|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 9:28:25 GMT 9
-------------------------------------------------------------------------------- Khi cô phụ tài Xe Ðò Hoàng tuyến ðýờng San José-Westminster (Bắc-Nam Cali) mở bãng DVD ca nhạc trình diễn màn hát Quan Họ thì hai ngýời khách ðàn bà bắt ðầu câu chuyện với cách bí ẩn riêng tý, diễn tả qua từng nét mặt, âm tiếng thay ðổi theo cảm xúc.. ..Bà biết hát Quan Họ nầy hay nhý thế nào không? - Làm sao biết ðýợc, giỏi lắm là ngâm nga theo ðiệu “Ngýời õi ngýời ở ðừng về..” Mà bà có hõn gì tôi ðể ra câu ðố nầy nọ? - Biết là vậy, tôi với bà di cý vào Nam nãm 1954 còn “oắt tì xà lai”, làm sao biết “ngoài Bắc ta” có cái gì, may ra còn giữ ðýợc giọng Hà Nội khác với mấy cậu, mợ 75, “iem ở hà lội.. suốt”.. Theo ông bố vào ở chỗ Hỏa Xa Ðà Nẵng, ði học trýờng Bà Xõ dýới Nhà Thờ Con Gà bị tụi bạn trêu “Bắc kỳ ãn cá rô cây nên hô rãng..“, thế nhýng, biết ðýợc cái hay của Quan Họ là do ðứa chị kể lại sau nầy.. - Chị nào, chẳng lẻ mợ Nguyệt nhà bà lại biết ðýợc những ðiều mà tôi với bà không biết ra.. - Không, ðây là nhỏ chị họ ngoài Bắc, gặp sau nầy ở Mỹ, nó qua ðây làm ðại diện thýõng mại gì ðó cho bên Việt Nam, gọi là chị (tuy nhỏ tuổi hõn) vì là cháu ngoại lớn của bà cả, nó ðẹp lắm, giống nhý Romy Schneidder trong phim Sisi Impéatrice (*).. - Bà có nói quá không, ngýời ngoài Bắc ðẹp ðến cỡ Brigitte Bardot mà chụp cái nón cối lên ðầu nhý em Jane Fonda thì trông cũng chẳng giống ai.. Mà bà ngoại cả là sao? (**) - Thì ông ngoại tao (khi “tôi” trở thành “tao”, hoặc “bà” hạ xuống “mầy” tức là câu chuyện ðã ði vào ðoạn gay cấn, cấp thiết) là ngýời Tàu, Tàu chính gốc, có ðến chín bà vợ, ðại gia ðình sống nhý trong chuyện Hồng Lâu Mộng. Bà tao thứ Tám, ông lấy từ bên Miên ðem về Sàigòn, xong ðýa ra Bắc nên mợ tao có tên ấy mầy không thấy sao.. Nhỏ chị ấy sinh ðúng một nãm sau di cý, 1955 tại Phố Hàng Ðýờng, Hà Nội. Nó tuổi Mùi thua mầy và tao ðúng mýời tuổi. Nhỏ hõn mýời tuổi nhý nỗi ðau, cảnh khổ của nó so với của mầy và tao cứ nhý núi, dẫu rằng mầy với tao chịu nạn sau 30 tháng Tý cũng ðã nát ngýời.. Chồng ði tù cải tạo, một thân nuôi con, výợt biên ðến Mỹ với thứ tiếng Anh Anglais Vivant nói ðến gãy lýỡi, mỏi tay.. Nhýng dù sao bọn mình còn có an ủi với hai-mýõi mốt nãm nõi Miền Nam, và cuối cùng cũng ðến ðýợc ðất Mỹ. So với nhiều ngýời, mầy và tao còn “hạnh phúc” hõn bao nhiêu kẻ khác.. Cứ nhý cảnh chị nhỏ ấy tao sợ chịu không thấu.. - Mầy nói thì tao nghe, nhýng với cảnh khổ ai có thể so sánh với ai, mấy ai nói mình khổ hõn hay khổ kém bao giờ.. Ngýời bạn trầm giọng bùi ngùi, thýõng cảm.. Ðời mầy cũng quá sức rồi, từ “sáu-mýõi, bảy-mýõi..”, tiểu thý lái Mazda 1500, Mustang Capri ðýa con ði học.. Qua “bảy-lãm” ðẩy xe trâu làm ruộng dýới Suối Nghệ, Bà Rịa; rồi với hai con nhỏ chýa ðầy mýời tuổi výợt biên qua Thái bằng ðýờng bộ Campuchia giữa bầy lính Polpot thôi cũng ðủ ðáng sợ nhý chuyện kể trong Papillion, lại thêm mấy nãm ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan coi nhý ở tù không án.. - Chuyện tao kể ra cũng thýờng so với vạn, triệu ngýời Nam, ðời chị nhỏ ấy diễn ra theo cách khác, ðiển hình cảnh khổ của ngýời Miền Bắc, lại là ðàn bà có học, tài sắc, gia thế.. Tao không nói ðiều týởng týợng, nghe ra chuyện mầy sẽ thấy lời tao chýa ðủ. Nó lại luôn chịu cảnh khổ một thân, một mình.. - Sao lại một mình, chồng, con nó ðâu.. ..Ðấy lại là một ðầu mối của ðau thýõng ðời nó.. Ðầu mối lớn nhất. (*; **) Những nữ tài tử ðiện ảnh Mỹ, Pháp nổi tiếng trong thập niên 50, 60, 70.. Một. Bé Giang Thanh sáng ðẹp nhý khối ngọc toàn hảo. Sinh ra trong một chiếc túi ðỏ rực - Ðẻ bọc ðiều nãm tuổi Mùi “không chùi cũng sáng”. Và cô bé ðã nhận ngay ân huệ lớn: Ðau ðậu mùa lúc lên ba nhýng dù chửa chạy qua loa bằng thuốc ngoại khoa cũng hết bệnh, chỉ ðể lại những chấm sẹo nhỏ trên cánh mũi nhý là nét duyên. Sống mũi cao chạy thẳng lên trán biểu lộ trí sáng và sự cýõng nghị. Nghe kể lại, ông ngoại thýờng bế ðặt lên ðùi, nhìn vào mắt cháu nói lời thýõng yêu thắm thiết: “Tội nghiệp cháu tôi phải phận con gái.. Gía nhý là con trai thì dễ ðýõng cự hõn với tử vi “Mệnh vô chính diệu, Ðịa Không, Hỏa Tinh ðộc thủ..”, bởi ông là ngýời thâm cứu tử vi, thấy ra phận ngýời ðau thýõng qua lá số. Ông ðặt tên nó là Giang Thanh nhý bà Nguyệt nhà tao ðýợc gọi là Minh Nguyệt theo ý thõ của Lý Bạch. Bà ngoại, vợ cả của một gia ðình gồm tám phụ nữ tứ xứ, thuộc nhiều chủng tộc, sắc dân khác nhau, ông lấy về trên ðýờng làm ãn phiêu bạc khắp Ðông-Nam Á.. Nõi khởi ðầu từ Vân Nam, ðầu nguồn sông Thanh Thủy, dừng chân, dựng sở tại Hà Nội-Hải Phòng sau khi liên kết với viên chánh sở mật thám Pháp, Ðại Úy Favani xây dựng nên ðýờng giây nha phiến qua ba trục Côn Minh-Hà Nội-Sàigòn. Cũng bởi viên ðại úy ngýời Corse (*) nầy cùng chung sở thích-Ðàn bà và thuốc phiện-Những thú vui tuyệt vời (lại sinh lợi tối ða) ông ta tiếp nhận, áp dụng, và khai triển bài học kinh nghiệm từ viên chỉ huy, Thiếu Týớng Tý Lệnh De Linarès. Phần gia chủ Uông Ðại Dụng, dẫu xuất thân Ðại Học Côn Minh, học viện cổ kính có từ Thế Kỷ 15 với tòa ðại sảnh cao 99 bậc thềm nổi tiếng là một di tích lịch sử của thủ phủ Tỉnh Vân Nam, nhýng ông ðã thấy rõ sự vô ích, vô dụng của học vấn, lại là thứ chữ nghĩa của Khổng, Mạnh, nên ông quyết chí làm giàu.. Có tiền tức có tất cả - Tiền vi tiên. Ứng vạn biến. Ông gieo trồng, chế biến, sản xuất ra thứ ðem lại nhiều tiền nhất: Thuốc phiện. Và tùy theo tình hình chính trị, thời cuộc quân sự, ông cũng là ðầu mối chuyển một thứ hàng nguy hiểm không kém thứ thuốc kia: Thuốc súng, ðạn, bom.. Ông bán súng, ðạn cho những phe phái cần thiết ðến chúng không phân biệt họ là ai: Thổ phỉ, cộng sản, ðảng phái tý sản, kể cả kẻ tống tiền, giết mýớn.. Bán cho ai ông báo cho viên ðại úy biết, nếu cần, ngýời nầy cung cấp thêm hàng cho ông tìm nõi tiêu thụ. Quanh bàn ðèn, Ðại Úy Favani nói lời khen ngợi: Ông là ngýời khôn ngoan nhất Ðông Dýõng. Uông Tiên Sinh không trả lời, ông ðứng dậy châm hýõng lên bàn thờ - Bàn thờ do bà cả thiết lập với những mẫu týợng thánh thần sõn son thiếp vàng rực rỡ.. Ðại úy nói quá lời, tôi chỉ làm theo cố vấn của nhà tôi. Ông nói thật vì bà cả ðã từng vào Sàigòn với một cây roi mây.. Bà ðến ngôi nhà (Ðýờng Trần Nhật Duật, Tân Ðịnh, sau nầy gia ðình tao ở trýớc 1975, mầy ðã tới chõi mấy lần – Ngýời kể chuyện nhắc nhở) ông mua riêng cho bà ngoại tao, nói lời ðỉnh ðạc, kẻ cả: Cô ðừng sợ, ðàn bà với nhau, tôi phải giữ cho cô, tội là do lão ghê gớm nầy.. Bà ghìm ông tao xuống, bà xử dụng những thế võ nhý thế nào ðó (ông tao cũng thuộc loại cao thủ nhýng không chống lại).. Ông nằm im nghe vợ kể tội: Cô ấy còn trẻ, mới mýời sáu tuổi, ông phải biết làm thế là thất ðức, tôi sẽ chuộc phần lỗi của ông bằng cýới hỏi ðúng lễ ðể chính thức xin cô ấy về.. Nhýng nay phải trừng trị ðể ông biết thế nào là nghĩa vợ chồng mà ông ðã nhiều lần gây nên ðiều xúc phạm xấu hổ (Ðối với tôi và cũng ðối với cô ấy) - Lần nầy là lần thứ tám, lần cuối cùng. Ông nằm im nhận mấy chục roi phạt, xong ðứng lên cầm tay bà cả: Tôi xin lỗi mình. Anh xin lỗi em. Ông quay qua nói với bà tao. Khi trở ra Bắc, ông ðýa bà tao lên chiếc xe ðua mui trần màu ðỏ chạy từ Hà Nội về Hải Phòng, mặt cãng kiêu hãnh với ðiếu xì gà ngậm ngýợc chỉa lên trời.. Bà cả ngồi bãng sau cýời cýời coi nhý không có gì. - Mầy vẫn chýa nói gì về nhỏ chị tuổi Mùi kia.. (*) Corse: Ðảo Tây-Nam nýớc Pháp, trong Ðịa Trung Hải, nổi tiếng với cý dân có tâm lý, tính khí mạnh mẽ do thổ ngõi, ðịa thế, môi trýờng cằn cỗi, khắc nghiệt. - Tao phải nói rõ ra nhý thế ðể mầy thấy ông tao, bà cả, bà bác (mẹ chị nhỏ ấy) ra sao ðể hiểu nó ảnh hýởng những gien nhý thế nào từ mẹ, bà, và ông ngoại. Nó là tổng hợp của những ngýời kia với mức ðộ cao nhất – Cao nhất về sắc sảo tính khí, hạnh phúc, khổ ðau kể cả dáng vẻ rất lạ của nó.. Cổ không chỉ cao ba ngấn mà ðến những nãm ngấn. - Thế mẹ nó nhý thế nào? Bà bác của mầy.. .. Bà ấy là một trong những ngýời ðầu tiên (lại là phụ nữ) ði Pháp học về âm nhạc qua bảo trợ bởi lão mật thám ngýời Pháp kia (ðã trở nên là một ngýời thân trong gia ðình ông tao).. Trong nhà gọi là ông Pha và chỉ dùng tiếng Việt ðể nói chuyện. Bác tao kể: Ông ấy ðã có nhận xét trong một bữa ãn: “Tôi ãn ðủ nãm trãm thứ phô-ma của Tây (“Tây”chứ không là “Pháp”), tôi cũng nếm hết các thứ mắm của “ta”.. Biết phân biệt nýớc mắm nhỉ khác nýớc mắm pha nhý thế nào. Nghĩa là tôi ãn tất không bỏ sót một thứ gì!” Lão ấy bảo trợ bà bác tao ði Pháp học không phải không có mục ðích, lão muốn gia tài của ông tao lọt vào tay ngýời nhà của lão. Lão tính trýớc bà bác tao cho ông con trai ngoại hôn (mà lão bảo là con nuôi ðể tránh trách nhiệm với bà ngýời Việt sinh ra ông con nầy, lấy cớ mắc chứng “tráng dýõng sậu tinh”, thêm nghiện nặng thuốc phiện nên không thể có con, lại là con trai). Ông nầy lúc ấy là thiếu úy Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù là ðõn vị nãm 1954 nhảy xuống Ðiện Biên Phủ trýớc tiên.. - Làm sao mày mầy rành chuyện lính tráng, nhà binh ðến nhý thế.. - Thì ông Nhân nhà tao nãm “tám-chín” sau khi ði tù về có theo mợ tao ðến gặp ông nầy ở nhà Ðýờng Nguyễn Trải Sàigòn.. Lính gặp lính nói ra biết ngay, lại là lính nhảy dù không có bao nhiêu ðõn vị. Dịp ấy, mợ tao mới biết vụ việc của bà bác tao, bà cả, ông ngoại ngoài Bắc sau “nãm-tý”.. Thực tế xẩy ra ðáng sợ, kinh hoàng hõn bất cứ câu chuyện nào ngýời trong Nam nghe ðýợc, týởng týợng ra.. .. Mới nghe mầy giáo ðầu ðã thấy bày ra nhý một ðống bùi nhùi, ðến chuyện thật nữa không biết lýờng tới ðâu, nhýng mầy cũng chýa nói gì ðến nhỏ chị kia.. Thủng thẳng, chuyện phải có ðầu ðuôi, xe chýa ra Ðýờng 152, nếu kể chýa hết tao bảo ông Nhân kể tiếp, viết lại cho mầy xem, ông ấy còn có dự ðịnh ðýa ngýời, việc thật nầy vào một cuốn chuyện dài nữa.. Cũng bởi, có ông Ðỗ chủ báo Thời Luận, bạn ông ấy ðã viết về cảnh khổ, nỗi ðau của ngýời ðàn bà Miền Nam rồi, nay ông ấy phải viết về Miền Bắc cho cân phân, cũng ðể trả õn quê vợ. Ðể tao kể tiếp.. Trýớc khi vào Nam, ông tao cho tập họp ðủ tám bà vợ và chia phần dýới sự quyết ðịnh của bà cả.. Những chậu trồng ngãi dýới chân bàn thờ ðền ðýợc mang vào phòng riêng, ðào vàng lên, chia thành tám phần khác nhau tùy theo nhận ðịnh của bà về khả nãng giữ gìn, sinh lợi của mỗi ngýời.. Phần những bà kia nhý thế nào tao không rõ, phần của bà tao ðýợc quyết ðịnh nhý sau: Cô Tám, cô là ngýời nhỏ tuổi nhất, nhýng cô ðã chứng tỏ ðủ sức thay thế tôi, cô giữ phần lớn nhất, cô mang nãm trãm lạng vào Nam theo chuyến máy bay sớm nhất với con, cháu nhà cô.. Chuyện của gia ðình mầy bao nhiêu lâu quen thân tao biết rõ, kể về gia ðình ông mầy ở lại ngoài Bắc với chị nhỏ kia thôi. Ngýời nghe chuyện nôn nóng.. Và tao cũng thắc mắc, ông mầy, bà cả khôn ngoan, tinh tế nhý vậy, lại thêm bà bác mầy nữa, mới nghe qua chuyện cũng ðã thấy ra là hạng ngýời không thýờng.. Thế sao lại không tính ðýờng ði vô Nam, chẳng lẻ tin lời tuyên truyền của cộng sản nên ở lại? - Về lý do chính trị tao không rõ, nhýng theo lời mẹ tao hỏi lại ông bố con Giang Thanh hôm gặp ở nhà ðýờng Nguyễn Trải thì sự thể là thế nầy.. Ông tao nói với bà cả và bà bác: Tộc họ Uông vốn chủng ngýời Bạch, ngýời Bố thuộc nhóm Di ở Vân Nam, từ ngày xýa Ðời Ðýờng, Tống.. ðã không thuận với ngýời Hán ở phýõng Bắc, bên Quảng Ðông, Quảng Tây; dẫu có lúc Týởng Giới Thạch phải rút về Trùng Khánh ðể chống cộng sản, cần mýợn ðýờng Côn Minh ðể nhận tiếp tế, quân viện Mỹ từ Miến Ðiện ðýa lên. Vụ công ty tàu ðýờng sông của chú Sáu bị bang hội Quảng Ðông, Triều Châu, Phúc Kiến chèn ép ðến nỗi phải phá sản là một bài học phải nhớ cho dù chú ấy ðã vào trong Huế gặp Vua Bảo Ðại ðể xin bảo trợ, cạnh tranh với ngýời Hoa qua danh nghĩa ngýời Việt. Tôi ðã tới Nam Vang, Chợ Lớn.. những nõi nầy mình không tranh lại với họ (Ngýời Hoa, gốc Hán tộc), vậy nên tôi quyết ðịnh ở lại Hà Nội. - Nhýng ðó là phần của ông ngoại, bà cả, chẳng lẻ bà bác mầy với ông chồng lai Pháp, sĩ quan nhẩy dù lại chịu ở lại với cộng sản hay sao.. .. Vụ việc nầy có những lý do khác tao không ðýợc rõ lắm, nhýng quyết ðịnh cuối cùng là do bà bác tao. Bà nói: Bố ðã quyết, vậy con không thể ðể bố mẹ ở lại một mình, nhà con tuy là sĩ quan, nhýng anh ấy (theo cách của ông Pha, nhân sự, cõ quan mật hoạt ðộng tình báo của nhiều phía) cũng ðã có những liên hệ với ngýời bên Việt Minh.. Nhýng nếu xẩy ra khó khãn ðến ðâu con cũng xoay xở ðýợc. Mẹ sinh ra con - Một mẹ. Một con - Con là con cửa ðền, cửa phủ, chỉ Thần, Thánh mới ðem con về với các Ngài, ngýời phàm không thể nào chạm ðến con. Bà bác tao là tổng hợp sự quyết liệt của bà cả, mýu thuật của ông tao cộng thêm phần thâu nhận của những nãm học ở ðất Pháp.. Rau tập tàng thì ngon. Bà có ðến ba nguồn vãn minh, vãn hóa trong ngýời hòa hợp trong Ðức Tin Ðạo Giáo. Nhýng sự thể dù chuẩn bị giỏi ðến thế nào, tai họa vẫn xẩy ðến nhý một ðiều tất nhiên. Giọng ngýời kể chuyện trùng xuống. .. Yên ðýợc hai nãm, ðến nãm 1957, Hà Nội bày ra mặt thật của họ với trận ðánh tý sản, những kẻ quen biết với ông, bà tao trong chính quyền ðồng cố ý lánh mặt khi chiến dịch truy lùng, ðấu tố bắt ðầu. Cãn nhà ba tầng Phố Hàng Ðýờng một sớm mai ngủ dậy bị vây bởi một ðám ðông trang bị gậy gộc, la ó, chýởi bới ầm ỉ do công an khu phố hýớng dẫn. Chúng ðòi ông tao ra trình diện ðể nghe ðấu tố. Ông ðóng cửa phòng bảo ngýời nhà ra nói với chúng: Muốn nói chuyện với ông phải cỡ ông Ðồng, ông Giáp.. Nhýng cũng không cần, ông sẵn có cách giải quyết. Ông thay áo quần mới, áo dài hai lớp lót gấm, cúc vàng gài bên hông phải, lấy bàn ðèn, dọc tẩu mạ vàng xuống (chỉ khi nào có khách quý mới ðem dùng). Ông làm thuốc bình thản, kiểu cách phong lýu.. Xong lần dýới gối lấy khẩu súng nhỏ do ông Pha tặng trýớc ðây với lời dặn: Ðây là khẩu súng khởi nghiệp của tôi. Bao nhiêu ngýời gây khó khãn, trở ngại cho công việc, tôi giải quyết với khẩu súng nầy.. Nó ðã thành tinh, ðêm ngủ tôi gối lên, nghe tiếng khóc của những ngýời chết. Tôi giao nó cho ông vì (dẫu còn sống) ông ðáng mặt thủ lãnh của những hồn ma nầy. Với nó, không ai hại ông ðýợc, chỉ khi ông quyết ðịnh chính ông thôi. Hôm nay, ông thực hiện lời ông Pha - Hút xong tám ðiếu thuốc, số lýợng những ngýời vợ ông yêu thýõng. Ông nói lớn: Tôi ði ðây mình. Tôi chết ðừng chôn. Ðốt thành tro ném theo sông. Nhớ, ném xuống Sông Thanh Thủy ở biên giới, chảy về Vân Nam. Chúng nó không xứng ðể làm nhục tôi. Ông ðặt nòng súng vào miệng xem nhý hút thêm một ðiếu. Ðiếu cuối cùng. Ðiếu số 9, týợng trýng cho Bà Cả. .. Phần bà cả, bà ðứng giữa ðiện thờ, trýớc týợng Ðức Thánh Trần nến thắp sáng, tay cầm bó nhang cháy ðỏ, tay cầm cái (xiên) lình.. Bà xiên chiếc lình qua má. Mũi nhọn chiếc xiên ði ngọt ló ra qua gò gò má thứ hai. Bà hét lên lanh lảnh nhý kêu gọi tất cả âm binh cùng dậy lên.. Qua ánh lửa, sau màn khói, mặt bà hiện vẻ uy nghi thần bí. Bọn ngýời dần rút lui. Sau bàn thờ, bà bác tao ðýợc dặn chuẩn bị sẵn chất ðốt ðể nếu bọn ngýời làm tới sẽ phóng hỏa ðốt rụi cãn nhà. Cả gia ðình sẽ hoá thân trong lửa. Ngýời nghe kể rúng ðộng.. Hèn gì mợ mầy và mầy ðều có tính “không sợ ai” qua cái trán dồ nầy (ngýời bạn chỉ vào trán kẻ kể chuyện).. Hóa ra ðấy là cách của cả nhà bên ngoại mầy. - Tao cũng không rõ ðiều ấy nếu không gặp chị nhỏ Giang Thanh, trán nó cũng thẳng ðứng, dồ ra thế nầy. Ngýời kể gỏ gỏ vào cái trán.. Yên, ðể tao kể tiếp, mà tới chỗ nào rồi.. Chỗ bà cả lên ðồng ðuổi tụi ðịnh cýớp nhà ông mầy. ..Lo tang ma cho ông xong, ðến lýợt bác tao nhập trận. Bà nói với bà cả: Bố chết, mẹ phải sống ðể giữ giềng mối nhà nầy, nhýng nay ðến lýợt con gánh vác. Con không phải chỉ lo cho mẹ, nhýng còn phần chồng, con con nữa – Gánh nặng nầy là của riêng con. Con không bỏ ðýợc. Bà thay áo nhung màu bordeau, tóc vấn cao, cổ ðeo chuỗi ngọc, mang giấy tờ ðịa bạ sở hữu cãn nhà.. Bà lên xe xích lô (do ngýời nhà ðạp) ði giữa hai hàng phố ngýời lố nhố nhìn ra. Bà ðến gặp lão chủ tịch nhân dân thành phố Hà Nội nói lời thẳng thắng.. Cãn nhà tôi là ðiện thờ Ðức Thánh Trần, Ngài là vị anh hùng hiễn thánh của ngýời Việt, Bác Hồ cũng ðã làm thõ ca tụng Ngài. Vì chế ðộ mới có nhiều quy ðịnh nên chúng tôi biết mình không thể tiếp tục ở ðấy. Chúng tôi muốn giao lại cho ngýời xứng ðáng, biết giá trị của cãn nhà.. Vậy xin ông nhận lấy do ðã bao lâu quen biết gia ðình chúng tôi.. Lão chủ tịch rúng ðộng, bỗng dýng ðýợc một tài sản quá ðỗi lớn lao, vì ðấy là một trong những cãn nhà tý nhân lớn nhất Hà Nội.. Chị quyết ðịnh nhý vậy hay là do “Bà Cả”.. Viên chủ tịch nhấn mạnh chữ “Bà Cả” với ý tôn trọng, và tôi sẽ phải làm những gì? Ông ta bãn khoãn.. - Mẹ tôi ðể tôi toàn quyền, nhà chúng tôi chỉ xin giữ cãn ðiện thờ Ðức Thành Trần (bà cố ý dùng ðủ chữ), cũng ðể mẹ tôi ở lại lo hýõng khói. Phần gia ðình chúng tôi, xin ông cho một cãn hộ ở La Khê, Hà Ðông và ít vàng làm vốn. .. Chị có gì bảo ðảm cho vụ việc nầy. Viên chủ tịch ngại ngần trýớc diễn tiến quá mau chóng, dễ dàng.. - Tôi mang theo ðây tất cả giấy tờ, ông làm tờ giấy tay mua lại (mua ngày trýớc khi bộ ðội vào Hà Nội - Tháng 10/1954) với giá tùy ông ðịnh. Nhà chúng tôi ðã có nhiều và nay mất thì cũng là chuyện tất nhiên. Ông ðừng ngại, chúng tôi “quyết ðịnh ở lại với cách mạng” chứ không phải bị bắt buộc, các chị kia bà tôi ðã cho ði Nam. Gia ðình chúng tôi ở lại ðể chuẩn bị cõ sở cho ngày thống nhất nhý nhà nýớc ðã thông cáo! Bà bác biết kết hợp tất cả yếu tố (chính trị, xã hội, riêng tý..) với giọng chân thực, lịch lãm nhýng quyết liệt, chặt chẽ, hợp lý.. .. Rồi sau ðó thế nào? Ngýời nghe chuyện thấy khó khãn hình dung ra sự kiện.. Trýớc khi về La Khê bác tao nói với bà cả: Chúng nó (kẻ cầm quyền mới) nói cứng nhýng ðứa nào cũng tham và cũng nhát bởi chúng làm ðiều ác ðộc, vô lại.. Mình nhýờng cho chúng một phần cãn nhà, mẹ ở lại giữ ðền (sau nầy có dịp mình ðòi lại). Con về bên La Khê ðể dễ qua lại thãm mẹ và theo dõi tình hình. Bà xin vào tổ hợp ðan len xuất khẩu và xoay qua ðýờng buôn chuyến lên mạn ngýợc, ngã Lào Cai-Vân Nam-Con ðýờng ngày trýớc ông tao chuyển thuốc phiện. .. Ðã buôn bán nhý thế thì ghi tên vào tổ hợp ðan kia làm gì? - Ðể có hộ khẩu theo ngành nghề, bà ấy ðâu có thể ngồi yên một chỗ mà cầm que ðan.. Nãm “sáu-mýõi” Hà Nội bắt ðầu ðánh Miền Nam, nhỏ chị tao vừa ðýợc mấy tuổi ðã thay mẹ tập ðan những phần ðõn giản, ðến mýời tuổi nó ðã ðan nhà nghề, biết ráp cổ, vai và ðan lồng những hình hoa vãn phức tạp. Nãm Miền Bắc bắt ðầu bị dội bom (1964), nó ðã là tay ðan chuyên nghiệp výợt chỉ tiêu, một tháng xong ba áo gởi sang Nga Sô.. Mýời tuổi, mầy với tao ở Miền Nam chỉ biết ðánh thẻ, ðòi búp-bê, nó phải ði chãn trâu cho hợp tác xã nõi sõ tán (ðể tránh bom Mỹ), ðan áo giúp mẹ. Nhýng nó khôn ngoan, biết lợi dụng nhân dáng ðẹp ðẻ của mình ðể dụ bọn con nít nhà quê.. Tao hát cho chúng mầy nghe, chúng mầy cắt cỏ cho trâu tao.. Nó ðứng giữa bãi ruộng, mặt sáng ðẹp, tóc bay dài theo gió.. Dẫu áo quần lam lủ, chân ðất, Giang Thanh hiện thân toàn hảo nét ðẹp thuần nhã của vãn minh, vãn hóa ðất Bắc. Nó diễn cảnh Thị Mầu lên chùa phải lòng Thị Kính; nó hát Lý Tình Tang, Lý Thiên Thai.. của hoạt cảnh “Liền Anh, Liền Chị” trong hát Quan Họ.. .. Làm sao bé tí nhý thế mà biết những ðiệu hát ấy? - Bà cả tao họ Ðặng, Bắc Ninh, tức vùng Kinh Bắc dọc Sông Ðuống; ðời Vua Lê, Chúa Trịnh sinh ra bà Chúa Chè Ðặng Thị Huệ. Bà cả bày cho mẹ nó, mẹ nó hát ru cho nó nghe từ còn nằm nôi.. Mầy nghe nó hát mới biết Quan Họ phong nhã, trữ tình nhý thế nào.. Chýa kể hoạt cảnh cảm ðộng khi “liền anh, liền chị” gặp nhau mỗi nãm sau Tết âm lịch vào ngày Hội Lim sau một nãm xa cách.. Nãm 1968, Mỹ tãng cýờng dội bom Miền Bắc ðể ép Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị, bộ ðội dồn ðýa vào Nam, vùng biên giới Hoa-Việt giao cho lính Trung Cộng trông giữ, bọn phỉ ngýời Tàu nhân cõ hội lén qua Việt Nam kiếm ãn. Bác tao trong một chuyến buôn hàng bị bọn cýớp chận lại khoảng rừng Phố Lu, Lào Cai. Bà không chịu mất của cho chúng, dùng chiếc quanh gánh (với những thế võ bí truyền của ngýời Hoa, võ Việt cỗ do ông, bà tao dạy) ðánh lại bọn cýớp không nao núng.. Cuối cùng chúng giản ra, một tên dùng súng tiểu liên AK47 chỉa vào ngực bà ðòi vàng và tiền mà chúng biết bà quấn quanh ngýời. Bà quắt mắt nhìn thằng cầm súng khinh miệt.. Muốn bắn mầy nhìn thẳng mắt tao, còn nếu sợ hãy cút ði.. Bà nói bằng tiếng Hoa. Thằng phỉ nhắm mắt, bóp cò, ðạn phá toang lồng ngực. Bà chết ngồi dựa sýờn ðồi, hai tay bám vào lýờn ðất không chịu ngã xuống, giýõng mắt ðứng tròng, khối tóc dài xanh ðen bung xỏa.. Ðứa bắn súng tiến tới, bỗng chấp tay, sụp lạy.. Xin nýõng nýõng tha tội, quả tình tôi không có ý ðịnh.. khi nó nhận ra chiếc trâm của giòng họ Uông trên ðầu tóc bà. Bác tao ứa ra giòng máu uất hận. Bà chết bất ðắc oan nghiệt nên rất linh, dân chúng vùng biên giới lập miếu thờ. Miếu ấy hiện nay vẫn còn, cũng phù hợp với sự việc bố con Thanh kể lại cho mợ tao nghe sau nầy. Không ai dám bày chuyện nếu thật sự không có. Thế là, nhỏ chị mýời-bốn tuổi phải thay mẹ gánh hết khối nặng của gia ðình gồm bà ngoại, cha già, và hai ðứa em. Khi nghe tin con bị nạn, bà tao chỉ thét lên tiếng oán hờn.. Súng! Bắn.. bắn súng! Bà vẫn tiếp tục sống nhýng nhý gốc cây khô, suốt ngày không nói, ðêm ðứng sững trýớc ðiện thờ, mất trí nhớ hoàn toàn. Bà không hề khóc. Hai ngýời ðàn bà cùng lần im lặng nhý thể gánh nặng ðau thýõng của Giang Thanh ðè lên họ.. Rồi nó xoay xở làm sao? Làm sao sống ðýợc! Câu hỏi vô ích, thừa thải. Ngýời kể tiếp tục với cách gắng gýợng: Bị dồn vào cảnh khổ, nó trở nên khôn ngoan, ðáo ðể.. Từ Hà Ðông nó về cãn nhà ở Hàng Ðýờng lấy cớ thãm bà.. Ðến khuya, nó vào phòng viên chủ tịch thành phố, nói với cách ðòi nợ.. Ông cho cháu số vàng mà ông ðã thiếu của mẹ cháu? Viên chủ tịch không phải là ngýời dễ bị dọa.. Vàng gì, tao ðã giả cho mẹ mầy ðủ, giấy tờ tao còn giữ ðây.. Tao chỉ có con buồi cho mầy! Ông nhìn nó với cặp mặt diễu cợt dâm ðảng.. (Cũng bởi hỗn hợp ba giòng máu, nó cao hõn ðứa mýời-bốn tuổi bình thýờng, ngực nẩy nỡ vun phồng khiêu gợi) Cháu biết cái giấy ấy, nhýng mấy lạng vàng kia không xứng với giá của nhà nầy.. Ông hẳn biết! Cháu không ðòi quá, chỉ xin ông trả thêm cho ðủ.. Tao không có! Mầy làm gì nào? Ranh con ðừng giở trò khốn nạn.. Mầy tự ðộng vác xác vào ðây, ông hiếp có chửa bây giờ! Ông không hiếp cháu ðýợc ðâu, thằng bạn cháu ðứng dýới kia chỉ ðợi cháu la lên là nó chạy tới báo trụ sở công an khu phố! Ông chủ tịch ðến cửa sổ, mở hé những lá sách nhìn xuống ðýờng.. Trời ðất! Bây giờ mầy muốn gì? Cháu chỉ xin ông số vàng còn thiếu.. Gì nữa? Ông chủ tịch mệt nhọc, buông xuôi. Ông viết cho cháu cái giấy gởi nõi tổ hợp ðan len giúp cháu tiếp tục việc của mẹ cháu. Mầy xin gì hãy nói cho xong một lần.. Ông bảo hộ cho cháu vào Trýờng Sân Khấu bởi lý lịch bố cháu không tốt! Ông chủ tịch nói nhý than: Mầy bao nhiêu tuổi mà ðã gớm ghê ðến thế.. Lớn lên chút nữa mầy còn ra sao hỡ?! Khi vén vạt áo, buộc những khoen vàng vào thắt lýng quần, Giang Thanh nhìn gã ðàn ông thông cảm ðồng lõa.. Cháu sẽ không nói việc nầy với ai. Bà nhà không phải ði Hà Nam ðâu.. mà qua bên La Khê gặp bố cháu chiều mai mới về! Cháu khai trong ðõn xin vào học trýờng ca múa là ông có họ với bà cháu. Ông thuộc nhà Ðặng Xuân của ông Trýờng Chinh phải không ạ.. Khi ngồi với ðứa bạn trong vòng rào sân vận ðộng Hàng Ðẩy, Giang Thanh khóc nhý chýa bao giờ ðýợc khóc.. Mẹ õi! Ông õi! Nhỏ gào nhý kẻ ðiên. Gã bạn cuống quýt ôm lýng tỏ vẻ an ủi.. Nó ngýng khóc, tát thằng bé một tát cực mạnh, ðạp gã bạn ngã ra ðất. .. Tại sao nó muốn vào học trýờng sân khấu kia? - Bởi ðấy là một trong những cõ quan cho học viên nhiều ðặc quyền, ðặc lợi. Vào ðoàn ðó, nó ðýợc tiêu chuẩn ðýờng, sữa, thịt ðể có sức khoẻ tốt, ngoại hình ðẹp. Lớp của nó chỉ nhận hõn ba mýõi học viên của cả ngàn ngýời dự tranh, ðấy là chýa kể phải thành phần lý lịch tốt. Nó lại là con của sĩ quan nhảy dù Pháp, không có cái chýớc với lão chủ tịch kia thì làm sao mà vào ðýợc. Nhýng nó cố ý là nhắm vào món bồi dýỡng ðýờng, sữa, thịt hằng tháng cùng với tiêu chuẩn mýời-sáu ký gạo cho mỗi học viên - Tiêu chuẩn cao nhất của Miền Bắc. Thì từ ðó mới biết hạt gạo quý, hiếm ðến thế nào ðối với ngýời Miền Bắc. Ông thi sĩ Phùng Cung phải kêu lên: Tôi cúi ðầu.. Bạc tóc, dập ðầu.. Lạy hạt gạo rõi.. Với tiêu chuẩn gạo ðó, nhỏ chị nuôi ðýợc cả nhà bốn ngýời.. Mầy nói gì tao không hiểu? Thì nhỏ Giang Thanh ấy dùng một nửa tiêu chuẩn (gạo) ðể nuôi bà, bố và hai em.. Trong suốt bảy nãm liền từ 1968 ðến 1974, nó chỉ ãn một ngày một lần vào buổi trýa, ðể dành tám ký gạo (nửa tiêu chuẩn) ðem về nuôi gia ðình. Suốt một thời con gái lớn lên, nó không có một chút ðýờng, chút sữa nào hết! Ngýời kể trầm giọng tiếp tục: Không phải chỉ mình nó mà cả miền Bắc vậy mà mấy ai trong Nam biết ðến, phải sau 1975, khi chịu chung ðòn cộng sản mới vỡ lẻ ra.. Nhý vậy ðời nó cũng phải ðýợc lúc dễ chịu chứ, từ bé ðến lớn cứ khổ nhý vậy chịu sao nỗi! Ngýời bạn ngao ngán, cố ý chờ nghe một ðiều vui. - Những ðiều tao vừa kể vắn tắt cho mầy nghe ra chýa diễn tả ðủ cảnh ðời và cách sống của nó.. Cõ cực nhý thế, nhýng vào dịp Tết Trung Thu, nó vẫn cố dành dụm ðể nấu ðýợc một nồi cháo ám cho cả nhà.. Tại sao phải có nồi cháo ấy? Thì thuở trýớc khi bà bác còn sống, lúc bà tao còn trẻ, dịp lễ, tết là ðể cho cả nhà trổ tài nấu nýớng, dọn cổ.. Ví nhý nồi cháo ám ấy là phải nấu với một con cá quả, thịt ba chỉ, hành phải búi lại từng củ, ðủ rau thìa là, cần tây.. Trýớc ngày Tết âm lịch, mọi ngýời phải tắm bằng nýớc rau ngò phõi khô, mặc áo quần mới ðể chúc tết nhau trong ngày Mồng Một. Bà tao mất trí, bác tao chết, bố nó bị khủng khoảng, hai em gái còn nhỏ trong một xã hội thiếu thốn, hạn chế của miền Bắc, nó phải một mình ðóng vai chủ gia ðình, ngýời cha lẫn ngýời mẹ từ nãm chýa ðến tuổi thành niên.. Ðời em nó khốn nạn lắm chị ạ! Nó than thở với tao khi chị em gặp nhau nãm 2005 vừa rồi. Nãm nó nãm-mýõi tuổi. ..Nãm mýõi tuổi hẳn nó phải già lắm nếu nhý gặp phải cảnh ðời nhý mầy vừa kể ra. Mà sao gọi là em, nhỏ ấy là vai chị mầy cõ mà.. Nó giữ lễ trãm phần trãm của ngýời Bắc chứ không “xà bần” nhý mầy và tao (những ngýời ðã ðýợc “Nam Hóa” coi nhý toàn phần).. Ngay mợ tao, không phải là ngýời dễ tính, nhýng buổi ðầu gặp nó là chịu ngay. Nó khôn ngoan thiên bẩm thêm cảnh khó làm nên sắc sảo hõn. Nhýng cũng không hẳn là vậy, những tình thế tao vừa kể thật ra cũng không mấy khó khãn ðối với nó, vì ðấy là hoàn cảnh chung của cả miền Bắc trýớc 1975.. Dẫu rằng suốt bẩy nãm từ 1968, coi nhý hằng ngày nó phải chạy trên trục tam giác: Khu Mai Dịch - Phố Hàng Ðýờng - La Khê (Hà Ðông) ðể trông bà, cha và hai em, cùng về trýờng học nếu không có những tai nạn nói ra ðến nặng lòng, tội nghiệp.. ..Sống nhý thế ðã quá khổ, còn tai nạn nào thêm nữa ðây? Ngýời bạn nghe chuyện nói nhý than. - Thì ví nhý lần mất chiếc xe ðạp, dù chỉ có cái sýờn và hai bánh xe.. Bọn cýớp rình sẵn trýớc cổng nhà bà nó.. Nhý con hổ cái, một mình ðánh hai thằng kẻ cắp, thằng thứ ba giật xe chạy mất, nó chạy theo thì bị một gậy ðập ngang mặt, phải dùng hai ống tay ðể chận.. Hai tay nó giờ nầy còn sẹo và thýõng tật do trận ðòn nầy, cũng may giữ ðýợc cái mặt ðẹp, vũ công ba-lê mà mặt bị sẹo thì còn gì ðể múa với may. Mất xe ðạp nên khi ði từ Mai Dịch về Hà Ðông, nó phải nhảy tàu ðiện nhiều lần, tránh ngýời soát vé ðể tiết kiệm vài hào bạc, chỉ khoảng một, hai cent Mỹ. Nhýng tất cả tình thế thiếu thốn vật chất ấy hình nhý nó coi nhẹ vì xem là ðiều tất nhiên, nếu không výớng phải tai nạn tình ái, hệ lụy thýõng yêu! - Ðã qua cảnh khổ nhý thế thì chuyện yêu ðýõng trai gái có nghĩa là gì?! Ngýời nghe chuyện lên tiếng phê bình, cũng thật sự thắc mắc về tình cảnh tâm lý của một con ngýời ðã kinh qua khốc liệt cùng cực, nhýng sao chýa ðủ ðộ cứng cỏi, trýởng thành? - Hỏi nhý thế thật ra mầy cũng chýa hiểu gì về nó - Ðấy chỉ là một ðứa nhỏ phải chịu cảnh ðời khắc nghiệt của những ngýời lớn (mà nó phải buộc phải thay thế).. Thế nên, khi nghe anh chàng cùng lớp (Thằng bạn thân nãm trýớc theo nó ði ðòi nợ lão chủ tịch thành phố - Nó vốn trung hậu, thẳng thắng, chõi với ai hết lòng với ngýời ấy. Thằng nầy lại là con ông giám ðốc trýờng sân khấu) ngõ lời yêu thýõng và nhất là quà cýới sẽ là chiếc xe ðạp Phýợng Hoàng do Trung Quốc sản xuất mà hiện nó ðang mýợn xử dụng. Thế là nó tin thật, chấp nhận ngay lời cầu hôn. Nó cũng nghĩ rằng: Với sắc vóc ðẹp ðẻ, tính tình chân thật ắt sẽ ðýợc mọi ngýời coi trọng thýõng yêu. Một hôm, bất ngờ mang quà sáng ðến cho thằng kia (xôi nấu từ sáng tinh mõ ðể chứng tỏ lòng thýõng yêu chãm sóc).. Tay ủ dĩa xôi, tay giữ ghi-ðông xe, ðạp chập choạng giữa trời ðông ðất Bắc.. Ði vào, bắt gặp thằng ấy ðang ngủ với một ðứa bạn gái cùng lớp! Nó ngất xỉu ngay trên ngýỡng cửa, lên cõn ðộng kinh, nằm lãn ra ðất, rãng cắn chặt, thân thể cứng ðõ nhý khối gỗ.. Thằng kia (hoảng sợ nếu nó chết sẽ chịu phần trách nhiệm) vạch quần ðái lên mặt nó, cũng do ngýời chung quanh thúc dục, chỉ bảo.. Tỉnh dậy, nó ði thẳng một mạch. Mặt tỉnh lạnh, mắt ráo hoãnh. Bịnh sạch sẻ và ghê tởm liên hệ trai gái có triệu chứng từ ðó, càng ngày càng rõ rệt - Nó thấy ra bộ phận sinh dục của thằng kia trýớc mặt trong cõn kích ngất. Tóm lại, nó vẫn chỉ là một ðứa bé gái với tâm chất trong sáng, cả tin trong một thân thể thiếu nữ ðýõng ðộ phát triển, cũng vô cùng quyến rủ.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 9:29:38 GMT 9
Hai.
