|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 8:44:59 GMT 9
Vãn pháp tiếng Việt và quá trình viết vãn Khải Chính Phạm Kim Thý
I. Dẫn Nhập
1. Vãn Tự Của Ngýời Việt
Ở bất cứ nõi nào, hễ có con ngýời là có tiếng nói riêng của giống ngýời ðó. Tiếng nói của ngýời Việt ðã có từ hồi con ngýời Việt xuất hiện trên trái ðất này.
Tiếng nói có trýớc vãn tự, ngữ pháp, vãn phạm, và vãn pháp. Lời nói tự nó ðã có ngữ pháp, vãn pháp, và vãn phạm nếu lời nói ðó có ý nghĩa mạch lạc và làm cho ngýời nghe hiểu rõ ràng. Tuy nhiên, chữ viết cùng với ngữ pháp, vãn phạm, và vãn pháp ðýợc phát minh là ðể dùng trong việc giáo dục, cai trị, liên lạc, và lýu giữ tý týởng cùng các phát minh của tiền nhân cho hậu thế.
Tiếng nói hay lời nói ðýợc gọi là ngôn ngữ. "Lời viết" hay chữ viết gọi là vãn tự. Về vãn tự, từ trýớc tới nay dân tộc ta ðã dùng:Chữ Nho, tức là lối chữ viết của ngýời Trung Hoa, ðýợc dùng trong thời kỳ quân Tàu ðô hộ nýớc ta, Bắc Thuộc Thời Ðại, từ nãm 207 (trýớc Tây lịch, ðời Triệu Vũ Výõng) cho ðến nãm 939 sau Tây lịch (ðời Ngũ Quí).Chữ Nho còn ðýợc thịnh hành suốt trong thời kỳ Tự Chủ Thời Ðại nữa (939-1802). Trong khoảng hõn 9 thế kỷ ấy, các triều ðình nýớc ta vẫn lấy chữ Nho làm quốc gia vãn tự. Trong dân gian, các khế ýớc, chúc thý, và các sổ sách ðều dùng chữ Nho cả.
Khi quân Tàu sang chiếm nýớc ta, dân ta còn ở trong tình trạng bán khai nên ðã chịu ảnh hýởng của ngýời Tàu từ chính trị, xã hội, giáo dục, luân lý, tôn giáo, ðến phong tục. Dân ta học chữ Nho, theo ðạo Nho, và hấp thụ tý týởng cùng học thuật của Tàu.Chữ Quốc Âm hay Chữ Nôm là thứ chữ ðýợc tiền nhân ta ðặt ra bằng cách biến chế từ chữ Nho, dùng nguyên chữ Nho, hoặc ghép các bộ phận của chữ Nho lại ðể ðọc theo tiếng nói của ngýời Việt Nam. Chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII, ðời Phùng Hýng (Bố Cái Ðại Výõng) và ðến cuối thế kỷ thứ XIII, thời ông Hàn Thuyên (Nguyễn Thuyên), ðời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), ngýời ta ðã dùng chữ nôm ðể viết vãn. Rồi tiếp theo ðó là ðến thời Nguyễn Ánh hồi còn xýng výõng (1778-1802), chýa bình ðịnh xong Nam Bắc, các chỉ dụ, sắc lệnh, và công vãn ðýợc viết toàn bằng chữ Nôm. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ ðã ðýợc các giáo sĩ ngýời Âu sang truyền giáo ở nýớc ta vào thế kỷ thứ XVII ðặt ra bằng cách lấy các mẫu tự (chữ cái) La Mã ðể phiên âm tiếng nói của ngýời Việt Nam. Mục ðích của việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là ðể ðáp ứng nhu cầu của việc dịch sách và soạn sách về ðạo Thiên Chúa cho các con chiên ðọc.
Ngýời có công lớn nhất trong việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là ông Alexandre De Rhodes vì vào nãm 1651 ông ðã soạn ra cuốn tự ðiển, Dictionarium Annamiticum, Lusitanum, et Latinum (Tự Ðiển An Nam, Bồ Ðào Nha, và La Tinh) ðể giúp ðời sau có sách ðể tra cứu.
2. Ðịnh Nghĩa về Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc Âm, Việt Ngữ, Việt Vãn, Vãn Tự, Ngữ Pháp, Vãn Pháp, và Vãn Phạm
a. Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc Âm, Việt Ngữ, và Việt Vãn
Ngôn Ngữ là âm thanh có ý nghĩa và hệ thống mà loài ngýời dùng ðể liên lạc, cảm thông, và diễn ðạt tý týởng với nhau. Tộc Ngữ là ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc. Quốc Âm là tiếng của một nýớc. Việt Ngữ là tộc ngữ, tiếng nói, hay "lời nói" của dân tộc Việt. Việt Vãn là "Lời viết" hay vãn chýõng của ngýòi Việt.
b. Ngôn Ngữ và Vãn Tự
Nói ra lời là Ngôn Ngữ, viết ra thành chữ là Vãn Tự. Nhý trên ðã nói, loài ngýời có tiếng nói trýớc trýớc khi có vãn tự. Tuy nhiên, vì ngôn ngữ là chính và vãn tự là phụ nên ngýời ta dùng ngôn ngữ ðể chỉ cả "lời nói" lẫn "lời viết." Trong khi ðó Vãn Tự dùng ðể chỉ "lời viết" mà thôi.
c. Ngữ Pháp
Ngữ Pháp là phép xếp ðặt "lời nói" và "lời viết" cho ðúng. Ðiều này có nghĩa là Ngữ Pháp áp dụng cho cả lời nói thýờng ngày và lời viết hay vãn chýõng. d. Vãn Pháp và Vãn PhạmVãn Pháp và Vãn Phạm nói chung là khuôn phép viết vãn hay làm vãn.
Vãn Pháp (syntax) là cách viết câu vãn còn gọi là cú pháp, tức là cách phối hợp những chữ theo một quy luật ðể thành một câu vãn. Vãn pháp tiếng Việt là phép viết vãn hay làm vãn bằng tiếng Việt.
Vãn Phạm (gammar) là mẹo luật hay cách viết một thứ tiếng nói.
3. Yếu Tố Chính Trong Vãn Pháp
Các yếu tố chung của vãn pháp tiếng Việt hay bất kỳ tiếng nýớc nào: lời vãn, cú pháp, dấu chấm câu, nội dung, và chủ ðề.Lời vãn phải chân thành, trong sáng, ngắn gọn, mạch lạc, uyển chuyển, nhẹ nhàng, trang nhã, lịch sự, và có ý nghĩa ðể giúp ngýời ðọc cảm thấy, nghe ðýợc, cũng nhý hình dung ra những gì nhà vãn muốn viết. Cú pháp là nói về phép tắc dùng tiếng ðể ðặt câu vãn cho chỉnh, tức là vãn phải thành cú. Dấu chấm câu phải ðúng cách. Nội dung bài viết phải có tính chuyên chở tý týởng ðể thuyết phục ðýợc ðộc giả (vãn dĩ tải ðạo). Chủ ðề là vấn ðề chính mà tác giả muốn trình bày trong một bài vãn hay bài thõ. Một bài vãn, một bài thõ, cũng nhý một tác phẩm phải có chủ ðề, bố cục, và phân ðoạn rõ ràng.
II. Tiến Trình Viết Vãn
Muốn viết vãn cho hay, nhà vãn phải kiên nhẫn, có nghị lực, biết tập trung tý týởng ðể hoạch ðịnh và suy nghĩ về công việc sáng tác.
Tiến trình viết vãn gồm 5 giai ðoạn: chuẩn bị viết, viết bản thảo, sửa bản thảo, ðọc lại bản thảo lần cuối, và liệt kê tài liệu tham khảo.
1. Chuẩn Bị Cho Việc Viết Vãn
a. Chọn và giới hạn ðề tài
Chọn ðề tài thuộc phạm vi mình ðã có kinh nghiệm. Những gì nhà vãn ðã thấy, ðã ðọc, và ðã nghe là ðiều cốt yếu giúp cho việc viết vãn thành công. Ðiều này có nghĩa là nhà vãn phải có kinh nghiệm sống về những ðiều mình muốn viết thì tác phẩm mới có giá trị. Trong những kinh nghiệm sống này, nhà vãn cần chọn những gì mình thích thú, quan tâm, và tin týởng nhất ðể viết. Việc giới hạn ðề tài rất là cần thiết. Nhà vãn cần giới hạn ðề tài ðể có thể tập trung vào phần mà mình có sở trýờng ðể viết cho ðầy ðủ. Nhà vãn có giới hạn ðề tài ðể viết thì ðọc giả mới dễ theo dõi và mới hiểu ðýợc ðại ý của tác phẩm.
b. Ấn ðịnh mục ðích cho bài hay tác phẩm mình ðịnh viết
Mục ðích tức là lý do khiến mình cầm bút viết, chẳnh hạn nhý viết ðể thuyết phục ðộc giả về những gì mình sắp viết, viết ðể mua vui cho ðộc giả, hay viết ðể làm cho ðộc giả nghe thấy, cảm thấy, hay nhìn thấy những gì mình ðịnh viết ra. Ðể ðạt ðýợc mục ðích khác nhau, nhà vãn cần áp dụng lối viết khác nhau.
c. Viết Cho Thành Phần Ðộc Giả Nào?
Trýớc khi viết, nhà vãn phải biết mình ðịnh viết cho thành phần ðộc giả nào, chẳng hạn nhý thành phần ngýời lớn, thanh niên, trẻ em, quần chúng, những ngýời mới vào nghề, hay các chuyên gia. Ðối với mỗi ðối týợng, nhà vãn phải dùng cách viết và cách trình bày cùng chi tiết và ngôn ngữ khác nhau.
Nhà thõ không có ðộc giả vì nhà thõ thýờng chỉ ðối thoại với một ngýời hay cảnh vật mà thôi. Nhà vãn thì khác, nhà vãn cần ðộc giả nên phải luôn luôn ðặt ðịa vị mình vào ðịa vị ðộc giả mỗi khi viết vãn. Phải hình dung ra nét mặc của ðộc giả của mình có tỏ ra hiểu ý mình hay chán nản khi ðọc tới những dòng mình ðang viết. Có nhý thế nhà vãn mới mong thành công trong việc viết vãn ðýợc. d. Thu thập tài liệu giúp cho việc viết vãnKhi thu thập các tài liệu, nhà vãn phải nhớ mục ðích và thành phần ðộc giả ðể gom góp tài liệu cho thích hợp.
Viết vãn là ðể thuyết phục ðộc giả tin những ðiều mình viết. Chính vì thế, ngoài tài liệu trong sách báo và thý từ liên lạc với bằng hữu, nhà vãn còn phải phỏng vấn hay hỏi ý kiến từ những ngýời có thẩm quyền hay thảo luận với những ngýời có kinh nghiệm về ðề tài mình ðịnh viết. Nhà vãn còn phải thu thập tài liệu bằng cách ghi chép ngay vào sổ bất cứ những gì hiện ðến trong óc hay những gì quan sát và ðọc ðýợc về ðề tài mình ðịnh viết. Có khi nhà vãn còn phải chụp hình, thu bãng, hay quay phim các diễn tiến sự việc ðể làm tài liệu viết vãn.
Muốn viết cho có kết quả, nhà vãn phải ðọc thật nhiều. Tôi còn nhớ ðýợc một câu của nhà vãn kiêm nhà ngôn ngữ học và thi sĩ Samuel Johnson (1709-1784) trong một tác phẩm nào ðó: "Ðể viết một cuốn sách, nhà vãn phải tham khảo một nửa số sách có trong thý viện" (The greater part of a writer's time is spent in reading. A man will turn over half a library to make one book).
e. Chọn lựa và sắp ðặt tài liệu cho hợp với nội dung của tác phẩm
Khi có ðủ tài liệu, nhà vãn cần chọn những tài liệu thích hợp nhất rồi xếp theo từng loại. Những tài liệu có cùng liên hệ về nội dung phải ðýợc xết thành từng nhóm. Những sự kiện xảy ra nên xếp theo thứ tự thời gian và nõi chốn.
2. Viết Bản Thảo (Nháp)
Sau khi việc chuẩn bị ðã hoàn tất, nhà vãn phải bắt ðầu viết ngay và viết nhanh vì trong khi viết ý týởng sẽ nảy sinh và tuôn ra dào dạt.
Những ngýời có kinh nghiệm viết vãn thấy việc bắt ðầu viết mới là việc khó khãn. Khi ðã bắt ðầu viết thì mọi sự sẽ tiến triển tốt ðẹp. Muốn ðạt ðýợc việc này, chúng ta cứ viết, ðừng ðể ý tới vãn phạm hay vãn pháp.
