|
VAT LY
Oct 11, 2007 15:20:30 GMT 9
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 15:20:30 GMT 9
James Watt - Ý tưởng & sự nghiệp -
Chuyện hơi nước đẩy nắp ấm đun nước lên đã để lại ấn tượng rất sâu trong cậu bé Watt, cậu đã suy nghĩ rất nhiều về hiện tượng này.
Watt nghĩ: Một chút hơi nước mà có sức mạnh như vậy, nó nhất định sẽ có công dụng rất lớn. Nếu ta biết lợi dụng nó có thể làm được nhiệc lớn. Thí dụ: như ta nâng vật nặng lên cao, kéo vật gì đó chẳng hạn, Watt cảm thấy đây là một cách nghĩ thú vị và rất nhiều nghĩa.
Lý tưởng thời tuổi trẻ thôi thúc Watt nhỏ càng nỗ lực học tập. Lúc này ông mới biết trước đó đã có người nghĩ đến việc dùng hơi nước làm động lực... Trước đó không lâu, năm 1705 Niucômanh đã phát minh ra máy hơi nước Niucômanh.
Nhưng Watt không cam tâm để lý tưởng của mình bị nguội lanh, ông tiếp tục học tập, miệt mài, nghiên cứu. Watt phát hiện máy hơi nước Niucômanh tuy được dùng rộng rãi nhưng nó có rất nhiều điểm cần được cải tiến.
Watt phát hiện máy hơi nước Niucômanh còn hạn chế vì hơi nước chưa được sử dụng triệt để.
Làm thế nào để hơi nước do máy hơi nước sinh ra được sử dụng triệt để?
Chính vì điều này mà Watt đã mất ăn mất ngù.
Vào một buổi sáng nọ, Watt đi bách bộ ngoài sân golf, mặt trời từ từ mọc lên, mặt trời hồng rọi lên mặt ông. Bỗng nhiên một đám mây đen che khuất mặt trời, trong phút chốc bầu trời như tối lại, một trận gió thổi qua, mặt đất như xanh hơn, không gian như rộng hơn, cảm thấy dễ chịu lạ thường.
Ông nhìn lên trời cao, nghĩ lại đám mây đen che kín mặt trời vừa rồi, một ý tưởng mới xuất hiện trong đầu ông: "Thiết kế bộ ngưng tụ hơi nước, làm cho hơi nước trực tiếp trở lại trạng thái nước ngay từ ngoài xi lanh, như vậy chẳng phải xi lanh có thể duy trì được nhiệt độ tương đối cao sao?"
Để chế tạo được máy hơi nước kiểu mới, Watt và các trợ lý của ông làm miệt mài không quản ngày đêm nhưng kết quả vẫn chưa giành được thành công, hơn nữa còn nợ nần chồng chất, cuộc sống hết sức khó khăn, có lúc thậm chí không còn tiền để ăn nữa. Watt không nản lòng, ông càng nỗ lực hơn, cuối cùng năm 1765 ông đã chế tạo thành công một chiếc máy hơi nước.
Loại máy hơi nước này giảm được 3/4 lượng than tiêu thụ so với máy hơi nước Niucômanh mà hiệu suất nâng cao lên rất nhiều. Thành công lần này là sự cổ vũ lớn đối với Watt, ông vẫn muốn trực tiếp cải tiến một bước nữa để giảm lượng tiêu hao than xuống nữa, hiệu suất càng cao hơn.
Năm 1782, ông cho ra đời chiếc máy hơi nước mới đúng như ông đã suy nghĩ: Máy tiêu hao than ít, hiệu suất làm việc cao. Thành công phát minh ra loại máy hơi nước này đã làm cho máy hơi nước Niucômanh trở nên quá lạc hậu không còn chỗ đứng chân.
