|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:03:56 GMT 9
Kinh tế đi trước, chính trị theo đuôi, lý thuyết tắt giọng
Phan Huy Đường elysee.blog.lemonde.fr/2011/08/08/comment-sarkozy-merkel-et-berlusconi-ont-donne-des-gages-a-la-bce/Chủ nhật 7-08-2011, anh hùng hảo hán cai quản kinh tế và chính trị quốc gia của Châu Âu, Mỹ và Nhật đã hội họp túi bụi, căng thẳng, lo âu, để tìm cách ngăn cản một khủng hoảng tài chính mới bùng nổ vì "các thị trường tài chính" mất tín niệm đối với quyền lực chính trị của các quốc gia Tây Âu.
Bộ mặt mới nhất của phương thức sản xuất (mode de production, khái niệm theo định nghĩa của Marx), hình thành chưa tới 20 năm nay.
Kinh tế đi trước, chính trị theo đuôi dưới hình thái ý thức hệ (chính trị, luật pháp, văn hoá thống trị, e tutti quanti). Một khi quyền lực kinh tế tư bản đã toàn cầu hoá, nghĩa là đã có khả năng chi phối đời sống kinh tế ở mức toàn cầu, quyền lực chính trị quốc gia ắt bất lực. Hoàn cảnh ấy thôi thúc sự hình thành một quyền lực chính trị tương ứng cũng có tính chất toàn cầu. Trong quá khứ, mỗi cuộc khủng hoảng lớn, có ít nhiều tính toàn cầu, của nền kinh tế tư bản đã khai sinh ra một hình thái quyền lực chính trị loại ấy : Société des Nations, ONU, những G7, G8, G20, e tutti quanti.Chuyện phải đến sẽ đến. Nó sẽ đến dưới hình thái nào ? Trời cũng không đoán được. Xuyên qua những cuộc khủng hoảng cụ thể nào, với nhịp độ nào ? Chắc chắn không còn theo chu kỳ 10 năm, 5 năm như những cuộc khủng hoảng trước kia. Vì, dưới hình thái tài chính, sự vận động của tư bản không lệ thuộc cơ sở vật chất của sản xuất còn được gọi là kinh tế thực (économie réelle), nó có thể chớp mắt chuyển hướng. Quyền lực chính trị hiện nay cơ bản vẫn phân tán dưới hình thái quốc gia, đương nhiên ì ạch đi sau. Tuy vậy, cứ coi tốc độ hình thành những G7, G8, G20 hay những hội nghị khẩn cấp như cuộc họp trên… thì thấy. Nó sẽ có nội dung nào ? Cơ bản là phục vụ đòi hỏi của những thị trường tài chính. Cứ coi cách xử lý hai cuộc khủng hoảng tài chính gần nhất thì thấy. Thủ lĩnh chính trị của các nước tư bản hùng cường nhất của Tây Âu họp nhau bàn tán không có mục đích nào khác ngoài : tìm lại sự tin cậy của các thị trường tài chính và giải pháp duy nhất của họ là : trực tiếp hay gián tiếp bào mòn mức sống ăn ngon mặc đẹp, có tri thức, sức khỏe và văn hoá của bàn dân để… trả nợ cho các thị trường tài chính, hòng tiếp tục… vay nợ. Điều ấy được gọi là đường lối kinh tế nghiêm khắc hay khắc nghiệt hay cả hai (politique de rigueur). Văn chương hết xảy ! Vì sao họ chỉ có khả năng ấy thôi ? Vì, chưa kể tới quyền lợi cá nhân, tả hay hữu, trong lĩnh vực này, khả năng tư duy của họ đã lệ thuộc hoàn toàn ý thức hệ thống trị : họ đã được đào tạo trong cùng một lò. Chuyện sau đâu có tình cờ : tại Pháp, 30 mươi năm qua, chính trị gia tả và hữu thay nhau nắm chính quyền đều cơ bản tiến hành cùng một đường lối kinh tế ! Có lúc anh tả còn hữu hơn cả anh hữu : chính Mitterrand là người đã dám cắt sự gắn bó giữa tăng lương và phá giá ; chính DSK, trong chính phủ Jospin, là người đã chìếm giải vô địch trong lĩnh vực tư hữu hoá những hãng quốc doanh rất… có lời, cho phép tiền lời chui vào túi tư nhân và giá cả sản phẩm tăng vèo vèo đúng theo "quy luật" Cung-Cầu của nàng tiên kinh tế thị trường tư bản. Đối với bàn dân, họ hứa hẹn : sẽ có chính sách tăng trưởng kinh tế để giải quyết khủng hoảng xã hội. Một lời hứa hão, tôi đã bàn trong bài Một cuộc tranh luận hão (oép Diễn Đàn - Forum và amvc). Ai không thích mau quên có thể nhớ : từ sau chiến tranh thế gìới 2, kinh tế của các nước tư bản Tây Âu không ngừng tăng trưởng để… dẫn tới tình trạng ngày nay ! Vì sao khả năng hành động của thủ lĩnh chính trị – kinh tế đầu đàn của các quốc gia Tây Âu chỉ có thế thôi ? Vì một trăm thứ lý do chỉ có thể hiểu nổi bằng chủ nghĩa phức tạp (complexité) mà chẳng mấy ai biết là cái quái gì, hè hè… Thôi đành đơn giản hoá vậy. Chí ít có 5 lý do : 1/ Sự cấu kết hữu cơ giữa anh tư bản và tầng lớp chính khách tại các nước tư bản. (Marx kinh viện). 2/ Sự cấu kết hữu cơ giữa anh tư bản và tầng lớp cán bộ quản lý cấp cao (hiện tượng mới so với thời Marx). 3/ Sự thống trị của ý thức hệ tư bản trên hệ thống giáo dục trong lĩnh vực kinh tế học. Hầu như tuyệt đối, Nobel or not. 4/ Sự thống trị trên nguồn thông tin kinh tế. 5/ Sự thống trị trên media. Ai nắm cùng lúc 5 quyền lực này ? Anh tư bản tài chính. Thế cũng tạm đủ để trói chặt mọi người. Chế độ toàn trị hoàn hảo (vừa khách quan vừa chủ quan đối với mọi người) có thể sẽ là con đẻ của chủ nghĩa tư bản dưới ngọn cờ dân chủ tư sản (one man one vote) và những giá trị Tự do – Bình đẳng – Nhân ái, kiểu Marx bình luận trong Tư Bản Luận. Đặc biệt nhức đầu : như Marx nói, tư bản tự nó là một sản phẩm xã hội (produit social) trong nghĩa : do lao động của một tập thể lớn người tạo ra và khiến nó tiếp tục vận động. Nhưng anh tư bản tài chính lại có nhiều hình thái cụ thể khác nhau. Tạm kê : 1/ Tư bản tư nhân đích thực, có mặt có tên : các vị tỷ phú tứ xứ. 2/ Tư bản có tên nhưng không có mặt : các vốn "chủ quyền" (fonds souverains) như kho tiền của Trung Quốc chẳng hạn. 3/ Hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu anh tư bản tí hon, vô danh vô diện, vô quyền : những anh lao động hộc bơ hàng ngày để kiếm cơm bữa nhưng đã được hãng mình phục vụ "tặng" cho ít cổ phiếu thay tiền lương, những anh vẫn còn khả năng mua tí ti cổ phiếu để thu hoạch cổ tức hay tham gia cuộc zui đánh bạc trên thị trường cổ phiếu, những người đã trao tiền dành dụm một đời lao động cho các hãng quản lý lương hưu trí để đảm bảo tương lai về già của mình. E tutti quanti. Thôi thì gom hết vào một khái niệm "tự nhiên" dường như ai cũng hiểu được cho đỡ phải suy nghĩ : các thị trường tài chính. Chán thật. Đòi hỏi của các thị trường tài chính… vô tận, vì lôgích vận động của nó chỉ có lượng thôi, kể cả những lượng tiền ảo không hiện thực dù chỉ là dưới dạng một mẩu giấy xanh xanh, chỉ có trong sổ sách thôi. Nhưng sức chịu đựng của con người có hạn vì, ngoài những giá trị văn hoá, nó có chất, dù chất ấy thu hẹp vào chất sống ở mức thấp nhất1. Không chịu đựng được nữa, nó sẽ nổi loạn. Cứ coi những cuộc biểu tình vừa qua tại các nước Âu Châu và Israël thì thấy. Nổi loạn thôi. Không là cách mạng, quá trình thay thế một cơ chế chính trị bằng một cơ chế chính trị khác để khai sinh một quá trình phát triển kinh tế phục vụ bàn dân lao động, một phương thức sản xuất mới. Điều ấy hiện nay là một giấc mơ mù mờ. Tuy vậy, tôi mong rằng vẫn còn nhiều người tìm hiểu kinh tế học tiếp tục mơ. Chí it cũng lâu lâu được nghe một tiếng chuông bớt nhàm chán trong lĩnh vực này. Lắm lúc nhà kinh tế học cũng nên quên "khoa học" khá đặc biệt của mình, nổi hứng làm thơ. Có thể không hay lắm nhưng chẳng chết ai đâu. May thay, trong mỗi người Việt đều có một nhà thơ… Lại một tay ăn không ngồi rồi, chẳng có kiến thức, giải pháp nào, chỉ chửi cho sướng miệng ? Cũng có thể. Nhưng ý thức rằng mình chưa có khả năng hiểu nên bất lực còn hơn là xả thân vào những niềm tin vu vơ xuyên qua những khái niệm mù mờ. Đành vậy ? Cũng có thể. Nhưng biết đâu ý thức trên sẽ mở đường cho một lối tiếp cận và suy luận khác. P.H.Đ 2011-08-08 1 Khái niệm riêng. Coi Tư Duy Tự Do, amvc.free.fr
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:14:49 GMT 9
THẮNG hay BẠI ? ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhìn từ hiện tại và tương lai Việt Nam «Nếu chúng ta cũng ngậm miệng, thì ai sẽ nói thay?» (Arthur Schopenhauer) _______________
Bàn về ngày 30-4-1975 có thể là đầu mối của nhiều ngộ nhận. Thứ nhất, ngộ nhận «nói về quá khứ»; thưa không, vấn đề tôi nêu lên ở đây chủ yếu được nhìn từ hiện tại và tương lai Việt Nam. Thứ hai, ngộ nhận «tranh cãi về bản chất cuộc chiến tranh» vừa qua; thưa không, ở đây tôi muốn đặt một vấn đề khác, nếu có liên hệ đến cuộc chiến ấy, tự nó vẫn luôn luôn là một đề tài riêng biệt. Thứ ba, ngộ nhận «tiếp tục khơi dậy hận thù»; thưa không, niềm xác tín của tôi ở đây là chỉ có sự hoà giải và hợp tác trong / ngoài nước, trong / ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam, mới có tiềm năng đưa đất nước ra khỏi hiểm hoạ. Vì thế, tôi thấy cần thiết phải thêm vào bản đã đăng trên Hợp Lưu số 82, ngoài một số thay đổi câu chữ, đôi giòng minh định này. Trên thực tế, bài đã đăng ở Hợp Lưu chưa gây ra ngộ nhận nào thuộc loại trên cho đến nay. Song bất hạnh thay, tôi lại là nạn nhân của một sự xuyên tạc và thoá mạ không ngây thơ. Tôi được đọc, dưới ngòi bút của ông Thường Đức trên Giao Điểm những điều rất kỳ quặc. «Hay là Phạm Trọng Luật trách cứ chế độ đã đi theo «kinh tế thị trường» nhưng lại không cho đa nguyên đa đảng để Phạm Trọng Luật về tham gia cầm quyền như Nguyễn Gia Kiểng đã đòi hỏi, nên họ đã «thất bại trong tư thế cầm quyền»? Thưa ông Thường Đức, khi bàn về chuyện thành bại của Đảng Cộng Sản Việt Nam, ở đây hay trong bất kỳ một văn bản nào khác, tôi luôn luôn xác định lý lẽ của sự thành công hay thất bại ấy, qua việc đối chiếu những thành tựu đã thu hoạch được của Đảng với các mục tiêu chính trị mà nó đề xướng, chứ không bao giờ qua loại đối tượng nằm trong chương trình hoặc cương lĩnh của phía đối lập! Còn sau đó Bộ Chính Trị Đảng có bị bắt buộc phải áp dụng hay không, và đến chừng mức nào, các chủ trương hay chính sách của địch thủ, điều ấy chỉ là những biểu hiện về mức độ của sự thất bại. Mời ông đọc lại cả đoạn 4 trong bài, nếu ông muốn tranh luận đứng đắn. Ông xào xáo tứ tung: chụp mũ Nguyễn Gia Kiểng lên đầu Phạm Trọng Luật, rồi gán cho tôi ý đồ tham chính; lẫn lộn biểu hiện với nguyên do, rồi chê tôi «lẩn thẩn», «ấm ớ hội tề». Ông rộng lượng quá đáng: có lẽ chỉ nên dành từ «tẩu hỏa nhập ma» cho những aiđọc Tuyên Ngôn của Ðảng Cộng Sản mà cứ đinh ninh đấy là Kinh Bát Nhã mới xác đáng. Và ông thừa biết rằng tôi đâu đã giác ngộ cách mạng đến trình độ ấy, thưa ông! _________________ 1
«Chiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác». Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận, miễn là thắng trận cuối cùng, bởi vì chỉ có nó mới mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ. Nói cách khác, nếu tột đỉnh của quân sự thực chất là chính trị, thì bên tham chiến nào đạt được mục tiêu chính trị - đối tượng của cuộc tranh chiến -, bên đó chính là kẻ thắng trận. Lịch sử đầy các địa danh mang tên loại chiến thắng quân sự ấy. Nhưng lịch sử cũng không thiếu những trường hợp đầu voi đuôi chuột, khi sự chiếm hữu chính quyền chỉ tạo ra nổi một trật tự công cộng đặt trên thứ kết quả trái ngược, về thực chất đúng là những «phản giá trị» hoàn toàn so với lý tưởng được viện dẫn để biện minh cho chiến tranh. Nghĩa là khi thắng lợi quân sự không được tiếp nối bằng loại thành tựu chính trị phù hợp với nguyện vọng ban đầu, mà đôi khi bằng một sự phá sản toàn diện còn sâu đau hơn thất bại trên trận địa bội phần. Ở đây, để không ai sớm động lòng, ta có thể nhìn vào cổ sử phương Tây xa xôi để tìm hiểu trường hợp có lẽ là nghịch lý nhất của nhân loại. Thừa hưởng một quá khứ tương tranh triền miên, các thành quốc cổ Hy Lạp thường chỉ tập hợp nổi khá muộn màng trong một thứ liên minh phòng ngự trước tham vọng thôn tính của ngoại bang. Liên minh cuối cùng gọi là Liên Minh Achée [Ligue Achéenne], hình thành vào năm 181 trước Tây lịch, đặt thủ đô tại Corinthe [Korinthos], nhằm chống lại đế quốc La Mã. Ba mươi lăm năm sau, Viện Nguyên Lão [Sénat] Roma gửi một đoàn quân và một đội chiến thuyền đổ vào Bucopétra thuộc thành quốc Corinthe, dưới sự thống lĩnh của hai tướng Mummius và Metellus. Không thiện chiến bằng kẻ xâm lược, quân liên minh ra cự địch bị tiêu diệt gọn trong trận Leucopetra (năm 146 trước Tây lịch): Mummius ra lệnh san bằng Corinthe, chỉ chừa lại thành trên [acropole] và một số đền thờ. Vô số kho tàng văn hoá bị thiêu hủy hay chở về Roma. Hy Lạp từ đây trở thành tỉnh Achaïe [Akhaïa] của La Mã, cho đến khi đế quốc này cũng suy tàn rồi tiêu vong (khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch). Ở đây, đâu là phán quyết của lịch sử? Leucopetra không phải chỉ là một trận thắng mà chính là chiến thắng cuối cùng, bởi vì sau đó quyền quyết định số phận người dân Hy Lạp không còn nằm ở Corinthe hay một mảnh đất Hy Lạp nào khác, mà trong tay Viện Nguyên Lão Roma. Nó cho phép ta kết luận với Clausewitz: có chiến thắng quân sự khi sự kết thúc chiến tranh dẫn đến một thay đổi chính trị, cụ thể về quyền quyết định tổ chức quốc gia hay thành quốc. Nhưng đây chỉ mới là nửa đầu của câu chuyện thắng bại giữa Hy Lạp và La Mã – cái nửa sự thực của cường lực vật chất. Đây là nửa sau – cái nửa của sức mạnh tinh thần. Mummius ở lại làm Thái Thú [Proconsul] trên vùng đất ông đã chinh phục. Nhưng người La Mã, dù ở thuộc địa hay chính quốc, dần dần bị thu hút bởi văn minh Hy Lạp. Đến «thế kỷ của Auguste» [1] bao văn hoá phẩm và nếp sống Hy Lạp đã hiển hiện bàng bạc trong đời sống hàng ngày của đế quốc, và Hy Lạp trở thành bậc thầy của La Mã trong hầu hết mọi lãnh vực nhân văn. Đến nỗi thi hào đương thời Horace [2], mà ngay bản thân cũng là đệ tử của nhà hiền triết Hy Lạp Epicure [Epikouros], khi suy ngẫm về quan hệ giữa đôi bên, đã để lại câu chơi chữ bất hủ: rốt cuộc, «Hy Lạp bại trận đã chiến thắng kẻ thắng trận hung tợn!» [bản dịch Pháp ngữ: «La Grèce vaincue vainquit son farouche vainqueur!»]. Hiện thực này cho phép ta thắc mắc: thế nào là một chiến thắng chính trị? Phải chăng, ở đây, thắng lợi quân sự chỉ chuyển hoá thành chiến thắng thật sự, khi sự thay đổi chính trị (sự chiếm hữu quyền quyết định tổ chức quốc gia hay thành quốc) là tiền đề cho việc phổ biến những giá trị văn hoá của kẻ đã giành được thắng lợi cuối cùng trên trận địa? Tất nhiên, Hy Lạp là một ngoại lệ hãn hữu. Không phải kẻ thất trận nào cũng cao hơn bên chiến thắng về mặt văn hoá. Nhưng cũng hiển nhiên, không phải giá trị văn hoá nào của kẻ thắng trận cũng đáng được phổ biến. Nói cho cùng, làm sao Roma có thể La Mã hoá Hy Lạp, khi trong lãnh vực thể dục và tiêu khiển chẳng hạn, phe thắng chỉ đẻ ra nổi trò giác đấu mọi rợ, so với những cuộc thi điền kinh đậm nét nhân văn của bên thua? Cả đấu trường lẫn tượng đền Colisée [Colosseum] [3] hoành tráng xưa, nay chỉ còn trơ trẽn đấy như một tàn dư hầu nhắc nhở du khách về cái thú tính luôn luôn còn tiềm năng bật dậy từ thâm sâu con người, trong khi ngọn đuốc thiêng từ Olympia, cứ bốn năm một lần lại chạy vòng quanh trái đất để vinh danh một lý tưởng cao quý của cả nhân loại… Tất nhiên, quan hệ Hy - La chỉ là một trường hợp giới hạn - một thứ mẫu lý tưởng -, nhưng đấy lại chính là thứ điển mẫu để từ đó đánh giá lại mọi tiếng gáy chiến thắng. Đấy là lý do duy nhất khiến tôi đề cập đến trường hợp xa xưa trên trong bài mạn đàm này. Nói cách khác, chiến thắng hay chiến bại, nói cho cùng, là một vấn đề chính trị - hơn thế nữa, một vấn đề chính trị cấp cao là giá trị văn hoá. Bởi vì không ai hy sinh xương máu giành chánh quyền để chẳng làm gì, chẳng thực hiện gì cả, hãy chỉ cho chúng tôi xem cái nền tảng giá trị mới trên đó anh muốn xây dựng lại trật tự quốc gia của anh, cùng những thành tựu đã hoạch đắc, chúng tôi sẽ nói, rốt cuộc, anh là người chiến thắng hay kẻ chiến bại. Đấy là thách thức phổ quát cho bất kỳ một cuộc chinh phục nào đã kết thúc bằng thắng lợi quân sự, chứ không riêng gì cho cuộc chiến tranh nửa giải phóng, nửa nội chiến ở Việt Nam. 2
Từ quan điểm ấy, thử nhìn lại ngày 30 tháng 4 năm 1975 của lịch sử đất nước. Đây là một chiến thắng quân sự không thể chối cãi (mà cũng chẳng ai muốn chối cãi!), bởi vì rõ ràng là nó mở ra một trật tự chính trị mới. Kẻ thắng trận từ đây có thể vất bỏ mặt nạ. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Đảng Lao Động hiện nguyên hình là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghĩa là từ đây, hệ thống giá trị được sử dụng làm đích nhắm để kiến thiết quốc gia không thể là gì khác hơn ngoài cái lý tưởng «phân phối cho từng người theo nhu cầu» màchỉ «đòi hỏi ở mỗi người theo khả năng» [4] trong tương lai cộng sản xa xôi [5], và cái phương châm «mình vì mọi người, mọi người vì mình» biểu thị «nếp sống văn minh» của thời quá độ, được giả định đương thành hình cụ thể mỗi ngày trong hiện thực. Cái lý tưởng và nếp sống ấy tất nhiên không chỉ liên hệ đến người cộng sản nói riêng, mà tất yếu phải quy định tương lai của cả nước nói chung, bởi vì đối với đảng cầm quyền, chỉ có loại thể chế này mới có khả năng mang lại và bảo đảm «độc lập, tự do, hạnh phúc» cho đất nước và nhân dân. Ngày nay, chúng ta đang ở đâu trên bảng giá trị trên của hai cuộc cách mạng, «cách mạng xã hội chủ nghĩa» và «cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân» ấy? Trả lời không nhân nhượng câu hỏi đó là dám nhìn thẳng vào cái ngày mai không mấy sáng sủa đang chờ đợi đất nước chúng ta. 3
Tôi không viết bài này để so sánh Việt Nam với Hy Lạp: «bốn nghìn năm văn hiến» của ta chỉ là một hòn đất tí hon so với chiếc nôi văn hoá vĩ đại kia của nhân loại! Tôi cũng không viết bài này để hàm chỉ rằng Việt Nam Cộng Hoà cao hơn Dân Chủ Cộng Hoà về mặt văn hoá, và do đó, mới là kẻ «chiến thắng» thực sự; tất nhiên, tôi không quên chuyện đốt sách ở Saigon và những phát biểu trịch thượng về văn hoá miền Nam trước 1975 - chỉ xin nhường lại mọi chuyện phán xét về cả đôi bên cho mai hậu. Mặt khác, tôi không viết bài này để thương khóc một chế độ độc tài quân phiệt (mặc dù thừa hiểu nó cũng chưa đến nỗi tệ hại cho đất nước và nhân dân như chế độ toàn trị tiếp theo), hoặc để khơi lại những hận thù chưa hẳn đã thuộc về quá khứ; tôi hoàn toàn ý thức rằng cuộc chiến đã cáo chung, rằng giải pháp ít xấu nhất cho Việt Nam ngày nay là hoà giải dân tộc, trong một thể chế dân chủ đa nguyên. Cuối cùng, tôi cũng không viết bài này để kể tội Đảng Cộng Sản Việt Nam: tôi tự biết không đủ thẩm quyền bằng, và do đó, xin nhường lại công việc ấy cho những người đã hy sinh cả tuổi trẻ lẫn xương máu cho Đảng, cùng các thế hệ nạn nhân sau 1975. Đối tượng phê phán duy nhất của tôi ở đây là tập đoàn bảo thủ và đầy tớ của Trung Cộng đang lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam cùng Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay. Và tôi chỉ cố gắng viết bài này, với tất cả sự thành khẩn còn giữ được, dù đôi lúc thật sự cũng mất điềm tĩnh trước nỗi đau nhục quá lớn, để nói với mọi người, trong cũng như ngoài nước, trong cũng như ngoài Đảng, đôi ba điều tôi tin là sự thật. Không phải là những sự thật nhìn «từ quá khứ» hay «của miền Nam», mà từ hiện tại và từ tương lai của cả nước và của các thế hệ sau. Một, thất bại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tư thế đảng cầm quyền, dù muốn hay không, đương nhiên sẽ là thất bại chung cho cả nước. Hai, chúng ta đang trên đường mất nước (như vẫn thường được cảm nhận ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 trước đây), nhưng không chỉ theo nghĩa là mất đi một nhà nước (phong kiến, độc tài hay toàn trị), mà là mất hẳn quê hương tổ quốc, lịch sử văn hoá, sông núi đất đai,… bởi vì chúng ta đã hội đủ mọi điều kiện để trở thành một tỉnh của Trung Hoa: lãnh đạo đồng loã, trí thức nhu nhược, dân trí thấp kém. Ba, chỉ một sự thức tỉnh và vùng dậy của cả nước, trong tinh thần hoà giải và cộng tác trong ngoài, trong truyền thống kháng chiến toàn diện, mới có hy vọng giúp ta thoát hiểm. Ðừng bao giờ quên: Mông Cổ - kẻ từng mang quân sang chinh phục Âu châu - nay chỉ còn là một tỉnh của Trung Hoa. Ðừng bao giờ quên: Tây Tạng đã bị Trung Cộng thôn tính trong sự bó tay bất động của quốc tế. Ðừng bao giờ quên: nếu lại rơi vào cảnh Bắc thuộc lần nữa, với sự chênh lệch một trời một vực về mọi mặt (quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá) như hiện nay, chúng ta khó lòng tránh nổi cái họa bị kẻ thù truyền kiếp Hán hoá vĩnh viễn. Và nhất là đừng bao giờ quên: đấy luôn luôn là giấc mơ không giấu giếm của «nước bạn», của «đảng anh em» Trung Quốc. Ở đây, «lịch sử thế giới chính là toà án thế giới» («Weltgeschicte ist Weltgerichte»), đúng như Hegel đã phát biểu, không thể có ngoại lệ nào. 4
Nhìn lại, tiếng gáy «đại thắng lợi» của ngày 30 tháng 4 năm 1975 thực chất chỉ là «một canh gà báo trượt rạng đông». Có những mặt nạ người ta tự ý vất đi; có những huyền thoại dù không chủ ý vẫn bị lột trần. Không ít trí thức từng tham gia chống Mỹ, đánh Ngụy, để «cứu nước, giành độc lập» nay bỗng bật ngửa khám phá ra rằng không thể nào có cách mạng, vì thực ra chưa bao giờ có những con người cách mạng đích thực mà họ tưởng tượng, dù ở cấp bậc nào! Trên đỉnh, vất vưởng một dúm lãnh đạo lăm le «giải phóng» tất cả, song lại quên tự giải phóng cái đầu, mắc bệnh syđa (sao y đàn anh) trầm trọng. Khoảng giữa, lẫm liệt một đoàn cán bộ «hồng», một lũ tham quan, nấp dưới lớp sơn «cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư» của Bác Hồ để ăn hối lộ, buôn lậu, làm ăn «phi xã hội chủ nghĩa». Bên dưới, chen chúc hàng trăm ngàn đảng viên nghèo đói, thèm thuồng trước cảnh «phồn vinh giả tạo», từ đây nhất quyết đánh đổi cuộc đời vô sản lấy chút của cải phù du bằng mọi thủ đoạn «mánh mung», «móc nối». «Nếp sống văn minh» của thời quá độ, trong hoàn cảnh cả nước bị vô sản hoá, rốt cuộc, dẫn đến một xã hội lưu manh từ trên xuống dưới: người ta thi nhau ăn cắp của công, lường gạt cướp giật lẫn nhau, phá hoại từng mảng tài nguyên đất nước, bán tống bán tháo hàng loạt gia sản cha ông để lại. Rồi nhìn nhau than thở: «Cha chung không ai khóc!». Trên sỏi đá cằn cỗi của thứ phương châm không tưởng «mình vì mọi người, mọi người vì mình», chẳng có gì nghịch lý khi chỉ mọc lên nổi thứ cây trái phong kiến đắng chát vô cùng hiện thực: «bần cùng sinh đạo tặc». Nếu đấy là những biểu hiện văn hoá (nền tảng giá trị và thành tựu thu hoạch) của chủ nghĩa xã hội, thì ai thắng ai ở đây? Cái Cũ hay cái Mới? Phong Kiến hay Cộng Sản? Tư Sản hay Vô Sản? Mặt khác, hàng loạt chính sách giáo điều quái đản (nào cải tạo, nào đổi tiền, nào lý lịch), cùng với sự bao che băng đảng dưới chiêu bài «hợp tình, hợp lý» của ông Hồ, đào sâu thêm hố thẳm Quốc - Cộng vốn đã hun hút. Khi thiên đường của phe «đại thắng lợi» đồng nghĩa với địa ngục cho bên «đợi thắng lại», tất yếu phải xuất hiện thảm cảnh thuyền nhân, và nỗi lo đảo lộn «phản cách mạng» khi cả khối Liên Xô sụp đổ. Bên ngoài, giương cao ngọn cờ quốc tế tơi tả, lãnh đạo dẫn toàn Đảng sang Thiên Triều Trung Quốc xin chiếc dù bảo hộ, bất kể sự chế nhạo của nhân dân: «Đánh Tây đánh Mỹ bạc đầu, Ngày nay chống gậy qua Tàu ăn xin!». Bên trong, giương cao lá bài độc lập, lãnh đạo bắt cả nước trốn đằng sau một xác chết: Lăng Bác với cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ đội hai cái mũ: nhà Kominterchik và nhà yêu nước. Nhà Kominterchik chưa bao giờ phát biểu chi đáng giá về chủ nghĩa, về lý thuyết Mác Lênin. Nhưng nhà ái quốc, dù với lập trường vô sản, đôi khi cũng để lại vài câu nghe được về chủ quyền dân tộc. Chẳng hạn như lời dạy một đồng chí lãnh tụ mắc bệnh nóng vội (Trần Huy Liệu?) cực kỳ bình dân sau đây, mà ngay cả kẻ vô học cũng phải hiểu được: «Thà ngửi phân Tây thêm vài năm nữa, còn hơn ngửi cứt Tàu suốt đời» (tôi trích dẫn theo trí nhớ). Nghĩa là, so với bất kỳ một hoàn cảnh lệ thuộc nào khác, cái thước đo độc lập của đất nước qua trường kỳ lịch sử (hôm qua, hôm nay, và ngày sau mãi mãi), luôn luôn là và chỉ có thể là sự bảo toàn lãnh thổ, gìn giữ chủ quyền trước tham vọng thôn tính và đồng hoá của Bắc Kinh. Bác ơi, đám cháu ngoan của Bác ngày nay dường như đang phản cả Bác để nắm chặt quyền toàn trị. Ai đi ngang Lăng Bắc, dán giùm dân, đâu đấy cạnh bên, mấy câu thơ nhại từ Ông Phỗng Đá của nhà nho phong kiến Nguyễn Khuyến: «Ông ở làm chi trõng hỡi ông, Bơ vơ cá chậu với chim lồng, Đêm ngày coi sóc cho ai đó, Non nước đầy vơi có biết không?». Bác ơi, nhất nhật tại Lăng, nghìn thu trách nhiệm. Vượt biên đi Bác! Vượt cả tường đá lẫn tường lửa, ra mà xem thế sự xoay vần. Vơi đi sông núi đất đai, đầy hơn bao tủi nhục: bảo hộ nào cũng có cái giá phải trả. Hãy đọc bằng ngôn ngữ sự kiện. Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc nhờ một lá thư dại dột của Phạm Văn Ðồng (chuyện này hẳn Bác Hồ phải biết!). Trường Sa cũng có thể mất toàn bộ vào tay đế quốc đỏ cuối cùng này bất kỳ lúc nào, chẳng cần thêm một văn kiện ngây ngô thứ hai. Ấy thế mà tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục ký tiếp hai hiệp ước sặc mùi triều cống với Trung Cộng, cả về biên giới lẫn lãnh hải. Rồi bưng bít, không xong thì dối dân, hoặc phản đối suông trước mỗi «diễn biến hoà bình», với đầy đủ chiến thuyền súng ống, của chủ nghĩa bành trướng! Không dám đưa vấn đề các quần đảo ra trước toà án quốc tế liên hệ - dù với khả năng thắng kiện đáng kể -, không dám công bố nội dung hai hiệp định - dù nhân dân đòi hỏi -, là đích thân hiến dâng lãnh thổ cho ngoại bang, tiếp tục đánh lừa nhân dân một cách hoàn toàn ý thức. Qua hành trạng này, nhóm lãnh đạo bảo thủ Ðảng đã tự xác nhận, không thể nào rõ ràng hơn, như một tập đoàn tay sai, như lớp công chức thuộc địa của đế quốc đỏ Trung Cộng. Bây giờ, thử đọc bằng ngôn ngữ biểu tượng. Khi Vi Quốc Thanh tuyên bố hắn mới chính là kẻ thắng trận Điện Biên Phủ, cả tập đoàn lãnh đạo Ðảng im lặng. Phải chăng, cùng với tên tướng Tàu này, họ đã nhổ vào hương linh bao thanh niên Việt Nam đã hy sinh xương máu cho cuộc chiến tranh kháng Pháp và bao gia đình liệt sĩ? Khi Giang Trạch Dân nghênh ngang sang Hội An tắm biển không cần hộ vệ, hắn muốn tuyên bố gì với thế giới, nếu không phải rằng cái gọi là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kia, kể từ nay, đã trở lại quy chế An Nam Đô Hộ Phủ của Thiên Triều trên thực tế? Giả vờ không hiểu (hoặc có khi không hiểu thực!) ý nghĩa của trò ám chỉ đểu cáng, xấc láo trên, phải chăng tập đoàn lãnh đạo bảo thủ Ðảng đã khạc vào mặt tổ tiên, chối bỏ lịch sử bất khuất của dân tộc mình? Khi chiến thuyền Trung Cộng xâm phạm hải phận, giết hại và bắt giam ngư phủ người Việt, nếu đại diện của nước phạm pháp không bị Bộ Ngoại Giao Việt Nam gọi lên mắng chửi, đòi bồi thường như trong cách hành xử thông thường của bất kỳ một quốc gia có chủ quyền và tự trọng nào, thì cả Bộ Chính Trị, Trung Ương Ðảng lẫn Nhà Nước bên ta đã muối mặt xác nhận với thế giới rằng tên Tề Kiến Quốc kia, thực chất không phải là ông Ðại Sứ, mà chính là quan Thái Thú mới của Thiên Triều trên thủ đô «nghìn năm đô hộ» của mình. Nếu không phải vậy, tại sao người Việt không được phép biểu tình tố cáo việc Trung Cộng giết hại đồng bào ta mới đây, trong khi người Hoa ở Việt Nam lại có quyền biểu tình trước sứ quán Nhật, với công an Việt Nam làm hộ tốt, về những chuyện xảy ra từ mấy mươi năm trước, ngay ở Hà Nội và nhục nhã hơn nữa, đúng 100 ngày sau vụ chiến thuyền Trung Quốc thảm sát ngư dân ta? Phải chăng đấy là lễ cầu siêu mà lãnh đạo Đảng giành cho những lương dân đã chết oan vì chính sách triều cống của mình? Những anh hùng Đàng Ngoài đã vào giải phóng Đàng Trong năm 1975 đâu, còn đợi gì mà chưa về giải phóng thủ đô yêu dấu? Bảo hộ nào cũng có cái tiến trình của nó. Xưa, bao che Bảo Đại, Pháp tìm mọi cách tô son, trét phấn cho ông vua phường tuồng - một cách vuốt ve tự ái dân tộc để dân chúng dễ chấp nhận. Nay, Trung Cộng vừa che chở, lại vừa công khai hạ nhục tập đoàn tay sai lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam anh em. Nghịch lý ngoài mặt này chỉ tố cáo ý đồ nham hiểm bên trong. Càng gục đầu, cúi mặt, càng bị nhân dân khinh oán; càng bị khinh oán, nhóm lãnh đạo bảo thủ Đảng ta càng phải khuất phục nhục nhã Thiên Triều. Hố phân cách giữa lãnh đạo và nhân dân Việt Nam ngày cành khuếch rộng, đào sâu; nhưng dù theo kịch bản nào cũng đều có lợi cho Trung Cộng. Hoặc tập đoàn bảo thủ Đảng tiếp tục thống trị: đủ tham để tự tay triệt hạ khả năng kỹ nghệ hoá và phát triển đất nước qua việc tổ chức buôn lậu đủ loại mặt hàng «Made in China», đủ mạnh và khôn vặt để trấn áp phong trào dân chủ, duy trì ngăn cách trong ngoài, lũng đoạn tôn giáo, v. v… - đương nhiên Trung Quốc sẽ tiếp tục gặm nhấm lãnh thổ và lãnh hải, làm thực dân mới. Hoặc đến một lúc nào đó, bất mãn sẽ nổ bùng thành bạo loạn - dựa trên một thỏa ước chính thức và hợp pháp chắc chắn đã được ký kết ngầm giữa hai bên, lúc ấy Trung Cộng sẽ gửi quân sang cứu nguy Đảng anh em, rồi viện cớ ngăn ngừa một đệ tam nhân tưởng tượng nào đó «thừa nước đục thả câu» để vĩnh viễn ở lại, làm thực dân cũ như ở Tây Tạng. Đấy là cái tương lai tăm tối đang chờ đợi Việt Nam. Không phải phim chính trị giả tưởng đâu, hiện thực Hungari, Tiệp Khắc, Tây Tạng tái diễn đấy! Độc lập là giá trị văn hoá tối cao của bất kỳ một dân tộc nào. Bởi vì mọi kiến trúc thượng tầng đều phải được xây dựng trên cái nền tảng ấy. Do đó, trong suốt thế kỷ qua, chủ quyền dân tộc đã là đối tượng đấu tranh của cả nước - kể cả Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù bằng một con đường lắt léo, nguy hiểm. Nếu bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu xương máu đã mất đi chỉ để đánh đổi lấy một sự lệ thuộc nhục nhã - tiệm tiếm nhưng chắc chắn - vào Trung Quốc như hiện nay, thì ngày 30 tháng 4 năm 1975, bước đầu quyết định của cái tiến trình mất độc lập ấy, là ngày chiến thắng hay chiến bại cho cả nước? 5
Trước khi mất, ông Hồ hứa hẹn sẽ xây dựng lại quê hương tổ quốc đẹp hơn gấp mười. Một nhà thơ còn minh hoạ cái ngày mai tuyệt vời ấy, rồi xuýt xoa kết luận «Ðất nước bao giờ đẹp thế này chăng?». Ngày nay, nếu chưa hoàn toàn đui mù, có lẽ chúng ta nên tự hỏi: «Ðất nước bao giờ nhục thế này chăng?» hoặc «Đất nước bao giờ nguy thế này chăng?». Tôi tin rằng, chỉ với ý thức nhục nhã, ý thức hiểm nguy, song song với ý muốn giải ảo toàn diện khỏi mọi ảnh hưởng tai hại của một thứ chủ nghĩa cứu thế không tưởng, đất nước ta mới có khả năng hồi sinh hầu đương đầu với tình hình bi đát hiện tại. Chính vì bị chủ nghĩa tha hoá mà ta đã nhìn kẻ thù truyền kiếp thành đồng minh quốc tế. Chính vì bị giáo điều tha hoá mà ta đã giết hại anh em ruột thịt như kẻ thù không đợi trời chung. Cái chủ nghĩa trên, dù nay đã bị cả thế giới phế thải, bất hạnh thay, vẫn còn không ít tàn dư trên mảnh đất cha ông để lại. Bởi vì, đâu nhân danh gì khác ngoài cái chiêu bài «bảo vệ thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa» mà hai tập đoàn lãnh đạo Trung Hoa và Việt Nam đã nối lại duyên nợ bất bình đẳng xưa cũ, trong hoàn cảnh thực ra chẳng bên nào còn tin tưởng hay đeo đuổi lý tưởng cộng sản nữa cả: một bên chỉ để bành trướng bá quyền, một bên chỉ để duy trì quyền lực và đủ thứ đặc quyền đặc lợi băng đảng! Trong số những «thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa» nói trên, tất nhiên có cả ngày 30 tháng 4 năm 1975 «hùng vĩ» này! Do đó, xác định lại nó như ngày thất bại vừa chính trị, vừa văn hoá bi thảm nhất của hơn hai nghìn năm lịch sử dân tộc, chính là góp phần giải ảo một huyền thoại cực kỳ nguy hại, thức tỉnh những ai còn chút lương tri để suy nghĩ một cách thực tế và trách nhiệm về tương lai của đất nước. Đây không thể nào là một chiến thắng chính trị, nếu đánh giá qua những thành quả về mọi mặt xuất phát từ đấy. Đối ngoại: đất nước trở lại mô hình Bắc thuộc tưởng đâu đã vĩnh viễn trôi qua, trong khi cả thế giới đang đổi mới về mọi mặt để lao đầu vào một thế kỷ 21 đầy bất trắc. Nội bộ: dưới lớp sơn thống nhất không những chỉ hạn chế vào mặt hành chánh mà còn rách bươm vì nạn sứ quân địa phương, dân tộc bị phân hoá trầm trọng thành bao mảnh đối kháng (Bắc - Nam, trong nước - ngoài nước, trong đảng - ngoài đảng),… trong khi ngay cả những quốc gia cựu thù ở khắp nơi đều đang tìm cách bắt tay nhau, song song với việc xây dựng hệ thống hành chánh nội bộ tối ưu, để gia tăng tiềm lực tự quyết và phát triển. Văn hoá: kẻ cầm quyền đã tự tay tổ chức sự tụt hậu về mọi mặt của quốc gia (giáo dục, y tế, v. v…), phá hủy nền đạo lý cổ truyền thoát thai từ các đạo giáo lớn mà không thay thế nổi bằng bất cứ chủ trương, chính sách nào, cầm cố tương lai bao thế hệ con em bằng đủ thứ biện pháp bưng bít,… trong khi cả thế giới đang nỗ lực củng cố và phát huy đồng thuận dân tộc, xông pha hăm hở tìm kiếm thông tin, kiến thức trên mạng lưới quốc tế… Tất cả, trong bối cảnh cuộc cạnh tranh một còn một mất ngày nay giữa các quốc gia dân tộc ở mức độ toàn cầu! Cám ơn Bác - Đảng. Cám ơn lãnh đạo và chủ nghĩa! Rốt cuộc, gần như cả thế kỷ 20 của Việt Nam ta đã bị phung phí, với bao nhiêu xương máu và tài nguyên, chỉ để làm bia đỡ đạn cho Trung Cộng trở thành cường quốc, để rồi sau đó hắn quay lại lăm le nuốt chửng tổ quốc Việt Nam! Do đó, khi nào tập đoàn lãnh đạo ta còn vênh váo đăng đàn diễn thuyết, và kẻ ăn theo còn hý hửng nhảy nhót reo mừng «ngày khải hoàn» 30 tháng 4, đất nước còn nhục nhã, khốn đốn trong lệ thuộc, phân hoá và tụt hậu. Bởi vì, phải vô tâm đến mức mất cả lương tri, nếu người dân Kampuchea ngày nay còn nhận thức ngày 17 tháng 4 cũng năm ấy như «ngày quốc khánh» của dân tộc họ, khi sự mù quáng và ngu muội của tập đoàn Pol Pot đã đưa cả xứ Chùa Tháp đến họa diệt chủng, và nguy cơ giải thể cả về chính trị lẫn văn hoá trước tham vọng của ngoại bang. Và về ngu mù thì, bất hạnh thay, thật sự chỉ có chút chênh lệch về mức độ, chứ không hề có khác biệt về bản chất giữa hai nhóm lãnh đạo đỏ Khmer và Việt. Vâng, tôi biết... Tôi biết có cái quy luật biện chứng gọi là «lượng chuyển thành phẩm» chứ; nhưng điều tôi muốn nói ở đây là cả hai bộ máy vẫn luôn luôn chia sẻ với nhau cùng một ý chí sắt đá: tiêu diệt sự khác biệt bằng cách hủy hoại con người, chỉ không giống nhau ở chỗ một bên giết ngay, còn bên kia giết lần giết mòn qua hành hạ cải tạo. Một câu cho hỏi cho cả nước trước khi ngừng bút: khởi điểm của mọi tiến trình tự hủy như đã nói ở trên, thực chất ngày 30 tháng 4 năm 1975 này là gì, trong tâm thức mỗi người chúng ta? Ngày «đại thắng lợi vinh quang» cần được vinh danh hàng năm, hay khúc ruột thừa đã mưng mủ của lịch sử cần phải gấp rút cắt bỏ? Tương lai bao thế hệ sau còn tùy thuộc vào giải đáp chân thật của chúng ta cho câu hỏi đau đớn ấy. Phạm Trọng Luật Tháng 4 năm 2005
[1] Caius Julius Caesar Octavianus Augustus. Cháu gọi César là ông cậu, sau được nhận làm con nuôi, tên là Octave, Auguste là danh hiệu (chỉ dành cho thần thánh) do Viện Nguyên Lão Roma trao tặng. Hoàng đế (từ năm 27 trước, đến năm 14 sau Tây lịch), sau khi đã trị vì Roma cùng với Lépide và Antoine trong một tam đầu chế (từ năm 43 đến năm 31 trước Tây lịch). «Thế kỷ Auguste », như vậy, có thể coi như chỉ đại thể khoảng thời gian từ 50 năm truớc đến 50 năm sau lịch Ki Tô. Riêng vềAuguste, đây là một nhân vật cực kỳ giảo hoạt: muốn độc tài như César mà không bị giết như César, ông biết dàn xếp khiến mọi quyết định gia tăng quyền lực trong tay mình đều có vẻ như xuất phát từ ý muốn của Viện Nguyên Lão chứ không phải từ tham vọng cá nhân! Trước khi chết, ông cho vời các nguyên lão đến bên giường, hỏi họ chịu công nhận ông là nhà kịch sĩ đại tài trên sân khấu chính trị chăng; và sau khi được sự gật đầu tán thành của các vị này, ông bảo «Vỗ tay đi chứ, công dân!» [«Plaudite, cives!»], rồi mới nhắm mắt. [2] Quintus Horatius Flaccus (sinh năm thứ 65, mất năm thứ 8 trước Tây lịch).Concủa một kẻ nô lệ được giải phóng, ông đã học ở Roma trước khi qua Athènes học triết và thi ca Hy Lạp. Vào quân đội, làm sĩ quan thống lãnh một quân đoàn cộng hoà, ông tham dự trận Philippes và bị quân của liên minh Antoine – Octave đánh tan. Được ân xá, ông trở về Roma và từ đấy cống hiến tất cả cho thi ca. Sự nghiệp của Horace gồm có nhiều tập thơ (thuộc các loại châm biếm, trữ tình), một số nhận định dưới hình thức thư ngắn (về văn học, triết học và xã hội), cùng một tác phẩm ngày nay được xem là chuyên luận văn học. Mang dấu ấn rõ rệt của văn minh Hy Lạp, thơ văn Horace cũng ca ngợi những giá trị nhân bản phổ quát (tình yêu, tình bạn, thanh bình, tổ quốc), và còn để lại ảnh hưởng lâu dài trên văn học Pháp (Ronsard hay Du Bellay ở thế kỷ 16) cũng như Anh (thế kỷ 18, 19). [3] Được xây trong gần 10 năm, đấu trường vĩ đại nhất của Roma thời cổ đại này (có thể chứa từ 45 đến 50 nghìn người), được gọi là Colosseum, vì bên ngoài và cách đấy không bao xa là pho tượng đồng khổng lồ của bạo chúa Néron (Lucius Domitius Claudius Nero, trị vì từ năm 54 đến năm 68), kẻ đã đốt thành Roma năm 64 để tìm thi hứng và xây lại cổ thành theo ý muốn. Sau cuộc hỏa hoạn suốt 6 ngày, Néron cho xây lại lâu đài mới của ông ta, từ nay gọi là Domus Aurea (Nhà Vàng), với pho tượng trên (Colossus Neronis, cao hơn 30 thước, tác phẩm của nhà điêu khắc Hy Lạp Zênodôros). Sau khi Néron tự sát, Domus Aurea gây nhiều bối rối cho các hoàng đế kế nghiệp, nên cũng bị tháo gỡ dần để nhường chỗ cho các kiến trúc khác, trong đó có đấu trường này, do Vespasien (Titus Flavius Vespasianus, trị vì từ năm 69 đến năm 79) khởi xây vào năm 72, và được Domitien (Titus Flavius Domitianus, trị vì từ năm 81 đến năm 96) khánh thành vào năm 80, bằng 100 ngày vui chơi liên tục. Pho tượng Neron khổng lồ cũng thay mặt đổi tên thành tượng Hélios (Mặt Trời), thần hộ mạng của Roma: các tín đồ Ki Tô giáo thường bị bắt đến quỳ dưới chân tượng để tuyên thệ trung thành với đế quốc. Sau nhiều trận động đất (năm 445, 1231, 1255), toàn khu vực bị hủy hoại nặng nề. Bị chôn lấp dưới những công trình khác, Domus Aurea chỉ được khai quật lại phần nào từ thời Phục Hưng, và sau nhiều đợt phục hồi, mở cửa tiếp du khách vào năm 1999. Riêng đấu trường tanh máu Colosseum (thời vàng son, người ta phải phủ các khán đài bằng một loại hương đặc biệt để che lấp mùi xác chết và mùi dã thú), nhờ được các Giáo Hoàng Ki Tô chủ ý lưu giữ để tưởng niệm bao tín đồ tử vì đạo, cũng bớt bị gỡ phá kể từ thế kỷ 18. [4] Nguyên văn: «from each according to his ability, to each according to his needs = de chacun selon ses capacités, à chacun selon ses besoins». Dịch câu trên là «phân phối theo nhu cầu» và «đòi hỏi theo khả năng» là sát nguyên bản, dù có đảo ngược hai vế. Nó chỉ tối nghĩa đối với kẻ tối dạ. Bởi vì chủ từ ẩn của câu văn trên là xã hội; và ở đây, đòi hỏi chỉ đòi hỏi đóng góp, phân phối chỉ phân phối phẩm vật. Dịch là «làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu», tất nhiên không sai, song cũng không sát - bởi vì đấy là cách diễn giảng của cán bộ cộng sản về sau cho nông dân. Mặt khác, nó hoàn toàn che lấp nguồn gốc thực sự của câu văn. [5] Bởi vì thật ra, cái nguyên tắc - đặc biệt là vế thứ nhất - vẫn được xem là nền tảng đạo lý của xã hội cộng sản ngày mai này đã được Karl Marx trưng dụng từ lối sống tập thể của những người đầu tiên theo đạo Chúa của ông Jésus, qua trung gian của một tác giả khuynh hướng xã hội Pháp (Louis Blanc, Organisation du Travail, Paris, Ed. Prévot, 1839). «Và tất cả những kẻ có lòng tin sống chung với nhau, để chung lại tất cả của cải, và chia chúng ra cho mỗi người, theo nhu cầu của từng người» («And all that believed were together, and had all things in commun, and parted them to all men, as every man had need»). «Cũng không ai phải thiếu thốn, vì mỗi người được phân phối theo nhu cầu của từng người» («Neither was there any among them that lacked, for distribution was made unto every man according as he had need»). (Trích lại từ Acts of the Apostles, bởi K. Popper). Xem: Karl R. Popper, The Spell of Plato, trong The Open Society and Its Enemies, q. 1, London, Routledge and Kegan Paul, 1974, chth. 29, tr. 241).