Hãy cố gắng trình bày tý týởng theo tài liệu ðã sýu tầm và ghi chép. Hãy viết theo bố cục ðã ðịnh và theo mục ðích ðã vạch ra.
Trong khi viết, ta sẽ có những ý týởng mới xuất hiện. Có khi ta viết ði viết lại một ðoạn vãn nhiều lần mới ýng ý.
Khi viết, ta nên viết tự nhiên theo lối hành vãn của mình, ðừng cố bắt chýớc cách viết của ngýời khác, dùng chữ giản dị dễ hiểu giống nhý khi mình nói chuyện với bạn bè, và nên dùng các câu ngắn gọn. Trong mỗi ðoạn vãn, ta nên diễn ðạt một ý týởng. Ta nên diễn ðạt tóm tắt ý týởng này vào trong một câu gọi là câu chủ ðề, rồi sau ðó, ta diễn giải ý týởng này cho rõ.
Nếu cần, ta nên dùng thí dụ ðể làm sáng tỏ ðiều mình muốn trình bày.
Cuối cùng, ta phải hình dung ra những thắc mắc của ðộc giả về những gì ta ðang viết. Có nhý thế bài viết của ta mới rõ ràng và súc tích.
Ngày nay, ta viết vãn bằng máy vi tính nên việc viết vãn lại trở nên rất dễ dàng. Ta có thể vừa viết vừa sửa bài một cách nhanh chóng. Chúng ta nên viết liên tục ðến khi xong tác phẩm rồi cố gắng ðọc lại ngay ðể sửa sõ qua lần ðầu. Sau ðó, ta nên nghỉ một lúc trýớc khi sửa lần thứ hai. 3. Sửa Bản ThảoBản thảo ðầu tiên là bản có rất nhiều lỗi. Ta nên so sánh những ðiều ðã viết với tài liệu ðã sýu tầm ðýợc ðể xem có chính xác không.
Trong kỳ sửa lần này, ta chýa cần phải ðể ý ðến vãn phạm và vãn pháp mà phải ðể ý ðến nội dung bài viết. Không chú tâm về vãn phạm và vãn pháp, nhýng nếu thấy các lỗi về vãn phạm và vãn pháp ta vẫn phải sửa ngay.
Ta cần gọt giũa, diễn giải thêm, và làm trong sáng bài viết. Sửa ði sửa lại nhiều lần càng tốt. Ðã có nhiều nhà vãn ðã sửa tác phẩm của mình ðến hàng chục lần mới hoàn tất. Ta cần tự hỏi những câu hỏi sau ðể tìm ra các khuyết ðiểm:Tác phẩm ðã ðáp ứng mục ðích ðề ra hay không? Nội dung có thích hợp với loại ðộc giả ta nhắm tới hay không? Bài viết có gắn liền với chủ ðề hay không? Có ý nào dý thừa không? Nếu có thể cắt bớt ðoạn vãn mà bài vẫn ðủ ý thì nên cắt bớt. Những gì viết ra phải cần thiết, tránh những ðiều dý thừa và lập lại một cách vô ích. Lập luận có vững không? Sự sắp xếp ý týởng có hợp lý hay không? Các ý trình bày có trôi chảy, rõ ràng, dễ hiểu, và hợp lý không? Việc dùng chữ có chính xác không? Và quan trọng hõn hết là bài viết có hấp dẫn, lôi cuốn, và chinh phục ðýợc ðộc giả không? Ta nên nhớ viết là trình bày tý týởng một cách hữu lý, mạch lạc, hấp dẫn và thuyết phục.
Muốn chắc chắn một tác phẩm ðýợc hoàn hảo, ta cần phải:
Ðọc to toàn bài của mình nếu có thệ Khi ðọc to, ta sẽ dễ thấy những ðiều sai sót ðể sửa. Nhờ ngýời khác ðọc và cho ý kiến, chẳng hạn nhý nếu bài viết nhắm vào thanh niên, ta nên nhờ một thanh niên ðọc và cho ý kiến. Viết rồi ðể ðó trong một thời gian rồi lấy ra ðọc lại, ta lại thấy có nhiều ðiều cần phải sửa.
4. Ðọc Lại Bản Thảo Lần Cuối
Việc sửa bản thảo ðã xong, ta viết lại và cho in ra ðể ðọc lần cuối. Lần này ta chú trọng về mặt vãn phạm và vãn pháp. Ðiều cần nhất là xem cú pháp có chỉnh không? Dấu chấm câu có ðúng cách không? Các chữ viết hoa và chính tả ðã ðúng chýa?
Sau khi sửa, ta ðọc lại ðể kiểm soát từng lỗi ðã mắc phải ðể chắc chắn là chúng ta ðã sửa hết các chỗ sai. Mục ðích lần sửa kỳ này là làm cho bài viết của ta rõ ràng và ðúng cách.
Nếu có thể, ta ðem bài ðã viết ðể trình bày trýớc công chúng, ðể dạy học, hay thảo luận với bạn bè. Việc này sẽ giúp ta thấy các ðiều thiếu sót. Có nhý thế ta mới cải tiến các khuyết ðiểm trýớc khi cho xuất bản.
Ðã viết vãn ai cũng mắc phải sai lầm kể cả những nhà vãn ðã thành danh và các nhà vãn vào bậc thầy. Có một ðiều là nếu ta cẩn trọng trong khi viết vãn và sửa ði sửa lại bài sau khi viết thì bài viết của ta sẽ có ít sai sót chứ chýa hẳn ðã hoàn hảo ðýợc. Muốn hoàn hảo, ta phải nhờ ngýời khác góp ý và sửa bài cho ta.
5. Liệt Kê Tài Liệu Tham Khảo
Sau khi hoàn thành bài viết hay một tác phẩm, ta phải liệt kê các tài liệu tham khảo ở ngay cuối mỗi bài hay cuối mỗi tác phẩm. Ðây là ðiều bắt buộc phải làm ðối với các loại bài hay tác phẩm có tính cách nghiên cứu và sýu tầm.
Tài liệu tham khảo giúp ta rất nhiều trong khi viết vãn. Tác phẩm của ta có giá trị hay không là do ta co ðủ tài liệu chính xác hỗ trợ những lập luận của ta hay không.
Việc liệt kê tài liệu tham khảo phải theo một tiêu chuẩn nhý sau:Tên tác giảTên sách hay tên tờ báo
Mỗi chữ của tên sách hay tên tờ báo ðều phải ðýợc viết hoa. Nếu viết tay, ta phải gạch dýới tên sách hay tên tờ báo; nếu ðánh máy hay in, ta phải dùng loại chữ nghiêng. Tựa của một bài vãn hay bài thõ ðýợc trích trong một quyển sách hay tờ báoTa phải viết chữ hoa cho mỗi chữ của tựa bài bãn hay bài thõ và phải ðể tựa bài này trong dấu ngoặc kép. Tiếp theo ðó là tên sách hay tên tờ báo (trình bày giống nhý ðã nói ở trên) mà bài vãn hay bài thõ ðýợc trích dẫn. Tên nhà xuắt bản, nõi xuất bản, và nãm xuất bản. Nếu là tờ báo, ta phải biên thêm số báo, ngày, và nõi phát hành. Sau ðây là vài thí dụ về việc liệt kê các sách tham khảo:Nếu tham khảo cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim ðể viết bài, ta phải ghi ở cuối bài viết nhý sau:
Sách Tham Khảo:
1. Lệ Thần Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Saigon, 1971. Nếu tham khảo bài thõ "Chia Nhau" của nữ sĩ Ý Nga trong thi tập Góp Lửa, ta phải ghi ở cuối bài nhý sau:
2. Ý Nga, "Chia Nhau" Góp Lửa, Nhà Xuất Bản Anh Em, Oslo, Norway, 4/2000.Nếu tham khảo bao nhiêu tác phẩm thì phải liệt kê bấy nhiêu tác phẩm.
Cuối mỗi bài vãn, bài thõ, hay mỗi tác phẩm, ta cần ghi ngày tháng nãm ðã hoàn tất bài hay tác phẩm. Ðiều này rất quan trọng cho việc nghiên cứu vãn học.
Khải Chính Phạm Kim Thý,Canada, 2001
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 8:46:32 GMT 9
Phép nói và viết hỏi ngã Hồ Týờng Phân nửa ngýời Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra, về phýõng diện hỏi, ngã, nói và viết rất ðúng, còn một phân nửa, từ Nghệ Tĩnh trở vào, nói không phân biệt hai thanh này và viết rất lầm. Sự trộn lộn hai thanh này thành một sẽ là một việc làm cho tiếng Việt nghèo nàn thêm, và làm cho lắm câu thành tối nghĩa. Ngýời có ý thức không ai dám chủ trýõng một việc nông nổi nhý vậy. Mà phân biệt hai thanh, khi nói và viết, ðối với ngýời ðàng trong, là một một vấn ðề to: vấn ðề hỏi ngã.
Mấy nãm nay, ðã có nhiều ngýời nghiên cứu vấn ðề này và ðýa ra một luật, mà chúng tôi xin gọi là luật Nguyễn Ðình, ðể nhắc nhở ngýời ðã nêu nó ra trýớc nhất. Cái hay - và cũng là cái dở - của luật Nguyễn Ðình là ðể cho ngýời ðã khá giỏi tiếng Việt dùng ðýợc mà thôi. Ðối với kẻ thiếu học, thì công dụng của nó rất ít.
Lại giá trị của luật ấy chỉ ở trong phạm vi chính tả. Ngýời ðàng trong, dầu cho ðã thạo rồi, cũng không sao nói ðúng ðýợc.
Muốn giải quyết ðến cội rễ vấn ðề này, ta hãy nghĩ xem: tại sao ngýời ðàng ngoài, dầu chẳng biết luật Nguyễn Ðình, vẫn nói ðúng và viết ðúng hỏi ngã? Ấy bởi vì từ thuở mới học nói, họ ðã nghe chung quanh họ, hai thanh này phân biệt rõ ràng. Vậy phýõng pháp của âm học, ðối với mỗi ngýời, và áp dụng cho tất cả, sẽ thành phýõng pháo giải quyết ðýợc vấn ðề ðến triệt ðể.
Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ nọ, mà ta nói vẫn sau, thì trẻ em nghe ta nói sai, sẽ nói sai, ắt là vấn ðề hãy còn mãi.
Việc ðánh dấu ðúng, tuy là cần chỉ là gáo nýớc ðể týới trận lửa to, làm sao mà trừ ðám cháy ðýợc? Còn nếu ta nhờ các thông lệ làm phýõng tiện riêng ðể phân biệt hỏi, ngã, hầu nói ðúng, thì thế hệ sau nghe ta nói ðúng, sẽ nói ðúng. Rồi ít lâu, ở toàn cõi Việt Nam, sẽ không còn vấn ðề nàỵ Chúng tôi soạn tập sách vấn ðề giải quyết vấn ðề hỏi ngã. Khi ai nấy ðã nói ðúng và viết ðúng cả rồi, vấn ðề sẽ không còn, sách sẽ hết cần, hóa thành vô dụng. Nên lòng cầu nguyện là ðýợc một ngày gần ðây, sách sẽ không ðýợc dùng nữa, và chỉ dành cho những kẻ khảo cứu tài liệu lịch sử xem chõi mà thôi.
LÀM SAO BIẾT ÐÝỢC TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ
Phýõng Pháp Tự Nhiên
Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã, thì nên theo phýõng pháp tự nhiên hõn hết, là học.
Phýõng pháp này ðã ðem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều ngýời ngoại quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khãn, song ðã chịu khó học cẩn thận rồi, thì nói, viết rất ðúng hỏi ngã. Nhiều ngýời ðàng trong, chịu khó học, cũng nói ðýợc viết ðúng nhý ngýời ðàng ngoài. Mà bằng chứng ðích xác hõn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói ðúng nhờ học từ thuở bé ở nõi chung quanh mình.
Cái may của ngýời ðàng ngoài, là sự học này là một cái học thýờng xuyên, trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà ngýời học thấy cực nhọc hay ðể tí công cố gắng nào. Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là ngýời thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngýòi thầy dạy ðúng phýõng pháp tự nhiên. Kết quả là lên nãm, lên sáu tuổi, ðứa bé ðã học xong rồi, ðến trýờng khỏi phải trở lại vấn ðề.
