Post by Huu Le on Aug 20, 2006 8:17:56 GMT 9
Pierre Auguste Renoir
Phạm Văn Tuấn
Pierre Auguste Renoir (1841 - 1919), trường phái Ấn tượng
Vào thập niên 1870, một nhóm các họa sĩ trẻ bắt đầu tìm kiếm một đường hướng nghệ thuật mới để làm biến đổi các truyền thống hội họa đã có từ thời Phục Hưng tại châu Âu. Các họa sĩ này đã đi trực tiếp tới thiên nhiên để tìm hứng khởi, lấy đề tài trong xã hội đang sinh sống và được khuyến khích bởi hai nhà danh họa tiền phong là Gustave Courbet và Eduard Manet. Kết quả là qua các sáng tác, họ đã khám phá ra một cách nhìn tươi mới và ngay tức thời, khác hẳn cách diễn tả của các bậc thầy cổ điển. Nghệ thuật Hội Họa mới này trình bày ngay thứ “ấn tượng” tức thời của đề tài bằng các màu sắc thuần chất, mang tính chất lung linh, rực rỡ, hơn là bằng các màu nâu và đen, màu thông dụng của các nhà danh họa cổ điển.
Pierre August Renoir là một trong các họa sĩ hàng đầu của trường phái Ấn Tượng (Impressionism) thuộc thế kỷ 19, đã ghi lên khung vải các đặc tính kỳ ảo của ánh sáng và không khí, các phẩm chất cá biệt và thân mật của người mẫu cũng như mô tả được bản chất thi vị, xúc cảm của phong cảnh thiên nhiên. Nhà danh họa Renoir đã sáng tác về Hội Họa trong 60 năm với khoảng 6,000 họa phẩm và thành quả này được coi là rất phong phú, chỉ đứng sau các công trình của Pablo Picasso.
1/ Các năm học nghề.
Pierre A. Renoir là con của một người thợ may, chào đời ngày 25-2-1841 tại Limoges, nước Pháp. Không lâu sau đó, gia đình Renoir đã dọn lên thành phố Paris, hi vọng tìm ra các cơ hội làm ăn tốt đẹp hơn. Vào thời kỳ này, Paris là thủ đô của một trong các cường quốc. Nước Pháp đã là một quốc gia thống nhất, có chính quyền tập trung cả về chính trị và kinh tế, và Paris là trung tâm rực rỡ về nhiều mặt phát triển như khoa học, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật… Về văn chương, cuộc sinh hoạt hàng ngày được các nhà văn hiện thực mô tả như Gustave Flaubert và Emile Zola, lúc này còn rất trẻ. Tại các rạp hát, khán giả rất đông đảo, thưởng thức các vở kịch của Victorien Sardou và Alexandre Dumas Jr. Trên sân khấu các hí viện, có các buổi hòa nhạc giao hưởng, các màn trình diễn vũ ba-lê, các ca kịch nhỏ (operettas) do Jacques Offenbach soạn ra. Giới trung lưu, giới tư sản của xã hội Pháp đang trở nên thịnh vượng, họ thưởng thức mọi nghệ thuật quyến rũ cả về thính giác lẫn thị giác. Về kiến trúc, thành phố Paris đang xây cất các tòa dinh thự lớn theo kiến trúc Tân-Baroque như Đại Hí Viện (Grand Opera) xây dựng bằng thép và thủy tinh, và phần trang trí do các nhà điêu khắc danh tiếng như Jean Baptiste Carpeaux.
Chính vào giai đoạn này, có rất nhiều họa sĩ sáng tác ra các bức sơn dầu, một số bức mang độ chính xác quá đáng, theo đúng quy tắc, nhưng tất cả đều cố gắng mô tả vẻ đẹp, làm vui mắt người ngắm tranh và các họa phẩm thường được treo tại các phòng triển lãm, các phòng tiếp tân của rạp hát, tại các nhà hàng và các địạ điểm họp mặt. Việc đánh giá các họa phẩm vào thời kỳ này do Phòng Triển Lãm, gọi là Salon, bởi các vị giáo sư từ các Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật. Mỗi năm, các vị này xem xét khoảng 2,500 họa phẩm và dân chúng Pháp phần lớn chấp nhận cách cứu xét của các vị có thẩm quyền nghệ thuật này.