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:17:23 GMT 9
ÐẤT NƯỚC, ÐA NGUYÊN
«Tôi không biết có đồng ý được với anh hay không, nhưng tôi sẽ làm đủ mọi cách để anh có thể phát biểu ý kiến» (Voltaire) 1 Chủ nghĩa đa nguyên, trước hết, là một thế giới quan. Trong thế giới quan này, vạn vật có nhiều khởi nguyên, nhân loại không chỉ có một con đường tiến hóa, xã hội có thể hướng về nhiều lý tưởng khác nhau, con người không bắt buộc chỉ tôn thờ cùng một giá trị, và mỗi giá trị lại có thể được nhận diện và thực hiện dưới nhiều khía cạnh riêng biệt... Vì nhìn cuộc đời như thế nên người đa nguyên thường vẫn nhập thế với một đầu óc hết sức cởi mở. Cái tinh thần khai phóng ấy, ở Tây Phương có lẽ chưa ai đã diễn tả được trọn vẹn bằng Voltaire: «Tôi không biết có đồng ý được với anh hay không, nhưng tôi sẽ làm đủ mọi cách để anh có thể phát biểu ý kiến». Áp dụng vào lãnh vực chính trị, chủ nghĩa đa nguyên còn là một thể chế, đó là chế độ dân chủ đa đảng. Bản chất của mọi xã hội là bao gồm nhiều tập hợp nhỏ hơn. Dựa vào nhận định đó như một tiền đề, người đa nguyên không kết luận rằng xã hội cần phải thay đổi bản chất, mà đòi hỏi xã hội phải được tổ chức thế nào để mọi đoàn thể sống trong đó đều có thể bênh vực những quyền lợi tinh thần hay vật chất cơ bản của mình. Trong chế độ đa đảng, mỗi chánh đảng thường đại diện chủ yếu cho những quyền lợi cục bộ của một tầng lớp xã hội. Tất cả vấn đề tổ chức trong một hệ thống chính trị đa đảng, do đó, là làm thế nào để, khi một đảng phái nắm được bộ máy nhà nước, những quyền lợi của các giai tầng khác vẫn không bị tiêu hủy. Ðặc điểm căn bản của phương thức tổ chức dân chủ đa nguyên, vì thế, là sự phủ nhận một thứ nhà nước toàn năng. Quyền hành của nhà nước phải được hạn chế, không những chỉ để bảo vệ những quyền lợi cục bộ khác, mà còn để tránh cho người công dân khỏi bị nhà nước đè bẹp. Hạn chế bằng nguyên tắc phân quyền, bằng sự tồn tại của xã hội dân sự như một thế lực đối trọng, và bằng sự công nhận mọi quyền tự do cá nhân. Không có nạn tập trung quyền hành vào tay bất cứ một cơ quan nhà nước nào; giữa nhà nước và người công dân, nhiều đoàn thể trung gian khác (đảng phái, nghiệp đoàn hay nhóm áp lực) phải được tự do hoạt động; giới hạn độc nhất cho sự thụ hưởng các quyền tự do của một người công dân là đừng xâm phạm vào quyền tự do của kẻ khác. Phủ nhận một thế giới quan duy nhất, một chánh đảng độc tôn, một nghiệp đoàn độc nhất, và một nhà nước tập quyền, đó là chân dung của chủ nghĩa đa nguyên, tóm tắt trong một vài nét chính. Câu hỏi mà tất cả chúng ta đều đang đặt ra là một chủ nghĩa như thế có thể mang lại những gì cho đất nước Việt Nam ngày hôm nay. Tất cả vấn đề là chúng ta - những người Việt Nam - còn muốn sống chung với nhau nữa hay không? Nếu câu trả lời còn ở thể xác định, chúng ta phải giải đáp thành công một số bài toán: một bài toán văn hóa - làm sao để các hệ tư tưởng đã đến Việt Nam có thể sống thanh bình với nhau, một bài toán chính trị - làm gì để giải kết những oán thù do chiến tranh và cuồng tín góp lại, và một bài toán tổng hợp - làm sao tìm ra một cơ sở đồng thuận để đưa tổ quốc từ ngõ cụt hiện nay vào con đường phát triển. 2 Ðến đây, thiết tưởng chúng ta cũng cần mở một dấu ngoặc nhỏ: đất nước là gì? Chúng tôi không có tham vọng trả lời thỏa đáng câu hỏi này, chỉ xin ghi lại ở đây một số giải đáp sẵn có, và nhắc lại một sự bỏ quên. Ðất nước là chủ quyền dân tộc; bao nhiêu thế hệ đã anh dũng đứng lên cho nền độc lập của tổ quốc, cho sự toàn vẹn của lãnh thổ. Ðất nước là cái «quốc hồn quốc túy»; bao nhiêu lớp tuổi khác đã nhiệt tình cầm bút chứng minh là dân tộc Việt Nam không chỉ có một nền văn hóa vay mượn. Ðất nước là những định chế được xây dựng trên đó; nhiều người đã kêu gào «mất nước» trước sự sụp đổ của chỉ một cơ đồ, một nhà nước, hay một chính thể... Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều đã từng đóng góp ít nhiều khắc khoải, công sức cho những cuộc đấu tranh cho «bên này» hay «bên kia» ấy. Chúng tôi kính cẩn nghĩ đến bao hy sinh, bao người đã gục ngã, khi viết những dòng này. Nhưng ngày hôm nay, nhìn sự điêu tàn của một nước - quê hương của chính chúng ta - trên lý thuyết, đã độc lập và thống nhất, đã kế thừa và phát huy vốn liếng văn hóa cũ, đã xây dựng được một thể chế ngang tầm với thời đại, chúng tôi chợt tự hỏi. Có thể chúng ta đã đặt ra những vấn đề rất đúng, nhưng có lẽ chúng ta cũng đã bỏ quên một chân lý, tuy đơn sơ mà căn bản hơn nhiều: đất nước còn đơn giản là cộng đồng người Việt. Ðộc lập - thống nhất mà làm chi, khi cái hố sâu giữa những con người cùng một nòi giống lại xé rộng ra, khi những người cùng một tổ tiên lại đối xử với nhau còn tồi tệ hơn cả người ngoài? Có một nền văn hóa đặc thù để làm gì, khi cái «quốc hồn» ấy không làm nổi chất keo nối lại một nhịp cầu đã đứt? Vẽ vời thể chế này nọ làm chi, khi cái mặt trái của chúng chỉ là những «khu trù mật», những «ấp chiến lược», hay những «vùng kinh tế mới», những «trại cải tạo» do chính tay ta dựng lên? Hãy để cho giông bão cuốn phăng đi tất cả những tối tăm ấy. Nếu phải khóc thương, hãy dành nước mắt cho một cộng đồng, trải mấy nghìn năm, đã gồng gánh, dắt díu nhau vượt núi rừng Việt Bắc vào đến tận mũi Cà Mau ! «Ta làm gì cho hết nửa đời sau?», cáinửa đời tha phương lánh nạn ? Chúng ta đang sống những ngày vỡ nước. Ðất nước đẹp như một bức tranh khắc trên đá quý, bức tranh chỉ vẽ nơi một kho tàng chôn giấu: kho tàng đó chính là tương lai của bao lớp tuổi sắp tới. Trong cơn cuồng nộ, ta đã đập tấm bản đồ thành trăm mảnh. Ðấu tranh cho tổ quốc ngày hôm nay, trước tiên, phải là kiên nhẫn, là thành tâm ngồi gắn lại trăm mảnh tình dân tộc đã lỡ phá vụn. Ðừng mơ màng một chánh nghĩa nào khác đáng giá hơn... 3 Ðầu tiên là bài toán văn hóa. Quê hương Việt Nam không có cái vinh hạnh là nơi đã sản sinh ra những nhà tư tưởng, những lý thuyết có tầm vóc thế giới. Nhưng đất nước đã là một bến đò thường là thân thiện, dù đôi lúc có ác cảm, đối với những luồng tư tưởng đã ghé lại dải đất này như một trạm nghỉ chân. Chúng ta đã thu nhận những học thuyết Khổng Mạnh và Lão Trang của Trung Hoa, đạo Phật của Ấn Ðộ, Kitô Giáo và chủ nghĩa Marx của Tây Phương. Khổng và Lão đã một phần nào đi vào tiềm thức tập thể, còn lại hai giáo hội (Phật Giáo, Kitô Giáo) và một chánh đảng (ÐCSVN) trong sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng. Nếu «yêu nhau không phải là nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng», chúng ta có ít nhất là ba (nếu không phải là năm) lý do để ly dị. Ấy thế mà, qua suốt trường kỳ lịch sử, cộng đồng người Việt vẫn tồn tại, hơn thế nữa, đã phát triển - như một thách đố, cho những đầu óc tính toán, những đạo quân xâm lăng. Tồn tại một cách không hoàn hảo, dĩ nhiên, qua sự thống trị của một hệ tư tưởng, qua những đụng chạm sát sạt với đổ vỡ. Trong quá khứ, Nho giáo đã giữ địa vị độc tôn từ thế kỷ thứ 13 cho đến hết nửa đầu thế kỷ thứ 19; đạo Phật cũng đã một thời kỳ gián tiếp nắm chánh quyền đời Lý, và được ưu đãi như quốc giáo. Ở nửa cuối thế kỷ thứ 20 này, Kitô Giáo cũng đã từng đóng vai trò hệ tư tưởng chính thức cho nhà nước VNCH, và chủ nghĩa Marx-Lênin cho nhà nước VNDCCH rồi CHXHCNVN. Nhìn lại lịch sử của những thời kỳ nhất nguyên lỏng lẻo hay chặt chẽ ấy, chúng ta có nhiều lý do để lo ngại. Những xung đột có dáng dấp của các cuộc thánh chiến đã xuất hiện với chính sách cấm và giết đạo của vua quan nhà Nguyễn thế kỷ trước, tiếp tục với cuộc chiến tranh Nam / Bắc - mà một nửa đã là tranh chấp ý hệ (nhân vị / cộng sản), và ngay trong nội tình miền Nam, với những va chạm giữa hai giáo hội Phật Giáo / Kitô Giáo (1963-1966). Ngay cả bây giờ, để đương đầu với chính sách loại trừ tôn giáo rất khôn khéo - vì được dự trù trong lâu dài - của nhà nước vô thần, vẫn còn xuất hiện đó đây những cương lĩnh chính trị muốn dựa vào một liên minh tôn giáo để chống lại chủ nghĩa cộng sản... Nhưng đọc lại lịch sử, chúng ta cũng không thiếu gì những lý lẽ để hy vọng. Một ông vua trọng đạo Phật, vào một thời kỳ mà Nho giáo chưa trở thành hệ tư tưởng chính thức, đã là người đầu tiên cho lập văn miếu để thờ Khổng Tử và chư hiền (Lý Thánh Tông, 1070). Một ông vua khác, ở vào thời vàng son của Khổng học, lại mở ra các khoa thi tam giáo, đặt viên đá đầu cho những công trình tổng hợp về sau (Trần Thái Tông, 1247). Gần gũi hơn, một người Kitô giáo đã dâng lên vua - một ông vua đầy ác cảm với đức tin của mình - những bản điều trần nổi tiếng để đất nước có thể tiến hóa (Nguyễn Trường Tộ, 1863-1871). Những vua hiền và tôi sáng ấy đã hành động, không như tín đồ của một tôn giáo mà đơn thuần như một người Việt Nam, vì họ biết nghĩ đến tiền đồ của cộng đồng, đến các thế hệ sau. Tổ tiên ta chưa bao giờ viết một văn bản nào về chủ nghĩa đa nguyên, nhưng ông cha ta vẫn luôn luôn giữ một tinh thần khai phóng: thành khẩn đón nhận mọi luồng tư tưởng, khi cần còn thắp đuốc đi tìm - đó là ý nghĩa của những cuộc hành trình thỉnh kinh Phật đời Lý. Nhưng song song với cái đầu óc cởi mở ấy, ông cha ta cũng thường nuôi dưỡng một tinh thần hoá giải làm đối trọng: trân trọng mọi học thuyết nhưng không làm tôi mọi cho chủ nghĩa, luôn luôn đặt nghĩa vụ đối với cộng đồng cao hơn bổn phận đối với lý tưởng. Dù theo Phật, theo Nho hay theo Jésus, họ đã là người Việt Nam trước hết. Cứ yêu tổ quốc và yêu chủ nghĩa, nhưng đừng bao giờ yêu lý tưởng hơn yêu cộng đồng dân tộc. Thông điệp mà tiền nhân để lại là cái truyền thống hai mặt đó. Bài toán văn hóa chỉ có thể, và trên thực tế, vẫn hằng được giải đáp bằng sự vận dụng hài hòa cả hai mặt trên. Một lần - chỉ một lần thôi - chúng ta đã trót quên tinh thần khai phóng; cái ngu ngốc của một thời bế quan tỏa cảng ấy, chúng ta đã phải trả bằng một giá khủng khiếp: gần một trăm năm nô lệ. Một lần - cũng chỉ một lần thôi - chúng ta đã lỡ khinh thường tinh thần hóa giải; cái mê muội của sự cuồng tín giáo điều này, chúng ta vẫn còn đang phải còng lưng trả góp với một giá thật kinh hoàng: hơn một triệu đồng bào đã bỏ xác oan ức trên rừng hay ngoài biển. Tựu trung, có một thứ còn quý hơn độc lập tự do, ấy là sự độc lập tự do tư tưởng. Ðó là bài học từ ngàn xưa lưu truyền, như một hạt giống quý, cần được học hỏi, gìn giữ và gieo trồng. Ðó cũng là điều tâm niệm của người đa nguyên: vũ trụ mênh mông hơn mọi thế giới quan. «Có nhiều thứ trên trời và dưới đất này hơn là anh có thể mơ nghĩ tới trong mớ triết lý của anh» (Shakespeare). Với sự chấp nhận tỉnh táo lý tưởng đa nguyên, thế hệ chúng ta có thể là lớp người đang đóng góp phần quyết định vào việc kế thừa và phát huy một bảo vật để giữ nước và đưa tổ quốc tiến tới. Vĩnh biệt tinh thần nhất nguyên, khi kế thừa vốn cổ, chúng ta cần nhập tâm một số sự kiện. Ngoài tấm lòng yêu nước, những người đấu tranh cho Việt Nam thường còn có một lý tưởng riêng. Chúng ta chỉ có thể làm hại và làm nghèo quê hương khi ta có tham vọng áp đặt cái riêng của mình làm cái chung cho cả nước. Hãy vĩnh viễn chấm dứt giấc mơ «quốc giáo», và xua ra khỏi ngôn ngữ của chúng ta lời phỉ báng «ngoại đạo». Không hổ thẹn mà hãnh diện làm «con của muôn phương», hãy xem đất nước là một thứ «ngã sáu hay ngã bảy văn hóa», một đại gia đình đủ rộng cho mọi lý tưởng. Hãy chấp nhận tình trạng kế cận hiện nay như một sự thai nghén: một ngày nào, một bộ óc vĩ đại của con cháu chúng ta sẽ tiếp tục những cố gắng tổng hợp còn sơ sài của cha ông - chúng tôi nghĩ đến đạo Cao Ðài - để hình thành một nền văn minh chưa đâu có... Vĩnh biệt tinh thần nhất nguyên, khi phát huy vốn cũ, chúng ta nhất định sẽ không quên định chế hóa truyền thống hai mặt khôn ngoan của người xưa. Không lập ra một đền Ðồng Cổ khác để bắt mọi người đến đấy tuyên thệ, chúng ta sẽ phấn đấu để ghi vào bản Hiến Pháp tương lai của quê hương một số điều khoản: 1) Tổ quốc Việt Nam là một quốc gia đa nguyên về mặt văn hóa: nó thành khẩn đón nhận mọi luồng tư tưởng, nhưng sẽ không chấp nhận bất cứ một học thuyết nào như quốc giáo hay quốc học; 2) Tất cả những chủ nghĩa đã đến đất nước này đều bình đẳng với nhau, về quyền lợi - được tồn tại và phát triển tự do - cũng như về nghĩa vụ đối với cộng đồng - bảo vệ và thúc đẩy sự gắn bó và lớn mạnh của dân tộc Việt.
4
Bài toán thứ hai thuộc lãnh vực chính trị. Tổ quốc Việt Nam đã có cái bất hạnh là nơi tích lũy hầu hết những mâu thuẫn đối kháng của thế kỷ thứ 20: mẫu quốc / thuộc địa, đế quốc / nhược tiểu, tư bản / cộng sản... Những hờn căm của một cuộc chiến tranh mù quáng chưa kịp lắng xuống, đã nổ bùng những oán hận của một thứ hòa bình đui mù. Nếu đất nước là cộng đồng dân tộc, quê hương chưa bao giờ bị đe dọa trầm trọng như ngày nay: lần này, hiểm họa diệt vong không đến từ bên ngoài mà từ bên trong, từ một chất độc đang ngấm ngầm hủy hoại thân thể. Con đường cứu nước chỉ có thể là sự giải độc, là hành động để chấm dứt những oán thù giữa người Việt Nam với nhau. Có một giá trị gọi là công lý. Nếu trách nhiệm về những tội trạng trong thời chiến tranh có thể san sẻ giữa các phe tranh chấp, thì kẻ cầm quyền phải đơn phương chịu trách nhiệm về những tội ác vi phạm trong thời bình. Lập một danh sách những người phải đưa ra trước công lý là điều khá dễ dàng; đưa được bọn tội phạm ra tòa bao hàm một thay đổi chính trị sâu rộng. Như ở bao kịch máu khác, kẻ đã gieo gió không nhất thiết phải là người gặt bão: bọn chủ mưu có thừa phương tiện để tẩu thoát, kẻ ngồi lại chịu trận muôn đời vẫn là bọn người thừa hành. Công lý chỉ là một thứ nước sơn khi nó không trừng trị những tên tội phạm đích thực mà lại gây ra căm thù nơi những nạn nhân không đáng hứng chịu. Chất độc chỉ lan tràn và ăn sâu thêm. Có một giá trị khác gọi là công tâm. Khi oán thù đã mang kích thước của một thứ cộng nghiệp, nếu nghĩ đến chuyện chung, vấn đề không còn là trừng trị những kẻ phạm tội, mà là sự sống còn của cả tập thể. Hãy lập một phiên tòa tượng trưng nếu cần - kiểu các tòa án Russell ngày nào, hãy cắn răng vuốt mắt cho những người thân đã nằm xuống. Và tự an ủi mình với sự khôn ngoan của người xưa: « đừng lấy độc trả oán, nhiều người yêu chuộng những biện pháp thích đáng hơn cả công lý » (Hérodote). Ngày hôm nay, những biện pháp thích đáng đó có thể là: không quên đi những tội ác, chúng ta nhường cho sử gia và các thế hệ sau vai trò xét xử; nhận lãnh trách nhiệm hòa giải dân tộc, chúng ta đơn phương chặt đứt cái vòng hận thù oan nghiệt, góp sức xây dựng lại cộng đồng. Nhìn lại lịch sử của các thời kỳ nhất nguyên chặt chẽ, chúng ta có nhiều lý do để lo ngại hơn là hy vọng. Có một luật chơi của chế độ phong kiến (và phong kiến nối dài): lãnh thổ thuộc về dòng họ nào (chánh đảng nào) đã chiếm lĩnh được ngôi báu (nhà nước) sau mỗi cuộc binh đao, nhất là một cuộc chiến tranh giải phóng. Có một luật chơi của kẻ chiến thắng: « nhổ cỏ tận gốc » (chủ nghĩa lý lịch), san phẳng mồ mả hay lấy sọ địch thủ làm đồ phóng uế (hạ nhục tập thể). Có một luật chơi của kẻ chiến bại: cầu viện « thiên triều » (cũ hay mới), cõng rắn cắn gà nhà (xưa: Trần Ich Tắc, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Anh; nay: Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Linh). Bên cạnh từng ấy thí dụ tiêu cực, gương sáng của câu chuyện đốt tráp đời Trần Nhân Tông, nếu quả là điển hình của một triều đại huy hoàng, không đủ để chúng ta trông cậy vào một truyền thống hòa giải. Lịch sử của những ngày nhất nguyên suy yếu, nếu mở ra một vài triển vọng, cũng tạo ra khá nhiều tình cảnh ngang trái. Khi Nho học đang bước dần vào buổi hoàng hôn, Nguyễn Ðình Chiểu (1822 -1888) sáng tác « Lục Vân Tiên », để đề cao trung hiếu tiết nghĩa, và « Dương Từ, Hà Mậu », nhằm công kích đạo Phật và nhất là đạo Kitô như một nguy cơ cho đất nước. Trong cùng một hoàn cảnh, Nguyễn Trường Tộ (1827-1871) soạn thảo nhiều bản điều trần cách mạng dâng vua. Nếu Nguyễn Ðình Chiểu thương khóc những nghĩa sĩ Cần Vương, Văn Thân bằng các bài văn tế đứt ruột, có lẽ Nguyễn Trường Tộ chẳng có bao nhiêu cảm tình đối với hai phong trào này. Trong khi Nguyễn Ðình Chiểu vẫn kiêu hãnh « Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn có mắt ông cha không thờ » (« Ngư Tiều Vấn Ðáp »), trong số những người bị sỉ vả là « ngoại đạo » - thậm chí bị ám chỉ là « việt gian » - có Nguyễn Trường Tộ. Và cả hai đều là những người yêu nước ! Vĩnh biệt tinh thần nhất nguyên, điều mà chúng ta phải làm ngày hôm nay là phấn đấu để xóa bỏ những luật chơi của một quá khứ đầy hận thù và phản trắc, là đóng góp vào việc mở ra một kỷ nguyên hoà giải giữa những đứa con cùng một cha một mẹ, quốc gia / cộng sản, tư bản / vô sản, kinh / thượng, nông dân / thị dân, trong nước / ngoài nước... Với tinh thần đa nguyên, ý thức là lòng yêu nước thường không phải là một con đường thẳng tắp duy nhất, mà có thể đi xuyên qua nhiều hoàn cảnh sinh sống, chính kiến hay lập trường, mơ ước và lý tưởng đôi khi trái ngược với nhau, chúng ta phấn đấu để bắc lại một nhịp cầu thông cảm cho những Nguyễn Ðình Chiểu và Nguyễn Trường Tộ của thế kỷ thứ 20, và của tất cả những thế kỷ tới. Tựu trung, có một thứ còn quý hơn độc lập tự do, ấy là độc lập tự do trong một đất nước đoàn tụ - không phải trong một sự thống nhất đất đai hời hợt mà trong tâm khảm của mỗi người dân Việt. Ðó phải là bài học, đau đớn nhưng vô giá, từ cảnh tượng điêu tàn của tổ quốc ngày hôm nay. Giới hạn vào mâu thuẫn sâu rộng nhất lấy làm điển hình ở đây, con đường hòa giải phải bắt đầu bằng sự xóa bỏ những thành kiến do lăng kính của chủ nghĩa và của mấy mươi năm đối kháng để lại, ở người quốc gia cũng như ở người cộng sản Việt Nam. Trước những cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và hòa giải hòa hợp dân tộc, trong lòng chế độ và ngay cả trong nội bộ ÐCSVN, người quốc gia không thể nào tiếp tục duy trì một hình ảnh về những người đã đấu tranh dưới lá cờ cộng sản và ngay cả phần đông đảng viên ÐCSVN, như những kẻ thù « vô tổ quốc », dù hình ảnh ấy vẫn còn có cơ sở đối với cấp lãnh đạo Ðảng. Trước sự bỏ nước ra đi của hàng triệu đồng bào, người cộng sản cũng không thể nào tiếp tục phủ nhận sự tồn tại của những người Việt Nam chống cộng sản, và nhận định danh xưng « quốc gia » như chỉ là một nhãn hiệu dành cho bọn tay sai của thực dân và đế quốc, dù sự đồng hóa ấy không oan uổng đối với các tập đoàn đã cầm quyền một thời. Từ bỏ một quan điểm quá giản lược về đối phương chỉ mới là bước đầu. Nó chưa thể dẫn đến hòa giải, nếu những người trong cuộc không đóng góp vào việc tạo ra cho mình một hình ảnh khác. Trong viễn tượng này, chúng ta không có quyền khinh thường những cố gắng ly khai đối với một số lập trường đã trở thành khuôn mẫu xơ cứng ở cả đôi bên. Cần đánh giá cao những đòi hỏi hòa giải hòa hợp dân tộc, bất kể ngộ nhận và bạo hành, nơi những nạn nhân còn chưa lành lặn của chế độ. Cần đánh giá đúng mức những tiếng nói bênh vực con người, đề cao tình cảm đồng bào hay tinh thần yêu nước không đảng phái, nơi những người mà nhiệm vụ áp đặt là ca tụng giai cấp vô sản trong lòng chế độ. Ðấy là những ngọn đuốc soi đường trong đêm đen của oán thù. Chúng ta cần nhìn rõ một sự kiện: không bao giờ có thể có hòa giải giữa một bộ máy, nhất là một bộ máy thống trị, với những con người ; chỉ có thể có hòa giải giữa những con người với nhau. Và càng có nhiều tiếng nói độc lập, các bộ máy nhất nguyên sẽ càng suy yếu, càng có cơ sụp đổ, và do đó, càng có triển vọng thông cảm, chấm dứt hận thù giữa những người ôn hòa ở cả hai phía. Hãy trao tặng thật nhiều huy chương cho những anh hùng « đại thắng lợi » của ngày hôm qua và những chiến sĩ « đợi thắng lại » của một ngày mai nào đó chưa tới - họ cũng chỉ là chúng ta trong một thời kỳ -, nhưng khẩn thiết yêu cầu các ngài tự giải ngũ. Chịu khó bước qua một trang sử mới: quê hương không còn sức đâu chịu đựng một cuộc chiến tranh ý hệ khác ! Khẳng định và phổ biến thông điệp này phải là trọng trách của mỗi cá nhân, mỗi đoàn thể đấu tranh ngày nay, trong địa bàn hoạt động của chính mình. 5 Cuối cùng là bài toán tổng hợp. Nó bao gồm tất cả mọi lãnh vực và chỉ có thể được giải đáp thành công nhờ sự hợp tác của tất cả mọi tổ chức và khuynh hướng văn hóa chính trị Việt Nam. Ðất nước không thể nào ra khỏi ngõ cụt để bước vào con đường phát triển, nếu chúng ta vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng, trong một tinh thần nhất nguyên đã lỗi thời, những quan điểm hoàn toàn đối lập về những bệnh trạng của quê hương và các phương thuốc chữa trị. Ði tìm một cơ sở đồng thuận mới để có thể thực tâm hợp tác với nhau, ấy là nội dung của yêu cầu hoà hợp. Ngay ở vào những thời kỳ nhất nguyên, khi đất nước lâm nguy, tổ tiên ta vẫn luôn luôn đi tìm một căn bản hòa hợp để quê hương có thể trỗi dậy. Ðiển hình sáng chói ở đây là hội nghị Diên Hồng ngày nào (1285). Dẫu biết là « giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh » nhưng khẳng định lại cái quyết tâm kháng chiến của cả nước bằng một ngày hội lớn - một bi kịch tâm lý tập thể, nếu nói theo thuật ngữ của môn tâm lý học hiện đại - vẫn là một việc làm không thừa; nó xứng đáng được được đánh giá như một sáng kiến thiên tài, của một triều đại xuất sắc. Ngoài tác dụng động viên nhất thời, biến cố ấy đã khắc sâu vào tâm thức của bao đời sau một chân lý thường dễ bị bỏ quên: « Trần Quốc Tuấn đánh tan Mông Cổ, Vì đồng bào lớn nhỏ một lòng »... Ngày nay, không bị đe dọa vì họa mất nước vào tay giặc ngoài, chúng ta lại vướng vào nạn vỡ nước - một hoàn cảnh chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử - vì hận thù, chủ nghĩa, tha hóa và cuồng tín bên trong. Hoàn cảnh đã khác, giải pháp cũng phải khác, nhưng yêu cầu hòa hợp vẫn là một. Trên căn bản nào tổ quốc sẽ tìm lại được một tấm lòng chung? Một trong những cơ sở hòa hợp, chúng tôi nhắc lại, vì đây là điều quan trọng nhất, là sự từ bỏ chiến tranh như phương pháp giải quyết những mâu thuẫn nội bộ của đất nước. Chiến tranh ở đây bao gồm cả hình thức chiến tranh xã hội - đấu tranh giai cấp như một chính sách của nhà nước. Dù nổ ra giữa hai quân đội hay hai giai cấp, chiến tranh chỉ có thể gây ra đổ vỡ tang tóc, và do đó, tích lũy thêm thay vì giải tỏa hận thù, đưa dân tộc đến hố thẳm của họa diệt vong. Hậu quả tất yếu của nó còn là mở cửa cho sự lũng đoạn của nước ngoài và đưa tổ quốc vào vòng lệ thuộc. Với tinh thần đa nguyên, chúng ta dễ chấp nhận sự bất đồng về quyền lợi hay về lập trường như điều tự nhiên, không bắt buộc phải được giải quyết bằng phương tiện cực đoan nhất, mà ngược lại, trong sự tôn trọng yêu cầu toàn vẹn của cộng đồng dân tộc. Cơ sở thứ hai là sự từ bỏ thói đi cầu viện nước ngoài, « đồng minh » hay « anh em ». Người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng chỉ vì quyền lợi của nước họ. Dựa vào thế lực bên ngoài, tư bản hay vô sản, để đàn áp người trong nước, dù dưới chiêu bài nào đi nữa (bảo vệ thế giới tự do hay chủ nghĩa xã hội đang bị đe dọa), nhìn từ quan điểm dân tộc, đều là những hành động phản trắc, về bản chất không khác mấy với cái trò hề lạy lục thiên triều để xin tấn phong ngày trước. Còn tiếp tục tin tưởng nước ngoài, mặc dù đã nhiều lần bị ruồng bỏ - tùy theo phe phái: Hoa Kỳ, Liên Xô hay Trung Hoa -, là một lối hành xử ngu xuẩn. Với tinh thần đa nguyên, chúng ta phấn đấu để xóa bỏ nghi kỵ và sợ hãi, giúp các tập hợp dân tộc tìm lại niềm tự hào làm con cháu của những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đời xưa, lấy lại đủ liêm sỉ và can đảm hầu chấm dứt, tức thì và vĩnh viễn, cái kiếp làm « đuôi chó » cho các nước lớn, nhất là khi những giống chó ấy lại biết, lúc cần thiết, cụp đuôi dàn xếp với nhau trên đầu chúng ta. Cơ sở thứ ba là sự thiết lập một chính thể dân chủ ở Việt Nam. Ðã 20 thế kỷ ròng rã, đất nước chưa hề sống một ngày dân chủ: chúng ta đã bước thẳng từ phong kiến vào lệ thuộc, rồi từ thuộc địa vào độc tài (gia đình trị, quân phiệt hay độc đảng). Nếu chế độ phong kiến còn để lại trong lịch sử một vài vị minh quân, đôi lúc cũng biết trân trọng ý dân, những chế độ độc tài kế tiếp ngày nay đã chỉ đưa đất nước vào chiến tranh (nội chiến, Kampuchea), lệ thuộc (Hoa Kỳ, Liên Xô, rồi Trung Hoa), và sự phá sản về mọi mặt. Với tinh thần đa nguyên, đóng góp phần quyết định vào việc mở ra một kỷ nguyên dân chủ, thế hệ chúng ta phấn đấu để định chế hóa chế độ cộng hòa đa đảng, ghi vào bản Hiến Pháp ngày mai: đất nước là của chung, nó không thuộc về một giai cấp hay một chánh đảng nào, dù là to lớn, đông đảo nhất, hay tài giỏi, công lao nhất. Không dừng lại ở đấy, chúng ta còn cam kết với nhau sẽ chân thành cộng tác nhằm tố cáo và lật đổ mọi mưu toan chuyên chính, chiếm đoạt những đặc quyền đặc lợi cho bất cứ một phe nhóm, đảng phái nào. Cơ sở thứ tư là sự tôn trọng nhân và dân quyền. Ở vào thời đại mà quyền làm người và làm công dân không ngừng được nới rộng trong các văn kiện quốc tế (quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, của người già cả và bệnh tật, những quyền lợi thuộc các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa), chúng ta không điên khùng tiếp tục một cuộc tranh cãi đã ngã ngũ, với sự sụp đổ của hầu hết những chế độ bóp nghẹt tự do. Tự do thật sự không bao giờ là sự phủ nhận những thắng lợi do con người đoạt được, dù chỉ là trên giấy tờ; nó chỉ có thể được xây dựng trên sự công nhận và cụ thể hóa những quyền tự do hình thức, bằng cách cố gắng đưa vào đời sống hàng ngày (vào nơi ăn, chốn ở, chỗ làm việc: cơ quan, xí nghiệp, hội đoàn, làng xã, thành phố...) những quyền tự do dân chủ đã và đang lần lượt được long trọng ghi nhận trong các bản tuyên ngôn. Cơ sở thứ năm có thể là sự phác hoạ một đường lối phát triển không loại trừ một thành phần dân tộc hay một tầng lớp xã hội nào. Với tinh thần đa nguyên, chúng ta ý thức là mọi tập hợp bên trong cộng đồng, cũng như mọi cá nhân trong lòng tập hợp, đều có quyền tồn tại và mưu cầu hạnh phúc cho mình, thực hiện những giá trị tinh thần hay vật chất riêng tư. Chúng ta cũng đồng thời ý thức là những giá trị ấy nhiều khi mâu thuẫn với nhau, và do đó, có tiềm năng đưa đến những xung đột xã hội trầm trọng, đe dọa sự tồn tại của chính cộng đồng. Ðường lối phát triển đất nước trong tương lai, vì thế, phải được xây dựng trên sự dung hòa những nguyên tắc nhiều khi trái ngược, chủ yếu là giữa những quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của cộng đồng, giữa những đòi hỏi về tự do của tập thể này và yêu cầu hạn chế các bất công xã hội của một tầng lớp khác. Tựu trung, có một thứ còn quý hơn độc lập tự do, ấy là độc lập tự do trong một đất nước hồi sinh. Và sự sống lại đó chỉ có thể xuất phát từ một căn bản hòa hợp, một ý chí xây dựng lại cộng đồng, thông qua sự từ bỏ những giáo điều nguy hại cho tổ quốc, và sự chấp nhận những nhân nhượng cần thiết, nói cho cùng, chẳng có gì là quá đáng, bởi vì liên quan đến quyền sinh sống và tiến hóa của bao nhiêu đồng bào khác. 6 « Chế độ chính trị nào là thể chế tốt đẹp nhất? », có người đã đặt câu hỏi đó cho Solon, và nhà hiền triết này đã trả lời bằng một câu hỏi vặn: « Cho nước nào, và ở vào thời điểm nào? ». Một trong bảy hiền sĩ của cổ Hy Lạp, Solon (640 - 558 trước tây lịch) là người đã đặt những viên đá đầu tiên cho nền dân chủ của thành quốc Athènes, bằng một cuộc cải cách xã hội và chính trị sâu rộng. Cho Việt Nam và trước ngưỡng cửa của thế kỷ thứ 21, thể chế nào sẽ là chế độ thích hợp nhất? Nhìn qua những vấn đề trầm trọng mà quê hương phải giải quyết, có lẽ chế độ dân chủ đa nguyên (đa đảng) là giải pháp ít sai xấu nhất, nếu không phải là tốt đẹp nhất. Ðó là luận điểm mà bài phát biểu này có tham vọng xác lập. Nhưng chúng tôi sẽ không làm hết nhiệm vụ, nếu bài tham luận không đề cập đến mặt tiêu cực của con đường đa nguyên. Chủ nghĩa đa nguyên không phải là chiếc đũa thần; chế độ dân chủ đa đảng chỉ tạo ra một khuôn khổ để đấu tranh và kiến thiết đất nước. Nó giải quyết được những vấn đề quan trọng và cấp bách nhất, nhưng không có khả năng làm tan biến mọi khó khăn. Người đa nguyên, hơn ai hết, cần phải làm sáng tỏ những giới hạn ấy, không phải như một lý do để trốn chạy, mà như một thách đố cần phải vượt qua. Tự nó, phương thức tổ chức đa nguyên không có phép mầu ngăn cản sự xuất hiện của những trào lưu văn hóa thấp kém, những thế lực kinh tế phong kiến hay những khuynh hướng chính trị phát xít, tả khuynh hoặc hữu khuynh. Hơn nữa, trước câu hỏi cổ điển - có nên trao gửi tự do cho những kẻ thù của tự do ? - người đa nguyên thật sự, nếu trung thành với chọn lựa của chính mình, lại càng không có quyền đề xướng sự cấm đoán bất cứ một đoàn thể hay một tổ chức nào, vì bất đồng quan điểm. Một khi đã ngăn cấm được một khuynh hướng thì có thể loại trừ được những khuynh hướng khác. Nhưng khi đã tự cho mình cái quyền vừa làm quan tòa, vừa làm luật sư, vừa làm nguyên cáo, chúng ta sẽ vô tình mở rộng cửa sổ cho chủ nghĩa nhất nguyên trở về, sau khi đã xua đuổi nó ra bằng cửa chính. Có một thứ còn nguy hại hơn chủ nghĩa nhất nguyên công khai, đó là chủ nghĩa nhất nguyên trá hình. Ða nguyên không phải là con đường mà chúng ta có thể rụt rè chỉ đi một nửa... Tự nó, phương thức tổ chức đa nguyên cũng không thể nào ngăn chận, mà ngược lại, còn có tiềm năng thúc đẩy sự xuất hiện của một hệ thống chính trị quá phân tán thành những đảng nhỏ. Ở một số nước, chế độ đa đảng, trên thực tế, chỉ là một mạng lưới chi chít những phe nhóm chính trị, vừa không có khả năng lãnh đạo quốc gia, vừa không đủ tự tin để bước vào một liên minh rộng rãi hơn, vừa có ý đồ đổi chác sự tham gia của mình vào một khối đa số ở nghị trường lấy những đặc quyền đặc lợi. Giá trị của thể chế đa nguyên tùy thuộc rất nhiều vào ý thức trách nhiệm của các đoàn thể và tổ chức thành viên, cũng như vào phẩm chất của người làm chính trị. Ðất nước rất cần một khuôn khổ đa nguyên, nhưng tổ quốc có thể cũng cần ngang ngửa một lớp người đấu tranh khác, không nhất thiết phải là mới hơn hay trẻ hơn, nhưng biết dấn thân với một tác phong đổi mới. Quá yêu quý lý tưởng, chúng ta như chỉ nhìn thấy sự tồi dở của địch thủ, bỏ quên cả nghĩa vụ phê phán các xã hội trong đó mình sống - cái xã hội « nhất đĩ, nhì lô, tam xi, tứ sến » thời trước hay cái xã hội « xấu hơn cả ngụy » ngày nay. Quá ham muốn thành công, chúng ta đã xao lãng nhiệm vụ dự báo những hậu quả khốc hại của một cuộc chiến tranh nửa giải phóng, nửa nội chiến, và một con đường xây dựng đất nước vừa cuồng tín, vừa giáo điều. Chúng ta phải gánh chịu một phần trách nhiệm không nhỏ trong tội đưa quê hương đến thảm cảnh vỡ nước ngày nay, bằng sự ấu trĩ của chính mình. Còn chừng non một thập niên nữa, thế giới sẽ bước sang thế kỷ 21. Ở mức độ cá nhân, năm thứ 21 là tuổi thành người. Thế kỷ 21 có thể rồi sẽ là tuổi trưởng thành của cả nhân loại: sẽ không còn nữa những tối tăm khiến ta đôi lúc không thấy hãnh diện làm người. Và cùng với thế kỷ, với loài người, với đất nước, chúng ta cũng sẽ trưởng thành. Với nhau. Phạm Trọng Luật Hội Luận về « Dân Chủ Ða Nguyên », 27/10/1990
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:21:42 GMT 9
HOÀ GIẢI? Lòng cao thượng chỉ dành cho nhà chính trị. Chính trị mà không cao thượng thì hãi lắm. Chính trị là chỗ người ta nhìn vào để yên tâm sống. (Nguyễn Huy Thiệp) 1 - Một cụm từ, một bối cảnh lịch sử Cụm từ gọi chung là «hòa giải» ra đời trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai, vào những năm cuối của thập niên 1960. Dù muốn dù không, nó cũng mang dấu ấn của cuộc chiến và của thời điểm ấy. Cuộc chiến tranh Việt Nam lần này là một hiện tượng phức tạp, có mặt quốc tế, mặt nội bộ, có khía cạnh giải phóng, có khía cạnh ý hệ. Chánh quyền Mỹ lúc đó lại vừa đổ quân vào miền Nam, cuộc chiến tranh bắt đầu leo thang ra miền Bắc và có khả năng lan rộng ra khắp Ðông Dương. Trong khi dư luận quốc tế, lo sợ một cuộc thế chiến khác sẽ bùng nổ, nhất trí kêu gọi hòa bình, người Việt Nam lại phân hóa trầm trọng hơn bao giờ hết. Ðối với các lực lượng chủ chiến, dù Nam hay Bắc, đây là cơ hội nghìn năm một thuở để động viên nhân lực, hầu kết liễu chiến tranh trong thắng lợi; đối với các tổ chức hòa bình, đất nước Việt Nam đang đứng trước mối họa diệt chủng, nếu người Việt Nam không sớm tìm cách dập tắt ngọn lửa chiến tranh đang ngùn ngụt cháy trên quê hương. Dù hướng về hòa bình, cụm từ «hòa giải», xuất hiện trong bối cảnh lịch sử đó, khó lòng không phản ánh những quan điểm khác nhau về cuộc chiến. Cụm từ, thật ra, có ba vế: «hóa giải», «hòa giải» và «hòa hợp». «Hóa giải» xuất phát từ phong trào Phật Giáo; nó bao hàm một nhận định sáng suốt: chiến tranh Việt Nam nằm trong một cuộc tranh chấp ý hệ quốc tế giữa các đế quốc, lối thoát duy nhất của đất nước là các phe phái Việt Nam phải tiêu hóa được những hệ tư tưởng ngoại lai (nhân vị - cộng sản) và biết đặt sự sống còn của dân tộc lên trên mọi quyền lợi đảng phái. «Hòa giải» bắt nguồn từ các đoàn thể dân tộc khác ở thành phố, trở thành phản chiến vì không tin ở khả năng chiến thắng quân sự của cả đôi bên, nhưng vẫn nhìn cuộc chiến tranh dưới khía cạnh nội chiến quốc - cộng, và kêu gọi các phe tham chiến Việt Nam hãy nhân nhượng ngồi vào bàn thương thuyết. «Hòa hợp dân tộc» xuất phát từ phía cách mạng; trái với địch thủ, thay vì xuyên tạc, họ đã tham gia tích cực vào những đòi hỏi hòa bình để dễ lái chúng qua hướng khác: «hòa hợp» mang nội dung của một sự đoàn kết mọi thành phần dân tộc nhằm giải phóng đất nước. Dĩ nhiên, đối với chánh quyền Saigon, không có vấn đề «hóa giải» hay «hòa hợp», nhiều lắm chỉ có thể nói đến «hòa giải» giữa hai (nhà) nước VNCH và VNDCCH, trên cơ sở là kẻ xâm lăng phải rút về bên trên vĩ tuyến thứ 17, mang theo cả cái gọi là MTDTGPMNVN. Vì không chịu hiểu điều ấy, phong trào Phật Giáo đã được tướng Kỳ mang quân ra «hòa giải» một trận ở Ðà Nẵng (1966): một số cán bộ vào tù, số khác bỏ vô bưng, phong trào bị tê liệt. Ðối với chính quyền Hà Nội, cũng không có vấn đề «hóa giải» hay «hòa giải», chỉ có yêu cầu «hòa hợp dân tộc» để đánh đuổi đế quốc Mỹ. Vì không chịu hiểu điều ấy, phong trào Phật Giáo lại được Giải Phóng «hòa giải» thêm một trận thứ hai trong dịp Tết Mậu Thân ở Huế (1968): phong trào biến mất như một lực lượng chính trị. 2 - Khi tên nô lệ lột xác làm bạo chúaNăm 1968, bắt đầu cuộc đàm phán hai bên giữa Washington và Hà Nội. Ðến 1969, hội nghị bốn bên khai mạc, vớt thêm hai chính quyền miền Nam. Chiến tranh lan rộng ra Kampuchea (1970) và đe dọa tràn sang Lào. Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ quyết liệt hơn ( «Trung Quốc với Lào sông liền sông, núi liền núi» ), trong khi Liên Xô tăng cường viện trợ cho Hà Nội. Ở Mỹ, cơn bão phản chiến thổi rung cả Ngũ Giác Ðài; ở Việt Nam, phong trào hòa bình mỗi ngày càng lập luận giống Mặt Trận. Rồi 1971, Kissinger bay sang Bắc Kinh, chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Nixon - Mao Trạch Ðông năm sau. Năm 1973, hiệp định Paris được ký kết, với hai điều khoản quan trọng: ngừng bắn tại chỗ và «Hội Ðồng Quốc Gia Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc Ba Thành Phần», tiền thân của một «Chánh Phủ Liên Hiệp» tay ba. Tổng kết cả giai đoạn này, ai đã hóa giải được gì, ai đã hòa giải hay hòa hợp được với ai? Những điều người Việt Nam chúng ta không làm nổi, người ngoại quốc đã thực hiện xong, không phải vì Việt Nam mà cho tổ quốc của họ. Hóa giải? Hoa Kỳ với Trung Cộng bắt tay nhau, điều ấy có nghĩa là khía cạnh quốc tế của cuộc chiến đã được giải tỏa: sau cuộc chiến tranh Triều Tiên khủng khiếp, hai cường quốc, mới ngày hôm qua đây còn là kẻ tử thù, sẽ chẳng bao giờ lại mặt giáp mặt một lần thứ hai trên chiến trường, dù người Việt Nam còn muốn tiếp tục giết nhau đến tên lính cuối cùng. Hòa giải? Một kỷ nguyên mới đang mở ra giữa hai anh đầu sỏ, trên đầu các phe phái Việt Nam, trên đầu Ðài Loan, trên đầu những chiến sĩ hai bên đã muôn đời nằm xuống. Hòa hợp? Mọi hành động, từ đây, đều nhắm vào việc chống phá Liên Xô: trong khi Mỹ «việt nam hóa» cuộc chiến («thay đổi màu da cho những xác chết») để tập trung sinh lực trên các địa bàn khác, trong khi hai phe Việt Nam mải giành nhau từng thước đất, Trung Cộng lấn chiếm Hoàng Sa (1974), vì dầu hỏa, nhưng cũng vì đã dự đoán một liên minh Liên Xô - Việt Nam trong tương lai. Rồi 1975, hòa bình trở về, chiến tranh kết liễu với chiến thắng của VNDCCH. Bao nhiêu người yêu nước đã chân thành sung sướng: «Ôi, tiếng của cha ông thuở trước, Xin hát mừng non nước hôm nay» (...) «Ôi Việt Nam! yêu suốt một đời, Nay mới được ôm Người trọn vẹn» ... (Tố Hữu). Ðáng mừng thật: sông núi, từ nay, hết sạch gót quân thù; không còn chính sách chia để trị, ai cấm cản được người Việt Nam thương yêu nhau? Bao nhiêu người khác nữa đã thật thà hãnh diện. «Chưa bao giờ đất nước lại có những người lãnh đạo xứng đáng như bây giờ»! Xứng đáng thật: những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Lê Ðức Thọ,... không có cái quá khứ đi lính cho Tây như một số nhà lãnh đạo «quốc gia»; họ có tầm vóc của những người nô lệ đã vùng dậy bứt phá gông cùm để tự giải thoát và giải phóng đồng loại. Trong niềm hân hoan đón chờ những ngày mai ca hát, chẳng mấy ai buồn nghe lời cảnh cáo của một người đã từng trải - Harriet Beecher Stowe - từ thế kỷ trước vọng về như một tiếng thì thầm: «Tên nô lệ vừa được giải phóng có thể tức thì trở thành bạo chúa» ... Bọn người mới thoát kiếp nô tỳ đổi lốt làm bạo chúa thật! Khi sự phi lý lên ngôi, không ai có đủ từ vựng để diễn tả hết mọi điều phi lý. Một người mẹ có con trai chết ngày cuối cùng của chiến tranh bỗng thấy mình vẫn còn may mắn; biết bao nhiêu bà mẹ khác đã phải khóc con ngay những ngày đầu của hòa bình? Ngày về thăm quê hương, tôi gặp lại một người bạn thời trung học, đến hỏi thăm chuyện nước ngoài vì chuẩn bị vượt biên. Anh hỏi tôi, cộc lốc và xa xôi. «Nghe nói bên đó, công viên đề «cấm người Việt Nam và chó», có không?». Sau câu trả lời, anh trầm ngâm một lúc, rồi cất tiếng như nói một mình. «Mà dù có, cũng hiểu được. Nó với mình không cùng tổ tiên, nòi giống. Ở đây, nhiều chuyện không hiểu nổi. Chẳng tội tình gì hết, tôi cũng bị đầy đọa suốt bảy năm trời, con tôi không còn tương lai». Trước khi bỏ đi, anh buông thõng một câu, tôi ghi lại nguyên văn: «Theo anh, đứa nào chó đẻ hơn đứa nào?». Lần về sau, tôi không gặp lại. Nghe nói anh đã cùng vợ con đi chui, không biết có bao giờ đến bến? 3 - Cụm từ tòng phạm của «hiện thựcmất nước»?Từ 1975, cụm từ «hòa giải», đối với nhiều người, trở thành những danh từ ma quỷ. Giữa chữ viết và nội dung của cụm từ xuất hiện một sự chênh lệch, đủ rộng để tạo ra một số huyền thoại. CÁI KHÔNG BIẾN THÀNH CÓ: sự kiện hiệp định Paris dùng lại những danh từ ấy đủ để xác định «quốc tịch» cộng sản của cụm từ (như thể hiệp định chỉ là tác phẩm của cộng sản!); sự kiện người cộng sản đã không áp dụng hòa giải hòa hợp sau đó bỗng trở thành «hòa giải, hòa hợp kiểu cộng sản». Cụm từ đột nhiên nhận lãnh vai trò tòng phạm trong họa «mất nước», và tất cả những người sử dụng cụm từ, trước hay sau 1975, đều bỗng được tặng không nhãn hiệu «hoặc cộng sản, hoặc tay sai của cộng sản». Và dĩ nhiên, nhắc đến những danh từ kiêng kỵ đó trên báo chí cũng trở thành một hành động khiêu khích. Ở đây, chúng ta đối diện với các trường hợp điển hình của một số ngụy lý. Ngụy lý tình cảm: một vấn đề đáng được nêu lên hay không, không tùy thuộc nội dung của nó nữa, mà chỉ tùy thuộc ở những tình cảm nó khơi dậy (không được nói đến hòa giải hòa hợp vì đây là «một thành ngữ gắn liền với tủi nhục căm hờn»). Ngụy lý nhân hệ (ad hominem): một vấn đề đúng hay sai không tùy thuộc ở sự đối chiếu với thực tại nữa, mà chỉ tùy thuộc ở lý lịch của người phát biểu (mệnh đề «hòa giải hòa hợp dân tộc là một chính sách cần thiết» chỉ có thể sai, vì kẻ chủ trương là «cộng sản»). Và lối lý luận chụp mũ ( «lập trường hòa giải hòa hợp dân tộc là một thông điệp (...) chắc chắn không hướng về nhân dân trong nước», và do đó, chỉ có thể hiểu ngầm là... dành cho kẻ địch hải ngoại). Sự đối thoại cảm thông đòi hỏi phải phá đổ mọi huyền thoại. Không xuất phát từ phía cộng sản, «hóa giải» cũng không thể là những từ «làm lợi» cho ÐCSVN, dù trong lúc nào. Chủ nghĩa Marx-Lênin vẫn tự phụ là khoa học. Người ta chỉ có thể áp dụng, không ai đi hóa giải khoa học. Ðòi hỏi Ðảng phải «hóa giải» đồng nghĩa với khẳng định tính chất ý hệ và phản khoa học của chủ nghĩa cộng sản; nó có nghĩa là đòi hỏi ÐCSVN, thay vì tìm cách thích ứng thực tại đất nước vào chủ nghĩa - nghĩa là làm cái công việc độn chân hay gọt chân để mang giày cho vừa, hãy tìm cách thích nghi chủ nghĩa vào môi trường, sửa lại đôi giày nếu được, hoặc vất hẳn nó đi hầu cứu lấy đôi chân. Nếu phong trào Phật Giáo là cộng sản, Trí Quang đã không bị giam lỏng, Thiện Minh đã không bỏ mạng trong trại cải tạo. Tuệ Sĩ, Trí Siêu bây giờ không ngồi tù. Nhiều cán bộ của phong trào đã không bị thủ tiêu - như một biện pháp phòng ngừa - hồi Tết Mậu Thân. Danh từ «hòa giải» cũng không thể bắt nguồn từ một đảng cộng sản kiểu Lênin, và khó lòng được xem là «có lợi» cho cộng sản. Nhìn từ quan điểm giai cấp, đối với đảng cộng sản, chính sách hòa giải cũng tương đương với chủ trương thỏa hiệp, cộng tác giai cấp, nghĩa là một sự phản bội cần phải tố cáo mạnh mẽ: giữa giai cấp tư bản bóc lột và giai cấp công nhân lao động, chỉ có thể có đấu tranh không nhân nhượng. Nhìn từ quan điểm giải phóng, dù ở vào cuối thập niên 1960 hay 1980, chủ trương hòa giải, đối với ÐCSVN, còn có nghĩa là khẳng định tính chất nội chiến của cuộc chiến tranh (chỉ có thể có hòa giải giữa người Việt Nam với nhau), và gián tiếp phủ nhận tính chất «thần thánh» của cuộc «kháng chiến chống đế quốc Mỹ» (không thể có hòa giải giữa người bị xâm lăng và kẻ xâm lược), cái nửa sự thực mà họ vẫn tìm đủ mọi cách để áp đặt như sự thực. Trong cơn kinh hoàng, nhiều lãnh tụ chống cộng đã quên tuốt là người cộng sản cũng sợ hai chữ «hòa giải», ít nhất... bằng (một số) người quốc gia! Danh từ độc nhất xuất phát từ phía cộng sản là hai chữ «hòa hợp». ÐCSVN biết đấu tranh có phương pháp, mỗi giai đoạn chỉ có một mục tiêu chính và mục tiêu bao giờ cũng rất rõ ràng. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc, bối rối vì khát vọng hòa bình của dân chúng, vì đòi hỏi hòa giải của một số đoàn thể mà nó không kiểm soát nổi, Ðảng đã tung ra danh từ «hòa hợp», về ý nghĩa không khác mấy với bốn chữ «đoàn kết chống Mỹ», lại có thêm chữ «hòa» cần thiết để gây ảo tưởng. Nhưng đây chỉ có thể là một lợi ích giai đoạn. Về lâu về dài, khi bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, danh từ chỉ có thể gây cản trở ngay cho Ðảng, bởi vì khó lòng hòa giải hai chính sách «hòa hợp dân tộc» (đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để kiến thiết đất nước) với «đấu tranh giai cấp». Ðòi hỏi hòa hợp trong lúc này không phải là đầu hàng cộng sản mà chính là đánh vào cột xương sống của chuyên chính vô sản. Ðối với cụm từ «hòa giải, hòa hợp» và các đoàn thể hòa bình, người quốc gia cần phải tự hóa giải một số hằn học vô lý. Người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng chỉ vì quyền lợi của họ. Hoa Kỳ muốn dùng miền Nam như một căn cứ để ngăn chận sự bành trướng của Trung Quốc. Khi hai cường quốc còn giữ quan hệ thù địch đối kháng, một miền Nam không cộng sản còn có hy vọng tồn tại với sự giúp đỡ của Mỹ, dù không có hậu thuẫn bên trong của nhân dân. Với sự hòa giải giữa hai đại cường, sự rút lui bắt buộc của Mỹ, sự chiếm lấp chỗ trống tất yếu của Liên Xô, số phận VNCH kể như đã giải quyết, nhất là khi nó chỉ là một chế độ độc tài quân phiệt, không có chân đứng trong dân chúng. VNCH đã sụp đổ vì một nguyên nhân ngoại lai (sự thay đổi những quan hệ tay ba địa phương), chứ không phải vì một lý do nội tại (dù với tầm cỡ của phong trào hòa bình). Sự kiện một số nhân vật tăm tiếng của một hai đoàn thể thuộc phong trào hòa bình về sau bị phát giác như «cộng sản nằm vùng» không đủ để kết luận là toàn bộ phong trào này nằm dưới sự điều khiển của ÐCSVN. Nó chỉ có nghĩa là phía cộng sản đã thành công trong chánh sách len lỏi vào mọi tổ chức địch thủ của họ, ngay cả vào bộ tham mưu quân đội và các giới sát nách với ông tổng thống vô địch chống cộng. Ví dù phong trào phản chiến với cụm từ «hòa giải» có tác dụng giải ngũ trên quân đội đi nữa, đối với người lính cộng hòa, tác động đó chắc không lớn hơn những chán nản xuất phát từ bó buộc phải hy sinh xương máu để bảo vệ một xã hội con buôn trụy lạc, một tầng lớp lãnh đạo thối nát bất tài, hay hành động ký kết hiệp định Paris dưới áp lực của một đồng minh đang sẵn sàng bỏ rơi chiến hữu để có thể êm thắm rút lui. 4 - Cụm từ tóm lược các vấn đề sống chết của quê hương?Một vấn đề đáng được nêu lên hay không tùy thuộc ở chỗ nó có liên hệ hay không đến tình hình đất nước. Ðất nước phá sản vì ÐCSVN thất bại. Và Ðảng đã thất bại thê thảm chỉ vì, như một số người quốc gia, nó đã xem những chủ trương «hóa giải, hòa giải và hòa hợp dân tộc» như những khẩu hiệu tuyên truyền, trong khi cụm từ, xuất phát từ lòng yêu nước phi đảng phái, từ một lúc tỉnh thức của lương tâm tôn giáo, của lương tri con người, đã tóm tắt trọn vẹn những bất hạnh của tổ quốc Việt Nam từ hơn một thế kỷ nay: lệ thuộc, chủ nghĩa, tha hóa, chiến tranh, hận thù... Nhắc lại những vấn đề đau đớn này bây giờ không nhằm vào việc cứu Ðảng mà CỨU LẤY QUÊ HƯƠNG, với cái giá hiển nhiên là ÐCSVN, tổ chức đã giữ vai trò đầu não trong ít nhất là một cuộc chiến tranh giải phóng xứ sở, sẽ phải rời bỏ vai trò lãnh đạo đất nước. Vấn đề hóa giải đặt ra cho mọi lực lượng văn hóa chính trị Việt Nam ngày nay. Tổ quốc Việt Nam không có cái vinh hạnh là nơi đã sản sinh ra những nhà tư tưởng, những lý thuyết có tầm vóc thế giới. Tủi nhục vì mất nước, chúng ta đâm ra nghi ngờ vốn cũ, đi tìm con đường giải phóng quê hương ở bao chủ nghĩa ngoại lai, quên mất sự ngọt chua của cây cam còn tùy nơi đất trồng, sự thực bên này triền núi chưa hẳn sẽ là chân lý bên kia núi. Thay vì thích nghi chủ nghĩa vào đất nước, chúng ta tìm cách áp đặt chủ nghĩa cho đồng bào, dùng bạo lực nếu cần. Rốt cuộc, chúng ta đã giành được chánh quyền, nhưng ngay chính chúng ta cũng đã biến thành kẻ lạ và đối xử với nhau còn tàn nhẫn, tệ bạc hơn cả người ngoài. Ngày đất nước độc lập thống nhất, cũng là ngày cộng đồng tình tự dân tộc vỡ tan. Yêu cầu hóa giải ngày nay chính là đòi hỏi giải kết và đảo ngược cái quá trình nghịch lý ấy. Vấn đề hòa giải càng đặt ra cho tất cả mọi người. Quốc, Cộng, Kinh, Thượng, Thị Dân, Nông Dân, Công Giáo, Phật Giáo... Bao nhiêu năm trời đăng đẵng, đất nước chìm trong máu lửa. Cả ba triệu người đã chết trong và sau cuộc chiến. Không thể khẳng định một cách vô ý thức: «hòa giải hòa hợp dân tộc là không cần thiết, vì người Việt Nam không hề thù hận nhau». Gần một triệu người chết rất vô lý sau chiến tranh dễ đưa ÐCSVN vào ghế bị cáo. Với tất cả công tâm, tập đoàn lãnh đạo Ðảng đáng lãnh án tử hình, không chỉ vì những người đã bỏ thây trong trại cải tạo hay ngoài khơi, mà cho cả những người đã tay không nằm xuống một ngày Tết nào ở Huế, nếu «ít ra, cuộc đời phải được một lần rõ rệt sòng phẳng» (Trần Thanh Hiệp). Nhưng đã nói đến chuyện sòng phẳng, có khi nào phía người quốc gia tự hỏi mình đã làm những gì để ngần ấy căm thù chồng chất? Người cộng sản phải nghĩ sao đây về một vị nguyên thủ miền Nam, ngang nhiên lái phi cơ ra Bắc oanh tạc, rồi hí hửng trở về uống rượu ăn mừng? Người cộng sản phải nghĩ thế nào đây khi quân đội Mỹ lập ra «những vùng tự do bắn giết», khi B52 Mỹ dội bom xối xả xuống cả miền Bắc trong những ngày lễ Giáng Sinh năm 1972, mà không một chánh khách hay trí thức quốc gia miền Nam nào thấy cần thiết phải lên tiếng phản đối? Người nông dân phải nghĩ sao đây, khi cửa nhà ruộng vườn tan nát dưới thảm bom, sau bao năm «ấp chiến lược» với «khu trù mật», lên thành sống lây lất qua ngày, để nhìn thấy bao nhiêu người dân đô thị làm giàu nhờ chiến tranh, ăn chơi phè phỡn trụy lạc trên những bất hạnh của nông thôn, không biết cả đến cái tên làng Mỹ Lai? Những người ta kêu là «mọi» đã có kiếp sống nào ngoài việc làm lính biên phòng, làm bia đỡ đạn, làm vật lạ cho ta chụp ảnh, làm kẻ muôn đời bị lừa sau mỗi lần mua bán với người Kinh? Người Công Giáo đã quên hẳn chưa bao ngày cấm đạo giết đạo, những lần bị phỉ báng là «ngoại giáo», khi ngay cả các thánh tử đạo của mình cũng bị tình nghi là «Việt gian», khi nhiều người còn cố tình quên cả tư cách con chiên của một Nguyễn Trường Tộ? Ðến bao giờ người Phật Tử mới quên hết những ngày tăm tối của một thời tôn giáo trị đã nổ bùng thành ngọn lửa Quảng Ðức, một thời đảng trị vô tôn giáo còn đang tiếp tục tước đoạt, bắt bớ, giam cầm? Ðừng bao giờ nói bừa là «người Việt Nam không hề thù hận nhau». Và nhất là đừng bao giờ tự bào chữa rằng chúng ta đã không hề hay biết. Rồi một ngày nào, khi hận thù đã được giải tỏa, chúng ta sẽ nói chuyện hòa hợp. Chúng ta sẽ ôn lại chuyện đời xưa để hiểu chuyện ngày nay hơn. Ðọc lại lịch sử bao đời huy hoàng, ta sẽ tự nhủ: vốn cũ, thật ra cũng không tồi dở quá như ta tưởng. Chúng ta sẽ nhớ lại ông vua nào ở thế kỷ trước đã cõng người ngoài vào, để sau này con cháu mất nước, ông vua nào của một thời xa xưa hơn, đã tin người ngoài dù là con rể, đến mất cả nỏ thần. Chúng ta sẽ gợi lại chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh và nhắc nhở nhau rằng, tổ tiên ta sâu sắc, không chỉ dựng lên huyền thoại này để giải thích nạn lũ lụt. Trở về đến tận cội nguồn gốc rễ, với chuyện trứng nở ra người, rồi người lên non kẻ xuống bể, chúng ta bỗng thấy mình không giống ai, biết mình cũng có một nền văn hóa độc đáo, hiểu Kinh - Thượng là con một nhà, và tự hứa sẽ không bao giờ làm gì để anh em lại phải bỏ nhà ra đi, trèo non hay vượt biển một lần nữa. Hướng tới tương lai, không hổ thẹn mà hãnh diện làm «con của muôn phương» , ta sẽ biết đất nước là một đại gia đình, chỉ cần có một trái tim và một khối óc như Trần Dần đã trách móc mơ tưởng ngày nào, là gia đình ta sẽ có đủ chỗ cho mọi đứa, dù theo Khổng, theo Lão, theo Phật, theo Chúa hay theo Marx. Ðứa nào cũng nhiều những ngón sở trường sở đoản nên chẳng đứa nào hoàn toàn, nhưng nếu chịu từ bỏ tham vọng độc tôn, chịu học hỏi lẫn nhau, hiểu đất trời mênh mông hơn mọi thế giới quan, biết tự đối chiếu với khoa học, biết đoàn kết phân công với nhau,... chúng có thể đưa con thuyền đất nước ra khơi, mang nó đến những chân trời đẹp đẽ mà tổ tiên ta chưa bao giờ dám mơ ước có ngày được chiêm ngưỡng. Mất nước, chúng ta đã hấp tấp bước vào tiến trình âu hóa. Có lẽ chưa một dân tộc nào đã chấp nhận đoạn tuyệt với quá khứ một cách dứt khoát, lộ liễu và tàn nhẫn, ngay cả trong lãnh vực ngôn ngữ, như chúng ta. Không có bao nhiêu thời giờ để thực sự suy nghĩ, chúng ta đã ôm chầm lấy những giá trị mới, giả định là tinh hoa của kẻ chiến thắng, mang về làm quà cho quê hương, chẳng ngờ hoa thơm lẫn lộn với cỏ độc. Vì chúng, vì nọc đấu tranh, chúng ta đã quay ra thanh toán nhau, chồng chất hận thù. Từ vị trí hôm nay, chúng ta không có con đường nào khác hơn là hóa giải những món quà văn minh ấy, hòa giải với nhau, và tìm lại sự hòa hợp trên một cơ sở chung khác. «Hóa giải, hòa giải, hòa hợp» không phải chỉ là một cụm từ muốn bỏ hay giữ cũng được. Chúng tóm tắt NHỮNG VẤN ÐỀ SỐNG CHẾT VÀ CÓ THẬT của đất nước. Chúng phải là nền tảng của mọi cương lĩnh chính trị có trách nhiệm, nếu những cương lĩnh đó còn muốn có đôi chút liên hệ với thực trạng quê hương, với tiền đồ tổ quốc. 5 - Cụm từ của một thông điệp đấu tranhTính chất chánh đáng của những vấn đề do cụm từ đặt ra được xác nhận ở chỗ ngay cả những người tự xưng là chống «hòa giải, hòa hợp dân tộc» cũng chưa bao giờ tấn công thẳng vào nội dung hàm chứa trong mỗi vế của cụm từ. Luận cứ chống đối chính thường được nêu ra là: trong giai đoạn hiện tại, vấn đề trước mắt không thể nằm ngoài cuộc đấu tranh chống cộng sản độc tài, «trong khi chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc tương đương với một sự chấp nhận, một thỏa hiệp, một sự đầu hàng ÐCSVN». Chủ trương, do đó, «có tác dụng giải ngũ đối với công cuộc kháng chiến chống cộng sản, như 20 năm trước đây, nó đã có cùng một tác dụng đối với quân đội VNCH» . Thật ra, với một chút thiện ý, ai cũng có khả năng nhìn thấy những nội dung đấu tranh cụ thể trong từng vế một của cụm từ. Nhận định từ ánh sáng của những phong trào nhân dân ở các nước Ðông Âu, của cuộc đấu tranh đòi cởi trói trong nước, của các bản văn lấy thái độ ở ngoài nước, đó là: sự thoát ly ra khỏi ách khống chế, không những của các chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin, mà ngay cả chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa Marx; sự chấm dứt các trò cải tạo, hộ khẩu, lý lịch và mọi biện pháp công an hay phân biệt đối xử khác; sự chấp nhận những đòi hỏi về nhân quyền, dân chủ đa nguyên và tự do kinh tế. Không thể nào có ngộ nhận về nội dung chính trị cụ thể của mỗi danh từ! Ngộ nhận - nếu gọi đó là một ngộ nhận - đến từ một lý do khác. Người ta có thể chống cộng bằng bạo lực chiến tranh hay bằng hành động chính trị. Và chủ trương «hóa giải, hòa giải, hòa hợp dân tộc» chính là một lập trường đấu tranh chính trị công khai, bao hàm sự từ bỏ con đường võ trang phục quốc. Người ta chống lý tưởng «hòa giải» không phải vì đây là một cụm từ của cộng sản hay đã bị cộng sản làm ô uế (nếu thế, phải phủ nhận cả bao nhiêu danh từ khác, kể từ «tổ quốc», «độc lập», «cách mạng», «hòa bình», «thống nhất» trở đi). Người ta chống nó vì một lý do tầm thường hơn: sự lo ngại mất ảnh hưởng, quần chúng, cho lập trường của mình. Lập trường chính trị nào cũng vậy, một khi được công bố trước công luận, trở thành một thông điệp, không nhất thiết chỉ dành riêng cho địch thủ. Lập trường «hóa giải, hòa giải, hòa hợp», trước hết, là một thông điệp cho người quốc gia. Nó xác lập một số luận điểm căn bản. 1) Chủ nghĩa cộng sản đã thành công trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, nó sẽ thất bại khi những điều kiện dẫn đến sự thành công ấy không còn nữa. 2) Chủ trương chống cộng, do đó, không thể là một lẽ sống đáng cho chúng ta đem làm chánh nghĩa; những người dân tộc, ý thức được hướng đi của thời cuộc và chưa mất hết độc lập tư tưởng, phải đi tìm một cơ sở tập hợp mới. 3) Cơ sở đó không thể là sự động viên chiến tranh, vì tổ quốc không còn sức chịu đựng một cuộc chiến tranh khác, vì chiến tranh bằng súng đạn đã lỗi thời, vì chiến tranh sẽ mở ra một chu kỳ lệ thuộc khác. 4) Cơ sở đồng thuận đó chỉ có thể là những vấn đề thực của quê hương và một đường lối chính trị phù hợp, được nhận thức tỉnh táo, bàn cãi sâu rộng, và thực hiện nghiêm chỉnh. Tất cả những bất hạnh của đất nước đến từ một nghịch lý lớn: ở Việt Nam, chánh nghĩa độc lập nằm trong tay một chính đảng không lấy thực tại quốc gia mà lấy thực tại giai cấp làm nền tảng, trong khi những đảng phái đáng lẽ phải biết lấy chủ quyền dân tộc làm chánh nghĩa đấu tranh lại luôn luôn hành động dưới sự che chở nếu không muốn nói là sự chỉ đạo của thực dân rồi đế quốc. Tinh thần thắng bại, song song với sự chênh lệch trong tương quan lực lượng, đã thay đổi hẳn những dữ kiện căn bản của bài toán quốc cộng. Chúng cũng đồng thời giải thích sự thành công của ÐCSVN và sự thất bại của các đảng chống cộng, cho đến ngày vấn đề chủ quyền dân tộc có thể xem như đã tạm thời được giải quyết trong những nét chính. Chúng ta phải tự hóa giải một số thành kiến. Thành kiến đầu tiên là, cho đến bây giờ, người quốc gia đã chiến đấu dưới sự hướng dẫn của những nhà lãnh đạo thật sự dân tộc; thật ra, đây chỉ là những lãnh tụ chống cộng, lấy cuộc đấu tranh chống cộng sản làm chủ nghĩa, cứu cánh và lẽ sống. Họ có thể có chỗ đứng trong một chiến lược toàn cầu chống các quốc gia và phong trào cộng sản quốc tế của một số cường quốc tư bản, nhưng lại không có bao nhiêu gốc rễ dân tộc (văn hóa, chương trình hành động, tác phong). Vì thế mà trước dư luận thế giới, Bảo Ðại, Nguyễn Văn Thiệu, và ngay cả Ngô Ðình Diệm cũng chỉ bị xem là tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ, trong khi một Hồ Chí Minh hay một Tito lại được nhận định như những người đã khai sinh ra «chủ nghĩa cộng sản dân tộc». Thành kiến thứ hai là có một hố sâu không thể lấp giữa những người đã chiến đấu - tôi nói những người đã dấn thân một cách có ý thức - trong hai hàng ngũ quốc gia và cộng sản. Thật ra, không kể các tập đoàn lãnh đạo, đa số cán bộ hai bên đều là những người yêu nước, và họ đều đã nhìn thấy những vấn đề căn bản của tổ quốc: độc lập đối với bên ngoài và dân chủ bên trong. Họ chỉ khác nhau ở nhận định về thời điểm đặt vấn đề. Nhiều người, tuy không phải là cộng sản, chấp nhận đấu tranh dưới sự điều khiển của ÐCSVN (như lực lượng chống ngoại xâm hữu hiệu nhất), từ chối đặt vấn đề chế độ trước khi giành lại được chủ quyền. Người khác, nhìn thấy trong sự lớn mạnh của ÐCSVN một mối đe dọa lớn cho tương lai đất nước, đặt vấn đề tự do dù trong điều kiện còn lệ thuộc nước ngoài, và đứng vào hàng ngũ chống cộng. Ngọn gió lịch sử đã quyết định sự thành bại của cuộc tranh chấp, nhưng ngọn gió nào rồi cũng có ngày phải đổi chiều... Thành kiến thứ ba là chúng ta không thể chiến thắng cộng sản được bằng đấu tranh chính trị. Chúng ta sẽ tiến một bước rất xa, nếu chúng ta hiểu rằng, cái thời thế đã đưa đẩy ÐCSVN đến thành công không những đã hoàn toàn thay đổi trên cả hai bình diện quốc tế lẫn quốc gia, mà còn đã và đang tác động theo chiều ngược lại. Tham vọng độc quyền khiến Ðảng bị kẹt quá lâu trong cuộc chiến tranh giải phóng; kết quả là khi Ðảng nắm được chánh quyền trên cả nước cũng là lúc phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu suy tàn. Cũng vì tham vọng độc quyền, Ðảng đã làm một sai lầm vô phương cứu chữa khi chỉ nhận định thời điểm 1975 như một điểm kết thúc, không thấy nó đồng thời cũng là điểm khởi hành của một hợp đồng chính trị mới, trong đó Ðảng không còn lá bài độc lập làm bùa hộ mạng. Vấn đề dân tộc, chỗ mạnh của Ðảng trước 1975, đã trở thành điểm yếu: không ai giành lại chủ quyền để sau đó hủy hoại cộng đồng dân tộc, đưa quê hương đến chỗ kiệt quệ, đặt đất nước trước họa suy thoái nòi giống và họa Bắc thuộc vĩnh viễn... Ðảng đã mất cả hậu thuẫn bên trong lẫn bên ngoài. Người ta đã dùng chiến tranh để dẹp cách mạng, dùng độc tài để chống chuyên chế. «Lấy độc trị độc», cái độc hơn đã thắng, ÐCSVN đã bước lên địa vị một đảng cầm quyền trên cả nước. Trở lại với giải pháp chiến tranh bây giờ, trong giả thuyết đây là một điều có thể làm được, sẽ đưa đất nước trở về ngõ cụt. Trong điều kiện hiện nay, không một lực lượng quốc gia nào có khả năng phát động một cuộc chiến tranh phục quốc, nếu không được sự giúp đỡ của ngoại bang, cụ thể là Hoa Kỳ - không nói đến những kẻ đủ điên để, một dạo, muốn cầu cứu cả Trung Quốc! Người ta sẽ lại vô tình giao trả ÐCSVN lá bài độc lập; những người đang tranh đấu cho một thể chế khác trong nước có thể sẽ lại, chỉ vì phản ứng chống đối sự lũng đoạn của nước ngoài, tạm gác những đòi hỏi tự do dân chủ và chấp nhận sự lãnh đạo của Ðảng. Tiền lệ 1955-1956 sẽ lại tái diễn: cuộc đấu tranh chống Ðảng vừa manh nha đã hòa tan trong cuộc chiến tranh chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Ví thử lần này cuộc chiến tranh phục quốc thành công, chúng ta sẽ hành động ra sao? Thật ra, chúng ta không có bao nhiêu chọn lựa. Hoặc, «máu kêu trả máu, đầu van trả đầu», chúng ta sẽ hành động như ÐCSVN từ 1975, tiếp tục làm chiến tranh với kẻ chiến bại, đưa dân tộc vào một thời kỳ phân hóa khác. Hoặc, chợt hiểu dù có hơi muộn màng, «chính trị là chỗ người ta nhìn vào để yên tâm sống», chúng ta sẽ làm khác đi, quyết tâm đi tìm một sự ổn định, đưa đất nước qua một trang sử mới. Cái sự làm khác đi đó có những tên gọi:«hóa giải» các chủ nghĩa; «hòa giải» mọi oán thù; «hòa hợp dân tộc» trên tình đồng bào, lòng yêu tổ quốc và một dự phóng cho tương lai. Vấn đề gọi chung là «hòa giải», dù sao cũng phải đặt ra, thế nào rồi cũng sẽ đến; nó là số phận của mỗi cá nhân chúng ta. Tất cả vấn đề là ta sẽ đương đầu với cái ÐỊNH MỆNH ấy lúc nào, trước hay sau một cuộc đỏ đen đẫm máu người vô tội khác? 6 - Cụm từ của một tập hợp yêu nước mớiChiến tranh là sự tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện bạo động, bằng sự đổ máu. Cái lô gích của nó là «được làm vua, thua làm giặc» , và nhận định này không chỉ có giá trị cho một bên, quốc gia hay cộng sản. Khác với thể thao, chiến tranh không bao giờ kết thúc trong sự đề huề «thắng cũng vinh mà bại cũng anh hùng» (Cao Tần). Kẻ chiến thắng có thể mang người bại trận ra xét xử hay hạ nhục, và kẻ bại trận có thể sẽ bỏ vào bưng biền hay ra ngoại quốc kháng chiến. Cái vòng luẩn quẩn mấy mươi năm nay lại bắt đầu một chu kỳ mới! Khi hai bên không thể nào tiêu diệt lẫn nhau, chính trị lại trở thành lối thoát duy nhất. Làm chính trị không phải là từ bỏ đấu tranh, nó chỉ là tìm cách thực hiện mục tiêu bằng sự dàn xếp ôn hòa, tránh đổ máu, hoặc trên một mẫu số chung, hoặc trên một cái gì cao cả hơn là những quyền lợi đảng phái. Cái lô gích của nó là «được thua đều là công dân». Nếu không muốn bước vào lối mòn cũ, cơ sở cho một tập hợp dân tộc mới chỉ có thể là chính trị. Cụm từ «hòa giải, hòa hợp» chính là nền tảng của một cuộc đấu tranh chính trị như thế. Ðấu tranh, bởi vì nó chính là một lập trường đủ sức đánh gục ÐCSVN, nhưng trong sự tôn trọng những quyền lợi tối cao của đất nước. Chính trị, vì nó chủ trương đạt tới kết quả ấy bằng cách động viên lòng yêu nước, lý trí và lương tri của tất cả mọi người Việt Nam, kể cả những người còn đứng trong hàng ngũ cộng sản. Tất cả vấn đề là chúng ta sẽ thực hiện nó như thế nào, phải mang lại những lời giải đáp cụ thể nào cho một số thắc mắc rất chính đáng: ai sẽ phải hóa giải cái gì, ai sẽ hòa giải hòa hợp với ai? Chủ trương «hóa giải, hòa giải, và hòa hợp» có một giới hạn khách quan. Chúng ta không thể nào vừa đòi hỏi hóa giải, vừa đồng thời chấp nhận chủ nghĩa Marx-Lênin như khoa học và thỏa hiệp với một bộ máy còn muốn áp đặt chủ nghĩa này như chân lý cho đất nước. Chúng ta cũng không thể hòa giải với một bộ máy còn tiếp tục nuôi dưỡng căm thù, hoặc trong tư tưởng, hoặc trong hành động, như nguyên tắc đấu tranh. BÔ MÁY đó chính là những người đã nắm vận mạng đất nước trong tay từ 15 năm nay, chính là tập đoàn lãnh đạo ÐCSVN. Họ đã kêu gọi hòa giải, hòa hợp; họ đã có cơ hội thực hiện những điều cam kết. Họ đã trở mặt; họ không xứng đáng có một cơ hội thứ hai. Ngay cả những người đấu tranh cho đổi mới bên trong Ðảng cũng đã am hiểu một cách sâu sắc điều ấy: không ai có thể làm cái gì mới với những dạng người đã han rỉ của một bộ máy điên loạn.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:22:42 GMT 9
Vấn đề «hòa giải, hòa hợp» chỉ có thể đặt ra giữa những CON NGƯỜI với nhau. Nó phải bắt đầu giữa những người yêu nước đã một lần lỡ hẹn, vì kẻ khát khao độc lập, người ao ước tự do. Không còn bị phân cực vì vấn đề chủ quyền dân tộc, hai con đường ngược chiều ấy bây giờ đang đồng quy trên một tụ điểm: DÂN CHỦ ÐA NGUYÊN. Kẻ đã đấu tranh cho độc lập có thể bỗng ý thức là những người anh em địch thủ của mình đã không lầm lẫn hoàn toàn khi đặt vấn đề chế độ tương lai. Và người đã tranh đấu cho tự do có lẽ cũng chợt khám phá ra rằng những kẻ thù ruột thịt của mình đã không sai lạc trọn vẹn khi chống đối sự thống trị của nước ngoài. Ðiều chắc chắn là đất nước chỉ có thể tìm ra một lối thoát từ những bàn tay đang thành khẩn vươn tới nhau đó. Cũng vì tổ quốc, chủ trương «hòa giải, hòa hợp» còn cần phải được mở rộng đến cả, ít nhất là một phần lớn những người cộng sản. Mới đây, Trần Bạch Ðằng, một cán bộ cao cấp của Ðảng, vừa xác nhận là số lượng đảng viên của ÐCSVN chỉ vào khoảng hai triệu người, trong đó chỉ có một phần tư là «có giá trị», nghĩa là còn chia sẻ với tập đoàn lãnh đạo Ðảng cái giấc mơ đã trở thành cơn ác mộng cho cả nước. Ðối với ba phần tư còn lại, tấm thẻ đảng viên chỉ đơn thuần là mảnh giấy tiến thân, đôi khi đầy ân hận tủi hổ, vì nó bao hàm khá nhiều chối bỏ, từ tình đồng bào, nghĩa đồng đạo, đến quan hệ gia tộc. Ngay ở 500.000 người được kể là thuộc thành phần «trung kiên», sau 15 năm toàn quyền xây dựng thời kỳ quá độ, sau các biến động ở Ðông Âu, và sự phát hiện những tình cảm trung thực của người dân bản xứ đối với chế độ cộng sản, bao nhiêu người nay còn sẵn sàng chia trái tim mình «thành ba phần tươi đỏ», để «dành riêng cho Ðảng phần nhiều» (Tố Hữu), hoặc còn «thiết tha yêu chế độ đến hơi thở cuối cùng» (Hữu Loan)? Tập đoàn lãnh đạo Ðảng chưa bao giờ bị cô lập như bây giờ. Và chủ trương gọi tắt là «hòa giải», nhắc lại những vấn đề sống còn của đất nước, lặp lại những cam kết tráo trở, phơi trần vết thương còn đỏ máu, chỉ có tác dụng tố cáo nó mạnh mẽ hơn, cô lập nó một cách trọn vẹn hơn. Ðó là giá trị chiến lược của chủ trương, đã từng được nhiều người phân tích. Mỗi bàn tay vươn tới những con người đang suy tư, nghi ngại, ở trong hay ở ngoài Ðảng, là một bàn tay giải thoát đất nước. Phải có một đầu óc, một nhãn quan chính trị đặc biệt lắm mới có thể hiểu chính sách «hòa giải, hòa hợp» như một hành động cứu trợ, một sự thỏa hiệp với Trung Ương Ðảng! 7 - Cụm từ của tâm niệm đa nguyên đích thực và vĩnh cửu
Nhưng chính chúng ta cũng sẽ làm một lỗi lầm, một tội ác ngu xuẩn đối với đất nước và những thế hệ sau, nếu chúng ta cũng chỉ dừng lại ở chủ trương «hóa giải, hòa giải, và hòa hợp dân tộc» như một chiến lược giai đoạn khôn khéo, có thể dễ dàng cất bỏ vào viện bảo tàng lịch sử, một khi đã giành lại được chính quyền. Nghĩa là nếu bản thân chúng ta cũng sẽ lại bước vào vết xe đã đổ của ÐCSVN, ngủ quên trên những lời hứa cuội, trên bao cơ hội đã bỏ lỡ. Ngày nào, sau bao cuộc đổi đời tan tác, khi nhiều tên nô lệ - những tên chưa được giải phóng! - vẫn còn ôm ấp giấc mơ đến lượt mình trở thành đao phủ, ngày ấy chúng ta còn phải tỉnh thức, còn phải khắc sâu vào trong tim óc một lời tâm niệm đó và chưa có quyền lạc quan nhìn tới tương lai. «Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa, Ông anh hùng ông cứu được quê hương»... Bao nhiêu người đã mơ mộng như Cao Tần, để tự đặt mình trước một câu hỏi. Ông sẽ làm gì đối với những kẻ đã đánh ông lộn nhào, đã làm nước ông nghèo đói, đã biến bao đồng bào thành những oan hồn vất vưởng giữa trùng dương? Ðối với tập đoàn lãnh đạo Ðảng, vấn đề dễ tính mà cũng dễ giải quyết: như Thiệu, như Kỳ, những con người đã gieo rắc ngần ấy ngọn gió uất hận sẽ chẳng bao giờ có đủ can trường ở lại, để gặt hái cơn bão trở về! Như ở bao kịch máu khác, kẻ ngồi lại chịu trận chỉ là bọn người thừa hành. Ta đối xử với nhau thế nào đây? Ông sẽ hóa kiếp những cán bộ đổi đời? sẽ tẩy não các chuyên viên cải tạo? sẽ tước đoạt lại bọn thâu mua? hay thân ái hơn, đáp lễ nhau một chuyến ra khơi? Không thiếu gì những tiếng nói khôn ngoan của đảng phái nhắc nhủ: «phòng bệnh hơn chữa bệnh», «thà giết oan một sinh mạng, còn hơn giết hụt một kẻ thù lợi hại». Cũng đâu thiếu gì những điệp khúc sôi nổi của lòng căm thù giục giã: «mắt trả mắt, răng trả răng»... Nhưng đó chỉ là những tiếng nói của hư vô, chúng không thể dẫn đến một bến bờ nào khác hơn là cửa nghĩa địa, với những hố chôn tập thể, những mộ hoang ngang dọc. Tất cả vấn đề - và những người chống chủ trương «hòa giải hòa hợp dân tộc» phải trả lời câu hỏi này một cách thật chân thành và minh bạch, trước đất nước và trước cộng đồng - là chúng ta có ý muốn và có khả năng, vừa ổn định đất nước, vừa thanh toán (làm cỏ, giam cầm, hay rửa sọ) cả trăm ngàn đảng viên ÐCSVN hay không? Tất cả vấn đề - và ở đây, những người kêu gọi «tự do dân chủ», cũng phải giải đáp với tất cả sự rõ ràng và thành thực cần thiết - là chúng ta có thể vừa cổ võ cho chủ nghĩa đa nguyên, vừa muốn ngăn cấm sự hiện diện của một hệ tư tưởng, một khuynh hướng chính trị hay không? Nếu trong cả hai trường hợp, câu trả lời đều ở thể phủ định, chúng ta thật tình chỉ có MỘT cửa ra! Ðốt sách và chôn học trò, Tần Thủy Hoàng ngày xưa vẫn không loại trừ được học thuyết nhân trị; cấm và giết đạo, vua quan nhà Nguyễn thế kỷ trước cũng không ngăn chận được sự phát triển của Thiên Chúa Giáo. Thắc mắc «chúng ta sẽ cho phép chủ nghĩa cộng sản, một đảng cộng sản trong chế độ đa nguyên hay không?» thật ra không có bao nhiêu ý nghĩa. Chưa một hệ tư tưởng nào đã cáo chung chỉ vì bị ngăn cấm - nhưng một chủ nghĩa có thể bị vô hiệu hóa, khi những tín đồ của nó đã mất hết lòng tin. Cũng chưa một chánh đảng nào đã ngoan ngoãn tự giải tán khi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật mà không tìm cách tự vệ - nghĩa là rút vào đấu tranh bí mật, với các trò khủng bố, phá hoại cổ điển. Chúng ta chỉ có thể chiến thắng cộng sản, thật sự, trọn vẹn và vĩnh viễn, bằng cách vạch trần những sai lầm của thế giới quan cộng sản; và đó là điều chúng ta phải quan tâm nhận lãnh, trước cũng như sau khi giành lại được chánh quyền. Con đường cứu đất nước chưa bao giờ là một đại lộ thênh thang, với vòng hoa và thảm đỏ; nó chỉ có thể là một triền dốc cheo leo, đầy chướng ngại và thách đố. Sống chung với những kẻ đã gây ra bao đổ vỡ tang tóc cho bản thân mình, trong một thời gian có thể khá dài, là điều cực kỳ khó khăn. Nhưng nếu khước từ chuyện trả oán trên một quy mô rộng lớn, chúng ta không còn giải pháp nào khác. Ðiều may mắn là, đâu từ trên cao, còn có lời của tổ quốc khẩn thiết: đất nước không thể nào thoát khỏi họa diệt vong, nếu không ai đứng ra chặt đứt cái vòng hận thù oan nghiệt. Ðiều may mắn là, đâu tự trong thâm sâu, còn có tiếng vọng của ý thức về sự hữu hạn: «Với thời gian, lê vết máu qua đi» ...(Vũ Hoàng Chương). Tất nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng là Bồ Tát. Nhưng đất nước phải giải quyết những vấn đề trọng đại. Nếu muốn trả nợ cho quê hương, dù nhỏ bé tầm thường, chúng ta cũng phải vươn mình đến một tầm vóc hữu ích. Ðó có thể là kích thước của người xưa. Của một Nguyễn Trãi tột cùng nhân nghĩa, dù chiến đấu chống quân ngoại xâm, vẫn biết «Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân mà thay cường bạo». Của một Voltaire rốt ráo đa nguyên, «Tôi không biết có đồng ý được với anh hay không, nhưng tôi sẽ làm đủ mọi cách để anh có thể phát biểu ý kiến». Ðó cũng có khi chỉ là tầm vóc của người đời nay. Của một Mandela cương quyết mà ôn hòa, nhất định lật đổ độc quyền chủng tộc, nhưng vẫn sẵn sàng sống chung, ngay cả với những kẻ không muốn công nhận cho màu da đen của ông quyền làm người và làm công dân. Của một Nguyễn Mạnh Tường độ lượng và sáng suốt, hỏng cả một đời, vẫn biết tha thứ và kêu gọi thứ tha để đất nước còn hy vọng có ngày cất cánh. Hãy luôn luôn nhớ là chúng ta đang đấu tranh với những kẻ cùng máu mủ, đã một thời cũng đau khổ như chính ta. Ðừng vội quên là chúng ta đã và vẫn còn đang cam kết đa nguyên. Nếu đã trót nâng niu cái giấc mơ «Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo» của Cao Tần, xin hãy dám mơ tới cùng Lê Tất Điều, «Lùa cả nước vào học tập yêu thương». Phạm Trọng Luật Thông Luận, số 29, tháng 7-8, 1990
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:25:37 GMT 9
ÐẢNG, NHÀ NƯỚC, XÃ HỘI DÂN SỰ:
SUY NGHĨ VỀ
CUỘC CÁCH MẠNG CỦA
ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Pham Trong Luat Ðiều còn đau lòng hơn cả sự không thực hiện được lý tưởng có khi là sự trông thấy nó được thực hiện (Cesare Pavese) I) 1870-1975: VÀI DỮ KIỆN LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ 1) BA ĐỊA BÀN CÁCH MẠNG Làm thế nào đưa một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công? Ðối với người cộng sản, câu trả lời hiển nhiên nhất là phải có một chiến lược cách mạng phù hợp với đặc tính của «hình thái kinh tế xã hội» đang cần thoát xác. Nghiên cứu một cách khách quan và nghiêm chỉnh xã hội đối tượng của cách mạng, vì thế, phải là ưu tư số một của các đảng cộng sản: phát hiện những vấn đề căn bản của xã hội đó trong từng giai đoạn (độc lập, dân chủ, phát triển?), nhận diện giai đoạn phát triển của nó (tư bản tiên tiến, tư bản phôi thai hay tiền tư bản?), quan hệ giữa «hạ tầng» và «thượng tầng», giữa các «lực lượng sản xuất» và «quan hệ sản xuất», bản chất của nhà nước (nhà nước của các thế lực phong kiến, của giai cấp tư sản dân tộc hay lệ thuộc tư bản nước ngoài?), quan hệ giữa nhà nước (khoảng không gian của chính trị, chính xác hơn nữa, của bộ máy chính quyền) và xã hội dân sự (khoảng không gian ngoài nhà nước, của xã hội, văn hóa, khoa học, mỹ thuật, v.v...) (1) đều là những vấn đề không thể né tránh trong thực tiễn cách mạng. Ngược với tiên đoán của Karl Marx về sự tiêu vong của chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế tư bản, dù chao đảo nghiêm trọng vì chiến tranh và khủng hoảng (như năm 1929), không hề ở trong tình trạng «giẫy chết». Chẳng những thế, từ 1870, nó còn chuẩn bị bước vào tương lai trên hai chân vững chắc, một mặt, với sự bành trướng của chế độ thuộc địa, mặt khác, với sự bắt rễ của thể chế dân chủ đại nghị ngay tại các nước Tây Phương. Nhờ tác động qua lại giữa chính quốc và thuộc địa, giữa «thượng tầng» và «hạ tầng», giữa chính trị và kinh tế,... thay vì tiêu vong, chủ nghĩa tư bản đang mỗi ngày một được củng cố ở các quốc gia công nghiệp, và từ từ được quốc tế hóa. Nếu sự thực này ngày nay (1990) đã được công nhận như một điều hiển nhiên, trong quá khứ nó vẫn thường bị đánh giá sai lạc, vì một số giáo điều của chủ nghĩa Marx-Lênin, như: «chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản» - trong khi chủ nghĩa đế quốc đi trước và mở đường cho chủ nghĩa tư bản (2), và «dân chủ thực sự hoàn toàn mâu thuẫn với dân chủ hình thức» - trong khi dân chủ thực sự chính là dân chủ hình thức, cộng thêm những điều kiện cần thiết để thực thi các quyền tự do dân chủ, v. v... Thực ra, nhiều lý thuyết gia theo Marx như Kautsky và Gramsci cũng đã nhận thức được những thay đổi sâu sắc trong xã hội tư bản và đã bắt đầu suy nghĩ về một chiến lược cách mạng thích hợp với các quốc gia Tây Âu. Nhưng trong khi họ còn đang ở vào thời kỳ thai nghén, thì cuộc cách mạng tháng 10-1917 của Lênin đã nổ bùng ở Nga. Bên cạnh vấn đề «làm thế nào làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản tiên tiến» nẩy sinh một câu hỏi khác, «có thể áp dụng chiến lược cách mạng của Ðảng Cộng Sản Nga (ÐCSN) vào hoàn cảnh ở Tây Âu hay không?». Tình hình còn trở nên phức tạp hơn nữa, với sự xuất hiện của các phong trào giải phóng thuộc địa, muốn tiến thẳng từ một nước nông nghiệp lạc hậu, vừa mang nặng vết tích của «phương thức sản xuất phong kiến» («Châu Á»?), vừa sống dưới sự lũng đoạn hoặc ngay cả sự cai trị trực tiếp của các nước phát triển Tây Âu, lên một xã hội, trên nguyên tắc, chỉ có thể đến sau chủ nghĩa tư bản! Nói chung, ở nửa đầu thế kỷ thứ 20, người ta có thể kể đến ít nhất là 3 địa bàn cách mạng trên thế giới: các quốc gia phát triển, những xứ kém mở mang, và các nước thuộc địa. Trong khi mỗi địa bàn cách mạng đòi hỏi một chiến lược cách mạng riêng biệt, với sự hình thành của «Ðệ Tam Quốc Tế» và sự thần phục của các đảng cộng sản năm châu vào một chủ nghĩa («chủ nghĩa Marx-Lênin») cùng với một trung tâm điều khiển («Komintern»), cuộc tranh luận về chiến lược cách mạng dần dần đi vào ngõ cụt, và bị đơn giản hóa vào một khuynh hướng nguy hại, đó là sự rập khuôn theo cuộc cách mạng Nga - một cuộc cách mạng đặc thù, mặc dù không có giá trị phổ biến, đã trở thành mẫu mực vì lý do thời cuộc. Việc phát hiện một chiến lược cách mạng phù hợp với các nước tư bản tiên tiến rơi vào lãng quên, và ở các xã hội lệ thuộc, nếu một đường lối cách mạng khác được áp dụng, nó chỉ là một giai đoạn cần phải gấp rút vượt qua. Trường hợp phải tìm một lý do ngoại sinh cho sự thất bại của cuộc cách mạng ở Việt Nam, thì đây là lý do đầu tiên. 2) GIAI ÐOẠN ÐẢ PHÁ: HAI MÔ HÌNH CÁCH MẠNG Cuộc cách mạng nào cũng có hai giai đoạn, đánh đổ cái cũ và xây dựng cái mới. Vì tính chất vũ bão và triệt để của nó, giai đoạn đả phá thường được đồng hóa với toàn bộ một cuộc cách mạng. Cuộc tranh luận về chiến lược cách mạng - lật đổ xã hội cũ - ở các quốc gia tư bản phát triển xoay quanh một số trục chính, với những khái niệm và nhận định có tầm quan trọng quốc tế. Tìm hiểu cuộc tranh luận này, vì thế, cũng có thể giúp chúng ta có một cái nhìn sáng sủa hơn về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Ðầu tiên là sự phân biệt giữa hai khái niệm: «thời đại» và «bối cảnh lịch sử». Nếu nửa đầu thế kỷ thứ 20 được đánh giá, trên hướng đi lên, như một thời đại thuận lợi (sự xuất hiện của chủ nghĩa Marx-Lênin, của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Liên Xô, của cao trào giải phóng thuộc địa và các tổ chức công nhân ngày càng lớn mạnh ở những nước tư bản), khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến lại là một bối cảnh không nhất thiết phải thuận lợi cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Tây Âu (nhà nước tư bản còn vững vàng, chế độ dân chủ hình thức được chấp nhận rộng rãi, phong trào công nhân nói chung còn cô lập và thiếu ý thức cách mạng). Bối cảnh lịch sử ở Tây và ở Ðông Âu (Nga) khi nổ ra cuộc cách mạng tháng 10-1917, do đó, rất khác nhau. Sự khác biệt về bối cảnh đó được thể hiện cơ bản ở bản chất của nhà nước: một bên là nhà nước nghị viện của giai cấp tư bản đã trưởng thành, một bên còn là nhà nước quân chủ của giai cấp quý tộc phong kiến. Ở Nga, «nhà nước là tất cả» trong lúc xã hội dân sự còn ở trong tình trạng «nguyên thủy và nhẽo nhoẹt» - do đó, không có khả năng chống trả lại một cuộc cách mạng; ở Tây Âu, nhà nước chỉ mới là một «chiến hào bên ngoài», trong khi xã hội dân sự lại là một hệ thống những «đồn lũy và pháo đài» kiên cố - vì thế, có tiềm lực kháng cự lâu dài với cách mạng (Gramsci). Nếu ở Nga, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản có thể xem như đã hoàn thành sau khi chiếm lĩnh được nhà nước phong kiến, ở Tây Âu, nó không thể thành công, nếu chưa chinh phục được xã hội dân sự. Từ phân tích này nẩy sinh hai chiến lược cách mạng trái ngược nhau. Nếu tất cả lực lượng sống của đối phương đều tập trung vào một bộ máy hành chánh - chính trị, đảng cộng sản có thể làm cách mạng như tiến hành một cuộc «chiến tranh di động» (Gramsci), đánh bại giai cấp quý tộc bằng «chiến lược lật đổ» (Kautsky) nhà nước phong kiến. Ngược lại, nếu lực lượng của địch thủ được dàn trải trên mặt phẳng sâu rộng của một xã hội dân sự tự chủ, đảng cộng sản phải làm cách mạng như tiến hành một cuộc «chiến tranh đường hầm» (Gramsci), bằng «chiến lược tiêu hao» (Kautsky), chinh phục từng vị trí của giai cấp tư sản, trong đó nhà nước chỉ là một khâu, đầu tiên hay cuối cùng, của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, trái với tại Ðông Âu, giai cấp công nhân không thể nào làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước công nghiệp tiên tiến, nếu lý tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được toàn thể xã hội chấp nhận, và nếu chưa có một liên minh tất cả các giai cấp trong xã hội nhằm chống lại sự bóc lột của giai cấp tư bản, trên cơ sở của hệ tư tưởng vô sản. Theo quan điểm này, việc phổ biến hệ tư tưởng cộng sản và liên kết với các giai cấp khác trở thành điều kiện tiên quyết của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Tây Âu. Vấn đề liên minh giai cấp (3), tự nó đã quan trọng, do đó, càng ngày càng giữ vai trò mấu chốt trong chiến lược cách mạng. Dù sao, từ đây về sau và đứng về mặt lý luận, tùy theo địa bàn và chiến lược cách mạng áp dụng, người ta có thể xác định hai mô hình cách mạng đối lập, cái thứ nhất dựa vào chiến lược của Lênin ở Nga, cái thứ hai dựa vào sự phân tích của Gramsci về Tây Âu. Sự đối lập của hai mô hình được xây dựng trên nhiều cặp khái niệm tương phản quan trọng, xuất phát từ sự phân biệt cơ bản giữa nhà nước và xã hội dân sự, dù quan niệm về xã hội dân sự thật ra cũng không hoàn toàn nhất quán giữa các khuynh hướng và những người theo chủ nghĩa Marx, ngay cả giữa Marx và Gramsci (1). Nhà nước Xã hội dân sự Thống trị Lãnh đạo Chuyên chính Ưu thế Cưỡng ép Đồng thuận Bạo lực Thuyết phục Trong mô hình cách mạng của Lênin (L1), giai cấp công nhân, liên kết với giai cấp nông dân, lật đổ nhà nước phong kiến, rồi sau khi chiếm lĩnh bộ máy nhà nước, quyết tâm thực hiện «chuyên chính vô sản», «thống trị» các giai cấp đối lập: «cưỡng ép» chấp nhận hệ tư tưởng cộng sản, dùng «bạo lực» cách mạng (công an và quân đội) nếu cần. Trong mô hình của Gramsci (G1), giai cấp công nhân liên minh với các thành phần xã hội khác, không chủ tâm thực hiện chuyên chính mà chỉ nhằm nắm «ưu thế» trong khối đoàn kết, «lãnh đạo» mặt trận bằng trí tuệ và đạo đức của mình, rồi từng bước đi đến «đồng thuận» xây dựng xã hội cộng sản, bằng sự «thuyết phục» các giai cấp khác. Dĩ nhiên, cả hai mô hình miêu tả ở đây đều chỉ là những khuôn mẫu lý tưởng. Trên thực tế, với sự rập khuôn theo cuộc cách mạng ở Nga, con đường bạo hành của Lênin trở thành mô hình chính thống. Ðường lối tiệm tiến của Gramsci bị đánh giá như mô hình của sự thỏa hiệp hay của chủ nghĩa xét lại; mặc dù thỉnh thoảng vẫn còn được nhắc nhở tới ở Tây Âu trước sự bế tắc của giải pháp bạo động cách mạng, nó hoàn toàn không có chân đứng nào ở Việt Nam, thậm chí có lẽ cũng chẳng được bao nhiêu người biết đến. 3) VIỆT NAM: PHÂN TÍCH XÃ HỘI & CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG Áp dụng vào trường hợp của Việt Nam, cuộc tranh luận về chiến lược cách mạng này có khả năng soi sáng một số vấn đề. Cụ thể là nó có thể giúp chúng ta tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm của cuộc cách mạng Việt Nam, thông qua sự phân tích xã hội, việc hoạch định và vận dụng chiến lược cách mạng, v. v... Ðầu tiên, sự phân biệt giữa «thời đại» và «bối cảnh» cho phép chúng ta đưa ra một số nhận định. Ðó là, khi cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai kết thúc (1975): a) Thế giới không còn ở vào thời đại cách mạng nữa mà ngược lại. Ý đồ của Stalin, muốn đổi hướng nền ngoại thương của các quốc gia Á Phi về phía Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa sau 1945, đã hoàn toàn thất bại. Chế độ tư bản, mặc dù gặp nhiều khó khăn, vẫn nắm được ưu thế trong nền kinh tế thế giới, và đã nhiều lần chứng tỏ có khả năng vượt qua những cuộc khủng hoảng nhất thời; ngược lại, mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa đã mất hết mọi khả năng thuyết phục vì những sai lầm nghiêm trọng về mọi mặt, và những thành tựu kinh tế quá khiêm tốn (4). b) Bối cảnh của Việt Nam cũng không hoàn toàn sáng sủa và rất bấp bênh. Miền Bắc phấn khởi trước viễn tượng thống nhất đất nước; miền Nam, sau 20 năm chống cộng, lo ngại chính sách trả thù và sự áp đặt chế độ cộng sản. Ðó là chưa nói đến chủ nghĩa bá quyền và chính sách bành trướng của Trung Quốc. Trường hợp phải tìm một lý do ngoại sinh khác cho sự thất bại của cuộc cách mạng ở Việt Nam, thì đây là lý do thứ hai. Nhưng nguyên nhân chính của sự thất bại đó chỉ có thể nằm ngay trong bản thân của cuộc cách mạng Việt Nam, nghĩa là trong những khuyết điểm hay nhược điểm của chiến lược cách mạng đã áp dụng, cũng như trong sự phân tích kinh tế xã hội đã làm nền tảng cho cuộc cách mạng ấy. Nói cách khác, nó phải chủ yếu là một lý do nội sinh. Ðầu tiên là chiến lược cách mạng. Ngay từ những ngày sơ khởi (1930), «Ðảng Cộng Sản Việt Nam» (ÐCSVN) đã hình dung cuộc cách mạng đất nước như bao gồm hai giai đoạn liên tiếp: «cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân» trước, rồi sau đó «cách mạng xã hội chủ nghĩa». Nhưng cuộc cách mạng nào, như đã nói, cũng bắt buộc phải trải qua hai giai đoạn: đập đổ và xây dựng. Ở đây, người ta đứng trước một sự nhập nhằng: cuộc cách mạng Việt Nam sẽ là hai cuộc cách mạng liên tiếp nhưng riêng rẽ với đầy đủ 4 giai đoạn, hay, cuộc cách mạng Việt Nam chỉ là một cuộc cách mạng độc nhất với hai giai đoạn, đả phá (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và xây dựng (cách mạng xã hội chủ nghĩa)? Qua những bài viết của Trường Chinh, thực tế có thể là cả hai giải đáp đều đúng - dù cái sau có phần ưu tiên hơn - và giải đáp nào rốt cuộc sẽ được áp dụng, điều đó thật ra tùy thuộc tương quan lực lượng giữa hai phe cách mạng và chống cách mạng (5). Nhưng nếu đây là một sự mù mờ - dù chỉ là trong tâm trí của một số người đã tham gia cách mạng, thì sự mù mờ đó cũng không thể không tạo ra ít nhiều hậu quả. Hơn nữa, chiến lược hai cuộc cách mạng này dựa trên một phân tích xã hội, mô phỏng theo phân tích của Mao Trạch Ðông về xã hội Trung Quốc, và đã được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam qua ngòi bút của Trường Chinh. Theo Mao Trạch Ðông, Trung Hoa vào nửa đầu thế kỷ thứ 20 là một xã hội «nửa thuộc địa - nửa phong kiến»; đối với Trường Chinh, cũng trong khoảng thời gian ấy, Việt Nam là một nước «thuộc địa - nửa phong kiến». Sự phân tích này rất có cơ sở, vào những năm trước hiệp định Genève; tất cả vấn đề là nó còn có hiệu lực hay không, áp dụng vào miền Nam sau khi đất nước bị chia đôi. Ðiều hiển nhiên là ÐCSVN đã không hoàn thành, tệ hơn nữa, không khởi sự một phân tích toàn bộ nào khác cho xã hội - rất phức tạp - của miền Nam Việt Nam từ 1955 đến 1975. Nếu đây là một thiếu sót, thì khiếm khuyết này cũng khó lòng không để lại một số hậu quả. Nhìn một cách tổng quát, chiến lược cách mạng của ÐCSVN, như vậy, bao hàm hai ẩn số. Cái đầu tiên là động cơ đã thực sự xui khiến bao nhiêu thanh niên nam nữ Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi, từ thôn quê đến thành thị, tới với Ðảng. Liệu những thành phần xã hội đã đấu tranh dưới ngọn cờ của Ðảng vì chủ quyền dân tộc và tự do dân chủ (trí thức), và vì quyền tư hữu ruộng đất (nông dân) sẽ bước thêm một bước nữa với Ðảng, chấp nhận hy sinh tất cả các quyền tự do công cộng, hoặc từ bỏ giấc mơ làm chủ mảnh ruộng của mình chăng? Cái thứ hai là nhịp độ tiến hóa của xã hội đối tượng của cách mạng. Liệu xã hội Việt Nam sẽ bất động trong suốt quá trình của một cuộc chiến tranh giải phóng trường kỳ, sẽ đứng yên trong cùng một khung phân tích từ năm 1930 đến năm 1975 chăng? II) TỪ THẮNG LỢI ÐẾN BẾ TẮC 1) CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN: ÐOẠN ÐƯỜNG ÐÃ ÐI So với hai mô hình cách mạng của Lênin và của Gramsci đã phác họa, chiến lược cách mạng của Việt Nam - cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - gần với mô hình nào? Thật ra, nó căn bản dựa vào chiến lược của cuộc cách mạng Trung Quốc, nhưng dù sao cũng gần gũi với mô hình của Lênin hơn là của Gramsci. Nhưng khác với Trung Quốc, cuộc cách mạng Việt Nam đã phải kéo dài hơn 30 năm, với tất cả những rủi ro của một cuộc kháng chiến quá dai dẳng (tình hình thế giới thay đổi, xã hội đối tượng của cách mạng cũng tiến hóa, trong khi chiến lược cách mạng nhiều khi đã trở thành xơ cứng). Trong một xứ thuộc địa - nửa phong kiến, lực lượng phản cách mạng chủ yếu nằm ở nhà nước, và nhà nước nằm trong tay tư bản nước ngoài, với sự hỗ trợ của các thế lực phong kiến trong nước. Thực chất của vấn đề cách mạng, do đó, là đánh đổ nhà nước lệ thuộc; ở đây, cách mạng Việt Nam có thể được hiểu theo mô hình của Lênin. Nhưng cũng trong một xứ thuộc địa - nửa phong kiến, lực lượng cách mạng lại không thể trông cậy vào một giai cấp công nhân hùng mạnh mà chủ yếu vào một liên minh công nông, đôi khi mở rộng ra đến các giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, để cô lập giai cấp địa chủ phong kiến bằng một cuộc cải cách ruộng đất; ở đây, cách mạng Việt Nam vẫn còn có thể chính yếu được hiểu theo mô hình của Lênin (lấy liên minh công nông làm «liên minh chiến lược», sự liên kết với các tầng lớp bên trên chỉ có ý nghĩa chiến thuật). Thực tế là, để đối phó với chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, sự liên kết lâu dài và có tầm quan trọng chiến lược với các giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, được cụ thể hóa và bảo đảm bằng một cương lĩnh chính trị hợp lý và thành thực, chưa trở thành một bó buộc khách quan. Giữa thời điểm 1954 và thời điểm 1975, đã có những thay đổi nào? Biến đổi quan trọng nhất là quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự, xuất phát từ sự phát triển về mọi mặt của xã hội dân sự Việt Nam. Nhưng đây lại là một sự phát triển không đồng đều (6) với những tác động rất khác nhau trên các giai đoạn trước sau của một cuộc cách mạng. Theo một đánh giá thuần «kinh tế chủ nghĩa», có thể là không có bao nhiêu thay đổi quan trọng: trừ 5 năm đầu và 5 năm cuối, vấn đề xây dựng kinh tế miền Nam đã phải nhường quyền ưu tiên cho cuộc chiến tranh chống cộng; miền Nam chỉ mới là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa còn phôi thai. Nhưng nhìn từ những quan điểm khác, sự Mỹ hóa miền Nam không phải là một hiện tượng hời hợt. Một, về mặt văn hóa, miền Nam là một hệ thống mở: người dân miền Nam có thể theo dõi tin tức trên khắp thế giới, và không lạ lùng gì trước sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản ở Ðông Âu (Ba Lan, Hungaria, Tchécoslovaquia), cũng như những tiến triển về mọi mặt của Tây Âu. Hai, về mặt xã hội, cùng với sự phát triển tiệm tiến của các tầng lớp trung lưu, người dân đô thị đã bắt đầu bị tiêm nhiễm nặng bởi những thói quen của một xã hội tư bản tiêu thụ. Ba, về mặt chính trị, trong giới hạn của một chế độ độc tài hữu khuynh - nắm chặt chính trị nhưng thả lỏng các lãnh vực khác -, dân chúng tuy phải sống gò bó nhưng, một mặt, không đến nỗi mất sạch các quyền tự do cá nhân, mặt khác, đôi khi còn có dịp xuống đường thực tập đấu tranh đòi hỏi các quyền tự do dân chủ. Khác với cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất, để đối phó với«chủ nghĩa thực dân kiểu mới», việc mở rộng khối đoàn kết ra đến các tầng lớp bên trên là một yêu cầu khách quan lâu dài, ít nhất ở thành thị. Liên minh chiến lược, do đó, chỉ có thể và phải là một liên minh tất cả các giai cấp, có giá trị trong ngắn hạn, trong trung hạn và ngay cả trong dài hạn. Chính sách đoàn kết với các giai cấp ngoài công nông, dù lúc đầu có thể chỉ có tính chất chiến thuật, dần dà trở thành chiến lược trước một đối phương hung hãn và khả năng sa lầy của «cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam». Có thể nói là từ sau khi Mỹ đổ bộ (1965), thật sự có khả năng khách quan (7) xây dựng một liên minh lâu dài - một «thoả hiệp lịch sử» giữa những người đại diện cho các giai cấp vô sản và giai cấp tư sản dân tộc, trên cơ sở của một chương trình chính trị kinh tế nhằm - ít nhất - quản lý và phát triển miền Nam Việt Nam. Kết quả là, nhìn một cách