Post by Huu Le on Nov 17, 2006 15:34:22 GMT 9
Kỷ niệm 100 năm ngày Cézanne mất
Cézanne (1839-1906) người mở đường cho hội hoạ hiện đại
Hậu thế nhắc nhiều đến Cézanne. Thậm chí, ở Pháp, trong giới am hiểu nghệ thuật, có một thói quen đã thành nếp, là hễ cứ nói đến những bước đầu của hội hoạ hiện đại, là người ta lại nhắc đến tên ông. Vì sao vậy ? Tại sao không nói đến Van Gogh, Gauguin, hay Munch ? Đó cũng là những người đã đem đến những điều mới mẻ cho hội hoạ ở phương tây vào cuối thế kỷ XIX, trước khi hội hoạ hiện đại thực sự ra đời ?
Ở đây, chắc bạn không khỏi nóng lòng muốn biết khái niệm hiện đại trong hội hoạ đã được định nghĩa như thế nào và cần được hiểu như thế nào ? Đâu là chỗ dựa lý thuyết của nó ? Và cuối cùng, hội hoạ hiện đại đã hình thành ở vào thời điểm nào ? Đâu là vị trí của Cézanne ?
Khái niệm hiện đại trong hội hoạ
Thực ra, khái niệm hội hoạ hiện đại không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Về thời điểm và những điều kiện hình thành của nó, ta có thể biết rõ được, nhưng còn nội dung khái niệm hiện đại thì luôn luôn thay đổi cùng với những quan niệm, phong cách, trường phái hội hoạ, kế tiếp nhau ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay, mặc dầu về căn bản, tính chất hiện đại của những tác phẩm của Mondrian, Kandinsky, Picasso, Braque, Léger, hay Malevitch, v.v. (1910-15), và nói chung, của các trường phái tượng trưng, biểu hiện, lập thể, dã thú, trừu tượng, của những năm đầu thế kỷ XX, cũng có thể so sánh được với tính chất hiện đại trong các tác phẩm của Jackson Pollock, Willem de Kooning, Jasper Johns, Rothko, hay Soulages, v.v., với các trường phái Pop Art, Tân hiện thực, Siêu hiện thực, v.v (1950-70), hoặc của Georg Baselitz, Antonio Saura, Jean-Michel Basquiat, v.v.. (1980-90). Kể tên tuổi các hoạ sĩ được coi là hiện đại từ một thế kỷ nay, chắc ít nhất cũng phải một trang báo, hay hơn, mới có thể kể hết được. Cũng như, trình bày những ý tưởng hiện đại ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay, với tất cả các xu hướng hình tượng và trừu tượng, cũng vượt khỏi khuôn khổ của bài báo này, và nhất là điều đó cũng không cần thiết lắm để giải thích hiện tượng Cézanne.
Khái niệm hiện đại thực ra cũng chỉ có một giá trị tương đối. Khi ta nói hiện đại, bao giờ cũng chỉ là hiện đại đối với một cái gì đó có trước, không phải chỉ là một cái gì lỗi thời, mà thường thuộc về một truyền thống.
Trong nền hội hoạ ở phương tây, cái mà người ta gọi là hội hoạ hiện đại có một nội dung và một lịch sử khá chính xác. Đó là tất cả những xu hướng hội hoạ đối lập với cái truyền thống hội hoạ có từ thời cổ đại Hy Lạp, mà một trong những quy tắc được lấy làm nền tảng, là phải thể hiện sự vật « giống như thật », hay nói như Aristote (384-322 tr.C.N.), « giống như con mắt ta nhìn thấy ». Người ta còn nhớ giai thoại về hai hoạ sĩ Hy Lạp sống ở thế kỷ V tr. C.N., Zeuxis và Parraharios, một người vẽ chùm nho giống đến nỗi chim chóc tưởng thật tìm đến ăn, một người vẽ bức màn khéo đến mức người ta ngỡ là bức màn thật. Chính Aristote đã đưa quan niệm về sự thể hiện sự vật một cách « giống như thật » này lên thành quy tắc nghệ thuật. Quy tắc này sẽ là « hạt nhân lý thuyết » của hội hoạ tượng hình truyền thống ở phương tây trong nhiều thế kỷ.
