Post by Huu Le on Nov 21, 2006 10:35:23 GMT 9
Ði tìm tác giả Gia huấn ca
Nguyễn Dý
Thuở bé, thầy bắt học bài " Thýõng ngýời nhý thể thýõng thân " của " Nguyễn Trãi gia huấn ".
Thấy ngýời hoạn nạn thì thýõng
Thấy ngýời tàn tật lại càng trông nom
Thấy ngýời già yếu ốm mòn
Thuốc thang cứu giúp, cháo cõm ðỡ ðần
Trời nào phụ kẻ có nhân
Ngýời mà có ðức, muôn phần vinh hoa.
(Quốc vãn giáo khoa thý, lớp sõ ðẳng, 1948).
Mãi sau này mới ðýợc ðọc toàn tập Gia huấn ca.
Ðọc một lần còn nghi ngờ. Ðọc thêm lần nữa. Vẫn chả thấy bóng dáng bài " Thýõng ngýời " ðâu cả.
Bù lại, ðýợc thấy mấy câu thõ có thể giúp chúng ta có ý kiến rõ ràng về cái tên " Nguyễn Trãi gia huấn ".
Ðầu ðuôi câu chuyện nhý sau :
Gia huấn ca ðýợc nhiều học giả giới thiệu từ hõn 60 nãm nay. Nhýng tác giả của nó thì vẫn chýa biết chắc là ai.
1 - " Tập Gia huấn ca (bài hát dạy ngýời nhà) vẫn truyền là của ông (Nguyễn Trãi) soạn ra, nhýng không ðýợc chắc lắm.
Lời vãn (Gia huấn ca) bình thýờng giản dị, lýu loát êm ái. Nếu tập ấy thật của Nguyễn Trãi soạn ra, thì vãn nôm ta về ðầu thế kỷ thứ XV cũng không khác nay mấy, chỉ thỉnh thoảng có một vài chữ nay ít dùng ".
(Dýõng Quảng Hàm, Việt Nam vãn học sử yếu (1941), Xuân Thu tái bản, tr. 271).
Tuy nhiên, ở chỗ khác Dýõng Quảng Hàm lại viết rằng " Câu tục ngữ "Thýõng ngýời nhý thể thýõng thân" vốn là một câu trong tập Gia huấn ca của Nguyễn Trãi " (tr. 6).
2 - " (Gia huấn ca) gồm mấy bài ca dạy vợ, con, vợ khuyên chồng, khuyên dạy học trò sửa ðức, chãm học. Lời vãn bình dị, trôi chẩy, viết trên sáu dýới tám, có khi xen câu bảy chữ ; thỉnh thoảng một vài chữ ngày nay ít khi dùng ðến, chứng tỏ là một tập vãn cổ, song không biết có phải ðích thực ông Nguyễn Trãi soạn không.
Dù sao thì truyền từ Nguyễn Trãi cho tới bây giờ, tác phẩm ắt ðã bị ngýời ðời sau sửa ðổi nhiều chữ, nhiều câu, chứ không thể nào giữ vẹn cả trãm phần ðúng nhý nguyên tác ".
(Nghiêm Toản, Việt Nam vãn học sử trích yếu (1949), Khai Trí, 1968, tr. 121).
3 - " Những nhà hàng sách ở phýờng Hàng Gai xýa có khắc một bản Gia Huấn, ðề là Nguyễn týớng công Gia huấn, hay là Nguyễn Trãi gia huấn. Tục truyền rằng ðó là những bài ca, ông ðã ðặt ra ðể dạy con cháu trong gia ðình (...).
Nội dung các bài ca lại còn cho ta biết rằng vãn viết trong thời còn loạn, chýa có vị vua chính ðáng cầm quyền. Vậy có thể là do Nguyễn Trãi soạn hồi ðầu Minh thuộc (1406-1417). Tuy nhiên, các chữ cổ, thýờng thấy trong những bài chắc chắn soạn ðời Lê, ở ðây thấy rất ít. Vả trong một vài nõi có nói ðến các thứ ðánh bạc nhý tổ tôm, tam cúc, chắn, ðố mýời. Không biết những trò chõi ấy ðã có ðời Nguyễn Trãi hay chýa ?
Nói tóm lại, ta không có chứng gì nhận chắc quyết lời tục truyền rằng tập gia huấn này là của Nguyễn Trãi. Nếu thật là của ông soạn ra, thì sự sao ði chép lại bởi ngýời ðời sau, và nhất là ðời Nguyễn, ðã làm cho phần vãn cổ ðã bị chữa ði nhiều rồi ".
(Hoàng Xuân Hãn, Thi vãn Việt Nam (1951), Giáo Dục, 1998, tập 3, tr. 59-60).
4 - " Ngoài ra lại có một số tác phẩm nôm týõng truyền là của Nguyễn Trãi, nhýng chýa thể khẳng ðịnh rằng ðúng là của ông. Ðó là tập Gia huấn ca và hai bài thõ nôm (bài Tự thán và bài Ghẹo cô hàng chiếu) ".
(Ðinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chýõng, Vãn học Việt Nam, Ðại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1978, tập 1, tr. 348).
Gần ðây, xuất hiện một bản Gia huấn ca bằng chữ nôm, của nhà Quan Vãn Ðýờng, khắc in nãm Ðinh Mùi, niên hiệu Thành Thái (1907). Bản này ghi " Lê triều Nguyễn týớng công Gia huấn ca " ở trang ðầu và " Nguyễn týớng công Gia huấn " ở trang cuối.
5 - " Phần ai là tác giả (bản Quan Vãn Ðýờng) và thân thế và sự nghiệp của tác giả xin ðể dành lại cho các nhà nghiên cứu và nếu có hoàn cảnh thuận tiện chúng tôi cũng sẽ viết về những ðiểm ðó trong một tác phẩm khác ".
(Vũ Vãn Kính, Gia huấn ca, Trýờng Hán Nôm Nguyễn Trãi, 1994).
(Trong khi chờ ðợi, Vũ Vãn Kính ðã cho ðề tên Nguyễn Trãi là tác giả tập Gia huấn ca của nhà Quan Vãn Ðýờng).
Nói tóm lại, từ trýớc ðến nay, chýa có học giả nào ðýa ra bằng chứng có tính thuyết phục ðể công nhận hay phủ nhận dứt khoát Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Vì sao các học giả lại thận trọng, nói ðúng hõn là lúng túng nhý vậy ?
Có lẽ chỉ vì cái tên " Nguyễn Trãi gia huấn " ðã chỉ rõ Nguyễn Trãi, cái tên " Lê triều Nguyễn týớng công " làm ngýời ta liên týởng ðến Nguyễn Trãi. Ngoài ra, Gia huấn ca(GHC, theo bản của nhà Quan Vãn Ðýờng) lại có nhiều câu giống Quốc âm thi tập (QATT, Trẻ, 1995) của Nguyễn Trãi :
Bữa thýờng dù dýa muối mặc lòng (GHC)
Bữa ãn dầu có dýa muối (QATT)
Ở bầu tròn ở ống thì dài (GHC)
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn (QATT)
Ắt ðã tròn bằng nýớc ở bầu (QATT)
Ngồi ãn mãi non mòn núi lở (GHC)
Làm biếng ngồi ãn lở núi non (QATT)
Làm biếng hay ãn lở non (QATT) ...
khiến cho các học giả nghĩ rằng Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Nhýng ðồng thời, Gia huấn ca lại có nhiều chữ, nhiều thành ngữ quen thuộc của ngày nay nhý " giàu vì bạn, sang vì vợ ", " khôn ba nãm, dại một giờ ", " giàu ba họ, khó ba ðời ", " vắt cổ chày ra nýớc ", " miếng khi ðói gói khi no ". Thậm chí có cả " một bồ dao gãm " v.v. làm cho các học giả phải nghi ngờ, không tin chắc rằng Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Ðáng ngạc nhiên hõn nữa là Gia huấn ca có nhiều câu giống Kiềucủa Nguyễn Du.
Tấc son tạc lấy chữ trinh làm ðầu (GHC)
Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm ðầu (Kiều)
Nghe ra ngậm ðắng nuốt cay hay nào (GHC)
Nghe ra ngậm ðắng nuốt cay thế nào (Kiều)
Kẻ lộn chồng trốn chúa cũng nhiều (GHC)
Chẳng phýờng trốn chúa thì quân lộn chồng (Kiều) v.v.
Rõ ràng có ảnh hýởng qua lại giữa Gia huấn ca và Kiều.
Chẳng lẽ Nguyễn Du lại chép thõ nôm của ngýời khác ? Hay là Gia huấn ca ðã bắt chýớc Kiều ?
Lại thêm một lí do nữa khiến ngýời ta phải dè dặt với giả thuyết Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Ngôn ngữ của Gia huấn ca ðã gây khó khãn cho nhiều học giả tiền bối. Vì chỉ ngừng lại ở chỗ ðối chiếu, so sánh một số câu chữ nên chýa trả lời ðýợc câu hỏi có phải Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca hay không.
Cần phải phân tích Gia huấn ca sâu xa hõn, cãn cứ vào lịch sử.
I - Bài Dạy vợ dạy con (bản Quan Vãn Ðýờng, sðd, tr. 15) có câu :
Ðua chi chén rýợu câu thõ
Thuốc Lào ngon lạt nýớc cờ thấp cao
Chữ " Lào " ðýợc dân ta dùng từ thời nào ?
Sách Lam Sõn thực lục của Lê Lợi ( Nguyễn Diên Niên, Lê Vãn Uông, Lam Sõn thực lục, Ty Vãn Hoá Thanh Hoá, 1976), sách Dý ðịa chí của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, Khoa Học Xã Hội, 1976) và sách Ðại Việt sử kí toàn thý của Ngô Sĩ Liên (Khoa Học Xã Hội, 1968) mỗi khi nói tới nýớc láng giềng hay dân tộc láng giềng của ta ðều dùng cụm từ " nýớc Ai Lao ", " ngýời Ai Lao ".
