhưng nghệ sĩ ! Theo DanSaiGonXua Nguồn: dansaigon.com/quan-4-sai-gon-xua-xom-dan-ton-dan/
|
|
|
Post by Can Tho on May 13, 2020 8:36:18 GMT 9
Người xứ Đàng TrongLê Công Sơn thanhnien.vn/van-hoa/kham-pha-nhung-tap-tuc-tinh-cach-trang-phuc-khong-giong-ai-cua-nguoi-xu-dang-trong-1219932.htmlTrải dọc bờ biển hơn 100 dặm, từ ranh giới với Chiêm Thành ở vĩ độ 11 cho tới vĩ độ 17 ranh giới với Đàng Ngoài, một bên giáp biển và bên kia giáp núi, người xứ Đàng Trong có đời sống khá kỳ lạ. Hình ảnh xứ Đàng Trong dưới thời Chúa Nguyễn /// ẢNH: T.L
ẢNH: T.L
Những tập tục, tính cách, trang phục… “không giống ai” của người Đàng Trong, được tác giả Cristoforo Borri, một linh mục dòng Tên người thành Milan (Ý) - đến nơi này lần đầu tiên vào thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và ở lại đâu 5 năm - đã tiết lộ qua cuốn sách Xứ Đàng Trong (do NXB Tổng hợp TP.HCM và Omega ấn hành). Khám phá những tập tục, tính cách, trang phục… “không giống ai” của người xứ Đàng Trong - ảnh 1 Khán giả Đàng Trong xem hát qua tranh vẽ của John Barrow trong một cuốn sách in tại Anh năm 1806
ẢNH: T.L
Đầu tiên, mối quan hệ thứ bậc trong các quan hệ giao tiếp theo tôn ti trật tự: “Trong mỗi ngôi nhà, dù nghèo nàn thế nào thì người Đàng Trong cũng ngồi theo ba lối khác nhau: thấp nhất là quỳ gối trên một chiếc chiếu trải dưới sàn, và đây là lối mà những người ngang hàng ngồi, có nghĩa mọi người trong cùng một gia đình.; lối thứ hai là trải lên chiếu một tấm vải mỏng, đẹp dành cho những nhân vật quan trọng hơn; lối thứ ba là kê một chiếc bàn cao chừng ba gang tay và rộng hơn một chiếc giường, chỗ này chỉ dành cho các quan trấn thủ, quan lớn địa phương hay các bậc cao tăng đạo sĩ, bởi vậy mà cũng cho mời các cha ngồi lên đó”. Nam giới để tóc dài như nữ giới Trang phục của phụ nữ Đàng Trong thường rất kín đáo, dù cho thời tiết nắng nóng bao nhiêu đi chăng nữa, họ vẫn quyết tâm ăn mặc không để lộ ra một phần da thịt nào. “Họ mặc năm hoặc sáu lớp váy màu sắc khác nhau, lớp trong cùng dài... tới đất khá nặng nề, trịnh trọng đến nỗi không thể nhìn thấy bàn chân họ; lớp thứ hai ngắn hơn và cứ như vậy, người ta mặc nhiều lớp váy đủ loại và đây là y phục dưới thắt lưng thôi. Áo ngực thì họ dùng một tấm vải kẻ nhiều màu sắc, bên ngoài lại là tấm voan rất mỏng và xuyên thấu nên dù có che hết thì cũng nhìn thấy hoa văn cầu kỳ rất chỉnh chu, song lại vô cùng ăn ý..”, tác giả Cristoforo Borri mô tả chi tiết. Còn đàn ông Đàng Trong ăn mặc thì cũng “hoa lá cành, lá hẹ” chẳng hề thua kém các chị em. Cristoforo Borri tiết lộ: “Họ quấn một tấm vải quanh thân thay cho quần chẽn, phần trên cũng được che bằng 5 hoặc 6 lớp áo dài và rộng bằng lụa rất mịn, nhiều màu, với cánh tay rộng như áo các linh mục. Từ thắt lưng trở xuống, người ta xẻ thành nhiều tà rộng rất đẹp nên khi di chuyển tất cả rung rinh và màu sắc hòa quyện, chỉ cần làn gió nhẹ thoảng qua là bộ xiêm y hệt như hàng ngàn chiếc lông công xòe ra…”. Có một điều độc đáo hơn, nam giới ở Đàng Trong cũng để tóc dài như nữ giới, thường đội mũ, hiếm người có râu và phần nhiều đều không cạo râu. “Mốt” móng tay đàn ông để dài thịnh hành tại Đàng Trong để chứng tỏ đảng cấp, riêng giới quý tộc thì không cắt móng tay bao giờ, nhằm để phân biệt với tầng lớp bình dân và người lao động do tính chất công việc họ luôn phải cắt tóc, móng tay. Vật dụng sở hữu như một món đồ trang sức của người Đàng Trong là quạt. “Cả nam và nữ đều cầm trên tay giống như chiếc quạt của các phu nhân châu Âu. Trong lễ tang nếu người châu Âu mặc đồ đen thì họ mặc đồ trắng. Đặc biệt, người Đàng Trong không mang tất giày, họ bảo vệ lòng bàn chân bằng một tấm da có dây lụa luồn qua ngón chân và vài chiếc nút giống như xăng-đan. Trước phòng khách của mỗi ngôi nhà họ đặt chiếc lu để rửa chân, ai mang dép thì để ngay ở đó rồi khi ra khỏi nhà lại mang đi. Họ làm vậy để không bị bẩn chiếu trải trên nền nhà”, sách đã dẫn cho biết.
Thường xuyên tổ chức tiệc tùng Trong văn hóa ẩm thực, người ở xứ Đàng Trong còn có điểm khác lạ nữa là việc tổ chức tiệc tùng giữa hàng xóm láng giềng cứ diễn ra thường xuyên và kỹ lưỡng tới mức: “Dù nghèo thế nào chủ nhân đều sẽ bị coi là thiếu chu đáo nếu không dọn đủ 100 món ăn trên bàn cho thực khách. Ngoài ra, số lượng người tụ tập có khi 30 - 40 người, đôi khi đến 100 người, thậm chí hai trăm người là bình thường. Với lượng thức ăn hàng trăm món mà có tiệc đãi tới 2.000 thực khách thì việc sắp xếp thức ăn hẳn gặp nhiều khó khăn không? Xin thưa là hoàn toàn... ổn: “Họ khéo léo sắp xếp những khúc mía thành những lâu đài nhỏ, mà mỗi tầng lại đặt một dĩa thức ăn ngon lành, bao gồm: hải sản, gia cầm, thịt thú rừng và thịt thú nuôi. Thường chủ nhân ăn trước các món ưu thích nhất và được các đầy tớ bậc cao nhất phục vụ. Sau đó đến lượt các đầy tớ bậc cao ăn để những hầu cận thấp hơn phục vụ, rồi tới lượt những hầu bàn ấy no nê xong, theo tục lệ cuối cùng phải dọn sạch đồ ăn mang về nhà chia cho con cái, hoặc cho người nghèo một cách vui vẻ và mãn nguyện. Bữa tiệc tùng nào cũng thường kết thúc có hậu như vậy”, sách Xứ Đàng Trong kể.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 6, 2020 2:13:59 GMT 9
Cù lao Phố - Cảng biển đầu tiên ở Nam bộ Sơn Nam
Nông Nại đại phố tức là Chợ Lớn của xứ Đồng Nai, Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông, viết chữ Nông Nại.
Về chợ và cảng cù lao Phố, tư liệu ít thấy, cơ bản vẫn là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Ông Trịnh Hoài Đức tiếc thay, chào đời vào khoảng năm 1765, khi được 10 tuổi “gặp buổi nhiễu nhương, mẹ dời đến Phiên Trấn, và cho Trịnh Hoài Đức học với Võ Trường Toản?” (Đại Nam liệt truyện).
Tổ tiên của Trịnh Hoài Đức là người tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa), theo Đại Nam liệt truyện thì sang Trấn Biên “lúc nhà Thanh chiếm Trung Hoa”. Cha làm quan thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, lúc cù lao Phố còn hưng thịnh nhưng ông nội Trịnh Hoài Đức là một trong những người sáng lập miếu Quan Đế (chùa ông), có tên ghi trong danh sách những người đứng ra lập chùa, năm 1684, tức là sau khi Trần Thắng Tài đến Biên Hòa. Tuy không nói rõ, ông nội của Trịnh Hoài Đức có thể đi theo Trần Thắng Tài, hoặc trước, hoặc sau vài năm. Và cha của họ Trịnh cũng góp công vào hương khói của chùa Quan Đế nói trên năm 1743.
Như vậy ta thấy những gì Trịnh Hoài Đức ghi chép về cù lao Phố là tư liệu đáng tin cậy nhất, ngoài ra tôi chưa gặp tư liệu nào tương đối cụ thể hơn. Họ Trịnh ghi lại: “Nông Nại đại phố, lúc đầu khai thác do “Trần Thượng Xuyên, tức Trần Thắng Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, có những xà-lan (người dịch lại, hiểu là kiểu bè chở hàng hóa), ấy là một chỗ đại đô hội, những nhà buôn bán to duy ở đây là nhiều hơn”.
(Đoạn trích dẫn trên đây là ở mục “Thành tri chí”).
Trong Gia Định thành thông chí, ở mục “Sơn xuyên chí”, lại ghi về gành đá trên sông, nay còn thấy:
- Phía bắc gành đá có vực sâu làm chỗ cho tàu biển các nước đến đậu. Xưa nay, thuyền buôn đến đây hạ neo xong thì lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả. Chủ mua định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu, không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là hồi Đường (trở về Trung Hoa).
Đọc rải rác những tư liệu trong Gia Định thành thông chí, ta có thế tạm đúc kết:
- Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thắng Tài đến với quân đội, suy thoái từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Sài Gòn (sông Tân Bình).
Trịnh Hoài Đức mô tả vị trí khá cụ thể, dài 5 dặm, hơn 2km, đại khái từ miếu Quan Công nay hãy còn ăn về phía bắc. Sản phẩm đưa vào cảng là món gì, họ Trịnh không nói rõ, cũng như số lượng tàu thuyền. Nhưng ta đoán là hàng tiêu dùng.
- Trước khi Trần Thắng Tài được chúa Nguyễn đưa đến cù lao Phố, đã có người Việt từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ vậy, khi Trần Thắng Tài đến cù lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc cũng tới lui trao đổi hàng hóa.
Trần Thắng Tài đến với quân sĩ và gia quyến, nhưng quân sĩ này vẫn tiếp tục cầm vũ khí theo đuổi binh nghiệp. Số thương gia lại đến sau, với vốn liếng để lập chợ.
Kiểu mua bán ở cù lao Phố là dạng xuất nhập khẩu, với kho hàng dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua, với nhiều chân rết. Nên gọi đó là những “tư sản mại bản” chăng? Toàn là dịch vụ, phi sản xuất. Mức hưng thịnh của cù lao Phố phải chăng đạt đỉnh cao vào năm 1767, tức là 70 năm sau khi cảng này phát triển.
Bằng cớ là năm 1747 có bọn thương khách người Phước Kiến với lãnh tụ là Lý Văn Quang tự xưng là Giản Phố đại vương cùng với 300 quân mưu toan đảo chánh, chiếm lấy dinh Trấn Biên, tức là toan nắm quyền ở khu vực Biên Hòa rộng lớn. Từ cù lao, chúng vượt chiếc cầu ván bắt qua Rạch Cát, rốt cuộc âm mưu thất bại. Giản Phố tức là Giản Phố Trại (âm lại mấy tiếng Campuchia, vì viết chữ Đông và chữ Giản hơi giống nhau, nên lắm nơi đọc là Đông Phố hóa ra vô nghĩa).
- Lâm sản, ngà voi, sừng tê giác, lộc nhung không thể tái sinh nhanh chóng, vì vậy cạn kiệt. Cù lao Phố suy thoái vì thiếu hàng hóa đưa ra ngoài (cũng là trường hợp cảng Hà Tiên thời Mạc Cửu). Bấy giờ, nhằm lúc Tây Sơn khởi binh, thương gia thấy không có lý do để bám cù lao Phố, họ thấy nên dời xuống Sài Gòn - Chợ Lớn để đón nhận nguồn lúa gạo dồi dào của đồng bằng sông cửu Long bắt đầu dư để xuất cảng; dịch vụ lúa gạo xem ra bền vững hơn. Quân Tây Sơn sẵn cơ hội ấy đốt phá chợ phố của cù lao.
Đại Nam thống nhất chí ghi rõ quân Tây Sơn đến “dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá của cải chở về Quy Nhơn, từ đời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa được một”.
Chi tiết “nhà cửa gạch đá” bị cướp đi rất quan trọng. Theo kỹ thuật đi ghe buồm, ghe phải chở nặng thì chạy mới vững. Chuyến qua cù lao Phố, ghe chở thêm đá và gỗ mỹ thuật, khá nặng rồi ráp lại, đã chạm trổ để xây cất chùa miếu, nhà cửa cho nhanh.
Người Pháp đến khi cù lao Phố đã trở thành xóm làng bình thường, không còn dấu ấn gì về thời oanh liệt đã qua. Nay chọn cù lao là địa bàn của xã Hiệp Hòa, trong thành phố Biên Hòa. Con số đình chùa khá nhiều, của làng xưa nay đã trở thành ấp, chứng tỏ thời nhà Nguyễn ở đây có hơn 10 làng xã với đình làng. Người xưa còn đâu? Đọc Lược sử cù lao Phố do Nxb Đồng Nai ấn hành 1994, thấy ghi các dòng họ Nguyễn, Lê, Trương, Huỳnh là những dòng họ lớn đến sinh cơ lập nghiệp từ lâu đời, chiếm tỷ lệ cao trong xã; còn ngôi mả ngói rất xưa mà họ Nguyễn nhận của dòng họ mình. Và theo luận văn của Tôn Thị Điệp về cù lao Phố thì các dòng họ trên xuất hiện gần 300 năm nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Lại còn ông Bì Văn Lâu cho biết họ Bì gốc Tàu, lại còn họ Tống Đình, gốc Tàu.
Nguyễn Hữu Cảnh đến cù lao Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, nhưng bấy giờ căn cứ và cơ cấu quân sự của ta đặt ở Sài Gòn rất quan trọng với đồn dinh, ông Nguyễn Hữu Cảnh vào cù lao Phố với thủy quân, tuy không ghi rõ nhưng ta chắc là vào cù lao Phố theo cửa Cần Giờ, ngược lên Biên Hòa. Và cuộc hành quân phía sông Cửu Long của ông theo đường thủy, khi ông mất ở Rạch Gầm, quan tài được đưa về cù lao Phố, không quàn ở Sài Gòn, từ cù lao Phố về miền Trung, chôn ở quê là Quảng Bình cũng theo đường thủy.
Cơ ngơi mà nay hiểu lầm là phần mộ của ông chỉ là nơi quàn quan tài chớ không phải là phần mộ, đồng bào địa phương vì tôn kính ông nên đắp mộ tượng trưng để ghi nhớ. Nếu là một thì phải to hơn và đặc biệt phải có thành bao bọc phần đất rộng, theo tiêu chuẩn của quan to. Vị trí của miếu Bình Kính thờ Nguyễn Hữu Cảnh thời xưa đã thay đổi; lâu ngày mục nát, nước xoáy lở vào bờ, nên đời Tự Đức, năm 1851 phải dời vào phía trong vài mươi mét, ngay bờ cũ (Đại Nam nhất thống chí ghi dời ở phía sau 10 trượng).
Nay có lẽ nên bố trí khu cù lao Phố thành một điểm du lịch lý tưởng. Đền thờ Quan Công còn đó, đình Bình Kính còn đây, sông Đồng Nai rộng, gió mát. Phía mé sông trước đình, có lẽ nên trồng cây bằng lăng, cây bản địa, trổ bông đẹp. Thời xưa, Trần Thắng Tài đóng quân bên phía chợ Biên Hòa, sử ghi xứ Bàn Lân, sau đổi là Tân Lân. Tôi hiểu Bàn Lân là tiếng Bằng Lăng nói trại ra.
Cảng cù lao Phố thành hình trễ hơn phố cổ Hội An và suy thoái sớm hơn phố cổ Hội An.
Trích "Nam Bộ Xưa và Nay - tạp Chí Xưa & Nay"
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 6, 2020 3:21:43 GMT 9
Người Bình Dương Sơn Nam
Bình Dương là tên vùng đất quen thuộc nhưng nghe hơi lạ tai, đối với người lớn tuổi. Xưa gọi Thủ Dầu Một, thời Pháp thuộc. Thời Tự Đức, thuộc vào địa bàn tỉnh Biên Hòa. Hai tiếng Bình Dương mới đặt sau Hiệp định Genève 1954, lần hồi trở nên quan thuộc, dân gian ưa thích, nhất là sau khi có phim Người đẹp Bình Dương ra mắt, mặc dầu không thành công như ý muốn.
