|
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2006 8:43:39 GMT 9
Sự chuyển gene1) Ethylene, một kích thích tố thực vật: Những kích thích tố (hormone) thực vật như ethylene, gibberelline, auxine, brassinosteroid, abscisic acid, cytokinine... hoạt động ở mức vi phân tử và can thiệp vào việc điều chỉnh của sự biểu hiện gene, làm ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của thực vật. Người ta phân biệt hai loại trái cây: - Climacteric: (đỉnh cao hô hấp): Trái lìa khỏi cây, vẫn tiếp tục chín. Trái cây loại này hô hấp rất mạnh, tạo ra ethylene. Giai đoạn đầu, trái tạo ra rất ít ethylene, nhưng lượng ethylene tăng rất nhiều khi trái bắt đầu già và vẫn tiếp tục tăng sau khi trái đã lìa cành. - Non climacteric: Trái chỉ chín trên cây: sự hô hấp không tác dụng đến quá trình chín của trái (Yang và Hoffman, 1984) Như đã nói trên, ethylene là một kích thích tố ở thể khí rất quan trọng cho cây cối. Nó gia tăng sự loại bỏ khí CO2 và sự tiêu thụ khí O2. Nó tham gia vào nhiều giai đoạn trong sự phát triển của cây và được xem là hormone kiểm soát sự chín của trái. Năm 1979, Adams và Yang phát hiện rằng ethylene được chế tạo trực tiếp từ acide-1-aminocyclopropane (ACC). Bước cuối cùng trong tiến trình tạo sinh tổng hợp của ethylene nơi trái cây được thực hiện do sự xúc tác của enzyme mang tên ACC oxydase (ACCO). Lúc mới sinh, enzyme này chứa một vị điểm (site) hoạt động gồm một ion đơn nguyên tử Fe (II), nối 2 histidine với 1 aspartate. Người ta vẫn chưa rõ cơ chế của phản ứng này, nhưng họ ngờ rằng ở các giai đoạn đầu ACC và oxygène được gắn vào Fe để thành một phức chất bậc ba Fe/ACC/O2. Sau đó, có thể có sự tham gia của những chất oxyde hóa mạnh như Fe(III)OOH, Fe(V)=O, ... Các chế phẩm chứa ethylene hay đất đèn vẫn đang được sử dụng ở Việt Nam, nhất là trong việc làm chín đều hạt cà phê sau khi thu hoạch. 2) Những thay đổi chung của trái cây: Mọi trái cây đều biến đổi trạng thái trong tiến trình già chín với những kết quả hơi khác nhau: a) Vị của trái: Đó là kết quả của sự cân bằng giữa đường với độ chua. Trái dâu có mùi thơm dịu, hơi chua. Vị này do một chất bay hơi cân bằng giữa acid và đường. Tùy theo trái, tỷ lệ đường khác nhau và thay đổi tùy độ chín. Đối với chuối, mít, mơ, dưa tây, táo, lê, trạng sư, đào... thì tiến trình chín được bắt đầu và điều chỉnh bởi sự tổng hợp của một kích thích tố tên là ethylene. Người ta có thể làm chín trái còn xanh bằng cách ủ chúng với chất này. Những trái này tích trữ tinh bột ngay lúc đầu của thời kỳ phát triển. Chúng chứa nhiều đường nhờ sự phân hủy của tinh bột ra đường glucose, ngay cả khi trái được hái lúc còn xanh. Trường hợp trái dâu hay cà chua thì khác. Những khảo cứu trên trái dưa tây chứng tỏ rằng ethylene không có tác dụng lên những quá trình làm chín, và lượng đường lẫn màu của trái cũng không tùy thuộc vào ethylene. Chúng không tích trữ tinh bột trong khi trái phát triển mà vị ngọt có là nhờ sự phân hủy đường saccharose đã được tích lũy từ giai đoạn đầu của đời sống trái. Loại trái cây này phải được hái khi chín tới thì nó mới có vị thơm ngon. Khi chín, trái cây teo lại là do chúng chứa những hợp chất rượu phénol, đa phénol như tannin... kết hợp với những hợp chất tế bào (loại pectic) thành những hợp chất phức tạp. b) Sự đổi màu từ xanh sang màu vàng cam hay đỏ: Ta gọi trái còn xanh nghĩa là nó chưa chín. Ở giai đoạn sớm sủa này, diệp lục tố (chlorophylle) cho màu xanh của trái. Dưới tác dụng của enzym chlorophyllase, diệp lục tố bị phân hủy nên để lộ ra những sắc tố khác đã có sẵn trong trái. Thí dụ trường hợp trái đu đủ. Song song với quá trình này, các sắc tố khác được tổng hợp. Có hai nhóm sắc tố: nhóm caroténoide, với beta-carotène sẽ cho màu vàng cam như trái xoài, và nhóm anthocyanes, mà pelargonidol (pelargonidin-glucosine) sẽ cho trái dâu có màu đỏ. Các sắc tố này thường tạo thành các hợp chất phức tạp để khỏi tạo thành màu xanh lơ. c) Phát ra mùi thơm: Mùi trái cây rất phức tạp bởi vì có hàng trăm hợp chất khác nhau để tạo mùi thơm cho một loại trái. Thí dụ có khoảng 200 hợp chất thơm cho trái dâu tây. Các hợp chất dễ bay hơi này (rượu, aldéhyde, ester, cétone, terpénol...) tham dự vào việc tạo mùi. Sự tổng hợp các chất này do các yếu tố bên ngoài tác động lên như nhiệt độ, sự oxy hóa... Chính quá nhiều thông số tạo mùi mà ta khó nhận biết được hợp chất thơm nào đặc biệt nhất cho loại trái cây trong lúc chúng dễ bay hơi, và cũng do mỗi người cảm nhận d) Mất độ rắn chắc: Kết cấu của trái cây được vận hành bởi nhiều thông số như độ lớn và hình dạng tế bào, thể tích liên tế bào, sự toàn vẹn, bề dày của màng tế bào, áp suất thẩm thấu... Những đổi thay các thông số này là những quá trình phức tạp tạo ra một số lớn protein. Ngoài ra sự thoái hóa thành tế bào là kết quả hoạt động của các enzym thủy phân được tổng hợp trong lúc trưởng thành và dẫn tới sự phá hoại cấu trúc tế bào và mô. Cho dù sự rối loạn của tế bào được xem như nguyên nhân chính làm thay đổi cấu hình, còn có những biến cố khác được quan sát trong lúc trưởng thành, như mất đi sự kết dính giữa các tế bào và những thay đổi áp suất thẩm thấu, cũng làm cho trái mềm đi. Đối với nho, dâu tây, sơ ri, ... thì quá trình chín không dựa vào sự tổng hợp của ethylene. Tuy những nhân tố điều chỉnh vẫn chưa được biết chính xác, nhưng có vài kích thích tố như auxine (nơi dâu tây) hoạt động trong sự phát triển của trái lúc còn non. 3) Sự chuyển gene: Hiểu biết về sự điều chỉnh của sự biểu hiện gene liên kết với sự phát triển và sự chín của trái giúp người ta nêu ra được đặc tính chức năng của gene, nhận biết được các gene và cô lập chúng. Từ những nhận xét đó, những năm gần đây sự chuyển gene trong phòng thí nghiệm là phương thức đặc sắc để chứng minh giả thuyết trên chức năng của gene. Người ta chuyển những gene có ích lợi vào bộ gene của cây và quan sát sự thay đổi của trái cây. Người ta cũng có thể làm giảm sự biểu hiện gene, chận đứng con đường sinh hóa. Tại Pháp, những thí nghiệm chuyển gene trên hoa quả nhằm để hiểu cơ chế, chớ không có mục đích thương mại. Trái cây được thí nghiệm là cà chua. Họ tạo ra những giống cà có trái to hơn, chất lượng tốt hơn và lâu hư sau khi thu hoạch. Võ Thị Diệu Hằng
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 4:00:42 GMT 9
Khám phá khí Oxygen
Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng Mọi người đếu biết rằng lúc khởi thủy, không có oxygen trên trái đất. Khí quyển chỉ gồm các hợp chất nitrogen, hơi nước và khí carbonic được phóng thích ra từ các núi lửa, nhưng không có oxygen nguyên tố. Cách đây hai tỉ năm, sự ngưng tụ hơi nước và sự hình thành đại dương đã cho phép các vi sinh vật có thể tổng hợp diệp lục tố (rong, vi khuẩn), dùng khí carbonic và thải ra khí oxygen. Oxygen nhờ đó mà xuất hiện từ từ trong khí quyển, lúc đầu chỉ có 0,2%. Sau đó oxygen tạo thành tầng ozon, sẽ làm màn chắn bớt các tia tử ngoại (ultraviolet) tới mặt đất. Nhờ đó mà có được sự sống tập thể trên mặt đất. Sự phát triển mạnh mẽ của thực vật tạo lớp khí quyển càng ngày càng có nhiều oxygen Nhờ sự sản xuất oxygen mà trái đất ta đã qua một bước ngoặc mới trong lịch sử của nó. Trong một tì năm, cây dưới nước tiếp tục thải ra khí oxygen, và dần dần tụ lên bầu khí quyển Khám phá khí oxygen: Nhà hóa học Thụy Điển Carl Wilhelm Scheele (1742-1786) nghiên cứu các chất khí vào những năm 1768-1770, đã quan sát một chất khí không mùi, khi đốt thì cho ra ngọn lửa sáng. Ông cho nó đặc điểm là "không khí của lửa". Tháng 4 năm 1774 Pierre Bayen thí nghiệm khi đốt oxyd thủy ngân (đá vôi thủy ngân, (chaux mercurielle ou mercure précipité per se), sẽ tỏa ra một chất khí và khối lượng bị mất. Ông hứng khí đó và ghi nhận rằng nó hơi đặc hơn không khí. Bayen cho rằng công bố quan sát này không ích lợi gì , ông muốn thực hiện những thí nghiệm tỉ mỉ hơn, cẩn thận hơn mà không xem xét chất khí thoát ra đó. Có phải ông cho rằng chất khí đó bình thường như mọi chất khác? Ngày 1 tháng 8 1774, Joseph Priestley làm thí nghiệm y hệt như Pierre Bayen tại khà ông gần Calne, Anh quốc. Ông thu được cùng chất khí trên và đặt tên là khí để đốt (air déphlogistiqué). Ông còn nhận thấy rằng chất khí này khi hít vô sẽ cảm thấy khoẻ và cây cối có thể làm tái sinh một phần chất khí mà chuột và ngọn lửa thải ra. Từ các thí nghiệm trên, ông kết luận trên là không khí quanh ta gồm hai hợp chất, một chất làm hoạt động sự đốt và một cặn bã. Nói về chất khí này, ông viết: "cái làm cho tôi ngạc nhiên nhất là đèn cầy cháy bằng chất khí này có độ sáng rất mãnh liệt..." Ông cũng diễn tả một cách tỉ mỉ các thí nghiệm của ông và cho in ra các kết quả. Nhân dịp bữa ăn tối, khi Priestley được mời qua Pháp tháng 10 năm 1774 thì Lavoisier mới biết được sự khám phá ra chất khí đặc biệt mà ông gọi là "khí để hô hấp tốt hết sức" (air éminemment respirable) Lavoisier biết các công trình của Bayen nhưng cũng như Bayen, không để ý độ quan trọng của chất khí này. Sự gặp gỡ với Priestley là một phát hiện mới đối với Lavoisier: ông bị thu hút bởi các "khí" mới này và quyết định nghiên cứu các chất khí và những hiện tượng của sự đốt cháy. Bảy tháng sau, ông lập lại thí nghiệm của các nhà hóa học trên và thấy rằng "chất nhiên khí" đó là một nguyên tố mới, quan trọng hơn, là nguyên tố dùng để đốt. Ngoài ra ông thấy ngay sự gia tăng khối lượng của các kim loại khi bị nung khô (calcination). Năm 1775, ông thực hiện thí nghiệm đáng ghi nhớ trong 12 ngày và 12 đêm trên oxyd thủy ngân đỏ. Khí tỏa ra được nghiên cứu có đặc tình quan trọng: làm hoạt động sự cháy, giúp sự hô hấp động vật. Lavoisier kêu tên là "khí cho sự sống" (air vital). Lavoisier khám phá rằng khí quyển là hỗn hợp của hai khí, air vital và mofette (nitrogen) Bayen đã thấy sự sai lầm của mình khi không công bố sự khám phá của mình, nhưng đã trễ, ông đã bị lịch sử quên tên Chính Pristley là cha đẻ của oxygen, xác định đặc tính của nó Lavoisier xác định nó là một nguyên tố Oxygen: Tên: Oxygen Ký hiệu: O Số nguyên tử: 8 Khối lượng nguyên tử: 15.9994 amu Điểm nóng chảy: -218.4°C (54.750008°K, -361.12°F) Điểm sôi: -183.0°C (90.15°K, -297.4°F) Số Protons/Electrons: 8 Số Neutrons: 8 Phân loại: không kim loại Cơ cấu tinh thể: khối lập phương Tỷ trọng ở 293 K: 1.429 g/cm3 Màu: không màu Oxygen tượng trưng cho : 21% thể tích khí quyển Nửa trọng lượng lớp vỏ địa cầu 88,8 % trọng lượng nước 23,2 % không khí (75,6 % nitrogen) 62,5 % cơ thể con người và cho tới 88 % ở một số sinh vật ở biển Có thể sống sót lâu với không khí chứa 14 % oxygen, rối loạn quan trọng ở 7 % và nghẹt thở ở 3 % Oxygen, nguyên tố cần thiết cho đời sống Là nguyên tố phổ biến, dồi dào nhất của vỏ trái đất trong số đó có đất đá và sông biển với khí quyển. Nó tượng trưng cho 49,5% của khối lượng vỏ quả đất (53,3% tính theo số nguyên tử), đứng trước quá xa so với silicium (25,7% tính theo khối lượng). Trong không khí oxygen ở dưới dạng phân tử có hai nguyên tử oxygen (O2). Kết hợp với hydrogen, cho ra nước H2O Trong đất đá, nó có trong các khoáng chất có oxygen (oxyd, hydroxyd, silicat, carbonat, sulfat, phosphat..) Nơi các sinh vật, oxygen ở dưới dạng phân tử hữu cơ có oxygen và những hợp chất vô cơ như phosphat apatitic trong xương và răng, các carbonat trong vỏ sò. Cơ cấu nguyên tử của oxygen: Tầng điện tử hóa trị (tầng 2) gồm 6 điện tử và oxygen được xếp hạng ở cột thứ VIA của bảng phân loại tuần hoàn. Đó là nguyên tố dầu tiên của nhóm tương đối đồng nhất gồm 4 nguyên tố khác là: lưu huỳnh (S), selenium (Se), tellurium (Te) và polonium (Po). Hai điện tử 2s tạo thành một cặp điện tử có spin nghịch chiều nhau và 4 điện tử 2p khác phải rải lên ba quỹ đạo 2px, 2py và 2pz cùng một mực lăng lượng: Hai trong số các điện tử sẽ tạo thành một cặp điện tử trên cùng một quỹ đạo, nhưng hai điện tử còn lại bị bó buộc phải ở trên hai quỹ đạo còn lại (Luật Hund), nên là những điện tử độc thân. Cấu hình điện tử của oxygen làm cho nó có tính chất đặc biệt. Theo luật tám điện tử, nguyên tử oxygen có khuynh hướng thu thêm hai điện tử để tạo ra cấu trúc của neon (Ne) là khí hiếm đứng sát bên nó (1s2, 2s2, 2p6) nghĩa là tạo ra ion O2- Do đó oxygen là nguyên tố có tính âm điện mạnh (3,44 theo thang Pauling), tính âm điện của nó chỉ bị fluor (F) qua mặt (3,98). Đó là một nguyên tố không kim loại điển hình.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 6:11:07 GMT 9
amôniăc là gì?
Amôniăc là một chất khí không màu có mùi rất khó chịu. Một người bị ngửi amôniăc lâu có thể bị chết. Thuật ngữ amôniăc có nguồn gốc từ một liên kết hoá học có tên là clorua ammoni được tìm thấy gần đền thời thần Mộc tinh Ammon ở Ai Cập. Người đầu tiên chế ra amôniăc nguyên chất là nhà hoá học Dzozè Prisly. Ông đã thực hiện thành công thí nghiệm của mình vào năm 1774 và khi đó người ta gọi amôniăc là chất khí kiềm. Trong không khí có một lượng amôniăc không đáng kể sinh ra do quá trình phân rã của động vật và thực vật. Ngoài ra trong nước mưa cũng có chứa một lượng amôniăc không lớn. Nhưng người ta thường chế ra amôniăc để dùng cho ngành công nghiệp bằng phương pháp nhân tạo. Trong thành phần của amôniăc có azốt và hyđrô. Khi hai chất này liên kết với nhau, chúng tạo ra amôniăc. Người ra lấy azốt từ không khí , còn hyđrô từ nước. Hai thành phần này được sấy khô, hâm nóng, nén, sau đó chất hỗn hợp này ở nhiệt độ 5300C được cho qua các liên kết muối khác nhau và kết quả là chúng ta có được amôniăc. amôniăc nặng gần bằng nửa không khí. Sau khi nén và làm lạnh nó sẽ biến thành chất lỏng giống như nước nhưng sôi ở nhiệt độ - 340C. Khi bị nén xong, amôniăc sẽ bay hơi. Lúc này nó hấp thụ nhiều nhiệt. Đó là nguyên nhân vì sao người ta sử dụng amôniăc trong tủ lạnh. amôniăc dân dụng là một dung dịch nước của amôniăc. Chúng ta thường cho thêm chất này vào khi giặt quần áo. amôniăc khi liên kết với các axit sẽ tạo ra các muối amôniăc. Nhiều loại muối trong số này rất có ích. Chất clorua ammonia được sử dụng trong quá trình hàn, trong công nghệ chế tạo các thức ăn khô và trong y học. Sunphat ammonia là một loại phân bón tốt. Nitrat ammonia cũng được sử dụng như một loại phân bón và còn như một dạng thuốc nổ. Cồn ammonia clorua cũng có chứa cacbonat ammoni. Tất cả các liên kết trên có được khi cho amôniăc liên kết với một loại axit tương ứng, nhưng một phần các muối trên cũng có trong thiên nhiên. ***************** bạn biết gì về bệnh sởi?
Sởi là một căn bệnh mà tất cả chúng ta đều có thể mắc phải với những triệu chứng giống hệt nhau. Tất nhiên có một dạng của bệnh sởi có tên gọi là bệnh sởi Đức có khác so với bệnh sởi thông thường. Sởi thường là căn bệnh của trẻ em, nhưng nếu bạn chưa bao giờ bị lên sởi, bạn có thể bị bệnh này ngay cả khi đã trưởng thành. Thủ phạm gây ra bệnh sởi là một loại vi rút cực nhỏ mà chỉ có kính hiển vi cực mạnh mới nhìn thấy được. Bệnh sởi rất dễ lây vì nó lan truyền trong không khí qua những tia nước bọt mà người bệnh ho bắn ra. Nhưng còn có thể bị sởi nếu chúng ta tiếp xúc với người mang vi rút của bệnh sởi, ngay cả khi người đó chưa phát bệnh. Chúng ta chỉ bị lên sởi một lần duy nhất trong đời, và đó là nguyên nhân vì sao người lớn ít mắc bệnh này. Đơn giản là chúng ta đã kịp lên sởi từ khi còn bé. Sau khi bị bệnh sởi từ 10 đến 12 ngày, trong miệng và cổ họng của người bệnh xuất hiện những nốt đỏ. Người bệnh bắt đầu ho và bị sốt, đồng thời bị chảy nước mũi. Sau đó từ 1 đến 2 ngày các nốt sần đỏ mọc trên toàn thân và người bệnh sốt cao. Lòng trắng của mắt bị viêm sưng và người bệnh trở nên rất nhạy cảm với ánh sáng. Thật là những triệu chứng khó chịu phải không bạn? Nhưng khi các nốt sởi vừa xuất hiện trên người , lập tức nhiệt độ cơ thể hạ xuống và người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Nhưng đôi khi các vi trùng khác đồng thời gây nhiễm khuẩn tai và phổi, và dẫn đến các biến chứng nguy hiểm. Dịch sởi thường lây lan ở những thành phố lớn trong vòng từ 2-4 năm một lần. Bệnh xuất hiện ở những đứa trẻ chưa bao giờ mắc phải bệnh này. Trẻ em dưới 5 tháng không bị lên sởi nếu mẹ của chúng trước đây đã từng bị bệnh này. Sự nhiễm vi rút sởi thường xảy ra vào mùa xuân. Chúng ta không có thuốc đặc trị bệnh sởi. Huyết thanh chỉ có tác dụng giảm nhẹ tiến trình của bệnh . Điều cần thiết nhất đối với người bệnh là nằm trong phòng kín và nghỉ ngơi thật tốt. ***************** bạn biết gì về da của chúng ta?
Khi nói về cơ thể người, chúng ta thường nhắc đến các cơ quan như tim, gan hay não. Chúng thực hiện các chức năng nhất định của mình. Thế các bạn có biết rằng da cũng là một cơ quan của cơ thể con người không? Trong khi các cơ quan khác chiếm một phần nhỏ của cơ thể , da trải rộng bằng một lớp vỏ cực mỏng trên toàn thân người với diện tích 20.000 cm2. Từ tuyến mồ hôi đến tuyến thần kinh, một số lượng vô cùng lớn các cấu trúc phức tạp được bố trí trên mỗi xăng-ti-mét của da. Da được cấu tạo bởi hai lớp mô. Lớp thứ nhất- dày và sâu hơn- gọi là lớp sừng. Lớp thứ hai nằm phía trên là lớp mô mỏng mà chúng ta gọi là biểu bì. Chúng được nối liền với nhau bằng cách rất lạ. Lớp dưới có các chồi mọc lên dưới dạng núm vú, xuyên qua chính lớp ngoài để nối với nó thành một khối thống nhất. Lớp trên của da (biểu bì) không có các mạch máu chạy qua. Nó được cấu tạo bởi các tế bào đã chết và mọc cộm lên như sừng. Có thể nói cơ thể con người được bao phủ bằng một lớp mai cứng như sừng vậy. Điều này rất có lợi, bởi vì chính lớp da sừng này có tác dụng bảo vệ cơ thể của chúng ta. Chính vì lớp da này không nhạy cảm nên nó tránh cho chúng ta cảm giác đau. Nước không gây ảnh hưởng tới nó và nó giống như chất cách ly vậy. Nhưng những lớp cuối cùng của biểu bì thì lại rất nhạy cảm. Nhiệm vụ của chúng là tạo ra những tế bào mới được hình thành từ tế bào mẹ và được chính các tế bào mẹ này đẩy lên phía trên. Dần dần , lớp da này không được nuôi dưỡng và chết đi, biến thành lớp sừng. Mỗi ngày có hàng tỷ các tế bào sừng trên cơ thể chúng ta bị bong ra. Nhưng cùng lúc đó xuất hiện một số lượng tương đương các tế bào mới. Vì thế da của chúng ta giữ được vẻ trẻ trung của mình. Trên da có tới 30 lớp sừng khác nhau. Mỗi khi lớp trên bị bong ra hoặc bị chà xát mỏng đi, một lớp sừng khác lập tức thay thế nó. Cơ thể chúng ta không bao giờ sử dụng hết các lớp này , vì luôn luôn có một lớp mới hình thành. Vì vậy chúng ta có thể tắm rửa, kỳ cọ thoải mái mà không sợ bị tróc mất lớp da của cơ thể . ****************** bạn biết gì về hàm răng người ?
Để hiểu được những hiện tượng đang xảy ra trong hiện tại, chúng ta cần phải biết được quá trình phát triển tiến hoá của chúng. Các bạn đã bao giờ nghĩ đến nguồn gốc hàm răng của mình chưa? Mà điều này lại rất thú vị đấy! Răng người chính là .... vẩy cá đã bị biến dạng! Cá sống trên trái đất hàng chục triệu năm về trước được bao bọc toàn thân bằng một lớp vẩy chìa ra ngoài. Những chiếc vẩy nằm ở gần sọ có nhiệm vụ lưu giữ và phân nhỏ thức ăn . Thậm chí cho tới tận bây giờ, răng người và vẩy cá mập chẳng hạn , có cấu tạo gần giống nhau. Răng được cấu tạo từ ba bộ phận chính: phần gốc nằm trong những hốc sâu của hàm, thân răng nhô lên trên lợi và cổ răng nằm giữa hai phần đó. Răng không mọc ra từ hàm của chúng ta giống như cây mọc lên từ đất. Có lẽ sẽ chính xác hơn nếu chúng ta so sánh răng của mình như những cây mọc trong chậu cảnh. Mỗi chiếc răng được gắn với một chiếc chậu cảnh bằng xương của mình. Vậy răng nhận những chất cần thiết để nuôi dưỡng mình như thế nào ? Có một kênh rễ đưa các dây thần kinh , động mạch và tĩnh mạch đến răng. Chúng vận chuyển các chất cần thiết vào ổ răng hay còn gọi là tuỷ. Một phần lớn của răng được hình thành từ các cấu thành bằng xương. Chúng ta gọi đó là ngà răng. Còn phần mà chúng ta nhìn thấy được gọi là men răng. ******************* bạn biết gì về thuốc gây mê ?
Mục đích của bất kỳ loại thuốc gây mê nào là nhằm khống chế được cơn đau.Từ xa xưa người ta đã cố gắng tìm ra cách giải quyết tình trạng này. Các cuốn sách về y học viết vào thế kỷ thứ I đã miêu tả những loại dược phẩm gây mê, nhưng các loại thuốc tương tự đã được người phương Đông biết đến từ trước đó rất lâu. Trước khi con người bắt đầu biết sử dụng phương pháp giảm đau mà chúng ta biết ngày nay, mỗi cuộc phẫu thuật đã thực sự đưa người bệnh đến tình trạng hấp hối, và nhiều khi người bệnh chết vì các cú sốc hoặc vì cơn đau.Y học hiện đại chỉ trở thành hiện thực sau khi người ta tìm ra phương pháp chấm dứt cơn đau và trẫn tĩnh người bệnh. Để đạt được điều đó có hai phương pháp. Phương pháp thứ nhất là đưa người bệnh vào trạng thái ngất, hay còn gọi là gây mê. Cách thứ hai là bao vây các dây thần kinh dẫn đến các bộ phận cần tiến hành phẫu thuật. Người ta gọi phương pháp này là gây tê cục bộ. Đa số các loại thuốc gây mê có dạng khí. Khi hít phải chúng, người bệnh sẽ bị ngất đi. Các chất khí gây mê đó là clorofoc, ête và êtylen. Ngoài ra còn có một số loại thuốc gây mê khác được truyền vào cơ thể người bệnh qua máu. Các loại thuốc gây mê này cần cho các trường hợp khi cần phải tê liệt hoá hoàn toàn người bệnh , hoặc với tác dụng như sự gây mê dự bị, để nhanh chóng đưa người bệnh vào trạng thái ngất, còn sau đó trạng thái này có thể được duy trì bằng các loại thuốc gây mê bình thường. Phương pháp gây tê cục bộ được tiến hành bằng cách tiêm các chất gây mê vào cơ thể . Các chất gây mê được đưa vào vùng cần phẫu thuật , hoặc vào những vùng bao vây các dây thần kinh cảm xúc, đôi khi vào dịch xương sống của các đốt xương khác nhau. Cách này thường được sử dụng khi đỡ đẻ. Thuốc gây tê cục bộ chủ yếu là cocain và novocain . Khi nhổ răng, người ta cũng sử dụng những loại thuốc tê này. ***************** bọt biển là gì?