Cho tới cuối thế kỉ 15, sách vở của ta chýa có " nýớc Lào ", " ngýời Lào ".
Chữ " Lào " ðýợc Nguyễn Du (1765-1820) dùng vào khoảng cuối thế kỉ 18 hay ðầu thế kỉ 19 :
Ðýờng xa chớ ngại Ngô Lào
Trãm ðiều hãy cứ trông vào một ta (Kiều)
Tục hút thuốc lá, thuốc lào của dân ta có từ bao giờ ?
Sách Dý ðịa chí (1438) của Nguyễn Trãi chép :
" Biển cùng Vân, Linh ở về Thuận Hóa.
Ở vùng ấy ðất thì ðen, mầu mỡ, hợp với trồng thuốc hút và thứ tiêu hạt to ; ruộng thì vào hạng trung trung. Ðiện Bàn có trĩ vàng. Sa Bôi có chè lýỡi chim sẻ. Hải Lãng có thỏ lông trắng.
Thuốc hút (chỉ dýợc) là thứ cây lấy lá cuộn vào giấy rồi châm lửa hút ".
(Nguyễn Trãi toàn tập, tr. 234).
Ðầu thế kỉ 15, nýớc ta có trồng cây thuốc hút (chỉ dýợc). Nguyễn Trãi không nói tới thuốc lào. Cây thuốc hút của Nguyễn Trãi có phải là cây thuốc lá hay thuốc lào ngày nay không ?
Lê Quý Ðôn cho biết :
" Sách Thuyết Linh chép : Thuốc lá (yên diệp) sản xuất từ ðất Mân. Ngýời ở biên giới bị bệnh hàn, nếu không có thứ này thì không trị ðýợc. Vùng quan ngoại, thuốc lá rất quý, ðến nỗi có ngýời ðem một con ngựa ðổi lấy một cân thuốc lá.
(...) Cây thuốc lá sản xuất ở Lữ Tống (Phi Luật Tân) vốn tên là Ðạm ba cô (tobacco).
(...) Nýớc Nam ta lúc ðầu không có cây thuốc lá ấy. Từ nãm Canh Tí tức niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) ðời vua Lê Thần Tông (...) ngýời Ai Lao mới ðem ðến, nhân dân nýớc ta bắt ðầu trồng cây thuốc lá. Quan dân, ðàn bà con gái tranh nhau hút thuốc lá, ðến nỗi có câu : " Có thể ba ngày không ãn, chớ không thể một giờ không hút thuốc lá ".
Nãm 1665 ðời vua Lê Huyền Tông, triều ðình ðã hai lần xuống lệnh chỉ nghiêm cấm, lùng bắt những ngýời trồng thuốc, bán thuốc và lén hút thuốc, nhýng rốt cuộc không dứt tuyệt ðýợc.
Ngýời ta phần nhiều khoét cột tre làm ống ðiếu và chôn ðiếu sành xuống ðất.
Tro than thuốc lá lắm lần gây thành hoả hoạn. Lâu dần lệnh cấm bãi bỏ. Nay thì việc hút thuốc lá ðã thành thói thông thýờng".
(Lê Quý Ðôn, Vân ðài loại ngữ, bản dịch của Tạ Quang Phát, Vãn Hoá Thông Tin, 1995, tập 3, tr. 158-159)
Theo Lê Quý Ðôn thì cây thuốc lá ðýợc ngýời Ai Lao ðem vào nýớc ta nãm 1660, nghĩa là hõn 200 nãm sau khi Nguyễn Trãi chết.
Nếu thuốc lào là thuốc lá do ngýời Ai Lao mang sang nýớc ta thì thời Nguyễn Trãi nýớc ta chý a có thuốc lào.
Nguyễn Trãi không thể là tác giả câu thõ
Ðua chi chén rýợu câu thõ
Thuốc Lào ngon lạt nýớc cờ thấp cao
II - Bài Dạy học trò ở cho phải ðạo (tr. 93) có câu :
Ba nãm chợt ðỗ khôi khoa
Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ
Câu thõ này nói về tổ chức thi cử ngày xýa và vinh dự dành cho những ngýời ðỗ tiến sĩ.
" Ba nãm " ám chỉ khoa thi ðýợc tổ chức 3 nãm một lần.
Lệ tổ chức thi 3 nãm một lần tại nýớc ta có từ bao giờ ?
Nãm 1246 vua Trần Thái Tông ðịnh cứ 7 nãm một khoa. Ðến nãm 1404, Hồ Hán Thýõng ðịnh cứ 3 nãm một khoa, nhýng vì nhà Hồ sắp mất ngôi, nên lệ ấy không thực hành ðýợc, mãi ðến nãm 1463 ðời Lê Thánh Tông, lệ ấy mới theo (...).
Nãm 1434, vua Lê Thái Tông mới xuống chiếu ðịnh ðiều lệ thi hýõng, thi hội, hẹn ðến nãm 1438 thì mở khoa thi hýõng, nãm 1439 thì mở khoa thi hội, rồi cứ 3 nãm lại mở một khoa. Nhýng thực ra thì khoa thi hội ðầu tiên ở triều Lê mãi ðến nãm 1442 mới mở, mà lệ 3 nãm một khoa, ðến nãm 1463 (ðời Lê Thánh Tông) mới thực hành ðýợc ".
