Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:58:35 GMT 9
Lan man chuyện “HỌ”... VÀ TÊN
Vũ Phong Lýu
Họ là một hình thức sở hữu huyết thống, nguồn gốc, sở hữu tổ tiên của con ngýời. Con ngýời mang cái sở hữu ấy suốt ðời, truyền từ ðời này sang ðời sau. Bắt ðầu một kiếp ngýời, cùng với việc ðặt tên, mỗi ngýời liền có “họ”. Sở hữu nòi giống ðảm bảo an toàn cho quá trình tiến hoá, tránh bị thoái hoá. Thứ sở hữu này ở loài ngýời có lẽ có trýớc cả ngôn ngữ. Bằng chứng là ở một số loài khỉ, những con có chung huyết thống cũng biết không bao giờ giao phối lẫn nhau. Cùng với việc hình thành ngôn ngữ, khái niệm “họ” (tính) liền ðýợc thiết lập, ðồng thời với việc phân biệt các cá thể bằng cách ðặt tên. Từ ðó, “họ” và “tên” luôn luôn ði kèm với nhau. Trong ðó “họ” chỉ huyết thống, còn “tên” chỉ cá thể.
Khó ai thống kê cho hết thiên hạ có bao nhiêu họ. Thời phong kiến gọi là “bách tính” (trãm họ), cũng nhý bây giờ gọi “nhân dân”. Vua ngày trýớc vì “bách tính” mà (miễn cýỡng?) ngự trên ngai vàng. Bây giờ cũng vì nhân dân mà (ðành?) phải... quên mình...?
Họ bên Tàu phức tạp, rắc rối hõn ta nhiều. Có khi lấy họ ðặt tên cho ðất (ví dụ ðất Ðýờng, ðất Ngu...). Có khi lấy tên ðất ðặt cho họ (ví dụ họ Ðào, họ Tiết...). Lại có khi lấy quách chức quan mà làm họ (ví dụ họ Tý Mã...)
Dù thế nào thì bên Tàu cũng không dùng họ của vua ðể ðặt tên cho triều ðại, mà dùng tên ðất (nõi phát tích - quê hýõng của kẻ lập nên triều ðại ấy) ðể gọi (ví dụ nhà Minh, nhà Thanh...). Khác hẳn với bên ta dùng họ của vua ðể ðặt tên triều ðại (ví dụ nhà Lý, nhà Trần...). Ðây chính là một trong những ý thức ðộc lập, tự chủ (về mặt chính trị) của ông cha ta ngày trýớc, quyết không chịu nhất nhất cứ phải bắt chýớc theo “thiên triều”. Tên triều ðại không có nghĩa là tên nýớc (quốc hiệu). Ðó là hai danh từ riêng hoàn toàn khác nhau, một ðằng chỉ “nhà” (tên triều ðại), một ðằng chỉ “nýớc” (quốc hiệu). Chẳng ai gọi nýớc Lý, nýớc Trần... mà vẫn cứ là nýớc Ðại Việt. Cũng nhý chẳng ai gọi nýớc Minh, nýớc Thanh... mà vẫn cứ là... nýớc Tàu.
Tuy nhiên, nýớc ta (hình nhý) có một ngoại lệ duy nhất là vào thời Hồ Quý Ly ngắn ngủi (vỏn vẹn bảy nãm 1400 - 1407). Hồ Quý Ly vốn có tổ tiên là ngýời ðất Ngu bên Tàu xiêu dạt sang ta. Sau khi cýớp ngôi nhà Trần, ông bèn dập khuôn theo cách của Tàu ðể ðặt tên cho triều ðại mình, gọi là triều Ðại Ngu. Các nhà sử học xýa nay liệu có lầm không khi cho rằng “quốc hiệu” của nýớc ta khi ðó cũng là... “Ðại Ngu”?. Gọi là nhà “Ðại Ngu”, thì cũng giống nhý việc gọi là nhà “Lý”, nhà “Trần”... trýớc ðó thôi chứ. Sao tên nýớc lại cũng ðồng thời là “Ðại Ngu” ðýợc? Ngýời chép sử chép nhý thế, phải chãng ðã (vô tình?) ðánh ðồng tên triều ðại với tên nýớc? Nếu quả nhý vậy thì chẳng lẽ trýớc ðó, tên nýớc ta cũng có thể gọi là nýớc “Lý”, nýớc “Trần”... hay sao? Nếu “Ðại Ngu” (rõ ràng) chỉ là cái tên “nhà” (triều ðại), thì tên “nýớc” (quốc hiệu) ta thời ấy vẫn cứ là “Ðại Việt” ðấy chứ?. Nghĩa là, hiểu một cách chính thống (theo cách ðặt tên của chính Hồ Quý Ly) thì không có nhà “Hồ”, mà chỉ có nhà “Ðại Ngu” (của họ Hồ), týõng tự nhà “Minh” (của họ Chu) bên Tàu lúc bấy giờ. Cũng nhý chýa bao giờ có tên nýớc là “Ðại Ngu”, mà trýớc sau, nýớc ta vẫn tên là “Ðại Việt”. Xin các vị sử gia “ðèn giời” minh xét. Ngýời viết không phải ngại gì cái nghĩa nôm na của chữ “Ngu” (娛) to tổ bố kia mà lý sự nhập nhằng ðâu.