Sau tai nạn tình ái, Giang Thanh trở nên lầm lì ít nói, nhưng khi cần phát biểu thì cứng cỏi giữ chắc ý kiến qua cách lớn tiếng cố chấp, không kìm giữ phản ứng quyết liệt, mạnh mẽ. Cuối năm, tháng 12, 1974 tốt nghiệp ưu hạng trường sân khấu, cũng đúng mười-chín tuổi, Giang Thanh tình nguyện đi B (chiến trường Miền Nam) với mục đích: Để gia đình “xóa thành phần” do có con là chiến sĩ văn công đi Nam. Người cha được phục hồi quyền công dân thay mặt bà ngoại coi ngôi đền nay được xếp hạng là tụ điểm sinh hoạt văn hóa nhân gian. Nhưng lý do chính, để cô em kế, Hương Thơ (sinh 1957) được ghi danh vào đại học tổng hợp và kết nộp đoàn (Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh), sau đó chắc chắn sẽ trở nên thành “đối tượng đảng”.
Đoàn văn công được điều động đi B vào đầu năm 1975 sau chiến dịch đánh chiếm Phuớc Long hoàn tất (12, 1974). Tuyến giao thông gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” nay đã là một xa lộ hai chiều chạy dọc theo sườn Đông Trường Sơn sâu nội địa Miền Nam, chứ không là đường giây “xã hội chủ nghĩa” nằm phía Tây trong lãnh thổ Lào và Campuchia của thập niên 60-70. Giang Thanh bừng bừng cảm xúc của người được tham dự vào giai đoạn quyết định lịch sử dân tộc. Thêm mối hân hoan cụ thể là hoàn cảnh gia đình được ổn định do nỗ lực của gần mười năm quên mình lo cho bà, cha và hai em. Cô để lại sổ lương, tem, phiếu gạo, thực phẩm cho cha với lời dặn.. “Con đi B chuyến nầy bình an thôi, chỉ chờ ngày giải phóng Miền Nam con sẽ về thăm bố và hai em. Hy vọng bà còn sống, và khoẻ mạnh cho đến ngày ấy. Khi nào lãnh lương con, bố đừng tiêu hết, nhớ để lại một tháng vài đồng để sau nầy nhà có cái vốn nhỏ cho hai em..” Cô không nghĩ rằng mình vừa mới hai mươi, và đời sống trước mặt có nhiều điều không thể lường trước, nghĩ ra, dự phòng tới. Buổi ra đi, người cha hiện nguyên đủ hình dạng một con người bị thời thế khuất phục, đánh vỡ mà nay dẫu cố gắng hồi phục nhưng bất lực. Ông nhìn con trong bộ quần áo vải kaki màu ô-liu, mũ tai bèo, cổ quấn khăn rằn với đôi mắt không phản ứng.. Ông nhớ ngày rất xa xưa trước kia, cũng đã có lần mặc quân phục - Quân phục của một quân đội khác - Đội ngũ đã một thời hùng mạnh vang danh thế giới, nhưng cuối cùng đã thất trận từ nơi đất nước nầy và mất hết khả năng lập lại lần vinh quang. Ông lạ với con. Ông lạ với đời sống mà ông đã sống cùng, chịu đựng, chia xẻ hằng mấy mươi năm qua. Ông hôn lên má con.. Động tác thắm thiết từ lâu không thực hiện, cũng không thấy ai lập lại, bày tỏ. Giang Thanh nhận ra (và cảm thấy rất hiện thực) phần u uẩn trong mắt người cha về một điều mơ hồ (cũng rất cụ thể) của lần đi B không hẳn là buổi vui mừng như mọi người chung quanh đang rộn rã hân hoan ca ngợi.
Đoàn xe Zil chở toán văn công qua sông Bến Hải vào địa phận tỉnh Quảng Trị, Xã Gio Linh, vùng đất đã dựng nên bài hát bi tráng của một nghệ sĩ ngày trước 1954 là thần tượng của những người yêu tiếng nhạc ái quốc và hào hùng chiến đấu của hai miền Bắc /Nam - Cuộc chiến đấu giữ nước khởi đầu từ đêm 19 tháng 12, 1946 tại Hà Nội, Hải Phòng với những Tự Vệ Thành tóc xanh, áo trắng,có người mặc áo veste, đội mũ phớt khi tác chiến.. Những thanh niên, sinh viên, học sinh, kể cả “dân càng” giang hồ.. dùng thân thể chắn ổ súng đại liên của Binh Đoàn Viễn Chinh Pháp. Trận chiến mà những người viết văn, làm thơ diễn tả lại với mỗi chữ nóng sôi lửa đỏ.. Nổ súng rồi! Nổ súng rồi! Hải Phòng ộc máu phun ra bể..(*) Hoặc: Nhớ đêm ra đi trời bốc lửa. Cả kinh thành ngụt cháy sau lưng..(**) Cùng lần với những lời thơ hùng vĩ nầy, bài hát vẽ nên một cảnh huống khốc liệt, bi thương.. Mẹ già đi lấy đầu con.. Xa xa tiếng chuông chùa reo.(***).
(*) Thơ Trần Huyền Trân, Hải Phòng, 11/1946 (**)Thơ Chính Hữu, Tống Biệt, 1947 (***) Nhạc Phạm Duy, Bà Mẹ Gio Linh, 1948 (?)
Đêm liên hoan cuối năm, dịp Tết Âm Lịch 1974 qua 1975, Giang Thanh cùng những bạn trong tốp ca múa diễn tả, thúc dục, ngợi ca cuộc kháng chiến thứ hai hiện đang đi vào giai đoạn kết thúc với thắng lợi vẻ vang qua những bài hát.. Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân, Trường Sơn Đông/Trường Sơn Tây.. Nhưng khác với sự chờ đợi của đoàn ca múa, trên bãi cát Thôn Diêm Hà Nam, quận Triệu Phong bên bờ biển âm âm tiếng sóng, toán bộ đội giữ vị trí pháo và đám dân chúng tham dự buổi liên hoan không có vẻ hào hứng nôn nao của một đêm vui được tổ chức, động viên, chuẫn bị từ ngày đoàn bước chân lên đất Miền Nam. Sáng hôm sau, Giang Thanh ngõ lời thắc mắc với viên chính ủy đơn vị bộ đội.. Sao em thấy các đồng chí bộ đội có vẻ không hồ hởi khi nghe các em hát.. Và quần chúng hình như cũng thế?! Hồ hởi sao được cô ơi, cả một Sư 308 chỉ còn chừng ấy mống! Năm 1972 mà cô vào đây thì chỉ có là tan xương sau dăm phút đứng trên mặt đất. Không chỉ bên ta mà cả lính ngụy cũng chịu chung số phận.. Nhân dân nào tránh được, cũng hứng bom, chia lửa của cả hai bên. Đạn, bom dập xuống không phân biệt bên nào, dưới đất chốt cách nhau vài ba thước, trận chiến tháng 9 năm ấy hai bên như trộn trấu vào nhau. Làm sao phân biệt đạn nào của địch, pháo nào của ta.. Cô thấy đằng xa kia không..? Giang Thanh nhìn ra xa, phía tây, sau những cồn cát, lũy tre loang lỡ.. Cô thấy những ụ đất và những kiến trúc xiêu ngã ngỗn ngang.. Thành Phố Quảng Trị đấy, mấy ụ đất kia là cổ thành bằng gạch xây cả hai trăm năm như mấy cửa ô Hà Nội!
Giang Thanh xuôi về Nam với tâm cảnh nặng lòng.. Điều mơ hồ cảm nhận từ lúc ra đi nay càng cụ thể với những xóm làng cô đi qua. Hơn thế nữa, cô còn linh cảm, xao xuyến về một điều gì bất hạnh của riêng mình - Một tai họa nào đang phục sẵn.
Rời Quảng Trị, đoàn theo đường giây giao liên được bảo vệ, hộ tống bởi một đại đội trinh sát qua những căn cứ quân sự, những địa phương đã được quân giải phóng chiếm đóng, lấn chiếm từ những năm Tổng Công Kích 1972, hoặc sau Hiệp Định Ba lê 1973, trong năm 1974.. Những địa phương (với cư dân dị biệt âm, chữ nói) có những tên gọi lạ lùng như Ba Lòng, Cùa, Tý, Sé, Đắc Tô.. khác hẳn những làng quê miền Bắc thông thường đặt theo tên chữ Hán-Việt, và lũy tre xanh bao bọc.. Nhưng tất cả những nơi nầy cùng chung một cảnh sắc: Đấy là những thị trấn, làng xã heo hút giữa vùng núi mù mờ trùng điệp, hoặc đồi cỏ khô cằn.. Tuy nhiên, đến đâu cũng nghe những lời vui mừng phấn khởi: Bây giờ là hòa bình rồi, chứ như mấy năm trước còn Mỹ thì đâu có ngủ được trên mặt đất.. “Hoà bình rồi.. Không còn Mỹ”, nhưng sao vẫn không thấy những thị xã, thành phố? Và “chiến tranh giải phóng” nầy tại sao vẫn tiếp tục? Và đâu là “nhân dân Miền Nam bị kìm kẹp dưới ách Mỹ-Ngụy” đang trông chờ lần giải phóng từ Miền Bắc!? Những câu hỏi âm thầm xuất hiện trong đầu Giang Thanh đồng thời nỗi nhớ quê nhà, nơi các em, với ánh mắt u uẩn của người cha. Mãi cho đến giữa tháng Ba, đoàn được thông báo tin vui: Quân Đoàn Tây Nguyên đã giải phóng Thị Xã Buôn Ma Thuộc, nhưng vì tình hình ở đấy còn đang phức tạp nên toán văn công chưa được phép vào trình diễn, mặc dù bộ đội và nhân dân đang hồ hỡi, phấn khởi chào đón (?!). Hiện thực cho nguồn vui nầy, đoàn được phát những thức ăn tươi, đồ hộp cao cấp mang nhãn hiệu “Quân Tiếp Vụ QLVNCH” với hình người lính cầm súng (Mỹ) và lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đoàn lên những xe quân sự to, chắc hơn xe Zil (của Trung Quốc) tiếp tục xuôi Nam với tốc độ khẩn cấp để đến cuối tháng Ba đi vào một thành phố đẹp như phong cảnh, tranh ảnh Tây Phương: Đà Lạt. Và Giang Thanh cùng với tất cả thành viên trong đoàn đều không nén được tiếng kêu kinh ngạc thán phục trước chiếc cổng lớn của một khu doanh trại uy nghi trãi rộng hết vùng đồi trùng điệp hùng vĩ: Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Toán ca múa được xếp chỗ ngủ vào những phòng riêng biệt, mỗi phòng gồm hai giường sắt, nệm, khăn trải giường trắng tinh xếp thẳng góc.. Phòng ngủ nầy là của tụi học viên sĩ quan Ngụy đấy. Chúng được đào tạo như thế nầy để đàn áp, giết hại nhân dân. Viên chính ủy đoàn (cố gắng) tìm lời giải thích (phù hợp) về cảnh trí tiện nghi, xếp đặt ngăn nắp, sạch sẻ của tòa doanh trại mà dù những chủ nhân căn phòng hẳn đã phải ra đi trong khẩn cấp nhưng nền nhà còn nguyên độ bóng sạch khiến người bước lên có cảm giác e ngại gây dơ bẩn. Nhưng lời giải thích (dẫu cố tình ép buộc mà người nói cũng không tin vào nội dung do chính mình nói ra) không còn độ tác dụng khi toán văn công được lệnh thu dọn chiến lợi phẩm nơi thư viện.. Những khối sách bề thế bọc gáy da, chữ vàng xếp chật trong toà đại sãnh im lặng một cách uy nghiêm - Nội lực trí tuệ thể hiện qua chữ của người xây dựng nên văn minh, văn hóa nhân loại – Những người học, đọc những sách nầy chắc chắc không là kẻ chuyên nghiệp sát nhân, ăn gan, uống máu người, ném trẻ con hài nhi vào lửa (?!) Giang Thanh có ý niệm rất cụ thể. Và cô thực sự chìm xuống cảm giác phạm tội - Tội hủy diệt, với máu, thịt con người do chính tay cô tàn phá, nhúng đẫm - Cô và các bạn trong toán văn công được lệnh thiêu đốt khối sách của thư viện. Lửa bùng lên.. Các bạn cô đùa cợt, bừng bừng hân hoan ném sách vào lửa.. Sách nầy! Sách nầy.. Sách mã mẹ chúng mầy.. Đọc cho cố.. học cho lắm để tàn sát nhân dân! Giang Thanh nghe đau trên thịt da mình. Cô như đang cùng sách chịu lần thiêu sống. Cô cố gắng cất dấu những cuốn sách lớn, dày, đẹp nhất, bìa in theo kiểu chữ Romain cổ điển, nét khắc vàng tươi. Cô có cảm giác an ủi như cứu được những con người - Những người lương thiện, tốt lành, cao thượng.
Đêm liên hoan Giang Thanh uống tất cả những gì các bạn mang lại.. Rượu Số 7 nồng cay; rượu nhản Người Đi Bộ thơm mùi lúa mạch; rượu sâm-banh mở ra cùng tiếng nổ và bọt trào vàng óng.. Rượu đỏ như màu máu.. Rượu vang.. Rượu vang.. Ông ngoại, bà ngoại, ông người Pháp tên Pha (nghe qua câu chuyện nhà thường kể lại), và người cha với chiếc áo trận nhiều túi, vải rằn ri thô cứng (chỉ mặt trong nhà khi mùa rét).. Rượu Vang tất cả là đây.. Giang Thanh uống vào người như nhận lãnh một thứ nước quen thuộc, máu của mẹ, của cha, của quá khứ, ngày xưa khi bà còn uy nghiêm, xuân sắc, đài các. Khi mẹ còn sống. Cô uống xuống như nuốt hết cùng lần tuổi thơ khốn cùng, nguy biến, sáng dậy tinh mơ và đêm giá rét thức giấc một mình.. Một mình từ mười bốn tuổi vượt đói khổ nuôi cha, nuôi em. Giang Thanh uống rượu chiến thắng hoà nước mắt của mình. Cô cười dòn dã, líu lưỡi nói với Sơn.. Mầy là thằng khốn nạn.. Tao yêu mầy nhất mà tao cũng khinh ghét mầy nhất.. Tiên sư bố mầy.. Mầy ngủ với con Diễm như thế có được gì mà mầy mất tao trọn. Tao chẳng đau khổ mẹ gì cả, chỉ tiếc là tao đã có lần yêu mầy.. Muốn trả thù mầy thì tao giết mầy ngay nhưng tao.. đéo cần.. Mẹ tao bị chúng giết nên tao sợ chuyện giết người chứ không phải tao sợ gì mầy.. Tao thách mầy đánh tao như năm kia khi vì còn yêu mầy nên tao nhịn mầy! Cô nhổ nước bọt và rượu vào mặt Sơn, gã trai đã cùng cô sống suốt thời gian bảy năm nơi trường ca múa với Tình Bạn thắm thiết - Cũng là người giúp cô nhận hiểu về sự phản bội của Tình Ái tầm thường.
Giang Thanh không biết mình đã trở về chỗ ngủ như thế nào, với ai. Nửa đêm, cô tỉnh giấc với cảm giác ê nhức nơi bộ phận sinh dục. Cô đưa tay xuống sờ đũng quần.. Ướt dính máu, và chất nhầy nhầy đóng khô trên những sợi lông nỏn.
Giang Thanh phải ra trước phiên họp của bí thư đoàn để trả lời về tội hủ hóa nay đã nên bằng chứng cụ thể với bầu thai càng ngày càng dễ nhận. Nhưng cô không phải tay vừa. Mặt đanh lại, tiếng nói như ngọc vỡ, cô trả lời với ban bí thư.. Tôi không phải là loại người khốn nạn, suy đồi hủ hóa, mê giai.. Tôi là chiến sĩ cách mạng. Là diễn viên ưu tú của đoàn kịch nói, ca múa, đi Nam để cổ vũ động viên cho cuộc giải phóng Miền Nam. Đêm ấy, đêm uống rượu liên hoan, tất cả mọi người đều say không riêng một mình tôi.. Có chăng tôi là người say nặng nhất.. Ngày hôm sau tôi xin đi khám phụ khoa thì bác sĩ chứng nhận tôi bị cưỡng dâm, y chứng còn đây, và tôi đã báo sự vụ đến ban bí thư. Nếu ăn vụng thì tôi đi báo làm gì? Chẳng đứa nào ngu đến độ đi tố cáo chuyện lén lút của mình! Và tôi cũng đã xin đi khám phụ khoa hai lần sau đó để xin bác sĩ tống cái thai ấy ra.. Hôm nay, tôi vẫn giữ nguyên ý định ấy. Nếu phá thai phải nhiễm trùng hay băng huyết mà chết tôi cũng không từ. Tôi viết giấy ngay bây giờ chấp nhận quyết định nầy. Đáng nhẻ, ban bí thư phải tìm ra kẻ khốn nạn ấy, bắt nó phải chịu kỹ luật, hạ tầng công tác, khai trừ nó ra khỏi hàng ngũ đảng viên.. Đảng viên cộng sản là thế sao.. Đạo đức cách mạng Bác Hồ dạy chúng mầy (cô cố ý dùng chữ “chúng mầy”) để đâu? Đảng viên gì nhân lúc đồng chí mình say cởi quần đè ra hiếp! Mắt cô giương lên sòng sọc, giọng thét lớn, bao nhiêu giận hờn uất ức (suốt từ năm tháng qua, do nhiều nguyên nhân..) cùng lần nỗ tung không che dấu.
Ban bí thư cuối cùng đưa đến biện pháp: Tất cả những đoàn viên phái nam đồng phải làm tự kiểm để tìm ra kẻ thủ phạm. Cuộc kiểm thảo đưa đến kết quả dễ dàng với số lượng có đến ba kẻ thú nhận, bao gồm viên phó bí thư và gã tên Sơn.. Tất cả “ba thủ phạm” đồng lòng nhận lỗi, và xin được chuộc lỗi bằng đám cưới chính thức với Giang Thanh do ban bí thư làm chủ hôn. Nhưng tất cả đều không lường được.. Giang Thanh cười khinh miệt, chỉ mặt ba kẻ ”thủ phạm” với lời như dao chém đá: Các anh nhìn lại mặt mình đi.. Tôi như thế nầy mà phải gọi các anh làm chồng ư? Cái thai trong bụng tôi đã là một sự đốn nhục.. Lấy các anh tôi phải chịu sự nhục nhã kia đến trọn đời.. Cô đổi giọng.. Tao không cần thằng nào phải gánh chịu phần khốn nạn do một trong ba đứa chúng bây đã gây nên.. Nhưng tao cũng đã biết rõ đứa nào.. Cô nhìn vào mặt gã tên Sơn: Mầy đã hai lần gây nhục cho tao.. Nay mầy lại ngỡ qua “nhận lỗi” nầy, mầy sẽ cột được với tao.. Đừng có hòng! Tao sẽ phá cái thai nầy, hoặc nếu để thì tao cũng sẽ không bao giờ cho mầy được nhận đứa bé trong bụng tao làm con. Con tao không có loại thằng bố khốn nạn, hèn hạ như mầy!
Gã tên Sơn sụp xuống đất than vãn.. Anh lạy em.. Anh van em xin em giữ lấy con. Nó là con chúng ta, anh với em dẫu sao trước kia cũng có lễ hỏi chỉ chưa cưới mà thôi.. Em không cho anh nhận nó cũng được, nhưng xin em đừng bỏ nó.. Tối hôm qua anh nằm mơ thấy nó rất rõ - Nó là con gái giống hệt đứa con mà chị anh đã để chết ngạt trong hầm trốn pháo năm kia ở Thái Bình..
Ai anh, ai em, vợ chồng gì với mầy.. Nếu tao giữ đứa bé là vì nó từ trong bụng tao mà ra. Mầy là thằng khốn kiếp đâu xứng đáng làm bố con tao. Giọng nói vẫn còn nguyên độ cứng cỏi nhưng thoáng vẻ cay đắng chán chường chứ không hoàn toàn do phẫn nộ như khi bắt đầu buổi họp.
Cuối năm 1975, ngày 28 tháng 12, đúng chín tháng, mười ngày kể từ cơn say ngất ở Trường Đà Lạt, Giang Thanh sinh đứa bé gái ở Nhà Bảo Sanh của bà đỡ Người Hoa, họ Lương, Đường Hai Bà Trưng, ngã ba gặp đường Trần Quang Khải, từ Đường Trần Nhật Duật đi thẳng ra - Nơi có căn nhà ngày trước Uông Đại Dụng đã mua cho bà thứ Tám vào năm 1915, sáu-mươi năm trước, cũng một năm Ất Mão, 1975.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 9:30:42 GMT 9
Ba.
Giang Thanh từ chối những quyền lợi của ngýời ðýợc týớc hiệu “Nghệ Sĩ Ýu Tú” nếu nhý thuận trở về Hà Nội với ðoàn ca múa. Cô xin ở lại Sàigòn, ghi danh vào học trýờng Quốc Gia Âm Nhạc nay cải biên nên thành Trýờng Âm Nhạc Nghệ thuật số #2, Lớp Ðạo Diễn do quan niệm, nghệ sĩ trình diễn chỉ có một thời ðoạn và một lãnh vực riêng: Hát, múa, phim, kịch.. Và sẽ bị hạn chế bởi tuổi tác, thời gian, yêu cầu của nghiệp vụ (cho dù tài nghệ xuất sắc, kỹ thuật ðiêu luyện ðến ðâu) - Nhýng những hạn chế nầy sẽ không tác ðộng ðối với chức nãng ðạo diễn, nếu không nói ngýợc lại – Càng ở lâu trong nghề, tuổi càng lớn, ngýời ðạo diễn ắt sẽ trở nên vững vàng, sâu sắc hõn. Tuy nhiên, cô cũng phải chịu những lời phê phán, trách móc, ác ðộc.. “Nó muốn ở lại Sàigòn là bị nhiễm cái mùi bõ thừa sữa cặn của bọn ngụy bỏ lại ðấy mà.. Cái ngữ ấy rồi ðây chỉ có nýớc nằm ngữa ra ðể bán thân nuôi miệng thôi.. Thằng Sõn ấy ðã van lạy trýớc tập thể nhý thế mà nó còn ðá thằng nhỏ nhý con chó thì nó còn biết thýõng ai.. Ðứa nhỏ kia trýớc sau gì nó cũng cho vào nhà mồ côi ðể rộng ðýờng ði ngang về tắt.” Ðối với những lời “tiên tri” không mấy tốt lành nầy, cô ðáp lại không khoan nhýợng.. “Ở Miền Bắc, tao mýời bốn tuổi còn nuôi ðýợc cả nhà dýới bom ðạn Mỹ, hôm nay chúng mầy nói ðiêu, nói ðộc, rồi ðây sẽ có ngày chạy tới bám vào gấu quần tao ðể xin xỏ.” Cô không dùng lời ngoa ngôn, trống rỗng, bởi sẵn có dự ðịnh (thật ra là quyết ðịnh) với hai khả nãng giúp phần ýu thế: Một sắc vóc rực rỡ lồ lộ, và trí sáng thiên bẩm do từ trực giác bén nhạy, giúp cô thấy ra sự việc, lời nói, ý niệm của ngýời khác từ lúc mới manh nha khởi ðộng.. Hõn ai hết cô biết rõ về mình nên rất ðỗi tự tin, ðồng thời biết giữ vững tâm chất trong sáng do ðã kinh qua cảnh khổ mà không bị nhận chìm xuống. Nhýng cô cũng sẵn sàng tiếng lời ðộc ðịa, khắc nghiệt ứng phó, trả lại chính xác từng chữ, từng câu với ðối thủ. Chắc chắn một ðiều, Giang Thanh không hề sợ hãi, ngã lòng.
Miền Nam nói chung, Sàigòn nói riêng (hiện thực cụ thể nhất) sau 30/4/1975 rõi vào một tình trạng bi thảm kỳ dị suốt hõn trãm nãm thành hình, xây dựng nên cảnh sắc riêng biệt, ðặc dị tài hoa - Cảnh huống bi thảm do chính bản thân (ngýời Miền Nam) góp phần khởi dựng, thực hiện qua một cuộc ðổi ðời ðảo ngýợc nên thành tồi tệ - Cũng gọi là “cách mạng giải phóng dân tộc”, nếu nói theo ngôn ngữ chính trị thời thýợng mà lần hồi không mấy ai cam tâm xử dụng do so sánh với thực tế khi “chýa giải phóng”. Những chuyến xe buýt vàng chạy ðýờng Gia Ðịnh, xe xanh nội thành Sàigòn thoắt trở nên chuyện, tích ðời xýa cũ. Nhà cửa, quán ðàng Ðýờng Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn bày ra vẻ buồn thảm tội nghiệp nhý cô gái ngày hôm trýớc còn mặc trên ngýời những áo quần ðắt tiền của thời trang thế giới nay lập tức thay bằng chiếc bà bà màu trắng, và quần ðen nội hóa, chân mang ðôi dép nhật ðúc bằng nhựa làm từ Chợ Lớn, hiện thực chính xác miêu tả của Hoàng Cầm: Chân dép râu. Ðầu thắt bím. Quần ðen, áo trắng, dáng con sen..
Ngýời Miền Nam vừa kinh ngạc, vừa buồn cýời bởi hậu quả thất trận “lãng xẹt” quá mau chóng, vô lý của mình, ðồng thời thấy rõ ra chân dung kẻ thắng trận.. Chỉ là một ðối thủ lúng túng, xoay xở cây xẻng cá nhân mang nhản hiệu U.S. trên tay, ngõ ngác ði trýớc Toà Ðô Chính, bối rối nhìn lên những cao ốc với lời tán thán.. Khiếp! Và ngýời giúp việc nay là cứu tinh của gia ðình qua lời trấn an kẻ cả..”Cậu, mợ ðừng ngán ðứa nào, cứ dời xuống dýới ga-ra mà ở; tui bây giờ là chủ nhà nầy, thuộc ðội ðặc công thành phố, phụ trách phụ nữ quận Phú Nhận (“Nhận” chứ không là “Nhuận”)”. Ngýời ta bắt ðầu ãn bo bo, củ mì thay hạt gạo mà chỉ tháng trýớc phải là “gạo Nàng Hýõng, Chợ Ðào” mới có thể nuốt xuống một chén cõm với mâm thức ãn ít nhất cũng phải ba món “canh, xào, mặn”. Ngýời Sàigòn phải trình bày toàn bộ ý nghĩ, cảm xúc của mình bằng một tỉnh từ tổng quát “tốt” với một lối nói “ðýợc học tập” sau nhiều ðêm họp tổ khu phố, kiểm ðiểm, bình bầu, báo cáo thành tích thi ðua lao ðộng, tãng gia sản xuất.. Báo cáo cán bộ, tôi ðã lao ðộng tốt, ðạt, và výợt chỉ tiêu mà trên giao.. Từ bà già bán bún ốc nõi Chợ Phú Nhuận, ông ðạp xích lô, anh thanh niên chạy xe thồ, thằng bé chạy việc nõi tiệm phở quốc doanh.. Tất cả ðều chung một lời báo cáo với một nội dung tất cả ðồng học thuộc. Mỗi ðêm từ 8 ðến 11 giờ. Xong tất cả về ði ngủ ðể sáng sáu giờ ra công viên vãn hóa tập thể dục theo nếp sống vãn minh vãn hóa mới.
Và ðể an ủi, ngýời Sàigòn tự hoạt kê phần bất hạnh của mình qua những câu chế diễu.. “Ðả ðão Thiệu-Kỳ cái gì cũng có. Hoan hô Hồ Chí Minh, mua cái ðinh cũng phải xếp hàng..” Tuy nhiên cũng có một ðiều mà trýớc ðây những chế ðộ cũ (thực dân, phong kiến, cộng hòa..) dẫu cố công bao nhiêu cũng không thực hiện ðýợc: Ðấy là mọi ngýời ðều bình ðẵng trong một tình huống cùng khổ, thảm hại qua một cõ chế kinh tế, xã hội gọi là “chế ðộ bao cấp”. Giang Thanh không thoát khỏi cảnh chung khốn cùng do vinh quang cách mạng cô góp phần xây dựng nên. Mức lýõng cố ðịnh của học viên trýờng Âm Nhạc Nghệ Thuật không thể giúp cô nuôi ðủ bản thân, huống gì nay thêm bé Thanh Giang - Cô ðão ngýợc tên mình ðặt tên con ðể biểu lộ quyết chí - Ðấy là ðứa con của chính cô. Với riêng một mình cô. Vì bé Thanh Giang chỉ ðýợc ðãng ký là con tý sinh do cô không có chứng chỉ kết hôn với ai, nên bé không ðýợc gọi là con trẻ của chế ðộ mới - Chế ðộ xã hội chủ nghĩa. Chế ðộ chấm dứt hiện týợng ngýời bóc lột ngýời. Thanh Giang không ðýợc tính vào mức lýõng của mẹ. Thế nên, Giang Thanh tìm cách phấn ðấu ðể nuôi con.
Xin ðýợc chân chạy bàn ca ðêm (ban ngày phải học tại lớp ðạo diễn) ở nhà hàng Bát Ðạt ðýợc hai bữa.. Ðêm thứ ba, viên quản lý ðến bên cạnh khi cô ðang choàng chiếc áo ðồng phục trýớc buổi làm.. Em ðẹp quá, thõm quá.. Anh ta hít hít cánh mũi rộng ðể chứng thật ðang ðýợc thấm ðẫm hýõng thõm từ da thịt cô gái.. Giang Thanh ngừng mặc áo, nhìn gã quản lý.. Hiểu lầm sự im lặng của cô, anh ta tiến tới.. Em khỏi phải chạy bàn nữa, phí ði, ðừng mặc áo chiêu ðãi nầy kể từ ðêm nay. Lên phòng anh, phòng quản lý, lầu tám, phòng có bể cá vàng ðằng trýớc.. Không mặc thì bà ðội lên ðầu mầy ấy à.. Mầy nhầm ngýời rồi! Giang Thanh chụp chiếc áo choàng lên ðầu gã quản lý. Quay ngoắt býớc ði. Cô cũng gặp phải “sự cố” týõng tự tại vài nhà hàng khác, hoặc bị vợ của những viên quản lý ðòi xé xác “con Bắc Kỳ trắng nhý ðầm lai, ðẹp nhý Thanh Nga, Mộng Tuyền..” Cuối cùng, cô chọn chân rửa chén tại Khách Sạn Nam Ðô, cõ sở biên chế nên thành nhà hàng quốc doanh, ðịa ðiểm chiêu ðãi chính thức cho những ðoàn hát trung ýõng vào Sài Gòn công tác. Không ai biết cô diễn viên thoại kịch tài hoa, nghệ sĩ trình diễn ca, múa dân tộc ðiêu luyện, học viên biên ðạo diễn xuất sắc cũng là cô phụ bếp (những ðêm cuối tuần) lên ca với những chồng chén dĩa cao ngất, lầy nhầy thức ãn rửa bằng tay trần với xà phòng nội hóa. Nhýng Giang Thanh không hề ta thán, cô nói thành lời với chính mình.. Chẳng thấm vào ðâu so với cảnh ðội bom Mỹ chạy từ Mai Dịch về Hà Ðông với cái bụng ðói! Cô còn có ðýợc mối hân hoan khi xin với ban quản lý bớt một phần lýõng tính vào hai con gà xối mỡ ðem về ðãi bạn ðồng lớp.. Ãn ði chúng mầy, ðây là tiền lýõng của tao chứ không phải xin của ai. Chúng mầy ãn ði, từ ngày vào học ðến giờ tao chýa ðãi chúng mầy ðýợc một bữa cho ðáng. Cũng bởi cô vốn có tính ham vui và ýa chãm sóc ngýời khác vì ðã hiểu nghĩa hạnh phúc khi ðýợc thýõng yêu và biễu lộ sự yêu thýõng cùng ngýời.
..Ðồng chí học viên Giang Thanh hãy báo cáo trýớc tập thể từ ðâu ðồng chí có ðýợc hai con gà quay ðem về ðãi các bạn học viên trong lớp ðạo diễn.. Hai con gà ấy tính ra hõn một nửa mức lýõng cãn bản của học viên. Chúng có từ ðâu nếu không do những quan hệ bất chính!
Trong khoảng khắc, Giang Thanh uất ức nghẹn cứng vì không thể nghĩ sự tốt lành lại ðýa ðến hậu quả tồi tệ ác ðộc nầy. Nén xuống phẫn nộ, cô phản công.. Từ ðâu mà có? Các ðồng chí ám chỉ tôi ði làm gái mới có tiền ðể mua những con gà ấy chứ gì? Tôi không rẻ ðến thế.. Nếu muốn làm gái, tôi biết ðýờng xuống khách sạn Bến Nghé ði khách ngoại với những món tiền lớn gấp bội, hõn cả nãm lýõng của tôi kìa..Và muốn biết vì sao tôi có những con gà kia hãy ðến hỏi chỗ Nam Ðô, ðêm thứ bảy vừa rồi ở ðấy chiêu ðãi ðoàn ca múa Hồng Hà từ ngoài Hà Nội vào, sau khi trình diễn nõi tụ ðiểm ca nhạc Bông Sen.. Nhýng giá sử nhý tôi phải ðem thân ði làm gái thì các ðồng chí cũng phải xấu hổ cùng tôi.. Chiến sĩ vãn công ði B, Miền Nam ðýợc giải phóng rồi phải ðem thân ði làm gái.. Ai xấu hổ hõn ai!? Ai ðau xót hõn ai!? Thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất ðất nýớc mà ðẩy chiến sĩ, bộ ðội vào chỗ phải bán thân nuôi miệng là làm sao? Và miếng thịt gà kia không phải chỉ cho riêng tôi, nhýng còn cho vào miệng các ðồng chí ðang ngồi ở ðây ðể chủ trì vụ kiểm ðiểm nầy.. Xét xử tôi ði! Hãy kiểm ðiểm tôi ði! Ai ðýợc quyền kiểm ðiểm ai? Lấy cái gì ðể kiểm thảo, phê bình!? Giang Thanh ðẩy không khí buổi kiểm ðiểm nên thành một màn bi kịch ðen thẫm ðoạ ðày. Sau nầy nhớ lại, cô lấy làm tiếc ðã không nói hay hõn, ðộc hõn thế nữa.. Bà ðã không nói thì thôi, nói thì phải cho chúng mầy sống dỡ, chết dỡ mới ðýợc.
Cuối cùng, Giang Thanh quyết ðịnh rời Nhà Hàng Nam Ðô ði vác cá ở chợ Cầu Ông Lãnh với lời nguyền rũa tự thân.. “Mã mẹ chúng mầy, bà lấy cái thân bà ðây ðể nuôi con xem thử có ðứa nào ðụng ðến, vòi vĩnh, bắt ép ðýợc!” Mỗi ðêm, cô lén dậy từ lúc một giờ sáng, chêm mùng cho con ngủ yên, ðạp xe xuống vựa cá góc ðýờng Cô Giang/ Nguyễn Thái Học.. Vóc ngýời cao, chắc, Giang Thanh ðội thúng cá chạy thoãn thoắt không khó khãn, chỉ phiền nỗi nýớc cá chảy xuống tóc, ýớt ðẫm mặt, ðậm mùi tanh týởi.. Bốn giờ sáng trở về, gội ðầu, tắm cho hết mùi cá ðọng sâu chân tóc, trên da thịt. Cũng may trời miền Nam luôn nóng nực nên không phải chịu giá rét, nhýng ngâm nýớc suốt một giờ trong buổi sáng sớm lâu ngày sau nầy gây chứng viêm soang mũi làm tiếng nói của cô bị khàn ðục mất âm sắc trong trẻo.. Bù lại, cảnh khổ tôi luyện ý chí Giang Thanh bền bỉ hõn, thông cảm trực tiếp cảnh khốn cùng của ngýời (là chính bản thân). Cô dựng kịch “Bà Mẹ Can Ðảm với Những Ngýời Con” của Bertol Brecht ðể tố cáo tội ác của phát xít, tý bản gây chiến tranh ðày ðọa con ngýời cần lao vô tội, và thủ vai ngýời mẹ mà không ai có thể diễn xuất sánh cùng - Thật ra cô chỉ cần hiện thực nỗi ðau của chính mình và những ngýời ðàn bà trong gia ðình họ Uông trên sàn sân khấu mà thôi.
Vỡ kịch trên thật ra do ủy viên vãn hóa tý týởng trong ban bí thý nhà trýờng, Lê Ðậu phỏng dịch từ nguyên tác của Bertol Brecht. Ðậu ngýời Thanh Hóa nõi ðã có những ví von (thuần túy không chỉ là những ca dao, tục ngữ của ðịa phýõng nầy ðể miệt thị, chế diễu ðịa phýõng khác) thể hiệu ðủ cá tính về ngýời, việc của vùng ðất ðã nẩy sinh ra những cuộc huyết chiến kéo dài từ thế kỷ 16, 17..Nam/Bắc Triều; 60 nãm); Trịnh/Nguyễn hõn trãm nãm tranh hùng quanh khu vực hai bên Ðèo Ngang.. Thanh Hoá ãn rau má, phá ðýờng rầy! Ngýời Thanh Hóa thực sự hãnh diện với tính chất kiên cýờng, mạnh mẽ, ðánh phá của họ.. Ðá nhý Thanh Hóa! Tức là mẫu mực kỹ thuật ðá bóng tròn ðể (miễn có) ðoạt thắng bất kể giá nào phải trả. Thanh Hóa không phải chỉ có vinh quang trên ngôn ngữ, thi ca, hò vè, nhýng thực tế ðã có viên Ðại Tá Ðặng Vũ Nam ðánh tan ðạo binh Charlton, Le Page trên Ðýờng Số 4 (1953), bắt sống hai chỉ huy cao cấp trên trận ðiạ, hũy diệt hoàn toàn một binh ðoàn cõ ðộng liên binh chủng của quân ðội Pháp trong một cuộc vận ðộng chiến tài tình, ðiêu luyện của chiến thuật du kích tiến lên trận ðịa chiến. Thanh Hóa là an toàn khu trong chiến tranh 1946-1954, và cũng là ðịa phýõng dẫn ðầu trận ðấu tố bật tung lũy tre ngàn nãm che chở quê nhà, ghìm chặt xuống tiếng than của vạn con ngýời thống khổ, ðọa ðầy. Ðậu vào Nam với câu khẳng ðịnh: “Ðéo mẹ chúng nó! Cần Thõ, Gia Ðịnh.. không riêng của ngýời Nam. Ðứa nào mạnh thì ðứa ðó lấy”. Ðậu không dịch vỡ kịch chỉ vì công việc của ngýời dịch thuật, phóng tác, nhýng nhý lời anh ta nói với Giang Thanh: “Tôi dịch vỡ kịch nầy ðể cho cô. Cô dựng nó nên thành kịch ðáng giá khác với những bản kịch nhà quê của chúng nó.. Loại chiến sĩ cộng sản Paven (*) xúc tuyết làm cách mạng! Với nó, cô ði lên sân khấu lớn nhý ðoàn kịch trung ýõng Mát-cõ-xva” Khi diễn thử, dẫu chẳng có cảm tình với Ðậu, Giang Thanh cũng phải nói thầm: Lão quái nầy ðáng phục thật, ðối thoại của Bertol Brecht mà nó dịch ra cứ nhý kịch của Lýu Quang Vũ.
