|
Post by Vĩnh Long on Dec 27, 2006 16:31:57 GMT 9
Anh Ngữ Học Mà Vui Chữ ‘tài’ liền với chữ ‘tai’ -------------------------------------------------------------------------------- TS Trịnh Nhật E-Mail: trinhnhat@khoahoc.net 09 tháng 11 năm 2006 "www.khoahoc.net" -------------------------------------------------------------------------------- LTS. Bài học Anh ngữ nói chung chủ yếu là bàn về tiếng Anh thời sự, đã đọc được trên báo chí, nghe được trên đài phát thanh truyền hình, với các độc giả trong tinh thần “Tôi học, Anh học, Chị học, Em học, Chúng ta cùng học!”. Các từ vựng, đoản ngữ, tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn... tiếng Anh, tiếng Việt sẽ được lồng vào những mẩu chuyện vui, cà kê dê ngỗng, cốt là giúp cho người học dễ nhớ, vui mà học được. Những lời bàn tán ở đây nhất định không thể được coi là những lời “thánh phán”, mà các độc giả, tất nhiên có những người biết chuyện, sẽ được mời đóng góp ý kiến của mình hoặc đặt câu hỏi để chúng ta có dịp cùng nhau tìm hiểu, đồng thời chia xẻ niềm vui chung là học hỏi lẫn nhau. Bài học còn có thêm phần liệt kê những kết hợp ngữ (collocations) trong tiếng Anh, tiếng Việt để người học tham khảo. Chữ ‘tài’ liền với chữ ‘tai’ Qua bài viết lần trước tôi có kể một câu chuyện tiếu lâm (risqué joke), trong đó có đề cập đến một yếu tố di truyền học: Khi có một chị thỏ bạch (white) làm tình với một chú thỏ nâu (brown), rồi gần ngay sau đó lại làm tình với một chú thỏ đen (black) thì khi chị thỏ cái có bầu, thỏ con sinh ra sẽ có mầu (colour) gì? Câu hỏi chưa được trả lời, vì chưa có chuyện “ấy”, thì tôi nhận được một ‘email’ (meo) của một người bạn thân từ Chicago (Mĩ Quốc) gửi kèm theo một bài thơ tạm gọi là “Da màu”, của một em bé Phi Châu. Bài thơ đã được đề cử/nghị (nominated) là bài thơ hay nhất (the best poem) năm 2005, nguyên văn như thế này (xin tạm quên lỗi văn phạm tiếng Anh của em này trong giây lát): When I born, I black. When I grow up, I black. When I go in sun, I black. When I scared, I black. When I sick, I black. When I die, I still back. You are white people. When u born, u pink. When u grow up, u white. When u go in sun, u red. When u cold, u blue. When u scared, u yellow. When u sick, u green When u die, u gray... And U calling me colored??? Bài thơ này đã được một anh bạn cho một bản dịch sát nghĩa (semantic translation) sang tiếng Việt như sau: Khi tôi sinh ra, tôi màu đen. Khi tôi lớn lên, tôi màu đen. Khi tôi đi dưới nắng, tôi màu đen. Khi tôi sợ, tôi màu đen. Khi tôi bệnh, tôi màu đen. Và khi tôi chết, tôi vẫn màu đen. Còn bạn, hỡi người da trắng. Khi bạn sinh ra, bạn màu hồng. Khi bạn lớn lên, bạn màu trắng. Khi bạn đi dưới nắng, bạn màu đỏ. Khi bạn lạnh, bạn màu xanh. Khi bạn sợ, bạn màu vàng. Khi bạn bệnh, bạn màu xanh (lá). Và khi bạn chết đi, bạn màu xám. Thế mà bạn gọi tôi là da màu ư sinh ra (= to be born); tôi màu đen (= I’m black); lớn lên (= to grow up); sợ (= to be scared); đi dưới nắng (= go under/in the sun); bệnh (= to be sick); chết (= to die); người da trắng (= white people); U (= you); lạnh (= to be cold); màu xám (= gray/grey); da màu (= coloured). Lại có một bản dịch thoát nghĩa (communicative translation) sang tiếng Việt của một anh bạn khác như thế này: Em là người gốc Phi Châu Sinh, lão, bệnh, tử một mầu Dù mưa dù nắng dãi dầu Đen tuyền chẳng thay chẳng đổi Không như những người da trắng Chào đời, đỏ hồng hon hỏn Phơi nắng, da đỏ au au Lúc giận, mặt vàng như nghệ Gặp lạnh, mặt mày tím ngắt Đau ốm, mặt mũi xanh xao Lìa đời, làn da xám xịt "Thất sắc" da anh đủ mầu Chắc là các anh loạn mắt Gọi da chúng em da mầu? Tôi đặc biệt thích bài thơ tiếng Việt này, nên cố mày mò chuyển ngữ lại (back translate) sang tiếng Anh để bà con cô bác nghiền ngẫm chơi vui: I come from Africa Our lives have four stages We are born, we grow old, we sicken and die. Always we are the same colour. Regardless of the weather, rain or shine, Black is forever black. Not like you white people. At birth, you are new-born pink, You sunbake, your skin turns lobster-red. When angry, your face turns saffron-yellow. When cold, your face turns blue And when sick, it becomes pale and white. You die, your skin is death-grey. Seven shades of colour, you have them all. Are you not colour-blind When you call us coloured? Phi Châu (= Africa); four stages (= bốn giai đoạn); regardless (= bất kể); the weather (= thời tiết); rain or shine (= mưa hay nắng); at birth (= lúc chào đời); sunbake (= tắm nắng); lobster-red (= đỏ như tôm hùm; đỏ au au); saffron-yellow (vàng nghệ); blue [= (xanh) tím ngắt]; xanh xao (pale and white); death-grey (xám xị; xám như lúc chết); colour-blind (= loạn sắc). Bài học tuần này có chủ đề “Chữ tài liền với chữ tai”, nghĩa là người có tài thường hay gặp hoạn nạn. Nguyễn Du đã lấy nàng Kiều ra làm thí dụ để cảnh cáo người đời: Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần [In talent take no overweening pride, For talent and disaster form a pair. (Huỳnh Sanh Thông dịch)] Trong những năm gần đây lăn lộn với cuộc sống, quan sát, để ý, tiếp xúc, cọ sát với nhiều người trong xã hội, tôi đã rút ra được một bài học và lấy đó làm một phần trong triết lí sống, nhân sinh quan của mình: “Mình hơn người khác là mình có tội, khi bị người khác chửi bới, đả kích, thị phi, thì mình biết là mình có lỗi”. Có người hỏi tôi tại sao, người ta chửi mình mà mình lại có lỗi? Câu trả lời: Mình nhận là mình có lỗi vì mình chửi lại, mình “thanh minh thanh nga” trên báo chí, thì câu chuyện về cá nhân mình cũng sẽ được phơi bày dài dài, không biết bao giờ mới dứt, không biết nó sẽ đưa mình đến đâu. Một khi mình biết mình là ai, mình biết là không làm chủ được những cảm xúc (emotions), hành động (actions) của người khác thì tốt hơn là nên quay về tự làm chủ lấy cảm xúc, suy nghĩ của chính mình. Để làm gì? Bạn hỏi. Để cho tâm mình an, hồn mình yên vui chứ còn sao nữa! Một người bạn gái gốc Úc-Tân Tây Lan của ba chục năm trước đã truyền lại cho tôi lời Mẹ dặn: “Never complain, never explain” (Khỏi cần than van/phàn nàn, khỏi cần giải thích/luận bàn). Mà Quí Bạn ơi! Cổ nhân ta đã chẳng khuyên: “Tri bỉ chi kỉ, bách chiến bách thắng” (If you know your foe and yourself well, you will win the hundred battles you wage) đó sao? Quan niệm “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay thuyết tài mệnh tương đố (talent and destiny often diverge), có thể có cái tương đương trong văn hoá Úc, mà người ta thường nói đến là The Tall Poppy Syndrome (tạm dịch: Hội chứng Cây cao Chặt đẹp). Nghĩa đen của cụm từ tiếng Anh trên là: tall (cao), poppy (cây thuốc phiện), syndrome (hội chứng). Hình ảnh cây thuốc phiện cao vọt lên hơn những cây mọc chung quanh nó dễ là đối tượng cho những kẻ tà tâm, ganh tị tìm cách ám hại. Bài viết tiếng Anh sau đây sẽ giúp Quí Bạn hiểu thêm về “hội chứng trèo cao ngã đau” này: The Tall Poppy Syndrome The Tall Poppy Syndrome refers to the behavioural trait (đặc điểm ứng xử) of Australians to cut down (chặt) those who are “superior” (tài hơn, trội hơn) to them. It seems to have been a mindset (não trạng/tư duy) since the early colonial days (thời kì còn là thuộc địa). It was a rejection (chối bỏ/phủ nhận) of the class system (chế độ giai cấp), and it is said that Australia is an egalitarian society (xã hội bình đẳng), viewing people with admiration for what they do, rather than what they have. It is a reverse type of snobbery (một loại/hình thức trái/đảo ngược với thái độ trưởng giả/hợm hĩnh), and is often seen by foreigners as resentment of another’s success (phẫn nộ/bực tức đối với thành công của người khác). Our sportsmen and women are revered (được tôn sùng) but when they display character traits that are not admirable (không đáng tôn thờ) then they are targets (mục tiêu) for the Tall Poppy Syndrome. Examples of this are Shane Warne [đấu thủ chơi ‘cricket’ nổi tiếng về ném bóng nhanh (fast bowler)] and Lleyton Hewitt (đấu thủ quần vợt đứng số 1 hoàn vũ lúc mới 20 tuổi). Millionaires are admired (được nể vì) in America, yet our millionaires (những nhà triệu phú của chúng ta) have often earned less respect (thường không được kính trọng mấy) because of misconduct (hành vi sai trái/bất xứng). Take the examples of Christopher Skase, Alan Bond and John Elliot (mấy ông nhà giầu không nên nết). Certainly there are others like Rupert Murdoch, Kerry Stokes, Kerry Packer and thingy Smith (mấy ông nhà giầu được người ta kính mến) who command respect (được/khiến cho người khác kính trọng) by avoiding making other people feel inferior (cảm thấy thua kém). This characteristic epitomizes (làm mẫu mực) the more common Australian trait of being self-depreciating (tự giảm giá/không làm cao), and being quiet achievers (những người thành đạt trong âm thầm/không cần kèn trống rùm beng/tẩm ngẩm tầm ngầm mà đánh chết voi). Việc đời không biết thế nào mà nói! Ở sao cho vừa lòng người? Ở rộng người cười, Ở hẹp người chê!
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 27, 2006 16:32:20 GMT 9
Trịnh Nhật Sydney, Tháng 9, 2006
Kết hợp ngữ
(Collocations)
talent noun
tài, tài năng
§ ADJ considerable đáng kể, enormous, exceptional, extraordinary, formidable kinh khủng, genuine thật, great, major, outstanding xuất chúng, vượt trội prodigious, rare, real, remarkable, special, tremendous, undoubted, unique hiếm quí, đặc biệt, độc nhất vô nhị | God-given, inborn, innate, natural, raw Trời cho, thiên bẩm, bầm sinh, tự nhiên, Hard work is important, but it is no substitute for raw talent. | hidden, undiscovered ẩn | mediocre tầm thường, xoàng | fresh, new mới The company is always looking out for new talent. | young trẻ, non trẻ | precocious sớm phát triển, không đợi tuổi | home-grown, local gà nhà, địa phương one of the few teams that relies on home-grown talent | top hàng đầu, thượng thặng We are losing our top talent to other countries who pay more. | acting diễn xuất, kịch nghệ, artistic nghệ thuật, mỹ thuật, nghệ sĩ creative sáng tạo, literary văn học, managerial quản lí, musical âm nhạc, scientific khoa học, vocal, writing viết văn, viết lách
§ VERB + talent have, possess có The lad has undoubted talent. | demonstrate, display, reveal, show biểu diễn, trình diễn | flaunt, show off phô trương, khoe The banquet gave the chef a chance to flaunt his talents. | direct, redirect, turn hướng, chuyển hướng After making her name as a singer, she turned her talents to acting. | discover, recognize, spot, unearth khám phá, nhìn nhận, tìm thấy She has a keen eye for spotting talent o United have unearthed a real talent in this young defender. | build (on), cultivate, develop, harness, make the most of, nurture, realize, tap, use, utilize xây dựng, trau dồi, phát triển, phát huy, thực hiện, tận dụng, nuôi dưỡng an effort to develop his creative talents to the full o The theatre visits schools to tap young talent. | squander, waste phí phạm, lãng phí His parents accused him of wasting his talents and abilities.
§ talent + verb lie nằm Her talents lay in organization.
§ talent + noun scout, spotter chiêu mộ, đi tìm, nhận dạng | competition, contest, show tranh (tài), tỉ thí
§ PREP of ~ He is a violinist of exceptional talent Chàng ta là một tay chơi vĩ cầm tài năng có một không hai. with/without ~ có/không có kids with musical talent trẻ có tài/giỏi/khiếu âm nhạc | ~ for về You have a natural talent for storytelling Bạn có tài thiên phú/tự nhiên về kể chuyện.
§ phrase a man/woman, etc. of many talents người đàn ông/đàn bà v..v…đa tài/có nhiều tài năng, a wealth of talent rất nhiều/dồi dào/phong phú tài năng/nhân tài There is a wealth of talent out there in our schools Có rất nhiều nhân tài trong các trường học của chúng ta kia kìa, a pool of talent một nhóm nhân tài sẵn sàng khi cần Hollywood directors have a marvellous pool of acting talent to draw from Các đạo diễn phim ảnh Hồ-li-vọng/Hoa lệ ước có một nhóm tài năng diễn xuất/tài tử túc trực sẵn để mà chọn khi cần.
talented adj
có tài
§ verb be, seem, sound xem ra, coi bộ, nghe như
§ ADV exceptionally, extraordinarily, extremely, highly, hugely, immensely, incredibly, outstandingly, really, supremely, truly, very xuất sắc, kì diệu, cực kì, vô biên, vượt trội, vô cùng an extraordinarily talented designer o Some of these young musicians are hugely talented. | not particularly không đặc biệt | quite khá | precociously sớm phát triển, không đợi tuổi a precociously talented youngster một thanh niên/thiếu nữ có tài năng sớm nở/không đợi tuổi | artistically nghệ thuật, musically âm nhạc
disaster noun
1 tai họa, thảm họa, họa, nạn, đại nạn, thảm bại
§ adj awful, big, dreadful, great, major, terrible, worst khủng khiếp, đại (họa), khiếp đảm the biggest disaster in British mining history thảm họa lớn nhất trong lịch sử hầm mỏ nước Anh | near gần, xuýt (xảy ra) a near disaster in the city centre tại nạn xuýt xảy ra tại trung tâm thành phố | imminent, impending sắp đến, sắp xẩy ra It seemed that nothing could prevent the impending disaster Xem ra chẳng gì có thể ngăn cản nổi tai họa sắp đến. o Everyone had the feeling that disaster was imminent Ai cũng có cảm giác là tai họa rồi sẽ xảy đến. | potential có tiềm năng (xảy ra) | global toàn cầu, national toàn quốc | natural thiên nhiên, thiên (tai) earthquakes, floods and other natural disasters động đất, lụt lội và những thiên tai khác | man-made nhân tạo | air trên không, máy bay ecological sinh thái, environmental môi trường, flood lụt, lũ lụt, military quân sự, binh bị mining hầm mỏ, nuclear nguyên tử, hạt nhân, rail hỏa xa fears of a nuclear disaster | business doanh nghiệp, kinh doanh economic kinh tế financial tài chính | personal riêng tư, cá nhân
§ verb + disaster bring, cause, lead to, spell mang lại/đến, gây ra, đưa đến One person's mistakes can bring disaster to someone else, Lỗi lầm của một người có thể mang lại hoạn nạn cho một người khác o attempts to find out what caused the disaster Các nỗ lực tìm xem cái gì đã gây ra tai họa o The drought spelt economic disaster for the country Vụ hạn hán đưa đến tai họa kinh tế cho đất nước. | avert, avoid tránh khỏi prevent ngăn cản, ngăn ngừa save sb/sth from cứu ai/cái gì khỏi bị stave off, ward off tránh, gạt A major disaster was averted only just in time Một đại họa đã ngăn ngừa được chỉ vừa kịp thời o What can be done to ward off environmental disaster? Có thể làm gì được để tránh khỏi tai họa cho môi trường | predict, prophesy tiên đoán, tiên tri Independent analysts in the market predicted disaster Các nhà phân tích độc lập trong thị trường đã tiên đoán thảm họa. | court, invite mời gọi, chuốc lấy It's courting disaster to go into the mountains without proper weatherproof clothing Đi sâu vào núi rừng mà không mặc áo quần tránh nắng mưa thì đúng là chuốc lấy đại hoạ. | be heading for đi đến chỗ his firm belief that the whole world was heading for disaster Ông ấy tin tưởng mãnh liệt rằng thế giới đang đi đến chỗ thảm hoạ | face gặp, gặp phải In the last match of the series England were facing disaster Trong trận đấu chót của loạt trận thi đấu ấy Anh-cát-lợi đã gặp thảm bại. | suffer bị, gặp phải, chịu đựng, gánh chịu There are many who have suffered personal disasters but managed to rebuild their lives Có nhiều người đã bị/gặp phải tai hoạ cho cá nhân mình nhưng họ đã cố xây dựng lại được cuộc đời. | survive sống sót It was a miracle any of the passengers or crew survived the worst air disaster in Portugal for 20 years Quả là một sự huyền diệu là bất cứ ai trong số hành khách hoặc phi hành đoàn cũng đều sống sót trong tai nạn máy bay khủng khiếp nhất tại Bồ-đào-nha trong 20 năm qua. | end in kết thúc, chấm dứt The show ended in disaster when the tent collapsed Buổi trình diễn chấm dứt trong đại hoạ khi chiếc lều bị sụp.
§ disaster + verb happen, occur, strike xảy ra. tấn công finding out why the disaster occurred tìm xem tại sao tai nạn lại xảy ra o Everything was going fine. Then, without warning, disaster struck Mọi chuyện đang diển tiến tốt đẹp thì bỗng đâu tai hoạ xẩy đến. | befall sb/sth, hit sb/sth, strike sb/sth đến, xảy ra cho ai/cái gì the economic disaster that befell the country thảm hoạ kinh tế đó đã xảy đến cho đất nước | loom, threaten lù lù xuất hiện, đe dọa We could all see that disaster loomed for the company Chúng tôi tất cả đều có thể thấy là tai hoạ lù lù xảy đến cho công ti.
§ DISASTER + noun area, zone khu vực, vùng Only rescue workers are allowed into the disaster area Chỉ có những nhân viên cứu hộ mới được phép vào trong khu gặp nạn. | relief cứu trợ | victim nạn nhân.
§ prep in a/the ~ trong, khi gặp In a disaster everyone needs to keep calm Khi gặp nạn/tai họa mọi người cần phải giữ bình tĩnh.
§ phrase a disaster waiting to happen tai họa đang chờ sẵn (xảy tới), có thể xảy tới bất cứ lúc nào Any one of these nuclear plants may be a disaster waiting to happen Bất cứ nhà máy nào trong những nhà máy nguyên tử này có thể là tai hoạ có thể xảy tới bất cứ lúc nào. in the aftermath of a disaster hoàn cảnh sau tai họa In the aftermath of the disaster people were too shocked to give a clear picture of what had happened Trong hoàn cảnh sau tai hoạ người ta đã quá hoảng hốt/bị cú sốc quá nặng nên không mô tả rõ ràng được chuyện gì đã xảy ra. a recipe for disaster cách dẫn đến tai họa, chuộc lấy đại nạn Letting her organize the party is a recipe for disaster Để cho cô ấy tổ chức liên hoan là chuộc lấy đại nạn a victim of a disaster nạn nhân của một tai họa providing help for the victims of the disaster trợ giúp cho những nạn nhân của thảm họa.
2 (sự) thất bại
§ ADJ absolute, complete, real, total, unmitigated toàn bộ, hoàn toàn The play was a complete disaster from beginning to end Vở kịch là một thất bại hoàn toàn từ đầu đến cuối. | economic kinh tế, financial tài chính, tiền bạc social xã hội Buying that house turned out to be a financial disaster Mua cái nhà ấy đâm ra là một thất bại về tiền bạc.
§ verb + disaster prove, turn out to be chứng tỏ, đâm ra, hóa ra High-rise buildings proved a social disaster Những cao ốc như thế mà hóa ra lại là thất bại về mặt xã hội.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:13:46 GMT 9
TÌM HIỂU TIẾNG MỸ (Bài 1) : NHỮNG ĐỘNG TỪ NHÓM Giáo Sư Đàm Trung Pháp Trưởng Khoa Giáo Dục Song Ngữ và ESL Texas Woman's University 06 tháng 04 năm 2006 Một đặc trưng đậm đà của tiếng Mỹ là sự hiện hữu của vô số các động từ nhóm (phrasal verbs). Cấu thức của chúng gồm có một động từ (verb) theo sau bởi một hay hai giới từ (preposition) quen thuộc. Tuy không mấy văn hoa, những động từ nhóm rất phổ cập trong ngôn ngữ hàng ngày của người Mỹ bản xứ. Hãy nghe ngôn từ của cặp uyên ương kia khi cơm đã hết lành, canh đã hết ngọt -- Hễ nàng mở miệng than van là bị chàng khóa miệng ngay bằng câu nói phũ phàng sử dụng cùng lúc hai động từ nhóm lận: „SHUT UP, I can't PUT UP WITH your nagging anymore!“ (Này mụ, hãy câm mồm đi, ta chịu hết nổi những lời mè nheo của mụ rồi đó!) Họ quên đi mất rồi những câu nói long lanh tình ái trước khi cưới nhau, trong đó cũng chẳng thiếu gì những động từ nhóm dễ thương, như khi nàng thỏ thẻ bên tai chàng câu nói ngọt ngào này: „Honey, I really LOOK FORWARD TO our happy married life!“ (Anh yêu ơi, em mong đợi từng ngày cuộc sống hạnh phúc lứa đôi của chúng mình đấy!). Các động từ nhóm có thể được coi là một loại „đặc ngữ“ (idioms), vì chúng, giống như các đặc ngữ khác, thường mang những ý nghĩa khó đoán cho người đang học tiếng Mỹ. Do đó, chúng ta phải biết rõ ý nghĩa của chúng để có thể tránh sự hiểu lầm khi giao dịch với người Mỹ. Dưới đây, xếp theo thứ tự ABC của các động từ, là một số chọn lọc những động từ nhóm rất phổ thông trong ngôn ngữ người Mỹ hiện đại, áp dụng trong những câu thí dụ giản dị được chuyển sang tiếng Việt, để tặng quý bạn đang làm quen với tiếng Mỹ. Riêng với quý bạn nào muốn đào sâu về các loại „idioms“, tôi xin giới thiệu hai cuốn tự điển rất hay. Đó là A Dictionary of American Idioms , 460 trang, bìa mỏng, của soạn giả Adam Makkai, do nhà sách Barron's xuất bản năm 1995, và The American Heritage Dictionary of Idioms , 729 trang, bìa cứng, của soạn giả Christine Ammer, do nhà sách Houghton Mifflin xuất bản năm 1997. Their story did not ADD UP at all. = Câu chuyện của họ lợn cợn, chi tiết không ăn khớp với nhau. My friend smokes and drinks too much; he is ASKING FOR trouble. = Bạn tôi hút thuốc và uống rượu nhiều quá; anh ấy tự chuốc lấy phiền hà. John can always BANK ON his own talent to sway people. = John lúc nào cũng có thể trông cậy vào tài thuyết phục người khác của hắn. His wife BAWLED him OUT for not making enough money. = Vợ hắn la hắn om xòm vì hắn không kiếm đủ tiền. If you do not leave my wife alone, I will BEAT you UP. = Nếu anh không để vợ tôi yên, tôi sẽ đập anh nhừ tử. The President plans to BEEF UP the army with more big guns and tanks. = Tổng thống dự tính làm cho lục quân mạnh hơn bằng cách gia tăng đại pháo và xe tăng. The fatal accident occurred when her left front tire BLEW OUT on the highway. = Tai nạn chết người xảy ra khi xe nàng bị bể bánh trái phía trước trên xa lộ. When Lisa's boyfriend forgot her birthday, she BLEW UP. = Khi người bạn trai quên sinh nhật nàng, Lisa nổi tam bành. The discussion BOILS DOWN TO whether they should get married this year. = Cuộc thảo luận, nói cho gọn lại, là để xem họ có nên lấy nhau trong năm nay hay không. If you keep BOSSING me AROUND like this, sweetheart, I will have to find another girlfriend! = Em yêu ơi, nếu em cứ tiếp tục sai bảo anh như thế này, anh sẽ phải kiếm một cô bạn gái khác mất thôi! Tired of having to deal with rude students, Mr. Jones decided to BOW OUT as a teacher. = Vì chán chường phải đối phó với các học sinh thô lỗ, ông giáo Jones đã quyết định chào thua (bỏ nghề). Can you believe that my brand-new car BROKE DOWN this morning on my way to work? = Bạn có thể tin được rằng chiếc xe mới toanh của tôi chết dọc đường đến sở sáng nay không? Thieves BROKE IN while we were on vacation. = Kẻ trộm đã phá cửa vào nhà trong khi chúng tôi đi nghỉ hè. We hear that Jim and Lisa will soon BREAK UP. = Chúng tôi nghe nói Jim và Lia sắp chấm dứt cuộc tình. My boss BRUSHED ASIDE my sincere suggestions. = Chủ tôi gạt những đề nghị thành thực của tôi ra ngoài. Mary cruelly BRUSHED me OFF at the dance. = Mary đã tàn nhẫn tảng lờ tôi trong cuộc khiêu vũ. You need to BRUSH UP ON your English grammar! = Bạn cần ôn lại kỹ càng văn phạm tiếng Anh nhá! We just BUMPED INTO each other at the party. = Chúng tôi vô tình mà gặp nhau tại party. Academic success CALLS FOR lots of hard work. = Thành đạt về học vấn đòi hỏi nhiều khổ công. WE had to CALL OFF the soccer game because of the rain. = Chúng tôi phải hủy bỏ trận đá bóng vì trời mưa. Julie CALLED UP her sister for a chat. = Julie gọi điện thoại cho chị để tán gẫu. After our father's death, we CARRIED ON with the business. = Sau khi cha chúng tôi mất, chúng tôi tiếp tục với dịch vụ buôn bán. Why didn't you CARRY OUT my instructions? = Tại sao anh không thi hành chỉ thị của tôi? They CASHED IN ON people's great interest in feng shui and made tons of money. = Họ lợi dụng lòng công chúng mê say phong thủy và kiếm bộn bạc. Jim's father CHEWED him OUT for failing a test. = Jim bị cha mắng cho một trận nên thân vì đã rớt một bài thi trắc nghiệm. How on earth did they COME UP WITH such a wonderful singer? = Họ làm thế quái nào mà kiếm ra được một ca sĩ tuyệt diệu như vậy? Our relationship COOLED OFF when she started seeing another man. = Mối liên hệ giữa chúng tôi nguội hẳn đi khi nàng bắt đầu giao du với một người đàn ông khác. The politician COPPED OUT ON his supporters with a lie. = Nhà chánh khách chém vè những người hỗ trợ ông bằng một câu chuyện bịa đặt. That funny story will CRACK you UP. = Câu chuyện ngộ nghĩnh đó sẽ làm anh cười bể bụng. Our school CRIES OUT FOR good teachers. = Trường chúng tôi rất cần những giáo chức giỏi. It finally DAWNED ON her that Jim was only a fake. = Cuối cùng nàng mới vỡ lẽ ra rằng Jim chỉ là một tên bịp. My friend EKES OUT a bare living as a fortune-teller. = Bạn tôi kiếm sống đạm bạc bằng nghề bói toán. When John lost his job as a printer, he FELL BACK ON his skill as a mason. = Khi John mất việc làm thợ in, anh ta quay lại khả năng làm thợ nề. He will FALL OVER BACKWARDS to give his wife everything she wants. = Hắn sẽ làm bất cứ điều gì khó đến đâu để cho vợ hắn được có những gì nàng muốn. Our plan to sell our house FELL THROUGH. = Kế hoạch bán nhà của chúng tôi xù rồi. Does my plan FIT IN WITH yours? = Kế hoạch của tôi có phù hợp với kế hoạch của anh không? We hope to GET AROUND TO meeting with our new neighbors. = Chúng tôi hy vọng sẽ có thì giờ để gặp những người hàng xóm mới của chúng tôi. This is your last chance to GET IN ON a great project for the company. = Đây là cơ hội chót cho anh gia nhập một dự án vĩ đại cho công ty. Don't HANG AROUND WITH those bad boys! = Chớ giao du với lũ con trai bất hảo đó! Why did you keep JUMPING ON me at the meeting? = Tại sao anh phải trách cứ tôi hoài trong buổi họp? We are interested in politics and always KEEP UP WITH the news. = Chúng tôi ham chánh trị và luôn theo dõi tin tức. Teachers should LAY DOWN the law about homework for students. = Các thầy cô giáo nên rạ lệnh gắt gao về bài làm tại nhà cho học sinh. The company is going to LAY OFF about 200 employees. = Công ty sắp sa thải khoảng 200 nhân viên. We will never LET you DOWN. = Chúng tôi sẽ không bao giờ phụ lòng các anh. I am sure my girlfriend will LIGHT UP when she sees the diamond I have just bought for her. = Tôi biết chắc bạn gái tôi mặt sẽ tươi rói khi nàng thấy viên kim cương tôi vừa mua cho nàng. Aren't you ashamed to LIVE OFF your elderly parents? = Bộ anh không thấy xấu hổ phải sống bám vào cha mẹ già sao? Please LOOK AFTER my parents when I am away. = Xin chăm sóc cha mẹ tôi khi tôi vắng nhà. We all LOOK DOWN ON people who tell lies. = Chúng ta đều khinh bỉ những kẻ nói dối. Lisa and Bob LOOK FORWARD TO their wedding day. = Lisa và Bob trông chờ ngày cưới của họ. The policeman is LOOKING OUT FOR drunken drivers. = Người cảnh sát đang canh chừng những kẻ lái xe say rượu. Everyone LOOKS UP TO heroes. = Mọi người đều ngưỡng mộ các vị anh hùng. The couple quarreled and then MADE UP. = Cặp vợ chồng cãi loan rồi làm lành. Our plan to visit China did not PAN OUT. = Kế hoạch viếng thăm Trung Quốc của chúng tôi đã không thành tựu. Octavio Paz, Mexico's best-known poet, PASSED AWAY in 1998. = Octavio Paz, thi nhân lẫy lừng nhất nước Mễ Tây Cơ, qua đời năm 1998. My friend got a job offer, but he PASSED it UP. = Bạn tôi được cho việc làm, nhưng anh ấy đã từ khước. We believe that hard work will PAY OFF. = Chúng tôi tin rằng chịu khó làm việc sẽ bõ công. If you PICK ON that little girl, she may get mad and bite you. = Nếu anh chọc con bé ấy, nó có thể nổi giận và cắn anh đấy. To succeed, we need to PLAY ALONG WITH our colleagues. = Để thành công, chúng ta phải hòa nhịp với các đồng nghiệp. The press PLAYS DOWN the new President's cloudy past. = Báo chí tảng lờ không nói đến cái quá khứ mờ ám của tân Tổng thống. Jim is trying to PLAY UP TO his new boss. = Jim đang cố gắng lấy điểm với ông xếp mới. How did you PULL OFF such a daring escape? = Làm sao các anh thành công trong cuộc chạy trốn liều lĩnh ấy? They had to PUT OFF the picnic because of bad weather. = Họ phải hoãn cuộc picnic vì thời tiết xấu. As he was RUNNING OUT OF money, he had to ask his parents for more. = Vì sắp cạn tiền, hắn phải xin cha mẹ cho thêm. Liz decided to SHACK UP WITH Tim. = Liz quyết định ăn ở với Tim mà không cưới xin chi cả. The boss told him to SHAPE UP if he wished to stay with the company. = Oâng xếp ra lệnh hắn phải làm việc khá hơn lên nếu hắn muốn ở lại với công ty. To buy that kind of a car, you must SHELL OUT a lot of money. = Để mua thứ xe đó, anh phải quăng ra nhiều tiền lắm. We really want you to SIT IN ON the next meeting. = Chúng tôi rất muốn ông tham dự buổi họp sắp tới. A pretty girl STRUCK UP a conversation with me at the bus station. = Một cô gái xinh đẹp mào đầu một câu chuyện với tôi tại bến xe đò. Jim does TAKE AFTER his father as he grows older. = Khi có tuổi, Jim trông giống bố anh ta như hệt. Now, don't TAKE OUT your frustration ON me! = Này, đừng có mà trút hết cái bất đắc chí của anh lên đầu tôi đấy nhá! After eating some spoiled food, the man got sick and THREW UP. = Sau khi ăn phải đồ ăn hư, ông ta trở bệnh và ói mửa. He was upset because his company TURNED DOWN his request for a pay raise. = Anh ta bực bội vì công ty khước từ thỉnh cầu tăng lương của anh ta
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:16:21 GMT 9
NHỮNG THÀNH NGỮ KHÓ ĐOÁN ĐƯỢC Ý NGHĨA Chuyện này xa xưa lắm rồi. Khi ấy, vừa xong trung học tại Saigon rồi qua Mỹ du học được vài tuần tôi đã làm quen với một cô bạn cùng lớp “English 101” (gọi nôm na là lớp “freshman composition”) mà tất cả sinh viên năm đầu đại học đều phải lấy. Nàng tên Lisa, xinh xắn, đôi mắt xanh da trời, tóc vàng úa, da mặt có những “freckles” rất nên duyên. Nàng thích nói chuyện với tôi, nhưng lại dùng nhiều tiếng lóng cho nên tôi thường vất vả lắm mới hiểu được nàng. Một sáng chủ nhật đẹp trời, nhớ nàng quá nên tôi quyết định tản bộ đến thăm nàng tại ký túc xá mặc dù không hẹn trước chi cả. Vài phút sau, nàng xuất hiện tại phòng khách với nét mặt không vui. Chưa kịp phấn son và mái tóc còn quấn tít với các kẹp nhựa đủ màu cầu vòng trên đầu, Lisa vàng vọt và không hấp dẫn như mọi ngày tôi gặp nàng ở trường. Vừa ngồi xuống, nàng phán ngay, “Phap, I wish you had given me a ring before you came to see me today!” Vốn liếng tiếng Anh trung học Việt Nam chỉ giúp tôi hiểu được “nghĩa đen” của câu nàng nói, cho nên tôi tưởng nàng ước chi tôi đã trao nàng nhẫn đính hôn trước khi đến thăm nàng. Ngây thơ vô tội, tôi chất vấn Lisa tại sao vội nghĩ đến chuyện lứa đôi khi cả hai mới 18 xuân xanh. Nàng bật cười vì sự hiểu lầm vĩ đại của tôi, và cho tôi hay thành ngữ GIVE SOMEONE A RING mà nàng vừa dùng chỉ có nghĩa là “kêu điện thoại cho ai”, rồi nàng giáng ngay xuống một câu tiếng lóng nữa làm tôi thêm bội phần chới với, “Anyway, I thought you were trying to pull my leg.” Vì lúc đó chưa biết thành ngữ PULL SOMEONE'S LEG có nghĩa là “bỡn cợt ai đó”, tôi thực chẳng hiểu tại sao nàng nghĩ là tôi toan tính kéo cẳng nàng! Hai thành ngữ kể trên có thể được xếp vào loại “đặc ngữ” mà ý nghĩa vô cùng khó đoán. Danh từ chuyên môn của chúng là “frozen forms” vì chúng chỉ hiện hữu dưới một dạng cứng ngắc mà thôi. Chẳng hạn, đặc ngữ KICK THE BUCKET có nghĩa là “chết”, tuy có thể dùng trong các thời hiện tại, quá khứ, và tương lai, nó không còn ý nghĩa “chết” nếu dùng trong thụ động cách (passive voice). Thật vậy, “The bad guy kicked the bucket yesterday” không thể chuyển thành “The bucket was kicked by the bad guy yesterday” mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa là “tay bất hảo ấy đã về làm bạn với giun và dế ngày hôm qua.” Dưới đây, xếp theo thứ tự ABC của các động từ (yếu tố đầu) trong cấu thức, là một số đặc ngữ thông dụng trong tiếng Mỹ mà ý nghĩa tôi xin phỏng dịch sang tiếng Việt để làm quà cho quý bạn đang cố gắng chinh phục tiếng Mỹ: Answer the call of nature: Đi tiểu tiện hoặc đại tiện. Bark up the wrong tree: Lựa sai người để thương lượng hoặc cầu cạnh. Be up the creek: Ở trong một tình trạng hiểm nguy. Be a fly on the wall: Nghe lén câu chuyện thầm kín của người khác. Be between the devil and the deep blue sea: Ở trong thế tiến thoái lưỡng nan. Bend over backward: Ba bốn sông cũng lội, chín mười đèo cũng qua. Blow one's top: Nổi cơn tam bành. Bring down the house: Làm khán giả vỗ tay rầm trời. Burn the midnight oil: Thức khuya học bài. Call someone on the carpet: Gọi ai ra trước mặt xếp lớn để nghe quở trách. Cast pearls before swine: Gẩy đàn cầm trước tai trâu. Drop dead: Mời đi chỗ khác chơi. Fly off the handle: Nổi cơn tam bành. Fly the coop: Cao chạy xa bay. Give someone a ring: Điện thoại cho ai. Go belly-up: Bị phá sản. Go fly a kite: Mời đi chỗ khác chơi. Go to bed with the chickens: Đi ngủ sớm, vào lúc gà lên chuồng. Grease someone's palm: Hối lộ người nào đó. Have a crush on someone: Thầm yêu trộm nhớ một ai. Have butterflies in one's stomach: Thấy xốn xang trong lòng. Keep one's nose to the grindstone: Làm hăng say công việc chán phè. Kick the bucket: Chết. Make no bones about: Nói thẳng ra về chuyện gì. Nip in the bud: Dẹp tan nguy cơ ngay từ đầu. Pass the buck: Trốn trách nhiệm. Pay through the nose: Trả giá cắt cổ. Play by ear: Tùy cơ ứng biến. Play fast and loose: Có tác phong ba trợn. Pull someone's leg: Bỡn cợt người nào. Pull the plug on someone: Tiết lộ hành vi xấu xa bí mật của người nào. Put one's foot in one's mouth: Phát ngôn bừa bãi làm đau lòng kẻ khác. Shoot from the hip: Ăn nói hoặc hành động văng mạng. Shoot the breeze: Tán gẫu. Take the fifth: Không trả lời bất cứ câu hỏi nào. Take something with a grain of salt: Chỉ tin một phần nào về điều gì, Throw a monkey wrench into something: Phá quấy, làm hư một chuyện gì. Wear the pants: Làm chủ gia đình, có quyền hành như đàn ông.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:18:27 GMT 9
COI CHỪNG CHÍNH TẢ CỦA NHỮNG
CẶP CHỮ ĐỒNG ÂM DỊ NGHĨA ! Vài năm về trước, Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ đã phải đỏ mặt mà thu hồi gấp gáp các bằng cấp tốt nghiệp vừa trao cho các tân sĩ quan. Lý do nào vậy? Thưa chỉ vì nhà trường đã sơ ý viết sai chính tả, khiến cho „Naval Academy“ trở thành „Navel Academy“! Ôi chao, đang đường đường là „Học Viện Hải Quân“ mà trở thành „Học Viện Lỗ Rốn“ thì kỳ quá, mà chỉ vì một chi tiết đánh vần thật nhỏ nhoi! Hai chữ „naval“ và „navel“ là thí dụ của một cặp chữ đồng âm dị nghĩa mà khi chính tả bị lẫn lộn có thể làm người viết khổ tâm. Tôi đã rất nhiều lần thấy sinh viên Mỹ của tôi lầm lẫn cách viết của các cặp đồng âm dị nghĩa như „foreword“ và „forward“, „principal“ và „principle“, „complement“ và „compliment“, „capitol“ và „capital“, „manor“ và „manner“, „whose“ và „who's“, vân vân. Dưới đây là một số các cặp đồng âm dị nghĩa mà khi sử dụng quý bạn phải viết cho đúng chính tả, để không rơi vào trường hợp „râu ông nọ cắm cầm bà kia“ phiền lắm. Những chữ viết tắt trong ngoặc đơn như (n), (pro), (v), (adv), (prep), (con), (adj), (cont), (int) lần lượt thay cho noun, pronoun, verb, adverb, preposition, conjunction, adjective, contraction, và interjection. Hy vọng các câu thí dụ sẽ giúp quý bạn nắm vấn đề hơn. Tôi dựa vào tài liệu của một chuyên viên cú pháp Mỹ mang tên Michael Strumpf trong cuốn „The Grammar Bible“ do nhà sách Knowledgeopolis xuất bản năm 1999 để soạn mục dưới đây tặng quý bạn. Đây là một cuốn sách vui tươi, thực tiễn, và dễ đọc. AD (n) The AD for new shoes interested me. ADD (v) I can ADD up the numbers that you require. AID (n) The Red Cross gives AID to people in need. AIDE (n) An AIDE is always there to give assistance. AIR (n) The AIR was polluted. HEIR (n) He was HEIR to a fortune. ALTAR (n) The ALTAR of the church is magnificent. ALTER (v) No one can ALTER the past. BERRY (n) A freshly picked BERRY is good to eat. BURY (v) Where did they BURY that hero? BORN (v) Eileen was BORN in New York City. BORNE (v) You have BORNE your troubles majestically. BRAKE (n) My car needs new BRAKES. BREAK (v) Don't BREAK anything in the china shop! BUY (v) Can we BUY you something to eat? BY (prep) I will be BY your side. BYE (int) BYE! Have a nice day! CACHE (n) The burglar's CACHE held all the loot from the robbery. CASH (n) I don't have enough CASH to pay for dinner. CAPITAL (n) The CAPITAL of Texas is Austin. CAPITOL (n) The United States Congress meets in the CAPITOL. CITE (n) Always CITE your sources when writing essays. SIGHT (n) Is the new hotel in SIGHT? SITE (n) The mayor chose this SITE for the new building. COMPLEMENT (v) The woman's hat COMPLEMENTED her outfit. COMPLIMENT (n) She gave me a flattering COMPLIMENT. COUNCIL (n) The city COUNCIL meets twice a week. COUNSEL (n) His COUNSEL gave him good advice. DESERT (v) The frightened soldier DESERTED his platoon. DESSERT (n) Fresh fruits are our favorite DESSERT. ELICIT (v) We ELICIT responses from our students. ILLICIT (adj) The senator's ILLICIT affair caused quite a scandal. FLOUR (n) She always uses unbleached FLOUR in her bread. FLOWER (n) Place the FLOWER in this vase. FOREWORD (n) Many readers ignore the FOREWORD of a book. FORWARD (adv) We marched straight FORWARD. HANGAR (n) The plane is kept in the HANGAR. HANGER (n) My HANGERS are on the closet floor. HOARSE (adj) My voice becomes HOARSE after a day of lecturing. HORSE (n) Riding a HORSE can be risky. ITS (adj) The dragon returned to ITS cave. IT'S (cont) IT'S going to be a beautiful day. MANNER (n) She has a very pleasant MANNER. MANOR (n) This road leads to the millionaire's country MANOR. NAVAL (adj) The NAVAL battle was fought at Trafalgar. NAVEL (n) Your NAVEL is your belly button. PASSED (v) The time PASSED so quickly. PAST (prep) She ran PAST the lake. PRINCIPAL (n) The PRINCIPAL of the school has just retired. PRINCIPLE (n) The Golden Rule is my guiding PRINCIPLE. STATIONARY (adj) She rides a STATIONARY bike at the gym after work. STATIONERY (n) Our new STATIONERY is printed on recycled paper. THEIR (adj) THEIR gifts sat under the Christmas tree. THERE (adv) THERE she goes again. THEY'RE (cont) THEY'RE our friends. WEATHER (n) The WEATHER is cool today. WHETHER (conj) WHETHER or not you may go has not been decided. WHOSE (pro) WHOSE book is this? WHO'S (cont) WHO'S coming to your party?