khách quan từ quan điểm đấu tranh, cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam có thể xem như đã ngã ngũ, khi phe chống cách mạng chỉ nắm được nhà nước, trong lúc phe cách mạng đã thâm nhập vào xã hội dân sự. Từ thôn quê đến thành thị, đa số các tầng lớp dân chúng đều mong đợi một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất (từng bước), một miền Nam trung lập, với một nền kinh tế thị trường và một chính phủ liên hiệp, nghĩa là những điều đã được đề xướng trong «Cương Lĩnh Chính Trị» (CLCT) của «Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam» (MTDTGP). Nhưng nếu đối với phe chống cách mạng, nắm giữ được nhà nước không đủ để bảo đảm thắng lợi trong một cuộc chiến tranh, thì đối với phía cách mạng, chiếm lĩnh được nhà nước đó - nhất là sau một chiến thắng bất ngờ, cũng không đủ để đảm bảo sự hoàn tất của một cuộc cách mạng. 2) CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN: ÐOẠN ÐƯỜNG KHÔNG ÐI Sau chiến thắng 1975, cách mạng Việt Nam đứng trước một khúc quanh quan trọng: bước vào giai đoạn xây dựng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hay dấn thân vào giai đoạn đập phá của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa? Chọn giải pháp đầu có nghĩa là thực tình áp dụng CLCT của MTDTGP, ngay cả với một vài đổi khác, miễn là tương hợp với tinh thần và khuôn khổ chung của nó. Chọn giải pháp sau bao hàm một số chánh sách bắt buộc phải có đủ những khả năng dưới đây. Một, về mặt văn hóa, cô lập được toàn miền Nam với thế giới bên ngoài, trong một hệ thống khép kín, với những giá trị tinh thần mới. Hai, về mặt chính trị, san bằng được những khó khăn tâm lý của hơn 20 năm chống cộng và của khát vọng «hòa giải hòa hợp dân tộc» bị phản bội. Ba, về mặt kinh tế, phá đổ ngay nền tảng của chủ nghĩa tư bản (quyền tư hữu các tư liệu sản xuất) và loại trừ được những thành phần «phi xã hội chủ nghĩa». Bốn, về mặt xã hội, tạo lập nổi một động lực xã hội mới, dựa trên sự phân chia giai cấp hay thành phần và sự phân biệt trong đảng / ngoài đảng. Ðổi tên nước là «Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam» (CHXHCN), ra mặt công khai là «ÐCSVN» sau một Ðại Hội 4 say men chiến thắng và một sự thống nhất đất nước vừa vội vã vừa vụng về, cấp lãnh đạo Ðảng đã chọn con đường «tiến lên chủ nghĩa xã hội trên qui mô cả nước mà không đi qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa», nghĩa là quyết định đốt giai đoạn, xóa bỏ phần xây dựng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phá ngang liên minh chiến lược với các giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Nói tóm lại, là lặp lại sơ đồ cách mạng đã áp dụng ở miền Bắc Việt Nam và đã từng bị chống đối từ 1955. Ðó là sai lầm căn bản đã đưa cuộc cách mạng Việt Nam xuống vực thẳm. Nếu nhìn từ mục tiêu độc lập dân tộc, đánh đuổi được đế quốc Mỹ và lật đổ xong nhà nước quân phiệt ở miền Nam là giai đoạn cuối cùng, thì nhìn từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó chỉ mới là chiếm cứ được «chiến hào bên ngoài» của địch thủ. Vấn đề gay go còn lại là làm thế nào đưa xã hội dân sự miền Nam Việt Nam, từ chỗ đã bắt đầu chấp nhận «hòa giải và liên hiệp» đến chỗ cùng đồng ý kiến thiết một xã hội mới vẫn còn làm cho rất nhiều người lo sợ. Ở đây, CLCT của MTDTGP có thể được quan niệm như chiếc chìa khóa thích hợp nhất để mở rộng cánh cửa bước vào tương lai, với những viễn tượng đấu tranh tuy từ tốn hơn nhưng đồng thời cũng ít bất trắc hơn, và nhất là phù hợp với quyền lợi của dân tộc hơn. Một điều có lẽ không phải tình cờ, mặc dù cũng không chủ ý: đó là sự đồng dạng phần nào giữa mô hình cách mạng của Gramsci với những biện pháp chính sách đề nghị trong CLCT của MTDTGP. Nếu áp dụng đúng đắn CLCT, thì dù là kẻ thắng trận, ÐCSVN cũng không thể áp đặt chế độ cộng sản một khi nó vẫn chưa được phần lớn dân chúng sẵn sàng chấp nhận. Thay vì chiếm lĩnh nhà nước để thực hiện chuyên chính vô sản, Ðảng có thể đầu tư tâm trí vào việc nắm lấy ưu thế trong một xã hội dân sự tự lập. Thay vì sử dụng bộ máy nhà nước để trấn áp «những thành phần thù địch với chủ nghĩa xã hội», Ðảng có thể dựa vào hình thức mặt trận để thuyết phục cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ít nhất ở miền Nam, nhà nước hậu chiến sẽ là một chính phủ liên hiệp: nó không phải là công cụ đàn áp của một giai cấp mà là một thứ chính quyền của các chuyên gia, với chức năng duy nhất là quản lý đất nước. Nhà nước đó không có tiềm năng hành động ngược chiều với định hướng phát triển chung của xã hội dân sự, trong khi toàn bộ xã hội dân sự - thông qua các tổ chức ngoại vi và khả năng thuyết phục của đảng viên - có thể đã hoàn toàn chấp nhận sự điều khiển của Ðảng mà không có cảm tưởng bị ai cưỡng ép. «Ðảng lãnh đạo - nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ», lúc đó, sẽ là một khẩu hiệu tương đối có thực chất. Trên thực tế, ÐCSVN đã làm một chọn lựa khác sau 1975. Có thể hiểu cả đoạn đường mà Ðảng đã đi sau đó đơn thuần như một sự khước từ cả mô hình của Gramsci lẫn CLCT của MTDTGP, nhằm hoàn thành triệt để mô hình cách mạng của Lênin. Sau chiến thắng, Ðảng chiếm lĩnh nhà nước để áp đặt chuyên chính vô sản bằng bạo lực. Một khi đã chủ tâm chuyên chính thì việc nắm ưu thế trong một mặt trận chỉ còn giá trị phụ thuộc; chính sách mặt trận, Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) và MTDTGP cùng xuống cấp. Khác với mặt trận - công cụ lãnh đạo một liên minh giai cấp, nhà nước là công cụ thống trị của một giai cấp trên các giai cấp khác. Chiếm lĩnh nhà nước, biến xã hội dân sự thành khúc ruột thừa của nhà nước, Ðảng không còn giữ vai trò lãnh đạo (bằng trí tuệ và đạo đức, bằng sự thuyết phục và thỏa thuận từng bước) mà chỉ có thể mang chức năng thống trị (áp đặt bằng gian trá và bạo lực loại chính sách, chủ trương nhằm xây dựng «xã hội mới, con người mới»). Ở đây, khẩu hiệu «Ðảng lãnh đạo - nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ» dựa trên một sự lẫn lộn về lãnh vực và danh từ. Thực chất của tổ chức quyền lực trong nước từ sau 1975 là «Ðảng thống trị - nhà nước làm tay sai - nhân dân làm tôi mọi». Tóm lại, được quan niệm như một cuộc «cách mạng dân chủ kiểu mới» (8) - mới ở chỗ không do giai cấp tư sản mà do giai cấp vô sản lãnh đạo -, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam chưa bao giờ bước vào giai đoạn xây dựng trên thực tế. Giai đoạn đả phá của nó vừa chấm dứt, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã vội vã nhường chỗ cho giai đoạn đập phá của một cuộc cách mạng khác! Tất cả vấn đề là đất nước không có khả năng chịu đựng những cơn lốc tàn phá liên miên trong suốt một phần ba thế kỷ và đã đổ vỡ trầm trọng. Ðiều đó đặt các thành phần dân tộc đã chấp nhận sự lãnh đạo của Ðảng để giải phóng đất nước trước một chọn lựa lương tâm không thể tránh là bước dần vào thế đối lập. 3) GIAI ÐOẠN XÂY DỰNG: HAI MÔ HÌNH QUÁ ÐỘ Sau 1975, cách mạng Việt Nam tiến vào «thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội». Trong giai đoạn xây dựng này, cuộc cách mạng Việt Nam đã dựa vào mô hình nào? Trên thực tế, nếu mô hình cách mạng của Lênin đã được khai triển, từ giai đoạn đả phá (L1) sang thời kỳ xây dựng (L2), qua ngay chính lịch sử của các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Ðệ Tam Quốc Tế, mô hình của Gramsci chỉ có được một sự nối dài tương tự - từ đập phá (G1) sang xây dựng (G2) - trong lý luận cách mạng. Nhưng nói chung, dù nằm trong mô hình nào, sự tương ứng giữa nhà nước và xã hội dân sự cũng phải được quan niệm như vấn đề trọng tâm. Dưới ảnh hưởng của Machiavel, Gramsci nhìn hệ thống quyền lực của giai cấp tư sản trong các nước tư bản tiên tiến (Gramsci còn gọi là «nhà nước toàn vẹn» - từ đây về sau tạm dịch là «hệ thống nhà nước») như bao gồm hai nhân tố: nhà nước (theo nghĩa hẹp = xã hội chính trị, tượng trưng cho phần bạo lực của chính trị - từ đây trở đi vẫn gọi là nhà nước) và xã hội dân sự (tiêu biểu cho phần xảo quyệt của chính trị). Hệ thống quyền lực của tư bản là bàn tay sắt (nhà nước) bọc trong bao nhung (xã hội dân sự); chỉ khi nào thất bại trong chức năng quyến rũ, nó mới dùng đến bạo lực. Vì thế, người ta chỉ hiểu rõ thực chất của nền chuyên chính tư sản một khi phải ra mặt đương đầu với nó, và cũng vì vậy mà lật đổ được nhà nước tư bản chưa có nghĩa là đã làm xong cách mạng. Cuộc cách mạng vô sản trong các nước tư bản tiên tiến (hay trong một hình thái xã hội kinh tế phức tạp) phải bắt đầu từ xã hội dân sự (G1), và chỉ có cơ thành công vĩnh viễn khi đã xây dựng lên một xã hội dân sự tự trị khác - xã hội dân sự xã hội chủ nghĩa (G2). Làm thế nào tạo ra nó, đó là vấn đề.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:29:13 GMT 9
Có thể suy ra rằng: trong mô hình quá độ của Gramsci, giai cấp vô sản cũng phải từng bước lập ra được một hệ thống quyền lực đứng trên hai chân vững chắc như vậy, cái chân xã hội dân sự còn quan trọng hơn cả cái chân nhà nước. Nói khác hơn nữa, không xóa bỏ toàn bộ xã hội dân sự cũ mà đầu tư tất cả tâm trí vào một xã hội dân sự tự chủ - hơn cả vào nhà nước bội phần, Ðảng đóng vai trò của một người gieo trồng, vung rải những mầm mống xã hội chủ nghĩa và chăm lo tưới bón để ruộng đồng («hệ thống nhà nước» cũ), sau khi trở thành mầu mỡ, sản sinh ra một «hệ thống nhà nước» mới. Trong sự thai nghén này, cái bụng chứa thai là đất ruộng xã hội dân sự, không phải là thác lũ nhà nước. Trong mô hình quá độ của Lênin, ngược hẳn lại, Ðảng có nhiệm vụ tạo ra nhà nước vô sản, để sau đó nhà nước công nông này sẽ đập tan xã hội dân sự cũ và dựng lên một xã hội dân sự mới. Mô hình này, thật ra, chỉ có cơ thành công trong các nước không có một xã hội dân sự phức tạp; trong thực tế, bây giờ rõ ràng là nó đã thất bại, ngay ở đất nước đầu tiên của chủ nghĩa xã hội hiện tồn, ngay ở cái nước Nga chẳng lấy gì làm phát triển trong hai thập niên đầu thế kỷ. Việc rập khuôn một cách máy móc theo mô hình cách mạng của Lênin (L1) đã đưa ÐCSVN đến chỗ bị thôi miên bởi thác lũ nhà nước mà quên mất đất ruộng xã hội dân sự tự lập. Nhưng khi đã bước vào thời kỳ quá độ, thác lũ nhà nước đó đã chỉ cuốn trôi đi được tất cả những gì hiện hữu, nhưng không tạo lập được một cái gì mới (L2). Bạo lực nhà nước chỉ có thể đẻ ra hành động hoặc trốn chạy, hoặc phản kháng và những hình thù quái đản. Trong khi cái xã hội tươi đẹp mà Ðảng hằng mơ ước vĩnh viễn bị chôn chặt trên giấy tờ, ngoài đời lại hình thành một xã hội điên loạn tưởng đâu chỉ có thể xuất hiện trong những cơn ác mộng. Rốt cuộc, qua mô hình quá độ của Lênin đã áp dụng, Ðảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã san bằng được xã hội dân sự cũ (qua các trận đấu đánh những giai cấp hay thành phần xã hội bị xem là «phi xã hội chủ nghĩa»), nhưng từ sự hoang tàn đó, đã chỉ có thể mọc lên, hoặc những mầm mống cũ, hoặc cỏ dại. Ðảng đã đẻ ra một nhà nước trấn áp, và nhà nước ấy đã sinh ra một quái thai. Không có sự tương ứng giữa lý thuyết và hiện thực, giữa nhà nước mệnh danh là xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự hoang dại. Hệ thống nhà nước của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nếu không thuộc vào loại người một chân què quặt, thì cũng giống như một sinh vật đầu voi đuôi chuột. 4) CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - THỜI KỲ QUÁ ÐỘ: PHẦN DI SẢN CỦA LÊNIN
Làm gì để đến nông nỗi ấy? Nhìn một cách phân tích, mô hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Lênin chất chứa nhiều sai lầm. Nếu phần lớn những sai lầm đó có thể được thâu tóm trong phức hệ Ðảng - nhà nước - xã hội dân sự, mớ bòng bong này lại xuất phát từ một số xu hướng nặng trong tư tưởng của Lênin: đó là, sự tuyệt đối hóa Ðảng, cực đoan hóa đấu tranh giai cấp và một quan niệm «ý chí chủ nghĩa» về cách mạng. Ðối chiếu với các khuynh hướng nặng này, những mầm mống gọi là nhân bản hay dân chủ khác trong tư tưởng của Karl Marx chỉ còn là những hạt sỏi không có bao nhiêu trọng lượng trong hệ thống lý luận và thực tiễn cách mạng thường được gọi là «chủ nghĩa Marx-Lênin». a) Trước hết là sự tuyệt đối hoá Ðảng. Ðối với Lênin, Ðảng là nguồn gốc của dòng thác cách mạng, nguồn gốc theo nghĩa là Ðảng sẽ tạo ra tất cả mọi đổi thay, biến xã hội cũ thành xã hội mới. Ðảng không phải chỉ là người đại diện cho giai cấp vô sản mà còn là một cái gì vĩ đại, cao quý hơn. Một giai cấp có thể tồn tại tuy không ý thức được quyền lợi và sứ mệnh của mình. Trong các quốc gia tư bản tiên tiến, bước nhảy vọt từ tình trạng tự thân sang tình trạng tự giác được thực hiện nhờ các cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản. Trong một nước tư bản phôi thai hay tiền tư bản, đảng cộng sản phải đảm nhận vai trò sáng tạo đó: một nhóm «nhà cách mạng chuyên nghiệp», ý thức được «hướng đi của lịch sử», sẽ lập ra đảng cộng sản và đảng này sẽ tổ chức những người vô sản thành một đội ngũ vừa hùng mạnh, vừa có giác ngộ cách mạng cao. Ðảng không phải là con đẻ mà là đấng sinh thành của giai cấp vô sản, không phải là sản phẩm mà là đầu mối của cuộc đấu tranh giai cấp. b) Sau đó là sự cực đoan hoá đấu tranh giai cấp. Lênin chịu nhiều ảnh hưởng của Clausewitz. Nhưng nếu đối với Clausewitz, chiến tranh - dù được nhận định như sự tiếp nối của chính trị bằng hành động leo thang đến những cực điểm - vẫn là một tai họa có thể tránh được; đối với Lênin, tột đỉnh của chính trị tất yếu phải là cuộc «chiến tranh giai cấp». Không một giai cấp có ý thức nào có thể lãng quên những quyền lợi tập thể của mình, do đó, chẳng một giai cấp nào có thể tự nguyện chấp nhận rời bỏ sân khấu lịch sử. Mâu thuẫn giai cấp nhất định sẽ dẫn đến nội chiến, đó là một «quy luật khách quan». Trước quy luật này, một giai cấp vô sản có trình độ giác ngộ chính trị cao không thể nào giữ thái độ do dự: nó phải chuẩn bị cướp chính quyền - dù bằng nội chiến - và sẵn sàng tiếp tục cuộc chiến tranh giai cấp sau khi nắm chánh quyền. c) Cuối cùng là một quan niệm «ý chí chủ nghĩa» về cách mạng. Nếu đối với Karl Marx, cách mạng là sự nổ bùng của những mâu thuẫn đối kháng đã chín muồi giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đối với Lênin, nó còn là tác phẩm của một đảng cộng sản bao gồm những người hành động có ý thức, biết dựa vào «hướng đi khách quan của lịch sử» để đưa lịch sử tiến tới (8). Câu nói nổi tiếng một thời của Napoléon - «Cứ nhảy vào đã rồi sẽ tính sau» - đã trở thành một điệp khúc trong triết lý hành động của Lênin. Và bản thân cuộc cách mạng Nga, trước cũng như sau tháng 10 - 1917, chính là sự minh họa trung thực của một quan niệm cách mạng ý chí chủ nghĩa như vậy. Ðây là sản phẩm lịch sử của, một bên là những điều kiện khách quan bất cập (sự đẻ non, với những căn bệnh tất yếu bắt nguồn từ tình trạng đó), một bên là những hành động ý chí quyết liệt của ÐCSN (khả năng khai thác mọi cơ hội và thói quen giải quyết khó khăn bằng cách «lùi một bước để tiến hai bước»). Một quan niệm về Ðảng, về đấu tranh giai cấp và về cách mạng như vậy sẽ tất yếu dẫn đến một số hậu quả tai hại. Ðó là bệnh tôn thờ cấp lãnh đạo Ðảng, sùng bái tổ chức (ở Lênin, Ðảng thường được so sánh với công xưởng, trại lính, một bộ máy hay một giàn nhạc, để nhấn mạnh trên các khía cạnh tập trung, kỷ luật, đồng nhất và ăn khớp của nó), hành động chủ quan tùy tiện, và cuối cùng là sự xuất hiện của nạn độc tài tập trung (ngăn cấm sự tồn tại của nhiều khuynh hướng, trong xã hội hay trong Ðảng), quan liêu đẳng cấp (phân ranh chặt chẽ trong xã hội, và ngay trong nội bộ Ðảng), ôm đồm bao biện (tham vọng kiểm soát toàn thể xã hội, toàn bộ đời sống của mỗi cá nhân), rình rập khủng bố (thanh trừng đối lập, củng cố hàng ngũ bằng biện pháp loại bỏ những đảng viên chống đối), v. v... nghĩa là, rốt cuộc, đến cái hình thức cực đoan nhất của chủ nghĩa nhà nước là chủ nghĩa toàn trị. Ở Việt Nam, những chứng bệnh đó đã được thể hiện dưới nhiều hình thức, từ sự thần thánh hóa ông Hồ đến đòi hỏi «nhân dân phải biết ơn Ðảng» , từ trò tố khổ địa chủ những năm 1950 đến các đợt đấu đánh tư sản doanh nhân những năm 1970, từ «Bác bảo đi là đi, Bác bảo thắng là thắng» đến «tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội mà không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa» , và vô số những hiện tượng bị đánh giá là «tiêu cực» khác. Người ta có lý khi tố cáo những hình thức «chủ nghĩa xã hội trại lính», «chủ nghĩa xã hội nhà máy», «chủ nghĩa xã hội đại nhảy vọt», «chủ nghĩa xã hội không tưởng», v. v... (9) trong quá trình cách mạng của đất nước. Ðiều mà rất ít người cộng sản có đủ can đảm hay sáng suốt để phơi trần là tất cả những hình thức ấy đều xuất phát ngay từ Lênin, và đã thâm nhập vào Việt Nam, không phải vì trình độ thấp kém của giai cấp nông dân (9), mà thông qua sự hiểu biết của cấp lãnh đạo Ðảng về lý luận và thực tiễn cách mạng trong chủ nghĩa Marx-Lênin. 5) CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - THỜI KỲ QUÁ ÐỘ: PHẦN DI SẢN CỦA KARL MARX
Chế độ xã hội chủ nghĩa hiện tồn khó lòng không sụp đổ, không phải chỉ vì chủ nghĩa Stalin hay chủ nghĩa Mao - những nối dài thường được đánh giá là «lệch lạc» của chủ nghĩa Lênin - mà vì chính ngay những sai lầm của «Lênin vĩ đại», và thông qua Lênin, có thể là của cả Karl Marx nữa. Không cần phải là nhà bác học mới có thể thấy rằng những luận đoán độc đáo nhất của Karl Marx về tương lai đã không hề được lịch sử xác minh, như sự tiến triển của nhân loại từ chế độ tư bản sang chế độ cộng sản, vai trò của quyền tư hữu các tư liệu sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những hình thức thống trị và bóc lột giai cấp trong chế độ tư bản, vai trò đối chiếu của hai thực thể chính trị quốc gia và giai cấp,... Nói cách khác, nhiều sai lầm lớn của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã bắt nguồn ngay từ Karl Marx; danh xưng «khoa học», thật ra, chỉ là một sự tiếm nhận. a) Ðầu tiên là sơ đồ tiến hoá cho là khoa học của xã hội loài người. Ngây ngất trước những thành tựu trong các ngành khoa học tự nhiên, các triết gia của thế kỷ thứ 19 chịu nhiều ảnh hưởng của thuyết tiến hóa và thường rơi vào chủ nghĩa khoa học. Ở Karl Marx, điều này được thể hiện trong học thuyết về sự tiếp nối của các phương thức sản xuất, từ chế độ công xã nguyên thủy đến chế độ «cộng sản khoa học», trải qua các giai đoạn nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Áp dụng vào những thời kỳ lịch sử đã qua, đây là một sơ đồ có vẻ đúng thực (bởi vì nó chỉ là một sự hợp lý hóa quá khứ!); nhưng sự kiện là ngay khi còn sống, Karl Marx đã không nhét được «phương thức sản xuất Châu Á» vào khâu nào trong sơ đồ tiến hóa này, một mặt, nói lên giá trị rất tương đối của nó (chỉ giới hạn trong pham vi của nền văn minh Tây Phương), mặt khác, phủ nhận là lịch sử chỉ có thể phát triển theo một con đường thẳng tắp. Sự xuất hiện của những chế độ có khuynh hướng cộng sản từ các xã hội tiền tư bản trước đây, sự đảo lộn ngày nay của chính những xã hội này - từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản quay lại giai đoạn tư bản phôi thai hay đôi khi ngay cả tiền tư bản - là một sự phủ nhận khác. Tầm nhìn của Karl Marx cũng chỉ dừng lại nơi xã hội công nghiệp, trong khi các quốc gia tiên tiến thời nay đang bước dần vào «xã hội thông tin». b) Thứ hai là vai trò của quyền tư hữu các tư liệu sản xuất. Ở Karl Marx, quyền tư hữu này đóng vai trò mấu chốt trong sự quy định bản chất của các phương thức sản xuất - đặc biệt là của chế độ tư bản, và là cha đẻ của những quan hệ bóc lột giữa các tập thể người. Bãi bỏ thứ quyền này là xóa bỏ được sự thống trị và bóc lột giữa các giai cấp. Nhận định này, nếu nó có vẻ đúng thực trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản (bởi vì nó cũng chỉ là một sự hợp lý hóa quá khứ), ngày nay đã trở thành lỗi thời, tuy vẫn để lại nhiều hậu quả nguy hại. Ðược chấp nhận như một giáo điều, một mặt, nó gây ra sự đui mù trước những đổi thay trong lòng chế độ tư bản (sự tách rời giữa quyền sở hữu danh nghĩa và quyền kiểm soát thực sự các tư liệu sản xuất, thông qua hình thức sở hữu cổ phần và sự xuất hiện của một tầng lớp chuyên viên quản lý xí nghiệp; vai trò của các công đoàn và nghiệp đoàn,...), mặt khác, nó tạo ra trong các nước xã hội chủ nghĩa hiện tồn một số định kiến quá đáng về quyền này (ác cảm đối với quyền tư hữu nói chung, hay sự đồng hóa máy móc các biện pháp chiếm hữu tập thể tư liệu sản xuất với chủ nghĩa xã hội). c) Cuối cùng là vai trò so sánh giữa hai thực thể chính trị là quốc gia và giai cấp trong lịch sử. Sự phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp là một cống hiến quan trọng của các sử gia tư sản, nhưng chính Karl Marx mới là người đã phổ biến nó sâu rộng trong khoa học xã hội. Quan điểm mới này đã đóng góp vào sự giải thích lịch sử một cách hợp lý hơn. Sai lầm của Karl Marx là đã từ đấy cường điệu chức năng của đấu tranh giai cấp nói chung, và vai trò của giai cấp công nhân nói riêng, trong tương lai. Thế kỷ thứ 20 không những đã không thực hiện những luận đoán của Karl Marx mà còn đẩy chúng lùi xa hơn bao giờ hết. Trong khi sự hình thành và lớn mạnh của một giai cấp công nhân thế giới vẫn còn là chuyện hoang đường, nhiều quốc gia đi theo chủ nghĩa cộng sản đã phải vỡ nát vì đấu tranh giai cấp. Trong khi giai cấp vô sản quốc tế vẫn đơn thuần còn là một loài rắn biển thường vẫn nghe nói đến nhưng chưa ai trông thấy, hiện tượng quốc gia lại trỗi dậy như một thực thể chính trị không thể chối bỏ. Cảnh tượng chính của thập niên cuối cùng của thế kỷ này là, trên khắp thế giới và ngay tại tổ quốc đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, đang vang dội những đòi hỏi liên quan đến sự tồn tại và những quyền lợi quốc gia, đến bản sắc dân tộc. Chưa nói đến chủ nghĩa bành trướng nước lớn của Ðảng và Nhà Nước Cộng Sản Trung Quốc. Phần di sản của Karl Marx đã tạo ra khá nhiều tác hại trên cuộc cách mạng Việt Nam, tuy không hiển nhiên cũng không phải là nhỏ. Nó đã đóng góp phần quyết định vào việc dựng lên tín điều rằng, một khi đã được ngọn gió lịch sử đưa đẩy, thì dù thực chất có tồi dở đến đâu đi nữa, chủ nghĩa cộng sản cũng sẽ chiến thắng chủ nghĩa tư bản; những lời kêu gọi cảnh giác trước các bước cải tiến của chế độ tư bản, do đó, thường bị đánh giá sai lạc như sự tuyên truyền không công cho kẻ địch. Nó còn bịt mắt người cộng sản trước nhiều «nghịch lý»: trong khi sự bóc lột của tư nhân tại các nước còn giữ quyền tư hữu thường hạ thấp (nhờ ở sự công nhận các quyền tự do công dân), nạn bóc lột bởi nhà nước tại các quốc gia đã xóa bỏ quyền tư hữu lại có cơ phát triển (vì chẳng ai còn chút quyền hành gì trước bộ máy chính quyền); trong khi năng xuất lao động trong xã hội tư bản vẫn có thể lên cao (vì người công dân có quyền mưu đồ hạnh phúc cá nhân), khả năng lao động trong các xứ cộng sản lại sa sút (vì không ai muốn làm việc để chẳng được thụ hưởng gì cả!). Cuối cùng và trầm trọng nhất, nó đã đưa đất nước đến chỗ phá sản và tan nát, chỉ vì tổ chức đầu não của cuộc cách mạng trong nước đã quên mất nguồn cội của mình, thực tại của đất nước và tình tự dân tộc, hoàn toàn bị tha hóa vì một giấc mơ đại đồng không tưởng. Nói tóm lại, đối chiếu với những vấn đề cơ bản của đất nước Việt Nam (độc lập, dân chủ và phát triển), cuộc cách mạng của ÐCSVN đã bị nhốt chặt trong một số khung kín ngay từ đầu, và vì thế, có nhiều điểm yếu hay thiếu sót. Sự rập khuôn theo chủ nghĩa Marx-Lênin và theo đường lối cách mạng của ÐCSN đã dẫn ÐCSVN đến nhiều chọn lựa biện chứng đầy bất trắc. Một mặt, nếu chiến lược hai cuộc (giai đoạn) cách mạng rất bén nhọn trong thời kháng chiến, nó khó lòng không đặt ra vấn đề chuyển tiếp nan giải trong giai đoạn sau. Mặt khác, nếu sự tôn sùng quá đáng mô hình cách mạng của Lênin là nguyên do chính của sự đui mù trước tính lỗi thời của chủ nghĩa Marx-Lênin cùng với mô hình cách mạng này, nó cũng đồng thời là đầu mối của chủ nghĩa nhà nước trong Ðảng. Rốt cuộc, ÐCSVN đã thành công trong kháng chiến, nhờ đã phối hợp được mục tiêu quốc tế của Ðảng với mục tiêu quốc gia của cả nước, đấu tranh xã hội với đấu tranh chính trị, nhưng đã thất bại khi lên nắm chánh quyền, vì không cải biến nổi khao khát dân chủ tự do của tuyệt đại đa số quần chúng theo Ðảng thành giấc mơ cộng sản, sự gắn bó của nhân dân với một cộng đồng dân tộc toàn vẹn thành lòng yêu giai cấp vô sản quốc tế như ở cấp lãnh đạo Ðảng. Hơn nữa, Ðảng cũng vừa không đánh giá đúng mức nổi những đổi thay trên thế giới và trong nước (nhất là ở miền Nam), vừa không ý thức được đầy đủ vai trò của một xã hội dân sự tự trị trong suốt quá trình của hai cuộc (giai đoạn) cách mạng. III) TỪ ÐỔI MỚI ÐẾN HOÀ GIẢI
1) THỜI KỲ XÉT LẠI: YÊU CẦU KHÁCH QUAN
Ðến đây, chúng ta có thể đề xuất một nhận định tổng quát về thành tích của ÐCSVN trong khoảng thời gian lịch sử 1930-1975. Nhờ lá bài độc lập (trong khi các chánh đảng quốc gia đã tự để bị đồng hóa với các thế lực ngoại bang), sự yếu kém của địch thủ (chỉ nắm được nhà nước), đường lối mặt trận và chính sách len lỏi vào mọi tổ chức hay đoàn thể (thâm nhập được vào xã hội dân sự), song song với sự trợ giúp của phong trào cộng sản quốc tế và cảm tình của cả thế giới,...ÐCSVN đã liên tiếp đoạt được nhiều thắng lợi (1945, 1954, 1975), mặc dù cũng đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng (đấu tố, «Nhân Văn Giai Phẩm», tàn sát ở Huế). Nhưng kể từ khi trở thành kẻ cầm quyền, Ðảng đã vô tình tự đặt mình vào vị trí của đối phương trước đó, và đưa cuộc cách mạng của Ðảng vào chỗ bế tắc, vì đánh mất lá bài dân tộc (phá vỡ cộng đồng quốc gia vì đấu tranh giai cấp), tự đặt mình vào thế cô lập (độc chiếm một nhà nước thống trị chuyên chính, áp đặt chiến tranh xã hội), phủ nhận vai trò của một xã hội dân sự tự chủ (nhà nước hóa xã hội dân sự thay vì xã hội hóa hệ thống nhà nước), đồng thời với sự mất dần thế dựa trên khối cộng sản và thiện cảm của những người tiến bộ (phỉ báng nhân tâm bằng loại chính sách lật lọng, thoái hoá, bất nhân). Ðó là con đường mà ÐCSVN đã đi qua trong vòng nửa thế kỷ nay, từ thắng đến bại, từ vinh đến nhục. Nếu phân tích trên đây đại thể là đúng, lối thoát của ÐCSVN không nằm trong một sự chạy trốn về phía trước, mà trong một sự trở về. Trở về với thực tại: cuộc tranh đấu «ai thắng ai» giữa một thứ chủ nghĩa tư bản biết thích nghi và một loại chủ nghĩa xã hội biến chất đã kết thúc; mọi gắn bó mù quáng với một chủ nghĩa đã phá sản hay một phong trào đang tự bán tống chỉ kéo thêm đất nước và bản thân Ðảng sâu xuống cát lún. Trở về với dân tộc: đất nước sờ sờ trước mắt với những vấn đề to lớn (hòa giải, dân chủ, phát triển) và những hiểm họa hết sức cấp bách (nòi giống suy kiệt, cộng đồng dân tộc tan nát, lệ thuộc trở lại nước ngoài, chậm tiến vĩnh viễn), trong khi giai cấp công nhân quốc tế trăm năm nữa vẫn sẽ còn là một thực tại hoang đường. Trở về với lương tri: một tập thể hai triệu đảng viên (trong đó chỉ còn chừng 1/4 là tương đối «có giá trị»), không thể nào tiếp tục cầm cố hiện tại và tương lai của một dân tộc 70 triệu người. Sự trở về nhiều mặt này, thật ra, chỉ có một nội dung chính, đó là yêu cầu hoá giải chủ nghĩa Marx-Lênin, nghĩa là một sự đoạn tuyệt, không chỉ với chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Stalin, mà ngay cả chủ nghĩa Lênin và một phần không nhỏ chủ nghĩa Marx. Ví dù cái lý tưởng «phân phối cho mọi người tùy theo nhu cầu», và «đòi hỏi ở mỗi người tùy theo khả năng» có tốt đẹp đến đâu đi nữa, chủ nghĩa Marx-Lênin không phải là cơ sở khoa học để thực hiện nó. Bởi vì ngay những người còn muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay cũng không định nghĩa được nó là cái gì (9), bởi vì bản thân của chủ nghĩa này chất chứa quá nhiều sai lầm, và bởi vì dự phóng của hai nhà sáng lập ra nó cũng đối chọi nhau hoàn toàn. Karl Marx nhìn cái gọi là «chuyên chính vô sản» như một giai đoạn chuyển tiếp ngắn ngủi vào một thứ chủ nghĩa xã hội xây dựng trên những xã hội dân sự đã phát triển của Tây Âu, nhằm bảo đảm sự chiến thắng của xã hội dân sự trên nhà nước và kinh tế; mô hình của Lênin, trái lại, có khuynh hướng dẫn đến sự thanh toán xã hội dân sự và sự chiến thắng của nhà nước trên phần còn lại của xã hội và kinh tế, bằng cách kéo dài vô hạn thời kỳ chuyên chính vô sản (10). Nói một cách cụ thể, cần phải làm một lúc 3 cuộc giải phóng. Trước hết là giải phóng nhà nước Việt Nam, nghĩa là tách rời nhà nước ra khỏi Ðảng Cộng Sản. Nhà nước Việt Nam phải trở thành một nhà nước pháp trị trong nghĩa trọn vẹn nhất của danh từ này, bao hàm các bó buộc là: một, pháp luật phải được đặt trước và trên nhà nước hay kẻ cầm quyền; hai, mọi người công dân phải được thụ hưởng thật sự tất cả những quyền tự do công cộng đã được thế giới tuyên ngôn; ba, chánh quyền phải được sử dụng theo chiều hướng mong muốn của cộng đồng hay của đa số dân chúng trong nước. Sau đó là giải phóng xã hội Việt Nam: một, công nhận một quyền tự chủ lớn hơn cho mỗi cá nhân và toàn thể xã hội dân sự; hai, chấp nhận tính đa nguyên trong các lĩnh vực chính trị và xã hội; ba, công nhận các hình thức tổ chức tự trị và hiện tượng hợp tác trong xã hội; bốn, chấp nhận một số biện pháp kiểm soát chánh quyền và thiết lập đối thoại giữa chánh quyền với quần chúng. Cuối cùng là giải phóng guồng máy kinh tế Việt Nam: một, hủy bỏ độc quyền kinh tế của nhà nước; hai, giải tỏa sự điều chỉnh nền kinh tế quốc gia bằng những biện pháp kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa; ba, tư hữu hóa nền kinh tế quốc dân. Ðó là những đòi hỏi khách quan, nói một cách tổng hợp và phân tích một cách cụ thể, để ÐCSVN có thể trở về trong lòng dân tộc. Dĩ nhiên, con đường về ấy sẽ không có vòng hoa trên đầu và thảm đỏ dưới chân; ngược lại, nó bao hàm một nguy hiểm lớn: Ðảng có thể sẽ bị đẩy lùi vĩnh viễn vào đêm đen của hậu trường lịch sử. Thường ví mình với Phù Ðổng Thiên Vương, Ðảng đã làm mất ảo tưởng về tác phong Thánh Dóng từ 1975; ngày nay, ÐCSVN thật tình không có chọn lựa nào khác, ngoài sự bước vào một tiến trình lịch sử, nói cho cùng, cũng không quá cách biệt với giai đoạn xây dựng của «cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân» mà Ðảng đã từng đề xướng nhưng không thực hiện. Hoặc Ðảng chủ động tạo ra những điều kiện thuận lợi để đất nước còn có thể trỗi dậy, dù có thể phải trả bằng cái giá là sự đào thải của chính mình; hoặc ngoan cố bám víu vào chánh quyền để, nếu không bị lật đổ, thì chết hẳn trong vũng lầy cộng sản chủ nghĩa, kéo theo cả dân tộc Việt Nam. Trong trường hợp đầu, hào quang của hai cuộc kháng chiến không tiêu tan hết, Ðảng còn hy vọng trở lại sau một sự lột xác cần thiết; trong trường hợp sau, Ðảng không còn cả một lịch sử. 2) THỜI KỲ XÉT LẠI: KINHNGHIỆM ÐÔNG ÂU
Sau Ðại Hội 7, vẫn chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ là ÐCSVN muốn chủ động ly khai với chủ nghĩa Marx-Lênin. Tình hình sẽ đi về đâu ? Ở đây, tiền lệ Ðông Âu có thể mang lại một ít ánh sáng. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói Việt Nam hiện đang ở vào tình thế của các nước Ðông Âu trong thập niên 1970, dĩ nhiên với những điểm giống (về chính trị, kinh tế) bên cạnh một số điểm khác nhau (xã hội dân sự, ý thức của đảng viên).
Cái giống nhau ở gốc rễ là bước nhảy vọt từ một xã hội tư bản phôi thai vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðối với Karl Marx, không một phương thức sản xuất nào có thể chào đời hay chết đi quá sớm được (trước khi nền móng kinh tế của nó hình thành hay trở thành lỗi thời); đối với Lênin, cứ đẻ non chủ nghĩa xã hội từ nước Nga lạc hậu cái đã, rồi sẽ cải cách sau. Cái giống nhau thứ hai là sự thất bại của tất cả những chương trình kin tế nhằm cải tổ hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện tồn, kể từ NEP (11). Tại sao ? Vì một lý do hiển nhiên: tất cả mọi cải tổ đều bị giam hãm trong lựa chọn chính trị cơ bản. Nếu đặt chủ nghĩa xã hội sau chủ nghĩa tư bản, mọi biện pháp kinh tế nhằm phát triển chế độ tư bản đều vô hình trung đưa đến chế độ cộng sản sau này, không có gì đáng lo ngại cả. Nhưng một khi đã đặt chủ nghĩa xã hội như một thể chế song song và cạnh tranh với chế độ tư bản, không thể nào cho phép những biện pháp có khả năng «hàng ngày, hàng giờ sinh ra chủ nghĩa tư bản» tung hoành ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội. Mọi cải cách, vì vậy, đều vừa thiếu tính triệt để, vừa mang tính chu kỳ luẩn quẩn: trì trệ - cải tổ - mầm mống tư bản bén rễ - ngừng cải tổ - trì trệ -...
Ðiều giống nhau thứ ba là sự lộng hành của một tập đoàn lãnh đạo vừa giáo điều vừa tham quyền cố vị, sẵn sàng bóp chết hay, ít ra, làm biến tính mọi đòi hỏi cởi trói trong xã hội cũng như bên trong đảng. Do đó, điều giống nhau thứ tư là sự xuất hiện của những khái niệm lai căng trong một thứ ngôn ngữ độn mới của các đảng cộng sản, như «nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa», «chủ nghĩa đa nguyên xã hội chủ nghĩa», «kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa», v.v... biểu hiện của một số nhượng bộ giới hạn. Trên thực tế, đây chỉ là những khái niệm mong manh, xuất phát từ bó buộc phải đưa những giá trị căn bản của chủ nghĩa Marx-Lênin đi tị nạn trên đất tự do và nhu cầu viện dẫn nhãn hiệu chính thống làm lá chắn. «Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa» xác định là đảng cộng sản vẫn sẽ độc chiếm vĩnh viễn nhà nước, mặc dù chánh quyền cộng sản cũng biết làm ra luật pháp như ai. «Chủ nghĩa đa nguyên xã hội chủ nghĩa» cho phép các đảng cộng sản chỉ chấp nhận hoặc tính đa nguyên trong xã hội nhưng không trong chính trị, hoặc các lực lượng chính trị «đối lập nhưng không đối kháng», hoặc sự «đối lập ý kiến chứ không đối lập tổ chức» (12), nghĩa là «đa nguyên»... trong khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật độc đảng. «Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa» hứa hẹn là nhà nước sẽ bớt can thiệp một cách phi lý vào sự vận hành của nền kinh tế quốc dân, tuy vẫn triệt để ngăn chận quyền tư hữu và tự do kinh doanh.
Dù rất hạn chế, những nhượng bộ ấy đã phát triển thành nhiều mảng vỡ quan trọng, để cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ vào cuối năm 1989 của toàn bộ hệ thống cộng sản ở Ðông Âu. Ðiển hình ở đây là trường hợp Hungaria. Tháng 5/1988, vấn đề được đặt ra còn là xây dựng một «nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa»: «Ðảng Xã Hội Và Công Nhân Hung» (ÐXHCNH) vẫn độc chiếm nhà nước và dân chủ chỉ có nghĩa là phải thiết lập «đối thoại» giữa chính quyền với các nhóm quyền lợi. «Chủ nghĩa đa nguyên» chỉ được công nhận trong lãnh vực xã hội, để quy định những nhóm này. Từ đó có yêu cầu soạn thảo ra những điều luật liên quan đến các hiệp hội. Thủ tục dự trù là ÐXHCNH sẽ soạn thảo một dự án sơ khởi, dự án sẽ được Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng duyệt qua trước khi mang ra thảo luận trong xã hội và đưa lên Quốc Hội biểu quyết. Dự án sơ khởi chỉ công nhận những đoàn thể thuần túy xã hội và ngăn cấm mọi tổ chức chính trị hay nghiệp đoàn. Nhưng sau đợt thảo luận trong quần chúng, ÐXHCNH đành phải hủy bỏ mọi hạn chế, cho phép cả những đảng phái chính trị tồn tại và tham gia vào đời sống chính trị. Tháng 2/1989, ý đồ cuối cùng của phe bảo thủ trong Ðảng nhằm áp đặt tính chất xã hội chủ nghĩa của chế độ vào bản hiến pháp cũng tan thành mây khói, khi Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp nhận định «chủ nghĩa xã hội» như một khái niệm vừa «không định nghĩa được» vừa «nằm ngoài lãnh vực pháp lý». Ðiều luật về chánh đảng ở Hungaria, rốt cuộc, chỉ loại trừ những đảng phái phủ nhận chế độ đa đảng và nhằm độc chiếm chánh quyền!
Xã hội dân sự đã chiến đấu và chiến thắng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ðó là ý nghĩa của sự sụp đổ của toàn khối cộng sản tại Ðông Âu (13). Ðiều này nhắc nhở một sự thực đơn giản: chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ là một hiện tượng xã hội, theo nghĩa là nó đã bắt rễ được trong xã hội dân sự. Người ta có thể định nghĩa được một nhà nước vô sản, một nền kinh tế tập thể hóa, nhưng có lẽ chẳng ai hình dung nổi bộ mặt của một «xã hội xã hội chủ nghĩa» thật sự (chưa nói vội đến «cộng sản chủ nghĩa»), theo nghĩa là một xã hội tự lập được xây dựng trên những giá trị tích cực của chủ nghĩa Marx-Lênin, vì một lý do giản dị là cái «xã hội mới» với «con người mới» đó chưa hề xuất đầu lộ diện ở đâu cả sau mấy mươi năm (hơn 70 năm ở Liên Xô) cật lực xây cất! Các đảng cộng sản cầm quyền, bất kỳ Âu hay Á, cũng chỉ thật sự nắm được nhà nước và một phần nào kinh tế. Nếu nền kinh tế chính thức đã luôn luôn bị cạnh tranh bởi một thứ kinh tế song hành hay đường hầm, xã hội dân sự vẫn thường xuyên nằm ngoài những giá trị mà nhà nước chuyên chính vô sản đề xướng. Trong khi xã hội chính trị là lãnh địa của hệ tư tưởng, với một giai cấp lãnh đạo chìm đắm trong giấc mơ giáo điều, xã hội dân sự ở các nước cộng sản có thể được nhận định là «toàn bộ xã hội, với tất cả những bộ phận của nó, trong chừng mực mà các thành phần này chỉ theo đuổi những mục tiêu tự nhiên của con người và tuân theo nguyên lý hiện thực» (14). Và cuối cùng, chính cái xã hội dân sự phi xã hội chủ nghĩa đó đã phát động cuộc cách mạng 1989, và đã chiến thắng.
Ðến đây, điểm khác nhau chính giữa tình hình Ðông Âu và Việt Nam có thể được phát hiện và đánh giá rõ ràng. Mặc dù nó vẫn tồn tại và đứng vào thế đối lập với bộ máy Ðảng/Nhà nước, xã hội dân sự Việt Nam vừa không có cùng mức độ phát triển, vừa không mạnh mẽ bằng ở Ðông Âu, vì những lý do lịch sử khá hiển nhiên. Nếu cuộc chiến tranh giai cấp, mặc dù đã làm suy yếu xã hội dân sự qua các trò đấu đánh và kỳ thị lý lịch, đôi khi còn có khả năng kích thích tính chiến đấu của nó, hiện tượng vượt biên và các chương trình di cư (O.D.P., H.O,...) chỉ làm đối lập giảm mất một phần lực lượng tiềm tàng. Một điểm khác nhau nữa là, vì công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở Việt Nam trễ hơn, nên ý thức về tính lỗi thời của chủ nghĩa Marx-Lênin trong đảng cũng chậm tới hơn (9). Trong số những đảng viên bị đánh giá là hủ hóa, số người đã thực sự mở mắt trước ngõ cụt của mô hình Lênin còn tương đối yếu kém, cả về lượng lẫn phẩm.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:30:05 GMT 9
3) THỜI KỲ XÉT LẠI: CHÍNH SÁCHCỦA ÐCSVN
Vì thế, tuy ở vào hoàn cảnh của Ðông Âu những năm 1970, ÐCSVN thật ra chỉ có nổi ý thức của các đảng cộng sản anh em trong các thập niên trước về yêu cầu lột xác trước sự bế tắc của tình hình. Trong khi thiên hạ đã thoát ly khỏi chủ nghĩa Marx- Lênin, Ðảng còn muốn «đổi mới» một hệ thống không ai cải tổ nổi. Trong khi người ta đã dân chủ hóa, Ðảng vẫn còn nuôi hy vọng lật ngược được thế cờ bằng cách chỉ «cởi trói» đôi chút. Ðối với Ðảng hôm nay, vấn đề hãy còn là «ổn định để phát triển» (như thể là Ðông Âu vẫn thiếu ổn định từ sau 1945!), hãy còn là sự phân vân «đổi mới chính trị hay đổi mới kinh tế» (như thể chế độ chính trị không phải là một hệ thống gông cùm đối với kinh tế và xã hội), và cuối cùng vẫn còn là «mở cửa kinh tế hầu cứu vãn tình thế» (như thể đây là một sáng kiến chưa từng được thử nghiệm). Những văn kiện của Ðảng trước cũng như sau Ðại Hội 7, do đó, không báo hiệu một thay đổi đáng kể nào về chính trị. Sau «Cương Lĩnh Chính Trị», «Chiến Lược Ổn Ðịnh và Phát Triển Kinh Tế», các bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1980 không mở ra một hướng đi nào mới, mà chỉ lặp lại những nguyên lý bảo thủ nhất trong mô hình Lênin. Thay vì là văn kiện tối cao của đất nước, Hiến Pháp chỉ có nhiệm vụ «thể chế hóa Cương lĩnh, những đường lối chánh sách lớn của ÐCSVN». Thay vì đứng biệt lập, tổ quốc và thể chế còn nhập nhằng trong ý niệm «tổ quốc xã hội chủ nghĩa», và Ðảng tiếp tục giữ nguyên ngôi vị «lãnh đạo nhà nước và xã hội, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh». Thay vì phân quyền và tản quyền, quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất, «không phân chia các quyền lập pháp - hành pháp - tư pháp», «không phân chia thành quyền lực nhà nước trung ương và quyền lực nhà nước địa phương». Thay vì mở rộng thành toàn thể cộng đồng, nhân dân tiếp tục đóng khung trong «liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa». Không khí đấu tranh giai cấp vẫn bàng bạc suốt các văn kiện (15). Hy vọng cứu vãn chế độ bằng kinh tế được ghi lại trong quy định về nền kinh tế quốc dân như «kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa» (15). Có được sự kiến hiệu của kinh tế thị trường và của hình thức quản lý tư bản trong khuôn khổ của một nền kinh tế kế hoạch hóa kiểu xã hội chủ nghĩa là giấc mơ đã lâu đời của nhiều thế hệ lãnh đạo các đảng cộng sản. Ở Việt Nam bây giờ, nó được thể hiện bằng một số chính sách kỳ quặc như: một, vừa sử dụng vừa kìm hãm hiệu năng của cơ chế thị trường; hai, vừa ưu đãi tư bản nước ngoài (yêu cầu kêu gọi đầu tư và làm ăn kiểu tư bản bắt buộc), vừa bạc đãi tư sản dân tộc (đấu tranh giai cấp và bảo vệ nhà nước vô sản bắt buộc). Sản phẩm của những nghịch lý này là một thứ kinh tế không còn là xã hội chủ nghĩa mà cũng chưa trở thành tư bản chủ nghĩa, vì sự thiếu vắng của những nhà tư bản đúng nghĩa (kinh doanh với vốn liếng của mình, lời ăn lỗ chịu, do đó, tôn trọng cung cách và quy trình làm ăn hợp lý). Phối hợp với những đặc quyền đặc lợi về chính trị và hệ thống tùy tùng của mỗi cá nhân các đảng ủy được Ðảng đề cử vào vai trò kinh doanh, từ từ hình thành một nền kinh tế nửa phong kiến nửa tư bản (kinh tế sứ quân), với những đóng góp nhất định vào việc gây ra các hỗn loạn và tệ đoan xã hội, vào sự tàn phá đất nước. Không có năng lực đưa đất nước dân tộc tiến lên, một thứ kinh tế như thế vẫn có thể được báo chí ngoại quốc thổi phồng theo hướng lạc quan (16), bởi vì nó không thiếu khả năng phục vụ quyền lợi của tư bản nước ngoài. Về lâu về dài, nó còn có tiềm năng đưa quê hương đến chỗ mất chủ quyền. Cấp lãnh đạo ÐCSVN dường như có khuynh hướng hạ thấp hiểm họa này, dựa vào ngụy lý là nếu Ðảng đã từng đánh bại nổi các nhà nước thực dân và đế quốc, thì Ðảng cũng sẽ chiến thắng được các tổ chức và xí nghiệp quốc tế. Sự kiêu ngoa này không có cơ sở khách quan: trong hai cuộc kháng chiến trước đây, khả năng hành động của nhà nước tư bản địch đã luôn luôn bị hạn chế bởi xã hội dân sự, dưới hình thức một luồng dư luận đối lập; cuộc tranh chiến với các tập thể tư bản tư nhân quốc tế bên ngoài ngày nay sẽ diễn ra trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác, với những luật chơi mà Ðảng không nắm được, trong khi xã hội dân sự Việt Nam đã mất đi một phần lớn sức đề kháng. Không có sự hỗ trợ của dư luận địch hoặc sự đồng tình của nhân dân trong nước, Ðảng chẳng những đã thất bại trước đám tàn quân Khmer Ðỏ mà cũng không bình định nổi tập thể Hoa Kiều ở Chợ Lớn. Trong trường hợp Mỹ giải tỏa cấm vận và ÐCSVN nhận viện trợ của các nước tư bản, trừ phi xảy ra một biến cố quan trọng, ngoài nguy cơ trở thành chư hầu của Trung Cộng, Việt Nam còn có thể sẽ lùi lại thời kỳ gọi là «thuộc địa kiểu mới» trong ngôn ngữ tả khuynh trước đây, với một nhà nước không có hậu thuẫn của quần chúng, xây dựng trên một nền kinh tế lệ thuộc và một xã hội dân sự hỗn loạn, sa đọa và tù túng. Ðiểm khác nhau duy nhất là chánh đảng cầm quyền lại mang danh nghĩa của một tổ chức cách mạng phía tả. Lúc đó, để sống còn, cái chánh đảng ấy và cái nhà nước ấy rồi cũng sẽ phải làm một «thỏa hiệp lịch sử», dưới hình thức một chánh phủ liên hiệp, nhưng không phải với những người đại diện chân chính cho giai cấp tư sản dân tộc mà với bọn tay sai của các thế lực tư bản nước ngoài - kể cả các tập thể tư bản hạng nhì như giới tài phiệt Hoa Kiều ở Hồng Kông, Ðài Loan hay Singapore - trước khi chấp nhận cái số phận khó lòng tránh khỏi là rơi vào sự lãng quên của ngày mai. Ðàng nào rồi cũng có cơ tiêu vong, sự chọn lựa của ÐCSVN từ đây, thật ra, chỉ là chọn lựa giao chánh quyền lại cho ai: cho kẻ thù giai cấp do chủ nghĩa giáo điều chỉ định, hay kẻ thù tay sai của đế quốc mới hay cũ do lịch sử mang tới. 3) THỜI KỲ XÉT LẠI: NHIỆM VỤ CỦAÐỐI LẬP
Nếu ÐCSVN vẫn kiên trì trong con đường bảo vệ chế độ, đối lập có thể và sẽ phải làm gì ? Ðể tránh thoát đồng thời cả hai viễn tượng là, hoặc Ðảng sẽ chết ngộp trong vũng bùn cộng sản và kéo theo cả tổ quốc Việt Nam, hoặc Ðảng sẽ thỏa hiệp với một số khuynh hướng làm tay sai cho nước ngoài, các lực lượng dân tộc dân chủ Việt Nam chân chính không có con đường nào khác hơn là hoà giải, kết hợp và áp đặt cho cả thế giới và cho bản thân Ðảng sự có mặt của chính mình, nếu chưa đủ hùng hậu thì ít ra cũng tin cậy nổi, thông qua một tổ chức, một chương trình và một năng lực hành động phù hợp với những đòi hỏi của hiện tình đất nước. Làm thế nào để hình thành cái mặt trận ấy, đó là nhiệm vụ lịch sử của bộ tham mưu các tổ chức đoàn thể còn muốn có một chỗ đứng nào đó trên quê hương ngày mai. Ðiều chắc chắn là, trong bất kỳ tập thể nào ngày nay cũng không hề thiếu những người có phẩm chất, tài năng hay nhiệt tình; tất cả vấn đề là tạo ra một cơ cấu để họ có thể hợp tác với nhau. Một điều chắc chắn khác là cái mặt trận dân tộc dân chủ đó, mọc lên từ xã hội dân sự, chỉ có thể lấy một xã hội dân sự tự chủ làm đối tượng tối hậu.