Sinh nhật Giang Thanh ba-mýõi tuổi, 1985 dẫu ðang thời bao cấp, khó khãn chung, vì bao nhiêu tài sản, kho tàng tịch thâu từ Miền Nam phải dồn trả nợ Nga, Tầu, và bù trừ cho thiếu thốn của (ngýời) Miền Bắc ðã phải chịu ðựng từ 1945, 46.. Nhýng Sài Gòn vẫn không thể “nghèo ngang bằng” Hà Nội, Hải Phòng.. nên Ðậu xoay ðýợc một bó hoa ba-mýõi ðoá hồng Brigitte, với chiếc bánh sinh nhật ðýợc những ngýời tham dự trầm trồ ðánh giá.. Bó hoa ðẹp hõn lẵng hoa Bác Tôn gởi cho bộ chính trị ngoài ta và cái bánh lớn nhý mâm cối 82Ly Trung Quốc. Không hiểu lão “Ðậu ðéo” kiếm ðâu ra ðýợc nhý thế nhý thế! Ðậu sở dĩ có tính danh “ðéo”, do anh ta luôn bắt ðầu câu nói với.. “Ông ðéo cần.. Chúng mầy ðéo hiểu..” trong tất cả mọi giao dịch. Cũng chẳng phải trong ngôn ngữ bình thýờng mà ngay cả khi trò chuyện với viên bí thý bộ vãn hóa.. “Báo cáo anh.. Tôi “ðéo” nghĩ rằng bọn miền Nam có thể làm “ðéo”gì ðýợc ta!” Viên bí thý vốn tổng hợp nhuần nhuyễn “tính nhân dân và tính ðảng” nên ðã ðáp lại: ”Nói vậy, cậu “ðéo” hiểu gì về chúng nó cả..”. Riêng về nghĩa ðen, Ðậu không thể nhịn “ðéo” cho dù một ngày theo nhý lời anh ta tự mô tả: “Ðéo biết thế nào mà khi nào tao cũng cứ týng týng thế nầy.. Ðéo mẹ, giá nhý là ðàn bà ắt phải mỗi ngày nạo thai một lần!” Ðậu không nói quá về mình, sợ rằng anh ta diễn tả không ðýợc chính xác hõn. Sài Gòn sau 1975 với ðàn ông (miền Nam) hầu hết phải vào trại tập trung; bộ ðội Miền Bắc chết rải dọc Trýờng Sõn.. Phần lớn phụ nữ (không học vấn (cho có học vẫn vô dụng), ngành nghề, tài sản..) muốn kiếm sống không còn gì ngoài thân xác của mình, nên ngýời nhý Ðậu với tật “ðéo” không là trở ngại, mà ðôi khi còn ðýợc “biễu dýõng”. Trýớc cổng nhà Ðậu luôn có những cô gái ngồi ðợi vì.. “Anh ấy có bảo em, mỗi khi ế khách, không chỗ ãn, chỗ ngủ thì ðến ðây..” Nhýng Ðậu không chỉ “nhiều” với thói tục “ðéo”, anh còn nhiều trong tất tả mọi phýõng tiện.. Ãn thì phải ãn cho ðáng! Cắn miếng thịt phải ngập hàm rãng.. Ãn ba thứ rau, dýa, cà muối.. ông ðéo ðụng tới bao giờ. Mất công ði.. ĩa!! Ðậu không nói quá, anh không hề cho vào miệng bất kỳ các loại rau, trái, ðậu nào. ..Trứng là rau của ông. Thịt là cõm của ông. Cái hỉm là bùa của ông! Ông la lối, hùng hổ nhý thế, học hành, chữ nghĩa nhý thế tại sao không viết nên cuốn sách nào ði.. Không lẻ cái ðầu, trái tim của ông chỉ chứa ngần ấy thứ? Có ngýời ðặt câu hỏi khó với ý ðịnh bắt bí. Ðậu nhanh chóng nắm chắc ý ðối thủ, nhổ toẹt mẫu tàn thuốc ðẫm nýớc bọt.. Cái ðầu hả.. Thì chỉ nghĩ ðến chuyện ðéo, và cuộc ðời ông ðã là một tác phẩm hoàn chỉnh.. Ðéo cần viết thêm một chữ (*) Pavel: Nhân vật thanh niên cộng sản của tiểu thuyết cách mạng Nga
nào nữa. Còn quả tim.. Ðéo mẹ, quả tim ông thuộc về ðảng vinh quang.. Hê..hê! Ðậu gằm gằm nhìn ðối phýõng sau lớp kính dày. Với lối sống, ãn, ngủ, nghĩ nhý thế, chiếc ðầu, thân thể Ðậu luôn nóng nhý một khối lửa, nên anh chỉ có thể mặc quần sọt, áo tay ngắn không gài hai nút ở cổ. Ðậu ngủ ngay trên sàn nhà, không hề nằm giýờng, nệm. Trong cung cách sống với quan niệm vừa kể, Giang Thanh là một “mục tiêu” Ðậu không thể bỏ qua. Ðéo mẹ, ông phải bắt cho ðýợc con bé nầy dẫu mầy có chạy lên giời! Khi Ðậu chýởi thề nguyên chữ là gặp phải trýờng hợp vô cùng “khẩn trýõng” và rất có ý nghĩa.
Thế nên, khi ðến lúc, cô Thúy Hýõng, vợ Ðậu một ngýời ðàn bà ðẹp, chuyên làm ngýời mẫu cho tạp chí thýõng mại, thời trang phụ nữ (Ðậu mang vào Nam nãm sau 1975) trở thành gánh nặng.. Em là ngýời mẫu mà không chụp “nuy” thì phí ði, ðể hôm nào anh kêu thằng quay phim, chụp ảnh trong trýờng về nhà làm cho em mấy phùa.. Hýõng tin lời Ðậu, cũng bởi ngýời tình của cô (một tay nhiếp ảnh chuyên nghiệp Sài Gòn trýớc 1975 cũng có nhận xét týõng tự), hõn nữa cô cũng thích thú với dự kiến ðýợc tham dự vào “sinh hoạt vãn minh tiên tiến mà trýớc kia bọn Mỹ-Ngụy (sa ðọa) ðã nâng lên hàng nghệ thuật”. Và khi anh chàng nhiếp ảnh ðang lóng cóng sửa vị thế nằm cho Thúy Hýõng thì Ðậu phá tông cửa phòng nhào vào với hai viên công an khu phố (dẫu anh ta có sẵn chìa khoá phòng).. Ối giời ðất õi! Ối giời ðất ôi.. Cô ngýời mẫu ðẹp nhất Hà Nội! Vợ của tôi! Ðậu ngã lãn lên ðất trýớc ðể hai viên công an chụp hiện trýờng phạm tội. Ðậu lấy ðýợc cãn nhà Ðýờng Nguyễn Huệ với cớ chứng “lỗi phần ngýời vợ” - Cãn phố mặt tiền trýớc 1975 là cõ sở Ảnh Viện Thãng Long, Thúy Hýõng chiếm dụng dýới danh nghĩa Hội Nhiếp Ảnh Giải Phóng.
Giữa buỗi tiệc sinh nhật Giang Thanh, Ðậu trình ra tờ giấy ly dị với lý do: Vợ bị bắt gặp làm tình tại chỗ! Giang Thanh cũng ðã quá mệt với cuộc sống ðõn ðộc mà luôn có kẻ nhìn vào với ý ðịnh sỗ sàng.. Cho anh làm cha con bé của em ði! Cô thuận lấy Ðậu với một giao ýớc: Lấy tôi, anh muốn ngủ với con nào thì mặc (tôi ðã biết rõ anh “máu’ nhý thế nào), chỉ yêu cầu anh ðừng mang gái về nhà khi tôi ði vắng.. Tôi không muốn con tôi (là con gái) thấy sự dõ bẩn ấy! Khi con tôi lớn, ðýa ra ngoại quốc học là tôi vào chùa ngay. Chuyện gì chứ chuyện nhỏ ấy ông biết liệu, mợ ðéo phải dặn! Ðậu cam kết, quay mặt dấu nụ cýời.. Con nầy ghê lắm, ðéo ðùa ðýợc với nó!
Sống vợ chồng chính thức ðýợc một tuần, Giang Thanh xác chứng ðiều cô nghi ngờ: Những mạnh mẽ ồn ào về “ðéo” của Ðậu chỉ cốt che dấu: Anh ta không có khả nãng hoàn tất “nghĩa vụ (hoan lạc) làm chồng” - Ðể ðýợc trở nên thành một ngýời cha theo nghĩa bình thýờng. Ðậu bào chữa (khuyết ðiểm) của mình với nụ cýời xuôi xị: Ông chỉ có cái mồm thôi, mợ ðừng phiền! Nhýng chính khi Ðậu bộc lộ ðiều yếu ðuối tội nghiệp nầy với nụ cýời ngây ngô con trẻ (rất hiếm hoi) thì lòng Giang Thanh lại lắng xuống.. Cô nói lời an ủi: Cũng chẳng quan trọng lắm, miễn là bố yêu thýõng, che chở mẹ con tôi.. Bố cứ việc ‘ðéo” ở ðâu nhý bố muốn từ trýớc ðến nay, ðừng ðem gái về nhà, ðừng rýớc bệnh vào ngýời chỉ làm khổ thân, và xấu mặt tôi..
Ðể trả õn sự thông cảm rộng lýợng của vợ, ngày hôm sau Ðậu mang giỏ ði chợ với cách hân hoan, nụ cýời rộng mở kéo ðến mang tai.. Tôi ði chợ về nấu ãn cho mẹ con nó. Lần ðầu tiên Ðậu mua những món rau, ðậu, củ.. Ðậu giải thích với ngýời bán hàng: Tôi mua những thứ nầy nấu canh cho con bé ấy mà. Cũng là lần ðầu anh không xử dụng chữ “ðéo” trong lời nói. Và Giang Thanh thật tình cảm ðộng khi Ðậu lóng cóng býng tô canh lên cho hai mẹ con.. Ông cả ðời chỉ biết làm món nhắm, ðây là lần ðầu tiên ông phải làm “nội trợ” hầu mẹ con nhà mợ. Ðậu cýời rộn rã, hào hứng ngồi xuống với bé Thanh Giang.. Ðể bố cho mầy ãn nhá. Giang Thanh cýời vui trong ánh mắt, cô nhủ thầm: Thôi thì lão có dở chứng gì mình cũng phải bỏ qua cho yên nhà lợi nýớc, chỉ mong ðýợc bình an thế nầy..
Nhýng sự cố gắng (có thiện ý) của Ðậu bị lung lay sau lần xong trận tình cực ðộ thoả mãn (bởi không phải chịu trách nhiệm, ràng buộc bởi nghĩa vụ/ý nghĩa làm chồng) với nữ nghệ sĩ Xuân Hồng ngôi sao vãn, thõ, ca nhạc từ Hà Nội vào công tác thành phố mang tên Bác. Nữ sĩ châm ðiếu thuốc Ðiện Biên bọc giấy bạc (thuốc là cao cấp nhất do Hà Nội sản xuất).. Vất ði, hút thứ ba số nầy (Thuốc lá nhập cảng, Hiệu 555), ngủ với ông mà hút ðồ nhà quê mang từ Hà Nội vào là chýởi ông không bằng.. (Thật sự Ðậu chỉ muốn chứng tỏ cách ãn chõi của “ngýời Sàigòn ðể chộ ngýời ngoài ta mới vào” chứ không có ý ðịnh bĩ thử cô nữ sĩ). Nhýng Xuân Hồng không phải tay vừa.. “Ông mã mẹ cả nhà anh.. Ba số với chẳng là ba số. Mồm anh chẳng ãn mắm tôm thịt chó, hút thuốc lào suốt cả mấy mýõi nãm hay sao.. Nay vừa ðýợc hầu con ðĩ không chồng mà chửa, xin ðýợc chân býng bô nhà nó ðã quên mất ‘tính cách mạng trong sáng” của cán bộ vãn hóa tý týởng nhý lời anh thýờng lên lớp dạy chúng tôi.. Anh biết nó mô tả anh nhý thế nào không? Nó nói gì? Ðậu ngồi nhỏm dậy. Nó bảo anh là thứ gà trống thiến, chỉ ðýợc cái mồm! Ðậu có thể bỏ qua nhiều chuyện, nhýng bởi cô nữ sĩ vốn rất tinh nên biết ðánh trúng ngay “tử huyệt” ðối thủ.. Nó bảo nhý thế à? Ðậu nhý ngồi phải ðống lửa. Nó chẳng bảo thì ai mà biết ra, kể cả màn anh býng bô hầu mẹ con nó. Ðậu chống chế trống không, yếu ớt.. Vừa vừa thôi, liệu cái mồm! Cô nữ sĩ ỡm ờ.. Anh bảo nó với anh giữ mồm với nhau chứ bảo ðýợc ai.. Mà cũng lạ, ngýời nhý anh sao mà dễ bị xỏ mũi ðến thế? Tôi cứ ngỡ anh cao nhý núi, ai ngờ chỉ là một hòn ðất.. Xuân Hồng biết nâng lên và ðạp xuống. Ðậu cáu kỉnh: Ðéo ðứa nào xỏ mũi ðýợc ông, ông không phải là loại ngýời chui vào gầm giýờng la lối, ðýa mông ra ðể ðứa khác ðá ðít.. Ðứa nào giỏi “quay” ðýợc ông, vì thýõng tình thì ông chịu nhũn thế thôi. Xuân Hồng xoay qua vấn ðề “chí tử” thứ hai.. Kể từ ngày lấy ông nó ðã tiêu hết mấy cây vàng.. Ðòn quả rất hiệu lực. Ðậu ấp úng.. Chuyện ấy liên quan gì ðến cô. Nữ sĩ cýời nhạt.. Không liên quan ðến tôi, nhýng nói ra ðể báo cho ông rõ, cả Hà Nội ngýời ta ðang bàn chuyện: “Thằng Ðậu ðéo” (xin lỗi cho tôi nhắc lại ðúng nguyên vãn..) dở trò lýu manh lấy ðýợc cái nhà của con Thúy Hýõng nay lại ði cúng cho con Giang Thanh ðể ðýợc cái tiếng làm chồng hờ.. Mẹ kiếp, ngýời nhý em ðây cũng chỉ mong ðýợc tiếng về làm dâu nhà “Họ Lê Thanh Hóa” của bố.. Bố ðâu phải là thằng nhỏ, con sen xách làn ði chợ về hầu mẹ con nhà nó, dọn cứt chó, cho mèo ãn.. Ðýợc bố làm chồng, cố vấn ðýờng chữ nghĩa, em ðýợc giải thýởng vãn học hội nhà vãn liền một khi. Bố là một bậc thầy cõ mà!
Ðậu lụp chụp bỏ áo vào quần, ðiếu thuốc ngậm ở miệng rung rung, ðẫm ýớt.. Ðịt mẹ chúng mầy cả lũ.. Nầy, muốn chýởi về nhà anh mà chýởi, tôi không phải là cái thùng rác ðể anh trút xuống những thứ thổ tả của nhà anh.. Xuân Hồng rít giọng. Rồi sẽ biết tay ông! Ðậu quyết chí. Ông là cái ðéo gì mà biết với chả biết! Xuân Hồng ðổ tràn ly nýớc khiêu khích. Ðùng ðùng chạy xuống cầu thang, Ðậu lẫm bẩm.. Ðịt mẹ chúng mầy.. Ðịt mẹ chúng mầy!
Nhýng khi Ðậu býớc chân vào nhà thì Giang Thanh ðã ra tay trýớc.. Chén, dĩa, ðồ sành, ðồ sứ, gýõng soi, tủ kính, cửa sổ, bàn trang ðiểm.. Tất cả ðã trở thành một ðống vụn lỡm chởm výõn vải ðầy nhà. Cô nói sắc gọn: Thằng khốn, tao ðã truyền ðời cho mầy từ ngày ðầu tiên.. Mầy có quyền ði “ðéo” bậy, nhýng cấm làm nhục mặt tao. Con ðĩ Xuân Hồng ðã ði rêu rao khắp những nõi tao quen biết, là tao chịu lấy mầy chỉ cốt chiếm cái nhà do mầy cýớp ðýợc qua vụ dàn cảnh con Thúy Hýõng ngủ với thằng thợ chụp hình.. Tao lấy mầy là vì vàng, dẫu con buồi thối của mầy vất ra chó cũng chê, cái mặt mầy ác nhý con chó ngao.. Nhà nào.. Vàng nào.. hỡ?!
Giang Thanh trở nên là “kẻ thù” vì ðã bày ra những “nhýợc ðiểm” chí tử không thể bù trừ, chuyển ðổi của Ðậu. Nhýng dẫu là kẻ bản lĩnh do gian nan cảnh khổ tôi luyện nên thành, cô vẫn nguyên vẹn tâm chất chân thật, mẫn cảm của một nghệ sĩ vốn xuất thân từ gia ðình thế giá, vãn hóa thuần nhã, cô không thể týởng ra, lýờng trýớc những tình huống ti tiện hèn hạ, thủ ðoạn ác ðộc hõn một cõn giận. Nên sau khi ra tay tàn phá, và thấy Ðậu im lặng quét dọn với cách thức chịu ðựng, hối lỗi.. Tất cả vật dụng bị ðánh vỡ dồn lại hai cần xé lớn, Ðậu cố sức xoay xở nhýng không thể xê dịch, chiếc kính trắng gãy gọng ðong ðýa một bên tai, ðầu tóc rũ rýợi.. Giang Thanh cảm thấy ái ngại về hành vi quá ðộ của mình, cô cýời nhỏ, khẻ gắt.. Xê ra, chẳng làm ðýợc cái gì ra hồn.. Chỉ ðýợc cái mồm láo! Và cô hầu nhý ðã quên mất phần lỗi của Ðậu, khi qua hôm sau anh xuất một lýợng vàng ði sắm lại những thứ ðã bị ðập vỡ với câu tán thán kèm nụ cýời khỏa lấp.. Lần sau có ðập vỡ, mợ nhớ chỉ ðập cái nào bằng sành thôi, cái nào ðắt tiền mợ tha cho nó! Chẳng có lần sau nào nữa.. Lần sau tôi ðập vỡ ðầu anh ra. Và cô thật quên hẳn tai nạn ðã xẩy ra.
Nhý một cố tật không thể sửa ðổi và cố ý thực hiện, Ðậu lập lại thành tích “ðéo bậy” không những một lần nhýng nhiều lần nhýng với một cách thức khôn ngoan, kín ðáo hõn với những “ðối týợng” mà anh cho là “vô hại”.. Anh giải thích với Giang Thanh: Tôi chẳng thích gì những con mụ ấy, chúng nó không ðáng gót chân của mợ.. Nhýng tôi muốn cho chúng nó biết rằng ngýời ngoài ta hõn bọn ngụy tất cả, kể cả cái khoảng trên giýờng! Giang Thanh trả lời cũng “cực kỳ”: Chẳng biết ðứa nào “chiến thắng” ðứa nào.. Ông hõn bọn ngụy cái gì tôi không biết, chứ vụ “khoảng trên giýờng” chắc ông thua chúng nó rồi.. Ðừng nói phét với tôi! Thế mợ ðã “test” với chúng nó rồi hay sao mà biết rõ thế? Giang Thanh mau chóng nổi xùng: Tôi chẳng hõi sức ðâu ðể “tét, tiết” gì cả? Tôi chỉ nhìn dáng ông ði về sau mỗi lần mà ông gọi là ði “tiếp thu chiến lợi phẩm của bọn ngụy ðể lại” thì biết ngay?! Có “chiến lợi phẩm” nào ði tìm ông lần thứ hai, có chãng là do mấy cây vàng ông mang từ ngoài Bắc vào còn lại.. Nhýng tôi nói ðể ông yên tâm: Con bé lên cấp hai là tôi thôi ông ngay, vì tôi cũng ðã kiếm ðýợc cãn hộ ở Ðýờng Nguyễn Trãi.. Ông tha hồ ði “trả thù ngụy quân, ngụy quyền” và trả tiền cho bọn “sản phẩm sa ðọa do chế ðộ Mỹ-Thiệu” ðể lại.. Mặc xác ông với cái lũ ðàn bà của ông.. Những “con cháu Bác Hồ” hay “tay sai Mỹ-Thiệu” ðối với tôi chẳng khác gì nhau..
Những ðối thoại kể trên có kết thúc tại lần Giang Thanh trình ra tờ giấy ly dị với lỗi phần “ngýời chồng phạm tội ngoại tình”. Ðậu ngẫn ngýời, hỏi câu thành thật: Làm sao.. làm sao mợ có tờ giấy ấy? Giang Thanh từ tốn, cặn kẻ, dứt khoát: Tôi cấm ông xử dụng lối cậu, mợ, anh, em.. với tôi từ nay. Ông hỏi tôi làm sao có cái giấy nầy chứ gì.. Vậy là ông chẳng nhớ những thành tích “trả thù (vợ, con) bọn ngụy quân, ngụy quyền” ðã khoe với tôi hay sao.. Ông dạy cho tôi nhiều ðiều, tôi phải học ðýợc ðôi phần. Ông muốn nghe lại những thành tích kia không? Tôi ðã sang ra nhiều cuộn bãng, nghe lại hấp dẫn cực kỳ.. Với cái máy cassette mà ông khoe ðã thâu bãng lần làm tình với con mụ vợ bé thằng cha tổng trýởng ngụy gì ðó ði Mỹ ðể lại trong biệt thự ðýờng lên sân bay.. Ông nhớ lần ông vừa làm tình vừa chýởi ðể con mẹ thêm phần phấn khích không?
.. Thế thì mợ.. Nầy, ðã bảo không “cậu, mợ”! Giang Thanh dứt khoát. Vâng, thế thì cô muốn gì? Chẳng muốn gì cả, tôi ra khỏi nhà nầy, không lấy của ông một cái bát, ðôi ðũa.. Hôm nào mời ông lên chõi nhà ở Nguyễn Trải, nhà số.. Hẻm 222, số ấy dễ nhớ..
..Bà cho tôi lên nhà bà, và bà xuống ðây thãm tôi. Tôi van bà.. Tôi biết lỗi.. Cũng ðã gần ba nãm tôi sống với bà.. Tôi không thể không có bà và con bé.. Bà hiểu tôi.. Tôi không thể sống một mình! Ðậu quỳ xuống hôn lên chân Giang Thanh.
Ðấy là tôi nói riêng với ông, ngýời ngoài không ai biết.. Chẳng tốt lành gì việc nay bỏ ngýời nầy, mai ði lấy ngýời khác. Ðến khi nào ra khỏi nýớc với con bé, tôi sẽ tuyên bố công khai, rồi mọi ngýời nghĩ sao tùy ý họ.. Sau khi mẹ con tôi dọn ðến nhà Nguyễn Trải, ông muốn xuống ãn cõm thì gọi cho biết trýớc, hoặc tôi lên nấu nõi nhà nầy nếu hôm ấy tôi rảnh rỗi. Coi nhý hai vợ chồng ra riêng vì công việc..
Ðậu úp mặt trên chân Giang Thanh rất lâu tỏ ý hàm ân, thống hối.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 9:31:26 GMT 9
Ðoạn kết: .... Thôi thì nhý thế cũng ðýợc, nhỏ chị mầy cứng cỏi, khôn ngoan thật. Ngýời nghe chuyện thở dài, nói gắng gýợng tuồng nhý kiệt sức sau chặng ðýờng quá vất vả. Nhýng cuối cùng cũng không nhý mầy nghĩ ðâu.. Trời ðất lại còn gì nữa ðây?! Ngýời bạn lên tiếng than nhý thấy ra tai họa trýớc mắt với chính mình. 1995. Tháng 11, Ðậu ðến nhà Nguyễn Trải với một ngýời Pháp ðứng tuổi, tóc trắng sáng gợn sóng úp sát vào ðầu quý cách, hào hoa. Anh ta xử dụng một ngôn ngữ Pháp thoại với vãn phong ðúng trýờng quy thông dụng buổi ðầu thế kỷ ở những trýờng Pháp-Nam trên toàn cõi Ðông Dýõng.. Ðây là ngýời ðàn bà rất xứng ðáng ðể nhận lãnh tất cả những ân huệ tốt ðẹp nhất, và tôi là một một kẻ ðàn ông tồi tệ không xứng ðáng với ngýời ðàn bà cao thýợng nầy. Ông.. Phải, chỉ chính ông mới là ngýời ðịnh mạng ðặt ðể bên cạnh bà ta với tất cả sự thích hợp tuyệt vời nhất.. Tôi xin kính cẩn trao lại cho ông phần thýởng mà Thýợng Ðế luôn giành cho ngýời có lòng tốt.. Giang Thanh không rõ hết nội dung lời của Ðậu nhýng cô hiểu nghĩa của những tỉnh từ “admirable, respectable, noble..” ðýợc lập ði lập lại nhiều lần trong câu nói, và thái ðộ trang trọng của ngýời khách khi nghe ðến chữ “Dieu”, ðồng thời cúi xuống cầm tay cô với cách ðiệu phong nhả.. Ông nói gì với ông ta tôi nghe không hết, nhýng tôi hiểu ðýợc ý chính.. Vậy ông ta là ai? Muốn gì? Ðây là ông tổng thanh tra của hãng làm lốp ô-tô Michelin, ngài Paul de Lucassan sang Việt Nam ðể làm việc với chính phủ ta xem lại việc quản lý các ðồn ðiền cao su, liên doanh mở nhà máy sản xuất lốp ô-tô.. Sản xuất lốp ô-tô, lốp máy bay thì liên quan gì ðến tôi? Có, nên tôi mới ðýa lại, ông ta có coi phim “mợ” ðóng mấy nãm trýớc, vai Bà Mẹ Bất Khuất.. Và ngõ ý muốn gặp “mợ” ðể bàn chuyện lâu dài.. Lâu dài là làm sao? Xin cýới “mợ” và ðýa về Pháp! Ông bán tôi ðấy hả? Không, không bao giờ, “mợ” hiểu tôi không ðúng. Tôi là ngýời trí thức xã hội chủ nghĩa, là cán bộ vãn hóa nhân bản cộng sản.. Bây giờ ðến lýợt ngài, tôi xin ra ngoài kia. Ðậu xoè bàn tay lịch thiệp, nhún nhýờng.. Lucassan cố gắng diễn ðạt với những từ ngữ giản dị nhất, hai tay ðặt trên ngực thành thật, thắm thiết.. Thýa bà, tôi quá già, nãm mýõi tuổi, ðã hai lần ly dị, tôi mệt mỏi, không thích làm kẻ phiêu lýu tình ái.. Tôi xin bà bàn tay.. Quand, et comment.. Giang Thanh ấp úng, cô khai triển tối ða khả nãng và tỷ lệ phần máu lai Pháp di truyền trong ngýời.. Ông Ðậu, ông vào ðây.. Ông nói hộ tôi về phần con Thanh Giang. Ðậu mau mắn chạy vào với dáng ðiệu hãm hở, chủ ðộng.. Chuyện ấy mợ khỏi lo, tôi ðã nói trýớc với ngài Lucassan, trýớc mắt mình chỉ lo ðám cýới, mợ chịu phần tổ chức tiệc cýới, tôi trách nhiệm việc giấy tờ, visa ðể mợ theo ông ấy.. Mợ ði trýớc, sẽ làm nghi lễ Công Giáo nõi nhà thờ họ ðạo riêng của gia tộc ông ấy, xong ðýa con bé qua sau.. Ði trýớc là thế nào? Khi nào? Thứ hai, bây giờ là thứ tý, chỉ còn mấy ngày ðể lo bao nhiêu việc.. Thứ bảy, chủ nhật ðám cýới, mợ mời họ hàng từ Hà Nội vào càng ðông càng tốt.. Lấy cái gì ðể lo ðám cýới nhý chạy tang nhý thế? Tiền, tiền ðô, ðô-la Mỹ.. Ðây, ðây ông ấy ðýa trýớc nãm ngàn.. Ðậu ðếm rõ từng tờ 100 Ðô trýớc mắt ngýời chồng (týõng lai) của Giang Thanh. Và Giang Thanh quả thật không thể lýờng ra sự việc khi Lucassan ðeo vào ngón tay cô chiếc nhẫn với hạt kim cýõng lóng lánh nổi gồ lên.. Cô không hiểu tại sao chiếc nhẫn vừa khít với ngón tay cô (vốn lớn hõn của phụ nữ Việt bình thýờng), nên cũng không ðể ý về cách xýng hô (cố tình với danh xýng “mợ”) của Ðậu.. Tại sao nó vừa thế nhỉ.. Cô bãn khoãn xoay xoay chiếc nhẫn. Ðậu tin ý, có liền lời giải thích: Thì tôi lấy cái nhẫn mợ giả tôi nãm kia làm mẫu.. Ðể mợ hiểu tôi yêu mợ nhý thế nào. Chiếc nhẫn nầy ðến hai mýõi-lãm ngàn ðô kia ðấy, ðắt nhất của tiệm kim cýõng nõi IMEXCO, phố Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Khi ngýời khách và Ðậu ði khỏi, Giang Thanh ngồi im, lắng xuống với câu hỏi: Tại sao lão ấy tính trýớc tất cả thế nhỉ? Cô ngạc nhiên với thái ðộ gần nhý thụ ðộng của mình.. Nhýng khi nghĩ ðến týõng lai (rất cụ thể) bé Thanh Giang ðýợc ra khỏi nýớc du học, cô nhý ðýợc truyền nhận một nãng lực mạnh mẽ - Ðiều nầy giúp cô lấy lại sáng suốt, tính thực tế hằng có. Cô cầm máy ðiện thoại.. Ông Ðậu ðấy hả.. Tôi muốn hỏi vài ðiều.. Ðám cýới ai chủ hôn, những ðiều kiện pháp lý về hôn nhân nhý quản lý, thừa kế tài sản, của hồi môn.. Ðành rằng nãm ngàn ðô Mỹ, chiếc nhẫn hột xoàn là món tiền lớn, nhýng thân tôi, ðời con tôi không thể ðýợc trả bằng những món tiền, của ấy.. Còn nhà cửa, nữ trang, bé con tôi ai sẽ giám hộ ngày tôi ra khỏi nýớc? Tiếng Ðậu tự tin chắc nịch.. Tôi, tôi lo tất.. Tôi ðã lo hết giấy tờ, hộ tịch, giấy kết hôn, ðiều kiện quản lý, thừa kế.. Kể cả cái két sắc ở ngân hàng ðể mợ ðãng ký gởi tài sản, giấy chủ quyền nhà cửa của mợ.. Ai giám hộ con bé ngày tôi ði ðể sau nầy ðýa nó qua cho tôi? Giang Thanh hỏi dồn quyết liệt. Tiếng Ðậu dứt khoát: Tôi, tôi biết nó chýa tới hai mýõi tuổi, thế nên phải làm gấp ðám cýới trýớc ngày sinh nhật của nó.. Nó sinh ngày 28 tháng sau, 28 tháng 12.. Bỏ ống ðiện thoại xuống, Giang Thanh trở lại câu hỏi: Tại sao lão ấy tính trýớc hết mọi chuyện nhý thế.. Thôi, ðể cho con bé ðýợc sung sýớng, hạnh phúc ra khỏi ðất nýớc khốn nạn nầy. Giang Thanh ðứng lên cầm chai rýợu Johny Walker nhãn xanh - Thói quen từ ngày cô sống một mình. Cô nhìn lên cuốn lịch, lật ðến ngày Thứ Hai, 28 tháng 11.. Tuần tới mình ði ra khỏi ðây.. Có thật không..?! Xuống xe lửa tốc hành từ Paris ở ga Lyon thì Giang Thanh hoàn toàn không còn ý niệm thời gian, về nýớc Pháp khi chiếc xe gia ðình Lucassan ðón cô bỏ ðồng bằng ði sâu hýớng núi phía Tây, bắt ðầu lên ngọn ðýờng ðèo dốc ngýợc.. Ðây là nhà máy Michelin, ðây là phố chính Montlosier, kia là nhà thờ Notre Dame de Clermont-Ferrand.. Lucassan ân cần, chậm rãi giải thích, chỉ vào khối nhà lớn, ngôi thánh ðýờng màu ðen.. Tất cả nhà cửa, tên của vùng nầy thuộc về núi.. Tous sont sur des dômes.. Tu sais.. Lucassan thân thiết cầm tay ngýời vợ mới cýới, hôn những ngón tay tròn ðầy, cắn nhẹ lên ðầu móng.. Toi.. tu es aussi un dôme.. non, la rivière, soong.. soong en montant des montagnes.. Xe ngừng trýớc một lâu ðài xây dựa vách núi, chung quanh mênh mông trãng trống, cỏ lau cao gờn gợn uốn sóng dýới cõn gió buốt sắc của mùa ðông.. Lucassan chỉ về một khoảng trống nhấp nhô những khối ðen.. Ðấy là nghĩa ðịa giòng họ De Lucassan, những ngýời chết từ Thế Kỷ 11 bởi “croisade” - Tu sais.. “La Croisade pour défendre Le Royame de Dieu..” Giang Thanh muốn bật cýời về hoàn cảnh, câu chuyện ðang tiếp diễn với ngýời ðàn ông gọi là chồng. Cô không hề e ngại, sợ hãi, chỉ lạ lẫm, dững dýng. Nếu ðổi tất cả mọi thứ trên ðời kể cả thân xác cô ðể ðýợc ôm con trong tay một lần.. Ngay bây giờ! Chắc chắn cô không chút ngần ngại từ chối. Sau gần một tháng sống nõi xứ ngýời, lần ðầu tiên Giang Thanh có lại ðýợc sự nãng ðộng hứng khởi ðấy là một ngày gần ngày Lễ Giáng Sinh, ngày 22 thứ Sáu. Ngày rất lạnh, ngọn ðồi ðóng bãng trắng xóa vào buổi sáng, chỉ chút nắng heo hút vào buổi trýa. Nhýng là một ngày vui – Vui nhất vì cô sắp ðýợc nghe tiếng con từ bên kia quê nhà, cách nửa vòng trái ðất.. Giang Thanh theo chồng xuống phố Clermont - Ferrand ðể gọi ðiện thoại về bé Thanh Giang.. Ðấy là týợng Vercingétoric, tổ phụ ngýời Gaulois.. Lucassan chỉ lên một khối týợng ngýời cởi ngựa hùng vĩ.. Kia là Blaise Pascal nhà khoa học, tý týởng siêu việt của ngýời Pháp.. Ông lộ vẻ cung kính ngýỡng mộ khi vòng qua výờn hoa nõi có bức týợng ngýời ðứng trầm tý. Nhýng tất cả ðều là vật vô tri, vô nghĩa ðối với Giang Thanh, bởi cô ðang thấp thỏm, nôn nao trong cõn chờ ðợi týởng nhý sắp nhận ðýợc, chứng kiến phép lạ.. Giang Thanh nén thở, hồi hộp theo dõi câu chuyện giữa Lucassan và nhân viên býu ðiện khi ngýời nầy loay hoay với cuốn sổ lớn ghi danh mục những tổng ðài quốc tế.. Impossible.. Impossible.. Quel est la cité de Ho.. Và cô vỡ oà niềm vui kích ngất khi nhân viên býu ðiện chuyển ống ðiện thoại với tiếng thở hắt thành công.. Tiens.. lui voilà.. Con hả.. mẹ ðây.. Giang Thanh bật khóc khi nghe tiếng nói bên kia nửa vòng trái ðất.. Mẹ..mẹ.. Mẹ không ðýợc khóc.. Con bình an, con chỉ cần ít tiền ðể ðãi bạn sinh nhật con sắp tới.. Mẹ yên tâm, con không sao cả.. Không, con không hỏi bác ấy, con không thích gặp bác ấy.. Con chỉ xin mẹ.. Giang Thanh cuống quýt không hiểu tình thế gì ðã xẩy ra giữa con bé và Ðậu.. Con nghe mẹ, mẹ không tiếc gì với con, tất cả là của con, nhýng trýớc khi ra khỏi nýớc mẹ ðã uỷ quyền cho bác ấy bởi con chýa ðến hai-mýõi tuổi.. Vâng, vâng mẹ hiểu con sắp sửa hai-mýõi tuổi, mẹ sẽ về với con ngay sau khi xong giấy tờ bảo lãnh.. Vâng, vâng, sinh nhật con mẹ gọi lại.. Mẹ nhớ con.. Việt Nam cách ðây bảy giờ, mẹ ðã biết cách gọi cho con.. Giang Thanh lẫn lộn giữa ðáp và hỏi, cô cũng không hỏi rõ tại sao con bé có bất ðồng gì với Ðậu.. Cô mất hẵn bình tỉnh, sáng suốt khi nghĩ ðến tình cảnh ðứa con ðõn ðộc nõi quê nhà - Tình thế bản thân cô phải gánh chịu từ nãm thõ ấu. Cô thýõng con bởi nỗi ðau xa cách tàn phá cô lớn hõn bất cứ tai hoạ nào từ trýớc ðến nay ðã gặp phải - Ðáng sợ hõn, Giang Thanh cảm thấy hiện thực một lần ly biệt ðoạn ðành.. Những ngày Lễ Giáng Sinh ðối với Giang Thanh nhý một cực hình, khối nặng thời gian nhý tảng ðá không xê dịch.. Cô di chuyển, cýời nói, ãn uống, cổ khô rốc, tim ðập váng vất, tham dự trò vui, bữa ãn với ðại gia ðình Lucassan theo lời dẫn của chồng nhý một ðứa trẻ mắc chứng chậm phát triển, mắt trống rỗng vô tính nhìn ngýời và việc diễn ra chung quanh.. Sáng ngày 28 tháng 12, cô dậy từ lúc rạng ðông, trời rét ðậm, nhìn ra những tầng mây màu chì phủ mờ ðỉnh núi.. Giang Thanh thấy ra hình týợng những mộ huyệt. cô không dám nghĩ tiếp. Khi cô ngỏ ý Lucassan ðýa cô xuống phố, ðến nhà býu ðiện thì cuộc xung ðột âm ỉ từ bao ngày qua nổ bùng không thể che dấu.. - Em gọi tôi là gì.. - Là chồng.. Giang Thanh nhìn thẳng mắt ngýời hỏi không e ngại, - Vậy em là vợ tôi, ngýời vợ tôi lấy trýớc mặt Chúa. Lucassan cảm thấy bị xem thýờng bởi cách nhìn không khoan nhýợng từ ngýời vợ mà ông nghĩ phải chịu thái ðộ khuất phục biết õn.. - Tôi biết, nên tôi làm tất cả mọi việc trong nhà nầy.. Không phải cái nhà mà là một lâu ðài lớn, tôi nấu những món mà ông thích - Việc ấy của quản gia, ngýời giúp việc, ngýời bếp.. Ngýời vợ phải thỏa mãn ý thích (ý muốn, “le désir” – Lucassan nhấn mạnh) của ngýời chồng. Nhýng em là một cái tủ lạnh.. Không, ðúng ra là một tủ ðá di ðộng. Em nhìn tôi với tất cả ngýời gia ðình tôi với ðôi mắt bằng sứ. Ðiều nầy không phải một lần.. Nhýng lập lại mỗi ðêm, lễ Noel vừa qua là một bằng chứng cụ thể.. Giang Thanh cýời nhạt.. Ông hiểu tôi không thể vui với gia ðình ông, họ nói gì tôi không biết, tôi ngýời ðạo Phật, tôi không biết ðọc kinh ðạo Chúa. Hôm ðám cýới nhà thờ, cha xứ cũng thông cảm với tôi. Còn chuyện liên hệ vợ chồng mỗi ðêm, tôi không thoả mãn ông theo cách ông yêu cầu ðýợc.. Tôi là ðàn bà Á Ðông, tôi không biết những “kỹ thuật”.. Và tôi ðang nhớ con tôi. Tôi sống cũng nhý chết. Giang Thanh cố gắng diễn ðạt ý nghĩ với khả nãng Pháp ngữ thâu nhận ðýợc sau một tháng chung sống. Nhýng do bởi là một diễn viên, ðạo diễn sân khấu, phim ảnh, cô vốn có khả nãng thẩm âm, và phát âm rất chính xác.. Lucassan biết không thể nói gì hõn.. Ông ghìm xuống tức bực, theo cách lịch sự của ngýời Pháp có vãn hóa cao, chuyển giọng bình thýờng: Thế bây giờ “bà” muốn gì? Từ “bà” ðýợc nhấn mạnh tỏ vẻ cách biệt, dững dýng.. - Ông giúp tôi xuống phố, ðến nhà býu ðiện. Tôi cần gọi ðiện thoại cho con tôi, hôm nay là sinh nhật của nó. - Tôi chỉ có thể giúp bà vào buổi chiều, sau 4 giờ, tôi còn nhiều việc phải làm sau ngày lễ.. - Không ðýợc, buổi chiều thì ðã quá khuya bên ấy, býu ðiện lại ðóng cửa.. - Tôi ðã nói, tôi cần làm việc.. Bà ðừng quấy rầy tôi! Giang Thanh quay ngoắt býớc ra khỏi phòng.. Cô gầm lên.. Tao ðếch cần ðứa nào khi thay ðội giày cao cổ ðế thấp. Cô ði nhý chạy xuống chân ðồi, khi ði ngang qua cột cây số với bảng chỉ ðýờng: Clermont – Ferrand, 11 Km.. Có là một trãm-mốt tao cũng ði ðýợc nhý thýờng Giang Thanh tìm ðýợc nhân viên býu ðiện giúp cô ngày hôm trýớc.. Bà muốn gọi ðứa bé hả.. Ông Lucassan ðâu rồi.. Cô nén cõn xúc ðộng..Hôm nay sinh nhật con gái tôi.. Tôi muốn nghe tiếng nó, ông giúp tôi, tôi rất cám õn.. Cô ðýa hai tay ra nắm tay nhân viên býu ðiện khẩn thiết.. Chuông reo liên tục không trả lời.. Ông thử thêm lần nữa giúp tôi.. Quái, con bé ði ðâu?! Giang Thanh thất sắc. Nhân viên býu ðiện bối rối, tuyệt vọng.. Ðây, ðây ông giúp tôi gọi số nầy, cũng ở cité Ho.. Ðằng giây bên kia Việt Nam có tiếng Ðậu.. Tiếng từ ðiạ ngục, của quỷ.. Bé nó ði rồi! Hả? Ði ðâu.. Con bé ðâu!.. Giang Thanh buông ống ðiện thoại, ngã sấp ngýời trên ðất. Một nãm sau, Giang Thanh phục hồi trí nhớ, ly dị Lucassan, về ở hẵn Việt Nam. Cô nhớ lại yếu tố mật mã, mở ðýợc két sắt ngân hàng, nhýng tất cả nữ trang, hồ sõ ðịa bạ cãn nhà ðýờng Nguyễn Trải ðã bị lấy mất. Cô cũng biết chi tiết, ðêm sinh nhật bé Thanh Giang ðàn mèo ở nhà kêu thảm thiết.. Và hàng xóm ngỏ 222 Nguyễn Trải thấy bé ði ra khỏi nhà từ chiều tối với áo quần ðẹp, nét mặt tinh anh rạng rỡ nhý thiên thần. Bé khoe với ngýời gặp trong xóm.. Cháu qua nhà Bác Ð.. ðể lấy tiền làm sinh nhật ðãi bạn. Bé không về từ ðêm ấy. Thế thì cái lão ấy sau nầy thế nào.. Ngýời nghe chuyện không muốn gọi tên “Ð..”.. Nãm nãm sau, tháng 12, cuối nãm 2000, hắn ngã chết khi ði chõi Hồ Suối Vàng, Ðà Lạt.. Từ ðồi cao ngã quay lông lốc xuống hồ.. Chết mặt úp xuống nýớc, bầm tím nhý bị bóp cổ. Hai ngýời bạn im lặng khi xe vào Chợ ABC, Thành Phố Westminster.. Bây giờ mầy muốn tao ðýa ði ãn cái gì không? Không, tao gọi con tao ra ðón. Tao ãn không nổi. Phan Nhật Nam Cuối nãm, tháng 12, 2007. www.nsvietnam.com/pnnam/nhungdongsong.html
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 9:35:27 GMT 9
Tổ Quốc Chúng Tôi Không là “chế ðộ các anh”
-------------------------------------------------------------------------------- Gởi Kim Phýợng, Bằng Hữu Úc Châu nõi Phýõng Nam Hãy thống hận khi Ðất cha ông cýớp ðoạt mất Hãy gào uất buổi Biển, Trời tổ tiên giặc chiếm, cắt Hãy biết xót ðau, Hãy biết hờn cãm, Thấm ðê nhục.. Dân Tộc cúi ðầu, nín thinh, khinh miệt.. Nõi quan ải phía Bắc xa một lần Nguyễn Phi Khanh bật khóc, nýớc mắt lắng sâu mạch ðất. Giữa vùng nýớc phýõng Nam nầy chiến hạm Hải Quân 10 Nhật Tảo, hòa máu Ngụy Vãn Thà ðổ xuống ðậm sắc biển xanh.(1) Có còn không Bộ Ðội vây trận Ðiện Biên? (2) Quân lực Cộng Hòa ðã thật gẫy tan nòng pháo! Xé không gian nghe âm vọng bao lần ngýời lính giữ nýớc xung phong Tát cạn ðáy bày ra vạn cốt xýõng lớp lớp dân oan di tản Trời Nam bàng hoàng khốc tang Biển Ðông lềnh loang bi phẫn..