*
Cốt lõi của người tỉnh Bình Dương ngày nay vẫn là dân sống quanh thị xã, lấy Thủ Dầu Một làm trung tâm phát triển. Thị xã nằm bên bờ sông Sài Gòn, phía thượng nguồn. Chính con sông hiền lành này là mạch máu giao lưu để vận tải hàng hóa với khối lượng lớn xuống Sài Gòn, Chợ Lớn đi các tỉnh. Phần lớn vẫn còn sử dụng đường bộ, với hệ thống khá hoàn chỉnh.
Trước khi Pháp đến, Bình Dương giao lưu dễ dàng với tỉnh lân cận là Biên Hòa, xuống Sài Gòn, theo đường bộ khoảng 30km. Vì vậy, người Bình Dương không cần đi xuống các tỉnh phía đồng bằng sông Cửu Long để làm ruộng nước. Với thế mạnh là lâm sản, sau này là vườn cao su, đặc biệt có vài ngành thủ công nghệ cung cấp sản phẩm cho cả phía Nam. Khoảng cuối thế kỷ XIX, Bình Dương nổi danh là khu vực săn bắn lý tưởng, dành cho người Âu từ nước ngoài đến. Thái tử Nga (sau này là Sa hoàng bị truất phế vì Cách mạng tháng Mười 1917) vào năm 1890 được thực dân mời lên Dĩ An để săn nai, thật ra đó là con nai nuôi sẵn. Rồi người Pháp thử khai thác rừng già của Thủ Dầu Một, cho nhiều đoàn thám sát phía thượng nguồn sông Bé, rất gian nan, gặp sự chống đối của người dân tộc S-tiêng. Công ty tàu thủy Pháp mở tuyến Sài Gòn đi và về 2 lần 1 tuần, từ năm 1885, nhằm chở lính, gạo, thực phẩm cho đồn bót. Pháp cho mở thêm tuyến xe lửa (chạy hơi nước, sau chạy điện) từ Sài Gòn, Bà Chiểu, Hóc Môn lên Lái Thiêu, về sau nối lên Lộc Ninh nhằm chở mủ cao su về Sài Gòn. Vấn đề phu cao su quá lớn, chỉ xin đề cập đến vài ngành tiểu công nghệ gây uy tín cho đất Bình Dương.
Bình Dương, với trung tâm là Lái Thiêu có lẽ đứng đầu phía Nam về khối lượng đồ gốm, sản xuất được nhiều vì có nơi tiêu thụ, có đầu ra để phát triển đầu vào. Trước khi Pháp đến, nhiều toán nghệ nhân và chuyên gia Trung Hoa đã khảo sát thị trường đồ gốm. Bên Cam-Bốt, gần như chẳng có đất tốt với trữ lượng to, phía đồng bằng sông Cửu Long thì đất chỉ dùng làm gạch ngói, còn ở miền Trung bộ thì khó tìm đất, vả lại đường chuyên chở quá xa đến nơi phân phối. Trước đó, ở gần gò Cây Mai (Chợ Lớn) đã qui tụ số ít người chuyên về gốm thô, siêu, đặc biệt là có gốm cao cấp dùng trang trí chùa, miếu. Sau đó, khu vực Lò Gốm ấy giải thể, khi chỉnh trang vùng Chợ Lớn. Nghệ nhân và giới kinh doanh lại dời về Lái Thiêu, nơi có rạch Lái Thiêu thuận lợi chuyên chở, đồng thời vùng phụ cận hoặc xa hơn, phía Đất Cuốc (Tân Uyên) còn dự trữ đất sét. Căn cứ vào năm thành lập và trùng tu chùa Bà ở Lái Thiêu, ta đoán chắc nghề gốm ở đây khởi đầu từ năm 1867 qua 1883, 1889. Lò gốm Lái Thiêu hình thành với qui mô to, trên mặt bằng đồ sộ, gần giống như lò sành sứ bên Trung Hoa: khâu chọn đất, lọc đất, nhồi đất, tạo hình, phơi khô, vào lò, xem lửa, ra lò rồi phân phối. Vòng sản xuất khép kín trong một mặt bằng. Bấy giờ những lò lớn chia ra:
- Lò Quảng Đông chuyên về tượng trang trí nhiều màu sắc, dùng khuôn, làm chậu trồng cây cảnh, về sau, bày ra kiểu tượng con voi để làm đôn, có thể ngồi lên được. - Lò Triều Châu, chuyên làm tô chén gia dụng, với đặc trưng nền trắng, men xanh, thường vẽ hình con rồng, bông cúc, con gà… - Lò Phước Kiến, chuyên về vật dụng to lớn, như lu khạp, dùng men vàng, gọi men “da lươn”…
Mãi đến nay, đồ gốm vẫn còn được chuộng, mặc dầu đồ nhôm nhựa phát triển. Nghề này vẫn thu hút nhiều công nhân già chạm cúc dây, hoa mẫu đơn, về sau, lại cản xà cừ. Cái bàn “giường thờ” thời xưa để thờ ông bà được cải tiến, trở thành cái “tủ thờ” xinh xắn, mặt hình bầu dục (gọi hột xoài). Đây là kiểu tủ của Pháp cải tiến, thường chạm hai hàng chuỗi theo hình dọc. Mặt tiền của tủ, cản xà cừ những điển tích cầu hôn Giang Tả, Ngũ Tử đăng khoa… Đây là tay nghề của những thợ cản xà cừ từ tỉnh Hà Đông vào, lần hồi, nhóm nghệ nhân của đồng bằng sông Hồng tổ chức một miếu thờ, nay hãy còn, đáng trân trọng, gọi miếu Mộc Tổ, vào khoảng năm 1940.
Nghệ nhân ở Lái Thiêu lại cải tiến kiểu tranh thờ tổ tiên, trước kia thờ chữ Phước, chữ Lộc hoặc tranh nhập từ Hương Cảng với non cao, cây tùng và dòng suối. Tranh vẽ trên kiếng ra đời, vui tươi hơn, có dòng sông chảy ra biển, cây phượng trổ hoa, ngôi nhà ngói, vẫn là “cây cội nước nguồn” ở vùng văn minh sông nước, phổ biến đến tận mũi Cà Mau, nay hãy còn, hình ảnh vẽ sau tấm kiếng, thỉnh thoảng rửa sạch bụi, trông như mới.
Sơn mài là thế mạnh, có truyền thống của Bình Dương, trước kia chỉ sản xuất đồ gia dụng như quả đựng đồ cưới, sau cải tiến lại, nâng lên với tranh sơn thủy (con nai uống nước bên dòng suối). Ban đầu, nổi danh nhất là nhóm Thanh Lễ, ông Thanh và ông Lễ hợp tác, về sau, ông Lễ (Nguyễn Thành Lễ) lãnh đạo, bày ra kiểu xa-lông phủ toàn sơn mài, thêm tủ đựng rượu cũng sơn mài, hấp dẫn người Âu, một thời gây uy tín lớn, xuất cảng qua châu Âu.
Vườn cây ăn trái từ hai trăm năm qua thành hình ở Bình Nhâm, Lái Thiêu, giống măng cụt được du nhập (nhờ người theo đạo Thiên Chúa), thêm sầu riêng (sầu riêng, từ năm 1925), thêm dâu, bòn bon. Khu vườn cây ăn trái nay trở thành điểm du lịch cho dân Sài Gòn.
Lướt qua vài ngành nghề xưa để thấy người Bình Dương rất năng động, hàng hóa phải có thị trường rộng trong miền, cải tiến kỹ thuật không ngừng. Ngoài số người sống với nghề ruộng rẫy, khá đông người Bình Dương sống với nghề thủ công, nhờ vậy mà lanh lẹ, bặt thiệp, xuống Sài Gòn chơi, khó phân biệt người tỉnh lẻ với người đô thị. Hệ thống đường bộ khá hoàn chỉnh, chợ Thủ Dầu Một xây dựng nơi cao ráo, sạch sẽ. Có thể nói ở Bình Dương thành hình một kiểu “nhà vườn”, tuy không nói ra từ ngữ ấy. Đình chùa khá xưa, nay còn ngôi nhà của bác sĩ Trần Công Vàng, hơn 80 tuổi, vẫn còn bảo quản tốt, nhà 5 căn, hai chái, trang trí kiểu đầu thế kỷ, đã trăm năm qua còn giữ được phong độ cổ kính.
Trích "Nam Bộ Xưa và Nay - tạp chí Xưa & Nay
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 5, 2022 4:29:15 GMT 9
TẢN MẠN BA TÀU
Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích: “…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”. “…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”. “…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …” Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu: Quảng Đông ăn cá bỏ đầu Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu! Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba. Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch. Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng. Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông. Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường. Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông: – Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều! – Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá. – Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ. – Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to. Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như: – Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc – Bà hai mập, ba đồng sáu cắc – Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia). Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên! Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc. Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền. Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?). Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi… Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ. Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía. Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng! Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa. Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám. Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa) Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do. Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông… Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”. Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng) - Ly Le
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 3, 2023 17:33:39 GMT 9
CỔ TÍCH SƠ GIẢIChủ bút: ĐẶNG-LỄ-NGHI ***** Những Tục lệ Cổ-truyền Ngày Tết Nguyên-Đán Việt-Nam1._Viết liễn dán cửa ngõ.Mỗi năm từ ngày hai mươi sáu tháng chạp cho chí ngày ba mươi, người ta lăn-xăn viết liễn dán cửa, dán cột, người biết viết thì viết, người nào không biết thì mướn, viết tin là những lời chúc: Phú-quới, vinh-hoa, bình-an, phước-thọ, tùy theo ý mỗi người. Sách Sơn-hải kinh nói: Phía đông núi Sóc-sơn có một cây đào lớn lắm, không biết là mấy đời, cây đào này tàn nó de ra ước chừng hai ba trăm dặm, trong mình cây đào ấy, có hai vị thần, tên là Thần-thơ, Huất-lũy (luật). Hai vị thần này ghét yêu, ma, tinh, quỷ, Nếu bắt đặng thì nuốt, hể hai vị thần ấy đi đâu thì tay có cầm dây kiếm, ma quỷ, mà bắt, nên ma, quỷ sợ lắm, hể thấy danh Thần-thơ, Huất-lũy thị sợ chẳng dám vào. Bởi đó nên từ xưa cần viết bốn chữ Thần-thơ Huất-lũy, mà dán cửa ngõ đặng ma quỷ thấy danh mà không dám vào mà quấy phá. Thế tục cũng noi theo, mà lại cãi ra cách khác, cũng như cuộc ăn thanh minh, xưa vốn là cuộc bi, mà bây giờ cũng làm tương-tự, mà xem ra như cuộc vui chơi. Thật là trời đất xoay vần, phong-tục dời đổi. *********************************************************************** 2._Thắp đèn sáng, đêm ba mươi tháng chạp và những đêm trong mấy ngày xuân.Tục-lệ thường-thường đến buổi chiều ba mươi tháng chạp, nhà-nhà đều lo dọn-dẹp sạch-sẽ, sửa-soạn bàn thờ, quét tước nghiêm-trang, thắp đèn sáng-rỡ chực mà rước Xuân, đó là "tiết chánh-đán", gần đến, ai nấy lo-lắng rước sự mới là rước Xuân, sách Đại-thánh nói: Viện viện dăn hỏa, nhà-nhà đèn lửa sáng trưng, chong đèn sáng, chưng đồ mới, là có ý rước mới là rước mấy vì quá-vãn về, mà vui với con cháu trong mấy ngày xuân, ba ngày ấy con cháu đều vọng-tưởng các vì quá-vãn, tưởng sự chết như sự sống, chong đèn sáng là có hai ý, một là vui về ngày Xuân, hai là làm cho kẻ gian không dám đến; sách Thiên-nguyệt-lịnh nói,: có hai con quĩ tên là Na-ông, Na-bà, đêm ba mươi nó hay phân nhau núp theo bóng tối vào nhà mà phá người ta, (trong nhà thì có các vị thần gìn-giữ, mà bữa ba mươi, mấy vị thần mắc về chầu trời, nên quĩ nó không sợ ai) ma quĩ này tính nó hay sợ sự sáng hay sợ tiếng nổ vang xa, nên bữa tối ba mươi thì nhà-nhà đều chong đèn sáng-rỡ đốt pháo vang rân, làm cho quĩ sợ không dám vào nhà. Qua đến bữa mùng 1 thì có các vị thần trở về. Mà thế thường, cứ việc đốt pháo lu-bù không biết là bữa nào. ******************************************************************** 3 _Dựng nêuBữa chiều ba mươi lối bảy, tám giờ tối, thì người ta lấy cây tre hoặc là tầm vông mà róc, chừa cái ngọn lại có lá, gần trên chót-vót cây tre có buộc vô một cái bùa bát-quái, với một cái dỏ nhỏ, trong dỏ để lá vàng bạc với trầu, cau, vôi. Sách Ấu-học tầm-nguyên nói: trong cõi thế-gian mỗi chỗ đều có một vị thần trấn-nhậm, để mà cai-trị yêu quĩ kẻo nó hại nhân-dân, mà bữa chiều ba mươi là bữa chư-thần đều về chầu Trời (Triều-thiên) nên không ai mà cai-trị, bởi đó nên ma quĩ nhân dip bữa đó mà đi phá người ta. Cái bùa bát-quái treo trên cây đào là có ý trừ quĩ, còn cái dỏ nhỏ đựng trầu cau thì là không có nghĩa-lý chi, Nhưng mà phải làm một chút tiểu-lễ cho dễ xem, xưa dùng cây đào, mà tục lại dùng lá cây tre đổi cách, cũng như cây gậy của mấy người phò linh-cữu thì bằng tre với mộc đồng (vông) mà xem ra người dùng bằng cây tầm-vông. *********************************************************************** 4._Đốt pháo đốt lói.Tích đốt pháo, sách Ấu-học tầm-nguyên nói: Hòn núi phía Tây có một con quĩ tên là Sơn-Tao, con quĩ này nó đi gặp ai, thì bắt lấy làm cho phải đau ốm bệnh-hoạn. Đời nhà Đường, có người tên Lý-Điền, có phép trừ quĩ; người trong làng có bị quĩ bắt thì phải mau mau đi mời Lý-Điền, đến mà trừ nó. Thầy Điền đến chẳng thèm dùng phù-phép hay là ếm đối chi cả, thầy bảo lấy mắt tre bỏ vào bếp mà đốt nổ vang, quĩ Sơn-Tao nghe tiếng nổ sợ kinh-hải xuất ra khỏi mình, người bệnh tức thì tỉnh lại hết mê-sảng, trong vài ngày thì mạnh; thế-tục noi theo đó, đốt pháo là cố ý làm cho ma quĩ sợ mà chay đi, chỗ nào không có pháo thì đốt lói, là đục lỗ trong, rồi đổ thuốc súng vào làm ngòi, đóng nút cho chặt, châm nó cháy tới thuốc thì nổ lớn lắm, còn nó tắt ngòi thì không nổ, mà xem mặt người đốt lói đó thì lơ-láo, bộ mắc-cỡ vì là công-phu làm đã lâu mà đốt nó không nổ, nên lời tục hay nói rằng : coi bộ đốt lói không kêu, là bộ lơ-láo và có ý chê bất tài làm không nên việc.! ***************************************************************** 5._Ngày Tết, tục hay nói: Ngày tư, ngày Tết, tết nhứt, ba ngày xuân nhựt. Ngày tết, là ngày chánh-đán, vốn thật là tiết nhựt mà nói trại là tết nhứt, còn nói ngày tư ngày tết, vốn là tự tiết, mà nói trại là tư tết, chữ tự, tựa là đầu câu, đầu bài, đầu tháng, đầu mùa, đầu tiết xuân. Mà cũng có ý khác hiểu riêng nói ngày tư, ngày tết, là ngày dùng mà đi đến đền ơn trả nghĩa cho người làm ơn cho mình, đó là việc tư của mình. Sách Ấu-học tầm-nguyên nói : Đời nhà Tấn, có bà Trần-Nguyên là vợ vua ; đến ngày mùng 1 Tết, bà hái hoa tiêu là thứ hoa thơm, để lên mâm vàng đem đến dâng vua mà nói rằng: My tai linh hoa viên thái viên hiếu thanh duy ưng chi vinh thọ thiên vạn ( hoa linh tốt thay bèn hái dâng, xin vua hưởng đó hằng sống lâu muôn tuổi. ) Trong Đường-thi nói: Bàn xuất cao môn hành bạch ngọc, thể truyền tim thủ tống thanh lư (bưng mâm đi đến cửa sang trọng làm lễ dưng ngọc trắng