Trong ðời Gia Long, chýa mở thi hội. Mãi ðến nãm 1822, vua Minh Mệnh mới mở khoa thi hội ðầu tiên.
Khoa thi hýõng ðầu tiên mở về triều Nguyễn là khoa nãm 1807, Gia Long thứ 6. Trýớc còn ðịnh 6 nãm một khoa, rồi ðến nãm 1825, Minh Mệnh thứ 6, lại ðịnh 3 nãm một khoa, cứ các nãm tí, ngọ, mão, dậu thì thi hýõng, các nãm thìn, tuất, sửu, mùi thì thi hội.
(Việt Nam vãn học sử yếu, sðd, tr. 83-87).
Chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc nãm 1442. Trýớc ðó, ông ðýợc nghe Hồ Hán Thýõng " ðịnh ", Lê Thái Tông " hẹn " sẽ tổ chức thi 3 nãm một lần.
Lúc Nguyễn Trãi còn sống, nýớc ta chỉ tổ chức các khoa thi không có ðịnh kì. 21 nãm sau nãm Nguyễn Trãi bị giết, Lê Thánh Tông mới tổ chức thi 3 nãm một lần.
Vài tháng trýớc khi chết, Nguyễn Trãi ðýợc thấy khoa thi hội ðầu tiên của nhà Lê. Suốt ðời mình, Nguyễn Trãi chýa ðýợc thấy khoa thi " ba nãm " nào.
Câu thõ " Ba nãm chợt ðỗ khôi khoa " không phải là của Nguyễn Trãi.
" Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ " là vinh dự dành cho các ông tân khoa tiến sĩ. Các ông ðýợc cýỡi ngựa dạo chõi trong khuôn viên hoàng cung và thãm phố xá có trang hoàng cờ quạt.
Vua Minh Mạng ðặt ra lệ ban thýởng áo mũ cho các ông tân khoa tiến sĩ trýớc khi làm lễ xýớng danh (truyền lô), treo bảng vàng.
Treo bảng xong, các ông ðýợc mời ãn yến tại dinh Lễ bộ và nhận lãnh một cành kim trâm.
" Quan Lễ bộ lại dẫn các quan giám thị và các ông tân khoa vào výờn Ngự Uyển xem hoa, mỗi ngýời ðều mặc ðồ triều phục, cýỡi ngựa che lọng, xem hoa xong thì ra từ cửa thành ðông mà ði xem các phố xá ".
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Ðồng Tháp, 1990, tr. 269).
Tục " cýỡi ngựa xem hoa " ðýợc Minh Mạng ðặt ra nãm 1838 ( Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, Thuận Hoá, 1998, tr. 293).
Phải sống vào thời Minh Mạng hoặc trễ hõn, nghĩa là sống sau Nguyễn Trãi khoảng 400 nãm, mới có thể ðối cảnh sinh tình, làm ðýợc câu thõ " Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ ".
III - Bài Khuyên học trò phải chãm học (tr. 103) có câu :
Bài kinh nghĩa cùng bài vãn sách
Tinh phú thõ mọi vẻ vãn chýõng
Câu này nói ðến mấy môn thi của ngày xýa, gồm có : kinh nghĩa, vãn sách, phú và thõ.
Chýõng trình thi cử của nýớc ta ðýợc thay ðổi, thêm bớt nhiều lần :
Nãm 1304 vua Trần Anh Tông ðịnh lại phép thi, thì chýõng trình bốn kì nhý sau : kì ðệ nhất : ám tả ; ðệ nhị : kinh nghĩa, thõ, phú ; ðệ tam : chiếu, chế, biểu ; ðệ tứ : vãn sách.
Nãm 1396 Trần Thuận Tông cho thi kinh nghĩa, thõ, phú, chiếu, chế, biểu, vãn sách.
Nãm 1404, Hồ Hán Thýõng thêm kì thi thý (viết) và toán (tính).
Nãm 1434, Lê Thái Tông cho thi kinh nghĩa, chiếu, chế, biểu, thõ, phú, vãn sách.
Nãm 1832 Minh Mạng sửa lại phép thi. Các môn thi là kinh nghĩa, thõ, phú và vãn sách.
Nãm 1850 Tự Ðức cho thi kinh nghĩa, vãn sách, chiếu, biểu, luận, thõ, phú, ðối sách. Nãm 1858 ðổi thành kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, vãn sách, thõ. Nãm 1876, bỏ chiếu, biểu, luận, và lấy lại phú.
Nãm 1884 Kiến Phúc tổ chức lại thi hýõng. Trừ ba kì trýớc, lại ðặt thêm một kì phúc hạch (xét lại) thi lýợc bị một bài kinh nghĩa, một bài phú, một bài vãn sách.
(Việt Nam vãn học sử yếu, sðd, tr. 88-91).