Hoàng Sa,Trýờng Sa.. Hãy trải rộng Nhất Thống Toàn Ðồ.. Hẳn thấy lớn dài mênh mông biên cýõng Ðại Việt Lẽ nào bộ chính trị, ban bí thý, chủ tịch ðảng, ðoàn không hề hay biết? Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu, Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3) nhýng bởi giòng máu lệ kiên cýờng chung phần ðộc dýợc Phan Thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc. Vệ Quốc Quân chết trên ðồi Hồng Cúm, Him Lam(4) Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Ðinh Công Tráng.(5) Ðể Hồn Nýớc ngời ngời hõi thở lộng mỗi khắc giây Ðể Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thýợng cho Ngýời Và Ðộc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh Việt Nam, Tên gọi ðến.. Rýng rýng nýớc mắt cảm xúc.
Tất cả nay ðã là vô ích! Với một chữ ký! Hợp thức hóa một lần dâng giặc cýớp! Hoàn tất trọn một lần xong bán nýớc! Ðồng thuận mýu sâu Quốc Vụ Viện Bắc Kinh Mậu Tuất, Nãm “Một-ngàn chín-trãm nãm-mýõi-tám”.(6) Các Vua Hùng nõi ðâu? Cuộc hành quân xẻ dọc Trýờng Sõn cuối cùng hóa ra thất bại Tự Vệ Thành nổ lựu ðạn tan thân, gục ðầu lên giao thông hào chống xe tãng Pháp, Chết giữ hùng khí Thãng Long.(7) Ðảng khinh miệt gạch phãng, bôi bẩn! Trang lịch sử linh thiêng viết bởi máu vô vàn Vạn, triệu trái tim lẫm liệt Việt Nam yêu nýớc. Tất cả nay ðã là vô ích! Không bớt lằn roi ðau rạch nát tấm lýng.. Ðám sinh viên oằn ngýời trên ðất cũ cha ông Thảm nhục hứng ðòn thù công an Hà Nội, nõi “Thủ Ðô Phẩm Giá Con Ngýời”!(8) Rùa thiêng ngýợng mặt lặng sâu.. Cýõng thổ ngập hàng lậu thuế Made in China.
Made in China Ðỗ Mýời giữ ghế tổng bí thý thêm nhiệm kỳ Ðịa giới Nam Quan cắt phãng một phần cửa ải. Ba mýõi nãm hõn sau ngày “giải phóng Miền Nam” Ðà Nẵng nhìn ra bóng Hồng Kỳ ðỏ ngầy mặt nýớc. Chính danh, quốc sĩ mất lý nghĩa linh thiêng, “Tình Hữu Nghị”, món hàng tuỳ nghi miệng lýỡi, Trung Quốc mặc tình cung cấp. Mýời nãm hõn xẻ dọc Trýờng Sõn ðánh Mỹ kiên cýờng Cuối ðoạt thắng.. Quê hýõng dầm sâu vũng bùn hôi tanh ô nhiễm Phanh thây Dân bằng nanh vuốt sói lang Xây dựng Nýớc với giấy, tiền giả mạo Ấn chứng từ Bắc Kinh.
Nỗi ðau kinh dị làm khô sôi tròng mắt, Ôi giá nhý các anh còn chút lýõng tri, Ðôi phần trí nhớ.. Ở ðâu nên “ðộc lập/hạnh phúc/tự do”?(9) Họa chãng chỉ trên báo ðảng Cõ quan trung ýõng, món hàng cũ xýa, hý mòn, phế thải Xứng ðáng vất thiêu bãi lửa Giải hạn oan hồn vất výỡng cõi nghiệt Việt Nam Ðể Mát-xcõ-va nên thành “thánh ðô” thiện mỹ huy hoàng Ðể Bắc Kinh kết tụ “chiếc nôi hòa bình” tuyệt vời thế kỷ Âm u cặn máu cờ ðỏ vàng sao Vấy bẩn màu Bồ Ðề hai ngàn nãm trãm hõn Ðại Phật! Týởng nhý một chuyện ðời xýa.. Ngýời chết hiện nguyên hình/râu/tóc/rãng/mắt.. Theo dõi em thõ bới rác, lội cống, ngập sình Hốt phân thối theo kế hoạch ngũ niên, quy trình tuổi nhỏ Hoàn thiện mô hình “hạnh phúc”, tiến lên thời kỳ quá ðộ. “Khãn quàng ðỏ” không ðủ lau khô giòng lệ ứa! “tự do” nào?!.. tự do, báo ðýợc phép ðýa tin từ một nguồn kiểm duyệt tự do, giết cýớp giữa ban ngày không thể tìm ra dấu vết tự do, phí tiêu bạc tỷ, triệu của dân tự do, hủy phá ðền, chùa, ruộng, rừng.. không cần nhận lệnh tự do, phán quyết con ngýời không quyền ðýợc sống.. Từ chứng tích, tội danh lý lịch quá khứ ngụy quân, xếp nên hạng tiện dân, phận ngặt lýu ðày trên quê cha, ðất tổ!
Ba mýõi-ba nãm sau lần “Ðại Thắng Mùa Xuân”(10) Ðất nýớc ði lên bằng hai chân giấy, gỗ Với khẩu hiệu ngây ngô, Nghị quyết hàm hồ, Kết tinh trọn vinh hoa, “Tý Bản Ðỏ”. Giai cấp (cách mạng) mới Tổng hợp phýõng trình quỷ ma: “Thực dân/Vô sản”, Nhìn xuống “bọn Sàigòn mất tên” ứ tràn khinh miệt! Với trí hiểm tiếm danh, “Ngýời Ái Quốc” Với hãnh tiến tự tuyên công, “Cha Già Dân Tộc” (11) Thây xác nằm nõi Ba Ðình luôn mở mắt, Sống tráo trở ðổi tên, Chết không hề che mặt. Hiển hiện toàn phần chýớc quỷ/tính ma. Quái thai hậu nhiên phẩm chất, khối lýợng rặt ròng.. Quốc hội biểu quyết “chín-chín-phầm trãm” hõn nhất trí, Ngàn ðại biểu dùng chung một miếng khẩu trang!
Mỗi buổi sớm mai.. Mặt trời mọc nõi phýõng Ðông vô hồi vĩnh cửu Cũng muôn ðời ô nhục Loang thấm dần từ vết máu Hoàng, Trýờng Sa..
Ðể nhớ, 19 tháng 1, 1974-2008 Phan Nhật Nam
(1) Chiến Hạm; Hạm Trýởng/QLVNCH tử trận Hoàng Sa, 19/1/1974 (2) Chiến trýờng lớn kết thúc chiến tranh (1946-54) (3) 19/8/ và 2/9/1945 (4) Ðồi chiến thuật quanh vòng chảo Ðiện Biên Phủ (5) Cổ Thành Quảng Trị (6) Công hàm Thủ Týớng Phạm Vãn Ðồng gởi Chu Ân Lai (7) Trận chiến giữ Hà Nội 19/12/46 (8) Logos của Hà Nội trong thời kỳ chiến tranh (1960-1975) (9) Quốc Hiệu của nhà nýớc cộng sản Việt Nam (10) “30/4/1975” (11)Những bí danh, danh hiệu của Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh..
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2008 12:46:09 GMT 9
Trần Vũ: Gặp Lại Phan Nhật Nam Trên Quốc Lộ 1 Thứ Hai, Ngày 3 tháng 11-2008 Những ngày 11, 12 tuổi, vào những năm 73-74, tôi say mê Phan Nhật Nam. Anh trở thành thần tượng của tuổi thơ, với những ngày dài trên quê hương, những ngày bi thảm, những ngày thê lương, những ngày gẫy vụn, trong nỗi sợ khốn cùng. Nỗi sợ trái lựu đạn đã bật kíp. Nỗi đau vô hình của đồng ruộng ẩn chứa triệu trái mìn. Nỗi đau thắt ruột của người cha xếp xác con, trên đoạn đường từ Quảng Trị về Huế. Trong bất mãn của người lính trước một hậu phương vô ơn. Của người lính miền Nam phải tự vệ giữa một thế giới làm ngơ những thảm sát tập thể ở bãi Dâu, ở trường tiểu học Cai Lậy. Khác những nhà văn quân đội khác, tính chất bi tráng của một xã hội dân sự thời chiến phủ trùm lấy bút ký của Phan Nhật Nam, vượt lên trên các trận đánh. Không phải Mùa hè đỏ lửa, mà Tù binh và Hòa bình, Dọc đường số 1, Dấu binh lửa mới thực sự ghi lại suy nghĩ của một quân nhân trong chiến tranh. Bên cạnh, nhật ký của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc chỉ là những tiểu xảo của những sản phẩm được biên tập. Tôi gặp Phan Nhật Nam lần đầu tiên khi nhà văn từ chiến trường trở về Sàigòn năm 1973. Khi ấy tôi hãy còn là một độc giả thiếu nhi, khám phá anh đội nón đỏ, quân phục huyết dụ. Lần thứ nhì cách đây bốn năm tại Washington DC, Phan Nhật Nam mang giọng nói sôi nổi của một xứ Quảng hãy còn lửa cháy. Lần gặp thứ ba, trên trang giấy này, tôi quyết định hỏi tất cả những gì đã chất chứa trong đầu mình, từ buổi sáng tổng thống Thiệu tuyên bố Hòa Bình trên đài phát thanh, ký kết hiệp định ngừng bắn, cho đến bây giờ gần 34 năm sau bại trận, những câu hỏi vẫn bám lấy, không rời, từ buổi sáng 30 tháng 4 chứng kiến những người lính tháo vội vã nón sắt, áo giáp, vất tung thẻ bài, chạy vào hẻm chật. Buổi sáng của tuyệt vọng. Buổi sáng 30 tháng 4 tương khắc với Mùa hè đỏ lửa, tương khắc với tính chất bi hùng trong ký Phan Nhật Nam. Lần gặp này, tôi muốn anh trả lời. Trần Vũ Trần Vũ: Tôi không còn nhớ rõ ngày tháng, thời gian, nhưng vẫn nhớ buổi sáng theo cha đến khách sạn Continental dự buổi ra mắt sách của Phan Nhật Nam. Dường như là một trong những buổi ra mắt sách đầu tiên ở miền Nam khi ấy. Buổi sáng đó tôi đã trông thấy anh lần đầu tiên. Kể từ hôm đó, những ngày sau, tôi sống với anh cho đến bây giờ. Đúng hơn, tôi sống với những người lính Cộng Hòa trong tác phẩm của anh đến tận bây giờ. Hôm đó, Phan Nhật Nam để lại ấn tượng lớn lao trong lòng thầy tôi, cha tôi đã tin vào anh, vào quân lực miền Nam. Ông chưa biết ông sẽ chết vì niềm tin này. Cha tôi mua bút ký của anh đem về, và tôi khám phá chiến tranh, thứ chiến tranh thực sự ở ngoài chiến trường trên những trang sách của anh. Anh còn nhớ gì ngày hôm ấy? Có phải anh cũng đã tin như vậy, chúng ta không thể bại trận? Tại sao anh ra mắt sách, vì muốn đánh thức Sàigòn ra khỏi giấc mơ hoa lệ phù phiếm, cảnh cáo chiến tranh đã gần kề ngay cửa ngõ thành phố, hay vì vinh quang của văn chương? Hay anh đã muốn ru ngủ chúng tôi, những người dân ở thị thành, hãy tiếp tục tin vào sức mạnh của quân lực đang bảo vệ an nguy của thủ đô? Phan Nhật Nam: Chúng ta bắt đầu câu chuyện với tư thế bình đẳng, “Người Bạn - Bằng hữu - Ngang bằng nhau qua tất cả mọi khía cạnh”. Tôi không hề là “đàn anh” đối với bất cứ ai, cho dẫu lớn hơn hai-mươi, ba-mươi tuổi so với người đối thoại, giao tiếp. Năm 1965, giữ nhiệm vụ đại đội trưởng một đại đội lính nhảy dù, đứng trước hàng quân, tôi đã có lời thành thật: “Tôi nói gì các ông gắng nghe lời tôi, đừng đi phép về trễ, hành quân mang đủ cấp số đạn, lựu đạn... Còn các ông muốn chưởi tôi trong bụng thì cứ việc...” Vào buổi hành quân, lính trong tổ chỉ huy ăn gì, tôi ăn như họ, đêm đến quấn chiếc poncho ngủ trên ổ rơm bên cạnh mấy người lính mang máy truyền tin đủ là một điều an lành, hạnh phúc.. Mấy ông bạn đại đội trưởng cùng đơn vị đánh giá tôi: “Mầy không biết làm lính sợ, thiếu uy tín, tác phong chỉ huy...” Và quả thật tôi không muốn ai “sợ mình”; “Có uy tín chỉ huy hay không” cũng không là điều đáng quan tâm. Đối với “nghề quân đội” còn như thế, vậy việc văn chương tôi nào dám làm đàn anh, thần tượng “gây lòng tin” cho ai được. Ra mắt sách để dự mưu, tính chuyện nầy nọ làm gì.. Với ai? Chỉ vì người bạn vong niên, nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình muốn làm chung một buổi giới thiệu Cơ sở văn hóa Đất Sống do ông và những người bạn cùng chủ trương, lo việc tổ chức. Và cũng là một điềm báo trước, đấy là buổi ra mắt sách đầu tiên và cuối cùng của miền Nam với “Tù Binh và Hòa Bình – Tình trạng (thật) của sau 30/4/1975”, trong đó có những câu khẳng định: “Khẩu hiệu ‘Sinh Bắc-Tử Nam’ không phải là một khẩu hiệu ‘kích động chiến thuật’ nhưng là một ‘chỉ đạo chiến lược’ để hoàn tất cuộc xích hóa Miền Nam... Trận chiến cuối cùng là giữa chúng ta với những sư đoàn bộ binh cộng sản Miền Bắc qua tấm đệm ‘Mặt-trận – Mặt trận giải phóng Miền Nam’… Hình như cả thế giới, một số đông cả thế giới không nhìn được âm mưu ghê tởm độc hại nầy – Nhưng cũng là một âm mưu rất rõ mặt.” (Tù Binh và Hòa Bình, nxb Hiện Đại, Sàigòn 1974; bản photocopy nxb Xuân Thu, Hoa Kỳ 1976, trg 244). Còn nhiều nội dung có tính “tiên tri” rất chính xác (đối với hiện tại) khác nữa, v.v… Nhưng tôi không hề là “nhà văn”, giới văn nghệ, viết văn, làm báo của Sàigòn những năm ấy không xếp tôi vào hàng ngũ của họ. Họ có những sinh hoạt riêng, lính tráng chúng tôi không liên hệ. Ở hải ngoại nầy, hôm nay cũng vậy, dẫu chúng tôi từ lâu không mặc áo lính. Trước sau, tôi chỉ là một “Người Lính-Viết Văn” – Điều nầy, đã giãi bày thật tình trong những cuốn sách đầu tiên Dấu Binh Lửa, Dọc Đường Số 1… Nên chẳng phải hôm nay mà bốn-mươi năm trước (1968) khi bắt đầu cầm bút, tôi đã viết thành lời: “Chẳng có ai là thần tượng của tôi...” Nhưng bản thân không hề là kẻ cực đoan, vô chính phủ, nổi loạn không duyên cớ. Tôi là quân nhân chuyên nghiệp – Biết tuân lệnh và ra lệnh cho người khác – Chỉ số Chuyên nghiệp Quân sự 240.7, tức chỉ huy một đơn vị bộ binh tác chiến. Ông cụ của bạn và bạn có “lòng tin” đối với chữ nghĩa của tôi như thế là tốt lành rồi. Tôi không đặt cho mình nhiệm vụ gì khác hơn là: Nói về Sự Thật mà không hiểu tại sao nhiều người (rất nhiều người) năng lực tri thức hơn tôi, chức vụ lớn hơn, bằng cấp cao hơn, kể cả lớn tuổi đời hơn nhưng họ không thấy ra… Ví dụ như vấn đề cộng sản – Cộng Sản Việt Nam – Đọc lại những báo Đối Diện, Trình Bày năm 1973, 1974 kia thì sẽ thấy… Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Nguyễn Văn Trung, các linh mục Nguyễn Viết Khai, Chân Tín, Ngọc Lan (trước 1975) viết, nói những gì… Tại sao có thể nhận định sai lầm và nông cạn như thế đối với cộng sản? Lẽ tất nhiên, tôi cũng chưa một lần viết xuống nửa chữ: Tổng thống anh minh Nguyễn… Tóm lại, tôi không tin vào “sức mạnh” của quân đội và chuyển giao lòng tin nầy cho ai, nhưng tôi tin vào “Lý Chính Nghĩa” cuộc chiến đấu chung của toàn Miền Nam – Dẫu hôm nay là ba-mươi ba năm sau ngày 30/4/1975 – Và khi nguyên lý cao thượng nầy bị chà đạp, vất bỏ, Người Miền Nam nói riêng, cả nước nói chung tiếp hiện thực qua lần vượt biên/ vượt biển/ vượt chết không hề có trong lịch sử cổ kim nhân loại. Có thể do từ tính xã kỷ tự nhiên của người quen chịu đựng Khổ Nạn, không một ai trong tập thể người lính nói về tình thế, cảnh huống của riêng mình (trong chung cuộc chiến đấu của Người Việt), tôi tự nguyện thực hiện phần hành “không được bù trừ nầy...” Đấy là giai đoạn của Dấu binh lửa, Dọc đường số 1, Dựa lưng nỗi chết, Mùa hè đỏ lửa... khi mới qua tuổi hai-mươi với tư thế người lính tác chiến thực thụ sau ngày ra trường Đà Lạt, tháng 11/1963. Trần Vũ: Ở thời điểm ra mắt sách, tình hình chiến sự miền Nam có thật sáng sủa như đôi mắt tin tưởng của Phan Nhật Nam khi ấy? Tin tưởng vào hòa bình sắp đến, tin tưởng vào những cam kết của Nixon? Hay anh tự đánh lừa mình, đánh lừa chúng tôi, hay Phan Nhật Nam cũng bị Cục Tâm Lý Chiến lường gạt? Các tập bút ký ghi lại nhiều chiến thắng của Quân lực VNCH, mà ngay cả khi thất bại, như trong trận Đồng Xoài hay khi bị tràn ngập trên đồi Charlie, đều được mô tả dưới góc độ bi hùng. Nhưng anh không nhắc đến trận Ấp Bắc và không nói đến Hạ Lào. Phan Nhật Nam: Bạn nhận định tôi hơi quá đáng và không chính xác. Tôi tin tưởng vào “Hòa bình sắp tới… Lời cam kết của Nixon..” như thế nào, ở đâu? Lẽ tất nhiên, thuở ấy (1973, 1974...) tôi không đủ chín chắn, kinh nghiệm, khôn ngoan (hơn chính mình) của hôm nay (khi đã qua tuổi 60) được đọc hồ sơ giải mật của bộ ngoại giao Mỹ, qua đó Kissinger đã nhân danh tổng thống Nixon, cam kết với Chu Ân Lai từ tháng 7/1971: Mỹ Không bao giờ trở lại Việt Nam. Năm tháng sau, tổng thống Mỹ mới gởi những thư cam kết đến ông Thiệu (!). Nhưng ít ra lúc ấy, tôi đã viết nên lời, đấy là: “Một Hòa Bình ngụy danh… Toàn thế giới đồng hân hoan chúc tụng trên bàn tiệc máu Việt Nam… Không một ai trong chúng ta xác định được Hoà Bình (luôn viết hoa) đã có. Vâng, Hòa Bình (vẫn viết hoa) chỉ tới với một văn kiện, trên bàn giấy an lành ở thủ đô Ba-lê, trong đáy cốc...” Viết như thế, gặp thẳng mặt người Việt Cộng tại bàn hội nghị nơi Tân Sơn Nhất, nghe tận tai những lời “Nếu một vị đại tá Thọ nào đấy của quý vị bị bắt ở mặt trận Nam Lào thì ‘có lẽ’ do quân đội Giải Phóng Lào bắt giữ... Chúng tôi sẽ liên lạc với Quân Giải Phóng Lào để thông báo đến quý vị trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc...” trong khi bản thân đã chụp được hình của đại tá Thọ (lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù, bị bắt ở mặt trận Hạ Lào, tháng 2/1971) trên đường giải ra Bắc trong tập báo Ảnh Việt Nam! Biết như thế, viết như thế làm sao mà tin được vào “hòa bình ─ Không đủ ‘gan lì’ để viết hoa được nữa” hở người bạn trẻ? Còn Cục Tâm Lý Chiến là nơi đâu, tác động gì trong những nội dung tôi đã viết… Nếu có bước vào nơi chốn ấy vì đấy là tòa soạn báo Diều Hâu, nơi những huynh trưởng thân hữu, chiến hữu tập họp… Ít nhất, những người chỉ huy TC/CTCT/QL/VNCH (bao gồm Cục An Ninh Quân Đội) cũng có được sự dễ dàng nầy, chứ ở Hà Nội trước 1975, hay hiện nay nơi Sàigòn (đổi tên thành TP.HCM) thì đừng có hòng, tan thân ngay! Và không ai đem sinh mạng bản thân và gia đình để đánh đổi bởi một “sự (tự) lừa dối trong chữ nghĩa”… Hay bạn đã có ý nghĩ: Tôi “đã chọn lựa” ở lại Sàigòn sau 30/4/75 để (vô tình hay hữu ý) hiện thực “sự tự đánh lừa ‘một cách thành thật’ qua chữ nghĩa của mình” nên lâm vào thế kẹt do tự thân giăng ra? Không đâu. Tôi không đủ sức để liều lĩnh như thế với mạng sống của vợ con. Nhưng quả thật, tối 28 rạng 29/4/75 tôi có mặt và phụ trách việc đưa người lên phi cơ trong cơ quan DAO, nếu quyết tâm ra đi do ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân thì tôi đã lên trực thăng CH46 của TQLC Mỹ ra hạm đội 7... Sáng 29, tôi đứng trước Tử Sĩ Đường Không Quân, phi trường Tân Sơn Nhất, bên hông trại Trần Quý Mại (tiểu đoàn 8 Dù) nhìn lên trời, chụp hình chiếc phi cơ AC-119 Hỏa Long của trung úy Nguyễn Văn Thành (thiếu sinh quân “Thành mọi”) cháy trên trời xanh với chiếc dù của Thành mắc nơi cánh... Tôi vẫn có thể đi theo bộ tư lệnh Sư đoàn Dù ra bến tàu. Nhưng sự việc ở lại có một nguyên cớ quyết định sâu xa, kỳ lạ khác (hoàn toàn không có tính chính trị, giải thích bởi luận lý thông thường). Bạn đọc Crime et Châtiment, đoạn Raskolnikov giết xong mụ cầm đồ Alyona, chạy ra cầu sông Neva, nhớ lại “phút bất ngờ” ngày hôm trước khi anh ta qua Chợ Hàng Rơm nghe ra chi tiết, “cô em Lizaveta ‘sẽ vắng mặt’ ở phút giây ‘định mạng chết người ấy’” thì hiểu ra tình thế, tâm cảnh của tôi với những phản ứng “không thể nào lường, không thể giải thích” tại mỗi giây, phút của trước, sau 30/4/75. Nhưng tôi không hề “ân hận than trách” về quyết định chết người ấy. Cũng bởi bây giờ thì đã “thấm hiểu” ─ Tất cả đã được báo trước từ 1946 tự giấc mơ đầu đời (vẫn luôn nhớ/sống cùng hiện tại); trong Lời dẫn nhập của Dấu Binh Lửa, viết năm 1968: “...Những giấc mơ hôm nay thường dẫn đến chủ đề NƯỚC... Tôi bị ‘mắc kẹt trong nước’ của cống rãnh..’” hoặc hiện thực ngay trong tên họ: Phan Nhật Nam = Phạm Nhân Nan = Phạm Nan Nhất. Trung úy thực thụ từ tháng 6/1965 sau trận Đồng Xoài, đến 1975 mới được cấp bậc đại úy nhiệm chức thì làm gì phải đi tù đến 14 năm, chuyên ở phòng cấm cố tử hình! Giờ lại bị những kẻ bá vơ vô lại nào đó không một ngày chiến trận, không hề chịu một giờ, khắc tù tội, không một chút kinh nghiệm với cộng sản… nơi vùng Nam Cali, nước Mỹ qua những đài phát thanh, báo quảng cáo địa phương, trên hệ thống Net cáo buộc gán cho tiếng “cộng sản nằm vùng”! Như thế là thế nào… Nhưng cũng không hề gì, đã qua khỏi tuổi 60 thì mọi chuyện coi như “thuận nhĩ”. Tôi không theo cách ai khác hơn từ ông niên trưởng – nhà văn rất mực thuần lương – Doãn Quốc Sỹ, điển hình Kẻ Sĩ cuối cùng của thời mạt pháp nầy. Nhưng nếu cho “làm lại”, thì tôi cũng sẽ sống như thế/viết như thế. Nguyên tắc tình báo có “tính xác xuất” là: Giữa muôn ngàn nguồn tin – hai nguồn tin giống nhau, PHẢI là nguồn tin THẬT – Cũng thế, Chân-Thiện-Mỹ chỉ có MỘT. Tôi cũng sẽ viết lại trận Đồng Xoài (11/6/1965) của tiểu đoàn 7 Dù với hậu quả 14 sĩ quan từ tiểu đoàn trưởng đến trung đội trưởng tử trận, phần còn lại số bị thương, bị bắt làm tù binh. Năm đại đội trưởng còn lại mỗi đại úy Lê Văn Phát, đại đội trưởng 74. Tôi sống được là do “hên”, bị thương trước khi tiểu đoàn vào trận. Trận Tây Nguyên năm 1972 cũng sẽ viết lại chính xác hơn để kể về sức chiến đấu thần kỳ của lính nhảy dù Miền Nam. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù do Trần Công Hạnh (khóa 20 Đà Lạt) chỉ huy, một thân giữ vững cao điểm Delta đánh bật Trung đoàn 52 Sư đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng, thành lập từ 1951, đơn vị nổi danh của bộ đội miền Bắc), dẫu trung đoàn nầy đã đánh vào đến bộ chỉ huy tiểu đoàn (30/3/1972), nhưng Hạnh quyết định gọi phi pháo đánh trùm lên căn cứ, cùng các đại đội trưởng tài trí dũng cảm tổ chức lại đội hình phản công. Hạnh cũng đã thực hiện tương tự một lần như thế ở mặt trận Hạ Lào, tháng 2/1971, khi đưa đơn vị rút ra khỏi Đồi 30 dẫu khi ấy chỉ mang cấp đại úy, chức vụ sĩ quan hành quân. Rút kinh nghiệm thất bại về trận đánh căn cứ Delta với tiểu đoàn 2, thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, tư lệnh mặt trận B3 điều động trung đoàn 64, tăng cường hai tiểu đoàn của trung đoàn 48, hiệp đồng đánh chiếm cao điểm Charlie do tiểu đoàn 11 Dù trấn giữ… Hệ thống trận địa quanh căn cứ Charlie mỗi cao độ chỉ do cấp đại đội với quân số cơ hữu dưới 100 người phải chống cự những đợt tấn công cấp trung đoàn cộng gồm 6 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội tác chiến) dưới quyền chỉ huy của Khuất Duy Tiến, trung đoàn trưởng trung đoàn 64 – đơn vị đánh trận Hạ Lào, từng đối mặt với lực lượng nhảy dù. Tương quan quân số trận đánh Charlie như thế là “1 chống 6”. Khi tấn công mỗi cứ điểm, tỷ lệ nầy tăng lên, 1 (đại đội ND) chống 8 (hai tiểu đoàn CS); hoặc 1 chống 12 (ba tiểu đoàn CS). Tất cả chi tiết chiến thuật nầy do thượng tướng Đặng Vũ Hiệp kể lại trong Ký ức Tây Nguyên, nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2002, trg 236-244. Trong Từ điển Bách khoa Quân sự, nxb QĐND, Hà Nội 2004, phần chiến sử năm 1972 của Sư đoàn 320 không được kể ra. Sáng 30 tháng 4, 1975 những người chiến đấu cuối cùng trên cầu Sàigòn không ai khác là những người lính của đơn vị đầu đời, tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919, do người bạn cùng khóa, trung tá Nguyễn Lô, danh hiệu truyền tin “Sông Lô” chỉ huy. Cùng lúc, khi Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, tôi đứng ở đường Lê Văn Duyệt trước trại Nguyễn Trung Hiếu, tiểu đoàn 1 Dù với Trần Công Hạnh, tiểu đoàn trưởng đơn vị vừa kể bên trên. Với những người, đơn vị kiên cường như thế, những người bạn dũng lược như thế, những người lính xã kỷ như thế… tôi có thể viết như thế nào khác. Mùa hè 1965, mặt trận Tây Nguyên bùng vỡ, thiếu tá Schwarzkopf (đại tướng tư lệnh chiến dịch Bão Sa mạc tại Iraq 1991) cố vấn cạnh trung tá Ngô Quang Trưởng, tham mưu trưởng lữ đoàn Dù (đến cuối năm mới nâng cấp thành sư đoàn). Cấp bậc thiếu tá, nhiệm vụ cố vấn không phải phụ trách việc cứu trợ thương binh, nhưng ông đã cùng y tá tiểu đoàn 3 Dù dìu một thương binh ra khỏi trận địa pháo kích nơi trại Lực lượng đặc biệt Đức Cơ – hình do Peter Arnett (Associated Press) chụp. Arnett không phải là người ưu ái hỗ trợ cuộc chiến đấu của QLVNCH, thiếu tá cố vấn Schwarzkopf hẳn không thể căng thân đi cứu một người lính cấp hàng binh của một đơn vị kém cỏi, tầm thường. Phải thấy sức chiến đấu của lính nhảy dù Việt Nam ra sao mới hiểu được mối động lòng cảm phục từ người chiến hữu Đồng Minh trung trực kia vậy. Tôi tiếc đã không viết đầy đủ hơn, chi tiết hơn về những trận đánh nơi Miền Nam trước 1975 của những chiến hữu, đơn vị thiết thân. Trận Ấp Bắc cuối 1962, đầu 1963 tôi chưa ra trường; trận Hạ Lào (2/1971), tôi chuyển đi làm sĩ quan văn phòng ở tiểu khu Bà Rịa (Phước Tuy). Chiến dịch nầy quá lớn nếu có trình bày cũng không thể viết dưới dạng bút ký – phải viết theo cách nghiên cứu, liệt kê tài liệu quân sự. Bernard Fall không thể viết Un coin d’enfer theo kỹ thuật lịch sử tiểu thuyết như La Quán Trung kể trận Xích Bích với Chu Du, Khổng Minh… nhưng sau nầy, cũng đã có Phan Hội Yên (tiểu đoàn 3 Dù) kể trận đánh Đồi 30, Phạm Văn Tiền (tiểu đoàn 2 TQLC) nói về lần triệt thoái tàn khốc khỏi căn cứ Delta của Lữ đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến VNCH trong trận chiến Hạ Lào. Hai người bạn nầy không phải là cây viết chuyên nghiệp, nhưng diễn tiến chiến trường họ viết ra chính xác và hay hơn bất cứ chuyện kể (về chiến trận) nào của người miền Bắc như Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh; Nguyễn Tri Huân, Tháng Ba 1975 Họ đã sống như thế… Văn phong và cách đặt tiêu đề thôi cũng thấy hơi hám của “Thép đã tôi thế đấy” của Liên-Xô. Tiểu thuyết Nga vĩ đại do đã dựng nên những nhân vật tiểu thuyết đặc trưng bởi Dostoievsky, Tolstoy chứ đâu từ anh trẻ tuổi Pavel làm cách mạng xã hội chủ nghĩa với chân trần đứng xúc tuyết. Tìm đâu ra trong chiến tranh miền Nam một du kích ở Quảng Ngãi chỉ với vũ khí tự chế bắn hạ máy bay trực thăng, đánh tan một đại đội bộ binh Mỹ như trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm? Và tìm đâu trong thực tế mà tiểu thuyết được quảng bá rùm beng của Bảo Ninh đã mô tả về “thằng giặc Mỹ xâm lược bạo tàn” sau hiệp định Paris 1973; “thằng ngụy dù” với chiếc nón đỏ mắc ở cầu vai khi đi hành quân! Người thường trực sống, chết nơi chiến trường (lại là chiến trường Việt Nam với máu xương của chính mình, đồng đội, đồng bào, kể cả đối phương cùng màu da, sắc tộc) đọc những nội dung tuyên truyền tầm phào nầy không khỏi đỏ mặt vì ngượng, thấy mình bị coi thường, đánh lừa bởi những kẻ ngây ngô, thô thiển. Lính biệt kích miền Nam hoạt động nhảy toán phải áp dụng một tiêu lệnh tối thượng: Tuyệt đối tránh đụng độ / Xóa sạch dấu tích, sinh hoạt / hiện diện... Thế thì làm sao lại đi hiếp dâm, cắt đầu vú, vạch nát cửa mình nữ bộ đội trên đường giây giao liên như trong Tiểu thuyết Vô đề Dương Thu Hương đã mô tả? Thế nên, vì không muốn phải mang lỗi viết dối nên tôi không viết về Ấp Bắc, Hạ Lào như đã sống – Chỉ có thể viết về những chiến trận nầy như đã đọc mà thôi nên đã viết tiểu luận quân sự Hạ Lào... Quá xa (2002). Trong tinh thần nầy, tôi cũng đã hoàn tất được một phần của tập Chiến sử (1954-1975) dự trù, nhưng phải bỏ dở... Có một chi tiết về chiến tranh Việt Nam mà không một ai để ý viết ra, nói đến: Phía bộ đội cộng sản không hề bắt được một tù binh Mỹ thuộc quân chủng bộ binh, binh chủng thiết giáp, pháo binh (những đơn vị yểm trợ quân bộ chiến) chứ đừng nói TQLC, Nhảy dù, Lực lượng đặc biệt Mỹ – 519 cộng với 10 người bị bắt ở mặt trận Lào, người trả tại Hà Nội thuần là phi hành đoàn Mỹ và vài nhân viên phi hành các nước ngoài (Thái, Phi Luật Tân…) tháp tùng các phi vụ B52. Phía cộng sản nhận về: 26,508 người (danh sách tiên khởi; bổ túc lên 26,750 cuối tháng 3/1973); VNCH nhận: 5081. Những số liệu nầy do Tiểu ban Tù binh/Ban Liên hợp Quân sự/VNCH (bản thân cá nhân là thành viên trung ương mang danh số #41) đúc kết, thiết lập kế hoạch trao trả, và thực hiện trao trả khắp các địa điểm từ Năm Căn đến Hà Nội. (Tù binh và Hòa bình, trg 166-167) Số hiệu cụ thể về tù binh mỗi bên đã chỉ cho thấy: Chiến tranh chống Mỹ là gì? Ở đâu? “Ai thắng Ai” trong mặt trận quân sự. Trần Vũ: Giống hầu hết các thiếu niên thành thị, tôi không biết miền Nam đang chiến tranh. Thủ đô Sàigòn với đường Nguyễn Du êm dịu, đường Duy Tân thơ mộng, đại lộ Nguyễn Huệ thênh thang, đại lộ Lê Lợi sầm uất, đánh lừa tôi là đất nước rất yên bình. Dạo đó tôi đã bắt đầu say mê chiến tranh, những trận đánh của Rommel, Hoth, Kesselring, Guderian, von Kleist, von Manstein của tủ sách Adolf Hitler của nhà xuất bản Sông Kiên, các hồi ký Thái Bình Dương của Saburo Sakai, Tameichi Hara... Phải đến Phan Nhật Nam, phải sau khi đọc Dọc đường số 1, Dấu binh lửa, Mùa hè đỏ lửa, tôi mới bất chợt khám phá chiến tranh ở Long Thành, ở Trảng Bom, ở Dầu Tiếng, ở đồn điền Xa Cam cách nơi mình sinh sống không đầy trăm cây số. Hơn một khám phá chiến tranh, tôi khám phá chân dung của người lính Cộng Hòa mà tôi thực sự tin vào những điều anh viết. Chân dung của người lính miền Nam, cao cả, bình lặng, bi tráng trên một đất nước điêu linh, trầm thống. Và người lính đó với 50 ký lô xương thịt, với tất cả bất công của cuộc chiến, cong oằn xuống dưới sức nặng của 35 ký đạn dược, chăn mùng mền, thực phẩm đã tồn tại như một phép lạ nhiệm mầu. Tôi chỉ lập lại những điều anh viết. Hôm nay, đã bại trận, anh còn tin vào những điều mình đã viết? Có thật nhiệm mầu, khi nhiệm mầu không xảy ra, đã chấm dứt. Anh có cường điệu, đã tô vẽ thái quá hình ảnh của người lính Cộng Hòa hay không? Và phẩm chất tác chiến của người lính Cộng Hòa có thật sự như anh viết trong bút ký? Tôi muốn một câu trả lời thật. Phan Nhật Nam: Không điều gì phải cường điệu, hoặc nói quá nếu sự thật không phải là như thế, chỉ sợ không đủ tư cách, khả năng, bản lĩnh để nói về Sự Thật (dẫu đau lòng cay nghiệt) ấy mà thôi. Tôi không hề viết về “những anh lính hào hoa, viết thơ cho người yêu trên ba-lô, dưới ánh trăng, gắn hoa lên đầu nòng súng...” như cách mô tả trong văn chương, âm nhạc đại chúng miền Nam; hoặc “đường ra trận mùa nầy đẹp lắm.. Bác cùng chúng cháu hành quân..” của văn công ngoài Bắc. Tôi viết về hạ sĩ Toản mang máy truyền tin đại đội phải đào ngũ vì gia đình ngoài Trung lâm cùng cảnh tan tác; binh nhất Huệ tự tử khi đứng gác do buồn phiền chuyện người vợ… Nhưng chính những người lính gầy gò, khắc khổ, phải tình cảnh tội nghiệp kia của sáu tiểu đoàn nhảy dù đã đánh trận Đồi 1062, tại Thường Đức, Quảng Nam với cách thức cá nhân tác chiến, cắn từng bụi cỏ, bám đá núi để xông lên cận chiến chiếm mục tiêu đối phương cố thủ từ tháng 8/1974. Những mục tiêu được phòng thủ cực độ vững chắc với thân cây rừng đặt sâu trong lòng núi mà bom và pháo binh không thể phá hủy được. Đánh từ tháng 8 đến tháng 11, mất đi, chiếm lại từng thước đất, đã có lúc bị trung đoàn 24 của Sư đoàn 304 CSBV dùng hỏa công thiêu đốt như trận đánh ngày 29/10/74. Chiếm lĩnh, kiểm soát được toàn bộ các cao độ 1235, 1062 quanh quận Thường Đức để rồi tháng 3-1975 được lệnh rời bỏ những vị trí đã đánh đổi bởi mạng sống của bao đồng đội, máu của bản thân... Lính rút ra quận Đại Lộc, cởi đôi giày, chiếc vớ kéo theo lớp da chân từ bao ngày bó chặt! Hãy nhớ, lính và sĩ quan những đơn vị tổng trừ bị (Dù, TQLC, Biệt Động); kể cả những sư đoàn diện địa như Sư đoàn 1 Bộ Binh (Trị-Thiên); các đại đội thám sát tỉnh... phần đông nếu không nói hầu hết là lính tình nguyện. Ở trường Thủ Đức, sĩ quan mãn khóa phải giành nhau chỗ về Nhảy dù, TQLC; sĩ quan thủ khoa các khóa 16, 18, 19, 20 Đà Lạt đồng chọn đơn vị tổng trừ bị. Phải thấy cảnh tượng đoàn xe GMC đậu ở Ngã Sáu Sàigòn (bùng binh tượng Phù Đổng thiên vương) trong suốt năm 1972 thay phiên nhau đưa sinh viên các phân khoa đại học Sàigòn tình nguyện nhập ngũ về Quân vụ Thị trấn (trại Lê Văn Duyệt); gia đình phần đông không được họ thông báo về quyết định tình nguyện nhận nhiệm vụ nguy nan của người lính ─ Nguy nan chết người chứ không như sách báo, thi ca, âm nhạc tô vẽ… Sĩ quan đại đội 94/Tiểu đoàn 9 Dù chỉ trong một đêm giao thừa Mậu Thân 68 đã đồng loạt tử trận tại tuyến chiến đấu nơi khu nhà thờ Tri Bưu Quảng Trị; đơn vị chỉ còn lại một chuẩn úy mới ra trường Thủ Đức do đi phép về tiền trạm đóng ở Huế ăn Tết, và trung úy Tâm đi phép Sàigòn cưới vợ. Chỉ có lính Sư đoàn 1 Bộ Binh mới có khả năng chiếm lại các căn cứ Bastogne, Checkmate mà Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trước đây phải rời bỏ vì không chịu nổi áp lực địch trong mùa hè 1972. Trước 1975, những người lính kể trên không một lời tán thán. Không một lần đòi được đền bù, báo ân. Và những giờ phút đầu tiên của ngày 30/4/1975, họ là những người bị bắn ngay trên giường bệnh viện Đỗ Vinh, bệnh viện 3 Dã Chiến Sàigòn nếu có lời chống cự, không di chuyển được do thương trận từ những ngày chiến trận tàn cuộc... Họ phải sống vì không còn khả năng tay, chân thực hiện lần tự sát; phải sống để chứng kiến con đi nhặt rác, chết vì đạp đinh nhiễm trùng sài uốn ván; vợ mang thân đi khách ở chợ Bà Chiểu bị công an bắt vào trại phục hồi nhân phẩm, chết do lây bệnh phong tình không chữa trị... Chữ “nhiệm mầu” nói sao cho đủ, đúng về trường hợp của mỗi Người Lính nầy (mà không là trường hợp cá biệt/nhưng là trường hợp tổng quát, chung nhất). Tôi cảm nhận, thấy ra rất rõ điều nầy từ ngày mới ra trường, sống cùng những “bác trung sĩ, hạ sĩ...” chung trung đội, đại đội; nhìn những đứa con, những người vợ của họ nơi trại gia binh. Suốt những tháng đầu năm 1968, trong chiến dịch dài hạn bảo vệ vòng đai Sàigòn, ở Nhị Bình, Gò Vấp, Gia Định, mỗi buổi sáng di chuyển ra khỏi chỗ đóng quân là đụng địch, đạp phải mìn bẫy... nhưng những người lính vẫn bước tới sau thoáng chớp mắt ưu tư, tiếng thở dài rất ngắn ghìm giữ lại. Miền Nam có được 21 năm tự do-dân chủ trên lưng những người lính nầy. Sau 30/4/1975, cả dân tộc (không phân biệt Nam-Bắc) đồng lâm cảnh cùng khốn vì không còn người lính Bảo quốc-An dân. Người Việt Nam biến thành loại tiện dân, phiêu bạt khắp cùng thế giới, nơi các trại tỵ nạn, giữa các đảo hoang vây quanh, dày xéo bởi hải tặc Thái, ngư phủ Mã Lai hung hiểm. Thế nên: Chữ “nhiệm mầu” sợ nói không đủ đối với trị giá, phẩm chất của Người Lính Miền Nam. Hơn thế nữa, bản thân họ và gia đình đồng lần lâm cảnh huống, chịu đựng chung thân phận bi thảm của mỗi người Việt. Họ gánh phần nặng nhất, đau thương nhất, trước tiên hơn bất cứ ai. Nhiệm Mầu – Mystère có âm hưởng tương tự với Misère – Cùng Khốn. Nói có đủ đâu hở Vũ!