Tuy nhiên, khi nói đến nền hội hoạ truyền thống, người ta thường chỉ đi ngược lên đến thời Phục Hưng Ý mà thôi, vì ở thời kỳ này, không những các hoạ sĩ vẫn trung thành với quan niệm thể hiện hiện thực như ở thời Aristote, mà còn đặt ra phép phối cảnh với điểm tụ ở đường chân trời, quy định cách thể hiện sự vật trong không gian, coi đó là cách thể hiện khoa học nhất, chính xác nhất. Quy tắc này sẽ ngự trị trong hội hoạ truyền thống ở phương tây từ thời Phục Hưng Ý đến nay.
Đương nhiên, đối với các nền hội hoạ không tượng hình(trừu tượng), thì cả hai quy tắc trên đều không đặt ra.
Có thể nói một cách tóm tắt, là hội hoạ hiện đại, hình thành ở đầu thế kỷ XX, phủ nhận cả hai quy tắc kể trên, từ Cézanne cho đến các trường phái tượng trưng, biểu hiện, lập thể, dã thú, trừu tượng, v.v.
Quan niệm về hội hoạ của Cézanne
Cézanne, từ khi tìm ra được cho mình một con đường đi riêng, vào khoảng những năm 80 (của thế kỷ XIX) trở đi, đã không còn quan tâm đến cái vỏ ngoài của sự vật nữa, điều mà phần đông các hoạ sĩ ấn tượng đương thời vẫn còn đang đeo đuổi (Cézanne đã từng vẽ theo phong cách ấn tượng, và trong các bức hoạ thời kỳ ấn tượng của ông có nhiều bức rất đẹp : Maison en Provence, près de l'Estaque (1879-82) ; Le pont de Maincy, 1879 ; Madame Cézanne dans un fauteuil rouge, 1877, v.v.
Có thể lấy một vài thí dụ để minh hoạ quan niệm không cần thiết phải vẽ chi tiết hiện thực (trong một loại tranh nhất định) này của Cézanne. Trong những bức hoạ vẽ những người tắm truồng (Baigneurs và Baigneuses) vào những năm 1890-1906, ông thường không vẽ chi tiết mặt mũi. Ngay cả thân hình người, ông cũng cố ý không vẽ đúng, mà chỉ chú ý đến bố cục và nhịp điệp chung của bức hoạ.
Đối tượng của hội hoạ đối với ông bây giờ là những vấn đề thuần tuý thẩm mỹ phải giải quyết. Đó là cách diễn tả hiện thực bằng một ngôn ngữ « vững chắc » hơn, đồng thời khắc phục vấn đề đặt ra cho hội hoạ từ trước đến nay, là làm sao thể hiện sự vật trong không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều một cách « sáng sủa » hơn.
Do đó, ông dẹp bỏ phép vẽ phối cảnh có từ thời Phục Hưng Ý, để đưa hết đối tượng của bức hoạ lên phía trước.
Cái đẹp của tác phẩm hội hoạ, đối với ông không phải là cái đẹp của « cái được biểu đạt » : phong cảnh, chân dung, hay tĩnh vật nằm ở trong tranh, mà là cái đẹp của « cái biểu đạt », nghĩa là : bố cục, nhịp điệu, màu sắc và chất liệu, cùng mối quan hệ sinh động và cân đối giữa các yếu tố của bức tranh.
Cách Cézanne « đưa đối tượng lên phía trước » và lấp đầy mặt phẳng của bức hoạ, nhất là các bức tĩnh vật và phong cảnh, cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến lớp hoạ sĩ trẻ thời đó. Có thể nói rằng : nếu không có Cézanne, chưa chắc gì đã có « Les Demoiselles d'Avignon » (1907) của Picasso ; hoặc « Nature morte au géranium » (1910), và « L'atelier rouge » (1911) của Matisse.
