Post by Huu Le on Nov 21, 2006 10:03:47 GMT 9
Năm chó...Nói chuyện Ăn Thịt Chó
Nguyễn Quốc Bảo
Bất thực cẩu nhục, bất tri thiên hạ đại vị,, không ăn thịt chó, thì không biết miếng ngon trong thiên hạ! Cổ nhân thật đa ngôn, ăn to nói lớn. Mấy đám hậu sinh ngông cuồng không kém, tên bồ tèo nối khố HLT, năm gà chưa đi, năm chó chưa tới, y đã la làng, năm chó nói chuyện chó. Tên bồ tèo nối khố khác, tu bíp LĐT, trời trở lạnh trên New Jersey, nghe nói đến chó, vội vã xưng danh ngay: hội trưởng ăn thịt cầy Y khoa Huế, hội trưởng hội ăn nhậu Tổng y viện Cộng Hòa! Tôi e có nợ với tên HLT, đôi khi đọc tạp văn hắn, vật tư lại cồn cào cấn cấn, nghe phè phè trong người, sinh khó ở, nên lại phải ra chiêu, tuy ngoằng nghoèo, nhưng cũng mong dốc được bầu tâm sự.
Lại nữa, đã định tu thân, không xía chi tới chuyện giang hồ, ngồi nhà tay thay tả tay...đếm bạc (mấy chữ ni là bồ tèo HNH tặng tui), bởi đang rung cây nhát khỉ, quyên tiền (đếm bạc) giúp trẻ em mồ côi Việt Nam cho tên bồ tèo khác, NXH, về xứ ăn tết... với trẻ em mồ côi! Nhưng rồi định mệnh éo le, rung cây không có khỉ nữa, hết đếm bạc, thôi thì tay thay tả tay lại múa gậy vườn hoang.
Hắn nói chuyện chó, tu bíp lại là thực cẩu tài tử, nên xin viết vài hàng tào lao, tri âm với hai khổ chủ này. Chuyện ăn thịt cầy, nhan nhản những khảo cứu, bình luận hít hà, nhiều lắm đọc không hết. Khoái khẩu đại tài tử, Vũ bằng Tiên sinh, trong muôn một, đã từng làm rạng rỡ, tuy là một cách kín đáo rào trước đón sau, món ăn dân tộc quốc hồn quốc túy. Chuyện ăn thịt cầy ăn sướng miệng nhưng lại là một tabou, kiêng kỵ, kiêng đả động đến, nên phải ăn nói dè dặt chăng? Hai thế giới Đông Tây không đồng ý trên lãnh vực khoái khẩu này. Tỷ dụ gần đây tổ chức đá bóng FIFA a dua với tổ chức bảo vệ động vật ép buộc Triều Tiên ra lệnh cấm ăn thịt chó trong dịp giải World Cup (2002), cũng như trước đây, dịp thế vận hội tại Hán thành 1988, các tiệm mộc tồn cũng phải tạm thời đóng cửa hoặc di cư tị nạn về đồng quê. Bây giờ đến lượt mấy cha Chệt đỏ, muốn tổ chức Thế vận hội Bắc kinh 2008, là phải dẹp hết mấy tiệm cẩu xực ở kinh đô. Vậy thì lịch sử ăn thịt chó và tiến trình của nó như thế nào?
Cổ nhân Á châu ăn thịt chó từ đời...thời kỳ đồ đá! Thịt cầy thường được gọi là hương nhục, thịt thơm hay địa dương, dê đất. Từ thời tiền sử, con cầy là một trong thú vật đầu tiên nhân loại đã thuần hóa. Cầy đi vào đời sống dân gian, giúp đỡ mở mang kinh tế. Dùng cầy đi săn, trợ giúp văn minh nông nghiệp, giữ dìn nhà cửa trang trại. Truyền thuyết, cầy đi săn, đem về một hột giống, cốc lạp, từ một thiên giới nào đó, khi qua sông đã phải bỏ trên đuôi cho khỏi rớt, hột giống này sinh ra hạt lúa (thóc) hay hạt kê (millet). Nhiều chốn đồng quê Tây Nam Bách Việt, ngày rằm tháng giêng, làm tiệc đãi chó để trả ơn.
Có lẽ vì chó là gia súc chủ chốt trong lịch sử nhân loại, có thể chế gần gũi, cho nên xã hội nguyên thủy đã dùng chó làm tế vật cúng thần linh và tổ tiên. Thế nhưng, tế vật phải là đồ ăn được và ăn ngon, do đó nhân loại bắt đầu xực cẩu! Ai ăn thịt cầy cũng được, trừ phù thủy, vì chó thính mũi, có thể đánh hơi được thần linh, nhậu thịt cầy dzô sẽ mất hết ma thuật! Khởi nguyên sát cẩu từ thời nào, thì không được rõ ràng. Sử Tàu có chép lệ cúng đầu năm, Vu sát cẩu tế tự. Bố Y tộc, một bộ lạc xứ Bách Việt (thân thiết với Lạc Việt) ghi chú chuyện cổ tích, dùng thịt cầy cúng Nhương (lễ cầu giải trừ tai họa) đã cứu nhiều nông dân bị liệt sau khi đi ươm mạ ở các ruộng ẩm thấp.