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2008 12:47:34 GMT 9
Trần Vũ: Nhưng ở đâu ngày 30 tháng 4-1975, các “nhân vật” thật của anh, những nhân vật kiêu hùng đã làm chúng tôi say mê? Ở đâu “Mê Linh” Mễ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 Dù? Ở đâu “Lê Lợi tân thời” Lê Quang Lưỡng, con beo gấm của Nhảy dù? Ở đâu trung tá Nguyễn Văn Đỉnh người đã “bắt tay” An Lộc, thiếu tá Phạm Kim Bằng đã giữ Đồi Gió, Đồi Quốc Tuấn, “Robert Lửa” Nguyễn Xuân Phúc, niên trưởng của Khóa 18 Võ bị Quốc gia Đà Lạt? Và ở đâu những trung tá Bùi Quyền đã “đục” thành Quảng Trị, thiếu Tá Lô “Lọ rượu” đã phá chốt đèo Chu Pao... Tại sao tất cả biến mất? Tại sao tất cả tan hàng? Ở đâu những Long Phụng, Tố Quyên, Trọng Nhi, Minh Hiếu, những “Đích Thân”, những tiểu đoàn trưởng xuất sắc Nguyễn Chí Hiếu của tiểu đoàn 5, “Bắc Bình vương” Đoàn Thiện Tuyển của tiểu đoàn 8, những “đường sơn đại huynh” của pháo binh Dù và những chi đoàn chiến xa M-48 “hung nhất miền Trung” từng xuất hiện trong Mùa hè đỏ lửa của anh? Và cá nhân Phan Nhật Nam ở đâu, anh làm gì?
Phan Nhật Nam: Tất cả vẫn còn hiện diện đủ trong ngày 30 tháng 4, 1975 – Tất nhiên chỉ vắng mặt những người đã chết, tránh được sự nhục nhằn của lần sụp vỡ đầu hàng. Vậy chết chưa hẳn đã là điều đau thương, hứng chịu nghiệt ngã. Nhưng những người lính còn sống ấy có thể làm gì khi chính bản thân và đơn vị họ rơi vào chiếc bẫy sập giăng ra từ lần rút bỏ Tây Nguyên (15/3); Huế (24/3); Đà Nẵng (29/3); Nha Trang (30/3)… và cuối cùng, cửa ngỏ Đông-Bắc Sàigòn, Long Khánh (20/4). Chỉ riêng lần rút bỏ Tây Nguyên, chỉ còn 5 ngàn quân trong 20,000 quân nhân thuộc các đơn vị tiếp vận; 900 lính của 5 liên đoàn Biệt Động Quân về đến Tuy Hòa sau 10 ngày tái phối trí lực lượng! 75% lực lượng của Quân đoàn II gồm bộ binh, thiết giáp, chiến xa, truyền tin, công binh.. bị tiêu diệt trên 200 cây số đường di tản (Cao Văn Viên, The Final Collapse, trg 153-155). Riêng bản thân cá nhân khi (28/3) theo nhân viên cứu trợ đến tại trại tạm cư đèo Rù Rì nhận biết được số liệu có 60,000 dân của 200,000 người từ Tây Nguyên di tản về đồng bằng... 140,000 người kia nay sống chết nơi đâu? Dân và lính chết không phân biệt, người dân Huế-Thừa Thiên chết trên “pháp trường cát” Thuận An cùng lúc, cùng cảnh, cùng lần với lính Lữ đoàn 258 TQLC... Những người lính dựng cờ nơi Cổ thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị trong ngày hè lẫm liệt 1972 nay trần trụi phơi thân dưới đạn pháo, trên sóng nước bãi biển Thuận An. Cũng tương tự như thế, những chốt nhỏ cấp bán tiểu đội của các tiểu đoàn 2, 5, 6 Dù hoàn toàn bất lực (như một điều tất nhiên) trước đợt tấn công của một quân đoàn gồm ba sư đoàn bộ binh nặng của Mặt Trận B3/CS từ Ban Mê Thuộc cùng ào xuống đồng bằng theo ngả đèo Khánh Dương. Bản thân mỗi người lính chiến đấu ở cấp tiểu đội, đại đội kia có thể làm được gì? Thậm chí cho tập trung được một lữ đoàn, như trường hợp Lữ đoàn 1 Dù dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, với lữ đoàn phó Lê Hồng, giữ được mặt trận Long Khánh vài ba ngày cuối cùng cũng phải rút lui theo lệnh của tổng thống Thiệu theo tỉnh lộ 2 về Phước Tuy... Sự cố ý xé bỏ (các đơn vị tổng trừ bị) nầy rất dễ nhận ra, nên sau nầy tại hải ngoại, tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh cuối cùng của sư đoàn Dù đã có bài viết “Tại sao Thiệu xé lẻ sư đoàn Dù... Sư đoàn Nhảy Dù, Ai còn. Ai mất...”, dẫu ông luôn là người lính thuần thành chứ không là giới sinh hoạt chính trị. Trận đèo Khánh Dương trong vài ngày ngắn ngủi (cuối tháng 3/75) vỡ tan Lữ đoàn 3 gồm các tiểu đoàn 2, 5, 6; Trận Phan Rang hai ngày 15, 16 tháng 4, Lữ đoàn 2 bị tràn ngập, lữ đoàn trưởng, đại tá Nguyễn Thu Lương bị bắt cùng với bộ tư lệnh tiền phương Quân khu III. Những ngày cuối cùng trước khi từ chức, ra nước ngoài, với chức vụ tổng thống, ông Thiệu quyết định việc điều động đến cấp tiểu đoàn bởi lo sợ một âm mưu đảo chính – Mối lo sợ về một mưu định rất có khả năng thực hiện bởi bất cứ một sĩ quan cấp chỉ huy nào.
Triệu Tử Long có thể phò ấu chúa A Đẩu giữa rừng gươm giáo thời Tam Quốc, nhưng trung tá Nguyễn Lô với một tiểu đội lính còn lại làm sao ngăn cản đợt tấn công cuối cùng của chiến dịch HCM gồm 16 sư đoàn bộ binh cộng sản Bắc Việt, chưa kể lính chủ lực Miền, và du kích địa phương? Cuộc tổng tấn công được cả một khối cộng sản yểm trợ, và quốc hội Hoa Kỳ quyết liệt cắt giảm quân viện.
Nhưng dẫu có nhận được vài trăm triệu đô-la kia tất cả cũng đã là vô ích vì không phải đợi đến những ngày sau di tản triệt thoái cao nguyên (3/75) mới bày ra cơn hấp hối của Miền Nam mà đã nên thành hiện thực từ mặt trận im lặng nơi Dinh Độc Lập với một “ước tính chiến lược” qua phiên họp hai ngày 9, 10 tháng 12/1974: Sẽ không tăng viện cho Vùng II (Cao Nguyên), chỉ củng cố vòng phòng thủ Nam và Tây Sàigòn, hướng Tây Ninh (cách Sài gòn 100 cây số)… Viên gián điệp tình báo chiến lược nơi Dinh Độc Lập (một trong bốn người thân tín của ông Thiệu) khẩn cấp báo về Hà Nội ngày 20 – bản báo cáo tuyệt mật nầy văn phòng CIA ở Sàigòn bắt được nhưng họ “cũng cùng đành im lặng” vì nhân viên tình báo kia cũng làm việc cho họ. Chúng ta có thể suy diễn không sai lầm sau 33 năm mất nước: Chẳng lẽ người Mỹ lại trực tiếp bày vẽ cho cộng sản nên đánh ở đâu? Trận Phước Long sau đó (mở màn 13/12/1974 và kết thúc ngày 28) với sự im lặng “rất có ý nghĩa của người Mỹ” qua thực thi nghiêm chỉnh Tu chính án Case & Chuck “Cấm tất cả hoạt động quân sự của Mỹ vào Đông Dương” được ban thành đạo luật bởi Nixon từ tháng 12/1973. Toàn tỉnh Phước Long đồng loạt bị lấn chiếm dẫu bộ Tổng Tham Mưu đã gởi đến đó Liên đoàn 81 Biệt Cách – đơn vị dựng nên kỳ tích ở mặt trận An Lộc, 4/1972. Năm ấy, 1974 không còn một phi xuất B52 yểm trợ, cùng lần, hạm đội 7 bỏ vùng biển Việt Nam quay mũi hướng về Châu Phi. Hạm đội hùng mạnh nầy cũng đã khóa chặt toàn thể vũ khí, kho máy bay, hệ thống phóng ngư lôi trong lần vỡ trận Hoàng Sa, 1/1974. Người lính, bản thân mỗi người lính Miền Nam làm được điều gì khi đạn bắn đi phải đếm từng viên một.
Sau 30/4/75, 10 tiểu đoàn trưởng nhảy dù của 12 tiểu đoàn tác chiến có mặt tại trại tập trung, ba lữ đoàn trưởng đồng nhận án hơn mười năm tù mỗi người. Năm người vượt trại đầu tiên nơi miền Bắc (7/1976) có ba trung tá và một thiếu tá thuộc Sư đoàn Nhảy Dù – trung tá Nguyễn Lô, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù bình thản nói trước cột xử bắn: Tôi chịu trách nhiệm tất cả về việc trốn trại. Chúng tôi đã trình diện đi tù, chấp nhận cái chết là điều tất nhiên. Toàn trại ngồi chờ chứng kiến lần xử bắn đồng nghe rõ lời Sông Lô.
Tôi không hề cường điệu khi nói về những người bạn lính của mình – Họ vẫn giữ vững phần bền bỉ kiên cường trong phận số khắc nghiệt chung. Lẽ tất nhiên không phải tất cả đều ngang tầm kiệt liệt của Sông Lô – Nhưng có hề gì, ba-mươi ba năm sau 1975, hôm nay Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn hiện hữu. Ba Sọc Đỏ ấy tượng trưng cho Máu của Người Việt – có phần lớn máu người lính VNCH.
Trần Vũ: Trưa 30 tháng 4, tôi hãy còn nhớ, sau khi tướng Dương Văn Minh đầu hàng, trong lòng tôi giận dỗi các anh vô cùng. Gia đình chúng tôi đã tin vào quân đội đến cùng, thầy tôi nhất quyết không di tản vì muốn sát cánh cùng quân đội. Mà như thầy nói, ai cũng chạy hết thì lấy ai giữ nước, nuôi quân đội? Chúng tôi buồn bã vô hạn. Tại sao các anh đầu hàng? Vì sao các anh tuân lệnh không một phản ứng? Tôi muốn biết vì sao người lính Cộng Hòa đầu hàng dễ dàng như vậy, trong một buổi trưa, trong vài giờ đồng hồ, không một chính biến, không một hành động sau cùng. Các anh đã kháng cự suốt hai mươi năm, mà sao không ai truất quyền Dương Văn Minh phút cuối cùng? Sao không lui về Cần Thơ, Phú Quốc kháng cự như Tưởng Giới Thạch đã lui về Đài Loan? Tôi muốn tin chính ước vọng hòa bình, ý thức nội chiến khiến các anh quyết định chấm dứt tương tàn, chấp nhận tù đày để đất nước thanh bình, nhưng rồi hòa bình không như mong muốn, thống nhất nhưng vẫn phân chia Nam - Bắc, phân chia giai cấp, phân chia Ngụy và Liệt sĩ, khiến các anh căm phẫn. Rất nhiều cựu sĩ quan miền Nam nói với tôi là họ ân hận đã buông súng. Nếu biết trước sau 30 tháng 4 sẽ như vậy, họ sẽ chiến đấu đến cùng, đến chết, không đầu hàng. Còn Phan Nhật Nam? Nếu bây giờ đi lại trên quốc lộ 1, cùng với Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù cũ của anh, đi đầu đại đội 72 mà anh từng làm đại đội trưởng, nhận lệnh buông súng, anh phản ứng ra sao?
Phan Nhật Nam: Bản thân tôi không cố ý làm ra điều văn vẻ, trầm tư để viết nên văn chương chữ nghĩa khi trả lời câu hỏi nầy... Nhưng chẳng cần đợi đến sáng 30 tháng Tư, 1975 mà tôi đã viết đủ trong “Ngày Thật chết với quê hương” – Cái Chết thật ra đã hiện diện với những báo trước rất cụ thể từ trận Đồng Xoài (6/1965); từ Mậu Thân (1968)... Hằng đêm từ đồi Căn Cứ Nguyễn Huệ (hậu cứ Lữ đoàn 2 Dù) nhìn ra Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa... Và gần nhất là đêm tối 15/3/1975 tại Pleiku khi Quân đoàn II bắt đầu lần rút bỏ cao nguyên; chiều 25/3 trên đèo Hải Vân (địa giới Thừa Thiên-Quảng Nam) khi Lữ đoàn 1 Dù bàn giao vị trí cho Tiểu đoàn 8 TQLC; trong ngày 30/3, khi toàn thành phố Nha Trang câm lắng xuống để nghe tiếng sóng đập vào bờ qua dãy xác chết lắt lay trên bãi cát… Toàn xác chết đàn bà con trẻ. Nhiếp ảnh viên Kevin Carter, người đoạt giải Pulitzer về phóng sự nạn đói ở Sudan, đã không thể sống nổi sau khi chụp cảnh đứa trẻ hấp hối trước con kên kên chờ móc ruột! Cũng tương tự như thế, những người lính, cụ thể bản thân với chính xác thân, mỗi giác quan với từng giờ, từng ngày suốt từ 13/3 cho đến 30 tháng 4... thấy ra một điều: Sống là một cái tội! Chết cũng là một sự vô ích... Trở lại sự kiện bản thân ở lại Sàigòn sau 30/4, có nhiều nguyên do khách quan, chủ quan, tích cực và tiêu cực... nhưng bao trùm tất cả là cảm ứng: Đi Mỹ hay ở lại (chết) ở Việt Nam tất cả cũng là vô ích – Hẳn nhiều người cũng có ý nghĩ nầy nhưng không nói ra lời đấy thôi... Cũng cần nói thêm một phản ứng có thật: Mong được chấm dứt chiến tranh với giá sinh mạng là bản thân mình thì cũng là điều đáng chấp nhận... Và tự an ủi khi ngồi trong toa chở súc vật trên chuyến tàu lên Yên Bái đêm 22/6/1976: Coi như đất nước thanh bình (được) đi chuyến tàu lên Miền Bắc! Nhưng tất cả cảm ứng “tự an ủi / tự thúc dục nầy” dần bị đổ nhào như gặp phải tình cảnh sáng mồng hai Tết Mậu Ngọ (1978) khi đi thu hoạch lúa ở ngọn đồi sau lưng Trại 10 (Yên Bái)... Người đàn ông dáng thanh lịch dẫu áo quần rách vá, vẻ hư hao, tiều tụy (cung cách của người Hà Nội trước 1954 rất dễ nhận) đi với cô con gái mặt đẹp như ngọc, đầu trần chân đất, quần rách lai tơi tả, sữa non con so thấm ướt ngực áo mỏng theo đoàn tù mót lúa rớt trong buổi sáng đầu xuân sương mù giá rét miền núi đất Bắc... Người đàn ông trầm giọng nói trong tiếng khóc bị nén: Các ông tội nặng lắm... Con tôi từ năm 1954 đến giờ không có được chén cơm trắng, cháu ngoại tôi từ ngày sinh chỉ uống nước cháo loãng pha muối cầm hơi... Mấy mươi năm chờ đợi các ông từ trong Nam ra với hy vọng được sống cho ra dạng người thế mà cớ sự lại như thế nầy đây! Bạn ta ơi Miền Nam không thể thắng được vì họa chung của cả dân tộc đã nên hình. Tôi không quá mê tín, nhưng ngày 28/3/75 khi đi trên đoạn đường Nha Trang-Cam Ranh dẫm lên cây số đường dài sâu bọ bung lên tự lòng đất nên đã hiểu ra điều: Cơn hấp hối, tận diệt quê hương đã thành sự thật! Bản thân người lính làm gì được? Họ lại là người chết trước tiên.
Trần Vũ: Tất nhiên chúng ta không thể quay ngược quá khứ, nhưng tôi còn nhiều thắc mắc. Trong Tù binh và Hòa bình, Phan Nhật Nam viết về thân phận người tù sau giao tranh: Lồng ngực vạm vỡ, nở nang vì được nuôi dưỡng no đủ của tù binh Bắc Việt theo chính sách giam giữ ở Phú Quốc của VNCH; đối lại, gương mặt thất thần vì sợ hãi, trên thân thể xanh mướt của tù binh Nam Việt trao đổi ở Lộc Ninh. Đã chứng kiến tận mắt ở Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên như thế, sao anh vẫn quyết định ra trình diện? Chẳng lẽ các sĩ quan miền Nam không tham khảo quân sử, không am tường Hồng quân? 90,000 tù binh Đức tại Stalingrad, duy nhất 5000 tìm lại quê quán. Từ 1946 đến 1954, Việt Minh trao trả 10,754 trên tổng số 36,979 tù binh quân đội Liên hiệp Pháp, chưa đến 29%, số còn lại biến mất, không bao giờ còn tin tức. Đó là những số liệu của Bernard Fall, trang 523 trong chương cuối cùng của tập Un coin d’enfer xuất bản năm 1968, mà bản dịch Điện Biên Phủ, Một góc địa ngục của Vũ Trấn Thủ, nxb Công An Nhân Dân đã cắt đi. Tôi muốn hiểu quyết định chấp nhận tập trung này, mà cho đến bây giờ đã ăn sâu quảng vào trong tâm khảm của khá đông những người tù cải tạo hãy còn uất ức.
Phan Nhật Nam: Câu trả lời câu trên coi như cũng có thể dùng trả lời cho câu hỏi nầy, nhưng thành thật ra thì phải nói như thế nầy: Thôi thì chấp nhận đi ở tù vài ba năm cho xong chuyện. Có gì cũng được ở lại trên đất nước mình, như quyết định có thật của Boris Pasternak. Đã sống, chiến đấu cạnh người Mỹ suốt cuộc chiến (Nhảy Dù VN là đơn vị đầu tiên phối hợp hành quân với các đơn vị Không Kỵ, Nhảy Dù Hoa Kỳ từ 1965), nếu không hiểu biết nhiều thì cũng có được vài nhận định khách quan thế nào là người Mỹ hay quân đội Mỹ. Từ 1973 lại ngồi chung với họ trong bàn hội nghị Ban Liên hợp Quân sự ở Tân Sơn Nhất. Nhưng bao trùm tất cả là “quan niệm”: Là Người Việt với nhau, “hy vọng” sau chiến thắng chung cuộc rồi, người cộng sản “Cộng sản Việt Nam” hẳn cũng không đến nỗi nào? Trời đất! Đã chứng kiến Mậu Thân, 1968 ở Huế nhưng sao lại “vô tư” đến vậy? Cũng như đã tự tay đào hệ thống giao thông hào sâu ba thước nơi những cồn cát lẩn khuất sâu trong trại Long Giao trước ngày chuyển ra Bắc (19/6/1976) với tư thế “hăng say lao động”! Đứng dưới giao thông hào nhìn lên chỉ thấy một khoảng trời thu nhỏ đúng là của mộ huyệt tập thể! Sau tháng 2/1979, cũng đào những giao thông hào như thế ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa. Người cộng sản đông-tây có bao giờ gượng tay khi có những quyết định tương tự trong suốt thế kỷ 20. Nhưng người Do Thái không hề sợ khi bước vào lò hơi ngạt ở Auschwitz để chết... Sống trước đó đáng sợ hơn. Đau thương thay, dân tộc Việt hình như tê liệt, vô cảm trong cảnh sống nầy. Ngay hiện tại ở Hà Nội với những cao ốc hiện đại theo mẫu của Mỹ, đồng thời khí trời, sông, suối… đồng bị nhiễm độc. Tàu vỏ sắt của Nhật không dám ghé bến sông Đồng Nai. Không một người cầm bút nào nói nên thành lời cho đủ dẫu đang trong nước; hải ngoại là tất nhiên vì thiếu chất men từ đất, người quê nhà. Họa hoằn lắm mới có một người như Phạm Lưu Vũ ở Hà Nội viết chuyện Chị Cả Bống… Nhưng không đủ, chuyện của Phạm Lưu Vũ viết bằng tiếng Việt, chỉ là một truyện ngắn (quá ngắn so với bi kịch (đúng ra là thảm kịch) của chị Bống), lại bị tịch thu. Ở Sàigòn mấy người đọc.
Nhưng bạn ơi, Thiên Chúa luôn có thật với Người – Tôi ngồi viết những trả lời nầy nơi đất Mỹ. Tại sao có thể như thế? Những ngày dài suốt thời gian từ 7/9/1981 đến 29/5/1988 tôi chỉ ao ước được đưa bàn tay ra khỏi khung cửa sổ nhà giam để xem gió mát như thế nào! Tôi thù hận ai đây? Mơ ước gì khi đã hiểu ra điều đơn giản cuối đời: Sự Thật lớn nhất là Cái Chết. En attendant Godot chăng? Không, con người chỉ chờ Cái Chết. Khác nhau chăng là chúng ta làm gì trong khi chờ lần chung kết kia.
Trần Vũ: 15 năm sau vượt biên tôi đi lại quốc lộ 1. Gần như để đối chất cảnh vật với những gì anh viết. Những địa danh, những thước đất hiện ra, lớp đất vàng khè chen giữa những bãi cát xám bên này dẫy Trường Sơn. Dọc quốc lộ từ Hải Lăng lên đến cầu Hiền Lương là những nghĩa trang liệt sĩ san sát. Vết tích chiến tranh chưa mất. Nhà thờ La Vang tan nát. Phố chính Quảng Trị lỗ chỗ đạn. Khu tập thể tiêu điều ở Thạch Hãn, Cồn Thiên, Cam Lộ… Tất cả ngập dưới cái nóng điên người. Tôi cảm được điều anh đã viết: Nỗi quặn đau dai dẳng không chấm dứt. Rồi tôi tự hỏi: Phan Nhật Nam làm gì trong suốt bao năm ấy, từ lúc ra tù, anh có đi lại quốc lộ 1 lần nào chưa? Trong Tù Binh và Hòa Bình anh đã đặt câu hỏi: Hòa bình nghĩ gì, làm gì? Tôi còn nhớ anh ngao ngán với cảnh áo hoa nón đỏ sẽ phải vào ty cảnh sát lãnh thằng ma cô có mụ tài-pán đỡ đầu… Hòa bình đến không giống như chúng ta chờ đón, nên tôi muốn biết anh nghĩ gì, sinh sống ra sao, trong một miền Nam đổi khác, sau khi đi tù về. Anh có phản cảm với tuổi trẻ không biết đến quá khứ. Trước khi sang Mỹ, anh giao tiếp với xã hội như thế nào. Tôi muốn nghe anh kể về những ngày hậu chiến này.
Phan Nhật Nam: Sau 30 tháng 4, 1975 tôi đi dọc đường số 1 một lần. Lần độc nhất với đôi mắt khép lại để khỏi nhìn. Để đừng thấy. Tôi không nói quá – Lần trở về Nam ngày 29 tháng 5, 1988 sau mười-hai năm lưu đày đất Bắc. Tàu vào địa giới Miền Nam, qua Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, La Vang... lúc trời mờ sáng. Tôi biết rõ tàu đang chạy qua những chốn nào. Vốn người gốc Quảng Trị, năm 1966-1967 hành quân từ Thừa Thiên ra Quảng Trị, tôi dẫn quân đi dọc Phá Tam Giang không cần xem bản đồ. Tàu đến Huế sáng 30 tháng 5 – ngày Phật đản. Những năm trước 1968, ngày Phật đản ở Huế là một quốc lễ. Chợ Đông Ba không bán thịt; bún bò gánh chỉ nấu bún chay. Và đêm đến, trên sông Hương người Huế làm lễ Phóng đăng. Nhánh sông nhỏ dưới khu Gia Hội bồng bềnh giải ánh sáng lấp lánh trên nước như cảnh thần tiên. Mọi người nói giọng thấp xuống, nhỏ lại, chen tiếng niệm Phật A di đà Phật... Nam mô bổn sư… Những người hung tợn nhất xóm hóa ra hiền từ, nhân ái. Chỉ một đoạn đường mấy trăm thước của đường Trung Bộ (nơi tôi ra đời, sau 1954 đổi thành Tô Hiến Thành) có đến bốn chùa, và nhiều am, miếu. Chùa lớn, Diệu Đế; am Mã Ông Trạng. Sáng 30 tháng 5, 1988 qua ga Huế (nơi lần cuối đưa mẹ đi Sàigòn 1960, em Bé ghìm tiếng khóc, thân người gầy gò rung bần bật vì phải xa mẹ), loáng thoáng những người buôn đồ cũ chạy thất thanh giữa tiếng nạt nộ, xua đuổi của công an… En ơi... mấy en ơi… Có mền tù khôn… (không hiểu tại sao họ biết chúng tôi là đoàn tù cuối cùng trở về Nam). Một thoáng ngắn, tôi nhìn ra cửa sổ toa tàu, hướng núi Ngự Bình, nơi có phần mộ mẹ tôi và những người trong gia tộc. Lòng trống rốc. Mắt ráo hoảnh. Lúc tàu rời ga Nam Định tối hôm trước, tôi muốn được bật nên tiếng khóc nhưng khóc không nổi. Qua đèo Hải Vân, trong đầu loáng thoáng những câu thơ “Tôi về Hải Vân thân áo tù. Mười mấy năm dài nhục thấm dư. Nghe lạ đất trời lạnh vụng biển. Quê nhà còn không cơn mộng du...” Hiện thực rất chính xác, “tiên tri” của Mai Phương (Đỗ Ngọc Yến) viết trên báo Đại Dân Tộc, Sàigòn: “Người Nam Hà đầu tiên đến Miền Bắc, 4 tháng 3, 1973...”. Nay tôi là “một trong nhóm người Nam Hà cuối cùng rời miền Bắc từ trại Nam Hà”. Ngày 25 tháng 3, 1975 tôi đứng trên đèo nầy với trung tá Đỉnh chụp hình người mẹ quê chạy từ Quảng Trị vào Đà Nẵng với xác con nhỏ ủ dưới vạt áo dài (tấm hình về sau đăng báo Độc Lập).
Đến Đà Nẵng vào buổi trưa, tàu đổi toán phục vụ (toán người Nam)… Cán bộ áp tải tù ra lệnh đóng cửa sổ toa tầu vì“sợ dân phẫn nộ ném đá”... Tầu ngừng khá lâu để xoay đầu máy ra hướng Huế (tôi quen sinh hoạt nầy từ đầu năm 50, nhà các bạn thân chung trường, chung lớp đều quanh khu nhà ga nầy). Dưới sân ga có những tiếng hoan hô… “Hoan hô tướng Lê Minh Đảo... Hoan hô lính Việt Nam Cộng Hòa… Hoan hô… hoan hô...” Một người trong toán phục vụ có lẽ do thấy tôi tương đối trẻ so với những người trong đám tù, thấp giọng thân mật: “Chú cấp bậc gì mà giờ nầy mới về? Đại úy! Trời đất, đại úy người ta về từ mười năm trước. Mà đại úy đơn vị chi... Đại úy nhẩy dù... Vậy chú là nhà văn phan... Chú muốn ăn, uống chi... Con đem tới...” Tôi uống hết một két mười hai chai bia cho đến chiều tàu tới ga Hàm Tân. Được tháo cùm tay, bước xuống xiêu ngã trên sân ga, nhìn chung quanh chập chờn… Cây cao su của tiểu đoàn 7 Dù , lối lên Hố Nai, ngã ba Tân Hiệp, Biên Hòa... Rừng cao su đặc thù của miền Nam mà tôi ngắm nhìn mê mải ngây ngất từ toa xe lửa buổi đầu đời vào Sàigòn, 1957. Có người đi tới… Ở đây chúng tôi biết cậu về... Cậu nhớ tôi không... Tôi lắc đầu, phần vì hơi bia, phần mệt mỏi đường đi… Thật sự không còn sức. Tôi Đông đây... phan lạc giang đông. Tôi nhìn người bạn không cảm giác.
Với tâm cảnh như thế, ra tù 1989... Chỉ định cư trú về ở ấp Bình Nhâm, Lái Thiêu, Bình Dương, tôi dựng căn nhà tranh 4x4 thước giữa vườn cây măng cụt, nhà, đất do gia đình, bạn bè ở ngoài gởi về... Bạn lính, Mễ “Mê Linh”, Hải “khều” của tiểu đoàn 7; bạn văn, giới viết báo, Đỗ Ngọc Yến; có cả người chưa quen như vợ chồng bác sĩ Dzĩnh bên Canada... Hàng xóm không biết tôi là ai, do có những chiếc lu đựng nước mưa trước hiên nhà, họ đặt nên tên “Ông Út” hay “Út Lu”. Bạn bè không mấy ai, vì hầu hết đã ra đi, thỉnh thoảng hai người bạn niên trưởng, Như Phong và Doãn Quốc Sỹ (bên kia sông Sàigòn, vùng Thạnh Lộc, Nhị Bình, nơi chiến trường lớn của năm 1968) đi mobilette qua chơi. Tôi thường đi quanh quẩn trong vườn măng cho dù nửa đêm về sáng, nằm võng ngủ trước hiên nhà, chơi với các con trẻ nhà quê, dạy chúng học, đốt lửa trại, nấu chè đêm trung thu. Nếu phải về Sàigòn thì cũng lựa lúc ban chiều, trở lại Lái Thiêu vào buổi tối, qua cầu Ông Đụng, cầu Ba Thôn từ ngả xóm Mới đi lên (không đi ngả quốc lộ 1 qua Thanh Đa, Bình Triệu)… Sự lựa chọn nầy có chủ đích: Nơi nầy, tiểu đoàn 2 bị đụng trận. Nguyễn Ngọc Khiêm oằn người chết trên cán cứu thương do tôi kéo đi một đầu. Lái Thiêu lại là những ngày bình yên, dễ chịu nhất, mọi việc cần ở Sàigòn tôi nhờ gia đình thứ hai, Đằng Giao - Chu Vị Thủy giải quyết hộ… Cũng chỉ thấy vui đôi chút khi ngồi trên gác của căn nhà 104 Công Lý (tên cũ – không thể nào đọc nên tên mới “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” mà không khỏi chạnh lòng) trước thương xá Crystal Palace, chung quanh những tranh sơn mài của Đằng Giao. Từ nhà 104 ra Lê Lợi không đầy 100 thước nhưng rất nhiều lần tôi không muốn bước ra chốn kia. Có những thú vui, thói quen sinh hoạt của trước 1975 hoàn toàn bị mất hẳn. Từ những năm 50, tôi đã là khán giả của rạp chớp bóng Morin (Huế và Đà Nẵng); sau nầy, Mini Rex là nơi nghỉ ngơi thú vị mỗi buổi trưa khi ở Sàigòn. Sau 30 tháng 4, thói quen, thú vui nầy mất hẳn. Nay 15 năm ở Mỹ cũng không thể phục hoạt. Cứ nhớ thanh âm rền rĩ bài nhạc đệm… Giải phóng miền Nam... từ những phim ảnh của xưởng phim giải phóng người cứ nổi gai như sắp bị hành hình. Cứ thế, tôi sống từng ngày qua đi không mấy khó khăn so với hơn 8 năm trong bóng tối hầm giam chờ đem đi bắn. Thật ra cán bộ cộng sản chỉ cốt ý dọa, vì bắn cũng vô ích, mà không có cớ gì để bắn! Cho dù kết án tử hình một người tù cũng chẳng gì khó khăn. Lê Đức Thịnh, chung T4, trại Long Giao (1975-1976), chỉ trong một thư gởi lén cho vợ, viết lời khẳng khái “Anh không chịu bó tay” mà phải ra pháp trường do hai ông chấp pháp tên Giáp, tên Dần nào đó ngồi xử trong vòng 10 phút. Vụ xử bắn cốt ý hù dọa... Phải, chỉ để dọa đám tù đã chịu bó tay quy hàng, không hơn, không kém. Còn khi (đã) muốn bắn thì đem bắn ngay xong vất hàng rào bảo rằng trốn trại như lần giết những sĩ quan an ninh quân đội trước khi số tù còn lại của trại Long Giao chuyển ra Bắc (19/6/1976). Hoá ra câu nói sáng 30/4 khi ném giấy tờ tùy thân, thẻ sĩ quan, thẻ lĩnh lương xuống chiếc cống trước nhà sách Khai Trí“Coi như mình đã chết!” là lời xác định đầy đủ, chung kết. Với tâm trạng nầy tôi đi Mỹ… Tôi đi Mỹ cứ như hắt cặn nước. Tôi đi Mỹ nhẹ tênh vất điếu thuốc. Quê hương gầm gừ khinh miệt. Đất xa trọn chốn lưu đầy... Trần Mạnh Hảo khi tiễn ra phi trường (5/11/1993) có lời cảm khích: Thế nào ông cũng khóc khi ra khỏi nước! Thế nhưng tôi đã không biết phi cơ cất cánh lúc nào, ngủ ngay khi vừa ngồi xuống ghế trên máy bay. Nhìn đâu ra Sàigòn của Miền Nam khi toàn phi hành đoàn phát âm giọng Bắc vùng Thanh, Nghệ... Nghe ngang ngang, cứng cứng; thái độ khinh khỉnh, xấc xược (do biết chuyến bay thuần là người tỵ nạn đi diện H.O). Những năm đầu tiên ở Mỹ (1994-1996) tôi luôn ở trên đường xa như nhân vật trong phim Forrest Gump... Cứ nhắm đằng trước mà chạy. Chạy mãi cuối cùng anh ta đứng lại, quay về nhà đã bỏ đi từ khi người vợ lâm tử. Tôi chẳng chạy trốn điều gì, nhưng cũng có lúc tự hỏi: Anh lái được bao lâu? Anh lái đi đến đâu? Cuối cùng dòng hiu quạnh. Exit ra ngả sầu... Khi một mình ngồi nơi một Rest area nào đó trên đường 10 vạn dặm xuyên nước Mỹ, chiều mưa lớn ở Lousiana. Tôi làm thơ như cách người ta tập thể dục, tập khí công mỗi ngày. Làm Thơ bất cứ nơi đâu… Tôi đọc thơ ông... Tự thân trống vơ trống vốc... Nơi phi trường York, vừa rời Houston… Phi trường... Xuống. Không một ai. Chỉ tập thơ ấm trong lồng ngực... Tôi đọc Thơ Tuyển của Tô Thùy Yên trong tình cảnh như thế. Từ đó hiểu ra Bùi Giáng phải điên, Tam Ích phải tự tử (1972). Cũng hiểu ra tại sao Nguyễn Chí Thiện không thể làm thơ được nữa. Trước khi chết, bất cứ ai cũng gặp phải tình trạng “flash back” – nhưng nếu không chết được thì người ta sẽ sống thản nhiên với tất cả mọi hoàn cảnh. Sự Thật lớn nhất là Cái Chết. Không phải triết học như lời của Albert Camus đâu mà đấy là Lý (giản dị) của Nghĩa Sống/Chết, không cần phải lên đến Hy Mã Lạp Sơn tu cách các Đạt Ma mới hiểu ra. Người Việt ai cũng cảm nhận được một lần nhưng không viết và nói ra như bạn với tôi đang vấn đáp với nhau. Cứ như thế tôi ở Mỹ đến năm thứ mười-lăm, đi gần hết các tiểu bang, đất đai trên thế giới... Lên thấu Alaska, xuống tới Nam bán cầu. Bạn còn muốn hỏi gì nữa hay chăng?
Trần Vũ: Câu chuyện đã khá dài, tuy tôi còn muốn hỏi thêm nhiều nữa, nhưng vẫn phải kết thúc. Trước khi chấm dứt, tôi muốn nhắc lại ảnh hưởng mà các tập bút ký chiến trường của anh đã để lại trong tôi. Chúng ám ảnh tôi đến mức tôi nóng ruột khoác lên người sự “nhiệm mầu” của người lính Cộng Hòa mà anh mô tả. Tuổi niên thiếu của tôi tràn ngập những buổi trưa của viên thiếu úy Nam trở về doanh trại, trải tấm nệm lên chiếc giường hai chân chưa dựng, lắng nghe tiếng kèn của người lính gác vang lên giữa xao xác vắng vẻ. Tôi không mê 7 năm ở lính của Nguyên Vũ, Y sĩ tiền tuyến của Trang Châu, Tiền đồn của Thế Uyên, Tử thủ căn cứ hỏa lực 30 Hạ Lào của Trương Duy Hy hay Vỏ đạn cho con trai đầu lòng của Nguyễn Đình Thiều, nhưng tôi ngã xấp mặt vào thế giới của Phan Nhật Nam. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao thời gian này tôi say mê anh như vậy. Thế giới của người lính ngồi trên sườn đồi uống bia không đá nhìn xuống con sông bốc mờ sương lam, của tân khóa sinh trong chuyến xe lửa đêm lên Đà Lạt lướt đi giữa rừng thông đầy mộng mị, của cả những bực dọc về Sàigòn dẹp biểu tình gác đường gác chợ như ăn mày hay tiếng khóc não lòng của người dân ngoài Trung trước mái nhà bị bắn sập… Tôi thuộc từng tên nhân vật, từng cấp bậc, từng thâm niên của từng người, thuộc cả tiếng chửi thề “chay me” thất vọng của viên hạ sĩ Miên đấm vỡ chiếc nón bài thơ khi máy bay rời Phú Bài, thuộc đôi mắt nhẫn nhục vô hình của trung úy Tạo, Tạo đen của 10 năm quân lao... Tôi cảm giác những trang bút ký của anh thời ấy giúp tôi sống với mọi người, cảm giác chúng truyền vào người mình nỗi đau của cả một miền đất nước, từ những tàn phá đến giận dữ. Sau này tôi vẫn đọc đi đọc lại Dọc đường số 1, Dấu binh lửa, Dựa lưng nỗi chết vì cảm giác thật mạnh đang sống với quê hương mình, trên từng thước đất, vào từng ngôi làng, “rờ” từng cái ấp. Có cái gì đó thật con người, cực kỳ cô độc lặng lẽ giữa sắt thép hỗn độn ầm vang trong thế giới của anh mà bây giờ phải đọc lại mới hiểu thấu hết tất cả những oan khiên của cuộc chiến vừa rồi.
Anh rất gần với Cột mốc 125 và Bão thép của Ernst Junger, ở khía cạnh tiếng nổ của bom đạn, nhưng trong tác phẩm của Junger không có dân chúng, không có những làng mạc với xác những đứa bé chết thâm tím, không có tiếng kêu nặng nhọc của dân lành cố sức đi theo người lính xuôi Nam… Trong ký Phan Nhật Nam, ngược lại, xã hội dân sự hiện diện thường trực trong chiến tranh. Sau này, sang Hoa Kỳ, anh mất đi khá nhiều tố chất con người trong các bài viết, chính vì anh nghiêng nhiều về quân sử, số liệu, ngày tháng, đơn vị, khiến phần tập thể lấn át phần cá nhân.
Trước Phan Nhật Nam, tôi nghiêng về phía Cộng Hòa theo truyền thống giáo dục gia đình, sau Dọc đường số 1, Dấu binh lửa, Mùa hè đỏ lửa, Tù binh và hòa bình tôi trở thành người quốc gia vĩnh viễn. Anh mang trách nhiệm này, đã “biến” tôi thành người quốc gia vì đã dẫn tôi đi qua những thước đất của quê hương ngập tràn tai ương. Đáng lẽ tôi không nên đọc anh để dễ dàng thỏa hiệp với thực tại bây giờ, phải không? Muộn mất rồi. Tôi đã theo anh đi dọc đường số 1.
Phan Nhật Nam: Thật cảm động và rất hãnh diện khi biết có một người đọc, nhớ từng lời (do mình viết) như bạn đã tận ân tình đối với chữ nghĩa của tôi… Nhưng cũng có lần bà vợ tôi (yêu thương nhau từ 1964 chứ đâu phải mới chung sống ngày một ngày hai) nói ra lời chân thật (mà hẳn phải sau nhiều suy nghĩ vì bà ấy vốn kín đáo, nghiêm chỉnh): Sao ông cứ viết chuyện chiến tranh, tù tội như thế mãi... Bạn ơi, tôi trả lời sao đây? Tôi đi đâu nữa? Viết cái gì mới nữa? Tất cả đã thành sự. Chẳng cứ riêng tôi mà hầu như đối với tất cả những người cầm bút… Đây, lấy ví dụ, những “anh”, những “em” và những “tôi”… Bạn chỉ cho tôi xem trong ba cái cột trụ “tưởng như là quan trọng ghê gớm” kia có cái nào là “đáng để nói lên”? Bao nhiêu thế kỷ chữ nghĩa, văn chương người ta dùng đến độ đáng sợ cái tam giác (vô phương phá vỡ) ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn… học, đọc, viết mỗi ngày. Ở Minnesota, tôi là một trong những sinh viên già nhất trường. Cứ như Sisyphe thôi. Nhưng biết đâu trên đường lăn đá lên đỉnh núi hắn ta (bắt buộc) nhận ra mình (Là ai? Làm gì?) với tất cả hùng vĩ đơn độc riêng. Mở chiếc máy lên, ngồi xuống với bàn gõ là lòng bình an, vui vui... Tôi không hề có nguồn vui lớn. Nói rất thật lòng để chấm dứt. Bạn không muốn hỏi nữa, tôi cũng đã quá mệt. Cám ơn bạn đã đọc kỹ, đã hỏi thật. Thế là đủ vì nhận được phần thúc dục: Ít ra chữ nghĩa (mình viết nên) không đến nỗi vô ích. Một người không cũng đủ. Rất cảm ơn.