Bọt biển được bán ở trong các cửa hàng và được sử dụng cho việc rửa chén bát, chai lọ hay các dụng cụ làm bếp không phảI là bọt biển tự nhiên. Chúng được làm từ vật liệu tổng hợp mặc dù trông nó rất giống bọt biển tự nhiên và cũng tiện dụng khi sử dụng. Nhưng bọt biển tự nhiên lại xuất hiện ở biển chứ không phải trong phòng thí nghiệm. Từ xưa, nhiều người tin rằng mình đã biết tất cả về bọt biển. Người ta đã từng cho rằng chúng là loài thực vật cho tới khi một người có tên là Robert Grant chứng minh được rằng bọt biển trước kia đã từng là động vật! Ông đã quan sát bọt biển ở trong nước qua kính hiển vi, và ông đã thấy những tia nước đi vào ở một số kẽ hở và đi ra ở những kẽ hở khác. Nhưng dù sao trong nhiều năm các nhà bác học vẫn còn chưa biết rằng đó là loài động vật gì. Người ta giả thiết rằng đó là những tổ chức vụn nhỏ đơn bào sống cùng với nhau trong một quần thể lớn. Giờ đây chúng ta đã biết rằng bọt biển - đó là những bộ xương khô của loài động vật biển thuộc họ lỗ xốp. Đó là nhóm động vật tương đối lớn, và mặc dù bọt biển là một trong những loài động vật bậc thấp trong thế giới động vật, nhưng cấu tạo của chúng lại tương đối phức tạp. Lớp trên của chúng được cấu tạo từ những khe phẳng giống như những bậc thang. Các ống dẫn được tạo bởi những khe này không giống như ở các loài động vật khác. Chúng có dạng các trụ , mỗi trụ có phần cuối là mộtcửa cống. Những cửa cống này hút nước vào bọt biển và sau đó lại thải ra. Bằng cách này, bọt biển đã hấp thụ được ô xy và thức ăn (hàng trăm tổ chức vụn nhỏ được hút vào cùng với nước). Các chất thải cũng được loại ra ngoài cùng với nước đã qua xử lý. Đó chính là tại sao bọt biển tươi, trong đó vẫn còn nước mà lại có mùi hôi. Nhưng cũng cần phải biết rằng chính thứ mùi khó chịu này lại bảo vệ cho bọt biển trước các loài động vật khác, bởi vì nó làm cho các loài động vật khác mất đi cảm giác thèm ăn chúng. ở phần trung tâm của bọt biển có một khối chất nhầy sáng màu, trong đó có chứa những ổ di chuyển được . Có lẽ chính chúng đã tham gia vào các quá trình tiêu hoá thức ăn, hô hấp và bài tiết. Bọt biển có thể có màu sắc và hình dạng khác nhau. Nói chung chúng rất đa dạng, những dạng bọt biển quý nhất có thể gặp ở độ sâu rất lớn, cách xa bờ biển 80-130 km. ****************** calo là gì?
Ngày nay mọi người đều quan tâm đến việc ăn uống sao cho đầy đủ calo. Có những tiệm ăn thậm chí còn viết rõ lượng calo của các món ăn trên thực đơn của mình. Để hiểu rõ thế nào là calo và vai trò của calo đối với cơ thể con người, chúng ta cần bắt đầu từ việc ăn uống. Cho đến tận bây giờ , các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích một cách chính xác tế bào đã biến thức ăn thành năng lượng như thế nào. Chúng ta chỉ biết chắc chắn rằng chính quá trình đó đã xảy ra. Mặt khác, chúng ta cũng không thể giải thích vì sao một tế bào nhất định lại cần một số loại thực phẩm nhất định cho sự hoạt động của mình. Chúng ta đã biết, thức ăn khi vào cơ thể được hoà lẫn với ô xy. Có thể hiểu rằng thức ăn "cháy" như nhiên liệu vậy. Và chúng ta đo được công việc của nhiên liệu đó bằng calo. "Gam calo" hay còn gọi là calo nhỏ, là khối lượng nhiệt cần thiết để nâng nhiệt độ của một gam nước lên 10C. Một calo lớn bằng 1000 calo nhỏ. Chúng ta thường dùng đơn vị ca lo lớn để đo giá trị năng lượng của thức ăn. Mỗi loại thức ăn khi cháy cung cấp cho chúng ta một lượng ca lo nhất định. Ví dụ, một gam đạm tương đương với 4 calo, một gam mỡ cho chúng ta nguồn năng lượng là 9 calo. Cơ thể của chúng ta chỉ cần đủ năng lượng để duy trì cuộc sống của mình, mà không cần quan tâm xem chúng ta ăn gì để có được năng lượng đó. Số lượng calo cần cho mỗi người tuỳ thuộc vào khối lượng công việc người đó phải làm. Ví dụ, một người nặng 65 kg nếu không làm gì cả thì trong một ngày cần có 1680 calo. Nếu người đó làm việc bình thường , lượng calo cần thiết sẽ tăng tới con số 3360, còn nếu chúng ta phải làm việc nặng nhọc thì cơ thể của chúng ta cần những 6720 calo để hoạt động bình thường trong ngày. Trẻ con bao giờ cũng cần nhiều calo hơn người lớn, vì những người đứng tuổi đốt nhiên liệu chậm hơn. Có một điều thú vị là về mùa đông chúng ta tiêu phí calo nhanh hơn mùa hè. Những loại nhiên liệu thông thường của chúng ta là : gluxit , tinh bột và đường. Có bạn sẽ hỏi, vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta hấp thụ nhiên liệu nhiều hơn lượng cần thiết cho cơ thể? Câu trả lời là cơ thể sẽ chỉ sử dụng khối lượng cần thiết cho sự hoạt động bình thường của mình. Phần năng lượng còn lại được giữ lại dưới dạng dự trữ cho lần dùng sau. Cơ thể có thể dùng một phần ba số năng lượng hiện có , số còn lại sẽ bị biến thành... mỡ! Vì vậy mà chúng ta phải ăn uống hợp lý để không bị béo phì. ***************** chiếc gương đầu tiên ra đời ở đâu?
Nếu bạn nhìn xuống mặt hồ trong suốt , chắc hẳn bạn sẽ nhìn thấy hàng cây bên hồ và bầu trời xanh biếc in bóng xuống đó. Thực ra là bạn đang soi gương đấy. Vậy gương là gì? Gương là một bề mặt phẳng có thể phản chiếu ánh sáng và các vật khác. Điều quan trọng nhất đối với gương là nó phải có mặt thật phẳng, vì nếu gương càng phẳng thì phản chiếu càng tốt. Bạn cứ để ý mà xem, mỗi khi gió làm xao động mặt nước, tức là mặt hồ không còn phẳng nữa thì ta chỉ có thể nhìn thấy những vệt nắng mà thôi. Thời xa xưa con người đã nghĩ ra cách làm gương từ những miếng kim loại được đánh bóng. Ngày nay chúng ta làm gương bằng cách tráng một lớp kim loại vào lên một tấm kính phẳng. Một tấm kính thuỷ tinh chưa thể gọi là một chiếc gương. Gương có khả năng phản chiếu được hình ảnh và ánh sáng là nhờ vào lớp bạc mỏng, còn tấm kính chỉ có tác dụng bảo vệ cho khỏi xước hoặc bị hỏng mà thôi. Chúng ta chắc sẽ chẳng bao giờ biết được chính xác ai là người đầu tiên đã làm ra chiếc gương. Nhưng có lẽ trước khi phát minh ra chiếc gương chắc hẳn người này cũng đã soi bóng mình xuống mặt hồ trong vắt, để rồi một phát hiện thông minh đã nảy ra trong đầu anh ta. Chính mặt hồ trong và phẳng ấy đã mách bảo về một tấm kim loại đánh bóng cũng sẽ phản chiếu hình ảnh. Và thế là chiếc gương đã ra đời. Vào thời Hy lạp, Ai cập và La mã cổ đại , chiếc gương luôn là vật dụng bất ly thân, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Từ lúc bấy giờ người ta đã làm ra những chiếc gương bé xíu để tiện mang theo người. Chúng được làm từ những miếng kim loại hình tròn có thể là vàng bạc hoặc đồng. Những người cổ xưa đã rất ngạc nhiên không hiểu vì sao khi nhìn vào một miếng kim loại nhỏ lại có thể nhìn thấy khuôn mặt mình. Họ không chỉ ngạc nhiên mà còn kinh sợ nữa. Chính vì vậy họ luôn cho rằng chiếc gương là một vật vô cùng thần bí. Hình ảnh của chính mình trong gương họ bảo đó là hồn của họ. Mỗi lần gương vỡ họ lại tin rằng trong một tương lai gần chắc chắn sẽ có những chuyện không may xảy ra với chủ nhân của nó. Những người dân thành Venesia là những người đầu tiên nghĩ ra cách làm gương bằng cách tráng kính bằng thuỷ ngân và thiếc. Từ năm 1300 những chiếc gương sản xuất theo công nghệ mới đã ra đời thay thế cho những miếng kim loại đánh bóng và cho đến hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục áp dụng công nghệ này để làm ra những chiếc gương. ************************* hiếc máy khâu đầu tiên ra đời khi nào?
Chuyện kể rằng lâu lắm rồi có một du khách lạc đến một vùng xa xôi hẻo lánh. đó là một nơi rất cách biệt với cuộc sống văn minh. ấy vậy mà trong căn nhà của người thủ lĩnh của bộ lạc du khách đã nhìn thấy một chiếc máy khâu! Những người bản xứ bằng cách nào đó đã lấy được nó từ tay người da trắng. may mặc là một phần không thể thiếu đối với đời sống của con người chính vì vậy người ta không thể không nghĩ đến việc sáng chế ra moọt chiếc máy để may quần áo. Vậy thì ai là người đã có công làm ra chiếc máy tối cần thiết ấy? Nhưng nào ai có biết lịch sử sáng chế của chiếc máy khâu thật lắm gian truân. Người đầu tiên sáng chế ra chiếc máy khâu là ông Tomas Seynt, người Anh. năn 1790 ông Tomas đã được cấp bằng sáng chế cho chiếc máy khâu có nhiều đặc tính giống với những chiếc máy hiện đại. Thực ra công dụng chính của chiếc máy này là để may đồ da, nhưng rồi nó không được sử dụng và cũng chẳng gây được bất cứ tiếng vang gì. Và tất nhiên là ông Tomas chẳng thu được lợi lộc gì. Năm 1830 một người thợ may nghèo người Pháp Bartelemi Timoner đã làm ra chiế máy khâu hiện đại hơn chiếc máy của ông Tomas. Chiếc máy này đã được đưa vào sử dụng ở nước Pháp nhưng rồi đám công nhân điên cuồng lo thất nghiệp đã phá tan nhà máy và đập nát những chiếc máy. Thế là không còn ai biết đến cái tên Bartelemi Timoner và tác giả của những chiếc máy tội nghiệp đã phải chết trong cảnh nghèo đói. Gần như cùng thời gian này tại New york ông Walter Hant đã sáng chế ra một chiếc máy khâu dùng kim cong có trôn kim ở đầu. Khi đạp máy chiếc kim sẽ xuyên qua lớp vải một sợi chỉ, sợi chỉ này móc vào sợi chỉ ở cái chao tạo thành đường may mong muốn. Tuy nhiên thật đáng buồn cho ông Hant vì phát minh của ông không được nhận bằng sáng chế. Người có hân hạnh nhận tấm bằng phát minh sáng chế cho chiếc máy khâu đầu tiên được đưa vào sử rộng rãi là ông Elias Hoy. Năm 1851 tại Mỹ ông issak Zinger cũng được nhận bằng phát minh cho chiếc máy khâu của mình. Thế là giữa ông Hoy và ông Zinger đã xảy ra một cuộc kiện tụng gay gắt tranh giành vị trí là người phát minh ra chiếc máy khâu đầu tiên. Cuối cùng phần thắng đã thuộc về ông Hoy và ông này được nhận tiền tác giả từ mỗi chiếc máy khâu được sản xuất ra. Ngày nay trên thị trường có hàng ngàn loại máy khâu khác nhau. Người ta còn sản xuất ra những chiếc máy chuyên dùng để may mũ phớt, may quần áo da, chăn đệm... ******************** chiếc xe đạp đầu tiên được sản xuất khi nào?
Nếu chúng ta thực sự muốn tìm về quê hương của chiếc xe đạp thì ta phải cùng nhau ngược thời gian hàng ngàn năm để trở về với mảnh đất của người Ai cập cổ đại. Người ta đã chứng minh được rằng nơi đây từ nhiều thế kỷ trước đã có xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên phải đến năm 1817 thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi. Lúc bấy giờ ở Đức ông Phôn Đrét đã cho ra mắt công chúng một chiếc xe đạp đầu tiên (nếu như nó được gọi là chiếc xe đạp). Nó gồm hai bánh xe được nối với nhau bởi một thanh gỗ, người lái xe dồn lực vào điểm tựa bằng gỗ phía trước mình và đẩy cho xe chuyển động về phía trước, anh ta điều khiển chiếc xe này bằng cách quay tay cầm được gắn vào trực của bánh trước. Chiếc xe này được gọi là con ngựa Dendi và được bán rất đắt. Có một điều đặc biệt là vua George IV của Anh cũng đã sử dụng chiếc xe này. Vào khoảng năm 1840 một người Scotlen tên là Maxcmilian đã lắp thêm đòn bẩy vào trục của bánh sau, những đòn bẩy này đã nối những giây chuyển động với bàn đạp, ông ta đã đi bằng chiếc xe này rất nhanh đến nỗi còn bị phạt vì đi quá tốc độ. Cái tên xe đạp Bicycle lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1865 khi mà một người Pháp có tên là Lalemen đã đóng các đòn bẩy và bàn đạp vào bánh sau những chiếc xe này có những khung gỗ rất nặng nề và những vành xe bằng sắt kêu leng keng khi nó chuyển động. Vào năm 1868 người ta đã đưa vào sử dụng những chiếc bánh xe kim loại nhẹ hơn với nan hoa bằng thép và những chiếc lốp cao su và trong tất cả những chiếc xe đạp thời bấy giờ thì hai bánh to như nhau. Sau đó một thời gian có một loại xe đạp mới ra đời với bánh trước rất to. Có những chiếc xe đường kính của bánh trước đạt tới 1,5m và lớn hơn trong khi đó đường kính bánh sau lại chỉ vẻn vẹn 30cm. Người lái ngồi phía bánh trước và nếu anh ta không khéo léo thì rất dễ bị lộn đầu xuống đất. Cuối cùng vào năm 1885 đã xuất hiện một loại xe đạp hiện đại và an toàn. Hai bánh xe đạp có kích thước bằng nhau và yên nằm gần phía bánh sau nhờ có trục của xích to hơn trục của líp nên hai bánh chuyển động được những khoảng cách như nhau.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 6:13:55 GMT 9
điện thoại đầu tiên có từ khi nào?
Lịch sử của chiếc điện thoại thật là thú vị đến nỗi người ta đã làm hẳn một bộ phim về nó. Đầu tiên chúng ta hãy cũng nhau tìm hiểu nguyên lý hoạt động của điện thoại. Khi chúng ta nói thì không khí làm cho các dây thanh âm trong cổ họng chúng ta rung lên, những giao động này đã chuyền vào các phân tử của không khí tức là những sóng âm thanh phát ra từ mồm chúng ta đã tạo ra các giao động của không khí. Khi những sóng âm thanh đó chạm vào màng đàn hồi trong ống nói thì chúng sẽ làm cho cái màng đó rung với tần số giống như các rung động của các phần tử không khí, những giao động này đã chuyền qua đường dây điện thoại các tín hiệu hình sóng và dẫn đến những rung động của màng điện thoại ở đầu dây đằng kia. Màng đàn hồi sẽ tạo ra sóng trong không khí giống như những sóng đã được gửi vào ống nói khi những sóng này đến tai người nghe ở đầu dây đằng kia giống như là âm thanh trực tiếp phát ra từ miệng của bạn. Còn bây giờ chúng ta hãy nói về lịch sử của điện thoại. Vào ngày 2/6/1875 ông Alexandro Bell đã làm một thí nghiệm ở Boston. Ông muốn cùng một lúc gửi đi vào bức điện tín qua cùng một đường dây, ông đã sử dụng một bộ thanh thép??? Ông đã làm một thiết bị nhận ở một phòng còn người trợ lý của ông là Tomát Uytson thì truyền đi ở phòng bên cạnh, người trợ lý đã giật thanh thép để cho nó rung lên và tạo ra những âm thanh leng keng, bỗng dưng ông Bell chạy sang phòng của người trợ lý và hét toáng lên hãy cho tôi xem anh đang làm gì đấy. Ông đã nhận thấy rằng các thanh thép nhỏ khi rung ở phía trên nam châm thì sẽ tạo ra các dòng điện biến thiên chạy qua dây dẫn. Chính điều đó đã tạo ra những rung động của các thanh kim loại trong phòng của ông Bell và các âm thanh leng keng. Ngày hôm sau chiếc điện thoại đầu tiên đã ra đời và những âm thanh đã được truyền qua dây điện thoại thứ nhất từ tầng trên xuống hai tầng dưới. Vào ngày 10/8 năm sau ông Bell đã có thể nói chuyện với người cộng sự của mình qua điện thoại : Ông Willson ông có thể lên phòng tôi được không, tôi muốn nói chuyện với ông. ************** chuột lemmut là gì?
Chuột lemmut là một loài gặm nhấm nhỏ, trông giống chuột và sống ở các vùng ôn đới. Con vật nhỏ này chỉ dài chừng 13 cm và sống ở Nauy, Thuỵ Điển và Laplandi. Lemming ăn rễ cây, gọng cỏ và rêu. Mỗi năm con cái đẻ 2 lần, mỗi lần từ ba đến năm con. Nhưng điều gì khiến con người quan tâm đến con vật này? Cứ khoảng từ ba đến bốn năm một lần , hàng đàn chuột lemmut lại di chuyển qua những vùng nhất định của Nauy, Thuỵ điển và Laplandi. Mặc dù hành trình có thể khác nhau nhưng chúng luôn tiến về phía biển. Chuột lemmut di chuyển chậm nhưng rất quyết liệt, vượt qua tất cả các chướng ngại vật. Thường chúng di chuyển vào ban đêm còn ban ngày thì ăn hoặc ngủ. Những đàn chuột lemmut này vượt qua các con sông, bơi qua những hồ rộng vài cây số , đi xuyên qua thành phố, cứ như có một sức mạnh vô hình nào kéo chúng và không thể cưỡng lại được. Mỗi khi di chuyển như thế chúng gây ra những thiệt hại lớn cho nông dân vì chúng phá hoại các cây rau và màu. Kéo sau chúng là một đoàn thú và chim, những con vật này tấn công và ăn thịt chuột lemmut. Do chuột lemmut sinh sản rất nhanh và chúng chỉ di chuyển như vậy có một lần trong 3 đến 4 năm nên những đàn chuột lemmut rất lớn, đến nỗi đàn thú và chim đông như vậy cũng không ăn thịt hết chúng. Và khi tới biển, chúng nhảy xuống và tự kết liễu đời mình. Không một con nào trở về sau những chuyến đi như vậy. Giải thích hiện tượng bí hiểm này như thế nào? Theo những gì chúng ta biết được thì điều này có liên quan tới điều kiện di trú của chúng, khi chúng trở nên quá nhiều, và để có thể sống ở những chỗ chúng thường sống, một bản năng đặc biệt sẽ hướng chúng ra biển và tự sát hàng bầy. ******************* chất hêli là gì ?
Phát minh ra chất Hêli giống như một câu chuyện trinh thám khoa học vậy. Năm 1886 nhà bác học người Anh ông Norman Lokier đã dùng kính quang phổ để nghiên cứu Mặt trời. Thiết bị này cho phép phát hiện các nguyên tử khác nhau, vì mỗi một nguyên tử hoá học tương đương với một vạch trên quang phổ. Ông đã phát hiện ra một vạch lạ, và nó chỉ có thể ứng với một nguyên tử hoàn toàn mới từ trước đến nay. Và người ta đã đặt tên cho nguyên tử này là Hêli, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là mặt trời. Sau đó các nhà bác học đã bắt tay vào việc tìm kiếm nguyên tử này trên mặt đất. Kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy chất Heli có trong bầu khí quyển của chúng ta. Nhưng lượng Heli ít đến nỗi trong số 247.350 mét khối không khí chỉ vẻn vẹn có 1 mét khối Heli! Các công trình nghiên cứu khác đã xác định thêm một điều khác rằng Heli có thể tách ra từ phóng xạ và trong quá trình tách này hình thành những hạt alpha- nguyên tử Heli có tốc độ chuyển động cực lớn. Heli là một chất khí rất có ích. Chất này rất nhẹ và có lực nâng lớn. Vì nó là một chất không dễ cháy, người ta hay sử dụng Heli trong các khí cầu máy dùng trong quân sự cũng như dân dụng hoặc trong các vùng khí tượng. v..v... Biết rõ về ý nghĩa của Heli, chính phủ Mỹ đã tiến hành tìm kiếm các nguồn tự nhiên của chất này. Tại một số vùng của Mỹ, ví dụ ở các bang Tê-xát, Niu Mê-hi-co và Kan-sas, người ta đang khai thác khí thiên nhiên. Trong khí này có chứa 1-2% Heli. Mỹ là nước duy nhất trên thế giới có đủ Heli vì ngoài khí thiên nhiên ra, không còn nguồn nào khác để chế xuất ra chất này cả. Hồi đầu giá của một mét khối Heli là 70.000 đô la Mỹ, nhưng hiện nay người ta mua nó với giá rẻ hơn nhiều. Bạn có biết rằng Heli còn được sử dụng rộng rãi trong ngành y không? Nó có tác dụng rất tốt với những người mắc bệnh hen xuyễn. Ngoài ra những người thợ lặn và những người làm việc dươí các độ sâu lớn thường dùng một chất hỗn hợp bao gồm Heli và ô xy để tránh một căn bệnh có tên là bệnh khí ép. ****************** chất nguyên sinh là gì?
Chúngt ta đều biết rằng các nhà bác học đã thực hiện những phát minh khoa học khác nhau. Trong các phòng thí nghiệm người ta đã tạo ra những hiện tượng giống như các hiện tượng tự nhiên. Nhưng có một chất mà chúng ta không thể bắt chước được. Đó là chất nguyên sinh- phần sống của mọi động vật và thực vật. Tất cả mọi cơ thể, thực vật và động vật đều được cấu tạo từ các tế bào. Có cơ thể có tới hàng triệu tế bào như cơ thể người , cũng có những cơ thể chỉ có một tế bào , ví dụ ở loài ấu trùng. Nhưng trong cơ thể của voi, của người và của cây hoa hồng đều có một chất giống nhau trong các tế bào của mình - đó là chất nguyên sinh. Chất nguyên sinh của tế bào được cấu tạo chủ yếu từ hai phần. Phần trung tâm dày đặc hơn gọi là nhân. Phần thứ hai mềm hơn và ở dạng lỏng có tên là chất tế bào. Chất nguyên sinh có thành phần rất đa dạng . Mỗi loại cơ thể động vật có một dạng chất nguyên sinh cố hữu . Nhưng ngay chính trong các tế bào khác nhau của cơ thể cũng có những dạng chất nguyên sinh riêng biệt. Dù có những sự khác biệt như trên, 99% của chất nguyên sinh vẫn là cacbon, hyđrô, ô xy và azốt và một số nguyên tố hoá học phụ. Nhưng có một điều chúng ta biết chắc chắn là tất cả mọi hoạt động của cơ thể sống đều được thực hiện trong chính chất nguyên sinh. Khi thức ăn được đưa vào trong cơ thể, nó sẽ bị tiêu hóa và biến thành chất lỏng. Sau đó, lượng thức ăn đã được tiêu hóa này được chất nguyên sinh hấp thụ và trở thành một bộ phận của nó. Chúng ta gọi đó là quá trình đồng hoá. Đó là một quá trình kỳ lạ: chất nguyên sinh khi biến các chất lạ bên ngoài thành một chất giống với mình đã thực hiện quá trình biến chất không sống thành chất liệu sống. Chất nguyên sinh còn tích tụ và xuất ra năng lượng có trong cơ thể động vật và thực vật. Chất nguyên sinh , cũng giống như các cơ thể sống khác có chứa nó , có các giai đoạn nghỉ ngơi và giai đoạn tích cực . Chất nguyên sinh cũng phản ứng với những kích thích bên ngoài. ánh sáng mạnh và nhiệt có thể giết chết nó. Các nguyên tố hoá học hút hoặc đẩy nó. Luồng điện tác động đến các hoạt động của chất nguyên sinh. Nhưng khoa học còn nhiều điều phải nghiên cứu về chính chất nguyên sinh cũng như về hoạt động của nó. ********************** chòm sao là gì?
Khi ngắm các vì sao chắc chắn các bạn sẽ nhận thấy rằng nó tạo thành những chữ cái, những hình vuông, tam giác ngộ nghĩnh. Từ rất lâu rồi ở các nơi khác trên trái đất người ta đã đặt tên cho các chữ cái, hình vuông, hình tam giác như vậy và khái niệm chòm sao đã ra đời. Có lẽ những người đầu tiên biết về những ngôi sao là những người dân thành phố Babylon, tiếp theo đó là những người Hy Lạp cổ đại, rồi những người LaMã cổ, trước khi các nhà khoa học hiện đại nghiên cứu các chòm sao.ở Babylon, người ta đã đặt tên cho các chòm sao bằng tên của các động vật, các đức vua, hoàng hậu, các anh hùng thần thoại. Sau này người Hy Lạp cổ đã thay những tên đó bằng tên của những người anh hùng của mình như Gercules, Orion. Những người La Mã cổ đại lại đặt những tên khác. Ngày nay chúng ta cũng đặt những tên khác nhau cho các chòm sao, phù hợp với hình dạng của chúng ví dụ như: chòm sao đại bàng, chòm sao gấu lớn, gấu nhỏ. Vào khoảng năm150 sau công nguyên thì nhà thiên văn học nổi tiếng Ptôlemây đã xác định được khoảng 48 chòm sao. Đây là một danh sách không đầy đủ, vì vậy sau này các nhà thiên văn đã mở rộng danh sách này. Một số chòm sao sau này được mang tên máy móc: chòm sao la bàn, chòm sao kính hiển vi. Theo các nhà thiên văn hiện đại thì hiện nay có 88 chòm sao. Các chòm sao chiếm một phần nhất định trên bầu trời, điều đó có nghĩa rằng mỗi một ngôi sao thuộc một chòm sao, cũng giống như mỗi thành phố của nước Mỹ thuộc về một bang. Thường thì biên giới giữa các chòm sao không cố định và đôi khi những biên giới ấy còn bị phá vỡ. Năm1928 các nhà thiên văn đã quyết định nắn thẳng các chòm sao để tạo ra những đường biên giới thẳng giữa chúng. ****************** chúng ta có thể bị thôi miên ngoài ý muốn không?
Đối với nhiều người trong chúng ta, thôi miên là một hiện tượng bí ẩn. Chúng ta thường thấy những điều lạ lùng xảy ra với những người bị thôi miên, còn các bác sỹ đôi khi sử dụng phương pháp thôi miên để chữa bệnh. Tri thức và khả năng của con người có ý nghĩa rất lớn trong sự thôi miên . Chúng tiềm ẩn trong chúng ta ở một tầm khác ngoài ý thức của con người . Vì vậy người ta gọi chúng là những tri thức vô thức hoặc trên ý thức. Đôi khi người bị thôi miên tập trung vào việc gì đó đến nỗi người đó có thể làm được những việc mà ở trạng thái bình thường không làm nổi. Để có thể làm cho một người bị thôi miên , trước tiên người đó phải đồng ý và ở trạng thái mất trương lực. Người thôi miên có thể nhắc đi nhắc lại nhiều lần bên tai người bị thôi miên rằng anh ta đang mệt và buồn ngủ đến díp mắt lại, anh ta không còn quan tâm gì tới thế giới xung quanh nữa và đang chìm vào giấc ngủ, nơi mà một thế giới vô thức sẽ mở ra trước mắt mình. Những người bị thôi miên có thể thực hiện một số hành động ngay cả sau khi đã qua trạng thái thôi miên . Ví dụ, họ có thể đọc thuộc lòng một đoạn trích từ một cuốn sách nào đó mặc dù họ vừa làm việc đó vừa tự cảm thấy ngạc nhiên về khả năng kỳ diệu của mình. Có thể thôi miên một người nào đó khi anh ta không muốn không? Xin trả lời là không được. Người bị thôi miên nhất thiết phải hoàn toàn thống nhất làm một với người thôi miên. Đôi khi xảy ra trường hợp một người nào đó trong thâm tâm muốn bị thôi miên nhưng giấu diếm điều này bằng cách biểu lộ phản đối. Khi đó chúng ta tưởng rằng họ bị thôi miên ngoài ý muốn của mình, nhưng thực ra không phải thế. ****************** chúng ta hấp thụ thức ăn ra sao?