Máy hơi nước do Watt phát minh nhanh chóng được sử dụng rộng rãi. Tàu thuyền, tàu hỏa dùng máy móc hơi nước đua nhau ra đời, công nghiệp toàn thế giới nhanh chóng bước vào "thời đại máy hơi nước".
|
|
|
VAT LY
Jul 5, 2020 9:17:14 GMT 9
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 9:17:14 GMT 9
Những điểm đáng ngờ về lực hấp dẫn – P2: Trọng lực có thể bị che chắn?Thiện Tâm•Thứ Năm, 02/07/2020 • Nhiều loại vật chất có thể thay đổi hoặc che chắn các lực từ, từ trường và bức xạ điện từ. Trong khi đó, khi chúng ta đặt vật chất giữa hai thực thể hấp dẫn nhau, không thấy có sự suy yếu nào về lực hấp dẫn, và người ta cho rằng điều này đúng với bất kỳ độ dày nào của vật chất trong các thí nghiệm. Tuy nhiên, một số thí nghiệm đã tìm thấy bằng chứng cho thấy lực hấp dẫn bị ảnh hưởng bởi sự che chắn, ngoài ra, luật bình phương nghịch đảo cũng không phải luôn luôn đúng.
(Ảnh: Shutterstock) Trọng lượng (weight) của một vật thể được tính bằng khối lượng của nó nhân với gia tốc trọng trường (W = m*g). Nói một cách chính xác, một vật thể có khối lượng (mass) 1 kg nặng 9,8 newton trên trái đất. Tuy nhiên, trọng lượng thường được gắn với đơn vị là kilogam, với gia tốc trọng trường là 9,8m/s² ở bề mặt Trái Đất được coi là điều mặc định.
Nếu lực hấp dẫn tác dụng lên vật thể bị giảm, trọng lượng của nó cũng giảm theo, trong khi khối lượng của nó (theo nghĩa là ‘lượng vật chất’) vẫn giữ nguyên. Lưu ý rằng trọng lượng rõ ràng của vật thể sẽ thay đổi nếu nó được gia tốc bởi các lực không hấp dẫn hoặc phản đảo hoặc củng cố trường hấp dẫn cục bộ; ví dụ, một lực điện động có thể được sử dụng để hủy trọng lực.
Cả lực hấp dẫn và lực điện từ đều tuân theo định luật nghịch đảo bình phương, tức là sức mạnh của chúng giảm theo bình phương khoảng cách giữa các vật thể tương tác với nhau. Tuy nhiên, ở những khía cạnh khác, chúng dường như rất khác nhau. Chẳng hạn, lực hấp dẫn giữa hai electron thấp hơn 4,2 x 1042 lần so với lực điện từ giữa chúng. Lý do các lực điện từ không hoàn toàn áp đảo lực hấp dẫn trong thế giới xung quanh chúng ta là vì hầu hết mọi thứ đều bao gồm một lượng điện tích dương và âm tương đương khiến các lực sinh ra triệt tiêu lẫn nhau. Trong khi các lực điện từ rõ ràng là lưỡng cực (âm và dương), lực hấp dẫn thường được coi là luôn dương và không xảy ra sự triệt tiêu lực này.
Sự che chắn trọng lực Nhiều loại vật chất có thể thay đổi hoặc che chắn các lực từ, từ trường và bức xạ điện từ. Trong khi đó, không có sự suy yếu nào về lực hấp dẫn được phát hiện thấy khi chúng ta đặt vật chắn giữa hai thực thể hấp dẫn nhau, và người ta cho rằng điều này đúng với độ dày bất kỳ của vật chất trong các thí nghiệm.
Tuy nhiên, một số thí nghiệm đã tìm thấy bằng chứng cho thấy lực hấp dẫn bị ảnh hưởng bởi sự che chắn và luật bình phương nghịch đảo cũng không luôn luôn đúng.
Trong một loạt các thí nghiệm rất tinh vi vào những năm 1920, Quirino Majorana đã phát hiện ra rằng việc đặt thủy ngân hoặc chì bên dưới một quả cầu bằng chì lơ lửng hoạt động như một tấm chắn đã làm giảm nhẹ lực hấp dẫn của Trái đất. Không có nỗ lực thử nghiệm tương tự nào khác được thực hiện để tái tạo kết quả của Majorana.