Trần Vũ thực hiện qua điện thư
Ngày 8 tháng 10, 2008.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 22, 2009 4:28:01 GMT 9
BÀI VIẾT VỀ TONLE TCHOMBE (TỐNG LÊ CHÂN) Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến hữu Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng Tác Giả: Phan Nhật Nam Hình trên: A-7 Corsair, phản lực cơ dội bom của Hoa Kỳ, một loại vũ khí không-yểm rất hữu hiệu mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa rất thiếu thốn trong các năm 1973, '74 và '75 (hình ảnh: Air War College Gateway & USAF Counterproliferation Center). Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Hòa bình Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang. Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm rối. Hòa bình, thứ rượu nhạt mà thế giới hằn lâu không được uống. Tống Lê Chân, trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị bao vây đúng 17 tháng, hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội. Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Balaam 66 ngày, quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày và ở Việt Nam "thiên đường" của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những cứ điểm với tên tuổi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ hơn hết là những trận đại chiến khởi đầu trong mùa hè '72, những trận đánh vượt quá hẳn chiến sự thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25 tháng 7/1972 đã được giải tỏa phần lớn... Thế nên, Tống Lê Chân với 510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10 tháng 5/1972 đã bị mờ khuất sau làn khói lớn của An Lộc, Quảng Trị, Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng Sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật nóng để cầu nguyện cho số người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: tội ác đã đồng nghĩa với con người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam. Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Saigon dày đặt khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu 3 dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của Cộng Sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng. Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc, Chiến Khu C và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đã thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bât giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay mũi phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình, các trại kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn. Một toán lính Dân Sự Chiến Ðấu (DSCD, còn được gọi là "CIDG," viết tắt của chữ Civilian Irregular Defense Force trong Anh ngữ) đang di chuyển ngang con suối cạn. Vào đầu thập niên Bảy Mươi, các lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu được biến cải thành Biệt Ðộng Quân Biên-Phòng. Nhiệm vụ của họ là đóng quân án ngữ tại các điểm then chốt nằm dọc theo biên giới Việt-Miên, Việt-Lào. Trong trận chiến tại Tống Lê Chân, quân Bắc Việt đã chịu một tổn thất ghê gớm với hàng nghìn xác chết. Họ phải huy động đến hơn 10,000 bộ đội Bắc Việt, và mãi sau 510 ngày bao vây và kịch chiến, Bắc quân mới tràn ngập được tiền đồn nhỏ bé kia. Xin nhắc lại, căn cứ Tống Lê Chân không có 5 ngàn hoặc 10,000 binh sĩ VNCH trấn đóng. Nơi này chỉ được phòng thủ bởi 259 tay súng của Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân mà thôi. Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ còn là những cơn sốt vỡ da cho "hòa bình" nguy hiểm. Tống Lê Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía Bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình Long xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để mặt trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lê Chân cũng là yết hầu chận ngang đường dây Bắc Nam, nơi bản doanh Cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống Bình Dương, Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lê Chân không còn là mục tiêu quân sự thông thường. Căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết kiểm soát được bốn hướng tây đông, bắc nam của hệ thống giao liên quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống Lê Chân chưa bao giờ có một ngày thanh bình, tên địa phương là Tonle Tchombe, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long gọi trại thành Tống Lê Chân. Những người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặt Biệt phần đông gọi theo danh từ hàm xúc này, Tống Lê Chân tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngã. Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại Tống Lê Chân phần đông là những dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stieng tình nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng 4 năm 1972, song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đã có ý định "ủi láng" hết dãy căn cứ biên phòng trên để rộng đường điều quân cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 quyết định rút hết lực lượng của bốn căn cứ Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lê Chân đã có câu trả lời sau khi nhận được lệnh: - Xin ở lại chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá. Biệt Động Quân mà di tản yếu quá. - Tình hình có giữ nổi không? - Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng. Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ lòng chiến đấu bền bỉ của người Việt cho hòa bình. Hòa bình Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của cả một dân tộc được tưới thêm bởi máu nóng của những người lính vô danh của Tiểu đoàn 92 trong một hốc của núi rừng miền đông Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vật vã này, toàn thể nhân loại có biết thế không? Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cánh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lê Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu R (Việt Cộng) đã được xác định là một mục tiêu cần phải "dứt điểm". Ngày 10 tháng 5/1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công xâm nhập được vào vòng đai phòng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững như lời nguyền người chỉ huy của trại tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhường, 25 tuổi đã giữ được lời thề Ngôn thuộc Khóa 21 Đà Lạt, ra trường năm 1966, bây giờ tháng 9 năm 1972, Ngôn mang cấp bậc trung tá, một thời gian kỷ lục, nhưng không ai tỵ hiềm. Không thể tỵ hiềm được vì tình hình quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn còn đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Ðoàn 92 của anh là một biệt lệ, một hiện thực ý niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời luôn nghĩ đến. Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của mình trên đảo Saipan, trong buồng lái của những chiếc máy bay Rero, trong những phi vụ trên vùng trời Âu châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn phòng không trong đệ nhị thế chiến…Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của quân giặc. Tống Lê Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng Nhảy Dù lừng danh của Quân đoàn Viễn chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre: "Hãy móc tôi ra khỏi Điện Biên Phủ, tôi vừa sống 6 tháng ở ổ chuột Na San rồi. Tôi quá sợ những cứ điểm bưng bít như thế này!" Sáu tháng ở cứ điểm Na San trong vị thế một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thãi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp, thế nhưng trên ngọn đồi 50 thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Lê Văn Ngôn đã sống đến ngày thứ 510 cùng với Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân với số quân thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút. Những phút Tiểu Ðoàn 92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày. Chúng ta phải làm gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chận, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp, tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân đã đặt để cho căn cứ không còn nữa. Chúng ta chỉ còn lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lý để những người anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ sự tàn ác, khiếp nhược của nền hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ làm gì nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này. Phiên họp đặt biệt cấp trưởng đoàn ngày 17 tháng 3/1973 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lê Chân lên bàn hội nghị. Trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hòa, tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách: • 1. Cử ngay một toán Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên trung ương đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm ngay lập tức sau khi có thỏa thuận hội nghị. • 2. Nếu phe Cộng Sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu Ủy Ban Quốc Tế cử người đi điều tra. • 3. Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ Ủy Ban Quốc Tế khi đến điều tra. Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía Mặt Trận Giải Phóng biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết: dù Trần Văn Trà mang quân hàm trung tướng đi chăng nữa, Trà cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề đó thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt để cho viên đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 22, 2009 4:30:55 GMT 9
Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng bối rối né qua tố cáo: Việt Nam Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Đức Cơ (Pleiku) và kết luận ung dung: chính Việt Nam Cộng Hòa vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù chiếc đầu tán đồng lập lại lời phát biểu của Mặt Trận Giải Phóng với thứ tự chữ nghĩa nói khác đi một chút. Bài học đã được học từ nhà, các cậu học trò cộng sản lập lại không sai một chữ, bất chấp nội dung rõ rệt của ba đề nghị…Ý kiến - một sự kiện không có bao giờ có trong đầu của cá nhân người cộng sản khi chưa "hội ý!"
Thấy hai phái đoàn Cộng Sản không đá động gì đến ba đề nghị vừa trình bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đêø nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn-Bên chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: "Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra." Phiên họp ngưng ở kết luận này. "Tính nhất trí" của Hiệp định, tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị! Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng Sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra Tống Lê Chân: "UBQT không đồng ý đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh."
Muốn chắc ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện vì Mặt Trận Giải Phóng chắc chắn không đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp ngày 17 tháng 3/1973 tất cả nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chấn lối bởi hai ngón đòn: "Tình hình Tống Lê Chân chưa rõ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra." Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề. Ngày 23 tháng 3/1973, chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hạn 60 ngày làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại (chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để sớm điều tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa Ðại Tá Võ Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp Ðại Tá Lomis (Gia Nã Đại) thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày 24 tháng 3/1973…Nhưng rốt cuộc cũng là trò đánh tráo. Theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng Cộng Sản ở đây xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự - tức là cùng của Việt Nam Cộng Hòa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân.
Tên sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24 tháng 3/1973. Cuộc điều tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được. Không bao giờ. Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17 tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cùng sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23 tháng 3/1973, thay vì xuống Tống Lê Chân như đã dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt Trận xuống "Sóc Con Trăn" cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với "địa phương" y trước, sau một hồi tìm kiếm trong vùng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh đứt đường giây y không tìm ra ai. Chiếc trực thăng trở về Saigon, không một thương binh được di chuyển.
Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì yêu cầu Mặt Trận Giải Phóng thảo luận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24 tháng 3/1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cuối cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng "hòa hợp, hòa giải dân tộc" với giá máu này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó. Cấp trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lê Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nhìn của người Cộng Sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành một cuộc hành quân của "quân đội Saigon" lên chiếm khu vực Tống Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời! Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn "nống nấn" ra ngoài khu vực Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào vòng vây của một sư đoàn). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng "đạo lý, hiệp định" cho binh sĩ trong đồn biết "đạo lý về hòa hợp, hòa giải dân tộc". Ý nghĩa đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi của người Cộng Sản. Những điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác, các thành viên Hung Gia Lơiï, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tòa báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày mau đến.
Đau đớn hơn, khi tại Saigon, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nhìn vấn đề ngược lại, như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh (những nghị sĩ, dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa). Những người này là gì trong khi đồng lõa với tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lê Chân, hai mươi ngày sau khi hòa bình 28 tháng 1/1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh hòa bình.
Quả tình chúng ta đang ở trong một "trạng thái hòa bình" sau hai mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ đại bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng của An Lộc, Quảng Trị nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của ngày hôm nay, chúng ta đã vội vã xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội nghiệp này, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đã không đủ khả năng để nhớ đến hình ảnh một căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ý muốn sống trong tự do và hòa bình, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lê Chân.
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6 năm 1973, thời gian quân đội Cộng Sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã đứng vững được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắng chặt tên anh cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ trọn như tên anh đã định trước. NGÔN --một lòng son sắt giữ mãi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực hình ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hỗ thẹn trước nỗi can trường này.
Những phiên họp của tháng 3, tháng 4/1974 tại Ban Liên Hợp Quân Sự Hai-Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động: Công Trường 9 (Cộng Sản) nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng Trung Ðoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung Ðoàn 27 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và tăng viện. Một năm trời thử lửa, một hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự…quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi từ 5 tháng 4/1974 đến 1:00 giờ ngày 11 tháng 4/1974 đoạt được đồn. NGÔN làm gì với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?
Tiểu Ðoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh hùng chiến trận của nhân loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh của thế giới đã dựng lên tấm bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN và Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động dựng lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất cả, NGÔN và 259 Biệt Động Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình. Hòa bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên có nghĩ gì khi hay tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt nước mắt, phải, chỉ còn một giọt nước mắt ngập bi hùng.
Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 2, 2010 7:54:39 GMT 9
PhanNhatNam
Nằm vùng? Ai? Ở đâu? Suốt hai năm nay ẩn thân nơi chốn tuyết phủ, “nóc nhà nước Mỹ” nầy, quả tình tôi khong muốn dính dấp đến những chuyện “cặn bã tồi tệ”, với người và việc trong tranh chấp chính trị. Nhưng nay, nhân người bạn trở lại vụ việc cũ với câu hỏi: “Làm sao năm 1995, ông bị gán cho tiếng “Việt Cộng nằm vùng? !” mà kẻ chụp cái nón cối kia không ai khác là những người cùng ông chung nơi xuất phát, đồng trình độ khả năng kỹ thuật quân sự và vị thế chính trị - những người thuộc Hội Võ Bị Đà Lạt !!” Tại sao đến nông nổi như thế? Tại sao? Ngày 30 tháng Tư 1995, lên đường từ San Jose, chốn tôi đã đến Mỹ đầu tiên do bảo trợ của Gia Đình Mũ Đỏ, để trả phần nợ ân nghĩa đối với những người lính đã cùng tôi sống, chết hết một đời người, tôi đi tiếp đến 38 nơi trên toàn thế giới để nói với những cộng đồng Người Việt một điều tận cùng dẫu bị bó tay, bẻ súng, cùng đành thất trận, nhưng chính chúng ta – Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – là người nhận sứ mệnh Bảo Quốc An Dân trước Lịch Sử Dân Tộc, và đã phải trả giá mối thống hận không hoàn thành nhiệm vụ kia bằng Máu và Mạng Sống của mình. Những tưởng với cố gắng như trên sau 30 năm “ở lính và ở tù”, chí ít cũng làm cho những người khắc nghiệt nhẫn tâm nhất phải nhận ra: Lòng tôi trước sau hằng sắc son thủy chung với một màu cờ đã chọn lựa từ buổi thanh xuân (mà nay đã gần hết một đời người với tuổi quá 50). Nhưng tại sao, từ đâu đã xẩy ra sự kiện ác độc bất công như trên? Chắc chắn phải có một trung tâm quyền lực với những con người cực tham hiểm điều hành một cách có hiệu quả âm mưu lăng nhục, vấy bẩn, đánh phá tất cả không từ một ai. Thế nên, hôm nay, tôi phải trở lại câu chuyện cũ để xác nhận một điều cay đắng chúng ta đã bị bức hại bởi chính kẻ nội thù ngụy trang trong đội ngũ chúng ta - những tên VC nằm vùng. I. VỤ THỨ NHẤT Trong nỗi nhục rã rời sau ngày 30 tháng Tư, 1975, khi lâm cảnh tại những trung tâm “đăng ký trình diện hoc tập cải tạo”, chúng tôi còn phải gánh chịu thêm tình trạng bàng hoàng của kẻ bị lừa gạt, khi nhận ra những người hôm qua còn là “huynh đệ, bằng hữu”, nay thoắt trở thành “cán bộ” với những y phục xa lạ thô kệch, chiếc nón cối chùm hụp và đôi dép râu quê mùa. Lẽ tất nhiên những kẻ nầy không quên đeo trên người khẩu K 54 và chiếc băng đỏ. Tôi và Triệt, người bạn cùng khóa, gặp Lưu Thừa Chí (cũng chung khóa 18 Đà Lạt) trong tình thế bẽ bàng đáng hổ thẹn nầy. Chí ngồi ghi danh người đến “đăng ký” với lon thượng úy – ba ngôi sao và một vạch ngang, địa điểm trường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Thật sự, anh ta cũng có vẻ ngượng khi Triệt hỏi gằn với cách mĩa mai: Mầy làm cái gì mà kỳ cục như thế nầy ? Ờ … ờ tại vì kỳ làm ở Phong Dinh, tao có vài liên hệ với họ nên bây giờ họ nói tao giúp trong buổi chuyển tiếp. Tôi đứng xa chỉ nghe Triệt đến kể lại. Thôi kệ nó, mầy và tao lần nầy lại ở chung với nhau như mười bốn năm trước trên trường Đà Lạt, chỉ khác bây giờ là trại tù Việt Cộng, đất trời tính ghê quá, con người không biết đâu mà lường. Ngày 23 tháng 6, 1975, chúng tôi vào trại Long Giao, Long Khánh, câu chuyện về một người gọi là “thiếu tá an ninh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mang lon thượng úy Cộng Sản ngồi ghi danh”, anh em không ai muốn nhắc lại – Vì hiện tượng phản trắc đã lộ mặt và cùng khắp. Tồi tệ hơn, những kẻ thay màu áo nầy hãnh diện với “sự nghiệp tráo trở của mình – thành tích “có công với cách mạng”. Chữ nghĩa được dùng với toàn bộ tính đê tiện khinh miệt nhất. Tôi và Triệt mất liên lạc với nhau khi chuyển ra Bắc, sau chuyến đi địa ngục trên tàu Sông Hương, khởi hành từ Tân Cảng, Sài Gòn, đúng Ngày Quân Lực 19 tháng Sáu, 1976. “Mười tám” năm sau, 1994, tôi và Triệt lại gặp nhau ở Houston, đường Beechnut. Hai chúng tôi đã thật sự ở tuổi già sau ba mươi năm “tuổi tù và tuổi lính”, nhưng Triệt vẫn giữ nguyên cách thẳng thắng mạnh mẽ của người miền Nam như đang kỳ trai trẻ. Lần gặp gỡ bắt đầu với câu hỏi gay gắt như đã chực sẵn từ lâu: - Mầy nhớ vụ thằng Chí khóa mình trình diện năm 1975 không? - Thằng Chí thiếu tá an ninh quân đội, cũng là thượng úy Việt Cộng chứ gì? Tôi cũng sẳng giọng không kém. - Hắn qua Mỹ rồi đó, HO, đi trước khi mầy ở tù về, bây giờ đang ở DC, kỳ đại hội Võ Bị tháng 7 vừa rồi, nó có mặt trong ban tổ chức!! - Mầy có giỡn không, nó là Việt cộng chính gốc, sao lại đi HO?! Câu chuyện được kể lại với những chi tiết bất ngờ, cho dẫu kẻ có trí tưởng tượng phong phú cũng khó lường phần bố cục. Bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 80, một số ít sĩ quan miền Nam thuộc những đơn vị chuyên môn như Hành Chánh Tài Chánh, Quân Cụ, Quân Nhu lần lượt được trở về chịu sự quản chế của địa phương. Khóa chúng tôi do một may mắn hiếm có (chỉ xẩy ra một lần với khóa 18), vào giai đoạn ra trường (cuối năm 1963), khi chiến tranh tăng cường độ, tổ chức quân đội mở rộng nên cần một số sĩ quan về các đơn vị chuyên môn. Những người may mắn nầy sau 1975 nhận thêm một lần “hên”, họ được thả sớm hơn so với những người bạn ở các đơn vị tác chiến, mà theo đánh giá của cán bộ cộng sản thì món “nợ máu của nhân dân” chia ra bốn cấp: “Nhất Pháo, nhì Phi, tam Rằn Ri, tứ Chính Trị” (ý nói, lính Pháo Binh, Phi Công, Biệt Kích, Nhảy Dù, Biệt Động, Thủy Quân Lục Chiến và Chiến Tranh Chính Trị là những đơn vị đứng hàng đầu tội phạm). Nhóm sĩ quan may mắn của khóa 18 kia vào ngay 23 tháng 11, 1981 (kỷ niệm ngày mãn khóa học mười tám năm trước, 23 tháng 11, 1963), tập trung tại nhà Nguyễn Ngọc Anh, biệt thự gia đình vợ, đường Pasteur cũ. Mười mấy anh, chị lôi thôi, tơi tả vì trận đòn thù từ 1975 đến nay vẫn chưa hồi tỉnh, tính sổ lại 198 mạng của ngày mãn khóa nay chỉ còn không tới 20, với 50 người tử trận vĩnh viễn không về, mươi kẻ tị nạn, vượt biên, số lớn còn lại hiện sống, chết không nên dạng người nơi các trại tù trong Nam, ngoài Bắc. Trong giây phút mừng tủi của lần hội ngộ, bỗng nhiên, Lưu Thừa Chí xuất hiện. Mọi người đồng im bặt. Sau cùng, có người gắng gượng hỏi: - Anh còn đến với chúng tôi làm gì? - Tôi cũng đi cải tạo như các bạn, ở trại Cây Trâm! Chí giả lả làm hòa, hắn đưa Giấy Ra Trại để làm bằng, và đề nghị được góp phần tiền lớn để cùng mua thức ăn, đồ uống về chung vui buổi họp mặt. Không khí hóa nặng nề, từng người lặng lẽ rút lui. - Mầy có mặt hôm đó không? Tôi nôn nóng hỏi Triệt, cố tìm nên đầu mối. - Có, năm đó tao mới về, về được một tháng thì Tết Tây. - Thế thì nó cũng đi tù như bọn mình sao? - Tù chỗ nào, sao mầy ngu vậy, thiếu tá An Ninh Quân Đội thì phải đi ra Bắc chứ; với lý lịch An Ninh Quân Đội thì chẳng phải cần đến cấp tá, chỉ thiếu, trung úy hoặc hạ sĩ quan nó còn tìm cớ để bắn chết không cần xét xử như ở trại Xuân Phước, Tiên Lãnh ngoài Trung. Thiếu tá An Ninh Quân Đội nào để lại ở trại Cây Trâm, Bình Dương như thằng nầy?! Triệt gắt cao giọng lộ vẻ bực tức vì tôi vẫn chưa rõ đầu mối câu chuyện. - Trại Cây Trâm ở đâu, ngày ở Long Giao không nghe ai nói đến. - Đó là trại tụi hình sự, cũng có sĩ quan, nhưng chỉ có cấp thiếu, trung úy, mà là thành phần gây vụ việc sau 1975, chứ không là đám tập trung tháng 5, tháng 6, năm 75 như bọn mình. - Rồi sao nữa? Tao ngao ngán. - Sao nữa, đ.m. nó đi HO trước hơn ai hết, kỳ đại hội 7 vừa rồi ở DC, nó góp 1000 đồng cho ban tổ chức. - Tiền đâu mà một thằng HO có ngay một ngàn để đóng?! - Mầy tìm nó mà hỏi!! Triệt gầm gừ chấm dứt câu chuyện với cách chưởi thề chậm rãi từng tiếng một. Những nhân sự như Lưu Thừa Chí kể trên sẽ mãi mãi ở trong bóng tối với khả năng tầm thường, đối tượng công tác hạn chế riêng của nó, và giá như bị phát giác (như đã từng bị nhận ra lý lịch), thì người quốc gia cũng chỉ giải quyết bằng biện pháp “đóng cửa dạy nhau”, coi như trường hợp “xử lý nội bộ” (nói theo cách Cộng Sản), bởi người phe Quốc Gia vốn dễ tính, không chấp nhứt đối với những kẻ tráo trở, bội phản, cũng do những kẻ nầy lỡ đã một lần là bạn bè cùng khóa, cùng hội, cùng trường. Nói ra sợ “xấu hổ cả đám”. Nhưng, vì năm 1994 kia, tôi mới qua Mỹ được mấy tháng, lòng còn đang sôi sục ‘những chuyện cần được kể lại”, với ý hướng “ngây thơ” – người bên ngoài cũng đang muốn nghe về những câu chuyện kia – dẫu những vụ việc nói ra gây nặng lòng, cau mặt. Ba mươi khóa Đà Lạt, trước và sau khóa 18 (khóa chúng tôi bao gồm Lưu Thừa Chí), không hề có trường hợp: Thiếu úy tốt nghiệp trường Đà Lạt được chọn đi ngành An Ninh Quân Đội ngay lúc mãn khóa. Bởi, sĩ quan ngành tình báo nầy phần đông, nếu không nói hầu hết do ngành an ninh tuyển chọn từ các đơn vị, được huấn luyện ở những trung tâm quân báo, tình báo trong nước và ngoại quốc, sau một quá trình sưu tra an ninh đặc biệt (thời Đệ Nhất Cộng Hòa, trách nhiệm sưu tra thuộc một bộ phận của Văn Phòng Nghiên Cứu Chính Trị của Cố Vấn Ngô Đình Nhu). Thế nên, sự kiện viên thiếu úy tên gọi Lưu Thừa Chí được tuyển chọn đi ngành An Ninh Quân Đội từ ngày 23 tháng 11, 1963, không thuộc thẩm quyền chỉ định của ban tham mưu Trường Võ Bị, cũng không thuộc Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH – Nó xuất phát từ cấp độ cao hơn. Cao đến chỗ nào, chúng ta không thể biết, cũng không hề có khả năng được biết những “bí mật quốc gia” từ Dinh Tổng Thống, Dinh Thủ Tướng, Bộ Quốc Phòng – Những bí mật hằng được đám tình báo chiến lược Việt Cộng nắm rõ đầu mối, ngọn nguồn. Chúng tôi không hề quan trọng hóa một sự kiện nhỏ nhặt, vì sau nầy, khoảng năm 1972, Chí để lộ cơ sở công tác: Y thả một nữ cán bộ Cộng Sản bị bắt giam tại Ty An Ninh Quân Đội Phong Dinh, âm mưu vỡ lở, Trung Tá Nguyễn Hữu Khiếu, tiểu khu phó thụ lý nội vụ. Chí cầu cứu Trung Tá Khiếu với lý lẽ: “Bị mê hoặc bởi sắc đẹp cô gái, chứ không phải do công tác nội tuyến”. Trung Tá Khiếu nay ở Montréal, kể lại câu chuyện nầy với Hội Võ Bị địa phương ngày 20 tháng 10, 1996, có cá nhân tôi tham dự. Năm 1960 1963, ông Khiếu là đại úy dạy vũ khí ở trường Đà Lạt. Do bản chất trung hậu, và cũng có phần tin, “Chí lỡ dại do dáng dấp quê kệch, xấu trai” nên ông Khiếu che chở Chí vì tình thầy trò ở giai đoạn 1972 kia. Nhưng, sau nội vụ, do từ một “gốc” lớn nào đó ở Sài Gòn lo an ninh, phản tình báo trong cộng đồng người Hoa. Lưu Thừa Chí cũng có thể đọc là Liêu thay vì Lưu, vốn giòng Minh Hương, người Việt gốc Hoa. II. VỤ THỨ HAI Năm 1957 – xin nhắc lại, trước năm 1975 mười tám năm trước, trước vụ việc Lưu Thừa Chí như vừa kể tren gần một thập niên – một thanh niên tuổi chưa tới hai mươi, lội sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Anh ta đến khai cùng đồn cảnh sát Gio Linh là em ruột của viên tướng tư lệnh quân khu 2, đóng tại Huế. Viên tướng cho người ra đón em, đem về hỏi lý do vượt tuyến. Anh thanh niên tỏ bày, vì có anh là tướng lãnh miền Nam, nên gia đình ngoai Bắc bị vây khổn chính trị ngặt nghèo, bản thân anh ta không được đi học và chịu cảnh sống cơ cực kinh tế, hoặc người anh cả (anh ông tướng) vốn là trung tá binh chủng phòng không không quân bộ đội miền Bắc, dẫu có công trận lớn vẫn không được thăng cấp. Được anh nuôi ăn học, người thanh niên sau bậc trung học, tình nguyện đi lính với hoài bão nói ra lời: “Cũng muốn được sự nghiệp vinh quang trong quân đội như anh”. Anh ta tốt nghiệp khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, đổi về binh chủng Hải Quân, Bộ Tư Lệnh vùng 4 Sông Ngòi ở Mỹ Tho. Những năm 70, anh lên thiếu tá, được mệnh danh là “VC killer”, do thành tích, cuối mỗi cuộc hành quân, anh kéo xác Việt Cộng sau tàu chạy dọc bến sông để biễu dương ý chí “chống Cộng”!! Những ngày cuối tháng 4, 1975, viên tướng cho người em út, phó quận hành chánh quận Tân Bình, Gia Định về Mỹ Tho, kêu vị thiếu tá “VC killer” về Sài Gòn để cùng gia đình lớn đi Mỹ. Thiếu tá “VC killer” mạnh mẽ khẳng định với người em: “Tui chỉ là thiếu tá, chú là Quốc Gia Hành Chánh, có gì mà phải sợ “cách mạng”, ông ấy là tướng mới cần đi Mỹ, còn chú với tôi thì ở lại “xây dựng đất nước”, hòa bình thống nhất rồi ta còn mong ước gì hơn”. Sau 30 tháng Tư, 1975, thiếu tá “VC killer”, người em quốc gia hành chánh đồng “hồ hởi, phấn khởi trình diện học tập cải tạo”. Người em vào trại Long Thành, Biên Hòa; thiếu tá “VC killer” ra trại 1, Đoàn 776, xã Việt Hồng, Hoàng Liên Sơn. Gặp tôi đi vác nứa giữa đường vào Cốc, thiếu tá “VC killer” đưa tay ngoắc thân ái và hỏi thăm về người em quốc gia hành chánh – cũng là em rể, lấy em gái tôi, Phan Ph. Kh. Một năm sau, khoảng mùa Hè 1977, một cán bộ mặc thường phục từ Hà Nội đến bộ chỉ huy đoàn 776, gặp viên chính ủy đoàn. Thiếu tá “VC killer” ra khỏi trại, về Ban-Mê Thuộc hành nghề giữ xe đạp với căn cước mới: “Thiếu tá ngụy quân học tập tiến bộ, trở về do chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng”. Chỉ có một điều không ghi vào lý lịch, ấy là, đối tượng công tác của thiếu tá “hải quân ngụy - VC killer” trong giai đoạn mới là những ai. Hoặc là thành phần “Fulro phản động đang âm mưu nổi loạn ở Tây Nguyên”, cũng có thể là đám cán bộ Cộng Sản mới được bố trí vào Tây Nguyên mà thành phần chưa đồng nhất, nên cần phải theo dõi, báo cáo công tác theo hệ thống riêng của Cục Bảo Vệ Chính Trị thuộc quyền chỉ huy trực tiếp duy nhất của Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng – Cơ quan bao trùm cả Bộ Nội Vụ, lẫn Cục Tình Báo Hải Ngoại. Thiếu tá “VC killer” hay người thanh niên vượt tuyến là Thái Quang Chức; người anh cả là Trung Tá Thái Quang Hồng, binh chủng Phòng Không Không Quân bộ đội miền Bắc; người anh thứ là Thiếu Tướng Thái Quang Hoàng, tư lệnh Quân Khu 2. Từ năm ấy đến nay, trên đất nước Việt Nam, nơi hải ngoại, hằng vạn, triệu người đã chết. Chỉ một số còn sống, nhưng vẫn “ - giữ nguyên bí số” - Những người như Thái Quang Chức, Lưu Thừa Chí và rất nhiều - rất rất nhiều nữa - những kẻ vô danh, tầm thường, chuyển công tác theo “hệ thống ngang – từ nhân viên Cục Bảo Vệ Chính Trị lên thành nhân viên Cục Tình Báo Hải Ngoại – dưới quyền chỉ đạo nhất quán thuộc “hệ thống dọc bất khả thay thế”: Ban Tổ Chức Trung Ương ĐCSVN. II. VỤ THỨ BA Bắt đầu mùa Hè năm 1990, chương trình ODP được thực hiện với đối tượng cựu tù nhân cải tạo qua kế hoach H (Chỉ danh nầy bị hiểu nhầm một cách có ý nghĩa thành HO), cá nhân tôi cũng nộp hồ sơ theo thủ tục chung tại Trung Tâm Xuất Nhập Cảnh 333, Nguyễn Trải, Sài Gòn (trước Tổng Nha Cảnh Sát đường Võ Tánh cũ). Sau thời gian chờ đợi, trung tâm trả lại hồ sơ với lý do: “trên chưa có quyết định về những trường hợp thuộc diện như cá nhân tôi”. Sau vài lần vượt biên không thành, hơn nữa các trại tỵ nạn cũng đang có kế hoạch đóng cửa, nhạc mẫu tôi thử cố gắng thêm một lần nhân chuyến ra Bắc thăm họ hàng, với đầu mối – Trung Tâm Trung Ương, Cục Xuất Cảnh, Bộ Nội Vụ, 40 A Hàng Bài Hà Nội. Trung tâm ra giá, 500.000 đồng tiền Việt, cụ tặng thêm 100.000 đồng cho nhân viên làm biên lai thâu nhận hồ sơ. Ngày hôm sau, trung tâm Hàng Bài trả lại hồ sơ với lý do tương tự của đường Nguyễn Trải. Cuối cùng, HĐ Ngoạn và PĐ Vượng, (hai người bạn thân, biết hầu hết nhân sự và vụ việc của Sài Gòn trước lẫn sau năm 1975, do đường giây giang hồ riêng) chỉ cho tôi đến địa chỉ 206 Nguyễn Trải, cạnh rạp chớp bóng Khải Hoàn, sát cổng xe lửa số 1. Cơ sở không bảng hiệu, nhân viên mặc thường phục đón khách với thái độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”. Mà quả thật như thế, người tiếp tôi bắt đầu với câu chào “anh Nam có mạnh khỏe không?” Anh ta đứng dậy, mở tủ, nói với vẻ tự tin: “Tôi biết anh nhiều lắm!!” Rồi anh cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Nhảy Dù cấp, Trung Tá Trần Văn Vinh ấn ký, với lời giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc đại đội 33 Tiểu Đoàn 3 Dù, và đơn vị cuối, Biệt Đội Quân Báo Điện Tử sư đoàn”. Nhưng, Trần Trung Phương không chỉ là “sĩ quan nằm vùng nơi Biệt Đội Điện Tử Sư Đoàn Dù”, mà còn là “nhân viên đặc vụ của sở phản gián Bộ Nội Vụ cộng sản”, nên anh ta đã có kết luận mau chóng: “Tôi có thể làm hồ sơ để anh ra khỏi nước trong vòng tám tháng là tối đa, gia đình anh tại Mỹ trả 2000 đô la cho người chúng tôi bên đó, và thêm một vài điều kiện khác .v.v”. Lẽ tất nhiên, tôi không thể thực hiện những đề nghị của Phương, từ 2000 đô la đến “những điều kiện khác”. Sau nầy, năm 1993, để giúp một người quen giải quyết một khó khăn tương tự, tôi đi tìm Trần Trung Phương ở địa chỉ mới, một văn phòng trong khách sạn góc đường Nguyễn Văn Trỗi (Cách Mạng cũ) và Trần Quang Diệu. Nhân viên văn phòng nầy cho biết Phương đã có mặt ở Nam Cali, vùng Westminter với nhiệm sở mới là một văn phòng dịch vụ du lịch. Những bãi đáp đổ quân, vị trí hỏa tập tiên liệu, toa độ dội bom B52 của Sư Đoàn Nhảy Dù trong chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719 đã bị quân báo cộng sản giải mã từ nhiều đầu mối. Một trong những đầu mối hiểm nghèo kia có sự tham dự rất tích cực và hiệu quả từ Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân của sư đoàn. Và tại cơ quan hành quân tối mật nầy đã không cần đến một “sĩ quan nằm vùng” với cấp bậc trung úy như Trần Trung Phương, nhưng chỉ cần một hạ sĩ quan vẽ phóng đồ hành quân – viên Hạ Sĩ Nhất mà tôi đã từng thấy mặt, luôn làm việc im lặng, chăm chỉ của phòng 3 khi đơn vị còn mang phiên hiệu Lữ Đoàn Nhảy Dù, năm 1963. Ngày 30 tháng 4, 1975 viên hạ sĩ quan nầy hướng dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Đoàn qua Camp Davis, Tân Sơn Nhất gặp cán bộ cộng sản để bàn giao hồ sơ trận liệt của đơn vị mà y đã lưu giữ, cập nhật từ mười, hai mươi năm qua. LỜI KHẨN CẦU VIẾT VỚI GIÁ MÁU Tôi đã quá tuổi để bắt đầu một dự định mới, cho dẫu kế hoạch dự trù ấy cần thiết, cấp bách đến bao nhiêu, bởi thời gian còn lại không cho phép và việc chưa hoàn tất lại quá nhiều – Nhưng tôi phải có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại điển hình như Lưu Thừa Chí, Trần Trung Phương, TQ Chức, những viên hạ sĩ quan, những công an cộng sản (đi theo diện “ghép” với những gia đình HO, ODP) như vừa kể trên (hiện tràn lan khắp cộng đồng Người Việt hải ngoại) – Một nhiệm vụ không thể trì hoãn và khoan thứ, vì đây không là sự việc “liên hệ giữa những cá nhân”, nhưng là sự tồn vong “sinh mệnh chính trị” của một tổng thể rộng lớn – Không phải chỉ khối Người Việt Miền Nam mà là toàn Việt Nam khổ nạn. Bởi chúng ta, người Việt Không Cộng Sản – không bao giờ là đảng viên cộng sản – đã lần lượt thua những trận quyết định liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc, lần tháng 8, 1945, và lần 20 tháng 7, 1954, và lần cuối cùng 30 tháng tư năm 1975. Và nếu hôm nay, chúng ta không điều chỉnh sách lược để nhìn rõ địch tình thì e rằng khí thế của lần Cali Vùng Dậy Cờ Vàng 1999, những Đêm Tuổi Trẻ Thắp Nến sẽ trở nên vô ích, gây tàn lụi nguồn hy vọng bức thiết từ Xuân Lộc, Long Khánh, Thái Bình. Chúng ta sẽ mãi mãi là “ Người Việt xấu xí” trước mắt thế giới do âm mưu từ một kẻ nội thù hiễm độc. Nhưng, cũng phải nói rõ thêm một lần hay bao nhiêu lần mới đủ: Đây là lỗi từ chúng ta. Cứ sẵn khắc nghiệt cáo buộc, chụp mũ, tranh chấp cùng nhau để rảnh tay cho kẻ thù, cũng đồng nghĩa vô tình tiếp tay kẻ nghịch, bức hại anh em – với “biện pháp cuối cùng và độc nhất” – cáo buộc người bạn của minh là “cộng sản”, do sau khi đã không tìm ra được nơi bạn mình một lỗi lầm nhỏ nhặt nào. Cuối cùng, chính bản thân ta đơn độc nguy khốn, vì lẽ đã tự tay phá hủy vũ khí đoàn kết của chính mình. Đau đớn bao nhiêu. Uất hận bao nhiêu.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:14:49 GMT 9