Nếu chỉ đơn giản là ăn thì chưa đủ để tồn tại và phát triển. Thức ăn phải được chuyển hóa để cơ thể của chúng ta có thể tiếp nhận được, và quá trình này được gọi là quá trình tiêu hoá. Quá trình tiêu hoá bắt đầu khi chúng ta đưa thức ăn vào miệng, nhai và nuốt. Sau đó, quá trình đó được tiếp tục thực hiện trong bộ máy tiêu hoá có hình dáng giống như một chiếc ống dài ngoằn ngoèo chạy dọc suốt thân người. Tất cả các bộ phận của bộ máy tiêu hoá nối liền với nhau, tuy chúng có khác nhau về tính chất công việc của mình. Miệng nối với hầu trong cổ họng. Hầu vừa là đường vào của thức ăn, vừa là đường vào của không khí. Thực quản đi qua lồng ngực và nối với dạ dày. Dạ dày nối liền với ruột non có hình cuộn lò xo. Bộ phận cuối cùng của bộ máy tiêu hoá là ruột già. Chúng ta hãy cùng xem điều gì xảy ra với thức ăn trong quá trình tiêu hoá. Nước bọt trong miệng góp phần phân ly tinh bột của thức ăn (có trong ngô hoặc khoai tây). Thức ăn sau khi được thấm ướt và nghiền nhỏ trong miệng đi qua hầu , xuôi theo thực quản và vào dạ dày. Chính dạ dày là nơi xảy ra phần lớn quá trình tiêu hoá. Dịch tiết ra từ thành dạ dày được trộn đều với thức ăn. Một trong các loại dịch vị là axít muối. Một chất dịch khác cũng do dạ dày tiết ra là chât dịch vị có tác dụng biến đạm thành các dạng đơn giản hơn để dạ dày có thể hấp thụ được. Chất tinh bột tiếp tục bị phân ly cho tới khi thức ăn trong dạ dày biến thành một khối chua bão hoà. Khi đó quá trình hấp thụ tinh bột dừng lại. Như vậy chúng ta thấy thức ăn ở dạng lỏng được lắc và trộn đều với dịch vị tiêu hóa trong dạ dày. Hành trình tiếp theo của thức ăn là vào ruột non qua van nằm ở cuống dạ dày. Ruột non là một ống dài khoảng 6.5-7.5 m được cuốn lại theo hình lò xo. Quá trình tiêu hoá tiếp tục diễn ra ở phần trên của ruột non là tá tràng. Tại đây, gan và dịch vị của tuyến tuỵ hỗ trợ cho việc phân ly thức ăn. Lúc này , quá trình phân ly đạm và hấp thụ tinh bột hoàn thành, mỡ được tinh lọc, nghĩa là được phân giải thành các dạng đơn giản hơn , thức ăn đã hấp thụ được hút vào máu và bạch huyết. Những phần còn lại của thức ăn rơi xuống ruột già và biến thành dạng cứng sau khi nước trong số này bị hút ra. Và bây giờ phần thừa này có thể được thải ra khỏi cơ thể.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 9:38:31 GMT 9
Tìm hiểu về mùi hương giúp bạn chọn đúng nước hoa Tuesday, November 29, 2011 Triệu Phong Một số mùi hương mang bạn về một khoảnh khắc nào đó trong quá khứ, làm thay đổi cảm xúc của bạn. Hãy tìm hiểu xem mũi bạn nhận biết gì về mùi hương. Một cái mũi điện tử eNose được hiệu chỉnh theo trục khứu giác đi từ mùi dễ chịu (như hoa hồng) đến khó chịu (mùi con chồn hôi). Ðiều này cho phép eNose chọn được mùi mà con người cảm thấy sảng khoái. (Hình: Genia Brodsky/Wikipedia) Có bao giờ bạn tự nhủ tại sao một mùi củi đốt lò sưởi lại mang bạn trở về với hình ảnh một buổi trại hè thuở xa xưa? Nói đúng ra tất cả đều được ghi nhớ trong óc bạn. Mùi hương được điều giải trong đầu bạn, ở vị trí gần vỏ não, nơi cảm xúc và ký ức phát ra. “Kết quả là có một sự giao thoa giữa các vùng này,” theo giải thích của William Horgan, tổng giám đốc nhóm nghiên cứu Human Pheronome Sciences. Quân đội Mỹ khi chế tạo trái bom phát ra mùi hôi, họ cố tìm kiếm nơi những mùi thối mục. Các chuyên gia nói rằng hầu hết các mùi dễ chịu lẫn khó chịu ta kinh nghiệm thấy không ăn sâu vào não bộ. “Hai người có thể ngửi cùng một mùi hương một cách khác nhau vì mùi hương làm khơi dậy cảm xúc,” nhà chuyên nghiên cứu về mùi hương Amy Cuadra nói, “Trong thế giới mùi hương, khái niệm này được gọi là ‘dấu ấn.’” Mẹ bạn thèm ăn cà-rem khi mang thai có thể hình thành nơi bạn sự thích mùi ngọt. Tuy vẫn còn trong bào thai, một thai nhi có thể phát triển một ái lực về một mùi vị nào đó, đồng cảm theo với khẩu vị của người mẹ tương lai, theo nghiên cứu của Phân Khoa Y Khoa thuộc trường Ðại Học Colorado. Một em bé mới sinh được hai tuần có thể phân biệt được sữa mẹ với sữa của người đàn bà khác bằng khứu giác. Thoạt đầu, mùi hương được dùng để khỏa lấp “mùi người.” Ngày nay nhờ tắm gội thường xuyên (hy vọng là thế), phụ nữ có khuynh hướng dùng nước hoa để tăng thêm mùi của họ hơn là để che giấu. Các nhà nghiên cứu nhận thấy có sự liên hệ giữa mùi chúng ta thích với mùi tự nhiên của chúng ta. Theo các nhà chuyên môn, cũng như các loài động vật có vú khác, chúng ta đánh hơi được người bạn đời của chúng ta, tiếp thu được dữ kiện nơi hệ miễn nhiễm của họ qua mùi hương. (Và trong thế giới tiềm thức của lứa đôi, sự khác biệt của hệ miễn nhiễm nhằm cho hậu duệ lành mạnh hơn). Qua thử nghiệm ngửi áo thun có mùi mồ hôi, phụ nữ thích mùi áo của đàn ông có hệ miễn nhiễm khác với của chính họ. Nếu bạn còn trù trừ về quan hệ lứa đôi của mình, ngửi mùi áo quần mặc rồi có thể giúp bạn quyết định được dứt khoát. Các nhà làm nước hoa thêm vào trong sản phẩm của họ những pheromone tổng hợp để tăng cảm xúc về mùi hương. Pheromone là chất tiết ra từ cơ thể gây quyến rũ nơi người hay vật khác phái. Mặc dù không mùi, các hóa chất này có thể giúp khơi dậy một vài cảm xúc tích cực nào đó. Kết hợp với nước hoa, cả hai tác động song hành làm cho bạn hưng phấn thêm, đồng thời có thể gây ảnh hưởng nơi kẻ khác về bạn. Ông Horgan nói: “Khi một pheromone tạo được một cảm xúc, cái mùi hương đó đồng thời sẽ lưu giữ trong ký ức bạn cùng với cảm xúc ấy.” Có thể bạn chưa có được một bằng cấp nào đó về khoa thần kinh, nhưng nay bạn đã hiểu được mùi hương hoạt động như thế nào rồi, và vấn đề là tìm ra được cái mùi hợp với mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 7, 2013 7:17:07 GMT 9
MỘT VÀI DƯỢC THẢO THƯỜNG DÙNG
Bs Nguyễn Ý Đức
Hiện nay, phong trào dùng cây cỏ thiên nhiên với mục đích chữa bệnh đang gia tăng trong dân chúng. Có người dùng theo lời giới thiệu của bạn bè. Có người vì bệnh không chữa được bằng tây y, đã đi tìm thầy thuốc cổ truyền.
Nhưng cỏ cây dù thiên nhiên, có loại an toàn, công hiệu, cũng có loại không có công dụng gì, đôi khi nguy hiểm vì tác dụng phụ. Nên nếu đã dùng, thì ta cần biết qua về thảo chất, về dược tính của cỏ cây đó.
Trong bài này, dựa vào các tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xin trình bầy đặc tính mấy món dược thảo đang rất phổ thông, mà có thể một số quý vị đang dùng.
1- Ginkgo Bilobạ-
Việt Nam ta goị là cây gỗ Bạch Quả, cao tới 30 thước, lá hình cái quạt, hạt giống như qủa trứng. Hạt và lá được dùng làm thuốc. Cây Ginkgo đã mọc ở Trung Hoa từ nhiều triệu năm, nhập cảnh Âu châu năm 1730, vào Hoa Kỳ năm 1784. Hiện nay, cây được trồng nhiều ở miền Đông Nam nước Pháp, ở Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Hạt Gingo đã được người Trung Hoa dùng để trị bệnh từ năm 2800 trước Thiên Chúa. Từ hơn 20 năm nay, lá Ginkgo rất thông dụng trên thị trường dược thảo và đã có nhiều cuộc nghiên cứu khoa học về công dụng trị bệnh, nhất là ở nước Đức.
Ginkgo chứa nhiều dược chất có tác dụng làm dãn động mạch, khiến máu lưu thông dễ dàng, được dùng trị các trường hợp giảm tuần hoàn ở não bộ, nhất là người cao tuổi, ở tai, rối loạn tuần hoàn ngoại vi.
Nhiều thử nghiệm đã xác nhận công dụng trị liệu của Bạch Qủa trong chứng sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer, nâng cao khả năng nhận thức, trí nhớ và giao tế trong đời sống hàng ngày.
Ginkgo làm giảm chứng đau bắp chân khi đi bộ lâu do tuần hoàn ngoại vi kém. Bạch qủa hiện cũng đang được thử nghiệm để trị sự rối loạn tình dục gây ra do vài loại thuốc trị trầm cảm. Trong các chứng nhức đầu, ù tai, chóng mặt, đổi tính, cáu gắt, ngủ gật, u buồn của tuổi già, Ginkgo cũng có công hiệu.
Ginkgo còn được coi như một chất chống oxy hoá ( anti- oxidant ), được dùng để trì hoãn sự lão hóa.
Bên Nhật, người ta còn dùng Ginkgo để trị bệnh ung thư, bệnh hư giác mạc, bệnh thiếu chú ý ( Attention Deficit Disorder ) của người lớn.
Hiện nay, hình thức Ginkgo thường dùng là chất chiết ( G.B.extract) rút ra từ lá khô, do công ty Willmar Schwabe, Đức quốc, sản xuất đầu tiên và phổ biến trên thị trường. Phân lượng dùng là 40-80mg, ba lần trong ngày, và dùng liên tục trong 4-6 tuần lễ.
Tác dụng phụ thường nhẹ xẩy ra trong mấy ngày đầu khi mới dùng thuốc, gồm có buồn nôn, ói mửa, tiêu chẩy, chóng mặt, nhức đầu.
Không nên dùng Bạch Qủa khi đang uống thuốc chống đông máu như Warfarin, Aspirin.
2-St John Wort.-
Tên khoa học là Hypericum perforatum, thường được biết qua tên St John Wort vì loại cây này nở hoa mầu vàng rất đẹp vào ngày kỷ niệm sinh nhật Thánh St John the Baptist, 24 tháng Sáu mỗi năm. Cây có nguồn gốc ở Âu Châu từ thời kỳ trung cổ, nay được trồng khắp nơi trên thế giới. Vào thời Trung cổ, SJW đã được dùng để trừ ma qủy, làm trong sạch không khí, khiến được mùa ngũ cốc khi đốt trên ngọn lửa vào đêm trước lễ St John. Dân chúng cũng tin là nằm ngủ trên một cành SJW trước ngày sinh nhật Ông Thánh này thì sẽ được bình an suốt năm. Từ nhiều thế kỷ trước, nó được coi như có thể chữa được bệnh u sầu, nhiễm độc tiểu tiện, tiêu trừ vi trùng, mau lành vết thương ngoài da. SJW được Hippocrates, Dioscorides giới thiệu, rồi bị rơi vào lãng quên cho đến vài chục năm mới đây, một loại trà từ cây này được tung ra thị trường quảng cáo là trị được trầm cảm, lo âu.
Đại học Duke được Viện Quốc Gia Bệnh Tâm Thần trợ cấp trên 4 triệu đồng để thực hiện dự án 3 năm nghiên cứu sự an toàn và công hiệu của SJW trong việc trị bệnh u sầu.
Tại Âu Châu, nhất là bên Đức, SJW được các bác sĩ biên toa cho bệnh nhân 7 lần nhiều hơn thuốc Prozac; được mệnh danh là Prozac Thiên Nhiên và được xếp hạng có công dụng trung bình, giữa hai loại âu dược trị trầm cảm chính hiện có. Ở Hoa Kỳ SJW hiện rất được nhiều ngưòi dùng để chữa trầm cảm, vì được coi là an toàn, công hiệu, rẻ tiền, và không cần toa bác sĩ.
Mới đây, SJW được các chuyên viên về bệnh AIDS của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ để tâm nghiên cứu vì một dược chất của cây này có tác dụng vào một vài loại siêu vi trùng, trong đó HIV. Phân lượng thường dùng là 300mg, 3 lần mỗi ngày, trong 8-10 tuần lễ.
Tác dụng phụ của nó ít hơn tác dụng phụ của một vài âu dược trị trầm cảm, như ngứa, mệt mỏi, lên kí, nhức đầu, đau bụng nhất là mẫn cảm của da ( cháy da) khi đi ra ngoài nắng. Ở thú vật, SJW có tác dụng vào tử cung, nên khi có thai, ta cần cẩn thận khi dùng thuốc này.
Chưa có bằng chứng tác dụng tương quan giữa SJW với các âu dược khác. Tuy nhiên nếu đang uống âu dược trị trầm cảm thì nên cho bác sĩ hay khi dùng dược thảo St John.
3-Saw Palmettọ-
Trong tương lai gần đây, Saw palmetto có hy vọng là dược thảo đầu tiên được chứng nhận là có công dụng trị một bệnh đặc biệt. Cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ dang cứu xét đơn xin xác nhận giá trị cuả SJW để trị trầm cảm, Ginkgo Biloba để trị rối loạn trí tuệ và Saw Palmetto, trị xưng nhiếp hộ tuyến.
Đây là một loại cây cọ cao từ 1 tới 3 thước, lá rộng tới gần một thước, mọc trên bãi cát từ miền Nam Carolina tới Florida, Texas. Vào mùa xuân, cây nở rộ hoa mầu trắng, trái của nó bắt đầu chín mọng từ mùa Hạ sang mùa Thu.
Thổ dân lục địa Mỹ Châu đã dùng trái cây cọ này để ăn và trị vài chứng rối loạn tiểu tiện đàn ông từ năm 1700. Trong nửa đầu của thế này, nó còn được dùng cho tới năm 1950 thì bị loại ra khỏi danh sách của National Formulary Hoa Kỳ, trong khi đó thì ở Âu châu nó vẫn còn rất phổ thông.
Trái Saw Palmetto có tác dụng ức chế nam kích thích tố testosterone, giảm sưng và viêm của tế bào và được dùng nhiều ở Âu châu để trị chứng sưng không ung thư nhiếp hộ tuyến. Tại Đức, cơ quan y tế đã chấp thuận cho bán một dược phẩm tinh chế hoà tan trong mỡ của cây cọ này.
Tập san y học của Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ, số tháng 9 năm 1998, lần đầu tiên đã để ý và nêu ra nhiều cuộc nghiên cứu trên khắp thế giới về công dụng của Saw Palmetto trong việc trị sưng nhiếp tuyến.
Phí tổn mỗi ngày cho dược thảo này từ 25 tới 50 mỹ kim, trong khi âu dược thì tốn tới 200 mỹ kim.
Theo Physicians Desk Reference for Herbal Medecines, Saw Palmetto được dùng trong giai đoạn đầu của sưng nhiếp hộ tuyến lành. Tác dụng phụ rất ít như vài rối loạn về tiêu hoá (ói mửa, đau bụng nhẹ ). Mồi ngày uống từ 1 tới 2 gờ ram.
Một điểm quan trọng là, nhiều người vì dùng thuốc này mà không đi khám bác sĩ để xác định tính lành- dữ của sưng nhiếp hộ tuyến. Nên khi khám phá ra thì ung thư bộ phận này đã đi tới giai đoạn bất khả trị.
4- Ephedrạ-
Họ Ephedra, ta gọi là Ma Hoàng, gồm có nhiều loại, mọc ở Châu Âu, Trung Hoa, và đã được dùng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Hoa từ trên 5000 năm.
Dược chất chính cuả Ma Hoàng là chất Ephedrine đã được nhà hoá học Nhật Bản N. Nagai phân tích từ năm 1887. Đến năm 1924, giáo sư K.K. Chen ở Đại học Bắc Kinh công bố đặc tính trị liệu cuả Ephedrine trong các bệnh suyễn, nghẹt mũi, kích thích thần kinh. Ephedrine làm thư dãn ống phổi, khiến không khí lưu thông dễ dàng, đồng thời làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim.
Ở Việt Nam, Ma Hoàng được nhập cảng từ Trung Hoa và được dùng để trị các bệnh như ngoại cảm phong hàn, ho hen.
Hiện nay, ở Mỹ, thuốc có chất Ephedrine được quảng cáo có công dụng trong việc làm giảm kí, mà nhà sản xuất gọi là herbal phen-phen, thay thế cho âu dược Pondimin, Redux hiện đã bị cấm bán vì nhiều tác dụng phụ nguy hiểm.
Vì có tính kích thích thần kinh , làm sảng khoái, nên nhiều tay nghiền cần sa, ma túy cũng dùng Ephedra để yêu đời hơn. Một số lực sĩ đã lạm dụng thuốc này để có bắp thịt nở nang. Ephedra có nhiều tác dụng phụ như làm mất ngủ, nhức đầu, nóng nẩy, cao huyết áp, sạn thận, kinh phong, rối loạn nhịp tim, kích thích não và tim, đôi khi đưa tới tử vong. Do đó, cơ quan FDA rất quan tâm tới dược thảo này và đề nghị giới hạn phân lượng dùng mỗi ngày không quá 24mg.
5- Họ Aloe-
Nhiều gia đình ta ở trong bếp đôi khi thấy có trồng một chậu nhỏ cây Aloe, vừa làm cảnh vừa dùng lá nó để đắp lên vết phỏng da xẩy ra trong khi nấu nướng.
Loại cây này có nguồn gốc ở Đông Nam Châu Phi, đã có tài liệu ghi nhận công dụng trị bệnh từ năm 1750 TTC. Người dân Ai Cập dùng trị da nhiễm trùng từ 550 TTC. Danh Mục Dược Khoa Hoa Kỳ năm 1820 đã ghi công dụng của Aloe vera và từ năm 1920 đã được trồng để dùng trong dược phòng.
Từ lá Aloe, người ta lấy ra được một chất gel để dùng ngoài da và chất nước vắt để giúp nhuận tràng, chữa lở bao tử. Gel Aloe làm vết thương mau lành bằng cách làm co vết thương và tăng tiết chất collagen, nên được dùng khi bị phỏng da, chầy da. Mới đây nó cũng được dùng để trị bệnh vẩy nến da (Psoriasis) và làm tăng cường tính miễn nhiễm của cơ thể.
Trên thị trường, gel Aloe được giới thiệu như có công hiệu làm mềm da, sạch da, chống ngứa, diệt trùng, làm da tăng trưởng mau, đôi khi trị cả da dị ứng với lá thường xuân (poison ivy).
Bên Nhật, Aloe còn được dùng để trị bệnh ung thư do khả năng chống viêm và chặn tăng trưởng tế bào ung thư. Kết qủa nghiên cứu tại University of Maryland cho thấy Aloe có thể diệt siêu vi trùng bệnh mụn giộp ( herpes ) và vài loại trùng bệnh cúm, trong khi đó , thử nghiệm tại University of Missouri cho thấy Aloe gel có thể dùng để ngừa thụ thai.
Aloe kích thích tuỵ tạng bài tiết Insulin, nên đang có nghiên cứu dùng Aloe để trị bệnh tiểu đường.
Kết luận
Kỹ nghệ bào chế dược thảo ở khắp nơi trên thế giới hiện giờ đang rất phát triển để đáp ứng nhu cầu của người dân. Các nhà sản xuất cũng đang tranh đấu để dược thảo của họ sớm được đối xử công bằng như âu dược chứ không phải chỉ là thực phẩm phụ như hiện nay. Triển vọng đó chắc cũng không còn quá xa, vì ngay tại Mỹ, Quốc Hội cũng như Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ đã quan tâm tới vấn đề dược thảo và các phương pháp trị liệu không chính thống mỗi ngày một phổ thông này.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 4, 2017 23:35:30 GMT 9
Trí tuệ nhân tạo: Lợi ích và tương laiMở đầu Chắc hẳn trong đời sống các bạn đã từng được nghe nói về Trí tuệ nhân tạo. Nhiều người đã biết nó là gì, đã biết về một số thành tựu của nó, rồi đã biết khai thác, ứng dụng nó … Bên cạnh đó nhiều người thì vẫn chưa. Tôi nằm trong số chưa biết này. Tôi đã có đọc, tìm hiểu về Trí tuệ nhân tạo nhưng mới dừng ở mức cơ bản. Tôi sẽ không viết về các vấn đề cao siêu mà người ta nói Trí tuệ nhân tạo có thể làm được. Bài blog này của tôi sẽ chia sẻ về “Lợi ích” và thảo luận về “Tương lai” của Trí tuệ nhân tạo. Đây có thể coi là một chủ đề nóng vì gần đây, rất nhiều người cũng đề cập đến vấn đề này. Trí tuệ nhân tạo là gì?Trí tuệ nhân tạo Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (tiếng Anh: Artificial Intelligence hay machine intelligence, thường được viết tắt là AI) là trí tuệ được biểu diễn bởi bất cứ một hệ thống nhân tạo nào. Thuật ngữ này thường dùng để nói đến các máy tính có mục đích không nhất định và ngành khoa học nghiên cứu về các lý thuyết và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo (Trích Wikipedia Tiếng Việt). Đó là một định nghĩa về Trí tuệ nhân tạo. Tôi thì hiểu một cách đơn giản hơn. Có thể có phần chưa đúng hoặc không đầy đủ, tuy nhiên tôi thì nghĩ rằng AI là trí tuệ của máy móc. Artificial Intelligence Người ta tạo ra AI nhằm trợ giúp hoặc thay thế con người trong một lĩnh vực nào đó. Hãy cùng tìm hiểu xem lợi ích của nó mang lại là gì nhé. Lợi íchHiện nay người ta đã tạo ra được những bộ máy có khối óc xử lý cực kỳ nhanh nhạy và chính xác khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Khi nói về lợi ích, tôi sẽ dẫn cho các bạn một số thành tựu đáng kinh ngạc của Trí tuệ nhân tạo nhé: – Google đã và đang ứng dụng AI vào lĩnh vực xe tự hành. – Facebook sử dụng Trí tuệ nhân tạo trong việc nhận diện hình ảnh – Microsoft đang theo đuổi dự án điều trị ung thư bằng trí Trí tuệ nhân tạo – Google ứng dụng AI trong việc nhận diện giọng nói – SoftBank có sử dụng AI, chế tạo robot Pepper làm lễ tân – Và còn rất nhiều nữa … Bạn có thể thấy lợi ích vô cùng to lớn của Trí tuệ nhân tạo rồi đó. Nó giúp ích cho cuộc sống con người trong rất nhiều lĩnh vực. Hãy tưởng tượng xem, một ngày khi bạn đi làm, sẽ không phải lo lắng vì ngôi nhà có thể tự bảo vệ bởi mọi tác động xấu từ thời tiết hay con người. Bạn di chuyển bằng xe tự hành, hạn chế được tai nạn giao thông. Có những chú robot thông minh hỗ trợ làm việc tại cơ quan. Về nhà cũng có robot hỗ trợ công việc nhà, nấu ăn. Hay trong y học tương lai sẽ điều trị được mọi bệnh tật nhờ Trí tuệ nhân tạo … Theo đó chắc hẳn tương lai Trí tuệ nhân tạo sẽ cực kỳ phát triển. Nhưng không hẳn như vậy. Hãy cùng thảo luận về tương lai của AI sẽ ra sao nhé. Tương laiHiện nay có rất nhiều ý kiến trái chiều về tương lai của Trí tuệ nhân tạo. Tại sao lại như vậy? Chúng ta đã biết được lợi ích cực kỳ quan trọng của AI như tôi đã dẫn ở trên. Tại sao lại có ý kiến nào phủ nhận nó chăng? Nhiều người không hề phủ nhận lợi ích của nó mang lại cho chúng ta. Nhưng họ lại lo ngại sự phát triển của nó đến mức sẽ vượt qua sự kiểm soát của con người và hơn nữa thống trị thế giới. Một số nhân vật nổi tiếng đã bày tỏ quan điểm về điều này. Stephen Hawking Giáo sư vật lý nổi tiếng Stephen Hawking đã cảnh báo, robot có thể phát triển nhanh hơn so với con người và mục tiêu của chúng sẽ không thể đoán trước được. Giáo sư chia sẻ: “Tôi không cho rằng những tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo là một sự an toàn trong tương lai, và chúng có thể sẽ đe dọa tương lai của loài người chúng ta. Một khi đạt đến mức độ nào đó, chúng ta sẽ không thể dự đoán được mục tiêu cũng như khó lòng có thể kiểm soát được chúng”. Ông nói thêm: “Trí thông minh nhân tạo có tiềm năng để phát triển nhanh hơn so với các chủng tộc của con người. Do đó, ta cần đảm bảo AI được thiết kế có đạo đức và có biện pháp bảo vệ, kiểm soát nghiêm ngặt tại chỗ”. Elon Musk Nhà phát minh tỷ phú, Elon Musk cũng bày tỏ mối quan ngại sâu sắc đến sự phát triển của những “Trí tuệ nhân tạo”. Musk viết trên Twitter của mình rằng: “Chúng ta phải vô cùng cẩn thận với AI. Chúng thậm chí còn nguy hiểm hơn cả vũ khí hạt nhân. Nhưng thật không may, xét theo sự phát triển thực tế, chúng ta đang ngày càng giống vai trò như những bước đệm cho sự thống trị của siêu trí tuệ nhân tạo số tương lai”. Họ hoàn toàn có căn cứ về những lo ngại của mình. Sự phát triển quá nhanh của các “Trí tuệ nhân tạo” cũng dấy lên trong con người những mối lo lắng nhất định. Mặt lợi có được thì cũng sẽ có những mặt hại đi kèm theo. Những cỗ máy khi đã thực sự phát triển, sẽ chẳng lo ngại việc chết đi, và chúng còn có thể tương tác với nhau để nâng cấp trí tuệ của mình lên nhiều lần. Sẽ đến lúc mà con người phải chuẩn bị tinh thần cho việc máy móc lên nắm quyền điều khiển. Kết luậnTrong quá khứ đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đặt nền móng cho Trí tuệ nhân tạo như: Alan Turing, Marvin Minsky, Seymour Papert … Hiện nay rất nhiều tập đoàn đã bước đầu thành công trong việc ứng dụng AI vào cuộc sống như Google, Facebook, Microsoft … Còn tương lai của Trí tuệ nhân tạo vẫn còn nhiều tranh cãi. Theo tôi dù tương lai có tốt như những gì lợi ích của AI mang lại hay xấu như những gì mà người ta lo ngại thì chúng ta vẫn nên nghiên cứu sâu hơn nữa về Trí tuệ nhân tạo. Nếu tốt, chúng ta có thể ứng dụng nó, nếu xấu thì chúng ta cũng có biện pháp hạn chế nó. Đó là ý kiến cá nhân của tôi, bạn đọc hãy nghiên cứu cùng tôi nhé! Chú thích: Nguồn hình ảnh và tham khảo một số bài báo trên internet. September 29, 2016 Nguyen Tuan Liem -http://labs.septeni-technology.jp/machine-learning/tri-tue-nhan-tao-loi-ich-va-tuong-lai ****************************************** Trí tuệ nhân tạo là gì?AI (artificial intelligence) là gì? Định nghĩa trí tuệ nhân tạo: (AI: Artificial Intelligence) có thể được định nghĩa như một ngành của khoa học máy tính liên quan đến việc tự động hóa các hành vi thông minh. AI là một bộ phận của khoa học máy tính và do đó nó phải được đặt trên những nguyên lý lý thuyết vững chắc, có khả năng ứng dụng được của lĩnh vực này. Ở thời điểm hiện tại, Thuật ngữ này thường dùng để nói đến các MÁY TÍNH có mục đích không nhất định và ngành khoa học nghiên cứu về các lý thuyết và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo. Tức là mỗi loại trí tuệ nhân tạo hiện nay đang dừng lại ở mức độ những máy tính hoặc siêu máy tính dùng để xử lý một loại công việc nào đó như điều khiển một ngôi nhà, nghiên cứu nhận diện hình ảnh, xử lý dữ liệu của bệnh nhân để đưa ra phác đồ điều trị, xử lý dữ liệu để tự học hỏi, khả năng trả lời các câu hỏi về chẩn đoán bệnh, trả lời khách hàng về các sản phẩm của một công ty,... AI là một bộ phận của khoa học máy tính và do đó nó phải được đặt trên những nguyên lý lý thuyết vững chắc. Nói nôm na cho dễ hiểu: đó là trí tuệ của máy móc được tạo ra bởi con người. Trí tuệ này có thể tư duy, suy nghĩ, học hỏi,... như trí tuệ con người. Xử lý dữ liệu ở mức rộng lớn hơn, quy mô hơn, hệ thống, khoa học và nhanh hơn so với con người. Rất nhiều hãng công nghệ nổi tiếng có tham vọng tạo ra được những AI (trí tuệ nhân tạo) vì giá trị của chúng là vô cùng lớn, giải quyết được rất nhiều vấn đề của con người mà loài người đang chưa giải quyết được. Trí tuệ nhân tạo mang lại rất nhiều giá trị cho cuộc sống loài người, nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ. Rất nhiều chuyên gia lo lắng rằng khi trí tuệ nhân tạo đạt tới 1 ngưỡng tiến hóa nào đó thì đó cũng là thời điểm loài người bị tận diệt. Rất nhiều các bộ phim đã khai thác đề tài này với nhiều góc nhìn, nhưng qua đó đều muốn cảnh báo loài người về mối nguy đặc biệt này. 1 cảnh trong bộ phim "I, Robot" nói về một AI đã tiến hóa, sau đó đã dồn con người vào cảnh "nô lệ" với danh nghĩa bảo vệ con người. Dự báo cho rằng từ 5 đến 10 năm nữa, ngành khoa học này sẽ phát triển lên tới đỉnh cao. Hãy cùng chờ đợi những thành tựu mới nhất của loài người về lĩnh vực này. -http://khoahoc.tv/ 30/10/2017