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:19:37 GMT 9
TÌM HIỂU TIẾNG MỸ (Bài 4) : MỘT SỐ TỤC NGỮ PHỔ THÔNG
Năm ngoái tôi có một „cụ bà sinh viên“ người Mỹ ghi danh theo học lớp về „educational linguistics“ do tôi phụ trách. Sau buổi đầu khóa học, cụ nói với tôi cụ dám rớt lớp này lắm. Tôi hỏi tại sao thì cụ trả lời, “You can't teach an old dog new tricks!” Để cụ yên lòng, tôi đáp lại, “It's never too late to learn!” Cụ chịu lắm, vì tôi đã dùng một câu tục ngữ để đáp lại lời cụ cũng là một câu tục ngữ mà người Mỹ ưa dùng. Câu chuyện này có một “happy ending” vì cụ đã thành công mỹ mãn khóa học khá chuyên môn và khô khan ấy. Tục ngữ (proverbs) có thể được coi là túi khôn của loài người, có giá trị ở tất cả mọi nơi, áp dụng cho mọi lứa tuổi ở mọi thời đại. Đó là những câu nói ngăn ngắn diễn tả một sự khôn ngoan trong cách sử sự ngoài đời, truyền hết đời nọ sang đời kia mà chẳng biết tác giả là ai. Sự hữu hiệu của tục ngữ trong truyền thông là do ở nội dung ngắn gọn và trực tiếp, cú pháp giản dị, hình ảnh sống động, và ẩn ý rất dễ nhận ra. Nếu nhìn vào các tục ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau, chúng ta sẽ nhận thấy khá nhiều tương đồng, phản ảnh kinh nghiệm sống đại đồng của mọi dân tộc. Chẳng hạn, nếu dân Việt chúng ta có câu “yêu ai yêu cả đường đi” thì người Mỹ có câu “ love me, love my dog” và người Trung Hoa có câu “ái ốc cập ô” (phát âm quan thoại là “ai wu ji wu” và có nghĩa “yêu nhà nào thì yêu cả con quạ đậu trên nóc nhà đó”). Những câu nói này đều biện minh hùng hồn cho ý niệm “the halo effect” trong tâm lý loài người. Trong khi nói chuyện hoặc viết lách bằng tiếng Mỹ mà chúng ta có thể sử dụng một vài tục ngữ phù hợp thì người nghe hoặc người đọc sẽ thú vị với chúng ta hơn. Tôi rất thích cuốn tự điển mang tên RANDOM HOUSE DICTIONARY OF AMERICA'S POPULAR PROVERBS AND SAYINGS dày 480 trang của tác giả Gregory Titelman, xuất bản năm 2000. Tôi đã mải mê với nó trong vài bữa “để lấy hứng” trước khi viết bài này tặng quý bạn bốn phương đang tìm hiểu tiếng Mỹ. Dưới đây là một số các câu tục ngữ quen thuộc của người Mỹ hiện đại mà tôi muốn chia xẻ với quý bạn để quý bạn “làm vốn”, bằng cách liệt kê chúng một cách tương đối theo thứ tự ABC, kèm theo đôi chút giải thích, phỏng dịch, hoặc câu tục ngữ tương đương của tiếng Việt (nếu có thể), được ghi trong ngoặc kép. Tôi sẽ rất vui nếu được quý bạn chia xẻ cùng tôi những câu tục ngữ Việt tương đương khác mà tôi không biết hoặc không nghĩ ra khi viết bài này. Địa chỉ điện thư của tôi là pdam@twu.edu <mailto:pdam@twu.edu>. THE APPLE DOESN'T FALL FAR FROM THE TREE = Con cái thường theo gương cha mẹ, hoặc trông giống cha mẹ. “Cha nào con nấy” hoặc “Rau nào sâu nấy.” AS YOU SOW, SO SHALL YOU REAP = “Reo gió gặp bão” hoặc “Có gan ăn cắp, có gan chịu đòn.” BEAUTY IS IN THE EYE OF THE BEHOLDER = Nhan sắc tùy thuộc con mắt chủ quan của người ngắm. “Con vua vua dấu, con châu chấu châu chấu yêu.” BEGGARS CAN'T BE CHOOSERS = Đã đi ăn xin thì không thể khó tính. “Ăn mày đòi xôi gấc” cũng có ý nghĩa tương tự, mặc dù động từ trong câu tiếng Việt không ở thể phủ định như câu trong tiếng Mỹ. BIRDS OF A FEATHER FLOCK TOGETHER = “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Câu này thường có một ý nghĩa tiêu cực (negative connotation). BLOOD IS THICKER THAN WATER = “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. THE CUSTOMER IS ALWAYS RIGHT = Châm ngôn của các công ty Mỹ: Chớ bao giờ cãi lại hoặc thách đố khách hàng, vì ta làm như vậy họ sẽ đi hãng khác. DIFFERENT STROKES FOR DIFFERENT FOLKS = Mỗi người đều có sở thích riêng. “Nhân tâm tùy thích.” DON'T AIR YOUR DIRTY LINEN IN PUBLIC = Đừng “vạch áo cho người xem lưng.” DON'T BURN YOUR BRIDGES BEHIND YOU = Đừng “đóng cửa đốt cầu” sau lưng mình. Hãy nghĩ đến hậu quả trước khi làm một quyết định không thể vãn hồi. DON'T CRY OVER SPILLED MILK = Đừng hối tiếc khi “nước đã qua cầu” hoặc “ván đã đóng thuyền.” DON'T WEAR YOUR HEART ON YOUR SLEEVE = Chớ để người khác biết cảm nghĩ của mình. Lời khuyên khôn ngoan cho những ai thuộc loại “ruột để ngoài da” đấy. EAT, DRINK, AND BE MERRY, FOR TOMORROW WE DIE = Triết lý của phái hưởng lạc: Hãy bắt lấy ngày hôm nay. “Chơi xuân kẻo hết xuân đi / Cái già sồng sộc nó thì theo sau.” EVERY CLOUD HAS A SILVER LINING = Trong bất cứ một tai họa nào cũng có thể xảy ra điều may mắn, như trong câu chuyện “Tái ông thất mã.” EVERY DOG HAS HIS DAY = Mọi người, sớm hay muộn, sẽ có ngày được nở mày nở mặt với thiên hạ. “Sông có khúc, người có lúc” hoặc “Trời không đóng cửa ai.” FAMILIARITY BREEDS CONTEMPT = “Gần chùa gọi Bụt bằng anh” hoặc “Chơi với chó, chó liếm mặt.” THE FIRST STEP IS THE HARDEST = “Vạn sự khởi đầu nan.” A FRIEND IN NEED IS A FRIEND INDEED = Người bạn (cưu mang mình) lúc mình cùng khốn quả là người bạn đích thực. HASTE MAKES WASTE = “Dục tốc bất đạt” hoặc “Đi đâu mà vội mà vàng / Để vấp phải đá, để quàng phải dây?” IDLE HANDS ARE THE DEVIL'S TOOLS = “Nhàn cư vi bất thiện.” IGNORANCE IS BLISS = Trong một cơn nguy, người không thức thời sẽ chẳng lo âu. Lúc đó, đúng là “ngu si hưởng thái bình.” IMITATION IS THE SINCEREST FORM OF FLATTERY = Bắt chước là hình thức chân thành nhất của xu nịnh. LET BYGONES BE BYGONES = Hãy quên đi chuyện cũ và bỏ qua nỗi oán thù. Một châm ngôn rất hay, vì người Mỹ cũng tin là “bearing a grudge can kill you.” LIVE AND LET LIVE = Hãy chấp nhận người khác và để họ sống cuộc đời riêng của họ. “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào.” LOOSE LIPS SINK SHIPS = Lời nói hớ hênh (tiết lộ thiên cơ) có thể làm hư chuyện lớn. Vài nhân vật trong chánh quyền Mỹ đã mất chức cũng vì tật này. LOVE ME, LOVE MY DOG = “Yêu ai, yêu cả đường đi / Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng.” MAN PROPOSES, GOD DISPOSES = “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” MONEY DOESN'T GROW ON TREES = Kiếm tiền chẳng dễ chút nào đâu. NEVER SAY DIE = Hãy tiếp tục phấn đấu, đừng bao giờ bỏ cuộc. Lời khuyên khẩn thiết cho những ai đang gặp khó khăn to lớn. NEVER SAY NEVER = Hãy nghĩ đến những điều tích cực. Cuộc đời có nhiều ngạc nhiên ngoạn mục, vì có những chuyện khó có thể xảy ra mà vẫn xảy ra như thường. NOTHING VENTURED, NOTHING GAINED = Chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu cả, nếu chúng ta không chịu “liều” (take a risk). “Muốn bắt cọp phải vào hang cọp” chăng? OLD HABITS DIE HARD = Người ta có khuynh hướng không muốn từ bỏ những thói quen, không muốn chấp nhận đổi thay. ONCE A THIEF, ALWAYS A THIEF = Người ta chẳng bao giờ thay đổi. ONCE BURNED, TWICE SHY = Sau một tai nạn, người ta cẩn thận hơn nhiều. “Đạp vỏ dưa, thấy vỏ dừa cũng sợ” hoặc “Kinh cung chi điểu.” ONE ROTTEN APPLE SPOILS THE BARREL = “Con sâu làm rầu nồi canh.” OPPORTUNITY KNOCKS BUT ONCE = Khi cơ hội thuận tiện đến tay, chúng ta phải hành động cấp kỳ, vì chẳng còn lần tới. A PROMISE IS A PROMISE = Khi đã hứa rồi thì phải giữ lời hứa. “Quân tử nhất ngôn” chăng? Máu tếu của người Việt đã sáng chế ra câu “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại / Quân tử nói đi nói lại mới là quân tử khôn.” SCRATCH MY BACK AND I'LL SCRATCH YOURS = “Có đi có lại mới toại lòng nhau.” SEE NO EVIL, HEAR NO EVIL, SPEAK NO EVIL = Câu tục ngữ dùng để mô tả những người không muốn dấn thân vào một sinh hoạt nào đó. THE SPIRIT IS WILLING BUT THE FLESH IS WEAK = “Lực bất tòng tâm.” THE SQUEAKY WHEEL GETS ALL THE GREASE = Những kẻ lớn tiếng (đòi hỏi giúp đỡ) thì được giúp đỡ tối đa. Châm ngôn cho những ai nhút nhát, e ngại phải lên tiếng xin trợ giúp. STILL WATERS RUN DEEP = Chớ để bề ngoài lừa chúng ta. THERE ARE OTHER FISH IN THE SEA = Còn có những người khá hơn ở ngoài đời. Câu tục ngữ này thường được dùng để an ủi những ai vừa mất bạn gái hay bạn trai. THERE'S A BLACK SHEEP IN EVERY FLOCK = Trong bất cứ nhóm người nào cũng có một kẻ xấu. THERE'S A SKELETON IN EVERY CLOSET = Ai ai cũng có một bí mật giữ kín trong lòng, theo kiểu “sống để bụng, chết mang theo.“ THERE'S NO SUCH THING AS A FREE LUNCH = Chẳng có gì trên đời là miễn phí. THERE'S NOTHING NEW UNDER THE SUN = Tất cả mọi chuyện đều đã hiện hữu trước đây cả rồi; làm sao có chuyện mới được. TOO MANY COOKS SPOIL THE BROTH = “Lắm thầy thối ma.” WHAT GOES AROUND, COMES AROUND = Điều gì chúng ta nói hoặc làm ngày hôm nay sẽ trở lại với chúng ta trong tương lai, như một thứ “quả báo.” “Quả báo nhãn tiền” chăng? WHEN IN ROME, DO AS THE ROMANS DO = “Nhập gia tùy tục.” WHERE THERE'S A WILL, THERE'S A WAY = “Có chí thì nên.” YOU WIN SOME, YOU LOSE SOME = Chúng ta không thể lúc nào cũng thắng. Câu này để an ủi những người nản chí khi thua cuộc, theo kiểu “thua keo này, ta bày keo khác” trong ngôn ngữ chúng ta.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:22:00 GMT 9
TÌM HIỂU TIẾNG MỸ (Bài 5) : UYỂN NGỮ Giao hảo là chức năng xúc cảm của ngôn ngữ. Các cụ chúng ta ngày xưa hẳn đã thấy nhiều ngườiï nói năng vụng dại làm phật lòng người nghe một cách vô tích sự nên đã có lời khuyên răn chí lý: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Cũng trong chiều hướng đó, người Mỹ ngày nay ít khi dám "tell it like it is", vì những lời nói " toạc móng heo" phiền lòng người nghe rất là bất lợi trong việc giao dịch. Ý nghĩa "lựa lời mà nói" của người Việt chẳng khác chi với chủ đích của động từ "sweet-talk" trong tiếng Mỹ, như trong câu trả lời của một đồng nghiệp Mỹ khôn khéo của tôi khi tôi hỏi anh tại sao cái bà thư ký nổi tiếng hắc ám trong văn phòng lại luôn luôn vui vẻ giúp đỡ anh hết lòng: "I just sweet-talk her into doing things for me." Rồi bằng một cái nháy mắt tinh ma, anh kết luận: "It works every time, Phap!" Uyển ngữ (euphemism) là lối nói trang nhã, bóng gió về một vấn đề tế nhị hoặc về một điều có thể làm người nghe bối rối, phiền lòng. Đó là những khi "pass away" được dùng để thay thế cho "die", hoặc "golden years" thay cho "old age" và "economically disadvantaged" thay cho "poor." Các cô thư ký văn phòng (secretaries) đôi khi được gọi bằng uyển ngữ "administrative assistants." Nước Mỹ càng ngày càng tạp chủng cho nên các chánh trị gia phải cẩn thận lời ăn tiếng nói để không xúc phạm bất cứ sắc tộc nào. Họ sử dụng một số uyển ngữ thuộc loại "politically correct" để làm vừa lòng phụ nữ cũng như các sắc tộc thiểu số. Để thể hiện quan niệm nam nữ bình đẳng, từ ngữ "chairperson" (hoặc "chair") thường được dùng thay cho "chairman." Trong một cuộc hội thảo ở trường tôi về giáo dục đa văn hóa vài năm về trước, một nữ diễn giả đã hăng hái đề nghị tiếng Mỹ nên thêm hai từ mới là "shero" và "herstory" để cho cân xứng với hai từ cũ sặc mùi thiên vị phái nam là "hero" và "history"! Người Mỹ da đen không thích người khác gọi mình bằng màu da, nên ngày nay các chính trị gia gọi họ là "African Americans." Nhưng ngày nay giới lãnh đạo chính trị, quân sự, và thương mại bên Mỹ cũng có khuynh hướng dùng uyển ngữ để che dấu hoặc tô mầu sự việc và biến cố. Đây là lối dùng uyển ngữ có thể nói là không được lương thiện cho lắm, nhưng vẫn thấy ê hề trên báo chí. Quả thực "a strategic movement to the rear" (một di chuyển chiến lược về hậu phương) nghe đỡ mất mặt hơn là "a retreat" (một cuộc tháo chạy). Một "preemptive strike" (đánh phủ đầu) nghe đỡ mất tư cách hơn là một "sneak attack" (đánh lén). Thay vì nhận mình đã nói sai sự thực tầy trời (we made gross errors of fact) các chánh trị gia Mỹ dùng uyển ngữ "misspeak" để nhẹ nhàng chạy tội, như trong câu "sorry, we misspoke ourselves"! Và thay vì nói thẳng ruột ngựa ra là "we will have to lay off employees" (chúng tôi sẽ phải sa thải nhân viên), các chủ tịch công ty ưa dùng câu uyển ngữ "we will have to downsize the company." Và khi một công ty bị "downsized" thì các nhân viên bị sa thải sẽ không nhận "dismissal notices" mà lại nhận "pink slips"! Giáo giới tại Mỹ thường khuyên học trò nên dùng uyển ngữ khi giao dịch ngoài đời để không bị người khác coi mình là "insensitive", nhưng khi làm bài trong lớp học hoặc soạn thảo các luận văn tốt nghiệp thì phải viết một cách vừa trong sáng vừa đúng sự thực mới được. Uyển ngữ đâu đâu cũng thấy, và chúng càng ngày càng được sinh sản ra nhiều. Bảng liệt kê một số uyển ngữ tiếng Mỹ dưới đây đi cùng với nghĩa đen "huỵch toẹt" đau lòng của chúng sẽ khiến quý bạn suy nghĩ đến lý do tại sao chúng ra đời. AU NATUREL = naked. CATEGORICAL INACCURAY = lie. CHARACTER LINE = wrinkle. CLARIFY = retract a previous statement. COLLATERAL DAMAGE = civilian casualties and destruction of civilian buildings after a bombing raid. COMFORT STATION = public toilet. CORRECTIONAL FACILITY = prison. DARN = d**n. (THE) DEPARTED = the dead person; died. DISINCENTIVE = penalty. DISINFORMATION = lie. ETHNIC CLEANSING = eliminating (killing) people from racial or national backgrounds different from one's own. EXPECTING = pregnant. FRIENDLY FIRE = artillery fire from one's own forces that mistakenly wounds or kills someone on one's own side. FURLOUGH = lay off. HAPPY HOUR = time set aside for drinking in late afternoon. HECK = hell. IMBIBE = drink alcoholic liquors excessively. INTIMATE = having sexual intercourse. LADY OF THE EVENING = prostitute. LANDFILL = garbage dump. NEGATIVE GAIN IN TEST SCORES = lower test scores. NEGATIVE PATIENT CARE OUTCOME = the patient died. NEUTRALIZE = kill. NORMAL GRATITUDE = bribe. OUT-PLACEMENT = help from the company that fired you to find a new job. OUT-SOURCE = giving work to outside workers for whom no benefits are required. PACIFY = repress or destroy an enemy. PERSONAL FLOTATION DEVICE = life preserver on an airplane. PERSONAL REPRESENTATIVE = salesperson. PREOWNED = used, as in "used car." REMAINS = dead body. REVERSE ENGINEERING = taking something apart to see how it works and then copying it. REUTILIZATION MARKETING YARD = junkyard. SUB-OPTIMAL = failed. SUBSTANTIVE NEGATIVE OUTCOME = death. SUFFERER FROM FICTITIOUS DISORDER SYNDROME = liar. SURREPTITIOUS ENTRY = break-in. SYNTHETIC GLASS = plastic. TEMPORARILY DISPLACED INVENTORY = stolen goods. THERMAL THERAPY KIT = bag of ice cubes. THERAPEUTIC MISADVENTURE = surgeon's error. VEGETARIAN LEATHER = vinyl. VISUALLY CHALLENGED = blind.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 5:33:12 GMT 9
Anh Ngữ Học Mà VuiBài Số 3 TS Trịnh Nhật LTS. Bài học Anh ngữ nói chung chủ yếu là bàn về tiếng Anh thời sự, đã đọc được trên báo chí, nghe được trên đài phát thanh truyền hình, với các độc giả trong tinh thần “Tôi học, Anh học, Chị học, Em học, Chúng ta cùng học!”. Các từ vựng, đoản ngữ, tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn... tiếng Anh, tiếng Việt sẽ được lồng vào những mẩu chuyện vui, cà kê dê ngỗng, cốt là giúp cho người học dễ nhớ, vui mà học được. Những lời bàn tán ở đây nhất định không thể được coi là những lời “thánh phán”, mà các độc giả, tất nhiên có những người biết chuyện, sẽ được mời đóng góp ý kiến của mình hoặc đặt câu hỏi để chúng ta có dịp cùng nhau tìm hiểu, đồng thời chia xẻ niềm vui chung là học hỏi lẫn nhau. Bài học còn có thêm phần liệt kê những kết hợp ngữ (collocations) trong tiếng Anh, tiếng Việt để người học tham khảo. Còn chăng một nền ngoại giao “bán bòng”? Biến động bất ngờ xẩy ra ở Li-băng đã khiến Ngoại trưởng Condoleezza Rice, phải hủy bỏ chuyến công du Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Thay vào đó Dr. Rice, phụ nữ da đen đầu tiên làm Ngoại trưởng Mĩ (U.S. Secretary of State), đã thực hiện chuyến du hành chớp nhoáng sang gặp các vị lãnh đạo trong vùng Trung Đông (Middle East) trong đó có nước Li-băng (Lebanon) và nước Israel là nước mà ngoài dân Palestines ra thì đa số là dân Do Thái (Jews). Mục đích của Mĩ qua Tiến sĩ Rice là tìm kiếm một nền hoà bình lâu dài, chứ không phải chỉ là một cuộc ngưng bắn (ceasefire) mong manh như trong quá khứ cho vùng Trung Đông. Có được hay không điều Mĩ trông đợi phải để hậu hồi phân giải (it remains to be seen). Chỉ biết giờ này đây Tiến sĩ Rice đang tiếp tục sang các nước Liên Âu (European Union) để vận động ngoại giao (diplomacy). Qua những diễn biến chính trị ngoại giao hiện thời nhắc nhở chúng ta đến nước Hoa Kì dưới thời Nixon và chính sách ngoại giao con thoi (shuttle diplomacy) thực hiện bởi Ngoại trưởng Henry Kissinger của Mĩ. Một trong những dấu hiệu công khai cho thấy mối quan hệ bang giao giữa Hoa kì và Trung Cộng được cải thiện khởi đầu vào Tháng Tư, năm 1971, khi đoàn Bóng Bàn Mĩ (American Ping-Pong team), đang tham dự Giải Vô địch Bóng bàn Thế giới tại Nhật Bản lần thứ 31, thì nhận được lời mời sang thăm viếng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (People’s Republic of China) với mọi chi phí sẽ được đấu thủ đồng nghiệp Trung Quốc đài thọ. Vào ngày 10, Tháng Tư, phái đoàn gồm chín đấu thủ, bốn viên chức, và hai vị phối ngẫu (two spouses) của họ đi băng qua một chiếc cầu từ Hồng Kông sang lục địa Trung Hoa mở đầu một kỷ nguyên mà giới truyền thông gọi là kỷ nguyên “ngoại giao Bóng bàn” (Ping-Pong diplomacy). Họ là nhóm người Mĩ đầu tiên được phép vào Trung Hoa kể từ khi đất nước này thuộc vào tay Trung Cộng (the Communist take-over). Thủ tướng Chu Ân Lai đã chứng tỏ tài ngoại giao khéo léo tuyệt vời khi ông đãi tiệc người Mĩ trong Đại Sảnh Đường Nhân Dân vào ngày 14 Tháng Tư. Cùng ngày hôm đó, Hoa Kì công bố bãi bỏ lệnh cấm vận mậu dịch 20 năm (to remove 20-year embargo on trade) với Trung Cộng. Sau đó một đoàn bóng bàn Trung Quốc đáp lễ lại bằng một chuyến thăm viếng Mĩ Quốc. Sự kiện này đánh dấu sự hòa hoãn/tan băng/hết lạnh nhạt trong quan hệ (a thawing in relations) với Hoa Kì và để rồi được tiếp nối bằng chuyến viếng thăm của Tổng thống Richard Nixon vào năm 1972, tức là hơn một năm sau sứ mạng bí mật (secret mission) của Kissinger tới Bắc Kinh (Beijing). Trở lại bài học Anh Ngữ tuần này với chủ đề “bán bòng” là “bóng bàn”. Tại sao lại bàn về “bóng bàn”? Một phần cũng vì qua Đài SBS-Radio, tôi được nghe Phan Bách phỏng vấn danh thủ bóng bàn Lê Văn Inh về Giải Bóng Bàn Truyền thống (Ping Pong/Table Tennis Classic Tournament) trong Cộng Đồng được tổ chức hai ngày Thứ Bảy 22-7 và Chủ Nhật 23-7-2006 vừa rồi. Một phần khác là Tuần Báo Dân Việt của Lưu Dân có dự phần tổ chức trong đó. Được biết là Thứ Bẩy tranh giải vô địch Cộng đồng Việt Nam, còn Chủ Nhật là tranh giải vô địch Mở rộng cho cả các sắc tộc khác nữa (other ethnic communitites) tham dự. Sáng Thứ Bẩy tôi đã “lết” đến tận nơi để được “tai nghe mắt thấy”, coi sơ qua tình hình đánh vòng loại rồi về. Tôi phải “lết” đến đó là vì tôi bị tai nạn xe cộ khá nặng (rather bad car accident) cách đó đôi ba ngày--xe Toyota Seca của tôi bị “nát bấy” (write-off/written-off). Tại Trung tâm Sinh hoạt Cộng đồng, tôi may mắn gặp được một khuôn mặt quen thuộc là Hùng “líp” (một cựu danh thủ bóng bàn, nay thỉnh thoảng cũng đánh ‘tennis’ với chúng tôi), và đã nhờ anh ta chỉ cho biết ai là Trần Song Kiệt, vô địch bóng bàn trong cộng đồng người Việt từ nhiều năm nay, để chụp tấm hình kỉ niệm. Tôi còn được giới thiệu thêm một tay vợt tên tuổi khác là Trần Nhạc Xuyên. Không hiểu hai anh này có làm nên cơm cháo gì trong lần tranh giải kì này không? Tin giờ chót cho biết Trần Song Kiệt, hạ Trần Nhạc Xuyên, đương kim vô địch (defending champion) bóng bàn cộng đồng Người Việt ở vòng chung kết, và anh Kiệt cũng là vô địch Giải Bóng Bàn Truyền thống Toàn Quốc Úc lần 1, 2006, khi anh hạ Daryn Lu trong một trận đấu vô cùng gay go 11/6, 11/8, 11/6, 8/11, 12/14,12/10, 11/9 (tức là thắng 4 thua 3). Đồng hạng Ba Đơn Nam Mở Rộng là Trần Nhạc Xuyên và Geoge Tang. Trần Song Kiệt được công nhận là đấu thủ xuất sắc nhất trong ngày Chủ Nhật 23-7-2006, và nhận chức vô địch với Chiếc Cúp Vàng (Golden Trophy/Cup) và 1000 Úc kim. Ngày tôi còn nhỏ, gần vào trạc tuổi choai choai (teenager) đá bóng khá giỏi. Có 7, 8 thằng bạn cùng trong xóm, thằng nào cũng giỏi đá bóng, cùng đều nhanh nhẹn, 'sút' đẹp, 'bon' banh hay, tài nghệ rất tương đồng, nên chúng tôi mến phục, thích nhau lắm. Bố tôi thấy tôi mê đá bóng, ham vui bạn bè nên cụ hơi lo, vả lại mình là con một (the only son), lại là cháu đích tôn. Cụ muốn tôi nên 'người', nghĩa là phải có ít chữ nghĩa thánh hiền, không nhất thiết phải học ra làm quan như thời ông cụ thân sinh ra ông, nhưng ít nhất thì cũng phải giật được mảnh bằng Tú Tài (HSC/VCE), Cử Nhân (BA, BS) cho oai với người ta, cho được no cơm ấm cật! Ðể đạt được mục đích thâm sâu thầm kín của mình, Cụ không ngần ngại nói thẳng cho tôi biết rằng "Ðá bóng đâu có ăn cái 'giải' gì? Mình có đá giỏi lắm thì người ta cũng chỉ gọi mình bằng 'thằng', chẳng ai họ gọi mình bằng 'ông' đâu?" Nói cách khác, đá bóng là cái nghề dành cho bọn "giá áo túi cơm". Ở vào cái thời trước di cư 1954, trên cái đất nước nghèo đói loạn lạc hình chữ S của chúng ta thì "lời ông chẳng chê được nào"! Tôi bỏ 'nghề' đá bóng khi tài năng còn mới chớm, quay ra đánh 'bóng bàn'. Thích bóng bàn thì chơi, nhưng rồi cũng ham mê không ít. Hồi hơn 10 tuổi ở Hải-Phòng, thường ở nhà thì lấy phản, lấy giường làm “bàn”, tới trường thì mang vợt theo, đánh lúc ra chơi. Tôi còn nhớ học trường tư thục Phùng Hưng năm 1953, 1954, do ông Chu Văn Bình (sau này là nhà văn Chu Tử) làm Hiệu Trưởng (Principal). Khi vào trong Nam, tôi thường đánh ở Câu Lạc Bộ Tổng Hội Học Sinh ở Đường Cống Quỳnh (sau này là trụ sở Trường Trung Học Hưng Đạo, do Giáo sư Nguyễn Văn Phú làm Hiệu Trưởng). Gọi là thắng giải to lớn thì không có nhưng giải nhỏ thì cũng có lai rai. Chẳng hạn như vào được bán kết (xếp hạng ba) Giải Câu Lạc Bộ Tổng Hội Học Sinh đó. Tôi thua Hậu (về sau là cây vợt có tiếng của Hải Quân, còn Khanh (con Bác Văn Hớn, tiệm chụp hình ở Đường Cống Quỳnh) là vô địch giải này. Khanh sau này cũng là một trong 5 cây vợt hàng đầu Miền Nam Việt Nam. Tôi cũng đã có dịp cùng đoàn tuyển thủ của Hội Bóng Bàn Lam Sơn, trụ sở là Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo ở Đường Hiền Vương, Sàigòn xuống đánh giao hữu với đội tuyển thủ của Bến Tre, tỉnh Kiến Hoà mà cây vợt số 1 tôi còn nhớ tên là Lan, công thủ rất đẹp, cú “rờ-ve”/nghịch tay (backhand) của chàng ta thật tuyệt vời. Tôi cũng đã từng theo đoàn bóng bàn này, cùng với đoàn võ thuật Lam Sơn đi tham dự Hội Chợ Cao Nguyên Ban Mê Thuột năm 1956, khi đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát hụt. Tại Hội Chợ này, những tay vợt bóng bàn quốc tế Việt Nam như Mai Văn Hoà và Trần Văn Đức cũng được mời lên đánh biểu diễn (exhibition matches). Tôi được Cúp Bạc trong xóm ở Đường Trần Hưng Đạo gần Chợ Quán. Tôi cũng ghi danh thi đấu giải hạng nhì (thời đó gọi theo Tây là ‘deuxième série’) nhiều lần, mà thường thì cũng vào được vòng 2, vòng 3 (second round, third round). Thế thôi. Kể từ sau năm Đệ Tam, lên Đệ Nhị, tôi đành phải bỏ chơi bóng bàn để tập trung vào việc học thi Tú Tài. Niên học Đệ Nhất Trung Học Chu Văn An, tôi là cây vợt số 1, và một anh nữa (quên tên) cây vợt cố 2 đại diện Trường, dự tranh giải giữa các trường trung học với nhau, trong khi đó Phạm Gia Anh và Cao Lê Hùng là cây vợt số 1 và số 2 của Trường Trung Học Pétrus Ký. Cả hai tay vợt này lúc đó hình như đã là tuyển thủ đại diện Việt Nam Cộng Hoà (Republic of Vietnam) tranh giải trong khu vực Á Châu. Thật ra tôi đã cũng có nhiều dịp tập dượt bóng bàn với hai anh chàng này mấy năm trước đó, nhất là với Cao Lê Hùng, khi họ chưa nổi tiếng. Giải bóng bàn nói trên được tổ chức tại Hội Quán Bóng Bàn Nam Việt, do thân sinh của nữ danh thủ số 1 bóng bàn Việt Nam là cô Kim Ngôn làm chủ. Khi sang đến Úc du học Cao học đầu năm 1974, thì khoảng năm 1976, 77 (?) mặc dù không tập dượt gì mấy tôi là cây vợt số 2 của Đại học Macquarie University tranh Giải Bóng Bàn Liên Đại học (Inter-Varsity Table Tennis Tournament), còn anh chàng người Tân gia Ba (Singaporean), tên Edward, là cây cợt số 1 đại diện Trường. Phải nói là tôi hưởng được phần nào cái "gien" (gene) của ông cụ thân sinh ra tôi về bộ môn bóng bàn. Bố tôi, tên cúng cơm là Trịnh Văn Ứng, đứng chung với ông bạn tên Thi, đã đoạt chức vô địch đôi nam (Men’s Doubles title) trong Giải Vô địch Bóng bàn Ðông Dương (Indochina Men’s Table Tennis Championship) năm 1935, tại Huế, lúc ông 24 tuổi, dưới sự chủ toạ của Hoàng Ðế Bảo Ðại (Emperor Bao Dai). Biến cố lịch sử này đã được kí giả thể thao lão thành Nguyễn Duy Dưỡng ở Sàigòn sau này kể lại, có cả hình ảnh (tôi còn cất giữ đâu đó), trong một tờ báo đăng tại Việt Nam cách đây khoảng 15 năm. Cầu chúc cho phong trào “bán bòng” trong Cộng Đồng Việt Nam tại Úc “lên cao như diều gặp gió!” Trịnh Nhật Sydney, tháng 7, 2006 Kết hợp ngữ (Collocations) table noun 1 cái bàn · adj big lớn, high cao, huge khổng lồ, large lớn, long dài | little nhỏ, low thấp, small nhỏ, bé | circular (hình) bán nguyệt, vòng cung, rectangular chữ nhật, round tròn, square vuông | drop-leaf, fold-away gấp, folding gập, trestle (bàn kê trên) niễng We arranged the party food on a trestle table in the garden Chúng tôi sắp dọn thức ăn cho tiệc liên hoan trên cái bàn kê trên niễng ỏ ngoài vườn.. | baize-covered phủ dạ (xanh), glass-topped (mặt bàn) thuỷ tinh, white-clothed, white-napped (phủ) vải trắng | glass kính/kiếng, plastic nhựa pờ-lát-tíc, wooden gỗ, cây | polished đánh bóng, scrubbed chùi sạch | ramshackle xập xệ, hư nát, rickety ọp ẹp, rough nhám, ráp | empty trống We found an empty table at the back of the restaurant Chúng tôi tìm thấy mốt cái bàn trống ở đằng sau nhà hàng. | bare trơ trọi | corner trong góc (phòng), window (bên/gần) cửa sổ We'll take the corner table near the bar, please Cho chúng tôi chọn cái bàn trong góc gần quầy rượu nhe | dining (room) phòng ăn, kitchen (trong) nhà bếp She often does her homework at the kitchen table Cô ta thường làm bài tập (cho về nhà làm) ở bàn trong bếp.. | breakfast (ăn) bữa sáng, điểm tâm, dinner (ăn) bữa tối, lunch (ăn) bữa trưa We never discuss politics at the breakfast table Chúng tôi không bao giờ bàn chuyện chính trị ở bàn ăn sáng. | conference hội nghị, negotiating thương thuyết They spent hours around the negotiating table Họ dùng nhiều thời giờ quanh bàn thương thảo. | billiard bi-da, ping-pong bóng bàn, pool, snooker bi-da, sì-núc-kơ, table-tennis bóng bàn, | makeshift tạm We turned the box upside down and used it as a makeshift table Chúng tôi lật ngược cái hộp rồi lấy hộp dùng tạm làm cái bàn. · verb + table sit around/round, sit (down) at ngồi quanh, ngồi xuống tại They were all five of them sitting round the kitchen table Bọn họ tất cả năm người ngồi quanh cái bàn trong nhà bếp. | get up from, leave đứng dậy rời khỏi (bàn) He left the table in a hurry Anh ta vội vã rời khỏi bàn. I lay, set đặt, xếp, bầy Please lay the table for six Làm ơn xếp bàn cho sáu người. | clear dọn dẹp You clear the table and I’ll wash the dishes Anh dọn sạch bàn còn tôi sẽ rửa chén bát. | book, reserve đặt, đặt trước, giữ trước We booked a table in our favourite restaurant for 8 p.m. Chúng tôi đặt một cái bàn trong nhà hàng chúng tôi ưa thích cho 8 giờ tối. · table + noun decorations (vật dụng) trang trí, trang hoàng | edge cạnh, mép · prep across the ~ ngang qua She leaned across the table towards him Cô ta nghiêng mình qua cái bàn về phía hắn ta. around/round the ~ quanh We gathered round the table to hear his news Chúng tôi quây quanh cái bàn để nghe tin tức của anh ấy, at the ~ ở to sit down at the table ngồi xuống tại cái bàn đó on the ~ She put the vase on the table Cô ta đặt chiếc bình trên bàn, over the ~ trên They flirted over the dinner table Họ tán tỉnh nhau ở bàn ăn under the ~ dưới The potato rolled under the table Củ khoai tây lăn dưới gầm bàn. · PHRASE the centre/middle of the table giữa bàn, the edge/end/head of the table mép, dìa/cuối/đầu bàn My father always sits at the head of the table Cha tôi bao giờ cũng ngồi ỏ đầu bàn, a round table discussion/meeting một cuộc thảo luận/hội nghị bàn tròn, round table talks những cuộc thảo luận bàn tròn All parties took part in the round table discussions on the peace process Tất cả các phe nhóm tham dự vào các cuộc thảo luận bàn tròn về tiến trình hòa bình.. 2 bảng liệt kê/kê khai dữ kiện/con số ADJ statistical thống kê, liệt kê (số liệu) | league liên đoàn The league table shows the Danish team in first place with eight points Bảng liên đoàn cho thấy toán/đội Đan Mạch đứng hạng nhất với tám điểm. · VERB + TABLE compile, draw (up) làm, thiết lập | see xem See Table XII for population figures Xem Bảng XII để biết các con số về dân số. · TABLE + VERB shows sth cho thấy/trình bày cái gì · prep in a/the ~ He showed the price fluctuations in a statistical table Anh ta cho thấy những thay đổi về giá cả trong một bảng thống kê o United are second in the table Đội United đứng hạng nhì trong bảng xếp hạng. · PHRASE the bottom/top of the table cuối/đầu bảng, mid-table giữa bảng The team will be lucky to finish the season mid-table Toán/đội đó sẽ may mắn kết thúc mùa thi đấu xếp ở giữa bảng.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 5:35:53 GMT 9