Cần phải giành lại chính quyền - dĩ nhiên. Nhà nước tương lai sẽ tạo ra cái khung sinh hoạt cần thiết để đảm bảo sự toàn vẹn của cộng đồng và sự tôn trọng các quyền tự do dân chủ. Cần phải xây dựng kinh tế - dĩ nhiên. Một nền kinh tế có sức chạy đều và bền vững, khi mỗi người đều có động lực bình thường để lao động, sẽ làm cho dân giàu nước mạnh, đẩy tổ quốc bay cao. Nhưng nếu đặt vấn đề về lâu về dài, trên tất cả có lẽ là sự cần thiết phải hồi sinh và vun trồng một xã hội dân sự tự trị, được xây dựng trên những giá trị dân tộc và dân chủ đích thực, trong đó người Việt Nam sống với nhau, vừa biết gắn bó thủy chung với những ràng buộc tập thể, vừa biết tôn trọng nhân nhượng trước những chọn lựa riêng biệt.
Trước sự suy sụp hiện nay của toàn bộ khối cộng sản, dù ngoan cố đến đâu, hiện nay tập đoàn lãnh đạo ÐCSVN cũng đã phải co cụm về vị trí cố thủ nhằm bảo vệ chính quyền, và do đó, nới lỏng sự kềm kẹp của Ðảng trong các lãnh vực kinh tế và xã hội. Những thành phần lành mạnh cũng nhờ thế mà dần dà hồi sinh từ vài năm nay, và đang tìm cách vươn lên từ một xã hội dân sự hoang dại và phân tán, với những phương pháp hoạt động mới để tránh né sự phong tỏa của nhà nước. Một câu hỏi bức thiết cần được đặt ra: đối lập ở ngoại quốc có thể đóng góp những gì cho cái chương trình phục hưng xứ sở toàn diện nói trên và nhất là để tiếp sức cho công cuộc kháng chiến của xã hội dân sự trong nước?
Về chính trị, rất nhiều đoàn thể và cá nhân đã đầu tư tâm trí cùng thời giờ vào những suy nghĩ về một thể chế cho tương lai Việt Nam (tổng thống chế hay đại nghị chế), về tổ chức quyền lực trong nước (tập quyền hay tản quyền), về chiến lược và luật lệ bầu cử - đôi khi ngay cả chương trình bầu cử. Tất cả những suy tư đó đều cần thiết và có thể cũng không quá sớm. Nhưng vấn đề trước mắt vẫn còn là làm thế nào dồn ÐCSVN đến chỗ phải chấp nhận tổng tuyển cử tự do. Trong tình hình phân hóa của Ðảng hiện nay, nhóm bảo thủ trong Ðảng nhất định sẽ chẳng bao giờ chủ động rời bỏ chánh quyền, trong khi phe tiến bộ cũng khó lòng thuyết phục nổi đa số đảng viên bước vào một tiến trình thay đổi đầy bất trắc cho họ, nếu trước mặt ÐCSVN vẫn chưa xuất hiện một lực lượng có tiềm năng thay thế Ðảng, và nhất là có khả năng bảo đảm cho sự thực thi hòa giải hòa hợp dân tộc và các quyền tự do dân chủ. Ngay cả trong trường hợp hãn hữu là, sau khi củng cố lại nội bộ, Ðảng tổ chức bầu cử, một ÐCSVN dù suy yếu mà còn tổ chức, vẫn có nhiều trọng lượng hơn 100 nhóm đối lập rời rạc. Về điểm này, trong một chừng mức nhất định, cuộc bầu cử vừa qua tại Albania có thể được xem như một bài học rất bổ ích.
Dù đặt vấn đề như thế nào, sự chào đời của một mặt trận dân tộc dân chủ có tầm vóc, do đó, vẫn là tiền đề không thể tránh né. Hơn thế nữa, ai cũng biết cái tiến trình hình thành bắt buộc của nó: nghìn con lạch đổ vào trăm sông, trăm sông chảy vào biển cả. Nhưng bao nhiêu năm tháng đã trôi qua kể từ ngày vỡ nước, các nhóm đối lập nhỏ như vẫn còn nằm trong giai đoạn chờ đợi một sự tháo gỡ những chướng ngại cho sự liên kết. Ở đây, cần nhận diện hai loại trở lực - ngay cả khi đã hết đối lập trên những chọn lựa chính trị căn bản -, cái thứ nhất chung cho mọi đoàn thể, cái thứ hai riêng cho các tổ chức đối kháng nhau trong quá khứ. Hầu hết các nhóm tranh đấu dường như vẫn chưa thoát khỏi tác động tiêu cực của một thứ «chủ nghĩa yêu nước nhóm nhỏ», cảm thấy gắn bó với con lạch nhà hơn là với dòng sông sẽ chở mình vào đại dương, lo ngại «mất chủ quyền» trong một liên minh rộng lớn hơn. Ngoài ra, các nhóm đã có «nợ nước bọt» với nhau còn đeo thêm sự dè dặt và nghi kỵ dễ hiểu xuất phát từ những xung đột ngày trước. Tuy hai nhưng thực chất của các trở lực này vẫn là một: đây chỉ là những chướng ngại tâm lý - nghĩa là, khi đã có đồng thuận chính trị, người ta có thể vượt qua nó bằng chủ quan nếu thực tình muốn liên kết và dẫn dắt quần chúng của mình đi theo. Tình hình thuận lợi - và chỉ có thể thuận lợi hơn mỗi ngày - sẽ bắt buộc các phần tử quá khích hoặc phải tiến lên, hoặc chịu bị đào thải.
Về mặt kinh tế, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đã hoàn toàn trở thành tư bản, việc xây dựng lại đất nước Việt Nam, trong khuôn khổ của mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa - dù với một chính sách văn hóa và xã hội đáng kể - tùy thuộc rất nhiều vào những yếu tố sau đây: nhân sự, tư bản, kỹ thuật. Sự thiếu vắng một tầng lớp doanh nhân có tầm vóc bình thường đã là một trở ngại lớn lao cho sự cất cánh của các nước nhược tiểu; ở Việt Nam, nó còn nghiêm trọng hơn nữa vì chính sách cố tình tiêu diệt tầng lớp này của ÐCSVN. Gây dựng lại đội ngũ nhân sự kinh tế là yêu cầu bức thiết nhất của một nước Việt Nam hậu cộng sản.
Cộng đồng người Việt ở nước ngoài có thể đóng góp vào sự nghiệp này bằng nhiều phương sách, như: tạo lập những tế bào mới cho một nghiệp đoàn chủ nhân hải ngoại - điều này tùy thuộc ở các giới giám đốc xí nghiệp hay doanh nhân người Việt đang hành nghề ở ngoại quốc hiện nay; đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý xí nghiệp thành thạo - điều này trông cậy nơi sự hướng dẫn con em của các bậc cha mẹ. Trong suốt tiến trình hình thành, các thành phần này sẽ tự đảm nhận trọng trách suy nghĩ về những phương thức tích lũy tư bản hiệu quả (một ngân hàng của Việt Kiều chẳng hạn) nhằm chi viện cho công cuộc phát triển quốc gia, giảm thấp phần nào gánh nặng của sự vay mượn vốn liếng nguy hiểm từ các định chế tài chính quốc tế. Ngoài ra, qua sự chung đụng với bao nhiêu nhân tài của các quốc gia tiên tiến, họ cũng sẽ có dịp học hỏi về việc đưa khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, có cơ hội để trau dồi kiến thức về sự vận hành của nền kinh tế thế giới và quốc dân.
Về mặt văn hóa xã hội, câu hỏi là chúng ta cần phải vun trồng những giá trị nào, phải thực hiện những gì, để Việt Nam còn là tổ quốc của tất cả, để cây dân chủ có sức mọc lên tươi tốt trên quê hương, và để sự phát triển đất nước ngày một thêm bền vững? Giải đáp có lẽ nằm ở sự lập lại một thế quân bình cần thiết giữa những giá trị đối kháng (bình đẳng/tự do, xã hội/cá nhân, v. v...)mà không ai có thể vất bỏ hoàn toàn, nhận diện ra các thế lực ly tâm để trung hòa chúng bằng những giá trị hướng tâm, nghĩa là hướng về những vấn đề thật sự của Việt Nam - hòa giải, độc lập, dân chủ, phát triển. Chúng ta đã tôn sùng quá lố tinh thần quốc tế, sự phân biệt giai cấp, chủ nghĩa tập thể, giải pháp chính trị; cần đề cao trở lại các giá trị dân tộc (vốn liếng chung về văn hóa và lịch sử, sự chia sẻ cùng một thân phận hay tương lai), tính đa nguyên của mọi tập hợp quốc gia (về chủng tộc, thành phần xã hội), quyền sống và mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân, vai trò của khoa học và kỹ thuật, v. v...
Ðiều quan trọng ở đây không chỉ là khẳng định lại những giá trị vừa nói, mà là làm cho chúng bắt rễ trong xã hội dân sự. Những hạt giống gieo trồng, thông qua tiến trình xã hội hóa, sẽ được mỗi thành viên của xã hội nhập tâm đến mức trở thành tập tính của mọi người. Trong suốt đoạn đường này, tác động của nhà nước, dù thật quan trọng, cũng không thể nào thay thế được vai trò thường trực của xã hội, học đường và gia đình... Nói cách khác, hành động của các ngài bộ trưởng và dân biểu, dù tích cực đến đâu, cũng khó lòng so sánh nổi với ảnh hưởng trong lâu dài của các giới tu sĩ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, hay nhà xuất bản, v. v...
Cần trả lại cho chính trị cái nghĩa nguyên thủy và trọn vẹn nhất của nó: «politeia» là tất cả những gì có liên quan đến thành quốc hay đến tập thể công dân, chứ không phải chỉ là những gì can hệ đến chính quyền. Cần chấm dứt «chủ nghĩa nhà nước» và nhất là cái đầu óc trông đợi tất cả nơi nhà nước. Cộng đồng người Việt tại mỗi nước định cư sẽ góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng lại xã hội dân sự Việt Nam trong nước, nếu ngay từ bây giờ, mỗi cộng đồng đều biết tự tổ chức thành một mạng lưới những đoàn thể sinh hoạt (ái hữu, địa phương, nghề nghiệp, hay cứu trợ, thiện nguyện) và biết cộng tác với nhau trong tinh thần phổ biến các thông điệp nói trên.
IV) TRƯỚC THẾ KỶ 21: NHÌN LẠI TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HOÁ
1) TỔNG KẾT VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CỦA ÐCSVN
Ðánh giá trong toàn bộ, cuộc cách mạng của ÐCSVN là một hiện tượng hai mặt. Nhìn dưới khía cạnh kỹ thuật, đây là một thành công vĩ đại chưa từng có trong lịch sử đất nước. Một chánh đảng mà đối tượng đấu tranh tối hậu là sự tiêu vong của thực thể quốc gia, nhờ các phương pháp tuyên truyền hiện đại, đã động viên được dưới lá cờ dân tộc nhiều thế hệ thanh niên nam nữ Việt Nam, và biến đối phương của mình thành những nhóm tay sai ô nhục cho ngoại bang trong nhận thức tập thể. Nhưng nhìn dưới khía cạnh thực hiện, đây cũng lại là một thất bại thê thảm vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Dù đã phải trả bằng một cái giá khổng lồ về nhân mạng, nó không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào của tổ quốc Việt Nam.
Phát triển? Việt Nam đã tuột dốc từ vị trí nghèo nàn xuống hoàn cảnh nghèo mạt. Dân chủ? Chúng ta đã đánh đổi chế độ độc tài quân phiệt lấy một nền chuyên chính độc đảng, toàn diện và thối nát hơn. Ngay cả trong mục tiêu độc lập - đối tượng đấu tranh được xem là thành công nhất của Ðảng -, chúng ta cũng đã chỉ thay thế tình trạng nô lệ chính trị bằng những quan hệ lệ thuộc khác đối với bên ngoài trong các lãnh vực kinh tế và tư tưởng. Sự thất bại của ÐCSVN đòi hỏi tất cả những người Việt đấu tranh phải đặt lại mọi vấn đề của đất nước trong một cách nhìn mới.
Chủ nghĩa Marx là sản phẩm tất yếu của một buổi giao thời, khi thế giới hiện đại vừa thoát thai từ 3 dòng thác cách mạng - khoa học kỹ thuật (một thế giới quan phi tôn giáo), chính trị (chế độ dân chủ), và kinh tế (sự công nghiệp hóa). Nó có tham vọng vừa phê phán những tệ đoan của chế độ tư bản còn chập chững, vừa vẽ ra con đường xây dựng một tương lai có tính người hơn. Dưới ảnh hưởng của mô hình Lênin và không khí sôi động của các thập niên đầu thế kỷ, ÐCSVN đã nhận diện và tìm cách giải quyết những bài toán lớn của tổ quốc trong một quan điểm tổng hợp là cách mạng. Tất cả vấn đề là, nếu cách mạng chỉ đồng nghĩa với một thay đổi toàn diện và sâu sắc, thì đất nước Việt Nam có thể rất cần cách mạng. Nhưng nếu nó bao hàm sự sử dụng bạo lực để xóa trắng tất cả trong một thứ luận lý đối kháng hầu bắt đầu lại hết từ con số không, thì đất nước có lẽ cũng chẳng cần đến cách mạng.
Dù sao, với sự sụp đổ của hầu hết những quốc gia đã chọn lựa con đường cách mạng bạo động của Ðệ Tam Quốc Tế, thế giới đang bước vào một thời đại khác. Trật tự thế giới mới, một mặt vừa lắng dịu hơn vì bớt đi hiểm họa chiến tranh Ðông / Tây, nhưng mặt khác cũng cạnh tranh quyết liệt hơn trong địa hạt kinh tế. Ngày nay, chủ quyền dân tộc phải được hiểu trong tương quan với mọi hình thức thống trị đến từ bên ngoài. Chỉ những quốc gia phát triển mới có thể tự hào là độc lập thật sự trong một thế giới liên lập, trong khi dân chủ - nếu căn cứ trên kinh nghiệm của các nước tư bản tiên tiến - có thể là chế độ chính trị thích hợp nhất với yêu cầu phát triển về mọi mặt của xã hội. Nói cách khác, dân chủ đã trở thành giá trị tổng hợp trung tâm của thế kỷ thứ 21 đang mời gọi.
2) NHÌN LẠI TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HOÁ
Nhìn từ đây, đóng góp độc đáo và kiến hiệu nhất của những người Việt Nam không công sản cho tiền đồ của tổ quốc có lẽ không phải là sự gạt bỏ thẳng tay và toàn bộ một hệ tư tưởng lỗi thời - điều đã trở nên quá dễ dàng - mà là khả năng nhận diện chủ nghĩa Marx như một thời điểm trong trào lưu tư tưởng đã khơi mào và thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa của cả nhân loại, và do đó, vừa tiếp thu được phần phê phán xác đáng của nó đối với buổi bình minh của chế độ dân chủ, vừa vượt qua được những giới hạn của nó.
Nhìn từ quan điểm lý thuyết, đối với Karl Polanyi chẳng hạn, ý nghĩa của những màn đổi dời lớn nhỏ trong xã hội loài người, tựu trung, chỉ là cuộc đấu tranh giành chủ quyền của xã hội dân sự chống lại ách khống chế của một nhà nước chính trị đứng biệt lập, đồng thời cũng là đấu tranh tự vệ của cái xã hội đó trước sự thống trị của những trung tâm quyền lực xuất phát từ kinh tế thị trường (17). Từ thế kỷ trước, Karl Marx là một trong số những tác giả đã nhìn thấy phần lớn cái tiến trình xã hội hóa ngày càng sâu rộng ấy. Mặc dù phân tích của Marx có mang những sai lầm quan trọng nhất định (khái niệm «chuyên chính vô sản», suy luận về vai trò của quyền tư hữu và của giai cấp vô sản, về sự tiêu vong của nhà nước), không ai có thể bóp méo sự thật là, theo quan niệm của Marx, dân chủ vượt quá địa phận nhà nước và nằm trong lãnh vực xã hội dân sự, không phải là một nhà nước toàn trị mà là một xã hội tự do hợp tác (10). Về điểm này, Lênin chẳng những đã không phải là người kế thừa mà còn là kẻ phản bội đối với Karl Marx.
Nhìn từ quan điểm hiện thực, dân chủ trực tiếp là điều không thể thực hiện được; do đó, nhà nước bao giờ cũng chỉ có thể nằm trong tay một thiểu số, dù là với tư cách đại diện. Cần phải mở rộng nó vào lãnh vực kinh tế; nhưng kinh tế, dù dưới chế độ tư hữu hay công hữu, rốt cuộc rồi cũng vẫn nằm trong tay một thiểu số, dù đó là những người ở vào cương vị tạo ra công ăn việc làm cho kẻ khác. Nếu ngừng lại ở các lãnh vực chính trị và kinh tế, dân chủ sẽ vĩnh viễn là một giá trị dành riêng cho những thành phần có thế lực - nhà nước hay tài chính - trong cộng đồng thụ hưởng. Ðối với đa số, nó chỉ là một bảo vật thuần hình thức, tuy cần thiết nhưng mơ hồ. Dân chủ chỉ trở thành vật chinh phục trọn vẹn khi nó bước vào xã hội dân sự, khi mỗi người công dân đều có khả năng sống thực trong cuộc đời hàng ngày - tại nơi ăn, chốn ở, chỗ làm việc - các thứ quyền tự do đã được cả thế giới long trọng tuyên ngôn, và tham gia tích cực vào việc điều hành quốc gia. Dân chủ hoặc sẽ xuất hiện trong xã hội dân sự, hoặc chẳng bao giờ tồn tại thực sự hết cả.
Giấc mơ nguyên thủy của Karl Marx còn có thể thực hiện được hay không? Trên lý thuyết, đối với nhiều người, nó chỉ có thể hình thành qua ít nhất hai điều kiện: một, nó phải xuất phát từ các quốc gia tư bản tiên tiến nhất; hai, nó phải là biểu hiện của một cao trào dân chủ hóa triệt để, nhằm đặt cả nhà nước lẫn thị trường dưới sự kiểm soát của xã hội dân sự. Trên thực tế, vấn đề có lẽ không đặt ra nữa trong một thời gian dài: sự sụp đổ của các chế độ cộng sản hiện tồn - một thứ chủ nghĩa xã hội biến chất - đã kéo theo nó, ngoài các giáo điều lỗi thời của Lênin, cả những luận điểm còn đáng bàn cãi của Marx. Như mọi chủ nghĩa, chủ nghĩa Marx sẽ không chết, nhưng có lẽ nó đã khép mắt lịm dần vào giấc ngủ dài qua đông.
3) DÂN CHỦ VÀ PHÁT TRIỂN: VÀI SUY NGHĨ BƯỚC ÐẦU CHO VIỆT NAM
Rập khuôn theo mô hình cách mạng của Lênin, rốt cuộc, là một sai lầm rất lớn của những người theo chủ nghĩa Marx trên thế giới nói chung, và của những người Việt Nam muốn kiến thiết đất nước trên khát vọng bình đẳng nói riêng. Không rút ra nổi từ thất bại ấy một bài học nào, viện lẽ nó không phải là lầm lỗi của phe mình, có thể còn là một sai lầm lớn hơn nữa đối với những người Việt Nam muốn xây dựng lại quê hương theo lý tưởng tự do. Có thể rút ra từ thất bại của ÐCSVN ít nhất hai bài học.
Bài học đầu tiên liên quan đến dân chủ tự do. Loài người đã bước vào kỷ nguyên dân chủ từ lâu, nhưng với những bước đi khác nhau. Gần suốt thế kỷ thứ 20, tại những vùng đất bị áp bức, dân chủ tự do đã bị cạnh tranh bởi những giá trị khác, cụ thể là cách mạng, bình đẳng và phát triển. Ngày nay, các thể chế phủ nhận tự do dân chủ đang đồng loạt cáo chung, trừ một số ngoại lệ ít oi và mong manh. Cần trả lại cho dân chủ tự do cái vị trí hàng đầu của nó. Trên lý thuyết, chủ nghĩa xã hội có thể là tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản. Trên thực tế, để bắt kịp chế độ tư bản, các quốc gia cộng sản đã hy sinh dân chủ tự do và đã chết vì chủ nghĩa toàn trị, trong khi đó, cũng nhờ chính những giá trị này mà chủ nghĩa tư bản đã tự cải tổ được và vẫn trên đà bành trướng. Những người nắm vận mệnh của Việt Nam trong tương lai, dù xuất thân từ nguồn tư tưởng nào, cũng sẽ chỉ lặp lại sai lầm của ÐCSVN, nếu họ tiếp tục nuôi ảo tưởng có thể nhân danh yêu cầu phát triển để kìm hãm tự do dân chủ.
Ðến đây, có người sẽ viện dẫn trường hợp «bốn con rồng của Ðông Nam Á» làm phản thí dụ. Nhưng phát triển đất nước là một con đường xa xôi và gai góc, vấn đề trọng tâm của nó không phải là một sự cất cánh mau chóng hay sớm sủa mà là tiến tới trong bền vững và an toàn. Nhìn từ góc độ này, chính sách phát triển của «tứ long» ngầm chứa khá nhiều đe dọa, bởi vì nó tích lũy cả hai loại khuyết tật đặc thù của các mô hình phát triển gọi là «xã hội chủ nghĩa» và «tư bản ngoại vi», vừa thiếu tự do vừa đầy bất công xã hội. Nếu chỉ cần có một trong hai căn bệnh ấy cũng đủ để gẫy gục trong lâu dài, «tứ long» không khác mấy với những chiếc phi cơ đang lao đầu vào đêm tối, đeo theo dưới mỗi bên cánh một quả bom nổ chậm. Ðất nước Việt Nam, sau bấy nhiêu năm tháng mất mát, một phần chính vì bị phân hóa bởi sự chọn lựa giữa tự do và công bằng xã hội, cần và phải phát hiện ra một đường lối phát triển ít bất trắc hơn.
Ðiều này dẫn chúng ta đến bài học thứ hai, đó là yêu cầu hoà giải giữa hai giá trị dân chủ và phát triển. Con đường hòa giải này bao hàm sự thẩm định lại vai trò tương ứng giữa nhà nước và xã hội dân sự bên trong cộng đồng quốc gia. Phát triển cấp bách thường giả định một nhà nước nặng, mà nhà nước càng nặng thì xã hội dân sự càng bị thu hẹp, nghĩa là tự do dân chủ càng bị đe dọa. Ngược lại, xã hội dân sự càng được tự do dân chủ thì nhà nước càng nhẹ, mà một nhà nước nhẹ nhiều khi lại không có năng lực đưa đất nước vào quỹ đạo của các nước công nghiệp. Lối thoát nằm ở một quan niệm cân bằng hơn về phát triển: phát triển không chỉ liên quan đến cộng đồng mà còn can hệ đến con người, không chỉ là thực hiện thành công những chương trình tập thể, mà còn là mở rộng mật độ những trao đổi cá nhân về mọi mặt trong xã hội. Chỉ trên cơ sở một quan niệm tối ưu như thế về phát triển, hai giá trị căn bản này mới ngừng đối lập và kêu gọi lẫn nhau.
Thế kỷ thứ 21 sắp mở ra trước một cảnh tượng thoạt trông có vẻ nghịch lý. Các nước cộng sản cũ đang đốt giai đoạn để bước vào kinh tế thị trường, trong khi những nước tư bản tiên tiến nhất đã bắt đầu một phần nào chia sẻ giấc mơ của Karl Marx là đưa dân chủ vào đời sống hàng ngày (18), và ở cả hai khối quốc gia cựu thù, vai trò của nhà nước ngày càng xuống cấp. Thật ra, có lẽ loài người đang sống giai đoạn cuối cùng của cuộc đấu tranh tay ba mà Polanyi đã phác hoạ. Một tổng hợp mới, hay ít ra, một sự phân chia lại ranh giới giữa nhà nước, thị trường và xã hội dân sự đang hình thành trong nhiều quốc gia, dựa trên một quan niệm mới về dân chủ (dân chủ đa nguyên, dân chủ tham gia) và một chính sách tối ưu về phát triển. Ðó là một dữ kiện khác mà những người Việt Nam đấu tranh cho tổ quốc không có quyền chỉ vội vã lướt qua.
PHẠM TRỌNG LUẬT («Những Vấn Đề Việt Nam», Nxb Trăm Hoa, 1992)
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:31:18 GMT 9
tiep theo va het ************* CHÚ GIẢI VÀ THƯ MỤC (1) Mặc dù khái niệm «xã hội dân sự» đã biến đổi khá nhiều từ thời Aristote đến nay, sự phân biệt «nhà nước» với «xã hội dân sự» là một điểm chung giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội. Không những thế, giữa truyền thống tự do và nhiều tác giả thuộc khuynh hướng xã hội chủ nghĩa (social-démocratie, xã hội dân chủ) còn có sự đồng thuận trên một số điều kiện để có dân chủ thực sự, đó là một nhà nước nhẹ với những quyền hành hạn chế và một xã hội dân sự phát triển và tự trị. Trong số những tài liệu ngắn về lịch sử của khái niệm xã hội dân sự, xem thêm: Guy Berger, La Société Civile et Son Discours (I) - (VI), Paris, Commentaire, số 46-52, 1989-1990. Về phía chủ nghĩa xã hội, nếu chỉ giới hạn vào chủ nghĩa Marx, trên sự phân biệt chung giữa «nhà nước» và «xã hội dân sự», cũng có sự khác nhau giữa Karl Marx và Antonio Gramsci về khái niệm «xã hội dân sự». Ðối với Marx, xã hội dân sự là xã hội không chính trị, được cấu tạo bởi các thực tại kinh tế và hệ thống giai cấp, nghĩa là phần «cơ sở hạ tầng» kinh tế và xã hội, khác với phần «kiến trúc thượng tầng» chính trị và tư tưởng hệ. Xã hội dân sự, như vậy, nằm trong phần hạ tầng; nó đối lập không những với nhà nước mà cả với thế giới của biểu tượng. Ðối với Gramsci, xã hội dân sự là toàn bộ những cơ chế và tập hợp liên quan đến sự sản sinh ra và quản lý hệ tư tưởng theo nghĩa rộng nhất của từ này; như vậy, nó vừa đối lập với phần hạ tầng (của sản xuất, trao đổi và quan hệ sản xuất), vừa đối lập với nhà nước (tuy cùng nằm ở phần thượng tầng). Chức năng của nó là bảo đảm «ưu thế» của một giai cấp trong xã hội bằng những biện pháp thuyết phục, khiến sự can thiệp bằng cưỡng chế của nhà nước trở thành thừa. Marx cũng ít nói đến «xã hội dân sự» nữa từ khi có «thượng tầng» và «hạ tầng», trong khi đây lại là một trong các khái niệm chính của Gramsci. Về phía chủ nghĩa tự do, sự phân biệt thường thấy nhất là sự khoanh vùng 3 lãnh vực: chính trị, xã hội và kinh tế - nói cách khác, là sự tách rời 3 khái niệm: nhà nước, xã hội dân sự và thị trường. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, có sự tương ứng giữa quan điểm của trường phái tự do và của Gramsci. Khái niệm xã hội dân sự chúng tôi dùng ở đây nằm trên phần đồng quy đó; nó chỉ định lãnh vực đối lập với nhà nước và khác với kinh tế trong một xã hội toàn bộ hay một hình thái kinh tế xã hội. Một điểm khác cần được làm sáng tỏ: trong bài này, nếu chúng tôi có vay mượn một số khái niệm và quan điểm của Gramsci, chúng tôi không theo sát cách đặt vấn đề của tác giả, không bàn đến tất cả những luận đề mà Gramsci đặt ra, chẳng hạn như vai trò của tập thể trí thức. Theo chúng tôi, người trí thức Việt Nam - chúng tôi nói tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa - không có đóng góp nào cả trong việc hoạch định đường lối cách mạng: từ phân tích xã hội đến chiến lược đấu tranh, tất cả đều xuất phát từ các nước đàn anh. Họ cũng chỉ đóng một vai trò rất mờ nhạt trong chức năng phê phán những sai lầm của chế độ, trừ trong khoảng thời gian 1955-1956 và mới đây. Cuối cùng, có hay không một xã hội dân sự trong các nước xã hội chủ nghĩa hiện tồn và ở Việt Nam? Thật ra, khái niệm này có thể được chấp nhận theo hai nghĩa, một nặng một nhẹ. Nếu chỉ hiểu nó trong nghĩa nhẹ như phần khác biệt với nhà nước và kinh tế, xã hội dân sự luôn luôn tồn tại, ngay cả trong khuôn khổ của một chế độ toàn trị, dù dưới hình thức là một sự ghép mảnh từ những đám cỏ hoang. Nhưng nếu đòi hỏi nó phải là một xã hội tự trị như trong nghĩa nặng, hiển nhiên là không thể còn một xã hội dân sự tự lập trong khuôn khổ của một chế độ toàn trị. Thực tế là, áp dụng cho Ðông Âu và Việt Nam, khái niệm xã hội dân sự có xu hướng co dãn từ nghĩa nặng sang nghĩa nhẹ khi nền chuyên chính bóp chặt, và theo chiều ngược lại trong trường hợp chuyên chính nới lỏng. (2) Immanuel Wallerstein, Le Système du Monde du Quinzième Siècle à Nos Jours, Paris, Flammarion, 1980 & Le Capitalisme Historique, Paris, La Découverte, 1987. Serge Latouche, Faut-Il Refuser le Développement?, Paris, PUF, 1986 (nhất là chương 2: L'Impérialisme Précède le Développement du Capitalisme, tr. 47-69). (3) Liên minh giai cấp là một vấn đề trọng yếu trong lý luận cách mạng mác-xít, vì hai lý do: một, «giai cấp vô sản được chiêu mộ từ mọi giai cấp trong xã hội»; hai, «vai trò cách mạng của giai cấp vô sản là giải phóng toàn thể xã hội». Mọi liên minh giai cấp đều bị quy định bởi phương thức sản xuất và chính sách của giai cấp thống trị ở một thời điểm nhất định, và bởi lực lượng so sánh giữa các giai cấp trong một bối cảnh lịch sử đặc thù. Người cộng sản phân biệt: liên minh chiến thuật (trên một mục tiêu ngắn hạn), và liên minh chiến lược (trên một chương trình hành động trung hạn hay dài hạn). Một liên minh chật chẽ và lâu bền (để cướp chánh quyền, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rồi xây dựng xã hội cộng sản) còn có thể được gọi là liên minh hữu cơ. (4) Ở đây, có thể đánh giá sự sai lầm của ÐCSVN từ 1975 qua những nhận định giáo điều sau, trích dẫn từ các văn kiện chính thức của Ðảng. «Ba mươi năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện thế giới đã thay đổi nhanh chóng. Trong khi hệ thống tư bản chủ nghĩa quằn quại trong tổng khủng hoảng, thì các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc và dân chủ hòa bình lớn mạnh hẳn lên, và sau chiến tranh Việt Nam, đã xuất hiện một biến đổi mới trong lực lượng so sánh có lợi cho cách mạng (...) Xu thế phát triển của lịch sử rõ ràng là không thể đảo ngược. Tình hình cách mạng thế giới ngày nay thuận lợi hơn bao giờ hết và đang đứng trước những triển vọng vô cùng tốt đẹp»... (Báo Cáo Chính Trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng, Ðại Hội 4 ÐCSVN, năm 1976). «Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống thế giới. Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội khác đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nâng cao mức sống nhân dân (...) Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực dân bị sụp đổ từng mảng; phạm vi thống trị của chủ nghĩa tư bản bị thu hẹp. Trước tình hình đó, chủ nghĩa tư bản đã tìm mọi cách tự điều chỉnh để kéo dài sự tồn tại của nó (...) Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, một mặt tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản có những bước phát triển mới; mặt khác chính nó lại không ngừng khoét sâu mâu thuẫn cơ bản vốn có giữa tính chất xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất. Nó còn làm cho mâu thuẫn giữa các trung tâm tư bản lớn, các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty siêu quốc gia ngày càng sâu sắc (...) Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản rõ ràng không mất đi, trái lại, ngày càng gay gắt và cuối cùng dẫn chủ nghĩa tư bản đến sự tan rã không sao tránh khỏi». (Dự Thảo Cương Lĩnh Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội trong Thời Kỳ Quá Ðộ, 1990) Nếu sai lầm năm 1976 còn có trường hợp giảm khinh (khối cộng sản dù sao cũng phát triển về số lượng, mặc dù đang tuột dốc trầm trọng về chất lượng), nhận định năm 1990 hoàn toàn siêu thực. (5) Trường Chinh, Bàn về Cách Mạng Việt Nam (1951), trong: Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân, Hà Nội, Sự Thật, 1976. «Cách mạng [dân tộc dân chủ nhân dân] làm tròn nhiệm vụ dân chủ tư sản và dần dần tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, không cần phải qua một cuộc nổ bùng cách mạng. Nó thiết lập chuyên chính dân chủ nhân dân dưới hình thức cộng hòa dân chủ nhân dân, chứ không thiết lập chuyên chính vô sản dưới hình thức xô viết công nông binh. Ðó là một thứ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới»... (t. 1, tr. 84-85) «Chuyên chính dân chủ nhân dân của ta đang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính công nông. Nó đập tan quyền thống trị của bọn đế quốc xâm lược và của việt gian bù nhìn; thành lập và củng cố chế độ dân chủ nhân dân; cải cách ruộng đất, xóa bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất, nhưng «chưa đụng chạm đến nền tảng của chủ nghĩa tư bản» trong nước (Lênin, «Hai sách lược», 1905); phát triển kinh tế quốc dân; củng cố quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân; củng cố liên minh công nông»... (t. 1, tr. 102) «Trong cả quá trình đó, nền tảng của chủ nghĩa xã hội được xây dựng, củng cố và phát triển dần. Nhưng đồng thời, chủ nghĩa tư bản dân tộc cũng sẽ phát triển. Sau cùng, cuộc đấu tranh giữa hai nhân tố xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ kết thúc bằng sự thắng lợi của nhân tố xã hội chủ nghĩa và sẽ đưa nước Việt Nam đến chủ nghĩa xã hội, bước đầu của chủ nghĩa cộng sản»... (t. 1, tr. 107) (6) «Phát triển không đều» là một khái niệm đã được Karl Marx sử dụng trong Grundrisse der Kritik der Politischen Okonomie để chỉ sự tồn tại cụ thể của nhiều tính thời gian khác nhau giữa hạ tầng và thượng tầng, và qua đó, khẳng định khả năng đi trước và tác động ngược lại của thượng tầng trên hạ tầng. Về điểm này, xem thêm đề mục Anticipation, trong: Dictionnaire Critique du Marxisme, Paris, PUF, 1982. (7) Chúng tôi chỉ nói khả năng khách quan xây dựng một «thỏa hiệp lịch sử». Trên thực tế, ÐCSVN đã công khai thú nhận sau 1975 là Ðảng chỉ sử dụng cả MTDTGPMN lẫn LMCLLDTDCHB trong chiến tranh như bình phong, và đã soạn thảo bản CLCT của Măt Trận như một thủ đoạn để quyến rũ các thành phần dân tộc tư sản và tiểu tư sản tham gia vào Mặt Trận. Chủ ý này, nếu đúng thực, không phủ nhận sự cần thiết khách quan của một liên minh chiến lược giữa mọi giai cấp ở Việt Nam lúc đó, mà ngược lại. Nó chỉ chứng minh được rằng cấp lãnh đạo Ðảng, bám chặt vào một chiến lược đấu tranh được quy định từ thập niên 1930, vừa không vươn lên nổi ngang tầm với đòi hỏi của tình hình, vừa đánh giá quá thấp những khó khăn trong giai đoạn sau. Nếu chiến thắng quân sự năm 1975 là một điều bất ngờ - có thể được giải thích bằng sự chênh lệch về viện trợ vũ khí giữa Liên Xô và Hoa Kỳ sau hiệp định Paris, và sự suy sụp về tinh thần của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một thắng lợi chính trị sau 1975 sẽ là cả một phép lạ. Và phép lạ đã không xảy ra. (8) Một trong những khác biệt giữa phe thiểu số (menchevik) và phe đa số (bolchevik) ở Nga nằm nơi lập trường đối với cuộc đấu tranh chính trị chống Nga Hoàng của các đảng chính trị tư sản. Phe menchevik chủ trương là giai cấp công nhân cần phải lấy đấu tranh xã hội (đấu tranh nghiệp đoàn) làm chủ yếu, và nếu có tham dự vào cuộc đấu tranh chính trị, thì phải chấp nhận sự lãnh đạo của giai cấp tư sản. Phe bolchevik đòi hỏi giai cấp công nhân, không những phải tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị, mà còn phải nắm được vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh đó, nhằm mở đường cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo sau. (9) Trần Bạch Ðằng đả kích Mao, Stalin, «chủ nghĩa bình quân nông dân», nhưng không đả động đến Lênin và Marx (Trần Bạch Ðằng, Ðổi Mới Nhận Thức về Chủ Nghĩa Xã Hội, Paris, Ðoàn Kết, số 389, 03/1987. Theo Lữ Phương, «chúng ta phải «tạm gác» tất cả những kết luận về chủ nghĩa xã hội mà Mác, Lênin (nhất là Stalin) đã đưa ra với tư cách là một mô hình phát triển hòa bình» (Lữ Phương, Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam: Di Sản và Đổi Mới, Paris, Ðoàn Kết, số 425, 07-08/1990). Bùi Tín (Thành Tín) nhận định: «việc nghiên cứu lại mục tiêu, nội dung, quy luật, biện pháp và bước đi của chủ nghĩa xã hội đang được đặt ra». (Thành Tín, Bản Kiến Nghị của Một Công Dân, Paris, Ðoàn Kết, số 428, 11/1990). (10) Hal Draper, Marx and the Dictatorship of the Proletariat, Paris, Etudes de Marxologie, số 6, 1962, và Marx on Democratic Forms of Government, London, The Socialist Register, 1974. Kostas Papaioannou, Les «Producteurs Associés»: Dictature, Prolétariat, Socialisme, Paris, Diogène, số 64, 10-12/1968. (11) Sau các biện pháp kinh tế của «chủ nghĩa cộng sản thời chiến», NEP là «chính sách kinh tế chính trị mới» của Liên Xô từ 1921 đến 1928. Do Lênin đề xuất, NEP xoay quanh hai trục chính là sự tồn tại của một lãnh vực tư bản với cơ chế thị trường và sự củng cố liên minh công nông. Có thể phân biệt 3 giai đoạn khác nhau trong việc áp dụng NEP. Một, từ tháng 3 đến tháng 10/1921, đối với Lênin, đây chỉ là một số thỏa hiệp tạm thời với giai cấp nông dân (thay vì bị trưng dụng, sau khi đã trả thuế, nông dân được quyền bán nông phẩm trên thị trường), với tiểu tư sản (giới sản xuất nhỏ và thương gia cũng được tự do mua bán hàng hóa) và đại tư bản nước ngoài (kêu gọi đầu tư ngoại quốc, vừa cần thiết cho công nghiệp nặng, vừa có tiềm năng gây dựng giai cấp công nhân). Hai, từ tháng 10/1921 trở đi, những kết quả nửa vời của giai đoạn trước buộc Lênin phải, một mặt, nới rộng một cách tối đa và lâu dài chính sách trao đổi trên thị trường dưới sự kiểm soát của nhà nước, mặt khác, củng cố liên minh công nông bằng sự hợp tác hóa nông nghiệp. Ba, sau khi Lênin mất, sự tiếp tục NEP chia ÐCSN làm hai khuynh hướng: phe «tả khuynh» (Préobrajenskij) muốn thực hiện «tích lũy xã hội chủ nghĩa bước đầu» dựa trên chính sách thâu rút tối đa từ sản xuất nông nghiệp, nghĩa là quân sự hóa nền kinh tế quốc dân và đánh các thành phần trung phú nông; cánh «hữu khuynh» (Bukharin), lo ngại mất sự ủng hộ của nông dân và sự tăng cường quyền lực của nhà nước, chủ trương «quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua cơ chế thị trường», nghĩa là vừa thiết lập giữa thành phố và nông thôn những quan hệ mua bán lâu dài, vừa cơ khí hóa nông nghiệp để nâng cao sản xuất, và dùng hợp tác xã để từ từ xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp nông dân. Phe tả thắng thế dần và Stalin dẹp bỏ NEP năm 1929. (12) Béla Farago, Réformes Politiques à l'Est: une Transition vers l'Etat de Droit, Paris, Commentaire, số 48, 1989/1990. Hà Xuân Trường, Ða Nguyên và Chủ Nghĩa Đa Nguyên, Hà Nội, Cộng Sản, số 7, 07/1989. (13) Bernard Dréano, Triomphe ou Disparition des «Sociétés Civiles»?», St Etienne, Alternatives Non-Violentes, số 76, 09/1990. Miklos Molnar, Le Rôle de la Société Civile dans les Révolutions de l'Est Européen, Genève, Cadmos, số 51, 1990. (14) Guy Berger, La Société Civile et Son Discours (III), Paris, Commentaire, số 48, 1989-1990, tr. 800. (15) Uỷ Ban Sửa Ðổi Hiến Pháp, Tờ Trình Quốc Hội về Bản Dự Thảo II Sửa Đổi Hiến Pháp Năm 1980, Saigon, Sài Gòn Giải Phóng, 30/07/1991. (16) Enter a New Dragon?, London, The Banker, 04/1990. Camille Scalabrino, Conforté par des Succès Économiques, le Régime Vietnamien Tarde à Se Transformer, Paris, Le Monde Diplomatique, 09/1990. Jean-Claude Pomonti, Vietnam, une Libération dans le Désordre, Paris, Le Monde, 07/05/1991. (17) Karl Polanyi, La Grande Transformation, Paris, Gallimard, 1983. Lucette Valensi, Karl Polanyi: The Great Transformation, Paris, Le Débat, số 1, 05/1990. (18) Les Citoyens à la Conquête des Pouvoirs (I)-(VI), Paris, Le Monde Diplomatique, 10/1989-04/1990. Tập hồ sơ này gồm có: Claude Julien, Les Citoyens à la Conquête des Pouvoirs, Paris, Le Monde Diplomatique, 10/1989. Christian de Brie, Rendre aux Élus du Peuple la Capacité de Faire la Loi, Paris, Le Monde Diplomatique, 11/1989. Jean-Louis Rollot, Les Fourmis de la Culture & Jean-Luc Pouthier, La Presse et les Paradoxes de la Liberté, Paris, Le Monde Diplomatique, 12/1989. Thierry Pfister, Au-delà de la Crise du Militantisme & Antoine Sanguinetti, L'Armée, un Monde Tenu à Part, Paris, Le Monde Diplomatique, 01/1990. Christian de Brie, Sur les Chantiers de la Démocratie Locale & Pierre Dommergues, Des Américains en Quête d'un Nouveau Contrat Social, Paris, Le Monde Diplomatique, 03/1990. Bernard Cassen, Mobiliser les Salariés pour Réformer l'Entreprise, Paris, Le Monde Diplomatique, 04/1990. PHẠM TRỌNG LUẬT
(Những Vấn Đề Việt Nam, Nxb Trăm Hoa, 1992)
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:33:07 GMT 9
NHIỆM VỤ CUỐI Pham Trong Luat Nằm mộng thấy Lê-Nin lại bảo, Ra công tìm kiếm gạo từ đây, Tao thôi chẳng có nuôi mầy... (Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tân trang) 1. CÁI GIƯỜNG CỦA PROCUSTE «ÐỔI MỚI»? Chủ nghĩa cộng sản là một hệ thống: những chính sách, chủ trương của nó, mặc dù không có cùng tầm quan trọng, vẫn gắn bó chặt chẽ với nhau như chuỗi khâu của một dây xích. Có những khâu có khả năng quy định các khâu khác và mang tính chủ động; có những khâu bị quy định và chỉ mang tính thụ động. Ðặt vấn đề đổi mới trong điều kiện này, nói cho cùng, là đặt vấn đề thay đổi khâu nào, để một sự biến đổi, tùy theo ý muốn của người khởi xướng, có thể hay không có thể gây ra một phản ứng dây chuyền, có khả năng phát động hàng loạt đổi thay khác, thậm chí đi đến chỗ cải tổ luôn cả bản chất của toàn bộ hệ thống. «CỞI TRÓI»? Chủ nghĩa cộng sản còn thuộc loại quá trình nhằm áp dụng một học thuyết vào những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể, đặc thù. Cho đến bây giờ, đây là một quá trình vừa xuống cấp vừa tự trói: mỗi bước «phát triển» là một sự đơn giản hóa tư duy sáng tạo thành công thức máy móc, và tự trói mình vào những giáo điều khô chết đó. Từ Karl Marx xuống đến Trường Chinh, qua Lênin, Stalin và Mao, chủ nghĩa Marx đã trở thành một thứ chủ nghĩa kinh viện mới. Hô hào cởi trói trong điều kiện này, nói cho cùng, là kêu gọi thoát ly ra khỏi ảnh hưởng tê liệt của những công thức giáo điều ở mọi cấp bậc để, từ thấp lên cao, trở về với tư duy sáng tạo. Tại sao lại phải «đổi mới», phải «cởi trói»? Vì khi vào đến Việt Nam, chủ nghĩa Marx đã trở thành cái giường của Procuste. Trong thần thoại Hy Lạp, đạo tặc Procuste là hung thần của khách qua lại vùng Attique. Sau khi cướp của, Procuste thường đặt những nạn nhân của hắn lên một cái giường đặc biệt bằng sắt, tay chân ai dài quá kích thước của giường sẽ bị chặt đi, tay chân ai quá ngắn sẽ bị kéo dài ra cho vừa với kích thước của giường. Trên cái giường tử thần đó, dĩ nhiên là những nạn nhân của y chỉ còn có nước giãy chết. Về sau, Thésée đã bắt Procuste phải đền tội cũng bằng chính cực hình này. Procuste là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, những nạn nhân của hắn là các thành phần dân tộc Việt Nam, và cái giường quan tài chính là chủ nghĩa cộng sản. 2. «ÐỔI MỚI» HAY ÐỔI TIỀN TÂNTRANG Tình thế hiện nay ở Việt Nam không thể nào kéo dài mãi mãi. Ai cũng biết như thế và ai cũng chờ đợi một sự thay đổi. Khi nghe nhóm ông Nguyễn Văn Linh phát động đổi mới, tôi đã hy vọng: có lẽ Trung Ương Ðảng cũng không đến nỗi đui mù như người ta vẫn sợ. Ðược tin ông Ðỗ Mười lên làm thủ tướng để thực hiện đổi mới, tôi đâm lo: giữa khái niệm «đổi mới» và tên họ ông Ðỗ Mười, không có cái gì chung, ngoài hai chữ viết tắt. Rồi nghe nói ông Trường Chinh, trước khi đi gặp lại các cụ Marx, Lênin, Stalin, cũng hô hào đổi mới, tôi phát hoảng thực tình: «lý thuyết gia» này vốn là quan «Stalin đại học sĩ» của triều đại Hồ Chí Minh. Cho đến khi, tình cờ được đọc hai bài diễn văn của ông Linh, Ðổi Mới Tư Duy và Phong Cách (đọc tại Trường Ðảng Cao Cấp Nguyễn Aí Quốc, ngày 06-05-1987) cùng với Ðổi Mới Sâu Sắc và Toàn Diện trên Mọi Lĩnh Vực Hoạt Động (đọc trước Quốc Hội, ngày 17-06-1987), tôi mới vỡ lẽ. Chuyện «đổi mới» cũng giống như chuyện đổi tiền. Ðồng bạc anh cầm trong tay có thể là mới toanh vì mới ra khuôn, nhưng ngoài cái sự mất giá như xe tuột dốc không phanh, nó chỉ là hiện thân của một chính sách cũ mèm là vô sản hoá tất cả mọi người, cái ý đồ này lại xuất phát từ một chế độ cũ rích là chuyên chính vô sản, hậu quả tất nhiên của một thế giới quan cũng cũ xì là đấu tranh giai cấp. Một sự đổi mới chính danh phải bắt đầu bằng việc vất bỏ vào thùng rác những cái cũ xì, cũ rích, cũ mèm đó đi. Ðổi mới thật sự phải là loại trừ những nguyên nhân đã gây ra những hiện tượng tiêu cực (cán bộ dốt nát, tham nhũng, ác ôn, v.v...), chứ không phải là chỉ cải thiện đôi chút những cái tiêu cực đó trong khi vẫn duy trì loại nguyên nhân đã sản sinh ra chúng. Ðọc ông Linh, tôi không thấy cái quyết tâm đó, mà ngược lại. Ông tố cáo «những người nhân danh tư duy mới để phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin»; theo ông, «nói đổi mới tư duy hoàn toàn không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận và quan điểm đúng đắn của Ðảng, phủ nhận các quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trái lại, cần tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển thêm những thành tựu đó» [01] .Thực chất của phong trào gọi là đổi mới này, như vậy, đã rõ ràng: nó chỉ là một sự vận động loanh quanh, luẩn quẩn trong khuôn khổ của một chủ nghĩa đã cằn cỗi, giữa chồng sách vở được tôn sùng như kinh điển của các ông Marx, ông Lênin, ông Stalin. Nó xác nhận thêm một lần nữa cái sự thực là người cộng sản không thể nào tiến hóa mà vẫn còn là cộng sản! 3. «ÐỔI MỚI TƯ DUY» HAY «THỬ LÀM THẬT» «Ðổi mới tư duy»? Tư duy đúng đắn chỉ có thể được xây dựng trên một nền tảng đúng đắn. Tất cả tư duy chính trị của Ðảng Cộng Sản Việt Nam được xây dựng trên một sự đồng nhất, khi hiểu ngầm, lúc công khai, nhưng ngụy lý đến trở thành quái gở: Ðảng Cộng Sản là giai cấp vô sản, đất nước cũng là giai cấp vô sản, do đó Ðảng Cộng Sản Việt Namlà đất nước. Còn cái tam đoạn luận xảo trá này một ngày nào, dù chỉ là trong tiềm thức đi nữa, thì không có một sự đóng góp nào cho đất nước có thể thoát khỏi sự kiểm soát và nhãn hiệu của Ðảng, không có một hành động chống Ðảng nào lại không bị chụp mũ là «phản quốc». Những người không phải là cộng sản chỉ còn có quyền sống bên lề tổ quốc của họ. Một đất nước khoảng sáu mươi triệu người, mà ít nhất là hai phần ba đã phải sống bên lề, thì đất nước đó sẽ đi về đâu? Tuy là sản phẩm của óc ngụy biện và bệnh ngụy tín, sự đồng nhất quốc gia với đảng phái này vẫn là cơ sở chủ yếu của lý luận vô sản về dân chủ; nó đã cho phép các đảng cộng sản tự hào, từ bao năm nay, về nền «dân chủ thực sự» của họ và phỉ báng cái bị chê chỉ là một thứ «dân chủ hình thức» tại các nước tư bản. Ở Việt Nam, nó là cha đẻ của cái thể chế đã được tóm tắt trong một khẩu hiệu ba vế khá kêu là «Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tập thể». Ðảng là Ðảng, nhà nước cũng là Ðảng, nhân dân là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, và thành phần trí thức xã hội chủ nghĩa; trong thực chất, lãnh đạo là thống trị, quản lý là nhắm mắt áp dụng mọi chỉ thị của Ðảng, làm chủ tập thể là vẫn còn có một chỗ đứng nào đó trong xã hội cộng sản tuy đã bị tước mất một số quyền xem là quyền tối thiểu ở các nước khác. Ðiều có vẻ «mới lạ» là sau hơn nửa thế kỷ ca tụng «dân chủ thực sự» và chửi rủa «dân chủ hình thức», bây giờ người ta bỗng khám phá ra rằng nền «dân chủ thực sự» ở Việt Nam đang bị đe dọa trầm trọng bởi... «chủ nghĩa hình thức», với hai điều nguy hại là: không những «người ta làm giả (mọi chuyện) chứ không làm thật, mà người ta đã quen với cái giả đến mức xem cái giả là thật» [02]! Và từ nửa năm nay, người ta «THỬ (!) đặt vấn đề dân chủ hóa trong giai đoạn hiện tại» [03]; có người còn muốn đối chiếu hai nền dân chủ, để xem... «có thể thừa kế những gì của dân chủ tư sản» [04]! Hay chữ và biện chứng quá dễ trở thành lẩn thẩn, người ta quên tuốt là theo lập luận vô sản, «dân chủ thực sự» đã là một sự «trội vượt» đối với «dân chủ tư sản», nghĩa là hắn ÐÃ kế thừa cái cũ, nhưng lại phát huy nó trên một cơ sở khác; lối thoát bây giờ không phải là kế thừa thêm một hay nhiều lần nữa, mà là đặt lại toàn bộ vấn đề giai cấp trong lý thuyết dân chủ. Cuộc tranh luận về dân chủ ở Việt Nam từ mấy tháng nay, thật ra, chẳng có gì là đặc biệt mới mẻ; về nội dung, nó cũng già nua như chủ nghĩa cộng sản, cũng xưa cũ như những bài viết cách đây đã mấy mươi năm [05]. Dù sao, nếu có thật nhiều thiện chí, người ta cũng có thể phát hiện ra được một số điều đáng chú ý trong thời sự báo chí trong và ngoài nước gần đây. Thứ nhất là cái điệp khúc sẽ «làm thật chứ không làm giả nữa» hay «phải chuyển từ làm kiểng sang làm thật». Thứ hai là cái quyết định chấm dứt vai trò của Quốc Hội như là một cơ quan «chỉ để giơ tay và vỗ tay» [06], và nâng cao vai trò của nó với tư cách là cơ quan lập pháp và giám sát việc thi hành pháp luật (nếu có!). Thứ ba là cái đề nghị chấm dứt kiếp làm bonzai của Mặt Trận Tổ Quốc hầu biến nó thành một thế lực «đối trọng» [contrepoids] với Ðảng [07](nhưng ngay sau đó là... sự giải thể của hai «hình thức đảng» là Ðảng Xã Hội và Ðảng Dân Chủ trong Mặt Trận, cùng lúc với sự đóng cửa hai cơ quan ngôn luận liên hệ là tờ Tổ Quốc và tờ Dân Chủ, bất ngờ trở thành diễn đàn khá ồn ào của một số đảng viên bất mãn!). Thứ tư là sự xuất hiện của khẩu hiệu «tự cởi trói» trong giới báo chí (tiếp theo đó là ... sự bịt miệng báo Văn Nghệ!). Thứ năm là sự thú nhận sau đây của một người trong cuộc: «dân chủ không thể có bằng sự ban ơn mà bằng sự đấu tranh» [08]. Các báo thân hoặc của chánh quyền ở nước ngoài còn hứa hẹn với độc giả của họ nhiều màn gay cấn khác... 4. KHICẢNH«VUA LÊ CHÚA TRỊNH»LÀ HỢP HIẾN Bi quan, tôi chỉ sợ là công cuộc «dân chủ hoá» và «công khai hoá» này chưa thật sự bắt đầu (mới làm thử!) đã (tạm thời?) kết thúc, với những «đổi mới», còn trong trứng nước hay đã thành hình, vừa ngộ nghĩnh vừa thông thái (đám con ngoại tình của ông Thân Canh Tử với bà Vũ Như Cẩn). Trước đây, nhà nước cộng sản Việt Nam là một nhà nước đa đảng giả tạo; bây giờ nó là một nhà nước độc đảng công khai. Cái nhà nước tập quyền này tuy không chấp nhận nguyên tắc phân quyền, nhưng cũng lại không phủ nhận nguyên tắc phân công. Nó ngăn cấm mọi lực lượng đối lập, nhưng cũng «có thể sẽ» (!) cho phép một thế lực «đối trọng» (?) nào đó [09]. Trước đây, khẩu hiệu chính thức là «Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ», bây giờ đổi lại thành «Ðảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý». Quả thật là có tế nhị hơn đối với nhân dân! Trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước thì hình như bây giờ Quốc Hội và lập pháp được đề cao hơn Hội Ðồng Bộ Trưởng và hành pháp; Quốc Hội còn có quyền «truy tố trước pháp luật những cá nhân và tập thế nào phạm sai lầm nghiêm trọng ÐẾN MỨC (!?) phải xử lý» [10]; các cơ quan đại diện nhân dân không còn là cây kiểng nữa mà được yêu cầu lên tiếng, và nhân dân được mời mọc tham gia. Quả là có tôn kính hơn đối với nhân dân! Ðiều mà tôi vẫn chưa hiểu nổi là làm thế nào chuyến xe «đổi mới» này có thể chuyển bánh được, nếu không có sự can thiệp của một số phép lạ, nơi một chủ nghĩa và một chế độ vốn phủ nhận mọi phép lạ. Ðảng vẫn nằm trên chóp, vẫn lãnh đạo, và vẫn… không chịu trách nhiệm trước bất cứ một cơ quan quyền lực nào khác cả. Nhờ phép lạ nào, một chánh đảng nắm quyền tuyệt đối như thế có thể không sử dụng và lạm dụng những đặc quyền đặc lợi của mình? Quốc Hội chỉ là bù nhìn, Mặt Trận chỉ là cây kiểng. Nhờ phép lạ nào, một cơ quan có công tác nhưng không có quyền hành, tự dưng lại có tinh thần trách nhiệm? Nhờ phép lạ nào, chỉ trong một sớm một chiều, người bù nhìn được tạo ra với chức năng đuổi chim cho Ðảng có thể trở thành người thực, và cây bonzai đổi kiếp từ vật trang hoàng thành cây ăn trái? «Cần chấm dứt cảnh Vua Lê Chúa Trịnh»! [11]. Nhưng chuyện Chúa Trịnh lộng quyền ngày xưa là một ngoại lệ: đạo Nho không trù liệu việc khuynh loát vua trong tổ chức xã tắc bình thường; sự chuyên quyền của Ðảng Cộng Sản ngày nay là một thông lệ: nó nằm ngay trong định nghĩa của nền «dân chủ thực sự», có hiến pháp làm bằng. Nhờ phép lạ nào, cái trò đảo chánh thường trực mà hợp hiến này, cái cảnh cương thường đảo lộn tân thời này - ông Chúa Ðảng ngồi ngất ngưởng trên đầu ngài Chủ Tịch Nước, sẽ tự dưng cáo chung đây? Lãnh vực chính trị thường được phân định bằng một cặp khái niệm căn bản là «công» và «tư», với những tác động qua lại của chúng. Cái công là lãnh vực của nhà nước, của «xã hội chính trị»; cái tư là khu vực của «xã hội dân sự». Ðời sống chính trị trong các nước cộng sản đánh dấu một sự băng hoại của ngay chính ý niệm chính trị. Cái công (nhà nước) trở thành tư (đồ chơi của một chánh đảng) và cái tư (Ðảng Cộng Sản) trở thành công (Ðảng ngồi xổm trên nhà nước), với khuynh hướng là cái tư đã trở thành công đó sẽ phình tướng ra và dần dần chiếm hữu toàn thể mọi sinh hoạt xã hội, kể cả đời riêng của người công dân; trong loại chế độ toàn trị này, phép nước thua lệ đảng, công quyền kém đảng quyền, tư lý thế công lý, tư luận thành công luận. Người ta muốn hồi sinh cho xã hội dân sự, nhưng tất cả đã trở thành lãnh địa của bộ máy Ðảng/nhà nước mất rồi, làm quái gì còn chỗ đứng cho một xã hội dân sự tự lập mà mơ tưởng «phục hồi sức sống» [12]cho nó! 5. «ÐỔI MỚI PHONG CÁCH» HAY AI BẠN, AI THÙ? «Ðổi mới phong cách»? Tương tự như Janus trong thần thoại La Mã, Ðảng Cộng Sản Việt Nam có hai mặt: mặt «dân chủ» đối với «nhân dân», và mặt chuyên chính đối với những «kẻ thù của nhân dân». Tuy hai nhưng thực chất vẫn là một: từ dân chủ giả hiệu sang chuyên chính thực sự (mà có mồm mép biện chứng [13] còn cho là «lỏng lẻo»!), chỉ cần thêm một cái dấu bằng! Janus là thần giữ cửa thành phố La Mã ngày xưa, với nhiệm vụ là canh chừng những ai ra vào thành quốc, vì thế nên một mặt của Janus quay vào trong, mặt kia quay ra ngoài, và hai cặp mắt của Janus chỉ ngưng nghỉ trong thời bình. Ðảng giống Janus ở chỗ cùng đảm nhận cái chức năng mà trong ngôn ngữ hiện đại ta gọi là công an đó; nhưng Ðảng cũng khác Janus ở điểm là Ðảng chẳng bao giờ chịu khép những con mắt cú vọ của mình lại, bất kỳ trong tình huống nào! Từ 1975 đến nay, suốt mười mấy năm sau chiến tranh (tôi không dám viết là hòa bình!), làm công an tập thể cho nền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Ðảng đã đối xử với toàn thể dân chúng miền Nam như kẻ thù, còn khốn nạn hơn cả cách cư xử của mẫu quốc với dân thuộc địa trước đây. Bởi vì, chỉ với điều kiện là xem những người mà Ðảng cai trị như kẻ thù, Ðảng mới có thể dùng những biện pháp chính trị như Ðảng đã sử dụng (gạt gẫm đổi tiền, lừa bịp cải tạo, thanh toán các thành phần «phi xã hội chủ nghĩa», cưỡng bách thị dân đi kinh tế mới, cưỡng bách nông dân vào hợp tác xã hay nông trường, tổ chức vượt biên giả để lấy vàng, bắn giết người đi chui)... Tuy nhiều thủ đoạn, nhưng cái tác phong của toàn Ðảng tựu trung vẫn là dựa vào gian trá và bạo lực, hai phương tiện cố hữu của chính trường - hai bộ mặt thực của Ðảng - để áp đặt vào miền Nam chế độ cộng sản, với cái kết quả không thể tránh được là sự ly dị hoàn toàn giữa Ðảng với nhân dân. Một đất nước mà, khi chính quyền khẳng định một đàng, dân chúng đem suy diễn một nẻo, thì đất nước ấy sẽ đi về đâu? Ðảng đặt vấn đề «đổi mới phong cách» là điều chí lý; chỉ sợ là bây giờ đã quá muộn. Dù sao, nếu đã đặt vấn đề, xin hãy có đủ can đảm và liêm sỉ để đặt ngay từ cấp lãnh đạo. Nhà dột thì dột từ trên nóc dột xuống! Những chính sách, chủ trương đơn phương của Ðảng - như mù quáng tiến lên chủ nghĩa xã hội không dựa vào lực lượng tư sản dân tộc, cưỡng bách phân phối lại sức lao động trên cả nước, tập thể hóa cấp tốc nông nghiệp, cải tạo xã hội chủ nghĩa gấp rút, thanh trừng thẳng tay «ngụy quân ngụy quyền» và «phản loạn», v. v... - không xuất phát từ cán bộ trung hay hạ cấp mà từ cấp lãnh đạo. Chúng đều mang nặng tính chất phiêu lưu, và xem dân chúng chỉ như con vật thí nghiệm; nếu lãnh đạo đã không khinh dân như cỏ rác, đời nào cán bộ lại dám hà hiếp dân? Lẩn trốn trách nhiệm thế nào được! Trong thành phần cán bộ, đảng viên, hiển nhiên là có những phần tử bất hảo, như trong bất cứ một tổ chức nào khác, ngay cả tôn giáo. Nhưng giữa những chánh sách, chủ trương của Ðảng và tác phong của chúng, có một quan hệ nhân quả, một quan hệ nhân duyên sinh khó chối cãi. Ðã trọng «hồng» hơn «chuyên», thì đừng than trách cán bộ dốt nát. Ðã chủ trương vô sản hóa nhân dân, đừng ngạc nhiên khi đảng viên trở thành tham nhũng vì nghèo đói. Không có chính sách công an trị, thì thành phần công an không đông đảo và có nhiều quyền lực như hiện nay, với những vũ khí độc địa như học tập cải tạo, khai báo lý lịch, đăng ký hộ khẩu. Không có chủ trương thanh trừng đối lập chính trị và kinh tế, công an đã không có lý do gì bắt giữ người để làm bậy. Không có chính sách hợp tác hóa cấp tốc nông nghiệp, thì không có hiện tượng cường hào tịch thu ruộng đất của nông dân. Không có chủ trương di dân gấp rút, đã không có chuyện lùa người đi kinh tế mới để cướp đoạt nhà cửa. Làm gì có sự đứt đoạn giữa đường lối «đúng đắn» của Ðảng với tác phong «sai trái» của đảng viên!
