Post by Vĩnh Long on Oct 26, 2007 13:32:48 GMT 9
Chữ Hán " tiền sử " được dùng để dịch khái niệm " pré-histoire ", nguyên nghĩa " sử " là ghi chép (tượng hình cổ của chữ này là bàn tay cầm cây bút) còn " histoire " thì lại có nguyên nghĩa là " ( việc kể lại ) các chuyện cũ ", không nhất thiết phải viết ra. Tuy nhiên, việc phân kỳ theo sự xuất hiện của chữ viết có lý do của nó, giản dị là không có chữ viết thì không ghi lại được các huyền thoại của con người về nguồn gốc của chính mình. Có lẽ sự tự ý thức này cũng là một bước tiến hoá quyết định, không kém việc phát minh ra chữ viết. Vì vậy tuy rằng theo định nghĩa bộ môn " études préhistoriques " nghiên cứu về thời kỳ con người chưa có chữ viết, cũng sẽ sai lạc nếu máy móc coi những nền văn hoá có sử thi truyền khẩu đương đại như có tính " tiền sử " theo nghĩa đen. Kết quả sẽ giàu hơn nếu người ta nghiên cứu chung những truyền thuyết hiện được biết của các dân tộc không có chữ viết, với các truyền thuyết đã thành văn.
Vậy ngoài việc đó ra chúng ta có thể nói gì về khía cạnh tư duy của loài người thời tiền sử ? công việc thật gian nan ! Vì hoàn toàn là suy đoán từ những dấu vết gián tiếp, do đó có thể nói hầu như không có gì khẳng định được chắc chắn, mọi kết luận chỉ có thể được coi là " có lẽ đúng nhất, trong điều kiện hiện nay, và theo những giả thuyết hợp lý " và đều có thể bị đòi hỏi xét lại mỗi khi có những khám phá mới. Những sự kiện - dấu vết hiển nhiên quan trọng đó của tư duy mà người ta có thể khảo sát trên hiện vật khảo cổ là : sự chế ngự lửa, việc sáng chế các công cụ, các hình vẽ và tượng đá hay đất nung, các sản phẩm đất nung, việc thuần hoá thú vật, canh nông, chế độ dinh dưỡng, nơi cư ngụ... Qua những dấu vết cụ thể đó người ta cũng thấy được phần nào tổ chức xã hội.
Nhưng có lẽ về điều quan trọng nhất cho tư duy là ngôn ngữ của thời tiền sử này, thì người ta chỉ có thể suy diễn qua hai lối : một là dùng loại lý luận như : không thể có những sản phẩm phức tạp như thế, nếu không có một ngôn ngữ như thế..., hai là suy luận bằng cách so sánh tương đồng với các bộ lạc hiện nay còn sống trong tình trạng bán khai, công việc của các nhà nhân chủng học. Ta sẽ trở lại với ngôn ngữ trong một bài sau.
Thời đồ đá là một thuật ngữ thông dụng khác để chỉ thời tiền sử. Người ta phân biệt đồ đá cũ paléolithique (chia ra thành hạ kỳ inférieur từ - 4 triệu năm đến -2 triệu năm, trung kỳ moyen từ - 150 000 năm và thượng kỳ supérieur từ - 40 000 năm) ; sau tới thời đồ đá giữa từ -10 000 năm ; rồi thời đồ đá mới từ -6000 đến - 4000. Những con số thay đổi tuỳ nơi khảo sát, vì các thời kỳ đó được xác định bởi các kỹ thuật làm công cụ đá khác nhau, cùng với những thay đổi khác trong sinh hoạt, chứ không bằng những mốc thời gian tuyệt đối nào đó.
Người Neandertal đưa ma : hình vẽ trong động đá tại Namibie ; theo [1]
Loài người :
Nhưng trước hết : loài người bắt đầu từ bao giờ, tại sao gọi loài người ? Thuật ngữ sinh học Pháp/Anh có hai chữ genre và espèce / (genus, specie) mà từ điển Việt Nam đều gọi là loài, trong đời thường ở Âu Mỹ người ta cũng nhập nhằng như vậy. Nhưng ở đây xin tạm đề nghị dịch genre là loài, và espèce là giống, để phân biệt rõ : giống là một nhánh của loài (và loài dĩ nhiên còn là nhánh của một thứ khác... và có thể lên cao nữa trong một cấu trúc dạng cây của việc phân loại sinh vật). Người ta dùng một tiêu chuẩn quan trọng để chia giống, bên cạnh những tiêu chuẩn khác về hình dạng, về cấu trúc... đó là tiêu chuẩn " khả năng có thể cùng nhau sinh sản ", tạm dịch là tiêu chuẩn cộng sinh sản (interfécondité). Không đạt điều ấy tức là khác giống, mặc dầu có thể cùng loài.