Bồng bềnh trên sóng đại dương Cuối Tháng 7 vừa rồi, qua Tuần Báo Dân Việt, tôi nhận được một email (meo/điện thư) của một nữ độc giả, tên là Bội Trân, hỏi ý kiến tôi về một chuyện như thế này: “Braille tiếng Việt dịch ra là ‘chữ nổi’. Một người Úc học tiếng Việt lại dịch ‘chữ nổi’ thành ra ‘floating words’. Theo nghĩa của chữ Braille dành cho người mù, thì ‘chữ nổi’ phải dịch ra là ‘protruding words" mới đúng. Xin anh cho biết ý kiến.” Sau khi dựa trên những định nghĩa của 6 cuốn từ điển tiếng Anh và một cuốn từ điển tiếng Việt, tôi đã trả lời chị đại loại như thế này: “Dịch ‘chữ nổi’ là ‘floating words’ hoặc ‘protruding words’ là dịch ‘từ-ra-từ’ (word-for-word), là dịch ‘tự nghĩa’ (literally), và như trong trường hợp này là sai, là không đúng lối nói của người bản ngữ tiếng Anh. Đừng quên là tiếng Việt khi nói: ‘chữ’ thì tiếng Anh có thể dịch là ‘words’, mà cũng còn có thể dịch là ‘characters’, ‘letters’, như trong chữ cái của bảng mẫu tự ABC (letters/characters of the alphabet). Đấy là chưa kể từ ‘script’ còn được dùng để dịch từ ‘chữ’, như trong chữ quốc ngữ (Romanized/Latinized script) của tiếng Việt nữa. Vậy thì khi dùng tiếng Việt ‘chữ nổi’ (trong trường hợp này là chữ dành cho người mù dùng) phải trưng dụng đến những cụm từ ‘raised dots’, ‘small raised marks’,’“groups of raised dots’, ‘combination of tangible points’, ‘system of dots in relief’ thay cho chữ viết, bản in mà người mù có thể dùng ngón tay sờ thấy để đọc chữ.”(trích từ 6 cuốn Từ điển Anh Ngữ). Còn Từ Điển Tiếng Việt, do Hoàng Phê (chủ biên), Trung tâm Từ Điển học, 2005, thì định nghĩa: “chữ nổi – (còn gọi là chữ Bray) là hệ thống chữ viết dùng những chấm nổi trên mặt giấy, có thể dùng tay sờ nhận biết được, dành riêng cho người mù.” Sau câu góp ý của tôi thì vài ngày sau, tôi nhận được ‘email’ của chị Bội Trân gửi thẳng cho tôi. Chị viết: “Rất cám ơn phần trình bày cặn kẽ của anh về Braille và ‘chữ nổi’. BT biết rằng khi dịch ‘từ-ra-từ’ thì đó là một kiểu chẳng đặng đừng. Lý do của việc thắc mắc này là, một nữ họa sĩ người Lào, Savanhdary Vongpoothorn, có một tác phẩm trong Sydney Biennale, trưng bày tại Art Gallery of NSW. Tác phẩm này mang tên ‘Floating Words’, dịch ra từ chữ Braille, tức là ‘chữ nổi’. Tác phẩm này làm bằng những tờ báo in bằng Braille dành cho người mù ở Việt Nam. Chồng của Savanhdary là Dr. Ashely Carruthers, một người nghiên cứu về Vietnam Diaspora và nói được tiếng Việt khá tốt. Bởi vì chữ Braille phải nổi lên (protrude) để người mù có thể nhận diện được bằng ngón tay của họ, nên BT nghĩ rằng cái tên ‘Floating Words’ dành cho tác phẩm là hơi gượng ép. Bởi vì những chữ Braille này không phải "bềnh bồng" như trên mặt nước, mà chúng phải trồi lên khỏi bề mặt của tờ giấy. Nếu có thể, xin anh cho biết ý kiến thêm. Tác phẩm của Savanhdary vẫn còn trưng bày đến khoảng 20 tháng 8.” Nay tôi xin nói thêm ở đây, nếu chủ ý của người học tiếng Việt muốn chứng tỏ mình hiểu ‘nghĩa đen’ của tiếng Việt thì không nói làm gì. Nhưng ‘nổi’ ở đây không thể là ‘floating’ [nổi trôi, trôi nổi, bồng bềnh, bềnh bồng (trên mặt nước), hoặc lơ lửng, dật dờ, vật vờ (trên không, trong không khí)], mà cũng không thể là ‘protruding’ [lồi, thò ra, nhô ra (như trong mắt lồi, môi vều, răng vẩu, rốn lồi), hoặc (như trong tảng đá nhô ra trên mặt vách đá, mỏm núi nhô ra khỏi vịnh)]. Tôi chưa kịp trả lời điện thư của chị thì tôi gặp chị (cùng ‘partner’ người Úc) tại bữa tiệc liên hoan tiễn đưa (send-off party) dành cho Luật sư Lưu Tường Quang tối mùng 5.8.2006 tại Nhà hàng Crystal Palace ở Canley Heights, Sydney. Tôi đã thưa chuyện với chị đại loại là như thế này: “Nếu từ “Chữ nổi” (Floating words) là caption (lời chú thích) cho một bức tranh thì tôi nghĩ, tác giả đã sang một phạm vi khác là mỹ thuật, nghệ thuật, nên có thể không cần phải có một sự chính xác về ngôn ngữ. Bức tranh là để người xem tự cảm nhận. Cái thú của tác giả là ở chỗ đó, là để cho mỗi người tìm lấy một lối giải thích, một cách minh họa riêng cho mình.” Trở lại bài học Anh Ngữ tuần này với chủ đề:“Bồng bềnh trên sóng đại dương” (Floating on the waves of the ocean). Tôi muốn đưa bài học vào bối cảnh thời sự liên hệ đến bữa tiệc tiễn đưa Luật sư Lưu Tường Quang, nhân ngày ông từ nhiệm chức vụ Head of Special Broadcasting Services (SBS)-Radio (Trưởng Nhiệm/Tổng Giám Đốc Hệ thống Phát thanh Đặc biệt) sau 17 năm làm việc để về chốn phục viên (retirement). Trong buổi tiệc, có văn nghệ, có nhẩy đầm, do 600 bạn bè thân hữu Việt Tây Tàu v..v… đứng ta tổ chức, người ta đã được nghe không biết bao nhiêu lời hay ý đẹp nói về người bạn Lưu Tường Quang, về thành tích cá nhân và việc làm thành quả của anh đã đạt được trong những tháng ngày qua. Nếu Quí Vị nào không có dịp tham dự tiệc này, thì cứ việc giở Báo Dân Việt tuần này, hoặc mở < www.google.com > mà < search > Quang Luu hoặc Luu Tuong Quang thì Quí Vị sẽ thấy “rõ ràng tường tận, đâu ra đó, một con người lúc nào cũng sáng chói như hào quang”. Đó chính là “chàng”. Nhưng Quí Vị, Quí Bạn ơi! Những điều tôi biết về “chàng” của buổi hàn vi, của thời thanh xuân đương độ thì chỉ có một mình tôi biết một mình tôi hay mà thôi. Này nhé! Tôi găp anh Quang lần đầu có lẽ là 41 năm trước đây tại Đại Học Văn Khoa (Faculty of Letters), Sài-gòn, khi chúng tôi cùng học chung “Chứng chỉ Văn Chương Văn Minh Anh” (English Literature and Civilisation Certificate) trong “Văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa Anh Văn” (BA’s Degree in English Language Teaching/Eduation) hay ở cái thời đó còn “sính” tiếng Pháp thì kêu bằng “Liçence d’Enseignement d’Anglais”. Có bằng “Cử Nhân Giáo Khoa” là oai lắm, thường là phải mất 4 năm học, hơn hẳn “Cử Nhân Tự Do”, thường có thế lấy trong vòng 3 năm. Ra trường khi xin Bộ Quốc Gia Giáo Dục (Ministry of National Education) đi dạy học được hưởng chỉ số lương (salary index) là 470, thay vì 430 như bằng “Cử Nhân Tự Do” hay bằng “Tốt nghiệp Đại học Sư phạm”. Kỉ niệm của chúng tôi là có đôi lúc ngồi chênh vênh trên lan can trước cửa trường ở Đường Nguyễn Trung Trực để chuyện trò, tán gẫu, mắt thỉnh thoảng liếc nhìn Toà Nhà trước mặt mà hồi thời Tây là Khám Lớn, rồi sau đó được dùng làm trụ sở Giám Sát Viện (Ombudsman Directorate/Department). Nói là học chung với tôi ở Văn Khoa, nhưng Anh Quang không phải chỉ học có thế. Tôi nhớ năm 1965, khác với Cụ Tú Xương chỉ có được trần bì mảnh bằng Tú Tài, thì anh ra trường với 3 mảnh bằng Cử Nhân trong tay: Văn khoa, Luật khoa, Sư phạm. Chưa kịp khởi sự để được bổ nhiệm đi làm giáo sư Anh Ngữ (English teacher) thì anh tham dự vào một kì thi tuyển do Bộ Ngoại Giao (Ministry of Foreign Afffairs) tổ chức cho nhân viên 70 nhiệm sở ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà trên toàn thế giới và các thí sinh tự do nào muốn trở thành những nhà ngoại giao chuyên nghiệp (professional diplomats) sau này. Anh Quang đã thi đậu hạng Nhì trong số 20 người trúng tuyển. Nhiệm sở đầu tiên ở nước ngoài là Luân Đôn, Anh Quốc. Anh đã từ ngạch Đệ Tam Tham Vụ (Third Secretary) lên tới Đệ Nhất Tham Vụ (First Secretary) thì anh sang Úc để rồi sau cùng tới lên đến ngạch Cố Vấn (Counsellor) Toà Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Canberra. Mùa Đông năm 1974 một nhóm bạn bè chúng tôi mới sang Úc, còn lạ nước lạ cái, gồm mấy sinh viên già (mature-age students) sang học Cao học thuộc chương trình Colombo Plan tại Sydney rủ nhau đi Canberra, Melbourne rồi Adelaide chơi. Khi đến Canberra, chúng tôi đã được anh Quang tiếp đón và cho tá túc tại Sứ Quán và sau đó cho mời chúng tôi lại tư gia để anh khoản đãi cơm tối (dinner). Anh Quang đối với chúng tôi như bát nước đầy (treating us with kid gloves). Ở Sứ Quán chúng tôi còn được nhân viên Sứ Quán cho ăn phở, món ăn vô cùng hiếm quí, tại Úc thời bấy giờ. Nhìn lại cuộc đời của anh Quang mà tôi chưa kể hết, nhưng nếu Quí Vị đã nghe, đã đọc đâu đó về anh thì chắc trải nghiệm một điều là “anh đã không chọn được ‘nghề’ mà ‘nghề’ đã chọn anh”. Ấy vậy một khi đã vào nghề nào rồi thì anh cũng đều tỏ ra xuất sắc (high achiever) trong nghề ấy. Cuộc đời anh “bồng bềnh nổi trôi trên sóng nước”, nói theo nghĩa nào cũng được, từ công ăn việc làm đến chuyến đi “bỏ của chạy lấy người”, vượt thoát bằng thuyền thúng của anh, nhưng rốt cuộc/cuối cùng (at the end of the day) anh cũng vẫn đâu vào đó. Cổ nhân ta dạy rằng: “Người có tài thường hay có tật”. Tú Xương có ‘tài’ làm thơ, nhưng Cụ tự thú là mắc phải 3 cái ‘tật’ (three bad habits): “Một chè, một rượu, một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta” Luật sư Quang Lưu là người ‘đa tài’, nhưng anh “thánh thiện” hơn Cụ Tú Xương ở chỗ: “Anh không có ‘tật’ uống chè, uống rượu, mà chỉ có ‘tật’ mê đàn bà, mê đàn bà đẹp.” Trịnh Nhật Sydney, Tháng 8, 2006 Định nghĩa tiếng Anh về “chữ nổi” cho người mù braille (or Braille) – o a system of writing or printing for the blind, in which combinations of tangible points are used to represent letters, etc [named after Louis Braille, 1809-82, the inventor] (The Macquarie Dictionary, The Macquarie Library, 1989) o a system of writing or printing for the blind used characters made up of raised dots (The Penguin English Dictionary, Penguin Books. 2002). o a system of printing for the blind. The letters are printed as groups of raised dots that you can feel with your fingers (Collins Cobuild Learner’s Dictionary, HarperCollins Publishers, 2000). o printing for the blind, using a system of dots in relief (Webster’s Dictionary and Thesaurus, Geddes & Grosset, David Dale House, Scotland, 2002) o a reading system for blind people that uses small raised marks that they feel with their fingers (Macmillan English Dictionary for Advanced Learners, International Student Edition, Macmillan Publishers Limited, 2002) o a system of writing for the blind consising of raised dots interpreted by touch (Collins Australian Compact Dictionary, CollinsHarpers Publishers, 2002) Kết hợp ngữ (Collocations) float verb 1 nổi (trên mặt nước), (bay) lơ lửng (trên không) ADV gently nhẹ nhàng | downstream xuôi giòng, downwards hạ xuống (đất) | upwards ngược giòng, lên (trời) cao In the dream my feet leave the ground and I start to float upwards Trong giấc mơ chân cẳng tôi rời khỏi mặt đất và bắt đầu bay lơ lửng lên cao . | about, around loanh quanh away, off (bay) đi VERB + FLOAT seem to xem ra, có vẻ, hình như Her voice seemed to float on the water as gently as a slight mist Tiếng nói của cô ta có vẻ như bồng bềnh/nhấp nhô trên nước dịu dàng như màn sương nhẹ. PREP across ngang qua A few small clouds floated across the sky Một vài đám mây nhỏ lững lờ trôi trên bầu trời. down xuôi xuống chunks of ice floating down the river những tảng băng nhỏ trôi xuôi giòng sông in trong pieces of wood floating in the water những miếng gỗ trôi dạt trong nước on trên A few leaves floated on the surface of the water Một vài chiếc lá nổi trên mặt nước. 2 thả nổi tiền tệ ADV freely tự do The government decided to allow the peso to float freely Chính phủ quyết định cho đồng peso dược tự do thả nối. VERB + FLOAT allow sth to cho (phép) cái gì được; để cho cái gì đuợc wave noun 1. sóng, sóng nước § ADJ big, enormous, giant, great, huge, mountainous lớn, cả § | small, tiny nhỏ | white-capped, white-crested, white-topped bạc đầu | breaking tan | tidal (sóng) thần Several villages have been destroyed by a huge tidal wave Nhiều làng mạc đã bị sóng thần khổng lồ tiêu hủy. § verb + wave ride cưỡi, lướt, trượt Surfers flocked to the beach to ride the waves Những tay chơi lướt sóng dổ xô ra bãi biển để lướt/cưỡi sóng. § wave + verb rise dâng | break, fall vỗ We watched the waves breaking on the shore. | lap vỗ nhẹ the gentle sound of waves lapping the sand tiếng sóng nhẹ vỗ vào cát | crash, roar, smash đập, gầm I could hear the waves crash against the rocks Tôi có thể nghe tiếng sóng đập vào những tảng đá. § wave + noun energy, power năng lực, năng lượng § prep in the ~s trong ~ children playing in the waves on the ~s trên ~ There were seagulls bobbing on the waves Có những con chim hải âu đang nhấp nhô/bập bềnh trên sóng nước.. § phrase the crash/crashing/lap/lapping of the waves cái đập/cái vỗ của sóng nước the crest of a wave (thường dùng nghĩa bóng) đỉnh cao danh vọng, nổi tiếng như sóng cồn She is on the crest of a wave at the moment following her Olympic success Cô ta đang trên đỉnh cao/nổi như sóng cồn vào lúc này sau sự thành công tại Thế vận hội. 2. làn sóng (chuyển động năng lượng) adj electromagnetic điện từ light ánh sáng radio truyền tin seismic địa chấn shock chấn động, kinh hoàng sound âm thanh verb + wave emit, generate phát đi, phát ra | deflect đổi chiều, chuyển hướng WAVE + verb bounce off sth dội lại, bật ngược lại travel chuyển động Sound waves bounce off objects in their path Sóng âm thanh dội lại khi chạm phải vật cản trên đường chuyển động. 3. tăng, gia tăng, lan tràn, tràn ADJ big, enormous, huge, massive lớn, khổng lồ | fresh, new, next, recent mới, sắp tới | first đầu tiên, lần thứ nhất, second lần thứ nhì, etc. the first wave of immigration in the 1950s làn sóng di dân đầu tiên vào thập niên/thập kỉ/những năm 1950 | crime tội phạm verb + wave send chuyển Hearing the tune again sent waves of longing through her Nghe lại giọng điệu đó khiến cô ta tràn ngập niềm mong ước/nhớ nhung. wave + verb sweep (over) sth, wash over/through sb/sth tràn qua cái gì With the fall of the Bastille in 1789, a wave of euphoria swept over Europe Với việc xụp đổ/phá tan ngục Bastille năm 1789, một làn sóng vui mừng hồ hởi đã tràn qua Châu Âu o A wave of relief washed over him as he saw that the children were safe Lòng chàng tràn ngập nỗi/cảm giác nhẹ nhõm khi chàng trông thấy những đứa trẻ/con mình an toàn. prep ~ of a big wave of refugees một làn sóng lớn dân tị nạn 4. (cái) vẫy tay, khoắc tay, xua tay adj quick nhanh, khoắc, thoắt một cái | cheery vui vẻ friendly thân thiện/mật | farewell, parting từ biệt, tạm biệt, chia tay. verb + wave give (sb), return đáp lễ, đáp lại I returned his wave and started to walk towards him Tôi (vẫy tay) đáp lại cái vẫy tay của anh ấy và bắt đầu bước lại phía anh. prep with a ~ bằng một cái ~ | ~ of He dismissed her thanks with a quick wave of the hand Chàng ta gạt lời nàng cám ơn bằng cái khoắc tay/xua tay khoắt một cái.. ocean noun biển, đại dương ADJ deep sâu | vast rộng, bao la | great lớn, đại (dương) exploring the depths of the three great oceans thám hiểm chiều sâu của ba đại dương | open (biển) cả/khơi A storm started up once we got out into the open ocean Một trận bão nổi dậy vừa khi/đúng lúc chúng tôi ra tới biển khơi. | tropical, warm nhiệt đới, nóng ấm | southern phía nam penguins of the southern oceans những con chim cánh cụt của/thuộc các đại dương phía nam/nam bán cầu. VERB + ocean cross, sail băng qua | explore khám phá OCEAN + noun depths the darkness of the ocean depths sự tăm tối/tối đen của đại dương sâu thăm thẳm | surface mặt | bed, floor đáy, sàn | basin | water nước | wave sóng a life on the ocean wave cuộc sống trên biển/đại dương | current luồng/dòng nước, thủy lưu | voyage chuyến đi, cuộc hành trình (đường biển) , chuyến hải hành | liner tầu (biển/đi biển) PREP across the ~ khắp trade across the Atlantic Ocean mậu dịch khắp Đại Tây Dương in the ~ xuống, trong Various toxic substances have been dumped in the ocean Nhiều độc chất đã được đổ xuống biển. PHRASE the bottom/depths/middle/surface of the ocean đáy/chiều sâu/giữa lòng/trên mặt đại dương, the oceans of the world những đại dương của thế giới. great ships that sailed the oceans of the world những tầu lớn mà chúng đã vượt qua các đại dương của thế giới.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 5:37:38 GMT 9
Của đi thay người Chín năm trước đây, cũng vào ngày này, tháng này, 31 Tháng 8, 1997, một tai nạn xe cộ khủng khiếp, đã làm cả thế giới xôn xao, xảy ra trong một đường hầm (tunnel) tại Paris, Pháp Quốc, gây cho 3 người chết là Diana Quận chúa xứ Wales (Princess of Wales), người tình mới của cô (her new lover) Dodi Al-Fayed, và tài xế Henri Paul khi chiếc xe Mercedes của họ đụng vào cây cột trụ (pillar) số 13 trên đường hầm. Người duy nhất sống sót (the only survivor) là chàng vệ sĩ (bodyguard) của Fayed tên là Trevor Rees-Jones, người duy nhất ngồi trong xe có cài dây an toàn (wearing a seatbelt). Henri Paul và Dodi Fayed bị chết tốt/tức khắc/tức thì/liền (killed instantly), còn Diana ngồi phía sau, bị tử thương và chết trong bệnh viện sau những cố gắng/nỗ lực hồi sinh (resuscitation attempts) cho cô bị thất bại/không thành (failed). Dư luận thế giới đổ tội cho phóng viên báo chí (reporters) đã gây ra cái chết của Diana, cho rằng những tên năng nổ săn tin này đã vùn vụt phóng xe chạy theo xe của cô. Diana chết tức tưởi giữa độ xuân thì khi mà nhan sắc, của cải, danh vọng, quyền quí, tình ái của nàng vẫn chẳng mấy ai bì kịp. Thế mà một phút phù du, một tích-tắc định mệnh! Ngày 13 Tháng 7, 2006 mới đây, một tờ báo của Ý, tờ “Chi” đã cho đăng vài tấm hình chụp Diana trong giờ phút cuối cùng (last moments) của cô, coi như ‘pha’ sự ngăn cấm không chính thức (unofficial blackout) việc phổ biến những tấm hình đó. Hình ảnh đã được chụp chỉ vài phút sau khi xảy ra tai nạn và cho thấy Diana ngồi sụp đầu/gục cổ (slumped) ở ghế sau xe trong khi một nhân viên cứu thương (paramedic) đang loay hoay úp mặt nạ dưỡng khí (oxygen mask) vào mặt cô. Những hình ảnh này cũng được đăng trên các tạp chí và nhật báo khác của Ý và của Tây Ban Nha. Chủ Bút tờ tạp chí Chi bênh vực cho quyết định của mình khi nói rằng ông cho đăng những hình ảnh đó chỉ vì “lí do đơn giản (simple reason) là từ trước giờ chưa có ai được coi những tấm hình đó” và vì ông cảm thấy những hình ảnh đó không làm mất đi sự kính trọng (disrespect) đối với lòng tưởng nhớ của người ta dành cho Quận Chúa Diana. Giới truyền thông báo chí Anh thì nhất định không cho đăng những hình ảnh này. Còn hai cậu con trai của nàng là William và Harry thì lấy làm buồn lòng có lẽ cho rằng những hình ảnh có tính cách ma quái (ghoulish) đó vô hình trung bôi nhọ cái vẻ duyên dáng, quyến rũ (glamour) của bà mẹ yêu quí của mình. Câu chuyện dĩ vãng bên phiá trời Tây là như vậy. Người có vẻ đẹp Trời cho, nhưng Trời cũng đọa đầy, khác chi thân phận nàng Kiều bên phiá trời Đông: Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. [If doomed to roll in dust, we’ll roll in dust; We ‘ll sit on high when destined for high seats. (Huỳnh Sanh Thông dịch)] Khác chăng là Kiều được sống trọn đời, trọn kiếp người, trong khi Diana vĩnh viễn ra đi lúc mới 34 tuổi. Việt Nam ta thường nói: “Trời kêu ai người ấy dạ.” Diana đã ngoan ngoãn lên tiếng “Dạ” đúng lúc ông Trời kêu. Mê man dông dài về thân phận làm người, về những vẻ đẹp kiếu diễm, nhưng không vì thế mà chúng ta quên bài học Anh Ngữ tuần này với chủ đề “Của đi thay người”. Diana của thế giới, của Đệ nhị thiên niên kỉ (the second millennium) đã để “Người đi thay của”. Ngày Thứ Năm, 20 Tháng 7, 2006, tôi được Ủy ban Quan hệ Cộng đồng (Community Relations Commissions, gọi tắt là CRC) điện thoại kêu đi làm thông dịch tại Bộ Gia Cư (Department of Housing) ở Broadway, Sydney từ 1 giờ đến 3 giờ chiều. Đây là một vụ block booking (đặt trước làm thông dịch vào một số giờ nào ấn định sẵn trong tuần của cơ quan). Tôi lái xe lên Phố (City) và gửi xe trong nhà đậu xe (car park) gần đó, rồi đi bộ khoảng 500 mét tới nơi làm việc là Bộ Gia Cư, chi nhánh Broadway, nằm trên Đường Parramatta Road. Khi xong việc lúc 3 giờ chiều tôi ra lấy xe và lái xe về Bankstown vì có hẹn với người bạn, rủ nhau đi ăn phở (Vietnamese beef noodle soup) sau 4 giờ chiều. Tôi lái xe trên đường Canterbury Road, khi đến Đường Stacy Road tôi quẹo mặt, rồi quẹo trái vào Đường Macauley Avenue vào khoảng 4 giờ chiều với ý định quẹo mặt ở Đường Chapel Road South để vào khu buôn bán/thương mại Bankstown [Bankstown CBD (Central Business District)]. Lúc đó tôi lái xe với tốc độ 40-50 cây số môt giờ, trong khu vực/vùng có bảng chỉ tốc độ tối đa là 60km/giờ (the marked 60km/h zone), theo sau chiếc xe nhỏ màu xanh lá cây đậm, và cách xe này chừng 6 mét. Khi tôi còn cách Đường Chapel Road South khoảng 100 mét, tôi nhảy mũi/hắt-xì (sneezed) rồi ngay lúc đó tôi nghe một tiếng “Ầm” (Bang) lớn như Trời sập, tôi nghĩ là tôi đã tông vào phiá sau chiếc xe màu xanh đằng trước, đồng thời tôi bị tông vào phiá sau xe thật mạnh. Trước khi tai nạn xẩy ra tôi rất tỉnh táo, mắt tôi luôn luôn liếc nhìn chiếc xe chạy phiá trước. Tôi còn nhớ rõ (remembered vividly) là bàn chân tôi không đạp trên chân thắng (brake) cũng không đạp trên chân ga (accelerator) khi tôi hắt-xì. Mọi chuyện xảy ra trong tích-tắc (a split-second). Sau khi tai nạn xảy ra, tôi không có dịp nhìn vào kính chiếu hậu trong xe (rear-vision mirror), mà cũng không nhìn vào kính chiếu hậu bên ngoài xe (side-mirror) để coi xem xe nào tông vào xe tôi vì ghế ngồi của tôi bị đẩy lên phía trước (had been pushed foraward), rồi nằm ngả xuống phía sau (laid backwards). Tôi ráng cởi dây cài an toàn trên ghế ngồi (unbuckle my seatbelt) để ra ngoài nhưng tôi thấy hai cánh tay bị tê (numb), còn các ngón tay trên hai bàn tay thì rần rần như bị kim châm (pins and needles). Tôi không thể dùng bàn tay để tắt máy xe (switch off the ignition) hay cởi dây cài an toàn. Nhân viên cứu thương (paramedics) của xe cứu thương/hồng thập tự (ambulance) chăm sóc cho vết cắt và vết bầm (the cut and bruise) trên cằm của tôi. Họ cho biết tôi bị mất một chiếc răng cửa hàm dưới, mà tôi sau đó biết là chiếc răng giả. Tôi bị chảy máu trong miệng vì bị rách phía bên trong môi dưới. Toán cứu hộ (rescue team) phải cưa cửa phía bên tài xế để đưa tôi ra khỏi xe vì như họ nói họ phải cẩn thận không để rủi lỡ có những điều không hay xảy ra (they did not take any chances) cho tôi. Trường hợp tai nạn của tôi rất dễ có thể bị chấn thương cột sống (spinal injuries). Họ chuyển tôi sang băng-ca (stretcher) đưa lên xe cứu thương. Tôi được chở đến bệnh viện Liverpool thay vì Bansktown vì như họ nói là gần nhà tôi ở Casula, mà tôi đã có lần đặt tên cho nó là Cả sự lạ (all the strange and wonderful things). Ớ nhà thương Liverpool, tôi được đưa và khu cấp cứu (emergency ward), chuyển giao cho y tá sàng lọc ưu tiên tiếp nhận con bệnh [triage nurse (‘triage’gốc tiếng Pháp, thường được phát âm theo tiếng Pháp)]. Bác sĩ tên Ken Robinson và các y tá lo cho tôi hết mình, nào là chích thuốc giảm đau (morphin), uống thuốc giảm đau (panadeine forte), đo điện tim/xem tim động đồ/kí [Electrocardiogragh (ECG)], chụp quang tuyến (X-rays) cho vùng ngực và xương chậu (the chest and pelvis area). Tôi nằm chờ đợi, đợi chờ thì đến giờ chót, tôi được Bác sĩ cho xuất viện (discharged) lúc 11.30 tối hôm đó. Tôi may mắn có bà xã Anh Thư và cháu Phước, thông dịch viên y tế bệnh viện Liverpool, đưa tôi ra xe về nhà ngủ thay vì phải nằm lại ở nhà thương. Xin cảm tạ tất cả mọi người, ngoài người thân trong gia đình, là nhân viên cứu hộ, nhân viên cứu thương, nhân viên cảnh sát, nhân viên quang tuyến, bác sĩ và các y tá, đã săn sóc và cho tôi niềm an ủi ở những lúc cần có niềm an ủi nhất. Ôi sung sướng, hạnh phúc thay! “Của đi thay người!” Cái xe Toyota, Seca đời 1999 của tôi bị bẹp rúm, vô phương sửa chữa (written-off), nhưng đã được cơ quan bảo hiểm NRMA bồi thường bằng tiền, hơn 9.000 đô-la Úc, trong khi nghe nói thời giá lúc này bán được 6.000 đô-la là cùng. Tất nhiên họ cũng trừ đi 500 đô-la tiền excess (tiền tối thiểu trả cho hãng bảo hiểm) vì mình lỗi đụng xe trước (hãng bảo hiểm của mình bồi thường cho xe đó), còn xe sau là xe “van” (loại xe thùng) bị cảnh sát phạt vi cảnh (traffic infringement/fine) chắc vì phóng nhanh quá không làm chủ được tốc độ. Hãng bảo hiểm của họ chắc phải bồi thường cho hãng bảo hiểm của mình. Trong tai nạn những tưởng rồi sẽ có ngày “thân tàn ma dại” này, Ông Trời đã thương để cho “của” quí của tôi về lại với mình, với cả vốn lẫn lời! Nghe theo anh Lưu Dân, Chủ Bút Tuần Báo Dân Việt, thì khi Ông Trời kêu đến mình: “Chớ có ‘Dạ’ vội, mà thưa với Ngài rằng: ‘ Sorry, My Lord, I’m busy, could you call somebody else, please?”