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2017 0:01:48 GMT 9
Nữ nhà khoa học 31 tuổi này đã phát triển một loại vật liệu có thể cách mạng hóa phẫu thuật, xóa bỏ chỉ y khoaCống hiến lớn nhất của Pereira được ghi nhận, đó là cô đang phát triển một loại keo sinh học có khả năng hỗ trợ làm lành những vết thương bên trong cơ thể. Maria Pereira là nữ nhà khoa học 31 tuổi người Bồ Đào Nha, một trong những nhà lãnh đạo trẻ, nhà tiên phong hàng đầu trong lĩnh vực dược phẩm và công nghệ sinh học. Năm 2015, cô được tạp chí Forbes xếp vào danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Tờ Business Insider cũng từng bình chọn Pereira vào danh sách Top Leaders Under 40, từ khi cô còn đang học tiến sĩ kỹ thuật sinh học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Cống hiến lớn nhất của Pereira được ghi nhận, đó là cô đang phát triển một loại keo sinh học có khả năng hỗ trợ làm lành những vết thương bên trong cơ thể. Một ngày nào đó, loại keo này có khả năng thay đổi cách chúng ta tiến hành những cuộc phẫu thuật truyền thống, thậm chí xóa sổ sự tồn tại của chỉ khâu y khoa. Maria Pereira là nữ nhà khoa học 31 tuổi người Bồ Đào Nha đang phát triển một loại keo có thể dán liền những vết thương trong cơ thể Maria Pereira hiện đang là Giám đốc sáng tạo và người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Gecko Biomedical, một công ty được thành lập vào năm 2013 có trụ sở tại Paris. Từ năm 2009, trong khoảng thời gian Pereira làm việc tại Bệnh viện Nhi Boston, cô đã tham gia vào một dự án phát triển phương pháp chữa dị tật tim bẩm sinh cho trẻ em. Những trái tim bị dị tật, nhưng vô cùng mong manh của những đứa trẻ, khó có thể chống chọi với phẫu thuật và những vết khâu bằng chỉ. Do vậy, Pereira biết rằng cô sẽ phải lựa chọn một cách tiếp cận khác. Pereira đã làm việc và phát triển được một vật liệu có tính chất đặc biệt. Ở điều kiện bình thường, nó có dạng keo như mật ong, nhưng khi được chiếu dưới ánh sáng có tần số nhất định, vật chất này lại chuyển thành cấu trúc linh hoạt và sau đó hòa tan được. Vật liệu này có thể chống chọi được với điều kiện ẩm ướt trong cơ thể, đồng thời co giãn linh hoạt được với trái tim khi nó hoạt động. Bởi vậy, nó thực sự hứa hẹn. "Lúc nào tôi cũng thích sáng tạo", Pereira nói. Sau đó, cô đã biến dự án nghiên cứu của mình thành Gecko Biomedical và chuyển tới Pháp làm việc. "Lúc nào tôi cũng thích sáng tạo", Pereira nói. Vật liệu đặc biệt của Pereira kỳ diệu như thế nào? Nó thực chất là một polyme có khả năng chống thấm nước và máu. Và đây là một kịch bản: Giả sử, có một trái tim bị rách và các bác sĩ cần làm gì đó để khiến nó lành lại. Thông thường, họ sẽ phải mổ lồng ngực của bệnh nhân, sau đó khâu vết rách trên tim lại. Nhưng Pereira tin rằng có một cách tiếp cận khác ít xâm lấn hơn, hiệu quả và để lại ít nguy cơ biến chứng sau phẫu thuật. Cô sẽ dùng vật liệu của mình, ban đầu có dạng keo như mật ong, để quét lên vết rách. Sau đó, Pereira dùng ánh sáng để chiếu vào đó. Một khi vật liệu hấp thụ ánh sáng, nó sẽ đông lại thành một chất rắn nhưng linh hoạt để ngăn máu chảy. Vật liệu polyme đang được Maria Pereira được quét lên vết rách trên một quả tim Loại keo đặc biệt sẽ dính lại vết rách, cho đến khi cơ thể tự chữa lành được cho trái tim của nó. Đến thời điểm này, chất keo của Pereira sẽ tan dần vào máu, và sau đó được đào thải ra khỏi cơ thể. Vật liệu của Pereira nhắm đến việc hỗ trợ cơ thể tự chữa lành, rồi sau đó tự phân hủy và đào thải ra khỏi cơ thể. Bởi những ưu việt này, nó có thể thay thế các phẫu thuật đòi hỏi cấy ghép những cấu trúc (đinh, ghim, chỉ…) vĩnh viễn hoặc lâu dài vào cơ thể. Chiếu sáng sẽ khiến vật liệu rắn lại nhưng vẫn có tính chất linh hoạt để phù hợp với hoạt động của tim Vào thời điểm này, SETALUM, sản phẩm đầu tiên của Gecko đã nhận được chứng nhận CE Marking của Liên minh Châu Âu. Nó là một loại chất kết dính thương thích sinh học, có thể được dùng để trám ngoài vết khâu sau phẫu thuật mạch máu. Giám đốc điều hành Gecko, Christophe Bancel, cho biết kế hoạch của công ty là hợp tác với các đơn vị khác để đưa sản phẩm này ra thị trường. Bằng cách đó Gecko có thể tập trung hơn vào nghiên cứu, tiếp tục tạo ra nhiều ứng dụng cho loại polyme của họ hơn nữa. Những ứng dụng mà loại vật liệu này hướng đến, bao gồm cả mục đích sử dụng bên trong và bên ngoài cơ thể. Nó thậm chí có thể cạnh tranh cả với chỉ khâu y tế, giúp chữa lành các vết thương bên ngoài cơ thể mà không cần động dao kéo. Ngoài ra, tiềm năng của loại polyme mà Pereira đang phát triển không chỉ dừng lại như một chất kết dính sinh học. Nó cũng có thể tạo thành cấu trúc 3D, hoạt động như một giàn giáo giúp mô phát triển trên đó. Polyme này cũng có khả năng bọc cho các loại thuốc phát hành chậm, nhờ tính chất phân hủy sinh học của nó. Bancel hi vọng rằng các bác sĩ phẫu thuật và đơn vị y tế sẽ để ý đến vật chất mới này. Từ đó, họ có thể phát triển thêm nhiều ý tưởng, sử dụng nó một cách sáng tạo giúp đưa nghiên cứu của Pereira vào thực tiễn. Tham khảo Businessinsider, Time ZKNIGHT , THEO TRÍ THỨC TRẺ 10/13/2017
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2017 0:05:11 GMT 9
Ranh giới giữa “Dementia” và “Alzheimer”Nhân vụ ông Donald Sterling, chủ đội Bóng Rổ Clippers, vì ghen tuông nói những lời đụng chạm đến người da đen, đặc biệt nhắm đến Magic Johnson, một thần tượng thể thao của người Mỹ nên phản ứng của giới ưa chuộng bóng rổ được sự hỗ trợ –theo thời- của truyền hình, báo đài rất là ầm ĩ. Nhưng đó không phải là đề tài chính của ký giả Steve Lopez, một trong những ngườiviết bình luận cho nhật báo Los Angeles Times, tờ báo lớn nhất miền Tây Hoa Kỳ. Nguyên là, bà Shelly vợ ông Sterling, khi được ký giả Barbara Walter phỏng vấn, nói bà nghĩ chồng bà có triệu chứng “dementia”. Dementia trong y khoa là “bệnh quên”. Khi về già ai cũng có lúc “quên này quên khác”, nhưng “dementia” là bệnh quên, quên nhiều trở thành lú lẫn, và có thể trở thành bệnh “mất trí nhớ”, y khoa gọi là bệnh “Alzheimer”. Ký giả Lopez nói ông không phải là bác sĩ, nhưng nhân dư luận đang theo dõi vụ Donald Clippers, ông thử bàn đến “dementia” và “Alzheimer” xem sao! Ông nói không ai tin 100% vào lời nói của bà Shelly. Nhưng nếu chồng bà do “dementia” mà nói bậy thì vì bệnh chứ không phải ông ta là người kỳ thị người da màu. Tại Hoa Kỳ có hằng chục triệu người hay quên, nhưng ít ai biết rõ đâu là ranh giới giữa quên vì tuổi già, với “dementia” và “Alzheimer” để liệu bề chữa trị. Bà bác sĩ Debra Cherry, Phó giám đốc chi nhánh của Hội Alzheimer tại Nam California nói theo bà ít nhất có 50% người bị dementia không nghĩ đến việc đi khám xem sao. Đa số nghĩ quên chỉ là chuyện của tuổi già. Và điều này cũng là lối suy nghĩ bình thường của nhiều bác sĩ. Theo tìm tòi của ông Lopez, Alzheimer là một biến chứng thông thường nhất của Dementia chứ không phải hay quên (forgetfulness) hay trở thành Alzheimer. Triệu chứng thông thường báo hiệu Alzheimer là trạng thái tình cảm (mood) bất ổn và sự thay đổi cá tính (personlity change). Bà Cherry nói người có triệu chứng Dementia trái lại thường có những ý nghĩ lạ thường và làm những chuyện thường không ai làm. Thí dụ “đề nghị quan hệ sinh lý” với một đối tượng chưa đủ thân mật, hoặc tồng ngồng trước mặt mọi người rồi mới hoảng hốt nhận ra. Bác sĩ Claudia Kawas thuộc Viện Trí nhớ & Tâm thần của Viện Đại học Irvine, California nói thêm, tuy vậy về phương diện y khoa các triệu chứng trên cũng chưa đủ để kết luận một người nào đó đang bước vào thời kỳ đầu của bệnh Dementia. Ông nói: “Là một bác sĩ đôi khi tôi cũng rất lúng túng xác định ranh giới của bệnh quên bình thường và Dementia”, và ông khuyên ai thấy dấu hiệu khác thường thì nên xin một cuộc khám nghiệm tại các trung tâm chuyên trị Dementia. Mới đây, bác sĩ Kawas thực hiện một công trình thu lượm dữ kiện nơi những ông bà già 90 tuổi thuộc Trung Tâm dành cho người già ở Laguna Woods và đã trình bày kết quả trong một chương trình “60 minutes” của đài ABC. Bà nói: “Bệnh Dementia là bệnh làm mất khả năng thông thường của trí nhớ, trong đó sự mất khả năng phán đoán (judgement) là dấu hiệu quan trọng nhất.” Bà Kawas nói tiếp: “Các đối tượng này không có khả năng kiểm soát sự hữu lý của dòng tư tưởng khi nói. Chuyện một đằng, bàn một nẽo không đâu vào đâu cả.” Nhà báo Steve Lopez nói: “Ai có thân nhân bị bệnh Dementia đều trải qua những kinh nghiệm buồn khó tả”. Cha tôi bị Dementia trong những năm tháng cuối đời. Có ngày ông ủ rũ, có ngày ông nói nhiều và chướng không chịu được. Ông bắt bẻ chuyện này chuyện khác. Trí ông đôi khi mạch lạc, nhưng đôi khi lù mù không biết ông đang nghĩ gì. Một hôm tôi đến nhà dưỡng lão thăm ông. Thấy tôi ông nói: “Con đến đưa Ba đi học há?” Nhưng cha tôi trên 80 tuổi, bệnh trạng đã được xác định. Khổ cho những người trung niên còn chung đụng với xã hội. Cái hiện tượng buột miệng “một lời nói ra, bốn ngựa không đuổi kịp” là điều bứt rứt nhất cho những người trẻ tuổi nhuốm bệnh. Bà bác sĩ Kawas nói: “Khi tiếp xúc một đối tượng trong tuổi 60 – 65, không biết chúng ta có thể quyết đoán trí nhớ của đối tượng còn sắc bén như trước không.” Bà nói, đôi khi chỉ vì sống ở thời đại tin học nhiều thông tin quá, chúng ta không đủ thì giờ tiêu hóa chứ không phải quên. Nhưng quên tên một người bạn gặp hằng ngày hay quên vừa để chùm chìa khóa ở đâu là chuyện khác. Tuy nhiên không có gì để lo âu nếu những chuyện quên lặt vặt đó không ảnh hưởng đến nếp sống ăn ngủ làm việc hằng ngày của chúng ta. Bác sĩ Lon Schneider, giáo sư tâm thần tại Đại học USC nói “Nếu chúng ta bỏ cái chùm chìa khóa trong tủ lạnh rồi kết luận mất, thì đó là lúc cần gặp bác sĩ chuyên môn” Bác sĩ Schneider cảnh giác những người trong tuổi 30-40 rằng, đừng ỷ vào tuổi trẻ để coi thường các triệu chứng. Ở tuổi 30-40 nếu chúng ta không còn mạnh như tuổi đôi mươi, thì trí tuệ cũng có thể suy giảm theo thời gian. Tuy nhiên tuổi trẻ biết cách tự điều chỉnh như tổ chức công việc một cách khoa học hơn, biết ghi chú khi cần chứ không ỷ lại vào sự tinh tường của bộ óc. Bác sĩ Schneider nói : “Với lối sống như vậy trước tuổi 65, chúng ta – dù gì – cũng chưa lo lắm.” Bệnh Dementia có một đặc điểm. Khi nó đã đến thì thuốc thang không giúp ích bao nhiêu. Nhưng vận động cơ thể, tập định tâm như thiền, yoga, và thức ăn uống chọn lọc có thể giúp trì hoãn sự phát triển của bệnh. Còn ranh giới giữa Dementia và Alzheimer thì sao ? Trả lời câu hỏi này ký giả Steve Lopez ghi ra 10 dấu hiệu báo hiệu bệnh Alzheimer(*). (1) hay quên, ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày (2) không thể làm gì theo kế hoạch, và lúng ta lúng túng không giải quyết nổi một vấn đề đơn giản. (3) Lúng túng khi cần tắm rữa, thay áo quần, đi tiêu đi tiểu (4) lẫn lộn thời gian (sáng với chiều …) và nơi chỗ (nhà mình, nhà con, nhà bạn …) (5) không nhận ra ngay người thân, và thứ tự trên dưới trong không gian (6) không chọn chữ thích hợp khi nói. (7) để vật dụng tại một nơi không ai ngờ (8) mất khả năng phán đoán sự việc. (9) ác cảm với sinh hoạt xã hội (10) không kiểm soát được phản ứng tình cảm và cá tính thay đổi thất thường. Lời khuyên cuối của bác sĩ Dera Cherry: “Một nguyên tắc chung, về thuốc men và ăn uống, cái gì tốt cho quả tim có thể tốt cho bộ óc”./. Trần Bình Nam phóng thuật binhnam@sbcglobal. net _www.tranbinhnam.com(*)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 1:50:43 GMT 9
Nhìn hệ thống miễn dịch từ nhiều góc độ để bắt kịp xu hướng điều trị mới Bình luận Mỹ Tâm • www.ntdvn.com/suc-khoe/nhin-lai-he-thong-mien-dich-de-bat-kip-xu-huong-dieu-tri-moi-24453.htmlChúng ta hầu như không hiểu biết gì về hệ thống miễn dịch trong một thời gian dài. Những khám phá mới đã cho phép chúng ta nhìn hệ miễn dịch từ nhiều góc độ khác nhau từ đó nhận thấy được những xu hướng điều trị mới gần với tự nhiên hơn... Các cơ quan miễn dịchKhả năng miễn dịch là khả năng cơ thể bảo vệ chúng ta khỏi các mối đe dọa của vi khuẩn. Tuyến phòng thủ đầu tiên của hệ miễn dịch là da. Những vùng da bị hở như mũi và miệng là nơi cơ thể chúng ta dễ bị vi sinh vật xâm nhập. Trung tâm của hệ miễn dịch, nằm trong hệ bạch huyết, nơi tập trung nhiều tế bào miễn dịch. Cơ quan lympho trung ương (gốc), gồm tuyến ức và tủy xương, chịu trách nhiệm tạo ra các tế bào bạch cầu. Tuyến ức nằm ở phía trên tim, sản xuất và đưa các tế bào miễn dịch đến đối phó với các mối đe dọa của vi khuẩn. Tủy là mô xốp ở bên trong xương nơi có nhiều tế bào miễn dịch phát triển. Các cơ quan lympho ngoại biên, nơi mà từ đó các tế bào bạch cầu được sản xuất, lưu trữ, trưởng thành và kích hoạt, giúp gia tăng sức mạnh của toàn hệ miễn dịch. Do đó, một trong những tính năng tuyệt vời của hệ thống miễn dịch là khả năng bù trừ khi có sự cố. Ở cấp độ tế bào, (cấp độ vi mô), bạch cầu, tế bào lympho, tế bào T, tế bào B và một số tế bào miễn dịch chuyên biệt khác bảo vệ cơ thể chống lại các mối đe dọa của vi sinh vật như virus và vi khuẩn. Một phần hệ miễn dịch bị chối bỏTrong nhiều thập kỷ, các bác sĩ tin rằng amidan và adenoids (VA) là những cơ quan thường gây rắc rối. Những cơ quan này được đề nghị cắt bỏ khi trẻ em bị viêm mạn tính gây viêm họng tái phát và nhiễm trùng tai. Ruột thừa cũng là một cơ quan như thế. Nhưng một nghiên cứu được công bố trên một tạp chí JAMA năm 2018 cho thấy những đứa trẻ đã cắt bị các cơ quan này có nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, dị ứng và nhiễm trùng sau này nhiều hơn so với trước khi bị cắt. Amidan và VA thuộc nhóm cơ quan lympho ngoại biên, cùng với các hạch bạch huyết (cụm nốt sần hình hạt đậu nằm ở ngực, cổ, háng và nách của bạn), và lách là một cơ quan nằm trong ổ bụng, có chức năng lọc các tế bào máu bị tổn thương và giải phóng các tế bào miễn dịch khi phát hiện nhiễm trùng. Ngày nay chúng ta đã biết ruột thừa là một thành phần phụ của hệ thống miễn dịch. Nếu hệ vi sinh vật đường ruột bị tổn thương do nhiễm trùng, thì lúc này, ruột thừa sẽ phát huy vai trò của nó: giúp các tế bào bạch cầu trưởng thành, tạo ra các kháng thể và lưu trữ vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh. Nó không phải là một cơ quan thoái hóa hay “dư thừa” như người ta nghĩ trước đây. (Minh họa) Ruột thừa giúp các tế bào bạch cầu trưởng thành, tạo ra các kháng thể và lưu trữ vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh. Nó không phải là một cơ quan thoái hóa hay “dư thừa” như người ta nghĩ trước đây... (Wikipedia) Hệ vi sinh vật lành mạnh trong ruộtTheo bác sĩ Stephen Wangen, một chuyên gia điều trị rối loạn đường ruột thì đây là nơi chúng ta tiếp xúc nhiều nhất với vi sinh vật và dễ bị tổn thương nhất. Vì vậy mà 70% mô bạch huyết đó trải dài trong lớp niêm mạc bao phủ thành ruột. Chúng hoạt động như một hệ thống giám sát, liên tục quét tìm vi khuẩn xâm nhập. Vi khuẩn trong ruột cũng đóng vai trò trong hệ miễn dịch của con người. Một hệ vi sinh khỏe mạnh - có từ 3 đến 5 pounds (tương đương gần 1,5 đến 2,5 kg) lợi khuẩn trong ruột, có thể ngăn chặn các mầm bệnh không mong muốn, ngăn chúng xâm nhập và phát triển bên trong cơ thể. Khái niệm “microbiome - hệ vi sinh vật đường ruột” cũng đã giúp giải thích các vấn đề sức khỏe khó giải trước đây, chẳng hạn như tại sao hiện nay rất nhiều người bị dị ứng thực phẩm. Ông Wang Wangen cho biết: “Tất cả các loại thuốc, hóa chất và kháng sinh mà chúng ta sử dụng đã ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật này”, “nó thay đổi cách hệ thống miễn dịch nhận diện thức ăn”. Tình trạng viêm: Ngôn ngữ của hệ miễn dịch.Chúng ta thường thấy viêm là một cái gì đó xấu, và nó chắc chắn có thể gây hại. Người bình thường sẽ không nghĩ rằng hệ thống miễn dịch chính là thứ tạo ra triệu chứng viêm: sưng, nóng, đỏ. Nhưng nó cũng có một khía cạnh tích cực quan trọng đối với sức khỏe của con người. Thật vậy, nó là vũ khí mà cơ thể chúng ta sử dụng để chống lại nhiễm trùng, cũng như phản ứng thích hợp với chấn thương. Nếu bạn bị bong gân mắt cá chân hoặc u đầu, chỗ tổn thương sẽ sưng và đỏ. Phản ứng viêm này cho phép các tế bào miễn dịch đến địa điểm tổn thương nhanh chóng, loại bỏ mô tổn thương và tái tạo lại mô khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu tình trạng viêm bùng phát không đúng lúc, hoặc cơ thể bạn bị viêm mạn tính, đây là những tín hiệu cho thấy hệ miễn dịch đang trục trặc và cần được chú ý. (Minh họa) Viêm là vũ khí mà cơ thể chúng ta sử dụng để chống lại nhiễm trùng. Phản ứng viêm tức là các tế bào miễn dịch đang loại bỏ mô tổn thương và tái tạo lại mô khỏe mạnh...(Wikipedia) Nguồn gốc của một số bệnh mãn tính là từ phản ứng viêmTheo bác sĩ Wangen, điều gây ngạc nhiên là mọi thứ có thể bị viêm ở một mức độ nào đó. Từ mất trí nhớ, giảm mật độ xương trong bệnh loãng xương, đến ung thư đều bắt nguồn từ viêm. Phương pháp điều trị thông thường cho tình trạng viêm quá mức là thuốc kháng viêm. Nhưng ông Wangen cảnh báo bệnh nhân của mình nên suy nghĩ về nguyên nhân đằng sau đáp ứng viêm không thích hợp đó. Căng thẳng liên tục, tiêu thụ quá nhiều đường hoặc sử dụng một loại thực phẩm mà hầu hết chúng ta cho là tốt cho sức khỏe, đều có thể là nguyên nhân thúc đẩy quá trình viêm. Vậy tại sao một số người bị dị ứng thực phẩm, và những người khác dường như có thể ăn bất cứ thứ gì mà không có hậu quả? Theo bác sĩ tiến sĩ Terry Wahls, chuyên điều trị hỗ trợ, tất cả chúng ta có thể có những phần cơ bản giống nhau, nhưng các yếu tố mà chúng ta đã tiếp xúc thường khác nhau rất nhiều. Ông Wangen nói: “Khi chúng tôi tìm ra nguyên nhân, đường tiêu hóa của họ trở nên tốt hơn. Viêm xoang mãn tính, đau đầu, hoặc những rắc rối khác, tất cả đều cải thiện”. Sự phơi nhiễm vi sinh vật, phơi nhiễm kháng sinh và phơi nhiễm hóa chất gây ô nhiễm khác nhau ở từng người. Lối sống (thiếu ngủ, căng thẳng về thể chất và tinh thần) của mỗi người cũng vậy. Wahls nói: “Tất cả những yếu tố này ảnh hưởng đến việc các tế bào miễn dịch có thể sửa chữa, bảo vệ và giữ cho cơ thể ổn định như thế nào. Nếu không được sửa chữa và giữ cho ổn định, chúng ta sẽ nhanh chóng lão hóa, ung thư và chết vì nhiễm trùng. Vòng đời sẽ ngắn lại”. Trong khi thực hành, bác sĩ Wahls nhìn vào một bệnh sử của bệnh nhân để hiểu tại sao các tế bào miễn dịch của họ bị kích hoạt. Sau đó, cô xác định những cách có thể thực hiện để đưa các tế bào miễn dịch trở lại chức năng chữa bệnh bình thường của nó. Thông thường, tất cả bệnh nhân cần thay đổi lối sống, chế độ ăn uống. Wah Wahls cho biết: “Chúng tôi rất thành công khi làm theo cách này,” Quan niệm cổ xưa về hệ miễn dịchTrong nhiều thiên niên kỷ, người xưa đã nhận thức được khả năng chữa lành và tự bảo vệ bản thân khỏi bệnh tật. So với hình ảnh hệ miễn dịch được phức tạp hóa trong y học hiện đại, người xưa lại có suy nghĩ rất đơn giản. Thật thú vị, những khái niệm cũ này đang bắt đầu được đưa trở lại trong y học thực hành hiện nay. Nếu bạn nhìn vào y học cổ truyền Trung Quốc, bạn sẽ không thấy người ta đề cập đến các cytokine và tế bào T, nhưng bạn sẽ tìm thấy các bài thuốc được lưu truyền qua nhiều thế hệ về cách giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Cuốn sách lâu đời nhất được biết đến của y học cổ truyền Trung Quốc “Hoàng đế nội kinh” giải thích rằng cách để chống lại bệnh theo mùa với năng lượng luôn dồi dào từ bên trong chính là khí công. Cuốn sách nói rằng nếu bạn có đầy đủ chính khí, thì không có tà khí nào có thể xâm nhập. Mặc dù từng ra sức đàn áp các môn tu luyện khí công, nhưng dưới sức ép bùng phát của dịch Covid-19, một website thuộc chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích người dân luyện tập các môn khí công tại nhà nhằm cải thiện sức đề kháng cơ thể. (Ảnh: minghui.org) Theo tư tưởng này, mục đích để đạt sức khỏe tốt là đạt được sự cân bằng tự nhiên, bệnh tật chỉ là bằng chứng cho thấy của cuộc sống của bạn đang bị mất cân bằng. Thu thập chính khí chỉ đơn giản là sống cân bằng với tự nhiên và thực hành các nguyên lý cơ bản như: tập thể dục, chế độ ăn uống lành mạnh, giảm căng thẳng, v.v. Y học cổ truyền Trung Quốc quy định rất rõ ràng về chế độ ăn uống và lối sống, nhấn mạnh vào sự điều độ, điều này cũng được các thầy thuốc trong các nền y học cổ truyền tại các quốc gia khác yêu cầu. Xu hướng mới trong thực hành Một vài thập kỷ trước, y học hiện đại đã chế giễu các chế độ ăn kiêng và thực hành lối sống lành mạnh. Bốn yếu tố quan trọng nhất mà tiến sĩ Wahls tìm thấy là ăn rau, giao tiếp cảm xúc, hoạt động ngoài trời (hệ thống miễn dịch cần vitamin D dồi dào) và ngủ đủ giấc. “Khi chúng ta thiếu ngủ, các tế bào miễn dịch gần như không có hiệu quả trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các loại virus khác nhau trú ẩn trong não và cơ thể của chúng ta”, Wahls nói. “Đó là lúc mà những virus tiềm ẩn này có thể hoạt động trở lại và dẫn đến các vấn đề sức khỏe mạn tính”. Wahls thấy rõ chế độ ăn uống và lối sống có giá trị như thế nào. Đó là cách cô ấy có thể giải quyết bệnh đa xơ cứng của mình, một căn bệnh suy nhược do hệ thống miễn dịch tấn công và phá hủy các tế bào của chính cơ thể cô. Trải nghiệm này đã thay đổi cách cô thực hành y học và nghiên cứu lâm sàng. Và bằng chứng cũng đang bắt đầu làm thay đổi suy nghĩ của các bác sĩ khác. Wahls nói: “Các nhà nghiên cứu về bệnh thấp khớp, da liễu và thần kinh đang bắt đầu nhận ra rằng chế độ ăn uống và lối sống có thể rất hiệu quả trong việc làm giảm bệnh tật”. “Tuy nhiên, cần giáo dục để mọi người hiểu và nỗ lực thay đổi chế độ ăn uống, bắt đầu thực hành thiền định, chú ý đến giấc ngủ, từ bỏ các thực phẩm làm tăng nguy cơ rò rỉ ruột, ăn nhiều rau có màu đậm hơn, như cà rốt, củ cải đường, quả mọng, và từ bỏ đường”. Người thường xuyên thực hành "Thiền định" có thể làm giảm khả năng bị cảm lạnh hoặc cúm, ngay cả khi họ bị nhiễm trùng đường hô hấp, bệnh cũng sẽ tương đối nhẹ. Ảnh: Học viên Pháp Luân Công luyện bài tĩnh công thiền định. (Nguồn: Epoch Times) Công việc của Wahls là cầu nối giữa hướng dẫn thực hành lối sống đơn giản trong mô hình y học truyền với y học bằng chứng mà chúng ta yêu cầu trong thời hiện đại. Cô đã đấu tranh trong nhiều năm để các bài báo của mình được xuất bản, nhưng cô nói giờ đây “gió đang đổi chiều”. Cô cho rằng: “Đây là bản chất của sự tồn tại của con người”. “Khi tất cả chúng ta đều “đóng khung” sự hiểu biết của mình, thì thật sự rất khó để nhìn thấy thứ gì đó khác, ngoài những gì bạn mong đợi. Nó có thể gây khó chịu cho những người có quan niệm hiện đại. Nhưng đây là cách cuộc sống vận hành”. Mỹ Tâm - Theo The Epoch Times.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 9:19:42 GMT 9