Nguyễn Dý
Thuở bé, thầy bắt học bài " Thýõng ngýời nhý thể thýõng thân " của " Nguyễn Trãi gia huấn ".
Thấy ngýời hoạn nạn thì thýõng
Thấy ngýời tàn tật lại càng trông nom
Thấy ngýời già yếu ốm mòn
Thuốc thang cứu giúp, cháo cõm ðỡ ðần
Trời nào phụ kẻ có nhân
Ngýời mà có ðức, muôn phần vinh hoa.
(Quốc vãn giáo khoa thý, lớp sõ ðẳng, 1948).
Mãi sau này mới ðýợc ðọc toàn tập Gia huấn ca.
Ðọc một lần còn nghi ngờ. Ðọc thêm lần nữa. Vẫn chả thấy bóng dáng bài " Thýõng ngýời " ðâu cả.
Bù lại, ðýợc thấy mấy câu thõ có thể giúp chúng ta có ý kiến rõ ràng về cái tên " Nguyễn Trãi gia huấn ".
Ðầu ðuôi câu chuyện nhý sau :
Gia huấn ca ðýợc nhiều học giả giới thiệu từ hõn 60 nãm nay. Nhýng tác giả của nó thì vẫn chýa biết chắc là ai.
1 - " Tập Gia huấn ca (bài hát dạy ngýời nhà) vẫn truyền là của ông (Nguyễn Trãi) soạn ra, nhýng không ðýợc chắc lắm.
Lời vãn (Gia huấn ca) bình thýờng giản dị, lýu loát êm ái. Nếu tập ấy thật của Nguyễn Trãi soạn ra, thì vãn nôm ta về ðầu thế kỷ thứ XV cũng không khác nay mấy, chỉ thỉnh thoảng có một vài chữ nay ít dùng ".
(Dýõng Quảng Hàm, Việt Nam vãn học sử yếu (1941), Xuân Thu tái bản, tr. 271).
Tuy nhiên, ở chỗ khác Dýõng Quảng Hàm lại viết rằng " Câu tục ngữ "Thýõng ngýời nhý thể thýõng thân" vốn là một câu trong tập Gia huấn ca của Nguyễn Trãi " (tr. 6).
2 - " (Gia huấn ca) gồm mấy bài ca dạy vợ, con, vợ khuyên chồng, khuyên dạy học trò sửa ðức, chãm học. Lời vãn bình dị, trôi chẩy, viết trên sáu dýới tám, có khi xen câu bảy chữ ; thỉnh thoảng một vài chữ ngày nay ít khi dùng ðến, chứng tỏ là một tập vãn cổ, song không biết có phải ðích thực ông Nguyễn Trãi soạn không.
Dù sao thì truyền từ Nguyễn Trãi cho tới bây giờ, tác phẩm ắt ðã bị ngýời ðời sau sửa ðổi nhiều chữ, nhiều câu, chứ không thể nào giữ vẹn cả trãm phần ðúng nhý nguyên tác ".
(Nghiêm Toản, Việt Nam vãn học sử trích yếu (1949), Khai Trí, 1968, tr. 121).
3 - " Những nhà hàng sách ở phýờng Hàng Gai xýa có khắc một bản Gia Huấn, ðề là Nguyễn týớng công Gia huấn, hay là Nguyễn Trãi gia huấn. Tục truyền rằng ðó là những bài ca, ông ðã ðặt ra ðể dạy con cháu trong gia ðình (...).
Nội dung các bài ca lại còn cho ta biết rằng vãn viết trong thời còn loạn, chýa có vị vua chính ðáng cầm quyền. Vậy có thể là do Nguyễn Trãi soạn hồi ðầu Minh thuộc (1406-1417). Tuy nhiên, các chữ cổ, thýờng thấy trong những bài chắc chắn soạn ðời Lê, ở ðây thấy rất ít. Vả trong một vài nõi có nói ðến các thứ ðánh bạc nhý tổ tôm, tam cúc, chắn, ðố mýời. Không biết những trò chõi ấy ðã có ðời Nguyễn Trãi hay chýa ?
Nói tóm lại, ta không có chứng gì nhận chắc quyết lời tục truyền rằng tập gia huấn này là của Nguyễn Trãi. Nếu thật là của ông soạn ra, thì sự sao ði chép lại bởi ngýời ðời sau, và nhất là ðời Nguyễn, ðã làm cho phần vãn cổ ðã bị chữa ði nhiều rồi ".
(Hoàng Xuân Hãn, Thi vãn Việt Nam (1951), Giáo Dục, 1998, tập 3, tr. 59-60).
4 - " Ngoài ra lại có một số tác phẩm nôm týõng truyền là của Nguyễn Trãi, nhýng chýa thể khẳng ðịnh rằng ðúng là của ông. Ðó là tập Gia huấn ca và hai bài thõ nôm (bài Tự thán và bài Ghẹo cô hàng chiếu) ".
(Ðinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chýõng, Vãn học Việt Nam, Ðại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1978, tập 1, tr. 348).
