|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:17:52 GMT 9
...... ... .. . .. . . BỒ-ĐỀ ĐẠO TRÀNG SẼ GIỐNG NHƯ VATICAN VÀ MECCA ? Thích Nhật Từ -------------------------------------------------------------------------------- Thích Ca Mâu Ni Phật Mar/03/06 Thích-Ca Mâu-Ni (. śākyamuni, pi. sakkamuni, dịch nghĩa là “Trí giả trầm lặng (muni) của dòng Thích-Ca”. Đây là danh hiệu của Tất-đạt-đa Cồ-đàm (sa. siddhārtha gautama), người sáng lập Phật giáo. Thái tử Tất-đạt-Đa mang tên này sau khi từ bỏ các vị thầy và tự mình tìm đường giải thoát. Danh hiệu “Thích-Ca Mâu-Ci” thường được dùng để chỉ vị Phật lịch sử đã từng sống trên trái đất này, nhằm phân biệt với các vị Phật khác. Dòng Thích-Ca vốn là vương tộc, cai trị một trong 16 vương quốc của Ấn Độ thời bấy giờ, ngày nay thuộc miền Nam Nepāl. Kinh đô thời đó là Ca-tì-la-vệ (sa. kapilavastu), là nơi Phật sinh ra và trưởng thành. Vua cha là Tịnh Phạn (sa. śuddhodana, pi. suddhodana), trị vì tiểu vương quốc Thích-Ca. Thời bấy giờ, tiểu vương quốc dòng Thích-Ca có một hội đồng trưởng lão tham gia quốc sự, nhưng vương quốc này bị phụ thuộc vào nước Kiêu-tát-la (sa. kośala). Ngay trong thời Phật còn tại thế, tiểu vương quốc Thích-Ca bị một quốc vương của Kiêu-tát-la đem quân xâm chiếm và tiêu diệt gần hết. Sau khi Phật thành đạo và trở lại Ca-tì-la-vệ giảng dạy, nhiều vị trong dòng dõi Thích-Ca xin gia nhập Tăng-già. Tại đó, người thợ cạo Ưu-ba-li (sa., pi. upāli) xin gia nhập, trở thành tăng sĩ trước và vì vậy được xem cao quý hơn các vị lĩnh đạo trong hoàng gia gia nhập sau. **************************** Công trình kiến trúc vĩ đại nhất tại Bồ-đề Đạo Tràng chính là tháp Đại Bồ-đề. Tháp Bồ-đề Đạo Tràng hay còn gọi là chùa Đại Bồ-đề (Mahābodhi Mahā-vihāra) hay Đại tháp (Great Stūpa) là một trong số 84.000 đền tháp được đại đế A-dục kiến dựng vào thế kỷ thứ 3 TTL. Bồ-đề Đạo Tràng là nơi thái tử Tất- -đa đã trở thành đức Phật, bậc giác ngộ vào thế kỷ thứ 6 TTL. Trong suốt thời đại của vua Piyadassi Aśoka (A-dục) vào thế kỷ thứ 3 TTL, nơi này đã trở thành thánh địa nổi bật nhất của Phật giáo. Đại đế A-dục đã sắc lệnh xây dựng toà Kim Cương hay còn gọi là toà giác ngộ và tháp Đại Giác để tưởng nhớ và tôn kính đức Phật. Quần thể kiến trúc Bồ-đề Đạo Tràng mà chúng ta thấy hiện nay đã trải qua nhiều lần trùng tu và kiến tạo dưới nhiều triều đại Phật giáo khác nhau, và hoàn thành vào thế kỷ thứ 7, dưới triều đại Gupta. Không chỉ đối với người Phật tử Ấn-độ, rất nhiều lãnh tụ Phật giáo có mặt ngay ngày lễ kính mừng Bồ-đề Đạo Tràng được liệt vào Di Tích Văn Hoá Thế Giới đều mong mỏi rằng trong một tương lai gần, thánh tích Bồ-đề đạo tràng sẽ trở thành thánh địa của Phật tử năm châu, như Vatican của Cơ-đốc giáo hoặc Mecca của Hồi giáo, hay gần nhất là Đền Vàng (Golden Temple) của đạo Sikh. Điều mơ ước này mặc dù rất chính đáng nhưng khó có thể trở thành hiện thực, là vì đại đa số thành viên trong Hội Đồng Quản Trị của Bồ-đề Đạo Tràng là người theo Ấn giáo và chính quyền Ấn Độ chưa đầu tư đúng mức cho thánh địa này. Hội Đồng Quản Trị của Bồ-đề Đạo Tràng gồm 10 thành viên, trong đó chỉ có 3 vị tăng sĩ là TT. Bhadant Gyaneshwar Mahathera, TT. Bhadant Ārya Nāgārjuna Surei Sasai và ĐĐ. Bodhipala (tri sự). Bảy thành viên còn lại đều là người theo Ấn giáo, trong đó, ông Brijesh Mehrotra thị trưởng Gaya là chủ tịch của HĐQT, và uỷ viên thư ký là tiến sĩ Kalicharan Singh Yadav. Thành phần HĐQT với đại đa số là người Ấn giáo được Luật về Bồ-đề Đạo Tràng do chính phủ bang Bihar ban hành vào năm 1949, đã tạo ra sự bất bình trong quần chúng Phật tử Ấn-độ. Để làm giảm bớt dư luận, gần đây chính phủ Ấn-độ đã thành lập thêm Ban Cố Vấn, bao gồm các vị đại sứ của các nước Phật giáo và ngài Dalai Lama thứ 14. Trong lịch sử, tháp Bồ-đề Đạo Tràng đã từng trải qua các bước thăng trầm. Từ lúc mới được xây dựng cho đến đầu thế kỷ 13, Bồ-đề Đạo Tràng thuộc về quyền quản lý của Phật giáo. Khi quân Hồi giáo xâm lăng Ấn-độ, thánh địa này đã mất vào tay đạo Hồi. Vào năm 1590, một vị đạo sĩ Ấn giáo là Mahant Ghamandi Giri đã lấn chiếm và tự xưng là người kế thừa Bồ-đề Đạo Tràng. Vị truyền thừa hiện tại là vị Mahant thứ 16. Ông Sir Edwin Arnold, tác giả quyển Viếng Sáng Á Châu (The Light of Asia) là người có công trong việc kêu gọi chính quyền Ấn-độ giao trả Bồ-đề Đạo Tràng cho Phật giáo. Người có công thứ hai là Anagarika Dharmapāla đã vận động các nước Phật giáo gây sức ép chính phủ Ấn-độ. Năm 1891, một phần của Bồ-đề Đạo Tràng đã được giao lại cho Phật giáo, từ dòng họ Mahant. Bộ luật về Bồ-đề Đạo Tràng được ra đời vào ngày 19-6-1949 nhằm xác định Bồ-đề Đạo Tràng thuộc di tích Phật giáo nhưng đại đa số thành phần quản trị thuộc Ấn giáo. Trong một lá thư gởi cho bộ trưởng Bộ Du Lịch, thượng toạ Priya Pal đã khẳng định rằng thành phần quản trị Bồ-đề Đạo Tràng phải thuộc về Phật tử, chứ không thể thuộc về người Ấn giáo. Thượng toạ còn than phiền rằng phía Phật giáo không có vai trò quan trọng trong hệ thống quản trị của Bồ-đề Đạo Tràng từ năm 1949. Lễ chúc mừng Bồ-đề Đạo Tràng được liệt vào Di Tích Văn Hoá Thế Giới theo thượng toạ sẽ không làm thay đổi gì trong hệ thống pháp lý bất công của chính quyền Ấn giáo. Các vị khai sơn của các chùa nước ngoài tại Bồ-đề Đạo Tràng đều bất mãn và yêu cầu chính quyền Ấn-độ cần sửa đổi luật quy định về thánh địa này. Hoà thượng Thích Huyền Diệu, trụ trì Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bồ-đề Đạo Tràng và Lâm-tỳ-ni, cho biết “các tăng sĩ Phật giáo Ấn-độ cũng như các tu sĩ Phật giáo nước ngoài đang hành đạo tại đất Phật đã nhiều năm đấu tranh, yêu cầu chính quyền Ấn-độ giao quyền quản trị cho Phật giáo nhưng không thành công.” Hơn 50 năm đấu tranh đã trôi qua, số lượng thành viên Hội Đồng Quản Trị của Bồ-đề Đạo Tràng vẫn nghiêng về người theo Ấn giáo. Đây là điều bất công mà Giáo Hội Tăng Già Ấn Độ đã nhiều năm đấu tranh nhưng vẫn không làm thay đổi được cục diện. Một điều nghịch lý khác là trong khi chính quyền Ấn-độ, đặc biệt là bộ Du Lịch và Văn Hoá phối hợp với bộ Hàng Không Dân Dụng, đã bỏ ra một khoảng tiền rất lớn, 250 lakh rupee, tương đương 625.000 đô Mỹ để tổ chức hội nghị thì giới truyền hình và báo chí Ấn-độ dường như “phớt lờ” trước sự kiện trọng đại này. Hai tờ Nhật báo lớn nhất của Ấn-độ là The Times of India và The Hindustan Times chỉ đưa tin vài hàng như thể đây là sự kiện bất lợi cho Ấn giáo, trong khi đó các đài truyền hình và các tờ nhật báo khác tại Ấn Độ hầu như không đưa tin! Nhiều giới chức Phật giáo nước ngoài tham dự hội nghị cho rằng chính quyền Ấn-độ chỉ muốn thu hút khách hành hương và du khách ngoại quốc đến Ấn-độ, để góp phần phát triển kinh tế qua con đường du lịch, hơn là giới thiệu cho người bản địa biết đến giá trị của một di sản văn hoá lớn của Phật giáo đang hiện hữu trên đất nước họ. Mặc dù chính quyền bang Bihar, nơi Bồ-đề Đạo Tràng được thiết lập, đã đầu tư 3 tỉ rupee (tương đương 1050 tỉ đồng VN) để duy trì tính nguyên thuỷ của Bồ-đề Đạo Tràng và làm vệ sinh khu xung quanh tháp, du khách vẫn khó có thể mườn tượng được đâu là phần đã được đầu tư. Đoạn đường mười mấy km từ ga xe lửa Gaya đến Bồ-đề Đạo Tràng vẫn y nguyên hình bóng cũ, không có gì thay đổi. Gần đến Bồ-đề Đạo Tràng mới có các tấm biểu ngữ chào mừng, với nhiều em học sinh tiểu học đứng dọc theo hai lề đường với nhiều rác rưởi. Trong tay các em cầm hai lá cờ năm sắc Phật giáo và cờ nước Ấn-độ, miệng hô vang các khẩu hiệu chào mừng các đại biểu của các nước. Một điều ngạc nhiên khác nữa là gần như dân chúng quận Gaya hầu như không quan tâm đến sự kiện trọng đại này. Chỉ có khoảng 1500 người tham dự (kể cả 350 đại biểu Phật giáo từ 25 nước) trong một khuông viên nhiều mẫu! Trong khi đó, năm 2003 vừa qua, lễ Kalachakra (bánh xe thời gian) và lễ cầu nguyện hoà bình do đức Dalai Lama tổ chức trong khuôn viên Bồ-đề Đạo Tràng thu hút gần 200.000 Phật tử trong và ngoài nước Ấn-độ về dự trong suốt 10 ngày liền! Ngài Dalai Lama cũng như Karmapa của Tây Tạng không được mời dự trong lễ chính thức tại Bồ-đề Đạo Tràng !? Điều đó cho thấy chính quyền Ấn giáo của Ấn-độ có thể không muốn các giá trị tâm linh và văn hoá của các thánh địa Phật giáo được nhân rộng thật sự, mà chỉ nhằm đề cao giá trị thương mãi của hành hương, dưới danh nghĩa “du lịch tâm linh.” Tất cả những điều này không thể nào biến Bồ-đề Đạo Tràng thành thánh địa Phật giáo như Vatican và Mecca, và theo một cách nhìn nào đó, đây có thể là chủ đích của những nhà chính trị Ấn giáo.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:21:51 GMT 9
Bodh Gaya Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm N Bodh Gaya Bodh Gaya Bang - Quận thủ phủ Bihar - quận Gaya Tọa độ 24.41° N 84.59° E Diện tích Múi giờ IST (UTC+5:30) Dân số (2001) - Mật độ 30.883 - Bodh Gaya hay Bodhgaya, tiếng Việt là Bồ Đề Đạo Tràng, là một thành phố ở quận Gaya, Bihar, Ấn Độ. Đây là địa điểm nổi tiếng do là nơi đức Phật đã giác ngộ dưới cây bồ đề. Đối với Phật giáo, Bodh Gaya là nơi quan trọng nhất trong cuộc đời của Phật Thích-ca Mâu-ni, còn 3 nơi khác đó là Kushinagar, Lumbini và Sarnath. Vào năm 2002, ngôi đền Mahabodhi (Đại giác ngộ tự) ở Bodh Gaya đã trở thành Di sản thế giới.[1] Mục lục [giấu] 1 Lịch sử 2 Đền Mahabodhi 3 Những nét chính 4 Ghi chú 5 Liên kết ngoài [sửa] Lịch sử Theo truyền thuyết Phật giáo, vào khoảng năm 500 TCN hoàng tử Gautama Siddhartha, khi đó đã là một nhà tu hành đi khất thực, đến bờ sông Falgu ở gần thành phố Gaya. Ở đây, Phật đã ngồi thiền dưới bóng cây bồ đề. Sau 3 ngày và 3 đêm thiền định, Phật đã đạt được giác ngộ và sự thấu hiểu. 7 tuần lễ tiếp theo ở Bodh Gaya, Phật đã tiếp tục thiền định và suy xét trải nghiệm của mình. Sau 7 tuần, Phật đã tới Sarnath, nơi Phật bắt đầu giảng dạy Phật giáo. Các đệ tử của Gautama Siddhartha bắt đầu thăm viếng nơi Phật đã đạt được sự giác ngộ vào ngày rằm trong tháng Vaisakh (tháng 4 - tháng 5), theo lịch Ấn Độ. Theo thời gian, nơi này được gọi là Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), ngày Phật đạt giác ngộ là được gọi là Buddha Purnima (ở Việt Nam gọi là Phật Đản), và cây nơi Phật ngồi thiền gọi là Cây Bồ Đề (Bodhi - nghĩa là Tỉnh thức, Giác ngộ). Lịch sử của Bodh Gaya đã được ghi chép lại trong nhiều tài liệu. Trong đó, quan trọng nhất là tài liệu của các nhà sư Trung Quốc Pháp Hiển (法顯) và Huyền Trang, những người hành hương đến thánh địa này vào các thế kỷ 4 và 7 để lấy kinh. Nơi đây là trái tim của văn hóa Phật giáo trong suốt hàng thế kỷ cho đến khi nó bị Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm vào thế kỷ 13. [sửa] Đền Mahabodhi Bài chính: Đền Mahabodhi Đền Mahabodhi nằm trong quần thể công trình nằm cách Patna 96 km, có tọa độ 24°41′43″N, 84°59′38″E,[2] Sau khi Phật nhập niết bàn, những cành chiết từ cây Bồ Đề đã được gửi đến những địa điểm khác trên cả nước và vào thế kỷ 3 TCN, một cành chiết đã được đem đến Anuradhapura ở Sri Lanka, tại đây nó đã phát triển thành một cây to. Vào cuối thế kỷ 19, một cành chiết của cây này lại được người Anh mang trở về Bodh Gaya và trồng lại chính nơi cây gốc đã từng ở đó. Nào khoảng 250 TCN, hoàng đế Asoka của triều đại Maurya đã dựng một ngôi đền kỷ niệm việc Phật đạt giác ngộ ở Bodh Gaya, nhưng ngôi đền này hiện không còn. Một công trình kiến trúc khác đã được dựng lại trên ngay chính địa điểm đó vào thế kỷ thứ 2 TCN và đã được trùng tu nhiều lần [sửa] Những nét chính Đại giác ngộ tự là một công trình kiến trúc bằng đá với một shikhara ở trung tâm. Tận trong cùng ngôi đền có một bảo tháp kiểu Miến Điện. Phức thể tự viện này đã được trùng tu bởi các tín đồ Phật giáo Miến Điện, do vậy, trong điêu khắc và kiến trúc, nó có nhiều phong cách Miến Điện. Mặt tiền của tháp trung tâm và bốn tháp góc được phủ các hốc đầy những tượng Phật giáo. Hiện nay, tại vùng Bodh Gaya, cùng với rất nhiều chùa của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng có 4 chùa tại đây. Đó là Việt Nam Phật quốc tự của thầy Huyền Diệu, chùa Độ Sanh của một nhà tu hành người Mỹ gốc Việt, chùa Viên Giác của một nhà tu hành người Đức gốc Việt và tịnh xá Kỳ Hoàn của thầy Thích Giác Viên đến từ Vũng Tàu.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:23:23 GMT 9