. Trịnh Nhật Sydney, Tháng 8, 2006 Kết hợp ngữ (Collocations) life noun 1 sinh vật ADJ intelligent thông minh, khôn, giống/tương tự như trên trái đất Is there intelligent life on other planets? Có sinh vật trên các hành tinh khác không? | animal con vật, bird chim, human người, insect côn trùng, marine (thuộc về) biển, plant cây cối, thảo mộc LIFE + NOUN form hình thức, hình thể, dạng | cycle chu kì 2 đời sống, cuộc sống, sinh mạng, nhân mạng, còn sống VERB + LIFE lose mất He lost his life in an air crash Anh ta thiệt mạng trong một vụ aáy bay rớt. | bring sb back to, restore sb to hồi sinh ai/người nào | cling to bám víu, fight for bấu víu, cầm cự, tranh đấu để/cho She clung to life for several weeks Cô ta sống cầm cự được vài tuần lễ | risk liều She risked her life for the sake of the children Cô ta liều mạng mình vì các con | save cứu a drug that will save lives một chất thuốc nó sẽ cứu được mạng sống | spare tha She begged the soldiers to spare her son's life Bà ta xin các binh sĩ tha chết cho con trai bà | give, lay down, sacrifice hi sinh | claim, cost, end, take tổn thất, làm mất đi The crash claimed 43 lives Vụ đụng xe làm thiệt hại 43 sinh mạng o His foolishness almost cost him his life Sự ngu ngốc của hắn suýt làm cho hắn mất mạng o She took her own life Cô ta tự kết liễu đời mình | start (nghĩa bóng) hồi (sinh); làm lại The restaurant started life as a cinema Hiệu ăn sinh hoạt lại/làm lại cuộc đời dưới hình thức rạp chiếu bóng. LIFE + VERB be lost thiệt (mạng) No lives were lost in the accident Không có ai bị thiệt mạng trong tai nạn đó. LIFE + NOUN assurance, insurance bảo đảm, bảo hiểm PHRASE an attempt on sb's life một vụ/cuộc mưu sát There have been three attempts on the president's life Đã có ba vụ mưu sát vị tổng thống/viên chủ tịch in fear for/of your life sợ nguy đến tính mạng của bạn Witnesses are living in fear for their life after giving evidence against the gang Các nhân chứng đang sống mà lo sợ cho tính mạng của họ sau khi làm chứng bất lợi cho băng đảng đó. life after death cuộc sống sau khi chết; kiếp sau Do you believe in life after death? Bạn có tin có kiếp sau không? loss of life tổn thất/thiệt hại sinh mạng The plane crashed with heavy loss of life Phi cơ/máy bay rớt gây tổn thất nhân mạng nặng nề a matter of life and death vấn đề sinh tử/sống chết (nghĩa bóng) These talks are a matter of life and death for the factory Những cuộc thương thảo này là vấn đề sinh tử cho hãng ấy the right to life quyền được sống anti-abortionists campaigning for the right to life những phần tử/người chống phá thai vận động cho quyền sống signs of life dấu hiệu còn sống The driver showed no signs of life Không có dấu hiệu gì cho thấy là người tài xế còn sống. 3 cuộc sống, đoạn đời ADJ long dài, lâu dài short ngắn, ngắn ngủi | entire, whole trọn, suốt cả | early sớm | adult trưởng thành, người lớn | later về sau, sau này In later life he took up writing Cuối đời ông chọn (nghề) viết văn | past, previous trước, quá khứ, quá vãng He never discussed the unhappinesses of his past life Ông không bao giờ/hề bàn về sự bất hạnh trong đoạn đời quá vãng của mình o I think I may have been an animal in a previous life Tôi nghĩ tôi có thể đã là một con vật (có những đặc tính, tốt hoặc xấu, của một con vật) trong tiền kiếp | future, next tương lai, sắp đến | working làm việc He was a miner all his working life Ông ta đã là thợ mỏ trong suốt cuộc đời làm việc của mình. VERB + LIFE go through, live, spend sống, trải qua, trải nghiệm She went through life always wanting what she couldn't get Cô ta sống suốt cuộc đời bao giờ cũng muốn những điều mà cô không thế có được. o He spent his whole life in Cornwall. Anh ta sống cả cuộc đời ở Cornwall. | end chấm dứt, kết thúc, lià He ended his life a happy man Ông lìa đời mà lòng thanh thản tự mãn. | shorten thu ngắn | prolong kéo dài | dedicate, devote chuyên chú, tận tụy He devoted his life to the education of deaf children Hắn tận tụy cả đời mình vào việc giáo dục trẻ em bị điếc. LIFE + NOUN history, story tiếu sử, truyện | membership hội viên (cả/suốt đời) | imprisonment, sentence bản án tù (chung thân khổ sai) | expectancy, span (also lifespan) quãng đời, tuổi thọ Japanese people have a very high life expectancy Người Nhật có tuổi thọ rất cao o the life-span of a mouse tuổi thọ/quãng đời của một con chuột. PREP for ~ cho ~ She thought marriage should be for life Cô ta tưởng hôn nhân là phải cho suốt cuộc đời/trọn đời in your ~ trong cuộc ~ của bạn for the first time in her life lần đầu trong đời cô ta throughout your ~ Suốt ~ của bạn Throughout her life she was dogged by loneliness Suốt cuộc đời của cô ta cô luôn bị nỗi cô đơn bám riết. PHRASE all your life suốt/cả đời (của) bạn I’ve known her all my life Tôi đã quen biết cô ta suốt cả cuộc đời tôi at sb's time of life ở thời điểm trong cuộc đòi của người nào At his time of life he should be starting to take things easy Ở thời điểm này của cuộc đời anh ta anh ta nên bắt đầu coi mọi chuyện như ‘pha’/nhẹ nhàng/thoải mái the end of your life cuối đời của anh/chị/bạn Her paintings became more obscure towards the end of her life Vào lúc cuối đời bà tranh vẽ của bà ngày càng trở nên khó hiểu late in life đoạn cuối đời, muộn màng trong đời She discovered jazz quite late in life Bà phát hiện/biết đến nhạc jazz khá muộn màng trong đời the ... of your life cái/chuyện … cả cuộc đời I had the fright of my life when I saw the snake in my bed Tôi đã sợ hãi cả đời (không hết sợ) khi tôi trông thấy con rắn trên giường mình. o He met the love of his life at college Hắn gặp người bạn đời của mình ở Đại học a phase/stage in/of (your) life một giai đoạn trong/của cuộc sống (của anh/chị) She sensed she was entering a new phase in her life Cô ta cảm thấy cô đang bước vào một giai đoạn mới của đời mình the prime of life đỉnh cao/vàng son của cuộc đời You're still in the prime of life Anh vẫn còn ở thời vàng son the remainder/rest of your life phần còn lại của cuộc đời anh/chị ta He'll be haunted by the crash for the rest of his life Cả cuộc đời còn lại của anh sẽ bị ám ảnh bởi vụ đụng xe đó. 4 sinh hoạt ADJ daily, day-to-day, everyday hàng ngày, mỗi ngày | real thật a real-life drama | modern hiện đại | personal, private cá nhân, riêng tư She did not tolerate press intrusion into her private life Cô ta không chịu được chuyện báo chí xâm nhập/xen vào đời tư của mình. | inner nội tâm, (cảm xúc) thật Only his wife had access to his inner life Chỉ có vợ ông mới hiểu được cuộc sống nội tâm của ông | family gia đình married vợ chồng | social xã hội, xã giao | love tình yêu, sex tình dục | public ngoài đời, công cộng His fame was so sudden that he was unprepared for public life Ông nổi tiếng quá bất chợt/bất ngờ đến nỗi ông không chuẩn bị kịp cho sinh hoạt/cuộc sống công cộng/ngoài đời. | academic đại học, khoa bảng, business doanh nghiệp, kinh doanh cultural văn hóa, economic kinh tế, intellectual trí thức, political chính trị, professional chuyên nghiệp, nhà nghề school học đường | night về đêm (also nightlife) What's the nightlife like in the town? Cuộc sống/sinh hoạt về đêm ở thành thị ra sao nhỉ? | city thành phố, đô thị, village làng, làng mạc, làng thôn, etc. VERB + LIFE build xây, dựng, xây dựng rebuild xây lại, xây dựng lại, lập lại He built his whole life around his children Chàng ta xây dựng cả đời mình quanh những đứa con. She is still rebuilding her life after the accident Nàng vẫn còn đang xây dựng lại đời mình sau vụ tai nạn ấy. PHRASE an attitude to life, an outlook on life, một thái độ nhìn đời a philosophy/view of life một triết lí cuộc sống, một nhân sinh quan I’ve always had a fairly optimistic outlook on life Tôi bao giờ cũng có một cái nhìn khá lạc quan về cuộc sống a love of life lòng/tình yêu đời He always had a great love of life Chàng ta bao giờ cũng yêu đời tha thiết a man/woman in your life một người đàn ông/đàn bà trong đời bạn There has only been one woman in his life Từ hồi nào đến giờ chỉ có một người đàn bà trong đời chàng see sth of life thấy một cái gì trong đời, trải nghiệm cuộc sống I wanted to see something of life before I settled down Tôi muốn trải nghiệm thêm nhiều chuyện trên đời trước khi chết the ... side of life cái khiá cạnh/bộ mặt …của cuộc sống thường nhật His time in London was his first glimpse of the seamier side of life Thời gian ở Luân đôn là lúc hắn lần đầu nhìn thấy bộ mặt trái/sa đọa của cuộc sống want sth from/in/out of life muốn trải nghiệm cái gì từ/trong/có trong cuộc sống They both seem to want the same things out of life Cả hai người xem ra muốn cùng trải nghiệm những thứ/điều/vụ việc giống nhau trong cuộc sống. 5 cách sống, lối sống ADJ good, happy vui vẻ, hạnh phúc | lonely cô đơn, miserable khổ sở, sad, unhappy buồn bã, đau khổ | hard khó khăn, cực nhọc | easy dễ dàng | active năng động, hoạt động, busy bận rộn, hectic bù đầu, lu bu | exciting thích thú | full trọn vẹn, đầy đủ, vẹn toàn | peaceful, quiet êm đềm, bình dị, yên tịnh | normal, ordinary thường, bình thường | healthy lành mạnh, khoẻ mạnh | sheltered được che chở/đùm bọc | double hai mặt He had been leading a double life, married to two women Anh ta đã sống cuộc đời hai mặt, lấy hai bà làm vợ. VERB + LIFE have, lead, live sống She leads a busy social life Cô ta sống một cuộc sống bận rộn giao du bạn bè | enjoy vui hưởng | change thay đổi Learning meditation changed her life Học thiền đã thay đổi cuộc sống của cô ta | dominate, takeover chế ngự, lấn át, khống chế He never let his work dominate his life Anh ta không bao giờ để công việc chế ngự cuộc sống của mình | ruin làm hỏng He ruined his life through drinking Anh ta đã làm hỏng đời mình vì uống rượu. PHRASE build/make/start a new life xây dựng/tạo dựng/làm lại/khởi sự/bắt đầu cuộc đời mới They went to Australia to start a new life Họ đi Úc để bắt đầu một cuộc đời mới enjoy/live life to the full hưởng/thụ hưởng/sống cuộc sống trọn vẹn/tới mức tối đa He always believed in living life to the full, the high life cuộc sống xa hoa, thụ hưởng tối đa enjoying the high life in the smartest hotels and restaurants of NewYork vui hưởng cuộc sống xa hoa trong những khách sạn và nhà hàng hạng sang/lịch lãm nhất của Nữu Ước life of... cuộc sống …They're living a life of luxury in the Bahamas Họ sống cuộc sống xa hoa trong vùng hải đảo Bahamas a/the pace of life tốc độ cuộc sống, nhịp sống The pace of life is much gentler on the island Nhịp độ cuộc sống nhẹ nhàng/êm đềm hơn trên đảo này the quality of life phẩm chất, chất lượng cuộc sống He gave up his high-flying job and now enjoys a better quality of life Hắn đã bỏ công việc làm ăn lao tâm khổ tứ/tổn trí và giờ đây đang sống an nhàn, vui chơi thỏa thích a way of life một cách/lối sống She loved the Spanish way of life and immediately felt at home there Cô ta yêu lối sống Tây Ban Nha và thấy thoải mái khi ở đó. 6 linh động, sinh động, linh hoạt, náo nhiệt, sôi nổi, sức sống VERB + LIFE come to trở lại, trở nên The city only comes to life at night Thành phố trở nên sôi nổi về ban đêm | breathe truyền bring sth to đem cái gì đến/lại, inject bơm truyền vào They need some new, younger staff to breathe some life into the company Họ cần một vài nhân viên mới để truyền sức sống mới vào công ti | burst/hum/teem with bừng lên, nở rộ, náo nhiệt, đầy a child bursting with life đứa bé đầy sinh lực PHRASE full of life đầy sức sống, còn gân It's nice to see an old man still so full of life Kể cũng thú khi thấy một ông già còn gân/còn ham vui hết mình.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 5:39:56 GMT 9
Thắp nén hương lòng cho Mẹ Lễ Vu Lan [Vu Lan Festival (Ullambana)], ngày Lễ Hội dành cho Mẹ, hàng năm bắt đầu từ ngày 15 đến 17 Tháng 7 Âm Lịch (Lunar Calendar), thì năm nay rơi đúng vào ngày 8 đến 10 Tháng 8, Dương Lịch (Western/Solar Calendar). Theo thông lệ ở Việt Nam thì Phật tử (Buddhists) và các đạo hữu thường đổ xô/kéo nhau (flock) đến chùa chiền (pagodas), nghĩa địa (cemeteries) trong suốt Tháng 7 để tỏ lòng biết ơn (gratefulness) báo hiếu đối với các bà mẹ của mình. Các chùa chiền ở Úc năm nay cũng đã tổ chức lễ này trễ hơn thường lệ vào những ngày Chủ Nhật 13 và 20 tháng 8, 2006, nghĩa là vào dịp cuối tuần (weekend) cho tiện mọi bề. Ở các nước nói tiếng Anh, Ngày Lễ Vu Lan có tương đương là Ngày Mother’s Day (Ngày Nhớ Ơn Mẹ/Ngày của Mẹ). Người ta không ăn mừng Mother’s Day cùng một ngày mà ở mỗi nước mỗi khác. Ở Úc năm nay rơi vào ngày Chủ Nhật 14 Tháng 5 Tây, giống như ở Mĩ, nhưng khác ở Anh tổ chức sớm hơn tức là ngày Chủ Nhật 26-3. Vào ngày này con cái tặng quà cho Mẹ, làm tiệc tùng trong nhà, hoặc rủ nhau đi ăn tiệm. Nói chung là ăn mừng người sống, chứ không quan tâm mấy đến người đã chết. Để Quí vị, Quí Bạn có thêm chút khái niệm về “Ngày của Mẹ” theo văn hoá Tây phương, tôi xin viết lại đôi điều qua lời kể lại của một bà Mẹ người Úc ròng (dinky di Aussie) như sau: “Mother’s Day in Australia, from the Anglo-Celtic point of view (quan điểm của người gốc Anh-cát-lợi, Tô-cách-lan, Ái-nhĩ-lan, xứ Wales), is a day to honour mothers (tỏ lòng tôn kính các bà mẹ), be they dead or alive. It is celebrated on the second Sunday in May. It is usually to buy your mother a gift and arrange a family get-together [buổi họp mặt (những người trong) gia đình] so that all members of the family can wish her well. Some families arrange picnics (những cuộc đi píc-níc/vui chơi ngoài trời) so that the young ones can run around freely, and the adults can feel more at ease (cảm thấy thoải mái/dễ chịu hơn) in the open air (ngoài trời). If a mother has died, religious people (những người theo/có đạo) will visit the grave site (mộ phần/nghĩa địa) to lay flowers, clean the grave site and say prayers (cầu nguyện) to honour her. They will often combine this with a get-together afterwards at home, and drink a toast (uống rượu chúc mừng) to the departed (người quá cố/đã khuất) with the rest of the family. Children will visit the mothers at their home, but as the mother ages, the children usually take on the responsibility of catering for the day (cung cấp đồ ăn thức uống cho ngày hôm đó) to save the mother entertaining them. It is customary for mothers to be served breakfast in bed, if not by her children, then by her husband. She is not supposed to do any work that day, but like all mothers, this custom goes by the wayside (phong tục này cũng dẹp sang bên) when the family arrive. In the Western world, Mother’s Day has become very much commercialized (thương mại hóa) and shopping centers gear their sales at the time to advertising items (hướng hàng hoá của họ bán ra ở thời gian đó vào việc quảng cáo những món đồ) such as slippers, cosmetics (mĩ phẩm/son phấn), household items (vật dụng dùng trong nhà/gia dụng), clothing, flowers, chocolates or anything that might appeal to women (hấp dẫn/lôi cuốn phụ nữ).” Lễ Vu Lan năm nay là dịp duy nhất tôi tưởng nhớ đến Mẹ tôi. Nói thế không có nghĩa là tôi không nhớ đến Người. Có chứ, nhưng trong những dịp cúng giỗ, ngày 27 Tháng 5 Ta kìa. Năm nay ngày giỗ Mẹ tôi trùng vào ngày 22 Tháng 6 Dương Lịch. Bà Cụ thân sinh ra tôi tên Nguyễn thị Cúc, cái tên thật mộc mạc, thật giản dị, cũng như con người của bà vậy. Bà là người con gái thứ nhì trong gia đình có ba trai một gái, sinh tại làng Đại Mỗ, tỉnh Hà Đông (không có nhiều sư tử). Khi bà mất năm 1986 tại Sàigòn, sau hơn 10 năm mắc bệnh tiểu đường (diabetes), tôi không về Việt Nam được, vì tình hình bên nhà chưa có chính sách cởi mở (glasnost) như ở Liên Sô, mà tình hình ngoài này, Cộng Đồng tị nạn chống Cộng còn nhiều nghi kị (suspicions) với bất cứ ai về Việt Nam dù với mục đích gì. Tôi lúc đó đang dạy Đại Học ở Sydney, và là Điều hợp viên (Co-ordinator) của Hội đồng Văn hóa Giáo dục [Educational and Cultural Council (ECC)] của Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Tiểu bang New South Wales nên việc đi lại Việt Nam lại càng khó hơn. Đến gần 3 năm sau, năm 1989 khi ông Cụ thân sinh ra tôi mất, tôi cũng vẫn chưa thấy thuận tiện để về lo tang lễ (funeral), mặc dù tôi là con một của Cụ. May mà có bà chị (elder sister) và ông anh rể (brother-in-law) ở trong Nam, cùng các cháu con anh chị lo hết mọi chuyện. Phải nói là “tôi chưa hề phải giỏ/nhỏ đến một giọt nước mắt sót thương” (I have never shed any tears of sorrow) cho hai vị có công dưỡng dục sinh thành ra tôi, có lẽ một phần cũng vì ở xa xôi, không nhìn thấy cảnh tượng quần áo khăn tang trắng (the sight of people dressed in white mourning clothes and turbans), không trông thấy linh cữu hạ huyệt (the coffin lowered into the grave), không nghe thấy có tiếng cầu kinh niệm Phật của các nhà sư (the prayers of the Buddhist monks), tiếng khóc sụt sùi (the bitter sobbing) của những người thân thương tiễn Người đi. Tôi vẫn nguyện với mình ở một thời điểm nào thuận tiện, không bận rộn về công ăn việc làm, khi tâm hồn thanh thản hơn (more relaxed), tôi sẽ dành trọn thời giờ, để cho lòng mình thật trùng xuống, tưởng nhớ đến Mẹ thật nhiều (to think, with sorrow to the full, about my Mother). Thời gian ấy có lẽ là đây, là hôm nay, sau hơn 20 năm mất Mẹ. Tôi mượn bài học Anh Ngữ này để thắp một nén hương lòng cho Mẹ (lighting an incense stick in memory of Mum). Đầu năm 1974 là năm tôi lìa xa bà mẹ thân yêu tại Sài-gòn để sang Úc du học, một điều tôi mong ước từ nhiều năm trước. Cả gia đình, ngoài Bố Mẹ, một bà chị ruột, cùng chồng, và bốn đứa cháu ra tiễn đưa tôi tại phi trường Tân Sơn Nhứt, còn có hai người nữa, một là bạn thân học cùng trường Chu Văn An cũ (nay ở Chicago), và người kia là người em gái tôi yêu (nay ở Houston). Lúc hành khách sắp sửa lên máy bay, tôi lần lượt ôm hôn từ biệt mọi người, hẹn rằng 2 năm sau sẽ trở về gặp lại. Ngay khi tôi quay gót ra máy bay, Mẹ tôi bỗng nhiên níu vội cánh tay tôi rồi hôn thật nhanh, thật nhẹ lên lòng bàn tay (the palm of my hand), có chiều thầm kín, chỉ sợ lỡ có ai trông thấy. Một nỗi xúc động dạt dào, một ý nghĩ mơ hồ thoáng hiện trong tôi: Phải chăng là nụ hôn chót của Mẹ? Tôi đã vĩnh viễn xa lìa Mẹ kể từ ngày biệt li ấy! Trịnh Nhật Sydney, Tháng 8, 2006 Kết hợp ngữ (Collocations) mother noun mẹ, má, thân mẫu, mẫu thân § ADJ lone, single đơn chiếc (nuôi con) unmarried chưa lập gia đình, chưa kết hôn She felt proud that she had raised four children as a lone mother Bà ta hãnh diện là đã nuôi bốn đứa con trong hoàn cảnh bà mẹ đơn chiếc | widowed góa | biological, birth, natural, real mẹ ruột, mẹ đẻ | surrogate đẻ thuê, đẻ giùm (cho người khác) | adoptive, foster nuôi step- (cũng còn là stepmother) mẹ ghẻ, kế mẫu | teenage tuổi choai choai, đôi tám young trẻ elderly, old lão niên, cao niên, già | dead, deceased, late đã chết, đã qua đời, quá cố, đã từ trần | good, excellent, loving, wonderful tốt bụng, tuyệt hảo, dễ thương, tuyệt vời | proud hãnh diện the proud mother of the bride bà mẹ hãnh diện của cô dâu | doting, over-protective, possessive nuông chiều, cưng chiều, bảo bọc, bảo vệ, che chở (quá đáng/quá trớn) | stern, strict khó, nghiêm khắc | dominant, domineering áp bức, lấn át, độc đoán | bad, unfit không thích hợp The court decided she was an unfit mother Tòa án quyết định là bà ta không thích hợp vai trò làm mẹ | anxious, distraught, frantic nóng ruột, nôn nao, bồn chồn, lo lắng (phát điên lên) Her distraught mother had spent all night waiting by the phone Bà mẹ lo lắng/bồn chồn đã thức suốt đêm đợi bên máy điện thoại | expectant, pregnant có bầu, mang thai, sắp sinh (cũng còn dùng) mother-to-be (nôm na) bà mẹ tương lai | first-time lần đầu | new mới (có con) | full-time toàn thời/thời gian | breast-feeding cho bú sữa mẹ | sick ốm, đau bệnh/bịnh caring for his sick mother chăm sóc cho bà mẹ bị đau ốm | working đi làm, làm việc § VERB + MOTHER resemble, take after giống, trông giống The two boys were like their father in character, but Louise took after her mother Hai cậu con trai giống cha về tính tình/tính nết, nhưng cô Louise thì lại giống mẹ | inherit sth from thừa hưởng, thừa kế She inherited the urge to travel from her mother Cô thừa hưởng cái khoái/thú/lòng ham muốn đi du lịch của bà mẹ cô. day noun 1. ngày, hôm (thời gian 24 tiếng đồng hồ), § ADJ the following, (the) next (hôm) sau, kế tiếp | the previous (hôm) trước | the other (hôm) nọ I was in your area the other day Hôm trước/nọ tôi ở trong khu vực của anh | one một | some nào đó I hope we meet again some day Tôi hi vọng chúng ta sẽ gặp lại ngày/hôm nào đó. | The very chính, cùng It happened on the very day that Kemp was murdered Chuyện ấy đã xảy ra đúng/chính cái ngày thằng Kemp bị giết chết. □ The parcel arrived the very next day Cái gói hàng/bưu kiện đó đã đến ngay ngày hôm sau. | auspicious tốt, big trọng đại, eventful đầy biến cố, field tự do/tha hồ thao túng, (có) cơ hội tốt historic lịch sử, memorable đáng nhớ, red-letter đặc biệt, vui, đáng ghi nhớ, special đặc biệt The tabloid press had a field day with the latest government scandal Với vụ xì-căng-đan/tai tiếng/bê bối của Nhà nước/chính phủ mới đây báo chí lá cải đã vớ được món bở/cơ hội tốt (tha hồ thao túng/làm mưa làm gió). | fateful định mạng, sad buồn, u buồn, ảm đạm those killed in the hail of bullets fired on that fateful day những kẻ bị bắn chết trong làn mưa đạn vào ngày định mạng ấy | Christmas Lễ Giáng sinh, Mother’s Nhớ ơn Mẹ, của Mẹ, etc. | feast, holy lễ hội, lễ thánh | election bầu cử, opening khai trương, khai mạc, market chợ phiên, pay trả lương, polling bầu phiếu, sports thể thao, visiting thăm viếng, wedding cưới | rest nghỉ, school đi học, tại trường study (được nghỉ để) học thi, luyện cho kì thi (sắp đến) training huấn luyện, đào tạo, tập huấn the pattern of the school day mô hình/điển hình của ngày học trong trường/tại học đường. § DAY + VERB pass qua, trôi qua He thought of her less as the days passed Thời gian/ngày tháng trôi qua chàng càng ngày càng bớt nhớ đến nàng. § PREP by the ~ ngày lại ngày, mỗi ngày qua He’s getting stronger by the day Ngày qua ngày hắn trở nên khoẻ mạnh hơn for a/the ~ được They stayed for ten days Họ ở lại (được) 10 ngày. in a/the ~ trong vòng ~ We hope to finish the job in a few days Chúng tôi hi vọng làm xong việc trong vài ngày nữa. on the ~ (of) vào ngày ~ On the day of his wedding he was very nervous Vào ngày cưới của hắn, hắn khớp/bối rối thấy rõ/ra mặt.| ~ of của, có It was the day of the big match Đó là ngày của/có trận đấu lớn. 2. ngày (khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn) § ADJ beautiful đẹp trời, bright tươi sáng, fine đẹp trời, glorious rực rỡ, huy hoàng, hot nóng, nice đẹp, sunny (có) nắng, warm nóng, ấm | cold lạnh, grey u ám, xám ngoét, rainy mưa, windy gió | autumn thu, spring xuân, summer/summer’s hạ, winter/winter’s đông a fine summer’s day một ngày hè đẹp trời | fun, good, great, happy vui, lovely, wonderful tuyệt vời Memories of happy days on the hills never fade Những kỉ niệm của những tháng ngày vui trên (những ngọn) đồi không bao giờ phai mờ/nhạt | bad xấu On a bad day chaos reigns and nobody can predict when a plane will leave Vào một ngày xấu đầy hỗn loạn/xáo trộn/nhốn nháo thì không ai có thể tiên đoán được khi nào máy bay mới bay/cất cánh | full trọn vẹn, cả, nguyên I knew I had a full day’s driving ahead of me Tôi (đã) biết tôi (đã) còn phải lái xe trọn một ngày nữa. § VERB + DAY spend dùng We spent the day gardening Chúng tôi dùng hôm đó vào việc làm vườn. § DAY +VERB break, dawn sáng, rạng đông, tảng sáng, bình minh As day dawned I found her already hard at work Khi trời mới rạng đông/tảng sáng tôi đã thấy bà cặm cụi/còng lưng làm việc rồi. § PREP by ~ về/vào ban ~ We travelled at night and rested by day Chúng tôi đi/di chuyển vào/về ban đêm và ban ngày thì nghỉ khoẻ. during the ~ suốt ~, for a/the ~ cả ~ We went to the seaside for the day Chúng tôi ra bờ biển chơi cả ngày hôm đó. § PHRASE all day (long) suốt ngày, at the end of the day cuối ngày, day and night cả ngày lẫn đêm, one of those days Một trong những ngày (xui/hên) It’s been one of those days when everything’s gone wrong Đó là một trong những ngày xui, chuyện gì cũng hỏng. 3. những giờ làm việc trong ngày § ADJ working làm việc | bad, busy, hard bận rộn, bù đầu long dài, tiring mệt mỏi a hard day at the office | good, quiet yên tĩnh | 7-hour 7 giờ, 8-hour 8 giờ, etc. a 9-hour working day một ngày làm việc 9 tiếng. § PHRASE a good day’s work một ngày làm việc tốt/hài lòng/đâu vào đó (như đã định/dự tính) 4. (thường days) khoảng thời gian đặc biệt/cụ thể nào đó ADJ early đầu, thoạt đầu, former, old, olden trước, xưa, xưa kia in the early days of cinema trong những thời kì/ngày đầu của phim ảnh/chiếu bóng/xi-nê-ma. | school, student còn đi học, còn là học sinh, young còn trẻ in his younger days hồi hắn còn trẻ hơn bây giờ | golden, happy, heady vẻ vang, vàng son, vui sướng, hạnh phúc, sôi nổi the heady days of the ‘swinging sixties’ những ngày sôi nổi của ‘thập niên 60 đầy biến chuyển/đổi thay (sống híp-py/ buông thả, tự do luyến ái, trang phục sặc sỡ)’. | dark đen tối the dark days of recession những ngày đen tối của tình trạng/cuộc suy thoái kinh tế. PREP in sb’s ~ trong/vào/ở thời của ai Things were very different in my grandfather’s day Mọi chuyện ở thời ông nội/ngoại tôi khác hẳn (thời bây giờ/nay). of the ~ the government of the day chính phủ đương quyền/đương thời since the ~s of kể từ những ngày Much has changed since the days of my youth Không có mấy thay đổi kể từ những ngày tôi còn trẻ. PHRASE gone are the days when … Còn đâu nữa những ngày Gone are the days when you could do a week’s shopping and still have change from £20 Còn đâu nữa những ngày khi bạn có thể mua đồ cho cả tuần lễ mà vẫn chưa xài hết đồng 20 bảng Anh (trả 20 bảng Anh mà còn được thối lại) the bad/good old days những ngày khốn khó/vàng son trước kia/hồi đó That was in the bad old days of rampant inflation Đó là những ngày/thời kì xa xưa khổ vì nạn lạm phát tràn lan. In this day and age ngày nay, in those days những ngày đó, hồi đó the present day hiện giờ, ngày nay a study of European drama, from Ibsen to the present day cuộc nghiên cứu về kịch nghệ, từ Ibsen tới ngày nay these days thời nay Kids grow up so quickly these days Trẻ con thời nay chóng/mau lớn thật lẹ. Those were the days Đó là những ngày/thời kì, hồi/thời đó (= thường nói về thời gian trong quá khứ tốt đẹp/ngon lành hơn bây giờ)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 5:42:31 GMT 9
Tôi ra hầu tòa tại Toronto
Đứng trên quan niệm luật pháp và triết lí ở Úc mà nói, thì sau nhiều năm sống và làm việc ở đây tôi đã “ngộ” được đôi điều về đất nước/quê hương thứ hai của mình (my adopted country/land) là như thế này:
(1) Ai cũng vô tội cho tới khi được chứng minh là có tội (A person is innocent till proven guilty);
(2) Công lí không phải chỉ được thi hành mà còn phải được trông thấy thi hành nữa kìa. (Justice is not only done, but also seen to be done).