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 4:34:04 GMT 9
Lãnh vực chính trị còn thường được phân định bằng một cặp khái niệm căn bản khác là «bạn» và «thù»; ở đây, người ta phát hiện ra một sự băng hoại khác của ý niệm và đời sống chính trị trong các nước cộng sản. Bình thường, khái niệm «kẻ thù» phải được hiểu theo nghĩa tương đối là «địch thủ», tức là những cá nhân hay tập thể cùng có với nhau một số mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này có thể thuộc nhiều loại hình khác nhau, có thể rất trầm trọng, nhưng đều có thể giải quyết được và biến mất; «địch thủ», do đó, cũng có lúc trở thành «đồng minh», trong một tập hợp mới. Ðối với đảng cộng sản, nhất là khi nó đã nắm chính quyền, khái niệm «kẻ thù» phải được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, bởi vì «nhiệm vụ lịch sử» của chuyên chính vô sản không phải là đi tìm một thỏa ước giữa các thế lực đối kháng, mà chính là để tiêu diệt toàn bộ các giai cấp đối lập, và san bằng mọi tàn tích hay mầm mống phân chia giai cấp, nhằm mở đường cho một xã hội chỉ còn có những người vô sản. 6. «ÐỔI MỚI SÂU SẮC VÀ TOÀN DIỆN» HAY KIẾN BÒ MIỆNG CHÉN? «Ðổi mới sâu sắc và toàn diện»? Không có gì sâu sắc và toàn diện cho bằng cái thế giới quan của một cá nhân hay một tập thể. Thế giới quan của các đảng cộng sản là «đấu tranh giai cấp» theo quan điểm vô sản. Mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp là một dữ kiện lịch sử: «lịch sử loài người cho đến bây giờ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp» (Karl Marx); nhưng từ sự kiện không ai có thể phủ nhận này, vẫn mở ra hai đường hướng giải quyết: con đường dân tộc và con đường quốc tế vô sản. Nhảy từ đường lối dân tộc sang đường lối quốc tế, hay ngược lại, là thực hiện một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện đúng nghĩa: đây là cái khâu quy định tất cả mọi khâu khác. Chọn con đường dân tộc là tìm cách giải quyết những đối kháng nội bộ giữa các giai cấp trong khuôn khổ của cộng đồng quốc gia; những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các tầng lớp xã hội phải được dàn xếp thế nào để không tổn hại đến sự hòa hợp dân tộc. Trong các nước theo giải pháp này, người ta thấy xuất hiện những chánh quyền tả khuynh hoặc hữu khuynh, dựa vào giai cấp này hay giai cấp kia để cai trị, nhưng chung quy, cộng đồng dân tộc vẫn còn tồn tại. Ngược lại, chọn con đường quốc tế là tìm cách giải quyết những đối kháng giữa các giai cấp trên quy mô toàn thế giới; sự đoàn kết giữa các đảng cộng sản, dù khác quốc tịch, vẫn quan trọng hơn sự hòa thuận giữa các giai cấp đối nghịch, tuy cùng một quốc gia. Kết quả là cộng đồng dân tộc hoặc sẽ teo nhỏ lại, hoặc sẽ nổ tung, như ở Việt Nam, thành muôn ngàn thuyền vượt biển! Lãnh vực chính trị vẫn được định nghĩa bằng cặp khái niệm căn bản «chỉ huy» và «tuân lệnh»; tác động qua lại của hai khái niệm này quy định nội dung của một «trật tự chính trị». Trong các nước cộng sản, đây là một trật tự hết sức kỳ quặc. Chánh đảng nắm quyền lãnh đạo không nhằm phục vụ lợi ích công cộng (hiểu như lợi ích chung của tất cả mọi thành phần dân tộc đã hợp lại thành một tập thể chính trị) mà lợi ích của giai cấp công nhân thế giới, không nhằm phục vụ quyền lợi của mọi tầng lớp xã hội mà của riêng một giai cấp được xem là «tiên tiến» nhất. Trong nước, Ðảng đã không chủ trương phát triển đồng thuận mà còn kích động sự xung khắc giữa các thành phần dân tộc, không chủ trương phồn thịnh hóa mà vô sản hóa mọi tầng lớp nhân dân. Ðối với bên ngoài, Ðảng không nhằm bảo vệ mà đôi khi còn sẵn sàng hy sinh cả an ninh quốc gia cho một số nước được xem không những là đồng minh mà còn là «anh em». Một trật tự như thế, dù được xây dựng trên một hệ thống pháp lý đi nữa, cũng không thể nào được xem là chánh đáng, theo nghĩa là được sự chấp thuận của quốc dân; nó chỉ có thể là một trật tự do bạo lực áp đặt, và do đó, không có cơ sở đạo lý để bắt buộc mọi người phải tuân theo, mà ngược lại, biện minh trước cho mọi hành động chống đối - vũ trang hay bất bạo động - của quần chúng. Ðảng Cộng Sản Ý đã thực hiện được một sự thay đổi toàn diện và sâu sắc, khi nó từ bỏ «đấu tranh giai cấp» như một thứ chủ nghĩa, và cái kết quả tất yếu của nó là «chuyên chính vô sản». Ðảng tiếp tục đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp công nhân Ý, và vẫn đoàn kết với giai cấp công nhân ở mọi nước, nhưng từ chối hy sinh quyền lợi tối cao của quốc gia và nhân dân Ý cho quốc tế vô sản; trở thành một đảng cộng sản dân tộc, Ðảng sẵn sàng nắm chánh quyền trong một liên minh với các đảng phái tư sản [14]. Ðảng Cộng Sản Việt Nam, trái hẳn lại, chủ trương phải nắm chánh quyền song song với sự triệt hạ mọi lực lượng đối lập. Nếu «quyền hành làm hư hỏng, và quyền hành tuyệt đối làm hư hỏng một cách tuyệt đối», khó lòng trông mong có một sự thay đổi sâu rộng như thế ở Việt Nam. Mặt khác, nếu không bắt đầu bằng sự từ bỏ hẳn cái thế giới quan «đấu tranh giai cấp» đã biến thành chủ nghĩa, và do đó, từ bỏ hẳn chế độ «chuyên chính vô sản» và những tệ đoan đi kèm, Ðảng không thể nào đổi mới thực sự, mà sẽ chỉ vận động loay hoay như một con kiến bò quanh miệng chén, có bò suốt đời cũng không ra khỏi mê cung của một thứ chủ nghĩa không tưởng đội lốt khoa học đã đến hồi suy tàn. Trong khi các nước tân tiến trên thế giới đã hoặc đang bước vào một thứ «xã hội hậu công nghiệp» gọi là «xã hội thông tin», một xã hội không có cả trong tầm nhìn của Karl Marx ở thế kỷ thứ 19, Ðảng vẫn còn quằn quại trong «thời kỳ quá độ», hòng có ngày khập khiễng lết qua được ngưỡng cửa của xã hội công nghiệp, còn tiếp tục được xem là đỉnh phát triển cao nhất của xã hội loài người! 7. CON CHÓ VÀ CÁI ÐUÔI CHÓ Vấn đề là Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thực lòng muốn đổi mới hay không? Thật ra, câu hỏi này chỉ đáng được nêu lên nếu không có phong trào «perestroika» và «glasnost» ở Liên Xô! Trái với những huyền thoại mà Ðảng vẫn tìm đủ mọi cách để phổ biến, Ðảng Cộng Sản Việt Nam là một chánh đảng rất lệ thuộc vào phong trào quốc tế vô sản, đặc biệt vào Liên Xô và Trung Cộng, phụ thuộc từ lý thuyết và đường lối đến súng đạn và lương thực. Ðặt những vấn đề «đổi mới», «cởi trói» ra trong lúc này chỉ tổ làm lộ thêm sự lệ thuộc của Ðảng, chỉ làm đau lòng thêm, tủi nhục thêm cho thân nhân của bao nhiêu người đã bỏ mạng ngoài khơi nhưng vẫn không làm Ðảng mảy may thay đổi, hay đã vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc đấu tranh giành độc lập dưới ngọn cờ của Ðảng. Về mặt lý thuyết và đường lối, Ðảng không có một đóng góp nào đáng kể cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế; tất cả những cống hiến của Ðảng cho chủ nghĩa này chỉ vỏn vẹn tóm thâu vào một khẩu hiệu không có cả thực chất: «vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cụ thể của Việt Nam». «Sáng tạo» đến cái mức mà trong thời kỳ còn ôm chân Mao trước đây, khi Ðảng Cộng Sản Trung Hoa chủ trương đấu tố thì Ðảng ta cũng đấu tố, khi Ðảng đàn anh phát động phong trào «chỉnh đốn» thì Ðảng ta cũng «chỉnh đốn»! Chới với vì các phương pháp «động» của chủ nghĩa Mao, Ðảng quay lại ôm cái mồ ma của Stalin, thoát được trò «nhảy vọt» với trò «cách mạng văn hóa», nhưng lại rơi vào chủ nghĩa Stalin, đặt trên những nguyên tắc «tĩnh» không thể nào trái ngược hơn với tư duy sáng tạo: tuyệt đối trung thành với tổ quốc xô viết đầu tiên, tuyệt đối vâng lệnh cấp lãnh đạo, tuyệt đối tin tưởng nơi sách vở kinh điển, tuyệt đối tránh suy nghĩ và bàn cãi! Kết quả trông thấy là cái trình độ lý luận của Ðảng ngày nay: dù thực lòng muốn đổi mới đi nữa, chỉ sợ là Ðảng cũng không có đủ bản lãnh trí thức để thoát khỏi chủ nghĩa giáo điều! Sự kiện là phong trào «đổi mới» xuất hiện lúc này đây, ngay sau khi Liên Xô phát động đổi mới, còn tố cáo một sự lệ thuộc khác của Ðảng về vật chất. «Tiến lên chủ nghĩa xã hội không đi qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa» (tội nghiệp cho các «quy luật lịch sử»!) chỉ có thể có nghĩa là trong «thời kỳ quá độ», Ðảng trông cậy vào viện trợ của Liên Xô để sống còn, trong khi đàn anh cũng bắt đầu kiệt quệ vì cái gia tài của quá khứ, vì chạy đua vũ trang với chạy đua không gian, vì cuộc chiến tranh ở Afghanistan, vì... viện trợ cho đàn em. Ði ngủ thì nằm mộng thấy Lênin lại cảnh cáo, lúc tỉnh dậy lại phải nghe Gorbatchev hăm he, Trung Ương Ðảng có to gan lớn mật đến đâu cũng không dám chủ trương «vẫn như cũ», khi ngay chính Liên Xô cũng bắt buộc phải lao vào con đường đổi mới. Tình thế của Ðảng đối với Liên Xô cũng giống như hoàn cảnh của chánh quyền Thiệu đối với Hoa Kỳ trước đây. Khi Mỹ đã muốn thương thuyết để rút quân ra khỏi Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu, dù không muốn đàm phán, cũng phải đến Paris và cuối cùng phải hạ bút ký hiệp định. Báo chí cộng sản thời ấy đã ví chánh quyền Thiệu với cái đuôi chó: Nixon đã vẫy đuôi thì nhất định là cái đuôi Thiệu phải vẫy theo, không có cách nào khác. Câu chuyện đổi mới gượng gạo, kiểu kiến bò quanh miệng chén ngày nay, ít nhất cũng có một cái hay: nó nhắc nhở chúng ta rằng loài chó tuy có nhiều chi, giống, nhưng vì sự vận động của cơ thể chó đều như nhau, nên rốt cuộc rồi, cái đuôi chó nào cũng giống cái đuôi chó nào! 8. CON ÐƯỜNG ÐẤU TRANH Ðổi mới thực sự chỉ có thể đến từ quần chúng đấu tranh, đánh sâu vào và khoét rộng ra những kẽ hở mà Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã bị bắt buộc phải phơi bầy trước công luận để, từng bước một, đẩy Ðảng lui về cương vị của một chánh đảng bình thường, trước khi tan biến vào đêm đen của hậu trường lịch sử. Hào quang của cuộc «kháng chiến thần thánh» chống đế quốc Mỹ chỉ là một thành tích nước đôi: nếu Ðảng là người đã chiến thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Ðảng đồng thời cũng là kẻ đã gây ra cảnh huynh đệ tương tàn, biến can thiệp Mỹ thành tham chiến, suýt đưa dân tộc đến hố diệt vong; lịch sử và các thế hệ sau sẽ luận định về công / tội của Ðảng, đối với đất nước và đối với gia đình của hơn hai triệu người đã chết trong chiến tranh. Với nạn đói hiện còn đang hoành hành, hào quang của cuộc kháng chiến chống Pháp - hào quang thật sự, xứng đáng, độc nhất, và cuối cùng của Ðảng - cũng đã rơi mất, Ðảng hiện nguyên hình là một tổ chức mafia chính trị công khai. Vì lẽ sống còn, Ðảng hiện đang bị bắt buộc phải chơi với lửa, chịu đựng công luận phê phán, nông dân biểu tình, v.v...; Ðảng rất có thể sẽ thiêu thân, như đã từng bị phỏng nặng trong trận Trăm Hoa trước đây. Dù sao, Ðảng cũng không còn chút danh chánh ngôn thuận nào nữa để tiếp tục bám víu lấy chánh quyền. «Chế độ chính trị nào là thể chế tốt đẹp nhất?» , có người đã đặt câu hỏi đó cho Solon và triết gia này đã trả lời bằng một câu hỏi khác: «Cho nước nào và ở vào thời điểm nào?» . Một trong bảy hiền sĩ của cổ Hy Lạp, Solon (640 - 558 trước Tây lịch) là người đã đặt những viên đá đầu tiên cho nền dân chủ của thành quốc Athènes, bằng một cuộc cải cách xã hội và chính trị, một sự đổi mới thật sự và sâu rộng. Cho Việt Nam và trước ngưỡng cửa của thế kỷ thứ 21, thể chế nào sẽ là chế độ thích hợp nhất? Có lẽ vẫn chưa ai trong chúng ta thực tình có khả năng hình dung được tường tận bộ mặt của tương lai đất nước; điều dứt khoát là đó sẽ không phải là một thể chế đã được dân chúng miền Nam tặng cho cái danh xưng xứng đáng là «Xấu Hơn Cả Ngụy» ngày nay, không thể là chế độ cộng sản. Nếu quả thật là Ðảng có những «nhiệm vụ lịch sử», thì cái nhiệm vụ cuối cùng của Ðảng chính là sự xác lập chân lý này, bằng tất cả những thành tựu của Ðảng trong mọi lĩnh vực từ 1975 đến nay. Ðảng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc! PHAN CÔNG LUẬN Thông Luận, số 16, tháng 05, 1989
[01]Nguyễn Văn Linh. Ðổi Mới Tư Duy và Phong Cách. Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1987. Tr. 15 & 17. [02] Lý Chánh Trung. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 44. [03] Ðề tài của một cuộc hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 42-50. [04] Lý Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp. [05] Nếu chỉ giới hạn vào Việt Nam từ khi bị chia đôi, có thể đọc lại toàn bộ những bài viết trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm (1956), ít ra là các bài của Trần Ðức Thảo (Nội Dung Xã Hội và Hình Thức Tự Do, và Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ), và Nguyễn Mạnh Tường (Qua Những Sai Lầm Trong Cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo), đăng lại trong Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc, tr. 288-315. [06] Phạm Văn Kiết. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 46. [07] Lý Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp. [08] Nguyễn Hữu Thọ. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 48. [09] Sau Kết Luận của Bộ Chính Trị về Một Số Vấn Đề Trước Mắt trong Công Tác Tư Tưởng (Nhân Dân, 09-12-1988), và bài hiệu đính gọi là Lược Ghi những ý kiến của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh về báo chí (Nhân Dân, 14-02-1989), Hội Nghị lần thứ 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam (20 đến 29-03-1989) đã chính thức bác bỏ mọi đề nghị về «đối trọng», «đa nguyên», đã được phát biểu trên báo chí và trong các buổi hội thảo về «đổi mới». [10] Nguyễn Văn Linh. Ðổi Mới Sâu Sắc và Toàn Diện trên Mọi Lĩnh Vực Hoạt Động. Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1987. Tr 25. [11] Lý Chánh Trung. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 44. [12] Lý Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Ðoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp. [13] Nguyễn Khắc Viện. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Ðoàn Kết, số 408, tháng 12-1988. Tr. 36-39. [14]Ðảng Cộng Sản Ý còn là một đảng đối lập ở Tây Âu. Nhưng những biến cố mới đây tại nhiều nước Ðông Âu cho phép chúng ta nghĩ rằng đó cũng có thể sẽ là xu hướng thay đổi ở một số đảng cộng sản đang cầm quyền trong vùng này.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 6:28:42 GMT 9
NGHĨ VỚI LỮ PHƯƠNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI: DI SẢN VÀ ÐỔI MỚI Xã hội ta chỉ có thể được cải cách và phát triển khi nó thủ tiêu hai nguyên tắc đã quá lạc hậu và man rợ: chuyên chính, tập trung(Dương Thu Hương) 1. Ước Mơ và Hiện Thực Tất cả bắt đầu bằng những giấc mơ lớn và đã lâu đời của cả nhân loại: hòa bình, dân chủ, tự do, bình đẳng... Vào giữa thế kỷ 19, khi những khát vọng ấy được đan vào nhau thành học thuyết bằng những dòng văn đầy phẫn nộ và hy vọng của triết gia Ðức Karl Marx, thì dự phóng «chủ nghĩa xã hội khoa học» cũng xuất hiện tại các quốc gia công nghiệp, trong sự chờ đợi một cuộc bùng nổ cách mạng. Nhưng đến đầu thế kỷ 20, khi nhà cách mạng Nga Vladimir Ilic Lênin mang dự phóng này ra thực hiện trên một xứ sở nông nghiệp lạc hậu, dựa trên nhận thức là «cuộc cách mạng thế giới đã chuyển vùng» (1), thì giấc mơ dần dần trở thành cơn ác mộng, kéo dài cho đến lúc bừng tỉnh cũng mất hơn 70 năm. Nhìn toàn cảnh và thật tóm lược, đó là cái quá trình tái sinh và tự hủy của chủ nghĩa cộng sản hiện đại. Trên con đường sáng tạo ra một lịch sử khác có tính người hơn, hoài bão đẹp đẽ nhất trong sách vở bỗng dưng biến thành hiện tượng xấu xa nhất trong thực tại. Nếu đặt vấn đề xây dựng hạnh phúc cho con người «ở đây và bây giờ», thì có lẽ chẳng có đạo lý nào - kể cả nơi các tôn giáo toàn cầu ngày nay - nhân đạo và cao cả hơn nguyên tắc «phân phối theo nhu cầu và đòi hỏi theo khả năng» (2). Song cũng trong cùng một cách đặt vấn đề «ở đây và bây giờ», có lẽ cũng chưa có một thể chế nào khiếp đảm hơn cái chế độ gọi là «chuyên chính vô sản», như nó đã xuất hiện trong lịch sử. Nhìn từ quan điểm nhân quả đơn giản, sự thất bại của cuộc cách mạng cộng sản, như vậy, có phần nghịch lý; nó đòi hỏi được giải thích. Hoặc bước phát triển từ Marx sang Lênin, nghĩa là từ chủ nghĩa Marx sang chủ nghĩa Marx-Lênin, là một sự biến chất đến mức trở thành một cái gì rất xa lạ - giả thuyết biến tính. Hoặc toàn bộ các chủ nghĩa Marx và Marx-Lênin, nghĩa là cả Marx lẫn Lênin, đều sai lầm - giả thuyết không tưởng. Biến tính hay không tưởng? Hay vừa biến tính, vừa không tưởng? Thật sự, có lẽ không có bao nhiêu giải đáp đáng kể và thỏa đáng, ngoài những vế ấy của các lưỡng đề. 2. Chuyên Chính Vô Sản ở Marx Một trong những điều cấm kỵ lớn của Ðệ Tam Quốc Tế là đối lập Marx với Lênin. Sự ngăn cấm không phải vô căn cứ: trong một chừng mực nào đó, không có gì Lênin làm mà Marx đã không nói. Chính Karl Marx, chứ không phải Auguste Blanqui, là người đầu tiên đã đề xướng khái niệm «chuyên chính vô sản». Chính Marx và Engels, chứ không phải Lênin, là người đã viết Tuyên Ngôn của Ðảng Cộng Sản. Lênin chỉ là người mở đầu cho một thời kỳ mới, với «một hệ thống quan điểm về chiến lược và sách lược tranh đấu», cùng với học thuyết «xây dựng một đảng cộng sản kiểu mới, có lý thuyết chặt chẽ, tổ chức thép (...) để cướp chính quyền» , và nhất là cái nguyên tắc «dùng nhà nước chuyên chính vô sản để thực hiện tất cả» sau cách mạng» (1). Lênin chỉ là người thừa kế. Nhưng có kế thừa và «kế thừa»! Dù chọn giả thuyết nào trong số các nghi vấn đã được nêu lên, một nhận định công bằng và đứng đắn về nguyên nhân của sự phá sản của «chủ nghĩa xã hội hiện thực (hiện tồn)» đòi hỏi chúng ta phải trả lại cho Karl Marx phần di sản và trách nhiệm của Marx. Và hoàn lại Vladimir I. Lênin phần đóng góp và trách nhiệm của Lênin. Khi dựng lên khái niệm «chuyên chính vô sản» (khoảng 1850), Marx không thể nào nghĩ đến những hình thức độc tài ở thế kỷ thứ 20; trên thực tế, hệ quy dẫn của danh từ là cổ sử La Mã. «Dictatura» là một định chế của nền cộng hòa Roma cổ đại, với bốn nét chính: 1) hợp hiến (nằm trong khuôn khổ luật pháp của đế quốc); 2) tạm thời (không được vượt quá sáu tháng); 3) hạn chế (nếu hệ thống luật pháp tạm bị đình chỉ, nhà «dictator» không có quyền đặt ra luật mới); 4) hiệu quả (được sử dụng nhiều lần trong vòng ba thế kỷ). Dĩ nhiên, một định chế như thế cũng có mặt nguy hiểm của nó, như khi Sulla và Caesar mơ màng làm «dictator suốt đời» chẳng hạn! (3) Hơn nữa, ở Marx, khái niệm «chuyên chính vô sản» chỉ áp dụng cho giai cấp công nhân sau khi giai cấp này đã chiếm đa số trong xã hội: «chuyên chính vô sản» có nội dung đầu tiên là giai cấp đã trở thành số đông trong một quốc gia phải lên nắm chánh quyền. Mặc dù sự kiện đa số cầm quyền chưa hẳn đã đồng nghĩa với dân chủ, viễn tượng trên vẫn còn là đối tượng của khá nhiều «tai tiếng» ở thế kỷ trước; chỉ cần đọc lại một số tác giả và tác phẩm thời ấy là đủ thấy tất cả sự lúng túng trong ngôn ngữ cùng với những nhức nhối hiện sinh về vấn đề này. Ở François Guizot chẳng hạn, «dân chủ» có nghĩa là «tất cả chính quyền về tay nhân dân», song «tất cả chính quyền về tay nhân dân», trong mắt nhà quý tộc, lại cũng đồng thời có nghĩa là «chuyên chế»,«bạo chính», «độc tài»! (4). Khi giai cấp vô sản chưa chiếm đa số thì sao? Câu trả lời nằm trong các tác phẩm và các bài báo mà Marx đã đăng trong Neue Rheinische Zeitung và Deutsche Brusseler Zeitung vào thời điểm ấy: mặc dù rất bận tâm về sự chậm trễ của lịch sử nước Ðức so với triết học Ðức và lịch sử Pháp, Marx không trông đợi giai cấp công nhân Ðức làm cách mạng vô sản, mà kêu gọi tất cả các lực lượng tiến bộ liên minh thực hiện cho nước Ðức một cuộc cách mạng dân chủ kiểu 1789 ở Pháp (5). Mặt khác, nếu nhìn «chuyên chính vô sản» như một hình thức chính quyền bất thường, nó cũng không thể nào là một giai đoạn kéo dài vô tận, vì Marx đã tiên liệu là nhà nước sẽ phải tiêu vong theo nghĩa cái chức năng chính trị (thống trị giai cấp và cai trị con người) của nó sẽ dần dần nhường chỗ cho vai trò hành chánh (quản lý sự vật và công việc). Cuối cùng, trong xã hội mới, những người sản xuất sẽ hợp tác với nhau trong tự do và bình đẳng mà không cần đến nhà nước; điều này giả định là xã hội đó biết tôn trọng toàn bộ những quyền tự do chính yếu của con người, và cụ thể là của người lao động. Tất cả vấn đề còn lại ở đây là sự nhận diện và đánh giá đúng đắn các khoản quyền ấy. Ðây phải chăng là trường hợp của Marx? Một câu hỏi không dễ trả lời, nếu không dựa lên cả tác phẩm lẫn cuộc đời của tác giả. Dù sao, đối với Marx, có thể nói không thể có dân chủ mà lại thiếu tự do: dân chủ chỉ thuần hình thức nếu nó bị giới hạn vào một số quyền hạn và thể thức mang tiếng là cho tất cả mọi người, song trên thực tế, chỉ có một thiểu số được ưu đãi trong xã hội là có thể với tới; trái lại, nó sẽ là dân chủ thực sự, nếu ta vừa mở rộng các quyền tự do trong xã hội, vừa tạo ra những điều kiện kinh tế xã hội cho phép tất cả mọi người cùng hưởng thụ các quyền ấy thật sự và đầy đủ. Ðừng quên là suốt đời mình, Karl Marx đã không ngừng đấu tranh để đòi hỏi các quyền tự do gọi là «tư sản» hay «hình thức» đó cho một nước Ðức còn quằn quại dưới «Chế Ðộ Cũ». Nhìn một cách tổng quát, dù qua sự phân biệt tay ba trong đời sống hàng ngày (giữa chính trị, kinh tế, và xã hội: quan hệ thống trị, quan hệ trao đổi, quan hệ hợp tác, nhìn một cách thật giản lược) hoặc tay đôi trong ngôn ngữ của các nhà khoa học xã hội (giữa nhà nước và xã hội dân sự), sự thật là quan điểm của Marx về dân chủ vượt quá lãnh vực chánh trị và địa phận của nhà nước, để tràn vào phạm vi xã hội kinh tế và khu vực xã hội dân sự. Khát vọng dân chủ xã hội chủ nghĩa của Marx không phải là một nhà nước toàn năng mà là một «xã hội tự do hợp tác», «chuyên chính vô sản» không phải là một thời kỳ quá độ trường kỳ, mà chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp tương đối ngắn ngủi (6) vào một thứ chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên những xã hội dân sự đã phát triển đến mức chót của chế độ tư bản Tây Âu. 3. Mô Hình Cách Mạng của Lênin Tuy nhiên, bản thân dự phóng của Karl Marx cũng chứa đựng khá nhiều vùng tối. Và những mập mờ ấy vừa là biểu hiện của phần mông lung trong chủ nghĩa Marx («tối nghĩa» và «bất tận» (7), nói theo giọng điệu của Raymond Aron), vừa là những kẽ hở đủ rộng trong một học thuyết khá chặt chẽ để gán ghép thêm những «bước phát triển» mới, trong đó có phần đóng góp quyết định của Lênin. Ðầu tiên là cái sơ đồ tiến hóa của xã hội loài người; ở đây, Marx khơi dậy tín điều là sự diễn biến của lịch sử sẽ tất yếu dẫn đến chế độ cộng sản và một xã hội không giai cấp. Sau đó, giai cấp nào cũng chỉ có thể nắm và giữ chính quyền qua một chánh đảng; khi giao phó cho giai cấp công nhân - thực tế là các đảng cộng sản - nhiệm vụ hoàn thành lịch sử, Marx tiếp nối những huyền thoại tôn giáo về các chủ thể lịch sử «đặc sủng». Cuối cùng, «chuyên chính vô sản» là một khái niệm nước đôi, khi nó vừa mang một nội dung khá bình thường (nhà nước phải thuộc về tập hợp nào chiếm đa số), vừa chỉ định một hình thức cai trị bất thường (dựa trên bạo lực hơn là luật pháp); ở đây, Marx đã tạo cơ sở cho một sự trượt nghĩa của danh từ «chuyên chính», và vô tình biện hộ cho những cuộc tiếm quyền tân thời của các tập đoàn phiêu lưu, nhân danh một ngày mai ca hát nào đó. Có thể nhận định phần đóng góp của Lênin như là một mô hình cách mạng áp dụng cho những quốc gia chưa phát triển - tư bản phôi thai hay tiền tư bản. Ở đây, cách mạng không còn là sự nổ bùng của những mâu thuẫn đối kháng đã chín muồi giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà chủ yếu là tác phẩm của một đảng cộng sản giác ngộ cách mạng, biết dựa vào «hướng đi khách quan của lịch sử» để đẩy lịch sử tiến tới, bằng cách nhảy vọt qua khỏi giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Và đây chính là chọn lựa căn bản đã đẻ ra hầu hết những lệch lạc khác, của một giai đoạn mệnh danh là «thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội» (15 hay 20 năm (1) ở Lênin). Lênin đã kế thừa, nhưng đồng thời cũng bóp méo không ít dự phóng ban sơ của Marx. Mô hình Lênin chủ trương dựa vào một liên minh giai cấp chiến lược, bao gồm hai tầng lớp công nhân, nông dân, và một phần trí thức tư sản hay tiểu tư sản, đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của đảng cộng sản để lật đổ nhà nước phong kiến hoặc nửa phong kiến, và sau đó, dùng chuyên chính vô sản để xây dựng xã hội mới. Như vậy, dù trong giai đoạn đả phá xã hội cũ hay xây dựng xã hội mới, động lực thực sự của nó thường xuyên là đảng cộng sản, và đối tượng hay trọng tâm của nó luôn luôn là nhà nước. Hệ quả của một mô hình cách mạng như vậy chỉ có thể là: 1) sự thần thánh hóa đảng cộng sản («Ðảng không bao giờ sai lầm»); 2) sự cực đoan hóa đấu tranh giai cấp («kẻ thù giai cấp có thể ở khắp nơi, là bất cứ ai»); 3) và một quan niệm «ý chí chủ nghĩa» về cách mạng («bạo lực là một tiềm năng kinh tế»). Về điểm thứ nhất, phần trách nhiệm của Marx, ngoài việc sáng tạo ra một chủ thể đặc sủng, là đã tiến dần từ quan niệm đảng - ý thức (chức năng giáo dục) sang quan niệm đảng - tổ chức(vai trò đấu tranh) (8). Nhưng chỉ với Lênin, đảng cộng sản mới trở thành Thượng Ðế, theo nghĩa là nó sẽ tạo nên tất cả mọi đổi thay. Một giai cấp có thể tồn tại tự thân tuy không tự giác (giác ngộ về quyền lợi và sứ mạng của mình); ở các quốc gia tư bản tiên tiến, bước nhảy vọt từ thấp lên cao này được thực hiện nhờ các cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong một nước chậm tiến, đảng cộng sản phải đảm nhận vai trò sáng tạo đó: ở đây, Ðảng không phải là con đẻ mà là đấng sinh thành của giai cấp vô sản, không phải là sản phẩm mà là đầu mối của cuộc đấu tranh giai cấp. Về điểm thứ hai, nếu đấu tranh giai cấp là một dữ kiện và một động lực lịch sử ở Marx, nó đã biến thành một thứ chủ nghĩa ở Lênin. Theo Lênin, không một giai cấp có ý thức nào có thể lãng quên những quyền lợi tập thể của mình, do đó, chẳng một giai cấp nào có thể tự nguyện hay dễ dàng chấp nhận rời bỏ sân khấu lịch sử. Mâu thuẫn giai cấp nhất định sẽ dẫn đến nội chiến như một sự tất yếu. Trước «quy luật khách quan» này, một đảng cộng sản có trình độ giác ngộ chính trị cao không thể nào giữ thái độ do dự: không những nó phải chuẩn bị cướp chính quyền - dù bằng nội chiến - mà còn phải sẵn sàng tiếp tục cuộc chiến tranh giai cấp sau đó bằng một loạt chính sách «nhổ cỏ tận rễ» lâu dài và quyết liệt của nhà nước vô sản. Về điểm cuối cùng, có lẽ nó chẳng liên hệ bao nhiêu đến Marx (9). Nếu câu nói nổi tiếng một thời của Napoléon – «Cứ nhảy vào đã rồi sẽ tính sau» - đã trở thành một điệp khúc trong triết lý hành động của Lênin, thì một tựa sách của Lênin – Lùi Một Bước để Tiến Hai Bước - đã trở thành cẩm nang cho nhiều cuộc cách mạng cộng sản khác. Và bản thân của cuộc cách mạng Nga, trước cũng như sau tháng 10-1917, chính là sự minh họa trung thực của một quan niệm ý chí chủ nghĩa về cách mạng như vậy: đây là sản phẩm lịch sử của, một bên là những điều kiện khách quan bất cập (sự đẻ non, với những căn bệnh tất yếu bắt nguồn từ tình trạng đó), một bên là lối hành động ý chí quyết liệt của Ðảng Cộng Sản và nhà nước vô sản Nga (khả năng khai thác mọi cơ hội, và thói quen tháo gỡ các khó khăn bằng sự chạy trốn về phía trước). 4. Bộ Máy Ðảng - Nhà Nước Nhưng trên tất cả còn phải kể đến cái sản phẩm tổng hợp mọi đặc trưng của mô hình cách mạng Lênin: đó là sự xây dựng một bộ máy chiến tranh và thống trị chưa từng thấy trong lịch sử. Ở đây, phần đóng góp của Marx là sự đồng nhất nhà nước với quyền lực được tổ chức của một giai cấp và khái niệm « chuyên chính vô sản »; Lênin mới là cha đẻ thực sự của một hệ thống bạo lực hai tầng, với một đảng cộng sản thống trị và kiểm soát tất cả và một nhà nước tay sai làm bình phong. Bởi vì, khi nó tự giác nắm lấy chức năng thống trị giai cấp mà Marx đã nhìn thấy trong tay nhà nước trước kia, Ðảng khách quan trở thành một tổ chức với vai trò tương đương - một thứ «nhà nước tư nhân». Trong khi đó thì nhà nước cổ điển, mặc dù bị lũng đoạn trầm trọng, vẫn còn là một công cụ thống trị không thể nào tiêu vong, bởi vì chỉ có hắn mới mang danh nghĩa của toàn thể xã hội, và cũng chỉ có hắn mới có đủ cương vị nắm giữ độc quyền sử dụng bạo lực một cách hợp pháp. Khác với quan điểm của Marx, nền chuyên chính vô sản như nó đã xuất hiện trong lịch sử không dựa trên một đa số tự giác, nhất là một giai cấp đồng nhất đã phát triển thành đa số. Nếu cơ sở xã hội của nó là một liên minh giai cấp, thì cái liên minh ấy thật ra chỉ có được một sự nhất trí nào đó trong việc lật đổ kẻ thù, nhưng lại hoàn toàn ô hợp trước viễn tượng xây dựng cái «xã hội mới» và «con người mới» của chủ nghĩa cộng sản trong tương lai. Ví dù cái giai cấp công nhân teo tép của những nước chưa phát triển có thực lòng chấp nhận sự «vô sản hóa» đi nữa (một giả thuyết chưa được kiểm chứng!), đó không phải là trường hợp của tập thể nông dân mà ngay cả Marx cũng không xem là giai cấp tự giác, chính vì sự gắn bó của nó với giấc mơ trở thành tiểu chủ. Ví dù tập hợp công nông có tự nguyện từ bỏ những quyền «tự do hình thức» đi nữa (một giả thuyết chưa được kiểm chứng khác!), đó không phải là dự định của tầng lớp trí thức, dù xuất thân từ thành phần xã hội nào. Mất đi cái cơ sở giai cấp, thì còn lại gì ở nền chuyên chính vô sản, ngoài cái chóp đỉnh độc đảng trơ trẽn? Mất đi cái nội dung đa số (dù chỉ là một đa số giả định đơn thuần), thì còn lại gì nếu không phải là cái hình thức bạo lực trần truồng? Về sau, Lênin đã than thở trong chúc thư (1922) là, rốt cuộc, cách mạng đã chỉ «lấy lại bộ máy nhà nước cũ của Nga Hoàng và của giai cấp tư sản» . Nhưng sự thực đi xa hơn thế nhiều. Cuộc cách mạng bolchevik đã mở đầu kỷ nguyên của những chế độ độc tài kiểu mới dựa trên ba thứ độc quyền - tư tưởng, chính trị, kinh tế - thắt chặt vào nhau bằng một thứ chủ thuyết cứu thế, còn nguy hiểm hơn cả loại chủ nghĩa thiên niên trước kia bội phần, bởi vì nó mạo xưng là khoa học. Trước khi phải thú nhận rằng, «Chúng ta đang sống trong một sự hỗn loạn không luật pháp», Lênin đã chẳng từng viết thế này hay sao, «Khái niệm khoa học về chuyên chính áp dụng cho một chính quyền mà không gì giới hạn được, không một luật lệ hay quy tắc nào kìm hãm nổi, và được đặt trực tiếp trên bạo lực. Ý niệm chuyên chính chỉ đơn giản có thế»? (10). Bộ mặt thật của nền chuyên chính vô sản, như vậy, là một con quái vật hai đầu. Trọng lượng của nó trên xã hội không phải là sức đè của một nhà nước tư bản bình thường, một định chế đang trên đường tiêu vong (Marx) hay một «nửa nhà nước» (Lênin, 1917), mà của một nhà nước rưỡi hay ngay cả hai nhà nước - một công + một tư, một nhà nước danh nghĩa + một «siêu nhà nước» thực tế. Ðây là những đào kép bắt buộc của một thảm kịch và một bi hài kịch, và cả hai đều vẫn được song song trình diễn một cách thường xuyên trên mọi sân khấu chính trị của các nước cộng sản từ mấy mươi năm nay. Cái thảm kịch ở đây là hai tầng áp bức: nhân dân bóp bụng nuôi nhà nước để nhà nước còng lưng cõng Ðảng. Ai nuôi hàng triệu đảng viên đảng cộng sản khi các đảng này lên nắm chánh quyền, nếu không phải là nhà nước, nghĩa là nhân dân? Ở Việt Nam, ông Trần Văn Giàu, người đã từng lăn lộn lâu đời giữa chồng sách vở kinh điển Marx-Lênin, mới đây đã than thở: khi «một tỉnh Thanh Hóa còn đông nhân viên hơn toàn bộ Ðông Dương thời Pháp thuộc (...), thì lấy cái gì mà nuôi nhà nước?». Tạo ra nó mà để cho nó nghèo thì nó ăn trộm, trả cho nó mức lương chết đói thì nó phải bóc lột nông dân. Tôi đã bảy mươi mấy tuổi đời nhưng chưa thấy thời nào mà người nông dân nghèo như bây giờ (...) Vì phải nuôi cái bộ máy nhà nước to quá!» (11) Sai lầm độc nhất của sử gia ở đây là cái bộ máy «ăn trộm và bóc lột» ấy không phải là nhà nước, mà chính là toàn bộ cái phức hợp Ðảng + nhà nước, thủ phạm không chỉ là các công nhân viên nhà nước, mà còn là cả bầy cán bộ «ăn theo»! Không những thế, vẫn theo lời ông Giàu, cái bộ máy đồ sộ đó còn «không có hiệu lực». Và đây là một bi hài kịch đích thực. «Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý», thực chất của cái hợp đồng chính trị chạy làng này là chuyện Thằng Mù Cõng Thằng Què tân thời. Thằng què «lãnh đạo», còn mắt nhưng tim óc thì đã mù lòa, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn là những kẻ thù cần phải tiêu diệt; chàng lại mắc bệnh thần kinh, không phân biệt nổi mộng với thực, nên chỉ vẽ rặt những đường tắt láo lếu. Thằng mù «quản lý» bước đi của cả cặp, cứ cả tin y theo lời hướng dẫn mà «tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc» vào toàn những chỗ chết. Sau đó, thằng què bỉ ổi còn nham nhở buộc tội bạn đã cõng nó xuống hố. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước Ðảng, còn Ðảng thì chẳng chịu trách nhiệm với ai hết! 5. Bộ Máy trước Quốc Gia và Xã Hội Nhìn về mặt những hậu quả lâu dài, một thể chế mà thuật ngữ chính trị gọi là chế độ toàn trị kiểu này, tự bản thân nó, còn là nguyên nhân của một sự xáo trộn sâu rộng hơn nữa. Nó đánh dấu sự băng hoại của ngay chính khái niệm chính trị, do đó, vừa làm đảo lộn tất cả đời sống chính trị trong khuôn khổ quốc gia tại các nước cộng sản, vừa đồng thời triệt tiêu hầu như toàn bộ khả năng xây dựng một xã hội dân sự tự lập. Thực chất của nền chuyên chính vô sản là một cuộc đảo chánh. Nhưng đây lại không phải là một cuộc đảo chánh bình thường, hay ngay cả một cảnh «Vua Lê Chúa Trịnh» như đã từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Bởi vì, nếu chuyện Chúa Trịnh lộng quyền ngày xưa chỉ là một ngoại lệ - đạo Nho không trù liệu sự khuynh loát vua trong tổ chức xã tắc bình thường -, thì sự chuyên quyền của Ðảng Cộng Sản ngày nay là một thông lệ - nó nằm ngay trong định nghĩa của nền «chuyên chính vô sản», có cả hiến pháp làm bằng. Cái cảnh cương thường đảo lộn tân thời này, với một ông Chúa Ðảng ngồi ngất ngưởng trên đầu ngài Chủ Tịch Nước, vì thế, là một cuộc đảo chính tuy thường trực mà vẫn hợp hiến. Và điều đó tố cáo sự đồi trụy của toàn bộ đời sống chính trị tại các nước cộng sản. Thứ nhất, lãnh vực chính trị thường được phân định bằng một cặp khái niệm cơ bản là «công» và «tư», với những tác động qua lại của chúng. Cái công là lãnh vực của nhà nước, của «xã hội chính trị»; cái tư là khu vực của «xã hội dân sự». Ở đây, cái công (nhà nước) trở thành tư (công cụ của một chánh đảng), và cái tư (Ðảng Cộng Sản) trở thành công (Ðảng khuynh loát nhà nước), với khuynh hướng là cái tư đã trở thành công ấy sẽ phình tướng ra và dần dần chiếm hữu toàn thể mọi sinh hoạt xã hội, kể cả đời riêng của người công dân. Nói khác hơn nữa, công tư bị trộn lẫn tứ tung trong một mớ bòng bong, vì toàn thể xã hội đã bị nhà nước hóa, trong khi đó thì toàn bộ nhà nước lại cũng bị đảng hóa. Với một định hướng bất biến: trong loại chế độ toàn trị kiểu này, phép nước thua lệ đảng, công quyền kém đảng quyền, công lý hàng tư lý, công luận sợ tư luận. Thứ hai, lãnh vực chính trị còn thường được phân định bằng một cặp khái niệm khác là «bạn» và «thù» . Bình thường, 2 khái niệm này phải được hiểu theo nghĩa tương đối là «đồng minh» và «địch thủ», tức là những cá nhân hay tập thể cùng có một số quyền lợi tương đồng hoặc mâu thuẫn nhất thời. Những dị đồng này có thể rất quan trọng và thuộc nhiều loại hình khác nhau, song đều có tiềm năng thay đổi hoặc biến mất; «đồng minh», do đó, cũng có thể trở thành «địch thủ» trong một tập hợp mới, và ngược lại. Ðối với một đảng cộng sản, nhất là khi nó đã nắm chính quyền, thì cả hai khái niệm đều có khuynh hướng trở thành tuyệt đối, trong một thế giới xẻ đôi và vĩnh viễn đối kháng. Nếu «bạn» còn có thể biến thiên trên một bậc thang giá trị, từ «anh em» đến «đồng minh khách quan», thì «kẻ thù» phải được hiểu một cách triệt để, bởi vì «nhiệm vụ lịch sử» của chuyên chính vô sản không phải là đi tìm một tạm ước giữa các thế lực đối kháng, mà chính là để tiêu diệt toàn bộ các giai cấp khác, và xóa bỏ mọi tàn tích hay mầm mống phân chia giai cấp, hầu mở đường cho một xã hội chỉ còn có người vô sản. Cuối cùng nhưng cơ bản nhất, lãnh vực chính trị còn được phân định bằng một cặp khái niệm nữa là «chỉ huy» và «tuân lệnh»; sự tương tác của chúng xác lập nội dung của một «trật tự chính trị». Ở các nước cộng sản, đây là một trật tự hết sức kỳ quặc, và do đó, chỉ có thể đặt trên bạo lực. Chánh đảng nắm quyền điều khiển không nhằm phục vụ lợi ích chung của tất cả mọi thành phần dân tộc hoặc mọi tầng lớp xã hội, mà quyền lợi của vô sản quốc tế hay của riêng một giai cấp «tiên tiến» nhất. Ðối nội, Ðảng đã không chủ trương phát triển sự hòa thuận mà còn khích động sự xung khắc giữa các thành phần dân tộc, không phồn vinh hóa mà vô sản hóa mọi tầng lớp dân chúng. Ðối ngoại, Ðảng chỉ đảm nhận nhiệm vụ quốc phòng đối với «kẻ thù quốc tế», song ngược lại, đôi khi còn sẵn sàng cho phép các đế quốc «anh em» đặt căn cứ quân sự ngay trên lãnh thổ. Khái niệm và thực thể quốc gia, xưa nay, thường vẫn dựa trên một số thành tố nhất định: một dân tộc tự giác (có chung một ngôn ngữ, một lịch sử, một nền văn hóa), một nhà nước có chủ quyền trên một lãnh thổ được công nhận, và một ý muốn cùng sống chung với nhau. Còn lại gì ở quốc gia Việt Nam ngày nay, khi đảng cầm quyền đã phá tan cả ý thức lẫn cộng đồng dân tộc bằng cuộc chiến tranh giai cấp, khuyến khích một bộ phận này của dân tộc tiêu diệt bộ phận kia? Còn lại gì ở quốc gia Việt Nam, khi tập đoàn lãnh đạo Ðảng vẫn tiếp tục mơ tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi một phần không nhỏ dân chúng chỉ mơ ước vượt biên hay xuất cảnh làm công dân của một nước khác, khi kẻ cầm quyền không hề có dự phóng nào khác hơn là tại vị lâu dài, kể cả bằng mưu toan kiểm soát toàn bộ đời sống - từ cái đầu, đôi chân đến bao tử - của quần chúng? Mặt khác, khái niệm và thực chất của xã hội công dân được xây dựng trên sự công nhận và tồn tại của một lãnh vực sinh hoạt nằm ngoài vòng kiểm soát của chánh quyền. Ở đây, bên cạnh những ràng buộc với tập thể quốc gia vẫn luôn luôn có, mọi người công dân đến tuổi trưởng thành đều được công nhận có đủ tư cách và khả năng liên hệ với nhau trong tự do, hầu tạo lập nên những quan hệ cá nhân hay tập thể có tiềm năng nâng cao đời sống tinh thần cũng như vật chất của bản thân mình. Một xã hội dân sự tự quản tương tự không thể nào hiện hữu trong mạng lưới chi chít những hội đoàn, tổ chức do bộ máy Ðảng + nhà nước dựng lên để nối dài quyền lực của mình, nhằm áp đặt hệ tư tưởng cộng sản và các chủ trương chính sách chính thống. «Xã hội mới» nào có thể mọc lên từ sự phủ định, không phải chỉ có xã hội cũ, mà ngay cả mọi ý niệm về xã hội công dân?