cùng bảo nhau lấy chỉ xanh cột tay). Trong thế tục noi theo, hễ đến ngày Tết, thì bưng mâm lễ vật đem đến nhà sang trọng mà dâng cùng là chúc thọ cho người ơn nghĩa của mình. Còn tay cột chỉ xanh là chỉ dấu cho nhớ ngày xuân, ấy là phép xưa của ông Thanh-đế dạy, mà trong thế tục bỏ cách ấy Sách lễ Thiên-nhạc ký nói: ngày mùng 1 tết đình thần làm tờ biểu dâng vua như vậy: Kiêng phước duy chi khánh, Bệ-hạ giữ thiên đồng hữu, thần đẳng cẩn thượng thiên thu vạn tuế thọ. (Mừng chưng phước cả chưng mới, Bệ-hạ vi đồng như trời, chúng tôi xin dâng lễ thọ ngàn thu muôn tuổi.) Đời nhà Đường các quan cũng làm y như vậy, đình thần đến dưng vua, thì vua Đường có xuống lời chấp đáng rằng: Tân phước chi khanh, trẫm giữ khanh đồng đẳng chi. ( mừng phước năm mới ta cùng bọn ngươi đẳng chung thãy.) Trong tục-lệ tới ngày Tết người nhỏ đến dâng chúc tuổi thọ cho người lớn, người lớn dả ơn, hoặc cho tiền bạc chi mà thế lời chúc lành. Bởi đó nên trẻ còn thơ-ấu thì hay trông tới ngày tết, đặng đi dưng tuổi kiếm tiền mua pháo đốt. ******************************************************************** 6 _Thần Chung-Khuê, Thần Hư Thần Hao.Trong thế-sự thờ thần Chung-Khuê, hoặc mua về dán nơi cửa nhà, trong Ấu-học tầm-nguyên nói: Đời nhà Đường, vua Minh-Hoàng, nhằm lúc "se- da" (đau) nằm mê-man ngó thấy hai con quĩ đến muốn bắt mình, vua bèn hỏi rằng: chúng mi là ai đó? Hai con quĩ xưng rằng : chúng ta là Thần-Hư, Thần-Hao, hai quĩ đang nói, bỗng đâu có một vị thần bay đến, bắt hai con quĩ đó mà nuốt đi, vua Minh-Hoàng thấy lấy làm lạ bèn hỏi rằng: mi là ai, ở đâu mà đến? Người thần này bèn trả lời cùng vua rằng : Tôi là người học trò ở xứ Chung-Nam, năm Võ-đức, tôi có đi ra thi Tấn-sĩ, mà không đậu, tôi tức mình bèn đập đầu vô điện mà chết, thật vua có lòng thương người háo-học, nên mua vải ban y-phục theo bậc Tấn-sĩ mà chôn, tôi cám đội ơn vua vô-cùng. Nay tôi thấy hai con quỷ đó muốn làm hại mình rồng, nên tôi phải trừ nó, có ý đền ơn ngày trước, vua đã có lòng thương tôi. Vua giật mình thức dậy thì bệnh đã lành, vua bèn dạy vẽ tượng Chung-Khuê mà thờ. Người ấy là người trừ quĩ. Tức thờ tượng Chung-Khuê là từ đời Đường vua Minh-Hoàng cho đến nay. ********************************************************** Bài (-7-) Mùa xuân con én đưa thoi, thiều quang chín chục, v.v... *_Trong Túy-Kiều có câu rằng: Mùa xuân con én đưa thoi, thiều quang chín chục dự ngoài sáu mươi. Mùa xuân qua mau, thấm-thoát như én liệng, thoi đưa. (Thoi đưa là cái thoi dệt vải, quăng qua quăng lại, mau lắm). Trong một năm chia ra làm bốn mùa, mỗi mùa ba tháng. Bốn mùa là: Xuân, Hạ, "hay là Hè", Thu, Đông. Mùa Xuân là: Tháng Giêng, Tháng Hai, Tháng Ba. Mùa Hạ, (hè): Tháng Tư, Tháng Năm, Tháng Sáu. Mùa Thu là: Tháng Bảy, Tháng Tám, Tháng Chín. Mùa Đông là: Tháng Mười, Tháng Mười Một, Tháng Chạp. Một mùa là ba tháng, một tháng là ba mươi ngày, vậy trong một mùa là ba tháng đó là chín mươi ngày, gọi là: Thiều quang chín chục. Còn dư ngoài sáu mươi: là mùa xuân đã qua rồi hai tháng gọi là dự ngoài sáu mươi. Còn lại một tháng là đầu tháng ba, đó là tiết Thanh-minh. ”""""""""""""""''''''''''''''''' Bài (- Tiết Thanh-minh, tục tão mộTiết Thanh-minh, người "Thanh khách" dùng nhiều hơn là người Annam Ngày mùng ba tháng ba, chính là ngày Thanh-minh, ngày ấy nhiều người đều đi viếng mồ mã, người thì đem trầu, rượu, nhang đèn, người thì đem rượu thịt, tùy ý người, đem các món đồ cúng ra tới mộ bày ra mà cúng, làm cỏ mộ sạch sẽ, ai-ai cũng đều động lòng nhớ linh xưa mà than khóc. Trong thế sự noi theo mà làm, nhưng mà xưa thật là cuộc bi-ai, mà nay xem ra như cuộc vui chơi, là vì bày đồ ra cúng rồi, thì ăn-uống trò chuyện vui cười: cuộc ăn thanh-minh này, bày ra là đời nhà Tấn bên Tàu. Nguyên tích xưa vua Tấn-văn-Công bị việc phế lập mà phải trốn đi ẩn mặt trong rừng núi, khi trốn đi thì có năm người đi theo mà giúp đỡ, trốn đi núi kia sang rừng nọ, phải đói khát. Trong năm người đi theo vua, có một người tên là Giá-tử-Thôi, người này thật là một người lòng ở tận trung; thấy vua mình nhịn đói, thì cắt thịt cánh tay mình mà nướng cho vua ăn đỡ đói. Sao lần lần lo khôi phục đặng. Tấn-văn-Công được làm vua bèn phong hầu cho bốn người kia.... Còn Giá-tữ-Thôi là công cả mà vua lại quên phứt đi. Thương thay cho Giá-tữ-Thôi hữu-công vô-danh, bèn than trách phận mình, làm người "sanh bất phùng thời". Chẳng hờn trách ai, mà trách thời vận, lấy làm "hỗ-ngươi". Bèn vội-vã bỏ xứ mà đi vào hòn Miên-thượng-sơn mà ở, nhứt nguyện ở trọn đời nơi đó. Bốn người kia thấy vua không phong hầu cho Giá-tữ-Thôi, thì lấy làm tức mình. Bèn bày ra một bài ca, dạy con nít nó học thuộc-lòng, ban đêm nó ca, bài ca như vầy: "Hữu long kiểu kiểu, khoanh thất kỳ sở, ngủ xà tùng chi, châu lưu thiên hạ, long cơ phạp thực xà, các cổ, long phản du huyên, đắt kỳ nhượng thổ, tứ xà nhập huyệt, giai hữu xứ sở, nhứt xà vô thực, hào vu trung dả. (Có rồng hăm hẵm xãy mất chỗ ở, năm rắn đi theo khắp cùng thiên hạ, rồng đói thiếu ăn, một rắn cắt tay, rồng trở về nước đặng thữa bờ cỏi, bốn rắn vào hang đều có chỗ ở, một rắn không lộc ăn, khóc nơi giữa đồng." Bài ca đó, ban đêm con nít nó ca om-sòm; vua Tấn-văn-Công, nằm nghe bèn nhớ lại Giá-tữ-Thôi là người công cả, mà mình quên đi, thì lại lấy làm phi-ngải. Sáng ngày làm lâm trào hỏi việc Giá-tử-Thôi, các quan tâu rằng: "Người đã vào ở trong núi." Vua mau-mau ngự bút tả chiếu sai người đi tầm rước ba phen, mà Tữ-Thôi hổ mình không chịu ra, cứ trốn trong rừng, vua bèn ngự giá tới chốn Giá-tữ-Thôi trốn, truyền quân vây phủ chung quanh hòn Miêng- thượng, lại dạy quân lấy lửa mà đốt, là có ý nhát cho Tử-Thôi sợ cháy mà chạy ra. Ai ngờ Tữ-Thôi chánh-khí (Thọ tử bất ninh thọ nhục) khi lửa cháy đến thì ôm riết cây mà chịu cháy thiêu. Chính là ngày mùng 3 tháng 3, lửa cháy hết cả hòn Miên-thượng mà không thấy Tữ-Thôi chạy ra, vua dạy quân tầm kiếm thì thấy Tữ-Thôi đã bị cháy thiêu, vua Tấn-văn-Công, thương tiếc vô cùng, bèn truyền chỉ từ đó về sau, lấy cả thế ruộng xung quanh chân núi mà phụng tự Giá-tữ-Thôi, cấp người ở gìn-giữ việc nhang đèn tứ thời hương quả bất tuyệt, lại tới ngày mùng 3 tháng 3 thì vua truyền cấm lửa 3 ngày phải ăn đồ nguội, gọi là hàng thực, có câu ca như vầy: "Bếp như tờ nhà nhà ăn nguội, nói lại ngừng một nổi Tữ-Thôi." ************** *1._"sanh bất phùng thời" 2._..........Giá-tữ-Thôi, 3._............mùng 3 tháng 3 4._..........(Thọ tử bất ninh thọ nhục) 5._...........Tiết Thanh-minh, tão mộ. HỘI YÊU THÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC KINH ĐIỂN
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 3, 2023 17:54:16 GMT 9
Giỗ Tổ Nghề May (12/12 âm lịch) và Lược Sử Đức Thánh Tổ Truyền thuyết và lịch sử đều ghi nhận bà Nguyễn Thị Sen là Đức Thánh Tổ nghề may Việt Nam.
Theo thần tích, bà Nguyễn Thi Sen sinh ra và lớn lên ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây (ngôi làng được Quý Minh Đại Vương là thần tướng dưới thời Hùng Vương lập lên). Vào tuổi trăng tròn bà là người con gái xinh đẹp, nết na, đảm đang, giỏi giang việc trồng dâu, dệt vải, may mặc, thêu thùa. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Đinh Tiên Hoàng (924 -979) lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông, trong đó tứ phi Hoàng Hậu Cồ Quốc chính là Thánh tổ nghề may Nguyễn Thị Sen. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo quân binh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi Thiên Tử, lấy hiệu là: Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là: Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư – Ninh Bình (đây là Hoàng đế đầu tiên của nước Việt sau gần 1000 năm Bắc thuộc). Nhân dịp Vua Đinh Tiên Hoàng về trấn Sơn Tây kén chọn hiền tài giúp nước, đến làng Trạch Xá – Tổng Hòa Lâm – Huyện Ứng Hòa, đã cảm mến và kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Sen. Theo vua về kinh đô Hoa Lư, bà được phong là Tứ Phi Hoàng Hậu. Tại cung vua, bà được giao quản bộ May trang phục Hoàng Triều. Với trí thông minh, sự khéo léo và sáng tạo, bà đã cùng các cung phi tạo nên các loại quần áo của Hoàng tôn, Công tử, Hoàng hậu và Triều nghi, thứ nào cũng vừa trang trọng vừa tiện lợi. Đặc biệt đã đào tạo được đội ngũ người may, người thêu thùa đông đảo. Bà dạy cho các cung nữ từng đường kim, mũi chỉ phát triển nghề may trong cung vua mà trước đây chưa hề có. Vào năm Kỷ Mão (979) Vua Đinh Tiên Hoàng bị gian thần sát hại. Buồn chán trước cảnh triều đình rơi vào binh đao tranh quyền, đoạt vị, bà đã đưa các con từ giã Hoàng cung trở về làng Trạch Xá quê hương. Tại đây, bà đã mang nghề may trong cung truyền dạy cho dân làng và từ đó nghề may đã phát triển đời này nối tiếp đời sau, đến nay đã được hơn ngàn năm. Bà mất vào ngày 12 tháng Chạp. Để con cháu muôn đời biết về công đức của tiền nhân, người dân làng Trạch Xá đã lập đền thờ suy tôn bà là Đức Thánh Tổ nghề may và tổ chức lễ hội giỗ tổ vào ngày 12 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Tôn vinh đạo lý, truyền thống "uống nước nhớ nguồn", lễ giỗ Tổ nghề may hàng năm được hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp thợ ngành may mặc thời trang trên cả nước tổ chức trang trọng, thành kính. Lễ hội giỗ Tổ lớn nhất hàng năm với nhiều nghi lễ trang trọng và nhiều hoạt động giao lưu, vui chơi dân gian truyền thống được tổ chức tại làng Trạch Xá và Hội An. ---------------------- Sưu tầm và biên soạn Đoàn Văn Huỳnh Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thời trang Thiên Quang -------------------- Tài liệu tham khảo: 1/ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992) 2/ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 3/ Thần tích tổ nghề may - Trần Quang Nam (Chủ tịch Hội KHKT May mặc Hải Phòng)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 6:57:19 GMT 9
Hoài niệm Tết xưa trên miền quê Lục Tỉnh
Không gì thú vị trong dịp Tết bằng những ngày trước Tết, nhất là ở miền quê xưa, nơi lưu giữ đậm nét phong vị của văn hóa cổ truyền. Hãy cùng chiêm nghiệm những hoài niệm đẹp qua bài viết tái hiện khung cảnh đón Tết xưa của người dân Nam Bộ dưới đây.
“…mỗi lần thấy bông ô môi nở hồng trong gió chướng, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang, mỗi lần có dịp về Vĩnh Long đi ngang Tân Ngãi thấy nhà chợ Trường An, là mỗi lần tôi nhớ đến mùa Xuân của đầu năm binh lửa…”
Là gió chướng, là bông ô môi, là tiếng quết bánh phồng, là pháo nổ rộn ràng, là tâm trạng nôn nao tới Tết.
Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh* xưa bước qua mùng 10 Tháng Chạp là rần rần nôn Tết, tay chân quýnh hết trơn hết trọi, cập rập càng ràng vì hơi hám Tết ngày càng rộ; mấy dì, mấy thím ngồi cắt kiệu, lột tôm phơi khô còn giả đò làm bộ: “Mèn ơi! Tết tới mau dữ bây?”
Ngày 23, người ta lo tảo mộ, từ mùng 10 Tháng Chạp đã lo đem lư ra phơi nắng để chùi. Bộ lư của dân Nam Kỳ gồm hai cái chân đèn, đỉnh trầm, trông rất to, khác với lư của người Bắc nhìn nho nhỏ trên bàn thờ. Bàn thờ ông bà cũng được dọn dẹp sạch sẽ, kỹ càng, gọn gàng vào dịp Tết.
Bộ lư được chùi sạch boong, đánh lên nước đồng vàng bóng rực rỡ đặt trên bàn thờ. Bàn thờ thì được chưng đồ theo nguyên tắc “Đông bình, Tây quả,” bình bông bên tay phải, để dĩa trái cây bên tay tráí.
Nam Kỳ là đất mới, nên người dân rất tâm linh. Tết mà nhìn bàn thờ ông bà giữa nhà tươm tất, nhang khói ấm cúng sẽ khiến lòng dạ người Lục Tỉnh thêm vững tin trong năm mới. Đó là sự viên mãn.
Tết ngoài cúng tổ tiên ông bà, người ta phải cúng đất đai, cúng cả những người đã khuất trong quá trình khai hoang, đó là sự “viên trạch.”
Người Lục Tỉnh thích chưng dưa hấu trong dịp Tết. Dưa hấu Long Trì, dưa hấu Cổ Cò, dưa hấu Gò Công nổi tiếng ngọt, mát luôn được chưng trên bàn thờ.
Còn nói về bông để cúng, thì đầu tiên phải nhắc đến bông vạn thọ, là một loại cúc. Vạn thọ nghĩa là sống lâu muôn tuổi, vạn thọ vô cương.
Khổng Tử có câu: “Lạc chỉ quân tử. Vạn thọ vô kỳ”.
Tạm dịch:
Thấy người ta những hân hoan Chúc người trường thọ muôn vàn trước sau.
Bông vạn thọ màu vàng rực rỡ sẽ giúp cho không gian ngày Tết bừng sáng. Loài hoa này còn mang ý nghĩa cầu mong sức khỏe, sự trường thọ và may mắn, mùi thơm hăng hắc dân dã rất gần với người bình dân và quan trọng là trưng được rất lâu.
Sau vạn thọ phải kể đến mai vàng, đây là loại bông nở rộ trong những ngày Tết ở khắp Nam Kỳ. Mai là thứ bông đứng đầu “tứ quý,” không sợ gió, chẳng sợ mưa, đứng vững trong nắng gắt, phong ba, vì thế nó tượng trưng cho người quân tử. Bông mai là thứ không có mùi, chỉ có sắc, nhưng là “quốc bông”của người Nam Kỳ trong ngày Tết
Bông mai, bông vạn thọ, dưa hấu, bánh tét, củ kiệu, lạp xưởng, nồi khổ qua hầm, nồi thịt kho hột vịt, lì xì chính là những đặc trưng của Tết Lục Tỉnh…
31.01.2019
Nguồn: Báo Người Việt Online
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 6:59:10 GMT 9
Bên Chương Dương
Sài Gòn có bến Chương Dương Có Dinh Độc Lập, có đường Tự Do, Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho. Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm…
Bài học thuộc lòng trên trong sách giáo khoa bậc tiểu học trước 1975, giới trung niên trở lên có ai không biết! Những lời thơ lục bát dễ nhớ dễ đi vào lòng người nhắc đến những địa danh, công trình, đường sá đặc trưng của Sài Gòn, sau khi thực dân Pháp trao trả độc lập cho chính quyền VNCH.