NHỮNG ĐỔI THAY TRÊN ĐẤT PHẬT 02/04/2006 (TTCN) Tôi đến Bồ Đề Đạo Tràng (Boddhgaya) lần đầu năm 1990, chưa biết có chùa Việt nam trong quần thể chùa chiền Phật giáo các nước. Một năm sau, 1991, tôi trở lại, tình cờ gặp một nhà sư Ân Độ, được ông cho biết ở Bồ Đề Đạo Tràng cũng có chùa Việt Nam. Đó là một tòa nhà ba tầng hơn 20 căn phòng, thiết kế cho một học viện Phật giáo trong tương lai. Tòa nhà bề thế nổi bật lên giữa một khuôn viên khoảng hơn 3,5ha, một vườn cây và những ruộng nước bát ngát. Một nhà sư mang chiếc áo cà sa màu nâu quen thuộc. Quen thì quen nhưng giữa một nơi xa lạ, tôi không dám lên tiếng bằng tiếng Việt. Tôi đoán đấy có thể là một nhà sư vùng Đông Á. Thầy Huyền Diệu khi đó thì đoán tôi là du khách Nhật. Phải qua mấy câu đối đáp tiếng Anh thì người Việt mới nhận ra người Việt. Về lại nơi cây bồ đề Đã 15 năm sau lần gặp ấy. Bây giờ là mông 4 Tết Bính Tuất, tức ngày 1-2-2006, ngồi ôn lại chuyện cũ, thầy Huyền Diệu vẫn nói rằng tôi là người đầu tiên “phát hiện” chùa Việt ở đất Phật. Không đâu thầy ơi, châu Mỹ vẫn tồn tại ở đó, nếu không có ông Colombus thì cũng sẽ có người khác phát hiện. Tôi đùa lại. Quả là sau chuyến gặp thầy ở Việt Nam Phật Quốc Tự năm 1991, tôi có viết bài bút ký Đất Phật ở Ân Độ, in trên báo Giác Ngộ, rồi in ở Văn Nghệ. Bài viết nhận được sự quan tâm rộng rãi của dư luận trong nước, dẫn đến việc rất nhiều đoàn Phật tử hành hương và du khách đến với chùa Việt Nam trong suốt 15 năm qua. Thầy Huyền Diệu là người cầu toàn, dự định chỉ khi nào xây dựng hoàn chỉnh toàn bộ quần thể chùa chiền thì mới thông báo cho mọi người đến chiêm bái. Nếu không bị tôi “phát hiện” ra, thầy chắc rằng thầy vẫn im lặng trong nhiều năm nữa. Thầy Huyền Diệu xa nước từ năm 1969. Sang Pháp du học, đỗ tiến sĩ sử học ở Đại học Sorbonne danh tiếng, thầy lại tìm đường đến đất Phật Ấn Độ, tâm nguyện một ngày sẽ làm cho Phật giáo VN hiện diện tại chốn linh thiêng này. Vườn cây lưu niên năm nào mới cao ngang đầu người, bây giờ đã vươn cao um tùm như rừng. Cây lên cao đến mức che khuất cả ngôi chùa cao ngất, che cả tòa nhà bề thế mấy chục căn phòng. Con kênh và ruộng lúa nước thầy tự tạo nay cũng đã được san lấp, trở thành rừng cây. Nơi ruộng nước tôi từng lội xuống hái rau muống bị đỉa bám chân nay đã mọc lên mấy chục loại cây cỏ đất Việt, hoặc những cây liên quan đến đời Phật. Bước vào đến lãnh địa chùa Việt Nam, lập tức ta được một không gian thanh tịnh yên bình bao bọc. Một thế giới khác hẳn quần thể chùa chiền các nước ở bên ngoài kia. Khu vực chùa chính, chùa Đại Giác Ngộ (Mahaboddhi), nơi có cây bồ đề của Đức Phật, nơi có pho tượng Phật đúng tư thế ngồi hướng về phía đông khi Người giác ngộ, có những dấu tích Người lưu lại bảy tuần đầu tiên sau khi hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng của mình... Đầu tháng hai, trong chùa và cả trong trấn, hàng nghìn người Tây Tạng hành hương theo mùa, sắc áo cà sa làm đỏ rực không gian. Đố ai tìm ra một khoảng không gian rất nhỏ để được tĩnh tọa thiền định một mình. Vài chục ngôi chùa mang kiến trúc độc đáo của vài chục nước đã và đang trở thành khách sạn, thành nhà trọ. Đoàn đoàn lũ lũ du khách Âu Á đang phá tan cảnh thanh bình mà tôi được thụ hưởng ở Bồ Đề Đạo Tràng từ mười mấy năm trước. Không còn là chốn bình yên nữa, du khách đến và ném lại lon nước chai nước, ném lại túi nilông và mọi thứ rác rưởi. Những cái ao và ruộng nước đen ngòm bốc mùi vì rác. Chỉ còn có Việt Nam Phật Quốc Tự là ngôi chùa hiếm hoi giữ được môi trường, hơn thế lại là một cánh rừng um tùm không khí thanh sạch. Vì sao ư? Phải đánh đổi, hoặc là chùa sạch đẹp, hoặc là cho du khách đến thuê ở, chùa có tiền, nhưng bài học của 20 ngôi chùa khác luôn luôn trước mắt. Mừng cho chùa ta, thầy Huyền Diệu có ý thức về không gian Phật giáo thanh bình bất khả xâm phạm. Nhưng ai đã chứng kiến một xứ Phật chỉ hơn mười năm trước còn đơn sơ trong lành, nay ô nhiễm mà không khỏi hoài niệm? Buồn là buồn cho cả một thánh địa, nhưng một khi rút hẳn về trong quần thể chùa Việt Nam, thì ai cũng được thụ hưởng không khí an lành và cảm thấy rõ ràng được lánh hẳn nơi trần tục. Giấc mơ không tưởng đã thành sự thật Xứ Bồ Đề Đạo Tràng bây giờ đã có sân bay - lại thêm một điều mới mẻ so với trước. Từ Hà Nội hoặc Sài Gòn, du khách có thể đi máy bay sang Bangkok, từ đó bay thẳng sang Gaya (cách Bồ Đề Đạo Tràng có 8km) bằng máy bay của Indian Airlines. Nhưng ở Hà Nội, hàng không Thái vẫn nói với khách là không có chuyến bay thẳng sang Gaya, như vậy ta buộc phải bay sang Kolkata, một chặng đi vòng, vừa tốn tiền vừa tốn sức lực và thời gian hơn nhiều. Dành một ngày thăm Bồ Đề Đạo Tràng rồi thầy Huyền Diệu thuê xe đưa chúng tôi đi xuyên qua biển mây mù về phía biên giới với Nepal. Trong bóng đêm thâm u của vùng núi Nepal, nhiệt độ xuống dưới 10oC, không ai không xúc động khi nhìn thấy cổng chùa Việt Nam, nhìn thấy những tượng hình uy nghi của chính điện, của các tòa nhà văn phòng và cư xá trong một dinh cơ lớn. Lúc ban mai ửng hồng, rồi một ngày nắng đẹp, toàn bộ khuôn viên Việt Nam Phật Quốc Tự sáng bừng lên. Nhìn sang bên tả bên hữu, chùa Thiếu Lâm Trung Quốc, chùa Tây Tạng do người tha hương ở Đức sang xây, chùa Hàn Quốc gần đó, chùa Thái Lan, Myanmar, Nhật Bản xa xa... Giữa cộng đồng những ngôi chùa phô phang kiến trúc đặc trưng các dân tộc, chùa Việt Nam vẫn nổi lên tính hài hòa quần thể và bản sắc riêng. Giống như ở chùa Việt Nam bên xứ Bồ Đề Đạo Tràng, chính điện chùa ở Lâm Tì Ni (Lumbini) cũng có ba pho tượng Phật bằng gỗ mít, tượng hình Phật ở hiện tại, quá khứ và vị lai. Ở gian trong có bàn thờ các bậc chân tu qua các thời đại, đối diện với bàn thờ các anh hùng liệt sĩ qua mọi thời đã hi sinh vì Tổ quốc. Từ chính điện ở trên cao nhìn xuống sẽ thấy ngay chính giữa khuôn viên chùa là một cây cầu bắc trên một hồ nước hoa sen hoa súng. Cây cầu này đặc sắc ở chỗ nó uốn lượn mang hình bản đồ VN, nếu bước chân lên đó, ta có thể tìm thấy địa phận tỉnh thành quê hương mình. Cũng từ chính điện nhìn xuống sẽ thấy ở góc trái là ngôi chùa Một Cột bề thế, kích cỡ có lẽ phải gấp đôi chùa Một Cột nguyên bản ở Hà Nội. Gấp đôi, cho nên chùa Một Cột ở đây dáng vẻ uy nghi bề thế. Ta có thể đã đọc cuốn sách của thầy Huyền Diệu viết về việc xây một chiếc cầu VN cho người dân Nepal ở vùng Lâm Tì Ni, từ nay mùa lũ người địa phương qua suối mà không lo bị cuốn trôi như dạo trước. Ta có thể đã biết thầy Huyền Diệu là người hoạt động không mệt mỏi vì môi trường, đã bảo vệ đàn chim hồng hạc trong cả vùng, nhưng phải tận mắt nhìn thấy những con chim hồng hạc trong vườn chùa mới cảm hết những nỗ lực. Con hồng hạc nhỏ có cha mẹ bị rắn cắn ngày ngày cặm cụi kiếm ăn trong lạch nước góc chùa, tối tối nghe tiếng chó sói tru lên quanh chùa thì tự động chui vào chuồng bảo vệ, trông như một tấm màn chống muỗi rộng chừng mười mét vuông. Con hồng hạc lớn thì chó sói cũng phải sợ, mỗi khi thấy bóng thầy Huyền Diệu đi về am cỏ tranh ở góc chùa là hồng hạc đi theo, lảng vảng quanh am cỏ, thậm chí chui vào trong am, tinh nghịch dùng mỏ gỡ kính mắt của nhà sư đang nằm nghỉ trên võng. Là chủ tịch Hội đồng Phật giáo thế giới ở xứ Lâm Tì Ni (di sản văn hóa thế giới của UNESCO), thầy Huyền Diệu dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục ban quản lý toàn xứ dời những hộ dân ra xa quần thể chùa chiền, dời khu chợ và hàng quán cách xa khu chùa 4km. Như vậy Lâm Tì Ni tránh được nguy cơ ô nhiễm môi trường mà xứ Bồ Đề Đạo Tràng đang phải gánh chịu. Phải đi dạo khắp vùng Lâm Tì Ni mới thấy hết những nỗ lực của nhà sư người Việt. Chiều muộn, ta đến thăm quần thể di tích nơi Đức Phật ra đời, thăm hồ nước mà bà Maya Devi, thân mẫu của Phật, đã tắm trước khi sinh, thăm cột đá hoàng đế Ashoka ghi lại rành rành dấu tích Phật đản... Rồi bước chân ra khỏi khu di tích, dạo bước giữa vùng hồ rộng lớn và những rừng cây trải ra xa tít, đấy là lúc cảm nhận sâu sắc cái ý nghĩa thiên đường. Thanh bình nữa, an lạc nữa. Dường như ở nơi tận cùng thế giới, nơi góc khuất của dãy Himalaya, ta được nếm trải giây phút thanh sạch hiếm hoi mà khó nơi nào trên thế gian này có thể cho ta được. Tôi đã viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng cả thảy năm lần. Lâm Tì Ni thì đây mới là lần thứ hai. Năm 1992, toàn bộ vùng Lâm Tì Ni xung quanh di tích Phật ra đời chỉ là một cánh đồng hoang vu, cỏ lau trắng toát trải ra bất tận. Có chỗ đầm lầy phải đi vào bằng thuyền. Tôi đứng giữa ngàn lau, có chút hoài cổ, nơi linh thiêng từng có những thiền viện Phật giáo buổi hoàng kim giờ trắng bạc lau sậy thế này đây. Lúc đó làm sao tưởng tượng ra 14 năm sau mình được đứng giữa một giáo xứ hồi sinh, lồng lộng 20 ngôi chùa cao vút. Cả xứ Lâm Tì Ni, đến cả nhà vua Nepal giờ vẫn nhắc công thầy Huyền Diệu, người đầu tiên đến dựng chùa Việt Nam cho các nước khác theo dấu chân mà đến mở mang tiếp. Không chỉ là giáo xứ, nơi đây bây giờ thật sự là một Liên hiệp quốc Phật tự. Bạt ngàn lau trắng đã phải lùi bước trước nhà sư VN. Người tiên phong đi mở đất ở Lâm Tì Ni, phát quang cánh đồng, rắn hổ mang to như bắp chân bỏ chạy hàng đàn. Hàng đàn sói bỏ chạy vào rừng, đêm đêm mò ra tru lên nhớ vùng đất cũ. Dựng lều bạt đốt lửa xua thú. Đào móng, xây nền. Một ngôi chùa dựng lên. Những ngôi chùa dựng lên. Cả một xứ Lâm Tì Ni được tái thiết. Một phép lạ. Một sự mâu nhiệm. Năm 1994, chia tay thầy ở Bồ Đề Đạo Tràng, chùa ở xứ n khi ấy còn ngổn ngang, chính điện chưa xây được, rừng cây mới cao ngang đầu người, thầy lại bảo đang có kế hoạch xây một chùa nữa ở Nepal. Nhiều người từng bảo thầy là Mr. Utopia (ngài Không Tưởng). Lúc ấy tôi cũng đùa gọi thầy là ngài Không Tưởng. Trời ơi, xây cái chùa xứ Ấn còn chưa xong, thầy đã lo chuyện xa xôi, vươn sang tận Nepal làm gì. 12 năm sau trở lại, cả hai ngôi chùa đều đã thành hình, giấc mơ không tưởng đã thành sự thật. Nhưng tôi vẫn mang tặng thầy bản dịch cuốn sách của Thomas More, nhà văn Anh từ thế kỷ XVI, tựa sách tiếng Anh là Utopia, tiếng Việt là Địa đàng trần gian. Cả hai khái niệm đều đúng với thầy Huyền Diệu và những gì thầy đã làm trên hai thánh địa Phật giáo. Thầy Huyền Diệu mời các nhà văn VN lúc nào thu xếp được thì đến hai nơi này ngồi mà viết. Như một hình thức trại sáng tác mà các nhà văn ta hay tổ chức. Một thứ Writer - in - residence mà các nhà văn nước ngoài hay làm. Tôi đã chứng kiến chùa Bồ Đề Đạo Tràng khi còn là một sinh linh trứng nước, giờ đã lớn cao vạm vỡ trưởng thành. Tôi đã biết Lâm Tì Ni khi chùa VN còn chưa có dấu hiệu ra đời, giờ lại cũng đã kịp bề thế trưởng thành. Nhờ sự màu nhiệm. Thầy Huyền Diệu bảo: Nhờ hồn thiêng sông núi. Ghi chép của HỒ ANH THÁI
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:25:10 GMT 9
NGÔI CHÙA VIỆT NAM ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT PHẬT Buổi lễ khánh thành ngôi Việt Nam Phật Quốc Tự trên đất Ấn, gần Bồ đề Đạo tràng của Tiểu bang Bihar vào ngày 12.01.2003 là niềm vui chung cho tất cả Tăng-Ni Phật Tử nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung vì T.T Thích Huyền Diệu đã tôn vinh niềm tự hào bằng sự dày công vun đấp từ nỗi ước mơ suốt mấy mươi năm để biến ước mơ thành hiện thực nhằm chung sức giữ gìn Thánh địa, giới thiệu Phật giáo và Văn hoá Việt Nam cho các nước cộng đồng trên thế giới biết đến! Ngôi chùa Việt đầu tiên trên đất Phật. Chùa toạ lạc trên một diện tích rộng khoảng một mẩu rưởi đất, giữa cánh đồng bao la, cách Bồ đề đạo tràng khoảng 2 ký-lô-mét. Nhờ có khuôn viên rộng rải và thoáng mát nên các cơ sở vật chất cũng cao to và cách xa nhau, tạo nên một khung cảnh yên tỉnh rất thích hợp cho việc tu tập. Chiều cao chính điện chiều cao 24m, gồm 3 tầng. Tầng trệt là pháp xá có thể dung chứa cho 50 mươi vị khách Tăng mỗi khi trở về chiêm bái Thánh địa. Tầng thứ 2 dùng để trưng bày những di tích, kinh sách, pháp khí trong và ngoài nước. Tầng thứ 3 là tôn thờ Đức Bổn Sư Thích-ca và chư vị Bồ-tát. Phía sau chính điện là hậu Tổ, tôn thờ các vị Thánh đệ tử và các vị Thánh Tăng Việt Nam qua các triều đại. Đối diện với bàn thờ Tổ là bàn tưởng niệm các vị anh linh tổ quốc Việt Nam. Khâu chuẩn bị cho buổi lễ khá qui mô, nên trong những ngày gần lễ khánh thành mà công việc việc vẫn còn rất bận rộn: mài đá và đánh bóng cho khuôn viên chánh điện, che rạp trên trần lầu 1 để làm phòng ăn, mua sắm vật dụng, sửa chữa lại và lắp đặt thêm một số hệ thống cơ sở hạ tần để đưa vào phục vụ cho ngày lễ. Vì T.T Trụ trì chưa có hàng đệ tử xuất gia, nên một mình Thượng Toạ đã “tả xung hữu đột” từ chuyện chăm lo cho nơi ăn chốn ở và phải trực tiếp đi đón rước các phái đoàn về tham dự lễ, nên đường dây diện thoại hàng ngày vốn ít được hoạt động, vậy mà trong những ngày ấy lắm lúc lại trở nên bị nghẻn! Về tham dự lễ trong nước sang, có Hoà Thượng Thanh Dũng từ Hà Nội, Đại đức Minh Thông ở Cần Thơ; chư Tăng ở hải ngoại: Thượng Toạ Minh Tuyền ở Nhật Bản, Thượng Toạ Quảng Ba, Thượng Toạ Quảng Nghiêm, Đại đức Phước Tấn ở Úc châu; chư Tăng-Ni nghiên cứu sinh và sinh