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 6:29:48 GMT 9
6. Biến Tính và Không Tưởng
Nhìn tổng quát, đó là cái di sản mà các nước cộng sản nói chung, và Việt Nam nói riêng, đã thừa hưởng từ cuộc cách mạng tháng 10/1917. Làm thế nào để đổi mới một di sản cồng kềnh như vậy? Nhưng phải chăng đây là một di sản có thể đổi mới? Nếu «đổi mới» có nghĩa là «tìm kiếm một mô hình mới về chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là chắp vá lại một mô hình cũ» (1), thì vấn đề, thật ra, có lẽ không phải là cải thiện những gì không ai còn cứu vãn nổi, mà là thoát ly khỏi một hệ thống đã chết cứng, cả về mặt lý luận lẫn trong thực tiễn cách mạng.
«Chúng ta phải «tạm gác» tất cả những kết luận về chủ nghĩa xã hội mà Mác, Lênin (nhất là Stalin) đã đưa ra với tư cách là một mô hình phát triển hòa bình sau khi cách mạng đã thành công» (1). Nhưng khi cái mô hình cách mạng đã được đề ra để giải phóng con người «hoàn toàn đi ngược lại những nguyên lý của bất cứ chủ nghĩa xã hội nào có mục đích giải phóng con người, nhất là giải phóng con người một cách hiện thực», khi nó «nhân danh hạnh phúc của con người để tạo ra chiến tranh thường trực với con người», khi thực chất của nó «chẳng khác gì với cái thời kỳ tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản» và «là sự hy sinh toàn bộ các quyền tự nhiên sơ đẳng của con người» (1), thì vấn đề, thật sự, là phải «tạm gác» nó lại hay nên từ bỏ vĩnh viễn?
Cái mô hình chủ nghĩa xã hội đã đem ra áp dụng ở Việt Nam không chỉ là của Stalin hay của Mao. Nó đã được xây dựng lên từ và bởi Lênin, cũng như từ các tiền đề mập mờ đã nằm sẵn trong những luận điểm của Marx. Ðã đành là sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ Marx đến Mao là một sự xuống cấp và biến tính. Song không thể nào chỉ đánh Mao hay Stalin để cứu Lênin, hoặc đánh Lênin để tránh động tới Marx. Ðây là «một gia đình thần thánh» có trách nhiệm tập thể, với mức độ nghiêm trọng khác nhau, trong sự phá sản của bao nhiêu quốc gia đã dại dột lựa chọn con đường phát triển cộng sản chủ nghĩa.
Cần trở về với «phương pháp phân tích hiện thực mácxít (...) để phân tích tình hình hiện thực của thế giới và đất nước ngày nay để tìm cho được những kết luận mới (...) mà Mác và Lênin chưa thể đề ra trong thời đại của các ông» (1). Song có thể có hay không một phương pháp - hiểu như sự vận dụng có kiểm soát những phạm trù - biệt lập với nội dung của một học thuyết, nhất là một học thuyết lịch sử xã hội, và nhất là khi những phạm trù để suy nghĩ về lịch sử lại cũng chính là những sản phẩm của lịch sử? Giả định là có thể trở về với «phương pháp mácxít» có nghĩa là khẳng định rằng sự phát triển của lịch sử từ 100 năm nay không có ảnh hưởng gì trên những phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (12). Nhưng sự thật phải chăng là chúng đã trở thành hầu như vô hiệu cho sự nhận thức thực tại - khoan nói đến chuyện thay đổi thế giới?
Có một khác biệt lớn giữa triết lý lịch sử của Ðông Phương và của Tây Phương. Phong kiến Ðông Phương nhìn lịch sử như một sự chuyển vận hoặc theo vòng tròn («suy thịnh xoay vần» ) hoặc theo một đường thẳng dấu âm (thời hoàng kim - Nghiêu Thuấn - ở sau lưng). Ðối với Tây Phương từ sau thế kỷ Ánh Sáng, ngược lại, lịch sử vận chuyển theo một đường thẳng dấu dương (thời hoàng kim - xã hội hoàn hảo - ở trước mặt). Trước hơn sau và «chủ nghĩa phục cổ» một bên; sau hơn trước và «chủ nghĩa tiến bộ» một bên. Chân lý nẩy ra từ sự suy diễn kinh điển một bên, từ sự khảo sát thực tại phía bên kia. Trước bế tắc, nhà nho có lý do bơi ngược về nguồn sử sách để tìm giải đáp, bởi vì «nhân hà nhật hạ nhân giai trọc». Có cái gì rất nghịch lý trong ý đồ trở về «kinh điển mácxít» ở những người cách mạng, quốc tế hay Việt Nam, bởi vì không làm gì có Nghiêu Marx với Thuấn Engels ở nơi tìm kiếm!
Chủ nghĩa Marx là một triết lý lịch sử đặc biệt ở chỗ nó muốn thành khoa học. Ðây thực chất là một thứ «chủ nghĩa lịch sử»: nó đặt mục đích của các khoa học xã hội phải là khả năng tiên đoán tương lai (13), bằng sự phát hiện ra những «nhịp độ», «mô hình», «quy luật», «xu hướng», v. v... tiềm ẩn trong sự tiến hóa của lịch sử. Và sự thực là những tiên đoán của Marx đều đã bị lịch sử phủ nhận. Chủ nghĩa tư bản đã không giẫy chết và cũng không khai sinh ra xã hội cộng sản. Một xã hội «hậu công nghiệp» đang thành hình, dựa trên các ngành khoa học kỹ thuật không có vào thời đại của Marx (điện toán và tin học); trong «xã hội thông tin» này, liệu giai cấp công nhân sẽ nắm được đa số? (14). Tổng quát hơn, làm sao tiên đoán lịch sử bằng quyết định luận, khi nó còn là lãnh địa của sự sáng tạo? Nếu một sinh vật hơn hẳn bộ máy ở cái khả năng mang lại những giải đáp mới cho các hoàn cảnh mới, thì con người còn hơn mọi sinh vật thường ở cái khả năng, hoặc đem lại giải đáp mới cho những hoàn cảnh cũ, hoặc tạo ra hẳn hàng loạt hoàn cảnh mới.
Thất bại này không có nghĩa là Marx đã không có cống hiến gì cho khoa học. Song loại đóng góp tích cực của ông đã được thu nhập vào các ngành khoa học nhân văn, chủ yếu là xã hội học và sử học; phần còn lại là hư cấu chính trị. Nhiều đánh giá quân bình và khoa học về Marx đã được phổ biến (15, 16, 17). Không thể nào còn tiếp tục thờ chủ nghĩa Marx như một «chỉnh thể» bao gồm tất cả những luận điểm đúng cũng như sai của tác giả, nhất là khi cái chỉnh thể ấy đã liên tục giữ vai trò của một hệ tư tưởng - theo chính định nghĩa của Marx - trong ngót 80 năm (hệ thống lý luận để che dấu và biện hộ cho thực tại bằng những điều tưởng tượng), và thực chất của nó lại là một hệ không tưởng theo nghĩa xã hội học (học thuyết hướng về một tình trạng xã hội lý tưởng chẳng bao giờ thực hiện được).
7. Tiền Đề cho Một Sự Thoát Ly
Nếu vấn đề thật sự đặt ra cho Việt Nam ngày nay là đi tìm một mô hình mới, vừa cho phép phát triển đất nước, vừa «ưu tiên bảo vệ con người» (1), thì cái mới ấy có lẽ chẳng còn giữ lại bao nhiêu liên hệ với Marx, ngoài những khắc khoải nhân bản muôn thuở. Giới hạn của Marx là ông đã chỉ đặt được vấn đề giải phóng con người trong quan hệ với xã hội tư bản của thế kỷ thứ 19 và với các kiến thức - đúng cũng như sai - của thời điểm ấy. Cái tiền đề thật sự của sự đổi mới ngày nay, như vậy, có lẽ không phải là trở về với «phương pháp mácxít» (?), mà chính là vượt qua lối đặt vấn đề và một số quan điểm giới hạn của bản thân Marx cách đây đã một thế kỷ.
Khi cái viễn tượng thế giới vô sản và một xã hội không còn giai cấp ở Marx đã bước vào viện bảo tàng các ảo vọng lịch sử, thì đối tượng hiển nhiên của hành động chính trị trong nước là xây dựng lại cộng đồng dân tộc. Và mục tiêu này chỉ có thể được thực hiện khi, không phủ nhận sự tồn tại của nhiều giai tầng xã hội và những quyền lợi kinh tế đối kháng, chúng ta cũng đồng thời từ bỏ cả cái quan điểm đấu tranh giai cấp sẽ dẫn đến sự phân cực và triệt tiêu của một bên như ở Marx. «Trong những nước mà xã hội công dân bao gồm nhiều thành phần khác nhau và tất cả (...) đều cần thiết cho sự phát triển, thì tất cả phải được thừa nhận» (1), song không phải như một «chiến thuật» hay ngay cả «lâu dài» mà là vĩnh viễn. Cần phải giao trả cho nhà nước vai trò của một định chế quốc gia mà nhiệm vụ đầu tiên là gìn giữ cho những mâu thuẫn quyền lợi cục bộ không suy biến thành nội chiến, đe dọa cả sự sống còn của toàn thể cộng đồng.
Chỉ với một «nhà nước dân tộc» , trong ý nghĩa là nó đại diện cho tất cả mọi giai tầng xã hội, khái niệm nhà nước giai cấp mới biến mất. Chủ đích của việc nắm chánh quyền, lúc ấy, mới không còn là sự thực hiện chuyên chính - nghĩa là sự phục vụ triệt để quyền lợi của một giai cấp duy nhất. Và «đổi mới» sẽ không đơn giản là một sự cải đổi danh từ, từ «chuyên chính vô sản» thành «chuyên chính nhân dân» (!) (1), mà là thoát ly ra khỏi toàn bộ hệ đề chuyên chính - sự đồng nhất nhà nước với một chính quyền giai cấp, và dân chủ với giai cấp đa số ở Marx. Từ sau Tocqueville (18), «bạo chính của đa số» đã tiến hóa thành một khái niệm cụ thể hơn, để chỉ định một loại «dân chủ hình thức» khác: cái thứ dân chủ giả hiệu trong ấy số phận của thiểu số không nắm quyền nhà nước là sẽ bị đè bẹp như cỏ rác.
Dân chủ không chỉ là sự nắm quyền của « nhân dân » hay của một đa số, mà còn là một tập hợp những định chế pháp lý (bầu cử, đối lập, v. v...) và một tinh thần khoan nhượng, cho phép mọi người công dân đều làm chủ đất nước của mình. Nếu cái đa số thắng cử có quyền chỉ định kẻ cầm quyền, thì thiểu số thất cử cũng có quyền công khai kiểm soát chánh phủ và đạt được những cải tổ mà không dùng bạo lực, kể cả việc thay đổi đảng cầm quyền khi họ thắng cử trở lại. Chế độ hiện hữu ở Việt Nam không phải là dân chủ: hắn chỉ có những định chế dân chủ giả hiệu và hành xử hoàn toàn cực đoan. Hắn cũng không được là một nền «bạo chính của đa số», bởi vì hắn chưa bao giờ thực sự là nền «chuyên chính của một giai cấp» mà là «của Ðảng», cũng không phải là «của Ðảng» mà là «của Trung Ương Ðảng», cũng không phải là «của Trung Ương Ðảng» mà là «của một nhóm người», và có thể cuối cùng là chỉ «của một người» (1).
Một nhà nước không phải là công cụ của một giai cấp hoặc một thiểu số, một nhà nước dân chủ và pháp trị, không bao giờ có viễn tượng tiêu vong, và cũng không cần sử dụng bạo lực như một phương pháp cai trị. Vận hành trên giả thuyết là sẽ luôn luôn có những xu hướng phản dân chủ ở cả hai bên đường ranh quyền lực, phía kẻ cầm quyền cũng như bên người bị cai trị, nó còn phải góp phần vào việc tự hạn chế khuynh hướng bạo quyền nơi nhà nước, bằng sự chấp nhận một xã hội công dân tự chủ như một thế lực đối trọng. Và một xã hội dân sự tương tự chỉ có khả năng mọc lên từ sự tôn trọng thực sự những quyền tự do cá nhân đã được cả thế giới long trọng ghi nhận trong các bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền.
Ðến đây, người ta có thể nhìn thấy rõ ràng nhất một thái độ nghịch lý của Marx, khi ông vừa mơ tưởng một thứ chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên những xã hội công dân đã phát triển tối đa của các nước tư bản Tây Phương (19), vừa đồng thời phê phán rất gay gắt những quyền tự do dân chủ đã được cách mạng Pháp bảo đảm (20). Thật ra, thái độ của K. Marx có thể được giải thích. Nhìn từ quan điểm về «con người toàn diện» và từ khát vọng giải phóng con người một cách toàn diện và hiện thực của Marx, thì những thắng lợi của cuộc cách mạng Pháp dường như chỉ giới hạn vào một sự giải phóng trong lãnh vực chính trị và không thể nào được xem là đã đầy đủ (chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác). Song đây vẫn là một thái độ rất tai hại:ở thế hệ kế tục Marx, sự phê phán một khía cạnh của vấn đề nhân quyền tự dưng trở thành sự phủ nhận toàn bộ bản tuyên ngôn, «không đầy đủ» bỗng nhiên trở thành «không cần thiết», và cái gì «không cần thiết» thường lại có nghĩa là «có thể hủy bỏ».
Song làm sao có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nhà nước đã tiêu vong trong tương lai như Marx hằng mơ tưởng, hoặc một xã hội dân sự tự lập của thời kỳ quá độ trong điều kiện là nhà nước hữu quyền vẫn tồn tại song song, hoặc một thứ mô hình phát triển «ưu tiên bảo vệ con người» ở những người cộng sản muốn đổi mới, nếu thiếu thốn những quyền tự do dân chủ căn bản ấy? Một câu hỏi không có lời giải đáp rõ rệt nơi những người cộng sản từ đã nhiều thập niên, và có lẽ ở cả Karl Marx nữa.
«Ðảng phải giao toàn bộ quyền lực cho nhà nước, trở về xã hội công dân, tự đặt mình trong luật pháp, bình đẳng với mọi tổ chức chính trị xã hội khác, từ đó khẳng định lại năng lực và phẩm chất của mình» (1). Ðề nghị vô cùng hợp lý và can đảm. Nhưng liệu Ðảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay còn có đủ bản lãnh và phẩm chất để làm cái hành động ấy - một hành động, hơn nữa, chỉ thực sự có ý nghĩa trong khuôn khổ của một xã hội dân sự tự lập?
8. Về Một Di Sản Khác Cần Đổi Mới
«Chủ nghĩa xã hội hay là chết»? Có thật là di sản chỉ còn con đường hai ngả ấy? Cần nhắc nhở những người cộng sản Việt Nam một di sản khác mà họ hoàn toàn có khả năng tiếp tục và đổi mới với khá nhiều triển vọng thành công. Ðấy là những thành tựu của cuộc «cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân» mà họ đã đóng góp xương máu để đưa giai đoạn đả phá đến thắng lợi cuối cùng, khi người cộng sản còn là những đại biểu trung thực của «nỗi đau phổ biến» (1) của một dân tộc Việt Nam, vừa mất chủ quyền, vừa bị bóc lột. Cái di sản mà bản thân họ cũng đã bỏ rơi giữa đường từ 1975, khi ngoan ngoãn bước theo dấu chân bội bạc của tập đoàn cộng sản giáo điều đã và còn đang lãnh đạo Ðảng.
Kế thừa sẽ phải đi đôi với đổi mới. Cần phải trở về với những mục tiêu không can hệ gì đến chủ nghĩa Marx-Lênin do người cộng sản đề xướng trong công cuộc kháng chiến trước đây, song đồng thời cũng phải chiếu cố đến bao hậu quả tai hại của cuộc «đổi đời» tàn khốc do chính Ðảng Cộng Sản Việt Nam phát động sau đó.
«Dân Tộc» ngày nay không thể chỉ đơn thuần là đấu tranh giành lại chủ quyền từ tay ngoại bang, mặc dầu vấn đề độc lập vẫn chưa hề được giải quyết dứt điểm với chính sách bành trướng của đế quốc phương Bắc, và chủ trương bám gót cường quốc «anh em» của tập đoàn lãnh đạo bảo thủ trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, nhằm «bảo vệ chủ nghĩa xã hội đang bị chủ nghĩa đế quốc cùng bọn phản động quốc tế đe dọa» trên khắp thế giới và ở Việt Nam. Nó còn có nghĩa là phải xây dựng lại ý thức dân tộc, một cộng đồng quốc gia nhiều sắc tộc và thành phần, tình nghĩa đồng bào, v. v..., nghĩa là tất cả những bảo vật mà cha ông để lại từ bao đời, đã và còn đang lần hồi bị chủ nghĩa đấu tranh giai cấp tàn phá.
«Dân Chủ» không chỉ đơn giản là giao lại chính quyền cho một tập hợp thực sự đa số trong nước, dù dựa trên cơ sở giai cấp hay không. Nó còn phải là khởi công xây dựng ngay những định chế vẫn bị chê là «hình thức», và một tinh thần bao dung cho phép mọi người Việt Nam - đa số hay thiểu số, kinh hay thượng, sống ở trong hay ngoài lãnh thổ -, một khi đã chấp nhận thân phận công dân một nước nhược tiểu, và cùng chia sẻ với nhau cái giấc mơ hóa rồng, có thể không những cùng sống chung mà cùng đóng góp vào sự nghiệp thúc đẩy đất nước cất cánh. Sau hết, nó còn phải là công nhận và thực thi, trên một lịch trình hợp lý và thực tế, toàn bộ các quyền tự do công cộng cho phép mọi người công dân đều có quyền, bên cạnh giấc mơ tập thể, mưu cầu một cuộc sống riêng tư theo sát với hoài bão cá nhân.
«Nhân Dân» không thể còn hạn hẹp vào một liên minh giai cấp giữa những người cùng muốn thực hiện một lý tưởng đặc thù, mà phải tỏa rộng tới tất cả mọi thành phần dân tộc. Nó không thể vĩnh viễn cứ là tập thể những con người, hay một tầng lớp nông dân đời đời chỉ có nhiệm vụ cống hiến xương máu để bảo vệ tổ quốc khi cần thiết, hay làm «động lực lịch sử» của mọi cuộc đổi dời chính trị, để rồi vẫn hoàn toàn bị bỏ quên sau mỗi chiến thắng, mà cần phải thay đổi ngôi vị thành đối tượng chăm sóc của bất kỳ một nhà nước dân cử Việt Nam nào trong tương lai, trên tất cả các địa bàn xây dựng - cụ thể là dân quyền, dân trí và dân sinh.
Chỉ một chương trình cách mạng như thế mới đáp ứng thiết thực được «nỗi đau phổ biến» của cả dân tộc Việt Nam trong lúc này, cái nỗi đau mà thủ phạm không ai khác hơn là chủ nghĩa cộng sản và Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Và biết đâu, với chương trình hành động ấy, với sự quẫn bách của tình hình, với nguồn mạch dân tộc được khơi dậy, với tình non nước cố hữu, những cừu nhân của ngày hôm qua lại không bỗng lột xác thành những cố nhân đã từng chung lòng đấu tranh cho đất nước này từ bao đời rồi, trong tiền thân của những Ðinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn Tây Sơn... xưa cũ?
Dường như trước khi chết, Karl Marx đã trăn trối: «Tôi không phải là người theo chủ nghĩa Marx». Những người cộng sản Việt Nam, rồi đây, sẽ nói gì trước khi nhắm mắt? «Tôi đã làm người mácxít đến hơi thở cuối cùng» , hay, «Tôi đã làm người Việt Nam trọn vẹn thủy chung?». Bên ngoài và ở trên tất cả mọi chủ thuyết và tranh cãi, vấn đề, thực sự, có lẽ chỉ đơn giản là chọn lựa ấy.
Phạm Trọng Luật Hợp Lưu, số 10, 1993
____________________________
CHÚ GIẢI & THƯ MỤC
(01) Lữ Phương, Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam: Di Sản và Đổi Mới. Trong: Những Vấn Đề Việt Nam, Garden Grove (CA): Nxb Trăm Hoa, 1992. Tr. 347-365.
(02) Thật ra, cái nguyên tắc làm nền tảng đạo lý cho xã hội cộng sản ngày mai này, Karl Marx đã mượn lại từ công giáo nguyên thủy, qua trung gian của một tác giả khuynh hướng xã hội Pháp (Louis Blanc. «Organisation du travail», Paris, Ed. Prévot, 1839). «Và tất cả những kẻ có lòng tin sống chung với nhau, để chung lại tất cả của cải, và chia chúng ra cho mỗi người, theo nhu cầu của từng người (And all that believed were together, and had all things in commun, and parted them to all men, as every man had need)». «Cũng không ai phải thiếu thốn, vì mỗi người được phân phối theo nhu cầu của từng người (Neither was there any among them that lacked, for distribution was made unto every man according as he had need)». Trích từ: Acts of the apostles bởi K. Popper. Xem: Popper, Karl R. The Open Society and Its Enemies. Q. 1, The Spell of Plato. London: RKP, 1974. Ch. 5, ct. 29, tr. 241.
(03) Draper, Hal. Marx and the Dictatorship of the Proletariat. Etudes de Marxologie, số 06, 1962. Tr. 5-73.
(04) Guizot, François. De la Démocratie en France. Paris: V. Masson, 1849.
(05) Về K. Marx và vấn đề cách mạng ở Âu Châu (Anh, Pháp, Ðức), xem: Furet, François. Marx et la Révolution Française. Paris: Flammarion, 1988.
(06) Tuy nhiên, bản thân Marx cũng còn có một số nhận định tương đối mập mờ về thời gian chuyên chính cần thiết, như ta có thể nhận thấy qua một cuộc bút chiến giữa Marx với Bakunin. Bakunin: «Người theo chủ nghĩa Marx (...) tự an ủi với ý nghĩ là nền chuyên chính vô sản sẽ chỉ tạm thời và ngắn ngủi»; Marx trả lời: «Không, thưa ông bạn, sự thống trị của giai cấp công nhân trên các giai tầng xã hội khác (...) còn phải kéo dài khi nào cái cơ sở kinh tế của sự phân chia giai cấp chưa bị hủy bỏ» (...) «Khi nào các giai cấp khác, đặc biệt là giai cấp tư bản còn tồn tại, khi nào còn phải đấu tranh với hắn, thì giai cấp vô sản vẫn còn phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế, nghĩa là, những biện pháp nhà nước» (Draper, Hal. Marx and the Dictatorship of the Proletariat.Etudes de Marxologie, số 06, 1962. Tr. 5-73 & tr. 62).
(07) Aron, Raymond. Equivoque et Inépuisable. Trong: Marx and Contemporary Scientific Thought = Marx et la Pensée Scientifique Contemporaine. Paris: Mouton, 1969. Tr. 33-43.
(08) Xem đề mục Parti. Trong: Dictionnaire Critique du Marxisme. Paris: PUF: 1982. Tr. 666-673.
(09) Về vai trò của thời kỳ Khủng Bố (cách mạng Pháp), Marx viết: «Dù giai cấp vô sản có lật đổ sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản đi nữa, thì thắng lợi của nó cũng chỉ là nhất thời, và sẽ chỉ là một nhân tố phục vụ cho bản thân của cuộc cách mạng tư sản mà thôi (...) khi nào trong tiến trình lịch sử, (...) những điều kiện vật chất chưa được tạo lập, khiến cho sự hủy bỏ phương thức sản xuất tư bản trở thành tất yếu, và qua đó, sự sụp đổ của sự thống trị chính trị của giai cấp này trở thành vĩnh viễn». (K. Marx, Contre Karl Heinzen, trích dẫn bởi F. Furet). Có lẽ như Furet đã nhận định, «sự sử dụng máy móc chủ nghĩa Marx như một lý thuyết lịch sử bắt đầu với chính Marx». (Xem: Furet, François. Marx et la Révolution Française. Paris: Flammarion, 1988. Tr. 53 & 207). Dù sao, khó lòng dung hòa quan điểm trên với chủ nghĩa ý chí ở Lênin.
(10) Lenin, Vladimir Ilic. Contribution à l'Histoire de la Question de la Dictature (1920). Trong: Lenin, Vladimir Ilic. Œuvres. Moscou: Ed. du Progrès, 1961. Q. 31, p. 366.
(11) Trần Văn Giàu. Phát Biểu tại Hội Nghị Góp Ý Kiến Dự Thảo Nghị Quyết của Bộ Chính Trị về Công Tác Khoa Học Xã Hội. Tuổi Trẻ, 27/10/1988.
(12) Về phạm trù «theo quan niệm mácxít» và những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem: Từ Điển Triết Học. Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1976. (Công trình của một tập thể các nhà triết học Liên Xô, dịch từ bản tiếng Pháp ra tiếng Việt).
(13) Về định nghĩa và sự đánh giá các chủ nghĩa lịch sử, xem: Popper, Karl R. The Poverty of Historicism. London: RKP, 1963. Tr. 3.
(14) Theo những nghiên cứu kinh tế dự đoán, khu vực dịch vụ hiện đang tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cả khu vực kỹ nghệ trong nền kinh tế của các nước tư bản phát triển nhất. Xem: Gaspard, Michel. Demain les Services. Futuribles, số 128, 01/1989, p. 31-47.
(15) Castoriadis, Cornélius. L'Institution Imaginaire de la Société. Ch. 1, Le marxisme: Bilan Provisoire. Paris: Ed. du Seuil, 1975.
(16) Dahrendorf, Ralf. Class and Class Conflict in Industrial Society. Phần 1, The Marxian Doctrine in the Light of Historical Change and Sociological Insights. Stanford (CA): Stanford University Press, 1967.
(17) Popper, K. R. The Open Society and Its Enemies. Q 2, The High Tide of Prophecy: Hegel, Marx, and the Aftermath. London: RKP, 1974.
(18) Ở Tocqueville, khái niệm «bạo chính của đa số» có xu hướng được đặt trên mặt đạo lý và trí thức hơn là chính thể. Xem: Tocqueville, Alexis de. De la Démocratie en Amérique. Paris: Gallimard, 1968.
(19) Theo Marx, giá trị lớn của phong trào hợp tác là đã chứng tỏ bằng sự tồn tại của nó rằng «cái chế độ lệ thuộc lao động vào tư bản hiện nay, bạo ngược và đầy khổ ải, có thể được thay thế bằng một hệ thống cộng hòa, đặt trên sự hợp tác giữa những nhà sản xuất tự do và bình đẳng» Marx, Karl. Rapport du Comité Central de l'Association Internationale des Travailleurs (1865). Trích dẫn bởi Papaiouannou. Xem: Papaiouannou, Kostas. Les «Producteurs Associés: Dictature, Prolétariat, Socialisme. Diogène, số 64, 10-12/1968. Tr. 170.
(20) «Không có một quyền nào trong số gọi là nhân quyền vượt qua khỏi con người ích kỷ, con người hiện hữu trong tư cách là thành viên của xã hội tư sản, nghĩa là một cá nhân co cụm về bản thân mình, về quyền lợi riêng tư và khoái lạc riêng tư, tách rời ra khỏi cộng đồng» (Marx, Karl. À propos de la Question Juive = Zur Judenfrage. Paris: Aubier-Montaigne, 1971. Tr. 109.
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2012 7:43:52 GMT 9
TÀI NGUYÊN DẦU KHÍ VÀ CHIẾN TRANH NĂNG LƯỢNG GS Nguyen Truong
Từ lâu, các cuộc xung đột và tranh giành quyền kiểm soát các tài nguyên năng lượng đã là những nét đặc trưng của sinh hoạt toàn cầu. Các cuộc chiến vì dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên đã luôn diễn ra hầu như trong mọi thập kỷ kể từ Đệ Nhất Thế Chiến. Và một hay hai vụ nổ lớn trong năm 2012 cũng chỉ là chuyện bình thường. Nhưng gần đây, chúng ta đã chứng kiến một loạt xung đột liên quan đến dầu khí và hàng chục quốc gia trên khắp địa cầu. Đây rõ ràng là dấu hiệu chúng ta đang bước vào kỷ nguyên xung đột vì năng lượng ngày một gia tăng. Từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, từ Argentina đến Philippines, sau đây là sáu vụ xung đột liên quan đến nguồn cung năng lượng chúng ta thường gặp trên báo chí trong vòng mấy tháng đầu năm 2012: (1) Cuộc Chiến Đang Nhen Nhúm giữa Sudan và Nam Sudan: Ngày 10-4-2012, lực lượng Nam Sudan, mới giành được độc lập, đã chiếm đóng trung tâm dầu lửa Heglig, một thành phố đã được trao cho Sudan như một phần trong giải pháp hòa bình cho phép Nam Sudan ly khai trong năm 2011. Bắc Sudan, cơ sở ở Khartoum, đã động viên quân lực và đuổi quân đội South Sudan ra khỏi Heglig. Từ đó, chiến tranh tiếp diễn dọc theo biên giới đang tranh cãi giữa hai quốc gia, song song với các cuộc không tạc vào các thành phố Nam Sudan. Mặc dù xung đột chưa phải là chiến tranh toàn diện, nổ lực quốc tế tìm kiếm ngưng chiến và giải pháp hòa bình vẫn chưa thành công. Cuộc xung đột có nhiều nguyên do, vì cách biệt kinh tế giữa hai xứ Bắc Sudan và Nam Sudan, cũng như những dị biệt dai dẳng giữa Nam Sudan, đa số người da đen Phi châu với cơ đốc giáo duy linh và vật linh, và người Bắc Sudan, phần lớn gốc A- Rập và Hồi giáo. Nhưng tựu trung, dầu lửa và số thu nhập từ dầu lửa vẫn là nguyên nhân chính. Khi Sudan chia đôi vào năm 2011, hầu hết các trữ lượng dầu đều tọa lạc ở phía Nam, trong khi hệ thống dẫn dầu đến các thị trường quốc tế và đem lại phần lớn số thu nhập lại nằm trong tay người Bắc Sudan. Bắc Sudan đã đòi hỏi các “cước phí quá cảnh”[1] quá cao , từ 32 đến 36 USD thay vì mức giá bình thường 1 USD mỗi thùng. Khi Nam Sudan từ chối, Bắc Sudan đã tịch thu tiền thu nhập từ số dầu Nam Sudan xuất khẩu, nguồn lợi tức quan trọng duy nhất của Bắc Sudan. Để đáp lại, Nam Sudan quyết định ngưng hẳn khâu sản xuất để xuất khẩu, và phát động cuộc tấn công quân sự chống lại Bắc Sudan. Tình hình cho đến nay vẫn cực kỳ căng thẳng. (2) Đụng Độ Hải Quân Ở Vùng Biển Nam Hải: Ngày 7-4-2012, một tàu chiến của Philippines, Gregorio del Pilar dài 378 bộ, đến Sarborough, một hải đảo nhỏ trong vùng Nam Hải, bắt giữ tám tàu TQ với lý do đánh cá phi pháp trong vùng biển thuộc chủ quyền Philippines. TQ đã nhanh chóng gửi hai tàu hải quân đến hiện trường, nêu lý do tàu Gregorio del Pilar đã quấy nhiễu ngư dân TQ trong hải phận TQ, không thuộc Philippines. Sau đó Philippines đã trả tự do cho các tàu đánh cá TQ, và tình trạng căng thẳng phần nào giảm bớt. Tuy nhiên, không bên nào tỏ dấu hiệu nhượng bộ, và cả hai tiếp tục gửi các tàu chiến đến khu vực tranh chấp. Cũng như ở Sudan, nhiều yếu tố đã đưa đến xung đột, nhưng năng lượng luôn là động lực chính. Biển Nam Hải được biết có tiềm năng dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên khổng lồ, và tất cả các quốc gia chung quanh, kể cả TQ và Philippines, đều muốn độc quyền khai thác. Manila đòi hỏi một khu vực đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý trải dài trong vùng Nam Hải từ các bờ biển phía Tây của họ, một khu vực họ gọi là Biển Tây Philippines. Các công ty Philippines tuyên bố họ đã tìm thấy những trữ lượng hơi đốt thiên nhiên lớn lao trong khu vực và đã loan báo các kế hoạch khai thác. Phía TQ cũng xem các hải đảo nhỏ rãi rác trong vùng Biển Nam Hải, kể cả Scarborough Shoal là của họ, và Bắc Kinh cũng đã tự xác quyết chủ quyền trong toàn vùng, kể cả khu vực Manila đòi hỏi, và cũng đã loan báo các kế hoạch khai thác. Sau nhiều năm lời qua tiếng lại, các bên vẫn chưa tìm được một giải pháp thỏa đáng và rất có thể còn có nhiều xung đột trong tương lai. (3) Ai Cập Cắt Dòng Chảy Hơi Đốt Đến Do Thái: Ngày 22-4-2012, Hai công ty Ai Cập, Egyptian General Petroleum Corporation và Egyptian Natural Gas Holding Company, đã thông báo cho các quan chức Do Thái quyết định chấm dứt thỏa ước theo đó Ai Cập đã cung cấp hơi đốt thiên nhiên cho Do Thái. Quyết định được đưa ra sau khi nhà độc tài Hosni Mubarak đã bị lật đổ, kết quả của nhiều tháng giới trẻ biểu tình phản đối ở Cairo, và Ai Cập đang tìm kiếm một chính sách đối ngoại độc lập, ít chịu ơn Hoa Kỳ và Do thái. Vả chăng, giới quân sự Ai Cập hình như cũng đã không thể ngăn chặn hàng chục cuộc tấn công vào các tuyến đường ống dẫn hơi đốt băng qua sa mạc Negev đến Do Thái. Trong mọi trường hợp, mặc dù quyết định rõ ràng là để đáp lại sự tranh chấp trong cách thanh toán tiền mua hơi đốt Ai Cập của Do Thái, sự kiện, tuy vậy, vẫn được các bên liên hệ giải thích như một phần trong cuộc vận động của chính quyền mới muốn chứng tỏ một khoảng cách ngày một lớn với chính sách hợp tác với Do Thái, do người Mỹ khuyến khích, của chế độ Mubarak vừa bị lật đổ. Sự nối kết hơi đốt thiên nhiên giữa Ai Cập và Do Thái là một trong những kết quả có ý nghĩa nhất của thỏa ước hòa bình năm 1979 giữa hai quốc gia, và sự hủy bỏ là tín hiệu rõ ràng của một thời kỳ bất hòa sắp tới. Nó cũng có thể gây ra nạn thiếu năng lượng ở Do Thái, nhất là vào mùa hè khi số cầu năng lượng lên đỉnh điểm. Trên một bình diện lớn hơn, sự cắt bỏ cũng là tín hiệu một chuyển hướng mới trong phương cách , sử dụng hay từ chối cung cấp năng lượng, như một hình thức chiến tranh và cưởng ép. (4) Argentina Chiếm Hữu YPF: Ngày 16-4-2012, Tổng Thống Argentina, Cristina Fernandez de Kirchner, công bố: chính quyền của bà có thể sẽ mua lại đa số cổ phần trong YPF, công ty dầu lớn nhất quốc gia. Theo kế hoạch, T T Kirchner đã nói rõ trên truyền hình quốc gia: chính quyền có thể bỏ vốn đầu tư nhằm nắm giữ 51% số cổ phần, đủ để giành quyền kiểm soát YPF từ Repsol YPF, công ty năng lượng lớn nhất của Tây Ban Nha. Sự chiếm hữu chi nhánh Argentina đang được Madrid và các thủ đô Âu châu khác xem như một đe dọa lớn cần phải tức khắc chống đối. Bộ trưởng ngoại giao Tây Ban Nha, José Manuel Garcia Margallo, tuyên bố: hànhđộng của Kirchner đã làm “đổ vỡ không khí thân ái và bằng hữu trong quan hệ giữa Argentina và Spain.”[2] Vài ngày sau, trong một phản ứng được báo chí tường trình như một trong những biện pháp trả đũa, Tây Ban Nha đã công bố có thể ngưng nhập khẩu nhiên liệu sinh học từ Argentina, xứ cung cấp chính – một giao dịch trị giá gần một tỉ USD mỗi năm đối với Argentina. Cũng như trong các cuộc xung đột khác, sự đụng độ đã bắt nguồn từ nhiều lực thúc đẩy, kể cả tinh thần quốc gia mãnh liệt phát xuất từ kỷ nguyên Peron, bên cạnh ước muốn tăng cường uy tín trong công luận của Kirchner. Tuy nhiên, động lực thúc đẩy bắt nguồn từ mục tiêu giành những lợi ích chính trị và kinh tế lớn hơn từ tài nguyên năng lượng, kể cả hơi đốt shale gas lớn thứ ba trên thế giới. Trong khi uy tín và quyền lực của Brazil, quốc gia cạnh tranh trong dài hạn, ngày một gia tăng, nhờ ở “trữ lượng dầu lửa pre-salt,” Argentina cảm thấy sản ngạch năng lượng của mình đang suy giảm. Repsol có thể không phải chịu trách nhiệm về tình trạng nầy, nhưng người Argentina rõ ràng đang tin, với YPF dưới quyền kiểm soát của chính quyền, Argentina sẽ có thể tăng tốc phát triển những tài nguyên năng lượng quốc gia, và còn có thể cộng tác với những đối tác năng nổ hơn như BP hay ExxonMobil. (5) Argentina Tái Phát Động cuộc Khủng Hoảng Falklands: Tại Hội Nghị Thượng Đỉnh các quốc gia Tây Bán Cầu ở Cartagena, Colombia, trong hai ngày 15 và 16-4-2012, Argentina đã vận động thành công các quốc gia châu Mỹ lên án Anh Quốc về việc tiếp tục chiếm đóng các hải đảo Falklands, người Argentina thường gọi Las Malvinas. Argentina đã được mọi quốc gia hiện diện hậu thuẩn, dĩ nhiên trừ Canada và Hoa Kỳ. Argentina, luôn xem các hải đảo Falklands là một phần lãnh thổ thuộc chủ quyền tối thượng của mình, đã liên tục nêu vấn đề ngay cả khi thất bại trong cuộc chiến năm 1982, và gần đây đã đẩy mạnh cuộc vận động trên nhiều mặt trận — tố cáo Luân Đôn trong nhiều hội nghị quốc tế và ngăn cấm các tàu du lịch Anh quốc đến viếng Falklands cập bến tại các hải cảng Argentina. Để đáp lại, người Anh đã tăng cường lực lượng quân sự trong khu vực cũng như cảnh cáo Argentina về các động thái khiêu khích. Đã hẳn, trong cuộc chiến Falklands trong đầu thập kỷ 1980, quyền lợi trong khu vực của hai phía chưa mấy quan trọng, ngoài uy tín quốc gia và cấp lãnh đạo hai xứ — Thủ Tướng Margaret Thatcher và Hội Đồng quân Lực Argentina — và một số hải đảo thưa thớt dân cư trong khu vực. Nhưng ngày nay, tình hình đã đổi khác, với kết quả các cuộc nghiên cứu địa chấn cho thấy tiềm năng dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên lớn lao hiện diện trong khu vực. Một vài xí nghiệp năng lượng của Anh quốc, kể cả Desire Petroleum và Rockhopper Exploration, cũng đã bắt đầu các công tác khoan tìm và công bố nhiều khám phá đầy hứa hẹn. Nóng lòng khi chứng kiến Brazil đã thành công trong việc khai thác dầu và hơi đốt ngoài khơi, Argentina đã công bố các khám phá tiềm năng dầu và hơi đốt đều tọa lạc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình và, do đó, mọi công tác dò tìm của nước ngoài đều bất hợp pháp. Về phần mình, Anh Quốc cũng nhấn mạnh đây là khu vực thuộc chủ quyền của Anh Quốc. Không ai biết chắc cuộc khủng hoảng âm ỉ sẽ diễn tiến ra sao, nhưng khả năng chiến tranh 1982 tái diễn, lần nầy vì chính lý do năng lượng, cũng là một vấn đề rất có thể xẩy ra. (6) Hoa Kỳ Động Viên Quân Lực Chuẩn Bị Chiến Tranh Với Iran: Suốt từ mùa Đông 2011 đến nay, một hình thức xung đột quân sự giữa Iran và Do Thái/Hoa Kỳ ngày một gần như khó tránh. Không có dấu hiệu phe nào ít nhiều sẵn sàng nhượng bộ, nhất là đối với chương trình nguyên tử của Iran. Mọi khả năng thỏa hiệp đều được đánh giá thiếu thực tế. Tuy nhiên, hiện nay, nguy cơ chiến tranh phần nào đã giảm bớt, ít ra cho đến sau ngày bầu cử ở Hoa Kỳ. Cuối cùng, thương thuyết cũng đã bắt đầu giữa các đại cường và Iran, và hai phía đã tỏ rõ lập trường ít nhiều mang tính mềm dẽo. Ngoài ra, các viên chức Hoa Kỳ đã có phần dịu giọng và các nhân vật trong các cộng đồng quân sự và tình báo Do Thái đã lên tiếng chống lại các chuẩn bị quân sự liều lĩnh của chính quyền. Tuy nhiên, người Iran vẫn tiếp tục công tác làm giàu uranium, và lãnh đạo cả hai phía đều tuyên bố luôn sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu thương thảo hòa bình thất bại. Đối với người Iran, điều nầy có nghĩa đóng cữa Eo Biển Hormuz, chận đứng dòng chảy của 1/3 số năng lượng mậu dịch trên toàn thế giới mỗi ngày. Phía Hoa Kỳ cũng đã nhấn mạnh sẽ duy trì Eo Biển Hormuz rộng mở và nếu cần, sẽ loại bỏ mọi chương trình nguyên tử của Iran. Hoặc để đe dọa Iran, hoặc để chuẩn bị sẵn sàng hành động, hoặc rất có thể cả hai, người Mỹ đã và đang tăng cường sự hiện diện quân sự trong vùng Vịnh Ba Tư, triển khai hai tàu sân bay cùng toàn bộ khả năng tấn công bằng không quân và hải quân. Đã hẳn chúng ta có thể thảo luận về chừng mức và giới hạn của sự chi phối của dầu Kí trong thái độ thù nghịch lâu ngày giữa Hoa Thịnh Đốn và Iran. Nhưng vấn đề đã rất rõ ràng, cuộc khủng hoảng hiện nay đã ảnh hưởng nặng nề đến viễn ảnh số cung dầu khí toàn cầu, với Iran đe dọa đóng cữa Eo Biển Hormuz để trả đũa các biện pháp chế tài đối với khả năng xuất khẩu dầu. Sự khả dĩ tấn công các cơ sở nguyên tử của Iran bởi không lực Do Thái/Hoa Kỳ cũng sẽ đưa đến những hệ lụy tương tự. Dù theo cách nào đi nữa, quân lực Hoa Kỳ chắc chắn cũng có thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong hành động hũy diệt khả năng quân sự của Iran và vãn hồi khả năng vận chuyển dầu lửa qua Eo Biển Hormuz. Trong mọi trường hợp, khủng hoảng năng lượng, vì vậy, cũng luôn hiện diện. NĂNG LƯỢNG ĐANG CHI PHỐI THẾ GIỚI Tất cả các sự tranh giành trên đây đều có một mẫu số chung: giới lãnh đạo thượng lưu trên thế giới luôn vững tin quyền chấp hữu các tích sản năng lượng , nhất là dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên, là thiết yếu để bảo đảm tài sản quốc gia, quyền lực, và uy tín. Khỏi cần phải nói, đây không phải là một hiện tượng mới. Ngay từ đầu thế kỷ XX, có lẽ Winston Churchill là nhà lãnh đạo nổi tiếng đầu tiên đánh giá cao tầm quan trọng chiến lược của dầu lửa. Churchill đã ra lệnh cải biến các tàu chiến của Anh thay thế nhiên liệu than đá bằng dầu lửa và đã thuyết phục nội các quốc hữu hóa Công Ty Dầu Anh Quốc-Ba Tư, tiền thân của British Petroleum hay BP. Tranh giành quyền kiểm soát các nguồn cung năng lượng của các khu vực kỹ nghệ và chiến tranh đã giữ một vai trò quan trọng trong chính sách ngoai giao giữa hai cuộc Thế Chiến, cũng như trong việc hoạch định chiến lược của các cường quốc phe Trục trong Đệ Nhị Thế Chiến. Nhận thức nầy cũng giúp giải thích nổ lực dài hạn của Hoa Kỳ duy trì địa vị đại cường bá chủ trong Vùng Vịnh Ba Tư, đã đạt đỉnh điểm trong cuộc chiến Vùng Vịnh I trong các năm 1990-91 và cuộc xâm lăng Iraq trong năm 2003. Những năm tiếp theo sau Đệ Nhị Thế Chiến cũng đã chứng kiến nhiều đổi thay trong kỹ nghệ năng lượng, kể cả sự chuyển dịch trong nhiều địa hạt từ quyền tư hữu qua quyền sỡ hữu cuả nhà nước đối với các trữ lượng dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên. Nói chung, kỹ nghệ năng lượng đã có khả năng cung cấp những số lượng nhiên liệu ngày một gia tăng để thỏa mãn nhu cầu một nền kinh tế đang trên đường toàn cầu hóa , và một dân số thế giới ngày một lớn lao và thành thị hóa. Chừng nào số cung năng lượng còn dồi dào và giá cả còn tương đối dễ chấp nhận, giới tiêu thụ năng lượng trên thế giới, kể cả các chính quyền, phần lớn còn bằng lòng với hệ thống hiện hữu trên bình diện hợp tác giữa các định chế năng lượng công và tư. Nhưng hiện nay phương trình năng lượng đang đổi thay đáng ngại trong khi sự thách thức cung cấp năng lượng cho hành tinh ngày một trở nên khó khăn hơn. Nhiều khu vực dầu lửa và hơi đốt đã thỏa mãn nhu cầu của thế giới trong quá khứ nay đang cạn kiệt nhanh chóng. Những khu trữ lượng thay thế mới đi vào khai thác, nói chung, luôn nhỏ bé và khó khai thác hơn. Phần lớn các nguồn năng lượng nhiều hứa hẹn — như trữ lượng dầu lửa “pre-salt” dưới lòng Đại Tây Dương sâu thẳm của Brazil, tar sands của Canada, và shale gas của Hoa Kỳ — nay đòi hỏi phải sử dụng những kỷ thuật khai thác tinh vi và tốn kém. Mặc dù số cung năng lượng toàn cầu vẫn còn tiếp tục gia tăng, nhưng luôn với nhịp chậm hơn trong quá khứ và luôn không bắt kịp số cầu. Tất cả các yếu tố đó đã gây thêm áp lực làm tăng giá năng lượng, gây nhiều âu lo cho các xứ thiếu tài nguyên năng lượng quốc nội. Thế giới từ lâu đã chia làm hai phe, các xứ thặng dư tài nguyên năng lượng và các xứ khuy khiếm, dĩ nhiên với các quốc gia thặng dư hưởng nhiều lợi thế lớn lao về chính trị và kinh tế được thiên nhiên ưu đãi, đối nghịch với các xứ nghèo và thiếu năng lượng không ngừng đấu tranh để thoát khỏi vị thế yếu kém. Ngày nay, hai lối rẽ ngày một giống một hố sâu chia cách. Trong bối cảnh toàn cầu như thế, sự cọ xát , mâu thuẩn, và giành dựt trữ lượng dầu và hơi đốt – đang đưa đến những xung đột đủ loại – có khuynh hướng ngày một gia tăng. Nhìn lại sáu vụ xung đột vì năng lượng trên đây một lần nữa, người ta thấy rõ bằng chứng các động lực thúc đẩy trong mỗi trường hợp. Một đàng, South Sudan đang nóng lòng bán dầu để kiếm đủ lợi tức cần thiết cho nhu cầu kích hoạt kinh tế; đàng khác, North Sudan bức xúc trước sự mất mát số thu nhập từ khâu bán dầu trước đây do mình kiểm soát khi xứ sở đang còn thống nhất, và cũng rõ ràng đang quyết tâm giữ lại càng nhiều trong số thu nhập từ dầu lửa càng tốt cho xứ mình. Cả TQ lẫn Philippines đều muốn được độc quyền khai thác các trữ lượng dầu trong vùng Biển Nam Hải. Ngay cả khi trữ lượng chung quanh Svarborough Shoal không mấy quan trọng, TQ vẫn không muốn lùi bước trong bất cứ tranh chấp ở bất cứ địa điểm nào có thể làm suy yếu việc đòi hỏi chủ quyền trên toàn vùng. Ai Cập, mặc dù không phải là một quốc gia sản xuất năng lượng quan trọng, rõ ràng vẫn tìm cách sử dụng tài nguyên dầu và hơi đốt của mình để đạt lợi thế chính trị và kinh tế tối đa — một cách tiếp cận các xứ với tài nguyên năng lượng nhỏ bé và trung bình chắc chắn luôn muốn dõi theo. Do Thái, lệ thuộc rất nhiều vào năng lượng nhập khẩu, nay phải tìm kiếm nguồn nhập khẩu thiết yếu nơi khác hay tăng tốc khai thác các khu hơi đốt thiên nhiên mới khám phá ngoài khơi, một động thái có thể gây xung đột với Lebanon, nước từng tuyên bố số hơi đốt liên hệ tọa lạc trong phạm vi lãnh hải của chính mình. Và Argentina, đang ganh tị với ảnh hưởng ngày một gia tăng của Brazil, cũng đang quyết tâm khai thác tài nguyên năng lượng của mình, ngay cả khi điều nầy có nghĩa làm gia tăng tình trạng căng thẳng với Tây Ban Nha và Anh Quốc. Trên đây cũng chỉ là một số các quốc gia dính líu vào những xung đột đáng kể về năng lượng. Bất cứ một xung đột nào với Iran — bất cứ vì lý do gì — chắc chắn sẽ làm số cung dầu hỏa cho mọi quốc gia nhập khẩu năng lượng phải lâm nguy, khởi động một khủng hoảng toàn cầu nghiêm trọng với hệ lụy khó lường. Sự quyết tâm kiểm soát trữ lượng dầu và hơi đốt đã khiến TQ xung đột với nhiều quốc gia khác về chủ quyền và quyền kiểm soát số dự trữ năng lượng ngoài khơi biển Nam Hải , và những tranh chấp tương tự với Nhật trong vùng biển ĐôngTrung Quốc. Những tranh chấp năng lượng loại nầy cũng thường gặp trong vùng Biển Caspian và trong những vùng Arctic Bắc Cực, nơi băng đá ngày một tan dần. Mầm móng xung đột và chiến tranh trong nhiều nơi cùng lúc cho thấy chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó các tay chơi cấp nhà nước ngày một có khuynh hướng sử dụng bạo lực hay đe dọa dùng vũ lực, để giành quyền kiểm soát dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên. Nói một cách khác, chúng ta hiện đang ở trên một hành tinh đang hướng tới tình trạng “quá tải năng lượng” hay “energy overdrive.” Nguyên Trường Irvine, California, USA 18-5-2012 [1] …transit fees.. [2] …Kirchner’s move “broke the climate of cordiality and frienship that presided over relations between Spain and Argentina.”
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 29, 2013 3:15:50 GMT 9
Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ
Hùng Tâm/Người Việt
Vì sao biện pháp QE không gây lạm phát? Cũng chẳng kích thích kinh tế?
Trong năm năm qua, kinh tế Hoa Kỳ gặp rất nhiều trở ngại gọi là “ngược gió” theo thuật ngữ đầy ví von của kinh tế học. Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ phải đối phó bằng hàng loạt biện pháp tiền tệ, trong đó có một loại biện pháp bất thường đã gây thắc mắc và tranh luận, gọi là “quantitative easing.” Hồ Sơ Người Việt cố gắng tìm hiểu về biện pháp rất chuyên môn này và trình bày thật đơn giản để mọi người có thể phần nào hiểu ra nội dung.
Những biện pháp ứng phó
Khi kinh tế bị suy trầm và thất nghiệp tăng, hai cơ chế Hoa Kỳ có thể tung ra những biện pháp kích thích kinh tế. Ðó là chính quyền Liên Bang và Hệ Thống Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang, gọi là Federal Board of Reserve hay thường được viết tắt là Fed (khác với Feds là chữ viết tắt về cơ quan FBI). Chúng ta lần lượt nói về đại cương của hai cách ứng phó này.