Xin trình làng một chuyện lịch sử : Từ thời cổ đại, ăn thịt chó là tập tục của Bố Y tộc và lũ hậu duệ (con cháu) nòi Việt, gọi Việt nhân , tức giống Việt. Ngày xưa các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt đều là nòi của giống Việt ở, gọi là Bách Việt. Như giống Âu Việt thì ở Chiết Giang, Mân Việt thì ở Phúc Kiến , Dương Việt thì ở Giang Tây, Nam Việt thì ở Quảng Đông, Lạc Việt thì ở nước Việt Nam ta, tất cả đều gọi là Bách Việt cả. Thành ra lịch sử xực thịt cầy có quan hệ mật thiết với nòi giống Việt!
Sách Quốc ngữ - Việt ngữ thượng chép: Việt Vương Câu Tiễn, nằm gai nếm mật ngọa tân thường đảm, chuẩn bị tái khởi dành lại đông sơn, ra lệ cho quốc nhân sinh nhiều con cái, tăng gia binh nguyên: sinh một con trai, tưởng lệ hai hồ rượu và một con cầy; sinh con gái tưởng lệ hai hồ rượu và một con heo (lợn, lão trư)! Cho thấy quý bà có tin mừng hoan hỉ xực thịt cầy đã đời, và từ thời Câu Tiễn, thịt chó đã được quý trọng hơn thịt heo!
Sử kí Việt Vương Câu Tiễn thế gia còn chép chuyện Phạm Lãi, sau khi giúp Câu Tiễn trả mối thù xưa dẹp tan nước Ngô, Pham Lãi hồi lai Tề quốc, viết thơ riêng cho Đại Phu Văn Chủng, nói "điểu một hữu liễu, nhân môn tựu bả lương cung tàng khởi lai, nhi thố tử đả hoàn liễu, chủ nhân thường thường bả liệp cẩu sát lai cật ", nghĩa chim chết xong rồi, người ta cầm cất cung đi, thỏ đã chết rồi, chủ thường giết chó săn. Chắc là để ăn thịt chứ còn làm gì nữa! Phạm Lãi lại nói Câu Tiễn cổ hươu miệng chim, loại người này chỉ chơi được trong hoạn nạn, lúc thành công nên xa chạy cao bay, tránh tai họa xảy tới. Đó là lai lịch sau này của thành ngữ "Thố tử cẩu phanh", thỏ chết chó săn đem nấu. Cũng là lai lịch "Điểu tận cung tàn", chim chết xếp cung.
Việt nhân và lũ Việt hậu duệ tức con cháu, đưa ảnh hưởng văn hóa "hỉ hoan thực cẩu nhục", hoan hỉ ăn thịt chó, đến những địa khu khác. Quảng đông khi đó xưng là Việt, thời Tần, Quảng đông thuộc địa khu Bách Việt thụ đáo ảnh hưởng ăn thịt chó một cách rất hoan hỉ! Tục ngữ còn nói "Cẩu phạ lão Quảng", chó sợ dân Quảng, ý nói dân Quảng thường mở miệng nghị luận "sát cẩu"! Cũng vì dây dưa địa lý qua Hàn bán đảo (Thượng Hải, Triết Giang...) mà dân triều Tiên ăn thịt chó như điên! Người Triều Tiên, 92% liền ông 68% liền bà, xực mỗi năm 1 triệu con cầy. Vậy thì Ăn thịt cầy là Văn hóa Bách Việt, và dân Việt đã truyền bá và bảo tồn truyền thống văn hóa thịt cầy một cách vẻ vang.
Tình yêu thịt cầy vô bờ bến nảy sinh những luận điệu: " quải dương đầu, mại cẩu nhục ", treo đầu dê bán thịt chó! " phì dương để bất thượng sấu cẩu " dê béo không bằng chó gầy, " nhất hoàng nhị hắc tam bạch " số dách chó vàng, hai chó đen, ba chó trắng. Lí Thì Trân, người Hồ Bắc, đời Minh (1368-1644), danh y dược học gia, trong "Bản thảo cương mục" giới thiệu tác dụng của thịt cầy trong bốn dược phương khác nhau. Đất Quý châu, dân Bố Y tộc, làm việc quanh năm ở thủy điền, nhậu thịt cầy thường xuyên, khu phong khư thấp và lại ôn bổ thân thể! Cũng ở miền cao nguyên Quý châu đông con cháu Việt nhân, có loại chó Hoa Giang, Hoa Giang cẩu nhục, nổi tiếng số môt, trẻ sơ sinh ơ xứ này mới ra đời đã đòi ăn!