Cézanne chú trọng đến nét đồ hoạ, như ta có thể thấy được trên một vài tác phẩm (L'enfant au chapeau de paille, 1986 ; Les joueurs de cartes, 1890-92, v.v.). Nét vẽ khoẻ mạnh đó có từ Giotto, thời tiền Phục Hưng Ý, và sau này Picasso cũng có lúc đã vẽ như vậy. Nhưng trong phần lớn các bức hoạ của Cézanne, nét vẽ thường khi ẩn khi hiện, khi mất hẳn đi để nhường chỗ cho màu sắc tự phân định ranh giới với nhau.
Một trong những cái mới nữa của Cézanne là nét cọ và cách thực hiện những mảng màu đậm nhạt. Nét cọ này vào những năm 70, có lúc rất « ấn tượng », như trên các bức chân dung và tranh phong cảnh đã nêu ở trên, nhưng càng về sau này, vào những năm 1880-90 nét cọ ấy và cách cản màu ấy càng ngày càng có dáng dấp « lập thể ». Người ta cho rằng chính Cézanne đã từng nói : « Có thể thể hiện sự vật trong thiên nhiên bằng những hình thể hình học như hình ống, hình khối vuông, hình cầu, v.v. » Dẫu sao, ảnh hưởng của Cézanne lên Picasso và Braque trên những bức hoạ phong cảnh vẽ theo phong cách lập thể ở Estaque, miền nam nước Pháp (1908) , là rất rõ rệt.
Van Gogh cũng đã chinh phục nhãn quan của người xem bằng những nét cọ đầy nhịp điệu, nhưng với một phong cách khác. Thực ra, Van Gogh cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne, cũng như tất cả một thế hệ hoạ sĩ, đặc biệt là các hoạ sĩ lập thể : từ Picasso, Braque, Boccioni, đến Modigliani. Ngay cả các hoạ sĩ trừu tượng như : Delaunay, Kandinsky, cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne về mặt thủ pháp.
Cézanne (1839-1906) người mở đường cho hội hoạ hiện đại
Hậu thế nhắc nhiều đến Cézanne. Thậm chí, ở Pháp, trong giới am hiểu nghệ thuật, có một thói quen đã thành nếp, là hễ cứ nói đến những bước đầu của hội hoạ hiện đại, là người ta lại nhắc đến tên ông. Vì sao vậy ? Tại sao không nói đến Van Gogh, Gauguin, hay Munch ? Đó cũng là những người đã đem đến những điều mới mẻ cho hội hoạ ở phương tây vào cuối thế kỷ XIX, trước khi hội hoạ hiện đại thực sự ra đời ?
Ở đây, chắc bạn không khỏi nóng lòng muốn biết khái niệm hiện đại trong hội hoạ đã được định nghĩa như thế nào và cần được hiểu như thế nào ? Đâu là chỗ dựa lý thuyết của nó ? Và cuối cùng, hội hoạ hiện đại đã hình thành ở vào thời điểm nào ? Đâu là vị trí của Cézanne ?
Khái niệm hiện đại trong hội hoạ
Thực ra, khái niệm hội hoạ hiện đại không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Về thời điểm và những điều kiện hình thành của nó, ta có thể biết rõ được, nhưng còn nội dung khái niệm hiện đại thì luôn luôn thay đổi cùng với những quan niệm, phong cách, trường phái hội hoạ, kế tiếp nhau ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay, mặc dầu về căn bản, tính chất hiện đại của những tác phẩm của Mondrian, Kandinsky, Picasso, Braque, Léger, hay Malevitch, v.v. (1910-15), và nói chung, của các trường phái tượng trưng, biểu hiện, lập thể, dã thú, trừu tượng, của những năm đầu thế kỷ XX, cũng có thể so sánh được với tính chất hiện đại trong các tác phẩm của Jackson Pollock, Willem de Kooning, Jasper Johns, Rothko, hay Soulages, v.v., với các trường phái Pop Art, Tân hiện thực, Siêu hiện thực, v.v (1950-70), hoặc của Georg Baselitz, Antonio Saura, Jean-Michel Basquiat, v.v.. (1980-90). Kể tên tuổi các hoạ sĩ được coi là hiện đại từ một thế kỷ nay, chắc ít nhất cũng phải một trang báo, hay hơn, mới có thể kể hết được. Cũng như, trình bày những ý tưởng hiện đại ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay, với tất cả các xu hướng hình tượng và trừu tượng, cũng vượt khỏi khuôn khổ của bài báo này, và nhất là điều đó cũng không cần thiết lắm để giải thích hiện tượng Cézanne.