Tới đây không thể không xin ra ngoài đề một đoạn : giống lại có thể chia nhánh thành chủng loại (race). Có thể có nhiều chủng loại khác nhau trong cùng một giống sinh vật ; và, vì khả năng cộng sinh sản, người ta có thể lai tạo các chủng loại để thành một chủng loại mới nếu thành công. Đó là với các sinh vật khác con người, chỉ có thể xác định chủng loại bằng ngoại hình. Với giống người thì khác, thứ nhất là nếu tính từ vài nghìn năm trước trở lại đây thiø chúng ta đều là con lai của các cuộc di dân khắp địa cầu. Thứ hai là nếu lấy ngoại hình để " nội suy " ra những giá trị tự tại của chủng tộc, như Đức Quốc Xã đã làm, thì lịch sử cận đại đã chứng tỏ đó là điều dã man, phản khoa học và vô văn hoá nhất. Có thể miễn cưỡng định nghĩa các chủng tộc trong giống người bằng ngoại hình, nhưng điều đó hoàn toàn vô ý nghĩa so với tầm quan trọng của khả năng tư duy tự tại, mà cho đến nay không có gì cho phép so sánh hơn kém giữa các dân tộc (1).
Trở lại loài người và các giống người. Câu hỏi : khi nào gọi là bắt đầu có loài người ? là một câu hỏi không dễ trả lời, nó tuỳ thuộc việc xác định thế nào là tiêu chuẩn phân biệt loài người và các loài khác, đặc biệt là loài khỉ - vượn... và ở đây lại chỉ có thể phân biệt bằng hình thức vật chất bề ngoài. Dễ hiểu tại sao chủ đề này gây bàn cãi sôi nổi, và sách vở báo chí nói đến rất nhiều, cho nên có lẽ ở đây chỉ nên tóm tắt những điều được đa số chấp nhận, nói chung có ít nhiều ước lệ, dựa trên một số định nghĩa tiên thiên a priori có phần võ đoán, và dựa trên những kết quả của ngành khảo cổ - nhân chủng học... với một số tương đối nhỏ những hiện vật khảo cổ, nhiều khi quá nhỏ để đem lại được một xác xuất đủ tin cậy cho việc phân loại và định hiønh. Nhiều khi chỉ một phát hiện mới có thể đánh đổ cả một giả thuyết đã được đa số công nhận trong vòng hàng chục năm, xem thí dụ [6]. Tuy nhiên càng gần chúng ta thì hiện vật càng nhiều và độ tin cậy của những giả thuyết và suy đoán càng cao. Những hiểu biết hiện đại về thời đồ đá giữa thiø đã chính xác lắm rồi, vì hiện vật khảo cổ rất nhiều. Trước đó thiø để xác định một giống người có khi người ta chỉ dựa trên hai ba bộ xương.
Các giống người
Hiện nay người ta cho rằng loài người xuất hiện do một sự đảo lộn khí hậu đã xẩy ra khoảng từ 5 đến 2,5 triệu năm trước, khí hậu nóng lên khiến cho tại châu Phi trong một vùng rộng lớn rừng biến mất dần mà trở thành đồng cỏ khô (savane). Nơi đó các giống khỉ vượn sống trên cây không thích nghi được thiø biến đi dần, trừ một loài ' tinh tinh ' (2) do đột biến gien mà đi được trên hai chân, giải phóng được hai tay, và có bộ răng tốt để ăn thịt... đã thích nghi được với môi trường mới này. Vì thiếu rau cỏ, cần chuyển sang ăn thịt, tức cần chạy nhanh để đuổi bắt các con thú với hai tay linh động ( dĩ nhiên loài thú bốn chân có thể chạy nhanh và săn đuổi tốt hơn, nhưng không thể tiến hoá từ khỉ ngược trở lại được, loài khỉ đã tương đối giải phóng được hai tay rồi để leo trèo trên cây).