Điều (1) có thể được giải thích thêm là: Một người bị cảnh sát truy tố ra tòa, thì bên buộc tội, tức là Công tố viên/Ủy viên công tố (Crown Prosecutor/Public Prosecutor), phải trưng chứng cớ (evidence), thường là lời khai (statement) của bị can/bị cáo (the defendant/the accused) trước cảnh sát trong hồ sơ cảnh sát thẩm vấn (record of police interview), để viện dẫn, chứng minh cho Quan tòa (Judge, Magistrate) hoặc Bồi thẩm đoàn (Jury) thấy là người ấy, tức là bị can, bị cáo có tội.
Bên luật sư biện hộ/bênh vực (Defense Counsel) phải chống trả bằng mọi cách (fight in every possible way) để chứng minh là những chứng cớ ấy không đứng vững (not convincing/not valid), nại ra khía cạnh pháp lí sai trái (false legal aspects), hoặc bất cứ sơ sót nào (any flaws) có trong cuộc điều tra. Trong nhiều trường hợp, luật sư biện hộ còn đưa thân chủ (client) của mình ngồi vào ghế nhân chứng (witness-box), làm nhân chứng (witness), để bên nguyên và bên bị đặt câu hỏi, chất vấn (cross-examine) cho ra nhẽ (to ascertain the facts of the case). Thể thức này gọi là cross-examination (chất vấn đối tịch).
Ở Úc, nếu người dân bị truy tố về tội hình sự (criminal offence), mà không có đủ tiền thuê mướn (hire) một luật sư, thì Nhà nước/Chính phủ (the Government) sẽ cung cấp cho một luật sư để họ biện hộ cho mình. Luật sư loại này làm việc cho Legal Aid Commission (Ủy ban/Văn phòng Trợ giúp Pháp lí/luật). Nếu mình là người có thu nhập thấp dưới mức nào đó, chẳng hạn như ăn tiền trợ cấp thất nghiệp (unemployment benefit), lãnh trợ cấp bệnh hoạn (sickness benefit), thì mình sẽ được luật sư đại diện cho mình trước tòa miễn phí. Việc mình cần phải làm là điền vào một mẫu giấy in sẵn cho luật sư giữ làm bằng (keep as evidence) để họ đòi tiền Chính phủ sau này.
Điều (2) có thể được làm sáng tỏ đại loại như sau: Bị can nào thuộc vào loại không thuộc nguồn gốc nói tiếng Anh [(Non-English Speaking Background (NESB)] thì sẽ được tòa cung cấp thông dịch viên/phán dịch (interpreter) giúp cho mình. Thông thường thì công chúng được quyền vào coi xử án (court proceedings are usually open to the public), ngoại trừ những vụ xử trẻ em tại tòa Thiếu niên/Trẻ em (Children’s court), hoặc quan tòa ra lệnh phiên xử phải được xử kín (be heard in a closed court) thì không nói làm gì. Trong khi vụ xử đang diễn ra mà báo chí, hoặc truyền thanh, truyền hình (the press or the electronic media) nào phao tin về thành tích phạm tội trước kia của bị can, mà tin tức loại này được tiết lộ cho các bồi thẩm viên (jurors), thì Quan tòa/Chánh án (Judge) phải khuyến cáo họ nên bỏ ngoài tai các thông tin ấy và chỉ tập trung vào những điều nghe thấy, biết được qua các bằng chứng được bên nguyên hoặc bên bị đưa ra tại tòa mà thôi. Bồi thẩm viên nào tiết lộ ra công chúng bất cứ chi tiết gì về vụ việc đang được toà xử mà có người thông báo cho quan tòa biết, thì cả bồi thẩm đoàn đó sẽ bị sa thải (dismissed), và một bồi thẩm đoàn mới sẽ được lựa chọn (a new jury is empanelled) thay thế.
Tất nhiên, công chúng vào nghe xử cũng được khuyến cáo không phổ biến tin ra ngoài trong lúc vụ xử đang diễn tiến (on-going court case), và tòa cấm không được chụp hình hoặc thâu băng lén vụ kiện (secretely tape the court proceedings). Vì như thế là để tránh trường hợp vô hình trung có thể gây bất lợi hoặc thuận lợi cho bị cáo. Theo luật lệ mới, thì tuy rằng nhân viên cảnh sát an ninh (security police) không còn kiểm soát và giữ lại điện thoại lưu động (mobile phone), loại kĩ thuật số (digital) có thể chụp hình và thâu băng được, ở ngoài tòa như trước nữa, nhưng ai bị bắt gặp vi phạm chụp hình hoặc thâu băng lén phiên tòa thì người ấy sẽ bị phạt rất nặng (will be faced with a very hefty fine).
Giới truyền thông có thể đóng một vai trò quan trọng khi họ để ý chi li/coi xét kĩ lưỡng (scrutinizing) đến các phán quyết của tòa (court judgments). Quan trọng ở chỗ là nếu công chúng cảm thấy là bản án chưa đủ nặng, thì các nhóm vận động hành lang (lobby groups) có thể được lập ra để thỉnh nguyện Chính phủ thay đổi luật pháp hầu áp dụng những hình phạt nặng hơn đối với một số tội phạm nào đó. Ngoài ra, khi tường thuật về các vụ xử án được nhiều người theo dõi năm này qua năm khác, giới truyền thông có thể đánh động công chúng suy ngẫm sâu hơn về chuyện có tội hay vô tội của bị cáo. Cứ thử lấy vụ Ngô Cảnh Phương (nghị viên thành phố Cabramatta, mang tội sát nhân), và Lindy Chamberlain (vợ một mục sư, mang tội giết con), ra mà xem! Nhiều người cho rằng họ vô tội, nhiều người khác lại cho rằng họ có tội. Kết quả bản án tòa là: người thì thọ án chung thân, người thì được tha bổng. Cũng vì có sự chú tâm theo dõi, can thiệp của giới truyền thông mà tòa sau cùng đã đưa ra tuyên án/phán quyết (verdict) là Lindy Chamberlain vô tội, mặc dù bị muộn mất 10 năm. Biết đâu chừng là nay mai đây, nỗ lực không ngừng nghỉ tìm kiếm cho ra/bằng được công lí (endless seeking for justice) của giới truyền thông, của các nhóm vận động hành lang mà lại chẳng đưa đến chuyện Ngô Cảnh Phương được “thanh minh thanh nga” (being found/proven) là vô tội trước những cáo trạng buộc tội anh (accusations made against him). Đến lúc đó thì quả là: Bánh xe công lí tuy chậm mà chắc (The wheels of justice move slowly, but surely). Bố ai mà biết được!
Chủ đề của bài học tuần này: “Tôi ra hầu tòa tại Toronto” (I was called to court in Toronto) là một hình thức “hỏa mù sa mưa”. Người không biết chuyện thì tưởng tôi liên hệ đến chuyện trồng cần sa loại quốc cấm [cultivate prohibited plants (cannabis)], hay bị truy tố về tội hiếp dâm/cưỡng dâm (rape charge) từ hồi nào ở Toronto, Canada nay bị dẫn độ (extradited) về bển chịu tội (face the music) chăng. Nhưng “không” Quí vị, Quí Bạn ơi! Tôi chỉ được kêu ra toà Toronto, cách Sydney chừng 140 cây số về phía Tây Bắc làm phán dịch. Từ hồi “Của đi thay người” (mất chiếc xe trong tai nạn xe cộ), tôi dùng phương tiện chuyên chở công cộng mỗi khi được gọi đi làm kiếm chút cơm/chút cháo (bread and butter). Vụ đi về miền quê (country) làm thông dịch tại toà Toronto khiến tôi phải đi 5 chuyến xe. Này nhé! Lên xe buýt trước cửa nhà ở Casula, đến ga xe lửa Liverpool (khoảng nửa tiếng), nhảy lên xe lửa đến ga Strathfield (khoảng nửa tiếng), chờ ở Strathfield (khoảng nửa tiếng), đổi chuyến xe lửa đi Wyong (khoảng hơn nửa tiếng), chờ ở Wyong (khoảng nửa tiếng), lên chuyến xe lửa đi Fassifern (khoảng nửa tiếng), đổi sang xe buýt vào thành phố Toronto (khoảng 15 phút). Đi bộ đến Tòa án Toronto (3 phút). Tổng cộng thời gian chuyến đi của tôi từ nhà đến tòa mất khoảng 5 tiếng rưỡi. Khi kể chuyện dông dài chuyến đi, thời gian ngồi đợi, tôi không có ý muốn than van, mà muốn nói lên điều mình thích thú, vì lâu lâu được đi một chuyến ra khỏi thành phố, hưởng không khí đồi núi, cỏ cây, biển nước…suy nghĩ vẩn vơ (mà được trả tiền) để soạn bài học cho bà con cô bác trên toàn cầu!
Mới đây có anh bạn từ Toronto, Canada viết email (meo) hỏi tôi: “Đi xa như thế có được trả tiền thêm không?” Xin trả lời: (a) Những giờ ngồi trên xe lửa cũng được kể là giờ làm việc (tuy không kể là từ nhà, nhưng được kể từ vị trí vòng đai của thành phố Sydney đến đó mà thôi); (b) Tiền vé xe lửa, xe buýt (có thể là tiền taxi nữa) từ địa điểm vòng đai và ở nơi công tác sẽ được bồi hoàn (reimbursed). Riêng trường hợp của tôi, sau khi qua tuổi 60, tôi được cấp phát thẻ đặc biệt đi xe pháo rẻ tiền cho người cao niên (seniors card) trong tiểu bang NSW, dùng phương tiện chuyên chở công cộng (public transport) như buýt, xe lửa, phà/bắc (ferry) cả ngày, chỉ phải trả có 2.50 Úc-kim. Uỷ ban Quan hệ Cộng đồng (Community Relations Commission) mướn tôi làm thông dịch phen này có lời, có lãi là cái chắc!
Trịnh Nhật Sydney, Tháng 8, 2006
Kết hợp ngữ
(Collocations)
appear verb
1 hiện ra, xuất hiện
§ ADV suddenly bất ngờ, đột nhiên A man suddenly appeared in the door way Một người đàn ông đột nhiên xuất hiện trên lối cửa ra vào. | from nowhere bỗng nhiên, chẳng biết từ đâu, (như) từ trên trời rơi xuống A police officer appeared as if from nowhere and ordered us to halt Một cảnh sát viên chẳng biết từ đâu xuất hiện, rồi ra lệnh bắt chúng tôi dừng/ngừng (xe) lại.
2 ra mắt, xuất hiện, trình diễn trước công chúng/nơi công cộng
§ ADV currently hiện thời
§ PREP at ở, tại She is currently appearing at the Liverpool Playhouse Cô ta hiện thời trình diễn tại Rạp hát Liverpool.
§ PHRASE appear on television xuất hiện trên truyền hình/TV She regularly appears on television Cô ta xuất hiện thường xuyên/đều đặn trên truyền hình.
3 ra trước toà
· PREP at ở He will appear at Manchester Crown Court next week Anh ta sẽ ra hầu Toà án (Hình sự) Manchester vào tuần tới/sau..
· PHRASE appear before a court/judge/magistrate ra trước toà/chánh án/thẩm phán The man will appear before magistrates in Birmingham later today Người đàn ông ấy sẽ ra hầu tòa hòa giải tại Birmingham (lát nữa đây) nội ngày hôm nay. appear in court ra trước toà, ra hầu toà, ra trước vành móng ngựa A man has appeared in court charged with the murder of seven women Một người đàn ông đã ra hầu toà vì bị truy tố giết chết/sát hại 7 phụ nữ.
court noun
1 tòa, tòa án
§ ADJ high tối cao This is the highest court in the land Đây là cao cấp nhất/tối cao trong xứ/nước. | appeal kháng cáo, hòa giải, phúc thẩm civil dân sự, crown hình sự, high tối cao, juvenile thiếu niên, magistrates sơ thẩm, military quân sự They took their case to the appeal court Họ đưa vụ kiện của họ tòa kháng án/phúc thẩm. | supreme thượng thẩm | county tòa địa phương (giải quyết các vụ không thuộc hình sự), federal liên bang, etc. | European Âu châu, French Pháp quốc, etc.
§ VERB + COURT go to ra hầu, take sb/sth to đưa ai/cái gì ra We are prepared to go to court to get our compensation Chúng tôi chuẩn bị ra tòa để đòi bồi thường. o Their neighbours took them to court Hàng xóm của họ đưa/lôi họ ra hầu tòa. | come to, got to, go to đưa ra, đem ra The case should not be allowed to go to court Vụ này không được đưa ra tòa. | bring sth to đưa/đem cái gì ra There wasn't enough evidence to bring the case to court Đã không có đủ bằng cớ để đem vụ này ra tòa. | settle sth out of giải quyết/dàn xếp ngoài tòa The dispute was settled out of court Vụ tranh chấp này đã được dàn xếp ngoài tòa. | appear before, appear in, attend ra tòa, ra hầu tòa, ra trước vành móng ngựa She is too young to appear before the court Cô ta còn trẻ quá không phải ra hầu tòa. o He will appear in court tomorrow charged with the murder Hắn sẽ phải ra hầu tòa ngày mai bị truy tố về tội sát nhân | preside over làm chánh thẩm The court was presided over by Judge Owen Tòa đã được quan tòa Owen làm chánh thẩm.
§ COURT + VERB hear sth nghe xử cái gì/chuyện gì The court heard how the mother had beaten the 11-year-old boy Tòa đã nghe xử người mẹ đánh đứa con 11 tuổi như thế nào. | acquit sb, clear sb tha bổng, xử trắng án The court acquitted Reece of the murder of his wife Toà tha bổng anh chàng Reece về tội giết vợ. | dismiss sth, quash sth bãi nại, bác bỏ cái gì The court dismissed the appeal Toà bãi nại kháng cáo. o The guilty verdict was quashed by the appeal court Phán quyết có tội đã bị tòa phúc thẩm bãi nại, Toà phúc thẩm đã bác bỏ phán quyết có tội. | uphold sth ủng hộ cái gì The court upheld the plaintiff’s claim of unfair dismissal Tòa ủng hộ khiếu nại của nguyên đơn bị sa thải bất công. | hold sth, order sth, rule sth phán quyết, ra lệnh, quyết định The court held that she was entitled to receive compensation Tòa phán quyết là cô ta được hưởng tiền bồi thường.
§ COURT + NOUN action, case vụ kiện, proceedings vụ xử | hearing, trial vụ xử | injunction, order, summons lệnh, án lệnh, trát đòi She tried to get a court order to prevent him from coming near her Cô ta cố xin lệnh tòa ngăn cấm anh không được đến gần cô ta. o He received a court summons for non-payment of tax Anh ta nhận được trát kêu anh ra tòa vì vụ không trả tiền thuế. | decision, ruling quyết định, phán quyết | appearance có mặt, hiện diện, hầu tòa Divorce no longer requires a court appearance Vụ việc ly dị nay không còn cần phải có mặt tại tòa nữa. | battle tranh tụng They could now face a court battle for compensation Họ nay có thể phải tranh tụng trước tòa về việc bồi thường. | bailiff nhân viên, clerk thư kí, judge quan tòa, chánh án, official viên chức, registrar lục sự, staff nhân viên, usher người đưa dẫn (chỉ chỗ ngồi) She was appointed a high court judge in l998 Bà ta được bổ nhiệm làm chánh án tòa tối cao năm 1998. | procedure, process thủ tục, tiến trình | system hệ thống | building (pháp) đình
§ PREP at ~ ở ~ He was found guilty at Swindon Crown Court Hắn bị kết án phạm tội ở Tòa án Hình sự Swindon. before a/the ~ trước The case is now before the court Vụ này nay được trình trước tòa. in ~ trong ~ Relatives of the dead girl were in court Bà con họ hàng cô gái xấu số/bị chết đã có mặt trong/tại tòa.
§ PHRASE contempt of court khinh thường/miệt thị tòa án He was charged with contempt of court after shouting at a witness. a court of appeal tòa phúc thẩm, kháng cáo, kháng án, chống án, The case will be heard by the court of appeal next month. a court of law tòa án I don't think that argument would stand up in a court of law. a ward of court trẻ em được tòa bảo trợ, con bảo trợ của toà The child was made a ward of court when her parents were jailed Đứa trẻ được làm con bảo trợ của tòa khi bố mẹ nó ngồi tù.
2 sân (thể thao)
§ ADJ basketball bóng rổ, squash môn đánh squash, tennis quần vợt, etc. | clay đất, grass cỏ, hard cứng Do you prefer playing tennis on grass courts or hard courts Anh/chị thích đánh quần vợt trên sân cỏ hơn hay sân cứng hơn?
§ PREP off (the) ~ ngoài ~ Off court she is just as aggressive as she is on the court Ngoài sân (quần/thi đấu) cô ta cũng hung hăng/áp đảo/tấn công dữ dằn hệt như trên sân vậy. on (the) ~ The players have been on court for an hour Các đấu thủ đã ở trên sân được một tiếng đồng hồ rồi.
3 triều đình (vua/nữ hoàng)
§ ADJ royal (thuộc về) hoàng tộc, hoàng gia, vua chúa
§ COURT + NOUN circles giới Mozart quickly became a favourite in court circles Mozart mau chóng trở thành nhạc sĩ được ưa chuộng trong giới hoàng tộc.
§ PREP at (a/the) ~ life at the court of Charles I cuộc sống trong triều vua Charles Đệ Nhất o life at court cuộc sống trong hoàng cung.
court verb
tán tỉnh, ve vãn
§ ADV assiduously chuyên cần, siêng năng, liên tục, không ngừng nghỉ He spent three months assiduously courting a newspaper editor Hắn dùng 3 tháng liên tục ve vãn một viên chủ bút
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 8:43:03 GMT 9
Khi Anh Ngữ Nhuốm Màu Địa Phương posted Feb 15, 2010. Trung-Phap Dam-VienVietHoc
Contents
1. 1 "Rắn trong lỗ" hay "Đồ ăn trong hội trường"? 2. 2 Lingua franca hoàn vũ 3. 3 Hiện tượng bản xứ hóa 4. 4 Tương lai ra sao? 5. 5 Tài liệu tham khảo
Tiến Sĩ Đàm Trung Pháp Giáo Sư Thực Thụ Phân Khoa Giáo Dục Texas Woman's University "Rắn trong lỗ" hay "Đồ ăn trong hội trường"? Từ nhiều năm nay tôi thường có một số sinh viên quốc tế theo học chương trình giáo dục ngôn ngữ tôi phụ trách tại Texas Woman's University. Cách nói và viết tiếng Anh khá đặc thù của họ đã kích thích tính tò mò của tôi và thúc đẩy tôi tìm hiểu thêm về những dạng thức khác nhau của tiếng Anh ngày nay trên thế giới. Đôi khi tôi thắc mắc và tự hỏi liệu những người nói tiếng Mỹ "tiêu chuẩn" như quý bạn và tôi có khó khăn gì không khi giao dịch với những người nói tiếng Anh loại này, chẳng hạn trong trường hợp giả dụ rất có thể xảy ra dưới đây?
Chúng ta đang dự một buổi tiếp tân tại một khách sạn bên Ấn Độ, quê hương của biết bao thứ mãng xà, và bất chợt nghe vị MC bản xứ dõng dạc nói qua máy vi âm điều gì nghe như thể "Snakes are now in the hole, please serve yourself!" thì chắc chắn chúng ta sẽ chới với. Khiếp thế, cho ăn gì đây? Hổ mang hoa, rắn đeo kính chăng? Thưa không phải như vậy đâu, may thay! Sự hiểu lầm này xảy ra chỉ vì cách phát âm độc đáo của Anh ngữ Ấn Độ mà thôi. Trong phương ngữ này, người ta giảm bớt đi một số mẫu âm bằng cách "giết hai con chim bằng một hòn đá," và vì vậy hai chữ "snack" và "snake" chứa đựng hai mẫu âm khác nhau một trời một vực đều được phát âm như chữ "snake." Hai mẫu âm khác nhau trong chữ "hall" và chữ "hole" cũng cùng chịu chung một số phận ấy, và cùng được phát âm nhữ chữ "hole." Thứ tiếng Anh này cũng có một số từ vựng độc đáo, như "co-brother" và "co-sister" chẳng hạn, ý nghĩa tương đương với "anh em cột chèo" và "chị em dâu" trong ngôn ngữ chúng ta. Quý bạn nào tôn trọng ngữ pháp tiêu chuẩn trong tiếng Anh, tiếng Mỹ sẽ không khỏi chau mày khi thấy người nói Anh ngữ Ấn Độ sử dụng các "tenses" trong động từ theo quy luật riêng lạ kỳ của nó, như trong hai thí dụ điển hình sau đây: "We are here since yesterday" (thay cho "We have been here since yesterday") và "They have been here 20 years ago" (thay cho "We were here 20 years ago"). Xin nhớ là những người này rất có học và sử dụng Anh ngữ Ấn Độ tiêu chuẩn đấy. Lingua franca hoàn vũ Thực khó mà coi nhẹ vai trò tiếng Anh ngày nay trên thế giới. Tiếng Anh hiện được coi là một lingua franca tức là thứ tiếng dùng chung của hằng hà sa số những người không nói cùng một thứ tiếng mẹ đẻ. David Crystal (1996) ước lượng số người sử dụng tiếng Anh trong 3 khối nhân loại tượng trưng bằng 3 vòng tròn đồng tâm lan rộng ra như sau: (1) "Vòng tròn trong cùng" gồm những xứ mà đại đa số dân chúng nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, như Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi, Úc Đại Lợi, vân vân, có khoảng từ 320 đến 380 triệu người; (2) "Vòng tròn ngoài" gồm những xứ mà dân chúng sử dụng tiếng Anh từ lâu như Ấn Độ, Tân Gia Ba, Ghana, vân vân, có khoảng từ 150 đến 300 triệu người; và (3) "Vòng tròn lan rộng" gồm những xứ như Trung Hoa, Nga, Việt Nam, vân vân, có khoảng từ 100 triệu đến 1 tỷ người. Như vậy, con số người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ nhỏ hơn con số người dùng nó như một thứ ngôn ngữ thứ hai rất nhiều. Tổng cộng, tối đa có cả thẩy 1 tỷ 680 triệu người hiện dùng tiếng Anh trên thế giới. Đúng như lời tiên đoán vào năm 1780 của Tổng Thống John Adams (1735-1826) rằng tiếng Anh sẽ là ngôn ngữ được nể vì nhất trên thế giới và sẽ được đọc và nói nhiều nhất hoàn vũ trong những thế kỷ kế tiếp. Hiện tượng bản xứ hóa Hiển nhiên khi tiếng Anh lan tràn đến một nơi xa lạ, nó sẽ không thoát khỏi ảnh hưởng tiếng nói của người địa phương, trong tiến trình "bản xứ hóa." Hiện tượng trăm hoa đua nở này đã mang lại nhiều dạng thức khác nhau cho tiếng Anh, đến nỗi ngày nay các nhà nghiên cứu đã dùng số nhiều cho danh từ "English" cho tập thể "the Englishes of the world" ! Hai yếu tố thường được chú ý nhiều nhất trong hiện tượng bản xứ hóa là phát âm và từ vựng. Bằng phương cách đối chiếu, các nhà nghiên cứu có thể phát hiện và hệ thống hóa những khác biệt đặc thù giữa tiếng Anh tiêu chuẩn và tiếng Anh bản xứ hóa. Nhưng thế chưa đủ, vì tiến trình này còn phản ánh vài yếu tố sáng tạo khác, như sự giản dị hóa cú pháp hoặc sự sử dụng những phương thức tu từ cá biệt của các ngôn ngữ địa phương liên hệ.
Các loại Anh ngữ địa phương hóa (và nay đã qui củ hóa) tại Đông và Tây Phi Châu, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, vân vân, đều cho giảm đi con số âm vị (phonemes) của tiếng Anh tiêu chuẩn, bằng cách "sáp nhập" các âm vị tương đối giống nhau (vì chúng ở các vị thế phát âm kế cận) vào làm một. Đáng kể nhất trong khuynh hướng đại đồng này là việc sáp nhập các mẫu âm trong các cặp chữ "eat" và "it", "pool" và "pull", "hole" và "hall"; và các tử âm trong các cặp chữ "see" và "she", "den" và "then", "tick" và "thick." Các cặp chữ vừa kể này với phát âm khác biệt trong tiếng Anh tiêu chuẩn nay trở thành đồng âm. Tiếng Anh nói tại Đông Phi Châu (trong các quốc gia Kenya, Tanzania, và Uganda) đã cho sáp nhập hoặc "đồng hóa" nhiều âm vị Anh ngữ tiêu chuẩn nhất. Tại đây nhiều người còn không phân biệt được cách phát âm hai tử âm trong cặp "lice" và "rice" và cũng cho đồng hóa các tử âm trong ba chữ "sue", "shoe", và "chew", tức là biến cả ba chữ ấy thành đồng âm, với phát âm chung là "sue."
Vị trí của âm tiết nhấn mạnh trong một số chữ cũng thay đổi. Chẳng hạn, tại Tây Phi Châu, người ta nhấn mạnh âm tiết sau cùng của các chữ "congratulate" và "investigate" và âm tiết đầu của chữ "success." Anh ngữ Ấn Độ hóa biểu hiện một ngữ điệu (intonation) khá lạ tai do ảnh hưởng của tiếng Hindi, khiến cho nhiều người không quen với ngữ điệu này rất khó hiểu Anh ngữ Ấn Độ hóa. David Crystal (1995) có nhắc đến chuyện bà Thủ Tướng Indira Gandhi (một sản phẩm giáo dục của Đại Học Oxford bên Anh Quốc) đã than phiền với Bộ Giáo Dục trong nội các của bà về những "tiêu chuẩn đi xuống" của tiếng Anh tại Ấn Độ, sau khi bà không hiểu nổi lời phát biểu bằng tiếng Anh của người đại diện Ấn Độ tại một hội nghị quốc tế!
Từ vựng đương nhiên là một đặc thù của các Anh ngữ địa phương hóa. Nhiều từ ngữ được lấy thẳng từ ngôn ngữ địa phương, như "askari" (cảnh sát viên), "chai" (trà), "kibanda" (chợ đen) trong Anh ngữ Đông Phi Châu; "crore" (mười triệu), "durzi" (thợ may), "sahib" (chủ nhân), "gherao" (phản đối một cá nhân bằng cách không cho người ấy ra khỏi văn phòng) trong Anh ngữ Ấn Độ; "koon" (ngủ), "tolong" (giúp), "chope" (dành trước) trong Anh ngữ Tân Gia Ba; và "boondock" (núi), "carabao" (trâu nước) trong Anh ngữ Phi Luật Tân. Những từ vựng địa phương này có được thế giới để ý đến hay không là tùy thuộc vào tầm quan trọng ý nghĩa của chúng. Vì vậy, trong tiếng Anh Nam Phi Châu, "apartheid" (chính sách phân chia chủng tộc tại Cộng Hòa Nam Phi) và "impala" (một loại linh dương tại Nam Phi Châu chạy rất nhanh) đã gia nhập từ vựng trong đại gia đình Anh ngữ, trong khi "dorp" (làng nhỏ) và "bredie" (một món thịt hầm) thì ít người biết đến. Những từ vựng địa phương nào mà đã có những tương đồng trong tiếng Anh tiêu chuẩn thì thường bị bỏ qua, như trường hợp "outwith" (tiếng Anh Tô Cách Lan, tương đương với "outsid") và "godown" (tiếng Anh Ấn Độ, tương đương với "warehouse").
Một số từ vựng Anh ngữ tiêu chuẩn khi địa phương hóa đã thay đổi ý nghĩa, hoặc có thêm ý nghĩa nới rộng, hoặc được canh tân hình thức với ý nghĩa mới, như trong các thí dụ sau đây. Trong Anh ngữ Ấn Độ, colony = residential area, hotel = restaurant / café, police firing = shooting by police, cousin-sister = female cousin, co-brother = wife's sister's husband, Eve-teasing = harassment of women, Himalayan blunder = grave mistake. Trong Anh ngữ Tây Phi Châu, balance = change (money returned to a customer), bluff = dress fashionably, hot drink = liquor, hear = understand, take in = become pregnant.
Những biến thiên của cú pháp Anh ngữ tiêu chuẩn cũng đáng kể trong các Anh ngữ địa phương hóa. Sau đây là một số kỳ hoa dị thảo nổi bật. Tại Tân Gia Ba, người ta dùng thành ngữ tân lập "use to" (thời hiện tại) để diễn tả một thói quen: "I use to go shopping on Mondays" (thay cho "I usually go shopping on Mondays"). Nhóm chữ "can or not?" được dùng ở cuối một câu nói để người nghe phải xác nhận hoặc phủ nhận sự chính xác của câu nói đó: "She wants to go, can or not?" Điều này xảy ra tôi đoán là do ảnh hưởng trực tiếp của tiếng Hán, trong đó "năng bất năng?" là nhóm chữ tương đương về ý nghĩa và vị trí với "can or not?" được sử dụng phổ thông. Và người ta cũng dùng chữ "la" (hẳn là do chữ "liễu" trong tiếng Hán mà ra) như một tiểu từ trong câu nói để diễn đạt sự xuề xòa, thân thuộc: "Please la come to the party!" Tiếng Anh bên Ấn Độ sử dụng "isn't it?" (với nghĩa "phải không?") cho tất cả mọi câu nói để biến chúng thành các câu hỏi chẳng hạn như các câu "She is going home soon, isn't it?" và "You did not pass the test, isn't it?" Và không kém phần sáng tạo, cú pháp tiếng Anh tại Tây Phi Châu cho phép một túc từ ("them" trong thí dụ sau đây) được sử dụng trong một mệnh đề phụ bắt đầu bằng một đại từ quan hệ ("whom" trong thí dụ sau đây), mặc dù túc từ đó không cần thiết: "The guests whom I invited them have arrived." Phương ngữ này cũng không phân biệt ý nghĩa giữa đại từ phản thân "themselves" và đại từ hỗ tương "each other", và do đó câu "They like themselves" đồng nghĩa với câu "They like each other." Tương lai ra sao? Trong lịch sử ngôn ngữ loài người chưa có thứ tiếng nào được sử dụng rộng rãi như tiếng Anh ngày nay trên khắp thế giới. Khó đoán chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Hiện giờ có hai vấn đề mâu thuẫn nhau, đó là (1) sứ mệnh truyền thông quốc tế của tiếng Anh và (2) bản sắc riêng biệt của các loại tiếng Anh nhuốm màu địa phương. Sứ mệnh truyền thông quốc tế đòi hỏi yếu tố minh bạch để mọi người cùng hiểu, tức là một tiêu chuẩn chung mà mọi nơi cùng thỏa thuận về cú pháp, từ vựng, chính tả, phát âm, và quy ước sử dụng. Một phương ngữ quốc gia của một ngôn ngữ quốc tế đương nhiên phải có bản sắc đặc thù, cũng trong các lãnh vực cú pháp, từ vựng, chính tả, phát âm, và quy ước sử dụng. Tương lai của tiếng Anh trong cương vị một quốc tế ngữ tùy thuộc vào mức "hòa giải" giữa hai vấn đề mâu thuẫn vừa kể. Một hòa giải đại đồng có thể sẽ dẫn tới sự hình thành của một thứ "Anh ngữ tiêu chuẩn thế giới" mà David Crystal (1995) mệnh danh là "World Standard English." Theo ngữ học gia lẫy lừng danh tiếng này thì một trong ba điều sau đây có thể xảy ra: (1) Một phương ngữ quốc gia "nặng ký" có thể được các tổ chức quốc tế hàng đầu dần dần chấp nhận và trở thành Anh ngữ tiêu chuẩn thế giới. Tiếng Mỹ đã và đang đi những bước dài về hướng này.