Các nhà nghiên cứu khác đã kết luận từ dữ liệu khác rằng nếu sự hấp dẫn tồn tại thì nó phải nhỏ hơn ít nhất năm bậc so với thí nghiệm của Majorana. [1] Tom Van Flandern đã lập luận rằng sự bất thường trong chuyển động của một số vệ tinh nhân tạo của trái đất trong mùa nhật thực có thể gây ra bởi hiện tượng che chắn trọng lực của mặt trời. [2]
Một số nhà khoa học đã phát hiện rằng khi xảy ra nhật thực, có xuất hiện dị thường trọng lực không tương thích với cả hai mô hình trọng lực của Newton và Einstein, nhưng những người khác lại phát hiện không có sự bất thường như vậy.
Trong thời gian nhật thực vào năm 1954 và 1959, nhà vật lý Maurice Allais (người đã giành giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1988) đã phát hiện các nhiễu loạn theo hướng xoay của một con lắc treo lơ lửng trên một quả bóng. [3] Erwin Saxl và Mildred Allen đã xác nhận ‘hiệu ứng Allais’ khi họ đo được các biến thiên đáng kể trong chu kỳ của một con lắc xoắn trong giai đoạn xảy ra nhật thực năm 1970.
Một giải thích về sự bất thường này là do lực hấp dẫn của Mặt Trời bị che chắn bởi Mặt Trăng, dẫn đến sự gia tăng nhẹ của trọng lực trên mặt đất. Allais và Saxl cũng phát hiện các thay đổi trong chu kỳ của con lắc theo ngày và theo mùa. [4]
Vị trí của các thiên thể cũng gây ra hiện tượng che chắn trọng lực Một trọng lực dị thường tương tự được đo thấy bằng hệ thống hai con lắc trong quá trình Trái Đất, Mặt Trời, Sao Mộc thẳng hàng với nhau vào tháng 5/2001. [5]
Trong nhật thực toàn phần năm 1997, một nhóm các nhà khoa học Trung Quốc đã thực hiện các phép đo với độ chính xác cao. Tuy nhiên, trái ngược với hiệu ứng Allais, họ đã phát hiện ra sự giảm trọng lực của Trái đất. Hơn nữa, hiệu ứng xảy ra ngay trước và sau nhật thực nhưng không có giá trị thay đổi quá lớn. [6]
Trong quá trình quan sát được thực hiện từ năm 1987, Shu-wen Zhou và các cộng sự đã xác nhận sự xuất hiện của một lực dao động ngang bất thường khi Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất được xếp thẳng hàng. Nhà khoa học này đã chỉ ra rằng điều này ảnh hưởng đến mẫu hình chuỗi hạt trong các tinh thể, bước sóng quang phổ của các nguyên tử, phân tử và tốc độ của đồng hồ nguyên tử. [7]
Newton cho rằng trọng lực giữ cho mặt trăng luôn quay theo quỹ đạo (Ảnh: Kevin Gill/Flickr CC) Nhiều giả thuyết khác nhau đã được đưa ra để giải thích sự bất thường của trọng lực trong lúc nhật thực, chẳng hạn như lỗi dụng cụ đo, hiệu ứng trọng lực của không khí dày đặc do bầu khí quyển phía trên được làm mát, rối loạn địa chấn do người quan sát di chuyển vào và ra khỏi nơi có thể nhìn thấy nhật thực, và độ nghiêng của mặt đất do làm mát.
Trong một đánh giá gần đây (2004), nhà vật lý Chris Duif đã lập luận rằng các nguyên nhân trên đều không có sức thuyết phục. Ông tin rằng việc che chắn hấp dẫn cũng không thể giải thích kết quả, vì nó sẽ quá yếu (nếu nó tồn tại).
Nhà nghiên cứu độc lập Thomas Goodey đang lên kế hoạch cho một loạt các thí nghiệm nhật thực nghiêm ngặt trong vài năm tới với hy vọng làm sáng tỏ vấn đề này. [8].