Bắc sử man liêu chép, cho đến nay, dân một bộ tộc tỉnh Tứ Xuyên nếu lỡ vì thù hận mà sinh sát giết nhau, rồi phải "tẩu tị ngoại, cầu đắc nhất cẩu dĩ tạ, bất phục hiềm hận ", chạy đi tị ngoại, tìm được một con cầy làm đồ tự tạ, chẳng phục hiềm lại hận thù nữa! Thậm chí cha con giận nhau động võ, cũng dùng chó để giải hòa! Ngạn ngữ còn nói "đại cẩu nhất đầu, mại nhất sinh khẩu", một đầu chó, mua được miệng người! Do đó mới thấy duyên cớ sâu đậm của tình yêu thịt cầy trong dân gian!
Dân Chệt ăn thịt chó, ở đâu cũng có, thịnh hành nhất là các tỉnh đông bắc và nhất là Quý châu, Quảng tây, Quảng đông, Phúc kiến. Ở Âu châu, thời tiểu băng kì thế kỷ 14, vì nạn đói, dân chúng ăn thịt cầy. Khi kinh đô Ba lê bị bao vây năm 1870, cũng xẩy ra vụ xực mộc tồn. Nhưng tại là bắt buộc nên phải ăn, chứ không cẩu xực một cách hoan hỉ như dân Việt. Vấn đề dị ứng giữa đông và tây về khoái khẩu là một chuyện nan giải. Thế nhưng ông tây bà đầm viết báo ở Đức và Pháp, khi trích dẫn Bắc kinh và Hán thành đã thực hiện những tiến bộ đồ sộ trong lãnh vực không ăn thịt chó, thì đó là những tiến bộ chi? Nòi Việt mất cả mấy thế kỷ để có một văn hóa vẻ vang ăn thịt cầy, thế không phải là tiến bộ Kolossal sao! Cả hoàn cầu ăn thịt heo, nhóm hồi giáo không ăn, thế thì phải khuyên rệp ăn thịt lợn để làm tiến bộ sao? Nhưng chả thấy ai động đến chân lông mấy tên rệp ví sợ khó khăn dầu lửa. Đức trước đây chê Pháp ăn mấy con ét cạc gô o bơ là dã man lạc hậu, Nhật thuở xưa cũng ăn thịt cầy, bây giờ theo hùa "bảo vệ động vật". Thái dám chửi Việt nam "Đồ ăn thịt chó, cút về nước!". Việt Nam ta cười dân Căm bốt ăn mắm bò hóc...Thiệt là miếng ăn là miêng tồi tàn, nhưng không khoái khẩu, làm sao nhân loại tồn tại đến giờ phút này? Dân Quảng đông ăn tất cả cái chi có bốn chân, trừ bàn và ghế, tất cả cái chi bay trên trời, trừ trực thăng...Tôi đã từng ăn bò cạp chiên ở Miến Điện, châu chấu cào cào rang ở Bắc phi, đều hẩu xực cả. Còn thịt ngựa? Ở Âu châu, gia súc ni gần người hơn cẩu, làm ruộng, kéo xe, đánh cá ngựa... nhưng bíp tếch ngựa là món ăn thượng hạng của các thể tháo gia, và giúp cho chốn phòng the nhiều chuyện thoải mái. Ở Pháp, boucherie chevaline rất được trọng đãi và xịt tếch ngựa rất đắt tiền. Thái lan, Mỹ la tinh ăn cá sấu, dân đồng bằng sông Nil, nhất là dân Ai cập, khoái ăn thịt trâu hơn thịt bò. Xứ mình ăn rùa, rắn, chuột, ba ba, cua đinh...Ơ Trung quốc, nhiều xứ hay thiểu số (Mãn châu, Hà bắc,...) không ăn thịt cầy không phải để bảo vệ chó, nhưng là vì truyền thuyết lịch sử, khi thì chó cứu vua này, khi thì vua kia sống nhờ sữa chó, v v...
Thịt chó hàm tính ôn, bổ trung ích khí, ôn thận mà lại trợ dương. Tráng dương nhiều nên dân Hán dùng làm bổ phẩm cho mùa đông lạnh lẽo. Dân Triều tiên lại nói thịt chó thanh nhiệt khư hỏa! Dân nghiện cầy tơ, biết thịt cầy thơm phức nên gọi là hương nhục, giá trị dinh dưỡng rất cao, 100gr thịt có 14.5gr prồ tê in, 23.5gr chất béo, nhiều potassium, calcium, phosphorus, nhiều loại vitamin và amino acid, tính lại nhập dược, nghĩa là chữa được bệnh có tính cách phổ tế cứu nguy! Vì khư phong khư hàn nên hầu hết các ba chệt ở xứ lạnh phải xực thịt cầy lúc nhập đông, hạt liễu cẩu nhục thang, đông thiên năng bả miên bị đang, uống súp thịt cầy, như mùa đông đắp chăn bông! Y học hiện đại nghiên cứu, chứng minh thịt cầy có vài nguyên tố hi hữu, trị được bệnh tâm não khuyết huyết, điều chỉnh cao huyết áp. Thịt chó rất khả dụng cho lão nhân bị hư nhược, tiểu tiện bất tận, tứ chi lạnh ngắt, tinh thần bất chấn, ăn thịt chó nướng hồng thiêu, các cụ sẽ tăng cường năng lực kháng hàn! Chu choa, ca tụng chi nhiều rứa, mà đâu đã hết. Còn an ngũ tạng, khinh thân, ích khí, bổ vị (dạ dày), noãn yêu tất (ấm lưng đầu gối), ích thận, trán khí lực, bổ ngũ lao thất thương, bổ huyết mạch! Mấy cái ni thì phải nhờ bồ tèo đồng môn PNH, y dược tinh thông, kiểm lại, chứ coi bộ thổi phồng phóng đại dược tính của cẩu nhục quá chừng!