Thiền định giúp tăng cường hệ thống miễn dịch - kết quả nghiên cứu Bình luận Ánh Dương • Ngày càng có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy thiền định có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch, nâng cao sức đề kháng và khả năng phòng/chữa bệnh của chúng ta. Tự xưng là ‘’Iceman’’ (người đá), Wim Hof, đã chứng minh rằng ông có thể ngâm mình trong đá lạnh 2 giờ mà thân nhiệt không hề thay đổi bằng cách tác động lên hệ thống thần kinh tự chủ (tiếng Anh: Autonomic Nervous System, viết tắt: ANS) của mình thông qua sự tập trung và thiền định. ‘’Phương pháp Wim Hof’’, là thực hành thiền định chuyên sâu bao gồm tập trung cao độ, liệu pháp nước lạnh và kỹ thuật thở. ANS là hệ thống kiểm soát tất cả các cơ quan nội tạng của chúng ta; điều chỉnh các chức năng của cơ thể như tiêu hóa, lưu lượng máu và giãn đồng tử. Thiền giả Wim Hof có thể ngồi thiền trong băng 2 giờ mà thân nhiệt bên trong không hề thay đổi. (Ảnh: The Iceman (Wim Hof)/Facebook) Bộ não của chúng ta cũng sử dụng ANS để liên lạc với hệ thống miễn dịch của chúng ta, điều này có thể giải thích cho một thí nghiệm gần đây với Iceman: hạn chế khả năng lây nhiễm của cơ thể sau khi được tiêm endotoxin (một loại vi khuẩn). Hầu hết mọi người đều có các triệu chứng giống như cúm và viêm nhiễm ở mức cao khi được tiêm lượng endotoxin đó vào cơ thể. Khi các nhà nghiên cứu xem xét các dấu hiệu sau khi cơ thể Iceman bị phơi nhiễm, họ phát hiện ra các dấu hiệu này thấp hơn 50% so với các tình nguyện viên khỏe mạnh khác. Về cơ bản, có rất ít dấu hiệu lây nhiễm trên cơ thể ông ta. Một nghiên cứu gần đây đã theo dõi các học viên được đào tạo theo phương pháp của Wim Hof. Rõ ràng, họ đã đạt được các kết quả giống như Hof và không gặp phải triệu chứng nào sau khi được tiêm Escherichia coli, một loại vi khuẩn thường gây ra bệnh nặng. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã bị thu hút bởi các bằng chứng cho thấy rằng thiền định có tác động tích cực đến hệ thống miễn dịch của chúng ta. “Bộ não nổi’’: Tuyến phòng thủ tốt nhất của chúng taHệ thống miễn dịch là một trong những hệ thống quan trọng nhất bảo vệ sức khỏe thể chất của chúng ta. Hệ thống phòng thủ, lực lượng vũ trang hoạt động để bảo vệ cơ thể chúng ta khỏi những kẻ xâm lược từ bên ngoài như virus hoặc vi khuẩn. Nó được thiết kế chính xác đến mức có thể lập tức phân biệt giữa các mầm bệnh không mong muốn có hại và các tế bào và mô khỏe mạnh của chính chúng ta. Hệ thống miễn dịch còn được gọi là ‘’bộ não nổi’’, tên được đặt cho khả năng giao tiếp với não của các thông điệp hóa học trôi nổi bên trong cơ thể chúng ta. Sự căng thẳng mãn tính của não bộ sẽ làm cho hệ thống miễn dịch của chúng ta bị suy yếu. Khi mầm bệnh xâm nhập từ bên ngoài vào cơ thể, toàn bộ hệ thống miễn dịch của cơ thể chúng ta sẽ hoạt động để chống lại các mầm bệnh xâm nhập bất thường đó. Khi hệ thống miễn dịch của chúng ta gặp khó khăn, nó giống như một dấu hiệu cho sự nhiễm trùng và bệnh tật. Thiền định và hệ thống miễn dịchMột đánh giá đột phá gần đây đã xem xét 20 thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên kiểm tra tác động của thiền định đối với hệ thống miễn dịch. Khi xem xét nghiên cứu, các tác giả nhận thấy rằng thiền định có tác dụng: Giảm các dấu hiệu viêm, tức là cải thiện chức năng miễn dịch của cơ thể. Số lượng tế bào CD-4 tăng lên, đó là các tế bào trợ giúp hệ thống miễn dịch có liên quan đến việc gửi tín hiệu đến các tế bào khác để chúng tiêu diệt các tác nhân lây nhiễm. Tăng hoạt động telomerase giúp thúc đẩy sự ổn định của nhiễm sắc thể và ngăn ngừa sự suy giảm của chúng (suy giảm telomase dẫn đến ung thư và lão hóa sớm). Những kết quả này cần được tiếp tục kiểm tra với phương pháp nghiêm ngặt hơn, nhưng chúng đầy hứa hẹn và có khả năng mở đường cho việc sử dụng các kỹ thuật dựa trên thiền định để tăng cường hệ thống miễn dịch, tăng cường khả năng phòng chống nhiễm trùng và bệnh tật. Và đây không phải là nghiên cứu duy nhất cho thấy kết quả tích cực. Trong một nghiên cứu kéo dài tám tuần khác, các nhà nghiên cứu tại Đại học California tại Los Angeles (UCLA) đã thực hành thí nghiệm với 50 người đàn ông dương tính với HIV ngồi thiền hàng ngày trong 30-45 phút. Các bác sĩ nhận thấy, những người tham gia càng nhiều buổi luyện thiền thì số lượng tế bào CD-4 càng cao sau khi kết thúc nghiên cứu (tế bào CD-4 là tế bào trợ giúp của hệ thống miễn dịch). Nghiên cứu này cho thấy sự liên kết giữa thiền định với sự chậm lão hóa của tế bào CD-4, tức là chức năng hệ thống miễn dịch khỏe mạnh hơn. Giáo sư đáng kính Richard Davidson tại Đại học Wisconsin Madison, cũng đã thực hiện một nghiên cứu điều tra xem liệu thiền định có thể thay đổi chức năng não và miễn dịch hay không. Trong nghiên cứu của ông, mọi người được tiêm vắc-xin cúm và một phần của nhóm được đào tạo thiền định, nhóm đối chứng còn lại thì không. Sau tám tuần, nhóm có đào tạo thiền định cho thấy mức độ kháng thể cao hơn để đáp ứng và ngăn ngừa các bệnh tiềm ẩn. Thiền định và các cơ chế tăng khả năng miễn dịchThật là hấp dẫn khi các nghiên cứu cho thấy rằng thiền định có thể giúp cải thiện chức năng miễn dịch. Tuy nhiên, câu hỏi là các cơ chế chính xác nào kết nối thiền định với hệ thống miễn dịch vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Nếu hỏi bất kỳ nhà nghiên cứu nào và họ sẽ nói rằng họ chưa biết. Một số khả năng đã được đề xuất, và có thể sự hội tụ của tất cả những điều này hỗ trợ để giải thích mối liên hệ đó. Ở đây xin trình bày ba đề xuất: Giảm căng thẳng, tăng điều tiết cảm xúc: Các nghiên cứu khoa học đã xác nhận rằng những gì chúng ta nghĩ và cảm nhận đều có tác động đến hệ thống miễn dịch của chúng ta thông qua các thông điệp hóa học trôi nổi trong cơ thể đến não bộ. Do đó, căng thẳng, lối suy nghĩ tiêu cực và một số trạng thái cảm xúc nhất định có thể có tác động tiêu cực đến hệ thống miễn dịch của chúng ta, tạo ra môi trường ngày càng dễ mắc bệnh. Các cơ chế của thiền định hướng tới những cảm xúc lớn hơn hạnh phúc, rất phức tạp và đa dạng, nhưng thực tế có liên quan đến việc giảm căng thẳng, giảm sự tư lự và tăng khả năng đối phó với những cảm xúc khó khăn. Theo cách này, thực hành thiền định có thể ngăn chặn khả năng miễn dịch bị suy giảm. Giao tiếp não/hệ thống miễn dịch hướng mục tiêu: Một mối liên hệ khác giữa thiền định và hệ thống miễn dịch là sự tác động trực tiếp của thiền định lên các cấu trúc não bộ phụ trách việc liên hệ với hệ thống miễn dịch. Cụ thể hơn, nghiên cứu chỉ ra rằng thiền định làm tăng hoạt động ở vỏ não trước trán, tiền đình phải và đồi hải mã phải, các khu vực của não đóng vai trò là trung tâm chỉ huy hệ thống miễn dịch của chúng ta. Khi những phần này được kích thích thông qua thiền định, hệ thống miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Kích hoạt não thứ hai (ruột): Thiền định có thể tăng cường khả năng miễn dịch thông qua hệ vi sinh vật đường ruột. Cơ thể con người bao gồm hàng nghìn tỷ vi sinh vật, phần lớn cư trú trong ruột, được gọi là microbiota ruột. Microbiota ruột là nhân tố chính trong việc phát triển và duy trì hệ thống miễn dịch; các vi khuẩn này trong cơ thể giúp phân biệt giữa vi khuẩn xâm nhập từ bên ngoài với các vi khuẩn nội sinh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng căng thẳng ngăn chặn sự cân bằng vi khuẩn trong cơ thể chúng ta, khiến chúng ta có nguy cơ mắc chứng rối loạn hệ khuẩn ruột, (một sự tách rời khỏi sự đa dạng vi khuẩn đường ruột bình thường), tước đi một trong những biện pháp phòng vệ chính của chúng ta trong việc chống lại bệnh truyền nhiễm, chưa kể đến các phản ứng xảy ra sau đó, có khả năng tàn phá hệ thần kinh trung ương (CNS). Giảm căng thẳng dựa trên thiền định tác động đến hệ thống miễn dịch của chúng ta bằng cách giúp duy trì sự đa dạng vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh, nhưng vi khuẩn dễ bị tổn thương do sự căng thẳng của não bộ. Chúng ta chưa hiểu rõ các cơ chế hoạt động chính xác như thế nào, nhưng có bằng chứng khả thi rằng thực hành thiền định đều đặn giúp tăng cường sự phòng vệ của chúng ta chống lại bệnh tật và duy trì sức khỏe. Thiền định và hướng tâm tu luyệnThiền định và nâng cao tâm tính đạt đến tầng cấp mới, đó là Tu luyện. (Ảnh: Pexels) Ngoài thiền định, người Đông phương xem trọng việc nâng cao tâm tính, đạo đức, tập trung vào những cảm xúc tình yêu và lòng tốt. Khi tâm trí một người thuần khiết và tĩnh lặng, thân và tâm sẽ đạt được sự hòa quyện vào với nhau ở mức độ cao nhất. Từ khía cạnh sức khỏe con người, khi tinh thần tràn ngập những cảm xúc tình yêu và lòng tốt, trầm tĩnh và thanh thản, lúc đó các chức năng của cơ thể sẽ hoạt động ở trạng thái phát huy tác dụng cao nhất cho sức khỏe. Điều này đã vượt qua y học hiện đại và đạt đến một tầng cấp mới, đó là Tu luyện. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng thực rằng năng lượng người tu luyện phát xuất ra cao gấp hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần năng lượng người bình thường. Năm 1998, Lu Yanfang và hàng chục nhà khoa học Mỹ đã triển khai nghiên cứu đối với các khí công sư ở Trung Quốc. Khí công chính là tu luyện và là một loại phương pháp tu hành cổ xưa, trong đó bao gồm cả luyện công. Trong báo cáo nghiên cứu, Lu Yanfang đã phát hiện cơ thể của khí công sư có thể phát ra sóng hạ âm cường đại, mạnh gấp 100 đến 1.000 lần người bình thường. Năm 1988, Học viện Y dược Bắc Kinh Trung Quốc cũng chỉ ra trong một báo cáo nghiên cứu tương tự rằng, khí công sư phát ra công có sóng hạ âm cao cấp 100 lần người bình thường. Cả hai kết quả nghiên cứu đã được ghi chép chi tiết trong báo cáo của Viện nghiên cứu Khí công Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Y Baylor ở Houston (Mỹ), đứng đầu là Tiến sĩ Lili Feng, đã phát hiện ra sự khác biệt tới hơn 10 lần trong biểu thức gene ở các bạch cầu trung tính giữa những người tu luyện Pháp Luân Công và những người không tu luyện. Bạch cầu trung tính (neutrophils) là những tế bào máu màu trắng đóng vai trò chủ đạo trong việc ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập. Đây là một hiện tượng hy hữu trong ngành nghiên cứu sinh học tế bào. Ngoài ra, tuổi thọ của bạch cầu trung tính của người khỏe mạnh thường chỉ có từ 2-3 tiếng, nhưng ở người tu luyện Pháp Luân Công lại kéo dài 60 tiếng. Do đó những người tu luyện có khả năng ngăn ngừa sự lây nhiễm từ bên ngoài hiệu quả hơn. Thực hành tu luyện là rèn luyện tâm tính và thân thể trong suốt thời gian cuộc đời, có thể khiến con người đạt được tuổi thọ và sức khỏe thực sự. Tu luyện đòi hỏi nhân tâm phải hướng thiện, sống chân thành và luôn nhẫn nại. Thực hành tốt những việc này chính là cách thức cơ bản nhất để trị tận gốc bệnh. Ánh Dương Theo Mindful/ntdvn
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 9:27:58 GMT 9
Kỳ 4 - Có một con đường chữa bệnh khác, khỏi bệnh nhờ thiền định Bình luậnXuân Trường Cùng nhiều loại bệnh nan y khác, giờ đây chúng ta lại phải đối mặt với sự nguy hiểm chết người của dịch bệnh COVID-19. Trong bối cảnh chưa có thuốc đặc trị, việc của chúng ta giờ đây là phòng bệnh và chờ đợi các nhà nghiên cứu chạy “nước rút” tìm ra phương thức điều trị chống virus corona chủng mới. Trong khi các phương pháp tiếp cận của Y học nhằm chữa bệnh bao gồm rất nhiều cách điều trị hiện đại, thì còn có một con đường chữa bệnh kỳ diệu khác. Đó chính là Thiền định, với cách tiếp cận toàn diện, trong đó chú trọng nâng cao nội lực, hàm dưỡng tâm hồn và sống hướng thiện. Có một con đường khác, khỏi bệnh nhờ Thiền địnhTrong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, con người luôn tìm kiếm những phương thuốc để “trẻ mãi không già”. Các bậc đế vương luôn phái người đi khắp chân trời góc bể tìm kiếm phương thuốc “cải lão hoàn đồng”, trị được “bách bệnh” để được “trường sinh bất lão”. Từ các loại thuốc thảo dược cho đến các phương thức thực hành kỳ bí, nhưng tựu chung phương pháp chữa bệnh thời xưa vẫn thường dựa nhiều vào Thiền định. Từ thuở xưa, Nho gia, Đạo gia, và các tu sĩ Phật giáo đều rất chú trọng đến thời gian ngồi tĩnh lặng. Họ không suy nghĩ và thanh lọc tâm ý bằng thiền định. Y học hiện đại công nhận rằng Thiền định có thể nâng cao sự chú ý và giúp giảm bớt áp lực rất hữu hiệu, và thậm chí có thể chữa trị các bệnh nan y. Ngày càng có nhiều người phương Tây tập thiền và đã hưởng được nhiều ích lợi từ thiền định. Dưới lăng kính Tây y, Tế bào gốc rất quan trọng đối với sức khỏe con người và các nhà khoa học phát hiện ra rằng, Thiền định có thể làm tăng số lượng tế bào gốc trong cơ thể. Doris Taylor, Giám đốc Trung tâm Chăm sóc Tim mạch tại ĐH Minnesota (Mỹ) đã thực hiện nhiều thí nghiệm đo điện não của nhiều người trong khi thiền định, và một trong số đó là thiền sư nổi tiếng Matthieu Ricard. Dưới lăng kính Tây y, Tế bào gốc rất quan trọng đối với sức khỏe con người và các nhà khoa học phát hiện ra rằng, Thiền định có thể làm tăng số lượng tế bào gốc trong cơ thể. (Ảnh: Getty) Doris Taylor nhận thấy rằng chỉ trong 15 phút thiền định đã mang lại một sự gia tăng lớn về số lượng tế bào gốc trong máu của Matthieu Ricard. “Về cơ bản, khi ông thiền định, chúng tôi đo thấy có những thay đổi sóng điện não tích cực, và điều này có ảnh hưởng đến tế bào gốc. Và những gì chúng tôi nhận thấy là sự gia tăng lớn về số lượng tế bào gốc trong máu. Mức tăng lớn nhất mà tôi từng thấy chỉ sau 15 phút thiền định”, Doris Taylor cho biết. Theo Tây y, số lượng tế bào gốc trong máu tăng cao so với chỉ số ban đầu chính là việc phản ánh các cơ quan trong cơ thể đang được tái tạo, sửa chữa nhanh hơn so với thông thường: Sức khỏe cải thiện, quá trình chữa bệnh và hồi phục sức khỏe sẽ nhanh hơn, cơ thể được trẻ hóa... Thiền định hỗ trợ chữa trị Ung thư và AIDSÔ nhiễm môi trường, thực phẩm độc hại và cuộc sống hiện đại đầy áp lực khiến con người mất cân bằng ở cả thể chất và tâm trí, dẫn đến bệnh tật và sự lây lan của bệnh tật. Tiến sĩ O.Carl Simonton, thuộc Trung tâm Chăm sóc Ung thư Simonton ở California (Mỹ), một chuyên gia trong việc áp dụng các liệu pháp cổ truyền Trung Hoa để điều trị ung thư đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể trong việc điều trị ung thư. Ông đã thử nghiệm trong hơn 10 năm và thấy rằng cơ thể có khả năng tự chữa trị. Tiến sĩ Simonton đã chứng minh hiệu quả của thiền định trong điều trị ung thư và nhận thấy “khi tâm trí an hòa sẽ ảnh hưởng đến nhịp tim, huyết áp, hoặc sản sinh ra một loại tế bào bạch huyết, còn được gọi là tế bào T có khả năng chống ung thư và AIDS". “Khi tâm trí an hòa sẽ ảnh hưởng đến nhịp tim, huyết áp, hoặc sản sinh ra một loại tế bào bạch huyết, còn được gọi là tế bào T có khả năng chống ung thư và AIDS". (Ảnh: Shutterstock) Tây y có liệu pháp thực nghiệm được gọi là miễn dịch trị liệu tế bào T. Liệu pháp miễn dịch này có cơ chế dùng chính tế bào miễn dịch của cơ thể đưa ra ngoài nuôi cấy và hoạt hóa lên sau đó truyền lại vào cơ thể để tăng khả năng miễn dịch, tấn công tế bào ung thư. Bổ sung tế bào gốc cho bệnh nhân ung thư sẽ giúp cơ thể nâng cao sức đề kháng, tự phục hồi, =giảm tối đa các tác dụng phụ tiêu cực. Tuy nhiên, Thiền định không chỉ “sửa chữa” các tế bào bị hư hỏng và thay thế các mô cũ, mà còn ngăn ngừa sự suy giảm của các cơ quan quan trọng trong cơ thể như tim, phổi, thận… Thiền định cũng làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp và tăng cường hệ miễn dịch. Đó là một cách tiếp cận hoàn toàn từ nội lực toàn thân mà con người có thể cảm nhận, như là một sự hồi sinh mạnh mẽ. Tiến sĩ - Bác sĩ Herbert Benson thuộc Trường Y Havard đã nghiên cứu và thử nghiệm những tác động của thiền định đối với sức khỏe và cơ thể. Ông là người tiên phong trong ngành Y học Tâm thần và là một trong những bác sĩ phương Tây đầu tiên đưa yếu tố tâm linh vào chữa bệnh. Trong cuốn The Relaxation Response (tạm dịch Phản ứng thư giãn) giới thiệu khái niệm Thiền định cho người Mỹ, tiến sĩ Benson nói rằng thiền định có thể điều trị các bệnh ung thư vì nó giúp bệnh nhân giảm căng thẳng, trở nên mạnh mẽ hơn và kiểm soát cuộc sống tốt hơn. Một trong những căn bệnh thế kỷ mà hiện nay con người không có cách nào chữa trị được chính là AIDS. Thiền định đã được đưa vào để giúp đỡ bệnh nhân AIDS. Từ năm 1989, một nhóm các nhà tâm lý học, nhân viên xã hội và y tá tại Thái Lan đã áp dụng thiền định như một phần quan trọng của chương trình đào tạo nhân viên và điều trị bệnh nhân HIV. Quan sát từ nhóm nghiên cứu cho thấy kết quả rất tích cực đối với phần lớn các nhân viên y tế và bệnh nhân. Họ trở nên vị tha, đồng cảm và kiên nhẫn hơn. Nhân viên y tế lấy máu của bệnh nhân AIDS trong khi thiền định tại nhà tế bần AIDS Wat Phrabaht Nampu vào ngày 14 tháng 7 năm 2004 ở Lopuri, Thái Lan. (Ảnh: Getty) Năm 2008, một nhóm nghiên cứu tại ĐH California (Mỹ) đứng đầu là Tiến sĩ Tâm lý học xã hội David Creswell đã thử nghiệm một chương trình giảm căng thẳng bằng thiền định cho một nhóm người bị nhiễm HIV. Nhóm tham gia gồm 67 người nhiễm HIV ở Los Angeles đã ngừng dùng thuốc ARV (thuốc kháng virus), 48 người trong số họ thực hành thiền định kéo dài trong 2 tháng. Kết quả cho thấy, số lượng tế bào T CD4 của những người thực hành thiền định cao hơn hẳn. Đây là thước đo cho thấy hệ thống miễn dịch chống lại virus HIV tốt như thế nào. Tế bào T CD4 đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch và số lượng ít hay nhiều của T CD4 sẽ cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe của hệ thống miễn dịch. Đây là hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể, giúp bạn chống lại các mầm bệnh, bao gồm nhiễm khuẩn và siêu vi. Số lượng tế bào T CD4 càng cao thì cho thấy hệ thống miễn dịch của bạn càng khỏe. Tiến sĩ David Creswell cho biết so với nhóm người không ngồi thiền, nhóm 48 người ngồi thiền cho biết họ không những không còn cảm thấy căng thẳng mà lại thấy yêu thương, chân thành và vui vẻ hơn với cuộc sống. Tiến sĩ Creswell tuyên bố: “Nghiên cứu này cho thấy thiền định có thể tác động trực tiếp đến việc làm chậm tiến triển bệnh AIDS. Ngay cả khi chúng tôi kiểm soát việc sử dụng thuốc ARV, chúng tôi vẫn nhận thấy những hiệu ứng kỳ diệu này. Cho dù bạn đang sử dụng thuốc hay ngừng thuốc, bạn vẫn sẽ thấy những lợi ích từ thiền định”. Thiền định chống sự xâm nhập của virus và ngăn ngừa lão hóaNhiễm trùng đường hô hấp cấp tính (ARI) bao gồm cảm lạnh và cúm là những bệnh rất phổ biến, dẫn đến tỉ lệ mắc bệnh và tử vong khá cao trên thế giới. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Quốc gia (CDC), tiêm vắc-xin là cách tốt nhất để bảo vệ cơ thể chống lại virus cúm. Vắc-xin cúm chứa kháng nguyên cúm và khi đưa vào cơ thể, nó sẽ báo hiệu hệ thống miễn dịch sản xuất kháng thể chống lại sự xâm nhập của virus cúm. Tuy nhiên virus có thể đột biến liên tục, và có thể làm giảm hiệu quả của vắc-xin cúm theo mùa. Vì vậy, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Madison, Wisconsin (Mỹ) đã có một cuộc thử nghiệm phòng ngừa ngẫu nhiên kéo dài 8 tuần với sự tham gia của 390 người nhằm làm rõ tác dụng của việc tập luyện ảnh hưởng thế nào đối với hệ miễn dịch của con người. Các nhà nghiên cứu đã phân thành 3 nhóm ngẫu nhiên gồm nhóm: Không luyện tập, nhóm Thiền định và nhóm Tập thể dục (cường độ vừa phải) để kiểm tra xem việc tập luyện giảm căng thẳng thông qua thiền định hay tập thể dục sẽ giảm Tỷ lệ mắc bệnh, Thời gian mắc bệnh và Mức độ nghiêm trọng toàn cầu của bệnh ARI như thế nào. Thử nghiệm cho thấy sau khi Thiền định, mức độ giảm tương ứng là 33%-43%-60% Tỷ lệ mắc, Thời gian và Mức độ nghiêm trọng của bệnh ARI, so với 29%-42%-31% sau khi tập thể dục với cường độ vừa phải. Điều này cho thấy Thiền định có tác dụng rất lớn trong việc phòng ngừa virus cúm tấn công. Thử nghiệm của các nhà nghiên cứu cho thấy Thiền định có tác dụng rất lớn trong việc phòng ngừa virus cúm tấn công. (Ảnh: Shutterstock) Ngoài ra, thiền định cũng có tác dụng ngăn ngừa lão hóa. Một trong những nguyên nhân gây lão hóa là do stress vì stress mãn tính gây rút ngắn Telomere (trình tự lặp lại của DNA ở các đầu mút của nhiễm sắc thể). Khi các tế bào bị tổn thương, chúng cản trở chức năng đàn hồi của da. Quá trình lão hóa dễ nhìn thấy nhất là phản ánh trên da. Từ thuở xưa cho đến ngày nay, con người đã tiêu tùng khá nhiều thời gian và tiền bạc cho các phương thức làm đẹp da, các sản phẩm chăm sóc da với hy vọng đảo ngược các dấu hiệu lão hóa có thể nhìn thấy như nếp nhăn, da sần sùi... Nhưng cách tiếp cận này không giải quyết những dấu hiệu và triệu chứng bên trong của tuổi tác. Trái ngược với Tây y tập trung vào kỹ thuật trị bệnh, từ tiêm thuốc, uống thuốc, phẫu thuật…, thì Trung y nhấn mạnh vào sự hài hòa bên trong cơ thể người, là khoa học của sự hợp nhất giữa con người và tự nhiên. Trung Y nghiên cứu hệ thống cơ thể người ở mức độ vi quan. Trong nghiên cứu sức khỏe Trung y truyền thống, Thiền định là một bí mật lớn kéo dài tuổi thọ con người. Thiền định là một phương pháp trong Tu luyện, giúp tăng cường hoạt động hệ thống miễn dịch, khả năng miễn dịch cao giúp cơ thể chống lại vi khuẩn và virus cúm xâm nhập. Trong trạng thái thay đổi của ý thức khi thiền định, cơ thể cũng có khả năng tự chữa trị, giúp kéo dài các Telomere làm tăng tuổi thọ của tế bào, làm giảm hormone cortisol gây stress, cho phép các tế bào dễ sinh sản hơn cho sự phát triển mới và sửa chữa các tổn thương dẫn đến bệnh tật. Thiền định giúp chúng ta sống khỏe mạnh và hạnh phúcNhững năm 1990, nhà thần kinh học người Mỹ Richard Davidson dẫn đầu nhóm các nhà nghiên cứu của trường ĐH Winconsin (Mỹ) đã tới Tây Tạng và thực hiện hàng loạt các cuộc thử nghiệm đối với các thầy tu - những người đã dành cả đời để Thiền tịnh. Sau hàng loạt các cuộc thử nghiệm, Matthieu Ricard là vị tu sĩ được các nhà nghiên cứu mệnh danh là “Người hạnh phúc nhất thế giới”. Sở dĩ họ gọi ông như vậy vì sau khi gắn 256 cảm biến lên não của tu sĩ Matthieu Ricard trong khi ông ngồi thiền, các nhà nghiên cứu nhận thấy não bộ của ông phát ra mức sóng gamma cao chưa từng thấy trong ngành khoa học Thần kinh mà họ từng biết. Đây là loại sóng có liên quan tới sự tỉnh táo, tập trung, học tập cũng như trí nhớ. Sau khi gắn 256 cảm biến lên não của tu sĩ Matthieu Ricard trong khi ông ngồi thiền, các nhà nghiên cứu nhận thấy não bộ của ông phát ra mức sóng gamma cao chưa từng thấy trong ngành khoa học Thần kinh mà họ từng biết. (Ảnh: Wikipedia) Ngoài ra việc quét MRI (cộng hưởng từ) cũng cho thấy não bộ của vị tu sĩ này có những cảm xúc tích cực cực kỳ cao và những cảm xúc tiêu cực không đáng kể. Các máy nội soi não bộ cho thấy rằng việc thiền định đã làm thay đổi chất xám của não, củng cố các khu vực tập trung trí óc, và nuôi dưỡng lòng thiện lương, vị tha trong khi làm trầm tĩnh những vùng có liên hệ với sự sợ hãi hay tức giận. “Thiền định giúp bạn có sức mạnh và sự tự tin nội tâm, và nếu bạn không cảm thấy vững vàng, bạn sẽ sẵn sàng hy sinh hơn”, tu sĩ Matthieu Ricard chia sẻ. “Đó là một hiệu ứng tự nhiên. Bạn cởi mở và tử tế với những người khác, và ngay cả không chú tâm, bạn sẽ thấy mình hạnh phúc”. Nói cách khác, vị tu sĩ coi lòng vị tha là liều thuốc thần cho những người không cảm thấy hạnh phúc. Tu sĩ Matthieu Ricard nói sự vị kỷ là gốc rễ của nhiều vấn đề xã hội: ”Bằng cách nuôi dưỡng lòng vị tha, chúng ta có thể cải thiện cuộc sống của mình, trung hòa với con người và môi trường mình đang sống”. Trong một nền văn hóa đề cao cá nhân và sự cạnh tranh thì người ta coi chủ nghĩa vị tha là điều không tưởng. Nhưng Matthieu Ricard lập luận rằng khả năng quan tâm tới người khác rất có thể chính là điều giúp nhân loại vẫn đang tồn tại và phát triển. Những người không có bệnh có cần thiền định không? Qua những nghiên cứu khoa học với các nhà tu hành - những người thiền định suốt đời, các chuyên gia nhận thấy rằng thiền định giúp nâng cao khả năng nhận thức. Nếu bạn là người hay suy nghĩ, lo âu và phiền muộn thì thiền định có thể giúp bạn có một tâm trí an hòa và thân thể khỏe mạnh. Các cuộc thử nghiệm khoa học cho thấy, nếu bạn thiền định chừng một tiếng đồng hồ trong vòng 8 tuần, bạn sẽ có một hệ thống miễn dịch mạnh và “sở hữu” một bộ não phát sinh nhiều ý niệm tốt. 5.000 năm trước, Hiên Viên Hoàng Đế có hỏi Quảng Thành Tử làm thế nào có thể trường sinh. Quảng Thành Tử nói: “Mắt không nhìn bên ngoài, tai không nghe bên ngoài, bảo trì sự an tĩnh của tinh thần, hình thể tự nhiên sẽ khang kiện. Thần thanh ý tĩnh, không lao lụy hình thể, không hao tổn chân tinh, có thể đạt đến trường sinh”. Thiền định hay còn gọi là tĩnh tọa dưỡng sinh là trí tuệ của người xưa. Thời đó, không chỉ đạo sĩ hòa thượng mới ngồi thiền, mà tĩnh tọa trở thành một điều thiết yếu trong cuộc sống thường ngày của hoàng đế, hoàng tử và quý tộc trong các triều đại cổ xưa. Văn hóa cổ truyền Đông phương chú trọng đến học thuyết rằng con người là một phần của tự nhiên, tâm và thân là tương hỗ với nhau. Ngoài thiền định, người Đông phương xem trọng việc nâng cao tâm tính, đạo đức và làm việc tốt. Khi tâm trí một người thuần khiết và tĩnh lặng, thân và tâm sẽ đạt lên đỉnh cao nhất, lúc ấy con người sẽ có một cơ thể khỏe mạnh. Xuân Trường
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 9:38:26 GMT 9
Các nhà khoa học "bất lực" trước chủng virus "bất trị" Corona và các bệnh nan y? Bình luận Minh Thanh Các nhà khoa học chỉ ra rằng, 90 – 95% nguyên nhân gây ra các bệnh nan y, đặc biệt là bệnh ung thư là do các yếu tố môi trường như ô nhiễm môi trường và thực phẩm độc hại, chỉ có 5 – 10% là do di truyền. Đối mặt với các căn bệnh nan y hay dịch bệnh COVID-19 đang hoành hành, với chúng ta - một liều vắc-xin, một toa thuốc hay một phác đồ điều trị hữu hiệu để “tận trị” các căn bệnh quái ác hiện vẫn còn đang ở phía trước... Cơ thể của bạn là một "cộng đồng" của hàng nghìn tỷ tế bào sống. Khi các tế bào của bạn khỏe mạnh thì dĩ nhiên cơ thể bạn sẽ khỏe mạnh, và ngược lại. Khi virus Corona xâm nhập tế bào: Hai lá phổi tan nátTrong bối cảnh dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng virus Corona có tên chính thức là COVID-19 (nCoV) đang lây lan khó kiểm soát, các nhà khoa học trên thế giới đang gấp rút tìm mọi cách chống lại nó. Thực ra, virus Corona không hề xa lạ với con người và là một trong những chủng virus cực kỳ “cứng đầu” và khó lường. Sở dĩ nó có tên là Corona vì qua kính hiển vi, virus này có các gai glycoprotein chĩa ra giống như chiếc vương miện (tiếng Latin Corona có nghĩa là Vương miện). Các nhà khoa học đã tìm ra được 7 chủng virus Corona có thể lây nhiễm sang người. Tất cả đều gây ra các bệnh liên quan tới hô hấp, trong đó 4 chủng chỉ gây các bệnh cảm lạnh thông thường, 3 chủng còn lại đã từng và đang gây ra dịch bệnh hô hấp nguy hiểm nhất ở người, đó chính là: SARS (2003), MERS (2012) và COVID-19 hiện nay. Sở dĩ nó có tên là Corona vì qua kính hiển vi, virus này có các gai glycoprotein chĩa ra giống như chiếc vương miện (tiếng Latin Corona có nghĩa là Vương miện). (Ảnh: Shutterstock) Corona là một dạng virus chứa trong lớp vỏ gai một đoạn mã di truyền gọi là Axit ribonucleic (RNA). Virus cần bám vào tế bào cụ thể (trong trường hợp này là tế bào hô hấp), giải phóng RNA để biến tế bào cơ thể người trở thành cỗ máy sản sinh thêm virus. Cuối cùng, virus Corona sau khi nhân bản xong được giải phóng khỏi tế bào và thường cũng phá hủy luôn tế bào. Theo Tiến sĩ, phó Giáo sư Matthew B.Frieman, một chuyên gia về Coronavirus của ĐH Maryland (Mỹ) cho biết, COVID-19 cũng tiến triển như SARS. Giai đoạn 1, virus tấn công dồn dập tế bào phổi, chủ yếu là lớp tế bào cilia bảo vệ tế bào niêm dịch. Mất đi lớp bảo vệ đó, đường hô hấp sẽ bị chất bẩn, dịch lỏng và virus tràn ngập. Đây cũng là lúc giai đoạn 2 bắt đầu. Trước sự xâm nhập của virus, cơ thể phản ứng bằng cách tăng cường tế bào miễn dịch đến phổi để khắc phục những tổn thương. Nếu hoạt động đúng, quá trình viêm này được kiểm soát và chỉ giới hạn ở bộ phận nhiễm virus. Nhưng đôi khi tế bào miễn dịch bị kích thích quá mức, chúng sẽ “triệt hạ” tất cả không phân biệt virus hay mô khỏe mạnh. Giai đoạn 3 là tổn thương phổi tiếp tục lan rộng và có thể dẫn đến suy hô hấp. Nếu bệnh nhân may mắn không chết, phổi của họ cũng bị tổn thương vĩnh viễn với những lỗ thủng nhìn như "tổ ong". Đó là đặc điểm của SARS và COVID-19 cũng tương tự như vậy. Giai đoạn 3 là tổn thương phổi tiếp tục lan rộng và có thể dẫn đến suy hô hấp. Nếu bệnh nhân may mắn không chết, phổi của họ cũng bị tổn thương vĩnh viễn với những lỗ thủng nhìn như "tổ ong". (Ảnh: Dân trí) → Cơ chế sản xuất thuốc kháng virus hiện nay là tìm ra các phân tử nhỏ ngăn virus nhân lên bên trong các tế bào của con người. Thuốc kháng virus đem theo các phân tử này can thiệp vào quá trình xâm nhập vào tế bào và nhân bản của virus. Nhưng điều chế thuốc kháng virus hiệu quả hết sức tốn kém và cần có thời gian. Số người tử vong thực tế do virus Corona chủng mới đã vượt xa đại dịch SARS (2003) và hiện các phòng thí nghiệm trên thế giới đang gấp rút tìm kiếm phương pháp điều trị và vắc-xin chống lại chủng virus mới này. Tuy nhiên "Phát triển được loại vắc-xin phòng ngừa hoặc chấm dứt một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng khó khăn hơn ta nghĩ. Việc này thường tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc”, ông Brad Loncar, một nhà đầu tư công nghệ sinh học và Giám đốc điều hành của Loncar Investments cho biết. Virus Corona biến thể cấp tốc khiến các nhà nghiên cứu xoay xở không kịp khi họ nhận ra rằng, vật liệu di truyền của virus là Axit ribonucleic (RNA). RNA tồn tại trong một chuỗi, không giống như DNA là chuỗi kép. Chỉ có một chuỗi duy nhất giúp RNA dễ dàng chia tách và phối lại vì chỉ cần một kết nối bị phá vỡ. Điều này có nghĩa là virus có thể đột biến nhanh chóng, khiến cho bất kỳ phương pháp điều trị hoặc vắc-xin nào ra đời sẽ sớm bị lỗi thời. Ngay cả khi bạn không xem xét tỉ lệ đột biến của virus, việc phát triển vắc-xin nói chung mất khá nhiều thời gian, có khi kéo dài nhiều năm. Khung thời gian ngắn nhất để phát triển vắc-xin cũng phải mất khoảng 1 năm, bởi vắc-xin sẽ phải trải qua 6 giai đoạn, trong đó 3 giai đoạn là thử nghiệm lâm sàng (theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC). Có điều, vào thời điểm tìm ra loại vắc-xin và được đánh giá là an toàn để sử dụng thì có thể đúng lúc ấy dịch bệnh lại kết thúc hoặc được kiểm soát dần dần trước khi vắc-xin được tạo ra. Chính vì vậy sẽ dẫn đến việc nghiên cứu vắc-xin có thể bị đình trệ, giống như vắc-xin SARS cho đến nay vẫn chưa được cấp phép. Có điều, vào thời điểm tìm ra loại vắc-xin và được đánh giá là an toàn để sử dụng thì có thể đúng lúc ấy dịch bệnh lại kết thúc hoặc được kiểm soát dần dần trước khi vắc-xin được tạo ra. (Ảnh: Shutterstock) Có một nguyên lý là, vắc-xin là chế phẩm sinh học có tính kháng nguyên. Khi vắc-xin được đưa vào cơ thể, hệ miễn dịch sẽ nhận diện vắc-xin là một vật thể lạ nên ghi nhớ chúng. Khi một tác nhân gây bệnh thực thụ xâm nhập, hệ miễn dịch sẽ nhận diện và tạo kháng thể để chống lại tác nhân đó. Vì vậy, vắc-xin chỉ có hiệu nghiệm trước khi cơ thể bị lây nhiễm. Trong khi đó, có rất ít phương pháp điều trị bằng thuốc kháng virus có sẵn. Hiện chuyên gia các nước đang nghiên cứu thử nghiệm ba phương thức điều trị bằng thuốc kháng virus hiện có trong điều trị HIV, MERS và Ebola để điều trị bệnh nhân nhiễm virus corona. WHO đang chuẩn bị thử nghiệm lâm sàng quốc tế để thẩm định hiệu quả điều trị của ba phương thức nêu trên. Trong khi chờ kết quả thử nghiệm, các bác sĩ ở Pháp đã sử dụng các loại thuốc nêu trên để điều trị khẩn cấp cho bệnh nhân nhiễm virus corona, đặc biệt tại bệnh viện Bichat ở Paris. Không có đủ tài chính để phát triển vắc-xin là một thực tế đáng lo ngại đang diễn ra. Hầu hết các trung tâm nghiên cứu y tế thường có rất ít động lực để nghiên cứu vắc-xin các bệnh do virus cúm vì nguồn lực có hạn so với ngân sách dồi dào của các hãng dược phẩm lớn. Tuy nhiên, các hãng dược lớn này thường dồn ngân sách để phát triển các loại thuốc mang lại lợi nhuận lớn, như thuốc giảm đau chẳng hạn. Lý do là nhiều hãng dược sau khi đầu tư nghiên cứu vắc-xin để cung cấp cho các cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng và ra được thương phẩm thì dịch bệnh lại kết thúc. Hầu hết các trung tâm nghiên cứu y tế thường có rất ít động lực để nghiên cứu vắc-xin các bệnh do virus cúm vì nguồn lực có hạn so với ngân sách dồi dào của các hãng dược phẩm lớn. (Ảnh: Shutterstock) Như vậy, các hãng dược sẽ phải gánh chịu khoản đầu tư khổng lồ bởi khi vắc-xin được cấp phép thì nhu cầu thị trường đã không cần nữa. Cụ thể là một số loại thuốc và vắc-xin phát triển nhanh chóng, thử nghiệm trong đợt dịch bệnh Hội chứng hô hấp cấp (SARS) năm 2003 đến nay vẫn chưa được cấp phép. Ngay cả khi việc phát triển vắc-xin được đẩy nhanh nghiên cứu trong một trận dịch, điều đó cũng chưa thể đảm bảo vắc-xin sẽ được sản xuất hàng loạt. Ví dụ, một nhóm các nhà nghiên cứu bắt tay với các công ty công nghệ để nghiên cứu và sản xuất vắc-xin cho virus corona qua đơn “đặt hàng” của cơ quan chính phủ. Họ cần phải có một khoản ngân sách đủ lớn để có thể sản xuất hàng loạt vắc-xin. Tuy nhiên khi dịch bệnh kết thúc trước khi vắc-xin được tạo ra, các chính phủ sẽ có khả năng dừng các khoản tiền dành cho việc đối phó với khủng hoảng. Đương nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc sản xuất vắc-xin quy mô lớn sẽ bị đình chỉ. Những nỗ lực tìm ra phương pháp chữa trị và vắc-xin cho COVID-19 vẫn là một chặng đường dài trước mắt. Những bệnh nhân đang phải chịu đựng giữa tâm dịch tại Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận bất kỳ rủi ro nào, vậy nên đã có những thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành ở người tại Vũ Hán , nhưng những loại thuốc này vẫn đang trong quá trình thử nghiệm. Hiện một số chuyên gia đang đề nghị tạo ra một quỹ toàn cầu để phát triển vắc-xin - vốn đang thiếu hụt nguồn tài trợ cho nghiên cứu vắc xin Ebola và giờ là virus Corona chủng mới. Hiện bệnh lao và sốt rét vẫn chưa có vắc-xin dù có nhiều tiền tài trợ. “Tổng hợp lại những điều này, có thể chúng ta sẽ không bao giờ có vắc-xin hay thuốc điều trị virus Corona chủng mới”, tiến sĩ Chia-Yi Hou, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm ở Mỹ cho biết. Thực tế hơn, chúng ta khó có thể có vắc-xin hoặc thuốc điều trị COVID-19 ngay lập tức được, và một thực tế nữa là khó có thể sản xuất vắc-xin trên quy mô lớn nếu không có các nhà hảo tâm. Như vậy, việc của chúng ta bây giờ vẫn là chờ đợi… “Tổng hợp lại những điều này, có thể chúng ta sẽ không bao giờ có vắc-xin hay thuốc điều trị virus Corona chủng mới”, tiến sĩ Chia-Yi Hou, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm ở Mỹ cho biết. (Ảnh: Shutterstock) Khi tế bào không phân tách đúng “lộ trình”: Ung thư xuất hiệnTheo Viện Ung thư Quốc gia (National Cancer Instituse), ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Ước tính có khoảng 9,6 triệu ca tử vong trong năm 2018. Số trường hợp ung thư mới mỗi năm dự kiến sẽ tăng lên 23,6 triệu người vào năm 2030. Theo WHO, Việt Nam nằm trong top 2 bản đồ ung thư thế giới (50 nước cao nhất đứng top 1). Theo số liệu của Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAL), mỗi năm Việt Nam có khoảng 130.000 ca mắc mới và 94.000 người chết vì ung thư. Như vậy, trung bình mỗi ngày có khoảng gần 300 người tử vong vì ung thư. Ung thư là bệnh ác tính của tế bào. Bình thường, các tế bào phát triển, phân chia và chết đi theo một chu trình định sẵn. Nhưng các tế bào ung thư không phân chia theo “lộ trình” định sẵn ấy. Chúng không hoạt động giống như các tế bào bình thường. Ví như chúng không biết khi nào nên ngừng phân chia và khi nào tế bào sẽ chết. Thay vì chết đi, tế bào ung thư vẫn tiếp tục phát triển đến mức vượt khỏi tầm kiểm soát, hình thành nên các tế bào bất thường. Tế bào thừa tạo nên thể khối (tức khối u) và xâm lấn các mô lân cận. Ngược lại với các tế bào bình thường không thể và không bao giờ dịch chuyển khỏi cơ quan của mình, các tế bào ung thư có thể tách ra, di chuyển qua các mạch máu hoặc hệ bạch huyết và bắt đầu phát triển ở một nơi khác trong cơ thể. Quá trình này được gọi là di căn. → Nếu triệt tiêu các khả năng đó của tế bào ung thư, chúng ta có thể điều trị được bệnh ung thư. Có nhiều cách điều trị ung thư khác nhau như phẫu thuật, hóa trị hay xạ trị. Phẫu thuật là một trong những phương pháp điều trị quan trọng nhất với đa số bệnh ung thư, nhưng nó cũng có thể xảy ra biến chứng đe dọa đến tính mạng bệnh nhân hoặc làm mất chức năng sinh lý một số bộ phận cơ thể. Nếu những tổn thương ác tính đã vượt qua giai đoạn khu trú thì vai trò của phẫu thuật không còn phù hợp. Khi ấy Xạ trị và Hóa trị là những phương pháp được sử dụng nhiều để tiêu diệt tế bào ung thư cũng như ngăn chặn sự di căn và tái phát lại khối u. Tuy vậy chúng cũng gây ra nhiều tác dụng phụ đối với người bệnh. Thay vì chết đi, tế bào ung thư vẫn tiếp tục phát triển đến mức vượt khỏi tầm kiểm soát, hình thành nên các tế bào bất thường. Tế bào thừa tạo nên thể khối (tức khối u) và xâm lấn các mô lân cận. (Ảnh: Shutterstock) Tuy nhiên cách đây hơn nửa thế kỷ, các nhà khoa học đã phát hiện ra một phương thức có thể “đối phó” với căn bệnh này: Cấy ghép tế bào gốc. Tế bào gốc là gì? Cơ thể con người có rất nhiều loại tế bào cần thiết cho sức khoẻ hằng ngày. Những tế bào này giúp cho cơ thể hoạt động bình thường. Chức năng đặc biệt của tế bào gốc là tạo ra toàn bộ những loại tế bào khác trong cơ thể. Tế bào gốc là “nhà cung cấp” của tế bào mới. Khi tế bào gốc phân chia, nó có thể làm ra thêm tế bào gốc mới, hoặc làm ra những loại tế bào khác. “Phương thuốc” hữu hiệu? Tế bào gốc có một khả năng vô song, đó là chúng có thể phát triển thành nhiều loại tế bào khác trong cơ thể. Về mặt lý thuyết, chúng có thể phân chia không hạn định để thay thế các tế bào khác, và đồng thời đảm bảo số lượng các loại tế bào trong cơ thể, miễn là con người hay con vật còn sống. Tế bào ung thư cũng được biết đến với nhiều đặc tính của tế bào chưa trưởng thành. Một phần trong quá trình biến đổi thành ung thư, chúng xuất hiện các cơ chế tự nhiên để ngăn cản sự phân chia bình thường của tế bào, và thay vào đó là sự tăng sinh nhanh chóng bất thường. Khi chúng ta bị thương hoặc bị bệnh, tế bào trong cơ thể của chúng ta cũng sẽ bị thương hoặc chết. Khi ấy tế bào gốc bắt đầu hoạt động. Công việc của tế bào gốc là có nhiệm vụ “sửa chữa” những tế bào bị thương và thay tế bào mới vào chỗ những tế bào chết. Đây là cách mà tế bào gốc giữ cơ thể khỏe mạnh. Tuy nhiên việc cấy ghép tế bào gốc là một việc mới và khó đối với trình độ khoa học của con người hiện nay. Cấy ghép tế bào gốc phải trải qua một quá trình tuyển chọn (tìm kiếm tế bào gốc phù hợp với cơ thể được ghép); quá trình biệt hoá thành tế bào chức năng trong phòng thí nghiệm; quá trình chống đào thải (chống lại việc bị các tế bào bạch huyết tấn công tiêu diệt)... Ngoài ra, nó còn phải đảm bảo một yêu cầu: Đó là nó phải kết hợp một cách hoà hợp với các tế bào tự nhiên trong bộ phận cơ thể được cấy ghép. Với quá nhiều yếu tố phức tạp như vậy, việc ứng dụng tế bào gốc trong điều trị các chứng bệnh vẫn mới chỉ ở bước khởi đầu. Chờ đợi...Dù nền y học của nhân loại đã vô cùng phát triển, nhưng nhiều năm qua chúng ta vẫn đầu hàng trước căn bệnh nan y - Ung thư - một khi nó phát tác dưới dạng di căn. Cũng vậy, dù chúng ta đã phát minh ra thuốc kháng sinh và các loại vắc-xin để phòng ngừa, điều trị nhiều chứng bệnh do vi khuẩn, virus gây nên, chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều dịch bệnh truyền nhiễm đáng sợ, đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người như dịch cúm châu Á (1957), HIV (1990), SARS (2003), MERS (2012), Ebola (2013), Zika (2015)... Để chống lại tác hại của những vi khuẩn kháng thuốc, chúng ta tiếp tục phát triển những loại thuốc kháng sinh mới. Điều này lại dẫn đến khả năng vi khuẩn biến thể lại trở nên nhờn thuốc đối với một số loại thuốc kháng sinh mới. Kết quả là cuộc chiến giữa con người và vi khuẩn lại tiếp tục diễn ra và có thể là không có hồi kết. Cũng vậy, trong ba tháng qua, chúng ta một lần nữa lại phải đối mặt với một dịch bệnh khủng khiếp khác mang tên COVID-19. Có điều trong khi chờ đợi các nhà khoa học tìm ra loại vắc-xin và thuốc đặc trị virus corona thì hiển nhiên chúng không hề chờ đợi chúng ta. Chủng virus mới này tiếp tục đột biến nhanh chóng.... Minh Thanh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 9:45:20 GMT 9
Phải chăng con người đang tự hủy diệt chính mình? Bình luận Xuân Trường Nhiều người đặt câu hỏi, điều gì đã khiến con người lao vào vòng xoáy hủy hoại mọi thứ xung quanh mình, bất chấp các vấn đề về môi trường, xã hội và nhân đạo. Trong lịch sử nhân loại, chưa khi nào tình trạng suy thoái đạo đức nhức nhối như hiện nay. Để đạt một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn, con người dùng các biện pháp gian xảo để lao vào cuộc cạnh tranh kiếm tiền bằng mọi giá, bất chấp phẩm giá con người… Vì kim tiền lợi nhuận, nhiều người đã bất chấp lương tri, đạo nghĩa và luật pháp để xả thải độc hại ra môi trường, sản xuất ra những hàng hóa, thực phẩm có nguy cơ gây mất an toàn, gây tác hại đến sức khỏe và ảnh hưởng xấu đến môi trường. Môi trường sống của Trái Đất trong vòng 100 năm trở lại đây đang bị hủy hoại nghiêm trọng... Môi trường bị “đầu độc” nghiêm trọngThủy ngân - đặc biệt là methylmercury - là một chất độc thần kinh ảnh hưởng đến sức khỏe con người thông qua tích lũy sinh học qua chuỗi thức ăn trong các hệ thống thủy sản. Chúng độc hại và “sống” bền bỉ rất lâu trong môi trường. Mức thủy ngân cao trong cơ thể người sẽ dẫn đến bệnh Minamata, nhẹ thì bị á khẩu, tứ chi run rẩy, mất khả năng thính giác, nặng có thể bị tê liệt, hôn mê và tử vong sau vài tuần phát bệnh. Đầu thế kỷ 20, tập đoàn Chisso của Nhật Bản đã mở nhà máy hóa chất ở Minatama và xả thẳng nước thải chứa thủy ngân không qua xử lý ra vùng biển Nhật Bản, khiến nhiều loài động thực vật sống dưới biển bị nhiễm độc nặng. Ngư dân tại vùng biển đó ăn phải thủy sản nhiễm độc đã mắc một căn bệnh lạ gọi là bệnh Minatama (đặt theo tên thành phố đó). Kể từ đó, đã có thêm nhiều vụ thải ra chất độc chết người này như công ty Hóa chất Cát Lâm (Trung Quốc) từ năm 1958-1982 đã xả ra hơn 113 tấn thủy ngân và gần 5,5 tấn methylmercury xuống sông Tùng Hoa, và người dân địa phương cũng bị mắc các triệu chứng của bệnh Minamata. Năm 1998, Tập đoàn Nhựa Formosa (Đài Loan) đã “ký gửi” khoảng 5.000 tấn chất thải (trong đó có thủy ngân) tới thị trấn nghỉ mát Sihanoukville (Campuchia). Điều tra cho thấy, nồng độ thủy ngân của khối chất thải vượt quá 20.000 lần giới hạn an toàn cho phép. Các chỉ số dioxin và PCB đều ở mức nguy hiểm. Việt Nam trong những năm gần đây đã trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á, tốc độ tăng trưởng hằng năm trên 5% nhờ vào xuất khẩu các mặt hàng giá rẻ cho thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đánh đổi bằng cái giá môi trường đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất Châu Á suốt nhiều năm qua, nhưng đánh đổi lại cho sự phát triển đó là tình trạng ô nhiễm trầm trọng diễn ra ở khắp các thành phố và các vùng ven biển... (Ảnh: Getty) Vụ cháy Công ty Cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông (2019) đã phát tán lượng lớn thủy ngân vào không khí, khiến người dân không thể sử dụng nước tại các bể chứa, thực phẩm, trái cây, gia cầm cũng như phải tiêu hủy các loại trái cây tự trồng trong bán kính từ đám cháy 500m… Năm 2016, Công ty gang thép Formosa (Hà Tĩnh) đã xả chất thải độc hại khiến hàng trăm cây số dọc bờ biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên - Huế bị ô nhiễm nặng nề. Cùng với hàng loạt nhà máy điện than mới xây, các công trình xây dựng mọc lên như nấm, những phát thải giao thông, phân bón hóa học, đốt phế phẩm nông thôn…, đã khiến khí thải nhà kính tăng vọt, kéo theo chỉ số ô nhiễm không khí tăng cao hơn mức bình thường…, là tác nhân trực tiếp hủy hoại sức khỏe của con người. Hủy hoại sức khỏe con ngườiNhững vụ bê bối trong ngành công nghiệp thực phẩm xảy ra ngày càng thường xuyên trên thế giới, đặc biệt tại Trung Quốc khiến quốc gia này được coi là nơi phát sinh nhiều căn bệnh lạ. Vụ bột sữa nhiễm