Thời Pháp thuộc, bến Chương Dương có tên gọi Quai d’ Arroyo Chinois và sau đó đổi thành Quai de Belgique. Bến Chương Dương bắt đầu từ đường De la Somme (Hàm Nghi) đến đường Nancy (sau này là Nguyễn Văn Cừ) dài chừng 3 cây số. Bến chỉ là một địa điểm nhưng cũng có thể là một con đường dọc theo mé sông, bờ kinh khi giao thông đường bộ chưa hoàn toàn thay thế vị trí quan trọng của đường thủy (đường Bến Chương Dương). Ghe tàu giao thương từ khắp mọi miền đổ về mua bán, cung ứng hàng hoá cho người dân, nhất là ở Sài Gòn từ thuở xa xưa.
Từ xưa, người Minh Hương trốn triều đình Mãn Thanh được chúa Nguyễn cho định cư ở vùng đất phương Nam rộng lớn. Một số người dong thuyền buồm theo sông Soài Rạp vào sông Bình Giang (Sài Gòn ngày nay) dừng chân bên bờ sông An Thông mà họ đọc là Cổ Hũ do hình dáng con sông có đoạn phình ra rồi thắt hẹp như cổ hũ dừa. Nhưng do phát âm hơi khó, dần dần người ta đọc thành Tàu Hủ. Họ chọn vùng đất này vì giao thông tiện lợi, sông rạch chằng chịt, dễ di chuyển làm ăn buôn bán và họ gọi là Chợ Lớn. Về sau, vùng đất này đón nhận thêm một số người Hoa sống ở cù lao Phố (Biên Hoà) chạy nạn khi bị quân Tây Sơn đánh vào Nam tàn phá nhà cửa. Chợ Lớn càng thêm đông đúc nhộn nhịp, chạy từ kinh Bến Nghé nối kinh Tàu Hủ dài chừng hơn 9 cây số trở nên sầm uất (bao gồm một phần nhỏ phía đông của quận 1, quận 2, 5, 6, 8 vào thời VNCH).
Như trên đã xác định bến Chương Dương bắt đầu từ đường Hàm Nghi chạy đến đường Nguyễn Văn Cừ. Tuy vậy về mặt địa giới nó chia làm thành hai bến trên một con kinh mang hai tên (Bến Nghé và Tàu Hủ). Do vậy, trong bài “Sài Gòn có bến Chương Dương” có sự sắp xếp không theo trật tự (chắc là để thuận vần) khi nhắc đến phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho trước rồi mới nói đến “Bến Thành đã tiếng tăm vang, Chợ Cầu Ông Lãnh lại càng nên đi…”.
Trong một bài viết trước đây về chợ Cầu Muối và Cầu Ông Lãnh, tôi có nhắc đến cây cầu gỗ dựng vào năm 1874, bắc qua kinh Bến Nghé, lấy tên là Cầu Ông Lãnh và gần đó có chợ Cầu Muối. Thật ra, chẳng có một cây cầu nào mang tên Cầu Muối. Trong cuốn “Sài Gòn năm xưa” của học giả Vương Hồng Sển viết rằng, thời ấy người ta đào một con mương lớn từ kinh Bến Nghé dẫn vào (đường Nguyễn Thái Học ngày nay) để ghe muối từ miền Trung và miền Tây vận chuyển vào kho tích trữ bán sang Cam Bốt. Hai bên bờ mương người ta dựng nên các dãy nhà kho bằng tranh tre nứa lá, và bắc một cây cầu ván cho phu phen bốc vác muối lên bờ. Ðến khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn thì những kho muối trở thành hoang phế. Dân tứ xứ chạy giặc về đây cư trú rồi dần dần họp chợ, gọi là chợ Cầu Muối.
Xét ra, chợ Cầu Muối cùng chợ Cầu Ông Lãnh ra đời cùng một thời điểm, cách nhau vài trăm mét, một bên là mặt ngó ra kinh Bến Nghé; một chợ dọc theo con mương có những cây cầu ván bắc vào khu chợ. Nhà văn Sơn Nam ghi nhận: “Cả hai chợ đều là “trên bến dưới thuyền” nhưng con kinh đào sau này lấp lại nên chợ Cầu Muối trở nên xa với bến sông. Năm 1875, chính quyền Pháp ở Sài Gòn chính thức cho phép thành lập chợ Cầu Muối và Cầu Ông Lãnh”.
Tiếp theo chợ Cầu Ông Lãnh là phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho. Bài thơ ghi nhận dưới chính quyền độc lập của VNCH, những tên làng xã được đổi tên thành phường, khóm. Tuy vậy, nếu nói vùng Cầu Kho tức khu vực chợ Nancy sau này thành khóm thì có chút thiệt thòi cho cái đơn vị hành chánh quá nhỏ bé so với sự nhộn nhịp phồn thịnh của khu vực này khi xưa.
Khóm Cầu Kho là do nơi này có kho Quản Thảo. Quan sở tại cho dựng kho Quản Thảo để thu trữ thuế khoá, chi cấp lương bổng (thuế biệt nạp đóng bằng lúa gạo). Trong bài phú Cổ Gia Ðịnh phong cảnh vịnh có ghi: “Kho Cẩm Thảo chứa thuế vua, mạch nước sữa dân ai dám phá”. Theo lịch sử và hiện trạng bản đồ do Trần Văn Học vẽ năm 1815, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, kho Quản Thảo nằm ở vị trí nhà thờ Cầu Kho ngày nay. Sở dĩ có tên Cầu Kho là do quan cai trị cho đào kinh dẫn từ kinh Tàu Hủ vào các kho chứa thuế để ghe thuyền tiện việc vận chuyển. Bên ngoài lại có con đường đất dọc theo kinh (sau này là đường Hàm Tử, hiện nay là đại lộ Ðông – Tây), người ta dựng một cây cầu gỗ bắc qua cho tiện giao thông đường bộ.
Khu vực Cầu Kho hình thành từ đó, người dân Ngũ Quảng tiếp tục di dân vào khai phá đất phương Nam, dần dần định hình một khu dân cư đầu tiên trên vùng đất nhỏ dựa theo kinh rạch mà sau khi người Pháp chiếm được Gia Ðịnh lần hồi lập nên thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Vùng đất Cầu Kho là ranh giới giữa hai thành phố Sài Gòn (quận 1 ngày nay) và Chợ Lớn (quận 5), là nơi thu hút dân chúng khắp nơi tụ về cư ngụ ngày càng đông cho đến khi Sài Gòn – Chợ Lớn sáp nhập làm Ðô thành Sài Gòn rộng lớn.
Từ Cầu Kho nhích xuống một chút sát bến Hàm Tử là phường Chợ Quán. Khi xưa, Chợ Quán thuộc làng Tân Kiểng. Gia Ðịnh thành Thông chí ghi rằng: “Chợ Tân Cảnh, cách trấn về phía nam hơn 6 dặm, phố chợ rất đông đúc, thường năm đến ngày Nguyên đán có tổ chức chơi đu tiên vân xa (đu quay), đáng gọi là một chợ lớn. Cách sông ở bờ phía đông, ngày trước có người Cao Miên là Nặc Ðích theo Nặc Tha đến, cắm dùi sống luôn ở đấy, người này bèn làm cầu ngang qua sông để thông đến chợ, gọi là cầu Nặc Ðích, sau trải qua loạn lạc nên hư hỏng. Ðầu phía tây đường lớn có đồn (gần góc đường Trần Hưng Ðạo – Huỳnh Mẫn Ðạt ngày nay) bắt trộm cướp đóng giữ. Thời đó tuy làng đã đông dân nhưng hổ dữ thỉnh thoảng xuất hiện làm xáo trộn cuộc sống dân làng”.
Một điều nên biết là, trước khi người Minh Hương đến cư ngụ thì những người Ngũ Quảng đã di dân vào vùng đất này, lập nên làng xã. Chợ Tân Kiểng ngày Tết đông vui, náo nhiệt, sách xưa ghi rằng “đáng gọi là một chợ lớn”. Chợ Tân Kiểng còn có một tên tục gọi là Chợ Quán.
Ðiểm qua vài địass danh chính dọc theo Bến Chương Dương của trăm năm trước tính từ bài ca dao Sài Gòn có Bến Chương Dương ra đời để hoài niệm Sài Gòn một thuở thanh cảnh hữu tình.
Từ thập niên 1950, cư dân khắp nơi dồn về Sài Gòn lánh nạn chiến tranh. Một số dân nghèo chiếm lấn bờ bãi các con kênh trở thành một vấn nạn môi sinh đô thị. Dọc mé sông mé kinh, chính quyền phải cho làm những nhà vệ sinh bằng gỗ, Ðây là những cầu tiêu công cộng đầu tiên của Sài Gòn. Vài điểm trên Bến Chương Dương, Hàm Tử mọc lên một số cầu tiêu để giải quyết cái nhu cầu “cấp thiết” của dân chúng thương hồ kẻ chợ. Có người cho rằng, cảm giác thoải mái khi sử dụng các cầu tiêu mé sông đã sinh ra một câu tiếng lóng: “Sướng rên mé đìu hiu” mà nhà văn Duyên Anh hay sử dụng trong nhiều tác phẩm của mình như: Thằng Côn, Bồn Lừa…
Tim Nguyễn Nguồn: Báo Trẻ Online
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:00:48 GMT 9
Sài Gòn. Đường Trần Hưng Đạo
Đường Trần Hưng Đạo (Galliéni) vào những năm đầu sau khi Pháp chiếm thành Gia Định, gói gọn từ đường Nguyễn Thái Học (Abattoir) trở về phía Sài Gòn. Phần còn lại là vùng đất trống toàn bưng trũng trồng rau trồng lúa. Con đường này bắt đầu được mở rộng và tráng nhựa từ năm 1910 nối với đường Đồng Khánh (Des Marins) tạo thành trục đường huyết mạch nối Sài Gòn-Chợ Lớn.
Hồi nhỏ chúng tôi thường hay đố nhau (thường học lóm hoặc nghe thấy người khác nói) cho vui. Ðường nào là đường dài nhất ở Sài Gòn? Ðứa thì bảo đường Trần Quốc Toản, đứa khác nói đường Nguyễn Trãi, đứa nọ lại cãi đường Trần Hưng Ðạo. Bởi có lời nói trước đó qua lời nhại ca dao chế lại: “Ðường nào dài bằng đường Trần Hưng Ðạo, lính nào xạo bằng lính…”. Dưới thời Quốc trưởng Bảo Ðại năm 1952, đường Des Marins đổi tên thành Ðồng Khánh và sang năm 1955 đường Galliéni đổi thành Trần Hưng Ðạo. Vào thời gian này, đường Trần Hưng Ðạo được xem là con đường dài nhất Sài Gòn từ đầu đường Calmette đến đường Ðồng Khánh. Sau đó đường Trần Quốc Toản nối liền các đoạn đường mới làm thành con đường dài nhất Sài Gòn trước 1975. Nhưng cuối cùng, tháng 8/1975 đường Trần Hưng Ðạo và đường Ðồng Khánh được nhập với nhau (đoạn Ðồng Khánh là Trần Hưng Ðạo B) dài khoảng hơn 6 cây số trở thành con đường dài nhất Sài Gòn.
Theo Wikipedia cho thấy sau nhiều năm thảo luận, vào ngày 27 tháng 7 năm 1910 chính quyền đã thông qua dự án với kinh phí lên đến 1.25 triệu piastres (tiền Ðông Dương), bao gồm san lấp khu vực đầm lầy Boresse, xây dựng nhà ga xe lửa mới và mở đại lộ nối hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Công trình căn bản hoàn thiện vào cuối năm 1912. Ðến năm 1916, đại lộ Sài Gòn – Chợ Lớn chính thức được đặt tên là đại lộ Galliéni. Ban đầu, đường chỉ trải đất đỏ, đến năm 1928 mới được chỉnh trang, rải đá xanh và trải nhựa, bề rộng mặt đường khoảng 20 m. Ngoài ra, cũng trong năm này chính quyền đã đưa vào sử dụng tuyến xe điện chạy dọc theo đại lộ.
Ở đây thời gian đặt tên đường có một vài điểm chưa rõ ràng. Thực tế đường Galliéni đã có tên trên bản đồ hành chánh Sài Gòn vào năm 1874. Chợ Lớn là một thành phố riêng biệt cách Sài Gòn qua một cánh đồng trống rộng lớn. Và đường Galliéni chỉ mới đến đường Abattoir (Nguyễn Thái Học) như nói ở trên. Mãi cho đến khi giải toả khu đầm lầy Boresse, xây dựng nhà ga xe lửa, cất chợ Bến Thành mới (khánh thành năm 1914), đường Galliéni mới được kéo dài đến đường Nancy (Cộng Hoà) do một công ty tư nhân người Việt thi công trải đá và đổ nhựa đường.
Một điều cần biết thêm, vào năm 1904, Hội đồng thành phố Chợ Lớn từng đề nghị với Hội đồng thành phố Sài Gòn việc kết nối hai thành phố với nhau, mở rộng khu dân cư qua việc kéo dài đường Bonard (Lê Lợi) vào Galliéni làm một. Hội đồng thành phố Sài Gòn không đồng ý vì nhiều lý do. Trong đó có lý do xây dựng bùng binh Eugène Cuniac trước chợ Bến Thành theo đồ án. Bùng binh phân rõ điểm cuối đường Bonard, nơi tập trung nhiều đường vào một vòng bùng binh. Hơn nữa, Bonard thuộc về quận 1, quận trung tâm duy nhất của thành phố Sài Gòn. Trong khi đó, bên phía đường Galliéni ngay đầu đường Calmette là quận 2 khi thành phố bắt đầu mở rộng qua phía ao đầm Boresse. Vùng đất lầy lội này làm ảnh hưởng môi trường sống và không an ninh khi về đêm với nhiều tệ nạn xã hội, cần được giải toả.
Thật ra trước đó, người Pháp vẫn muốn thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn là hai thành phố riêng biệt, chỉ duy trì thông thương đường bộ bằng đường Trên (route haute de Saigon à Cholon, sau là Nguyễn Trãi) vốn là con đường có từ thời nhà Nguyễn và con đường Dưới (route basse de Saigon à Cholon, sau là đường Bến Bình Ðông). Phần còn lại là đồng trống và ruộng lúa đến đường ngã tư An Bình là đường Des Marins (Ðồng Khánh). Nhưng sau cùng chính quyền nhận thấy, không thể tách rời hai thành phố vì mối liên hệ kinh tế và an ninh nên năm 1928, Pháp cho thành lập đường xe điện từ đường Galliéni đến hết đường Des Marins. Tóm lại, vào thời gian này, đường Galliéni bắt đầu từ đường Calmette kết thúc đến đường Nancy và đường Des Marins bắt đầu từ đường An Bình kết thúc ở đường Học Lạc. Khoảng giữa Nancy đến ngã tư An Bình vẫn còn đồng không mông quạnh, bưng trũng, cỏ lác mọc đầy, mặc dù có đường xe điện chạy qua, tăng cường giao thông đường bộ Sài Gòn-Chợ Lớn.
Theo sách Bến Nghé xưa của Sơn Nam thì giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong… (Ðó là đường Galliéni, nay là Trần Hưng Ðạo). Tuy nhiên khi nhắc đến Chợ Lớn người ta lại nghĩ tới đường Trần Hưng Ðạo, mặc dù con đường này hình thành muộn hơn nhiều với đường Trên (Nguyễn Trãi) và đường Dưới (đường Bến Bình Ðông) và hai con đường này đều có đường xe lửa điện khổ 1 mét đầu tiên ở Việt Nam vào ngày 1 tháng 7 năm 1882, dài 5 kilômét nối Sài Gòn và Chợ Lớn.
Ðến năm 1930, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Ðứng đầu khu là một Khu trưởng, do Toàn quyền Ðông Dương bổ nhiệm. Khu trưởng là Chủ tịch Hội đồng quản lý khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Chức Thị trưởng vẫn còn tồn tại đến năm 1934, nhưng một số quyền hạn của chức này chuyển sang cho Khu trưởng. Năm 1951, Khu Sài Gòn – Chợ Lớn đổi thành Ðô thành Sài Gòn – Chợ Lớn và đến năm 1956 đổi thành Ðô thành Sài Gòn.