Gần ðây, xuất hiện một bản Gia huấn ca bằng chữ nôm, của nhà Quan Vãn Ðýờng, khắc in nãm Ðinh Mùi, niên hiệu Thành Thái (1907). Bản này ghi " Lê triều Nguyễn týớng công Gia huấn ca " ở trang ðầu và " Nguyễn týớng công Gia huấn " ở trang cuối.
5 - " Phần ai là tác giả (bản Quan Vãn Ðýờng) và thân thế và sự nghiệp của tác giả xin ðể dành lại cho các nhà nghiên cứu và nếu có hoàn cảnh thuận tiện chúng tôi cũng sẽ viết về những ðiểm ðó trong một tác phẩm khác ".
(Vũ Vãn Kính, Gia huấn ca, Trýờng Hán Nôm Nguyễn Trãi, 1994).
(Trong khi chờ ðợi, Vũ Vãn Kính ðã cho ðề tên Nguyễn Trãi là tác giả tập Gia huấn ca của nhà Quan Vãn Ðýờng).
Nói tóm lại, từ trýớc ðến nay, chýa có học giả nào ðýa ra bằng chứng có tính thuyết phục ðể công nhận hay phủ nhận dứt khoát Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Vì sao các học giả lại thận trọng, nói ðúng hõn là lúng túng nhý vậy ?
Có lẽ chỉ vì cái tên " Nguyễn Trãi gia huấn " ðã chỉ rõ Nguyễn Trãi, cái tên " Lê triều Nguyễn týớng công " làm ngýời ta liên týởng ðến Nguyễn Trãi. Ngoài ra, Gia huấn ca(GHC, theo bản của nhà Quan Vãn Ðýờng) lại có nhiều câu giống Quốc âm thi tập (QATT, Trẻ, 1995) của Nguyễn Trãi :
Bữa thýờng dù dýa muối mặc lòng (GHC)
Bữa ãn dầu có dýa muối (QATT)
Ở bầu tròn ở ống thì dài (GHC)
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn (QATT)
Ắt ðã tròn bằng nýớc ở bầu (QATT)
Ngồi ãn mãi non mòn núi lở (GHC)
Làm biếng ngồi ãn lở núi non (QATT)
Làm biếng hay ãn lở non (QATT) ...
khiến cho các học giả nghĩ rằng Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Nhýng ðồng thời, Gia huấn ca lại có nhiều chữ, nhiều thành ngữ quen thuộc của ngày nay nhý " giàu vì bạn, sang vì vợ ", " khôn ba nãm, dại một giờ ", " giàu ba họ, khó ba ðời ", " vắt cổ chày ra nýớc ", " miếng khi ðói gói khi no ". Thậm chí có cả " một bồ dao gãm " v.v. làm cho các học giả phải nghi ngờ, không tin chắc rằng Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Ðáng ngạc nhiên hõn nữa là Gia huấn ca có nhiều câu giống Kiềucủa Nguyễn Du.
Tấc son tạc lấy chữ trinh làm ðầu (GHC)
Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm ðầu (Kiều)
Nghe ra ngậm ðắng nuốt cay hay nào (GHC)
Nghe ra ngậm ðắng nuốt cay thế nào (Kiều)
Kẻ lộn chồng trốn chúa cũng nhiều (GHC)
Chẳng phýờng trốn chúa thì quân lộn chồng (Kiều) v.v.
Rõ ràng có ảnh hýởng qua lại giữa Gia huấn ca và Kiều.
Chẳng lẽ Nguyễn Du lại chép thõ nôm của ngýời khác ? Hay là Gia huấn ca ðã bắt chýớc Kiều ?
Lại thêm một lí do nữa khiến ngýời ta phải dè dặt với giả thuyết Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca.
Ngôn ngữ của Gia huấn ca ðã gây khó khãn cho nhiều học giả tiền bối. Vì chỉ ngừng lại ở chỗ ðối chiếu, so sánh một số câu chữ nên chýa trả lời ðýợc câu hỏi có phải Nguyễn Trãi là tác giả Gia huấn ca hay không.
Cần phải phân tích Gia huấn ca sâu xa hõn, cãn cứ vào lịch sử.
I - Bài Dạy vợ dạy con (bản Quan Vãn Ðýờng, sðd, tr. 15) có câu :
Ðua chi chén rýợu câu thõ
Thuốc Lào ngon lạt nýớc cờ thấp cao
Chữ " Lào " ðýợc dân ta dùng từ thời nào ?
Sách Lam Sõn thực lục của Lê Lợi ( Nguyễn Diên Niên, Lê Vãn Uông, Lam Sõn thực lục, Ty Vãn Hoá Thanh Hoá, 1976), sách Dý ðịa chí của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, Khoa Học Xã Hội, 1976) và sách Ðại Việt sử kí toàn thý của Ngô Sĩ Liên (Khoa Học Xã Hội, 1968) mỗi khi nói tới nýớc láng giềng hay dân tộc láng giềng của ta ðều dùng cụm từ " nýớc Ai Lao ", " ngýời Ai Lao ".