Chính trong bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội này, Pierre August Renoir đã trưởng thành. Từ tuổi 13, cậu thiếu niên này đã tỏ ra có năng khiếu về hội họa nên được gia đình cho học nghề vẽ tại một xưởng đồ gốm và công việc của cậu là trang trí các tách cà phê bằng các bông hoa nhỏ, hoặc vẽ cảnh chăn cừu hay mặt nghiêng của hoàng hậu Marie Antoinette trên các sản phẩm. Khả năng đặc biệt của Renoir về hội họa đã khiến cho các thợ vẽ bạn phải gọi cậu là “Rembrandt” và chính nhờ giai đoạn sao chép các tượng ý (motifs) của các bậc thầy thuộc thế kỷ 18 như Boucher, Lancret, Fragonard… mà Renoir đã tạo được mọât đường nét riêng, ưa thích các sắc thái tế nhị, các màu đỏ của trái dâu, màu xanh của rong rêu,màu vàng rực rỡ và loại mặt tranh bóng láng, giống như mặt đồ sứ. Rồi vào các ngày nghỉ, Renoir thường viếng thăm Viện Bảo Tàng Louvre để ghi chép các họa phẩm cổ điển, vẽ lại các tượng điêu khắc danh tiếng.
Renoir chỉ làm việc cho xưởng đồ gốm trong 4 năm. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã khiến cho các nhà kỹ thuật sáng chế ra được một thứ máy in, in các hình ảnh trên mặt sứ, khiến cho các thợ vẽ bị nghỉ việc. Renoir làm việc cho một người anh, lo việc trang trí các cây quạt tay, các lá cờ của nhà thờ và chính nhờ thời gian thực tập này mà chàng họa sĩ đã khéo tay, nhanh nhẹn, làm chủ được kỹ thuật dùng cọ. Năm 21 tuổi, Renoir đã kiếm đủ tiền để theo học căn bản ngành Hội Họa. Tháng 4-1862, Pierre August Renoir xin vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật (Ecole des Beaux Arts) tại Paris, điều hành do vị giám đốc mỹ thuật hoàng gia là Bá Tước Alfred de Nieuwekerke, một người cho rằng đường lối Hiện Thực (realism) trong nghệ thuật có tính “dân chủ và đáng trách“ (objectionable). Vì vậy các sinh viên mỹ thuật phải họa lại các tác phẩm cổ điển, vẽ chính xác các tượng nổi tiếng và bắt chước đường lối hội họa phục hưng. Thời đó có nhiều giáo sư hội họa, nhưng vị thầy trực tiếp của Renoir là ông Charles Gleyre, một họa sĩ danh tiếng về những bức vẽ biểu tượng (allegorical). Ngoài thời giờ theo khóa học chính thức, Renoir còn tham dự lớp học tư, nơi này có từ 30 tới 40 học viên, được vẽ các người mẫu khỏa thân, vẽ cảnh thiên nhiên và nhờ các kinh nghiệm sao chép các bức tranh rococo, Renoir đã yêu thích các màu sắc rực rỡ, một điều không phổ thông vào thời đó, trái với ý thích của Giáo Sư Gleyre. Đã có lần vị giáo sư hội họa này hỏi thẳng Renoir : “anh chỉ vẽ cho mình vui phải không?” và Renoir đã trả lời “Dĩ nhiên, Thầy có thể chắc chắn rằng con sẽ không làm việc nếu không thưởng thức được Hội Họa”. Đây là một thái độ hoàn toàn mới đối với ngành Hội Họa, với đặc điểm là bức họa bớt trang nghiêm hơn, thêm phần sống động, cá biệt và mang tính khoái cảm.