Khái niệm hiện đại thực ra cũng chỉ có một giá trị tương đối. Khi ta nói hiện đại, bao giờ cũng chỉ là hiện đại đối với một cái gì đó có trước, không phải chỉ là một cái gì lỗi thời, mà thường thuộc về một truyền thống.
Trong nền hội hoạ ở phương tây, cái mà người ta gọi là hội hoạ hiện đại có một nội dung và một lịch sử khá chính xác. Đó là tất cả những xu hướng hội hoạ đối lập với cái truyền thống hội hoạ có từ thời cổ đại Hy Lạp, mà một trong những quy tắc được lấy làm nền tảng, là phải thể hiện sự vật « giống như thật », hay nói như Aristote (384-322 tr.C.N.), « giống như con mắt ta nhìn thấy ». Người ta còn nhớ giai thoại về hai hoạ sĩ Hy Lạp sống ở thế kỷ V tr. C.N., Zeuxis và Parraharios, một người vẽ chùm nho giống đến nỗi chim chóc tưởng thật tìm đến ăn, một người vẽ bức màn khéo đến mức người ta ngỡ là bức màn thật. Chính Aristote đã đưa quan niệm về sự thể hiện sự vật một cách « giống như thật » này lên thành quy tắc nghệ thuật. Quy tắc này sẽ là « hạt nhân lý thuyết » của hội hoạ tượng hình truyền thống ở phương tây trong nhiều thế kỷ.
Tuy nhiên, khi nói đến nền hội hoạ truyền thống, người ta thường chỉ đi ngược lên đến thời Phục Hưng Ý mà thôi, vì ở thời kỳ này, không những các hoạ sĩ vẫn trung thành với quan niệm thể hiện hiện thực như ở thời Aristote, mà còn đặt ra phép phối cảnh với điểm tụ ở đường chân trời, quy định cách thể hiện sự vật trong không gian, coi đó là cách thể hiện khoa học nhất, chính xác nhất. Quy tắc này sẽ ngự trị trong hội hoạ truyền thống ở phương tây từ thời Phục Hưng Ý đến nay.
Đương nhiên, đối với các nền hội hoạ không tượng hình(trừu tượng), thì cả hai quy tắc trên đều không đặt ra.
Có thể nói một cách tóm tắt, là hội hoạ hiện đại, hình thành ở đầu thế kỷ XX, phủ nhận cả hai quy tắc kể trên, từ Cézanne cho đến các trường phái tượng trưng, biểu hiện, lập thể, dã thú, trừu tượng, v.v.
Quan niệm về hội hoạ của Cézanne
Cézanne, từ khi tìm ra được cho mình một con đường đi riêng, vào khoảng những năm 80 (của thế kỷ XIX) trở đi, đã không còn quan tâm đến cái vỏ ngoài của sự vật nữa, điều mà phần đông các hoạ sĩ ấn tượng đương thời vẫn còn đang đeo đuổi (Cézanne đã từng vẽ theo phong cách ấn tượng, và trong các bức hoạ thời kỳ ấn tượng của ông có nhiều bức rất đẹp : Maison en Provence, près de l'Estaque (1879-82) ; Le pont de Maincy, 1879 ; Madame Cézanne dans un fauteuil rouge, 1877, v.v.