Tranh cãi về che chắn trọng lực với vật chất siêu dẫn Bằng chứng có thể về che chắn trọng lực xuất hiện trong các thí nghiệm được báo cáo bởi Evgeny Podkletnov và đồng nghiệp của ông vào năm 1992 và 1995. Khi một miếng chất siêu dẫn gốm được nâng lên và quay với tốc độ cao khi có từ trường bên ngoài, các vật thể được đặt trên đĩa quay có xảy ra sự thay đổi trọng lượng. Cụ thể, khi vật thể được đặt trên chiếc đĩa, trọng lượng của nó giảm từ 0,3 đến 0,5%. Khi tốc độ của chiếc đĩa giảm dần từ 5.000 vòng/phút xuống 3.500 vòng/phút, mức giảm trọng lượng lớn nhất khoảng 2% đã xuất hiện trong khoảng 30 giây. [9] Trong các lần thí nghiệm khác, mức giảm trọng lượng 5% cũng được ghi nhận nhưng Podkletnov không lặp lại được các trường hợp này.
Các nhà khoa học khác cho biết thí nghiệm của Podkletnov cực kỳ khó lặp lại một cách đầy đủ vì Podkletnov chưa tiết lộ công thức chính xác để chế tạo chất siêu dẫn của mình. Nhưng các phiên bản rút gọn của thí nghiệm đã tạo ra hiệu ứng nhỏ ở mức 1/1000. [10]
Từ 1995 đến 2002, Trung tâm bay vũ trụ Marshall của NASA đã thử một bản sao thử nghiệm đầy đủ cấu hình của Podkletnov, nhưng không đủ tài nguyên để thực hiện. Một bản sao được tài trợ bởi tư nhân đã được hoàn thành vào năm 2003, nhưng không tìm thấy bằng chứng nào về các lực giống như trọng lực. NASA đã kết luận rằng phương pháp này không phải là một ứng cử viên khả thi cho việc tạo ra các lực đẩy đột phá. [11] Theo “Gravity and Antigravity” của David Pratt Thiện Tâm dịch Tài liệu tham khảo: [1]. Q. Majorana, ‘On gravitation. Theoretical and experimental researches’, Phil. Mag., v. 39, 1920, pp. 488-504; Q. Majorana, ‘Sur l’absorption de la gravitation’, Comptes Rendus de l’académie des Sciences, v. 173, 1921, pp. 478-479; Q. Majorana, ‘Quelques recherches sur l’absorption de la gravitation par la matière’, Journal de Physique et le Radium, I, 1930, pp. 314-324; Matthew R. Edwards (ed.), Pushing Gravity: New perspectives on Le Sage’s theory of gravitation, Montreal, Quebec: Apeiron, 2002, pp. 219-238, 259-266. [2]. Tom Van Flandern, ‘Possible new properties of gravity’, Astrophysics and Space Science, v. 244, 1996, pp. 249-261. [3]. M.F.C. Allais, ‘Should the laws of gravitation be reconsidered?’, parts 1 and 2, Aero/Space Engineering, v. 18, Sep 1959, pp. 46-52, and v. 18, Oct 1959, pp. 51-55, allais.maurice.free.fr/English/media10-1.htm; www.allais.info/allaisdox.htm. [4]. E.J. Saxl, ‘An electrically charged torque pendulum’, Nature, v. 203, 1964, pp. 136-138; E.J.Saxl and M. Allen, ‘1970 solar eclipse as “seen” by a torsion pendulum’, Physical Review D, v. 3, 1971, pp. 823-825; Journal of Scientific Exploration (www.scientificexploration.org), 10:2, pp. 269-279, and 10:3, pp. 413-416, 1996. [5]. Gary C. Vezzoli, ‘Gravitational data during the syzygy of May 18, 2001 and related studies’, Infinite Energy (www.infinite-energy.com), 9:53, 2004, pp. 18-27. [6]. Qian-shen Wang et al., ‘Precise measurement of gravity variations during a total solar eclipse’, Physical Review D, v. 62, 2000, 041101, home.t01.itscom.net/allais/blackprior/wang/wangetal.pdf; Xin-She Yang and Qian-Shen Wang, ‘Gravity anomaly during the Mohe total solar eclipse and new constraint on gravitational shielding parameter’, Astrophysics and Space Science, v. 282, 2002, pp. 245-253, www.eclipse2006.boun.edu.tr/sss/paper02.pdf. [7]. Shu-wen Zhou, ‘Abnormal physical phenomena observed when the sun, moon, and earth are aligned’, 21st Century Science and Technology, fall 1999, pp. 55-61. [8]. Chris P. Duif, ‘A review of conventional explanations of anomalous observations during solar eclipses’, www.space-time.info/duifhome/duifhome.html; Govert Schilling, ‘Shadow over gravity’, New Scientist, 27 Nov 2004, pp. 28-31; www.allais.info. [9]. E.E. Podkletnov, ‘Weak gravitation shielding properties of composite bulk YBa2Cu3O7-x superconductor below 70 K under e.m. field’, 1995, www.gravity-society.org/msu.htm; American Antigravity, americanantigravity.com/podkletnov.html. [10]. Edwards, Pushing Gravity, p. 315. [11]. Marc G. Millis, ‘Prospects for breakthrough propulsion from physics’, 2004, www.lerc.nasa.gov/WWW/bpp/TM-2004-213082.htm.