Thế rồi tư thế đứng đem lại một món quà bất ngờ, đó là cái đầu và bộ não được phát triển tự do hơn so với các loài thú, vì tư thế đầu thẳng trên cổ thì độc lập hơn với trọng trường. Rồi những đột biến gien khác đem lại tiềm năng ngôn ngữ (3) cộng với khả năng phát âm giàu có hơn... tới đây thiø giống tinh tinh mới này được xếp vào loài người, và đã khởi đi một quá trình tiến hoá đặc biệt người rồi : đó là tư duy bắt đầu có tác động đến sự chọn lọc tự nhiên. Trí thông minh, biểu hiện qua khả năng làm công cụ, khả năng trao đổi và tổ chức cuộc sống theo bầy lũ... trở thành một lợi thế của chọn lọc tự nhiên, chứ không còn thuần tuý là bản năng và sức mạnh vật chất của bắp thịt nữa. Chính trong nghĩa đó mà có tác gia đã nói con người làm ra công cụ, nhưng trong một nghĩa nào đó, chính công cụ cũng lại làm ra con người. Và điều này hiện nay vẫn còn đúng.
Erectus
Sao lại có sự trùng hợp lạ lùng và xảo diệu thế ? Đó là điều những người không chấp nhận thuyết tiến hoá thường thốt ra. Nhưng chúng ta không nên quên quá trình tiến hoá này đã diễn ra trong hàng triệu năm, và kết quả xảo diệu chỉ là cái còn lại sau khi biết bao nhiêu " giải pháp " không thoả đáng đã bị triệt tiêu trong ngõ cụt. Đột biến gien là chuyện xẩy ra thường xuyên, và khi đó xác xuất không sống được là rất lớn.
Neandertal
Những sinh vật đầu tiên được gọi là loài người đó, có thể có từ 5 triệu năm trước hay 2,5 triệu năm trước, mang hai đặc tính : đi trên hai chân, và làm công cụ bằng đá; và đó là giống Homo Habilis ( giống người khéo léo). Homo Habilis có thể tích sọ từ 600 đến 650 cm3. Khoảng 1,8 triệu năm trước thì xuất hiện kẻ thừa kế là giống Homo Erectus ( giống người đứng thẳng), có dung tích sọ khoảng 800 cm3. Vì có lợi thế hơn các sinh vật khác, loài người bắt đầu bành trướng, và chinh phục trái đất. Tới một triệu năm trước đây thiø giống người này đã có mặt ở Vùng Caucase, ven Địa Trung Hải phía Âu châu, và Trung Quốc rồi. Hậu duệ của Erectus là Sapiens (giống người hiểu biết) ; Từ Sapiens lại phân hai nhánh Sapiens Néandertal và Sapiens Sapiens. Giống Néandertal ( nhiều tác giả bỏ chữ Sapiens đầu) khởi sinh tại châu Âu và sống từ -500 000 năm đến khoảng - 30 000 năm thiø tịch diệt, họ có thể tích sọ từ 1200 đến 1500 cm3 . Còn giống Sapiens thì nảy sinh tại châu Phi cách đây khoảng 150 000 năm (+- 50000 năm) và toả ra dần (đây là lần thứ hai, sau hơn hai triệu năm, giống người nảy sinh và bành trướng từ châu Phi) cho đến khi chinh phục cả thế giới, cho đến ngày nay còn lại là giống người duy nhất, thể tích sọ trung bình của Sapiens là 1400 cm3, cũng như Néandertal thôi.
Vậy ngoài việc đó ra chúng ta có thể nói gì về khía cạnh tư duy của loài người thời tiền sử ? công việc thật gian nan ! Vì hoàn toàn là suy đoán từ những dấu vết gián tiếp, do đó có thể nói hầu như không có gì khẳng định được chắc chắn, mọi kết luận chỉ có thể được coi là " có lẽ đúng nhất, trong điều kiện hiện nay, và theo những giả thuyết hợp lý " và đều có thể bị đòi hỏi xét lại mỗi khi có những khám phá mới. Những sự kiện - dấu vết hiển nhiên quan trọng đó của tư duy mà người ta có thể khảo sát trên hiện vật khảo cổ là : sự chế ngự lửa, việc sáng chế các công cụ, các hình vẽ và tượng đá hay đất nung, các sản phẩm đất nung, việc thuần hoá thú vật, canh nông, chế độ dinh dưỡng, nơi cư ngụ... Qua những dấu vết cụ thể đó người ta cũng thấy được phần nào tổ chức xã hội.
Nhưng có lẽ về điều quan trọng nhất cho tư duy là ngôn ngữ của thời tiền sử này, thì người ta chỉ có thể suy diễn qua hai lối : một là dùng loại lý luận như : không thể có những sản phẩm phức tạp như thế, nếu không có một ngôn ngữ như thế..., hai là suy luận bằng cách so sánh tương đồng với các bộ lạc hiện nay còn sống trong tình trạng bán khai, công việc của các nhà nhân chủng học. Ta sẽ trở lại với ngôn ngữ trong một bài sau.