viên đang du học tại Ấn về tham dự 46 vị và tổng số chư Phật tử ở Nhật, Úc, Mỹ, Pháp, Đan Mạch, và Tân Tây Lan và Việt Nam về ở tại chùa là 96 vị. Buổi lễ khánh thành diễn ra vào lúc 9h30 sáng ngày 12.01.2003 với sự tham dự đông đảo của các đại diện Phật giáo bạn tại Bồ đề đề đạo tràng: Nhật Bản, Thái Lan, Miến điện, Nepal, Trung Quốc, Tây Tạng, Đài Loan, Hội Phật giáo Bồ đề đạo tràng, Banglades, sikim, Trung Tâm Tu Học Viên Giác và đặc biệt là có Hoà Thượng Kim-chin-do-mun người Triều. Sau lời tuyên bố khai mạc của Thượng Toạ Huyền Diệu, là 3 hồi chuông trống Bát nhã trỗi lên kéo dài để cung đón Hoà Thượng Thanh Dũng, Hoà Thượng Kim-chin-do-mun, HT. Urubandha chủ tịch hội Phật giáo Bồ đề đạo tràng, Trụ Trì chùa Miến Điện để cắm 3 nén nhang lên đỉnh và sau đó TT. Huyền Diệu cùng 3 vị Hoà Thượng tiến lên chính điện để cắt băng khánh thành, theo sau đó là chư Thượng Toạ, Đại đức Tăng-Ni và toàn thể chư Phật Tử cùng vân tập để niêm hương. Kế đến là các nước lần lượt tụng một biến kinh ngắn để cầu nguyện thế giới hoà bình, sau cùng là Phật giáo Việt nam tụng kinh an vị Thánh tượng. Khi tiếng tụng kinh vang lên nhiều vị Phật tử trong và ngoài nước đã sung sướng rơi lệ, vì từ nay ngôi chùa mang tên Việt Nam đã chính thức đóng góp vào sự nghiệp hoằng pháp và gìn giữ Thánh địa Bồ đề đạo tràng, một trong 4 Thánh địa quan trọng nhất của Phật Giáo! Sau buổi lễ tụng kinh cầu nguyện, toàn thể Chư tôn đức Tăng-Ni Phật Tử và khách tham dự trở lại lễ đài phía trước chính điện, Thượng Toạ Huyền Diệu bài tỏ niềm hân hoan và nhấn mạnh rằng: “thành quả khiêm tốn ngày hôm nay là nhờ sự mầu nhiệm của Tam Bảo và hồn thiêng sông núi. Đồng thời là sự lưu tâm của chư tôn đức khắp nơi an ủi động viên, và toàn thể chư Phật tử thường xuyên đóng góp công sức và tịnh tài để ngôi chùa được đẹp như ngày hôm nay mà trước đây khi lần đâu tiên đặt chân đến chiêm bái Thánh địa, chỉ dám ước mơ xây dựng một ngồi chùa làng nho nhỏ, và giờ đây ước mơ của năm xưa đã trở thành hiện thực”. Hoà Thượng Chủ tịch hội Phật giáo tại bồ đề đạo tràng cũng hết lời tán thán công đức của T.T. Trụ Trì đã chịu cực chịu khổ để vun đắp nên một ngôi chùa Việt Nam đồ sộ, như một bông hoa tươi thắm điểm tô thêm cho “vườn hoa” Thánh địa Bồ đề đạo tràng! Đặc biệt là Bà Trang, vị Phật tử ở Hà Nội đại diện cho trong và ngoài nước phát biểu cảm tưởng rất xúc động: “Thầy Huyền Diệu là một con người kỳ diệu dám nghĩ dám làm những chuyện to lớn và hữu ích, mang lại niềm vinh dự lớn lao cho Phật giáo cho dân tộc Việt Nam, chổ nào trong khuôn viên của chùa cũng có hình đất nước và tất cả các vật dụng, Pháp khí đều mang biểu tượng Văn hoá Việt Nam, nhằm giới thiệu cho bạn bè Phật giáo và thế giới! Trước tấm lòng hy sinh và hạnh nguyện cao cả của Thầy, chúng con nguyện hết lòng gia trì và nổ lực tu tập để không phụ lại sự mong đợi của Thầy, đồng thời chúng con sẽ khắc cốt ghi tâm những gì Thầy đã dạy và cố gắng hơn nữa trong vai trò của người Phật Tử Việt Nam để không thua xúc Phật tử trên thế giới…” Lời phát biểu trên đã làm nhiều người trong buổi lễ khánh thành xúc động trước tấm lòng thiết tha yêu mến Phật pháp của Bà! Buổi lễ khánh thành ngôi Việt Nam Phật Quốc Tự, lần đầu tiên trên đất Phật thành công tốt đẹp và đầy niềm hoan hỷ của toàn thể chư Tôn đức Tăng-Ni và đại diện các nước đến tham dự đều nụ một nụ cười hân hoan khi thấy ngôi chùa Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động! Trên đường trở về, chiếc xe Bus chuyển mình nhanh dần trong làn sương lam giá buốc, xa xa mái chùa Việt Nam vẫn còn ẩn hiện màu ngói mới giữa những táng cây xanh biếc của vùng đất thiêng; màu đỏ cam của ngói tạo thêm cho Thánh địa một gam màu tươi sáng, đồng thời như một chấm son cho dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ thứ 21! Delhi, 14.01.2003 Lệ Thọ
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:26:38 GMT 9
NGƯỜI DỰNG CHÙA TRÊN ĐẤT PHẬT Một mình lặn lội tới Bodhgaya (Ấn Độ) sau khi đỗ đạt và giành được học vị giáo sư tiến sĩ thần học ở Paris cách đây hơn 30 năm, Hoà thượng Huyền Diệu đã làm tất cả để biến ước nguyện xây dựng một ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Phật thành hiện thực. Ngôi chùa Việt đầu tiên trên đất Phật. Tại Bodhgaya - nơi Hoàng tử Tất Đạt Đa tu niệm và trở thành đức Phật cùng với các chùa của hầu khắp các quốc gia đạo Phật trên thế giới, có một ngôi chùa nhỏ mang tên "Việt Nam Phật Quốc Tự" (VNPQT). Ngoài cổng chùa có đắp nổi một tấm bản đồ VN. Trong khuôn viên rộng khoảng 3 hécta của VNPQT, du khách có thể thả bộ dọc theo toà chánh điện với hai mái cong kiêu hãnh vươn cao, tới chiêm ngưỡng hai công trình tháp Vạn Phật bảy tầng và Quan Âm đài phỏng theo hình dáng chùa Một Cột đang trong thời kỳ xây dựng. "Quan Âm đài sẽ được xây dựng giống như chùa Một Cột ở Hà Nội. Sẽ có cổng tam quan, có những tảng đá lớn đưa về làm non bộ, chùa cũng sẽ thuê thợ đục trên những tảng đá đó một số bài thơ cổ thời Lý, Trần. Sau đó, chúng tôi sẽ tiếp tục xây dựng gác chuông, gác trống vì hiện nay nhà chùa đã có Đại Hồng Chung nặng 2,5 tấn, đường kính 1,5 mét, cao 3 mét và Trống Sấm đường kính 2 mét, dài 1,5 mét. Tất cả đều được làm từ trong nước mang sang" - Hoà thượng Huyền Diệu nói. Quá lên một chút nữa là những mảnh ruộng nhỏ trồng lúa, cung cấp gạo ăn quanh năm cho nhà chùa và du khách. Những luống rau mát mắt và vườn cây ăn trái mùa nào thức ấy. Chỉ riêng xoài đã có 30 loại khác nhau, ổi xá lị cũng có đến 12 loại. Thầy Huyền Diệu còn sưu tầm, gây giống tạo nên mảnh vườn kiểng gồm toàn những giống hoa và cây đặc trưng được mang từ trong nước sang: Thiên lý, đào, tre, trúc, mai chiếu thuỷ, lan, sứ, tùng, trắc bách diệp... Hoà thượng Huyền Diệu quê ở Long Thành (Đồng Nai), quy y từ nhỏ, rồi hành hương và định cư ở Ấn Độ. Để dựng được chùa, thầy đã ròng rã tích cóp, dành dụm suốt 20 năm trời. Từ mua đất đến vật liệu xây dựng. Đến giữa năm 1992 VNPQT đã hình thành và trở nên một điểm tham quan không thể thiếu trong hành trình của bất kỳ du khách VN nào tới Ấn Độ. Đến thăm chùa, các du khách VN sẽ được thầy Huyền Diệu mời lưu lại 3 ngày miễn phí cơm chay, vãn cảnh đất Phật và cùng thầy đàm đạo về Phật học. Thanh Bình (Theo Lao Động số 175, ra ngày 7.7.2002)
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:27:22 GMT 9
HỒN VIỆT CỦA NGÔI CHÙA VIỆT NAM TRÊN ĐẤT PHẬT Nguyễn Văn Dũng (VietNamNet) - Thật ra có đến 2 ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật, một ở Bồ đề Đạo tràng và một ở Lâm Tì Ni. Nói hai nhưng chỉ một, vì cả hai cùng có tên chùa “Việt Nam Phật Quốc Tự”, cùng người sáng lập và trụ trì - Thượng tọa Thích Huyền Diệu - và cũng khác với các ngôi chùa khác. Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Gần 50 năm hành đạo, đức Phật từng vân du qua 45 địa điểm thuộc bang Bihar và Utta Pradesh, trong đó 4 địa điểm thiêng liêng bậc nhất được gọi là “Tứ thánh địa”, gồm: Bồ đề Đạo tràng, nơi đức Phật giác ngộ. Lâm Tì Ni, nơi đức Phật đản sinh. Vườn Lộc Uyển, nơi đức Phật giảng pháp lần đầu. Và Câu Thi Na, nơi Ngài nhập niết bàn. Ngày nay, cả “Tứ thánh địa” này đều được xếp vào hàng di sản văn hóa thế giới. Đang có kế hoạch xây dựng Bồ đề Đạo tràng thành Trung tâm Phật giáo Thế giới, Trung tâm hành hương của các tín đồ đạo Phật, cũng như Vatican đối với Thiên chúa giáo hay Mecca đối với đạo Hồi. Quanh các Thánh địa này có rất nhiều chùa của các quốc gia Phật giáo, trong đó có ngôi chùa Việt Nam. Có 19 ngôi chùa của các nước bạn quanh Bồ đề Đạo tràng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan... đều do ngân sách nhà nước cung cấp xây dựng, nhưng Việt Nam Phật Quốc Tự chỉ do một mình Thầy Huyền Diệu cùng với sự trợ giúp của các đệ tử và tăng ni Phật tử mà thành. Chùa của các nước bạn tập trung một khu, vươn ra mặt tiền, ồn ào, chộn rộn, chùa Việt Nam cách xa “xóm chùa” hơn 1km, ẩn mình trong một không gian yên tĩnh chứa chan thiền vị. Chùa của các chùa bạn to và rộng, chùa Việt Nam nhỏ nhắn nhưng cao hơn. Vườn chùa của chùa bạn không quá 1.000m2, vườn chùa Việt Nam đến 33.000m2. Không thể nhầm lẫn chùa Việt Nam với bất cứ chùa nào khác bởi mái ngói cong vút hình chiếc thuyền bát nhã, trông như những cánh sen vươn lên từ tục lụy bùn đen, hướng về cái thiện, hướng về chánh pháp. Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bồ đề Đạo tràng. Chùa nước bạn mang bản sắc của Phật giáo nước họ, chùa Việt Nam còn mang cả phong cách, tính cách, khát vọng của đất nước Việt Nam. Thầy Huyền Diệu nói, “Dân tộc mình có lịch sử 4.000 năm, có quá trình phát triển Phật giáo lâu đời còn hơn cả Trung Quốc và Nhật Bản. Vậy tại sao không là mình? Tại sao phải giống người ta. Dân mình bao lâu khổ vì theo ngoại bang. Đã đến lúc mình phải vươn vai đứng dậy cho bằng người ta chứ”. Một chi tiết biểu hiện khía cạnh này là sau hậu điện, đối diện với bàn thờ Tổ còn có bàn thờ anh linh Tổ quốc, hồn thiêng sông núi. Những ai có công với đất nước với nhân dân đều được thầy vọng thờ ở đây. Nhiều vị cán bộ sang công tác Ấn Độ, đến thăm chùa, đứng bên bàn thờ Tổ quốc đã không cầm được nước mắt. Tôi hiểu được chiều sâu kín của những giọt nước mắt đó... Tôi băn khoăn không hiểu sao chùa không lấy tên mang tính chùa như Linh Sơn tự, Huyền Không tự... hay Huyền Diệu tự chẳng hạn, mà lại là Việt Nam Phật Quốc Tự. Hóa ra là thế, Phật giáo Việt Nam mang bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, tồn tại trong lòng dân tộc Việt Nam, có trách nhiệm tô bồi cho nền văn hóa Việt Nam; đạo pháp và dân tộc, dân tộc và đạo pháp, không làm gì có thứ đạo pháp chung chung bên ngoài tình tự dân tộc. Hiểu được điều đó không khó nhưng minh định rõ ràng điều đó mới là chẳng dễ chút nào. Khắp nơi trong chùa, từ cổng trước, cổng sau, chánh điện, nhà tăng, đi đâu cũng gặp hình tượng Việt Nam với tấm bản đồ nho nhỏ, thanh thanh, màu nâu đậm khắc nổi lên tường. Giữa một nơi xa lạ, chợt thấp thoáng sau ngàn cây mái chùa cong cong, thanh thoát, cùng với tấm bản đồ Việt Nam. Từ sâu trong trái tim bỗng dậy lên tình yêu tha thiết về quê hương đất nước mình. Đó là chủ tâm của thầy. Cũng vì chuyện này mà thầy từng gặp khó khăn không ít. Mấy Phật tử nước ngoài điện về hỏi thầy: “Nghe nói xây chùa xong thầy treo cờ đỏ sao vàng và ảnh ông Hồ Chí Minh khắp nơi phải không?”. Thầy hỏi, “Ai nói vậy?”. “Có người nói”. “Thế thì họ nói đúng”. Điện thoại cúp, và cúp luôn nguồn hỗ trợ cần thiết. Tôi hỏi thầy, “Sao thầy không giải thích ngọn nguồn cho người ta hiểu?”. Thầy nói, “Hãy coi sự hàm oan như một lời chúc tụng”. Hẳn phải có đạo lực ghê gớm mới giữ được cái tâm bình thản đến vậy. Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lâm Tì Ni. Có đến đâu làm đến đó cùng với những khó khăn thuộc loại ấy đã tạo nên một nét khác biệt giữa chùa Việt Nam với các chùa khác: tiến độ thi công chậm. Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bồ đề Đạo tràng chẳng hạn, khởi công từ tháng 5 năm 1987, mãi đầu năm 2003 mới khánh thành. Còn ở Lâm Tì Ni, là ngôi chùa xây dựng đầu tiên từ năm 1993, cho đến nay vẫn chưa hoàn thành. Trong lúc 17 ngôi chùa các nước bạn mới khởi công sau này mà đã đâu vào đấy. Như chùa Trung Quốc, nhà nước bỏ ra 4 triệu USD và chỉ hoàn thành trong vòng một năm theo hình mẫu của Thiếu Lâm tự bên bổn quốc. Hoặc chùa Đại Hàn, với kinh phí lên tới 20 triệu USD cũng sắp sửa hoàn thành. Nhìn những công trình lỡ dở phơi mình ngoài mưa nắng chờ đợi những tấm lòng, tôi hết sức ái ngại. Nhưng lòng riêng vẫn thích thà vậy còn hơn chạy vạy, xin xỏ, đổi chác - nghe đâu trên đường vận động quốc tế đến xây dựng chùa trong vùng Thánh địa Lâm Tì Ni, một nước bạn đề nghị giúp thầy 3 triệu USD để xây chùa. Thầy từ chối. Nhất thời những người cùng đi có ý trách thầy, nhưng rồi khi hiểu ra họ đã hoan hỉ cám ơn thầy. Hoặc, một Phật tử ở Mỹ hứa tặng thầy 2 triệu USD chỉ với một điều kiện... Thời gian luôn là thước đo chính xác lòng chí thành và sự kiên định. Cứ thế, cho đến khi hoàn thành, mỗi người có thể tự hào vì công trình nghệ thuật và tôn giáo đó là kết quả cả một quá trình chắt chiu từ những tấm lòng từ ái. Ở Bồ đề Đạo tràng, do Việt Nam Phật Quốc tự xây theo “thế đất” nên chùa mang dáng vẻ độc đáo rất riêng. Ẩn mình trong ngàn cây, các công trình trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Qua khỏi cổng tam quan khoảng 100m, phía bên phải uy nghi một tòa chánh điện 3 tầng, cao 24m. Tầng một là pháp xá, đủ cho 30 khách tăng. Tầng hai trưng bày kinh sách, pháp khí. Tầng ba thờ Tam thế Phật cùng chư vị Bồ tát. Phía hậu điện có bàn thờ Tổ và các vị Thánh Tăng Việt Nam. Đối diện bàn thờ Tổ là bàn thờ anh linh Tổ quốc Việt Nam. Bên trái chánh điện là tháp Vạn Phật, bán kính 12m, 7 tầng, thờ Xá Lợi Phật và 10.000 vị Phật. Tầng hầm thờ chư hương linh quá vãng. Bên phải chánh điện là đài Quan âm, cấu trúc giống như chùa Một Cột, nhằm giới thiệu nét văn hóa độc đáo của Phật giáo Việt Nam cho các nước bạn. Sau khi hoàn tất hai công trình này chùa sẽ tiếp tục xây dựng gác chuông, gác trống. Hiện chùa đã có đại hồng chung nặng 2 tấn rưỡi, đường kính 1,5m, cao 3m. Và Trống sấm đường kính 2m, dài 1,5m. Cả hai đều được làm từ Việt Nam và mang đậm nét đặc thù văn hóa Việt Nam. Ở cổng tam quan, hai cánh cửa lớn chỉ mở trong những dịp đặc biệt, ngày thường mọi người vào ra thông qua cánh cửa rộng không quá 50cm, cao không quá 1,2m. Đây là điều tôi chưa hề thấy ở các chùa bên quê nhà, tôi thắc mắc, thầy nói: “Nó thay cho một lời nhắc nhở, hãy bỏ “cái ngã” của mình”. Thật là minh triết. Ai cũng biết chính cái ngã dìm ta vào chỗ tham sân si, trần ai, khổ lụy, nhưng làm sao khắc chế nó đây. Với sắc đẹp, tiền tài, địa vị, danh vọng mà khó thế thì với cái ngã sẽ còn khó biết chừng nào. Từ cổng tam quan trở vào, con đường lát đá thiên nhiên quanh co, uốn lượn dưới các tán cây. Cách chánh điện khoảng 300m, sâu bên trong là 2 dãy Pháp xá. Dãy dọc, dài 47m, 3 tầng, 21 phòng, mỗi phòng có thể ở được từ 3 đến 6 người. Dãy ngang, dài 49m, 13 phòng, trong đó có 2 phòng ăn. Dãy này sẽ được tiếp tục xây lên 2 tầng nữa. Năm 1969, lần đầu tiên thầy Huyền Diệu đến chiêm bái thánh địa Bồ đề Đạo tràng, nơi đã trở thành di sản văn hóa và tâm linh vô giá không chỉ của Phật tử mà còn của nhân loại. Thấy nhiều nước Phật giáo trên thế giới xây chùa, dựng tháp quanh Thánh địa để gìn giữ và phát huy di sản văn hóa và tâm linh vô giá ấy, thầy phát nguyện cũng sẽ góp phần với các nước bạn xây dựng một ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật. Qua đó, còn để giới thiệu với nhân loại nền văn hóa Việt Nam, truyền thống văn hóa Phật giáo độc đáo của Việt nam. Và chùa cũng là nơi để quý chư Tôn, Tăng, Ni, Phật tử khắp nơi về chiêm bái Thánh tích có chỗ nghỉ ngơi trang nghiêm, thanh tịnh, tăng trưởng Bồ đề tâm. Do vậy mà ngoài việc đầu tư cho các công trình chính, thầy còn coi trọng trang bị đầy đủ tiện nghi cho pháp xá. Tôi có duyên may được ở lại chùa hai ngày hai đêm. Đó là một trong những kỷ niệm ấm áp không thể nào quên. Bữa cơm chùa chỉ là rau trái trong vườn qua bàn tay chế biến của mấy chị trong đoàn mà sao sang trọng và ngọt ngào đến thế. Tôi sửng sốt về nhận định chân chất của thầy: “Thực phẩm tinh khiết do tự tay mình làm ra, người nấu nấu với một cái tâm an lạc, người ăn ăn với một cái tâm an lạc, thì đó là một bữa ăn tuyệt vời”. Hèn chi, có người suốt đời chỉ ăn toàn cao lương mỹ vị mà chẳng bao giờ biết được vị ngon ngọt là gì. Ấn tượng sâu đậm nhất về ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật là cảnh chùa. Nó làm tôi liên tưởng đến những ngôi chùa trên thành phố Huế thơ mộng của tôi. Mà hình như chỉ Huế thôi. Ngày nay, nhất là ở các thành phố lớn, vườn chùa bị thu nhỏ trong một không gian bé nhỏ giữa bốn bề nhà cửa, đường sá, chộn rộn đủ thứ tạp âm. Chùa ở Huế hầu hết nằm bên ngoài thành phố, ẩn mình trong một vườn cây bốn mùa xanh lá. Vườn chùa mênh mông bát ngát, thường khi rộng đến hai, ba, bốn mẫu, có chùa lên đến 30 mẫu. Mỗi lần “lên chùa” là mỗi lần như lạc vào một cảnh giới khác, nhẹ nhàng, thanh tịnh, chứa chan thiền vị. Dọc theo những con đường nho nhỏ, xinh xinh, quanh co uốn lượn trong khuôn viên chùa có nhiều những loại cây ăn quả vùng nhiệt đới quen thuộc như vải, măng cụt, mít, táo, cam, bưởi, ổi xá lị (có đến 12 loại), xoài (30 loại), trong đó có giống xoài loại ngon nhất thế giới - Thầy đã có kế hoạch tổ chức Đại hội xoài quốc tế vào năm 2005, và thầy nói tỉnh khô, “sẽ đem những giống xoài ngon nhất thế giới về trồng trên đất nước mình”. Vườn chùa là một bộ sưu tập công phu những loài cây liên quan đến cuộc đời đức Phật. Trong số những cây ấy, có nhiều cây là vị thuốc quý, như cây Moringo Lim (cây cứu đời) có tác dụng lọc nước. Cây Tulsi trị run tay, ung thư máu. Cây Hathi, trị cảm cúm, cấp cứu bất tỉnh. Cây Sheshan trị ung thư răng... Thầy lại thao thức, “Làm sao đem mấy cây thuốc này về Việt Nam mình...”. Thăm “Tòa lâu đài” của thầy - đó là túp lều tranh trong một góc vườn chùa cách không xa dãy Pháp xá ba tầng, 108 phòng, đầy đủ tiện nghi dành cho khách thập phương, tôi chỉ thấy bức ảnh phóng lớn mấy đôi hồng hạc quấn quýt bên chân thầy ngồi đọc sách. Hôm làm thủ tục vào Nepal, tôi lại thấy ở phòng hải quan người ta trân trọng treo mấy tấm ảnh ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc tự và ảnh thầy Huyền Diệu thân mật tiếp mấy cô chú hồng hạc mỹ miều trong túp lều tranh của mình. Các nhà khoa học sửng sốt bởi bấy lâu họ ghi nhận loài hồng hạc đã hoàn toàn tuyệt chủng, thế mà lại kéo nhau về chỗ thầy đến 15 đôi. Nhiều chuyên gia môi trường và nhiều đoàn du lịch trên thế giới đổ về Lâm Tì Ni vừa để chiêm bái thánh tích, vừa để xem chim hồng hạc. Nhưng không phải ai cũng may mắn. Thầy nói, “Có phước mới gặp thánh nhân, có duyên mới gặp hồng hạc”. Tôi cứ băn khoăn không biết mình có duyên không! Có bao điều bí ẩn về thầy mà tôi không dám mong hiểu hết. Tôi hỏi Dũng - môt thanh niên Hà Nội sang giúp thầy làm chùa: “Trong cuộc sống, thầy đang ao ước điều gì nhất?”. Sau một phút trầm ngâm, Dũng nói, “Thầy, mong đất nước Việt Nam hùng cường, mong xây cho xong ngôi chùa, mong sớm tìm được vị trụ trì có tài đức, và sau đó lên núi tuyết ẩn tu”. Khi phát nguyện xây chùa, thầy Huyền Diệu chỉ có vỏn vẹn 60USD. Thế rồi từng ngày từng tháng, Thầy đã đón nhận từ những tấm lòng từ ái sự trợ giúp tích cực để làm nên công trình mà những ai có duyên đến thăm không thể không tự hào. Tôi chia tay thầy nhưng không nói được điều gì để bày tỏ lòng mình. Mấy dòng này xin được thay cho lời hối tiếc, và tấm lòng cầu mong thầy sớm đạt được ước nguyện: hoàn thành mỹ mãn ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật. Nguyễn Văn Dũng (Huế, 7/3/2004)
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:29:27 GMT 9
NGƯỜI QUÉT CHÙA kiêm Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới Võ Tiến 07:59 15/07/2005 (GMT+7) (VietNamNet) - Thượng tọa Thích Huyền Diệu giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới, song lại thích được gọi là người làm vườn kiêm quét chùa hơn... Tôi thích được gọi là "Người làm vườn..." Thượng tọa Thích Huyền Diệu mới về nước hồi đầu tuần và chỉ vài ngày sau sẽ lại lên máy bay trở sang Nepal. Người ta Không biết ông về nước với tư cách nào, vì ông là người đang nắm giữ khá nhiều chức vị. Ông là người Việt Nam duy nhất cho tới nay giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới nhưng ông lại bảo: "Người ta tin tưởng bầu tôi làm chứ thực ra mệt lắm. Cái chức chỉ để làm việc, chết có mang theo mình đâu?". Ông tiết lộ, "chức danh" mình thích nhất là: người làm vườn kiêm quét chùa tại Việt Nam phật quốc tự ở Lumbini (Lâm Tỳ Ni), Nepal. Thượng toạ Thích Huyền Diệu và chú chim hồng hạc Trong ai cũng có một mảnh vườn. Nếu không chăm sóc thì cỏ cú sẽ lên, ngược lại trồng hoa trái thì rất thích. Tôi thích làm vườn là vậy. Còn chùa chiền là nơi thờ tự, trong sáng, thanh tịnh. Được làm người quét chùa là niềm hạnh phúc. Tôi mong mình được sống trọn với danh xưng này. Một chức danh khác của ông cũng thú vị không kém là Chủ tịch hội canh giữ chim tại Nepal! Chim ở đây là hồng hạc, loài chim quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên toàn thế giới. Ông am hiểu đời sống hồng hạc như một nhà động vật học dù rằng công việc canh giữ chim đã lấy của ông rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. Xây chùa, cất cầu, làm bệnh viện...tại nơi đất Phật Chuyện ông nắm giữ nhiều chức ít người biết vì ông không muốn nói ra, còn việc ông xây hai ngôi chùa Việt Nam ở Ấn Độ và Nepal thì được cả thế giới biết đến. Chính từ việc xây chùa, Thượng tọa Thích Huyền Diệu mới có thêm những chức danh kể trên. Việt Nam phật quốc tự những ngày đầu xây dựng Chuyến về Việt Nam lần này của ông cũng có một phần việc mời khách trong nước sang dự lễ khánh thành Việt Nam phật quốc tự tại đất phật vào hai ngày 16 - 17/12/2005. Là người đầu tiên có ý tưởng xây chùa nơi Đức Phật sinh ra, nhưng ngôi chùa Việt nơi ông thích làm người quét dọn rốt cuộc lại khánh thành sau nhiều ngôi chùa các nước khác vì thiếu kinh phí (mất hơn 10 năm xây dựng!). Song chỉ có Thượng tọa Thích Huyền Diệu mới cất được một bệnh viện và nối một cây cầu cứu giúp cho biết bao sinh mạng người nơi đất phật. Tiền ông đi dạy học ở nhiều nước trên thế giới chẳng nhiều nhưng uy tín và tấm lòng của ông đã thuyết phục được nhiều nhà hảo tâm đóng góp. Đến mức xây xong cây cầu, tiền dư lên đến gần 100.000 USD. Dĩ nhiên ông trả lại, nhưng lạm luôn tiền túi vì quá nhiều địa chỉ ở khắp các nước. Chùa Việt tại "Liên hiệp quốc Phật tự" Gần cả đời Thượng tọa Thích Huyền Diệu sinh sống, học tập và hành đạo ở nước ngoài. Nhưng làm điều gì đó ý nghĩa cho đất nước là một niềm đau đáu trong ông. Một mình giữa trảng cỏ mênh mông Ông đã sống một mình trong căn lều tạm bợ giữa trảng cỏ hoang vu miền đất phật đến hơn nửa năm trời để lo việc xây chùa Việt. Từ chỗ dưới đất chỉ có rắn rít bò lổn nhổn, trên trời hồng hạc bay lượn, nay Lâm Tỳ Ni với sự khai mở của ông đã thành một "Liên hiệp quốc phật tự" với 19 công trình chùa chiền của nhiều nước đã và đang được xây dựng. Việt Nam phật quốc tự là chỗ trú của người Việt khắp thế giới khi hành hương về đất phật, là nơi nương tựa lúc khó khăn của nhiều du học sinh. Cả những cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam được nhà chùa mời dùng cơm chay đã rất cảm kích. Thậm chí có người Việt mang trong lòng thù hận đã được cởi bỏ khi đến chùa và hứa với ông sẽ về nước đầu tư làm ăn sinh sống. Người làm vườn kiêm quét cái chùa ấy cũng ở trên cao, làm trên cao và kinh kệ trên cao! Cơ duyên với Hồng hạc Huyền Diệu Việt Nam Phật Quốc Tự Thầy Huyền Diệu tình cờ gặp đôi hạc ở Lâm Tỳ Ni Khi mới đến Lâm Tỳ Ni vào năm 1993, tôi nhận thấy nơi này rất ít có chim chóc. Ðến năm thứ nhì, một buổi sáng vừa từ trong lều bạt bước ra, tôi sửng sốt khi nhìn thấy hai con chim cao lớn lạ thường đang đứng ngay trước lều. Tôi cao 1 mét 68 thế mà hai con chim này lại đứng cao hơn cả tôi. Chúng có bộ lông màu xám nhạt điểm khuyết một vòng màu đỏ quanh cổ trông yểu điệu như cô thiếu nữ mang sợi dây chuyền xinh xinh làm dáng. Cảm giác đầu tiên của tôi là sự khiếp sợ và tự hỏi không biết đây có phải là ma quỷ hiện hình để dọa mình hay chăng? Tôi vội vã lui vào lều rồi đứng bên trong nhìn ra. Tôi từng đi du lịch nhiều nơi trên thế giới, đọc qua nhiều sách vở, gặp gỡ nhiều loại chim quý hiếm, nhưng quả là chưa bao giờ gặp loài chim nào cao lớn và đẹp đẽ dường ấy. Tôi nhớ đến chuyện kể về những con đại bàng khổng lồ chuyên ăn thịt người, nhưng đó chỉ là trong truyền thuyết. Quan sát kỹ hai con chim này, tôi an lòng nhận thấy chúng có vẻ hiền lành, ánh mắt nhìn tôi ra chiều thân thiện. Lát sau chúng bay đi, con trước con sau nhịp nhàng vỗ cánh như lướt trên bầu trời với dáng vẻ cao quý đẹp đẽ không thể tả. Tôi bèn vào thư viện tra tự điển và khám phá đây là loài chim Hồng hạc, tên khoa học là Sarus Crane, thuộc giống chim cao nhất thế giới và có đặc tính là sống riêng rẽ thành từng cặp. Quả là một hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc và biểu tượng của sự hòa hợp trong cuộc sống. Tôi bèn liên hệ với các tổ chức bảo vệ môi trường thế giới và được họ cho biết đây là loại chim cực kỳ quý hiếm đang trên đà tuyệt chủng. Thế là kể từ đó trong bao nhiêu bộn bề công việc tôi còn cáng đáng thêm một nghề mới nữa là canh giữ chim. Tôi bỏ nhiều thì giờ theo dõi chúng. Loài chim này chuyên sống có đôi khắng khít giống như con người, khi di chuyển chim trống bay trước còn chim mái bay sau. Quan sát chúng lâu ngày tôi dễ dàng phân biệt con nào trống con nào mái. Khác với loài người thông thường phụ nữ xinh đẹp hơn đàn ông, ngược lại con hạc trống - cũng giống như loài gà hay loài công - trông lại sặc sỡ với dáng dấp oai vệ hơn hẳn con mái, đặc biệt lông chim hạc trống mượt mà hơn và vòng đỏ điểm xuyết ở cổ cũng lớn hơn. Loài hạc này chuyên sống nơi ẩm ướt và làm tổ tại vùng xăm xắp nước. Ðến lúc con mái nằm ổ thì con trống đi nhặt từng cọng rơm rạ đem về đặt phía dưới chỗ nằm của vợ cho được khô ráo. Ðặc biệt chim trống rất kỹ tính, lựa chọn cẩn thận từng cọng rơm và dùng mỏ lắc cọng rơm qua lại cho