Cũng có một học viên khác không chú trọng vào các giáo điều của các bậc thầy, đó là Claude Monet, một họa sĩ năng động, đã học hỏi được ở Eugène Boudin cách nhìn và cách vẽ cảnh vật dưới các tình trạng ánh sáng tự nhiên, và không ưa thích loại ánh sáng lạnh lùng của căn phòng vẽ. Renoir còn có vài người bạn khác, là Alfred Sisley và Frederic Bazille. Những họa sĩ trẻ này ngưỡng mộ một nhóm nghệ sĩ được gọi là nhóm Barbizon, vì họ thường lui tới cánh rừng Barbizon gần Paris, gồm có Théodore Rousseau, Constant Troyon, Jean Francois Millet, Narcisse Diaz và Charles Daubigny. Các họa sĩ Barbizon này ưa thích vẽ các phong cảnh đơn giản, thường gặp, như các cánh đồng với cây cối và căn nhà của nông trại, hơn là các phong cảnh lịch sử theo truyền thống kinh điển. Nhóm Barbizon cũng vẽ trực tiếp từ cách quan sát thiên nhiên, quan tâm tới phẩm chất của ánh sáng và phong thái (mood) và mặc dù màu sắc của họ còn tối sẫm và cách bố cục còn giả tạo nhưng đường lối thể hiện mới của họ đã đóng góp vào phong trào ấn tượng sau này mà Renoir là một thành viên.
2/ Các năm sáng tác.
Tháng 5 năm 1863 tại "Phòng Triển Lãm của các Họa Phẩm bị từ chối" (Salon des Refusés), Edouard Manet đã trưng bày một họa phẩm có tên là “Bữa ăn trưa trên cỏ” (Luncheon on the Grass). Bức tranh này đã chịu sự chỉ trích và chế riễu của đại chúng vì có chủ đề gây rắc rối và dùng các màu sắc quá tươi, một sự việc bất thường đối với thời kỳ đó.
Lần đầu tiên Renoir nộp một họa phẩm cho Phòng Triển Lãm, đó là vào năm 1864. Tác phẩm được chấp nhận có tên là “Esmeralda đang nhẩy với một con Dê “ (Esmeralda Dancing with a Goat) theo chủ đề “Nhà Thờ Đức Bà của Thành Phố Paris”, một văn phẩm của Victor Hugo. Qua họa phẩm này, Narcisse Diaz đã khuyên Renoir không nên dùng loại nhựa đường vào trong tranh và Diaz từ đó đã trở nên một người bạn thân, giúp đỡ Renoir. Renoir còn ngưỡng mộ Gustave Courbet và Eugène Delacroix. Courbet đã vẽ những người thợ đập đá, những phong cảnh đơn giản, các chân dung và khỏa thân nữ rất trung thực với đời sống, mang tính dân chủ và quan điểm vật chất (materialistic world view), còn các bức họa của Delacroix liên hệ với xã hội, đóng góp vào chiều hướng chung của các nghệ sĩ là cố gắng phá vỡ các quy tắc cứng dắn của đường lối cổ điển (classicism), hợp với chủ trương của nhà xã hội thuộc giai cấp trung lưu là Pierre Joseph Proudhon theo đó một công trình nghệ thuật phải được cứu xét theo chức năng của nó trong xã hội. Ngoài quan niệm họa phẩm là một phản ảnh của thực tế, mang tính chất cá nhân, trừu tượng và chứa đựng các cảm giác mạnh, Renoir còn ưa thích đường lối hội họa của Delacroix với các màu sắc rực rỡ. Delacroix đã từng nói “nhiệm vụ đầu tiên của một họa phẩm là phải thật đẹp mắt” còn Pissaro đã viết rằng:”sự cứu rỗi nằm trong thiên nhiên” và Monet lại muốn hòa mình vào thiên nhiên.
Vào mùa hè năm 1865, Renoir và người bạn là họa sĩ Sisley dùng thuyền buồm, xuôi giòng sông Seine, tới Le Havre để coi các cuộc đua thuyền. Từ trên thuyền, họ đã vẽ các cảnh bờ sông, một công việc giống như Daubigny đã từng làm và các họa phẩm loại này của Renoir cũng được Phòng Triển Lãm chấp nhận. Sau đó, tại làng Marlotte gần Fontainebleau, Renoir đã vẽ xong bức họa “Tại quán ăn của Mẹ Anthony” (At the Inn of Mother Anthony) qua đó mô tả một nhóm người đứng chung quanh một bàn tròn, thảo luận về một bài viết trên báo “Biến Cố” (L’Evenement). Đây là một tạp chí do Emile Zola xuất bản năm 1866, chỉ trích Phòng Triển Lãm và định nghĩa một công trình nghệ thuật là “một phần của thiên nhiên nhìn qua tính khí của một cá nhân”.