Cũng xin mở ngoặc thêm một tí (gọi là lan man mà). Các nhà sử học ðã từng làm cho dân ta tự hào về một nhánh của họ Lý, do một hoàng tử ðời nhà Lý dẫn ðầu, xiêu dạt sang Triều tiên từ thế kỉ 12, có ðời ðã từng làm tới chức tể týớng ở bên ấy. Vậy týởng cũng nên công bằng với một vị hoàng tôn lừng lẫy ðời nhà Trần sau ðây. Ấy là vào khoảng những nãm 1360 - 1366, con trai vị “Quốc výõng” bán nýớc Trần Ích Tắc, tên là Trần Hữu Lýợng theo ngýời cha (hèn) chạy sang Tàu. Vào cuối ðời nhà Nguyên, Trần Hữu Lýợng ðã dám chiêu tập binh mã, ðýờng ðýờng tranh nýớc với ðích danh Chu Nguyên Chýõng - vị vua lập nên triều ðại nhà Minh (mà ông suýt thắng Chu Nguyên Chýõng nếu không bị phản bội). Ngýời viết không hiểu tại sao Trần Hữu Lýợng khi lập nýớc (ở bên Tàu) lại ðặt tên cho triều ðại mình là nhà “Hán”? Trần Hữu Lýợng ðâu phải ngýời ðất Hán? Lại cũng không gọi theo họ (là nhà “Trần” phẩy chẳng hạn?). Ðiều này phải chãng có liên quan ðến giấc mõ của vua Trần Thái Tông trýớc khi sinh hoàng tử Trần Ích Tắc, cho rằng Ích Tắc là ngýời phýõng Bắc ðầu thai? Mặc dù nhà “Hán” của Trần Hữu Lýợng tồn tại ngắn ngủi có bảy nãm. Song cũng phải công nhận ông là một bậc anh hùng cái thế. Ðó gọi là “cẩu phụ” mà vẫn sinh “hổ tử” ðấy. Xin các nhà sử học hãy ðừng vì “cẩu phụ” mà lờ tịt vị “hổ tử” ấy ði. Nói (dại) chứ nếu (chẳng may) mà ông ðánh bại Chu Nguyên Chýõng, chiếm lấy ít ra thì cũng từ phía nam sông Dýõng Tử, hoặc thậm chí toàn cõi Trung Hoa, thì lịch sử cũng nhý cýõng thổ giữa nýớc ta với nýớc Tàu ngày nay hẳn sẽ khác ði rất nhiều.
Khái niệm “họ” từ chỗ chỉ dùng ðể ghi nhớ gốc gác, tổ tiên, cũng dần dần bị nhuốm màu sắc khác. Ngày xýa, họ của vua là cao quý nhất, gọi là “quốc tính”. Vua dùng nó ðể “ban” cho các bậc công thần. Trần Bình Trọng với câu nói khảng khái bất hủ: “Ta thà làm quỷ nýớc Nam, chứ không thèm làm výõng ðất Bắc” chính là một ngýời ðýợc ban “quốc tính”. Ông vốn họ Lê, dòng dõi Lê Ðại Hành (Lê Hoàn). Vị danh nhân vãn hoá thế giới thời Lê sõ là Nguyễn Trãi cũng ðýợc ban “quốc tính”. Các vãn bia ông soạn còn lại cho ðến nay ðều khắc “bút danh” là Lê Trãi. Ðến ðời Lê Thánh Tông (1460-1497), vị vua anh minh này thấy cái “trò” ban quốc tính ấy càng ngày càng trở nên phiền toái (ðại khái dần dần, nó cũng tệ lậu týõng tự nhý vấn nạn... “sùng bái lãnh tụ” sau này). Không những thế, ðiều ðó chỉ tổ làm cho những kẻ ðýợc ban... mất gốc mà thôi. Lê Thánh Tông bèn xuống chiếu bãi bỏ việc ðó, cho phép những ai ðã trót “bị” ban quốc tính ðýợc trở về họ cũ. Thế là Lê Trãi lại trở về Nguyễn Trãi...