Truyền thuyết nói phẩm chất thịt chó tùy thuộc màu lông chó. Trên đây có kể: nhất hoàng nhị hắc tam bạch, nhiều chuyên gia khác lại cho: nhất hắc nhị hoàng tam hoa tứ bạch. Có kẻ lại nói: hoàng cẩu vi thượng, bạch cẩu thứ chi, hắc cấu vi hạ! Thế nhưng ở Việt Nam tôi lại nghe: Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Chết chửa, thế thì các sư phụ cẩu xực lại ăn nói huyên thuyên, xếp hạng đẳng cấp không ăn khớp với nhau. Nói chung chú vện (hoàng cẩu) được sắp số một hay số hai, còn các chú hắc bạch hoa đốm không được đa số biểu đồng tình một cách thuần nhất! Có lẽ phẩm chất cầy tơ xếp theo màu lông thay đổi tùy theo địa dư và khí hậu? Dân Việt Lạc coi bộ sợ xui, không giám ăn chó đen, nhưng có nhiều đại tài tử lại thích nhất hắc, nhị hoàng,...trong đó hình như có linh mục C V L, Viện trưởng trường Đại học Huế, bạn đồng tình với Lỗ trí Thâm. Dạo đó ở Huế nghe nói ăn cẩu đen chữa lành bệnh lao phổi!
Nòi Việt ăn thịt chó, có Âu, Chiết, Mân, Dương, Nam...mà có lẽ Lạc Việt (dân ta đó!) dẫn đầu về nghệ thuật nấu nướng. Thât vậy, ở Tàu và Triều Tiên quanh đi quẩn lại, cũng chỉ hồng thiêu nướng, thanh đốn luộc, du bộc chiên dòn, lỗ chế đẳng chó hầm với nước dùng nhiều gia vị, hồng thự thiêu cẩu nhục chó nướng khoai (củ mài) đỏ, hoài kỉ đốn cẩu nhục thịt chó chưng cách thủy với hoài kỉ...Ngày xưa có những món thịt cầy nổi tiếng, như Giang tô Bái huyện cẩu nhục, truyền thuyết thời Tần mạt, đại tướng Phàn Khoái của Lưu Bang phát minh ra món cẩu nhục phán tử, ngon dở ra sao hậu sinh không biết! Dân Quảng đông Trạm Giang (Zhanjiang) quanh năm ăn món Bạch Thiết cẩu nhục. Dân thành thị Quảng Châu Triệu Khánh lưu hành món Quảng đông cẩu nhục bao, bao đây nồi đất, món ăn chắc là dog stew trong nồi đất! Ở Cát Lâm (Jilin) Diên Cát, thịnh hành món súp Bổ thân thang, hay thịt chó cù lao hot pot (hỏa oa), với các biến thể hồng tảo (táo đỏ, red jujube) cẩu nhục, can kháo (khốc) cẩu nhục, hương lạt (cay tê lưỡi!) cẩu nhục ti (cắt mỏng) đẳng! Hình như ở Bắc kinh hay Thượng hải, có tiệm Thực quản chuyên về món hot pot hỏa oa này. Tiệm tự hào 2 món độc đáo, nồi đất nung (sành) và thịt chó. Nồi cổ đây do tiệm làm lấy từ bao nhiêu năm, thịt chó là hương thôn phong vị, tức là chó làng, gia vị mua từ Yiyang. Chó làng đây có tiêu chuẩn hoàng giang cẩu, nấu liu riu nhỏ lữa mạn hỏa 3 tiếng đồng hồ, ăn nồi cù lao béo ngậy này rồi cởi trần đi trượt tuyết cũng không thấy lạnh! Muốn chắc bụng và tận hưởng nuớc súp, ăn thêm bún khoai mài, thự phấn...Ở Triều Tiên súp chó gọi là Boshintang, nấu có đủ gia vị của súp kim chi Doenjang, nhưng mấy cha Hàn quốc lại nói ăn súp này để chịu nóng mùa hè, thanh nhiệt khư hỏa! Dân Triều Tiên cho "cẩu nhục thang, dĩ nhiệt trị nhiệt" (súp thịt chó dùng nóng trị nóng). Thiệt là vượt qua núi Pyrénées, sự thật cũng thay đổi, như mấy ông Tây hay nói !