Sự Thật chỉ có Một tac gia: Phan Nhật Nam Lời người viết: Người Bạn Trần Phong Vũ đã viết đủ trong "Nghĩ về Nguyễn Chí Thiện" (NV số 8339 ngày 6 tháng 10/2008), nhưng Trần Huynh chưa đề cập đến những "chung quanh, đằng sau Nguyễn Chí Thiện", bài nầy vì thế được viết nên. Xin lỗi với Quý Độc Giả nếu phải đọc lại thêm một lần những nội dung về người/việc mà bài viết của Trần Phong Vũ đã nêu ra. Tất cả chỉ do ý hướng muốn nói rõ ra sự việc mà thôi. Trang trọng. PNN.Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện I. Diễn tiến tổng quát: Tình hình sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội vùng Nam Cali lâu lâu bùng vỡ một vài sự kiện bất thường có tính cách định kỳ, và điểm rõ nét nhất có thể kết luận đối với loạt hiện tượng nầy là tính dân chủ của những hình thức sinh hoạt ấy – Người Việt tự do bày tỏ ý kiến của mình về người/việc xẩy ra trong cộng đồng hải ngoại – Tốt, xấu chúng ta chưa thể đánh giá, chỉ biết đấy là một hiện tượng thường trực, chung nhất. Khởi đầu từ tháng 9 và hiện đang kéo dài,.. một nhân vật đã gây nên bàn cãi qua các diễn đàn trên hệ thống Internet mà danh tính xuất hiện thường xuyên trên trang nhất (và chiếm toàn phần 2, 3 trang trong) của Báo SàigònNhỏ (Nhật báo lẫn Tuần báo) đấy là Nguyễn Chí Thiện. Trước và song song với vụ việc nầy, ông thường có mặt nơi các diễn đàn, hội thảo chính trị.. Trở nên là đối tượng nhận được sự hoan nghêng, chào đón nồng nhiệt, lâu dài nhất so với những nhân vật được đám đông biết đến (cho dù là công dân, viên chức của VNCH) suốt từ thời gian ông đến đất Mỹ, 1995 đến nay, 2008. Nhưng đồng thời cũng gặp phải những chống đối do từ những cá nhân, tổ chức khác - Diễn tiến chống đối nầy có thể tóm tắt theo thứ tự giai đoạn và mang những hình thái, lý do như sau: 1. Giai đoạn 1995-1996: Sự chống đối, phủ nhận đầu tiên khởi từ người, tổ chức của báo Vạn Thắng (Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh, Washington DC giữ chức chủ nhiệm); hoặc những người viết như Duy Xuyên (Houston, Texas) với những lý do: 11. Nguyễn Chí Thiện có mặt nơi đất Mỹ (từ 1/11/1995) kia là một "cán bộ (tình báo) cộng sản" giả dạng. Người và tổ chức kể trên "khẳng định": Có một Nguyễn Chí Thiện "thật", tác giả tập thơ Vô Đề/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực/Hoa Địa Ngục, nhưng người ấy đã bị (cộng sản) giết chết trong trại tù ở miền Bắc Việt Nam, và Nguyễn Chí Thiện "giả" hiện nay thay thế. 12. Tập thơ mang những tiêu đề khác nhau: Vô Đề/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực/Hoa Địa Ngục.. trên có xuất xứ (từ tinh thần và nội dung) của Huyết Hoa, Đạo Trường Ngâm của Nhà Cách Mạng Thái Dịch Lý Đông A - Nguyễn Hữu Thanh (không rõ năm sinh), nhân vật lịch sử đã gia nhập tổ chức Phục Quốc của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để; thành lập Đại Việt Duy Dân tại Trung Hoa, 1941-1942; bị cộng sản giết năm 1946 cùng lần với nhiều thành viên Duy Dân. Phong trào còn lại những cán bộ cốt cán: Phạm Xuân Ninh, Giám đốc Thanh Niên Thể Thao Bắc Việt (1947); Lê Quang Luật, Đại Biểu Chính Phủ (1954); Nghiêm Xuân Thiện, chủ nhiệm báo Thời Luận (Sàigòn, 1963); Ngọc Hoài Phương, Chủ Nhiệm Báo Hồn Việt (CA) hiện nay lúc ấy giữ nhiệm vụ thư ký tòa soạn. Cao điểm của tố cáo nầy là một bài viết của Giáo sư Trần Ngọc Ninh đăng trên báo Vạn Thắng về sự mạo danh của NCT (dụng thơ của họ Lý). Sau đó, giáo sư TNNinh có lời đính chính về sự nhầm lẫn của mình. 13. Nhóm nầy đánh giá, Hoa Địa Ngục II (Hạt Máu Thơ), US.1996 chỉ là những "bài vè" (cốt để ) nối kết giòng thơ "đánh tráo, giả danh" kể trên #12 Chúng tôi gọi nhóm nầy là "Nhóm chống đối/Lý Lịch/Chính Trị/Văn Học". 2. Giai đoạn 2001-2008. Sau một thời gian im lặng khi báo Vạn Thắng không còn hoạt động, những thành viên gốc quân đội (Bạn thân, cùng khóa sĩ quan, cùng đơn vị nhảy dù với người viết-PNN) dần rời bỏ tổ chức. Những năm 2001, 2006.. vấn đề NCT dần trở lại khi ông ra mắt Hỏa Lò (Tập Truyện, NXB Cành Nam, TH/XB/MĐHK, VA, US. 2001), và quan trọng hơn là Hoa Địa Ngục Toàn Tập (NXB Cành Nam, TH/XB/MĐHK, VA, US.2006). Lần nầy, phía chống đối tấn công với ý hướng mới: Chấp nhận có một Nguyễn Chí Thiện "thật" do, từ lý lịch gia đình, cá nhân, nhưng vẫn không là "Nguyễn Chí Thiện thật của Hoa Địa Ngục (I) – Và thời điểm, sự kiện đưa tập thơ Vô Đề/Hoa Địa Ngục vào Sứ Quán Anh ngày 16/7/1979 cần phải được xác chứng lại để minh định: Ai là tác giả đích thực của những giòng thơ bi tráng hào hùng kia. Hoàng Dược Thảo đối chất với Nguyễn Chí Thiện trong cuộc họp báo chiều ngày thứ Bẩy 25/10/2008 tại phòng hội khách sạn Ramada, 10022 Garden Grove Blvd, Garden Grove, CA 92843, USA, Photo Jean Libby Năm 2008 vấn đề trở nên quan trọng hơn qua loạt bài của người viết tên là Trần Thanh, phổ biến trên hệ thống NET và gởi đến tòa sọan SGN (Garden Grove, Ca) khiến Chủ biên Hoàng Dược Thảo chú ý, dẫu "không hiểu tại sao có hiện tượng (xét lại thật hay giả)" nầy - Đào Nương, Những điều nên nói "Chuyện Dài..Ông Nguyễn Chí Thiện", SGN số #14; 9/4/2008. Từ khởi đầu "không biết từ đâu" của ngày (9/4) trở thành biếm nhẻ "Thi Sĩ hay "Vè Sĩ" qua bài viết của Triệu Lan mà người chủ biên dẫu "không biết rõ xuất xứ" nhưng đánh giá, "những dẫn chứng (của người viết nầy-TL) thì rất xác đáng và hiện thực". Và mong nhận được bài trả lời của ông NCT – Một người mà Đào Nương không xa lạ và (không) ác cảm gì. Báo số #21; 9/13. Sự cáo buộc không ngừng ở phạm vi chữ nghĩa (Thi sĩ/Vè sĩ -Thơ hay/Thơ dở), tiến tới đánh giá tư cách, tính hạnh của người gọi là "Thi sĩ/Vè sĩ" kia với xác định: "ông Nguyễn Chí thiện là một người gian dối, không lương thiện"; "Thi sĩ/Vè sĩ" thật chân tướng là "Láo Sĩ". SGN số #32; ngày 9/28. Và cuối cùng, qua bài viết liên tiếp trong những số báo 32, 33, 34, 35, 36, 37.. với lời mời (mang nội dung, tinh thần có tính cách bắt buộc): Ông Nguyễn Chí Thiện (phải) chấp nhận một cuộc "giảo nghiệm chữ viết" để làm sáng tỏ một "Nghi Án Văn Học" – Ai là tác giả thực sự của Vô Đề/Hoa Địa Ngục/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực – Tập thơ mà ông Nguyễn Chí Thiện ("thật" của hôm nay) đã đưa vào Tòa Đại Sứ Anh tại Hà Nội ngày 16/7/1979 mà hiện đã được Bộ Ngoại Giao Anh hoàn trả (Tổng Thư Ký Đinh Quang Anh Thái, Việt Tide, Westminster, Ca mang lại tại địa chỉ 4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 trao tận tay cho Ông Nguyễn Chí Thiện –PNN). Cuối cùng, vấn đề được bạch hóa không phải là văn học, thơ phú nữa, Nguyễn Chí Thiện "hiện nguyên hình với dấu ấn trên trán "Made in Yết Kiêu –Triệu Lan; SGN # 257; 10/4" – Có nghĩa, NCT là một cán bộ tình báo cộng sản được huấn luyện ở Trung tâm phản gián Yết Kiêu, Hà Nội. Hơn thế nữa, anh ông Thiện, Trung Tá Nguyễn Công Giân, Phòng II/BTTM/QLVNCH theo phát hiện "mới nhất" đã đi Hà Nội hai lần, 1958 và 1972 (ĐN, SGN # 37; 10/4). Và toàn bộ bài viết về, của NCT.. "sáng hôm nay (10/5) trên Web Site của giáo sư Dan Ruffy (ĐH/Yale), và giáo sư Jean Libby (ĐH/Berkely) đã bị xóa đi.. NCT hẳn đã biết số phận mình sẽ ra sao vì, "tôi (ĐN) nghĩ giới hữu trách Hoa Kỳ đã biết ai là giả ai là thật rồi.." (Bold, Italic trong nguyên bản). Ông Nguyễn Công Giân (trái) Song song cùng lần với vụ việc (nêu trên) của SGN, có những bài viết khác trên hệ thống NET (tháng 8, 9/2008) điễn hình với Tôn Nữ Hoàng Hoa (Texas), Thế Huy (Pháp).. qua phân tích kỹ thuật làm thơ, tu từ, tượng trưng, hư cấu của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Địa Ngục (I), so với Hoa Địa Ngục (II, Hạt Máu Thơ).. Những người nầy đồng kết luận: Nguyễn Chí Thiện "thật" đang hiện diện (giữa cộng đồng) nhưng không thể là "tác giả của Hoa Địa Ngục (I) – Tác phẩm nầy "phải" là của một tác giả Vô Danh. Chúng ta có thể gọi khuynh hướng chống đối trên đây là: "Nhóm chống đối/Văn Học/Chính Trị". 3. Nhóm chống đối/Thuần túy chính trị. Ngoài hai nhóm chống đối kể trên, có những người viết khác, như Nguyễn Văn Chức (Houston, Texas); Đặng Văn Nhâm (Đan Mạch).. cũng thường xuyên nhập trận với những phê phán nặng nề về quan điểm, thái độ, hành vi chính trị của NCT. Những tác giả nầy không chú ý đến yếu tố lý lịch cá nhân, những nội dung (thơ, truyện) do NCT viết nên nhưng đồng có chung một quy kết nhất định (bất khả tương nghị): Nguyễn Chí Thiện là cán bộ "cộng sản nằm vùng", hoặc là một tên "trá hàng" trong hàng ngũ cộng đồng người Việt hải ngoại do Hà Nội bí mật gài vào qua thủ tục nhập cư hợp pháp ở Mỹ. Cách quy chụp nầy không trưng một bằng chứng cụ thể nào, thiếu tính lý luận, cố ý tấn công, mạt sát cá nhân NCT nên chúng tôi sẽ không đề cập trong bài viết nầy. Tóm lại, do có những quan hệ cụ thể (tinh thần và vật chất) với Nguyễn Chí Thiện trong một thời gian gian dài (từ 2001), và nay ông ta đã rời khỏi nơi trú ngụ chung (4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 từ7/2008), nên chúng tôi nhận thấy đã đến lúc có đủ yếu tố khách quan để khỏi mang tiếng "cố ý bênh người cùng nhà" – Đồng thời cũng do quan niệm "phải nói lên những điều nên nói.." như báo Sàigòn Nhỏ hằng chủ trương thực hiện giữa "Người Việt Nam không cộng sản". Lời cuối cùng, dẫu có thể dư thừa nhưng cũng phải xác định thêm một lần: Chúng tôi không ám chỉ, quy chụp những đối tượng nhắc đến trong bài viết là "cộng sản/cộng sản nằm vùng/ tay sai cộng sản" như thói quen quy kết, chụp mũ rất đáng chê trách trong cung cách sinh hoạt chính trị thiếu tính dân chủ và lòng tự trọng (trọng mình và trọng người) thường xẩy ra giữa những cá nhân/tổ chức người Việt".. Mà chỉ do nhu cầu cần làm sáng tỏ những vấn đề từ những cá nhân/cơ quan nầy đặt nên. Chúng tôi không thực hiện lần "binh hay chống" một cá nhân tên gọi Nguyễn Chí Thiện – Nhưng xử dụng chữ nghĩa, tài liệu (hiện có) để trình bày về Một Sự Thật – Và Sự Thật luôn là điều Hợp Lý. Và thật lòng mong muốn sau bài viết nầy; lần trình chiếu hai Talk Show của Chu Tất Tiến (đã thâu hình) trên hệ thống SBTN (Đề cập đến người/việc liên quan sự kiện NCT); lần hoàn tất thủ tục Giảo Nghiệm Chữ Viết do Chuyên Viên Giám Tự dự trù (nếu được) thực hiện giữa Ông Nguyễn Chí Thiện và Báo Sàigòn Nhỏ - Vấn đề ắc sẽ có một kết luận chung nhất, cuối cùng - Nguyễn Chí Thiện, Ông là Ai? Ai là Thực Tác Giả của tập thơ Vô Đề/Hoa Địa Ngục (I)/Tiếng Vọng Từ Đáy Vực?Lần đưa tập thơ vào Tòa Đại Sứ Anh (16/7/1979) đã (thực) xẩy ra như thế nào? Và tại sao ĐÃ xẫy ra hiện tượng chống đối hôm nay? Tất cả để dồn sức mạnh tổng hợp của Cộng Đồng Hải Ngoại vào những mục tiêu: Hệ thống gọi là cộng sản hiện cầm quyền tại Hà Nội (qua hiện tượng đàn áp Khu Nhà Chung Thái Hà); Và cấp thiết hơn nữa là sự đe dọa (rất có khả năng ) đến từ Bắc Kinh với đất, biển quê hương càng ngày càng bị đe dọa, thâu hẹp lại.. Mong lắm thay. Translator Huỳnh Sanh Thông and poet Nguyễn Chí Thiện at their only meeting II. Nguyễn Chí Thiện, Người Có Thực giữa những người chịu khổ nạn không chấp nhận chế độ cộng sản 1. Về lý lịch, gia cảnh: 11. Nguyễn Chí Thiện, sinh năm 1939, chánh quán Thôn Thượng Thọ, Xã Mỹ Thọ, Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam, con Cụ Đồ Nguyễn Công Phụng. Điều nầy được xác nhận không phải ai khác mà là chính người đã mạt sát NCT thậm tệ qua bài đăng trên NET ngày 4/10/08 - Đặng Văn Nhâm: "Đúng, tên Nguyễn Chí Thiện là thật, thật 100%.. Nhưng.." ĐVNhâm xác nhận với Nguyễn Thanh Hùng (Dallas, TX), người thân cận "mầy tao chi tớ" với ĐVN, cũng là người cùng quê với NCT từ tấm bé. Xác nhận còn nói rõ: "Nó (NCT) thua mầy với tao sáu tuổi (Sinh 1939- pnn)". NCThiện và NTHùng vẫn giữ nguyên liên lạc (qua điện thoại), hoặc gặp mặt (Lần NCT ra mắt sách Hỏa Lò tại Hội Quán Little Sàigòn, 5/2006). NTHùng là người đọc bài văn tế Chiến Sĩ Trận Vong trong buổi lễ Ngày Tù Nhân Chính Trị VNCH tại Dallas, 4 tháng 10, 2008 vừa qua. 12. NCT sinh tại Phố Lò Đúc (Hà Nội), năm 1957 theo gia đình dọn hẳn về Hải Phòng. Nhưng không phải chỉ đến 1957 NCT mới đi Hải Phòng, cuối năm 1954 đã một lần xuống đấy để đưa người bạn thiếu thời đi Nam: Nguyễn Ngọc Bội (Giáo sư văn hóa Võ Bị Đà Lạt trước 1975); hiện ngụ tại Westminster, CA. 2. Về liên hệ nơi trại tù: 21. Đợt tù đầu tiên (1961-1964/Trại Phú Thọ) do Án Lệnh Tập Trung Cải Tạo (Ba năm/Một lệnh tập trung) bắt đầu áp dụng cho toàn Miền Bắc (vẫn tiếp áp dụng cho cả nước sau 1975) từ Sắc Lệnh "An Ninh Tổ Quốc" - Biện pháp chuyên chế (bắt giam người vô thời hạn không cần án lệnh của tòa) được thi hành sau Đại Hội 3 Trung Ương Đảng (5/1960), tiến tới lần thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/11/1960). Lần đi tù nầy gặp Nguyễn Văn Phổ (Con Cụ Nguyễn Văn Vĩnh – Một trong bốn nhà văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ: Phạm Quỳnh-Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Duy Tốn-Nguyễn Văn Tố); Trần Thiếu Bảo, NXB Minh Đức, Hà Nội, nhà in ấn hành Nhân Văn-Giai Phẩm. Buổi tâm tình với Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện tại Sydney. 22. Lần tù thứ hai (1966-77/Phần lớn thời gian bị giam ở Trại Thanh Phong, Yên Bái), chung với các bạn tù: - Cụ Vũ Thế Hùng (Nhân sĩ Hà Nội trước 1954); thân phụ Linh Mục Vũ Khởi Phụng (hiện tại là một trong những vị chủ chăn ở Thái Hà); Bà Vũ Triều Nghi (hiện là cư dân San José, Ca). Bà VTNghi đã về VN sau 1991 thăm cụ VTHùng, gặp NCThiện, Phùng Cung. - Các bạn văn, Phùng Cung, Vũ Thư Hiên (Tù miền Bắc thuộc diện "chống đối văn hóa") - Các biệt kích miền Nam, Nguyễn Hữu Luyện, Đặng Chí Bình, Lưu Nghĩa Lương, Lê Văn Bưởi (người biệt kích kiên cường vượt sông Bến Hai ra Bắc từ 6/1961).. Những người thuộc "Nhóm BK – đọc là Bê-Ka/Biệt Kích" sau 1977 chuyển về Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa (Tại trại nầy, người viết (pnn) lần đầu nghe chuyện kể về NCT: "Đi tù do tội bị "nghi" làm thơ chống đối chế độ (Diện văn hóa)"; chưa có vụ việc đưa thơ vào Toà Đại Sứ Anh, 16/7/1979 – Pnn". Buổi Hội Ngộ Biệt Kích Quân (7/7/2007) tại nhà hàng Emerald Bay (Fountain Valley, Ca), NCT được mời phát biểu về Tinh Thần/Khí Phách của Người Lính Biệt Kích (DVD Đại Hội Biệt Kích ND), ngồi cùng bàn khách danh dự với các ông Vũ Quang Ninh, Nguyễn Hữu Luyện. BK/LNLương (hiện ngụ tại 4117 McFadden, Santa Ana 92714 # 19) vẫn thường giúp đở, đưa đón NCT trong các sinh hoạt hằng ngày do quý trọng phẩm chất, tư cách của NCT thực chứng nơi trại giam từ 30 hơn năm trước. 23. Lần đi tù thứ ba (1979-1991). Lần đi tù nầy chuyển qua nhiều trại: Hỏa Lò (Hà Nội);Thanh Phong, Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Thanh Liệt (Hà Đông).. Tại trại Ba Sao (Nam Hà), Hà Nam Ninh, NCT ở tù chung với Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Cha Lý chuyển đến trại nầy ngày 8/1/1988 từ trại Thanh Cẩm chung cùm tay (hai người một cùm) với người viết-Pnn) 3. Về diễn tiến thủ tục nhập cư vào Mỹ: 31. 11/1995, Nguyễn Chí Thiện đến Mỹ do vận động của Bác Sĩ Norobu Masuoka (Hiện ở San José, Đặc phái viên của chính phủ Mỹ phụ trách những tù nhân đặc biệt), người đã thành công đưa được Thiếu Tá Nguyễn Quý An, (phi công trực thăng bị thương nặng mất hai tay khi cố cứu viên phi công Mỹ); nhà văn Đặng Chí Bình qua Mỹ trong dịp Tết 1993/1994. Đặng Chí Bình, điễn hình thành phần biệt kích bị bắt trước 1968 (không được trao trả theo điều khoản của Hiệp Định Paris 1973 vì khi xâm nhập ra Bắc họ phải giải ngũ khỏi QL/VNCH) chỉ đến Mỹ được bởi kết quả từ vận động nầy (Trước đợt vận động quy mô của Sedgwick Tourison để đưa toàn bộ Biệt Kích Quân VN qua Mỹ). Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và sinh viên Đại học Berkeley, 1.11.2007 Nhà văn Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Chí Thiện tại cầu Golden Gate 32. Hồ sơ nhập cư INS do người anh ruột thiết lập - Trung Tá Nguyễn Công Giân, Sĩ Quan Quân Báo/Phòng II/BTTM/QLVNCH, Khóa 4 Thủ Đức (1954) - Cùng khóa với Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (NCT cùng người anh thường đến thăm viếng thân hữu trung tướng khi người còn sinh tiền); gia đình Trung Tá Giân hiện ngụ tại 11XX Alabama, Hendron, VA 20170. Từ những yếu tố khách quan, cụ thể kể trên kéo dài từ năm sinh 1939 dài đến hôm nay (2008) với chứng kiến/sống cùng của những bạn hữu thời thơ ấu: Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Ngọc Bội; những bạn văn: Phùng Cung, Nguyễn Hữu Đang, Vũ Thư Hiên; bạn tù: Phan Hữu Văn, Vương Long, Kiều Duy Vĩnh (Sĩ quan Quân Đội Quốc Gia bị tập trung cải tạo sau 1954 ở miền Bắc); Nguyễn Hữu Luyện, Lưu Nghĩa Lương, Đặng Chí Bình.. (Biệt Kích VNCH bị bắt trước 1975); LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Lễ (Những người tù lương tâm miền Nam bị tù sau 1975).. Và trong thời gian 13 năm nơi hải ngoại (tính đến tháng 8/2008) giữa cộng đồng Người Việt khắp trên thế giới, với những nhân vật thuộc giới văn hóa, chính trị toàn cầu – Nguyễn Chí Thiện thật sự (đầy đủ) xác chứng với chúng ta – Ông là một điển hình của Lương Tâm, Bản Lãnh Việt Nam tranh đấu cho Tự Do và Dân Chủ. Cuối cùng, nếu như những yếu tố trên chưa thuyết phục được sự công nhận về chứng chỉ, lý lịch, việc làm của Nguyễn Chí Thiện, chúng tôi xin trình bày biện pháp, yếu tố pháp lý, sự kiện thực tế hầu có kết thúc quyết định vấn đề nầy. - Xin thông báo đến đến cơ quan FBI về lần nhập cư bất hợp pháp của một "cán bộ (tình báo văn hóa) cộng sản" giả danh Nguyễn Chí Thiện, vì luật pháp Mỹ vẫn còn rất nhiều ràng buộc đối với đảng viên đảng cộng sản khi nhập cư, lúc thiết lập chứng chỉ Thường Trú Nhân, khi tuyên thệ vào quốc tịch. Trong những ngày tới, chúng ta, cư dân tỵ nạn cộng sản của Tiểu Bang California sẽ chuẩn bị đối phó với Dự Luật SB 1322 nhằm hũy bỏ những điều khoản "Cấm hoạt động cộng sản trong trường học." - Giáo sư Jean Libby, Đại Học Berkely (CA) đã hoàn tất phần giảo nghiệm hình ảnh của Nguyễn Chí Thiện qua so sánh giữa những bức hình: Một của Nguyễn Chí Thiện tuổi thanh niên (Phụ bản bìa tập thơ Hoa Địa Ngục I) và những ảnh chụp năm 2006 do chính bà bấm máy. Bản kết quả giảo nghiệm thực hiện bởi Viện Giảo Nghiệm Stutchman, 421 Walnut Street, #120, Napa, CA 94559 kết luận: "Có 8 điểm dị biệt đặc thù phân bố trên mặt và trên tai của người đàn ông trong hai tấm hình #1 và #2 và hình in trên bìa sách. Căn cứ trên sự xét đoán, so sánh, và phân tích của bản thân cá nhân, thì tôi có nhận định rằng: Người đàn ông trong những tấm hình chỉ là một người". Chúng tôi đính kèm bản văn kết quả giảo nghiệm (Phụ bản 1). Về những tấm hình giảo nghiệm, NCT sẽ trình bày trong một cuộc họp báo chính thức trong ngày gần đây -PNN. Báo cáo pháp lý về căn cước của Nguyễn Chí Thiện, tác giả Hoa Địa Ngục Cuộc giảo nghiệm do đích thân giáo sư Jean Libby lập thủ tục tiến hành (3/8/2006), vì dẫu rất mến mộ tư cách cá nhân cũng như tài năng của NCT nhưng do tinh thần làm việc thực tế, chính xác của người Mỹ, bà muốn có bảo đảm về lý lịch Nguyễn Chí Thiện (nhỡ sau nầy có những tranh tụng về pháp lý – Như hiện nay đang xẩy ra với vụ việc SGN) trước khi Đại Học Yale tiến hành việc in Hỏa Lò dịch sang Anh Ngữ. Cũng bởi, người Mỹ với tính thuần lý và tâm lý thực tiễn, họ không nghĩ một con người như thế mà sống sót sau 27 năm tù.. Lại là tù cộng sản Việt Nam, mà không những chỉ sống sót mà còn viết văn, làm thơ. Nghi ngờ cũng hợp lý đối với những người (dẫu) có hảo ý khác. Và nếu người viết không lầm đó cũng là ý hướng đầu tiên của Báo SàigònNhỏ với Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo, nhưng qua đến tháng 10/2008 vấn đề tập thơ và sự việc đã được (hay bị) đẩy đi quá xa theo một hướng khác. Chúng tôi trình bày tiếp theo sau.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:16:10 GMT 9
III. Nguyễn Chí "Thật"/Sống Sót và Nguyễn Chí Thiện "Giả"/Thơ Văn
Khi bắt đầu bài viết, chúng tôi có ý nghĩ, sự việc sẽ được giải tỏa toàn diện khi NCT trình bày bản thảo viết tay (mà bản thân đã xem qua tại nhà riêng, 4117 McFadden #410, Santa Ana trước ngày ông Thiện dọn ra) nhận được từ tay Đinh Quang Anh Thái (7/2008) trước một cử tọa đông đảo thuộc giới truyền thông báo chí (lẽ tất nhiên có tham dự của SGN). Ý nghĩ nầy càng thêm cụ thể khi bài viết của Tràn Phong Vũ được phổ biến (Người Việt, 10/6; trên hệ thống NET, 10/4).. Nhưng sự việc không còn giới hạn trong phạm vi thơ văn nữa (Về vấn đề "Ai là tác giả "thật" của Thơ Vô Đề") mà đã qua một lĩnh vực khác với những khẳng định về tư cách, hành vi chính trị của NCT với những phát hiện mới của SGN (ĐN (nt, #37). Bài viết nầy cần phải viết thêm phần ba để nêu rõ hơn về diễn tiến của Người (NCT) và Việc (Thơ Vô Đề). Nếu những luận cứ cáo buộc trình bày sau đây mâu thuẫn với nhau (Thật/Giả chen lẫn) là do: 1/Những người (tố cáo) viết nhiều "nội dung/cách thức" khác (biệt) với nhau cho dù cùng nhắm đến một đối tượng duy nhất: NCT và Tập Thơ Vô Đề. 2/Bài họ viết tại những thời điểm khác nhau. 3/Những người nầy trích giải "Thơ Vô Danh/Vè NCT" do những mục đích khác nhau. Chúng tôi (PNN) chỉ là người ghi lại.
Sau đây là những cáo buộc căn cứ từ lời Thơ (Có lúc được xem như là "thật" của NCT; có lúc được gọi là của Vô Danh) Tất cả đồng có mục đích chung kết với ba cáo buộc (không rơi vào một trường hợp nầy thì (phải) rơi vào một "xác định" khác): 1/Đấy là một Nguyễn Chí Thiện "giả". 2/Nếu là Nguyễn Chí Thiện "thật" thì (lại) mang tội dùng Thơ "thật" của Vô Danh. 3/Nếu là thơ "thật" của NCT "thật" thì thơ đó (phải) gọi là "Vè" Tóm lại NCT (hiện sống) trước sau chỉ là một "cán bộ tình báo cộng sản trá hình", làm vè cốt để đóng trọn vai trò của một "Thi Sĩ tên gọi Vô Danh (?) kiên cường chống cộng mà nay đã bị giết chết/hoặcbiến mất đâu đó từ một lúc nào không ai xác định (1979?) – Một thi sĩ có ba điều Không: Không tính danh/Không xuất xứ/Không có liên hệ với bất cứ ai đang còn sống, đang viết báo"
Chúng ta cùng lượt qua những luận cứ cáo buộc.
31: Cáo buộc thứ nhất về xuất xứ: Báo Vạn Thắng (Lê Tư Vinh Chủ nhiệm), thời điểm 1995, 1996 cho rằng, Nguyễn Chí Thiện là "cán bộ tình báo cộng sản giả dạng" mạo Thơ Huyết Hoa, Đạo Trường Ngâm của Thái Dịch Lý Đông A. Cáo buộc nầy không thể đứng vững vì Nhà Cách Mạng Lý Đông A bị cộng sản giết từ 1946. Thơ của họ Lý mang không khí lãng mạng, hùng tráng cổ điển: Ta về đây đứng bên bờ thác Nậm. Mặc heo may hun hút gió hờn oan.. Thơ ("tạm" gọi là) của NCT thì đề cập đến thời sự: Khi Mỹ chạy bỏ Miền Nam cho cộng sản.. Cả nước thu về một mối. Một mối hận thù. Một mối đau thương (1975). Hoặc miêu tả thực tế đời sống lao tù: Thơ của tôi không phải là thơ.. Tiếng cửa nhà giam đen ngòm khép mở.. (1970)
32: Cáo buộc thứ hai về thể chất: Thơ (cứ xem như "thật" của NCT) nhưng lại không phù hợp với thực tế thể chất của NCT (hiện sống): Thơ của tôi không có gì là đẹp.. Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao.. Căn cứ vào những giòng thơ nầy, có những tố cáo từ nhiều người: 1/TNHHoa (Houston, TX): Nguyễn Chí Thiện không ho lao, NCT khoẻ mạnh, béo tốt.. 2/Trần Thanh: Nghi vấn về sức khoẻ (Ông Thiện dỏm rất khoẻ mạnh chớ không bị ho lao..) ĐN trích đăng NĐNN: SGN số # 14; 9/4). 3/Triệu Lan: "thi sĩ, văn sĩ, vè sĩ" Nguyễn Chí Thiện "mang bệnh" ung thư phổi, ho lao, ung thư và bị "tù" 27 năm.. nhưng khi NCT bước chân xuống Hoa Kỳ ngày1/11/1995 trông Thiện phương phi, khoẻ mạnh, với y phục thời trang veston, áo pullover.. như một "lãnh tụ" phường tuồng.. (SGN # 527; 10/4).. Chúng tôi có thể trích dẫn thêm nhiều cáo buộc về "thể chất" về NCT "dỏm" nữa, những nghĩ đã đủ.
Những suy diễn cáo buộc trên không đúng vì: 1/NCT thật có bị bệnh phổi nhưng ĐÃ CHỮA TRỊ XONG cơ quan IOM mới cho nhập cảnh Mỹ. Y chứng NCT còn sẹo ở phổi, phải chữa trị tiếp trong thời gian ở DC (1995/1996). 2/Những từ ngữ "trào máu; ho lao; gông cùm; cùm kẹp.." thường dùng để chỉ tình trạng tồi tệ về thể chất bị đầy ải mà bất cứ ai khi mô tả, nói về ngục tù cộng sản cũng đều xử dụng đến. 3/Thơ không là hồ sơ y bạ, tiểu thuyết cũng thế.. Nhất Linh viết Bướm Trắng với nhân vật chính bị bệnh lao không bắt buộc văn hào họ Nguyễn phải có bịnh phổi. Thanh Tâm Tuyền viết Ung Thư; Solzhenitsyn viết Cancer Ward.. Họa chăng chỉ riêng trường hợp Hàn Mặc Tử với căn bịnh nan y của ông. Quách Thoại chết năm 28 tuổi (1957) vì bệnh lao, nhưng nào có viết một câu thơ liên quan đến máu me mà chỉ viết nên những lời thơ hùng tráng: Trước mặt là cộng sản. Sau lưng là nội thù. Một mình tôi đứng giữa..4/Thơ (tiểu thuyết cũng thế) không bắt buộc phản ảnh đúng tình cảnh, sinh hoạt thực tế vật chất, tinh thần của người viết nên những nội dung văn, thơ ấy.. Tìm đâu ra một một người gọi là Từ Hải như Nguyễn Du mô tả: Râu hùm hàm én.. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.. Nguyễn Du lại càng không phải dạng hình hùng vĩ nầy. Vũ Trọng Phụng là nhà văn mực thước, cổ điển, ông không dính dấp gì đến những nhân vật quỷ quái của Số Đỏ. 5/Nguyễn Chí Thiện không là người "khoẻ mạnh, phương phi".. Những tỉnh từ nầy phải kể về Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (tù 21 năm, 4 tháng, 14 ngày); tù hơn 16 năm: Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo, Trung Tá Tình Báo Trần Duy Hinh (Hãy nhìn Nhà Văn Thảo Trường, chiến hữu rất đáng hãnh diện của tất cả Người Lính VNCH. Không ai có thể nghĩ rằng đấy là người đã qua hẳn bên kia cái chết tại trại tù Hàm Tân, 1988). Những người tù tồn tại bền bỉ (trong nhà giam cộng sản) không do từ sức mạnh cơ bắp, nhưng từ chiếc đầu nung lửa ý chí của họ. Chỉ có những kẻ hèn kém mới ngã gục, quy hàng trước đói khổ của lao tù do cai ngục cộng sản dựng nên (Kẻ ấy là ai, cuối bài, phần kết luận chúng tôi sẽ chỉ ra, trước đây ở Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải). Và cuối cùng, NCT ăn mặc bảnh bao (suy diễn ra do được tình báo cộng sản cung cấp?!).. Chỉ với vài đồng, một, hai chục, chứ không cần phải bạc trăm, bước vào những khu Outlet, hoặc cơ sở bán đồ Clearance, Goodwill.. Tất cả sẽ có đủ. Chúng ta có thể hiểu, kẻ viết nên những cáo buộc mang tính săm soi nhỏ nhặt nầy đang ở Anh, ở Pháp nơi Tây Âu tàn lụi, hết là những "cường quốc thực dân".
33. Cáo buộc về mâu thuẩn thân thế, tuổi tác, thời điểm sáng tác. Phần nầy, những người nêu cáo buộc căn cứ những câu.. "Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời.. Tuổi đôi mươi nhìn đời thơ dại.. Ngỡ cờ sao rực rỡ.." nên đề quyết rằng: Phải hai mươi tuổi mới làm những câu thơ hàm xúc ấy trong dịp xẩy ra sự kiện 2/9/1945 – Năm 1945 NCT mới 6 tuổi (sinh 1939) – Vậy, Thơ ấy phải do Tác Giả (tên gọi là) Vô Danh. Quả thật, chúng tôi vô cùng não nề khi viết đến những giòng nầy bởi đang phải nói với những con người "quái đản", đề cập những câu chuyện tầm phào, kiểu cải cọ lý sự những anh tổng lý bang bạnh đâu từ nông thôn miền Bắc đầu thế kỷ 20.. Bởi, Thơ không hề là Bản Biên Niên sự kiện chính trị, quân sự, xã hội, ngay cả tiểu thuyết lịch sử cũng không hẳn là phải thế. Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết sách Vua Quang Trung đâu phải là người đã tham dự xung trận Hà Hồi (1789); Vũ Hoàng Chương mô tả giờ phút hiễn linh Thượng Tọa Thích Quảng Đức hóa thân trong lửa không hề có mặt tại ngả tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng, Sàigòn ngày 11/6/1963. Solzhenitsyn sinh 1918 viết August 1914 để gióng lên phần khởi đầu của cách mạng vô sản 1917. Cũng thế, bản thân cá nhân có đủ thẫm quyền (nếu muốn) để viết về Di Cư 1954 dẫu rằng năm ấy còn trong tuổi thiếu niên đang ở Đà Nẵng. Cáo buộc như thế để làm gì? Viết hai ba trang báo dựng nên những "cái gọi là luận chứng": "Ở Hà Nội năm 1959 không thể có sinh hoạt (qua hồi tưởng của NCT).. Mùa hè ăn bánh tôm bên Hồ Tây. Cô bạn ngồi bên như nàng tiên vậy.." để tố cáo (tố cáo cái gì?), mạ lý, vu khống, chụp mũ.. Hoặc "cái gọi là phân tích": "Ở đất Bắc, thời đó (trước 1954 -pnn) người thanh niên có học, gia đình nề nếp, biết uống rượu, có bạn gái phải là tuổi trên dưới 20.." (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Trời đất, như vậy phải trình ra Bằng Lái Xe (nếu ở Mỹ), hoặc Chứng Chỉ Căn Cước (VN) trước khi viết thơ về rượu, về cô bạn gái sao? Chúng tôi có thể nêu danh tính hằng loạt bằng hữu (những người sinh khoảng trước, sau 40) đã hoặc không ăn bánh tôm, có hay không có bạn gái cùng đi chơi bờ hồ (trước 1954) ở Hà Nội.. để thời gian sau họ có thể viết về kỷ niệm Hà Nội bất cứ ở đâu, ngay bây giờ năm 2008 ở Mỹ. Và cũng không cần nữa, ai cấm Dương Nghiễm Mậu viết "Quảng Trị, Đất Đợi Về (1972)" và Nguyễn Mạnh Trinh viết "Huế, nơi tôi chưa tới.." khi Phí Ích Nghiễm (DNMậu) đang ở Sàigòn và NMTrinh biệt phái hành quân ở Pleiku. Và cô gái Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp vừa đủ 15 tuổi; hai cô Kiều của Nguyễn Du mới đến "tuần cập kê".. Chẳng lẻ những thiếu nữ lẫy lừng trong văn học, thi ca nầy "là con nhà bần cố (nông), loại vô lại (cộng sản)"? Mà dù là người trong chế độ cộng sản đi chăng nữa, Dư Thị Hoài vẫn còn khả năng/đầy đủ quyền tự do sáng tác để viết nên những câu thơ thăm thẳm cảm tính, ăm ắp thương yêu: Một lần như đêm nay. Sau phút giây. Êm đềm trên ghế đá. Anh không cài lại khuy ngực áo cho em.. (Văn Nghệ, Hà Nội; Số tháng 7/1988) Không ai có thể truy kết: Dư thị Hoài không là "con nhà nề nếp".
34. Cáo buộc về thay đổi thể thơ: Trước (Thi Sĩ Vô Danh) làm thơ dài câu, có nhạc điệu, thi tính cao, khẩu khí hùng tráng.. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó. (1968); Sau nầy ("Vè Sĩ" NCT) chỉ có những câu ngắn như vè.. Dầu đầu bạc. Dù đói rạc. Dù lực tàn. Vẫn bền gan.. (1988). (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Chúng tôi có nhận xét từ kinh nghiệm 40 năm cầm bút, đọc sách: Thơ hay/Thơ dở không có nguyên tắc cố định nào để xét nghiệm; người làm thơ một đời chỉ để lại vài câu được đời sau nhớ đến. Anh cũng không thể buộc người khác đồng ý với cách anh bình giải về thơ của một người thứ ba cho dù anh đủ tư cách của người phê bình văn học lão luyện, được xác chứng từ độc giả, thử thách bởi thời gian qua tác phẩm, quá trình hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Anh càng không có một khả năng nào buộc người khác phải viết và diễn đạt THƠ (của người ta) theo "quan điểm chính trị" của anh?! Ở đâu phát sinh ra quyền "ngự sử văn nghệ" nơi thế kỷ 21 mà thực chất chỉ là loại "chữ nghĩa" mang ác tâm từ những tay viết ẩn danh gọi là "kẻ nghiên cứu ti tiểu" nầy. Nhưng, NCT cũng đã "làm vè" từ 1970: Vợ con có thể bỏ. Cha mẹ có thể từ. Cộng sản thời sinh tử.. Vậy đây là thơ hay vè? Tôi chúng xin trả lời ngay theo ý các anh: Thơ của Vô Danh/Vè của NCT. Xin mách thêm: Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền cũng làm rất nhiều vè khi đi tù vác nứa ở Yên Bái. Chúng tôi ngừng trò vui nơi đây để đề cập đến một màn hài hước cuối cùng..
35. Cáo buộc: Từ khi ra hải ngoại (1995) không còn (khả năng) làm thơ. Cáo buộc nầy được lập đi lập lại bởi nhiều người do căn cứ trên thực tế: NCT viết tập truyện Hỏa Lò (2006) thay vì tiếp tục làm thơ – Vậy thơ Vô Đề hùng tráng trước kia chỉ là của Tác Giả (tên gọi) Vô Danh – Khẳng định nầy có tính chung quyết. Chúng tôi bổ tức thêm vào luận chứng nầy những cớ chứng: Sau những câu Thơ Lịch Sử: Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư. Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.. Danh Tướng Lý Thường Kiệt không làm một câu thơ nào nữa! Và nơi vùng Nam Cali nầy, chúng ta phải trả lời sao về trường hợp các Thi Sĩ (Thật Thi Sĩ) tên gọi Trần Dạ Từ, Trần Thị Thu Vân, Đỗ Quý Toàn, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Đình Toàn.. ba mươi ba năm sau 1975 không (tiếp tục) làm thơ nơi đất Mỹ?! Và sau đỉnh cao Ta Về thì Tô Thùy Yên hình như cũng cất bút.. Như vậy là thế nào? Và không những đối với Thơ, những bạn của chúng ta, Vũ Thành An, Từ Công Phụng.. những giòng nhạc trữ tình bất diệt của Miền Nam đã viết gì thêm về tình yêu sau mấy mươi năm ở Mỹ? Và trái lại, chỉ khi trên đất Mỹ vào buổi cuối đời, Mai thảo, Võ Phiến mới làm thơ.. Vậy trước kia họ là ai? Chúng tôi không đủ cố gắng để kéo dài tham dự thêm màn khôi hài rất nhạt do những kẻ tiểu tâm, trí đoản dựng nên .
IV. Kết Luận. Trước khi bài viết kết thúc, chúng tôi xin trưng một tài liệu liên quan đến vụ việc (NCT/Giả/Thật/Thi Sĩ/Vè Sĩ) và một đề nghị. Tài liệu ấy là: Chứng Thư của Chuyên Viên Khảo Nghiệm Thủ Bút Dorothy Brinkerhoff (Trung Tâm Giảo Nghiệm Quốc Gia) Văn Phòng 4316 Boyar Ave, Long Beach, CA90807 gởi đến Ông Joe Nguyễn (Giáo sư, Nhà báo Nguyễn Sỹ Hưng) 3024 East Anaheim, Long Beach, Ca 90804. Chứng Thư có kết luận: "Căn cứ vào những điểm tương đồng trọng yếu giữa tài liệu cần giảo nghiệm trong Văn Bản A và những mẫu ghi chép trong Văn Bản B, theo ý kiến của cá nhân tôi, người viết (cần được minh chứng) đã viết Văn Bản A và những ghi chép trong Văn Bản B có những điểm tương đồng thích ứng với nhau và chỉ do một người viết." (Phụ Bản 2). Chứng Thư Giảo Nghiệm Thủ Bút do Nhà báo, Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng yêu cầu trung tâm giảo nghiệm thực hiện từ tháng 11/1995 căn cứ trên hai văn bản: Bản A gồm Lá Thư viết bằng Pháp Ngữ trang đầu tập thơ đưa vào Toà Đại Sứ Anh ở Hà Nội ngày 16/7/1979, và photocopy bản viết tay bài thơ Đồng Lầy, Trang 21/Đánh số lại 34. Bản B là photocopy thư viết tay ký tên Chí Thiện gởi đồng bào hải ngoại 11/1995, tuần lễ thứ hai sau khi đến Mỹ của người có tên Nguyễn Chí Thiện. Nhà báo, Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng do tính thận trọng giảo nghiệm thủ bút của NCT để có xác tín lý lịch, căn cước của một cá nhân đã lập kỳ tích đáng nễ phục: Tồn tại sau 27 năm tù cộng sản với một ý chí tuyên dương Con Người Tự Do. Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng giữ kín giảo nghiệm nầy do lòng kính trọng đối với Nguyễn Chí Thiện – Đầu tháng 10/2008, ông giao lại cho NCT nhân vụ Báo SGN yêu cầu giảo nghiệm mẫu chữ viết của Thi sĩ/Vè sĩ/NCT Thật/Giả..
Và tiếp đề nghị như đã một lần đề nghị đối với vụ việc giảo nghiệm hình ảnh.. Nếu như Chứng Thư Giảo Nghiệm Chữ Viết nêu trên chưa đủ yếu tố khả tín để thuyết phục vấn nạn: "Ai viết tập thơ Vô Đề? Vô Danh ông là ai?" thì những người không đồng ý về quyền sỡ hữu (tập thơ) của NCT xin hãy tập trung tất cả tài liệu có được (về NCT/giả/Vô Danh/thật) gởi đến những cơ quan như Trung Tâm Văn Bút Quốc Gia Pháp, Hòa Lan, Mỹ.. để những nơi nầy thu hồi những giải thưởng, bằng khen đã phát cho NCT về văn phẩm đã bị chiếm đoạt từ một tác giả Vô Danh. Cũng cần phải nêu rõ những yếu tố lý lịch, quá trình sáng tác, sản phẩm thành văn của tác giả Vô Danh nầy để các cơ quan hữu trách kia có chứng cớ hành xữ với "Nguyễn Chí Thiện giả mạo". Chúng tôi trình bày với ý hướng truy cầu Sự Thật mà Báo Sài Gòn Nhỏ đã nêu ra khi đặt vấn đề từ ngày 4 tháng 9, 2008 nơi trang nhất số báo 14. Tôi tin Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo lúc khởi đầu vụ việc có ý hướng tốt lành nầy.
V. Hậu Từ: Đến phần cuối của bài viết, tất cả sự việc trên đã hóa ra những điều vô ích! Bởi chúng tôi dần tìm ra/thấy được/biết rõ con người thủ vai trò đạo diễn, diễn viên, khán giả của vỡ hài kịch "tình báo/văn học gọi là Nguyễn Chí Thiện" mà từ phần đầu bài viết bản thân, Phan Nhật Nam đã nói lên lời nghi ngại. Nhân vật "sợi chỉ hồng xuyên suốt- chữ của cộng sản trả lại cho người cộng sản" kia là Việt Thường Trần Hồng Văn, đầu mối của Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân, Thế Huy, Trọng Tín..v.v.. Với Trần Hồng Văn, Nguyễn Chí Thiện chỉ là một "Cái Cớ/Cái Cớ xứng đáng nhất". Và SàiGònNhỏ là một phương tiện/Phương tiện hữu hiệu nhất do 16 trung tâm phát hành toàn nước Mỹ, ba hệ thống xuất bản, nhật báo, tuần báo, và nguyệt san với những cây bút chủ lực, chuyên nghiệp (gồm số đông thân hữu, huynh đệ của người viết, PNN) - Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo đến đây hẳn hiểu tại sao tôi giữ im lặng đến bài viết nầy. Cũng bởi, tôi luôn nhớ và hằng nói: Tôi là biên tập viên của SàiGònNhỏ, "Anh Hai Hoàng Hải Thủy", Bác Hinh, Thảo Trường đã là những người qua sống/chết với chính bản thân. Tôi biết: Đã (hoặc sẽ) ăn cây nào phải rào cây ấy. Nhưng chúng ta buộc phải nói rõ về Trần Hồng Văn.. Trước khi định hình con người nầy, chúng ta cần xem thử anh ta (và những đứa con tư sinh Trần Thành, Triệu Lan..) đã làm những gì.. 51... Lắng nghe từng âm nói của NCT để tìm ra nét "giả tạo" của lý lịch. Vì NCT khai sinh quán Hà Nội, nhưng lại phát âm "đó..ạ" của cư dân Hải Phòng! Nên từ nước Anh, Trần Hồng Văn/Việt Thường.. trong gần 15 năm (1993-2008) TÔI "đã cho người" về Hải Phòng và Hà Nội "điều tra" để biết thêm về nhân vật "thi sĩ, nhà văn" Nguyễn Chí Thiện! (TL- SGN; #21, 9/13) Nguyễn Chí thiện chạy đâu cho thoát, Thi sĩ "Vô Danh" đã "được chuẩn bị" từ 1993 - NCT đến Mỹ 11/1995.