(2) Các phương ngữ có thể kết hợp dần dần để trở thành một hình dạng mới, không giống bất cứ một phương ngữ hiện tại nào. Một thí dụ là loại tiếng Anh nghe thấy trong các hành lang quyền lực của Âu Châu, mệnh danh "Euro-English."
(3) Một loại Anh ngữ mới tinh có thể được chế tạo, chỉ nhắm vào những yếu tố quan trọng và hữu ích nhất trong truyền thông quốc tế. Một thí dụ là lời đề nghị hồi đầu thập niên 1980 cho phát triển một loại tiếng Anh "hạt nhân" chỉ chứa đựng những yếu tố truyền thông tối cần thiết trong văn phạm và từ vựng mà thôi. Tài liệu tham khảo Crystal, D. (1995). The Cambridge Encyclopedia of the English Language. Cambridge, England: Cambridge University Press. Crystal, D. (1996). English: the Global Language. Washington, D.C.: U.S. English Foundation. Kachru, B. (1982). The Other Tongue: English Across Cultures. Oxford, England: Pergamon Press. McArthur, T. (2002). The Oxford Guide to World English. Oxford, England: Oxford University Press. Trudgill, P., & Hannah, J., (1994). International English. London: Edward Arnold.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:30:18 GMT 9
Học thuộc lòng bài thơ tiếng Ăng Lê lai Viet :
Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu Sentence có nghĩa là câu Lesson bài học, rainbow cầu vồng
Husband là đức ông chồng Daddy cha bố, please don't xin đừng Darling tiếng gọi em cưng Merry vui thích, cái sừng là horn
Rách rồi xài đỡ chữ torn To sing là hát, a song một bài Nói sai sự thật to lie Go đi, come đến, một vài là some
Đứng stand, look ngó, lie nằm Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi One life là một cuộc đời Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu
Lover tạm dịch người yêu Charming duyên dáng, mỹ miều graceful Mặt trăng là chữ the moon World là thế giới, sớm soon, lake hồ
Dao knife, sthingy muỗng, cuốc hoe Đêm night, dark tối, khổng lồ giant Fun vui, die chết, near gần Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn
Bury có nghĩa là chôn Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta Xe hơi du lịch là car Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam
Thousand là đúng... mười trăm Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ Wait there đứng đó đợi chờ Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu
Trừ ra except, deep sâu Daughter con gái, bridge cầu, pond ao Enter tạm dịch đi vào Thêm for tham dự lẽ nào lại sai
Shoulder cứ dịch là vai Writer văn sĩ, cái đài radio A bowl là một cái tô Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô
May khâu dùng tạm chữ sew Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm Shelter tạm dịch là hầm Chữ shout là hét, nói thầm whisper
What time là hỏi mấy giờ Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim Gặp ông ta dịch see him Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi
Mountain là núi, hill đồi Valley thung lũng, cây sồi oak tree Tiền xin đóng học school fee Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm
To steal tạm dịch cầm nhầm Tẩy chay boycott, gia cầm poultry Cattle gia súc, ong bee Something to eat chút gì để ăn
Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng Exam thi cử, cái bằng licence... Lovely có nghĩa dễ thương Pretty xinh đẹp, thường thường so so
Bingo là chơi lô tô Nấu ăn là cook, wash clothes giặt đồ Push thì có nghĩa đẩy, xô Wedding đám cưới, single độc thân
Foot thì có nghĩa bàn chân Far là xa cách còn gần là near Sthingy có nghĩa cái thìa Toán trừ subtract, toán chia divide
Dream thì có nghĩa giấc mơ Month thì là tháng, thời giờ là time Job thì có nghĩa việc làm Lady phái nữ, phái nam gentleman
Close friend có nghĩa bạn thân Leaf là chiếc lá, còn sun mặt trời Fall down có nghĩa là rơi Welcome chào đón, mời là invite
Short là ngắn, long là dài Mũ thì là hat, chiếc hài là shoe Autumn có nghĩa mùa thu Summer mùa hạ, cái tù là jail
Duck là vịt, pig là heo Rich là giàu có, còn nghèo là poor Crab thì có nghĩa con cua Church nhà thờ đó, còn chùa temple
Aunt có nghĩa dì, cô Chair là cái ghế, cái hồ là pool Late là muộn, sớm là soon Hospital bệnh viện, còn school là trường
Dew thì có nghĩa là sương Happy vui vẻ, mệt nhoài weary Exam có nghĩa kỳ thi Nervous lo lắng, Mommy mẹ hiền.
Region có nghĩa là miền, Interupted gián đoạn, còn liền next to. Coins chỉ những đồng xu, Còn đồng tiền giấy paper money.
Here để chỉ tại đây, A moment một lát, ngay giờ right now. Brothers-in- law đồng hao. Farm-work làm ruộng, đồng bào fellow-countryman
Narrow-minded nhỏ nhen, Open-handed hào phóng, còn hèn là mean. Vẫn còn thì dùng chữ still, Kỹ năng là cái chữ skill khó gì!
Munia tên gọi chim ri Kestrel chim cắt có gì khó đâu. Migrant kite là chú diều hâu Warbler chim chích, hải âu petrel.
Stupid có nghĩa là khờ, Đảo lên đảo xuống, là stir nhiều nhiều. How many có nghĩa bao nhiêu. Too much nhiều quá, a few một vài
Right là đúng, wrong là sai, Chinese Chess cờ tướng, đánh bài play cards. Flower có nghĩa là hoa Hair là mái tóc, da thì là skin.
Buổi sáng thì là morning, Kings là vua chúa, còn Queen nữ hoàng Wander có nghĩa lang thang Màu đỏ là red, màu vàng yellow.
Yes là đúng, không là no Fast là nhanh chóng, còn slow chậm rì. Sleep là ngủ, go là đi Weakly ốm yếu, healthy mạnh lành.
White là trắng, green là xanh Hard là chăm chỉ , học hành study Ngọt là sweet, kẹo candy Butterfly bướm, còn bee là ong
River có nghĩa dòng sông Wait for có nghĩa ngóng trông đợi chờ Dirty có nghĩa là dơ Bánh mì là bread, bơ là butter.
Bác sĩ thì là doctor Y tá là nurse, teacher giáo viên Mad dùng chỉ những kẻ điên, Everywhere có nghĩa mọi miền gần xa.
A song chỉ một bài ca. Ngôi sao dùng cái chữ star, có liền! Firstly có nghĩa trước tiên Silver là bạc, còn tiền money
Cookie thì là bánh quy, Can là có thể, với please vui lòng. Winter có nghĩa mùa đông, Iron là sắt còn đồng copper.
Kẻ giết người là killer Cảnh sát police, lawyer luật sư Emigrate là di cư Bưu điện post office, thư từ là mail
Follow có nghĩa đi theo Shopping mua sắm còn sell bán hàng Space có nghĩa không gian Hàng trăm hundreds, hàng ngàn thousands.
Stupid có nghĩa ngu đần Thông minh là smart, equation phương trình. Television truyền hình Băng ghi âm là tape, chương trình program.
Hear là nghe, watch là xem, Electric là điện còn lamp bóng đèn. Praise có nghĩa ngợi khen Crowd đông đúc, lấn chen hustle.
Capital thủ đô City thành phố, local địa phương Country có nghĩa quê hương Field là đồng ruộng còn vườn garden.
Chốc lát là chữ moment Fish là con cá, chicken gà tơ Naive có nghĩa ngây thơ Poet thi sĩ, great writer văn hào
Tall thì có nghĩa là cao Short là thấp ngắn, còn chào hello Come on có nghĩa mời vô, Go away hãy cút, còn vồ là pounce.
28 gờ-ram là 1 ounce, Sail ho! Tàu đó! Shore-bound vô bờ. Poem có nghĩa bài thơ, Strong là khoẻ mạnh, mệt phờ dog-tired.
Bầu trời thường gọi là sky, Life là sự sống còn die lìa đời Shed tears có nghĩa lệ rơi Frequent lui tới, lạc đời drift, stray.
Ở lại thì dùng chữ stay, Đứng lên stand up, nằm dài là lie. Tomorrow có nghĩa ngày mai Hoa sen lotus, hoa lài jasmine.
Madman có nghĩa người điên Private có nghĩa là riêng của mình Cảm giác là chữ feeling Camera máy ảnh, hình là photo.
Động vật là animal Big là to lớn, little nhỏ nhoi Elephant là con voi Goby cá bống, cá mòi sardine
Mỏng mảnh thì là chữ thin Cổ là chữ neck, còn chin cái cằm Visit có nghĩa viếng thăm Lie down có nghĩa là nằm nghỉ ngơi
Mouse con chuột, bat con dơi Separate có nghĩa tách rời, chia ra Gift thì có nghĩa món quà Guest thì là khách, chủ nhà homeowner
Bệnh ung thư là cancer Lối ra exit, entrance lối vào Up lên, còn xuống là down Beside bên cạnh, about khoảng chừng.
Stop có nghĩa là ngừng Ocean là biển, rừng là jungle Silly là kẻ dại khờ, Khôn ngoan là smart, đù đờ là slow.
Cửa sổ là chữ window Special đặc biệt normal thường thôi Lazy... làm biếng quá rồi Ngồi mà viết tiếp một hồi... die soon
Ai hứng cứ việc go on, Còn không thì stop, ta còn nghỉ ngơi!
Mật mã tình yêu
Những ký tự trong bảng chữ cái giúp bạn chuyển tải thông điệp yêu thương tới người ấy. Dưới đây là vài mật mã phổ biến nhất mà các đôi tình nhân hay trao gửi cho nhau.
H.O.L.L.A.N.D. Hope Our Love Lasts And Never Dies
-> Mong tình yêu của chúng ta sẽ mãi mãi.
I.T.A.L.Y. I Trust And Love You
-> Anh tin và yêu em.
L.I.B.Y.A. Love Is Beautiful; You Also
-> Tình yêu tuyệt đẹp và em cũng vậy.
F.R.A.N.C.E. Friendships Remain And Never Can End.
-> Tình bạn sẽ mãi mãi không bao giờ phai.
C.H.I.N.A. Come Here I Need Affection.
-> Hãy đến đây vì em cần được yêu thương.
N.E.P.A.L. Never Ever Part As Lovers.
-> Không bao giờ chia xa.
I.N.D.I.A. I Nearly Died In Adoration
-> Anh chết vì yêu em.
C.A.N.A.D.A. Cute And Naughty Action that Developed into Attraction
-> Dễ thương và tinh ranh làm nên sự hấp dẫn.
K.O.R.E.A. Keep Optimistic Regardless of Every Adversity.
-> Hãy luôn lạc quan dù khó khăn đến mấy.
E.G.Y.P.T. Everything's Great, You Pretty Thing
-> Mọi thứ đều tuyệt vời và em là điều đẹp đẽ nhất.
M.A.N.I.L.A. - May All Nights Inspire Love Always.
-> Mong đêm nào tình yêu của chúng ta cũng bùng cháy.
B.A.L.I.W.A.G. - Beauty And Love I Will Always Give.
-> Em dâng tặng anh nhan sắc và tình yêu của mình.
I.M.U.S. I Miss U, Sweetheart
-> Anh nhớ em, người yêu dấu.
C.E.B.U. Change Everything... But Us.
-> Mọi thứ có thể thay đổi trừ tình yêu của chúng ta.
T.O.N.D.O. Tonight's Our Night, Dearest One
-> Đêm nay là của hai ta, hỡi người yêu dấu!
P.A.S.A.Y. Pretty And Sexy Are You.
-> Em thật xinh đẹp và gợi cảm.
M.A.R.L.B.O.R.O. Men Always Remember Love Because Of Romance Only
-> Đàn ông luôn nhớ đến khía cạnh lãng mạn của tình yêu.
Y.A.M.A.H.A. You Are My Angel! Happy Anniversary
-> Em là thiên thần của anh. Chúc mừng em yêu.
(sưu tầm)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:56:06 GMT 9
Đặc Tính và Yếu Tố Tác Động của Tiến Trình Chuyển Dịch Một Tài Liệu Phật Giáo Anh-việt. Vietsciences- Võ Quang Nhân Các bạn đọc thân kính,
Thời gian gần đây, nếu để ý, chúng ta đều nhận thấy có rất nhiều bài giảng, sách vở, tài liệu về Phật giáo đã được xuất bản rộng rãi. Riêng các sách vở đã được chuyển dịch một lần từ Tạng hay Phạn ngữ sang Anh ngữ nay được tái chuyển dịch sang tiếng Việt có thể được tìm thấy khắp nơi trong lẫn ngoài nước, trên các kệ bán sách cũng như qua các phương tiện điện tử.
Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì sách vở càng phong phú thì người đọc càng có cơ hội thấm nhập, so sánh, tra cứu, và tìm hiểu thêm về các văn kiện Phật giáo mà trước đây hầu như trong tiếng Việt ngoài các tài liệu đặc trưng viết về Phật giáo Việt Nam thì phần còn lại đều có xuất xứ từ nguồn Kinh Luận từ tiếng Trung Hoa.
Tuy vậy, việc chuyển dịch các tài liệu Phật giáo nhất là các sách vở có nguồn gốc từ Phật giáo Tây Tạng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn tới tình trạng nhiều bản dịch được phổ biến mà lời văn trong đó không được rõ ràng, chính xác, hay thậm chí còn đi ngược với ý tưởng mà nguyên tác đã viết ra. Chưa kể đến việc tham gia dịch thuật mà không kể đến vấn đề vi phạm bản quyền tạo nên một thị trường sách Phật giáo thật sự khó đánh giá là "tốt đẹp" nếu không nói là quá hỗn độn. Chính vì sự hỗn độn này mà dấu hiệu đúng lý ra là "đáng mừng" lại trở thành "đáng ngại".
Bài viết này không phải để đưa ra bất kì phê phán hay đề nghị biện pháp thay đổi nào mà chỉ nhằm chia sẻ vài ý kiến, kinh nghiệm, phân tích trong việc chuyển dịch các tài liệu có nội dung liên quan đến Phật giáo từ Anh ngữ sang Việt ngữ với mong ước góp vài ý tưởng hữu ích cho các dịch giả mới.
Do đó, tất cả các ý kiến trong bài viết chỉ là ý tham khảo không có tính tranh thắng hay giáo khoa. Nên nếu bất kì chi tiết nào không hợp với người đọc thì cho người viết xin một lời cáo lỗi.
Ngược lại, người viết bài này rất mong mỏi và cảm tạ mọi sự chân thành góp ý, giúp đỡ hay phê bình để học hỏi thêm nhằm bổ khuyết cho phần chất lượng và khả năng nghiên cứu dịch thuật ngỏ hầu đem lại lợi ích cho người đọc sách Phật giáo Việt ngữ.Quy ước: Tản mát trong bài viết sẽ có chỗ được mở ngoặc đơn nội dung trong đó có thể là thuật ngữ được dùng như tương đương với thuật ngữ liền ngay trước đó hay đơn giản chỉ là một giải thích thêm. Các từ vựng sau đây sẽ được dùng trong bài với ý nghĩa đặc thù (có thể không hoàn toàn hợp với ý nghĩa thông thường) để tránh hiểu lầm xin người đọc lưu ý: * Dịch giả (hay người dịch): là người hay nhóm người tiến hành chuyển dịch bài viết hay tập sách cụ thể từ Anh ngữ sang Việt ngữ. * Nguyên bản Anh ngữ (hay ngắn gọn nguyên bản) là phần tài liệu hay phiên bản ấn hành bằng Anh ngữ mà người dịch dùng nó làm nội dung để chuyển dịch sang Việt ngữ. Toàn bộ phần từ ngữ bằng Anh ngữ trong nguyên bản được xem là nội dung Anh ngữ (hay gọi tắt là nội dung nếu không bị nhầm lẫn). * Tác giả: Tên của người hay nhóm người mà trong nguyên bản Anh ngữ đề cập tới như là người đã tạo ra, viết ra nội dung chính của nó. * Dịch giả Anh: (hay người dịch Anh) : là người hay nhóm người đã tiến hành chuyển dịch tài liệu từ một ngôn ngữ khác sang thành nội dung của nguyên bản Anh ngữ. * Nguyên tác: Trong nhiều trường hợp thì tác giả cũng không phải là người (nhóm người) đầu tiên viết ra tác phẩm (hay phần văn bản) cần được dịch sang Việt ngữ mà chỉ là người giảng giải hay viết thêm các chú giải cho tác phẩm đó. Như vậy người (nhóm người) đầu tiên viết ra tác phẩm sẽ được gọi là nguyên tác (người trước tác). Ngược lại, nếu tác giả là người (nhóm) đầu tiên sáng tạo ra bài viết cần được dịch cũng sẽ chính là nguyên tác. * Chính văn: Trong trường hợp nguyên tác không phải là tác giả thì phần nội dung mà nguyên tác đã viết ra từ trước được gọi là chính văn * Phụ giải (hay chú giải): là phần chú thích hay giảng giải cho phần chính văn. Phần phụ giải này có thể ở nhiều hình thức từ việc chỉ mở ngoặc giải thích bằng vài chữ ngắn, hay viết ra chú thích, hay ngay cả viết thêm ra thành các chương riêng (như trong nhiều tác phẩm Phật học bằng Tạng ngữ), hay trường hợp bổ túc dưới dạng phụ lục.... * Ngoài ra, trong trường hợp phức tạp, một tác phẩm có thể được chuyển dịch thành một chuỗi chẳng hạn từ Phạn ngữ -> Tạng Ngữ -> Anh ngữ -> Việt ngữ thì chuỗi từ nguyên tác cho đến dịch giả bao gồm những người chuyển dịch và chú giải trong các ngôn ngữ trung gian sẽ có được gọi theo thứ tự như sau: Nguyên tác, dịch giả Tạng, dịch giả Anh, Dịch giả Việt. Tuy vậy, bài viết này chỉ chú trọng vào phân tích trường hơp đơn giản và người đọc có thể tự suy diễn sâu xa hơn. Thí dụ: tác phẩm Anh ngữ Nāgārjuna 's "Seventy Stanzas" (ISBN 0-937938-39-4) thì nguyên tác chính là Thánh giả Long Thụ đã viết tác phẩm Śūnyatāsaptati (Thất Thập Không Tính Luận), sau đó được dịch giả Tạng Geshe Sonam Rinchen dịch và chú giải sang Tạng ngữ, tác phẩm này, đến lượt, lại được dịch và chú giải một lần nữa sang Anh ngữ bởi các tác giả David Ross Komito và Tenzin Dorjee. 1. Những điều kiện hay kĩ năng cơ bản cho một người làm công tác dịch thuật Anh Việt: 1.1 Điều kiện chung: Ai cũng biết tiêu chuẩn tối thiếu để có thể dịch một tài liệu Anh ngữ nói chung là có khả năng đọc hiểu bài viết và biết cách diễn đạt nó một cách đúng ý nghĩa sang Việt ngữ. Trong đó, việc nắm bắt các cấu trúc câu và nắm bắt thuật ngữ là điều kiện cần có cho một dịch giả thông thường. 1.2 Điều kiện luận giải: Tuy vậy, có nhiều trường hợp hoặc do cách dùng từ hay cách viết câu của dịch giả Anh, của ngyên tác, hoặc do đặc điểm phức tạp của chính nội dung bài viết nên có thể người dịch sẽ phải đương đầu với những cụm từ hay chữ khó hiểu, hay cấu trúc câu khá phức tạp, hay ngay cả trong một số trường hợp không theo sát luật văn phạm Anh ngữ. Trường hợp khó khăn này có thể đòi hỏi người dịch dùng nhiều biện pháp khác nhau nhằm tìm ra được ý nghĩa hay thuật ngữ phù hợp nhất để dùng cho bản dịch Việt ngữ -- Một phương pháp dể thấy là dựa trên ý đang đề cập và dòng lưu chuyển ý hay ngữ cảnh của cả đọan văn trước và sau câu hay chữ đang cần xác minh (phương pháp này đặc biệt có ích trong các bài văn theo đúng quy cách viết kiểu Mỹ được dạy ở các trường đại học về luận Anh văn mà đôi khi được gọi tên là "context clues"). Ngoài ra còn có thể dùng các biện pháp khác dựa trên nhân thân của các dịch giả Anh, của nguyên tác, của giáo pháp đang đề cập, của trường phái triết học, của hoàn cảnh địa lý và không và thời gian liên hệ tới đoạn văn ... để suy đoán ra ý đúng của câu văn hay chữ cần hiểu. 1.3 Khả năng truy cứu: Một kĩ năng thứ hai không thể thiếu cho một người dịch là biết tận dụng các phương tiện tra cứu chuyên ngành và phổ thông. Thật sự, Anh ngữ là ngôn ngữ phổ dụng nhất và do đó cũng là một ngôn ngữ sinh động và rất phức tạp. Chưa một cá nhân nào có thể biết hết hay một từ điển Anh ngữ nào có thể liệt kê đủ các từ vựng và cách dùng trong Anh ngữ. Mỗi một bài viết đều hoàn toàn phụ thuộc vào cách dùng ngôn ngữ của nguyên tác và các dịch giả. Do đó, khó tránh khỏi việc tra cứu thêm bằng các phương tiện sẵn có. Việc tra cứu như thế nào cho có hiệu quả lại là một việc khác. Điều này sẽ được phân tích nhiều hơn ở các phần sau. 1.4 Kiến thức chuyên ngành và Việt ngữ: Sau đến là điều kiện về kiến thức chuyên môn và Việt ngữ. Chẳng hạn, trong một bản dịch liên quan sâu sắc đến Phật học và Khoa học thì người dịch không thể (đúng hơn là không nên làm việc này!) cho ra một bản dịch đúng và hay, mà không đủ kiến thức hay không hề quan tâm tìm hiểu cặn kẽ đến các hiểu biết được đề cập trong cả hai lãnh vực này của đề tài. Ngoài ra, cũng có trường hợp dịch giả do điều kiện sinh sống không nắm vững đủ Việt ngữ nhưng vẩn chuyển dịch các tài liệu chuyên ngành sang Việt ngữ, điều này sẽ làm hạn chế nhiều phẩm chất của bản dịch. 1.5 Về mặt đạo đức: Sau nữa, cho dù là dịch thuật vì lợi nhuận cá nhân hay vì tha nhân thì bản dịch sẽ không có hồn nếu không đặt một tâm thức hứng khởi và niềm tin nào đó vào trong công việc. Điều này chỉ xãy ra trong nội tâm dịch giả nhưng nó lại một phần là chià khoá ảnh hưởng đến chất lượng dịch. Mục tiêu tối hậu của một bản dịch, nếu đã loại mục tiêu do nhu cầu vật chất ra khỏi phạm trù này, thật ra là việc làm sao kiến thức trong nội dung của bản dịch được chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ, và hiểu được -- tức là chuyển tải được toàn bộ giá trị tinh thần của nguyên bản đến cho càng nhiều độc giả càng tốt. Thật không gì thành công cho bằng một bản dịch giữ được sinh khí và đạt đến mục tiêu mà nguyên tác muốn đạt. Từ mục tiêu này cho thấy một bản dịch đòi hỏi người dịch không được tự ý bẻ cong, hay tự ý đục bỏ các chi tiết cho dù nhỏ hay lớn. Dĩ nhiên, trong nhiều trường hợp, dịch giả cần và có thể thêm các chú giải để làm rõ các thuật ngữ chuyên môn hay phần nào giúp người đọc hiểu sâu hơn. Tuy nhiên, các chú giải này cần (nếu không nói là bắt buộc) phải được trình bày trong một hình thức hay định dạng đặc biệt nào đó sao cho người đọc nhận biết được dể dàng đâu là chính văn, đâu là nội dung của nguyên bản, và đâu là chú thích hay ý kiến thêm vào của dịch giả. Ở đây, xin phép không "đá động" đến trường hợp bất khả khán "bị đục bỏ" vì lý do kiểm duyệt! (Do vậy có nhiều dịch phẩm đã buộc người dịch vốn muốn dùng ngòi bút "viết đúng" thành "viết lách"). Tuy nhiên, nếu sự đục bỏ hay viết lách chữ khá nhiều và trở nên quá mức chấp nhận được thì dịch phẩm có thể trở thành phế phẩm hay chỉ là một loại phỏng dịch. Một điều nữa, được kê sơ lược ra ở đây, là vấn đề đạo văn. Với tình trạng hiện nay, có quá nhiều hình thức chép lại văn của một người khác mà không hề ghi chú hay nhiều khi ngay cả "cuỗm" luôn toàn bộ tác phẩm, chỉ gạt bỏ tên người dịch ra. Điều này không thể nào được chấp nhận với mọi lý do. Từ đây trở về sau, trong bài viết này, chúng ta quy ước chỉ đề cập tới những yếu tố dịch thuật của các tài liệu Phật giáo từ Anh ngữ sang Việt ngữ. Nếu có trường hợp ngoại lệ khi cần thì chi tiết sẽ được nêu rõ ra. 2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến một bản dịch Phật giáo Anh-Việt: Nhân thân người dịch là yếu tố có thể gây ảnh hưởng lớn nhất đến phẩm chất của một bản dịch. Nếu một người sinh trưởng trong miền Nam, lớn lên được tiếp cận với các giáo lý của Phật giáo Nguyên thủy, thì ngôn ngữ sử dụng của người đó khi dịch cùng một tác phẩm Phật học so với một người sinh trưởng tại miền Trung, được tu học nhiều kinh điển Đại thừa, sẽ có thể có nhiều khác biệt do hoàn cảnh khác nhau thổ ngữ, về kiến thức, về trường phái tu học, và về đời sống tập quán (tu sĩ, cư sĩ, hay chỉ là một người bình thường). Ý thức được sự khác biệt về nhân thân của chính mình sẽ giúp cho người dịch được phần nào khách quan hơn. Ở đây, có thêm các yếu tố rất quan trọng về nhân thân góp phần nâng cao chất lượng một bản dịch. Trau giồi, học hỏi, và tỉnh thức trong lúc vận dụng các yếu tố này sẽ có lợi rất nhiều. Việc hiểu biết về chính mình và giới hạn của mình sẽ giúp cho dịch giả tránh bớt được các lỗi dịch tạo ra do chủ quan (chấp ngã :-) và biết tận dụng sở trường cùng như bổ khuyết cho sở đoản. 2.1. Vốn hiểu biết về giáo pháp: Rõ ràng một người cả đời tu học theo trường phái Duy thức sẽ có nhiều cơ may chuyển dịch các tác phẩm về Duy Thức chính xác hơn là một Phật tử thông thường và không được trang bị đầy đủ hiểu biết về trường phái này. Mặc khác, người có một tầm hiểu biết bao quát về lịch sử về các giáo thuyết của các phái khác nhau lại có thể làm tốt hơn trong việc chuyển dịch các tài liệu Phật học cơ bản hay lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên ngược lại, đôi khi kiến thức sâu sắc của chính mình lại có thể dẫn tới sự sai sót trong khi dịch thuật. Chẳng hạn, đã có bản dịch mà có lẽ dịch giả vì chịu ảnh hưởng nặng bởi các hiểu biết về Duy Thức đã sử dụng các thuật ngữ hầu như chỉ nên dùng trong Duy thức học (như là "chủng tử", "tàng thức") đem ra dùng trong các khái niệm chuyên biệt của trường phái Trung quán mà không có ghi chú nào để phân định. 2.2 Kĩ năng vận dụng các phương tiện tra cứu: Một trong những chỗ yếu của nhiều dịch giả là do sự thiếu thốn về phương tiện tra cứu. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có một từ điển tương đối hoàn bị nào về Phật học Anh-Việt, Tạng-Việt (và Phạn-Việt?) và ngược lại; mặc dù các từ điển này rất cần thiết cho việc tra cứu. Bỏ qua sự thiếu thốn khách quan này, chúng ta có thể phân chia làm hai loại phương tiện tra cứu chính đó là phương tiện sách vở (trực tiếp) và phương tiện truyền thông điện tử. Do vậy, việc tra cứu một từ vựng có khi dễ nhưng cũng có khi rất khó. Cùng một chữ, có khi chỉ được dùng với nghĩa thông thường, nhưng nhiều lúc, cũng chữ đó, cần phải được tra cứu kĩ xem nó có nghĩa nào khác sâu sắc và chính xác hơn? Trong nhiều trường hợp, dịch giả Anh sử dụng các thành ngữ ít phổ biến và cũng có khi một chữ lại có thêm nghĩa đặc thù trong Phật học mà không thể thay bằng nghĩa thông dụng. Khi tra cứu, có trường hợp phải tìm hiểu nghĩa của các chữ trong các bảng thuật ngữ của các trang WEB chuyên biệt về Phật giáo. Do đó, sự cẩn trọng trong khi tra cứu rất quan trọng. 2.2.1 Phương tiện trực tiếp: Bao gồm các sách vở chuyên khoa, các sách từ điển phổ thông, chuyên môn Anh ngữ hay Anh-Việt cũng như các từ điển Phật học là không thể thiếu trong việc dịch thuật. Về các sách in tra cứu: Điều đáng lưu ý trước tiên là hầu hết các từ điển Phật học hiện tại trong nước đều thiếu rất nhiều thuật ngữ. Tuy nhiên, điểm lợi của các từ điển hiện nay là có thể có thêm trích dẫn hay giải thích nhiều gốc từ Hán Việt. Tiếp theo, đại đa số các tác phẩm và kinh luận trong nước xuất bản từ trước 1990 đều có nguồn gốc từ tiếng Hoa. Các tài liệu như thế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nền văn hoá Phật giáo Trung Hoa hơn là các trung tâm Phật giáo khác. Ngoài ra, đa số các tác giả viết sách Phật học trong nước đều phát nguồn và chịu ảnh hưởng rất lớn bới nền tảng Phật giáo Trung Hoa. Nắm bắt các nhận xét này có thể giúp người dịch tận dụng nguồn giáo pháp tra cứu cũng như là để vượt qua được một số ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa khi dịch thuật và tra cứu. 2.2.2 Phương pháp điện tử: Trên Internet hiện nay có rất nhiều dạng chia sẻ dữ liệu từ các thư viện dữ liệu mà người tra cứu phải trả lệ phí cho đến các bảng thuật ngữ chuyên biệt. Điều nổi bật ở đây là sự tiện dụng. Tuy nhiên, người ta khó lòng biết được chất lượng của nó ngoại trừ dữ liệu lấy được từ những trang WEB có uy tín. Do đó, việc kiểm tra lại độ khả tín của dữ liệu là điều cần thiết. Ngoài ra, phương tiện liên lạc trên các diễn đàn (forum) và các nhóm thư điện tử (mailgroup) Phật giáo chuyên môn cũng là nơi rất tốt và đáng tin cậy để tham khảo 2.2.3 Một số kĩ năng khai thác dữ liệu -- sau đây là một số cách khai thác dữ liệu 2.2.3.1 Khai thác các máy truy tìm dữ liệu Việc khai thác dữ liệu qua các máy truy tìm thì rất tiện lợi nhưng người dùng phải tập làm quen với các chức năng cao cấp của nó để tận dụng1. Tiện đây, xin nêu vài cách thức để nhanh chóng tra cứu nghĩa của một từ qua define:<Thuật_ngữ> -- Ngay lập tức máy sẽ tìm giúp các định nghĩa và hiển thị lên màn hình definition <Thuật_ngữ> -- Máy sẽ hiển thị các trang từ điển có ghi định nghĩa của thuật ngữ Một phương pháp nữa cũng khá thông dụng khi muốn truy tìm tất cả các bài viết có đề cập đến một thuật ngữ hay một cụm từ đặc biệt chỉ từ trong một tên miền (tên trang WEB): <"Thuật_ngữ" hay "Cụm_Từ"> site:<Tên_miền> (Thí dụ: "tính không" site:thuvienhoasen.org ) Sử dụng các "Search Engine" này người ta cũng có thể tìm đến các sách vở điện tử (ebook), các từ điển bách khoa toàn thư, các bảng thuật ngữ Phật học, các từ điển Phật học bằng những thứ tiếng khác nhau, các phông chữ cần dùng như Tạng và Phạn ngữ, các diễn đàn Phật giáo theo các truyền thống riêng biệt, các bài viết chuyên đề trong Phật giáo, các hình ảnh minh hoạ, các bài giảng Pháp âm của các đại sư đương thời (bằng MP3 hay bằng rm) và thậm chí có thể dùng nó để kiểm tra lại chính tả của một chữ tiếng Việt2. Qua đó, việc tìm hiểu về nghĩa của một thuật ngữ đặc biệt hay để tìm thêm ý tham khảo trong Phật giáo có thể được dể dàng hơn rất nhiều. 2.2.3.2 Sử dụng bách khoa toàn thư Phật giáo và các bài viết chuyên khảo: Thật là hữu ích nếu tìm được một bài viết chuyên khảo hay một đề mục trong bách khoa toàn thư về Phật học bằng Anh ngữ (hay bằng ngôn ngữ khác mà dịch giả biết được -- vi có lẽ hiện nay chưa có tự điển bách khoa về Phật giáo tiếng Việt) giải thích về thuật ngữ mà dịch giả đang muốn tìm hiểu. Điều này đặc biệt cần thiết khi phải lựa chọn một từ mới chưa có hay chưa tìm ra trong các tự điển Phật học cũng như là khi muốn hiểu rõ hơn ý tưởng của nguyên tác -- từ đó có thể giúp tìm ra được các câu cú hay thuật ngữ thích hợp nhất. 2.2.3.3 Sách vở liên hệ -- Cách sách vở liên hệ đến tài liệu cần dịch thường giúp dịch giả hiểu thêm nhiều về tác phẩm mình đang theo . Tuy nhiên, điều này mất nhiều thời gian hơn so với các phương tiện khác. Riêng khi tìm hiểu về các giáo pháp liên hệ đến đề tài hay thuật ngữ đang được dịch thì tầm nhìn của người dịch có thể được nâng cao và bao quát hơn, từ đó, việc diễn giải và dịch thuật sẽ dể được suông sẻ hơn. Ngoài ra, việc hiểu biết về các tài liệu lịch sử liên quan đến các sự kiện đang cần tra cứu cũng rất hữu ích, vì qua đó, người dịch sẽ nắm bắt hơn về tình hình văn hóa xã hội hay bối cảnh mà nguyên tác đề cập. 2.3. Khả năng đọc hiểu nhiều ngôn ngữ: Trong lúc truy tìm và hiểu để dịch cho đúng ý và chính xác, thì một người hiểu biết nghiều ngôn ngữ khác nhau rõ ràng là có nhiều cơ hội đạt hiệu quả cao hơn người chỉ biết Anh ngữ. Chẳng hạn, hiện nay Đức ngữ cũng là một ngôn ngữ rất mạnh về các công trình nghiên cứu Phật giáo mới. Đặc biệt hơn, nếu người dịch có khả năng đọc hiểu và tra cứu được Phạn ngữ và Tạng ngữ thì đó là một vốn kiến thức nguồn tuyệt vời. Trong trường hợp phải dịch các chánh văn từ Anh ngữ thì việc biết thêm hai ngôn ngữ này có thể giúp dịch giả "dịch thẳng" từ ngôn ngữ gốc thay vì sử dụng ngôn ngữ trung gian. Hoàn toàn bằng cách kết hợp các phương tiện điện tử, với khả năng đa ngôn ngữ, người dịch sẽ chủ động và tự tin hơn trong mọi tình huống từ việc tra cứu từ chuyên môn cho đến tìm hiểu sâu hơn về một chủ đề cần được dịch. 2.4. Khả năng trao đổi thông tin: Thật sự các đồng nghiệp các học giả và các tăng sĩ là những nguồn tra cứu sống động vô tận và quý báu nhất bên cạnh việc hiểu, họ còn có thể góp ý hỗ trợ về nhiều mặt khác nhau trong lúc dịch thuật. Riêng các tăng sĩ, ngoài khả năng học vấn về Phật học, họ còn có thể đã đạt đến một mức tu chứng nào đó đủ để giúp người dịch thấu hiểu thêm về giáo Pháp trực tiếp. Do đo, người có một mối liên hệ thầy trò, ngoại giao hay bằng hữu ... tốt với các cá nhân kể trên sẽ là một thuận duyên rất lớn. 3. Phân tích nội hàm bản dịch: Nội hàm nhắc đến ở đây chính là nội dung tài liệu nói về Phật giáo cần được dịch. Các phân tích sau đây có thể ảnh hưởng trong việc phân tích nội dung, lựa chọn chủ đề dịch, tác giả dịch hay để phân tích và hiểu rõ nội dung đang được dịch. 3.1 Tứ Pháp Ấn: Như vậy, trong đa số các trường hợp để khẳng định một tài liệu hay bài viết là về Phật giáo thì chuẩn mực nào cho phép xác định đó là Phật giáo? Tứ Pháp Ấn3 chính là câu giải đáp từ chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 1. Vô thường: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. 2. Khổ: Chư hành là khổ. 3. Vô Ngã : Chư pháp đều vô ngã. 4. Niết Bàn: Niết bàn là tịch tỉnh. Nếu như không theo hay không phù hợp với các tiêu chuẩn này thì chắc chắn bài viết đó không thể là của Phật giáo hay ít nhất nó không là Phật giáo đúng nghĩa. 3.2 Tứ Pháp Y: Thứ đến, có khi, để có thể hiểu và trình bày lại chính xác các lời thuyết giảng (chú giải hay các trích dẫn từ kinh điển) cần phải có một tiếp cận hợp lý. Tứ Pháp Y4 là bốn nguyên lý mà đức Phật chỉ ra có thể giúp một người Phật tử tự học hỏi phân định và tìm hiểu về giáo pháp được chính xác. Nếu việc dịch thuật dựa theo hướng dẫn này thì gần như sẽ tránh được rất nhiều lỗi do khó khăn về ngôn ngữ (nhất là trong các bản văn đã được dịch và chú giải qua nhiều ngôn ngữ trung gian) đồng thời tránh bớt được các thành kiến chủ quan trong lúc dịch 1. Y pháp bất y nhân: Là dựa vào giáo pháp chứ không dựa theo người giảng pháp, cho dù người đó có danh tiếng, địa vị cao, nếu nói pháp không đúng cũng không nên tin theo. Dù người nói pháp đúng nhưng không có địa vị cao, không có danh tiếng thì nên tin theo. Như vậy điều này loại trừ lòng tin kiểu "thành kiến" hay "mù quáng". tin vào người giảng mà không dựa trên một cơ sở nền tảng. 2. Y nghĩa bất y ngữ: Ngữ là lời nói, nghĩa là cái ý. Như thế, trong một kinh văn điều quan trọng là nắm được ý của người viết không nên câu nệ vào lời nói giọng văn. Điều này giúp loại ra được chủ nghĩa hình thức. Tức là, việc đọc hiểu nên chú trọng vào nội dung, và chức năng mà người trình bày bao hàm; tránh sa đà vào cách trình bày hay hình thức mà qua đó ý tưởng được phô bày hay ẩn ý. 3. Y trí bất y thức: Thức là các giác quan hay cơ sở nhận thức thông qua tai mắt, mũi, lưỡi, thân thể và ý tưởng. Trí là tri thức tuyệt đối (tuệ giác). Như vậy, xét cụ thể hơn ra, qua các cơ quan hay cơ sở của nhận thức thì vẩn còn phải chịu ảnh hưởng bởi điều kiện và kinh nghiệm của từng cá nhân làm chủ thể cuả nhận thức nên vẩn có thể sai biệt với thực chất của tri thức tối hậu. (Chẳng hạn như mắt người chỉ có thể nhận thấy được một khoảng phổ hẹp ánh sáng phản xạ lại từ đối tượng vật chất và do đó các nhận thức trong chỉ về khiá cạnh này thôi cũng đã có thể bị sai biệt hay khiếm khuyết). Lời giảng này cho thấy người tìm hiểu cần ý thức để loại bỏ những "biểu kiến" hay nhận thức có thể bị ảnh hưởng bởi các thức gây ra. 4. Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa: Theo cách phân định của Phật thì vì tùy theo trình độ hiểu biết và điều kiện (duyên) của đối tượng mà một thuyết giảng có thể mang ý nghĩa rốt ráo (liễu nghiã) hay có tính tương đối (bất liễu nghiã). Như vậy, đứng về mặt người tìm hiểu, một người cần phải phân tích xem ý nghĩa được giảng ra nằm trong phạm vi như thế nào, trong điều kiện môi trường và trình độ nào, đối tượng nào, góc độ nào để có thể hiểu được sự kiện được giảng. Có vậy để tránh được sự hiểu không rõ hay không chuẩn xác. 3.3 Suy nghiệm và phân tích: Khi đọc các bản dịch nhất là khi phải dịch lại các chính văn hay các lời trích từ kinh thừa và luận thừa thì hãy nhớ đến lời dạy của đức Phật. Qua đó, cho một thông tin đáng ngờ dù rất nhỏ, đều nên được tra cứu kiểm nghiệm lại sẽ có thể tránh được sai sót "Này các tỳ-kheo! Cũng như người khôn ngoan chỉ chấp nhận vàng sau khi đã thử nghiệm bằng cách nung nóng, cắt gọt, và nén dập nó, những lời của ta cũng vậy, chỉ được chấp nhận sau khi đã kiểm tra chúng, chứ không phải do sự tôn kính (đối với ta).”5 3.4 Các gợi ý khác: Ngoài ra tùy trường hợp cụ thể người dịch có thể sử dụng hiểu biết về thuộc tính của bản dịch (các nguyên nhân chính, các nguyên nhân bổ trợ và các duyên lúc mà bài viết được hình thành được chuyển dịch sang Anh ngữ,...) cũng như lời Phật dạy để đưa ra cách dịch hay luận điểm đúng đắn. Ở đây xin nêu qua: 3.4.1 Tứ Pháp Luận: Có trường hợp người dịch cần phân tích cách luận giải của nguyên tác vì đây là tài liệu viết về Phật giáo nên việc tham chiếu các phương pháp luận giải từ trong Phật giáo cũng rất quan trọng. Giáo pháp gần như lúc nào cũng có sự lập luận đi kèm để minh chứng. Do đó, hiểu biết thêm về bộ môn Nhân Minh Luận5 (hay tức là môn học về lý luận trong Phật giáo) sẽ rất có lợi cho việc phân tích ý của nguyên tác. Ở đây chi nêu bốn nguyên lý đơn giản tạm gọi là Tứ Pháp Luận6
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:57:46 GMT 9
1.