Do những chỉ trích từ các nhà văn có khuynh hướng cấp tiến hơn, ban giám khảo của các phòng triển lãm đã có những biện pháp cứng dắn hơn đối với đường lối nghệ thuật mới. Năm 1867, họa phẩm Diana của Renoir bị ban giám khảo bác bỏ, không cho phép trưng bày nhưng dần dần, do ảnh hưởng của Daubigny, các họa sĩ cũng nói lên tư tưởng của các nhà hiện thực trẻ (realists). Vào thời kỳ này, nhiều họa sĩ trẻ đang sống trong cảnh thiếu thốn. Renoir được một người bạn giàu có tên là Bazille giúp đỡ nhưng vẫn phải vẽ các bưu thiếp, bán lấy tiền rồi về sau, dọn về ở với cha mẹ tại Ville-d’Avray, ngoại ô của thành phố Paris. Monet cũng sống trong eo hẹp tại Bougival, nhưng nỗi cơ cực nhất của họ là không có tiền mua sơn dầu. Vào các tháng mùa hè năm 1869, Monet và Renoir thường lui tới khu hồ tắm công cộng tại Bougival, có tên là La Grenouillère (Ao Eách Nhái) bên bờ sông Seine. Hai họa sĩ này đã vẽ cùng với nhau, bắt đầu bằng các màu sắc tươi sáng hơn và dù cho cuộc sống có gian nan, họ vẫn không biểu lộ qua tác phẩm các niềm lo âu, thất vọng, bi quan.
Vào thời kỳ này, các họa sĩ đang cố gắng tìm ra các nguyên tắc nghệ thuật mới. Khi về Paris, họ tụ họp tại quán cà phê Guerbois trên đại lộ Batignolles và vì vậy, họ được gọi là các họa sĩ Batignolles. Trung tâm của nhóm văn nghệ sĩ mới này là họa sĩ Manet, ngoài ra còn có các văn sĩ, các nhà phê bình như Emile Zola, Théodore Duret, Zacharie Astruc và Edmond Duranty, các họa sĩ như Monet, Renoir, Sisley, Camille Pissaro, Degas, Henri Fantin-Latour, còn Paul Cézanne tham gia khi nào trở về Paris. Trong khi đó, Pierre A. Renoir là một con người mảnh khảnh, với tính ưa khôi hài nhưng lại không ưa tham gia vào các cuộc tranh luận. Thế nhưng các họa phẩm của Renoir lại mang tính cấp tiến nhất vào thời kỳ đó, và Renoir đã chủ trương rằng phải vẽ những gì con mắt nhìn thấy và phải diễn tả lại đề tài bằng các màu sắc càng trung thực càng tốt. Mặt khác, các họa sĩ như Jean Francois Millet và Gustave Courbet đã thực hiện các họa phẩm trong phòng vẽ nên thiếu đi sự sáng sủa, vẻ rực rỡ của đề tài dưới ánh sáng mặt trời. Và rồi do cứu xét các bóng mát có màu sắc của đề tài, các họa sĩ như Renoir và Monet đã tìm thấy rằng màu xanh là màu áp sắc. Hai họa sĩ này đã thấy các đề tài khác nhau đổi màu tùy theo các điều kiện chiếu sáng và do các màu phản chiếu từ các sự vật ở chung quanh. Rồi không khí chập chờn, bao quanh đề tài đã làm cho đường viền của đề tài thiếu sự sắc nét. Môi trường sống đã mở ra cho họa sĩ cả ngàn đề tài muôn màu, muôn vẻ: tàng cây, mây, nước, hoa trên mặt hồ, khói từ các mái nhà, các con thuyền, các cây dù che nắng bên bờ sông, các con người di động và ngay cả những chiếc váy sặc sỡ của phụ nữ. Đời sống của mọi người chung quanh đã mang theo các vẻ đẹp, sự tươi mới, sự linh động mà họa sĩ có thể tìm thấy dễ dàng trong dịp đi nghỉ xa, trong các trận đấu thể thao hay trong cảnh sống thay đổi của một thành phố lớn.