sâu bọ hay rác rến rơi ra bằng hết mới sử dụng. Chim hạc đẻ mỗi lần chỉ từ một đến hai trứng mà thôi. Khi trứng đã nở thì cả chim bố lẫn chim mẹ cùng huấn luyện con. Cách thức chúng dạy con cũng không khác gì người ta. Khi tập cho con đi, hạc cha đứng một bên trông chừng còn hạc mẹ hướng dẫn con bước từng đoạn ngắn rồi quay trở lại. Ngày hôm sau chim mẹ dẫn con đi xa hơn và cứ thế mỗi ngày tiến bộ thêm một chút. Rồi chim con bắt đầu được học bay. Niềm vui lớn nhất của thầy trò tôi chính là giây phút chứng kiến cảnh chim con lần đầu tiên tung mình lên bầu trời, thật là một cảnh tượng cảm động và đẹp đẽ xiết bao. Loài chim này còn có cách tập bơi cho con rất độc đáo. Con mái đứng trên bờ canh chừng còn con trống lội xuống nước làm mẫu để các chim con bắt chước. Khi chim con đã lớn hơn một chút thì hạc cha giữ một con và hạc mẹ giữ một con. Mỗi cặp hạc có một vùng lãnh địa riêng. Lý thú nhất là tôi theo dõi được một màn đánh ghen của chúng. Một bữa nọ bỗng nhiên tôi nhìn thấy hai con hạc đánh nhau dữ dội, cảnh tượng trông cũng giống như gà đá nhau. Gần đó có một con hạc đứng cách một khoảng chứng kiến. Tôi có phần ngạc nhiên không hiểu con thứ ba từ đâu xuất hiện vì tôi biết rõ vùng phía Bắc đó chỉ có hai con. Quan sát kỹ qua ống dòm thì tôi nhận ra hai con đang đánh nhau đều là hạc mái. Sau một hồi chiến đấu bất phân thắng bại con thứ ba bỏ đi. Tôi hỏi thăm người dân quanh vùng thì họ cho biết từ mấy tháng nay có một con hạc mái đến sống lẻ loi ở vùng phía Nam. Tôi đoán rằng có lẽ đó chính là nhân vật thứ ba trong màn kịch hôm trước và chú ý theo dõi. Quả nhiên hai hôm sau con mái thứ ba bất thần xuất hiện nơi tổ ấm của vợ chồng hạc ở phía Bắc trong khi hạc vợ đi kiếm mồi. Thế là chị mái lẻ loi thoải mái vui vẻ với anh chồng. Không ngờ cô vợ trở về thình lình và bắt gặp. Hai bên xô xát nhau dữ dội khiến anh chàng trống đa tình không dám can thiệp mà chỉ chạy lăng xăng phía ngoài kêu la như cầu cứu. Tuy nhiên đó chỉ là trường hợp ngoại lệ. Thông thường các cặp vợ chồng hạc rất chung thủy với nhau. Nếu một trong hai con chết đi thì con còn lại than vãn thảm não suốt cả tuần lễ. Khi bị tấn công, chim trống kêu lên rất to rồi dùng mỏ mổ lia lịa như muốn ăn tươi nuốt sống đối thủ đồng thời dang rộng đôi cánh nhào thẳng vào kẻ thù. Trong khi đó chim mái đứng thủ thế che chở cho chim con. Cả đối thủ đáng gờm nhất là chó sói cũng phải ngán sợ khi bị chim trống tấn công. Tuy vậy kẻ thù nguy hiểm và khó tiêu diệt nhất của loài chim này chính là con người. Từ khi chim hạc xuất hiện thì chùa chúng tôi trở thành nơi thu hút rất đông khách đến tham quan. Rồi không biết xuất phát từ đâu mà dân địa phương đồn với nhau rằng ai ăn được trứng chim sẽ sống đến 500 tuổi, còn nếu ăn thịt chim thì thọ được 700 năm. Thế là sự sống của những sinh vật đẹp đẽ và hiền lành này bị con người đe dọa. Một số người ăn cắp trứng và tìm cách săn lén chim. Từ đó thầy trò tôi lao đao khốn khổ trong việc bảo vệ lũ chim. Chúng tôi chỉ có mười mấy người phải lo đối phó với hàng trăm kẻ ngày đêm rình rập. Hễ mỗi khi có một con chim đẻ trứng là chúng tôi bắt đầu ngay một kế hoạch bảo vệ chặt chẽ suốt ngày đêm, vừa vất vả lại vừa hết sức tốn kém. Thế mà chỉ một chút sơ sẩy hay người bảo vệ vừa thiếp ngủ là lập tức có kẻ xuất hiện trộm trứng chim. Mỗi lần như vậy thật không khác gì xảy ra một vụ bắt cóc. Chúng tôi hợp tác với cảnh sát truy lùng gắt gao khắp nơi, nhưng làm sao có thể tìm ra được khi chúng đã nằm an toàn trong bao tử của những kẻ cắp. Ðôi khi chúng tôi tìm ra được những vỏ trứng được chôn giấu dưới đất và đành thúc thủ không sao biết được thủ phạm. Rồi sau đó lại có phong trào trẻ em rủ nhau đi bắn chim. Tôi lao tâm khổ trí bàn bạc với cảnh sát địa phương tìm cách ngăn chặn nhưng không đạt kết quả. Cuối cùng tôi phải kiên trì áp dụng biện pháp giáo dục bằng cách tổ chức chiếu phim, triển lãm ảnh, giải thích, thuyết phục đồng thời tổ chức những cuộc thi hội họa về chim chóc để nhân dịp đó dạy dỗ cho bọn trẻ lòng yêu thiên nhiên, tôn trọng sự sống ngay cả của thú vật. Nhờ vậy tệ nạn săn bắn chim giảm hẳn. Hiện nay số chim hạc tại Lâm Tỳ Ni đã lên đến khoảng 30 con. Chúng sống rải rác quanh vùng, mỗi cặp có một lãnh địa hoàn toàn riêng tư mà những cặp khác không được bén mảng tới gần hay xâm phạm. Ðôi khi cả hai vợ chồng hạc bị rắn cắn chết bỏ lại chim con bơ vơ côi cút thì tôi đem về nuôi. Khi chim con lớn lên tôi cũng dạy cho biết đi, biết bay y hệt cách thức chim hạc dạy con như tôi đã từng chứng kiến. Những anh em trong chùa và ngay cả dân địa phương nhìn cảnh tôi vừa chạy lúp xúp phía trước vừa quạt quạt hai cánh tay cho chim con chạy phía sau bắt chước theo đều không nhịn được cười. Nhưng cách dạy của tôi cũng rất có hiệu quả, chẳng bao lâu chim con có thể cất được đôi cánh và bắt đầu bay xa. Người dân trong vùng biết tôi yêu quý chim nên mỗi khi gặp chú chim mồ côi đều mang đến cho tôi, đổi lại tôi gửi họ chút ít tiền thưởng công. Tổng cộng tôi đã nuôi được gần mười con, mỗi khi bận công việc phải đi xa thì tôi đem đến gửi nhờ người khác nuôi giúp vài ngày và trả công cho họ. Những con chim xinh đẹp này đem lại cho tôi nhiều niềm vui. Vào những buổi sáng sớm khi trời còn mờ sương, tôi ngồi yên lặng bên tách trà chờ ngắm cảnh đàn chim hạc bay vút lên bầu trời, lướt qua dãy núi tuyết trùng điệp ẩn hiện như sương như khói mà tâm hồn cảm thấy thanh thản lạ thường. Ðó quả thật là những hình ảnh tuyệt đẹp mà kể cả trong phim ảnh cũng không có được. Rồi vào buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống, đàn chim hạc lại cùng nhau bay trở về. Cảnh hạnh phúc thanh bình ấy đem đến bao niềm an lạc cho cuộc sống của tôi nơi đây.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 18:31:41 GMT 9
NHÀ TRUNG GIAN HOÀ GIẢI NGƯỜI VIỆT Ở NEPAL Hình bên: Thượng tọa Huyền Diệu tại đại lễ khánh thành Việt Nam Phật Quốc tự ở Ấn Độ ngày 12-1-2003
TTCN - Một người VN đã tình nguyện đứng ra làm trung gian hòa giải cho Nepal là hòa thượng Huyền Diệu. Và một lần nữa, đất nước VN được đề cao trong giới Phật giáo quốc tế.
Ngày 1-2-2005 vừa qua, vua Gyanendra (tên đầy đủ là Gyanendra Bir Bikram Shah Dev) đã ra chiếu chỉ bãi nhiệm toàn bộ Chính phủ Nepal do Thủ tướng Sher Bahadur Deuba đứng đầu với lý do chính phủ đã không lập lại được hòa bình, đẩy Nepal chìm vào cuộc nội chiến giữa quân chính phủ và các lực lượng đối lập.
Nhà vua cũng đã thâu tóm toàn bộ quyền hành của nhà nước trong tay mình và ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc.
Gyanendra lên cầm quyền vào năm 2002, sau khi người cháu ruột của ông là thái tử nổi cơn điên loạn xả súng bắn chết nhiều người trong triều đình Nepal và sau đó tự sát. Kể từ năm này, Nepal là vương quốc quân chủ chuyên chế không có quốc hội, và nhà vua đã lần lượt cách chức tới bốn thủ tướng.
Trước những diễn biến này, Mỹ, Liên minh châu Âu và Ân Độ đã rút đại sứ về nước. Nội chiến xảy ra liên miên và phe đối lập kiểm soát được phần lớn nông thôn Nepal. Nhà vua từng kêu gọi phe đối lập đàm phán hòa bình để tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 4-2005, nhưng phe đối lập đã ngay lập tức bác bỏ đề nghị này.
Nepal có diện tích hơn 147.000km2, nằm dưới chân dãy núi Himalaya, gọn giữa hai nước láng giềng khổng lồ là Trung Quốc ở phía bắc và Ân Độ ở phía nam. Nền kinh tế của vương quốc này chủ yếu là xuất khẩu gỗ rừng, vì thế diện tích rừng che phủ đã giảm sút một cách nhanh chóng.
Hình bên; Việt Nam Phật Quốc tự trên đất Ấn được khánh thành vào ngày 12-1-2003. Nhiều tăng ni tốt nghiệp cao cấp Phật học Việt Nam (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM) đã tu học tại đây
Ngoài ra là chăn nuôi gia súc, gia cầm và ngành dịch vụ phục vụ các nhà leo núi thế giới đến thử sức với ngọn Everest. Cách đây ít năm, khi sang dự một cuộc hội thảo quốc tế ở thủ đô Kathmandu, tôi đã chứng kiến và kính phục sự dẻo dai và sức khỏe của những người làm nghề phục vụ khách du lịch này.
Chẳng hạn muốn lên tham quan một ngôi chùa, vốn thường nằm ở lưng chừng núi, phải leo khoảng ngót 1.000 bậc đá, nếu không đủ sức leo du khách có thể thuê một người cõng lên. Không phải là cách cõng thông thường mà du khách ngồi vào một chiếc ghế đan bằng dây rừng, và người cõng thuê sẽ quàng một sợi dây vải rất chắc lên... trán của anh ta, cứ thế cong người về phía trước và leo lên vài trăm bậc đá! Nepal được xếp vào loại các quốc gia nghèo nhất thế giới, với GDP bình quân đầu người hằng năm không quá 200 USD.
Với khoảng 20 triệu dân nhưng ở Nepal có hàng chục đảng phái khác nhau. Chẳng hạn cũng có Đảng Quốc đại như ở Ân Độ, nhưng có hai phái Quốc đại chống nhau: một gọi là Đảng Quốc đại Nepal, còn một là Đảng Quốc đại (Dân chủ). Những người cộng sản cũng có... vài ba đảng: lớn nhất là Đảng Cộng sản Nepal - Mácxít Lêninnít thống nhất (CPN-UML), rồi Đảng Cộng sản Nepal Maoít (CPN-M). Ngoài ra còn Đảng Bảo hoàng, Đảng Công nông Bhaktapur, rồi Mặt trận Thống nhất Sanepa, Latipur, Đảng Sadbhawana đặt tên theo tiếng Nepali.
Chúng tôi thường nói đùa với nhau: anh nào được phân công theo dõi Nepal, chỉ thuộc được tên các đảng phái cũng phải ngồi “khấn” đến hàng tháng! Ủng hộ nhà vua đến nay chỉ có một thiểu số trong Đảng Quốc đại Nepal và Đảng Bảo hoàng với lực lượng không đáng kể. Còn lại đều đứng ở phía đối lập, chung một điểm là chống hoàng tộc, nhưng lại đồng sàng dị mộng, mỗi đảng có lợi ích riêng, mục tiêu riêng và... chẳng ai chịu ai!
Một người VN đã tình nguyện đứng ra làm trung gian hòa giải cho Nepal đó là hòa thượng Huyền Diệu (tên thật là Lâm Trung Quốc) quê ở Đồng Nai. Thầy qui y từ nhỏ và sau khi bị chế độ Mỹ - Diệm trục xuất, thầy sang Pháp, được những người bà con nuôi ăn học và bảo vệ thành công học vị tiến sĩ thần học ở Đại học Sorbonne nổi tiếng của Pháp. Nhờ trình độ uyên thâm về đạo, thầy được mời đi thỉnh giảng tại nhiều trường đại học lớn trên thế giới, và cũng vì thế thầy tích cóp trong gần 20 năm để có tiền xây nên một ngôi chùa VN tại Boddhagaya (Ân Độ), đặt tên là Việt Nam Phật Quốc tự.
Đây chính là nơi có cây bồ đề nổi tiếng mà Đức Phật Thích Ca đã ngồi thiền và đắc đạo. Kế đó, thầy lại sang Nepal, xin Chính phủ Nepal đất ở Lumbini (trong kinh Phật đọc là Lâm Tì Ni), và là ngôi chùa đầu tiên của VN được xây dựng ở đây, được đích thân các triều vua, thủ tướng và nhiều bộ trưởng Nepal đến thăm và ca ngợi (đến nay đã có 19 quốc gia theo đạo Phật lần lượt theo gương VN xây 19 ngôi chùa khác).
Thầy Huyền Diệu được bầu làm chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới (IBF) và là người rất có uy tín trong giới Phật giáo quốc tế. Thầy còn vận động quyên góp để xây một cây cầu, một nhà thương cho dân chúng vùng này, nên hằng năm cứ đến ngày 11-3 lại có một “Lễ hội cầu VN” do người địa phương tổ chức để tri ân VN.
Do Nepal là quốc gia theo đạo Phật, lại có di tích Lumbini được UNESCO coi là di sản thế giới, nên với tư cách chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới, thầy Huyền Diệu đã gửi thư cho nhà vua cùng ban lãnh đạo các đảng phái chính trị đề nghị kiến lập hòa bình cho khu vực Lumbini nói riêng và đất nước Nepal nói chung; và Việt Nam Phật Quốc tự Lumbini sẽ là địa điểm cho cuộc hội nghị nói trên.
Lá thư tâm huyết của thầy chưa được sự hưởng ứng của chính giới Nepal nhưng đã có một tiếng vang trong dư luận, và một lần nữa đất nước VN được đề cao trong giới Phật giáo quốc tế.
NGUYỄN LÊ BÁCH
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 9:23:52 GMT 9
Sự Vĩ Đại Của Đức Phật
Nếu bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người." Đức Phật Thích Ca
Đức Phật là một con người có nhân cách đặc biệt siêu phàm, có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Một nhà văn hào Âu châu nhận định rằngb "Không có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có thể tìm thấy một vị giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố về ngài "Con người vĩ đại nhất chưa từng có." Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại." (Phật Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức)
I. ĐỨC PHẬT LÀ AI? Đức Phật là ai? Một câu hỏi được đặt ra hơn 25 thế kỷ; những nhận định, phê phán đầy tính hoài nghi, rồi những phát biểu, tán dương đầy xác định tin tưởng ở nơi con người đối với Đức Phật, cho đến nay vẫn là nguồn cảm hứng vô tận. Bởi lẽ như Carl Jung, một nhà tâm lý học, phát biểu rằng: "Bao giờ cái nhìn của bạn cũng bị giới hạn bởi những gì bạn đang có và đang là." Vì vậy với các góc độ nhìn khác nhau, người ta sẽ có những cảm xúc, những cái nhìn khác nhau về Đức Phật.