Nguyễn Quốc Bảo
Bất thực cẩu nhục, bất tri thiên hạ đại vị,, không ăn thịt chó, thì không biết miếng ngon trong thiên hạ! Cổ nhân thật đa ngôn, ăn to nói lớn. Mấy đám hậu sinh ngông cuồng không kém, tên bồ tèo nối khố HLT, năm gà chưa đi, năm chó chưa tới, y đã la làng, năm chó nói chuyện chó. Tên bồ tèo nối khố khác, tu bíp LĐT, trời trở lạnh trên New Jersey, nghe nói đến chó, vội vã xưng danh ngay: hội trưởng ăn thịt cầy Y khoa Huế, hội trưởng hội ăn nhậu Tổng y viện Cộng Hòa! Tôi e có nợ với tên HLT, đôi khi đọc tạp văn hắn, vật tư lại cồn cào cấn cấn, nghe phè phè trong người, sinh khó ở, nên lại phải ra chiêu, tuy ngoằng nghoèo, nhưng cũng mong dốc được bầu tâm sự.
Lại nữa, đã định tu thân, không xía chi tới chuyện giang hồ, ngồi nhà tay thay tả tay...đếm bạc (mấy chữ ni là bồ tèo HNH tặng tui), bởi đang rung cây nhát khỉ, quyên tiền (đếm bạc) giúp trẻ em mồ côi Việt Nam cho tên bồ tèo khác, NXH, về xứ ăn tết... với trẻ em mồ côi! Nhưng rồi định mệnh éo le, rung cây không có khỉ nữa, hết đếm bạc, thôi thì tay thay tả tay lại múa gậy vườn hoang.
Hắn nói chuyện chó, tu bíp lại là thực cẩu tài tử, nên xin viết vài hàng tào lao, tri âm với hai khổ chủ này. Chuyện ăn thịt cầy, nhan nhản những khảo cứu, bình luận hít hà, nhiều lắm đọc không hết. Khoái khẩu đại tài tử, Vũ bằng Tiên sinh, trong muôn một, đã từng làm rạng rỡ, tuy là một cách kín đáo rào trước đón sau, món ăn dân tộc quốc hồn quốc túy. Chuyện ăn thịt cầy ăn sướng miệng nhưng lại là một tabou, kiêng kỵ, kiêng đả động đến, nên phải ăn nói dè dặt chăng? Hai thế giới Đông Tây không đồng ý trên lãnh vực khoái khẩu này. Tỷ dụ gần đây tổ chức đá bóng FIFA a dua với tổ chức bảo vệ động vật ép buộc Triều Tiên ra lệnh cấm ăn thịt chó trong dịp giải World Cup (2002), cũng như trước đây, dịp thế vận hội tại Hán thành 1988, các tiệm mộc tồn cũng phải tạm thời đóng cửa hoặc di cư tị nạn về đồng quê. Bây giờ đến lượt mấy cha Chệt đỏ, muốn tổ chức Thế vận hội Bắc kinh 2008, là phải dẹp hết mấy tiệm cẩu xực ở kinh đô. Vậy thì lịch sử ăn thịt chó và tiến trình của nó như thế nào?
Cổ nhân Á châu ăn thịt chó từ đời...thời kỳ đồ đá! Thịt cầy thường được gọi là hương nhục, thịt thơm hay địa dương, dê đất. Từ thời tiền sử, con cầy là một trong thú vật đầu tiên nhân loại đã thuần hóa. Cầy đi vào đời sống dân gian, giúp đỡ mở mang kinh tế. Dùng cầy đi săn, trợ giúp văn minh nông nghiệp, giữ dìn nhà cửa trang trại. Truyền thuyết, cầy đi săn, đem về một hột giống, cốc lạp, từ một thiên giới nào đó, khi qua sông đã phải bỏ trên đuôi cho khỏi rớt, hột giống này sinh ra hạt lúa (thóc) hay hạt kê (millet). Nhiều chốn đồng quê Tây Nam Bách Việt, ngày rằm tháng giêng, làm tiệc đãi chó để trả ơn.
Có lẽ vì chó là gia súc chủ chốt trong lịch sử nhân loại, có thể chế gần gũi, cho nên xã hội nguyên thủy đã dùng chó làm tế vật cúng thần linh và tổ tiên. Thế nhưng, tế vật phải là đồ ăn được và ăn ngon, do đó nhân loại bắt đầu xực cẩu! Ai ăn thịt cầy cũng được, trừ phù thủy, vì chó thính mũi, có thể đánh hơi được thần linh, nhậu thịt cầy dzô sẽ mất hết ma thuật! Khởi nguyên sát cẩu từ thời nào, thì không được rõ ràng. Sử Tàu có chép lệ cúng đầu năm, Vu sát cẩu tế tự. Bố Y tộc, một bộ lạc xứ Bách Việt (thân thiết với Lạc Việt) ghi chú chuyện cổ tích, dùng thịt cầy cúng Nhương (lễ cầu giải trừ tai họa) đã cứu nhiều nông dân bị liệt sau khi đi ươm mạ ở các ruộng ẩm thấp.