Thời đồ đá là một thuật ngữ thông dụng khác để chỉ thời tiền sử. Người ta phân biệt đồ đá cũ paléolithique (chia ra thành hạ kỳ inférieur từ - 4 triệu năm đến -2 triệu năm, trung kỳ moyen từ - 150 000 năm và thượng kỳ supérieur từ - 40 000 năm) ; sau tới thời đồ đá giữa từ -10 000 năm ; rồi thời đồ đá mới từ -6000 đến - 4000. Những con số thay đổi tuỳ nơi khảo sát, vì các thời kỳ đó được xác định bởi các kỹ thuật làm công cụ đá khác nhau, cùng với những thay đổi khác trong sinh hoạt, chứ không bằng những mốc thời gian tuyệt đối nào đó.
Người Neandertal đưa ma : hình vẽ trong động đá tại Namibie ; theo [1]
Loài người :
Nhưng trước hết : loài người bắt đầu từ bao giờ, tại sao gọi loài người ? Thuật ngữ sinh học Pháp/Anh có hai chữ genre và espèce / (genus, specie) mà từ điển Việt Nam đều gọi là loài, trong đời thường ở Âu Mỹ người ta cũng nhập nhằng như vậy. Nhưng ở đây xin tạm đề nghị dịch genre là loài, và espèce là giống, để phân biệt rõ : giống là một nhánh của loài (và loài dĩ nhiên còn là nhánh của một thứ khác... và có thể lên cao nữa trong một cấu trúc dạng cây của việc phân loại sinh vật). Người ta dùng một tiêu chuẩn quan trọng để chia giống, bên cạnh những tiêu chuẩn khác về hình dạng, về cấu trúc... đó là tiêu chuẩn " khả năng có thể cùng nhau sinh sản ", tạm dịch là tiêu chuẩn cộng sinh sản (interfécondité). Không đạt điều ấy tức là khác giống, mặc dầu có thể cùng loài.
Tới đây không thể không xin ra ngoài đề một đoạn : giống lại có thể chia nhánh thành chủng loại (race). Có thể có nhiều chủng loại khác nhau trong cùng một giống sinh vật ; và, vì khả năng cộng sinh sản, người ta có thể lai tạo các chủng loại để thành một chủng loại mới nếu thành công. Đó là với các sinh vật khác con người, chỉ có thể xác định chủng loại bằng ngoại hình. Với giống người thì khác, thứ nhất là nếu tính từ vài nghìn năm trước trở lại đây thiø chúng ta đều là con lai của các cuộc di dân khắp địa cầu. Thứ hai là nếu lấy ngoại hình để " nội suy " ra những giá trị tự tại của chủng tộc, như Đức Quốc Xã đã làm, thì lịch sử cận đại đã chứng tỏ đó là điều dã man, phản khoa học và vô văn hoá nhất. Có thể miễn cưỡng định nghĩa các chủng tộc trong giống người bằng ngoại hình, nhưng điều đó hoàn toàn vô ý nghĩa so với tầm quan trọng của khả năng tư duy tự tại, mà cho đến nay không có gì cho phép so sánh hơn kém giữa các dân tộc (1).
Trở lại loài người và các giống người. Câu hỏi : khi nào gọi là bắt đầu có loài người ? là một câu hỏi không dễ trả lời, nó tuỳ thuộc việc xác định thế nào là tiêu chuẩn phân biệt loài người và các loài khác, đặc biệt là loài khỉ - vượn... và ở đây lại chỉ có thể phân biệt bằng hình thức vật chất bề ngoài. Dễ hiểu tại sao chủ đề này gây bàn cãi sôi nổi, và sách vở báo chí nói đến rất nhiều, cho nên có lẽ ở đây chỉ nên tóm tắt những điều được đa số chấp nhận, nói chung có ít nhiều ước lệ, dựa trên một số định nghĩa tiên thiên a priori có phần võ đoán, và dựa trên những kết quả của ngành khảo cổ - nhân chủng học... với một số tương đối nhỏ những hiện vật khảo cổ, nhiều khi quá nhỏ để đem lại được một xác xuất đủ tin cậy cho việc phân loại và định hiønh. Nhiều khi chỉ một phát hiện mới có thể đánh đổ cả một giả thuyết đã được đa số công nhận trong vòng hàng chục năm, xem thí dụ [6]. Tuy nhiên càng gần chúng ta thì hiện vật càng nhiều và độ tin cậy của những giả thuyết và suy đoán càng cao. Những hiểu biết hiện đại về thời đồ đá giữa thiø đã chính xác lắm rồi, vì hiện vật khảo cổ rất nhiều. Trước đó thiø để xác định một giống người có khi người ta chỉ dựa trên hai ba bộ xương.