Cái rủi của ngýời ðàng trong là không có trýờng học tự nhiên ấy. Ngay nhà trýờng chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn ðề này. Thầy giáo nào có công, cũng chỉ dạy cho học trò ðánh dấu ðúng, khi viết. Chúng tôi chýa hề gặp một thầy giáo nào ở ðàng trong ðã dạy học trò nói thanh ngã, thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chýa nói ðýợc thay!
Vậy cần phải học, tuy trong những ðiều kiện khắt khe hõn, nhýng phải cố tìm tạo ra một hoàn cảnh gần nhý tự nhiên, và dõi theo một phýõng pháp tự nhiên. Hoàn cảnh ấy, là một nhóm ngýời biết cố gắng nói ðúng, viết ðúng hỏi, ngã. Phýõng pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc tiếng mới, không khác nào ngýời ngoại quốc học nói phải học thuộc tiếng lạ.
Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trýớc một tiếng ðể suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời ðýợc suôn, lại còn nói chi ðến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc ðể suy nghĩ nên ðánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của ngýời, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?
Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ ðiển, tự ðiển, tự vi. Những ngýời có tiếng là viết ðúng chính tả, nhý Phan Khôi, Phan Vãn Hùm, thýờng thú nhận rằng không có dụng cụ nào hõn là tự ðiển ðể tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hõi lờ mờ. Ngày nay, những từ ðiển, lấy tiếng Việt làm nền ðể cắt nghĩa và ðiển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lýu hành, nhýng lại rất cẩu thả về vấn ðề chính tả.
Học trong tự ðiển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả. Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau ðây:
Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hõn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trýớc hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hõn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏi.
Trí nhớ muốn ðýợc chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cõ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai ðã ðýợc chú trọng rồi. Còn nên cho quen mắt, bằng cách ðọc kỹ và nhiều những sách ðánh dấu ðúng, những bản viết tay ðánh dấu ðúng. Và nhất là tập ðánh dấu cho quen mắt, quen tay nhý ngýời ðàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi ðã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi ðã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nhau làm cho phần máy móc của trí nhớ ðýợc vận dụng ðầy ðủ, thì sự nhớ càng chắc.
Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, ðể tập luyện và ðể củng cố những ðiều ðã học ðýợc với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, ðể tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải ðánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Ðây là một công cuộc ðòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chýõng sau.
Phýõng pháp bác học
Phýõng pháp bác học này ðòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, ðể áp dụng những ðịnh luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, ðể tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng.
Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trýờng ðại học, ngýời ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôi. Mà khi ðã học xong rồi, phải có óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm ðýợc. Vì vậy mà phýõng pháp bác học ðýợc nhắc ðến sau ðây không phải ðể cho ai cũng dùng ðýợc.
Ðối với tiếng Việt, hai ðịnh luật sau ðây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi nhiều tia sáng và vấn ðề hỏi ngã:
Những âm thanh thýờng có xu hýớng có gần tính chất với những âm thanh ði cặp với mình. Ấy là luật thuận thinh âm
Những âm thanh thýờng biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình.
Ở ðây không phải là ðể khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nõi hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn ðề hỏi ngã mà thôi.
Do theo sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thýờng ði cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những thanh gần tính chất với nó. Ví dụ nhý:
Hỏi ði cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh Hỏi ði cặp với ngang: thẩn thõ, mõn mởn Hỏi ði cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng
Còn thanh ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thýờng ði cặp với những thanh ngã, huyền, nặng là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ nhý:
Ngã ði cặp với ngã: bãi hãi, lẽo ðẽo Ngã ði cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ Ngã ði cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi
Nếu ðảo ngýợc tính cách trên, chúng ta có thể nêu ðýợc cái thông lệ thực tiễn ðể tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Ðình)
Tiếng có thanh ngã là những tiếng ði cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền
Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ. Ðộc giả sẽ thấy rằng số ấy không phải là ít, và phýõng pháp bác học, tuy ðòi hỏi rất nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phýõng pháp tự nhiên.
Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng, hoặc biến chuyển ra, thýờng có những thanh gần với thanh cội rễ.
Nhý ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chýạ..chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chãng; thể...thế
Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng.
Nếu ðảo ngýợc tính cách này, chúng ta có thể nêu ðýợc cái thông lệ thực tiễn ðể tìm tiếng nào có thanh ngã
Tiếng có thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra
Ngoài ra còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những ðịnh luật phiền tạp, và sự áp dụng các ðịnh luật ấy chýa chắc gì ðõn giản hõn là theo phýõng pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các ðịnh luật này có rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho ðýợc và cho ðủ, cũng cần phải học thuộc lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phýõng pháp, duy lý dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng của bình dân.
Tốt hõn là dùng phýõng pháp tự nhiên, ðã dễ dàng, còn ðem lại nhiều thành tích tốt ðẹp.
Tuy vậy, những ðịnh luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà khảo cứu, ðể tìm tòi chính tả và ðiển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là giá trị của một phýõng pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong ðịa hạt của khảo cứu. Cố ðem ra ngoài ðịa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực tiễn, chýa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sý phạm.
Trái lại, nếu ta ðã dùng phýõng pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng thêm phýõng pháp bác học ðể khảo chính và củng cố trong trí nhớ những ðiều ðã học ðýợc, thì là một việc thêm hay.
Ðặc sắc của khoa học không phải là dừng nõi một phát kiến nào, mà ở nõi sự tìm tòi và phát kiếm thêm mãi. Vấn ðề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn Ðình và luật tứ thinh.
Ðứng vào một sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn ðề.
Nhý có ngýời (Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ý), khác hõn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà týợng ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc ðến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy luận thêm về vấn ðề hỏi ngã, chớ chýa ðịnh ý lập một cái luật nào mới.
Ðộc giả nên nghiên cứu bằng thuật dùng thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh giấy rời nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to một tiếng dấu ngã, kế ðến những ðiều gì mà ta cần chép ðể nhớ (nghĩa tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm học) và những nhận xét hay giả thuyết riêng của ta. Khi có ðủ bộ rồi, ta chịu khó quy nạp những nhận xét, biết ðâu ta chẳng tìm ðýợc cái gì hay ðẹp về vấn ðề?
Hồ Týờng (Paris, ðầu mùa hè 1950)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:47:26 GMT 9
CHỮ V, VÀ D (HAY DZ) TRONG TIẾNG VIỆT
Nguyên Nguyên
(tiếp theo kỳ trước)
Vấn đề có vẻ hiển nhiên nhưng khá “động trời” này đã nằm chìm trong lòng đất và dưới dòng nước của thời gian trên dưới cũng đã 300 năm. Liên quan đến vấn đề này nếu nhìn trên phương diện hoàn toàn khách quan của một người có quốc tịch Úc, Mỹ hay Pháp, Anh, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan, v.v. người ta có thể nói trong quá trình chuyển từ tiếng Nôm sang chữ quốc ngữ, người Bắc Hà đã biến chuyển lối phát âm của nước mình (Yiệt Nam ra Việt Nam), còn người Nam bộ phát âm sai Wăn hoá của dân tộc mình (văn hoá, chứ không phải yăn hoá). Sai hay biến chuyển, xin nhấn mạnh, đều lấy thế kỷ 17 làm điểm mốc. Cũng chẳng sao, bởi Yiệt xuất xứ từ lối gọi người Wăn Lang (Văn Lang, xin xem Hoàng Thị Châu, có trích dẫn trong bài “Chữ-Võ) của người Tàu từ thời cổ thượng, chứ người Yiệt trong thời đại Hùng Vương chắc hẳn đã không gọi dân tộc mình là Yiệt tộc. Còn “văn hoá” chỉ là một từ Hán Việt cũng vay mượn từ tiếng Tàu. Nếu vị trí địa dư của Việt Nam nằm xa Trung quốc hơn, chắc hẳn tiền nhân Việt Nam sẽ không gọi đó là “văn hoá” hay “văn minh” mà đã gọi hay diễn tả chúng bằng các “cụm từ” khác! Và chắc cũng không bao giờ có tên gọi Yiệt hay Việt trong lòng dân tộc! Cái gì của Caesar xin hãy trả lại cho Caesar! Phải chăng tiền nhân Việt ở hai miền Bắc Nam trong tiềm thức đã nghĩ như vậy khi họ trả lại cho Trung Quốc, từ Yiệt và wăn hoá, những gì thật sự không phải của tiền nhân nước Văn Lang?
Thế nhưng tại sao lại có hiện tượng này và tại sao nó dễ bị dòng đời quên lãng như vậy? Trước khi truy tìm câu trả lời hay các giả thiết giải đáp cho hiện tượng “động trời” này, xin nhấn mạnh phát âm V là Y hay By của đến phân nửa các từ bắt đầu bằng V trong tiếng Việt (như Buya chúa, yũ bão, công yiên, v.v.) không phải do người Nam Bộ “sáng chế” gì ra mà nó lại xuất xứ từ đất Bắc Hà. Người Bắc chỉ phát âm như vua chúa, vũ bão, công viên, và đã dần dà dẹp lối phát âm cũ trong các thế kỷ 17 đến 19 khi chữ quốc ngữ bắt đầu được phổ biến. Phát âm này cũng như một lô từ như Bông thay vì Hoa, Trái thay vì Quả, v.v. trước giờ thường tưởng là lối gọi đặc thù Nam Bộ, xuất phát ở thế kỷ 17 tại miền Bắc. Yi yân đi về phía Nam theo chúa Nguyễn đã đem nó vào Nam không hề thay đổi và giữ mãi cho đến ngày nay.
Bình Nguyên Lộc trong quyển “Nguồn gốc Mã Lai” đã trích dẫn một bài thơ, từ một quyển sách của Hoàng Xuân Hãn, của một thi sĩ Bắc Hà vào thời xưa cổ r” ràng dùng từ Bông chứ không phải Hoa! Bình Nguyên Lộc còn ghi lại theo quyển “Khâm dịch Việt Sử Thông Giám Cương Mục” của giáo sư Langlet ở đại học Văn Khoa Sàigòn ngày trước rằng có thể việc di tản chiến lược của trên 50000 lính Tàu ở Bắc Hà trong cuối thời Minh sang qua Thanh đã ảnh hưởng đến việc Hoa-ngữ hoá một số từ thông thường ở đàng Ngoài. Việc di tản một số khổng lồ của tàn quân nhà Minh đến Bắc Hà đã làm Chúa Trịnh nhức đầu không ít, nhưng rất tiếc, có thể vì một lý do nào đó, sử Việt hình như chưa có dịp nghiên cứu kỹ. Giả thiết “Hoa ngữ hoá” này được tăng thêm sức thuyết phục mạnh mẽ nếu tra ra từ Bông trong bản so sánh các từ tiếng Nôm với các ngôn ngữ thuộc nhóm Nam-Á do Hồ Lê cung cấp trong quyển kỷ yếu “Tiếng Việt và các Ngôn ngữ Dân Tộc phía Namõ. Theo đó tiếng Mường (ở ngoài Bắc) gọi Bông là Pông, tiếng Xơđăng là Bông, tiếng Chăm, Bangu. Nguyễn Du (vào thế kỷ 18) trong Truyện Kiều có câu dùng cả bông và hoa, có lẽ đúng vào thời kỳ chuyển tiếp, giao ban, giữa bông và hoa tại miền Bắc:
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
TRÁI cũng vậy. Người Biat, Co, Boloven, Brâu, Kơho gọi là PLAI (âm TL hay BL, PL ở vào thế kỷ 17 chính là âm TR hiện nay: ông Trời ngày xưa gọi ông Blời!), người Xơđăng gọi Trái là Pơlai, Xtiêng gọi Plơy, người Mường, Thay. Việc người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954 lấy làm lạ khi thấy người Nam gọi Hoa là Bông, Trái thay vì Quả, cũng giống như những người phiá Bắc sinh đẻ sau 1954 vào Nam Bộ công tác hay tham quan, hoặc thăm họ hàng sau 1975. Họ sẽ bỡ ngỡ không ít khi nghe người trong Nam nói: tìm ra, đi chơi hay đi xem cảnh, nghĩ ra, nhanh lên, v.v. thay vì: phát hiện, đi tham quan, phản ảnh, khẩn trương, v.v.. bởi sau mấy mươi năm quan hệ mật thiết với Trung quốc, ngôn ngữ Việt ở phiá Bắc cũng bị ảnh hưởng sâu đậm như thời chúa Trịnh kể trên.