Xin trình làng một chuyện lịch sử : Từ thời cổ đại, ăn thịt chó là tập tục của Bố Y tộc và lũ hậu duệ (con cháu) nòi Việt, gọi Việt nhân , tức giống Việt. Ngày xưa các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt đều là nòi của giống Việt ở, gọi là Bách Việt. Như giống Âu Việt thì ở Chiết Giang, Mân Việt thì ở Phúc Kiến , Dương Việt thì ở Giang Tây, Nam Việt thì ở Quảng Đông, Lạc Việt thì ở nước Việt Nam ta, tất cả đều gọi là Bách Việt cả. Thành ra lịch sử xực thịt cầy có quan hệ mật thiết với nòi giống Việt!
Sách Quốc ngữ - Việt ngữ thượng chép: Việt Vương Câu Tiễn, nằm gai nếm mật ngọa tân thường đảm, chuẩn bị tái khởi dành lại đông sơn, ra lệ cho quốc nhân sinh nhiều con cái, tăng gia binh nguyên: sinh một con trai, tưởng lệ hai hồ rượu và một con cầy; sinh con gái tưởng lệ hai hồ rượu và một con heo (lợn, lão trư)! Cho thấy quý bà có tin mừng hoan hỉ xực thịt cầy đã đời, và từ thời Câu Tiễn, thịt chó đã được quý trọng hơn thịt heo!
Sử kí Việt Vương Câu Tiễn thế gia còn chép chuyện Phạm Lãi, sau khi giúp Câu Tiễn trả mối thù xưa dẹp tan nước Ngô, Pham Lãi hồi lai Tề quốc, viết thơ riêng cho Đại Phu Văn Chủng, nói "điểu một hữu liễu, nhân môn tựu bả lương cung tàng khởi lai, nhi thố tử đả hoàn liễu, chủ nhân thường thường bả liệp cẩu sát lai cật ", nghĩa chim chết xong rồi, người ta cầm cất cung đi, thỏ đã chết rồi, chủ thường giết chó săn. Chắc là để ăn thịt chứ còn làm gì nữa! Phạm Lãi lại nói Câu Tiễn cổ hươu miệng chim, loại người này chỉ chơi được trong hoạn nạn, lúc thành công nên xa chạy cao bay, tránh tai họa xảy tới. Đó là lai lịch sau này của thành ngữ "Thố tử cẩu phanh", thỏ chết chó săn đem nấu. Cũng là lai lịch "Điểu tận cung tàn", chim chết xếp cung.
Việt nhân và lũ Việt hậu duệ tức con cháu, đưa ảnh hưởng văn hóa "hỉ hoan thực cẩu nhục", hoan hỉ ăn thịt chó, đến những địa khu khác. Quảng đông khi đó xưng là Việt, thời Tần, Quảng đông thuộc địa khu Bách Việt thụ đáo ảnh hưởng ăn thịt chó một cách rất hoan hỉ! Tục ngữ còn nói "Cẩu phạ lão Quảng", chó sợ dân Quảng, ý nói dân Quảng thường mở miệng nghị luận "sát cẩu"! Cũng vì dây dưa địa lý qua Hàn bán đảo (Thượng Hải, Triết Giang...) mà dân triều Tiên ăn thịt chó như điên! Người Triều Tiên, 92% liền ông 68% liền bà, xực mỗi năm 1 triệu con cầy. Vậy thì Ăn thịt cầy là Văn hóa Bách Việt, và dân Việt đã truyền bá và bảo tồn truyền thống văn hóa thịt cầy một cách vẻ vang.
Tình yêu thịt cầy vô bờ bến nảy sinh những luận điệu: " quải dương đầu, mại cẩu nhục ", treo đầu dê bán thịt chó! " phì dương để bất thượng sấu cẩu " dê béo không bằng chó gầy, " nhất hoàng nhị hắc tam bạch " số dách chó vàng, hai chó đen, ba chó trắng. Lí Thì Trân, người Hồ Bắc, đời Minh (1368-1644), danh y dược học gia, trong "Bản thảo cương mục" giới thiệu tác dụng của thịt cầy trong bốn dược phương khác nhau. Đất Quý châu, dân Bố Y tộc, làm việc quanh năm ở thủy điền, nhậu thịt cầy thường xuyên, khu phong khư thấp và lại ôn bổ thân thể! Cũng ở miền cao nguyên Quý châu đông con cháu Việt nhân, có loại chó Hoa Giang, Hoa Giang cẩu nhục, nổi tiếng số môt, trẻ sơ sinh ơ xứ này mới ra đời đã đòi ăn!