độc hóa chất Melamine ở Trung Quốc (2008) đã gây rúng động thế giới không chỉ vì con số thống kê 6 trẻ tử vong, 300.000 trẻ bị sỏi thận, suy thận, suy dinh dưỡng..., mà còn khiến người dân của rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng bị ảnh hưởng bởi nhập khẩu các sản phẩm chứa sữa nhiễm bẩn từ Trung Quốc. Bê bối sữa nhiễm melamine ở Trung Quốc đã khiến hơn 53.000 trẻ em phải nhập viện. (Ảnh: Getty) Tháng 3/2011, hàng trăm người Trung Quốc đổ bệnh do tiêu thụ thịt lợn bị nhiễm clenbuterol, một hóa chất khiến lợn phát triển nhanh hơn đã gây ra những cơn run rẩy, buồn nôn và đau đầu ở người. Do gây nguy hiểm đến sức khỏe, clenbuterol đã bị cấm vào năm 2002, nhưng một số người chăn nuôi lợn tại Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng trái phép để kiếm lợi. Năm 2013, chính quyền Trung Quốc đã bắt giữ 900 nghi phạm đang phân phối 20 tấn các sản phẩm thịt giả thịt bò và thịt cừu (được chế từ thịt cáo, chồn, chuột và các động vật có vú nhỏ khác) tới các chợ nông sản ở tỉnh Giang Tô và Thượng Hải. Năm 2015, tại Quảng Tây, hải quan Trung Quốc đã phát hiện khoảng 800 tấn thịt đông lạnh không rõ nguồn gốc, trong đó có một lượng lớn thịt đã có niên hạn hơn 40 năm. Số thịt trên trong tình trạng bị thối rữa và bị thu giữ khi đang trên đường vận chuyển tới các nhà hàng, quán ăn tại tỉnh Hồ Nam và các siêu thị khắp nước. Các quan chức Trung Quốc đã không giải thích rõ về nguồn gốc của thịt cũng như cách lưu trữ thịt trong 4 thập kỷ qua. Leung Ka-sing, Giáo sư Sinh học tại ĐH Bách khoa Hồng Kông cho biết trên tờ South China Morning Post rằng, số thịt này có thể đã được bảo quản bởi một lượng lớn hóa chất để ngăn ngừa thối rữa và có thể chứa vi khuẩn nguy hiểm gây hại cho con người. Công nghệ chế biến dầu ăn bẩn lần đầu tiên được phanh phui tại Trung Quốc vào năm 2000 khiến cả châu Á choáng váng, khi một quán ăn đường phố tại đất nước này bị phát hiện sử dụng dầu ăn bẩn. Dầu bẩn này được chiết xuất từ thức ăn thừa hoặc rác thải, từ váng dầu cống rãnh, rác thải nhà bếp, và thậm chí từ xác động vật nhiễm bệnh. Vụ phát hiện dầu ăn "siêu bẩn" ở Trung Quốc đã gây chấn động khi có thông tin loại dầu nhiễm bẩn này đã được “tuồn” sang 12 quốc gia trong đó có Việt Nam. Hiểm họa bởi những căn bệnh thế kỷCâu chuyện về thực phẩm bẩn tại Việt Nam đã tồn tại nhiều năm qua, xuất phát từ chuỗi cung ứng trong nông nghiệp đến chăn nuôi, từ các cơ sở chế biến nhỏ lẻ cho tới các xưởng sản xuất lớn. Vấn nạn về vi phạm an toàn thực phẩm mỗi ngày một tăng cao, tình trạng thực phẩm bẩn gây ngộ độc đã trở nên nhức nhối chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. Nó không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của con người mà còn tiềm ẩn những nguy cơ rình rập lây lan các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm như bệnh bò điên, bệnh lở mồm long móng ở lợn, bệnh nhiễm khuẩn, bệnh do virus, ký sinh trùng... Thực phẩm giả như gạo giả, trứng giả, nước mắm giả… cùng các thực phẩm bẩn sử dụng các loại hóa chất độc hại có nguồn gốc từ Trung Quốc có thể gây nên các bệnh mãn tính không lây như ung thư, đái tháo đường, bệnh tim mạch… Những vụ ngộ độc thực phẩm trên thế giới cùng thực trạng ô nhiễm môi trường, thực phẩm bẩn tràn lan tại Việt Nam đều xuất phát từ chính sự suy đồi trong đạo đức kinh doanh, làm giàu bằng mọi giá của con người. Không có gì cường điệu khi nói rằng con người đang tự hủy hoại chính mình trong một vòng xoay luẩn quẩn: Kiếm tiền ---> Hưởng thụ ----> Bệnh tật ---> Chi tiền chữa bệnh. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), những triệu chứng ban đầu do nhiễm độc thực phẩm bẩn chỉ là nôn mửa hoặc tiêu chảy tưởng như có vẻ vô hại, nhưng hằng năm lại khiến 600 triệu người mắc bệnh và 420.000 ca tử vong trên toàn thế giới, trong đó có 125.000 trẻ em. Về lâu dài, các chất hóa học, thuốc trừ sâu, chất tăng trọng,… trong thực phẩm bẩn sẽ từ từ ngấm vào tế bào, cơ thể sau đó tích tụ lại, gây các bệnh mãn tính và có khả năng bùng phát bất cứ lúc nào. Sử dụng thực phẩm bẩn, độc hại đã mang lại những hiểm họa khôn lường cho sức khỏe của con người, với những căn bệnh thường gặp như tổn thương gan, suy thận, thoái hóa hệ thần kinh trung ương, sa sút trí tuệ, bệnh Parkinson, mất ngủ, lo âu, suy giảm trí nhớ... và đặc biệt là bệnh Ung thư. Vấn nạn về vi phạm an toàn thực phẩm mỗi ngày một tăng cao, tình trạng thực phẩm bẩn gây ngộ độc đã trở nên nhức nhối chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. (Ảnh: Dân trí) Kháng thể kháng sinh - mối đe dọa sức khỏe toàn cầuRối loạn môi trường do hậu quả của việc tàn phá thiên nhiên, cùng với việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa chất độc hại tràn lan… dẫn đến khả năng tái phát của các VIRUS biến thể truyền nhiễm đã từng được kiểm soát trong quá khứ. Với virus biến thể nhanh hơn bao giờ hết và hệ vi khuẩn ngày càng kháng thuốc kháng sinh, hiện nay các chuyên gia y tế thế giới tin rằng nguy cơ đại dịch toàn cầu lớn hơn bao giờ hết. Ngày nay, trên toàn thế giới, sự gia tăng rõ rệt của nhiều bệnh truyền nhiễm đã được ghi nhận, trong đó có HIV/AIDS, Hanta virus, Viêm gan C, SARC, Ebola… Hơn 60% các chủng virus này bắt nguồn từ động vật hoang dã. Có điều, hầu hết các chủng virus này đều chung sống “yên ổn” với động vật hoang dã, nhưng chính nạn chặt phá rừng, đô thị hóa và hệ lụy của công nghệ khoa học là “cầu nối” cho virus tiếp cận với con người, thích ứng với cơ thể con người và trở thành những virus nguy hiểm. Virus Ebola là một ví dụ. Năm 2017, các nhà khoa học đã tìm thấy chủng virus này ở các loài dơi tại Trung Phi và Tây Phi, nơi nạn phá rừng diễn ra khá nghiêm trọng. Mất nơi trú ẩn, các loài dơi đã phải bay đến các vườn cây của nhà dân, chúng ăn trái cây và lây bệnh cho người. Chính con người đã làm xáo trộn thiên nhiên và cuộc sống của loài vật là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các bệnh truyền nhiễm. Kháng kháng sinh (AMR) đã nổi lên như một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng chính của thế kỷ 21 đe dọa việc phòng ngừa và điều trị hiệu quả một loạt các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, ký sinh trùng, virus và nấm không còn nhạy cảm với các loại thuốc thông thường được sử dụng để điều trị chúng. Hệ quả này đang đe dọa đẩy con người trở lại thời kỳ mà chúng ta không thể dễ dàng điều trị các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao, lậu… Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã yêu cầu các bệnh viện dành nhiều nỗ lực hơn nữa trong cuộc chiến chống lại “siêu vi khuẩn”, một loại vi khuẩn có sức chống cự lại thuốc kháng sinh. Bởi vì loại siêu vi khuẩn này đang gây tác hại ngày càng nghiêm trọng cho sức khỏe con người. Một số lĩnh vực y học hiện đại đang phụ thuộc vào hiệu quả của thuốc kháng sinh để điều trị như ung thư, ghép tạng, phẫu thuật, chăm sóc đặc biệt cho trẻ sinh non và nhiều hoạt động chăm sóc y tế khác… Trên thực tế, nhiễm trùng gây ra bởi các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở người bệnh. CDC ước tính rằng, tại Hoa Kỳ, hơn 2 triệu người mỗi năm bị ảnh hưởng bởi nhiễm trùng kháng kháng sinh, với ít nhất 23.000 người chết vì nhiễm trùng. Một trong số những nguyên nhân khiến vi khuẩn kháng thuốc là do vi khuẩn thường thay đổi hình dáng, và sự đột biến đó làm cho thuốc kháng sinh không còn tác dụng. Nhưng nguyên nhân chính dẫn đến việc vi khuẩn kháng thuốc phần nhiều là do ô nhiễm môi trường. Đất được coi là nơi chứa các gene kháng kháng sinh, vì hầu hết các loại kháng sinh có nguồn gốc từ các vi sinh vật trong đất có bản chất kháng với các loại thuốc kháng sinh được sản xuất. Ngoài ra, nguồn nước cũng có khả năng bị nhiễm vi sinh vật phân và phân hữu cơ được sử dụng tràn lan cho cây trồng cũng có thể phổ biến vi khuẩn kháng thuốc trong đất. Từ đó, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta đã liên tục làm thay đổi môi trường xung quanh và mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho chính chúng ta và rất nhiều giống loài khác. Xuân Trường
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 9:55:01 GMT 9
Chúng ta đang sống trong thời khắc vô cùng nguy hiểm? Bình luận Xuân Trường Chúng ta đã trải qua thế kỷ 20 đầy khốc liệt và bước vào thế kỷ 21 trong tâm thế “run rẩy” vì đã từng lo sợ hiệu ứng 2K. Chưa khi nào và chưa bao giờ nhân loại đang phải đối mặt với hiểm họa khôn lường như chính thời điểm hiện nay với dịch bệnh, cháy rừng, động đất, chiến tranh, khủng bố liên miên… Viện Quan sát Thế giới (World Watch Instituse) đã gọi thế kỷ 20 là Thế kỷ của Chết chóc, trong khi các nhà khoa học gọi thế kỷ 21 là thế kỷ của Đe dọa và Hiểm nguy. Những con số hãi hùngViện Quan sát Thế giới đã thống kê những con số chết chóc xảy ra chỉ trong vòng 100 năm trở lại đây, và chỉ tính riêng trong thế kỷ 20, số người thiệt mạng do thiên tai dịch họa lớn hơn rất nhiều các thế kỷ trước gộp lại: Ước tính số người chết trong thế kỷ 20 gồm nhiều nguyên nhân là 4,13 tỉ người. Số người tử vong do bệnh đậu mùa là 300 triệu người, bệnh cúm khoảng 100 triệu người, bệnh AIDS là 11,7 triệu người. Số người chết do chiến tranh, diệt chủng, bạo lực và nạn đói là 188 triệu người. Số người chết do hút thuốc lá là 90 triệu người. Số người chết do thiên tai là 3,5 triệu người. Số người chết do các vụ án mạng là 8,5 triệu người. ….. và còn nhiều nữa.Giáo sư Martin Rees tại ĐH Cambridge là nhà Thiên văn học nổi tiếng người Anh, đồng thời cũng là một trong số những nhà vũ trụ học hàng đầu thế giới đã phỏng đoán nền văn minh của chúng ta chỉ có 50% “cơ may sống sót” qua thế kỷ 21 trong cuốn sách của ông xuất bản vào năm 2003, có tựa đề “Our Final Hour” (Thời khắc cuối cùng của chúng ta). 15 năm sau, giáo sư Martin Rees vẫn tái khẳng định các mối đe dọa hiện sinh trong cuốn “On the Future: Prospects for Humanity” (Về tương lai: Triển vọng cho nhân loại) xuất bản năm 2018. Ông viết rằng: “Những lựa chọn của chúng ta đưa ra ngày hôm nay, và trong vài thập kỷ tới, có thể định đoạt sự sống trên Trái Đất”. Giáo sư Rees đã lo sợ về một tương lai gần mà sự phát triển công nghệ cao khiến cho một vài người cũng có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp trên quy mô toàn cầu. Đó có thể là công nghệ gene với khả năng biến đổi hệ gene của bất kỳ cá thể sống nào, là những mã độc bị “quăng” vào mạng máy tính khắp thế giới, hay các nhà nghiên cứu sinh học có thể “giải phóng” một loại virus chết người gây ra đại dịch toàn cầu, và cũng có thể một vài nhà vật lý học sẽ tạo ra một lỗ đen bằng cách ép các electron vào proton và vật chất bị nén tới mức tạo ra một vụ sụp đổ. Đó có thể là công nghệ gene với khả năng biến đổi hệ gene của bất kỳ cá thể sống nào, hay các nhà nghiên cứu sinh học có thể “giải phóng” một loại virus chết người gây ra đại dịch toàn cầu... Công nghệ gene với khả năng biến đổi hệ gene của bất kỳ cá thể sống nào, các nhà nghiên cứu sinh học có thể “giải phóng” một loại virus chết người gây ra đại dịch toàn cầu. (Ảnh: Getty) Trong cuộc trả lời phỏng vấn của Vox.com vào tháng 10/2018, khi phóng viên hỏi: “Điều gì làm ngài lo lắng nhất lúc này?”, Giáo sư Rees trả lời: “Trong ngắn hạn, tôi lo lắng về tác động của các cuộc tấn công mạng hay một số hình thức khủng bố sinh học, như việc một nhóm nhỏ hoặc thậm chí là một cá nhân cố tình phát tán một loại virus chết người. Chúng ta rất khó để tránh khỏi mối đe dọa này”. Các Kinh thánh và Tàng thư đều báo trước hiểm họaTrong các truyền thuyết của các dân tộc trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, người xưa đều tin rằng các vị thần sáng tạo nên Vũ trụ và Con người. Người Việt sinh ra từ bọc trăm trứng trong truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cổ thư Trung Hoa ghi chép về truyền thuyết Bàn Cổ - vị thần đầu tiên khai thiên lập địa, tạo dựng nên vũ trụ. Kinh Thánh của người phương Tây có ghi chép rằng, Thượng đế sinh ra con người từ hình ảnh bất diệt của Ngài. Người xưa đều biết tới ánh sáng là do Mặt Trời chiếu rọi, thấy nhật, nguyệt, tinh tú và muôn loài vạn vật trên thế gian mà biết có một Chúa Tể càn khôn. Phật gia giảng “Trên đầu ba thước có Thần linh” nên người xưa có một niềm tin mạnh mẽ vào Thần, làm bất cứ chuyện gì đều biết tự kiềm chế cái tâm của mình, không làm điều gian ác, dối trá, thị phi, biết giữ gìn lối sống thanh khiết và bảo trì phẩm đức. Bởi người xưa tin Thần, nên họ tôn kính Thần, tôn trọng vạn sự vạn vật. Trong nội tâm của người xưa đều có cùng nhận thức được việc kính Thiên hành Đạo. Vạn sự vạn vật đều có chu kỳ sinh thành và hủy diệt. Đời sống con người cũng có chu kỳ Sinh - Lão - Bệnh - Tử, và vũ trụ cũng có chu kỳ Thành - Trụ - Hoại - Diệt. Khi mọi thứ trở nên hư nát chính là bước vào chu kỳ hủy diệt. Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà nhân loại đặt niềm tin trọn vẹn vào khoa học, vào đời sống vật chất do con người sáng tạo và làm ra. Từ đó con người sống theo lối sống thực dụng, tham lam vô độ, muốn chi phối, cải tạo cả thiên nhiên, và thực trạng ngày nay cho thấy sự tha hóa đang bao trùm khắp nơi trên thế giới, cho thấy nhân loại mất niềm tin vào Thần. Chúng ta đã đi tới giáp ranh của sự nguy hiểm mà khá nhiều kinh thư và các nhà tiên tri nổi tiếng từng tiên đoán, thậm chí các nhà khoa học hiện nay cũng dự đoán về thảm kịch kết thúc sự sống của nhân loại trên Trái đất. Các nhà khoa học Mỹ đã đưa ra lời cảnh báo về cuộc Đại Tuyệt chủng lần thứ 6 của Trái Đất đã thực sự bắt đầu, và phỏng đoán lần này còn khủng khiếp hơn 5 cuộc Đại Tuyệt chủng trong lịch sử Trái Đất trước đó. Daniel Rothman, Giáo sư Địa Vật lý thuộc Bộ Khoa học Trái Đất, Khí quyển và Hành tinh, đồng Giám đốc Trung tâm Lorenz của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), đã phân tích những thay đổi đáng kể về chu kỳ carbon trong 540 triệu năm qua, bao gồm 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt gần nhất. Ông đã xác định "ngưỡng của thảm họa" trong chu kỳ carbon nếu vượt quá mức sẽ dẫn đến môi trường Trái Đất rối loạn và tiến tới sự hủy diệt hàng loạt. Giáo sư Daniel Rothman đã tiên đoán rằng sự kiện tuyệt chủng hàng loạt của Trái Đất có thể bắt đầu vào năm 2100, dựa trên một phân tích về 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt cuối cùng. Ông phát hiện ra rằng, “mỗi sự kiện Đại Hủy diệt đều có lượng carbon toàn cầu tăng cao. Điều đó dẫn đến một hệ sinh thái không ổn định”. Trong Mathew 24, Thiên Chúa đã để lại những lời sấm truyền vào một thời điểm khi nhân loại phải chứng kiến “hoạn nạn lớn” thật đáng sợ. Đó sẽ không phải là một biến cố khí hậu đơn lẻ, hay thảm họa động đất riêng thôi, mà là một chuỗi các sự kiện kinh hoàng, tất cả đều là hệ quả không thể tránh khỏi đối với nhân loại đang sống trong thời đại này. Đó sẽ không phải là một biến cố khí hậu đơn lẻ, hay thảm họa động đất riêng thôi, mà là một chuỗi các sự kiện kinh hoàng. Ảnh chụp một chiếc ô tô mắc kẹt trên con đường bị hư hại do trận động đất ở quận Sapporo, Hokkaido vào ngày 06/09/2018. (Ảnh: Getty) Matthew 24 chép rằng: “Bấy giờ khi Ngài ngồi trên Núi Ô-liu, các môn đệ đến hỏi Ngài rằng: “Hãy cho chúng con biết, khi nào những điều này xảy ra? Và những dấu hiệu gì báo trước Ngài đến, và kỳ tận thế?” Chúa Giêsu đáp rằng: “...Quốc gia này sẽ nổi dậy chống lại quốc gia kia, vương quốc nọ chống lại vương quốc kia và sẽ có NẠN ĐÓI, DỊCH BỆNH và ĐỘNG ĐẤT xảy ra tại nhiều nơi. Tất cả những điều này chỉ là khởi đầu của sự đau khổ”...” 2.500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dự ngôn sau khi Ngài ly thế trong “Phật thuyết pháp diệt tận kinh” : “.... Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ được được một hoặc hai người.” “...Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên nhưng con người không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn”. Sự hủy diệt phải chăng được báo trước?Có khi nào bạn tự hỏi: Một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp hiểm nguy và chúng ta bất lực trong vô vọng không thể làm gì để trốn thoát. Chưa bao giờ nhân loại lại phải chứng kiến thế giới của chúng ta lại mong manh “dễ vỡ” đến vậy. Có quá nhiều thảm họa như chiến tranh, động đất, lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, dịch bệnh và bạo lực xảy ra trong thời đại này của chúng ta. Từ thuở hồng hoang, con người đã sinh tồn và trải qua nhiều cuộc chiến tranh sơ khai với vũ khí là đá hộc, gậy gộc, cung tên… Cho đến thế kỷ 19, với sự xuất hiện của khí giới tự động như súng trường và đại bác, nhưng chưa bao giờ nhân loại phải đối mặt với sự hủy diệt sự sống khủng khiếp đến như vậy trong thế kỷ 20, khi bom nguyên tử cùng hàng ngàn tấn vũ khí hóa học và sinh học xuất hiện. Báo cáo của Viện Quan sát Thế giới cho biết kể từ năm 1914, có hơn 100 triệu người mất mạng do chiến tranh. Trong vòng 100 năm, từ năm 1900 đến năm 2000, số nạn nhân chết vì chiến tranh gấp ba lần số nạn nhân chết trong 1.900 năm trước đó. Trong vòng 100 năm, từ năm 1900 đến năm 2000, số nạn nhân chết vì chiến tranh gấp ba lần số nạn nhân chết trong 1.900 năm trước đó. (Ảnh: Getty) Chiến tranh hạt nhân: Đáng buồn thay, một trong những cách “hữu hiệu” nhất khiến loài người có thể bị xóa sổ lại do chính chúng ta gây ra. Nếu thế giới bùng nổ một cuộc chiến tranh hạt nhân khổng lồ, không chỉ rất nhiều người tử vong vì sức nổ và bức xạ tạo ra, mà vũ khí hủy diệt này có thể kích hoạt một "mùa đông” hạt nhân lạnh giá, kết liễu nốt những người còn sống sót. Bụi, mảnh vụn và khói từ vụ nổ hạt nhân sẽ “chiếm hữu” bầu khí quyển Trái Đất, “phong tỏa” ánh sáng Mặt Trời trong nhiều tháng thậm chí nhiều năm. Và khi ấy, Trái Đất trở nên lạnh lẽo với mùa đông băng giá kéo dài, thảm thực vật bị đóng băng và cuộc sống con người dần bị hủy diệt. Động đất: Dù con người tự hào về sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ với các công cụ cảnh báo sớm động đất, nhưng chúng ta hoàn toàn bất lực trong việc khống chế các thảm họa đến từ thiên nhiên. Không những thế, tốc độ và mức độ thiên tai trong những năm gần đây càng có chiều hướng gia tăng. Tiến sĩ Harley Benz (Cục Đo đạc Địa chất Hoa Kỳ) cho biết bão tố, núi lửa hay những thiên tai thời tiết khác có thể đôi khi được phát hiện sớm trước vài ngày bởi các thiết bị định vị, vệ tinh…, nhưng việc dự đoán động đất lại vô cùng khó khăn. Tính từ đầu thế kỷ 20 tới nay, đã có khoảng hơn 2 triệu người bỏ mạng vì động đất. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, Động đất là thủ phạm chính của hơn 60% số người chết do thiên tai gây ra, kế tiếp là Bão (22%) và Khí hậu khắc nghiệt (11%). Vào cuối thế kỷ 20, Trung Quốc được xem là một trong những nơi xảy ra động đất khiến nhiều người chết nhất thế giới, trong đó trận động đất tại Đường Sơn (1976) gây thương vong lớn nhất thế kỷ 20 với 665.000 người thiệt mạng, xếp trên cả trận động đất ở Sumatra dẫn đến hiện tượng sóng thần dọc theo bờ biển Ấn Độ Dương (2004) làm 226.408 người thiệt mạng. Kể từ đó, có khá nhiều vụ động đất lớn liên tiếp xảy ra như động đất tại Kashmir (Pakistan, 2005), tại Tứ Xuyên (Trung Quốc, 2008), Haiti năm 2010, động đất kèm sóng thần tại Nhật Bản năm 2011... và gần đây nhất là trận động đất mạnh nhất thế giới trong năm 2019 với cường độ 7,5 độ richte ở Peru. Tàn phá thiên nhiên: Chỉ trong vòng 25 năm trở lại đây, con người đã tàn phá 1/10 vùng đất hoang sơ còn lại của Trái Đất và xu hướng này vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt tại hai vùng thiên nhiên lớn nhất thế giới là Alaska và Amazon. Tại Alaska, một diện tích rộng lớn đã bị bào mòn bởi các hoạt động của con người kể từ đầu thế kỷ 20. Việc con người khai thác quá mức các mỏ vàng và mỏ đồng tại những vùng hoang sơ của Alaska đã tàn phá môi trường nơi này ghê gớm, gây ra những hậu quả tiềm tàng tới đời sống của người Alaska bản địa và của các loài động vật hoang dã. Ước tính 55 con suối cùng hơn 5.300 mẫu đầm lầy, hồ, ao tại Alaska bị ô nhiễm nghiêm trọng. Những cánh rừng hoang sơ, nơi lọc bụi bặm hút khí CO2 và sản xuất khí O2 đang ngày càng bị thu hẹp. Rừng nguyên sinh Amazon - lá phổi của Trái Đất và là “tấm đệm” chống lại sự khắc nghiệt của thời tiết như lốc xoáy và bão - trong vòng 20 năm qua đã bị mất 763.000 km2 rừng (một diện tích gấp đôi diện tích nước Đức). Ngoài ra, ước tính 1,2 triệu km2 rừng bị suy thoái bởi nạn chặt phá rừng và đốt rừng. Kết quả dẫn đến lượng mưa rừng giảm hẳn và mùa khô kéo dài, đây là một trong những yếu tố gây ra cháy rừng và hạn hán nghiêm trọng... Rừng nguyên sinh Amazon trong vòng 20 năm qua đã bị mất 763.000 km2 rừng bởi nạn chặt phá rừng và đốt rừng. Kết quả dẫn đến lượng mưa rừng giảm hẳn và mùa khô kéo dài, đây là một trong những yếu tố gây ra cháy rừng và hạn hán nghiêm trọng... (Ảnh: Getty) Chỉ tính riêng 3 năm trở lại đây, Trái Đất phải hứng chịu 3 trận cháy rừng khủng khiếp. Vụ cháy rừng tại Australia bùng phát từ tháng 11/2019 đến đầu tháng 1/2020 đã thiêu rụi hơn 8 triệu ha đất và ước tính có khoảng 500 triệu động vật đã chết. Nếu so với đợt cháy rừng khủng khiếp hồi tháng 9/2019 tàn phá "lá phổi" Amazon (Brazil), số diện tích rừng bị cháy ở Australia rộng hơn gấp 7 lần, và gấp hơn 3 lần so với diện tích rừng bị thiêu trụi trong đợt cháy rừng năm 2018 ở bang California (Mỹ). Nguồn nước ô nhiễm: Con người chiếm tới 1/3 diện tích đất trên toàn thế giới và 75% nguồn nước ngọt để phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất nguyên liệu và may mặc quần áo. Trong vòng 20 năm trở lại đây, tốc độ đô thị hóa cũng tăng 100% đồng nghĩa với khoảng 100 triệu ha rừng bị chặt hạ. Phân hóa học, hóa chất ngấm vào đất, khiến 312.000 km2 diện tích đất bị trọc hóa.Khoảng 400 triệu tấn kim loại nặng đang hòa tan trong nước, chưa kể các hóa chất hữu cơ khác, được tạo ra bởi con người. Tại phía bắc bán cầu, tốc độ tan băng nhanh hơn chúng ta tưởng tượng. Từ năm 2005-2015, tổng lượng băng mất đi tại Bắc Cực là 447 tỉ tấn/năm, tương đương cứ mỗi giây lại có 14.000 tấn nước đổ ra biển. Lớp băng vĩnh cửu của Siberi hiện giờ đang là một quả bom nổ chậm. Khi nó giải phóng khí metan và carbon trong đó, thế giới sẽ bị hủy hoại. Tháng 2/2020, Nam Cực vừa trải qua những ngày nóng nhất lịch sử với nhiệt độ lên tới 18,3 độ C. Trong 50 năm qua, Nam Cực đã chứng kiến sự gia tăng nhiệt độ là 3,0 độ C và khoảng 87% các sông băng ở Bờ Tây đã ‘’bị thu hẹp’’. Trong vòng 30 năm trở lại đây, lượng băng bị mất hằng năm ở Nam Cực đã tăng gấp 6 lần. Theo Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (PNAS), sự tan chảy hàng loạt của khối băng ở Tây Nam Cực là nguyên nhân chủ yếu gây ra mực nước biển dâng cao trên Trái Đất, khoảng 129.000 đến 116.000 năm trước, thời kỳ này được gọi là ‘’Thời kỳ Gian băng Cuối cùng’’. Gian băng là một thời kỳ nhiệt độ trung bình của Trái Đất ấm hơn làm tan băng ở các vùng cực và xen kẽ với các thời kỳ băng hà trong một kỷ băng hà. Nạn đói: Trái Đất đang phải gồng mình vì những hậu quả từ sự gia tăng dân số quá nhanh, kết quả dẫn tới nguồn tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất dần cạn kiệt. Vào thời đại của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm, dân số thế giới khi ấy mới chỉ khoảng 300 triệu người, bằng dân số nước Mỹ ngày nay. Đến giữa thế kỷ 13, dân số toàn thế giới nhích lên 400 triệu người và chỉ đạt nửa tỷ người vào đầu thế kỷ 16. Đến đầu thế kỷ 19, dân số thế giới ngót nghét 1 tỷ người và đầu thế kỷ 20 (năm 1927) đạt con số 2 tỷ. Và cho tới 2019, trong vòng chưa tới 100 năm, dân số thế giới đã tăng lên tới 7,7 tỷ người và dự báo sẽ tăng thêm 2 tỷ người vào năm 2050 (theo UN). Sự bùng nổ dân số không chỉ dẫn tới sự chênh lệch về tiêu chuẩn sống của con người, mà còn gây ra sự ô nhiễm không khí, nước và đất đai trồng trọt ở mức độ toàn cầu. Hơn 1 tỷ người sống ở mức 1 đôla Mỹ mỗi ngày. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết có hàng triệu trẻ em tử vong mỗi năm, phần lớn vì không có đủ thức ăn. Dân số gia tăng cũng kéo theo những bất ổn trong xã hội như nạn bạo lực, tội ác và Dịch bệnh xuất hiện. Hơn 1 tỷ người sống ở mức 1 đôla Mỹ mỗi ngày. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết có hàng triệu trẻ em tử vong mỗi năm, phần lớn vì không có đủ thức ăn. (Ảnh: Getty) Dịch bệnh: Báo cáo của WHO cho biết có hàng triệu người chết mỗi năm vì các căn bệnh như lao, sốt rét và dịch tả. Các bệnh như dịch hạch, đậu mùa và cúm từng phát tác dịch bệnh giết chết hàng chục triệu người trong quá khứ giờ luôn chực chờ bùng phát trước tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tốc độ thương mại hóa toàn cầu cùng ngành du lịch phát triển như vũ bão. Ngày nay, thế giới kết nối với nhau bằng đường hàng không càng làm gia tăng mối lo ngại về một đại dịch mới có thể nhanh chóng lây lan khắp hành tinh và COVID-19 là một ví dụ. Khoa học phát triển khiến cuộc sống vật chất ngày càng được đề cao, dẫn tới những hệ lụy như hút chích ma túy, nạn mại dâm... cũng góp phần khiến nhiều bệnh dịch bùng nổ. Với virus biến thể nhanh hơn bao giờ hết và hệ vi khuẩn ngày càng kháng thuốc kháng sinh, hiện nay các chuyên gia y tế thế giới lo ngại nguy cơ đại dịch toàn cầu lớn hơn bao giờ hết. Ngay cả khi nền y học hiện đại vô cùng phát triển, thì nhiều dịch bệnh nguy hiểm vẫn lây lan và gây tử vong cho nhiều người. Dù nền y dược đã tìm ra cách chữa trị nhiều loại bệnh nhưng vẫn còn những căn bệnh chưa có thuốc chữa. Nhiều người đã tử vong vì những đại dịch khiến toàn thế giới phải khiếp sợ như dịch Ebola, SARS, HIV/AIDS, Cúm A … và hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với dịch COVID-19. Rối loạn môi trường do hậu quả của việc khí hậu nóng lên toàn cầu, cùng với nạn phá rừng, đắp đập ngăn sông, việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa chất độc hại tràn lan…, cộng với thiên tai đã tạo ra đói nghèo và bạo lực, dẫn đến khả năng tái phát của các VIRUS biến thể truyền nhiễm đã từng được kiểm soát trong quá khứ. Đây là những hệ quả do chính chúng ta tạo ra... Xuân Trường