Ngýợc lại với cái thứ “ân huệ” ban quốc tính trên, vì những lý do nhất ðịnh, vua có khi còn bắt bề tôi phải ðổi sang họ khác. Nhý Trần Kiện cùng ðám con cháu hèn nhát chạy theo quân Nguyên, về sau không cho mang họ Trần nữa, bắt ðổi sang họ Mai (thật là oan ức cho những nhà họ Mai vốn vẫn có từ trýớc ðó). Riêng Trần Ích Tắc vì là chỗ máu mủ ruột thịt nên vua (Trần Nhân Tông) không nỡ xóa họ. Nhýng gọi là “Ả Trần” (ngụ ý nhý ðàn bà) cho nó... nhục nhã luôn thể. Lại còn cái thứ kị “huý” mà bắt ngýời ta phải ðổi sang họ khác. Ví dụ thời Lê sõ, vì tránh tên bà mẹ ðẻ ra Lê Thái Tông là Phạm Thị Trần mà bắt những ngýời họ Trần phải ðổi sang họ Trình...
Việc ðổi họ cổ kim còn vô vàn lý do. Nhà thờ họ Bùi ở một làng nọ thờ ông Tổ là... Trần Thủ Ðộ. Vị Thái sý danh tiếng với câu nói bất hủ trýớc họa giặc Nguyên tám thế kỉ về trýớc: “ðầu thần còn chýa rõi xuống ðất – xin bệ hạ ðừng lo”. Không phải vì “thấy ngýời sang bắt quàng làm họ”, mà họ Bùi làng ấy tôn thờ ông ðâu. Ông chính là ông Tổ của dòng họ Bùi ấy ðấy. Nhýng Trần Thủ Ðộ họ Trần. Cớ sao lại là ông Tổ của họ Bùi?
Ngýời viết bèn ðem ðiều thắc mắc ấy hỏi một cụ cao tuổi họ Bùi. Té ra họ Bùi làng ấy vốn gốc từ họ Trần thật. Vào thời xa xýa, trong họ sinh chuyện bất hoà. Một nhánh của họ Trần bèn tách ra lập họ riêng, song vẫn không muốn cho con cháu quên cái gốc (là họ Trần) của mình. Các cụ thời ấy bèn ði từ nghĩa Nôm của chữ “Trần”. Trần nghĩa là... ở trần, là không mặc áo. Không mặc áo thì là phi y (không áo). Chữ phi (非) và chữ y (衣) ghép lại thành chữ Bùi (裴). Thế là ðýợc một cái tên họ. Trần = phi + y = Bùi. Thật là một cách cấu tạo họ ðộc ðáo.
Có nhiều câu chuyện týõng tự về cái sự cải họ ấy. Ví dụ họ Mạc. Sau khi Trịnh Tùng (con thứ của Trịnh Kiểm) phò vua Lê dẹp tan nhà Mạc, lập ra triều ðại gọi là Lê Trung hýng. Triều ðình Lê Trịnh bắt ðầu một cuộc khủng bố ðại quy mô nhằm vào con cháu nhà Mạc. Họ Mạc chạy tứ tán khắp nõi, phải thay tên, cải họ ðể tránh những cuộc truy sát. Tuy nhiên, ðể ngầm nhắc cho con cháu sau này không quên cái gốc (là họ Mạc) của mình, các cụ Tổ Mạc thời ấy quy ýớc với nhau giữ lại bộ thảo ðầu (艹) trong chữ Mạc (莫), thành ra các dòng họ Phạm (范); họ Hoàng (黄)... mà chữ viết ðều có bộ thảo ðầu ấy.