Giáo thuyết của Đức Phật xuất phát từ kinh nghiệm tu chứng tự thân ngài, một loại kinh nghiệm khác với các kinh nghiệm thông thường phổ biến. Cho nên hiểu một cách chính xác về Đức Phật là điều bất khả, như trong kinh nói chỉ có Phật với Phật mới hiểu được nhau.
Thời Đức Phật còn tại thế, những kẻ chống đối ngài thường lên tiếng chỉ trích, vu khống ngài với những lời lẽ tầm thường hay những luận điệu triết học, như nói ngài còn ham muốn danh vọng, ngài là người chủ trương phá hoại sự sống (Kinh Magandiya), chê ngài không có khả năng đặc biệt của các bậc thánh (Kinh Sư tử hống) cho ngài là một Sa-môn xử dụng huyễn thuật (Kinh Ưu-ba-li) v. v… Bên cạnh những chỉ trích thì những lời lẽ ca ngợi tán dương cũng rất phong phú. Những người trí thức của xã hội thường ca ngợi ngài rằng: "Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối" (Trung Bộ Kinh). Dù Ngài bị chỉ trích hay được ca ngợi ngài vẫn an nhiên tự tại, không giao động, không bất mãn, không hoan hỷ. Một người ngoại đạo ca ngợi Phật rằngbr "Thật kỳ diệu thay! Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay ! Tôn giả Gotama ! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mĩa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán Chánh đẳng giác." (Đại kinh Saccaka)
Ngài thường được mọi người gọi là bậc Đạo sư hay vị Lương y, vì ngài chỉ cho mọi người con đường giải thoát và ngài chữa trị bịnh khổ cho nhân loại. Một số bài kinh trong kinh tạng nguyên thủy có ghi lại một cách thú vị những lời tuyên bố của Đức Phật về chính Ngài. Dưới đây là vài dẫn chưng. Một hôm, trên đường đến vườn Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp, ngài gặp một vị Đạo sĩ tên là Upaka. Đạo sĩ hỏi: "Nầy hỡi Đạo hữu ! Ngũ quan của Đạo hữu thật vô cùng trong sáng. Nước da của Đạo hữu thật trong trẻo và tươi tắn. Hỡi nầy Đạo hữu, vì sao Đạo hữu từ bỏ đời sống gia đình? Thầy của Đạo hữu là ai? Đạo hữu truyền bá giáo lý của ai? Đức Phật trả lời "Như Lai đã vượt qua tất cả, Như Lai đã thông suốt tất cả. Như Lai đã vượt bỏ mọi trói buộc Như Lai đã thoát ly tất cả Như Lai đã chú hết tâm lực tận diệt tham dục. Đã thấu triệt tất cả, Như Lai còn gọi ai là thầy? Không ai là thầy của Như Lai Không ai đứng ngang hàng với Như Lai. Trên thế gian nầy, kể cả chư thiên và Phạm thiên Không ai có thể sánh với Như Lai. Quả thật, Như Lai là một vị A-la-hán trên thế gian nầy. Như Lai là Tôn sư vô thượng; Chỉ một mình Như Lai là bậc tòan giác, vắng lặng và thanh tịnh. Như Lai đang đến thành Kàsi để vận chuyển bánh xe Pháp bảo giữa thế giới mù quáng. Như Lai sẽ gióng lên hồi trống vô sanh bất diệt."
Upaka hỏi vặn: "Nầy đạo hữu, vậy phải chăng đạo hữu đã tự nhận là A-la-hán, là bậc siêu hùng quyền lực vô biên?" Đức Phật xác định "Tất cả những bậc siêu hùng đã chinh phục mọi ô nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã chinh phục, tận diệt tất cả những gì xấu xa tội lỗi. Vậy, nầy Đạo sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng" (Kinh Thánh cầu TBK).
Đức Phật xác định rất rõ ngài là người đã chinh phục mọi ô nhiễm, do vậy, ngài là người cao thượng nhất trên đời. Đây là lời tuyên bố đầu tiên về giá trị cao thượng tuyệt đối của Phật đối với mọi loài chúng sanh, ma về蠳au lời tuyên bố nầy đã được khái quát hóa thành câu nói đặt trong bối cảnh biểu tượng Đản sanh: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" (Trên trời dưới trời chỉ có Như Lai là tối thượng). Cuộc đời hoằng hóa của ngài đã chứng tỏ những gì mà ngài đã tuyên bố như trên là sự thật. Một lần có giáo phái ngoại đạo muốn đến tham vấn về đạo lý với Đức Phật bởi họ nghe nói Phật là người đã vượt qua mọi ô nhiễm, đạt được sự thanh tịnh hoàn toàn. Họ đã bàn nhau và cử người giám sát Đức Phật liên tục trong bảy ngày để xem Phật có thật sự thanh tịnh như người ta đồn không. Cuối cùng người được cử đi giám sát trở về báo lại rằng: Quả thực Sa-môn Gotama là người hoàn thiện trong lúc ngủ cũng như lúc thức cho đến những cử động nhỏ bé nhất như khi Ngài bước qua một vũng nước hay Ngài vén chéo áo lên . . . đều đầy thánh thiện. (Trung Bộ Kinh)
Lần khác khi bị chỉ trích về khả năng và mục đích của Phật, sau khi phân tích những sai lầm của họ, Đức Phật dạy răng. Nầy Sari putta, những ai muốn nói về ta một cách đúng đắn thì phải nói như thế nầy: (Đức Phật là) Một hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ỡ đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người" (Kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ Kinh).
Lời tuyên bố nầy nói lên phẩm chất của một vị Phật là Trí tuệ viên mãn (không bị si chi phối) và lòng thương yêu cứu giúp muôn loài vô tận.
II. SỰ CHỨNG NGỘ CỦA PHẬT Tất cả những năng lực của Đức Phật đều xuất sinh từ Tuệ giác của Ngài, nghĩa là từ nội dung chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác dưới cội Bồ đề. Có lần một Du sĩ ngoại đạo tên là Vacchagotta hỏi Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, con nghe người ta nói rằng Sa-môn Gotama là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến, ngài tự cho là mình có tri kiến hoàn toàn, khi đi, khi đứng, khi ngủ, khi thức tri kiến luôn luôn tồn tại và liên tục.
Bạch Thế Tôn, những điều mà người ta nói như vậy có đúng với sự thực không, họ có vu khống Đức Thế Tôn không? Đức Phật đáp rằng, họ nói như vậy là không đúng với điều ngài đã nói, là vu khống ta. Như vậy Đức Phật phủ nhận ngài có một loại Trí tuệ lúc nào cũng hiện diện và thấy biết cùng khắp, trong lúc thức cũng như trong lúc ngủ. Vacchagotta hỏi: vậy phải nói như thế nào mới đúng? Đức Phật dạy rằng nếu muốn nói đúng thì phải nói Sa-môn Gotama là bậc có Ba minh.
Khi nào ta muốn, ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời…cho đến nhiều đời sống qúa khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết. Nầy Vacchagotta, nếu ta muốn thì với Thiên nhãn thuần tịnh, ta thấy được sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẻ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh…đều do hành nghiệp của họ. Này Vacchagotta, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thượng trí giác ngộ, ta an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nói như vậy là nói đúng về ta. (Kinh Ba minh Vacchagotta)
Như vậy Tam Minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh là nội dung chứng ngộ của Phật. Đặc biệt chỉ có Phật mới có một cách đầy đủ Ba minh, mặc dù trên lộ trình tu tập Ba minh luôn được coi là những thành quả sau cùng của một hành giả đắc đạo. Đây có thể là một trong những điều khác biệt giữa Đức Phật và đệ tử. Tiến trình giác ngộ bắt đầu từ "Ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Diệt tầm và tứ chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."
Đức Phật và các Thánh đệ tử đều đi qua Tứ thiền, trên cơ sở thiền thứ tư, tâm định tĩnh và nhu nhuyến, dễ xử dụng, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu. Đây là lộ trình thứ nhất. Lộ trình nầy được khuyến khích và trở nên rất phổ biến. Phần lớn các thầy đều theo hướng nầy. Lộ trình thứ hai là từ thiền thứ tư, đi qua Không vô biên xứ, là vượt qua sắc tưởng, chướng ngại tưởng. Hướng tâm đến hư không là vô biên chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt qua tiếp tục chứng và trú thức vô biên xứ. Vượt qua thức vô biên chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt qua vô sở hữu xứ chứng và trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ. Vượt qua Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định. Từ định nầy chứng đắc Ba minh. Lộ trình nầy Đức Phật cũng đã đi qua. (Kinh Phân Biệt Sáu Xứ, Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy)
Trong kinh tạng Nguyên thủy không thấy ghi chép vị thánh đệ⠴ử nào tự tuyên bố là mình đã chứng được Ba minh. Thường thì các ngài được giới thiệu đã chứng A-la-hán, chứng Diệt Thọ Tưởng định, và đoạn trừ các lậu hoặc (tương đương với Lậu tận minh). Trong kinh Sáu Thanh Tịnh (Trung Bộ Kinh) Đức Phật dạy về tiến trình tu tập của một vị Tỳ kheo khi chứng được thiền thứ tư xong thìbr /> "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ xử dụng, vững chắc bình thản như vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Tôi biết như thật: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt. Biết như thật: Đây là những lậu hoặc, đây là Nguyên nhân của lậu hoặc, đây là lậu hoặc được diệt trừ, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ."
Như vậy điều cần thiết cho các đệ tử là phải thoát khỏi "dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu" để đạt được "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; không còn trở lui trạng thái nầy nữa." Từ đó chúng ta có thể thấy rỏ rằng khả năng Thần thông của các đệ tử đều có giới hạn, và vấn đề tu chứng không gắn liền với khả năng thần thông, vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ngài Mục-kiền-liên được cho là đệ tử Thần thông số một trong các Thánh đệ tử. Đức Phật không khuyến khích các đệ tử đi vào các thần thông như Thần túc, Thiên nhãn, Tha tâm, Túc mạng, và Thiên nhãn; ngài chú trọng và khích lệ các đệ tử hướng tâm vào Lậu tận Minh để thành tựu mục đích tối hậu, giải thoát sinh tử. Các khả năng thần thông không giúp ích gì cho một người chưa đoạn trừ các ô nhiễm của tâm thức. Quá trình chứng đạo của Phật là một chuổi đột phá, vượt qua mọi thử thách bằng thực nghiệm. Tất cả các pháp có tính giao động đều vượt qua, thành tựu an trú các bất động pháp. Đặc biệt trong các trạng thái của Tứ thiền đều phát sinh một cảm giác hạnh phúc (lạc thọ), ngay cả trong Ba minh cũng có cảm giác hạnh phúc, nhưng những cảm giác ấy tồn tại mà không chi phối tâm ngài (Kinh Saccaka).
Đối với các Thần thông ngài đã tuần tự chứng đắc Thần túc thông, Thiên nhỉ thông, Tha tâm thông trước khi ngài thành Phật. Trong đêm thành đạo ngài mới chứng tiếp 3 Thần thông sau cùng theo thứ tự Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận thông. Phật dạy "Khi ta chưa chứng Chánh Đẳng Giác ta đã nổ lực tu tập 5 pháp: Ta đã tu tập Thần túc với Dục định tinh cần hành, Tinh tấn định tinh cần hành, Tâm định tinh cần hành, Tư duy định tinh cần hành và Tăng thượng tinh tấn, tùy theo ta hướng tâm đến pháp nào, ta có thể chứng đạt pháp ấy" (Tăng Chi II).
Không có pháp nào làm chướng ngại đức Phật, không có pháp nào mà Đức Phật không thấy rõ, biết rõ, vì vậy đệ tử thường gọi ngài là Đấng Pháp Vương.
III. KẾT LUẬN Nhân ngày kỷ niệm Đức Phật Thành Đạo Phật lịch 2545, đôi lời nói về sự vĩ đại, sựthanh tịnh, sự chứng ngộ của Đức Phật chỉ để bày tỏ lòng kính ngưỡng của người con Phật và để tri ân Người đã khai sinh ra con đường giải thoát cho nhân loại. Với những ngôn từ hữu hạn giữa cuộc đời đầy ô nhiễm, con người không thể ca ngợi hết được sự vĩ đại của Đức Phật. Ngài A-nan-da cũng đã từng nói về sự vĩ đại của Phật rằngbr /> "Này Bà-la-môn, Đấng Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo."
Để kết thúc, xin mượn lời của một thi nhân Hồi giáo, Abdul Atahiya ca ngợi Đức Phật "Nếu bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người." (Đức Phật dưới mắt các nhà tri thức).