Hiện tượng một từ xuất xứ ở một nơi (hoặc ngay cả lối phát âm), được người di cư đem đi chốn khác hay người chốn khác vay mượn, rồi tại nơi xuất xứ ban đầu, từ đó có biến đổi, và lâu ngày về sau nơi vay mượn hay nơi người di cư mang đến từ cũ đó vẫn giữ nguyên, - mọi người đều có thể tưởng lầm rằng từ vay mượn hay mang đi đó, hoặc cả lối phát âm, là những gì đặc thù của nơi vay mượn. Hiện tượng này đã xảy ra với tiếng Hán Việt như Vũ Thế Ngọc (trong “Nghiên Cứu chữ Hán và tiếng Hán Việtõ) đã dẫn chứng. Tiêu biểu là từ Buồng mang nghĩa Phòng (room), nhiều người vẫn thường tưởng là tiếng Nôm thuần tuý! Buồng chính là âm Hán Việt của thời Thượng cổ mượn từ Buàng trong phát âm tiếng Tàu hồi đó. Đến thời Trung cổ bên Tàu âm này biến thành Buờng, và đến ngày nay tiếng quan thoại phát âm là Fang, gần với Phòng hơn.
Sau khi ghi nhận rằng những người có trách nhiệm sáng chế ra chữ quốc ngữ chưa hẳn đã thông thạo chữ Nôm ở thế kỷ 17, ta có thể ghi nhận tiếp rằng mặc dù vậy, phản ứng của dân chúng Việt Nam đối với chữ quốc ngữ rất cuồng nhiệt! Bằng chứng là ở thế kỷ 17 có thể phỏng chừng 10 phần trăm dân số là biết đọc và biết viết chữ Nôm và chữ Hán. Đó là những nhà Nho, những quan lại, những ông Nghè ông Cử, thuộc giai cấp hàng đầu là Sĩ. Còn 90 phần trăm kia chỉ có tiếng nói mà không biết chữ viết. Tức mù chữ! Đến cuối thế kỷ 20, trong các lăng xê kêu gọi đầu tư nước ngoài vô Việt Nam, các kinh tế gia và các nhà doanh thương Âu Mỹ thường nêu lên con số 90 phần trăm dân số Việt Nam biết đọc biết viết, và vài chục phần trăm biết thêm một hai ngoại ngữ!! Đó là thành quả lớn lao nhất của chữ quốc ngữ do công trình các giáo sĩ Tây Phương. Qua việc xử dụng chữ quốc ngữ, có đến hàng trăm hàng ngàn người Việt hiểu r” tâm sự của Tố Như, và đến 90 phần trăm dân số đều biết đến Nguyễn Du và quyển Truyện Kiều bất hủ. “Lý do đầu tiên” đã khiến mọi người không để ý đến biến chuyển “động trời” của chữ V, chữ W, chữ Y, chữ D rồi Dz (!!) chính lại là “lý do tiền đâu” tức là chữ quốc ngữ đã giúp họ một phương tiện hữu hiệu cho việc mưu cầu sinh kế, và mở mang kiến thức. Mê học chữ quốc ngữ trong thuở ban đầu đến nổi quên ăn quên ngủ, quên để ý đến sự biến chuyển đó. Chữ quốc ngữ đã may mắn đến nước Nam trước cuộc cách mạng Công Nghệ diễn tiến tại Âu Châu vào thế kỷ 18. Nhưng trớ trêu thay cho giai cấp Sĩ, tức giai cấp những người Việt đã hấp thụ Tây học hay những sĩ phu tiến bộ đã góp phần chính vào việc truyền bá chữ quốc ngữ, sự lan tràn của chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng Công Nghệ đã vô hình chung đẩy giai cấp Sĩ xuống phía dưới, trong mức thang Sĩ Nông Công Thương, và đưa Công với Thương lên trên! May mắn cho Việt Nam còn ở chỗ so với tiếng Hán, chữ Nôm mà Nguyễn Du đã dùng để viết Truyện Kiều là một chữ cực kỳ khó khăn và phức tạp. Muốn học nó thông thường phải học tiếng Tàu trước!!! Muốn thông thạo chữ Nôm có lẽ phải tốn ít nhất là 7 năm, và không phải ai cũng học được, nếu không xác nhận rằng chỉ một số ít người mới học được. Trong khi đó chỉ cần chừng 9 tháng là có thể học biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ, và hầu như ai học cũng được. Chữ quốc ngữ đã tới Việt Nam thật đúng lúc và trong vài thế kỷ qua đã là phương tiện hữu hiệu cho cảm thông, thông tin, quân sự, chính trị, phát triển văn hoá, văn nghệ, mỹ thuật, ca kịch nghệ, khoa học, kỹ thuật, v.v. nghĩa là cả một nền tảng thiết yếu và thuận lợi cho sức sống dân tộc. Thử tưởng tượng nếu không có chữ quốc ngữ, người Việt sẽ phải loay hoay lâu hơn so với người Tàu và người Nhật trong việc gia nhập cách mạng internet hiện nay. Bởi tiếng Nôm còn khó hơn tiếng Tàu và tiếng Nhật rất nhiều.
Sự sai lạc hay biến chuyển của các âm như âm V và Dz (như sẽ trình bày phía dưới) có vẻ xuất phát từ những vị tôn sư ban đầu. Đó là các Cha, các ông Cố Đạo, “thầy kẻ giảngõ, các người Việt Nam thấm nhuần Tây học, hoặc những người đã theo giúp các cố đạo ra công truyền bá chữ quốc ngữ. Trong các tác giả tiên khởi của chữ quốc ngữ có mặt tại Việt Nam vào khoảng thế kỷ 16, đáng kể nhất là Alexandre de Rhodes còn gọi Jean Rhodes, vào đàng Trong giảng đạo trước, về sau ra đàng Ngoài, và có gặp chúa Trịnh. Sau đó Alexandre de Rhodes trở về Pháp và cho xuất bản địa đồ nước An-Nam vào năm 1649, quyển Sử Ký Bắc Hà năm 1652, và quan trọng nhất, quyển tự điển tiếng Việt-Bồ Đào Nha-và tiếng Latinh (1651). Thế tại sao tên quan trọng nhất Yiệt Nam các giáo sĩ thuở ban đầu và một hai thế kỷ sau lại không lưu ý để nó tự biến thành Việt Nam? Thật ra quốc hiệu của nước trong suốt từ thế kỷ 15 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh cho đến đầu thế kỷ 19 khi Gia Long thiệt lập nhà Nguyễn, là một vấn đề hơi lộn xộn, và hình như chưa có công trình nào nghiên cứu kỹ việc này. Cũng như việc nghiên cứu xem vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, v.v. hay ngay cả Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, ông nào có học qua chữ quốc ngữ và ông nào thông thạo quốc ngữ nhất - sử liệu hãy còn thiếu sót. Các sách sử có ghi sau khi đuổi xong quân Minh, Lê Lợi tạo dựng nên nhà Lê và tự đổi quốc hiệu ra Đại Việt. Nhưng quốc hiệu Đại Việt này đã không có sự chuẩn nhận của Trung Quốc, và của “quốc tếõ! Tức Trung Quốc trong suốt vài thế kỷ sau Lê Lợi vẫn tiếp tục gọi nước Nam là An-Nam. Bằng chứng: (i) Bắc Kinh tấn phong Nguyễn Huệ với tước An-Nam quốc vương, trước khi Gia Long vào năm 1802 sai sứ sang Tàu xin đổi quốc hiệu ra Nam Việt trở lại. (Nhưng nhà Thanh không cho vì nghĩ đến nước Nam Việt rộng lớn của Triệu Đà trước đó khoảng 2000 năm đã lan qua đến một phần của Quảng Đông và Quảng Tây, nên chỉ thuận với tên Việt Nam). (ii) Hoà ước Patenôtre 1884 vẫn ghi nước Việt là Đại Nam. Nghĩa là đối với những người có công tạo dựng và truyền bá chữ quốc ngữ trong suốt trên 200 năm, từ Việt hay Yiệt hoàn toàn không có trong tâm thức của họ!!! Họ chỉ biết nước đó là nước An Nam, hay cùng lắm thêm vào Cochichine (Nam kỳ) hay Tonkin (Bắc kỳ) mà thôi. Họ gọi chung người Yiệt là người An Nam. Trong giả thiết quy lỗi ở những vị Thầy đầu tiên trong khoảng thế kỷ 17-19 đã gây ra chuyện ký âm biến chuyển ở V đi làm dâu hai họ W và Y (hay By), chúng ta có thể đặt ra thêm 3 giả thiết nhỏ nằm dưới tiêu đề giả thiết “Sai do lỗi ở Thầy".
Giả thiết nhỏ thứ nhất: Ký âm này do ở chỗ chính các tác giả đầu tiên chưa thấm nhuần và thông thạo toàn diện tiếng Nôm, như đã bàn qua ở phía trên. Có lẽ các tác giả đầu tiên phải thảo ra chữ quốc ngữ trong một thời gian ngắn do ở sự đòi hỏi cấp bách của các cấp trên ở tại Paris. Thành ra còn một hai âm chưa được nghĩ ra hoàn tất như âm “By” trong các từ như Byải (vải), Byua (vua chúa - tuy nhiên Bình Nguyên Lộc có ghi các Cố đạo thoạt đầu có ghi Bua cho Vua như ta đọc ngày nay), Byiệt (trong Nam Việt - bởi lý do người Nhật gọi Việt Nam là Beto-Nam), v.v.
Giả thiết nhỏ thứ hai: Ký âm này do ở các Thầy (có thể có một vài Cô - như các Bà Phước chẳng hạn, cũng lại một điểm sử liệu còn hơi thiếu sót) ở thế hệ thứ hai, và thứ ba, v.v. Đó là những Cố đạo, những giáo sĩ đến nước Nam một vài chục năm hay cả trăm năm sau các tác giả ban đầu, bấy giờ đã về với cõi Chúa. Tất nhiên khả năng tiếng Việt của họ có thể sâu rộng hơn hay kém thông thạo so với các giáo sĩ tác giả nguyên thủy. Thêm vào đó chắc chắn có thêm các thầy cô người Việt bản xứ đã theo giúp việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trong tất cả những người thuộc các thế hệ tiếp nối này chắc chắn sẽ có vài vị thắc mắc một vài điểm kỹ thuật trong toàn bộ chữ quốc ngữ mà các giáo sĩ như Alexandre de Rhodes đã “sáng chếõ. Và . . . có thể họ đã tự ý thay đổi một vài âm - trong đó có âm V hoàn toàn thay thế cho các âm bắt đầu bằng Y (như yiên chức, thay bằng viên chức), bằng By (Byải: thay bằng Vải), hay bằng B (Bua: thay bằng Vua). Khi họ thay như vậy người Bắc Hà hoàn toàn chấp nhận đổi mới và đọc luôn những từ đó bắt đầu bằng V. Người Nam Hà ngược lại tưởng V dùng để ký âm cho By (ông byua, bà byải) hay Y (yũ lộ, diễn yiên), nên khi gặp phải bất cứ từ nào bắt đầu bằng V họ đều đọc tuốt ra ra By hay Y hết trọi: Byăn hoá (văn hoá), con yoi (con voi), v.v.. Họ dẹp và đọc lầm một số từ bắt đầu bằng W khi xưa - như tiền nhân họ đã từng đọc khi còn ở miền Bắc - nhưng vẫn giữ được cách đọc đúng của lối phát âm trên toàn cõi nước trước đó khoảng trên 100 năm: Yiệt Nam hay Byiệt Nam! Ở phía dưới ta sẽ thấy giải thích tại sao D được đọc như Dz tại Bắc Hà - và chính điểm này cộng với âm chữ V của miền Bắc là một âm hoàn toàn “Tây” khiến ta có thể đặt ra thêm một giả thiết nữa. Đó là các Thầy ở các thế hệ sau của phía Bắc có thể vẫn gồm nhiều giáo sĩ gốc Pháp hơn các Thầy dạy chữ quốc ngữ ở Nam Bộ. Ta có thể tìm ra luôn một sự liên hệ mật thiết (strong correlation) giữa phát âm chữ V, chữ Dz (thay cho D) ở miền Bắc với tỷ số người theo Đạo ở miền Bắc so với miền Nam.
Giả thiết nhỏ thứ ba là một giả thiết mang nhiều trí tưởng tượng và ảnh hưởng của các phim xinê Hollywood. Đó là loại giả thiết theo kiểu conspiracy theory (thuyết về âm mưu toa rập), được đặt ra để viết tiểu thuyết, để làm đề tài quay phim kinh dị thu hút hàng triệu khán giả trên toàn cầu. Thường chỉ để giải trí mà thôi. (Xin xem phim về conspiracy gần đây do Mel Gibson và Julia Roberts thủ vai chính). Thuyết về âm mưu toa rập sẽ nói có thể đã có một nhóm thực dân chủ trương phải cho hai kỳ Bắc và Nam phát âm khác nhau để chia nước Nam ra cho dễ cai trị. Rất dễ, họ chỉ cần dạy người học chữ quốc ngữ lần đầu, trong Nam từ nào viết bắt đầu bằng V hãy đọc By hay Y, ngoài Bắc hễ thấy từ nào viết bắt đầu bằng V cứ đọc như tiếng Tây. Chỉ có vậy thôi.