|
|
|
VAT LY
Jul 5, 2020 9:30:41 GMT 9
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 9:30:41 GMT 9
Treo lượng tử – công nghệ bay đột phá cho tương laiThiện Tâm • Thứ Tư, 20/05/2020 • Một miếng vật liệu siêu dẫn rất mỏng có thể treo vật thể nặng hơn nó 70.000 lần trong không trung với quỹ đạo vô cùng ổn định. Đây là công nghệ treo lượng tử, hứa hẹn sẽ là công nghệ bay đột phá của tương lai.
Trước hết chúng ta hãy xem một đoạn video ngắn được quay tại gian hàng của Đại học Tel Aviv, Israel, trong khuôn khổ hội thảo ASTC thường niên năm 2011 diễn ra tại Trung tâm Khoa học Maryland ở Baltimore, Hoa Kỳ.
Trong video này, ta thấy một tấm vật liệu siêu dẫn được làm lạnh bởi Nitơ lỏng ở nhiệt độ cực thấp có thể được treo lơ lửng trong không khí, cách miếng nam châm một khoảng không nhất định.
Khi miếng vật liệu siêu dẫn này được treo lơ lửng trong không khí, nó có thể được cố định ở các vị trí khác nhau bất kỳ: song song với mặt đất, tạo thành một góc bất kỳ với mặt đất. Khi được đặt gần một nam châm tròn có đường sức từ tạo thành vòng tròn, miếng vật liệu siêu dẫn này có thể xoay tròn. Hoặc khi nó được đặt trên đường ray tạo thành vòng tròn bởi một loạt các cục nam châm thường, nó sẽ có thể chạy trên đường ray.
Điều đặc biệt là, tấm vật liệu siêu dẫn có thể treo cố định trong không khí kể cả khi nó nằm dưới các cục nam châm vĩnh cửu.
Hiện tượng này được gọi là treo lượng tử (quantum levitation) hay khóa lượng tử (quantum trapping). Chúng ta giải thích hiện tượng này như thế nào?
Vật liệu nghịch từ siêu dẫn và hiệu ứng Meissner Hiện tượng siêu dẫn là hiện tượng một số vật liệu khi ở nhiệt độ nhỏ hơn một “nhiệt độ tới hạn” nhất định thì điện trở suất của nó đột ngột giảm xuống bằng 0.
Năm 1933, Meissner và Ochsenfeld phát hiện ra hiện tượng các đường sức từ của từ trường bên ngoài bị đẩy ra khỏi chất nghịch từ khi làm lạnh những chất này đến trạng thái siêu dẫn. Hiệu ứng này được gọi là hiệu ứng Meissner:
Với các vật liệu nghịch từ bình thường, dòng điện bề mặt Foucault có xu hướng chống lại nguyên nhân sinh ra nó (trong trường hợp này là chuyển động tương đối giữa từ trường và vật liệu) sẽ yếu đi nhanh chóng do điện trở bên trong các vật liệu. Tuy nhiên vì vật liệu siêu dẫn không có điện trở, dòng Foucault sinh ra không bị suy giảm. Do đó từ trường phụ được tạo ra cũng không suy giảm và nó gần như hoàn toàn triệt tiêu từ trường bên ngoài trong bản thân vật liệu. Khi đó từ trường trong lòng chất siêu dẫn gần như bằng 0 và bị “đẩy” hoàn toàn ra ngoài. Điều này khiến cho các vật liệu siêu dẫn có thể lơ lửng trong không khí cách nam châm một đoạn.