Từ khi đường xe điện đưa vào vận hành trên con đường Galliéni, dân chúng có tiền bắt đầu tìm đến khoảng trống đồng bưng giữa Sài Gòn-Chợ Lớn mua đất cất nhà. Nhiều người lớn tuổi vẫn còn nhớ đến năm 1954 vẫn còn nhiều khoảnh đất trống xen kẽ vườn rau cải mà đa phần là người Tiều trồng trọt. Người bạn lớn tuổi của tôi kể chuyện hồi còn nhỏ học nội trú tiểu học ở trường Petrus Ký, cuối tuần thường lén giám thị leo hàng rào ra ngoài đi chơi với chúng bạn. Hình ảnh mấy thím mấy chú Ba Tàu vừa đi vừa gánh đôi thùng nước tưới cả một ruộng cải xanh rờn. Ruộng cải rộng lớn mà họ làm không biết mệt. Với cái dáng liêu xiêu, đầu đội nón đan tre rộng vành, đi giữa các vồng đất, oằn vai gánh ngang đôi thùng gỗ lớn đục thủng bên hông cho nước tia thành vòi. Hình ảnh bình dị đơn sơ đó để lại ấn tượng trong đầu đứa trẻ cho đến tận giờ, ở tuổi gần 90 mà ông vẫn không quên.
Ðường Galliéni bắt đầu phát triển các khu dân cư, tiệm ăn và các cơ sở mua bán vật liệu, máy móc. Ban đầu là đại lý máy may Sinco (ngay góc Calmette), nhà hàng Tam Kỳ Khách lầu, nhà hàng Văn Cảnh (sau này mới có). Ðầu năm 1930, bắt đầu có một số tiệm buôn phụ tùng xe đạp, và sau đó là xe hơi. Nhiều dãy nhà kiểu chung cư người Hoa kéo dài đến đường Des Marins được Công ty gia đình ông Hui Bon Hoa đầu tư xây dựng cho thuê và bán dứt. Năm 1937 Ðại Thế Giới (Casino Grand Monde) được người Pháp cho thành lập công khai nhằm lấy thuế. Lý do chính quyền đưa ra là thà cho cờ bạc công khai, có lấy thuế, còn hơn để tệ nạn lén lút nhưng tràn lan vừa thất thu thuế, vừa xúc phạm đến quyền lực của chính phủ bảo hộ Pháp. Cùng lúc thành lập Ðại Thế Giới còn có sòng bạc Kim Chung ở khu vực Cầu Muối (nay là Khu Dân Sinh, phường Cầu Ông Lãnh, quận 1).
Một trong những rạp hát cải lương đầu tiên cất trên đường Trần Hưng Ðạo là rạp Nguyễn Văn Hảo (đầu năm 1940). Sau năm 1945, những khu vực còn trống bắt đầu được xây dựng nhiều công trình trường học, nhà hát, khách sạn, phòng trà, tiệm ăn. Từ năm 1960 các cơ sở chính quyền quân sự và building cho Mỹ thuê cất lên rầm rộ. Năm 1954, ngay đầu đường Ðề Thám và Trần Hưng Ðạo có một bãi rác khổng lồ, người dân đi ngang ai cũng phải bịt mũi đến năm 1963 mới được giải toả trong kế hoạch chỉnh trang đô thị.
Trang Nguyên Nguồn: Báo Trẻ Online
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:01:57 GMT 9
Bánh mì Sài Gòn
Người Pháp du nhập bánh mì vào Việt Nam cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, nhưng khi vô tới Sài Gòn thì nó được “Sài Gòn hóa”, đến mức gọi nó là một thứ “đặc sản Sài Gòn” cũng không sai.
Khi tôi còn nhỏ, mỗi lần có ai đó trong gia đình hay hàng xóm đi xa ra khỏi phạm vi làng xã, lúc trở về thứ quà bánh người đó mua cho đám con nít trong nhà, biếu cho hàng xóm mỗi nhà một ít “ăn lấy thảo” là ổ bánh mì Sài Gòn với vài cục nem chua. Tất nhiên, không phải người đó đi tận Sài Gòn (cách quê hơn 300 cây số) để mua bánh mì, chỉ cần từ nhà lên chợ huyện, chợ tỉnh là có bán bánh mì Sài Gòn rồi, tức là người miền Tây làm bánh mì kiểu Sài Gòn. Bánh mì (kiểu) Sài Gòn được làm hai loại: Loại thứ nhứt, ổ bánh mì dài sọc khoảng ba gang tay giống như cái bánh mì baguette. Loại thứ hai dài khoảng một gang tay, chính giữa no tròn có đường mổ trên mặt ổ bánh trước khi cho vô lò nướng nên khi nướng nó nở ra rất giòn, hai đầu nhọn. Cho nên hễ ai có vòng eo “không khiêm tốn” thì người miền Nam kêu là “eo bánh mì”. Ðiều làm nên sự khác biệt của bánh mì (kiểu) Sài Gòn với bánh mì nơi khác là bánh mì luôn nóng, thơm phức; lớp vỏ ngoài mỏng vàng sậm, bóng lưỡng, bẻ ra ăn giòn rụm. Phần ruột bánh mì bên trong đặc ruột màu trắng ngà, xốp và mềm, xé ra một miếng bỏ vô miệng nhai, càng nhai càng thấy miếng bánh mì dẻo dẻo và ngọt nhẹ nhàng, ăn hoài không biết chán. Nghe nói bánh mì Sài Gòn thơm, giòn và có màu vàng sậm bóng loáng đẹp mắt là nhờ trước khi cho vô lò nướng người thợ bánh phết thêm dung dịch trứng gà đánh tan với mật ong bên ngoài cục bột (!?)
Miền Nam có hai thứ nem bì, chua ngon nổi tiếng để dùng ăn với bánh mì, là nem Thủ Ðức và nem Lai Vung (Ðồng Tháp). Cục nem cỡ ngón chưn cái, thêm vài miếng ớt đỏ, vài hột tiêu đen, vài miếng tỏi mỏng, gói trong miếng lá tra non, lá vông nem non, hoặc lá chùm ruột non, ngoài gói chặt bằng lá chuối dày, rồi dùng dây lạt cột chặt lại thành một cục vuông cỡ trái chanh. Khi ăn nem thì lột bỏ lớp lá chuối thôi, ăn nem chung với lá tra, lá vông nem, lá chùm ruột mới ngon. Mổ ổ bánh mì banh ra, xắt nem ém vô giữa rồi cầm nguyên ổ bánh mì mà cắn ăn từ từ, bánh mì ăn chung với nem chua nó ngon lạ lùng, chỉ có người miền Nam mới có kiểu ăn bánh mì này.
Người miền Tây còn có kiểu ăn bánh mì kẹp cà rem (kem) cây, bánh mì kẹp chuối già, bánh mì chấm muối tiêu, bánh mì chấm sữa đặc Ông Thọ, bánh mì xắt miếng ra nướng giòn trên lửa than rồi phết chút bơ và rắc đường cát trắng lên. Còn bánh mì paté, bánh mì xíu mại, bánh mì phá lấu hay thịt heo quay thì quá ngon không cần phải nói. Bánh mì không, ăn không hết đem xắt miếng xéo xéo, phơi nắng cho thiệt khô rồi nhúng bột (thêm vài con tép nhỏ) chiên như chiên bánh cống, cũng ăn với với rau sống, nước mắm chua ngọt như bánh cống.
Tôi nhớ cứ tầm 7-8 giờ tối, chờ cho ngoài đường có tiếng rao: “Ai bánh mì nóng giò..ò..ò.ò.ò.n?” hoặc đơn giản, “hùng hồn” hơn: “Bánh mì nóng giòn đây” là tụi tôi vừa chạy túa ra, vừa kêu “Bánh mì, bánh mì kìa mẹ”. Mẹ tôi chưa kịp đồng ý, bọn tôi đã chạy ra trước cửa la lên thiệt lớn (sợ thằng nhỏ bán bánh mì không nghe nó sẽ đi luôn): “Bánh mì”. Lập tức, thằng nhỏ bán bánh đứng lại, hạ cái bao bố vác trên vai xuống rồi chờ mẹ tôi ra. Mẹ tôi móc tiền mua bánh, nó mở miệng bao bố ra, tôi thấy bên trong bao bố có cái bao nilon trắng lớn đựng bánh mì (cho sạch sẽ và giữ nóng). Nó mở tiếp miệng bao nilon lấy bánh mì bỏ vô cái túi giấy bán cho khách. Tôi cầm túi giấy đựng bánh mì hít lấy hít để mùi thơm ấm nóng từ ổ bánh mì bay ra. Hôm nào có hộp sữa Ông Thọ thì quả là tuyệt vời. Rót chút sữa đặc ra cái chén nhỏ rồi mỗi người cầm một ổ bánh mì nóng trên tay, xé ra quẹt một chút sữa trong chén ăn ngon lành. Không có sữa Ông Thọ thì xé ra ăn không, bánh mì thơm phức vừa giòn vừa dẻo vừa ngọt, một mình tôi ăn một ổ bánh mì thiệt chỉ đủ nhét kẽ răng.
Cũng có khi người bán là một thanh niên trẻ, một ông hay bà đứng tuổi, thì những người lớn này có sức khỏe hơn, thường vác sau lưng cái cần xé tre, trong lót bao bố, bao nilon đựng hàng trăm ổ bánh mì đi bán khắp nơi.
Các lò bánh mì miền Nam cho người bán lẻ nhận bánh mới còn nóng đi bán, lỡ đi hoài mà bán không hết, bánh bị nguội thì quay về lò đổi bánh nóng mới đi bán tiếp, nên bánh mì bán dạo luôn luôn nóng giòn. Ðó cũng là cách hấp dẫn người mua, mà cũng là cách đối xử rất có tình người giữa chủ lò và người bán dạo vậy.
Mùa mưa, trời mau tối, không khí lành lạnh và ẩm ướt, mà khi lạnh thì thường mau đói. Năm giờ chiều ăn cơm rồi nhưng tầm bảy giờ tối thì cả nhà lại ngồi hóng tiếng rao “Bánh mì nóng giòn đâ..y.y.y.y…” kéo dài vang vọng. Tôi chỉ cần nghe tiếng rao là hình ảnh ổ bánh mì vàng ruộm, giòn tan, nóng hổi và thơm phức như hiện ra trước mặt, cảm thấy chảy nước miếng rồi. Hình dung lúc xé miếng bánh mì bỏ vô miệng nhai rôm rốp, vừa giòn vừa dẻo, vị ngọt nhẹ nhàng thấm thía cả người. Ðối với một đứa con nít như tôi có ổ bánh mì nóng ăn buổi tối nó hạnh phúc làm sao. Riết rồi ghiền ăn bánh mì. Tối tối mà thiếu tiếng rao bánh mì, thiếu cái bánh mì không là bụng kêu rột rột không ngủ được.
Thập niên 70, 80, bánh mì Sài Gòn không còn nữa, thay vô đó là bánh mì quốc doanh cứng ngắc, khô queo, không mùi vị, bị người dân đặt tên là “Bánh mì chọi chó lỗ (bể) đầu”. Ðến thập niên 90, 2000 tình hình có khấm khá hơn; dân miền Tây lại ăn được những ổ bánh mì Sài Gòn ngon lành như trước năm 1975. Sau này tôi ở Sài Gòn, sáng nào tôi cũng mua một ổ bánh mì bì của bà bán bánh mì trước tiệm cà phê gần chỗ ở. Bà chỉ bán duy nhất một món bánh mì bì. Tôi thích bánh mì của bà chỉ vì ổ bánh giòn khấu, ruột mềm, xẻ ra dồn thêm bì heo, xịt chút xì dầu thì ăn ngon vô cùng mà lại rẻ tiền.
Bây giờ tôi không thấy ai ăn bánh mì theo các kiểu tôi vừa kể ở trên nữa. Little Sài Gòn (Nam Cali) có nhiều tiệm bán bánh mì của người Việt; cũng có tiệm lấy tên Bánh Mì Sài Gòn luôn. Tiệm nào tôi cũng cất công mua bánh mì ăn thử, nhưng than ôi, tôi chưa bao giờ được ăn một ổ bánh mì nóng giòn thơm đúng kiểu Sài Gòn. Vỏ bánh dày mà cứng, không giòn, ruột bánh không mềm xốp, nhai không dẻo ngọt. Tôi đồ rằng chủ mấy tiệm bánh mì ở đây không phải là người miền Nam chánh gốc. Nghe tên bánh mì Sài Gòn nổi tiếng nên lấy tên đặt cho tên tiệm của mình mà thôi chứ thật ra chủ tiệm chưa từng ăn bánh mì Sài Gòn; làm ra cái bánh mì không ngon, không giống bánh mì Sài Gòn chút nào, nhưng người chủ không biết mà cải tiến cách làm để bánh ngon.
Tôi mua bánh mì kiểu Ý, kiểu Pháp ở lò nướng trong tiệm Walmart ăn thấy ruột bánh cũng giống bánh mì Sài Gòn, nhưng vỏ bánh mềm xèo dù có nướng lại. Than ôi! Ngồi trong tiệm Bánh Mì Sài Gòn mà không được ăn bánh mì Sài Gòn là vậy đó.
Tạ Phong Tần Nguồn: Báo Trẻ Online
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:17:10 GMT 9
Biên giới & văn hóa tâm linh Sơn Nam
Năm chót đời Gia Long (1819), nhà vua khởi xướng kế hoạch đào một lượt 3 con kinh ở Nam kỳ. Hai kinh đầu là kinh An Thông (Thuông, bà Thuông) còn gọi kinh Tàu Hủ ở Chợ Lớn, thật ra là vét lại; kinh Bảo Định nối Mỹ Tho đến chợ Tân An (cũng nạo vét lại), riêng con kinh thứ 3 là kinh Vĩnh Tế là kinh mới, việc làm này rất gian nan cho quan chức và dân phu.
Người được trực tiếp đốc suất đào kinh Vĩnh Tế là Nguyễn Văn Thoại. Khi được lãnh chức vụ trấn thủ Vĩnh Thanh, trước khi đào kinh Thoại Hà và Vĩnh Tế, Thoại Ngọc Hầu đã làm một động tác Về nguồn: dựng đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, người đã hoạch định biên giới Việt Nam phía đồng bằng từ hơn 100 năm trước, trước đền thờ này không dời mặt bằng quá xa, nay còn đó, chăm sóc nâng cấp rất chu đáo. Theo tôi quan sát, nội thất và lễ hội đền Nguyễn Hữu Cảnh không kém, mà ở vài mặt, có phần trang nghiêm như lăng Lê Văn Duyệt ở Bà Chiểu (Sài Gòn). Đại Nam nhất thống chí ghi vào đời Tự Đức, đền này vẫn “thường tỏ ra anh linh”. Ngày nay, với kinh tế thị trường sôi động, đền vẫn còn thừa sinh lực, nhờ Ban tế tự đã kịp thời chỉnh đốn cho sát với thời cuộc. Trong đền ta chú ý có tượng bằng đồng, gọi là để tưởng vọng Nguyễn Hữu Cảnh với bộ râu dài, hai bên là cận thần cầm ấn, cầm gươm, gợi phong cách Á Đông kiểu Quan Vân Trường với Châu Xương và Quan Bình. Trình độ văn hóa của người xưa phía đồng bằng đã kết tinh ở sát biên giới. Ngôi đình mà đã thấy hiện nay xây tiếp thu nét kiến trúc Pháp, với cửa sổ, nền cao vào khoảng trước sau năm 1930. Nhìn những tấm biển, câu đối, ta thấy kẻ sĩ của Châu Đốc là đốc phủ Đặng Ngọc Chấn (dinh quán chợ Châu Đốc, ra học Luật ở Hà Nội) và ông phủ Trương Tấn Vị (quê Sài Gòn, sinh năm 1871), đến Châu Đốc sáng lập Ngân hàng Canh Nông đã am hiểu lịch sử phía Nam nên hết lời đề cao công đức Nguyễn Hữu Cảnh. Tôi hiểu đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là cột mốc về văn hóa Việt Nam ở sát biên giới, sống động, việc tế lễ vẫn tuân thủ điển lễ Việt Nam đã có từ đồng bằng sông Hồng, với 3 tuần rượu, theo nguyên tắc.
Rời chợ Châu Đốc, nơi mở đầu kinh Vĩnh Tế, đến núi Sam, đất xưa, với di tích văn minh Óc Eo, ta chú ý đến ngôi chùa Tây An và miễu Bà Chúa Xứ.