Quan sát Thầy rồi, xin thử quan sát Trò. Trò là ai? Trước khi chữ quốc ngữ đến với hàng vạn rồi hàng triệu người học trò cuối cùng là những người trong dân gian, những người học trò đầu tiên, trong số hàng chục đến hàng trăm hàng ngàn trong thời buổi ban đầu, đều trở thành những người Thầy người Cô nhận trách nhiệm thiêng liêng truyền bá chữ quốc ngữ cho dân tộc. Đa số những người học trò đầu tiên nhanh chóng trở thành Thầy đó đều là những người Việt, những người theo Đạo, những người theo Tây học, và một số sĩ phu tiến bộ đã thấm nhuần Nho học. Ta có thể suy đoán rằng chỉ có chừng một trăm người học trò ban đầu đã có thể học chữ quốc ngữ trực tiếp từ các tác giả đã “sáng chế” ra chữ quốc ngữ mà thôi. Điểm này vẫn chưa quan trọng. Điểm khác biệt quan trọng nhất của người học trò, hay “đồ đệõ, ở thế kỷ 17-19 với người học trò, hay “sinh viênõ, ở cuối thế kỷ 20 và sang thế kỷ 21 hiện nay là gì? Đó là người học trò ở các thế kỷ trước dưới ảnh hưởng ngàn đời của văn hoá Trung quốc cổ xưa luôn luôn tôn kính các bậc Sư bậc Thầy của mình. Thầy dạy gì học đó, không hề thắc mắc hay đặt nghi vấn với Thầy. Đó cũng là người học trò ở các thế kỷ trước hoàn toàn thiếu thốn trang bị của tinh thần khoa học Tây Phương như ngày nay. Tinh thần khoa học bao gồm việc phân tích và tổng hợp dựa vào những quan sát khách quan về sự kiện. Thiếu sót về phân tích khoa học cộng với dư thừa trong việc tôn kính ân sư đã khiến những người HọcTrò-trở-thành-Thầy đó qua nhiều thế kỷ không thể nào “phát hiện” được một vài điểm thiếu hoàn hảo (như V dùng để thay cho W và Y) nằm ngay trong lòng tiếng Việt mến yêu.
Thế còn những người học trò có ít nhiều hiểu biết về tiếng Tàu thì sao? Tại sao tiếng Tàu đọc Yue Nan hay Yuet Nam cho Việt Nam mà họ cũng không phát hiện được có cái gì hơi lạ ở chữ quốc ngữ? Ta phải phân biệt thêm tiếng Tàu ở nước Việt Nam là gì. Thường gọi đó là tiếng Hán hay đúng hơn, Hán Việt. Tiếng Hán Việt là một hệ thống phiên âm tiếng Tàu nói theo giọng Hoa Bắc, tức gần với giọng Quan Thoại hơn giọng Quảng Đông (xem Vũ Thế Ngọc, Bình Nguyên Lộc). Thật ra nó gần với giọng tiếng Tàu ở thời Trung Cổ hơn hiện tại (xem Vũ Thế Ngọc). Nó lại được phiên âm theo “khẩu vị” của người Việt phát âm tiếng Nôm. Thí dụ Hoài Cổ quan thoại đọc Huai Gu, Nam Bắc quan thoại đọc Nan Bei, Mao Trạch Đông, đọc Mao Ze Dong, tái kiến, quan thoại: zai jian. Người Việt Nam đọc tiếng Hán Việt người Tàu chỉ hiểu được chừng 5 phần trăm là cao!! Ngược lại người Tàu, Quảng Đông, Phúc Kiến hay Bắc Kinh có đọc thơ văn Lý Bạch hay nói cái gì đi nữa, người tinh thông Hán Việt nhất cũng chỉ có thể đoán được đến 10 phần trăm là giỏi lắm rồi!
Cái thế bí mật của sự biến chuyển âm chữ W và Y sang âm chữ V như Wương Yũ thay vì Vương Vũ, yĩnh yiễn cho vĩnh viễn, người rành tiếng Hán Việt qua nhiều năm vẫn không thể khám phá ra được bởi vì chữ quốc ngữ đã được dùng để ký âm luôn cho tiếng thuần Nôm (như đi về, sức mấy, động trời) và tiếng Hán Việt (trọng yếu, Kinh tế, vũ lộ, vĩnh viễn). Và tiếng Hán Việt đã tách rời khỏi tiếng Tàu từ lâu trong cách phát âm. Tiền nhân Việt Nam không bao giờ phải kiểm lại rằng từ Hán Việt này, từ Hán Việt nọ hiện đang được phát âm bên Tàu ra sao. Tiếng Việt biến chuyển ra sao thì tiếng Hán Việt cũng thay đổi y như vậy. Yũ để chỉ mưa, lông chim viết thành Vũ thì tiếng Hán Việt cũng phải chấp nhận dùng Vũ luôn thôi. Thành ra chỉ cần sang một thế hệ ký âm không đúng sẽ dễ dàng trở thành đúng.
Có một giới rất rành tiếng Việt và tiếng Quan Thoại, Quảng Đông, v.v. sau khi chữ quốc ngữ ra đời. Đó là những người sứ thần hay tùy yiên sứ quán sang Tàu làm việc (yiệc?) và những nhà cách mạng Việt Nam bôn ba lưu vong và sống lâu năm bên Tàu. Hoặc những thương gia gốc Hoa hay gốc Việt đi qua đi lại hai nước. Những người này là những người không bao giờ có được một phút nghĩ đến chữ quốc ngữ! Tựu chung những điểm thiếu hoàn hảo của V đã ẩn mặt dễ dàng đối với cả hai giới thông thạo chữ Nho (Hán Việt) và giới nói rành tiếng Quảng Đông hay Quan thoại.
Ta cũng phải để ý sự nồng nhiệt trong việc đón nhận rồi giúp truyền bá chữ quốc ngữ của giới sĩ phu trí thức của nước An-Nam. Mục đích sâu xa và thầm kín của họ chắc hẳn đã bao gồm việc mở mang và nâng cao dân trí để giành lại chủ quyền quốc gia, tạo dựng cho dân tộc một ngôn ngữ mới tách khỏi cái rườm rà rắc rối của chữ Nôm và chữ Tàu. Họ có thân Tây ít nhiều đi nữa, việc đóng góp vào sự phát triển chữ quốc ngữ, theo thiển ý, là một hành động mang tính chất cách mạng, góp phần không ít trong việc đánh đuổi thực dân. Thời gian hai ba trăm năm xem ra thật ngắn, rất ngắn trong sự bận rộn của cả một dân tộc lo thức tỉnh trước trào lưu tiến bộ của thế giới, lo tranh thủ độc lập cho nước nhà. Bởi vậy V thế cho W và Y, D thay cho Y, rồi Đ bất đắc dĩ trám chỗ cho D-Tây là những chuyện “tầm phàoõ, “vu vơ” chẳng ai màng để ý đến.
Bây giờ xin quan sát phát âm chữ D-Việt, và thử tìm giải thích tại sao người Bắc Hà thường có khuynh hướng phát âm thành Dz.
Việc thay thế cho âm Y bằng D-Tây (đọc là Đ) như dans le jardin, Demi Moore, diaspora, rồi dùng Đ của tiếng Iceland trám chỗ cho D là một việc làm thiếu hoàn hảo của các tác giả chữ quốc ngữ. Đó là những từ như Dầu (quan thoại: You), Dùng (Yong), Dễ (Yi), Dì (Yi, chị hay em gái của mẹ), Dược (như Dược Sĩ, quan thoại Yao), v.v. Và rất có thể D-Việt, nếu dùng để thay cho Y, đáng lẽ phải được dùng viết luôn cho những từ như Dĩnh diễn (vĩnh viễn, yong yuan), công diên (công viên, gong yuan), v.v. Nhưng lại không. Từ đó ta có thể thêm một giả thiết rằng phải chăng tiền nhân Việt Nam ở thế kỷ 17 hoặc trước đó đã phát âm đến phân nửa các từ bắt đầu bằng V như Việt Nam, công viên, vải vóc, thật sự bằng By như Byiệt nam, công byiên, byải byóc, cho nên các tác giả ban đầu đã không ký âm các từ này bắt đầu bằng D-Việt tức âm Y thuần tuý?
Việc thay thế âm Y bằng D-Việt đã gây ra 2 hệ quả quan trọng. Thứ nhất, đối với người Việt di tản ra định cư ở nước ngoài, những người có tên bắt đầu bằng chữ D-Việt đành phải từ giả lối xưng hô danh tánh, cha sinh mẹ đẻ của mình. Danh đọc thành Đanh, Di đọc thành Đi, Diên đọc thành Đien. Và đặc biệt hai tên đẹp cho người nữ và người nam là Mỹ Dung và Anh Dũng đều phải đọc My Dung và Anh Dung. Dung hay Dũng viết không dấu thành ra Dung hết. DUNG đọc theo tiếng Mỹ tiếng Anh lại trở nên một danh từ mang ý nghĩa “hết sức hôi hám” (nghĩa: phân bò)! Do đó khuynh hướng thông thường hiện nay của người Việt định cư ở các nước nói tiếng Anh tiếng Mỹ mang tên bắt đầu bằng chữ D thường bắt buộc phải biến nó ra thành Dz, biến Dung thành Dzung, hoặc một đôi khi và có vẻ đúng hơn: Yung, như Yung Krall.
Hệ quả thứ hai xảy ra tại miền Bắc có lẽ cũng đã hai ba trăm năm rồi. Đó là lối phát âm D-Việt thành ra Dz. Xin nhắc lại D-Việt có âm như Y, trong dinh dưỡng, và D-Tây có âm như Đ, trong dans, Denis, Disneyland. Ta hãy thử tìm giải thích hiện tượng này bằng hai giả thiết sau đây.
Giả thiết thứ nhất là giả thiết “Sai theo lối hài thanh” như đã đề cập ở phía trên. Đó là cách phát âm theo với chữ viết, như V viết cho Vũ thay vì đúng ra phải Y như Yũ chỉ mưa gió, người đọc sẽ đọc nó như Vũ (với âm V của tiếng Tây). Theo với giả thiết này ta hãy xem xem âm bắt đầu bằng D-Việt đã có viết chuyển biến qua lại với âm bắt đầu bằng Gi hay không. Thí dụ: dở chứng hay giở chứng; Dành giật hoặc giành giật - với điều kiện ta phải thấy r” rằng sự biến chuyển qua lại này xảy ra rất nhiều trong tiếng Việt.
Lật một quyển từ điển Việt Hán ta thấy những điểm r” rệt như sau:
D-Việt như trong Dầu hỏa, dĩ vãng, dinh dưỡng, dự báo, di cư, biểu diễn, dĩnh ngộ, Dương Qua, v.v. nếu bắt nguồn từ tiếng Hán với những từ tương tự đều phải bắt đầu bằng Y : Shi you (dầu từ đá), yi wang, ying yang, yu bao, yi ju, biao yan, ying wu, Yang Guo.
Âm Gi trong tiếng Việt, gần gần với âm Dz, như Trường Giang, giám hộ, thế giới, giao thiệp, giải thích, giới tuyến, Giáo Hoàng, giảm giá, nếu bắt nguồn từ chữ Hán thông thường sẽ bắt đầu bằng Ji: Chang jiang, jian hu, shi jie, jiao she, jie shi, jie xian, Jiao huang, jian jia, v.v.
Gần như hoàn toàn không có âm nào bắt đầu bằng Ji trong tiếng quan thoại khi chuyển qua tiếng Hán Việt lại bắt đầu bằng D-Việt cả. Như vậy D-Việt đặt ra để thay thế chính yếu cho Y. Nguyên thủy bắt buộc phải đọc yầu hỏa, yĩ vãng, yinh yưỡng, yự báo, yi cư, biểu yiễn, v.v.