Phạm Văn Tuấn
Pierre Auguste Renoir (1841 - 1919), trường phái Ấn tượng
Vào thập niên 1870, một nhóm các họa sĩ trẻ bắt đầu tìm kiếm một đường hướng nghệ thuật mới để làm biến đổi các truyền thống hội họa đã có từ thời Phục Hưng tại châu Âu. Các họa sĩ này đã đi trực tiếp tới thiên nhiên để tìm hứng khởi, lấy đề tài trong xã hội đang sinh sống và được khuyến khích bởi hai nhà danh họa tiền phong là Gustave Courbet và Eduard Manet. Kết quả là qua các sáng tác, họ đã khám phá ra một cách nhìn tươi mới và ngay tức thời, khác hẳn cách diễn tả của các bậc thầy cổ điển. Nghệ thuật Hội Họa mới này trình bày ngay thứ “ấn tượng” tức thời của đề tài bằng các màu sắc thuần chất, mang tính chất lung linh, rực rỡ, hơn là bằng các màu nâu và đen, màu thông dụng của các nhà danh họa cổ điển.
Pierre August Renoir là một trong các họa sĩ hàng đầu của trường phái Ấn Tượng (Impressionism) thuộc thế kỷ 19, đã ghi lên khung vải các đặc tính kỳ ảo của ánh sáng và không khí, các phẩm chất cá biệt và thân mật của người mẫu cũng như mô tả được bản chất thi vị, xúc cảm của phong cảnh thiên nhiên. Nhà danh họa Renoir đã sáng tác về Hội Họa trong 60 năm với khoảng 6,000 họa phẩm và thành quả này được coi là rất phong phú, chỉ đứng sau các công trình của Pablo Picasso.
1/ Các năm học nghề.
Pierre A. Renoir là con của một người thợ may, chào đời ngày 25-2-1841 tại Limoges, nước Pháp. Không lâu sau đó, gia đình Renoir đã dọn lên thành phố Paris, hi vọng tìm ra các cơ hội làm ăn tốt đẹp hơn. Vào thời kỳ này, Paris là thủ đô của một trong các cường quốc. Nước Pháp đã là một quốc gia thống nhất, có chính quyền tập trung cả về chính trị và kinh tế, và Paris là trung tâm rực rỡ về nhiều mặt phát triển như khoa học, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật… Về văn chương, cuộc sinh hoạt hàng ngày được các nhà văn hiện thực mô tả như Gustave Flaubert và Emile Zola, lúc này còn rất trẻ. Tại các rạp hát, khán giả rất đông đảo, thưởng thức các vở kịch của Victorien Sardou và Alexandre Dumas Jr. Trên sân khấu các hí viện, có các buổi hòa nhạc giao hưởng, các màn trình diễn vũ ba-lê, các ca kịch nhỏ (operettas) do Jacques Offenbach soạn ra. Giới trung lưu, giới tư sản của xã hội Pháp đang trở nên thịnh vượng, họ thưởng thức mọi nghệ thuật quyến rũ cả về thính giác lẫn thị giác. Về kiến trúc, thành phố Paris đang xây cất các tòa dinh thự lớn theo kiến trúc Tân-Baroque như Đại Hí Viện (Grand Opera) xây dựng bằng thép và thủy tinh, và phần trang trí do các nhà điêu khắc danh tiếng như Jean Baptiste Carpeaux.
Chính vào giai đoạn này, có rất nhiều họa sĩ sáng tác ra các bức sơn dầu, một số bức mang độ chính xác quá đáng, theo đúng quy tắc, nhưng tất cả đều cố gắng mô tả vẻ đẹp, làm vui mắt người ngắm tranh và các họa phẩm thường được treo tại các phòng triển lãm, các phòng tiếp tân của rạp hát, tại các nhà hàng và các địạ điểm họp mặt. Việc đánh giá các họa phẩm vào thời kỳ này do Phòng Triển Lãm, gọi là Salon, bởi các vị giáo sư từ các Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật. Mỗi năm, các vị này xem xét khoảng 2,500 họa phẩm và dân chúng Pháp phần lớn chấp nhận cách cứu xét của các vị có thẩm quyền nghệ thuật này.