Nguyên lý về bản chất: Sự thật là có các sự vật tồn tại, và rằng các nguyên nhân dẫn tới các hậu quả. Ta hầu như có thể nói rằng, nguyên lý này ngụ ý một sự chấp nhận các quy luật tự nhiên. Thí dụ: Bản chất của lửa là sự toả nhiệt và bản chất của nước là tính chất lưu chuyển. 2.
Nguyên lý về năng lực (hay còn gọi là nguyên lý thành tựu công năng): Nguyên lý này đề cập đến cách thức mà các sự vật có khả năng tạo ra những kết quả nào đó tùy theo bản chất của chúng. Như lửa gây cháy, hoặc nước gây ướt. Nguyên lý này cũng gắn liền với sự phụ thuộc của bất kỳ loại hiện tượng nào vào chính các thành phần và thuộc tính của nó, hoặc phụ thuộc vào các thực thể khác. Nguyên lý về năng lực gắn liền với hiệu quả nguyên nhân của một hiện tượng cụ thể, chẳng hạn như khả năng của một hạt bắp tạo ra một thân cây bắp. 3.
Nguyên lí về duyên khởi (hay còn gọi là nguyên lý phụ thuộc) có một sự phụ thuộc tự nhiên giữa các sự vật và hiện tượng, giữa các nguyên nhân và kết quả. Mọi kết quả đều phụ thuộc vào nhân duyên của nó. Nguyên lý này cho thấy sự phụ thuộc của các hiện tượng kết hợp vào các nguyên nhân của chúng, chẳng hạn như sự phụ thuộc của nhãn thức vào thần kinh thị giác. 4.
Nguyên lý chứng minh hợp lý: Dựa vào điều này thì điều kia chắc chắn phải như thế; và dựa vào điều kia thì điều này hẳn phải là như vậy (Nguyên lý này bao hàm các phương pháp lập luận lô-gíc như đã nêu trên). Nguyên lý chứng minh hợp lý bao gồm ba phương thức để người ta xác nhận sự tồn tại của bất kì điều gì - đó là: trực tiếp nhận thức, suy đoán/suy luận chắc chắn, và tri thức dựa vào sự xác nhận của người hay kinh điển đủ quyền năng.
3.4.2 Diễn giải kinh điển: Một điểm đáng lưu ý là trong khi chuyển dịch các đoạn văn có tính kinh điển là tùy theo ngữ cảnh và trường phái Phật giáo đang được đề cập, người dịch có thể phải biết đến cách phân loại kinh Phật có tính liễu nghĩa và loại kinh điển cần được diễn dịch tùy theo trường phái.
3.4.3 Tục đế và Chân đế: Ngoài ra, những đọan văn Anh ngữ có đề cập hay liên quan giáo lý vô ngã hay tính Không cũng cần được xem xét về ngữ cảnh của câu thuộc về dạng nào (Tục Đế hay Chân Đế7? hay trong các tập sách về Zen sẽ có những loại công án khó hiểu nếu không thấy được nội dung Chân Đế của nó). Qua đó, việc dịch và hiểu bài viết sẽ được tường minh hơn.
3.4.4 Đối tượng của giáo pháp trong bài viết cũng là điều cần lưu ý khi dịch. Đức Phật dạy rằng có đến 84 vạn Pháp môn, tùy căn cơ và duyên nghiệp của người tu học mà có thể tìm thấy Pháp thích hợp. Tương tự thế, việc lưu tâm đến giới hay tầng lớp người mà bài viết nhắm đến sẽ giúp dịch giả chọn giọng văn hay câu cú thích hợp.
3.4.5 Tư tưởng chủ đạo: Kế đến việc nắm bắt được tư tưởng chủ đạo của bài viết thuộc vào hệ tư tưởng triết lý của bộ phái hay trường phái nào, hoàn cảnh của nội dung bài viết và đặc tính địa phương (như phong, tục tập quán, văn hoá văn minh) sẽ ít nhiều giúp cho việc chọn lối dịch nó cũng giúp cho việc hiệu đính về một ý trong bản dịch Anh được hợp với tôn chỉ của truyền thừa riêng biệt hay không.
3.4.6 Không thời gian: Riêng về lai lịch và không gian lúc ra đời của bài dịch cũng có thể giúp ích nhiều (so sánh và tham khảo để chinh xác hóa với các văn bản gốc chẳng hạn)
4. Phân tích về nguyên Tác và các dịch giả trung gian (Chủ thể)
4.1. Trạng thái nhân thân của nguyên tác tại thời điểm ra đời của tác phẩm: Nhận thức của một người ở một thời điểm có thể khác đi nhiều trong thời điểm khác trong khi tác phẩm của họ sẽ phản ánh những gì thuộc về trạng thái nhận thức tại thời điểm mà nó được viết. Hiểu được trạng thái, vị trí, hay quan điểm của một nguyên tác tại thời điểm bài văn được tạo ra cũng là một điều thuận lợi lớn cho việc chuyển dịch. Tuy nhiên, điều này không dể làm.
Một điều dể thấy hơn là tìm xem người đó đang ở điạ phương nào, đang theo xu hướng hay truyền thống triết học nào, trình độ ra sao. Chẳng hạn cùng viết về một đề tài liên hệ giữa khoa học và Phật học thì một phật tử sẽ có cái nhìn khác và giọng văn khác với cái nhìn của một nhà báo, một nhà thần kinh học, hay một nhà vật lý.
Riêng về ngôn ngữ (địa phương) mà nguyên tác sử dụng hàng ngày sẽ ảnh hưởng lớn đến tác phẩm người đó viết. Rõ ràng cùng là tiếng Anh nhưng người ở Mỹ, ở Anh, ở Úc, ở Ấn, hay ở Phi Luật Tân đều có những thói quen và dùng chữ có những phong cách khác nhau dẫn đến việc tra cứu tự điển cần có một mức lưu tâm nào đó. Dựa trên sự khác nhau này, người dịch có thể tránh khỏi các nhầm lẫn vô tình do thói quen ngôn ngữ của nguyên tác. Hoàn toàn tương tự như vậy, nhưng có phần phức tạp hơn khi bản Anh ngữ lại là một bản dịch lại từ một ngôn ngữ khác. Ở đây bản Anh ngữ đã có thể pha thêm "màu sắc" của dịch giả Anh và các dịch giả trung gian, đỏi khi làm lu mờ ngay cả ngôn ngữ và ý tứ của bài nguyên thủy.
4.2 Đối tượng mà tác phẩm hướng đến cũng góp phần cho việc định hướng dịch thuật của dịch giả. Với cùng một người viết thì bài viết cho giới chuyên môn hay cho giới trí thức có thể dùng ngôn ngữ khác hẳn với bài viết cho công chúng. Điều này sẽ có thể bị phức tạp hóa nếu bài giảng ban đầu (nguyên tác) vốn dành cho giới trí thức hay tu sĩ nay lại được dịch giả Anh dịch lại nhưng vô tình hay cố ý chuyển hướng dịch lại dùng giọng văn dành cho công chúng và thêm thắt vào đó nhiều chú thích về các thuật ngữ chuyên sâu.
5. Ngoại diện:
Ở đây bài viết dùng chữ "ngoại diện" để mô tả những tính năng hình thức hay phương tiện qua đó nó chuyển tải nội dung ý tưởng của bài dịch Việt cũng như đối tượng của bài dịch Việt.
Điểm khác biệt giữa bản dịch Anh và bản dịch Việt là ngôn ngữ và cấu trúc sắp xếp trong bản Anh ngữ đã định hình trong khi người dịch có một khoản giao động trong việc lựa chọn từ ngữ, văn phong và cách xắp đặt cấu trúc bản dịch. Như vậy, ngoại diện của bản Anh ngữ thì hoàn toàn xác định và bị động chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về nó, trong khi bản dịch Việt thì có một phần chủ động (tuy vẩn phụ thuộc về nội dung của bản Anh ngữ) tùy người dịch tạo ra. Phần này sẽ tập trung vào phân tích các đặc điểm ngoại diện của bản dịch Việt.
5.1 Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thật sự có ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc và sự thấu hiểu của độc giả. Ở đây, việc sử dụng các đặc tính của ngôn ngữ Việt (như văn phong, biện pháp tu từ, ...) đóng vai trò quan trọng cho sự thành công của bản dịch. Ngôn ngữ Việt, nếu để ý, sẽ nhận ra sự khác biệt của người dùng theo từng thế hệ, từng thời kì, từng điạ phương. Hơn thế nữa, cách dùng ngôn ngữ và từ vựng cũng thay đổi khá nhanh theo thời gian nhất là trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của tiến bộ về phương tiện giao thông và thông tin thì ngôn ngữ Việt thông dụng và chuyên nghiệp cũng thay đổi rất nhanh chóng gần như không có sự lưu ý nào từ phía các nhà giáo dục. Các chữ có thể bị thay đổi về ý nghĩa trong cách dùng thông thường. Ngay cả ngôn ngữ dùng trong các tài liệu Phật giáo cũng chịu ảnh hưởng mạnh bởi xu hướng thay đổi này. (Nếu muốn thấy rõ hãy thử xem và so sánh một vài tác phẩm viết về Phật giáo trước 1975 và tài liệu mới gần đây về cùng một đề tài). Do đó, cũng nên chú ý nếu muốn bài dịch được dể hiểu hơn thì có thể giảm bớt các từ cổ điển thay bằng các từ mới trong chừng mực có sự kiểm soát cẩn thận nào đó.
Một ý kiến khác về việc lựa chọn thuật ngữ là trong rất nhiều trường hợp do chủ quan người dịch thường hay "quên" về khả năng người đọc không có tín ngưỡng Phật giáo hay không cùng lập trường, và do đó, đôi khi vì vô ý người dịch đã có dùng các thụật ngữ "không mấy trung tính" hay "không mấy phù hợp" nếu không nói là sai lạc so với ngôn ngữ thực sự của nguyên bản. Việc lưu tâm về lựa chọn từ ngữ sẽ giúp bản dịch được nhẹ nhàng hơn và chính xác hơn (cho người không cùng đạo hay không cùng tư tưởng).
Tiện, xin nhắc thêm tình hình Anh ngữ cũng có một số điểm đáng ghi nhận là có nhiều thuật ngữ chuyên môn như là những từ ít thông dụng thì không được thống nhất trong cách viết. Ngoài ra, có nhiều tài liệu dùng thuật ngữ Phạn được phiên âm theo các nguyên tắc khác nhau. Điều này gây khó khăn không ít trong việc tra cứu
Hơn thế nữa có một số truyền thống Phật giáo trước đây rất khép kín cũng đã bắt đầu hé mở cửa (như trường hợp Phật giáo TâyTạng). Với ngôn ngữ giáo pháp gần như "mới xuống núi" của các truyền thống này đòi hỏi tiếng Việt phải có những cập nhật tương ứng và gây phức tạp thêm cho người dịch. Số thuật ngữ mới này vẩn còn thiếu sự thống nhất nên cũng tác động đến người đọc ít nhiều.
5.2 Đặc điểm đối tượng "độc giả" (khách thể Việt) Để cho một dịch phẩm được thành công thì người dịch cũng cần xác định rõ đối tượng phục vụ của nó. Việc chuyển dich bài văn Phật giáo cho giới trẻ ít hiểu biết về Hán ngữ phải khác nhiều với bài viết dành cho hàng tăng sĩ. Tương tự, tùy theo bản dịch và tùy theo mụch tiêu, các dịch giả cần để ý đến giới tính, trình độ, tâm lý, văn hóa, đạo đức ... để có thể sử dụng ngôn ngữ và văn phong hợp lý. Thường thì để mở rộng được giới độc giả người dịch phải chọn một loại ngôn ngữ tương đối giản dị, giới hạn bớt những từ cổ, từ Hán Việt. Tuy nhiên, nếu chăm chút quá vào việc dùng chữ có gốc Nôm đôi khi lại làm cho bài văn trở nên thiếu ý, quá dài dòng hay tối nghĩa. Một phương án để dung hoà bớt là sử dụng thêm hệ thống chú giải một cách khoa học.
5.3 Hệ thống chú thích (chú giải): Hệ thống chú thích được sử dụng trong các sách nhằm nhiều mục đích khác nhau và nó có thể được tạo ra từ nguyên tác, các dịch giả trung gian hay từ người dịch Việt. Đặc biệt trong các tác phẩm Phật giáo, ngoài phần chính văn, nhiều tác giả đi sau có thể viết thêm các luận giải vào phần chú thích và đặt lại tựa mới cho quyển sách. Các chú giải này đôi khi đóng vai trò rất quan trọng cho tác phẩm (qua cách phân tích của người dịch và chú giải, tác phẩm ban đầu có thể có chuyển hoá lớn về mặt chất lượng). Hầu hết những người viết dạng chú giải sẽ tách riêng một cách rõ ràng đâu là chính văn và đâu là phần giải nghĩa. Tùy theo tác phẩm người dịch có thể giữ nguyên hệ thống chú thích thay đổi hình thức trình bày. Trong nhiều trường hợp, dịch giả cần chèn thêm các chú thích thì phải làm sao cho độc giả có thể dể dàng phân biệt rạch ròi đâu là các chú giải thêm của phần Việt ngữ (Chẳng hạn, bằng cách đặt thêm dòng viết tắt ngắn, hay thay đổi định dạng chữ in, ... để giúp bật vào mắt người đọc phân biệt được chú giải riêng một cách dể dàng)
5.3.1 Các loại chú giải: Có nhiều dạng chú giải mà nguyên tác và các dịch giả có thể chèn thêm vào như
1. Giải thích thêm về thuật ngữ mới dùng. 2. Giải nghĩa thêm về ý của một câu, một đoạn hay một chương. 3. Liên kết các ý tản mạn hay rời rạc trong các phần khác nhau của tập sách để làm rõ hơn ý tưởng nào đó của nguyên tác. 4. Đào sâu thêm chi tiết để minh họạ hay để dẫn chứng (đúng - sai). 5. Để phân định sự khác nhau của hai ý gần tưởng tự hay để phân biệt cách hiểu khác biệt về thuật ngữ hay cách hiểu của các giáo phái. 6. Có thể dùng để phê bình. 7. Dùng để trích dẫn và tham chiếu đến các nguồn tin cậy khác. 8. Giảng thuyết lại toàn bộ chính văn -- Sự chú thích lớn như thế thường được gọi là chú giải và bản chú giải này thường được xem là một tác phẩm mới riêng biệt. Ở đây để cho tiện phân tích chung, chúng tôi chỉ xem nó là một loại chú giải từ chính văn.
5.3.2 Phân biệt nguồn của chú giải: Để cho một bản dịch được thực sự rõ ràng minh bạch thì người dịch cần chú ý phân biệt sự khác nhau về chủ thể (nguồn) của các chú giải từ nguyên tác, từ các dịch giả, và từ dịch giả bản Việt ngữ. Với phân biệt này, ngoài việc giúp cho người dịch được dể dàng, nó còn còn giúp người đọc nắm vững chi tiết nào là của ai và có thể có đánh giá khách quan hơn về nguyên tác và người dịch.
5.3.3 Định dạng chú giải: tùy theo mức độ phức tạp của một bản dịch mà khi trình bày có thể cần có các biện pháp định dạng khác nhau cho các chú thích. Các định dạng này phải giúp người đọc phân định được nguồn và loại của chú giải. (Chẳng hạn dùng các kiểu chữ, kiểu đánh số hay kiểu trình bày đặc trưng cho từng loại hay từng nguồn chú giải sao cho khi đọc chú giải đó độc giả có thể lbiết được nguồn và loại chú giải)
5.3.4 Trường hợp nên/buộc dùng chú giải: Vì tính trong sáng và rõ ràng, nhiều trường hơp dịch giả nên hay buộc phải thêm chú giải chẳng hạn như trường hợp bản dịch Anh bị sai ý so với nguyên bản, hoặc trường hợp một thuật ngữ dể gây ngộ nhận, hoặc các thuật ngữ viết khác nhau lại mang cùng một ý nghĩa, hay các tên địa danh lịch sử, tên lạ ...
5.3.5 Một số trường hợp tránh dùng chú giải: Ngược lại cũng có trường hợp nên tránh dùng chú giải nếu chú giải đó có thể gây ra việc hiểu hiểu sai lạc hay tạo thêm rối cho độc giả như trường hợp chú thích của chú thích.
5.3.6 Chú giải Anh: Như vậy tùy theo tình trạng mà người dịch nên quyết định thêm hay không các chú thích nhằm làm rõ các chi tiết của bản dịch. Tuy nhiên, ngược lại, việc tự ý cắt bỏ hay thay đổi nội dung những chú thích sẵn có trong bản dịch Anh mà không có một thông tin nào cho độc giả hay biết về việc làm này là không nên (hay không thể chấp nhận được -- ngoại trừ trường hợp bị kiểm duyệt !). Trong những trường hợp đặc biệt, tốt hơn hết là thêm vào đó một chú thích đặc biệt từ dịch giả Việt để giải thích ghi chú của bản Anh ngữ. Tưởng cũng nên lưu ý là đa số các sách Phật giáo Anh ngữ dùng một trong hai dạng chú thích (hay dùng cả hai):
1. Dạng chú thích đánh số theo chương và sẽ được ghi chú ở sau cùng của sách. 2. Dang chú giải: thường khi phụ phần chiếm một tỉ lệ lớn thi chính văn được sắp xếp hay định dạng riêng biệt. Theo sau đó là toàn bộ phần chú giải từng câu một. (Trước khi vào chinh văn có thể là các phần cài đặt hay phần dẫn giải nền).
5.4 Hệ thống tham chiếu: Hệ thống tham chiếu được sử dụng cho nhiều mụch đích, trong đó quan trọng nhất là cung cấp thêm thông tin cho người đọc tìm hiểu sâu vào chi tiết cũng như dùng để kiểm nghiệm lại giá trị của các ý kiến trong nguyên bản. Hầu hết các tài liệu viết về Phật giáo đều có trong đó ít nhiều các hình thức trích dẫn và tham khảo. Việc trình bày các trích dẫn và tham chiếu có thể từ dạng đơn giản là trực tiếp ghi chú lại và cho biết nguồn gốc tham khảo cho đến các hình thức phức tạp là kết hợp ghi chú với một bảng ghi kí hiệu và từ đó người đọc khi cần có thể một lần nữa tìm ra nguồn tham khảo qua bảng danh mục tham khảo. Cũng có khi bảng danh mục tài liệu tham khảo được nêu độc lập một mình và các trích dẫn được ghi chú nguồn riêng trong hệ thống ghi chú. Ở đây, người dịch tùy theo mục tiêu hoặc có thể chiếu y theo hình thức trình bày của bản Anh ngữ hay thuận duyên thay đổi cách trình bày hệ thống tham chiếu cho phù hợp với cách quen thuộc của độc giả người Việt. Tương tự như hệ thống chú thích, nếu các tham chiếu được dịch giả chèn thêm thì nó phải được lưu ý cho người đọc phân biệt rạch ròi khác nhau giữa nguyên bản và bản dịch Việt. Thật đáng tiếc và là một sai sót khi rất nhiều trường hợp các bản in Việt sau này đã tự ý loại bỏ các tham chiếu vốn có trong nguyên bản Anh và như vậy làm giảm giá trị học thuật của bản dịch.
5.5 Hệ thống hình ảnh hay đồ thị minh họa Thường trong các sách có tính kinh điển, người ta sẽ ít tìm thấy hình ảnh hay đồ thị minh họa. Tuy nhiên, với các sách Phật giáo mới hơn, nhất là các sách có tính lịch sử hay nghệ thuật thì hệ thống hình ảnh sẽ có thể rất phong phú. Các hình ảnh sơ đồ đôi khi chỉ có vài dòng minh họa và chú giải ngắn về nguồn gốc. Hệ thống minh họa tự nó có mang tải những thông tin thiết thực có khi không thể thiếu.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp dịch giả cần đưa thêm hình ảnh, hay sơ đồ minh họa cho dể hiểu thì cần chú ý về độ chính xác, rõ ràng, phù hợp với đề tài, và đặt đúng chỗ. Chẳng hạn một bài viết Phật giáo Tây Tạng mô tả về vòng luân hồi sẽ trở nên rất khô khan và khó hiểu nếu không có hình ảnh cụ thể. Các hình ảnh thường là công cụ minh họạ mạnh mẽ cũng như có thể cung cấp những bằng chứng (hay phản bác) cụ thể nhất cho ý tưởng của tác phẩm. Tuy nhiên, giá thành tăng do việc in ấn sách có nhiều hình minh họa đôi khi cũng là vấn đề cần tính đến.
5.6 Hệ thống phụ lục: có thể xem như một loại bổ phần (hay một dạng chú thích đặc biệt). Trong các sách Phật giáo theo lối truyền thống bằng Việt ngữ, thường it có dạng phụ lục này. Tuy nhiên, trong các sách trình bày Anh ngữ ngày nay thường có nhiều phụ lục hơn. Thật sự mục đích của các phụ lục rất rộng từ việc trình bày thêm phương cách thực hành giáo pháp đề cập trong bài cho đến việc trích lại các bản kinh luận hay ngay cả chỉ để trình bày các chi tiết bổ xung cho lần dịch đó... Trong nhiều bản dịch Việt ngữ, không hiểu vì sao lại "bỏ quên" không trình bày phần phụ lục mà không hề nêu lý do cho độc giả. Tuỳ theo mức độ, đây có thể là một sai sót lớn hay nhỏ trong dịch thuật.
5.7 Bảng Danh từ chuyên môn và thư mục Trong các tài liệu có nội dung ngắn thì có thể không có thư mục và bảng thuật ngữ. Nhưng trong các chuyên khảo hay các tập sách lớn Anh ngữ thường có thêm bảng thuật ngữ và/hay thư mục. Tương tự như trường hợp của hệ thông tham chiếu, trong đa số sách dịch Việt ngay cả các sách trước tác phổ biến về Phật học việt ngữ thường không có chúng. Thư mục được sử dụng như một cách để người đọc có thể nhanh chóng tìm đến các thông tin nói về cùng một chủ đề trong toàn bộ tập sách. Điều này rất hữu ích cho vìệc tra cứu so sánh và đào sâu về một đề tài trong sách. Trước đây, khi phương tiện máy tính điện tử chưa phổ biến trong soạn thảo thì thật sự phức tạp cho người hiệu đính và chuẩn bị. Tuy nhiên, với việc sử dụng computer, một bảng thư mục soạn thêm sau khi đã định dạng tập sách trở nên bớt năng nhọc nhất là trong trường hợp chỉ là dịch lại từ nguyên bản. Về bảng danh từ chuyên môn, thì đây có thể là một khó khăn vì có thể có nhiều từ mới chưa thống nhất trong Việt ngữ mà lại không có mặt trong nguyên bản khiến người dịch phải ra công soạn thảo thêm. Tuy nhiên, với bảng thuật thuật ngữ (hay bảng đối chiếu thuật ngữ) thì người đọc sẽ nắm được ý nghĩa đặc thù của thuật ngữ đó trong nội dung cụ thể của tập sách. Ngoài ra, bảng thuật ngữ này có thể được bổ sung điều chỉnh thành bảng thuật ngữ đối chiếu rất có ích cho độc giả trong trường hợp họ muốn tìm hiểu, tra cứu thêm trong các tài liệu Anh ngữ về các chi tiết liên quan.
Tùy theo cách trình bày, bản Anh ngữ có thể xếp các phần trình bày ở mục 5.4, 5.5, 5.7 chung vào thành các phụ lục. (phải chăng vì chữ "phụ lục" này mà nhiều bản dịch Việt đã bỏ qua không dịch nội dung nhiều khi vô cùng giá trị của no?)
5.8 Hệ thống dàn bài: Tùy theo bản dịch và cách lựa chọn trình bày, một tập sách có thể nhiều hay ít hay bỏ qua các phần trình bày và thứ tự có thể sắp xếp tùy từng trường hợp. Sau đây là một ví dụ về dàn bài tương đối đủ
* Tựa đề và nguyên tác hay/và các dịch giả của mỗi bản dịch trung gian và bản dịch Việt * Khẳng định bản quyền và các thông tin liên hệ * Giới thiệu các dịch giả * Cảm tạ * Giới thiệu tập sách và/hay lời nói đằu, lời ngỏ * Cách sử dụng sách (bao gồm giải thích về cách tra cứu, về các định dạng, các chú thic'h ...) * Bảng mục lục, bảng mục lục các hình ảnh và sơ đồ * Nội dung chính * Chú thích * Bảng chữ viết tắt * Tham chiếu/Tài liệu tham khảo * Thư mục (hay từ vựng tra cứu) * Các phụ lục khác
6. Vấn đề lựa chọn và trình bày một thuật ngữ:
Lựa chọn thuật ngữ trong lúc dịch là việc rất quan trọng nó ảnh hưởng đến toàn bộ chất lượng của bản dịch. Tùy theo khả năng, mỗi dịch giả sẽ có cách thức, chiến lược và kĩ năng khác nhau. Ở đây chỉ nêu vài đặc điểm đáng lưu ý.
6.1 Tính thống nhất trong phương án chuyển dịch: Nếu trong trường hợp phải lựa chọn một từ vựng trong số những từ vựng khả dĩ dùng được thì có thể xác định thêm một vài yếu tố liên hệ (như đã nêu trên trong đó bao gồm đối tượng độc giả, biện pháp tu từ, cấu trúc hiện tại định dùng ...) Ngoài ra, người dịch có lẽ cần cứu xét đến các yếu tố trong lúc lưạ chọn bao gồm: tính phổ biến của thuật ngữ, chữ Thuần Việt hay Hán Việt, chữ Anh hoá8 hay phiên âm.
Việc sử dụng thống nhất một chiến lược lựa chọn (tùy theo đặc điểm nội hàm của từ) có thể làm cho bài dịch được sáng tỏ hơn. Tùy theo từ loại, người dịch có thể đưa ra cách chuyển dịch thích hơp tối ưu cho bài địch được rõ ràng và thống nhất. Thí dụ9 người dịch có thể theo thống nhất dịch tùy theo lớp đối tượng như là: các địa danh dùng phương án giữ nguyên tên Anh hoá (Lumbini, Bodgaya, ..), các giáo phái có thể dùng tên theo các đặc điểm của giáo phái (Kinh Lương Bộ, Duy Thức tông, Đại Thừa, ...), kinh điển dùng tên phiên Âm Phạn La-tinh, .... Tuy nhiên, có trường hợp không thể theo một cách đặt tên thống nhất cho một lớp đối tượng thì vẩn có thể cứu xét sao cho việc thông dịch không quá rối rắm vô nguyên tắc. Một thí dụ khác là ưu tiên sử dụng lại các thuật ngữ đã thật sự thông dụng dù rằng nó không được rõ nghĩa cho lắm (thí dụ chữ "quán đảnh"), sau đó mới đến việc áp dụng các phương án dịch thuật kể trên. Tuy vậy, cần nên cẩn trọng với những chữ tuy đã quen dùng nhưng có thể dẫn đến sai sót (thí dụ khi dịch cụm chữ "mere name, mere designation" thành cụm từ "chỉ là giả danh" thì có thể sẽ thiếu chính xác)
6.2 Thứ tự ưu tiên: Ngay cả trong các trường hợp dùng câu thì việc đặt ra tôn chỉ về các thứ tự ưu tiên cho việc dịch câu sẽ có ích. Chẳng hạn9 ưu tiên hàng đầu là đúng nghiã và đủ ý, tiếp đến là sự rõ ràng trong sáng, sau đó mới đến tính năng đơn giản bình dân, và cuối đến là trau chuốt.