Điều thú vị là trong video bên trên, vị trí của miếng vật liệu siêu dẫn có thể được thay đổi rất dễ dàng – dùng tay mà thay đổi nó. Nhưng ở vị trí nào đi nữa thì nó cũng rất ổn định, như bị ghim hay khóa vào một điểm nào đó vậy. Vậy nguyên nhân là gì?
Hiệu ứng treo lượng tử Theo các nhà khoa học Israel, nếu vật liệu siêu dẫn đẩy hoàn toàn từ trường bên ngoài ra ngoài vật liệu, nó có thể bay lên, nhưng vị trí và quỹ đạo của nó sẽ không ổn định do nó luôn cố gắng bay lên để tránh các đường sức từ trường ngoài. Vật liệu siêu dẫn loại này được gọi là chất siêu dẫn loại I.
Với vật liệu siêu dẫn loại I, đường sức từ bên ngoài đi thẳng khi nhiệt độ môi trường lớn hơn nhiệt độ tới hạn của hiện tượng siêu dẫn (T>Tc). Đường sức từ bên ngoài đi vòng khi nhiệt độ môi trường nhỏ hơn nhiệt độ tới hạn của hiện tượng siêu dẫn (T<Tc) Với vật liệu siêu dẫn loại II, từ trường bên ngoài sẽ không hoàn toàn bị triệu tiêu, mà vẫn còn một lượng rất nhỏ các đường sức từ xuyên vào vật liệu. Và những đường sức từ bên trong vật liệu siêu dẫn này tồn tại dưới dạng hạt, đây là một hiện tượng của vật lý lượng tử. Những “hạt đường sức từ” này được gọi là fluxon hay còn được gọi là các xoáy lượng tử (quantum vortex), chúng hoạt động như những hạt lượng tử riêng lẻ.
Ở vị trí các “hạt đường sức từ” này, tính chất siêu dẫn của vật liệu bị phá hủy cục bộ. Bất kỳ chuyển động trong không gian nào của vật liệu siêu dẫn cũng khiến cho các “hạt đường sức từ” di chuyển, để tránh việc các “hạt đường sức từ” di chuyển lung tung và phá hủy trạng thái siêu dẫn của toàn bộ vật liệu, vật liệu siêu dẫn sẽ tự khóa hay ghim chặt vị trí của nó trong không gian 3 chiều, qua đó giữ cho vị trí của các “hạt đường sức từ” thông không bị thay đổi. Nhờ đó mà bản thân vật liệu này có thể treo ổn định trong không gian 3 chiều.
Hình ảnh phóng to dưới kính hiển vi của các đường sức từ hoạt động như những hạt lượng tử và bị ghim lại trong vật liệu siêu dẫn loại II (nguồn: quantumlevitation.com):
Miếng vật liệu siêu dẫn loại II tự ghim chặt vị của nó trong không gian 3 chiều để đảm bảo trạng thái siêu dẫn của nó không bị phá hủy (nguồn: quantumlevitation.com) Ứng dụng của hiện tượng khóa lượng tử Lý thuyết về 2 loại vật liệu siêu dẫn đã được phát hiện từ năm 1950. Tuy nhiên, mãi sau này các nhà khoa học mới có điều kiện nghiên cứu sâu về chúng. Năm 2003, lý thuyết về các vật liệu siêu dẫn đã được trao giải Nobel vật lý.
Mặc dù các hãng sản xuất tàu siêu tốc ở Nhật Bản đã ứng dụng lý thuyết siêu dẫn vào việc chế tạo tàu siêu tốc, có thể đạt đến tốc độ gần 600km/h, tuy nhiên đó vẫn chưa phải là công nghệ treo lượng tử (quantum levitation), mà đó vẫn là công nghệ treo trên đệm từ (Maglev – Magnetic Levitation).