Chính trong bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội này, Pierre August Renoir đã trưởng thành. Từ tuổi 13, cậu thiếu niên này đã tỏ ra có năng khiếu về hội họa nên được gia đình cho học nghề vẽ tại một xưởng đồ gốm và công việc của cậu là trang trí các tách cà phê bằng các bông hoa nhỏ, hoặc vẽ cảnh chăn cừu hay mặt nghiêng của hoàng hậu Marie Antoinette trên các sản phẩm. Khả năng đặc biệt của Renoir về hội họa đã khiến cho các thợ vẽ bạn phải gọi cậu là “Rembrandt” và chính nhờ giai đoạn sao chép các tượng ý (motifs) của các bậc thầy thuộc thế kỷ 18 như Boucher, Lancret, Fragonard… mà Renoir đã tạo được mọât đường nét riêng, ưa thích các sắc thái tế nhị, các màu đỏ của trái dâu, màu xanh của rong rêu,màu vàng rực rỡ và loại mặt tranh bóng láng, giống như mặt đồ sứ. Rồi vào các ngày nghỉ, Renoir thường viếng thăm Viện Bảo Tàng Louvre để ghi chép các họa phẩm cổ điển, vẽ lại các tượng điêu khắc danh tiếng.
Renoir chỉ làm việc cho xưởng đồ gốm trong 4 năm. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã khiến cho các nhà kỹ thuật sáng chế ra được một thứ máy in, in các hình ảnh trên mặt sứ, khiến cho các thợ vẽ bị nghỉ việc. Renoir làm việc cho một người anh, lo việc trang trí các cây quạt tay, các lá cờ của nhà thờ và chính nhờ thời gian thực tập này mà chàng họa sĩ đã khéo tay, nhanh nhẹn, làm chủ được kỹ thuật dùng cọ. Năm 21 tuổi, Renoir đã kiếm đủ tiền để theo học căn bản ngành Hội Họa. Tháng 4-1862, Pierre August Renoir xin vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật (Ecole des Beaux Arts) tại Paris, điều hành do vị giám đốc mỹ thuật hoàng gia là Bá Tước Alfred de Nieuwekerke, một người cho rằng đường lối Hiện Thực (realism) trong nghệ thuật có tính “dân chủ và đáng trách“ (objectionable). Vì vậy các sinh viên mỹ thuật phải họa lại các tác phẩm cổ điển, vẽ chính xác các tượng nổi tiếng và bắt chước đường lối hội họa phục hưng. Thời đó có nhiều giáo sư hội họa, nhưng vị thầy trực tiếp của Renoir là ông Charles Gleyre, một họa sĩ danh tiếng về những bức vẽ biểu tượng (allegorical). Ngoài thời giờ theo khóa học chính thức, Renoir còn tham dự lớp học tư, nơi này có từ 30 tới 40 học viên, được vẽ các người mẫu khỏa thân, vẽ cảnh thiên nhiên và nhờ các kinh nghiệm sao chép các bức tranh rococo, Renoir đã yêu thích các màu sắc rực rỡ, một điều không phổ thông vào thời đó, trái với ý thích của Giáo Sư Gleyre. Đã có lần vị giáo sư hội họa này hỏi thẳng Renoir : “anh chỉ vẽ cho mình vui phải không?” và Renoir đã trả lời “Dĩ nhiên, Thầy có thể chắc chắn rằng con sẽ không làm việc nếu không thưởng thức được Hội Họa”. Đây là một thái độ hoàn toàn mới đối với ngành Hội Họa, với đặc điểm là bức họa bớt trang nghiêm hơn, thêm phần sống động, cá biệt và mang tính khoái cảm.