3/2006
VŨ PHONG LÝU
Vũ Phong Lýu
Họ là một hình thức sở hữu huyết thống, nguồn gốc, sở hữu tổ tiên của con ngýời. Con ngýời mang cái sở hữu ấy suốt ðời, truyền từ ðời này sang ðời sau. Bắt ðầu một kiếp ngýời, cùng với việc ðặt tên, mỗi ngýời liền có “họ”. Sở hữu nòi giống ðảm bảo an toàn cho quá trình tiến hoá, tránh bị thoái hoá. Thứ sở hữu này ở loài ngýời có lẽ có trýớc cả ngôn ngữ. Bằng chứng là ở một số loài khỉ, những con có chung huyết thống cũng biết không bao giờ giao phối lẫn nhau. Cùng với việc hình thành ngôn ngữ, khái niệm “họ” (tính) liền ðýợc thiết lập, ðồng thời với việc phân biệt các cá thể bằng cách ðặt tên. Từ ðó, “họ” và “tên” luôn luôn ði kèm với nhau. Trong ðó “họ” chỉ huyết thống, còn “tên” chỉ cá thể.
Khó ai thống kê cho hết thiên hạ có bao nhiêu họ. Thời phong kiến gọi là “bách tính” (trãm họ), cũng nhý bây giờ gọi “nhân dân”. Vua ngày trýớc vì “bách tính” mà (miễn cýỡng?) ngự trên ngai vàng. Bây giờ cũng vì nhân dân mà (ðành?) phải... quên mình...?
Họ bên Tàu phức tạp, rắc rối hõn ta nhiều. Có khi lấy họ ðặt tên cho ðất (ví dụ ðất Ðýờng, ðất Ngu...). Có khi lấy tên ðất ðặt cho họ (ví dụ họ Ðào, họ Tiết...). Lại có khi lấy quách chức quan mà làm họ (ví dụ họ Tý Mã...)
Dù thế nào thì bên Tàu cũng không dùng họ của vua ðể ðặt tên cho triều ðại, mà dùng tên ðất (nõi phát tích - quê hýõng của kẻ lập nên triều ðại ấy) ðể gọi (ví dụ nhà Minh, nhà Thanh...). Khác hẳn với bên ta dùng họ của vua ðể ðặt tên triều ðại (ví dụ nhà Lý, nhà Trần...). Ðây chính là một trong những ý thức ðộc lập, tự chủ (về mặt chính trị) của ông cha ta ngày trýớc, quyết không chịu nhất nhất cứ phải bắt chýớc theo “thiên triều”. Tên triều ðại không có nghĩa là tên nýớc (quốc hiệu). Ðó là hai danh từ riêng hoàn toàn khác nhau, một ðằng chỉ “nhà” (tên triều ðại), một ðằng chỉ “nýớc” (quốc hiệu). Chẳng ai gọi nýớc Lý, nýớc Trần... mà vẫn cứ là nýớc Ðại Việt. Cũng nhý chẳng ai gọi nýớc Minh, nýớc Thanh... mà vẫn cứ là... nýớc Tàu.
Tuy nhiên, nýớc ta (hình nhý) có một ngoại lệ duy nhất là vào thời Hồ Quý Ly ngắn ngủi (vỏn vẹn bảy nãm 1400 - 1407). Hồ Quý Ly vốn có tổ tiên là ngýời ðất Ngu bên Tàu xiêu dạt sang ta. Sau khi cýớp ngôi nhà Trần, ông bèn dập khuôn theo cách của Tàu ðể ðặt tên cho triều ðại mình, gọi là triều Ðại Ngu. Các nhà sử học xýa nay liệu có lầm không khi cho rằng “quốc hiệu” của nýớc ta khi ðó cũng là... “Ðại Ngu”?. Gọi là nhà “Ðại Ngu”, thì cũng giống nhý việc gọi là nhà “Lý”, nhà “Trần”... trýớc ðó thôi chứ. Sao tên nýớc lại cũng ðồng thời là “Ðại Ngu” ðýợc? Ngýời chép sử chép nhý thế, phải chãng ðã (vô tình?) ðánh ðồng tên triều ðại với tên nýớc? Nếu quả nhý vậy thì chẳng lẽ trýớc ðó, tên nýớc ta cũng có thể gọi là nýớc “Lý”, nýớc “Trần”... hay sao? Nếu “Ðại Ngu” (rõ ràng) chỉ là cái tên “nhà” (triều ðại), thì tên “nýớc” (quốc hiệu) ta thời ấy vẫn cứ là “Ðại Việt” ðấy chứ?. Nghĩa là, hiểu một cách chính thống (theo cách ðặt tên của chính Hồ Quý Ly) thì không có nhà “Hồ”, mà chỉ có nhà “Ðại Ngu” (của họ Hồ), týõng tự nhà “Minh” (của họ Chu) bên Tàu lúc bấy giờ. Cũng nhý chýa bao giờ có tên nýớc là “Ðại Ngu”, mà trýớc sau, nýớc ta vẫn tên là “Ðại Việt”. Xin các vị sử gia “ðèn giời” minh xét. Ngýời viết không phải ngại gì cái nghĩa nôm na của chữ “Ngu” (娛) to tổ bố kia mà lý sự nhập nhằng ðâu.