Ta cũng phải xem xem trong những từ Việt thuần Nôm có những từ nào có thể bị tình nghi gây ra lối sai hài thanh cho chữ D-Việt hay chăng. Tìm tòi bằng cách đối chiếu với các tiếng như tiếng Mường, tiếng Khả Lá Vàng, tiếng Mã Lai, v.v. Rất khổ việc này cực kỳ khó khăn vì ở Việt Nam cho đến nay hình như chỉ có vài ba người đã nghiên cứu về vấn đề này, như Bình Nguyên Lộc và Hồ Lê. Chỉ có thể tìm ra lác đác một hai từ trong các bản đối chiếu đã xuất bản:
Dừa (Coconut): Nyor (Mã Lai), Đôn (Kampuchia), Prao (Thái Lào)
Dòm (Nom/Lom, look): yôô (Darang), yao (Vu), yau (En), yaung (Son)
Dùa (Vơ, sweep off): iok (Hrê), yok (Bahna), yok (Xơ đăng), chok (Giế triêng)
Giết (kill): kuchit (Môn), gơxớt/xvêt (Kơho), kachêt (Tà Ôi), ziet (Theng)
Gió (wind): kyaal (Môn), kơyol (Khơme), kayêu (Hrê), kuyal (Bru), khial (Co)
Giỡ (giỡ nhà, lift/remove): yuk (Môn), yơik (Danaw), Đ-yuk (Palaung), yơk (Mnông)
Ta để ý trong bản đối chiếu ngắn ngủi này, âm D-Việt vẫn còn tương đương với âm Y. Âm Gi khi thì gần với Y như trong Giỡ và Gió, nhưng r” ràng sát với Gi như trong Ziet (giết), tiếng Theng, hay kachêt tiếng TàÔi, hoặc gơxớt (Kởho) đọc thật nhanh.
Giả thiết đọc D-Việt thành ra Dz do ở sự biến chuyển con thoi qua lại giữa D-Việt và Gi do đó thiếu sức thuyết phục vững chắc.
Giả thiết thứ hai liên hệ đến việc “sai do lỗi ở Thầy” như đã đề cập phía trên. Các Thầy ban đầu, nhất là các Thầy nói tiếng Tây rất quen, đa số đã phát âm D-Việt (tức Y, như trong dan díu) thành ra Dz trong hàng chục hàng trăm năm đầu, nên các trò và đại đa số dân chúng phía Bắc đã tiêm nhiễm và phát âm theo y như vậy. Thế nghĩa là thế nào?
Muốn hiểu rõ ta hãy thử đặt mình vào vị trí của những vị Thầy vào thế hệ thứ hai thứ ba sau các tác giả đầu tiên. Từ Pháp đến xứ An-Nam những người Thầy đó phải học cấp tốc tiếng quốc ngữ của người bản xứ để mai mốt có thể giảng đạo. Họ tự học cấp tốc tiếng quốc ngữ bằng cách thực hành qua trung gian những người rành 2 thứ tiếng Tây và Nôm, hoà mình “nói đạiõ, “học đại” với người địa phương, cũng như ngày đêm tra cứu những quyển sách tài liệu mà các người “sáng chế” chữ quốc ngữ đầu tiên đã để lại. Khó khăn thông thường nhất của những vị Thầy Tây này và ngay cả những người Việt bản xứ đã học qua chữ cái alphabê và thông thạo tiếng Tây là gì? Đó là khó khăn nhận diện một chữ cái rất quen thuộc ở tiếng Tây nhưng bị “cưỡng ép” phát âm khác biệt một trời một vực. Đó là chữ D-Tây (đọc là Đ) bị ép phải đọc như Y (viết dang dở, lại không đọc đang đở như Tây, mà phải đọc là yang yở!). Bởi chữ D-Tây đã và đang bị thay thế một cách thiếu tự nhiên bằng Đ, như đáo để, đáng lẽ phải viết theo kiểu Tây là dáo dể! R” thật lộn xộn.
Thế tại sao D tự nhiên biến thành Dz? Xin mạo muội đưa ra giải thích rằng mỗi khi các vị tôn sư người Pháp này hay các Thầy người Việt chưa rành chữ quốc ngữ (trong lối đánh vần) nhưng đã khá thông thạo tiếng Tây gặp phải những từ viết bằng chữ D trong giờ “Tập Đọc” của lớp học chữ quốc ngữ: những từ như Danh dạy dỗ Duyên, Dung dạn dĩ (với) Danh, v.v., họ sẽ dễ dàng bị lúng túng và . . . nhầm lẫn. Theo bản năng cố hữu từ thuở cha sinh mẹ đẻ, họ sẽ dễ đọc nhầm chữ D-Việt thành ra chữ D-Tây trở lại (tức Đ, như au dedans, déja-vu, v.v.). Tức họ sẽ đọc Danh thành Đanh trong chừng một tíc tắc của thời gian, chừng 1 phần trăm hay một phần ngàn của một giây đồng hồ. Sau khoảng thời gian nhanh chóng đó, với trí hiểu biết của một bậc Thầy họ nhận diện liền ngay rằng Danh phải đọc là Yanh, lập tức họ sẽ biến chuyển phần phát âm còn lại trở thành Yanh. Tức là họ sẽ phát âm D như Đờ-Yờ và Danh như Đờ-Yờ-ANH.
Ta thử đọc nhanh Đờ-Yờ xem sao: Đờ-Yờ => Đờ-Yờ => Đờ-Yờ => ĐờYờ
Nhanh hơn nữa: ĐờYờ => ĐờYờ => ĐờYờ => Đ-Y => Đy = ĐY => . . . Đz= Dz !!!
Đọc thử Duyệt (lịch duyệt) hay Dĩnh (dĩnh ngộ) thật nhanh theo kiểu những vị Thầy gốc người Pháp xem sao:
ĐờYờ-uyệt => ĐờYờ-uyệt => Đ-Yuyệt => ĐYuyệt => . . . Đzuyệt = Dzuyệt !!!
ĐờYờ-ĩnh => ĐờYờ-ĩnh => Đ-Yĩnh => Đyĩnh => . . . Đzĩnh = Dzĩnh !!
Âm Y đi theo sau chữ D-tây sẽ trở thành một âm gió y hệt như âm Dz. D trước z trong Dz chính nguyên thủy là D-Tây. Và Dz thật ra phải được viết là Dy, hay đúng phiên âm hơn ĐY. Nhưng quyền viết ra Dz là quyền của người hay những người viết ký âm ra nó đầu tiên. Sự biến chuyển của D-việt ra Dz này nghĩ cho kỹ cũng vẫn là một biến chuyển do ở “hài thanhõ. Thấy chữ giống nhau người ta hay đọc giống nhau: Thấy chữ D-Việt lại lầm là D-Tây nên thay vì phát âm như Y các Thầy thời xa xưa đã có khuynh hướng nhận diện và phát âm nó như D-Tây. Nhưng chỉ trong một tíc tắc của thời gian thôi. Sau đó các Thầy Tây này sẽ nhận thức sai lầm của mình và uốn lưỡi lại sao đó để trả nó về âm Y. Từ đó sinh ra Dy và Dz.
D đọc ra Dz và V đọc luôn cho W và Y hay By, cả hai dễ dàng đưa chúng ta đến giả thiết rằng các Thầy dạy chữ quốc ngữ ở Bắc Hà nhiều người Pháp hơn ở Nam Bộ, và việc này cũng liên hệ mật thiết đến số người theo Đạo ở Bắc Hà có vẻ đông hơn ở Nam bộ.
Thử kiểm chứng thêm về giả thiết “hài thanh” của những vị Thầy ban đầu trong âm D (cho Y) đọc như Dz. Ta phải tìm xem có một trường hợp nào tương tự như vậy chăng? Có. Thật ra âm Dz là một thứ âm Z nhẹ, rất nhẹ. Giữa D-việt và Z. Nó cũng giống xa xa gần gần với âm Z trong pinyin của tiếng Quan thoại: Mao Ze Dong (Mao Trạch Đông), zai jian (tái kiến), zai nar (tại đâu), v.v.. Âm Z này của tiếng quan thoại ngày xưa phiên âm theo kiểu Wade-Giles (xin xem bài chữ-V) được viết là Ts: Mao Ze Dong xưa được viết Mao Tse Tung. Nay, theo pinyin do chính người Tàu soạn lại, Ze thế Tse, Dong thế Tung. Tung với Dong, nhất là T với Đ, là hai âm có động tác phát âm ở lưỡi gần giống nhau. Thí dụ để ý khi đọc Toàn hay Đoàn, Đoàn chỉ khác với Toàn trong vị trí đầu lưỡi nằm sâu trong miệng hơn một chút. Ts (tức TờXờ - trong Mao Tse Tung) đọc nhanh cũng giống như Đờ-Xờ (Ds), ngày trước đã dùng y như cho Z-nhẹ ngày nay - trong Mao Ze Dong. Thành ra chữ D-Việt đọc theo giọng lớ của các Thầy gốc Pháp là Dz hay DY, tức một loại Z-nhẹ, cũng giống như một loại Z-nhẹ KHÁC đã được dùng để thay cho TờXờ (Ts) trong pinyin (phiên âm) của tiếng quan thoại ngày nay.
Bài này đặc biệt sẽ không có phần kết. Chỉ xin tóm tắt một vài điểm chính:
Tiếng Việt cho đến thế kỷ 17 hoàn toàn không có âm chữ V.
Trong việc kiến tạo chữ quốc ngữ, các giáo sĩ đã dùng chữ V thay cho W (như con Woi) và Y hay By (như Yiệt Nam hay Byiệt Nam).
Vấn đề tìm hiểu âm cổ của chữ V thật sự là một chuyện “vu vơ” trong trên 300 năm qua.
Chữ D phát âm như Dz là hệ quả tất yếu của việc dùng D thay cho Y, rồi Đ thay cho D-tây, mà những vị Thầy người Pháp đã vướng phải do ở thói quen “hài thanhõ.
Postscript (Viết Sau): Phạm Quỳnh trong tạp chí Nam Phong số 84 Tháng 6 - 1924 (xem Phạm Quỳnh 1892-1992, Nhà xuất bản An Tiêm 1992) đã dùng “yêm-bác” tiền thân của uyên bác sau này. Học giả họ Phạm cũng dùng i-ngắn trong các từ như mĩ thuật. Yêm bác, xuất xứ từ tiếng quan thoại yuan bo, có lẽ là từ cuối cùng có phát âm Y như quan thoại được biến chuyển ra khỏi Y trong thời đại cận kim. Việc biến chuyển của Yêm bác đã để lộ một vài tông tích và dấu vết: (i) Tiếng Hán Việt ngày xưa quả thật đã dùng âm Y (như D-Việt) cho phân nửa âm hiện bắt đầu bằng V ngày nay; (ìi) Sở dĩ Yêm bác còn tồn tại cho đến khoảng thế chiến thứ 2 là vì đó là một loại từ ít được dùng tới, và người trong dân gian coi đó là thứ dao to búa lớn, không hiểu đó là gì; (ììi) Uyên bác thật sự sẽ có ký âm là Wiên bác nếu chữ quốc ngữ có chữ cái W, hay ít lắm đáng lẽ phải viết thành viên bác. Điều này chứng tỏ ai đó (có lẽ thuộc Tự Lực Văn Đoàn) viết lại Yêm bác thành uyên bác có hiểu biết rằng V đã thay cho W và Y, nhưng vì phải biến đổi trễ nếu không nói sau cùng, nên thay vì viết viên bác hay viêm bác họ phải viết thành uyên bác. Sao vậy? Bởi Viên hay Viêm đã bị các từ mang nghĩa khác cũng biến từ âm Y chiếm mất hết rồi: Công Viên (gong yuan) và Viêm Nhiệt (Yan re)!
(b) Bình Nguyên Lộc có trích dẫn từ công trình nghiên cứu về người Mường của Jeanne Cuisinier: “Les Mường, Géographie humaine et Sociologie”, xuất bản năm 1946, viết rằng “người Mường có khuynh hướng phát âm chữ V như Bi”. Nghĩa là vải vóc họ đã đọc như Biải Bióc, y hệt như người Nam Bộ! Và theo thống kê năm 1946 của bà Cuisinier, tổng số người Mường độ 300000, trong đó 136000 cư ngụ ở Hoà Bình, 86000 sống ở Thanh Hoá, 30000 ở Phú Thọ, 20000 tại Sơn Tây.