Chính quyền Hoa Kỳ có thể gia tăng công chi, bơm thêm tiền và tạo ra nhu cầu để từ đó thúc đẩy sản xuất. Biện pháp thuộc lãnh vực ngân sách này chưa đủ công hiệu mà còn gây thêm bội chi ngân sách (chi nhiều hơn thu) khiến chính quyền Liên Bang phải vay thêm tiền. Vay tiền là phát hành trái phiếu (giấy nợ, của công quyền thì gọi là công khố phiếu). Vì thế khối công trái (nợ của khu vực công) đã lên tới mức kỷ lục, tính đến ngày 23 vừa qua là 16 ngàn 787 tỷ Mỹ kim, so với Tổng Sản Lượng Nội Ðịa (GDP) của nước Mỹ tính đến cuối năm 2012 là khoảng 15 ngàn 700 tỷ.
Cùng biện pháp ngân sách của chính quyền (thường được gọi là fiscal), Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ cũng có khả năng ứng phó riêng.
Là một định chế độc lập, Hội Ðồng Dự Trữ Liên Bang giữ vai trò của một Ngân Hàng Trung Ương (hay ngân hàng quốc gia). Vì mỗi nơi phiên dịch tên gọi một cách (như Hội Ðồng, Cục, Quỹ hay Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang), chúng ta có thể dùng cái tên dễ hiểu xuất phát từ chức năng mà gọi là “Ngân Hàng Trung Ương” hay Fed. Biện pháp của Fed thuộc lãnh vực tiền tệ (khác với biện pháp ngân sách của chính quyền Liên Bang) và là thẩm quyền của một định chế độc lập, không bị chính quyền chi phối (vì những mục tiêu chính trị).
Biện pháp thông thường nhất là hạ lãi suất ngắn hạn.
Lãi suất dài hạn không thuộc thẩm quyền tác động của Fed mà là kết quả của quy luật cung cầu, cho vay và đi vay dài hạn bằng cách mua hay bán trái phiếu để kiếm lời. Một chi tiết nhỏ: người ta không gọi tỷ lệ tiền lời trả cho tờ giấy nợ (trái phiếu) là “lãi suất” (interest rate) mà gọi là “phân lời” (yield).
Hoa Kỳ có hai loại lãi suất ngắn hạn. Phổ thông nhất là loại lãi suất căn bản mà các ngân hàng thiếu thanh khoản (tiền mặt, hiện kim) phải tạm vay nhau, đó là “Fed Funds Rate,” thuộc thẩm quyền tác động của ngân hàng Fed.
Ðấy là lãi suất nền tảng vì chi phối mức lãi suất mà các ngân hàng hay tổ chức tín dụng tính cho các loại khách hàng khác nhau tùy theo mức đáng tin cậy của khách hàng và rủi ro của việc cho vay. Lãi suất ngắn hạn thứ hai là “Lãi suất thế chấp” hay Discount Rate mà các ngân hàng phải trả cho Fed nếu cần vay tiền ngắn hạn.
Khi nâng hai loại lãi suất này, Fed làm cho tiền đi vay trở thành đắt hơn và qua đó mà tiết giảm khối lượng tín dụng trong nền kinh tế, thường là để kềm hãm lạm phát. Ngược lại, khi hạ lãi suất, Fed gia tăng khả năng vay mượn trong nền kinh tế để kích thích việc sản xuất và tiêu thụ.
Trong trận khủng hoảng rồi suy trầm kinh tế vừa qua, Fed đã hạ lãi suất tới sàn, mấp mé 0% so với lạm phát, và còn thông báo là có thể giữ mức này cho đến năm 2015, mà chưa thấy công hiệu. Vì vậy mới có biện pháp gọi tắt là QE.
“Quantitative Easing”
Khi hạ lãi suất, ngân hàng Fed muốn làm đồng tiền trở thành rẻ hơn để kích thích sản xuất và tiêu thụ, tức là làm “tài hóa dễ lưu thông,” tiền tài và hàng hóa đều lưu hoạt hơn.
Nhưng khối tiền tệ lưu hành không tất nhiên tăng giảm theo cùng một nhịp độ với lãi suất, thành một số tiền có thể đếm được. Vì vậy, biện pháp lãi suất có tính cách định phẩm hơn định lượng, qualitative hơn là quantitative. Nhân đây, xin nói thêm là báo chí Việt Nam trong nước cứ viết hay dịch sai chữ “quality” hay “qualitative” thành “chất lượng”: “phẩm chất” là từ chính xác hơn vì nhấn mạnh đến sự khác biệt với “số lượng”!
Vì vậy, Fed mới phải áp dụng thêm một loại biện pháp bất thường theo kiểu Nhật Bản là nới lỏng mức lưu hoạt tiền tệ qua một số lượng tiền tệ nhất định, gọi là “quantitative easing.” Mỗi nơi mỗi nước lại có một lối dịch riêng, nhưng phổ biến nhất vẫn là cách giữ nguyên văn, hoặc viết tắt là QE. “Hồ Sơ Người Việt” tạm dùng cách gọi đó vì mục tiêu là để trình bày biện pháp quá chuyên môn phức tạp này.
Từ năm 2008, ngân hàng Fed có ba đợt gia tăng mức lưu hoạt tiền tệ như vậy (Tháng Chín năm 2008, Tháng Mười Một năm 2010 và Tháng Mười Một năm 2012). Ðấy là biện pháp “định lượng” (quantitative) vì mỗi lần cơ chế này lại định sẵn số tiền được mình bơm thêm vào kinh tế.
Khi báo chí nói đến chuyện “bơm” thêm tiền, mọi người đều có thể hiểu không sai lắm rằng Fed in bạc và bơm tiền để cứu nguy kinh tế. Không sai lắm mà thật ra chưa đúng hẳn vì đấy không là quyết định cho Nha Phát Hành bấm nút in ra vài trăm hay vài ngàn tỷ đô la. Hình ảnh in bạc trên truyền hình có thể gây ra hoặc củng cố ấn tượng sai lạc này.
Sự thật nó lại rắc rối hơn vậy vì nếu cứ cho rằng nha phát hành có in thêm tiền thì làm sao đưa cả tấn giấy bạc đó vào kinh tế, qua tay những ai và đến những ai?
Chúng ta phải vòng qua hai ngả khác thì mới hiểu được những khúc mắc bên trong.
Thứ nhất, khi “bơm” thêm tiền vào kinh tế (xin tạm hiểu như vậy), cơ quan Fed chỉ nhắm vào việc gia tăng khối tiền tệ lưu hành trong công chúng. Khối tiền tệ lưu hành này thường được gọi tắt là M2, gồm có bạc mặt, tiền ký thác vào ngân hàng, khối dự trữ của cả hệ thống ngân hàng được giữ bên trong hoặc ký thác vào trương mục của Ngân Hàng Trung Ương, v.v... Ðể khỏi làm độc giả thêm nhức đầu, xin tạm nói rằng khối tiền tệ M2 này co hay giãn thì chi phối mức lưu hành của đồng bạc trong kinh tế nên tác động vào sinh hoạt kinh tế. Vì vậy, biện pháp QE có ảnh hưởng đến khối M2 này.
Thứ hai, làm sao Fed tác động vào khối M2 đó?
Ta có thể mường tượng rằng định chế này giữ vai trò thủ quỹ của hệ thống ngân hàng gồm các ngân hàng thương mại lẫn các tổ chức tài trợ tín dụng vì tập trung sổ sách của cả hệ thống trong bảng cân đối kế toán hay kết toán tài sản của mình. Xin cáo lỗi độc giả về chi tiết nhức đầu nhưng cần thiết này để nói tới “bảng kết toán tài sản” của ngân hàng Fed. Họ có trong tay tổng số tích sản (nguồn gốc của tài sản) và tiêu sản (cách sử dụng tài sản này) của cả hệ thống, vì vậy ta mới tạm liên tưởng đến vai trò của thủ quỹ hay nhà cái.
Khi tung ra biện pháp QE, Fed “mua vào” một lượng trái phiếu nhất định từ cả hệ thống ngân hàng và bán ra (thanh toán) bằng cách ghi vào bảng kết toán một số tiền nhất định cho từng ngân hàng. Với số tiền được ghi thêm như dự trữ trong kết toán tài sản, các ngân hàng có quyền cho thân chủ vay thêm và nhờ đó mà nâng mức lưu hoạt tiền tệ và kích thích kinh tế.
Cho nên, thay vì in bạc bơm tiền như công chúng có thể hiểu, Fed áp dụng một biện pháp phức tạp hơn, nhưng cũng biết chắc là mỗi lần “bơm” thêm bao nhiêu tiền vào nền kinh tế qua hệ thống ngân hàng. Quyết định QE3 xác định là mỗi tháng sẽ bơm thêm 85 tỷ đô la cho đến khi đạt mức công hiệu là làm tỷ lệ thất nghiệp giảm tới số 6%. Tức là không hẹn trước ngày chấm dứt. Vì thế biện pháp QE mới bị chế diễu là QEternity. Miên viễn! Nhưng, sau khi được bơm thêm tiền qua một nghiệp vụ bút ghi kế toán, các ngân hàng cho cho thân chủ vay hay không và các thân chủ có vay hay không là chuyện khác. Thực tế là không. Chúng ta bước qua phần tìm hiểu về sự công hiệu.
Hiệu quả của QE
Sau ba đợt QE, Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ bị đả kích là in bạc bơm ra mấy ngàn tỷ đô la để kích thích kinh tế, với rủi ro là gây ra lạm phát, vậy mà vẫn chẳng kích thích được gì. Tại sao lại như vậy?
Năm 2008, khi suy trầm kinh tế rồi khủng hoảng tài chánh bùng nổ, khối tiền tệ căn bản của Hoa Kỳ gồm có mọi loại tiền giấy và xu, hào, cắc, được ước lượng vào khoảng 840 tỷ. Xin tạm hiểu rằng đấy là cái nền M0 để trên đó người ta vay thêm, ký thêm chi phiếu, v.v... và nâng khối tiền tệ M2 là con số then chốt, thước đo của sự co giãn kinh tế.
Ba đợt QE đã nâng khối tiền tệ căn bản từ 840 tỷ lên tới hai ngàn 930 tỷ tính đến Tháng Ba vừa qua. Nghĩa là khối M0 đã tăng đến 249%. Cùng giai đoạn ấy, khối tiền tệ M2 đã từ khoảng bảy ngàn 400 tỷ lên tới 10 ngàn 400 tỷ đô la, tăng chừng 40%. Ðây là chuyện lạ vì cái đòn bảy QE mà Fed áp dụng không tạo ra sức bật tương xứng: tăng mức M0 lên 249% mà M2 chỉ tăng có 40%.
Tiền tệ không lưu thông nhiều hơn nên lạm phát không tăng, như nhiều người đã lo sợ.
Nhưng cũng vì tiền tệ chẳng lưu thông nhiều hơn, sinh hoạt kinh tế vẫn èo uột. Tại sao như vậy, ta lại phải vòng qua hai chuyện khác, là “phát hành đồng bạc” và vận tốc luân lưu của đồng tiền.
Ngân Hàng Trung Ương không trực tiếp in tiền và phát hành đồng bạc như ta có thể hiểu một cách thông thường.
Chính là hệ thống ngân hàng mới phát hành thêm tiền khi cho vay ra ngoài. Mức cho vay cao hay thấp là tùy khối dự trữ của từng ngân hàng, vào lãi suất và nhất là tùy theo số thân chủ muốn đi vay. Trong năm năm qua, các ngân hàng không phát hành tiền tệ nhiều như mọi người trông đợi hay lo sợ.
Phát hành nhiều hay ít thì mình có thể đo lường ở vận tốc luân lưu của đồng tiền, gọi là velocity, viết tắng bằng ký hiệu V.
Kinh tế càng sung mãn thì đồng bạc quay càng nhanh và người ta có thể đo lường sự sung mãn ấy bằng Tổng Sản Lượng Nội Ðịa GDP hay bằng mức luân lưu (V) của khối tiền tệ M. Ðấy là cơ sở của phương trình GDP = MV. Muốn nâng đà tăng trưởng của kinh tế, người ta có thể bơm thêm tiền (M) hoặc gia tăng sức “quay” của đồng bạc (V).
Thí dụ là... tiệm phở: thêm bàn cho khách ngồi M và mỗi bàn hàng ngày có thêm nhiều đợt khách V. Mỗi đợt luân lưu là lại tạo thêm lợi tức. Dù cò bày thêm bàn nếu khách ngồi ỳ hàng giờ với một tô phở là coi như nhà hàng bị lỗ! Ðó là hoàn cảnh hiện nay của nhà hàng Hoa Kỳ.
Nói cách khác, Fed có bơm thêm tiền mà đồng tiền không quay, bộ máy kinh tế cứ ì ra đấy. Nguy hơn thế là sự đình đọng của mức luân lưu V. Tốc độ luân lưu của đồng bạc tại Hoa Kỳ vào cuối năm 2007 - trước khi bị gió chướng - được ước tính vào khoảng chín lần, mỗi lẫn lại sinh thêm lợi tức cho kinh tế. Ðến năm 2009, tốc độ V sụt dưới số năm và hiện nay đang ở con số 3,6, thấp chưa từng thấy kể từ 60 năm qua.
Chuyện đáng nói ở đây là Fed chỉ có thể phần nào tác động vào khối tiền tệ khi “bơm” thêm tiền và nâng số M0.
Nhưng khối tiền tệ lưu hành tăng nhiều hay ít là... quyền dân, là do thị trường quyết định, ở số M2. Và đồng tiềm quay nhanh hay chậm cùng là nằm bên ngoài ảnh hưởng của Ngân Hàng Trung Ương.
Sau cùng, khi khối dự trữ được nâng cao, tức là có quyền cho vay nhiều hơn, mà lại ít người xin vay, hệ thống ngân hàng không thể ngồi yên trên đống bạc vô dụng. Họ trích ra chừng 18% để đầu tư vào thị trường chứng khoán làm cổ phiếu tại Hoa Kỳ tăng vọt. Và Fed bị trách cứ là bơm tiền cho tài phiệt Wall Street chơi stock.
Kết luận ở đây là gì?
Ngân Hàng Trung Ương Mỹ bị oan về nhiều chuyện.
Kinh tế Mỹ chưa thể khá vì nhiều lý do, quan trọng nhất là tâm lý của người dân, của thị trường. Lạm phát chưa là mối nguy nhưng có khi giảm phát mới là vấn đề khi kinh tế vẫn còn bải hoải. Nếu nạn giảm phát (deflation) xảy ra, chúng ta còn chứng kiến nhiều sự lạ khác.
Nhưng hồ sơ quá rắc rối thế này là tạm đủ. Xin hẹn một kỳ sau!
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 31, 2013 5:38:09 GMT 9
Vấn đề giai cấp và chủ nghĩa xã hộiTrừ những người mang tính chất cơ hội, thời cơ hay chỉ vì quyền lợi riêng tư, những người gọi là cộng sản có lý tưởng và mục đích thật sự từ xưa đến nay không ngoài việc kiên định và đeo đuổi luôn luôn ý nghĩa về giai cấp và về chủ nghĩa xã hội. Nên đó đã trở thành vấn đề mấu chốt mà ngày nay cần phải thảo luận nghiêm túc, đầy đủ, sâu sắc, để nhằm làm sáng tỏ hết mọi mặt khách quan và thực tế của nó, hầu đi đến những kết thúc giải quyết tốt đẹp, về mặt nhận thức, lý luận, cũng như về mặt thực tiễn đời sống và xã hội nói chung trong hiện thực. Hai ý niệm này thật ra đã được Mác đưa ra từ cuối thế kỷ 19 ở phương Tây mà ngày nay mọi người đều biết. Giai cấp chủ yếu ở đây là giai cấp công nhân, chủ nghĩa xã hội ở đây là thời kỳ đầu để bước lên cộng sản chủ nghĩa như là giai đoạn tột cùng trên toàn thế giới. Nguyên nhân và kết thúc đó theo Mác chỉ do bản chất đấu tranh giai cấp trong lịch sử của xã hội và cuối cùng bằng sự kết thúc của đấu tranh giai cấp trong xã hội không còn giai cấp. Mác tin vào tính tất yếu phải diễn ra của lịch sử xã hội loài người như một điều tiên định (determinism) bởi vì ông dựa trên niềm tin đối với biện chứng luận (dialectics) của Hegel coi như một chân lý khách quan tuyệt đối, và ông cho đó là cơ sở khoa học đúng đắn, xác thực trong nội dung đấu tranh giai cấp của lịch sử xã hội. Chỉ có điều quan điểm biện chứng luận của Hegel có nền tảng duy tâm, trong khi Mác chuyển nó sang nền tảng thuần túy duy vật, đó chính là lỗ hổng đầu tiên trong hệ thống lý luận của Mác. Thật ra chúng ta có thể thấy được trong đời sống xã hội con người không thể không có hai giai cấp nông dân và công nhân. Đó là nền tảng khai thác tài nguyên nông nghiệp và tài nguyên công nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho toàn xã hội. Tất nhiên ngay cả hai giai cấp đó cũng không thể loại đi một, hay cũng không thể không có các giai cấp khác mà tự hai giai cấp này lại có thể tồn tại hay hoạt động hữu hiệu và kết quả được. Cơ chế xã hội nói chung lại là cơ chế phân công lao động toàn diện. Sự phân công này phụ thuộc vào vô số các nhân tố rất đặc thù, sinh động, kể cả ngẫu nhiên, không thể chỉ theo kiểu lô-gích hoàn toàn chủ quan, chủ động hoặc hoàn toàn máy móc được. Nói cách khác, mọi sự vật trên thế gian không có sự vật nào lại không có cấu trúc. Từ hạt nhân nguyên tử đến thiên hà vũ trụ, hay ngay cả trong óc não, và tư duy, ngôn ngữ của con người cũng vậy. Như vậy quan niệm một xã hội không còn giai cấp, tất cả đều hòa chung vào một thật sự là hoàn toàn ảo tưởng, phi lý, sai thực tế thậm chí hoàn toàn tệ hại. Cái ảo giác về đấu tranh giai cấp của Mác, ngoài sự mê tín vào biện chứng luận của Hegel, thì thật sự kết quả cuối cùng của nó là như vậy. Nói cụ thể ra, giai cấp công nhân sở dĩ tồn tại là vì có nhà máy, có phát triển công kỹ nghệ, có đầu tư của giới kinh doanh trong guồng máy kinh tế, và kể cả cuối cùng có thị trường tiêu thụ hàng hóa sản phẩm làm ra. Mác cho rằng tất cả điều đó là phi lý, cho nên ông quan niệm phải dẹp thị trường, dẹp hàng hóa, dẹp tiền tệ, dẹp tư hữu, để cuối cùng công nhân chỉ hợp tác với nhau hoàn toàn bình đẳng, tự nguyện, sản phẩm làm ra theo kế hoạch, và được phân phối cùng nhau theo kế hoạch. Xã hội chủ nghĩa là giai đoạn đầu khi sản phẩm chưa có nhiều, phải làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Sản phẩm giai đoạn sau đã quá dư thừa, phong phú, nên sẽ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Đó là giai đoạn cộng sản cao nhất và cuối cùng. Rõ ràng ngày nay nhìn lại điều ấy mọi người đều thấy phi lý, ảo tưởng. Bởi vì Mác vô tình quên đi quán tính tâm lý tự nhiên hay mang tính chai lỳ của con người, quyên đi tính ích kỷ như là bản năng bẩm sinh, quyên đi chất trí tuệ của khoa học kỹ thuật, quyên đi nguyên tắc phân công xã hội luôn đổi mới và luôn phức tạp, quên đi yếu tố tài nguyên thiên nhiên trong kinh tế, đánh giá sai lầm các quy luật và sản phẩm hay định chế lịch sử xã hội đã có mà trong tiến hóa nhiều ngàn năm thế giới loài người mới có được. Đấy ý nghĩa giai cấp và ý nghĩa chủ nghĩa xã hội mà có thể rất nhiều người cộng sản thành tâm kiên định thực chất nó là như thế. Người ta chỉ nhìn vào hiện tượng bên ngoài mà không nhìn vào bản chất chiều sâu của nhiều vấn đề con người và xã hội. Chẳng hạn tiền tệ, hàng hóa, thị trường đều là những tiện ích hết sức cơ bản, hiệu lực và tối cần thiết mà chính lịch sử loài người từng phát kiến ra được. Nó giải phóng cho con người và cho xã hội về rất nhiều mặt. Ngay cả tư hữu cũng chỉ là một định chế tiện ích khách quan, như một quy tắc tự nhiên của mọi loài sinh vật không thể nào phủ nhận. Vậy mà Mác đòi dẹp bỏ đi toàn thể những cái đó, thật sự là nông cạn, nông nổi cũng như phi lý. Lấy cái đấu tranh phi thực để thay thế cho các sự kiện xảy ra thực tế, đó chính là một lầm lỗi hết sức lớn lao và đáng trách của Mác. Đúng ra Mác không phải là một nhà kinh tế học đúng nghĩa, không phải là một nhà xã hội học sâu sắc, cũng không phải là một nhà khoa học toàn diện. Ông ta chỉ là một nhà ý thức hệ theo kiểu viễn mơ, tùy tiện và ngẫu hứng, nên ông không rõ về các quy định khách quan của kinh tế, như quy luật thị trường, quy luật sản xuất, quy luật tái phân phối lợi nhuận, quy luật phân công khách quan của xã hội v.v… và v.v… Nên cái được ông tự nhận là khoa học chỉ là niềm tin vô điều kiện vào biện chứng luận của Hegel, hay vận dụng các thành quả khoa học đương thời nhưng hoàn toàn phiến diện, chưa bao quát, chưa sâu xa hoặc đầy đủ. Nhưng chính cái ông tự nhận là khoa học về học thuyết của mình lại đã hấp dẫn ghê gớm mọi người, tạo nên niềm tin đó như một chân lý khách quan tất yếu, một đỉnh cao của trí tuệ toàn thể loài người. Nhưng sự sùng bái quá đáng về Mác, sự khuôn đúc mọi điều Mác nói, như thế trong thực tế đã đi ngược lại nơi mọi kết quả của cuộc sống. Chứng tỏ rõ ràng Lênin đã bao lần cứu vãn bằng biện pháp tân kinh tế, nhưng cuối cùng Liên Xô cũng phải tan rã và sụp đổ. Ngày nay thực tế trên thế giới chỉ còn lại duy bốn quốc gia cộng sản, còn duy trì quan niệm và tư tưởng của Mác, nhưng chỉ trên ngôn ngữ hay trong tư tưởng, còn thực sự đều đã chuyển về kinh tế thị trường khách quan và hội nhập toàn cầu theo điều kiện thực tế nhất định. Như vậy thực tế học thuyết Mác đã huyễn hoặc về giai cấp lẫn huyễn hoặc về cả khái niệm chủ nghĩa xã hội. Giai cấp chỉ là sự phạm trù hóa theo nhận thức, sự đồng nhất hóa tự nhiên về một tập hợp người đang đảm nhận một mặt sản xuất kinh tế nhất định trong xã hội nào mà không phải cái gì thần bí hay tiên quyết cả. Giai cấp hình thành nên do từ hoàn cảnh mỗi lúc của mọi cá nhân, chẳng có gì cứng nhắc, máy móc hay hoàn toàn bó buộc cả. Ý nghĩa khái niệm xã hội cũng vậy, chỉ là phúc lợi chung mọi mặt cho toàn thể mọi người, không ai được đi ngược lại, nhưng không phải những công thức tổ chức hình thức hay máy móc giả tạo nào đó về xã hội mới được cho là chủ nghĩa xã hội. Đó chỉ là cái vỏ mà không phải cái ruột. Chỉ theo vỏ mà bỏ ruột đó chính là điều hết sức nghịch lý và vô cùng phi lý mà chính học thuyết Mác ngay từ đầu đã từng mang lại. Nên nói tóm lại, ý nghĩa của xã hội không ngoài ý nghĩa của tổ chức nhà nước và ý nghĩa sinh hoạt thực tế đời sống của tất cả mọi người. Chủ nghĩa xã hội vốn đã có ngay từ quá khứ lịch sử, được củng cố ngay trong hiện tại và nâng cao lên hơn trong tương lai mà không phải chỉ có tương lai mới có. Đây chính là điều mà nhiều nước Bắc Âu hay nhiều nước tiên tiến ngày nay đã và đang dần dần tiếp tục thực hiện. Có nghĩa chủ nghĩa xã hội là phải nhằm hướng đến cá nhân hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc, xã hội hạnh phúc một cách tự nhiên, khách quan tùy theo điều kiện cho phép trong thực tế mà không là gì khác. Đó mới chính là cái ruột, cái giá trị thật, xác đáng, mà không phải cái vỏ, cái khẩu hiệu giả tạo hay kêu vang bên ngoài nào cả. Kết cục như thế nó chỉ mãi mãi là bảo thủ, giả dối, làm cho con người và xã hội đều trở thành vong thân, tức đánh mất bản thân toàn diện do phải sống mãi trong nỗi sợ hãi, bởi vì nền chuyên chính toàn trị, khiến cho không an toàn, không hạnh phúc, mà chính Mác ngay từ lúc đầu đã từng quan tâm và phát biểu một cách quả rất chí tình. Như thế ý nghĩa, vai trò và giá trị của nhà nước chính là một guồng máy chuyên nghiệp, có năng lực điều hòa phúc lợi chung cho xã hội một cách hiệu quả, tích cực nhất, tức điều hòa quyền lợi các giai cấp sao cho khoa học, hữu lý, hiệu lực, kết quả nhất mà không là gì khác. Một nhà nước chỉ kêu réo, huênh hoang về giai cấp mà thật sự đi ngược lại chính quyền lợi của các đối tượng đó mới thật sự là giả dối và đáng trách nhất. Nên nói chung lại, bài toán ngày nay của toàn xã hội chính là bài toán về dân chủ tự do đúng nghĩa, bài toán về khoa học kỹ thuật trên mọi khía cạnh, khu vực, một cách hoàn toàn hữu hiệu, thực tế, mà không thể chỉ là kiểu ý thức hệ viễn mơ thậm chí điên loạn như Mác trước đây non hai thế kỷ đã từng thêu dệt một cách phi thực tế, có phần nào tệ hại và thậm chí chỉ là vô ích. Nói lại ý niệm “đấu tranh giai cấp” theo quan điểm Mác xít của người cộng sảnNói tới thực tế cộng sản, hầu như ai cũng nghĩ tới ý niệm “đấu tranh giai cấp” mà người cs bao giờ cũng chủ trương. Điều này đã trở thành một kinh nghiệm xương máu, nghiệt ngã, khắc nghiệt ngay từ đầu mà mọi người đều rõ. Khẩu hiệu trí phú địa hào đào tận gốc bốc tận rễ đã xuất hiện sớm nhất kể từ thời Xô viết Nghệ tĩnh trước kia chẳng ai lại không biết. Rồi thời kỳ cải cách ruộng đất ở miền Bắc, miền Trung năm 1953, 1954, hay thời kỳ cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam ngay các năm sau 1975 đều không đi ra ngoài ý nghĩa và mục tiêu như thế. Nhưng điều đáng nói ở đây chính ở chỗ đó không phải chỉ là một chính sách cải cách xã hội nói chung, nhưng lại diễn ra trên các bình diện cá nhân một cách đặc thù, cụ thể và cay nghiệt nhất. Nó đã trở thành những chuyện trả thù lẫn nhau hết sức oan tức, chua xót giữa những cá nhân con người, những gia đình con người với nhau. Các cảnh đấu tố dã man, phi lý, tàn bạo nhất đã từng xảy ra trong các thời kỳ cải cách ruộng đất trước đây, coi mạng người và mọi quyền lợi chính đáng của con người đều như không, chỉ thấy có sự trả thù một cách sắt máu, phi nhân trong đấu tranh giai cấp là chính yếu nhất. Ngay cả tầng lớp trí thức cũng bị nghi ngờ hay đố kỵ ngay từ đầu. Có lẽ cho rằng trí thức cũng có nguồn gốc từ các giai tầng bóc lột trước đó, nên trí phú địa hào đều được quy vào một giỏ, đó là giỏ phản động, giỏ bóc lột đối với tầng lớp vô sản cũng như bần cố nông. Quan niệm và cách làm đó chắc chắn đã rập khuôn theo cách suy nghĩ và cách thực hành của Trung Quốc. Bởi trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở miền Bắc, cố vấn Trung Quốc không phải đã không có mặt, và các bài bản đã được mang vào theo cách rập khuôn như thế. Nói cụ thể, đây là chính sách và bài bản cụ thể do bản thân Mao Trạch Đông xướng ra mà không ai khác. Tất nhiên điều thực hành đấu tranh giai cấp trong thực tế vốn đã có từ trước ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước kia, nhưng mức độ của nó dù khắc nghiệt bao nhiêu cũng chưa đến nỗi nghiệt ngã như từng xảy ra ở Trung Quốc và Việt Nam. Sự tàn ác phi nhân trong cách đối xử đối với các nạn nhân thì có đủ mọi mặt, nhưng chính các con số cụ thể về những người bị giết chết, đày đọa khi ấy ở miền Bắc lên đến trên 200 ngàn người, còn ở Trung Quốc lên đến mười triệu người. Thật là những con số hết sức lớn lao và phi lý so với hoàn cảnh và điều kiện của xã hội chung khi đó. Và đây cũng thật là một nốt đen, một vết nhơ không bao giờ rửa sạch được của lý thuyết mác xít cũng như trong phong trào cộng sản quốc tế. Bởi nguyên do và nguồn gốc của đấu tranh giai cấp kiểu này trong thực tế là gì, đó là thực hiện theo lý luận của Mác và theo chủ trương của Lênin đề xướng. Tuy vậy, thực tình Mác chỉ đề ra quan điểm hay lý luận tổng quát mà chẳng hề bao giờ nhấn mạnh hay chỉ ra những việc làm cụ thể cả. Đúng ra, ý nghĩa của Mác thực chất chỉ cơ bản dựa vào lý thuyết “biện chứng luận” của Hegel, để cho rằng xã hội con người lúc nào cũng chỉ phát triển theo hai mặt đối lập. Đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Giai cấp thống trị là những người hữu sản, những người nắm quyền cai trị, và giai cấp bị trị là những người vô sản, những người bị thống trị. Đối với Mác sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đó là ý nghĩa của đấu tranh giai cấp kể từ khi lịch sử loài người xuất hiện. Trong Tuyên ngôn cộng sản đảng Mác minh định rõ rệt xã hội của loài người từ trước đến nay chỉ là xã hội đấu tranh giai cấp. Tức hai giai cấp thống trị và bị trị, giàu và nghèo cứ thay phiên nhau tiếp nối trong lịch sử nhân loại không bao giờ dứt. Theo Mác nguồn gốc chính yếu của hiện tượng đó, ngoài nguyên lý duy vật lịch sử, là yếu tố cốt lõi, tiềm ẩn, sâu xa, vô hình nhất, thì cái cụ thể, rõ ràng và thực tế nhất đó chính là quyền tư hữu. Đấu tranh giai cấp thực chất là giành giật nhau về quyền tư hữu chung trong xã hội. Giai cấp nào thắng thì trở thành giai cấp thống trị, giai cấp nào thua thì trở thành bị trị và cứ thay đổi liên miên như vậy. Ngay cả các hình thái xã hội diễn ra trong lịch sử, như xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa đều không đi ra ngoài ý nghĩa, tính chất hay nguyên tắc và quy luật đấu tranh giai cấp đó. Do đó Mác chủ trương muốn xóa bỏ đấu tranh giai cấp thì phải xóa bỏ giai cấp, mà nguồn gốc của giai cấp là quyền tư hữu, nên muốn xóa đi phân biệt giai cấp, đối kháng giai cấp thì phải xóa đi quyền tư hữu. Đó là ý nghĩa của cách mạng vô sản theo Mác để tiến tới xã hội cộng sản hay đại đồng trong tương lai không còn giai cấp. Khi đó cũng không còn đối lập giai cấp nữa, vì nguồn gốc của nó đã bị tiêu diệt. Đó là tính cách của điểm dừng trong quy luật biện chứng mà Mác đã không để ý đến hay đã phớt lờ đi tính nghịch lý ở đó. Bởi nếu đấu tranh chung giữa hai mặt đối lập trong vũ trụ thực tại thì có bao giờ ngừng lại được. Vì lịch sử xã hội loài người chẳng qua cũng chỉ là thành phần của tồn tại vũ trụ. Đó là chưa nói quan niệm thế giới vật chất tự nó biện chứng cũng là điều hoàn toàn phi lô-gích, vì nó chỉ như một giả định, một thứ tiên đề được đặt ra mà không thể chứng minh gì cả. Nhưng như nhiều lần chúng ta đã nói, sự phát triển của xã hội loài người chủ yếu dựa trên sự phát triển kinh tế xã hội, mà mấu chốt của phát triển kinh tế xã hội căn cơ cũng chỉ là phát triển khoa học kỹ thuật. Chính phát triển khoa học làm phát triển đời sống nói chung về mọi mặt, không phải chỉ giành giật nhau quyền lợi, tức đấu tranh giai cấp mà làm cho lịch sử xã hội phát triển. Bởi nếu hai người cốt đánh nhau chỉ để giành giật một cái gì đó, thì hẳn nhiên chỉ có thể dừng lại hay dậm chân tại chỗ mà không thể bao giờ tiến lên được. Đó là tính cách lý luận hết sức phi thực tế, phi khách quan và phi khoa học của Mác. Đó là chưa nói yếu tố quyết định trong đời sống kinh tế sản xuất nơi xã hội con người chính là yếu tố tâm lý, yếu tố tài nguyên và yếu tố phát triển kỹ thuật vẫn luôn là điều chính yếu nhất. Ngay như sự phân công lao động hay sự phân phối sản phẩm cũng phụ thuộc vào đó. Bởi vậy cái gọi là xã hội làm việc theo lao động hưởng theo nhu cầu trong xã hội cộng sản tương lai là không có cơ sở thực tế hay chỉ đầy tính cách huyễn tưởng. Bởi bản năng ích kỷ của con người luôn luôn có, nhu cầu của con người thì luôn vô hạn, khoa học kỹ thuật cũng luôn tiến lên vô hạn. Với tất cả ba biến số đó thì không một phương trình nào lại có thể trở nên hằng số vĩnh cửu được cả. Đó là sự phi lý về mặt toán học khách quan mà Mác hoàn toàn không hề nghĩ tới. Hơn thế nữa, Mác chỉ nhìn đấu tranh giai cấp theo kiểu tư biện triết học, theo kiểu lô-gích hình thức thuần túy, nó không phản ảnh thực chất khách quan trong xã hội cũng như trong kinh tế học. Quan niệm một xã hội xóa được giai cấp cũng chẳng khác gì quan niệm một sự vật không có cấu trúc cụ thể. Nếu như thế thì sẽ không còn sự vật thực tế nữa mà chỉ có thể trở thành một ý niệm thuần túy trừu tượng hay tưởng tượng. Ngay cả phương diện khoa học kinh tế cụ thể, Mác cũng chẳng phải là nhà kinh tế học đúng nghĩa để thấy đâu là các quy luật kinh tế xã hội cụ thể như yếu tố vi mô, yếu tố vĩ mô, đầu vào chung, đầu ra chung, sự tái phân phối lợi tức cho các giai tầng xã hội, yếu tố tiền tệ, thị trường, như những chế định căn bản, mang tính lịch sử, tiện lợi, và hiệu quả mà chính loài người đã phát kiến ra được. Nhưng dù sao, Mác cũng chỉ mới đề ra ý nghĩa chung của đấu tranh giai cấp theo kiểu tổng quát nhất, tuy dầu nó có nhiều ảo tưởng, nhưng cũng không hề đưa ra những bài bản thực hành cụ thể. Mục đích của Mác là muốn tiến tới thực hiện một xã hội nhân văn đầy tính không tưởng, phi thực tế. Thế nhưng, trong thực tế, quan niệm đấu tranh giai cấp luôn luôn lại đã bị biến thành những tính cách trả thù giai cấp theo kiểu đố kỵ, bản năng và tính ác trong xã hội con người, trong từng hành vi hay bản chất con người khi thực hành điều đó. Cho nên từ một quan điểm phi thực tế, đầy chất trừu tượng, quan niệm đấu tranh giai cấp của Mác khi đi vào áp dụng lại được nhìn theo tính chất phiến diện, cụ bộ hóa, phi lý hóa và dã man hóa chỉ vì những quyền lợi tư riêng và vì sự nhỏ nhen, ích kỷ, tính ác cũng như tiêu cực, đầy phản động trong xã hội thực tế. Có nghĩa khái niệm cách mạng phần lớn thực chất chỉ còn là sự nhân danh của lòng ích kỷ cá nhân, tính tiêu cực cá nhân mà không là gì khác. Bởi vì nếu cần đến sự công bằng nào đó của xã hội, con người chỉ cần áp dụng những kỹ thuật khoa học và pháp lý khác nhau phù hợp như thế nào đó một cách thực tế, cụ thể, hiệu quả và kết quả, mà không cần gì đến ý nghĩa đấu tranh giai cấp một cách trừu tượng, vô bổ như thế. Chẳng hạn sự định ra nguyên tắc phúc lợi xã hội, sự khống chế mức trần của sở hữu tài nguyên, ruộng đất, dùng thuế khóa để bổ sung, điều chỉnh thêm cho nguyên tắc tái phân phối lợi tức trong toàn xã hội, dùng biện pháp giáo dục, văn hóa để hạn chế cái ác, cái dở của con người v.v… và v.v… như rất nhiều nước khác nhau từ xưa đến nay vẫn làm. Hơn thế nữa, giống như Mác nói, sự bóc lột là do điều kiện xã hội, không phải đặc quyền bẩm sinh hay bản chất bẩm sinh của bất kỳ cá nhân nào. Nói như thế là đúng, chỉ có cái Mác đã trừu tượng hóa quá mức, đã tư biện hóa quá mức, khiến trở thành phi lý, phi nguyên tắc thế thôi. Tức là nếu thay thế hoàn cảnh và vị trí, chưa chắc ai đã bóc lột hơn ai giữa địa chủ và làm thuê. Thực chất, trong thực tế người nông dân cũng am hiểu việc đó. Họ cũng phân biệt được đâu là địa chủ tai ác, đâu là địa chủ hay người giàu có hiền lành, tử tế, tốt bụng. Thế nhưng chính những cán bộ sách động lại làm theo công thức, vơ gộp cả đám, đó chỉ vì tính cách không hiểu biết, vì đã để cho bản năng cái ác trong bản thân của họ đã chi phối tất cả. Đó chính là một màn bi hài kịch trong đấu tố hết sức dã man, tàn ác, mà thực chất và cốt yếu nhất chỉ là sự trả thù riêng tư, hám lợi riêng tư, phản ngược lại cả đạo đức nhân văn cá nhân và xã hội, như gây nên việc con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau, kể cả ngay trong các hàng lãnh đạo, nắm quyền cao cấp nhất, được gọi là làm gương mà ai cũng biết. Đấy chính cả cái màn bi hài kịch khốn nạn nhất trong bản chất con người, trong xã hội loài người, nhân danh ý nghĩa và quan điểm của đấu tranh giai cấp trong thực tế đời sống cụ thể quả là như thế đó. Võ Hưng Thanh
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 21, 2015 9:29:04 GMT 9
Người Việt hải ngoại làm gì nếu có cuộc đại suy thoái toàn cầu?Cuộc suy thoái kinh tế khởi sự từ năm 2008 tại Hoa Kỳ khi các đại công ty tài chánh như Lehman Brothers, Bear Stearn, Thornburg v.v… khai phá sản kéo theo cả trăm nhà băng lớn nhỏ bị đóng cửa. Cuộc suy thoái kinh tế trở nên trầm trọng khi cơ quan đánh giá Standard & Poor’s hạ điểm tín dụng của nền kinh tế Hoa Kỳ xuống một nấc làm giới đầu tư mất niềm tin thị trường chứng khoán tuột dốc. Nay, thì mọi con mắt của giới đầu tư hiện đang hướng về Châu Âu về Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ái Nhĩ Lan là những quốc gia có nền kinh tế suy yếu có cơ vỡ nợ. Kenneth Rogoff, Kinh tế gia thuộc đại học Haward đã tiên đoán ngay vào lúc khởi đầu: “Cuộc khủng hoảng này sẽ kéo dài, sẽ trở nên tồi tệ và sẽ lan rộng qua lãnh vực tiền tệ khắp thế giới”. Ông vừa tuyên bố thêm sau khi 17 thành viên của Khối Châu Âu họp vào ngày 26/10/2001: “Việc Khối Châu Âu giảm 50% nợ cho Hy Lạp cũng không đủ sức vực Hy lạp ra khỏi cuộc khủng hoảng tiền tệ”. Với món nợ trên 400 tỷ euros nếu Hy Lạp không trả nổi, khai phá sản và rút chân ra khỏi Khối Châu Âu thì sẽ ảnh hưởng đến nhiều nước khác, đặc biệt là Ý với món nợ là 1900 tỷ euros dù đã bàn cãi nhiều nhưng các thành viên Khối Châu Âu vẫn chưa tìm ra hướng giải quyết. Nguyên nhân nợ ngập đầu của các nước Châu Âu là do chi nhiều hơn thu. Ở Hy Lạp, số giờ làm việc một tuần là 25, số tuổi để về hưu là 55, Chính quyền và giới chủ không có quyền sa thải công nhân, thuế đất thuế nhà chỉ đánh tượng trưng trong lúc thu nhập chính là du lịch thì chẳng ma nào dám đi du lịch trong thời gian cả thế giới đang đi vào cuộc suy thoái. Ngoài cuộc khủng hoảng tài chánh, 2 nước Hy Lạp và Ý lại đang chìm ngập trong cuộc khủng hoảng chính trị rất sâu đậm. Hai chiếc ghế của thủ tướng Hy Lạp George Papandreous và thủ tướng Ý Silvio Berlusconi đang bị lung lay tận gốc rễ. Có thể vì bất mãn với việc giảm nợ chưa đủ của Khối Châu Âu hay vì áp lực của các đảng phái đối lập và các cuộc biểu tình khắp Hy Lạp, Thủ Tướng George Papandreous tuyên bố vào ngày 31/10/2011 sẽ đem gói cứu trợ của Khối Châu Âu (130 triệu Euros) ra trưng cầu dân ý. Lời tuyên bố này làm chao đảo thị trường chứng khoán toàn thế giới trong tuần qua và làm tức giận các thành viên trong Khối Âu Châu khi họ đang họp liên tục để tìm cách trấn an và ổn định thị trường. Tổng thống Pháp Sarkozy và thủ tướng Đức Chancellar Angela Merkel đồng tuyên bố: “Việc ổn định thị trường và Khối Châu Âu là việc quan trọng còn Hy Lạp ở trong hay ngoài Khối Châu Âu là không cần thiết”. Một số thành viên khác đòi đuổi Hy Lạp ra khỏi Khối Châu Âu. Sáu thành viên cao cấp trong chính phủ kêu gọi ông từ chức. Ông ta hủy bỏ việc trưng cầu dân ý và chỉ thắng sít sao (153/147) trong cuộc bầu của quốc hội vào ngày thứ sáu 4/11/2011 để tín nhiệm ông tiếp tục ở lại chức vụ để thành lập một nội các mới đoàn kết hơn nhưng đảng đối lập lớn nhất Hy Lạp lại vừa tuyên bố tẩy chay không tham gia nếu thủ tướng còn hiện diện. Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi là một người giàu sụ, sẵn tiền của nên ăn chơi vung vít. Ông già gân này có lần cho biết đã từng đụng độ với 3 kiều nữ trong vòng 1 đêm, đang dính vào vụ bê bối tình dục với một kiều nữ dưới 18 tuổi chưa gỡ ra, nay lại thêm mất ghế trong quốc hội biến đảng cầm quyền thành thiểu số. Cuộc biểu tình to lớn tại Rome trong ngày chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy ngày về vui thú điền viên của ông ta chẳng bao xa. Kinh tế thường đi đôi với chính trị. Kinh tế sụp đổ thường kéo các lãnh tụ chính trị đổ nhào theo. Nếu hai vị thủ tướng của Hy Lạp và Ý ra đi sẽ kéo theo một thời gian xáo trộn trong hai quốc gia ấy. Lẽ dĩ nhiên toàn Khối Châu Âu sẽ không đứng vững khi Hy Lạp và Ý sụp đổ. Nếu Châu Âu đi vào một cuộc đại suy thoái thì sẽ kéo cả toàn bộ thế giới đi vào đại suy thoái nhất là Hoa Kỳ nơi có nền kinh tế đang trên đà suy thoái chưa vực dậy được mà lại liên hệ mật thiết với Khối Châu Âu với việc trao đổi thương mại trên 400 tỷ mỗi năm, đang đầu tư khoảng 5.000 tỷ đô và mua các công khố phiếu gần 2.000 tỷ đô. Chuyện tương lai là chuyện không thể biết trước được. Bài viết này cũng không nhắm mục đích bàn chuyện cuộc đại suy thoái có xảy ra hay không xảy ra trong tương lai mà chỉ nêu ra một vài ý kiến của người viết về cách bảo vệ, cách đầu tư số vốn có được để Người Việt Hải Ngoại tùy theo sự suy nghĩ và trường hợp của mình mà áp dụng. Những ý kiến này không thể được cho là đúng mà cũng chẳng có thể bị sai vì nó còn tùy thuộc vào thời gian thi hành và tình hình ngoại cảnh. Để trở thành Người Việt Hải Ngoại, chúng ta phải trả bằng máu và nước mắt. Để có được một đời sống ổn định hay số vốn chúng ta phải hy sinh đôi lúc phải cày một ngày 3 dóp nên việc bảo vệ và đầu tư số vốn đó là một việc cần bàn. Việc bàn hay hay bàn dở thì sẽ tính sau mà việc có bàn là quan trọng và cần thiết trong thời gian dầu sôi lửa bỏng như hiện nay để mỗi người có thêm một số ý kiến trước khi quyết định về số vốn mình đang có. Ý kiến 1: đừng nghe lời dụ dỗ: Các quĩ đầu tư đang dùng những trang mạng của mình dụ dỗ người đầu tư đầu tư vào những cổ phiếu nhà băng để họ có thể mua xuống với số lượng lớn (có thể họ đã nắm chắc cuộc đại suy thoái chắc chắn sẽ xảy ra). Ý Kiến 2: Án binh bất động: Nếu bạn có được một số vốn chưa đầu tư thì nên án binh bất động để đợi cuộc đại suy thoái xảy ra mới bắt đầu đầu tư. Ý kiến 3: Di chuyển đến nơi an toàn: Những số vốn nằm trong tiền để dành như tiền 401k nên di chuyển vào những fund an toàn như Interest Income, Bond đợi khi cuộc đại suy thoái xảy ra thì di chuyển về lại những fund như small caps, large caps v.v… Ý kiến 4: Không chơi trò Risk and Reward (có nguy hiểm mới được đãi ngộ). Phương pháp đầu tư này thường được áp dụng cho những người có số vốn thật lớn, họ sẽ trích ra một số vốn nhỏ để đầu tư vào những cổ phiếu nguy hiểm. Ý kiến 5 : Không áp dụng chữ If và Will trong đầu tư : Cách đầu tư tệ nhất và dễ mất vốn nhất là dùng chữ nếu và chữ sẽ nếu sự việc không đi đúng như mình nghĩ thì mình sẽ mất tiền. Khi cuộc đại suy thoái toàn cầu đã xảy ra thì: Ý kiến 6: Đừng nôn nao đầu tư, vì cuộc suy thoái sẽ kéo dài bao lâu không biết nhưng nếu nôn nao đầu tư liền thì sẽ mất tiền. Ý Kiến 7: Tìm đáy để đầu tư, không ai có thể biết được giá trị một cổ phiếu lúc nào chạm đáy để mua. Cách hay nhất là mua 1 phần tiền vào lúc mình nghĩ đã chạm đáy và mua phần còn lại nếu nó đi xuống thêm nữa và … chờ đợi. Ý Kiến 8: Tìm loại đầu tư: Khi cuộc đại suy thoái toàn cầu xảy ra, cổ phiếu nhà băng sẽ bị mất giá nhiều nhất vì đây là cuộc suy thoái về tiền tệ thì nên đầu tư vào cổ phiếu nhà băng, trong ngắn hạn thì mua cổ phiếu nhà băng Hoa Kỳ vì Hoa Kỳ sẽ phục hồi trước. Trong dài hạn và muốn lợi lớn thì nên mua cổ phiếu nhà băng Châu Âu. Ông Warrant Buffet là một nhà đầu tư giỏi nhất thế giới có lời khuyên: Đầu tư vào thị trường chứng khoán điều thứ nhất cần phải biết là đừng bao giờ để thua tiền. Điều thứ 2 là phải nhớ điều thứ nhất. Ông còn dạy thêm rằng: Lúc mọi người lo sợ là lúc mình biết tham lam. Cuộc đại suy thoái toàn cầu xảy ra sẽ làm mọi người lo sợ thì Người Việt Hải Ngoại phải biết tham lam. Nếu không biết thì hỏi ý kiến nhau thì sẽ biết. Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh ************************************* Giải pháp cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầuThị trường chứng khoáng trồi sụt ở mức kỷ lục trong tuần qua sau khi công ty S&P hạ điểm tín dụng của Hoa Kỳ lần đầu tiên trong lịch sử cùng những hệ lụy của nợ công ở Nam Âu giờ đây lan dần đến Pháp-Ý cho thấy thế giới có nguy cơ rơi vào khủng hoảng lần hai. Dù Trung Quốc hiện tăng trưởng 10% và có trữ lượng ngoại tệ trên 3.000 tỷ USD, nhưng với nền kinh tế lệ thuộc 60% vào xuất khẩu thì những trì trệ tại Âu-Mỹ cũng gây nên nhiều lo ngại sâu xa. Nếu chỉ đứng riêng trên phương diện tài chánh thì cuộc khủng hoảng có thể tránh khỏi nếu ba khối Hoa-Mỹ-Âu phối hợp bao gồm cả chính sách trong nước và ngoại thương. Bài viết trình bày dưới đây một giải pháp lý thuyết (theoretical solution) – vì thực tế có làm được hay không còn do các toan tính tranh giành quyền lợi giữa những cường quốc, cũng như bởi áp lực phe phái mà mâu thuẫn xã hội trong từng quốc gia. Tuần qua chỉ nói nhiều đến nợ công của Hoa Kỳ hiện ở mức 14.000 tỷ USD mà không bàn về động cơ chính để vực dậy nền kinh tế trong ngắn hạn là công ăn việc làm và sức mua của dân chúng. Dân Mỹ trước đây có tâm lý tiêu xài nhờ giá nhà tăng. Giá nhà hiện đã giảm 30%-50% lại không tăng trở lên được vì còn hàng triệu căn tồn đọng bị ngân hàng tịch thu. Một số khác vẫn còn mang nợ địa ốc cao hơn giá trị nhà. Chính quyền Mỹ cần tăng chi để giúp nhà băng và con nợ giải toả các món nợ xấu thì thị trường địa ốc mới phục hồi, dân chúng mới vay mượn ngân hàng mua xe, tivi, tủ lạnh. Nhưng trong hoàn cảnh nợ nần và bất mãn chồng chất hiện giờ thì đề nghị này sẽ bị bóp nghẹt tức khắc bởi dư luận, Quốc Hội và cuộc bầu cử năm 2012. Lâu dài thì Mỹ phải có đồng thuận để bớt nợ công bằng cách cắt giảm y tế, an sinh xã hội, quốc phòng và tăng thuế. Nhưng nhà nước giờ này hạ chi tiêu trong lúc tỷ lệ thất nghiệp còn quá cao ở mức 9% sẽ khiến thêm nhiều người bị mất việc. Nhưng nếu chỉ tăng chi mà không có biện pháp tạo công ăn việc làm bền vững trong nước chẳng khác gì giúp cho Trung Quốc phát triển vì bán thêm hàng hoá sang Mỹ. Cần nhiều chính sách dài hạn để tạo công việc như giáo dục, bảo vệ tác quyền và các ngành công nghệ chủ lực nhưng biện pháp gần nhất để cắt giảm chênh lệch mậu dịch là Bắc Kinh phải tăng nhanh giá trị đồng Nhân Dân Tệ. Tiền lên giá cũng giúp Trung Quốc giải quyết nạn lạm phát hiện trên mức 6.5%, vì hàng hoá họ mua vào kể cả xăng dầu sẽ xuống giá. Các nước như Nam Hàn, Đài Loan, Brazil được bớt áp lực cạnh tranh từ Hoa Lục sẽ cho đồng tiền họ tăng giá (so với đô-la) khiến thị trường hối đoái quốc tế trở lại cân bằng. Âu-Mỹ-Nhật muốn phục hồi kinh tế phải giảm chi tiêu và tạo ra công ăn việc làm. Nhưng cần thêm một thị trường tiêu thụ mới lấp khoảng hỏng của Tây Phương. Bắc Kinh phải mở cửa thị trường trong nước bằng cách tăng chi về y tế và xã hội thay vì tích trữ tiền mặt trên 3.000 tỷ USD. Dân chúng Hoa Lục nếu được an tâm về tương lai thì sẽ rộng tay tiêu xài thoải mái. Nhưng nỗi khổ của Bắc Kinh – nhất là qua bài học của gói kích cầu trên 500 tỷ USD vào năm 2008 – là tiền chi trong nước không đến tay dân chúng mà rơi rớt nơi nào mất hết vì chính nhà nước giờ này cũng không biết nợ xấu cho các địa phương và doanh nghiệp nhà nước vay là 40%, 60% hay 90% GDP! Bóng địa ốc hiện đã căng phồng mà bỏ thêm tiền lại càng không kiểm soát nổi nữa. Vì thế hàng trăm triệu dân trong nước đói nghèo mà tiền phải gởi ra nước ngoài để ít nhất trên sổ sách còn biết giữ được bao nhiêu. Tình hình khu vực đồng Euro cũng không kém nan giải. Mới năm trước Âu châu chê trách Đức là keo kiệt, sau thế chiến thứ hai được viện trợ để hồi phục còn giờ này lại đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo khi các láng giềng Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha gặp nạn. Nhưng giờ đây khủng hoảng bắt đầu lây lan sang Ý và Pháp, người ta bắt đầu lo rằng quá nhiều nước cần cứu vớt sẽ kéo luôn cả Đức chìm xuồng. Vấn đề nơi đây là một số lớn tiền nợ của Nam Âu do các ngân hàng Pháp-Đức cho vay. Chính quyền hai nước này hứa bảo đảm nợ chẳng qua để giúp cho hệ thống ngân hàng của họ khỏi bị sập tiệm. Dù vậy tuần qua đã bắt đầu có những tin đồn rằng các ngân hàng Pháp bị thua lỗ sẽ kéo theo nước Pháp bị hạ điểm tín dụng. Trong khung cảnh toàn cầu hoá thì nhà băng và quỹ đầu tư của Đức-Pháp-Mỹ-Nhật-Trung Quốc v.v… đều có liên hê. Có người ước đoán trong hoàn cảnh tệ hại nhất Pháp và Ý bị vạ lây thì cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu sẽ là 30 ngàn tỷ USD (so với 2 ngàn tỷ USD năm 2007 tại Mỹ). Cái khổ là cần giải pháp toàn bộ trong lúc mỗi quốc gia, mỗi khối lợi ích lại chỉ lo đến mình; hoặc sợ mình giúp người khác rồi tới phiên mình bị hụt hơi. Thị trường chứng khoáng trong hai tháng tới đây sẽ là chỉ số của nền kinh tế thế giới trong 3-5 năm tới đây! Đoàn Hưng Quốc
|
|