Cũng xin mở ngoặc thêm một tí (gọi là lan man mà). Các nhà sử học ðã từng làm cho dân ta tự hào về một nhánh của họ Lý, do một hoàng tử ðời nhà Lý dẫn ðầu, xiêu dạt sang Triều tiên từ thế kỉ 12, có ðời ðã từng làm tới chức tể týớng ở bên ấy. Vậy týởng cũng nên công bằng với một vị hoàng tôn lừng lẫy ðời nhà Trần sau ðây. Ấy là vào khoảng những nãm 1360 - 1366, con trai vị “Quốc výõng” bán nýớc Trần Ích Tắc, tên là Trần Hữu Lýợng theo ngýời cha (hèn) chạy sang Tàu. Vào cuối ðời nhà Nguyên, Trần Hữu Lýợng ðã dám chiêu tập binh mã, ðýờng ðýờng tranh nýớc với ðích danh Chu Nguyên Chýõng - vị vua lập nên triều ðại nhà Minh (mà ông suýt thắng Chu Nguyên Chýõng nếu không bị phản bội). Ngýời viết không hiểu tại sao Trần Hữu Lýợng khi lập nýớc (ở bên Tàu) lại ðặt tên cho triều ðại mình là nhà “Hán”? Trần Hữu Lýợng ðâu phải ngýời ðất Hán? Lại cũng không gọi theo họ (là nhà “Trần” phẩy chẳng hạn?). Ðiều này phải chãng có liên quan ðến giấc mõ của vua Trần Thái Tông trýớc khi sinh hoàng tử Trần Ích Tắc, cho rằng Ích Tắc là ngýời phýõng Bắc ðầu thai? Mặc dù nhà “Hán” của Trần Hữu Lýợng tồn tại ngắn ngủi có bảy nãm. Song cũng phải công nhận ông là một bậc anh hùng cái thế. Ðó gọi là “cẩu phụ” mà vẫn sinh “hổ tử” ðấy. Xin các nhà sử học hãy ðừng vì “cẩu phụ” mà lờ tịt vị “hổ tử” ấy ði. Nói (dại) chứ nếu (chẳng may) mà ông ðánh bại Chu Nguyên Chýõng, chiếm lấy ít ra thì cũng từ phía nam sông Dýõng Tử, hoặc thậm chí toàn cõi Trung Hoa, thì lịch sử cũng nhý cýõng thổ giữa nýớc ta với nýớc Tàu ngày nay hẳn sẽ khác ði rất nhiều.
Khái niệm “họ” từ chỗ chỉ dùng ðể ghi nhớ gốc gác, tổ tiên, cũng dần dần bị nhuốm màu sắc khác. Ngày xýa, họ của vua là cao quý nhất, gọi là “quốc tính”. Vua dùng nó ðể “ban” cho các bậc công thần. Trần Bình Trọng với câu nói khảng khái bất hủ: “Ta thà làm quỷ nýớc Nam, chứ không thèm làm výõng ðất Bắc” chính là một ngýời ðýợc ban “quốc tính”. Ông vốn họ Lê, dòng dõi Lê Ðại Hành (Lê Hoàn). Vị danh nhân vãn hoá thế giới thời Lê sõ là Nguyễn Trãi cũng ðýợc ban “quốc tính”. Các vãn bia ông soạn còn lại cho ðến nay ðều khắc “bút danh” là Lê Trãi. Ðến ðời Lê Thánh Tông (1460-1497), vị vua anh minh này thấy cái “trò” ban quốc tính ấy càng ngày càng trở nên phiền toái (ðại khái dần dần, nó cũng tệ lậu týõng tự nhý vấn nạn... “sùng bái lãnh tụ” sau này). Không những thế, ðiều ðó chỉ tổ làm cho những kẻ ðýợc ban... mất gốc mà thôi. Lê Thánh Tông bèn xuống chiếu bãi bỏ việc ðó, cho phép những ai ðã trót “bị” ban quốc tính ðýợc trở về họ cũ. Thế là Lê Trãi lại trở về Nguyễn Trãi...