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 10:06:29 GMT 9
Ẩn đố khoa học: Điều huyền diệu không thể tin được từ người tu luyện Bình luận Xuân Trường www.ntdvn.com/chuyen-de/ky-5-an-do-khoa-hoc-dieu-huyen-dieu-khong-the-tin-duoc-tu-nguoi-tu-luyen-19402.html Dưới ống kính viễn vọng tối tân của khoa học thực chứng, con người đã có thể quan sát được các tinh tú cách xa Trái Đất hàng triệu năm ánh sáng. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ có thể thực sự hiểu biết được những bí ẩn của vũ trụ. Cũng vậy, khoa học thực chứng chưa thể khám phá hết được cơ thể con người - một trong những sáng tạo kỳ diệu của Tạo hóa. Và cho đến nay, đan xen giữa cuộc sống xô bồ đề cao vật chất của chúng ta, vẫn tiềm ẩn một đời sống tâm linh vô cùng mãnh liệt, cùng vô số những bí ẩn đang chờ đợi được đánh thức... Vị đạo sĩ chữa bách bệnhTrong cuốn “Hành trình về Phương Đông”, Blair T.Spalding - giáo sư người Anh và là tác giả của cuốn sách đã kể một câu chuyện về Ram Gopal Mukundar, một vị đạo sĩ nổi tiếng có thể chữa trị mọi bệnh tật. Đạo viện của vị đạo sĩ nằm ở ngoại ô Rishikesh (Ấn Độ), nơi hằng ngày ông luôn dành riêng một khoảng thời gian để trị bệnh cho mọi người và chỉ dạy các đệ tử của ông phương pháp tu thân. Bệnh nhân đến với ông đủ mọi tầng lớp, từ các bậc thượng lưu quý phái đến những người bình dân, nghèo hèn. Họ mắc đủ thứ bệnh, hầu hết là nan y như ung thư, cùi hủi, tim mạch, phong thấp, tiểu đường…. Hàng ngàn người đã được chữa trị khỏi bệnh nhưng không phải ai cũng đều “chịu” theo phương pháp trị bệnh của ông. Nhiều người đã không qua được thử thách và rời khỏi đạo viện trở về nhà. Nhưng những người kiên trì ở lại, tất cả đều hết bệnh, tuyệt căn. Cách chẩn đoán bệnh của vị đạo sĩ rất khác biệt, ông chỉ nhìn diện mạo, nghe giọng nói, hơi thở của bệnh nhân mà có thể “bắt bệnh” cho từng người một cách chính xác. Trước sự ngạc nhiên của phái đoàn khoa học của Hoàng gia Anh, vị đạo sĩ cho biết: “Bệnh tật là kết quả của những gì trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khoẻ mạnh, họ mắc bệnh vì các thói quen, lối sống không hợp tự nhiên, rồi theo thời gian tiêm nhiễm vào cơ thể làm suy nhược”. “Bệnh tật là kết quả của những gì trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người mắc bệnh vì lối sống không hợp tự nhiên, theo thời gian cơ thể dần bị suy nhược”. (Ảnh: Shutterstock) Ông cũng chỉ ra nguyên nhân chính của bệnh là do con người lao tâm khổ tứ để đạt được các tiện nghi trong cuộc sống dẫn đến lo nghĩ, phiền não…: “Thêm vào lòng tham muốn chiếm đoạt, tranh đua để thỏa mãn dục vọng nhất thời, khiến cơ thể trở nên mất quân bình, phá hoại cơ quan thần kinh. Cơ quan này là đầu mối của mọi thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng ngày càng lệch lạc, sống nghịch với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có, nói một cách khác, họ mất đi chính mình”. Khi các nhà khoa học Anh thắc mắc rằng bệnh tật có nhiều nguyên nhân, trong đó có nhiều bệnh do vi trùng gây ra thì vị đạo sĩ trả lời: “Người sống theo thiên nhiên không thể có bệnh. Vi trùng thì chỗ nào chả có, nhưng đâu phải ai cũng mắc bệnh như nhau. Nếu vi trùng là nguyên nhân chính thì tại sao có kẻ mắc bệnh và có người lại không mắc bệnh? Ngay cả những lúc có bệnh thời khí khiến hàng trăm, hàng ngàn người lăn ra chết; nhưng vẫn có những kẻ sống sót đấy thôi. Tóm lại, thân thể khoẻ mạnh có thể chống mọi thứ bệnh”. Vậy phương pháp trị bệnh của đạo sĩ Ram Gopal Mukundar có gì bí mật? Thật bất ngờ, nó lại rất đơn giản: Người bệnh đến đạo viện chỉ được mang theo một bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Yếu tố này chính là trong quá trình điều trị, đòi hỏi bệnh nhân phải xả bỏ mọi công việc bên ngoài, không lo nghĩ phiền muộn. Yếu tố thứ hai là bệnh nhân tự chữa trị lấy cho mình. Yếu tố này đòi hỏi bệnh nhân phải làm chủ các cảm giác của mình để chữa bệnh. Như ăn chay nhằm tẩy uế các chất độc ra khỏi cơ thể và kiên trì Thiền định để lấy lại quân bình cho cơ quan thần kinh, trí não. Tại đạo viện, mỗi ngày mỗi người dành khoảng 1 giờ để tự trồng trọt, gặt hái thực phẩm. Chẳng sử dụng thuốc men hay viện đến các phương pháp cầu khấn, những người bệnh theo thời gian từ từ bệnh đều thuyên giảm. Có người nhanh thì vài tháng nửa năm đã khỏi, người chậm thì vài năm, nhưng quan trọng là họ đã tự chữa bệnh cho mình, và bệnh được chữa khỏi một cách triệt để nhất. Yếu tố thứ hai là bệnh nhân tự chữa trị lấy cho mình. Bệnh nhân tự chữa trị thông qua làm chủ các giác quan của bản thân như ăn chay nhằm tẩy uế các chất độc ra khỏi cơ thể và kiên trì Thiền định để lấy lại quân bình cho cơ quan thần kinh, trí não. (Ảnh: Shutterstock) Một lần nữa, các nhà khoa học phương Tây vô cùng kinh ngạc trước phương pháp chữa bệnh có vẻ quá “tầm thường” và hoang đường của vị đạo sĩ, nhưng lạ thay lại có thể chữa lành được tất cả các loại bệnh nan y. Một lần nữa, vị đạo sĩ lại tiết lộ: Cơ thể con người có khả năng hồi phục rất nhiệm mầu. Sở dĩ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn, vì họ sống không tự nhiên. Sống tự nhiên không những giúp thể xác khang kiện, mà còn mục đích tối hậu là dẹp bỏ cái “phàm ngã” trở về cái “chân ngã” của mình. Khi từ bỏ được bản ngã thấp hèn thì ta ung dung, tự tại, thảnh thơi, tiêu diêu cùng trời đất, thiên nhiên, thì còn lo lắng chi nữa? Trên lý thuyết thì thật dễ dàng nhưng thực hành lại là cả một vấn đề. Con người chìm đắm trong danh lợi, lo quanh, nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên tu tâm dưỡng tinh thần, vì thế thân thể suy nhược, tâm trí điên đảo, thần trí bất nhất, lại thêm tửu sắc quá độ, hỉ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường và bệnh tật do đấy mà sinh ra. Đạo sĩ Ram Gopal Mukundar có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là những người mắc bệnh nan y, đã bị các bệnh viện từ chối trả về. Nhưng họ vẫn sống khỏe mạnh nhiều năm tại đạo viện và có cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện mỗi ngày. Sau này, tất cả họ đều trở thành các bậc tu hành. Sự kiện gây chấn động giới khoa họcĐầu thế kỷ 20, khi cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai bùng nổ với sự ra đời của các phát minh vĩ đại như kính viễn vọng, điện, điện tín, điện thoại, động cơ, máy móc…, ngành khoa học thực chứng đã chiếm thế thượng phong mà không hề có “đối thủ”. Nước Anh - với vị thế dẫn đầu trong hai cuộc cách mạng công nghiệp tiên phong - đã trở thành một đế chế thống trị toàn cầu, và là quốc gia đầy kiêu hãnh khi “sở hữu” nhiều nhà khoa học danh giá nhất thế giới. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự việc thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh - vị quốc vương đầu tiên của đế quốc Sikh tại vùng Ngũ Hà (Punjab - nay thuộc biên giới Ấn Độ-Pakistan) dẫn đầu sang thăm nước Anh. Nhằm muốn giới thiệu sự huyền thuật trong đời sống tâm linh của xứ Ấn với thế giới phương Tây, tiểu vương Ranjit Singh đã mời các đạo sĩ - những người có khả năng siêu phàm đi cùng ông trong chuyến công du ấy. Trong buổi viếng thăm ĐH Oxford, trước bao con mắt chứng kiến của các giáo sư, tiến sĩ, một vị đạo sĩ đã uống tất cả các loại hóa chất, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không bị hề hấn gì. Thậm chí vị đạo sĩ còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới hồ nước và tất nhiên chẳng có hậu quả gì. Kinh ngạc hơn, vị đạo sĩ này còn yêu cầu được chui vào một quan tài đóng kín rồi chôn xuống đất trong vòng 48 ngày để chứng minh năng lực siêu phàm của mình. Tiểu vương Ranjit Singh đang lắng nghe các Đạo sĩ đọc kinh gần Akal Takht và Đền Vàng, Amritsar, Punjab, Ấn Độ. (Ảnh: Wikipedia) Tất nhiên, bằng các luận cứ khoa học rằng một người bình thường không thể thiếu dưỡng khí trong vài phút, người Anh đã cực lực phản đối và cho rằng đó chỉ là những trò bịp bợm. Tuy nhiên, Tiểu vương Rajit Singh đã nói với các giáo sư tại ĐH Oxford rằng, ông chỉ muốn giới thiệu đến người phương Tây chút văn hóa huyền bí của phương Đông, và không sử dụng bất cứ ma thuật nào thì lúc ấy Viện trưởng Ðại học Oxford mới xiêu lòng, đồng ý cho thử nghiệm. Trường ĐH Oxford đã cử một nhóm các y bác sĩ, đứng đầu là bác sĩ Sir Claude Wade kiểm tra thể chất của vị đạo sĩ trước khi ông này chui vào cỗ áo quan tài và nắp quan tài được đậy lại cẩn thận có dấu niêm phong. Họ cũng ghi chú giờ hạ huyệt chôn vị đạo sĩ và cẩn mật canh chừng suốt ngày đêm. 48 ngày sau, điều kỳ diệu đã xảy ra. Trước sự kinh ngạc của bác sĩ Sir Claude Wade cùng nhiều các nhà khoa học trong Ủy ban khoa học của trường ĐH Oxford, vị đạo sĩ từ từ ngồi dậy và vẫn khỏe mạnh như thường. Sự kiện này đã gây ra một cơn chấn động khắp nước Anh khiến Hội Khoa học Hoàng gia Anh phải triệu tập ngay một ủy ban để điều tra những hiện tượng kỳ lạ này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi đã được cử sang Ấn Độ để tìm hiểu những sự kiện huyền bí đó. Dựa trên tinh thần khoa học tuyệt đối, mỗi khoa học gia sang Ấn Độ đều phải tự ghi chép chi tiết những điều mắt thấy tai nghe vào một cuốn sổ riêng, và sau đó các khoa học gia này phải cùng nhau kiểm chứng những chi tiết ấy cho đến khi nào tất cả trong số họ đều đồng ý thì sự kiện, chi tiết đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Hơn hai năm trời chu du xứ Ấn, các khoa học gia trở về quê hương mang theo những quan điểm, góc nhìn hoàn toàn đổi khác về thế giới tâm linh, về phương pháp dưỡng sinh, thiền định, về cõi giới vô hình, nhân sinh quan, vũ trụ và các bậc tu hành... khi giáo sư Blair T.Spalding, người đứng đầu phái đoàn khoa học Hoàng gia Anh viết: “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người phương Tây phải quay trở về phương Đông để trở về với quê hương Tinh thần”. “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người phương Tây phải quay trở về phương Đông để trở về với quê hương Tinh thần”. (Ảnh: Zhengjian.org) Đáng tiếc, sự trở về của phái đoàn khoa học đã gặp phải những chống đối mạnh mẽ từ dư luận nước Anh: Họ bị buộc phải từ chức và không được công bố những điều huyền bí mắt thấy tai nghe tại Ấn Độ. Bởi hầu hết người Anh khi ấy đang kiêu hãnh với nền văn minh khoa học chứng thực của phương Tây, đã nhìn Ấn Độ như một thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu chứ không thấy được những giá trị văn minh tinh thần tuyệt vời, các chân lý cao đẹp, đạo lý thâm sâu được ẩn giấu dưới ánh nắng thiêu đốt khắc nghiệt của miền nhiệt đới…. Tu luyện là cách dưỡng sinh tốt nhấtVăn hóa cổ truyền Đông phương chú trọng đến học thuyết rằng con người là một phần của tự nhiên, tâm và thân là tương hỗ với nhau. Người xưa chú trọng cách dưỡng sinh chủ động, tức là chăm sóc sức khỏe một cách nghiêm túc khi cơ thể vẫn đang khỏe mạnh. Họ cũng giảng dưỡng sinh không bằng dưỡng tính, chú trọng cải biến tâm tính theo hướng tích cực mới là mấu chốt. Ngoài thiền định, người Đông phương xem trọng việc nâng cao tâm tính, đạo đức và làm việc tốt. Khi tâm trí một người thuần khiết và tĩnh lặng, thân và tâm sẽ đạt lên đỉnh cao nhất. Từ khía cạnh sức khỏe con người, khi tinh thần trầm tĩnh và thanh thản, lúc đó nội tạng sẽ hoạt động tốt. Điều này đã vượt qua y học hiện đại và đạt đến một tầng cấp mới, đó là Tu luyện. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng thực rằng năng lượng người tu luyện phát xuất ra cao gấp hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần năng lượng người bình thường. Năm 1998, Lu Yanfang và hàng chục nhà khoa học Mỹ đã triển khai nghiên cứu đối với các khí công sư ở Trung Quốc. Khí công chính là tu luyện và là một loại phương pháp tu hành cổ xưa, trong đó bao gồm cả luyện công. Trong báo cáo nghiên cứu, Lu Yanfang đã phát hiện cơ thể của khí công sư có thể phát ra sóng hạ âm cường đại, mạnh gấp 100 đến 1.000 lần người bình thường. Năm 1988, Học viện Y dược Bắc Kinh Trung Quốc cũng chỉ ra trong một báo cáo nghiên cứu tương tự rằng, khí mà khí công sư phát ra có sóng hạ âm cao cấp 100 lần người bình thường. Cả hai kết quả nghiên cứu đã được ghi chép chi tiết trong báo cáo của Viện nghiên cứu Vệ sinh Trung Quốc. Năm 2002, “Công báo Đại học Harvard” đăng một bài báo miêu tả một thực nghiệm tiến hành trên các vị lạt-ma Tây Tạng. Trong một gian phòng có nhiệt độ âm 4 độ C, các lạt-ma chỉ mặc một chiếc áo mỏng, bên ngoài khoác thêm tấm ga bị nhúng nước lạnh rồi Thiền định. Các nhà khoa học nhận định rằng, ở điều kiện như thế, nước lạnh khiến cơ thể người mất nhiệt rất nhanh và cơ thể sẽ tự bù nhiệt bằng hiện tượng run rẩy. Tuy nhiên, trong vòng 20-30 phút, nhiệt độ cơ thể người sẽ giảm xuống dưới 35 độ C, và một người bình thường sẽ không thể sống sót nếu thân nhiệt giảm xuống dưới ngưỡng 27 độ C. Tuy nhiên thật kỳ lạ, các lạt-ma vẫn duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường. Hơn nữa, còn dùng nhiệt độ thân thể mình để “hong khô” tấm ga trải giường. Khi các nhà nghiên cứu thay thế bằng tấm ga ẩm ướt khác đắp lên cơ thể họ thì chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, mỗi vị lạt-ma đã “hong khô” thêm 3 tấm ga trải giường nữa. Hành giả yogi Wim Hof có thể ngồi thiền trong băng 2 giờ mà thân nhiệt bên trong không hề thay đổi. (Ảnh: The Iceman (Wim Hof)/Facebook) Herbert Benson, nhà nghiên cứu thiền định trong hơn 20 năm cho biết, các lạt-ma có thể khống chế sự trao đổi chất và các chức năng khác của cơ thể và nhiệt năng phát ra từ thân các lạt-ma chỉ là sản phẩm phụ của đả tọa: “Các tín đồ Phật giáo tin rằng loại cảnh giới này đạt được thông qua sự hy sinh vì người khác và đả tọa”. Khoa học ngỡ ngàng trước sự kỳ diệu từ tu luyệnNgày nay, nghiên cứu y học quy kết nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh của con người là do đột biến gene của tế bào. Để cải chính lại những gene bị đột biến trong cơ thể người không phải là việc dễ dàng. Mặc dù các nhà khoa học đã cố gắng dùng các loại virus, kháng thể hoặc những cách thức khác để nhận diện các protein mục tiêu trong những tế bào đột biến để thay thế những gene đột biến bằng những gene khỏe mạnh, nhưng liệu pháp này vẫn ẩn chứa nhiều nguy cơ phức tạp. Tuy nhiên, một nhóm các nhà nghiên cứu đứng đầu là Tiến sĩ Lili Feng thuộc Phòng Y tế của ĐH Y Baylor ở Houston (Mỹ) đã phát hiện ra nhiều sự khác biệt giữa những người tu luyện Pháp Luân Công và những người không luyện công trong biểu thức gene ở các bạch cầu trung tính. Bạch cầu trung tính (neutrophils) là những tế bào máu màu trắng đóng vai trò chủ đạo trong việc ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập. Các nhà khoa học đã dùng công nghệ gene-chip để đối chiếu biểu thức của 12.000 gene trong các bạch cầu trung tính của những người luyện công và những người không luyện công. Họ đã tìm thấy các biểu thức khác biệt ở hơn 300 gene, trong đó sự chênh lệch gấp khoảng 10 lần hoặc hơn. Đây là một hiện tượng hy hữu trong ngành nghiên cứu sinh học tế bào. Trong quá trình khảo sát, họ phát hiện ra rằng số lượng bạch cầu trung tính trong mẫu gene của người tu luyện Pháp Luân Công giảm xuống. Ngoài ra, tuổi thọ của bạch cầu trung tính của người khỏe mạnh thường chỉ có từ 2-3 tiếng, nhưng ở người tu luyện Pháp Luân Công lại kéo dài 60 tiếng. Họ cũng quan sát thấy rằng, bạch cầu trung tính của người luyện công phân tách toàn diện hơn, trong khi bạch cầu trung tính của người bình thường bị triệt tiêu trước khi kết thúc quá trình phân tách. Từ khám phá này, các nhà khoa học phỏng đoán rằng số lượng ít bạch cầu trung tính trong cơ thể của người tu luyện Pháp Luân Công có thể khởi tác dụng ngăn ngừa sự lây nhiễm từ bên ngoài hiệu quả hơn bởi vì chúng có tuổi thọ dài hơn. Các nhà khoa học phỏng đoán rằng số lượng ít bạch cầu trung tính trong cơ thể của người tu luyện Pháp Luân Công có thể khởi tác dụng ngăn ngừa sự lây nhiễm từ bên ngoài hiệu quả hơn bởi vì chúng có tuổi thọ dài hơn. (Ảnh: Epoch Times) Do cơ thể của người tu luyện Pháp Luân Công không cần nhiều bạch cầu trung tính, nên số lần kích hoạt và tái kích hoạt hệ điều tiết globulin miễn dịch có thể không nhiều bằng những người không luyện công. Nhờ đó, người tu luyện Pháp Luân Công sẽ không đối mặt với nguy cơ cao bị dị ứng, hen suyễn, bệnh tự miễn dịch, hoặc các chứng rối loạn miễn dịch qua trung gian khác. Thực hành tu luyện thực sự là tu luyện tâm và thân, có thể khiến con người đạt được tuổi thọ và sức khỏe thực sự. Tu luyện đòi hỏi nhân tâm phải hướng thiện, sống chân thành và luôn nhẫn nại. Thực hành tốt những việc này chính là cách thức cơ bản nhất để trị tận gốc bệnh. Đối với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, luyện công không phải chỉ để chữa bệnh, mà còn là tu luyện tâm tính đồng thời và thân thể tự nhiên sẽ sản sinh hiệu quả tự chữa lành bệnh. Nghiên cứu trên đã cho thấy rằng, tu luyện Pháp Luân Đại Pháp là một phương pháp hiệu quả để tăng cường hệ miễn dịch. Khoa học phát triển, rác thải công nghiệp, ô nhiễm môi trường cùng thực phẩm độc hại… là những hệ lụy góp phần khiến nhiều bệnh dịch bùng nổ, khiến cho hệ miễn dịch của con người không ngừng bị kích thích. Với virus biến thể nhanh hơn bao giờ hết và hệ vi khuẩn ngày càng kháng thuốc kháng sinh, cách duy nhất để con người thoát khỏi các loại bệnh tật là phải tăng cường hệ miễn dịch để chống chọi lại sự xâm nhập của vi khuẩn, virus. Xuân Trường tổng hợp Nguồn tham khảo: 1. www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2923708/. 2. www.businessinsider.com/annual-food-poisoning-deaths-2015-12 3. www.cancer.gov/about-cancer/understanding/statistics 4. www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/cancer 5. necrometrics.com/all20c.htm 6. www.worldwatch.org 7. m.dmc.tv/dhamma/index.php?action=page&id=5781) 8.https://www.businessinsider.com/alaska-gold-mining-plan-would-destroy-worlds-largest-salmon-fisheries-2014-1 9. news.mit.edu/2017/mathematics-predicts-sixth-mass-extinction-0920 10. www.ucg.org/the-good-news/the-end-of-the-world-what-does-the-bible-say 11. www.biblegateway.com/passage/?search=Luke+21:34-35&version=NASB 12. www.biblegateway.com/passage/?search=Matthew+24:3&version=NIV 13. www.raystedman.org/new-testament/matthew/when-the-dam-breaks 14. www.biblegateway.com/passage/?search=Matthew+24:4-31&version=KJV 15. www.cathol.lu/article4741 16. www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22816037 17.https://www.umaryland.edu/news/archived-news/january-2020/newspressreleaseshottopics/experts-prep-for-potential-coronavirus-outbreak.php 18.https://thehill.com/changing-america/well-being/prevention-cures/482406-why-developing-a-coronavirus-vaccine-is-so 19. journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/journal.pone.0197778 20. ccare.stanford.edu/ 21. www.medicalnewstoday.com/articles/324422 22. www.matthieuricard.org/en/blog/posts/caring-mindfulness-at-the-service-of-others 23. rachelfintzy.com/lessons-from-the-worlds-happiest-man/ 24. m.dmc.tv/dhamma/index.php?action=page&id=5781 25. onbeing.org/programs/doris-taylor-stem-cells-untold-stories/ 26.https://www.vox.com/future-perfect/2018/10/18/17886974/science-technology-climate-change-existential-threats-martin-rees 27. eocinstitute.org/meditation/meditation-increases-feelings-of-vitality-and-rejuvenation/ 28.https://www.reuters.com/article/us-aids-meditation/meditation-slows-aids-progression-study-idUSN2449373420080724 29. www.statnews.com/2020/02/06/cepi-coronavirus-vaccine-development/
|
|