Có thể lấy một vài thí dụ để minh hoạ quan niệm không cần thiết phải vẽ chi tiết hiện thực (trong một loại tranh nhất định) này của Cézanne. Trong những bức hoạ vẽ những người tắm truồng (Baigneurs và Baigneuses) vào những năm 1890-1906, ông thường không vẽ chi tiết mặt mũi. Ngay cả thân hình người, ông cũng cố ý không vẽ đúng, mà chỉ chú ý đến bố cục và nhịp điệp chung của bức hoạ.
Đối tượng của hội hoạ đối với ông bây giờ là những vấn đề thuần tuý thẩm mỹ phải giải quyết. Đó là cách diễn tả hiện thực bằng một ngôn ngữ « vững chắc » hơn, đồng thời khắc phục vấn đề đặt ra cho hội hoạ từ trước đến nay, là làm sao thể hiện sự vật trong không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều một cách « sáng sủa » hơn.
Do đó, ông dẹp bỏ phép vẽ phối cảnh có từ thời Phục Hưng Ý, để đưa hết đối tượng của bức hoạ lên phía trước.
Cái đẹp của tác phẩm hội hoạ, đối với ông không phải là cái đẹp của « cái được biểu đạt » : phong cảnh, chân dung, hay tĩnh vật nằm ở trong tranh, mà là cái đẹp của « cái biểu đạt », nghĩa là : bố cục, nhịp điệu, màu sắc và chất liệu, cùng mối quan hệ sinh động và cân đối giữa các yếu tố của bức tranh.
Cách Cézanne « đưa đối tượng lên phía trước » và lấp đầy mặt phẳng của bức hoạ, nhất là các bức tĩnh vật và phong cảnh, cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến lớp hoạ sĩ trẻ thời đó. Có thể nói rằng : nếu không có Cézanne, chưa chắc gì đã có « Les Demoiselles d'Avignon » (1907) của Picasso ; hoặc « Nature morte au géranium » (1910), và « L'atelier rouge » (1911) của Matisse.
Cézanne chú trọng đến nét đồ hoạ, như ta có thể thấy được trên một vài tác phẩm (L'enfant au chapeau de paille, 1986 ; Les joueurs de cartes, 1890-92, v.v.). Nét vẽ khoẻ mạnh đó có từ Giotto, thời tiền Phục Hưng Ý, và sau này Picasso cũng có lúc đã vẽ như vậy. Nhưng trong phần lớn các bức hoạ của Cézanne, nét vẽ thường khi ẩn khi hiện, khi mất hẳn đi để nhường chỗ cho màu sắc tự phân định ranh giới với nhau.
Một trong những cái mới nữa của Cézanne là nét cọ và cách thực hiện những mảng màu đậm nhạt. Nét cọ này vào những năm 70, có lúc rất « ấn tượng », như trên các bức chân dung và tranh phong cảnh đã nêu ở trên, nhưng càng về sau này, vào những năm 1880-90 nét cọ ấy và cách cản màu ấy càng ngày càng có dáng dấp « lập thể ». Người ta cho rằng chính Cézanne đã từng nói : « Có thể thể hiện sự vật trong thiên nhiên bằng những hình thể hình học như hình ống, hình khối vuông, hình cầu, v.v. » Dẫu sao, ảnh hưởng của Cézanne lên Picasso và Braque trên những bức hoạ phong cảnh vẽ theo phong cách lập thể ở Estaque, miền nam nước Pháp (1908) , là rất rõ rệt.
Van Gogh cũng đã chinh phục nhãn quan của người xem bằng những nét cọ đầy nhịp điệu, nhưng với một phong cách khác. Thực ra, Van Gogh cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne, cũng như tất cả một thế hệ hoạ sĩ, đặc biệt là các hoạ sĩ lập thể : từ Picasso, Braque, Boccioni, đến Modigliani. Ngay cả các hoạ sĩ trừu tượng như : Delaunay, Kandinsky, cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne về mặt thủ pháp.