Bắc sử man liêu chép, cho đến nay, dân một bộ tộc tỉnh Tứ Xuyên nếu lỡ vì thù hận mà sinh sát giết nhau, rồi phải "tẩu tị ngoại, cầu đắc nhất cẩu dĩ tạ, bất phục hiềm hận ", chạy đi tị ngoại, tìm được một con cầy làm đồ tự tạ, chẳng phục hiềm lại hận thù nữa! Thậm chí cha con giận nhau động võ, cũng dùng chó để giải hòa! Ngạn ngữ còn nói "đại cẩu nhất đầu, mại nhất sinh khẩu", một đầu chó, mua được miệng người! Do đó mới thấy duyên cớ sâu đậm của tình yêu thịt cầy trong dân gian!
Dân Chệt ăn thịt chó, ở đâu cũng có, thịnh hành nhất là các tỉnh đông bắc và nhất là Quý châu, Quảng tây, Quảng đông, Phúc kiến. Ở Âu châu, thời tiểu băng kì thế kỷ 14, vì nạn đói, dân chúng ăn thịt cầy. Khi kinh đô Ba lê bị bao vây năm 1870, cũng xẩy ra vụ xực mộc tồn. Nhưng tại là bắt buộc nên phải ăn, chứ không cẩu xực một cách hoan hỉ như dân Việt. Vấn đề dị ứng giữa đông và tây về khoái khẩu là một chuyện nan giải. Thế nhưng ông tây bà đầm viết báo ở Đức và Pháp, khi trích dẫn Bắc kinh và Hán thành đã thực hiện những tiến bộ đồ sộ trong lãnh vực không ăn thịt chó, thì đó là những tiến bộ chi? Nòi Việt mất cả mấy thế kỷ để có một văn hóa vẻ vang ăn thịt cầy, thế không phải là tiến bộ Kolossal sao! Cả hoàn cầu ăn thịt heo, nhóm hồi giáo không ăn, thế thì phải khuyên rệp ăn thịt lợn để làm tiến bộ sao? Nhưng chả thấy ai động đến chân lông mấy tên rệp ví sợ khó khăn dầu lửa. Đức trước đây chê Pháp ăn mấy con ét cạc gô o bơ là dã man lạc hậu, Nhật thuở xưa cũng ăn thịt cầy, bây giờ theo hùa "bảo vệ động vật". Thái dám chửi Việt nam "Đồ ăn thịt chó, cút về nước!". Việt Nam ta cười dân Căm bốt ăn mắm bò hóc...Thiệt là miếng ăn là miêng tồi tàn, nhưng không khoái khẩu, làm sao nhân loại tồn tại đến giờ phút này? Dân Quảng đông ăn tất cả cái chi có bốn chân, trừ bàn và ghế, tất cả cái chi bay trên trời, trừ trực thăng...Tôi đã từng ăn bò cạp chiên ở Miến Điện, châu chấu cào cào rang ở Bắc phi, đều hẩu xực cả. Còn thịt ngựa? Ở Âu châu, gia súc ni gần người hơn cẩu, làm ruộng, kéo xe, đánh cá ngựa... nhưng bíp tếch ngựa là món ăn thượng hạng của các thể tháo gia, và giúp cho chốn phòng the nhiều chuyện thoải mái. Ở Pháp, boucherie chevaline rất được trọng đãi và xịt tếch ngựa rất đắt tiền. Thái lan, Mỹ la tinh ăn cá sấu, dân đồng bằng sông Nil, nhất là dân Ai cập, khoái ăn thịt trâu hơn thịt bò. Xứ mình ăn rùa, rắn, chuột, ba ba, cua đinh...Ơ Trung quốc, nhiều xứ hay thiểu số (Mãn châu, Hà bắc,...) không ăn thịt cầy không phải để bảo vệ chó, nhưng là vì truyền thuyết lịch sử, khi thì chó cứu vua này, khi thì vua kia sống nhờ sữa chó, v v...
Thịt chó hàm tính ôn, bổ trung ích khí, ôn thận mà lại trợ dương. Tráng dương nhiều nên dân Hán dùng làm bổ phẩm cho mùa đông lạnh lẽo. Dân Triều tiên lại nói thịt chó thanh nhiệt khư hỏa! Dân nghiện cầy tơ, biết thịt cầy thơm phức nên gọi là hương nhục, giá trị dinh dưỡng rất cao, 100gr thịt có 14.5gr prồ tê in, 23.5gr chất béo, nhiều potassium, calcium, phosphorus, nhiều loại vitamin và amino acid, tính lại nhập dược, nghĩa là chữa được bệnh có tính cách phổ tế cứu nguy! Vì khư phong khư hàn nên hầu hết các ba chệt ở xứ lạnh phải xực thịt cầy lúc nhập đông, hạt liễu cẩu nhục thang, đông thiên năng bả miên bị đang, uống súp thịt cầy, như mùa đông đắp chăn bông! Y học hiện đại nghiên cứu, chứng minh thịt cầy có vài nguyên tố hi hữu, trị được bệnh tâm não khuyết huyết, điều chỉnh cao huyết áp. Thịt chó rất khả dụng cho lão nhân bị hư nhược, tiểu tiện bất tận, tứ chi lạnh ngắt, tinh thần bất chấn, ăn thịt chó nướng hồng thiêu, các cụ sẽ tăng cường năng lực kháng hàn! Chu choa, ca tụng chi nhiều rứa, mà đâu đã hết. Còn an ngũ tạng, khinh thân, ích khí, bổ vị (dạ dày), noãn yêu tất (ấm lưng đầu gối), ích thận, trán khí lực, bổ ngũ lao thất thương, bổ huyết mạch! Mấy cái ni thì phải nhờ bồ tèo đồng môn PNH, y dược tinh thông, kiểm lại, chứ coi bộ thổi phồng phóng đại dược tính của cẩu nhục quá chừng!