Cũng có một học viên khác không chú trọng vào các giáo điều của các bậc thầy, đó là Claude Monet, một họa sĩ năng động, đã học hỏi được ở Eugène Boudin cách nhìn và cách vẽ cảnh vật dưới các tình trạng ánh sáng tự nhiên, và không ưa thích loại ánh sáng lạnh lùng của căn phòng vẽ. Renoir còn có vài người bạn khác, là Alfred Sisley và Frederic Bazille. Những họa sĩ trẻ này ngưỡng mộ một nhóm nghệ sĩ được gọi là nhóm Barbizon, vì họ thường lui tới cánh rừng Barbizon gần Paris, gồm có Théodore Rousseau, Constant Troyon, Jean Francois Millet, Narcisse Diaz và Charles Daubigny. Các họa sĩ Barbizon này ưa thích vẽ các phong cảnh đơn giản, thường gặp, như các cánh đồng với cây cối và căn nhà của nông trại, hơn là các phong cảnh lịch sử theo truyền thống kinh điển. Nhóm Barbizon cũng vẽ trực tiếp từ cách quan sát thiên nhiên, quan tâm tới phẩm chất của ánh sáng và phong thái (mood) và mặc dù màu sắc của họ còn tối sẫm và cách bố cục còn giả tạo nhưng đường lối thể hiện mới của họ đã đóng góp vào phong trào ấn tượng sau này mà Renoir là một thành viên.
2/ Các năm sáng tác.
Tháng 5 năm 1863 tại "Phòng Triển Lãm của các Họa Phẩm bị từ chối" (Salon des Refusés), Edouard Manet đã trưng bày một họa phẩm có tên là “Bữa ăn trưa trên cỏ” (Luncheon on the Grass). Bức tranh này đã chịu sự chỉ trích và chế riễu của đại chúng vì có chủ đề gây rắc rối và dùng các màu sắc quá tươi, một sự việc bất thường đối với thời kỳ đó.
Lần đầu tiên Renoir nộp một họa phẩm cho Phòng Triển Lãm, đó là vào năm 1864. Tác phẩm được chấp nhận có tên là “Esmeralda đang nhẩy với một con Dê “ (Esmeralda Dancing with a Goat) theo chủ đề “Nhà Thờ Đức Bà của Thành Phố Paris”, một văn phẩm của Victor Hugo. Qua họa phẩm này, Narcisse Diaz đã khuyên Renoir không nên dùng loại nhựa đường vào trong tranh và Diaz từ đó đã trở nên một người bạn thân, giúp đỡ Renoir. Renoir còn ngưỡng mộ Gustave Courbet và Eugène Delacroix. Courbet đã vẽ những người thợ đập đá, những phong cảnh đơn giản, các chân dung và khỏa thân nữ rất trung thực với đời sống, mang tính dân chủ và quan điểm vật chất (materialistic world view), còn các bức họa của Delacroix liên hệ với xã hội, đóng góp vào chiều hướng chung của các nghệ sĩ là cố gắng phá vỡ các quy tắc cứng dắn của đường lối cổ điển (classicism), hợp với chủ trương của nhà xã hội thuộc giai cấp trung lưu là Pierre Joseph Proudhon theo đó một công trình nghệ thuật phải được cứu xét theo chức năng của nó trong xã hội. Ngoài quan niệm họa phẩm là một phản ảnh của thực tế, mang tính chất cá nhân, trừu tượng và chứa đựng các cảm giác mạnh, Renoir còn ưa thích đường lối hội họa của Delacroix với các màu sắc rực rỡ. Delacroix đã từng nói “nhiệm vụ đầu tiên của một họa phẩm là phải thật đẹp mắt” còn Pissaro đã viết rằng:”sự cứu rỗi nằm trong thiên nhiên” và Monet lại muốn hòa mình vào thiên nhiên.
Vào mùa hè năm 1865, Renoir và người bạn là họa sĩ Sisley dùng thuyền buồm, xuôi giòng sông Seine, tới Le Havre để coi các cuộc đua thuyền. Từ trên thuyền, họ đã vẽ các cảnh bờ sông, một công việc giống như Daubigny đã từng làm và các họa phẩm loại này của Renoir cũng được Phòng Triển Lãm chấp nhận. Sau đó, tại làng Marlotte gần Fontainebleau, Renoir đã vẽ xong bức họa “Tại quán ăn của Mẹ Anthony” (At the Inn of Mother Anthony) qua đó mô tả một nhóm người đứng chung quanh một bàn tròn, thảo luận về một bài viết trên báo “Biến Cố” (L’Evenement). Đây là một tạp chí do Emile Zola xuất bản năm 1866, chỉ trích Phòng Triển Lãm và định nghĩa một công trình nghệ thuật là “một phần của thiên nhiên nhìn qua tính khí của một cá nhân”.