Sưu Tầm.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 21, 2019 1:25:16 GMT 9
BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG, NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊNViet Bao 18/11/2019 Phùng Annie Kim Năm 2008, trong chuyến về Việt Nam ngày mùng 4 Tết, gia đình tôi tổ chức du lịch thăm Tứ Động Tâm tại Ấn Độ. Sư cô chùa A-Di Đà tại Mỹ nhờ tôi mang chút quà sang cho sư em là Thầy Chiếu Tuệ tại Bồ Đề Đạo Tràng. Tại đây, nơi bệ thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng tôi đã gặp lại người du tăng đang tu học ở Ấn Độ nay có pháp hiệu là Thích Tánh Tuệ. Sau nhiều năm không gặp, Thầy vẫn trẻ, vui vẻ, tươi cười trong chiếc y vàng, chào đón hai người khách hành hương thân tình năm xưa. Cái duyên đến xứ Phật không dừng tại đó. Năm 2016 tôi đi với Chị NC về miền Nam Ấn thăm các tu viện lớn của Tây Tạng, dự lễ đăng quang của Ngài Tukku, dự sinh nhật của Đức Đạt Lai Lạt Ma, dự các buổi giảng pháp của các Ngài tu viện trưởng. Năm nay 2019, sau chuyến đi Bhutan một tuần lễ với Thầy , tôi lại có duyên theo Thầy và đoàn hành hương khỏang 50 người tiếp tục đến Bồ Đề Đạo Tràng tu tập và thăm vài thánh tích. Trong kinh Phật có viết rằng ai đó trong đời may mắn một lần đến xứ Phật, có công phu tu tập và hành trì giới luật, có niềm tin thanh tịnh, khi rời khỏi thân xác này sẽ đến những cảnh giới tốt đẹp hơn thay vì phải đọa lạc vào tam đồ ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Lần này đến Bồ Đề Đạo Tràng là cơ hội để tôi tu tập và thực hành những gì mình thọ nhận từ các bài Pháp, để nhìn lại mình ở lứa tuổi “thất thập cổ lai hy” đã buông bỏ những gì, chuẩn bị tư lương là những gì cho một chuyến đi xa. Trên hết, tôi trở về Bồ Đề Đạo Tràng như người con đi xa nhớ về một quê hương tâm linh cội nguồn mà mình đã lãng quên. Các tôn giáo trên thế giới đều có các thánh địa và các thánh tích ghi lại cuộc đời hay hành trạng của vị giáo chủ như đạo Thiên Chúa có Jesusalem, Lourdes, Rome, đạo Hồi có Mecca, Đạo Phật có Bồ Đề Đạo Tràng. Là một thánh tích có ý nghĩa lịch sử, nơi đây chứng kiến sự giác ngộ của một con người có thật, một vị hoàng tử bỏ ngai vàng đi tu và trở thành một vị Phật. “Budha”, Phật hay Bụt có nghĩa là người giác ngộ. Tại phi trường, Ama, hướng dẫn viên du lịch Ấn Độ gắn bó với Thầy trong nhiều chuyến hành hương “Theo Dấu Như Lai” trước đây, anh cùng với hai sư cô Huệ Lạc và An Phụng ra đón đoàn với vòng hoa vạn thọ quàng vào cổ từng người. Đoàn chúng tôi lên xe về khách sạn, lãnh chìa khóa về phòng nghỉ ngơi, sau đó ăn trưa. Từ khách sạn đến Bồ Đề Đạo tràng đi bộ chỉ mất 10 phút, đi xe lam chỉ mất 50 rupee cho một cuốc xe bốn người. Chương trình chiều nay sẽ có họp mặt và tu tập đầu tiên tại tháp Đại Giác lúc 5 giờ . Hinh Bo De Dao Trang (3) Về lại xứ Phật nơi đức Phật sinh ra, tu hành, giác ngộ và hoằng pháp, lòng tự hỏi phải chăng đây là đại nguyện phổ độ chúng sinh của Ngài vì Ngài sinh ra nơi đất nước đông dân hạng nhì thế giới có cảnh nghèo thâm căn cố đế, nơi có sự phân chia giai cấp rõ rệt, có sự phân biệt nam nữ mà khi còn sinh tiền khi đi hoằng Pháp, Ngài đã làm một cuộc “cách mạng” muốn thay đổi trật tự xã hội, tạo sự bình đẳng cho giai cấp bần cùng và những người hạ tiện bị xã hội coi rẻ như thu nhận người thợ hớt tóc U-Ba-Ly vào tăng đoàn, độ cho vũ nữ Ambapali đắc quả A-La-Hán, độ cho bà lão nghèo có vài xu mua dầu cúng Phật, thành lập ni đoàn tỳ kheo đầu tiên của bà Kiều Đàm Di... Trở về thăm lại Bồ Đề Đạo Tràng, thánh tích có nhiều thay đổi làm cho lòng người buồn, vui lẫn lộn xen lẫn chút bâng khuâng. Vui vì thấy người đông, nhà cửa xây dựng nhiều, hàng quán buôn bán sầm uất, xe lam và xe kéo ồn ào, tấp nập, người lên kẻ xuống không lúc nào ngớt. Bâng khuâng khi nhìn lại “cảnh cũ người xưa”. Đội quân bán dạo từ khắp nơi ùa ra, kẻ mua người bán, kẻ chào mời, người trả giá các mặt hàng như hoa cúng Phật, các hình tượng Phật, các lá bồ đề ép khô, các vòng, chuỗi... Nền kinh tế của quận Gaya lấy nguồn lợi từ các khách du lịch đến Bồ Đề Đạo Tràng xem ra có vẻ khấm khá nhưng nhìn chung trên nét mặt những người bán dạo này đầy nét mệt mỏi và ưu tư. Tôi hoa mắt trong thế giới mua bán ta bà và ngôn ngữ Ấn Độ khi thấy chiếc xe kéo chở đầy các tượng Phật, những người bán dạo lam lũ vây quanh, xòe ra trước mặt tôi các hình ảnh, tôn tượng đủ loại Phật lớn, Phật nhỏ, Phật đứng, Phật ngồi. Thế mà Ngài vẫn yên lặng nhìn chúng sanh với nụ cười từ bi .Ngài bao dung với những bàn tay vung vẩy mời chào. Có lẽ Ngài đã thấu hiểu nỗi khổ cực của kiếp người đang phải vật lộn để mưu sinh. Thật là nghịch lý trong khi chúng tôi phải bỏ ra hàng ngàn đô-la đến đây để đảnh lễ Phật, tìm an lạc và sự giải thoát trong sự tu tập và hành trì theo giáo pháp của Phật thì chúng sanh nơi đây sinh ra tại xứ Phật nhưng không biết gì về giáo lý của Ngài, xem Phật như một vị thần thứ chín trong hàng trăm các vị thần khác. Họ chưa đủ thiện duyên và phước báu để được nghe và hiểu thấu được bài giảng đầu tiên tại xứ Phật là một chữ “khổ” mà nhiều đời nhiều kiếp họ phải chịu đựng . Họ không biết hơn 2600 năm trước, hình tượng vị giáo chủ họ đang cầm rao bán trên tay đã mất năm tuần lễ đi bộ từ Bồ Đề Đạo Tràng đến vườn Lộc Uyển giảng bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế. Vị giáo chủ này đã nêu lên một chân lý về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ. Âu cũng là định nghiệp của cá nhân, xã hội và đất nước Ấn Độ khi giáo pháp của Đức Thế Tôn đã bị ngoại đạo tiêu diệt ở xứ sở này. Trước mắt tôi là một đội quân đi xin để kiếm ăn. Họ là những người nghèo, đói, xơ xác đến tận cùng của xã hội nghèo, không hơn gì cái nghèo đói trơ xương của người dân Phi Châu. Đó là những người tàn tật mất tay hoặc mất chân hoặc không còn tay chân. Trên mặt đường đầy cát bụi và rác rưởi, họ bò, lăn, lê, lết hoặc bám trên những miếng gỗ. Tay chân họ đen đủi, da dẻ trầy xước, sưng đỏ, chảy máu hoặc mốc đến trắng xát nhưng miệng vẫn không ngớt nài nỉ, van xin vài đồng rupee. Họ là những đứa trẻ trai gái đủ mọi lứa tuổi, quần áo sờn rách, gầy ốm, nhếch nhác, bẩn thỉu, tóc rối như rơm, hai tay gãi đầu liên tục. Đứa nào đứa nấy da ngăm đen, khuôn mặt ngây thơ, đôi mắt sáng, to, hai hàng mi dài cong vút. Chúng nhanh như chớp vừa thấy khách hành hương là chạy ùa theo và chìa tay lẽo đẽo xin tiền. Chúng kiên nhẫn theo đến tận nơi khi nào khách động lòng thương hoặc muốn yên thân đành phải móc tiền ra cho. Nếu lỡ cho rồi thì khách phải đi nhanh kẻo một đội quân “nhí” khác sẽ dí theo đến tận xe lam hay trên đường về. Đó là những bà mẹ mang thai đi xin ăn, bụng to, ngồi ngửa tay, đôi mắt tha thiết hướng về khách qua lại, miệng niệm A-Di- Đà- Phật vì biết khách hành hương là những người Việt Nam. Chung quanh bà là những đứa con lăng xăng chạy theo đám người lớn xin tiền, may mắn có được đồng rupee nào, chúng hí hửng chạy về xà vào bên mẹ, khoe tiền rồi chạy đi xin tiếp.Tôi tự hỏi đứa bé nghèo khổ từ trong bụng mẹ sắp ra đời kia khi lớn lên tương lai rồi sẽ ra sao? Nó sẽ tiếp tục cái nghề cùng mạt này của gia đình từ bao nhiêu thế hệ. Sự phân chia giai cấp có từ thời đức Phật đã làm cho giai cấp nghèo khổ bần cùng của xã hội Ấn Độ sẽ không bao giờ có cơ hội đổi đời và thăng tiến cũng như quyền lợi của giai cấp cao sang quyền quý lãnh đạo sẽ không bao giờ chấp nhận sự thay đổi này. Hàng ngày, mỗi buổi sáng tôi thường vén màn nhìn xuống sân khách sạn để thấy cảnh một gia đình chùm nhúm nhau đi xin ăn. Ông bố ngồi trên chiếc nạng gỗ ở vệ đường, thỉnh thoảng lết vào đưa cho đứa con gái khi thì miếng bánh, khi thì trái chuối. Bà mẹ trẻ gầy guộc, lam lũ, có đứa con còn bú trên tay. Bà đặt đứa bé nằm ngửa, đứa bé giẫy giụa trên chiếc xe đẩy bằng gỗ. Con chị ngồi bên góc trái chơi với đứa em. Thằng anh trai dáng người nhỏ xíu, hai chân có tật, miệng ú ớ, nằm cong vòng cạnh hai đứa nhỏ. Bà mẹ đẩy ba anh em co cụm trong chiếc xe gỗ, dừng lại trước cổng khách sạn và ngồi đúng vào cái chỗ có bóng mát để xin tiền. Bà đang niệm A-Di- Đà- Phật mỗi khi có khách hành hương ra vào. Kinh nghiệm của Thầy và những người đi trước đã dặn kỹ rồi nhưng lòng từ bi vẫn lấn át lý trí. Khách hành hương lần đầu tiên đến Ấn Độ thấy cảnh khổ phát lòng thương bố thí cho những người ăn xin đông như thế không tránh khỏi bị phiền nhiễu. Bố thí chưa thấy phước báu đâu đã thấy lòng mình dấy lên cái tâm sân bực bội. Bố thí mà lòng không thấy thanh thản, nhẹ nhàng vì hối hận khi cho người này trong khi người kia đáng thương hơn. Bố thí mà tâm sợ hãi khi thấy họ tranh giành, cãi lộn, đánh nhau vì mấy đồng rupee . Bố thí mà cái tâm tính toán kẻ cho nhiều người cho ít. Bố thí mà lòng nặng trĩu vì bàn tay nhỏ bé của mình không che lấp được nỗi khổ trùm khắp nơi thánh địa này. Thầy chỉ cho cách bố thí tốt nhất là nhờ Ama gọi những người ăn xin tụ tập trật tự trước sân khách sạn vào giờ nhất định rồi cho tiền một lần, đồng đều, cùng một lúc. Họ hoan hỉ. Chỉ cần 150 rupee tức khoảng hơn 2 đô-la là ngày đó họ không bị đói. Có đi để thấy phước báu của mình có được ngày hôm nay không do một ai ban phát cả mà là chính mình tạo tác . Luật nhân quả từ vô lượng kiếp của đạo Phật giải thích tất cả sự khác biệt giữa con người với con người tại sao có người sinh ra tại đất nước giàu như nước Mỹ, có kẻ sinh vào xứ nghèo như làng Bihar? Tại sao có người giàu như tỷ phú, có người không có ăn phải lê lết đi xin từng rupee sống qua ngày? Tại sao có kẻ đẹp người xấu, kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ khỏe mạnh người bệnh tật, kẻ thông minh người ngu dốt ...? Bao nhiêu câu hỏi tại sao đạo Phật lý giải bằng một chữ “nghiệp”. Hinh Bo De Dao Trang (2) ********* Ngày xưa khi đi qua đèo Ngang nhớ về cố đô Thăng Long một thời hưng thịnh của các triều đại phong kiến , bà huyện Thanh Quan cảm tác về sự đổi thay “...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”nay chỉ còn là “Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” thì trái lại tại Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đây “nền cũ”, đền đá của ngôi tháp vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” và các đoàn hành hương vẫn đến chiêm bái mặc dù trời đã về chiều. Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) nằm bên bờ sông Ni Liên Thuyền trong ngôi làng nhỏ, chung quanh là rừng nơi đó có khu rừng đức Phật đã tu 6 năm khổ hạnh nay là thánh tích Khổ Hạnh Lâm. Về Bồ Đề Đạo Tràng để tưởng niệm hình ảnh Đức Thế Tôn được thờ tại Tháp Đại Giác ( Mahabodhi Temple). Đây là ngôi tháp được vua A Dục xây vào khoảng 250 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn. Tháp hình vuông, có chiều dài bốn bên mỗi bên dài khoảng 15 mét, đầu tháp hình nhọn, kiến trúc trang nhã, xây bằng gạch đá xanh, cao 55 mét bao bọc chung quanh là 4 tháp nhỏ. Tháp không lớn lắm, trên tháp thờ xá lợi Phật, dưới là ngôi chánh điện thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni khoác y vàng. Có một vị sư quen với công việc trông coi ngôi chánh điện, đón nhận và thay những chiếc y và hoa của các đoàn hành hương đến đảnh lễ và cúng dường. Bên ngoài tháp, chung quanh là một khuôn viên rộng gần 5 mẫu thờ các hình tượng Phật, Bồ Tát và các vị thần khắc trong các hốc đá được dát bằng vàng. Nhìn chung quanh tháp có các cột, cổng chính, các cửa sổ được chạm trổ hình hoa văn, khảm xà cừ và các loại đá quý. Các dãy hành lang chạy dài, nơi đó các đoàn hành hương đi kinh hành, các vị sư ngồi Thiền, tụng niệm hay cầu nguyện. . Đứng bên giòng sông Ni Liên Thuyền, chung quanh là các Phật tử, Thầy có dịp nói về địa điểm địa lý này phù hợp với các sự kiện lịch sử trong kinh điển. Nơi đây chứng kiến một sự kiện quan trọng đó là con đường đi của nhà tu khất thực Tất Đạt Đa, sau khi từ bỏ lối sống khổ hạnh tại Khổ Hạnh Lâm, Ngài thọ nhận bát cháo sữa cúng dường của nàng Sujata gần đó, Ngài đến tắm gội tại bờ sông Ni Liên Thuyền ( Neranjara) trong thành phố Gaya, Ngài tiếp tục đi đến Bồ Đề Đạo Tràng ngồi thiền 49 ngày đêm dưới bóng cây Bồ Đề và giác ngộ như lời đại nguyện. Về Bồ Đề Đạo Tràng, nhìn về phía Đông cách ngôi tháp khoảng 5 mét là cây Bồ Đề lịch sử, hậu duệ đời thứ năm của cây Bồ Đề nguyên thủy được vua A Dục trồng vào năm 260 BC. Trải qua bao biến cố thăng trầm, bị tàn phá, tiêu diệt, hủy hoại vì thiên tai, chiến tranh và lòng tham ác của con người, năm 1881, cây Bồ Đề này được một nhà khảo cổ người Anh Alexandre Cunningham dùng hạt giống trồng lại. Tiếp tục mầm sống của cây Bồ Đề tổ tiên, ngày nay cây vẫn đâm chồi nẩy lộc, phát triển tàn lá sum suê. Hình ảnh 2600 năm trước, cây Bồ Đề đã từng che bóng mát cho Phật ngồi thiền và thành đạo. Cho đến bây giờ, cây Bồ Đề mãi mãi là niềm tin bất thối chuyển của các tín đồ Phật giáo, ở đâu có cây Bồ Đề là có Phật. Cây Bồ Đề còn là biểu tượng sức sống của đạo Phật tuy không còn phát triển tại xứ Ấn Độ nhưng cành lá của nó đã lan tỏa, vươn rộng sang các phương trời Âu Mỹ. Dưới cội Bồ Đề là một di tích lịch sử tên gọi là Kim Cang Tòa bằng đồng, mạ vàng, dài khoảng 3 mét, rộng hơn 1 mét, khắc các hoa văn trang trí mỹ thuật. Đây chính là nơi đức Phật đã ngồi Thiền và thành đạo cách đây 2600 năm. Bồ Đề Đạo Tràng còn là một chứng tích được các nhà khảo cổ xác nhận và trong kinh điển có ghi đó là chiếc hồ Mucalinda nơi đó có hình ảnh rắn thần Mucalinda dùng đầu to che đức Phật trong một đêm mưa gió, sấm sét, Ngài đã ngồi thiền bất động và an nhiên suốt bảy ngày vào tuần lễ thứ sáu. *** Qua cổng an ninh khám người và túi xách, chúng tôi theo con đường dẫn vào bên trong tháp, tập trung tại phòng tiếp tân, bỏ giày dép bên ngoài , mặc áo tràng, sắp thành một dãy dài, tâm ý thanh tịnh, vừa đi vừa niệm Phật. Từng bước chánh niệm theo tiếng tụng niệm của Thầy và các sư cô, chúng tôi vào nơi chánh điện đảnh lễ Phật rồi đi kinh hành ba vòng quanh Tháp. Ai đến Bồ Đề Đạo Tràng đều được nghe một loại âm thanh đặc biệt, chan hoà, lan tỏa trong không khí tu tập, vang lên từ những lời kinh tụng bằng những ngôn ngữ khác nhau. Đó là tiếng tụng niệm ê a hay tiếng cầu nguyện thầm thì của nhà sư và khách hành hương. Đó là âm điệu trầm