Nguyên Nguyên
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 24, 2010 3:25:21 GMT 9
”THIÊN ĐƯỜNG TÌM LẠI” CUẢ HỒ TRƯỜNG AN, NÓI VỀ DÂM THI , DÂM CA, DÂM KINH...TRONG LỊCH SỬ, VĂN HOÁ, VÀ TÔN GIÁO CỦA LOÀI NGƯỜI
- Đặng Văn Nhâm - KHỞI: GIỚI THIỆU HAY CHƯỚNG NGẠI? Trước tiên tôi được biết đến“Thiên đường tìm lại”, một tập dâm thi của nhà văn Hồ Trường An, là nhờ bài giới thiệu khéo léo và phê bình rất dễ thương cuả nhà văn nữ Vũ Thi An, đăng trên tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn (số 23, tháng 6. 02, trg.63, nhan đề “vấn đề dục tính trong thơ văn VN”). Vài ngày sau tôi mới nhận được tập thơ này do chính tác giả gửi tặng. Vốn là một kẻ đam mê những gì trong phạm trù văn hoá có dính líu đến chữ “dâm” hay có vị “dâm”, tạm gọi là “dâm hương trong chữ nghĩa” , nên tôi vội vàng tò mò mở ra đọc. Nhưng mới vài trang đầu, gọi là “khởi”, tôi liền bị khựng lại ngay, bởi bài “thi văn dục ái qua thiên đường tìm lại ” của tiến sĩ Lưu Nguyễn Đạt, viện trưởng VIỆN TƯ TƯỞNG VIỆT trong vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nước Hoa Kỳ ! Đọc bài cuả ông Đạt, tự nhiên tôi bị cụt hứng và khó chịu vô cùng. Cảm giác cụt hứng và khó chịu cuả tôi ví chẳng khác nào cảm giác của một gã si tình, đã mót lắm rồi, lại sắp sửa được giao hoan khoái chí với người đẹp đã loã lồ sẵn sàng chờ đợi trên giường, bất ngờ lại bị một bậc đại nhân,cực kỳ nghiêm nghị, chưng diện bảnh bao, hào nháng, với luận điệu rất “moralisateur”, cố níu lại để giảng giải lang bang những chuyện kinh kệ, thần thánh lăng nhăng trên trời dưới đất! Về nội dung, bài “KHỞI” của ông Đạt, viết rất cầu kỳ, cộng thêm một số trích dẫn điển cố các huyền thoại La-Hy và tên mấy bộ kinh tôn giáo.Tuy nhiên, xem ra vẫn chẳng đủ khả năng minh giải, hay phát lộ tính chất quan yếu, cao quí, và thiêng liêng cuả chữ “ dâm” trong văn học, tôn giáo và lịch sử nhân loại. Trong suốt 9 trang chữ, đã được trịnh trọng đặt ngay đầu thi phẩm, ông Đạt vẫn không đạt nổi mục tiêu thông thường, tối thiểu, của người viết tựa là kích động khiếu thẩm dâm cho người đọc trước khi họ bắt đầu nếm cái vị dâm tràn trề lai láng trong 112 trang giấy khổ nhỏ cuả nhà văn Hồ Trường An. Có lẽ chính vì thế mà cô Vũ Thi An, một phụ nữ trí thức tuổi xấp xỉ trung niên (đã có chồng , con, tất chẳng lạ gì với những chuyện hành dâm, hay những câu dâm thơ v.v...) đã phải thành thực kể lại trong bài phê bình dẫn thượng:”Tôi mở tập thơ ra xem, phải đỏ mặt ngay”. Theo tôi, sự “đỏ mặt” của cô Vũ Thi An là một phản xạ tự nhiên trước một trạng thái đột ngột, sững sờ, vì tinh thần chưa được chuẩn bị. Cái sự “ đỏ mặt” đó đồng bào miền Nam gọi là : mắc cở, con người Bắc gọi là: xấu hổ.Chỉ có thế thôi! Đó là một bằng chứng thất bại rõ rệt. Sự thất bại ấy, thực ra không nằm trong nội dung thi phẩm hay thuật dụng ngữ của Hồ Trường An, mà lại do chính bài “khởi”của ông Lưu Nguyễn Đạt. Người đọc có cảm nghĩ dường như ông Đạt viết bài “khởi” này chẳng phải viết cho thi phẩm “thiên đường tìm lại”, nhắm gột rửa sạch sẽ thành kiến sai lầm, lạc hậu cuả quần chúng VN về các loại dâm thi, dâm truyện, dâm ca, dâm kinh v.v... Cũng chẳng phải ông viết thay cho tác giả Hồ Trường An, để nói lên tính cách thiết thân, thiêng liêng, thần thánh cuả cái dâm, với công năng sinh sản cao quí, vốn là giềng mối lưu truyền dòng giống nhân loại của cái dâm, kể từ thuở Hồng Hoang (Big Bang) , khi con người còn phải đi trong thế lom khom bằng cả 2 chân lẫn 2 tay như loài dã nhân (thuyết Darwinisme). Nên biết, việc hành dâm còn được chính Élôhim hay Yahweh [tiếng Hê Brơ (hébreu) là một ngôn ngữ cổ của dân Do Thái, chỉ Thượng Đế cuả đạo Du Già (Judaisme), nguồn gốc cuả Thiên Chuá Giáo] dặn dò, khuyến khích thủy tổ loài người bằng một câu then chốt [trích trong truyền thuyết “Document sacerdotal”, do Jean Bottéro dịch] như sau:”Soyez féconds et multipliez vous, remplissez la terre et soumettez-la!”...( tạm dịch: Hãy sinh sản và tăng trưởng, hãy trám đầy mặt đất và khuất phục nó!). Trong chương Sáng Thế (Genèse:1,28) kinh TCG cũng ghi lời dặn ông Adam và bà Eve của Yahweh-Elôhim nguyên văn:”Remplissez la terre et dominez la!”(hãy trám đầy trái đất và thống trị nó!)... Ngoài ra, còn một truyền thuyết khác, cuả phái Yahwiste, vẫn có trong thánh kinh viết bằng tiếng Hê Brơ, Yahweh-Elôhim đã kể chuyện con rắn dụ khị bà Eve ăn trái cấm (chớ không xác định trái táo như ông Đạt viết). Chuyện “ăn trái cấm” trong thánh kinh thực ra còn nhiều ẩn số, mặc dù hàng mấy ngàn năm nay, các nhà thần học và lãnh tụ tôn giáo đã tốn nhiều công sức và giấy mực vẫn chưa giải đáp được.Trong khi đó, ông Đạt , chẳng biết gì về thánh kinh đã khẳng định nông cạn, bừa bãi bằng câu ngớ ngẩn:”Trái táo biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm giới, đồng thời tạo kiến thức phân tách nam nữ tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục ái và vòng sinh tử, song song với ý niệm nghiệp chướng luân hồi cuả Phật giáo. Tất cả chỉ là kiến thức và ngộ giác ngay trong nhân thế!” Nơi đây, xin mở ngoặc ngay để nói nhỏ với ông “ tiến sĩ” Đạt rằng cái “ý niệm về nghiệp chướng luân hồi” giữa TCG và PG khác nhau xa lắm và tuế toái lắm, chúng ta chớ vội quơ quào vào! Tóm lại, với cái lối “khởi” như thế, người đọc, dù hời hợt đến đâu chăng nữa, vẫn thừa nhạy cảm nhận ra ngay dụng tâm cuả ông Đạt, chỉ cốt viết cho riêng ông. Dĩ nhiên thôi! Song le, chính vì vậy mà chẳng những ông Đạt đã không giới thiệu nổi đặc tính “dâm”, chất “ dâm”, nghệ thuật diễn tả rất hiện thực về những hành động và khoái cảm “dâm” chứa chan lênh láng trong tác phẩm cuả Hồ Trường An. Nên biết: Bản chất cái dâm vốn thông tục và thực dụng hằng ngày như ăn, uống, ngủ, ỉa v.v...Cái dâm lại trần truồng, lõa lồ, hiện rõ từng lỗ chân lông. Từng làn da thịt mỏng dính, màu tươi hon hỏn, dễ thương, gợi thèm khát đến nhểu giãi, xếp nếp kín đáo ở những nơi sâu kín nhất trong cơ thể con người...từ thuở Hồng Hoang, con người còn ăn lông ở lỗ đã tuyệt đối chối bỏ, vứt tung hết mọi thứ vỏ che đậy gỉa tạo. Trong cái dâm, kể cả dâm thi, dâm truyện, dâm ca, dâm kinh...không có một chỗ đứng nào cho trí thức huê dạng, hay đạo đức. Cái dâm đòi hỏi cái thực và cái “ người” thật người! Nếu biết được như thế, tất ta sẽ thấy ngay lối viết cầu kỳ , trí thức của ông Đạt đã chẳng hợp tí nào với nội dung cuả tập dâm thi này.Xin dẫn chứng: ”...Tôn giáo trên toàn thế giới thường đề cập đến dục ái như một hiện tượng minh giải. Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo và Cựu Ước, nhân loại đồng tình, thể hiện qua nam giới A-Đông. Nữ tính Ê-Va xuất chiết từ cơ thể A-Đông, nên nhân bản nguyên thủy bất tách. Trái táo biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm giới, đồng thời tạo kiến thức phân tách nam nữ tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục ái và vòng sinh tử, song song với ý niệm nghiệp chướng luân hồi cuả Phật Giáo. Tất cả chỉ là kiến thức và ngộ giác ngay trong nhân thế. Kinh điển Tantra Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng, và Kama Sutra, đều phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính ngay trong giới hạn và chiều sâu cuả nhân thế...”( trg.14,15 ). “ ...Chữ nghĩa dục ái trở thành âm điệu, thành hoà âm tiếp nối dòng nhạc Mozart luân biến Don Juan thành tuyệt tác.Thi ngữ dục ái lại mắc mưu những đường cong ấm áp, nở nang, sâu hoắm trên thân thể Apollon biến thạch, trên làn da huyền bích của nữ thần Diane đang ngâm mình bên dòng sông vĩnh cửu...” (trg.16). Chẳng những vậy, ông Đạt còn làm một việc có tính cách phô trương không cần thiết. Ông viết một bài ngắn, chỉ vỏn vẹn 9 trang giấy nhỏ, chữ lớn bằngViệt văn, cho người VN đọc, nhưng lại trịnh trọng chú thích cẩn thận đến 21 chữ Việt rất quen thuộc và thông dụng sang tiếng Anh. Nhưng chẳng may ông lại định nghĩa và chú thích sang Anh Ngữ không chính xác lắm về chữ “dâm”. Khi muốn biện hộ cho tập dâm thi cuả Hồ Trường An, cho rằng không có sắc thái thú tính, hạ cấp, mà chính là một dục cảm thanh cao, ông Đạt đã viết lằng nhằng, nghĩa lý tù mù vẫn bằng cách dùng chữ cầu kỳ ra vẻ thông thái:” Trước hết chúng ta hãy tránh vài ngộ nhận về dục cảm và thú tính. Sắc thái nặng nề của thú tính hời hợt, thô cục, ngoại vi, ứ đọng tại khía cạnh phô bày nhục dục vụn vặt, với những khoái lạc tạm bợ, vụng về, không phải là địa hạt hoặc cứu cánh cuả thi văn dục ái, mà chỉ là môi trường hạ cấp cuả dâm thư ”. (trg.10) Câu này, ông Đạt viết bằng tiếng Việt mà người đọc còn cảm thấy thô nhám, gồ ghề cường điệu, nuốt không trôi như: thô cục, ngoại vi... Thế mà tai hại thay, ông lại còn chú thích thêm Anh ngữ như: thô cục (graphic), ngoại vi (epidermic), khiến cho cổ họng người đọc càng bị nghẹn nhiều hơn. Nhưng tai hại nhất cho nghệ thuật cuả thi phẩm “thiên đường tìm lại” là ông Đạt đã không chuyển đạt được sự khác biệt tinh tế giữa 2 từ “porno” với “érotique, erotic” sang Việt ngữ. Ông đã dùng ngay chữ “dâm thư ”để chú thích bằng tiếng Anh là: Pornography!