Ngýợc lại với cái thứ “ân huệ” ban quốc tính trên, vì những lý do nhất ðịnh, vua có khi còn bắt bề tôi phải ðổi sang họ khác. Nhý Trần Kiện cùng ðám con cháu hèn nhát chạy theo quân Nguyên, về sau không cho mang họ Trần nữa, bắt ðổi sang họ Mai (thật là oan ức cho những nhà họ Mai vốn vẫn có từ trýớc ðó). Riêng Trần Ích Tắc vì là chỗ máu mủ ruột thịt nên vua (Trần Nhân Tông) không nỡ xóa họ. Nhýng gọi là “Ả Trần” (ngụ ý nhý ðàn bà) cho nó... nhục nhã luôn thể. Lại còn cái thứ kị “huý” mà bắt ngýời ta phải ðổi sang họ khác. Ví dụ thời Lê sõ, vì tránh tên bà mẹ ðẻ ra Lê Thái Tông là Phạm Thị Trần mà bắt những ngýời họ Trần phải ðổi sang họ Trình...
Việc ðổi họ cổ kim còn vô vàn lý do. Nhà thờ họ Bùi ở một làng nọ thờ ông Tổ là... Trần Thủ Ðộ. Vị Thái sý danh tiếng với câu nói bất hủ trýớc họa giặc Nguyên tám thế kỉ về trýớc: “ðầu thần còn chýa rõi xuống ðất – xin bệ hạ ðừng lo”. Không phải vì “thấy ngýời sang bắt quàng làm họ”, mà họ Bùi làng ấy tôn thờ ông ðâu. Ông chính là ông Tổ của dòng họ Bùi ấy ðấy. Nhýng Trần Thủ Ðộ họ Trần. Cớ sao lại là ông Tổ của họ Bùi?
Ngýời viết bèn ðem ðiều thắc mắc ấy hỏi một cụ cao tuổi họ Bùi. Té ra họ Bùi làng ấy vốn gốc từ họ Trần thật. Vào thời xa xýa, trong họ sinh chuyện bất hoà. Một nhánh của họ Trần bèn tách ra lập họ riêng, song vẫn không muốn cho con cháu quên cái gốc (là họ Trần) của mình. Các cụ thời ấy bèn ði từ nghĩa Nôm của chữ “Trần”. Trần nghĩa là... ở trần, là không mặc áo. Không mặc áo thì là phi y (không áo). Chữ phi (非) và chữ y (衣) ghép lại thành chữ Bùi (裴). Thế là ðýợc một cái tên họ. Trần = phi + y = Bùi. Thật là một cách cấu tạo họ ðộc ðáo.
Có nhiều câu chuyện týõng tự về cái sự cải họ ấy. Ví dụ họ Mạc. Sau khi Trịnh Tùng (con thứ của Trịnh Kiểm) phò vua Lê dẹp tan nhà Mạc, lập ra triều ðại gọi là Lê Trung hýng. Triều ðình Lê Trịnh bắt ðầu một cuộc khủng bố ðại quy mô nhằm vào con cháu nhà Mạc. Họ Mạc chạy tứ tán khắp nõi, phải thay tên, cải họ ðể tránh những cuộc truy sát. Tuy nhiên, ðể ngầm nhắc cho con cháu sau này không quên cái gốc (là họ Mạc) của mình, các cụ Tổ Mạc thời ấy quy ýớc với nhau giữ lại bộ thảo ðầu (艹) trong chữ Mạc (莫), thành ra các dòng họ Phạm (范); họ Hoàng (黄)... mà chữ viết ðều có bộ thảo ðầu ấy.
3/2006
VŨ PHONG LÝU