bổng vang lên từ các các đoàn hành hương Thái, Miến, Trung Quốc, Nhật Bản, Sri- Lanka, Tây Tạng,Việt Nam... Họ đến đây được nghe những lời kinh dù ngôn ngữ khác nhau nhưng nguồn gốc đều từ tiếng Pali và Sankrit là ngôn ngữ cổ thời đức Phật. Chúng tôi được nhìn thấy hình ảnh đẹp của những sắc y vàng hay nâu đỏ của các sư, các vị Hòa Thượng, Đại Đức không phân biệt Phật giáo Nam truyền hay Bắc truyền; Phật giáo Nguyên Thủy hay Phật giáo Phát Triển; Tịnh Độ Tông, Thiền Tông hay Mật Tông, các vị đều là trưởng tử của Như Lai, đang đi theo con đường hoằng pháp của người Cha tâm linh, gieo rắc các hạt giống Phật pháp cho những người con Phật. Thầy và các sư cô đã dọn sẵn một không gian khá rộng bên hông tháp để chúng tôi tụng kinh và ngồi Thiền. Chương trình sáng sớm ngày mai đoàn sẽ đến Bồ Đề Đạo Tràng làm lễ dâng y tại chánh điện, dâng hoa cúng Phật, đi kinh hành và tụng kinh . Chương trình kế tiếp cho những ngày còn lại là đi thăm các thánh tích, dự lễ xuất gia gieo duyên, lễ cúng dường trai tăng, thăm các chùa quanh đây, làm từ thiện tại một làng nghèo. Mỗi chiều lúc 5 giờ là thời khóa tu tập đều đặn tại Bồ Đề Đạo Tràng trước khi về khách sạn ăn cơm tối. Xe bus từ Bồ Đề Đạo Tràng đi qua làng Kiriyarma, vượt qua nhiều cánh rừng và những con đường làng, dọc theo hai bên đường là những mái nhà tranh lợp bằng rơm rạ, những người ăn xin đi lang thang và những người nông dân gầy gò, dầm mưa dãi nắng trên những cánh đồng lúa. Xe đậu ở khu đất trống có lối đi dẫn lên núi Dhunheswara. Năm 2005, Hội Phật Giáo Lào tài trợ kinh phí xây con đường lên núi bằng xi măng, nhờ vậy các đoàn hành hương sau này đến thăm thánh tích Khổ Hạnh Lâm đỡ vất vả phải leo trên những đoạn đường dốc, gồ ghề sỏi đá. Bây giờ có thêm dịch vụ chuyên chở bằng xe ôm vừa nhanh vừa tiện, chỉ mất khoảng vài chục rupee. Chúng tôi đến Khổ Hạnh Lâm trên đồi Dungeswari thấy cờ phướn đủ màu, qua vài khoảng sân rộng là đến hang Prabodhi nơi đức Phật ngồi Thiền trong 6 năm khổ hạnh. Đúng như lời kể trong kinh, nhà điêu khắc nào đã khéo tạc hình tượng đức Phật bằng đồng, màu vàng, nét mặt khắc khổ và những lóng xương nhô lên trên thân thể gầy ốm. Ngài ngồi trong tư thế thiền định trên bệ thờ trải khăn vàng trong hang đá tối tăm leo lét vài ngọn đèn mờ ảo và vài vòng hoa vạn thọ. Đọc lại Kinh Trung Bộ, đức Phật kể chuyện thời trai trẻ của Ngài “... Khi ta còn trẻ, là nam tử tóc còn đen nhánh đang giữa tuổi xuân xanh, Ta cắt bỏ râu tóc mặc dù cha mẹ Ta phản đối việc này với mặt đầy nước mắt.Ta vẫn khoác áo cà sa xuất gia từ bỏ gia đình...” Khi tu khổ hạnh, Phật đã kể về nỗi sợ hãi khi một mình trong rừng vào ban đêm “...Một con công làm gãy cành cây hay một cơn gió xào xạc giữa đám lá Ta cũng kinh hoàng hốt hoảng...”. Ngài kể về hình hài của mình “... Vì ăn quá ít cơ thể Ta trở nên gầy yếu..., tay chân như lóng tre..., xương sống cốt tủy lồi ra giống chuỗi hạt..., xương sườn long rõ như rui cột của ngôi nhà đổ nát.., đồng tử nằm sâu trong hố mắt..., da đầu khô héo như trái mướp.., da bụng đụng nhằm xương sườn..., đi đại tiện ngã úp xuống đất..., đám lông mục rụng trong tay...” Nhiều Phật tử đến đây đã không cầm được nước mắt khi thấy từ môt vị hoàng tử, Ngài bỏ tất cả để đi tu tìm đường giải thoát, mang hình hài của một nhà tu khổ hạnh. Bằng kinh nghiệm bản thân, Ngài đã dũng cảm chọn con đường trung đạo để rồi với trí tuệ và công phu tu tập, Ngài đã chứng được đạo quả vô thượng và thốt lên “Ta đã được giải thoát. Sanh đã tận. Phạm hạnh đã thành. Các việc cần làm đã làm xong, Ta không còn trở lại đời này nữa.” . Đối chiếu với bản đồ và kinh điển ghi lại, xe chúng tôi vượt qua cầu Falgu về hướng Nam cách sông Ni Liên Thuyền khoảng 2 cây số là một ngôi tháp khá lớn có tấm biển xanh ghi rõ nơi đây nàng Sujata đã dâng bát cháo sữa cho Phật. Đây cũng là nền nhà cũ của nàng Sujata. Tháp có đường kính khoảng 10 mét, chiều cao khoảng 4 mét được xây vào thế kỷ thứ 18, lúc đầu chỉ là một tháp nhỏ, được cộng đồng Phật tử Ấn xây lại lớn hơn. Đền thờ của nàng Sujata là một khoảng sân rộng có tượng Phật Thích Ca, bên cạnh là tượng nàng Sujata quỳ dâng bát cháo sữa. Lòng thương người tu khổ hạnh bị gục ngã trong rừng già và lòng thành kính dâng vật thực cúng dường với tâm thanh tịnh, nàng Sujata đã thác lên cung trời Đao Lợi hưởng phú quý. Trong chuyến đi này chúng tôi được chứng kiến buổi lễ phát nguyện xuất gia gieo duyên đoản kỳ của 4 chị và 1 anh trong đoàn. Ngoài ra còn khoảng 20 anh chị khác xin được Thầy nhấp kéo và đắp y màu nâu. Buổi lễ được Thầy và các sư cô tổ chức trang nghiêm và cảm động. Sau khi làm lễ sái tịnh, tụng kinh, nhắc lại tam quy và ngũ giới, những mái tóc đã rơi xuống. Có chị đã khóc vì hạnh nguyện đã thành. Có chị rưng rưng nước mắt: “Sáng nay cạo sạch mái tóc Mở thêm rộng lớn con đường Nguyện đoạn vô biên phiền não Một tâm mà động mười phương” Thầy giải thích về bốn chữ “xuất gia gieo duyên”. “Xuất gia là lìa gia đình thế tục để sống đời sống của người tu. “Gieo duyên” vì còn vướng bận gia đình, chưa thực hiện hoàn toàn đời sống xuất gia. Đây là cơ hội để các Phật tử tìm về nơi thanh tịnh, làm quen với đời sống tu sĩ, trau giồi Phật pháp, nhờ “duyên” đã được “gieo” từ trước mà sau này nếu đủ thiện duyên sẽ trở thành tu sĩ. Sau buổi lễ, các sư cô giúp các Phật tử cách đắp y. Cùng Thầy và các sư cô, chúng tôi đi kinh hành quanh tháp với chiếc y mới và chụp hình kỷ niệm. Sau buổi tối tụng kinh thường lệ, chúng tôi được Thầy thông báo sáng mai sẽ có một buổi lễ cúng dường tịnh tài và vật thực cho hơn 250 vị tăng ni tại Bồ Đề Đạo Tràng. Từ sáng sớm, các sư cô đã chuẩn bị bàn thờ Phật, hoa trang trí, trái cây cúng Phật, chiếu trải, nước uống, các phong bì, các túi quà tặng. Chúng tôi đến cùng lúc với các sư khoảng 250 vị đã được Thầy mời từ các chùa Miến, Thái, Lào, Ấn Độ, Đài Loan, Việt Nam gần Bồ Đề Đạo Tràng. Sau khi các vị tề tựu ngồi đông đủ trên chiếu, các Thầy, các sư cô và Phật tử Việt Nam lễ Phật, tụng kinh, Thầy ngỏ lời cảm ơn các sư. Các Sư đọc tụng những thời kinh chúc phúc bằng tiếng Pali. Các anh chị Phật tử trong đoàn trân trọng cầm những phong bì và những phần quà cúng dường đến trao tận tay các vị. Ý nghĩa của buổi lễ cúng dường cũng như bố thí là pháp tu của các Phật tử nhằm gieo trồng công đức hộ pháp và phước báu cho người cúng dường. Buổi lễ chấm dứt, lộc trái cây cúng Phật được phân phát cho mọi người, ai cũng hoan hỉ vì được góp phần tạo chút phước lành hộ trì Phật Pháp tại xứ Phật. Buổi chiều, chúng tôi cùng nhau gọi xe lam đi thăm và cúng dường một vài ngôi chùa Thái, Tây Tạng,Việt Nam gần đó. Tại Bồ Đề Đạo Tràng có hai ngôi chùa Việt Nam lớn là chùa Viên Giác do Thầy Hạnh Tấn trụ trì và Việt Nam Phật Quốc Tự do Thầy Huyền Diệu trụ trì. Trong một không gian chu vi khoảng hơn năm cây số, hơn một chục ngôi chùa của các nước tụ hội rải rác về đây, mỗi chùa đều có một sắc thái riêng biệt mang đậm nét quê hương của họ trong lối kiến trúc, các tượng Phật, cách hành lễ, sinh hoạt và hình ảnh các tu sĩ. Trong cái nôi chung là tại xứ Phật, mỗi nước mang cái hồn thiêng riêng của đất nước mình thể hiện qua hình ảnh ngôi chùa, tạo thành một quần thể thiêng liêng tiêu biểu cho sức sống của đạo Phật trên thế giới. Đây cũng là một địa điểm du lịch cho những ai một lần đến Bồ Đề Đạo Tràng đều ghé qua. Buổi sinh hoạt cuối cùng của đoàn chúng tôi là làm từ thiện tại một ngôi làng nghèo Ấn Độ cách xa Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 15 cây số. Được sự chuẩn bị từ trước, Ama và những người dân địa phương đã phát thẻ lãnh quà cho dân làng, chuẩn bị các vật dụng như mền, vải sari, gạo, bột, muối, dầu ăn, bánh ngọt và tiền lẻ để phân phát cho họ. Hinh Bo De Dao Trang (1) Chúng tôi đến nơi đã thấy những chiếc xe cam nhông chở các thùng quà đậu sẵn và dân địa phương đã sắp hàng từ lúc nào. Trong cái nắng và cái nóng gay gắt vào buổi trưa, với sự kiểm soát của các thanh niên trong làng, người nào có thẻ cầm trong tay mới được vào khu lãnh quà. Thầy đứng trên bục cao dặn dò và chỉ dẫn các Phật tử người đứng bên trong chuyển quà cho người đứng ngoài và thay phiên nhau mỗi người phát một món theo thứ tự. Giá trị của những món quà khoảng 15 đô-la. Trước đây chúng tôi chỉ được xem các buổi lễ phát chẩn cho người nghèo Ấn Độ trên trang mạng của Thầy. Đây là lần đầu tiên chúng tôi trực tiếp cầm những món quà trao vào tay họ. Nhìn những nụ cười méo mó nở trên nét mặt nhăn nheo của những người già lụm khụm ôm những gói quà, những ánh mắt sáng trên khuôn mặt đẹp của các cô thôn nữ , những nụ cười thơ ngây, vô tư và vui mừng của các trẻ em Ấn Độ chạy theo bố mẹ, chúng tôi hoan hỉ từ giã ngôi làng nghèo và ước gì có khả năng nhiều hơn nữa để quà tặng thêm phần nặng ký và nụ cười của họ thêm tươi hơn. Ngày cuối cùng tại Bồ Đề Đạo Tràng chúng tôi tự do đi mua sắm. Các cửa hàng bán quần áo, khăn quàng, túi xách dọc theo con đường đi vào lúc nào cũng đông khách hành hương. Trước giờ ra phi trường, Thầy có một buổi họp mặt để nghe những lời chia sẻ cảm nghĩ của các Phật tử trong tuần lễ tu tập tại đây. Mọi người đều bày tỏ sự an lạc khi : “ Con đã về đây với Thế Tôn Buồn vui xen lẫn ở trong hồn Như từ lâu lắm chưa hề gặp Biết nói làm sao với ý ngôn...?”(1) *** Một tuần lễ thăm thắng cảnh chùa, tháp và các tu viện tại “ Bhutan, xứ sở của hạnh phúc” và tuần kế tiếp tu tập tại Bồ Đề Đạo Tràng, mặc dù chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng chúng tôi đều cảm nhận niềm hạnh phúc khi đến đất nước Bhutan nơi Phật giáo là quốc giáo và người Bhutan sống và hành trì theo giới luật của đạo Phật. Bhutan, đất nước của thiên nhiên xanh đẹp, môi trường trong sạch, nếp sống hiền hòa và yên bình, người dân an lạc và hạnh phúc.Có một năng lượng tích cực, thiêng liêng và lành thiện tỏa ra từ sự bảo hộ của chư Phật, Bồ Tát tại xứ sở này, mang cho người khách hành hương một tâm thái thanh thản và bình an. Ấn Độ, nơi vị giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sinh ra cách đây 2600 năm, nơi đạo Phật có một thời vàng son nhưng giờ đây chỉ còn là những thánh tích. Đến Bồ Đề Đạo Tràng để thấm nhuần luật vô thường của vạn pháp, về giáo lý Tứ Diệu Đế, về luật nhân quả và phát khởi lòng từ bi đến muôn loài chúng sinh bất hạnh. Đến Bồ Đề Đạo Tràng để về nhà tiếp tục tinh tấn trên con đường tu tập giải thoát và giác ngộ theo Phật. Cảm ơn Thầy và các sư cô đã tạo điều kiện cho đoàn hành hương có cơ hội trở về “quê của tâm linh niềm an lạc” (2) để “tắm đời mình trong ánh dương” (3) của chư Phật. Cali ngày 17 tháng 11 năm 2019 Phùng Annie Kim Chú Thích (1) (2) (3) bài thơ “Dấu Chân Từ Phụ” của nhà thơ Như Nhiên
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 1, 2020 2:19:09 GMT 9
MỘT SỐ ĐIỀU LIÊN QUAN CHO VIỆC HỘ TĂNG
1. Tỳ khưu không được phép trực tiếp nhận tiền bạc hay cất giữ và không được yêu cầu thí chủ dâng cúng tiền vàng cho mình hoặc cho tỳ khưu khác. Người muốn cúng dường phải nói trước: “Ai là người kappiya (thị giả, hộ tăng) cho sư?” Sau khi gửi tiền cho người kappiya, quay lại tác bạch rằng: “Con (tôi) đã cúng dường tứ vật dụng cho sư trị giá….,đã gửi cho người thị giả của sư cất giữ. Xin thỉnh sư xử dụng khi có yêu cầu”.
2. Tất cả các đồ ăn uống đều phải được dâng (trừ nước lọc và tăm xỉa răng).
3. Không dâng đồ ăn trước khi bình minh ló dạng (mùa hè khoảng 5 giờ 30 phút, mùa đông khoảng 6 giờ).
4. Không được phép yêu cầu đồ ăn trừ khi có bệnh.
5. Không được phép cất giữ đồ ăn qua đêm.
6. Không dâng đồ ăn sái giờ ( sau 12 giờ trưa ).
7. Trái cây trước khi dâng phải làm theo luật, (kappiya) bằng cách đốt, khía bằng dao hoặc móng tay hay bỏ hết hạt.
8. Có 5 loại được coi là thuốc, được phép dùng sau 12 giờ và được giữ tối đa 7 ngày: bơ lỏng, bơ đặc, dầu, mật ong và đường.
9. Cà phê hoặc sô cô la không có đường, không có sữa, được phép dùng vào buổi chiều (theo truyền thống Thái Lan).
10. Không được dùng trà vào buổi chiều (theo truyền thống Miến Điện).
11. Một số sư có hạnh nguyện chỉ ăn trong bát các đồ ăn sau khi đã nhận. Tất cả cơm, thức ăn, bánh, trái cây đều được cho vào trong bát. (không ăn đồ dâng thêm sau)
12. Không dùng các từ như:”cơm, bánh” hoặc tên các món ăn cụ thể khi thỉnh mời các vị sư trai tăng; (có thể nói như sau: xin thỉnh sư thọ thực (bữa sáng, bữa trưa; hay vỏn vẹn: xin thỉnh sư (đi) thọ thực”
13. Được phép xin hoặc yêu cầu người thân trong gia đình trong phạm vi 7 đời hoặc người đã thỉnh mời.
14. Thí chủ có thể yêu cầu được hộ độ theo kỳ hạn hoặc không kỳ hạn.
15. Thuốc trị bệnh có thành phần đường, mật, bơ, dầu ăn, chỉ được giữ tối đa 7 ngày. Không có đường, mật, bơ, dầu, được giữ trọn đời.
16. Nữ giới, không chạm trực tiếp hoặc gián tiếp vào tỳ khưu.
17. Tỳ khưu không được phép ngồi một mình với người nữ trong chỗ khuất.
18. Tỳ-khưu ngủ trong nơi dừng kín, hoặc lợp kín, hoặc lợp nhiều, dừng nhiều chung với người chưa tu lên bực trên (trừ ra Tỳ-khưu với nhau), dầu ngủ chung với súc sanh có khiếu có thể sanh tội Bất cộng trụ. Nếu quá 3 đêm, phạm Giới, kể từ đêm thứ 4.
19. Tỳ-khưu khoe pháp bậc cao nhơn mà tự mình đã đắc, đến người chưa tu lên bực trên, phạm Giới.
20. Tỳ-khưu đào đất, hoặc dạy người khác đào đất bằng lời không nên.
21. Tỳ-khưu biết nước có côn trùng sống rồi đem tưới cây, cỏ, hoặc tưới đất, thì không được phép làm.
22. Có 8 thứ vật dụng cơ bản của một vị sư: Tam Y (Y thượng, Y nội, và tăng già lê), bát, dao cạo, kim chỉ, dây lưng và đồ lọc nước.
23. Tỳ kheo được phép xả đồ không dùng đến cho bố mẹ hoặc người hộ tăng (kappiya).
24. Có 4 yếu tố để việc cúng dường thành tựu từ phía thí chủ: 1. Trì giới trong sạch (5 giới hoặc 8 giới). 2. Vật cúng dường có được do làm ăn lương thiện. 3. Tâm trong sạch (không xuất phát từ việc mưu cầu hoặc tâm tham). 4. Có đức tin về luật, nghiệp quả.
25. Một vị sư đang nhập hạ được phép đi không quá 7 ngày nếu có việc, có thể yêu cầu: “Xin thỉnh sư đến nói Pháp”, như vậy thì sư sẽ được ra đi hợp lệ. Khi cúng dường, làm phước luôn có tâm nguyện coi đây là một sự trợ duyên để đạt và thành tựu Đạo, Quả và Niết bàn trong ngày vị lai.
Nguồn BK jinaputta
|
|