6.3 Vấn đề viết hoa: Một điều nữa cần để ý là về việc viết hoa hay không cho một danh từ. Trong nhiều trường hợp người dịch thường có xu hướng "viết hoa hoá" tất cả các danh từ hay đại từ mang tính tôn kính mặc dù xét ra đó chỉ là danh từ chung (chẳng hạn "các vị Bồ-tát", "chư Phật"). Việc xác định một chữ có nên viết hoa hay không là tùy theo lập trường và suy định của người dịch. Tuy nhiên, việc chiếu theo văn phạm Việt ngữ để viết hoa hay không cho một thuật ngữ thì có lẽ vẩn là một quyết định hợp lý lẽ.
6.4 Hướng chọn dịch thuật ngữ mới: Như nêu trong 6.1 có nhiều phương án để lựa chọn cách dịch một thuật ngữ mới hoàn toàn chưa có trong các tự điển Anh Việt. Ở đây xin nêu vắn tắt vài cách chính:
6.4.1 Dịch nghĩa, phiên âm, hay du nhập chữ mới? Nếu có thể tìm ra một từ ngắn gọn và tương đương với từ mới (có gốc Nôm hay gốc Hán-Việt) thì đây là việc hoàn hảo. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một thuật ngữ Anh lại không thể nào tương đương với một vài chữ ngắn gọn mà chỉ có thể giải thích được bằng một hay nhiều câu dài. Trong trường hợp này người dịch có thể phải nghĩ đến những phương án khác như là tự đưa ra một thuật ngữ hoàn toàn chưa có và sử dụng chú thích để đưa ra định nghĩa hay khái niệm về thuật ngữ đó.
Các thuật ngữ Việt mới hoàn toàn, khi được chuyển dịch, có khi không phải là một "thuật ngữ" tự nó có ý nghĩa (hoặc ý nghiã đó không phù hợp, hoặc lý do nào khác) mà lại là một từ vựng mượn từ ngôn ngữ khác hay mượn cách phát âm của ngôn ngữ khác -- tức là việc sử dụng lại thuật ngữ từ tiếng nước ngoài (thường là Phạn ngữ hay Anh ngữ) hay là sử dụng phương pháp phiên âm.
Ngoài ra người dịch có khi còn có thể dùng đến cách thức phức tạp hơn. Chẳng hạn dịch từ Anh sang Hán ngữ và từ Hán chuyển dịch thành từ vựng Hán Việt. Phương pháp sau chót không có gì đáng chê trách, nhưng đôi khi cần phải xem xét thật kĩ, vì có nhiều trường hợp khi dịch Anh sang Hán thì chữ Hán đó lại cũng chỉ là một lối phiên âm và như thế cứ phiên âm lòng vòng sang tiếng Việt. Trong trường hợp từ phiên âm này đã được chấp nhận và thông dụng thì nó khả dĩ dùng lại được nhưng nếu với trường hợp một từ hoàn toàn mới thì việc này không thuyết phục và khó có hiệu quả. Ngoài ra, nếu để ý, thì hầu hết các thuật ngữ được dịch theo lối "phiên âm của phiên âm" này chỉ có trong các thuật ngữ tiếng Phạn chứ không phải thuật ngữ tiếng Anh (chẳng hạn như chữ "Ba-la-mật-đa").
6.4.1.1 Phiên Âm: Hiện tại có hai hướng phiên âm chính: Hán việt và Anh-Việt. Xu hướng phiên âm Hán-Việt có lẽ gần gùi hơn với ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam. Các phiên âm từ các chữ có gốc La-tinh sang Việt tuy có (như chữ "xà phòng"), nhưng rất ít và gần như không thấy trong Phật học.
Ngoài ra, trong thời gian sau này chúng ta còn có thể thấy một loại phiên âm có sự "chế biến" trong đó nghĩa là thay vì "âm" được "phiên" sang tiếng Việt thì người dịch điều chỉnh âm Việt ngữ này thành một chữ khác nghe có vẻ hợp lệ. Chẳng hạn tên của Giáo Hoàng Thiên Chúa giáo Benedict 16 được dịch thành "Biển Đức" trong khi thực sự chữ Benedict không hề có nghĩa là "Biển Đức". Tương tự vậy chữ Gelug vốn có nghĩa là "tông phái của các hiền nhân" có khi được dịch thành "Giới Đức". Lối phiên âm này thật sự không có quy tắc thống nhất nào mà chỉ tùy cảm quan, tùy chữ.
6.4.1.2 Giữ nguyên từ vựng Anh ngữ hay từ vựng đã Anh hoá (hay La-tinh hoá): Nhiều tác phẩm Anh ngữ sau này có xu hướng mở rộng thuật ngữ Phật giáo bằng cách dùng lại từ gốc tiếng Phạn (nhất là tên các kinh luận). Trong tiếng Việt, nhất là trong ngôn ngữ thông thường chúng ta cũng thấy việc sử dụng Anh ngữ vào trong giao tiếp hàng ngày. Thực sự, tùy theo quan điểm, người dịch có thể áp dụng cách này hay không nhất là trong trường hợp tên người, tên địa danh -- có thể không mang một ý nghĩa nào -- nhưng một khi đã bị phiên âm, người đọc sẽ mất đi phần lớn cơ hội để tra cứu rà soát lại về nguồn gốc và địa lý của tên đó.
7. Vấn đề kiểm soát chất lượng dịch:
Một bài dịch, nhất là những bài thuộc loại giáo pháp tu học, triết lý, hay chuyên khảo dài cho dù rất chú tâm và cẩn thận dịch giả cũng khó lòng tránh hết được các sơ xuất trong khi trình bày, chú thích, tham khảo, hay trong cách dùng từ ngữ. Việc có được một vài người khác có hiểu biết sâu sắc độc lập đọc và hiệu đính lại bài dịch sẽ giảm bớt được các lỗi thuộc về chủ quan này. Ngoài ra, nếu người dịch không làm việc đơn lẽ (điều này thường xãy ra trong các đề tài dịch thuật lớn hay nhiều khó khăn) thì việc tổ chức làm việc sao cho chất lượng bản dịch được đồng đều, tiến độ dịch không bị ngưng trệ và văn phong của các bộ phận (do những người dịch khác nhau) không quá khác biệt cũng rất quan trọng.
7.1 Người hiệu đính: Có nhiều bản dịch coi nhẹ phần hiệu đính và xem đó chỉ như là việc dành cho người giúp sửa chính tả. Đây thật sự là sai lầm to lớn. Người hiệu đính có thể đóng vai trò quan trọng không thua kém người dịch trong việc nâng cao chất lượng bản dịch. Vì là một người "đứng ngoài" nên người hiệu đính có thể cung cấp rất nhiều ý kiến khách quan, cũng như giúp chỉnh sửa sai sót, nhầm lẫn mà đôi khi người dịch không thấy rõ
7.2 Nhóm cộng tác: việc cộng tác dịch thuật có thể từ hai người trở lên. Đối với một nhóm chuyển dịch vài ba người thì sự hoạt động sẽ dể tổ chức thống nhất và ăn khớp. Tuy nhiên, với số thành viên lớn thì việc tổ chức sao cho công việc trôi chảy, ăn khớp, chất lượng và văn phong được giữ cho đồng đều sẽ là một điều cần quan tâm. Việc phân chia công việc nên hết sức chú ý đến sở trường và thời gian hoạt dụng (tổng thời gian làm việc dịch thuật và hiệu suất) của từng thành viên. việc có một vài thành viên đứng ra lo dàn trải công việc, tổ chức, theo dõi tiến trình, cũng như như làm người dự phòng trong trường hợp có thành viên gián đoạn cũng là điều cần thiết. Đối với một công trình dịch thật lớn thì tổ chức dịch thuật song song cùng lúc giữa các thành phần của đề tài sẽ tiết kiệm nhiều thời gian. Ngược lại, việc tiến hành song song đó lại đòi hỏi các thành viên (nhất là thành viên phải tiến hành chuyển dịch các phần giữa hay cuối) có hiểu biết sâu sắc về đề tài hay đã đọc qua hầu hết các bộ phận cần thiết đủ để nắm bắt phần việc mình đang làm. Để giảm bớt sự không đồng nhất trong ngôn ngữ dịch thuật thì có thể cần dùng đến một bảng thuật ngữ chia sẻ chung và sự thống nhất ý kiến về cách hành văn (thông qua một bài dịch mẫu chẳng hạn). Thực sự, việc không ngang bằng về hiểu biết của từng thành viên có thể là điểm yếu nhưng nó cũng là điểm mạnh vì qua đó người tổ chức có thể lợi dụng tính đa dạng mà phân bổ công việc cũng như biết thêm được chất lượng bài dịch qua các tầm nhìn khác nhau.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:58:27 GMT 9
8. Các ý tưởng liên quan * Vấn đề kinh tế đời sống : Thật sự đối với một dịch giả trong nước thì số huê hồng nhận được do dịch thuật các tài liệu Anh ngữ (tính theo trị giá bán của một tác phẩm từ 5-10%) có thể hơi ít chưa kể trường hợp dịch thuật phải mua hay kí nhượng quyền phát hành với một nhà xuất bản Anh ngữ thì xem như "làm việc không lấy tiền công". Nếu một người ở các Tây Phương thì thật sự số thu nhập này quá nhỏ đến nổi khó lòng trang trải công sức. Tuy nhiên, nếu làm không vì lợi nhuận mà vì những mục đích khác thì khó để phân định giá trị. Có những dịch giả tự mình lo cả chi phí về mặt in ấn và tự phát hành. Tuy nhiên, cách làm này thường chỉ mang tính địa phương vì thường số lượng bản in ra sẽ hạn chế. Việc lựa chọn nơi in ấn cũng là một vấn đề, in tại nước ngoài (như Hồng Kông, Đài Loan, hay ngay tại Hoa kì ...) giá thành in ra sẽ rất cao. Ngược lại, in trong nước đòi hỏi vượt qua nhiều thứ "hàng rào" chẳng hạn như sự kiểm duyệt. Ngoài ra, vấn đề ăn cắp bản quyền trong nước cũng thật sự đáng lo ngại. *Vấn đề phổ biến bất vụ lợi : Một điều đáng ca ngợi trong lãnh vực dịch thuật đặc biệt là về Phật giáo, có nhiều dịch giả đã nổ lực quyên góp, in ấn phát hành và biếu không những công trình có giá trị của mình (kể cả công đức về vật chất lẫn tinh thần). Tuy nhiên, cần cẩn trọng khi cúng dường các tác phẩm -- hãy đặt công sức mình vào đúng chỗ! Trong vài trường hợp thực tế khi mà chính người viết đã thấy tại một ngôi chùa có tầm cở lớn đã để các tác phẩm đó "cúng dường" cho mưa nắng. Thật đau lòng khi thấy các bản kinh luận được ấn tống tốn tiền, tốn của được phơi trên các kệ ngoài trời cong quăng vàng vỏ. Như vậy không biết là có phải tâm lý "của chùa đầy dẫy" đã chẳng những nhiễm vào tâm lý người dùng mà còn nhiễm cả đến người giữ chùa? Xin một lời cầu nguyện chấm dứt được việc này! Một điểm yếu nữa của việc tự quyên góp và phát hành là các sách được in ra sẽ rất hạn chế và khó phổ biến rộng rãi. Ngược lại, việc in và bán ra thì cũng gặp trở ngại ... in ở đâu? (như đã phân tích trên). Tuy nhiên, chỉ có những tác phẩm tương đối đạt "thị hiếu" mới dể dàng được phát hành trên kệ sách, còn một số tác phẩm chuyên khảo giá trị, ít người mua, e khó lòng! Một số khác, có lẽ không cần đến khoảng tiền lợi nhuận nên cũng không muốn sách của mình được đem ra bán với giá quá rẻ so với trị giá thực. (Đó là vì trị giá tiêu dùng ở Việt Nam khá thấp). Tuy vậy, nếu thực sự không cần tiền thì có thể dùng số huê hồng đó vào chuyện công ích, như làm từ thiện chẳng hạn, trong khi vẩn có thể mượn hệ thống phát hành sách trong nước mà phổ biến rộng rãi. Lựa chọn phương cách và mục đích phổ biến thế nào của một dịch phẩm cho tối ưu hoàn toàn nằm trong tay người chủ nó. Trên đây chỉ là những ý tưởng "bàn ra" khi mà chủ đề của bài viết cũng đã đến hồi kết. Việc một bản dịch có thành công hay không hoàn toàn do khả năng và nổ lực của dịch giả. Tùy theo bản dịch, đổi với người có năng khiếu, tài giỏi hay già dặn kinh nghiệm nhiều khi không cần bất kì một phân tích tra cứu nào cũng vẩn có thể cho ra một tác phẩm hay. Trong các chi tiết nêu trên, có thể có nhiều điều mọi người đều đã biết, có điều hợp, có điều không dùng tới. Cho dù ra sao, nếu như môt ý nhỏ trong bài viết này trở nên có ích cho người đọc thì bài viết đã đạt mụch tiêu của nó. 9. Phụ lục 9.1 Nội dung chính của một hợp một đồng chuyển dịch với đối tác: Việc đầu tiên sau khi chọn dịch một tập sách (hay một tài liệu) là phải tìm địa chỉ và gửi thư (hay điện thư) đến nơi giữ bản quyền. Các tài liệu đã phổ biến trên Internet thường sẽ dể dàng xin được quyền chuyển dịch miễn phi hơn. Tuy nhiên, cũng tùy giá trị tài liệu và chủ nhân của nó. Tùy theo nơi giữ bản quyền việc hợp đồng cho phép dịch thuật một tác phẩm có thể khác nhau ít nhiều và có thể chỉ có hai đối tác hay nhiều hơn (trường hợp người dịch, nhà xuất bản bản dịch Anh, và nhà in bản dịch Việt chẳng hạn). Có khi người dịch thuộc về một phía đại diện mà không đứng riêng tên. Một bản hợp đồng sẽ ghi rõ thoả thuận giữa các phía nó cũng là công cụ bảo vệ quyền lợi cho mỗi phía. Sau đây là các đề mục chính thường có trong một hợp đồng. Cần lưu ý quan trọng nhất là vấn đề các chi phí phải trả, các thời hạn sử dụng, và bản quyền * Tên và cách định danh các đối tác (chẳng hạn nhà xuất bản Anh là Proprietor và người dịch là Translator) * Sự khẳng định cho phép phát hành bằng ngôn ngữ Việt * Các khoảng chi phi phải trả cho hơp đồng * Khẳng định bản quyền * Thời hạn của bản hợp đồng * Thời hạn tối thiểu phải dịch và phát hành * Chi phí phải trả cho mỗi bản in sách đến nơi nhượng (hay bán) bản quyền * Những khoảng khác tùy theo tình hình cụ thể ... * Chữ kí các đối tác 9.2 Link các từ điển, thư viện và kho lưu trữ: Hầu hết các từ điển trực tuyến đều có thể tìm thấy bằng cách dùng google và gõ đúng từ khóa. chẳng hạn: Sankrit English Dictionary. Không phải trang WEB nào liệt kê ở đây cũng đều tốt. Tuy nhiên người dùng có thể lọc lựa những điều cần thiết từ đây 9.2.1 Từ điển thông thường: * webapps.uni-koeln.de/tamil/ Các từ điển Sanskrit, Tamil, và Pahlavi * spokensanskrit.de/ Từ điển Phạn ngữ * www.srimadbhagavatam.org/downloads/SanskritDictionary.html Từ điển Phạn - Anh (1 trang) * www.swargarohan.org/Glossary.htm Bảng thuật ngữ Phạn Anh * www.nitartha.org/dictionary_search04.html Từ điển Tạng Anh Trực tuyến Nitatha * www.thdl.org/tibetan/servlet/org.thdl.tib.scanner.OnLineScannerFilter Dụng cụ chuyển dịch Tạng Anh của thư viện Tây Tạng và Hymalaya * baamboo.com/?tab=Vietdic Các từ điển chuyên ngành (ngoài Phật giáo) và phương tiện thông tin * ccts.cs.cuhk.edu.hk/Từ điển tin học Hoa ngữ * annonymous.online.fr/HVDic/onldic.phpTừ điển Hán Việt * pagesperso-orange.fr/dang.tk/langues/hanviet.htm Tư điển Hán Việt (Thiều Chửu) * www.huesoft.com.vn/hannom/ Từ điển Việt Hán Nôm * www.vietlex.com/xml/search.htm Trung tâm Từ Điển * vdict.com/Vietnamese Dictionary & Translation * www.tinhvan.com.vn/scripts/tvis/webdict/webdict.pl Web VD - Dictionaries on the Web 9.2.2 Từ điển Phật học * buddhistlinks.org/Dictionaries.htm Tập hợp liên kết các từ điển Phật học * www.cbeta.org/index.htm Từ điển Phật học điện tử Hoa ngữ CBETA * www.diamondway-buddhism.org/default.asp?col=04&t=diction.htm Từ điển Tạng Anh Phật học * www.thuvienhoasen.org/index-tudienphathoc.htm Trang link đến các từ điển Phật học của thư viện Hoa Sen * www.quangduc.com/tudien/index.html Từ điển Phật học Quảng Đức * www.vietshare.com/tusach/tudienph.asp Phật học từ điển * 9.2.3 Thư viện và kho lưu trữ Phật học * www.dalailama.com/page.128.htm Các thuyết giảng MP3 cho tải miễn phí từ văn phòng của đức Đạt-lai Lạt-ma * www.thdl.org/xml/show.php?xml=/education/tllr/xml/tllr.xml Thư viện số Tây Tạng Hymalaya * www.abuddhistlibrary.com/Buddhism/J%20-%20Navigation%20Pages%20and%20A%20List%20of%20Books/Navigation%20Pages/Home%20page.htm Thư viện Phật giáo * www.berzinarchives.com/web/en/index.html Trang Berzin * www.ltwa.net/Administration/Administration.html Thư viện Tây Tặng tại Dharamsala * www.buddhanet.net/library.htm Buddhist Library của Buddha.net * www.ciolek.com/WWWVL-Zen.html Zen Buddhism Virtual Library * www.tipitakahall.net/ Tam Tạng Kinh điển * www.sacred-texts.com/bud/index.htm Phần Phật giáo của sacred-texts Internet * www.daitangvietnam.com/ Đại Tạng Kinh Việt Nam Tuệ Quang * daitangkinhvietnam.org/ Đại Tạng Kinh Việt Nam * www.thuvienhoasen.org/index.htm Thư viện Hoa Sen Namo Buddhaya. Namo Dharmaya. Namo Sangaya Mọi công đức xin hồi hướng đến tất cả chúng sinh hữu tình cư sĩ Làng Đậu kính bút. Chú thích: 1. Xem thêm loạt bài Khai Thác Search Engine Cho Nhu Cầu Học Tập và Nghiên Cứu của cùng tác giả qua các link vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao1.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao2.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao3.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao4.htm2. Cũng còn tùy kĩ năng của người dùng, chẳng hạn có thể kiểm lại cách đánh dấu hỏi ngã bằng cách xem số trang (hit) có dùng chữ đó thông qua máy truy tìm 3. Có nhiều kinh điển nhắc đến nguyên tác này. Trong đó có Kinh Điển cổ là "Tăng Nhất A Hàm" phẩm Tăng thương Kinh số 4. www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm 4. Tứ Pháp Y được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra, nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587 5. Xem thêm "Buddhist Epistemology: (Contributions in Philosophy) của S. R. Bhatt và Anu Mehrotra ISBN 0313310874 Hay: "Nhân Minh Luận" của Thích Đổng Quán NXB Thành Phố Hồ chí Minh. 1996 6. Đây chỉ là tên đặt tạm, nội dung của bốn nguyên lý này được nhắc đến trong quyển "The Four Noble Truths" (ISBN 0722535503) chương II The Truth of Suffering phần Karma and the Naltuaral World. Ngài có chỉ ra thí dụ áp dụng trong phân tích Phật giáo. Ngoài ra, người đọc có thể tham khảo thêm cách sử dụng chi tiết để phân tích các nguyên lý này qua bài luận "Afterword: Buddhist Reflections" (http://www.alanwallace.org/BuddhistRefls.pdf) của học giả B. Alan Wallace. 7. Xem thêm tác phẩm "Appearance & Reality: The Two Truths in the Four Buddhist Tenet Systems" của GS Guy Newland ISBN:1559391316 đã được Lê công Đa dịch Việt (http://www.thuvienhoasen.org/sactuongvathattuong-00.htm) 8. Ở đây tạm định nghĩa "chữ Anh hóa" tức là những thuật ngữ du nhập từ tiếng Anh . 9. Đây chỉ là thí dụ có thể không phù hợp hoàn toàn với trường hợp cụ thể của một bài dịch riêng biệt. Tài Liệu Tham Khảo Chính: 1.Khai Thác Search Engine Cho Nhu Cầu Học Tập và Nghiên Cứu . Võ Quang Nhân. tháng 7 năm 2004 vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao1.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao2.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao3.htmvietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao4.htm2. Kinh Tăng Nhất A Hàm. Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà. Việt dịch: Thích Đức Thắng. PL 2549. www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm3. "Nhân Minh Luận" của Thích Đổng Quán NXB Thành Phố Hồ chí Minh. 1996 4. "The Four Noble Truths". His Holiness the Dalai Lama 14. Thorsons. 1998. ISBN 0722535503 5. "Nagarjuna's Seventy Stanzas: A Buddhist Psychology of Emptiness". David Ross Komito and Nagarjuna. Snow Lion Publications. 1999. ISBN 0937938394 6. "Consciousness at the Crossroads: Conversations with the Dalai Lama on Brainscience and Buddhism" . B Alan Wallace, Zara Houshmand, and Robert Livingston. Ithaca, NY: Snow Lion, 1999.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:17:40 GMT 9
Anh ngữ tại Hoa Kỳ 1. American English Language Trên con đường tiến hoá của một ngôn ngữ được thông dụng nhất trên hành tinh nầy, năm 2006 một dấu mốc quan trọng của Anh ngữ đã tiến đến giới hạn một triệu chữ (1 million words) trong phương tiện phong phú giao lưu của loài người. Cơ quan Điều Hành Ngôn Ngữ Toàn Cầu (Global Language Monitor, viết tắt là GLM) do một nhóm chuyên viên truyền thông thành lập để nghiên cứu chiều hướng phát triển việc sử dụng Anh ngữ và ảnh hưởng sâu xa của Anh ngữ trong sinh hoạt văn hoá văn chương, và đời sống của con người. Theo cơ quan GLM cho biết, năm 2006, kho tàng Anh ngữ tại Hoa kỳ lên đến một triệu chữ, con số đáng quan tâm cho nhiều người. Trong lúc Pháp ngữ phải được Hàn Lâm Viện duyệt xét, cơ quan nầy thành lập năm 1635 do Hồng y Richelieux chủ xướng. Viện Hàn Lâm Pháp toàn quyền quyết định về văn phạm, từ ngữ mới, đó mới là Pháp văn chính thức. Hàn Lâm Viện Pháp, một nhóm người sống trong tháp ngà chữ nghĩa, bảo thủ, chịu áp lực chính trị gò bó, thành thử Pháp ngữ không phát triển theo nhu cầu tiến bộ của đời sống, nên hiện nay vẫn chỉ trong khoảng 100 ngàn chữ nghèo nàn. Nhìn lại Anh ngữ, nhất là Anh ngữ tại Hoa Kỳ, một ngôn ngữ tiến hóa nhanh nhất trong hàng vạn ngôn ngữ trên quả đất này. Hoa Kỳ là đất của những người di dân nên Anh ngữ cũng phối hợp phát triển hài hòa trộn lẫn theo ngôn ngữ và sinh hoạt của di dân. Sau đây là một vài chữ Anh ngữ tiêu biểu được thành hình từ nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới: Chữ Anh ngữ Được hình thành từ Nghĩa Dentist Pháp ngữ Nha sĩ Hamburger Đức ngữ Bánh mì kẹp thịt Dinosaur Hy Lạp ngữ Khủng Long Forum La Tinh Diễn Đàn Alligator Tây Ban Nha Cá Sấu Ao dai; Pho Việt Nam Áo dài, Phở Sự khác biệt giữa Anh ngữ tại Hoa Kỳ và Anh ngữ ở Anh Quốc, một phần trong cách sử dụng biến hoá. Trong mức độ nào đó, người Hoa Kỳ đơn giản hoá trong vần đọc (spelling) và chấp nhận cho Anh ngữ thích ứng trong môi trường mới. Sự khác biệt nầy đã thành hình lớn dần và kéo dài hơn 300 năm. Vào thế kỷ XVII, người Anh đầu tiên đến Hoa Kỳ rồi dần dần người Đức, người Pháp, người Ý, người Thụy Điển; người Âu châu đến định cư tại phần đất Tân Thế Giới cùng với thổ dân da đỏ bản xứ. Trong sinh hoạt chung của một cộng đồng đa sắc dân, một American English Language đã thành hình. Năm 1828, ông Noah Webster đã chính thức tách rời Anh ngữ tại Hoa Kỳ từ Anh ngữ ở Anh quốc, khi ông soạn và cho xuất bản quyển tự điển đầu tiên, An American Dictionary of the English Language. Ông Webster đã Mỹ hoá tiêu chuẩn cách đánh vần và đọc Anh ngữ, cùng in thêm nhiều từ ngữ mới, những chữ nầy chưa bao giờ có trong tự điển Anh ngữ ở Anh quốc. Từ đó, nhiều nhà xuất bản ở Hoa Kỳ lần lượt đua nhau làm tự điển theo đường lối của ông Webster và sách được chấp nhận hoan nghênh khắp hoàn cầu. Đầu thế kỷ XX, với quá khứ huy hoàng của Anh quốc, những trí thức Hồng Kông nhận định rằng, Anh ngữ từ Anh quốc là Anh ngữ chính thống quý phái tiêu chuẩn. Thời đại và sinh hoạt loài người đã đổi thay, nền văn hoá giáo dục Hoa Kỳ tràn ngập khắp địa cầu. Cuối năm 2002 tại diễn đàn Houston, tôi ngồi cạnh giáo sư Paul Chu, người đã từng cùng tôi giảng dạy tại Đại học Houston, hiện là Chủ tịch Đại học Hồng Kông, ông ta thì thầm vào tai tôi phê bình diễn giả bà Margaret Thatcher nói tiếng Anh ngọng nghịu thụt lưỡi đả đớt và chỉ có tiếng Anh tại Hoa Kỳ là du dương đầy nhạc điệu trầm bổng hùng hồn. Nhiều quốc gia trên thế giới có luật định bắt buộc chỉ dùng một ngôn ngữ chính thức trong một nước, gọi là quốc ngữ, nhưng ở Hoa kỳ không có luật dùng Anh ngữ là ngôn ngữ chính thức cho toàn thể liên bang. Chỉ có23 tiểu bang có luật định dùng Anh ngữ làm ngôn ngữ chính thức, trong đó có tiểu bang California, nơi nhiều người Việt Nam định cư nhất ở Hoa kỳ. Tiểu bang Texas nhiều lần đưa dự luật Official English Laws ra thảo luận đều bị bác bỏ, vì số người Hoa kỳ gốc Mễ Tây Cơ có thế lực chính trị khá mạnh. Chuyên viên nghiên cứu ngôn ngữ Hoa Kỳ ghi nhận có trên 336 ngôn ngữ đã từng được sử dụng ở Hoa Kỳ, trong đó có 176 ngôn ngữ thổ dân da đỏ; 52 ngôn ngữ của thổ dân hiện nay không còn ai nói đến nữa. Thổ ngữ da đỏ hiện nay được thông dụng nhiều nhất trong cộng đồng Hoa Kỳ là tiếng Navajo, nhiều tiếng nầy đã được biến hoá thành Anh ngữ. Vì Hoa Kỳ không có luật quốc ngữ chính thức, nên trong cuộc Tổng Kiểm Tra Dân số năm 2000, Văn phòng Thống Kê Liên bang đã phải in bản vấn đề lục kiểm tra bằng sáu thứ tiếng: Anh ngữ, Tây Ban Nha, Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và tiếng Phi Luật Tân Tagalog. Năm 2006, khi cơ quan GLM đốt pháo bông ăn mừng Anh ngữ tại Hoa Kỳ đã có một triệu chữ, những tạp chí viết Anh ngữ sáng tạo phức tạp khó hiểu như Newsweek hoặc tạp chí sử dụng Anh ngữ đơn giản rõ ràng như Reader’s Digest đều có bài đặc biệt hân hoan chào mừng. Trong một triệu chữ Anh ngữ nầy, nếu đại thi hào Anh ngữ Shakespeare đột nhiên tái sinh xuất hiện, có lẽ ông ta cũng ngạc nhiên ngỡ ngàng. Tất cả gia tài thi ca đồ sộ của ông để lại cho hậu thế, ông cũng chỉ sử dụng khoảng 24 ngàn chữ, trong số nầy có hơn 1000 từ do ông sáng tạo ra. Một người Hoa Kỳ sinh ra và lớn lên trên quê hương của mình, cắp sách đến trường học thi đậu bằng cử nhân kỹ sư BA, BS cũng chỉ sử dụng khoảng 14 ngàn chữ. Năm 1984, tôi được thành phố Houston bầu vào chức vụ Houston’s Poet Laureate, nhà thơ Công Huân Danh dự của thành phố Houston. Trong ba năm 1984-1987, tôi được mời làm keynote speaker, diễn giả chính của các buổi lễ văn hoá, xã hội. Một lần trong buổi lễ gây quỹ từ thiện năm 1985, thị trưởng thành phố Houston lúc bấy giờ, bà Kathy Whitmire giới thiệu tôi để đọc diễn văn khai mạc, bà nói tôi là một “great bard”, nhà thơ lớn. Ông Warren Buffett, có bằng BS, MS, nhà tỷ phú giàu thứ nhì trên thế giới hiện nay, ông ngồi bên tay phải liền quay hỏi tôi chữ “bard” nghĩa là gì. Thì ra chữ “bard” nằm ngoài 14 ngàn chữ thông thường, còn chữ poet là thi sĩ ở trong 14 ngàn chữ thông dụng hàng ngày của người Hoa Kỳ. Tiến sĩ Alan Greenspan, cựu Chủ Tịch Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ, một nhân vật ngoại lệ, thường sử dụng ngôn ngữ cao lạ khác với tiếng sử dụng thông thường. Khi còn trẻ, ông Greenspan muốn cầu hôn với người bạn gái, ông đã sử dụng ngôn ngữ văn chương đến hai lần mà cô ta vẫn ngơ ngác không hiểu, dầu cô ta là một minh tinh điện ảnh. Mãi đến lần thứ ba khi ông ta quỳ gối xuống và dâng chiếc nhẫn đính hôn, cô ta mới hiểu ra, lòng tràn ngập sung sướng ôm ông ta chấp nhận. Ngày 05 tháng 12 năm 1996, Chủ Tịch Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang, Alan Greenspan tuyên bố thị trường chứng khoán trên toàn thế giới đã gia tăng một cách vô lý bằng hai chữ “irrational exuberance”, ngày hôm sau thị trường chứng khoán toàn cầu đã sụt giảm mất đi 100 tỷ Mỹ kim vì hai chữ nầy. Hai chữ “irrational exuberance” đi vào lịch sử tài chánh thế giới như hai chữ đắt giá nhất của ngôn ngữ loài người. Một nhà văn lớn Hoa Kỳ, tác giả trên 60 tác phẩm, ông John Upd**e tốt nghiệp Cử nhân Anh văn Đại học Harvard với hạng Tối Ưu Danh Dự (Summa Cum Laude) là một trong hai người giới thiệu tôi gia nhập Trung Tâm Văn Bút PEN Club Hoa Kỳ, ông được rất nhiều giải thưởng văn chương huy chương cao quý. Trường thiên tiểu thuyết “Rabbit” mô tả cuộc đời thăng trầm của một cầu thủ lừng danh, ông John Upd**e cũng chỉ sử dụng khoảng 18 ngàn từ Anh ngữ. Nhà văn nữ Hoa Kỳ gốc Phi châu Toni Morrisson, bà được giải thưởng Nobel văn chương năm 1993, tiểu thuyết “Beloved” bán chạy nhất, bà cũng chỉ sử dụng khoảng 15 ngàn chữ Anh ngữ. Amy Tan nhà văn nữ Hoa Kỳ gốc Trung Hoa, có sách bán đến hàng triểu quyển và truyện của cô đã được đưa lên màn bạc, Amy Tan cũng chỉ sử dụng khoảng 13 ngàn chữ Anh ngữ khi viết tập truyện ngắn “The Joy Luck Club” và 14 ngàn chữ khi viết truyện dài “The Kitchen God Wife.” Còn những nhà văn Hoa Kỳ chuyên viết tiểu thuyết kinh dị hoặc những chuyện tình ướt át, nồng nặc mùi tình dục, sách bán rất chạy, mỗi quyển họ thu vào hàng triệu đô la như hai tác giả Stephen King và Danielle Steel; những nhà văn nầy họ chỉ dùng khoảng 12 ngàn chữ Anh ngữ. Iris Chang cô sử gia vĩ đại nhất của người Trung Hoa tại Hoa Kỳ, cô tự tử qua đời năm 2005 khi chỉ mới 26 tuổi; cô viết hai quyển sử “The Rape of Nanking” và “The Chinese in America” cũng chỉ sử dụng khoảng 11 ngàn từ Anh ngữ. Theo Văn Phòng Thống Kê Hoa Kỳ, 1/5 dân số Hoa Kỳ vào khoảng 60 triệu người từ 5 tuổi trở lên đã nói một ngôn ngữ khác tại nhà, không phải Anh ngữ. Trong số 60 triệu người nầy có 55% họ nói Anh ngữ lưu loát. Cộng đồng Việt Nam chúng ta sử dụng Việt ngữ tại nhà lên đến hơn 75% và khoảng gần 50% nghe hiểu và phát biểu Anh ngữ lưu loát. Một học sinh Việt Nam đến Hoa Kỳ 10 tuổi tiếp tục đến trường để tốt nghiệp trung học và sau 4 hay 5 năm tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ với văn bằng cử nhân, kỹ sư BA, BS, những người Mỹ gốc Việt nầy thường sử dụng khoảng 11 ngàn chữ Anh ngữ. Gần đây, những cuộc thi đánh vần toàn quốc Spelling Bee tại thủ đô Washington D.C. đã có nhiều học sinh gốc Việt tham dự, một phát hiện đáng mừng. Khi gần đến vòng chung kết, học sinh gốc Việt thường vấp ngã vì gặp những chữ tiếng Anh thành hình từ tiếng La Tinh, Hy Lạp, Đức, Do Thái. Mong sao các em đọc nhiều sách Anh ngữ hơn nữa đế tiến sâu vào vòng chung kết cuộc thi đánh vần Spelling Bee và trong tương lai trở nên nhà văn Hoa Kỳ hầu thưởng thức cùng góp phần vào sự thăng hoa của kho tàng một triệu chữ Anh ngữ đã đạt trong năm 2006. Huy Lực Bùi Tiên Khôi (Houston, Texas. USA)
|
|