Do những chỉ trích từ các nhà văn có khuynh hướng cấp tiến hơn, ban giám khảo của các phòng triển lãm đã có những biện pháp cứng dắn hơn đối với đường lối nghệ thuật mới. Năm 1867, họa phẩm Diana của Renoir bị ban giám khảo bác bỏ, không cho phép trưng bày nhưng dần dần, do ảnh hưởng của Daubigny, các họa sĩ cũng nói lên tư tưởng của các nhà hiện thực trẻ (realists). Vào thời kỳ này, nhiều họa sĩ trẻ đang sống trong cảnh thiếu thốn. Renoir được một người bạn giàu có tên là Bazille giúp đỡ nhưng vẫn phải vẽ các bưu thiếp, bán lấy tiền rồi về sau, dọn về ở với cha mẹ tại Ville-d’Avray, ngoại ô của thành phố Paris. Monet cũng sống trong eo hẹp tại Bougival, nhưng nỗi cơ cực nhất của họ là không có tiền mua sơn dầu. Vào các tháng mùa hè năm 1869, Monet và Renoir thường lui tới khu hồ tắm công cộng tại Bougival, có tên là La Grenouillère (Ao Eách Nhái) bên bờ sông Seine. Hai họa sĩ này đã vẽ cùng với nhau, bắt đầu bằng các màu sắc tươi sáng hơn và dù cho cuộc sống có gian nan, họ vẫn không biểu lộ qua tác phẩm các niềm lo âu, thất vọng, bi quan.
Vào thời kỳ này, các họa sĩ đang cố gắng tìm ra các nguyên tắc nghệ thuật mới. Khi về Paris, họ tụ họp tại quán cà phê Guerbois trên đại lộ Batignolles và vì vậy, họ được gọi là các họa sĩ Batignolles. Trung tâm của nhóm văn nghệ sĩ mới này là họa sĩ Manet, ngoài ra còn có các văn sĩ, các nhà phê bình như Emile Zola, Théodore Duret, Zacharie Astruc và Edmond Duranty, các họa sĩ như Monet, Renoir, Sisley, Camille Pissaro, Degas, Henri Fantin-Latour, còn Paul Cézanne tham gia khi nào trở về Paris. Trong khi đó, Pierre A. Renoir là một con người mảnh khảnh, với tính ưa khôi hài nhưng lại không ưa tham gia vào các cuộc tranh luận. Thế nhưng các họa phẩm của Renoir lại mang tính cấp tiến nhất vào thời kỳ đó, và Renoir đã chủ trương rằng phải vẽ những gì con mắt nhìn thấy và phải diễn tả lại đề tài bằng các màu sắc càng trung thực càng tốt. Mặt khác, các họa sĩ như Jean Francois Millet và Gustave Courbet đã thực hiện các họa phẩm trong phòng vẽ nên thiếu đi sự sáng sủa, vẻ rực rỡ của đề tài dưới ánh sáng mặt trời. Và rồi do cứu xét các bóng mát có màu sắc của đề tài, các họa sĩ như Renoir và Monet đã tìm thấy rằng màu xanh là màu áp sắc. Hai họa sĩ này đã thấy các đề tài khác nhau đổi màu tùy theo các điều kiện chiếu sáng và do các màu phản chiếu từ các sự vật ở chung quanh. Rồi không khí chập chờn, bao quanh đề tài đã làm cho đường viền của đề tài thiếu sự sắc nét. Môi trường sống đã mở ra cho họa sĩ cả ngàn đề tài muôn màu, muôn vẻ: tàng cây, mây, nước, hoa trên mặt hồ, khói từ các mái nhà, các con thuyền, các cây dù che nắng bên bờ sông, các con người di động và ngay cả những chiếc váy sặc sỡ của phụ nữ. Đời sống của mọi người chung quanh đã mang theo các vẻ đẹp, sự tươi mới, sự linh động mà họa sĩ có thể tìm thấy dễ dàng trong dịp đi nghỉ xa, trong các trận đấu thể thao hay trong cảnh sống thay đổi của một thành phố lớn.