Các giống người
Hiện nay người ta cho rằng loài người xuất hiện do một sự đảo lộn khí hậu đã xẩy ra khoảng từ 5 đến 2,5 triệu năm trước, khí hậu nóng lên khiến cho tại châu Phi trong một vùng rộng lớn rừng biến mất dần mà trở thành đồng cỏ khô (savane). Nơi đó các giống khỉ vượn sống trên cây không thích nghi được thiø biến đi dần, trừ một loài ' tinh tinh ' (2) do đột biến gien mà đi được trên hai chân, giải phóng được hai tay, và có bộ răng tốt để ăn thịt... đã thích nghi được với môi trường mới này. Vì thiếu rau cỏ, cần chuyển sang ăn thịt, tức cần chạy nhanh để đuổi bắt các con thú với hai tay linh động ( dĩ nhiên loài thú bốn chân có thể chạy nhanh và săn đuổi tốt hơn, nhưng không thể tiến hoá từ khỉ ngược trở lại được, loài khỉ đã tương đối giải phóng được hai tay rồi để leo trèo trên cây).
Thế rồi tư thế đứng đem lại một món quà bất ngờ, đó là cái đầu và bộ não được phát triển tự do hơn so với các loài thú, vì tư thế đầu thẳng trên cổ thì độc lập hơn với trọng trường. Rồi những đột biến gien khác đem lại tiềm năng ngôn ngữ (3) cộng với khả năng phát âm giàu có hơn... tới đây thiø giống tinh tinh mới này được xếp vào loài người, và đã khởi đi một quá trình tiến hoá đặc biệt người rồi : đó là tư duy bắt đầu có tác động đến sự chọn lọc tự nhiên. Trí thông minh, biểu hiện qua khả năng làm công cụ, khả năng trao đổi và tổ chức cuộc sống theo bầy lũ... trở thành một lợi thế của chọn lọc tự nhiên, chứ không còn thuần tuý là bản năng và sức mạnh vật chất của bắp thịt nữa. Chính trong nghĩa đó mà có tác gia đã nói con người làm ra công cụ, nhưng trong một nghĩa nào đó, chính công cụ cũng lại làm ra con người. Và điều này hiện nay vẫn còn đúng.
Erectus
Sao lại có sự trùng hợp lạ lùng và xảo diệu thế ? Đó là điều những người không chấp nhận thuyết tiến hoá thường thốt ra. Nhưng chúng ta không nên quên quá trình tiến hoá này đã diễn ra trong hàng triệu năm, và kết quả xảo diệu chỉ là cái còn lại sau khi biết bao nhiêu " giải pháp " không thoả đáng đã bị triệt tiêu trong ngõ cụt. Đột biến gien là chuyện xẩy ra thường xuyên, và khi đó xác xuất không sống được là rất lớn.
Neandertal
Những sinh vật đầu tiên được gọi là loài người đó, có thể có từ 5 triệu năm trước hay 2,5 triệu năm trước, mang hai đặc tính : đi trên hai chân, và làm công cụ bằng đá; và đó là giống Homo Habilis ( giống người khéo léo). Homo Habilis có thể tích sọ từ 600 đến 650 cm3. Khoảng 1,8 triệu năm trước thì xuất hiện kẻ thừa kế là giống Homo Erectus ( giống người đứng thẳng), có dung tích sọ khoảng 800 cm3. Vì có lợi thế hơn các sinh vật khác, loài người bắt đầu bành trướng, và chinh phục trái đất. Tới một triệu năm trước đây thiø giống người này đã có mặt ở Vùng Caucase, ven Địa Trung Hải phía Âu châu, và Trung Quốc rồi. Hậu duệ của Erectus là Sapiens (giống người hiểu biết) ; Từ Sapiens lại phân hai nhánh Sapiens Néandertal và Sapiens Sapiens. Giống Néandertal ( nhiều tác giả bỏ chữ Sapiens đầu) khởi sinh tại châu Âu và sống từ -500 000 năm đến khoảng - 30 000 năm thiø tịch diệt, họ có thể tích sọ từ 1200 đến 1500 cm3 . Còn giống Sapiens thì nảy sinh tại châu Phi cách đây khoảng 150 000 năm (+- 50000 năm) và toả ra dần (đây là lần thứ hai, sau hơn hai triệu năm, giống người nảy sinh và bành trướng từ châu Phi) cho đến khi chinh phục cả thế giới, cho đến ngày nay còn lại là giống người duy nhất, thể tích sọ trung bình của Sapiens là 1400 cm3, cũng như Néandertal thôi.