Cho tới cuối thế kỉ 15, sách vở của ta chýa có " nýớc Lào ", " ngýời Lào ".
Chữ " Lào " ðýợc Nguyễn Du (1765-1820) dùng vào khoảng cuối thế kỉ 18 hay ðầu thế kỉ 19 :
Ðýờng xa chớ ngại Ngô Lào
Trãm ðiều hãy cứ trông vào một ta (Kiều)
Tục hút thuốc lá, thuốc lào của dân ta có từ bao giờ ?
Sách Dý ðịa chí (1438) của Nguyễn Trãi chép :
" Biển cùng Vân, Linh ở về Thuận Hóa.
Ở vùng ấy ðất thì ðen, mầu mỡ, hợp với trồng thuốc hút và thứ tiêu hạt to ; ruộng thì vào hạng trung trung. Ðiện Bàn có trĩ vàng. Sa Bôi có chè lýỡi chim sẻ. Hải Lãng có thỏ lông trắng.
Thuốc hút (chỉ dýợc) là thứ cây lấy lá cuộn vào giấy rồi châm lửa hút ".
(Nguyễn Trãi toàn tập, tr. 234).
Ðầu thế kỉ 15, nýớc ta có trồng cây thuốc hút (chỉ dýợc). Nguyễn Trãi không nói tới thuốc lào. Cây thuốc hút của Nguyễn Trãi có phải là cây thuốc lá hay thuốc lào ngày nay không ?
Lê Quý Ðôn cho biết :
" Sách Thuyết Linh chép : Thuốc lá (yên diệp) sản xuất từ ðất Mân. Ngýời ở biên giới bị bệnh hàn, nếu không có thứ này thì không trị ðýợc. Vùng quan ngoại, thuốc lá rất quý, ðến nỗi có ngýời ðem một con ngựa ðổi lấy một cân thuốc lá.
(...) Cây thuốc lá sản xuất ở Lữ Tống (Phi Luật Tân) vốn tên là Ðạm ba cô (tobacco).
(...) Nýớc Nam ta lúc ðầu không có cây thuốc lá ấy. Từ nãm Canh Tí tức niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) ðời vua Lê Thần Tông (...) ngýời Ai Lao mới ðem ðến, nhân dân nýớc ta bắt ðầu trồng cây thuốc lá. Quan dân, ðàn bà con gái tranh nhau hút thuốc lá, ðến nỗi có câu : " Có thể ba ngày không ãn, chớ không thể một giờ không hút thuốc lá ".
Nãm 1665 ðời vua Lê Huyền Tông, triều ðình ðã hai lần xuống lệnh chỉ nghiêm cấm, lùng bắt những ngýời trồng thuốc, bán thuốc và lén hút thuốc, nhýng rốt cuộc không dứt tuyệt ðýợc.
Ngýời ta phần nhiều khoét cột tre làm ống ðiếu và chôn ðiếu sành xuống ðất.
Tro than thuốc lá lắm lần gây thành hoả hoạn. Lâu dần lệnh cấm bãi bỏ. Nay thì việc hút thuốc lá ðã thành thói thông thýờng".
(Lê Quý Ðôn, Vân ðài loại ngữ, bản dịch của Tạ Quang Phát, Vãn Hoá Thông Tin, 1995, tập 3, tr. 158-159)
Theo Lê Quý Ðôn thì cây thuốc lá ðýợc ngýời Ai Lao ðem vào nýớc ta nãm 1660, nghĩa là hõn 200 nãm sau khi Nguyễn Trãi chết.
Nếu thuốc lào là thuốc lá do ngýời Ai Lao mang sang nýớc ta thì thời Nguyễn Trãi nýớc ta chý a có thuốc lào.
Nguyễn Trãi không thể là tác giả câu thõ
Ðua chi chén rýợu câu thõ
Thuốc Lào ngon lạt nýớc cờ thấp cao
II - Bài Dạy học trò ở cho phải ðạo (tr. 93) có câu :
Ba nãm chợt ðỗ khôi khoa
Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ
Câu thõ này nói về tổ chức thi cử ngày xýa và vinh dự dành cho những ngýời ðỗ tiến sĩ.
" Ba nãm " ám chỉ khoa thi ðýợc tổ chức 3 nãm một lần.
Lệ tổ chức thi 3 nãm một lần tại nýớc ta có từ bao giờ ?
Nãm 1246 vua Trần Thái Tông ðịnh cứ 7 nãm một khoa. Ðến nãm 1404, Hồ Hán Thýõng ðịnh cứ 3 nãm một khoa, nhýng vì nhà Hồ sắp mất ngôi, nên lệ ấy không thực hành ðýợc, mãi ðến nãm 1463 ðời Lê Thánh Tông, lệ ấy mới theo (...).
Nãm 1434, vua Lê Thái Tông mới xuống chiếu ðịnh ðiều lệ thi hýõng, thi hội, hẹn ðến nãm 1438 thì mở khoa thi hýõng, nãm 1439 thì mở khoa thi hội, rồi cứ 3 nãm lại mở một khoa. Nhýng thực ra thì khoa thi hội ðầu tiên ở triều Lê mãi ðến nãm 1442 mới mở, mà lệ 3 nãm một khoa, ðến nãm 1463 (ðời Lê Thánh Tông) mới thực hành ðýợc ".