Theo các nhà khoa học đến từ Đại học Tel Aviv, Israel, miếng vật liệu siêu dẫn được sử dụng trong video clip giới thiệu chỉ dày có 0,5 micromet. Nhưng nó có thể nâng một vật thể nặng hơn nó 70.000 lần. Có nghĩa là, một miếng vật liệu siêu dẫn loại II có đường kính 3 inch (7,62cm) và dày 2mm có thể nâng được một chiếc xe con nặng 1 tấn.
Một miếng vật liệu siêu dẫn loại II dày 2mm có thể nâng cả một chiếc ô tô nặng 1 tấn (nguồn: santarosa.edu)
Ảnh chụp một lực sĩ Sumo nặng 142kg được nâng lên nhờ hiệu ứng treo lượng tử tại Phòng thí nghiệm nghiên cứu siêu dẫn, ISTEC, Tokyo, Nhật Bản (nguồn:http://www.chem.msu.su) Cho đến nay, trở ngại lớn nhất của việc ứng dụng vật liệu siêu dẫn và hiệu ứng khóa lượng tử là việc tìm ra các vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ cao. Hầu hết các vật liệu chỉ ở trạng thái siêu dẫn ở nhiệt độ cực kỳ thấp. Sau rất nhiều năm nỗ lực, đến nay vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ cao nhất mà các nhà khoa học mới tìm được là 200oK, tương đương -75oC.
Lịch sử phát triển các vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao (nguồn: wikipedia) Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học, rất có thể trong tương lai, một vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ phòng có thể được tìm thấy, khi đó việc ứng dụng hiệu ứng treo lượng tử để nâng các vật thể bay lên một cách đơn giản, tiết kiệm năng lượng sẽ không có gì khó khăn.
Liệu người xưa có ứng dụng hiệu ứng treo lượng tử để nâng các vật thể nặng? Chúng ta từng thắc mắc rất nhiều lần vì sao con người tiền sử ở những nền văn minh đã lụi tàn có thể di chuyển được những vật liệu siêu nặng như tượng đài bằng đá granite nguyên khối dài 42m, nặng khoảng 1.200 tấn tại khu mỏ đá ở Aswan, Ai Cập hay bức tượng bằng đá có tên Gommateshwara ở Shravanabelagola, Ấn Độ nặng 1.000 tấn.
Làm thế nào mà người tiền sử có thể di chuyển được tượng đài bằng đá granite nặng 1.200 tấn đang được chế tác dở ở mỏ đá Aswan, Ai Cập. (nguồn: luxorandaswan.org)
Tượng Gommateshwara ở Ấn Độ (ảnh: wikipedia) Nhưng nếu chúng ta biết rằng các nền văn minh tiền sử có trình độ công nghệ rất cao, thậm chí cao hơn nhiều so trình độ công nghệ của chúng ta hiện nay, thì họ có thể đã làm chủ công nghệ treo lượng tử (quantum levitation) và sử dụng công nghệ đó để di chuyển những công trình đá nặng hàng ngàn tấn. Điều này tuy khó tin nhưng vẫn hoàn toàn hợp logic.
Nhưng không chỉ là giả thuyết, mà manh mối về điều này có thể được tìm thấy ngay trong ngôi đền có bức tượng bằng đá Gommateshwara ở Shravanabelagola, Ấn Độ. Gần với bức tượng Gommateshwara, có một bức tượng tạc một vị thần, trong tay vị thần đang giữ một vật hình bầu dục đang lơ lửng trong không khí. Hình ảnh này gợi cho chúng ta rằng công nghệ treo lượng tử có thể đã thực sự được sử dụng để di chuyển bức tượng này từ nơi khác lên đỉnh đồi cao 120m này.
Bức tượng một vị thần đang giữ trong tay một vật thể đang treo lơ lửng trong không khí (nguồn: phenomenalplace.com) Video của TED (Việt sub) giải thích chi tiết về công nghệ treo lượng tử:Thiện Tâm tổng hợp
|
|