Chùa Tây An đồ sộ về cơ ngơi và có bề dày lịch sử, trùng tu vào đợt chót, trông vui mắt, rất xưa mà rất lạ, như lai tạp kiến trúc Ấn Độ; vài du khách bảo là vô tình sáng tạo theo kiến trúc để làm công việc gọi là yểm trợ Lê Văn Khôi, năm 1833, quân Xiêm tràn trúc Hồi giáo của xóm người Chăm Châu Giang đối diện chợ Châu Đốc. Ông bà thời xưa hàng năm đến đây thì ngày nay con cháu cũng đến đây. Tây An là ngôi chùa chính quy nhất của người Việt, đời nhà Nguyễn, đời Thiệu Trị do Doãn Uẩn, bấy giờ làm tuần phủ An Giang cho xây cất, xem như là trụ cột của văn hóa Việt Nam chốn biên giới xa xôi. Tương truyền rằng Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản đã cậy chùa Giác Lâm, tổ đình của Sài Gòn phái vị cao tăng sau này được về chùa Thiên Mụ, đến chăm sóc trong bước đầu, đó là Hòa thượng Hải Tịnh. Đứng trước chùa Tây An, nhìn về kinh Vĩnh Tế, ai không ngậm ngùi, trở về quá khứ với những phút giây chạnh lòng. Dòng kinh ở không xa, bên kia là đồi núi xứ Cam Bốt. Kề bên chùa là Lăng Thoại Ngọc Hầu, với mặt bằng khá rộng. Nếu chú ý, bên cạnh chùa Tây An, ta thấy ngôi mộ khiêm tốn của Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An, lấy tên của chùa này).
Thoại Ngọc Hầu có công lớn, trực tiếp chăm sóc đào 2 con kinh có ích lợi về kinh tế, về quân sự cho phía Hậu Giang rồi mất tại chức. Tôi tin rằng nấm mộ sơ sài và cơ ngơi ngày nay mà ta thấy có lẽ trùng tu vào đợt sau, cùng một khoảng thời gian với việc nâng cấp đền Nguyễn Hữu Cảnh, do các nhân sĩ địa phương, thời Pháp thuộc. Chung quanh vòng ngoài của lăng mộ, ta còn thấy bài thơ của Lý Bạch Biệt hữu nhất với những câu “Thanh Sơn hoàn Bắc quách. Bạch Thủy nhiểu Đông Thành” (gần mộ có núi, có sông Hậu Giang); nét chữ khỏe mạnh, chưa phai mờ. Đây là miếu của dân lập ra, để thờ vị công thần bị trù dập khi còn sống. Mãi đến khi Pháp đến, đời Khải Định ông mới được phong sắc (1924). Miếu mạo tôn nghiêm với cây danh mộc, nay có thêm đúc tượng của ông. Nấm mộ ông nhỏ bé, như mộ của điền chủ nhưng không gian linh thiêng. Trước mặt, dưới thấp là kinh Vĩnh Tế và nơi mộ của bà Vĩnh Tế, tôi nhớ có câu đối ngắn: “Thanh Liêm khai hải vụ”. Phải chăng bà được người đời yêu mến vì đương thời bà không tham nhũng, cậy quyền thế, lúc giúp đỡ chồng đào kinh, làm hậu cần. Bên cạnh lăng mộ, ta chú ý một số mồ mả, phỏng định là nơi tập kết hài cốt, những người chết khi đào kinh (thiếu nước uống, thiếu chăm sóc khi đau yếu). Mãi đến năm 1960 và 1967, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu mới sưu tầm được bài văn tế, phỏng đoán rằng Thoại Ngọc Hầu đã cho người đọc lúc truy điệu dân phu, lời lẽ thống thiết, bi ai. Nhưng tại sao ký ức về vùng kinh Vĩnh Tế, như bị đứt quãng hơn 100 năm, trong khi người Việt rất chú trọng những người chết khi đào kinh Vĩnh Tế. Lịch sử phía Tây Nam bấy giờ trải qua giai đoạn vô cùng bi đát vì ở xa xôi nên ít được chú ý. Đời Minh Mạng, quân Xiêm dốc toàn lực vào biên giới, toan chiếm vùng đồng bằng, rồi lên Sài Gòn, theo lời yêu cầu của Lê Văn Khôi, đến tận Chợ Thủ, Vàm Nao, nhờ tướng tài, ta đã anh dũng chống trả. Phải chăng quân phong kiến Xiêm muốn trả thù trận Rạch Gầm thời Nguyễn Huệ? Lại xảy ra cuộc xâm lăng với quy mô lớn để làm công việc gọi là yểm trợ Lê Văn Khôi, năm 1833, quân Xiêm tràn qua nước ta. Cuối năm 1833, Hà Tiên mất và thành Châu Đốc cũng mất, sau đó ta tái chiếm. Rồi đến thời Thiệu Trị, lại xảy ra cuộc xâm lăng lớn của Xiêm, chiếm cả vùng Bảy Núi, chiếm các đồn nhỏ của ta hai bên bờ kinh Vĩnh Tế. Các tướng tài như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Tấn Lâm, Nguyễn Công Trứ đã chiếm trở lại với quá nhiều vất vả. Đời Tự Đức, vùng kinh Vĩnh Tế, quang cảnh tiêu điều, không như hồi mới đào kinh vào đời Minh Mạng. Bằng cớ hùng hồn nhất là kinh Vĩnh Tế là nơi đày quân sĩ, và các quan để “đoái công chuộc tội”, trong số bị đưa đến Vĩnh Thông, có thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Ngồi trong đồn ông tả cảnh, thơ chữ Hán, dịch lại:
- Lầu cao ngồi rồi, ngó tư bề, Cỏ láng chân trời, đồng ruộng ghê...
- Mù mịt mây đen kéo tối dầm, Đau lòng năm trước chốn Hà Âm, Đống xưởng vô định, sương phau trắng, Giọt máu phi thường, cỏ nhuộm thâm! Gió trốt dật dời nơi chiến lũy, đèn trời leo lét dặm u lâm...
Có thể nói là những người định cư Thoại Ngọc Hầu gần như xiêu tán hết. Nhưng cơ ngơi về văn hóa của dân ta còn đó, với chùa, đền, miếu. Riêng về Miếu Bà Chúa Xứ, theo tôi thì ngay khi người Pháp đến cuối thế kỷ XIX, nếu có thì đây là cơ ngơi sơ sài, thậm chí đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Văn hóa Việt Nam truyền thống rất trọng việc thờ nữ thần. Bà Chúa Xứ ở Nam là sự tiếp nối từ bà Liễu Hạnh, ở Nam Định, rồi bà Chúa Ngọc ở điện Hòn Chén, vào Nha Trang. Vẫn là chầu văn, múa bóng rồi: “Bà đi Châu Đốc, bà về Nam Vang. Quê bà ở tận Nha Trang”. Bà ở Nha Trang là Po Y Nagar, nhập vào tượng đá của người Chăm. Vào biên giới Tây Nam, bà lại nhập vào tượng đá Khơme cũng là bình thường. Người Việt khẩn hoang, theo sự tích bà từ Nha Trang (con của người tiều phu...) gốc là tiên bị đày xuống trần gian đã dạy người địa phương việc lên rừng tìm cây trầm hương, xuống biển đánh cá, tức là khẩn hoang:
“Phá sơn lâm, đậm hà bá”. Bà có hai con gọi là Cậu, nhị vị công tử, ưa phá phách, tức cậu Chài cậu Quý. Người Hoa ở Chợ Lớn xem bà như bà Thiên Hậu hiện về ở Nam bộ, trở thành phúc thần. Việc hành hương Bà Chúa Xứ lôi cuốn khá đông người ở Sài Gòn, miền Nam Trung bộ luôn cả người già, thanh niên.
Như đã nói, việc đào kinh Vĩnh Tế đã quy tụ một số dân đến sống rải rác, lập những làng mới như Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc... những làng này bị phân tán sau cuộc chiến tranh biên giới đời Minh Mạng, Thiệu Trị. Đời Tự Đức, ta thấy có sự cố gắng giảm thuế đưa tù phạm vào vùng Tịnh Biên, vùng Giang Thành (phía Tây kinh Vĩnh Tế) do Nguyễn Tri Phương tận lực xây dựng nhưng chỉ hơn 10 năm sau là Pháp đánh Đà Nẵng, Sài Gòn, rồi mất trọn Nam kỳ, những đồn điền trong bước đầu xây dựng ấy lại mặc nhiên tự giải thể. Đời Gia Long, Trịnh Hoài Đức đã mô tả một số người đã định cư ở đồi núi vùng Bảy Núi, sống tự túc, chân núi chịu ảnh hưởng nước lụt, có thể làm ruộng, có cá, triền núi có rau cải, cây thuốc dân tộc, khoai, sắn... Chắc những người ấy không ai còn ở chỗ cũ đời Gia Long.
Một biến cố lớn về tín ngưỡng đã diễn ra ở vùng đồng bằng, từ đời Thiệu Trị, qua Tự Đức. Nông dân thấy có gì cần thay đổi lớn. Đạo Phật buổi ấy như xơ cứng, với hình thức “thầy cúng”, nội dung chỉ còn là giáo điều. Đạo Khổng mà quan lại rao giảng chỉ là cái vỏ bề ngoài của giới điền chủ và quan lại hủ lậu, tham nhũng, bóc lột. Chỉ còn đạo Lão mang tính dân gian với bùa chú. Phải “đổi đời”.
Đã có triệu chứng đời sắp đổi với hội Long Hoa, thành lập sau cuộc tận thế. Đổi đời để con người sẽ sống ở cõi Tiên (kiểng Tiên), kiểu đời Nghiêu Thuấn. Phải Tận Thế là quy luật. Thời buổi mạt pháp này, con người không còn là con người xưa, nhiều con thú quái đản hiện ra, rồi sẽ xảy điềm Tận Thế với núi lửa phun, động đất, lụt to. Ai đến gấp nơi mở hội Long Hoa tại núi Cấm, dãy Thất Sơn. Dịp để thầy Đoàn Minh Huyền rao giảng thuyết Tận Thế, làm lành lánh dữ thì được cứu rỗi, và phải gom nhanh về nơi Thánh Địa. Theo tôi suy luận, đây là một dạng Hội kín của nông dân, với mật hiệu riêng, với kỷ luật chặt chẽ. Thầy Đoàn Minh Huyên sáng tạo ra kiểu tu đạo Phật để tóc dài, không chuông mõ, không phẩm phục, lời rao giảng chỉ là truyền miệng, khuyên ai nấy quy tập về vùng đất khó canh tác ở biên giới để tìm kế sinh nhai, làm ruộng rẫy. Giáo lý này được người giáo chủ “mặc khải”, chuyển từ kiếp trước, ít học mà biết nhiều trị dễ dàng những bệnh nan y. Khi “đổi đời”, hiểu là lật đổ vua quan nhà Nguyễn, sau này là lật đổ thực dân Pháp “bất chiến tự nhiên thành”. Với niềm lạc quan để chờ đợi, người dân hăng hái lo việc ruộng nương, đoàn kết để xây dựng xóm làng, nặng về từ thiện.
Lý thuyết của đạo tuy mềm dẻo nhưng không dễ lợi dụng. Thời chống Mỹ, Nguyễn Long Châu tập tành làm giáo chủ, xưng Minh Vương thay mặt cho giáo lý Tứ Ân. Đồng bào phản đối, hắn bày ra khủng bố, nổi danh xấu với “đạo đâm, đạo hừ”, sau rốt lên miền Đông Nam bộ, sau ngày giải phóng, chịu thú nhận từng làm gián điệp Mỹ.
Vùng biên giới nào cũng vậy, ở nước nghèo, biên giới vẫn là nơi tận cùng mà con người muốn vươn lên cao, đến cõi siêu hình, khi cuộc sống trên mặt đất như bế tắc. Là nơi phức tạp, đủ thành phần, tiêu cực có, tích cực có.
Năm 1904, cụ Phan Bội Châu từ Huế đã vào Nam, đến tận chùa Phi Lai ở núi Voi để tìm một đồng chí, Pháp gọi là Trần Nhật Thi (không bỏ dấu), ta gọi là ông đạo sĩ Rau, có lẽ tu ẩn thân, ăn rau, ông này nghe đâu về sau qua Xiêm hoạt động.
Năm 1928, ông nghè Trương Gia Mô, tự Cúc Nông từ Huế vào, mang hoài bão cải cách, duy tân đất nước, lại thất vọng, đến Hà Tiên rồi đi dọc kinh Vĩnh Tế, đến đầu này của con kinh, lên núi Sam, mặc áo dài khăn đen chỉnh tề, từ đỉnh núi nhảy xuống hố mà tự tử. Nhà thơ Đông Hồ đã từng chăm chút ông Nghè lúc trước, khi hay tin đã làm cầu điếu:
- Đã đành yên một giấc ngàn thu, Châu Đốc há rằng quê quán khách. - Trót hẹn chiếc thân bốn bể, Việt Nam đâu cũng non nước nhà!
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:19:02 GMT 9
Ba Son – Cơ xưởng Hải quân quan trọng bậc nhất xứ Nam kỳ
Cơ xưởng hải quân Ba Son trực thuộc Bộ Hải quân Pháp, ra đời vào năm 1884, không chỉ nhằm mục đích sửa chữa tàu bè qua lại hoặc lưu trú tại khu vực Viễn Đông mà còn chế tạo tàu biển. Dưới sự chỉ huy của Đô đốc-Tư lệnh Hải quân, cơ xưởng Ba Son gồm nhiều phân xưởng khác nhau, với 2.500 thợ chịu sự quản lý của 60 người Âu.
Thiết bị và khả năng của cơ xưởng Ba Son
Cơ xưởng Ba Son có khả năng lau chùi sửa chữa lòng tàu khá tốt nhưng chưa hoàn toàn thoả mãn nhu cầu của một hạm đội hiện đại. Thực tế, cơ xưởng này có một bể sửa tàu xây dựng vào năm 1884 dài 150m, phù hợp với phần lớn các tàu chiến và tàu buôn thường xuyên qua lại Sài Gòn nhưng lại không đáp ứng một số tuần dương hạm và tàu chở khách trọng tải lớn. Đối với những tàu có trọng tải vừa phải, thủy xưởng có một vũng tàu nhỏ dài 65m, một kho cảng nhỏ và một số bến bãi.
Phân xưởng làm tôn và phân xưởng làm chảo
Để sản xuất tôn, từ năm 1918, cơ xưởng đã cho xây dựng một phân xưởng tương đối rộng với các khu nhà sắt được trang bị hiện đại phục vụ các công trình xây dựng, nhất là trong lĩnh vực sản xuất tàu có trọng tải vừa và nhỏ. Ngoài ra, Ba Son còn có phân xưởng sản xuất chảo và các bộ ống.
Phân xưởng cơ khí
Vào những năm 40, cơ xưởng Ba Son không chỉ thực hiện việc bảo trì tàu ngầm, tàu hộ tống mà còn nỗ lực hoàn thiện bằng việc mua máy công cụ, hiện đại hoá phương pháp lao động và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công việc. Cơ xưởng đã mua một bộ gồm 5 máy tiện công suất lớn, một máy phay đa năng, một máy khoan xuyên tâm có độ chính xác cao và một chiếc máy rà điều khiển bằng hệ thống thuỷ lực.
Từ năm 1939 đến cuối năm 1943, cơ xưởng Ba Son đã cho xây dựng lại và hoàn thiện hệ thống nhà xưởng, gồm: 5 gian nhà lớn có trang bị cầu di động và một toà nhà 2 tầng gồm 5 phòng dùng làm văn phòng, phòng gửi đồ, và nhà kho.
Phân xưởng đúc
Do nằm xa Chính quốc nên cơ xưởng Ba Son phải tự túc trong việc nấu luyện kim loại. Đến năm 1943, phân xưởng này được trang bị: 1 lò hồ điện quang để sản xuất thép; 3 lò đúc gang hoạt động với năng suất đáng nể; 1 lò chạy bằng dầu mazút làm nóng chảy đồng; một số lò luyện hợp kim; 2 tủ sấy có kích thước lớn… Nhờ đó, phân xưởng này có khả năng thực hiện tất cả các hạng mục từ đơn giản đến phức tạp, phục vụ nhiều công trình hàng hải.
Từ năm 1938, người ta đã sử dụng một cây cầu di động trọng tải 25 tấn để đảm bảo giao thông tại phân xưởng này. Nhờ vào hệ thống thiết bị, sự khéo léo của các thợ đúc và sự quản lý tương đối tốt, phân xưởng đúc này có thể thực hiện việc đổ khuôn đa dạng nhất, phức tạp nhất trong giới hạn trọng tải cho phép bằng các dụng cụ làm nóng chảy.
Phân xưởng điện
Phân xưởng điện giữ vai trò khá quan trọng trong ngành đóng tàu, nhất là tàu chiến. Mô tơ, máy phát điện và các loại máy móc khác của tàu phải được bảo trì tốt nếu không sẽ bị hư tổn nặng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Cơ xưởng Ba Son có một phân xưởng điện có khả năng thực hiện toàn bộ việc quấn, cách điện động cơ, sửa chữa và chế tạo các máy móc thông dụng, bảo trì, sửa chữa thiết bị điện thoại vô tuyến và la bàn con quay.