Trong ðời Gia Long, chýa mở thi hội. Mãi ðến nãm 1822, vua Minh Mệnh mới mở khoa thi hội ðầu tiên.
Khoa thi hýõng ðầu tiên mở về triều Nguyễn là khoa nãm 1807, Gia Long thứ 6. Trýớc còn ðịnh 6 nãm một khoa, rồi ðến nãm 1825, Minh Mệnh thứ 6, lại ðịnh 3 nãm một khoa, cứ các nãm tí, ngọ, mão, dậu thì thi hýõng, các nãm thìn, tuất, sửu, mùi thì thi hội.
(Việt Nam vãn học sử yếu, sðd, tr. 83-87).
Chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc nãm 1442. Trýớc ðó, ông ðýợc nghe Hồ Hán Thýõng " ðịnh ", Lê Thái Tông " hẹn " sẽ tổ chức thi 3 nãm một lần.
Lúc Nguyễn Trãi còn sống, nýớc ta chỉ tổ chức các khoa thi không có ðịnh kì. 21 nãm sau nãm Nguyễn Trãi bị giết, Lê Thánh Tông mới tổ chức thi 3 nãm một lần.
Vài tháng trýớc khi chết, Nguyễn Trãi ðýợc thấy khoa thi hội ðầu tiên của nhà Lê. Suốt ðời mình, Nguyễn Trãi chýa ðýợc thấy khoa thi " ba nãm " nào.
Câu thõ " Ba nãm chợt ðỗ khôi khoa " không phải là của Nguyễn Trãi.
" Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ " là vinh dự dành cho các ông tân khoa tiến sĩ. Các ông ðýợc cýỡi ngựa dạo chõi trong khuôn viên hoàng cung và thãm phố xá có trang hoàng cờ quạt.
Vua Minh Mạng ðặt ra lệ ban thýởng áo mũ cho các ông tân khoa tiến sĩ trýớc khi làm lễ xýớng danh (truyền lô), treo bảng vàng.
Treo bảng xong, các ông ðýợc mời ãn yến tại dinh Lễ bộ và nhận lãnh một cành kim trâm.
" Quan Lễ bộ lại dẫn các quan giám thị và các ông tân khoa vào výờn Ngự Uyển xem hoa, mỗi ngýời ðều mặc ðồ triều phục, cýỡi ngựa che lọng, xem hoa xong thì ra từ cửa thành ðông mà ði xem các phố xá ".
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Ðồng Tháp, 1990, tr. 269).
Tục " cýỡi ngựa xem hoa " ðýợc Minh Mạng ðặt ra nãm 1838 ( Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, Thuận Hoá, 1998, tr. 293).
Phải sống vào thời Minh Mạng hoặc trễ hõn, nghĩa là sống sau Nguyễn Trãi khoảng 400 nãm, mới có thể ðối cảnh sinh tình, làm ðýợc câu thõ " Sân rồng ruổi ngựa, ðýờng hoa giong cờ ".
III - Bài Khuyên học trò phải chãm học (tr. 103) có câu :
Bài kinh nghĩa cùng bài vãn sách
Tinh phú thõ mọi vẻ vãn chýõng
Câu này nói ðến mấy môn thi của ngày xýa, gồm có : kinh nghĩa, vãn sách, phú và thõ.
Chýõng trình thi cử của nýớc ta ðýợc thay ðổi, thêm bớt nhiều lần :
Nãm 1304 vua Trần Anh Tông ðịnh lại phép thi, thì chýõng trình bốn kì nhý sau : kì ðệ nhất : ám tả ; ðệ nhị : kinh nghĩa, thõ, phú ; ðệ tam : chiếu, chế, biểu ; ðệ tứ : vãn sách.
Nãm 1396 Trần Thuận Tông cho thi kinh nghĩa, thõ, phú, chiếu, chế, biểu, vãn sách.
Nãm 1404, Hồ Hán Thýõng thêm kì thi thý (viết) và toán (tính).
Nãm 1434, Lê Thái Tông cho thi kinh nghĩa, chiếu, chế, biểu, thõ, phú, vãn sách.
Nãm 1832 Minh Mạng sửa lại phép thi. Các môn thi là kinh nghĩa, thõ, phú và vãn sách.
Nãm 1850 Tự Ðức cho thi kinh nghĩa, vãn sách, chiếu, biểu, luận, thõ, phú, ðối sách. Nãm 1858 ðổi thành kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, vãn sách, thõ. Nãm 1876, bỏ chiếu, biểu, luận, và lấy lại phú.
Nãm 1884 Kiến Phúc tổ chức lại thi hýõng. Trừ ba kì trýớc, lại ðặt thêm một kì phúc hạch (xét lại) thi lýợc bị một bài kinh nghĩa, một bài phú, một bài vãn sách.
(Việt Nam vãn học sử yếu, sðd, tr. 88-91).