( số 6,trg.10). Theo sự hiểu biết rất tầm thường cuả tôi, chữ “dâm thư ”, còn gọi là “dâm thi”, không kém gì “dâm ca”, hay “dâm kinh”... cần phải được trang trọng và nghiêm nghị dịch bằng từ: Érotique (Pháp ngữ), hay Erotic (Anh ngữ). Chữ này vốn gốc Hy Lạp (erôs), (chú ý: chữ Erôs có dấu mũ đàng hoàng), rất thông dụng trong văn chương La-Hy. Các nhà làm văn hoá Hy Lạp thường dùng từ “erôs” để biễu diễn một trong số những đặc tính cảm quan tinh tế nhất cuả dân tộc Hy Lạp. Chữ này, trong Cựu Ước Kinh TCG, ta thấy đã được hoán vị bằng từ “amour” (tiếng Anh: love), và được lập đi lập lại đến cả thảy 600 lần. Nhưng trong Tân Ước Kinh, người ta thấy chữ đó đã bị kiểm duyệt, loại hẳn ra ngoài, để thay thế bằng một chữ Hy Lạp khác là:“agapè” (danh từ),”agapan” (động từ), và “agapètos” (tĩnh từ), và đã được nhắc đi nhắc lại tới 320 lần trong bộ kinh này. Còn chữ “pornography” mà ông Đạt đã dùng nên dịch là:“tục dâm” hay “nhục dâm”(trong đó bao gồm cả: thị dâm, thính dâm, khứu dâm, vị dâm, khẩu dâm, thủ dâm, cước dâm v.v...), tức phân định rõ rệt những động tác hành dâm thuần túy (như sự giao cấu đủ các kiểu cọ), với những sản phẩm dâm thuộc về tư tưởng hay tinh thần (như dâm thi, dâm ca, dâm kinh, dâm truyện...). Nên biết dâm thi, dâm ca, dâm truyện, hay dâm kinh vốn là những sản phẩm tinh thần của con người có suy tư, với một bộ thần kinh cảm xúc cực kỳ bén nhậy và một thiên khiếu thẩm dâm hiếm qúi. Một bài dâm thi tuyệt tác, nếu phổ nhạc, và được đồng ca ở nơi thờ phượng, tức là dâm ca. Thí dụ như những bài dâm ca trong thánh kinh viết bằng tiếng Hê Brơ của người Do Thái cổ :” Cantique des cantiques”, những bài tụng ca “ Hymne homérique V, à Aphrodite” ,V, 53-74, thế kỷ thứ VII trước TC, những bài dâm tình ca cuả dân Ai Cập cổ, viết theo lối chữ tượng hình ( hiéroglyphe) đã được Siegfried Schott giải tự. Thông dụng nhất, và nhẹ nhàng nhất là bài tình ca “Hymne à l’amour” của thánh Paul (1 Corinthiens, chapitre 13) đã gợi hứng cho Edith Piaf phổ nhạc. Đáng kể hơn nữa là bài thánh ca tán tụng yêu đương “Quand on n’a que l’amour” (khi ta chỉ có tình yêu) thường được cất lên trước những cuộc lễ cưới ở nhà thờ TCG... Còn nếu những bài dâm thi được truyền tụng lâu đời, thì được gọi là dâm kinh (như Kâma-Sutrâ. Chú ý: chữ “â” có dấu mũ đàng hoàng nghe! Tôi sẽ nói đến bộ dâm kinh này trong một phần sau). EROTIC LÀ MỘT “TA-BU”? Đối với chữõ “Erotic” mà tôi vừa nêu trên, có lần ông Đạt đã dùng để chú thích ngay khi mở đầu bài, cuối trang 9. Câu này ông viết nguyên văn:” Trong một nền văn hoá còn nhiều gò bó bảo thủ, nhục dục thường được coi như một thứ “ta-bu”, một việc cấm kỵ, kiêng tránh như phải kềm hãm, be bờ một mãnh lực hoang tạp, hỗn độn...”. Nếu chỉ có thế cũng chẳng đáng nói làm gì, nhưng tai hại vô cùng, ông Đạt lại còn cố giải thích thêm cái “ta-bu” (tabou, taboo) của ông là do:”Căn cứ vào từ “eros” (gốc Hy Lạp) và những thành ngữ như: Erotica, Erotic poetry, poésie érotique” (nguyên văn). Thực hết sức hỗn độn, và sai lầm, khi ông Đạt khẳng định việc cấm kỵ nhục dục, là một thứ “ta-bu” trong nền văn hoá VN, lại bắt nguồn từ chữ “Erôs”! Qui kết như thế, chứng tỏ ông Đạt đã không đếm xỉa gì đến từ nguyên học (étymologie). Ông Đạt đã cột buộc cái “ta-bu” (cuả riêng ông Đạt, chứ chưa hẳn của cả một nền văn hoá!) vào chữ “erôs” đầy huyền thoại cao quí, đẹp đẽ cuả người Hy Lạp và nền văn hoá La-Hy tối cổ cuả nhân loại. Xin dẫn chứng: Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, dĩ nhiên tôi không thể nào kể đầy đủ chi tiết nguồn gốc điển tích, huyền thoại kỳ bí về thần Erôs, vốn tiêu biểu cho tình yêu, và dâm tính đầy nhựa sống, chứa chan tình cảm lãng mạn của dân tộc Hy Lạp. Trong lãnh vực tư tưởng, nghệ thuật Hy Lạp, khi những vì tinh tú và ánh sáng trên bầu trời giao hợp nhau, hay lu mờ đi, đều có thần Erôs. Khi nhựa cây đã tràn ngập trong thân cây vào buổi đầu xuân ấm áp, cũng là do thần Erôs. Khi hai sinh vật gặp nhau, ôm ghì, siết chặt lấy nhau, kéo dài trong giây lát, một thời gian, hay cả một cuộc đời, cũng là hiện thân của thần Erôs! Nhưng ngược lại, nếu cuộc sống trở nên ảm đạm, u buồn, lại không có Erôs! Dĩ nhiên, con người không thể nào có phép thăng thiên, để bay thẳng lên trời như thần Icare, nhưng con người vẫn chẳng thể nào sống ở thế gian hoàn toàn vắng bóng thần Erôs cho được. Hình ảnh của thần Erôs đã được các nhà nghệ thuật tạo hình Hy Lạp mô tả như một thanh niên cường tráng, trên lưng mang đôi cánh, luôn bay bổng giữa không trung, trong trạng thái vô trọng lực, nằm trên nền màu xanh đen của những chiếc lọ lục bình, đủ cỡ lớn nhỏ. Sở dĩ người Hy Lạp luôn luôn tạo hình thần Erôs đang bay lơ lửng giữa không trung, vì muốn nói lên thần lực của Erôs, cho rằng Erôs có thể làm giảm nhẹ mọi sức ép đè nặng trên kiếp người, đồng thời làm dịu bớt những cảm xúc chất chứa nặng chĩu trong tim của những kẻ yêu nhau. Điều này chứng tỏ từ thời thượng cổ, các nhà thông thái, các văn nhân, thi sĩ, các nhà nghệ thuật Hy Lạp đã biết đế½n định luật về sức hút, hay còn gọi là hấp lực của trái đất, do khoa học gia Newton khám phá ra. Hơn thế, Erôs còn được coi như vị thần có khả năng huyền bí thúc đẩy vạn vật từ thể tĩnh sang thể động, và làm cho lòng người xúc động... Tóm lại, Erôs chẳng những là một vị thần trong huyền thoại cổ Hy Lạp, mà còn là một đấng sáng tạo sinh động đóng vai trò trung gian giữa trời và người. Cho đến bây giờ người ta vẫn còn tìm thấy những bài thánh ca tuyệt tác của những nhà thơ thần thoại Hy Lạp (des hymnes orphiques) đã thánh hoá và ca tụng Erôs bằng những câu truyền tử lưu tôn trong dân gian Hy Lạp như sau:” détenteur des clés de l’univers” (người nắm giữ chìa khoá cuả vũ trụ) , và câu:”tient entre ses mains le gouvernail du monde” (đôi tay cầm bánh lái con thuyền thế giới)... Vậy xin hỏi: Ông Đạt căn cứ vào đâu mà đã gán cho thần Erôs cái đại tội tình dục tục tĩu, đến nỗi đã bị dân tộc VN, và văn hoá VN coi như một thứ “ta-bu” cấm kỵ?! APOLLON VÀ DIANE LÀ AI? Tiếp theo, ta hãy nói đến điển cố. Khi một nhà văn, hay nhà nghiên cứu muốn đem một điển cố trong kho tàng văn chương đông tây kim cổ vào bài viết cuả mình, tức thị muốn cho bài văn cuả mình có chiều sâu sắc, nói ít mà chứa đựng nhiều tình tiết. (lắm khi phải tốn nhiều trang giấy). Nhưng nó đòi hỏi nhà văn, hay người xử dụng điển cố trong văn chương phải am tường cặn kẽ điển cố, và trích dẫn phải thật xứng hợp với tình huống hiện hữu trong bài văn. Thí dụ như muốn tả vẻ đẹp cuả người con gái mình mới làm quen ngoài phố mà kể rằng nàng đẹp như Chung Vô Diệm thì thực chẳng còn có gì buồn cười và lố bịch cho bằng! Vậy mà khi nói đến dục ái trong thi phẩm “thiên đường tìm lại”, ông Đạt đã dẫn ra hai nhân vật thần thoại cổ Hy Lạp là Apollon và Diane. Hai vị thần này thực sự chẳng liên quan gì tới vấn đề dục ái hết thảy! Nên biết: Trong kho tàng huyền thoại và văn chương Hy Lạp cũng như trong tinh thần, tập quán của người Hy Lạp từ xưa đến nay, hai vị thần Apollon (nam) và Diane (nữ) không phải là biểu tượng đặc trưng cho dâm tính hay khoái lạc nhục dục. Apollon là một trong 12 vị thần Olympe, ra đời tại Délos, mẹ là Léto, đã bị thượng đẳng thần Zeus dụ dỗ, thuyết phục, và sinh ra đời 2 người con là thần Apollon với một người em gái song sinh là nữ thần Artémis... Trong con mắt của người Hy Lạp, Apollon là một vị thần khả ái, gợi hứng sáng tác cho các nhà nhạc sĩ, thi sĩ, là một vị thần bảo trợ cho mọi ngành nghệ thuật, tượng trưng cho mặt trời và ánh sáng văn minh, phản ánh thiên khiếu nghệ thuật cuả nước Hy Lạp, và là thần tượng của tuổi trẻ , của sắc đẹp và của tiến bộ. Như vậy, rõ rệt Apollon không ăn nhập gì đến dâm thi, nhưng vẫn bị ông Đạt lôi bừa vào bài của ông. Hơn thế nữa, khi trích dẫn nữ thần Diane, ông Đạt đã không ngờ rằng trong văn chương và huyền thoại Hy Lạp, vị nữ thần lừng danh kim cổ, tượng trưng độc nhất vô nhị cho ái dục chính là nữ thần Aphrodite. Còn nữ thần Diane, nguyên gốc nằm trong thần thoại cuả người La Mã cổ (Ý Đại Lợi). Về sau, nàng Diane đã được Hy Lạp đồng hoá với nữ thần Artémis, em song sinh cuả Apollon. Trong kho tàng huyền thoại La-Hy, ta càng ngạc nhiên hơn là không bao giờ có thể tìm ra được đoạn văn nào nói đến nữ thần Diane “ngâm mình bên giòng sông vĩnh cửu” (trích nguyên văn của ông Đạt) mà chỉ biết được ở Némi có một ngôi đền thờ nữ thần Diane, nằm bên một cái hồ và một bìa rừng thiêng!... Đến đây, thiết tưởng tôi cần nói thêm đôi điều về nữ thần Aphrodite, để chứng minh lối trích dẫn điển cố cuả ông Đạt. Aphrodite vừa là nữ thần bảo hộ cho các cuộc hôn nhân , tình yêu vợ chồng, và sự sinh sản...Nhưng đồng thời nàng cũng là một nữ thần thường được dùng làm biểu tượng cho dục vọng cuồng nhiệt mà không sức gì cản nổi. Đôi khi nàng còn phá hoại cả những cuộc phối ngẫu hợp pháp, đưa đẩy vợ chồng đến tình trạng ngoại tình, và tạo ra nguyên nhân những cái chết bởi dục vọng và tội ác. Trong kho tàng huyền thoại cuả La Mã, nếu muốn tìm một vị nữ thần tương đối giống như Aphrodite, tôi thiết nghĩ không ai khác hơn là nữ thần Vénus. Về hình tượng, nữ thần Aphrodite, thường được người Hy Lạp mô tả khoả thân hay đôi khi bán khoả thân, khoác trên thân thể bốc lửa dục tình ngùn ngụt một tấm the mỏng dính, trong những thế đứng , ngồi cực kỳ khêu gợi dâm dục...Về nguồn gốc cuả Aphrodite, ta thấy có hai giả thuyết khác nhau khá dài dòng và phức tạp, nên không tiện kể thêm vào đây làm gì cho mất thì giờ. Riêng tôi, nếu có ai cắc cớ hỏi:”Trong số tất cả các nữ thần Hy Lạp, anh thích ai nhất?”. Chẳng cần suy nghĩ , tôi xin thưa ngay:”Thích nhất Aphrodite. Vì nàng là hiện thân cuả đủ mọi đức tính cao quí hiếm có , lẫn những thói hư tật xấu rất “người” của nhân loại!”. Điều này bạn có đồng ý với tôi hay không tùy bạn!
|
|