Hoạt động dạy và học nghề
Ba Son từng có một xưởng dạy nghề đào tạo thợ nguội, thợ tiện, thợ đúc, thợ tôn, thợ điện, thợ mộc v.v..., thu nhận trên 200 người. Chương trình học kéo dài từ 2-3 năm. Học viên từ 15-17 tuổi được nhận vào trường thông qua thi tuyển và có thể trở thành công nhân ở tuổi 18. Ngoài chuyên ngành đào tạo, chương trình còn dạy tiếng Pháp, toán, kỹ thuật và hàng tuần có 3 giờ thể dục.
Sau một tháng học đại cương, các thợ học nghề được phân loại thành thợ nguội, thợ tiện, thợ điện, thợ tôn, thợ đúc.v.v. và được đào tạo chuyên môn tại các phân xưởng riêng, cho phép họ làm chủ tay nghề chỉ trong vòng 2 năm.
Điều kiện vật chất của công nhân
Trong những năm 40, điều kiện vật chất của công nhân Ba Son được cải thiện đáng kể nhờ một loạt biện pháp đề ra trong quy chế chung của Bộ Hải quân Pháp. Theo đó, họ được tuyển vào làm thông qua khóa học hoặc sau thời gian thử việc; hưởng lương tối thiểu theo quy định và có thể thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế và mức giá sinh hoạt; hưởng 10% số giờ làm thêm; hưởng lương hưu, trợ cấp thôi việc.v.v..
Những thành tựu nổi bật
Với trang thiết bị hoàn chỉnh, hiện đại và đội ngũ kỹ sư lành nghề, Ba Son đã chế tạo hàng loạt công trình hàng hải, những hạng mục tinh tế nhất, đặc biệt là các bộ phận của tàu phóng lôi loại 1 với chi phí thấp và trong thời gian ngắn hơn so với các xưởng chế tạo ở chính quốc. Cơ xưởng này không chỉ phục vụ ngành công chính - khách hàng quen thuộc trong thời bình mà còn phục vụ các xí nghiệp tư nhân.
Bên cạnh đó, cơ xưởng này còn tham gia khôi phục nhà máy xay xát Chợ Lớn; chế tạo giàn thay thế máy hơi nước cung cấp năng lượng cho Nhà máy đường Hiệp Hòa; chế tạo măng sông đúc cho nhiều xưởng sửa chữa ô tô tại Sài Gòn; sửa chữa dụng cụ quang học cho Sở Công chính và Sở Địa chính. Đặc biệt, vào ngày 23/3/1922, xưởng Ba Son đã cho hạ thủy tàu "Albert Sarraut", dài 85m, rộng 12m, cao 12m, độ mớn nước 5m9, trọng tải 3.100 tấn, sức máy 1.100 mã lực. Đây là chiếc tàu biển lớn nhất với trang thiết bị hiện đại đầu tiên được đóng tại Đông Dương.
TC 827- Tuần báo Indochine, số 136 ngày 08/4/1943
Hoàng Hằng - Đỗ Huyền Trang Nguồn: Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:22:02 GMT 9
Người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn Sơn Nam
Người Hoa Chợ Lớn nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung đã gắn bó mật thiết với người Việt từ nhiều thế kỷ qua. Miền Nam là nơi nhiều tiềm năng về lúa gạo, nhiều đất hoang, thêm chính sách kinh tế phóng khoáng từ khi mở nước, một kiểu kinh tế thị trường, nhưng bấy giờ ta chưa dùng từ ngữ ấy. Nhờ vậy, lưu dân người Hoa, phần lớn từ các tỉnh phía Nam Trung Hoa đến tìm “đất lành”. Những người “cùng khổ” người Hoa và người Việt đã gặp nhau, cùng chung thân phận. Lịch sử đã ghi việc Trần Thắng Tài đến Cù lao Phố (Biên Hòa), Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho (cụ thể là vùng Tân Hiệp). Hà Tiên do Mạc Cửu khai thác về danh nghĩa lan rộng đến mũi Cà Mau, nhưng chỉ quanh quẩn vùng chợ Hà Tiên. Những người đến từ 3 thế kỷ xa xưa ấy không còn dấu ấn gì cả. Nét đặc trưng của lưu dẫn người Hoa thuở ấy là rời quê hương, không có đàn bà đi theo! Vì vậy, họ cưới vợ địa phương, nhiều lần như vậy đã hoàn toàn trở thành người Việt. Thậm chí, dòng dõi, bà con xa của Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch ngày nay chẳng thấy ai tự xưng, thậm chí mạo nhận.
Người Hoa, đặc biệt ở Chợ Lớn, ở nhiều tỉnh ly phía đồng bằng mà nay ta còn thấy dấu ấn phần lớn sang nước ta khoảng từ 1885 trở về sau, khi các cường quốc Tây phương đánh phá bờ biển miền Nam Trung Hoa.
Nhà Mãn Thanh suy thoái, kinh tế hỗn loạn, xảy ra nạn mất mùa. Số người di cư đợt 1885 là thủy tổ của vài dòng họ người Hoa, từng nhờ thời thế mà làm giàu ở Chợ Lớn và phía đồng bằng; trường hợp của Chú Hỏa (cơ ngơi đường Phó Đức Chính), của Quách Đàm (chủ chợ Bình Tây) và nhiều ông Bang ở các tỉnh. Bấy giờ nhiều người Hoa từ Singapore, từ Hương Cảng đến lập nhà máy xay lúa, nay còn dấu ấn phía Bình Đông, Rạch Cát với những dãy nhà kho, nhờ vốn của ngân hàng người Anh. Họ đem theo nhiều công nhân, lớp nghèo thành thị cùng những người hiếu động, bất mãn trước làn sóng Tây phương, nổi danh một thời với Hội kín. Trước 1945, có dấu ấn rõ rệt với những hội múa lân tranh chấp địa bàn làm ăn, xảy ra đâm chém, hoặc những gánh hát Tiều, những miễu (chùa Ngọc Hoàng, Đa Kao), nay đã phai mờ trong trí nhớ của người thời sau. Lại còn đợt quan trọng hơn, sau thế chiến 1914-1918, khi người Pháp cho đào kinh phía Hậu Giang, khơi dậy tiềm năng sản xuất lúa gạo của cả đồng bằng, bấy giờ đất rộng, người thưa.
Muốn cho người nông dân hăng hái khẩn hoang, phải có điều kiện cơ bản là hàng tiêu dùng, nông cụ. Lúa sản xuất ra, phải có người sẵn sàng mua hoặc ứng tiền trước. Hệ thống chân rết của người Hoa lan tràn tận miền quê, với những tiệm tạp hóa thân thương, bán từ cái lưỡi câu, cái gàu tát nước đến dầu lửa, nước mắm, vải thô, rượu đế, trầu cau, thuốc cao đơn hoàn tán... Người Hoa nhạy bén, nhờ vốn lớn, đã sớm lập ra những nhà máy xay xát, hãng xe khách, công ty tàu thủy, đặc biệt là những ghe tải cỡ to nhằm chuyên chở lúa gạo và hàng tiêu dùng được sản xuất tại Chợ Lớn, từ tương, chao, trà, bánh kẹo, đến đôi đũa, cái móc tại.
Việc giao tiếp qua lại, cụ thể là hôn nhân giữa người Hoa người Việt, người Hoa và người Khơme trở nên bình thường. Trong việc chung đụng hằng ngày để cùng nhau làm kinh tế, ta nhận xét vài điểm như sau:
– Vốn là đa thần, chùa người Hoa như chùa thờ bà Mã Hậu, thờ Quan Công, thờ Thần Tài (Ông Bổn) trở nên rầm rộ, thêm sự hưởng ứng của người Việt vùng lân cận. Ngược lại, người Hoa xem như có phận sự đi cúng bái chùa, đình của người Việt, ủng hộ tiền bạc để trùng tu.
– Ở các tỉnh miền Tây, vẫn còn cách xưng hô bình dân như Ý (dì), Củ (cậu), Chế tỷ (chị)...
– Một số từ ngữ của người Hoa được phổ biến trong người Việt như: Lì xì (dịp Tết) nguyên chữ là lợi thị, tiệm tạp hóa (điếm), quầy hàng (quầy là quỹ, như chữ quỹ của thủ quỹ), chợ búa (búa = phố), ghe chài (tải), xe chạy tài nhất, tài nhì (có lẽ chữ đệ, trong chữ đệ nhất, đệ nhị). Tiếng “xịn” là chữ tân (mới) đọc ra (Nhưng còn “bá chấy” là gì?).
– Đặc biệt về thức ăn, như bánh bao, lẩu, lạp xưởng (lẩu là chữ lô = lò; lạp xưởng là ruột dồn thịt phơi khô) chưa nói đến tiếng phở (phấn, phấn điều).
Người Hoa lần hồi quen với nước mắm của người Việt. Người Việt và người Hoa tương đắc về kỹ thuật dùng vật tư địa phương để pha chế thức ăn, như cá chép hấp, cá chẽm chưng tương, làm sao quên được món bò bía (bỉ bỉnh), bò vò viên, giò cháo quảy, bánh tiêu... Hột vịt lộn là sáng tạo của người Hoa ở Phi Luật Tân được đưa qua xứ ta... Người Hoa và người Việt lại gặp nhau trong các dịp lễ hội, tiệc tùng. Thời nông nghiệp lạc hậu, đời sống lam lũ, lễ hội là dịp an ủi nhau, gây niềm tin. Tết là dịp người Hoa sản xuất nhiều mặt hàng kẹo bánh, nhang, đèn cầy, trà, rượu cung cấp tận miền nông thôn hẻo lánh.
Một mặt tiêu cực mà nay ta đã quên; chính người Hoa, phần lớn là tư sản lại cầm đầu cờ bạc như số đuôi, đề 36, Bình Khang.
Rất lạc quan, hiếu khách, không muốn dính líu vào chính trị là đặc trưng của người Hoa. Làm kinh tế là ưu tiên số một. Rất cần cù, không chịu “ở không mà nói láo”, nhà ở đường hẻm cũng có thể làm ăn được. Không phải người Hoa nào cũng làm giàu, ta còn gặp nhiều bà xẩm ngồi gần như suốt đời ở góc chợ để bán kim, chỉ, những món linh tinh. Hoặc những người Hoa lớn tuổi bình thản đạp xe xích lô, bán cháo huyết, bỏ mối bánh mì trong đường hẻm. Rất trọng tình bạn, rất trọng chữ tín, khi nghèo luôn luôn tiết kiệm. Đức tính lớn ấy khiến cộng đồng người Hoa dễ thành công trong việc kinh doanh lớn nhỏ. Tính tình bình dân, thích ngồi quán nhỏ, không khinh bạn nghèo, luôn luôn gây cảm giác “vui lòng khách đến”. Thời kinh tế thị trường, lời thì ăn, lỗ thì ráng chịu, điều ấy người Hoa chẳng cần học với ai cả. Vì vậy, dạo chơi phía Chợ Lớn, nếu biết quan sát, quả là bài học lớn, sống động về cách làm kinh tế với những mặt tích cực, tiêu cực.
Sơn Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:23:24 GMT 9
Di sản Sài Gòn Sơn Nam
Sài Gòn, vùng chợ phố xưa ba trăm năm (lấy con số tròn), nay nằm trong địa bàn quận 1, quận 3 của thành phố Hồ Chí Minh được xem như một quê hương. Người Việt Nam nhớ nằm lòng câu: “Chốn quê hương đẹp hơn cả”. Ở miền đồng ruộng, quê hương là bóng dáng lũy tre, con rạch với vườn tược, chiếc cầu nhỏ và đình, chùa. Ở Sài Gòn, là bến cảng, với nhà kho, tàu biển, cũng là giang cảng, có đường ăn lên Biên Hòa theo sông Đồng Nai và có đường sông ăn vào con sông Cửu Long tươi đẹp của Đông Nam Á. Là quê hương thì phải có ký ức, có hồn, hồn của đất nước. Người Pháp đã đến chỉnh trang, mở mang Sài Gòn trong khoảng non thế kỷ, từ năm 1917, đã tặng Sài Gòn cái mỹ hiệu là Hòn Ngọc Viễn Đông, là bao lơn của Thái Bình Dương (Le balcon du Pacifique).
Hồn của Sài Gòn lắng đọng qua thời gian, từ những hình tượng cụ thể. Nhớ Sài Gòn, yêu Sài Gòn là yêu con sông thoáng rộng chảy ra biển, là yêu cây xanh bóng mát, yêu đường phố, và nhất là yêu tính hiếu khách của người Sài Gòn. Không hiếu khách thì làm sao phát triển “kinh tế thị trường”. Đó là hơi thở của Sài Gòn, là cái đòn bẩy của Sài Gòn từ khi lập nước. Pháp đến, thêm kho hàng, cửa khẩu, dịch vụ cho tàu thuyền, dịch vụ cho khách vãng lai.
Người Việt thường gọi một cụm bốn tiếng: “Nhà cửa phố xá”. Ở đây tạm đóng khung trong chuyện nhà cửa bên đường phố.
Trước khi Pháp đến, Sài Gòn đã có vài đường phố với qui hoạch mà người Pháp đã tôn trọng: đường nay Hai Bà Trưng ăn lên phía ngoại ô Gò Vấp (nguồn rau xanh, cây trái), đường xuống phía đồng bằng, qua Chợ Lớn, nay Nguyễn Trãi, lên Tây Ninh, đến Campuchia (Cambodge), nay đường Cách Mạng Tháng Tám, thêm trục lộ chính từ đông sang tây, đường Nguyễn Thị Minh Khai, về phía bắc, nối ra Huế lại có đường dọc theo mé sông. Người Pháp đến, đem vài sự ngạc nhiên cho người dân bình thường: chiếc xáng đào kinh (tàu cuốc), đường xe lửa, đặc biệt là kiểu thức nhà cửa, dinh thự...
Người Việt Nam theo truyền thống xưa là không xây nhà có tầng lầu; làm như vậy, người tầng trên sẽ đi ngang trên đầu người ở tầng trệt, lắm khi có bàn thờ ông bà. Nếu xây lầu và có gác thì bên dưới phải bỏ trống với người qua nhưng chẳng phải là nơi cư ngụ hoặc làm việc: thử quan sát cung điện Huế và của Ngọ Môn.
Không đắp nền quá cao sợ phạm thượng; nền cao và rộng dành cho đàn (tertre) để tế trời đất.
Nhà không cửa sổ để tránh người ngoài nhìn vào, vừa giữ vẻ tôn nghiêm. Nhà để cư ngụ nhưng còn là một kiểu đền nhỏ, dành để thờ ông bà nơi trang trọng nhất, ngay giữa nhà. Vì vậy, không gian thu hẹp, không quá sáng sủa. Nhà của quan to sâu và rộng, nhưng thấp, nên lắm khi phải đốt nến lúc ban ngày. Không có trần nhà để che bụi, gọi (plafond).
Không có bồn chứa nước, không cầu vệ sinh tươm tất, không có máng xối với hệ thống hoàn chỉnh. Thêm tường rào quanh sân để giữ sự kín đáo.
Không đắp hình tượng trang trí lòe loẹt bên ngoài, làm như thế thì không phải nhà ở, nhưng là đền, miếu.