Truyền thuyết nói phẩm chất thịt chó tùy thuộc màu lông chó. Trên đây có kể: nhất hoàng nhị hắc tam bạch, nhiều chuyên gia khác lại cho: nhất hắc nhị hoàng tam hoa tứ bạch. Có kẻ lại nói: hoàng cẩu vi thượng, bạch cẩu thứ chi, hắc cấu vi hạ! Thế nhưng ở Việt Nam tôi lại nghe: Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Chết chửa, thế thì các sư phụ cẩu xực lại ăn nói huyên thuyên, xếp hạng đẳng cấp không ăn khớp với nhau. Nói chung chú vện (hoàng cẩu) được sắp số một hay số hai, còn các chú hắc bạch hoa đốm không được đa số biểu đồng tình một cách thuần nhất! Có lẽ phẩm chất cầy tơ xếp theo màu lông thay đổi tùy theo địa dư và khí hậu? Dân Việt Lạc coi bộ sợ xui, không giám ăn chó đen, nhưng có nhiều đại tài tử lại thích nhất hắc, nhị hoàng,...trong đó hình như có linh mục C V L, Viện trưởng trường Đại học Huế, bạn đồng tình với Lỗ trí Thâm. Dạo đó ở Huế nghe nói ăn cẩu đen chữa lành bệnh lao phổi!
Nòi Việt ăn thịt chó, có Âu, Chiết, Mân, Dương, Nam...mà có lẽ Lạc Việt (dân ta đó!) dẫn đầu về nghệ thuật nấu nướng. Thât vậy, ở Tàu và Triều Tiên quanh đi quẩn lại, cũng chỉ hồng thiêu nướng, thanh đốn luộc, du bộc chiên dòn, lỗ chế đẳng chó hầm với nước dùng nhiều gia vị, hồng thự thiêu cẩu nhục chó nướng khoai (củ mài) đỏ, hoài kỉ đốn cẩu nhục thịt chó chưng cách thủy với hoài kỉ...Ngày xưa có những món thịt cầy nổi tiếng, như Giang tô Bái huyện cẩu nhục, truyền thuyết thời Tần mạt, đại tướng Phàn Khoái của Lưu Bang phát minh ra món cẩu nhục phán tử, ngon dở ra sao hậu sinh không biết! Dân Quảng đông Trạm Giang (Zhanjiang) quanh năm ăn món Bạch Thiết cẩu nhục. Dân thành thị Quảng Châu Triệu Khánh lưu hành món Quảng đông cẩu nhục bao, bao đây nồi đất, món ăn chắc là dog stew trong nồi đất! Ở Cát Lâm (Jilin) Diên Cát, thịnh hành món súp Bổ thân thang, hay thịt chó cù lao hot pot (hỏa oa), với các biến thể hồng tảo (táo đỏ, red jujube) cẩu nhục, can kháo (khốc) cẩu nhục, hương lạt (cay tê lưỡi!) cẩu nhục ti (cắt mỏng) đẳng! Hình như ở Bắc kinh hay Thượng hải, có tiệm Thực quản chuyên về món hot pot hỏa oa này. Tiệm tự hào 2 món độc đáo, nồi đất nung (sành) và thịt chó. Nồi cổ đây do tiệm làm lấy từ bao nhiêu năm, thịt chó là hương thôn phong vị, tức là chó làng, gia vị mua từ Yiyang. Chó làng đây có tiêu chuẩn hoàng giang cẩu, nấu liu riu nhỏ lữa mạn hỏa 3 tiếng đồng hồ, ăn nồi cù lao béo ngậy này rồi cởi trần đi trượt tuyết cũng không thấy lạnh! Muốn chắc bụng và tận hưởng nuớc súp, ăn thêm bún khoai mài, thự phấn...Ở Triều Tiên súp chó gọi là Boshintang, nấu có đủ gia vị của súp kim chi Doenjang, nhưng mấy cha Hàn quốc lại nói ăn súp này để chịu nóng mùa hè, thanh nhiệt khư hỏa! Dân Triều Tiên cho "cẩu nhục thang, dĩ nhiệt trị nhiệt" (súp thịt chó dùng nóng trị nóng). Thiệt là vượt qua núi Pyrénées, sự thật cũng thay đổi, như mấy ông Tây hay nói !