Người Pháp đến, bày ra kiểu nhà tường cao ráo, quét nước vôi trắng, phải chăng rút kinh nghiệm từ các thuộc địa ở vùng Bắc châu Phi. Dinh thự của Pháp xây trên nền cao ráo, lắm khi bên dưới lại có hầm bỏ trống cho thoáng. Nhiều cửa sổ thoáng gió, dân gian gọi đó là cửa sổ lá sách, trần nhà quét vôi, che bụi bặm, mạng nhện giăng dễ bị phát hiện, nền lót gạch bông (gạch hoa), láng bóng, sáng sủa. Nơi dành thờ Chúa hoặc thánh Maria trong nhà cũng vừa phải, không trang trí rườm rà. Phòng tiếp khách, nơi ăn cơm, nơi uống rượu, nhà bếp đâu đó riêng biệt; cha mẹ, vợ con đều có phòng riêng chứng tỏ sự tôn trọng tự do cá nhân. Vòng rào lắm khi chỉ là những song sắt, tôn trọng cây cổ thụ sẵn có, mặt sân dành cho bãi cỏ, cắt bằng phẳng, thêm nước phun lên từ những vòi xem ngộ nghĩnh, đôi khi có hình tượng của thiếu nữ gần như khỏa thân. Nhà hát của Pháp xây cất ở Sài Gòn đắp tượng thiếu nữ, các hình tượng trước tòa Đô chính với thằng bé, con cọp, bà đầm, nói chi đến trước dinh Gia Long có những khung nhỏ, đắp hình con sấu, con chim ít được chú ý. Khách quan mà nói, những dinh thự lớn của Sài Gòn do Pháp xây cất đều nằm trong khu vực sang trọng, cao ráo, thoáng mát mà thời trước các quan nhà Nguyễn đã chọn để trấn đóng. Người Pháp gọi nơi đây là khu vực cao ráo, một kiểu “cao nguyên”. Khu vực tuy không nói ra nhưng rõ ràng là dành cho người Âu cư ngụ, làm việc và giải trí với gió mát từ sông Sài Gòn và không xa, từ sông Đồng Nai thổi vào. Phần còn lại, phía con rạch Bến Nghé ăn vào Chợ Lớn thì ẩm thấp, bùn lầy, thiếu vệ sinh. Đường Catinat (Đồng Khởi), đường Nguyễn Huệ gần như dành cho người Tây học, làm công chức, biết tiếng Pháp thông dụng. Ảnh hưởng của những dinh thự, công sở cao ráo kiểu Tây này với những con đường tráng nhựa đầy cây to gây được âm vang tận các tỉnh xa xôi... Ta không quên rằng Nam kỳ thời xưa chia ra 20 tỉnh, mỗi tỉnh đều có cơ ngơi dành cho công sở, quan chức. Tòa hành chánh tỉnh và dinh của chủ tỉnh cũng là nhà lầu, nền cao ráo; tỉnh ly có đường sá ngay thẳng, trồng cây xanh, thêm nhà chợ. Sở Công chính, trường học, bệnh viện... toàn là kiến trúc kiểu Pháp với qui mô khiêm tốn hơn. Giới điền chủ lớn, thương gia ở các tỉnh bắt chước kiểu nhà Tây ở Sài Gòn nhưng cải tiến lại, để giữ phong cách Việt Nam. Nhà ngói 3 gian, 2 chái theo kiểu Tây với nền đúc cao ráo, cửa sổ lá sách, có trần để che bụi, giảm hơi nóng, lót gạch bông, với bậc (tam cấp) đi lên nhà. Giữa nhà, bố trí “xa-lông”, tức là bàn ghế theo Tây với mặt bằng khá rộng dành cho khách. Nhưng vẫn giữ nơi trang trọng giữa nhà làm nơi thờ ông bà với cái lư, chân đèn, lư cắm nhang. Bàn ghế dành tiếp khách mô phỏng theo kiểu của trường dạy nghề mộc mà người Pháp thành lập rất sớm từ đầu thế kỷ XX, ở Thủ Dầu Một (Sông Bé, nay là Bình Dương). Chuyên viên về ngành đóng bàn ghế, tủ, từ Pháp qua đã tận dụng sự khéo léo sẵn có của thợ mộc người Việt, dạy cho họ đóng bàn ghế, tủ, theo kiểu Louis XVI bên Pháp, cẩn xà cừ, chạm trổ hoa cúc dây, bông mẫu đơn, bông hồng. Bàn thờ ông bà thời xưa được cải tiến theo kiểu tủ của Pháp, cao ráo cẩn xà cừ.
Nét Việt Nam vẫn còn giữ được qua bộ ván cải tiến có chân quì, gọi là đi văng. Phía trước nhà, nơi mái hiên, vẫn dành chỗ để treo vào cái lồng nuôi chim hót, hoặc giăng cái võng để nằm nghĩ buổi trưa oi bức. Ngoài sân, vẫn giữ kiểu trang trí thời xưa của Việt Nam, với cây cảnh, hòn giả sơn, chậu to để trồng sen, góc sân đổi khi dành chỗ cho bụi trúc. Bộ ván hoặc cái đi văng bên cạnh bộ xa- lông kiểu Tây là nơi dành cho các bà ngồi ăn trầu.
Ngôi nhà xây cất kiểu Tây, sau này lợp kiểu ngói bằng phẳng, gọi ngói móc (hoặc ngói Tây); cơ bản vẫn là để thờ tổ tiên, nếu khá giả, chủ nhân vẫn treo những câu đối chúc mừng dòng họ, nhắc nhở đạo lý.
Tuy xây cất ở Sài Gòn nhưng dấu ấn của kiến trúc Pháp vẫn tạo ảnh hưởng lớn để dấu ấn sâu đậm, được chấp nhận, tận các tỉnh quận ly xa xôi. Là thiếu sót lớn, nếu không nói đến trường học ở làng mạc, với sân rộng, với bàn học: chuyện mà thời xưa các thầy đồ dạy chữ Nho không biết đến. Trường học vẫn dùng cái trống khá to đánh lên báo hiệu giờ vào lớp, tan học, phỏng theo trường ở tỉnh hoặc ở Sài Gòn. Sân trường cần bóng mát, từ cuối thế kỷ XIX và mãi đến nay vẫn là cây điệp Tây flamboyant (phượng vĩ) mà người Pháp đã du nhập từ Madagascar, cũng như loại bông giấy (bougainvillée) từ đảo Réunion, thuộc địa Pháp. Ngày nay, đến dịp nghỉ hè, vẫn nhắc đến mùa hoa phượng nở, tháng 5 Dương lịch.
Sài Gòn 300 năm, trăm năm đầu là sự dò dẫm, trưởng thành và có thể nói hai trăm năm sau là tuổi thanh xuân và sự trưởng thành về thương mại, kinh tế để cho hải cảng thành hình. Kỷ niệm của tuổi thanh xuân ấy không thể xóa được. Có hồn của Sài Gòn thì phải có xác của Sài Gòn. Sau ngày giải phóng 1975, vài người bạn ở chiến khu về, gốc nông dân ở đồng bằng, chưa từng đến Sài Gòn lần nào đã yêu cầu tôi dắt đến xem cột cờ Thủ Ngữ và bến Nhà Rồng mà bạn đã từng nghe nói, lúc ở chiến khu. Hai hiện vật vẫn còn đó vì là biểu tượng của cảng Sài Gòn giữ vài di tích xưa tiêu biểu, gọi là di sản, theo tôi, nên bảo quản một mảng rộng, có sẵn và còn đó, thí dụ như ở vùng đất cao hình chữ nhật, bắt đầu từ đường Cách Mạng Tháng Tám với vườn Tao Đàn, tiếp đến Hội trường Thống Nhất, khu vực trồng cây sao đường Lê Duẩn, Nhà thờ Đức Bà, ăn đến Thảo Cầm Viên phía bờ sông với sạp bán báo, quán giải khát. Không giữ được di dản của thế hệ trước, ta sẽ mang chứng bệnh “bức xúc” (stress) mà căn do không phải vì buồn phiền chuyện riêng tư về tình ái, thất bại dịch vụ mua bán nhà đất mà vì lý do sâu thẳm hơn, tận trong tiềm thức, trong vô thức. Đó là sự hụt hẫng về lịch sử, đôi chân sẽ không đứng vững trên mặt đất vì chẳng hiểu rằng Tổ quốc là sự gắn bó liên tục qua những ký ức tập thể, buồn vui. Một nhà văn của nước Daguestan có diện tích nhỏ, trong Liên bang Nga, ven bờ biển Caspienne đã viết: “Nếu anh bắn vào quá khứ với súng lục thì tương lai sẽ bắn trả lại anh bằng súng đại bác”.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:24:51 GMT 9
Đi rong ở Quảng Nam Sơn Nam
Tôi được may mắn đi Quảng Nam với anh bạn Nguyễn Bá Ngọc, dạo chơi suốt bốn ngày ròng, trưa không nghỉ, lòng bồi hồi cảm động. Từ trước đến giờ, chỉ ghé Đà Nẵng một đêm, ghé đèo Hải Vân một buổi, còn kỳ dư là hiểu Quảng Nam qua sách vở và qua các bạn từ Quảng Nam vào Sài Gòn làm ăn.
Ấn tượng đầu tiên: Ở những con đường lớn, các bảng hiệu đều rực rỡ, nét chữ rất chân phương, ngay thẳng, cổ điển, không có kiểu chữ nghiêng ngửa hoặc những dấu sắc mà nằm ngang như ở Sài Gòn, lại không thấy chữ Anh, chữ Hán kèm theo. Trong quán ăn bình dân, nói chuyện lắm khi ồn ào, quả là: “Quảng Nam hay cãi” nhưng không nghe chửi thề. Một tỉnh cổ kính, sực nhớ nếu Sài Gòn đã 300 năm thì Quảng Nam đã có 500 năm. Đời Lê Thánh Tông, “Xứ Quảng Nam” về hành chính bao trùm luôn cả vùng Bình Định, lần hồi phát triển với tơ tằm, quế, lúa gạo, thêm mỏ vàng, mỏ than đá... Ruộng đồng xanh tươi, canh tác kỹ lưỡng từng mảng nhỏ. Xe chạy ngang vài con sông khá to, vàm sông Thu Bồn. Lạ thật, sông to nhưng bãi cát quá dài, mùa lụt và bão lớn thì nước đổ xuống tràn bờ. Gần như không có chiếc ghe, chiếc thuyền nào, cũng không thấy ai chài lưới. Không có cá, hoặc nếu có thì rất ít. Và tuyệt nhiên không thấy chiếc tắc ráng, cái máy đuôi tôm nào cả.
Đi thăm mộ Hoàng Diệu. Nếu ở Nam bộ, đồng bào gọi là lăng. Công lao của Hoàng Diệu đối với đất nước còn hơn mấy ông vua cùng thời. Phần mộ khiêm tốn quá, giữa cánh đồng lúa, vắng vẻ, xa xóm làng. Ông đã thắt cổ tự tử, khi đánh Pháp, chống giữ thành Hà Nội lần thứ nhì. Đang trực chiến với giặc quá mạnh thì bọn nội ứng đã cho nổ kho thuốc súng trong thành. Bấy giờ, cấp bậc của ông là Tổng đốc, cai quản hai tỉnh; ông tự tử trong khi bà vợ đang nhổ cỏ ruộng lúa, như một nông dân lam lũ. Bà mẹ ông rất trong sạch. Lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gởi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.
Lại đi viếng mộ Trần Quý Cáp, nhà khoa bảng bị thực dân qui tội lãnh đạo chống sưu cao thuế nặng hồi phong trào Duy Tân. Bị bắt ở Nha Trang, xử tử lập tức, không cần ra tòa án. Chúng chém ngang lưng ông để làm tăng sự đau đớn. Phần mộ của ông được cải táng, đưa từ Nha Trang về quê. Mộ khang trang, chung quanh là phần mộ của dân làng.
Lại viếng mộ Phạm Phú Thứ, từng giữ chức Phó sứ trong phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông. Ông Phạm ghi lại chuyến đi, khi trở về đưa ra đề nghị cải cách nước nhà, công nghiệp hóa nhưng ai đã chịu nghe! Rất tiếc hai ngôi mộ nói trên hẻo lánh quá, phải chi ở gần lộ xe thì đồng bào, học sinh, thanh niên tiện tham quan để nung nấu truyền thống của cha ông.
Các giáo viên Trường Phổ thông cấp 2 Điện Bàn có nhã ý mời tôi đến nói chuyện thân mật, với sự giới thiệu của nhà văn Nguyễn Văn Xuân. Anh Xuân lớn hơn tôi năm, bảy tuổi, lớn xác, còn mạnh khỏe, tha thiết với truyền thống quê nhà. Học sinh và giáo viên rất vui vẻ, nghiêm túc. Ngoài này, nói chung thanh niên rất hiếu học, các thầy cô yêu nghề. Muốn gì cũng phải trang bị bằng trung học, tú tài cho xong rồi hãy vào Sài Gòn.
Hôm sau, viếng phố cổ Hội An, ghé Chùa Cầu, nơi còn tấm biển với nét bút của chúa Nguyễn Phúc Chu, đạo hiệu Thiên Túng Đạo nhân, người đã sai phái Nguyễn Hữu Cảnh vào Đồng Nai — Gia Định.
Phố cổ Hội An được những người khó tính nhất yêu thích, vì tự bản thân nó có thực chất, xưa kia sầm uất, các thương gia nước ngoài mô tả là náo nhiệt, nhiều mặt hàng bán ra và mua vào, còn ngày nay đáng gọi là khu du lịch lý tưởng, mát mẻ, sạch sẽ, có ngăn nắp, lại gần kề biển Đông. Đường sá nhỏ bé vì thời xưa chỉ cưỡi ngựa và xe ngựa.
So với các chùa người Hoa ở Chợ Lớn thì chùa ở Hội An rất sạch sẽ, thoáng mát, bảo quản kỹ lưỡng và khung cảnh trầm lặng. Và có trầm lặng thì mới gợi được mùi đạo. Bên cửa một ngôi chùa, tôi giật mình, bắt gặp nét bút của tay viết chữ Hán lừng danh, hiện đại: “Đinh thiên lập địa. Kế vãng khai lai”. Người viết là Vu Hữu Nhậm, “đầu đội trời chân đạp đất để kế thừa quá khứ, khai sáng ra tương lai”. Vu Hữu Nhậm còn để lại vài chữ thần, ở Chợ Lớn. Nghe đâu trên nóc đình Minh Hương Gia Thạnh ở Chợ Lớn còn mấy nét chữ thần của ông. Từ xưa, viết chữ Hán phải “ngang bằng sổ thẳng” nét mịn, nét mũi mác; Vu Hữu Nhậm đã hiện đại hóa, tạo ra kiểu chữ với nét suôn sẻ, như viết với bút bi hoặc bút lông kim.
Ghé viếng nhà thờ họ Nguyễn Tường. Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh) của Tự Lực Văn Đoàn, là người gốc Hội An, sau đó lập sự nghiệp ở đất Bắc. Du khách đến Hội An gồm khá đông người nước ngoài, mọi người đều hài lòng, suy nghĩ ngạc nhiên không bát nháo. Các chủ nhà xưa rất hiếu khách, xinh đẹp, nhã nhặn như người ở Sài Gòn. Gió mát rượi, từ biển Đông thổi vào. Thức ăn không đắt. Hội An phải chăng là một kiểu thành phố sông nước và biển, kiểu Venise bên Ý.
Đoán được nguyện vọng của tôi, bạn bè bố trí một chuyến tham quan di tích Mỹ Sơn. Đường không xa, về phía núi non, gần dãy Trường Sơn, cao ráo. Tôi chợt hiểu ngoài này là “văn minh đường bộ” với xe cộ, gồng gánh là phương tiện chính. Đường về di tích Mỹ Sơn khá tốt, nhân viên của ngành du lịch làm việc chu đáo. Nhiều khách nước ngoài chịu khó đến tận đây, với thái độ nghiêm túc. Ở Mỹ Sơn không có gì để “chơi”, chỉ là học hỏi, tìm về cội nguồn của Đông Nam Á.
Thoạt nhìn những di chỉ xưa có thể người tham quan hơi thất vọng vì quy mô còn lại quá bé nhỏ, nếu so sánh với điện Ăngco. Kiến trúc bằng gạch, đen sẫm vì mưa nắng, nhưng xưa hơn Huế đâu cũng mười thế kỷ. Vẫn là phong thủy, với núi, với sông, như một thế giới riêng; mỗi người là một thế giới nhỏ, cả nước là thế giới lớn. Vẫn là tác động giữa âm-dương, sông-núi, nước-lửa, đàn ông và đàn bà. Ngọn tháp cao nhất bị máy bay Mỹ làm gẫy đổ. Đây là thánh địa. Người Chăm thời hưng thịnh đã gây chiến tận nước Cao Miên, và Huyền Trân Công chúa đã vào đây làm Hoàng hậu, với khúc hát Nam ai. Đế của tháp tượng trưng cho thế giới trần tục, cao hơn đế là thế giới thần linh, cao hơn là thế giới tâm linh. Ra đây mới thấy cụ thể nhiều cách nói, cách phát âm rằng “của Nam kỳ” nhưng kỳ thật bắt nguồn từ Quảng Nam, như sơn (thay vì san), đồng thanh (đồng thinh), trào vua (triều vua), dõng khí (dũng khí)... Rau mò-om, khi nấu canh chua làm gia vị, gọi rau ngổ điếc, lá ngò gai thì gọi ngò Tây. Bánh tét cũng xuất phát từ ngoài này. Điệu nói thơ Lục Vân Tiên phía đồng bằng sông Cửu Long quả là kiểu hò Bài Chòi Quảng Nam, Bình Thuận. Thời mở nước, người Việt đến đây với dân số ít, bên cạnh người Chăm đông đảo hơn. Vì vậy chịu ảnh hưởng Chăm như thờ Bà (nữ thần Bà-la-môn), ngồi ăn cơm trên đất, thích ăn mắm cái, tức là mắm cá biển còn nguyên cái, nguyên xác. Có thứ bánh cuốn khá ngon, bên trong là thịt heo nạc, kế đó là rau, rồi bánh ướt khá dày đến lớp bánh tráng bên ngoài.
Còn nhiều chuyện đáng ghi nhớ. Nhất là tục cúng vong, nhằm cúng người Chăm khuất mặt và lễ cúng Đất mà ở trong Nam những gia đình xưa còn noi theo, gọi cúng Việc lề, hiểu là cúng ông bà quá cố từ ngoài Trung.
Cám ơn tất cả bạn bè ngoài Đà Nẵng, Quảng Nam. Mới gặp nhau lần đầu mà đã thân thương, như anh em ruột thịt.
Anh em vào Sài Gòn, làm sao tôi tiếp đón được như vậy để báo đáp tình đồng bào, tình văn chương!
|
|