52.. Không chỉ lắng tai nghe NCT nói không thôi, trong suốt 15 năm kia.. "Triệu Lan tôi" đã thâu thập hơn 100 cuộc phỏng vấn, hội thảo, nói chuyện, từ khi NCT đến Mỹ.. đã bỏ rất nhiều thời gian đánh máy ra dạng chữ viết để chuẩn bị đưa ra trình bày cùng độc giả khắp nơi… (TL- SGN #972; 10/3). Chuẩn bị một trận đánh đến cả 15 năm hỏi thử "địch thủ" nào lại không ngã gục?!
53. Không những chỉ chuẫn bị kỹ (Đúng chiến thuật Trung Cộng, Lâm Bưu "Tứ Khoái Nhất Mạn"- Bốn Nhanh Một Chậm – Chuẩn Bị Chậm) mà Văn và những đứa con của y còn tìm cách giải mã "decode" thơ của ông Vô Danh.. Trong bài "Tôi Muốn Sống Với", những tên Athos, D'Artagnan, Porthos, Aramis!, Jesus Christ, Jack London.. viết đúng với ngôn ngữ gốc, duy chỉ có từ "AiVanHô" và "ALaĐanh" được viết theo ngôn ngữ Việt Nam.. (nt) Tại sao Vô Danh viết như vậy? Lẽ tất nhiên NCT không trả lời được. THVăn/VThường tiếp dạy dỗ: Trước 1954 ở Hà Nội chưa có sách Ả Rập, sách nầy, "Ivanhoe" bản tiếng Anh chưa dịch sang tiếng Việt thì làm sao NCT được biết "IvanHô" là gì?! Sở dĩ "Thi sĩ Vô Danh" viết như vậy vì đó là.. "code" của người Irap truyền cho nhau về nước đánh đỗ Saddam Hussein!! (nt). Quả thật ông thi sĩ Vô Danh nầy có cái nhìn quán thế.. Từ Việt Nam, năm 1960 ông đã thấy ra chiến tranh Iraq với Mỹ trong thế kỷ 21 (Sic), và phải đến 1965 Mỹ mới đổ bộ lên Đà Nẵng. Nhưng có điều THVăn/VThường không biết: Thi Sĩ Vô Danh tuy không đọc Ivanhoe của Walter Scott, nhưng NCT hẳn đã đi xem phim Ivanhoe do Robert Taylor và Elizabeth Taylor thủ diễn trước 1954 ở Hà Nội nên về kể lại cho thi sĩ Vô Danh kia để sau nầy (hơn 20 năm) viết Hoa Địa Ngục. Hai người từ lâu vốn là Một.
54. Xuyên suốt lịch sử đông-tây, từ quá khứ của thập niên 60, Trần Hồng Văn hay Việt Thường hay Triệu Lan..v..v nay đến Long Beach, Ca.. "để có Bằng Chứng (Viết hoa trong bài-pnn) rõ ràng, hơn nữa chưa ai thấy con gái của Nguyễn Tấn Dũng mua sắt thép ở Mỹ chở về Việt Nam bao giờ vì những tàu sắt thép nầy đã đi từ cảng Long Beach tới Thượng Hải. Triệu Lan "tôi"còn có bằng chứng.. Và, Triệu Lan "tôi"còn bằng chứng để chứng minh Nguyễn Chí Thiện và nhóm tình báo đặt trách về văn hóa của Hà Nội đã thật sự làm việc cho Bắc Kinh trong nhiều năm qua.. (Vâng, Triệu Lan "tôi" chứ không ai khác luôn có bằng chứng như những bằng chứng về Thi sĩ Vô Danh/Vè sĩ NCT…Pnn)(TL- SGN)#526 Ấn Bản Houston, TX; 9/27.
#4. Và cuối cùng, "bằng chứng" mới nhất "Triệu Lan tôi" bày ra để đẩy SGN sụp hầm: "Trong số ra ngày thứ Năm 2 tháng 10, tôi (Chủ Nhiệm HDT/ĐN) có nhờ anh Nam hỏi ông Nguyễn Công Giân, anh ông Nguyễn Chí Thiện: Là một sĩ quan QLVNCH vì lý do gì ông Giân lại được ra Bắc thăm gia dình hai lần trước năm 1975 (!).. Hôm nay tôi lập lại câu hỏi nầy và cho biết thêm chi tiết (chỉ có thể từ với VThg/TLn/TTh.. mà thôi): Lần đầu năm 1958, lần thứ hai, 1972.. (ĐN-SGN#7; 10/5).
Thắc mắc trên không cần hỏi ông NCGiân, tôi có thể trả lời chính xác, ngay lập tức: Người sĩ quan QLVNCH đến đất Bắc đầu tiên là Đại úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (22/6/1966); người thứ hai và thứ ba là Thiếu Tá Phạm Huấn, Trung Úy Dương Phục, ngày 26/2/1973; và người thứ tư chính là.. tôi, ngày 4/3/1973. Có thể kiểm chứng với ông niên trưởng: Nhà Văn Thảo Trường, Trung Tá Tình Báo Trần Duy Hinh. Ba người ra Bắc (trong đó có bản thân) luôn có Sĩ quan Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo đi kèm. Ông Nguyễn Công Giân thuộc ngành Quân Báo (Phòng II/BTTM) không hề có nhiệm vụ (được phái đi Hà Nội) bất cứ ở thời điểm nào. Năm 1958 ấy, Trung Úy Nguyễn Công Giân làm sĩ quan liên lạc ở Washington DC, và Cố Vấn Ngô Đình Nhu/Bác Sĩ Trần Kim Tuyến chưa thành lập văn phòng đặc biệt để đưa người ra Bắc. Kế hoạch 43A (thả biệt kích VNCH ra Bắc) của McNamarra cũng chưa thành hình do Tổng Thống Kennedy chưa lên chức. Năm ấy Trần Hồng Văn chạy hiệu cho báo Nhân Dân ở Hà Nội, nhưng trước tháng 2/1979 bị tống vào tù do tội danh "nằm vùng cho Cục Tình Báo Hoa Nam của Trung Cộng" – Tội của THVăn thật hư thế nào chúng tôi không rõ.. Chỉ biết, tại Trại Z30D, Văn áp dụng "bần tiện kế" để tránh đòn thù của công an trại (Mức độ bần tiện như thế nào, chúng tôi toàn trại chứng kiến, tôi không thể kể ra đây vì quá bẩn thỉu hèn hạ; đàn ông, người lính Miền Nam chúng tôi nghĩ tới cũng thấy xấu hổ lây dẫu anh ta là người Hoa ở miền Bắc). Từ kế sách hèn hạ kia cộng thêm kỹ thuật tố cộng rất có bài bản, Văn gây lòng tin với những anh em tù người Nam.. Cuộc nổi dậy Tết 1981/1982 ở trại Z30D bị đánh vỡ vì có nội gián. Toán tù Nam Hà (từ ngoài Bắc về đầu năm 1981 và 1982) còn giữ nguyên hùng khi bất khuất tính chuyện khởi động tiếp.. Dự mưu bị đánh vỡ từ trong trứng nước (Chủ nhiệm SàigònNhỏ có thể kiểm chứng sự việc nầy về Trần Hồng Văn, chúng tôi đưa người tới tòa soạn, cũng là nơi quen biết lâu dài với SGN)
Để kết thúc bài viết, chúng tôi, Phan Nhật Nam kết luận về nhân vật Việt Thường, Trần Hồng Văn với những tay em (hoặc chính là bản thân thay danh tính): Trần Hồng Văn muốn lên ngôi "thủ lĩnh chống cộng" tại hải ngoại nhưng kẹt những tên tuổi như Lý Tống, Nguyễn Chí Thiện.. Chiến dịch được chuẩn bị từ 15 năm (như y ta đã viết nên), nhưng cụ thể chí ít cũng phải hai năm (thời gian NCT ở Pháp và y ta từ Anh qua hỏi về "Thi Sĩ Vô Danh" với Nguyễn Chí Thiện chứ không ai khác), Thế Huy cũng xuất hiện trong thời gian nầy với "Vè sĩ".. Nay chiến dịch tiến hành với thành quả giai đoạn đầu rất đáng khích lệ: SUỐT THÁNG 9 NHỮNG DIỄN ĐÀN TRÊN HỆ THỐNG NET HẦU NHƯ KHÔNG MỘT CHỮ NÓI VỀ HOÀNG SA/TRƯỜNG SA!!
Trần Hồng Văn/Việt Thường có chống (Việt) cộng không? Có. Trần Hồng Văn/Việt Thường chưởi (Việt) cộng đúng không? Đúng. Nhưng Trần Hồng Văn chống/chưởi Việt Cộng vì quyền lợi Trung Cộng với NHIỆM VỤ của một cán bộ CÁN BỘ HOA CỘNG chính gốc. Nay quyền lợi của Trung Cộng/Việt Cộng là MỘT, Trần Hồng Văn/Việt Thường dương cao khẩu hiệu: Chúng ta hãy nói về Nguyễn Chí Thiện! Hãy viết về Nguyễn Chí Thiện! Hãy loại bỏ Hoàng-Trưòng Sa ra khỏi trí nhớ!! Khu Thái Hà còn trên lãnh thổ Việt Nam, Công Giáo có thể (rất có thể) lấy lại.. Hoàng Sa.. Trường Sa biết đến bao giờ? Hở biết đến bao giờ? Việt Thường, Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân.. là người, địa danh của miền Nam sông Dương Tử. Triệu Lan cùng họ Triệu Đà, vua nước Nam Việt bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây; Việt Thường Thị, tên của Chu Thành Vương gọi những bộ tộc phương Nam – Không hề là của Việt Nam. Càng không là Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 10/2008. 26 Tháng 10 – Quốc Khánh Đệ Nhất Cộng Hòa. Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:34:52 GMT 9
:::Phan Nhật Nam::: Hãy Biểu Dương Cùng TậnBiểu dương, hãy biểu dương cùng tận Vinh hiển lầm than một kiếp người.(Tô Thùy Yên) Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học qua Pétrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, cấp bậc Thiếu Tá trong quân đội Miền Nam trước 1975. Tô Thùy Yên lập gia đình với vợ chánh là bà Huỳnh Diệu Bích. Còn có thời gian chung sống và có mấy con với nhà văn nữ Nguyễn Thị Thụy Vũ. Sau 1975 Tô Thùy Yên ở tù gần 13 năm. Cùng bà Hùynh Diệu Bích sang Mỹ theo diện cựu tù nhân chính trị. Hiện đang cư ngụ tại Houston
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Hoa Kỳ sau khi ông đi tỵ nạn chính trị tại quốc gia này vào năm 1993. Dẫn Nhập7 tháng 9, 1981 nơi Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam Cửa thứ nhất khu kỹ luật mở ra.. Anh ngó trân trân lên khối sắt sơn xanh không cảm giác, vô hồn bước vào khoảng sân vắng tanh, lau sậy khô teo, vàng úa, xao xác hỗn loạn. Viên cán bộ kỹ luật và gã tù hình sự phải vạch lối đi qua để dẫn anh tới trước tấm cửa bên ngoài dãy buồng giam. Thanh sắt chắn ngang khung cửa gỗ thứ hai được kéo ra, rút bỏ xuống.. Âm rền rĩ siết lê gay gắt, gào chìm rờn rợn. Đi tiếp vào căn phòng tối lạnh, chiếc bàn gỗ xiêu vẹo dựa vách tường trên có chiếc chén nhựa bẩn, cơm, khoai, sắn đọng khô nâu quanh vành chén (có lẻ từ lâu không được dùng đến), anh nhìn quanh, dãy buồng kỹ luật tối im chập choạng, kín như khối nhà mồ chất chứa xương cốt của những người chết để lâu không chôn cất. Tử khí ẩm ẩm tanh tanh. Cuối cùng, anh bước vào căn buồng hẹp sau cánh cửa thứ ba (đúng nghĩa chỉ là chiếc hộp dựng đứng), đặt chân vào khoen cùm hình chữ U. Bên ngoài, tiếng động ổ khóa khóa lục cục, xong thanh sắt giữ chân cùm chuyển động, day day chạy ngang cổ chân anh. Căn phòng hoàn toàn chìm đẫm vũng tối sau loạt động âm do những tấm cửa đóng lại. Không biết bây giờ là mấy giờ? Hôm nay thứ mấy?! Anh quên ngay ý nhiệm thời gian, ngày, tháng vừa tách rời. Nơi nầy năm trước, 1979 anh đã một lần vào, và khoảng một năm sau anh được cho ra, trở về trại chung với đồng ngũ. Nhưng lúc ấy thân thể anh bền bỉ, rắn chắc; trí tuệ mạnh mẽ cương nghị.. và nhất là chung quanh, bên ngoài, ở cạnh những bức tường phòng giam nầy còn có một tập thể bạn tù Miền Nam - Những người bạn anh mà có thể phân biệt cụ thể, chính xác từng âm nói của mỗi người.. Cách phát âm của Phan Văn Giỏi (với âm sắc Quảng Nam được nhấn mạnh) đang múc nước ở khu nhà bếp (sát tường buồng kiên giam).. nhớ nghe không..Nhớ uống cà phê.. nghe Phượng (“Cà-phê phượng”- biệt danh các bạn đặt cho, do anh uống cà phê pha chế bằng những hạt phượng rang cháy). Trước kia, năm ngàn người của lần chuyển trại đến đây (tháng Tám, năm 1978) đã chiếm dụng toàn thể bốn dãy nhà giam chính của khu giam giữ; nay chỉ còn hai-mươi-hai người ở gọn đúng vào một chiếc buồng (của dãy nhà cuối cùng) luôn khóa kín sau giờ lao động. Đúng hai mươi-hai người. Anh là người cuối cùng của nhóm người khốn khổ còn lại nơi Miền Bắc nầy. Chung quanh anh nay không còn ai. Chung quanh anh nay không có người. Có ai chia sẻ với mình đây?! Anh cố gắng nghĩ đến điều xót xa nầy nhưng không nổi. Hình như ý nghĩ cũng gây đau. Anh sờ tay lên bức tường.. Động tác vô nghĩa nhưng để chứng tỏ mình đang còn sống, biết suy tính. Là con người biết xê dịch bàn tay.. Có ai chia sẻ với mình không? Ý nghĩ được kết thúc như thể hoàn thành xong lần cố gắng. .. Ta ngồi dậy và như một thói tật, Gõ gõ hỏi han Hai bên tường tả hữu. Có ai không? Không có ai sao? Ta khắc khoải chờ nghe Những tiếng động của người Tiếng động nào bất kể .. Ta phải cố quên quên bằng mọi cách Nỗi điêu đứng sống còn Trong hằng hằng tĩnh chết.. (Thức giấc trong biệt giam, Thơ Tuyển - Hoa Kỳ, Thu 1996; trang168) Năm 1992, nơi khu vườn của Như Phong ở Nhị Bình, Hốc Môn, Gia Định, trước ngày ra khỏi nước, anh nói cùng Tô Thùy Yên: Cám ơn Bạn đã viết những giòng Thơ chính xác, với ý nghĩa Thơ là Sức Nâng Đỡ. Anh nói không quá lời, e rằng bày tỏ chưa đủ ý, chưa diễn tả được hết lòng tin cậy đối với Thơ. Đối với Bạn. Lời kẻ chết là lời thiêng. Lời kẻ kinh qua cơn khốn cùng là lời thật. Người Viết Thơ Tô Thùy Yên là người làm chứng thuần thành nhất – Làm chứng về Sự Khổ – Cảnh Chết. * * * Phần Một Thơ là cớ chứng thật nhất 16 tháng Ba, năm 1996 nơi phi cảng New York, Nước Mỹ Anh đến đây từ Houston (Texas), trên đường đi lên một nơi thuộc vùng bắc lục địa Bắc Mỹ. Một nơi nào đó. Anh không cố ý tìm hiểu chốn ấy ở đâu, như thế nào, dẫu đã là người chuyên nghiệp xử dụng bản đồ, tìm hiểu địa hình trong nhiệm vụ quân sự ở những năm tháng cách đây không mấy xa. Người bạn dặn, cứ theo chỉ dẫn trong vé máy bay mà đi.. Sẽ đến nơi đây, tiếp tới nơi kia. Trời đang mùa xuân nhưng ẩm ướt, giá rét. Tuyết đóng dày đẩy ùn ra hai bêân hệ thống những đường băng phụ thành đống khối lớn. Anh ngó mông ra phi đạo mù mù. Anh nhìn quanh quẩn khối người đông đảo di chuyển, thúc hối, nhưng rì rầm yên nặng.. À đây là New York, chỗ nầy có bức tượng Nữ Thần Tự Do. Tượng đó ở đâu? (Anh đảo mắt qua lại như thể đang cố ý tìm kiếm một điều gì đã rành rẽ, một người thân quen).. Chắc đâu đó ngoài khu bến tàu, tượng ấy đâu ở phi trường. (Anh cười thành tiếng chứng tỏ đã hiểu biết về một nơi chốn, một tình thế). Tượng nhìn ra cửa biển vào New York mà, thành phố nầy to nhất nước Mỹ đấy. To nhất thế giới nữa..” Anh tự hỏi, xong trả lời, buộc trí não phải bận rộn; cũng như để chứng tỏ không bị khuất lấp bởi hoạt động lôi cuốn ầm ầm chuyển dịch đang vây bọc. Không ai biết mình là ai cả? Và mình đi đâu đây? Cuối cùng, anh mở Tập Thơ Tuyển, viết lên phần trống những tờ giấy sau trang bìa. Tôi đọc Thơ ông, Tận trống trải.. Trống vơ, trống vốc. Khi đến New York vừa rời Houston. ... Phi trường xuống, Không một ai. Thật. Không một ai. Chỉ Tập Thơ ấm sâu trong ngực. Và anh sống lại. Sống đầy đủ. Sống cùng tận nỗi bàng hoàng xa xót khi đọc qua những chữ nghĩa bình thản đến lạ lùng - Những chữ nghĩa nói về một cuộc sống-chết mà bản thân anh (cũ#ng của nhiều người) hằng mang nặng, nhưng không khả năng xóa mờ, vất bỏ. Mà vất bỏ nơi đâu? Xóa bỏ xong thì trí nhớ anh còn những gì? Quán chật xanh lên rừng lính ướt Mặt bơ phờ dính gió bao la Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa .... Tiếp tế khó – đôi lần phải lục Trên người bạn gục đạn mươi viên Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc Trong vết thương người bạn nín rên. (Qua Sông; sđd, trang25) Vào buổi chiều mù tối nơi chốn xa lạ hôm nay, qua những giòng thơ, cảnh sống tàn nhẫn tội nghiệp một cách bình thường trong chiến tranh kia thoắt trở lại tận đầy đủ.. Và anh nghe ra tiếng cười, giọng nói của những người lính; âm âm báng súng, giây đeo đạn, nón sắt.. va chạm lục cục trên mặt đất, nơi thành bàn, dưới chiếc ghế gỗ của một chòi quán ẩm ướt nào đó ở Long Sơn, Long Định vùng quê Long An ngày mới ra đơn vị, 1963; hoặc nơi Bồng Sơn, Lại Giang, Bình Định cuối năm sáu-mươi sáu, sau kỳ sinh nhật hai mươi-ba tuổi. Có thể anh không nhớ đủ hết tên họ, nét mặt những người đã cùng sống, kẻ đã chết thuộc những đơn vị nhảy dù mà anh hằng dự phần, có mặt. Nhưng lạ thay, anh nhớ chính xác mỗi chi tiết nhỏ nhặt của tiếng động, mùi nước bùn ẩm ướt thấm qua lớp áo trận, từng khuôn mặt của những người lính (quen và lạ) dồn chật trong chiếc quán nhỏ, lần dừng quân ngày mưa năm xưa. Và anh nghe lại giọng chậm, đục của hạ sĩ Ty vác súng trung liên khi mở lời xin anh điếu thuốc giải khuây cùng sắc mắt vô hồn, buồn phiền của những người lính địa phương quân đồn Long Sơn khi họ thoáng nghe, nhìn lướt qua trao đổi thân mật, gần gũi của thầy trò anh.. Sinh hoạt ngắn ngủi, nhỏ nhặt mà họ không thể có do phải ở lại đây giữ trách nhiệm ngặt nghèo giữa vũng tối sũng nước của vùng ruộng đồng hoang vắng, nơi chiếc đồn đang im im bốc khói cháy ngầm khi đơn vị nhảy dù cứu viện rút đi.. Hỏi chủ quán còn chai bia nào không, mời luôn mấy anh nầy. Anh đưa bao thuốc cho Ty, chỉ về phía những người lính địa phương.. Dạ, cám ơn, cám ơn thiếu úy, Thiệt tình tên bạn ta không nhớ Nhưng mà trông mặt thấy quen quen Hề chi, ta uống cho say đã Nào có ra gì một cái tên. ..... Người thuở trước tìm vàng khẩn đất Tiêu xác thân, để lại oan hồn. Ngày nay ta bạn đến đây nữa, Đất thì không khẩn, vàng không tìm. (Anh Hùng Tận; sđd, trg 28) Tuy nhiên, hoạt cảnh lặng lẽ kể trên dẫu sao cũng là lần “ bình an, hạnh phúc”, khi chiến tranh chưa nặng độ (đầu thập niên 60), và lần dừng quân còn có một chái quán lợp lá dừa, chai bia, điếu thuốc của vùng thôn quê Miền Nam – vùng đầt trù phú với sức sống ứ tràn trong mạch nước dầm dề phù sa. Vì tiếp liền theo sau đó, chiến tranh mở rộng, giăng dầy, chụp xuống chiếc cánh âm u tai họa.. Và Thơ không chỉ là lời miêu tả cảnh Khổ, nhưng chạm đến mối Đau khi con người bị ném vào lần tận tàn sát, thực hiện cuộc tận diệt. Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma ..... Ta ngó thấy nhà cửa trốc nốc Từng ngôi như mặt đất đang gào.. Nhưng cũng không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, nhà cửa tang hoang, tiêu hủy mà đã đến lúc, đôi tượng hứng chịu tai ương - Con người trong chiến tranh - Người lính của hai bên lâm chiến, kẻ thụ nạn của một cuộc tương tranh tàn tệ, phải đối diện (thực sự đối diện) câu hỏi sững sờ vì mức độ phi lý, phi nghĩa, tận vô ích, và cực độ phí phạm của nhiệm vụ họ phải nhận lãnh.. Vì sao ngươi tới đây? Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói .. Vì sao ta tới đây? Lòng xót xa thân xác mõi mòn. Câu trả lời không có. Nếu có chăng cũng chỉ tăng thêm cường độ cay đắng của một vấn đề đã hư hoại, độc địa từ khởi đầu. Ví dầu ngươi bắn rụng ta Như tiếng thét Xé hư không bặt im Chuyện cũng thành vô ích. Ví dầu ngươi gục Nào có chi đáng kể. Bi thảm hơn hẳn những nhân vật trong kịch và tiểu thuyết “phi lý” của Samuel Beckett – Trong đó, con người còn khả năng luận lý (cho dù luận về một điều “phi lý”); hoặc còn có điều chờ đợi (dẫu là một điều không tưởng).. Đấy, đời sống cứ qua đi.. Cũng vậy, chẳng có quan hệ gì nếu tôi đã sinh ra đời hay không, tôi đã chết đi hay đang lâm tử.. (Malone meurt; Minuit, Paris, Fr. 1952); hoặc trong kịch En attendant Godot; Minuit, Paris, Fr. 1953, hai nhân vật Estragon và Gladimir, sau một loạt đối thoại không mạch lạc, rối mù về những bàn tay, bàn chân, cái bàn, chiếc ghế.. xoay qua đối tượng gọi là Godot – Bất ngờ xuất hiện như một đồ vật cốt làm đầy cho câu chuyện vô nghĩa, của lần chờ đợi (không biết đợi cái gì).. Bởi: Godot khi là một nguồn động lực bắt con người phải chờ đợi, phải nói đến..Nhưng cũng chính là con người với sự chờ mong (vô vọng, vô nghĩa) của chính họ. Godot chỉ là điều tưởng tượng. Ở Việt Nam, trong chiến tranh, qua Thơ Tô Thùy Yên, diễn tiến sống-chết cụ thể với chính thịt xương con người, qua từng giờ khắc chịu đựng, bày ra như một điều hài hước. Bi kịch và hài tính đã nhập lại thành một khi cùng đối diện với sự chết. Kết thúc bởi sự chết. Ta phá lên cười, ta phá lên cười Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ Ở cõi âm nào người vốn không tin, Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa: Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh Cho Tổ Quốc Việt Nam- một tổ quốc..? Các việc ngươi làm, Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm Các việc ta làm Ta xét thấy chẳng ra chi Nên người hăng điên, còn ta ảm đạm Khi cùng làm những việc như nhau. Và kết luận cuối cùng không thểâ khác, ..Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm Có cùng gom góp lại, Mặt đất nầy đổi khác được bao nhiêu? Người há chẳng thấy sao Phá Tam giang, phá Tam Giang ngày nầy đâu đã cạn? (Chiều trên Phá Tam Giang; sđd, trg 74) Cuộc máu lửa, súng đạn chấm dứt với ngày 30 tháng Tư, 1975, Thi Sĩ kẻ thụ nạn khốc liệt nhất trong mọi tầng lớp xã hội Miền Nam-cùng một lúc thực hiện hai chức năng, nạn nhân lẫn chứng nhân của lần xĩ nhục, đọa đày Con Người – Sinh vật nhận biết đau trong trái tim, trên xác thân. Thức dậy, những ai còn sống đó, Nhìn ra nhớ lấy phút giây này. Tàu đi như một cơn giông lửa Cuồn cuộn sao từ ống khói bay ....... Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc, Đèn bão mờ soi chẳng thấy ai. Ta gọi rụng rời ta thất lạc. Ta còn chẳng đủ nửa ta đây. ....... Dường như ta chợt khóc đau đớn. Lệ nóng cường toan cháy ruột gan Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt. Nghẹn ngào đến cả tiếng than van. (Tàu Đêm; sđd 117) Người phải sống và Thơ phải viết bởi lần đau không chỉ riêng đối với một cá nhân, nhiều giới người, hoặc giai cấp cầm quyền chính trị, hay một tầng lớp xã hội.. mà toàn bộ lịch sử – đời sống bị xáo tung, ngụy trá, mạo danh, miệt thị và hủy hoại. Không chỉ nơi Miền Nam, không riêng của Việt Nam, mà chung cho cả địa cầu, lần con người tận diệt. Mà thôi hãy nuốt lệ còn nghẹn Tỉnh thức, lòng ơi nhìn tận tường Thời đại đang đi từng mảng lớn Rào rào những cụm khói miên man ..... Người bạn đường kia chắc vẫn thức Mong tàu đi đến chỗ đêm tan Có nghe lịch sử mài thê thiết Cho sáng lên đời những rỉ han Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục Cho tiếng rền vang dậy địa cầu Lay động những tầng mê sảng tối Loài người, hãy thức, thức cùng nhau. (Tàu Đêm; sđd 117) Thi Sĩ phải sống để đi cho hết cuộc hành trình tưởng như không hề có thật- Hành trình băng qua thống khổ máu lệ cường toan - Khóc không nỗi, nói không nên lời, chỉ biết cúi đầu im lặng trước bi thương chập chùng oan nghiệp mà phận người phải gánh nặng từ một thuở bắt đầu vòng sinh-diệt.. Cũng để tận thấm hiểu nghĩa xa xót mong manh từ hạt sương, tiếng dế, giếng nước, sợi tơ trời nơi bản quán đã thật sự nhạt nhòa, hư vỡ. Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời ........ Ta về như hạt sương trên cỏ Kết tụ sầu nhân thế chuyển đời Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt. Tội tình chi lắm nữa, người ơi! (Ta Về; sđd 126) Người ơi! Người nào? Không người nào cả. Chỉ riêng ta với tiếng gọi xé lòng.. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ- Thanh Tâm Tuyền. Hãy gọi lên một lần. Cho gọi thêm đến nhiều lần.. Gọi đến lay động chiếc bóng của chính ta ngã dài trên dặm trường thăm thẳm cô quạnh. Hãy gọi lên. Kêu lên.. Không còn ai. * * * Phần HaiThi Sĩ luôn hiện sống - Sống ròng Gần mười năm sau Thơ Tuyển (1995), Thắp Tạ (2004) đã là một lần vượt thoát toàn diện, và Thi Sĩ thật sự Sống Ròng-Với Thơ. Nếu những năm tháng trước đây trong chiến tranh, tiếp tù ngục và cảnh khổ Việt Nam (sau 1975) đã hé mở ra những vấn nạn không thể nào trốn thoát.. Gõ lấy đầu mình như gõ cửa. Liên hồi kêu cứu giữa đêm khuya.. (Mùa Hạn; Thơ Tuyển, trg 103); hoặc phải chứng kiến những kinh hoàng không thể quên.. Trăm họ lần lượt bỏ xứ trốn. Biển thì hung hãn, thuyền mong manh. Ta nghe kể lại xác lên bãi. Nằm dài dài như lúc chiến tranh. (Nỗi Đợi; TT, trg 163). Nhưng dẫu gì tại lúc nguy nan kia con người cũng còn đôi chút hy vọng - cách hy vọng bền bỉ của người không chịu khuất phục (bởi khuất phục có nghĩa tiêu vong) - nên người lại kiên nhẫn lên đường, vẫn luôn trên đường đi, dẫu đường vô hạn lẻ loi.. Con đường vô định chưa ai tới. Hay tới nơi, thôi chẳng trở về. Hởi gã du hành, hãy nói lại. Những điều người thoáng thấy như mê. (Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai; TT, trg 53). Nhưng hôm nay, cuối thế kỷ bão táp, sang đầu thời đại mạt pháp, Con Người tự tìm ra và phải tìm ra với sáng suốt, tận bình yên, bởi người hiểu nên rằng, sẽ không đi tới đâu cuối cuộc hành trình miên viễn khó nhọc suốt một cuộc đời. Không xa, không gần, không non cao, không biển rộng, không biên giới và cũng “không còn biên giới”. Đi như đi lạc trong rời đất, Thủy tận sơn cùng, xí xóa ta. Cõi chiều, đứng lại, khóc như liễu: Có thật là ta đã đi xa? (Đi Xa; Thắp Tạ - Hoa Kỳ, 2004, trg 10). Điều chứng ngộ nầy không đâu xa.. Chỉ là một bước, bước trờ.. Hỏi chưa ra, đã trăm năm sững sờ (BiệtTăm; sđd, trg 11). Phải, chỉ một bước thôi, bước ngắn ngủi, chóng vánh, cô đọng như một công án thiền đạo –Thi Sĩ thấy ra (thấy chính xác, cụ thể) kích thước tận cùng trong phần, đoạn hữu hạn. Tưởng thôi, nháng tưởng thôi. Trí năng nào chạy kịp (Sát Na; sđd, trg 11). Công phá tuyệt luân nầy phải do mỗi cá nhân tự chứng – Đây là Sự Thường nhưng không hề tầm thường - Chỉ được xác lập bởi những trí tuệ thật sự khắc khoải mới hiểu nên điều nguyên lý: Sự thất vọng về hữu hạn là do thiếu đi tính vô hạn (Soren Kierkegaard); hoặc chỉ từ khổ đau vô lượng của kiếp người - Bất cứ người nào khi gặp những cảnh ngộ.. Buồn trông nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh; hay khi đối diện, Bốn phương mây trắng một màu, trông vời cố quốc biết đâu là nhà – Mà thiển nghĩ (chắc nghĩ không sai), đây không là tình cảnh của một cô gái tên gọi Vương Thúy Kiều, nhưng thật phải là của người đã viết nên những giòng chữ xót xa nầy - Tâm cảnh thắt thỏm của Nguyễn Du lúc ở Huế nhìn về phương Bắc với lòng quặn đau: Bắc thành thập khẩu khẩn đề cơ – Mười miệng người kêu đói ấy không ai xa lạ, chính là vợ, đúng là con. Là đứa con mà Đỗ Phủ đã phải ôm chặt vào người, bịt miệng lại do trẻ quá đói cứ nhè ông mà cắn, và để đứa bé bớt la khóc (sợ hùm, sói nghe được) trên đường chạy loạn ngã Bành Nha: Si nữ cơ giảo ngã. Đề úy hổ lang văn. Hoài trung yểm kỳ khẩu.. Kinh qua những giờ khắc thương tâm đáng sợ nầy (không phải chỉ trong một khoảng thời hạn tại một hoàn cảnh nhất định), con người phải tự cứu.. Và không còn con đường nào khác ngoài thái độ bình thản vô vàn cao thượng trong tất cả mọi tình huống, cho dẫu gặp phải kết thúc đậm dấu bi ai nơi một chốn mịt mùng không định hướng. Mai có ai về ngang quãng sông nầy Xin ném cho hòn đất hỏi thăm. ...... Những nấm mộ đá chồng rỗng kiệt Hình hài người chết đã tiêu tan. Nhưng chắc đâu hồn mộng chẳng còn chạy giỡn bạt ngàn Cho tàn hã cuộc mê man cùng Vô Biên độc nghiệt. (Viễn Tây; sđd, trg 45). Thế nên, không cần đến giải oan nơi sông Tiền Đường, cũng chẳng nên khóc than người nằm dưới nấm mộ dàu dàu ngọn cỏ bên đường, cuộc nhân sinh ai cũng thế mà thôi, mỗi người một cảnh, vô vọng , đơn lẻ như gió thổi qua cõi ngoài. Một mai, ngoài cõi gió hao đuối Ai hỏi ai về ai trước kia? (Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 32) Ai hỏi ai? Và hỏi về ai? Không phải là cách chơi chữ nghĩa nhưng quả thật Người Viết Thơ đã nắm bắt được tiêu điểm tận cùng của biên giới tâm cảnh mà con người luôn gọi tên bằng những tính tự “tuyệt vọng, đau thương”. Và tuy biết bên ngoài vùng mông mênh “ngoài cõi gió” kia không còn nữa những “đơn vị gọi là ai”, nhưng Thi Sĩ không hề tuyệt vọng (như khi Tây Phương kiêu ngạo đối diện với Hư Vô; kẻ chinh phục thấy ra điều suy hoại, sụp đỗ đế quốc xây dựng bởi thành quả bạo tàn) - Vẫn vững tin và bình thản cậy trông. Khắc khoải chim kêu mùa hóa giải Hành nhân về bên giếng quê nhà Ngõ trúc chiều ngát hoa gạo mới Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa ..... Chiêm bao, âu cũng chiêm bao cả Mưa lớn chừng như rợp hải hà. (Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 33) Đau thương thay và đáng được kính trọng thay, qua suốt cuộc biển dâu ba mươi năm với những cảnh huống trầm luân, khi hái rau nơi vực suối triền núi sâu đất Bắc. Làm người, đã phải làm sao? Thêm bề rau thấp, cỏ cao, tội người. ....... Giá cho ta hỏi một lời Rau nầy trăm họ mấy người đã ăn? (Hái Rau; sđd, 37-38) và khi thảng thốt về Nam chứng kiến cảnh xé lòng. Làng đã cháy, im lìm bất trắc.. Người nhớ người mà cũng sợ người. Trời ơi, những xác thây la liệt, Con ai, chồng ai, anh em ai? (Nhớ có lần, trên bến bắc khuya.; sđd, 70) Nhưng Con Người đi hết chặng đường bão táp ấy vẫn sắc son bền bỉ vẫn tận sống từng khắc giây sung mãn với lòng yêu thương con người, hoa cỏ, lá cây, lát gừng cay, hạt muối mặn lấy ra từ Đất. Người còn, trời đất còn chan chứa.. Muối mặn, gừng cay trắng tóc xanh.. cho dẫu đã hơn một lần (rất nhiều lần) hiểu rõ nghĩa “được-mất; có-không”sau những lần bị tước đoạt trần trụi như tình cảnh của Job trong Cựu Ước; bị lấy đi cả tiếng sáo hót thắm thiết trong buổi ngày thơ.. Tình cảnh của miền Nam, của cả nước bị bóc vỡ đến những ngưồn vui trong sáng nhỏ bé sau 1975. Con sáo trong lòng con đã chết Bé ơi, sao bé còn đi tìm? Còn kêu lạc giọng sáo ơi sáo. (Con Sáo; sđd, trg 29) Chẳng phải đợi đến khi có lời nguyền rủa từ Tây Phương về lần bức tử Thượng Đế, những dân tộc Đông Phương (điển hình cảnh huống người Việt, các dân tộc trên Bán Đảo Đông Dương suốt bao thế kỷ lầm than do những cuộc phân tranh khởi từ đời Lê Mạt, thế kỷ 16, 17 kéo dài đến cuối thế kỷ 20) đã hằng thấm cơn đau về một, “Lão tạo hóa đành hanh qua ngán. Giết đuối người trên cạn mà chơi” (Nguyễn Gia Thiều- Cung Oán Ngâm Khúc) – Giết vì một đố kỵ khắc nghiệt, “Trời xanh quen thoái má hồng đánh ghen” (Nguyễn Du- Kiều) – Giết như một trò chơi. Nhưng những con người thuần phác bền bỉ chịu đựng kia vẫn hằng nuôi dưỡng đức tin nhu thuận: “Trời luôn đến cùng người khốn cùng, kẻ khờ dại, và những trẻ thơ” Nên dẫu, Tạo hóa tham công hay lỗi lầm? Hoặc giả, Vũ trụ tạo hủy dở dang mãi, Con Người qua tuyên ngôn của Thi Sĩ vẫn nhận ra điều kỳ diệu: Mới hay sống chết dễ mà khó, Mệnh nghiệp không là chuyện dững dưng. (Hành Giả Âu Sầu; sđd, trg 109) Có Dân Tộc nào bản lãnh đến ngần ấy? Có Con Người nào mạnh mẽ đến nhường kia? Quả thật, chỉ riêng Thi Sĩ đã hoàn tất xử dụng chữ, nghĩa thanh khiết tạo nên lời ca ngợi vô vàn: Thế nhưng ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối, ...... Cũng như ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối. * * * Kết Từ Kể từ khi “người vượn- homo erectu” dựng đứng được xương sống và dùng hai tay để viết nên những ký hiệu đầu tiên, đến nay trong những trước tác của tổ chức nhân loại văn minh với Bộ Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) gồm hai mươi-chín cuốn, hoặc Tự Điển Từ Nguyên, Từ Hải đồ sộ của người Trung Hoa.. Tất cả nội dung trình bày trong những ấn phẩm to lớn nầy không gì khác hơn do một NÉT VẠCH ĐƯỢC SẮP XẾP theo một hệ thống từ con người dần xác lập, và đồng thuận xử dụng. Hệ thống nầy do Hai Mươi- Bốn chữ cái La-tinh, hoặc Bảy nét cơ bản của Hán Tự cấu tạo nên thành Chữ Viết tồn tại bền vững qua hàng ngàn năm cho đến nay. Và chắc chắn dẫu tiến đến một tương lai kỹ thuật cao đến bao nhiêu – CHỮ VIẾT-CON NGƯỜI (dưới nhiều dạng tự khác nhau, Phạn Ngữ. Á-Rập Ngữ..) VẪN VĨNH HẰNG TỒN TẠI. Thế nên, chúng tôi vô cùng tin cậy rằng: Trong những ký hiệu Chữ Viết kia ẩn chứa Thần Tính – Siêu Việt Tính nhưng cũng là Nhân Tính. Chúng ta nhắc nhở với nhau như thế, đồng thời xác lập điều tự hào cảm động: Tiếng Việt qua vận động của Thi Sĩ đã trở nên thành nguồn nội lực đủ sức cất chứa những rung cảm tế vi của tâm hồn, và biểu hiện nên Lời Thơ hùng vĩ. Chúng ta vẫn sống như rừng cây Chúng ta vẫn sống như mặt biển Bởi vì đã đi nên sẽ đến Người và bóng tối phải chia tay. Cảm ơn Người Bạn Viết Thơ Đinh Thành Tiên – Thi Sĩ Tô Thùy Yên. PHAN NHẬT NAM Mùa Lễ Tạ Ơn. Cali, tháng 11, 2004.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 8:59:30 GMT 9
Phan Nhật Nam Đọc Thơ Nhớ Bạn
Sáng cuối tuần, thức dậy nơi một chốn lạ (sau 18 lần thay đổi chỗ ở kể từ khi đến Mỹ), La Puente, có lẻ là một city nhỏ nhất của Cali; dân cư phần đông người Mễ, giới lao động làm nghề vận tải. Tóm lại lạ cảnh, lạ người toàn thể, nên tôi sống với trạng thái "lạ hoắc" như không thể có tình thế nào hơn. Khi mở đầu lá thư như thế trả lời cùng Luân Hoán (Canada) chẳng phải vì bạn tôi là người làm thơ, và tôi là kẻ viết văn nên cố ý xoay qua chuyện thơ văn, triết lý trong một lá thư thăm hỏi thông thường. Không phải vậy. Lá thư ngoài chuyện nhắc lại những kỷ niệm nhỏ thời niên thiếu nơi một chốn xa thẳm gọi là Đà Nẵng kia vào những năm 50, khi những đường phố còn mang tên Pháp.. Avenue de France; Verdun.. mà những đứa bé (tôi và các bạn) có thể dựng sân đá bóng bất kỳ ở đâu sau giờ tan học buổi chiều: Trước vườn hoa Con Gà; chỗ Hội Cứu Tế.. Ngay bên cạnh đường phố chính. Lá thư cũng nhắc tới những danh tính, vóc dáng, tính cách của Quý Phẩm, Hồ Thị Hồng, Thu Hà, Thạch Trúc.. Những người đẹp "làm giông bão mấy gã trai tơ" như ngôn ngữ của thơ bạn tôi khi chúng tôi lớn lên những năm sau. Nhưng hơn thế nữa, lá thư của bạn tôi (như một tiên tri rất chính xác) đề cập đến một nỗi Đau.
Mối Đau nầy có thật - Vì bốn người mà bạn tôi đề cập trong lá thư gởi tôi thì đã có Nguyễn Văn Đồng (Hà Nguyên Thạch), Huỳnh Bá Dũng, Lê Vĩnh Thọ mà do một xếp đặt (kỳ lạ một cách bình thường) đã có mặt với tôi ở những đoạn đời không thể nào quên, cho dù trí nhớ có cạn kiệt bao nhiêu, hoặc người ta thường cố quên - cách muốn quên đi những điều quá cay nghiệt.
Đầu tiên là Đồng, người mà bạn đã vẽ trong ‘Cỏ Hoa Gối Đầu’ : Cho dù níu chặt Chân Cầu...Hồn thanh xuân vẫn phai màu gío bay. Phố xưa nhưn nhức dấu giày. Đi về lững thững hồn đầy cỏ hoa. Tiếng thơ chải chuốt mượt mà.Hồn phơi phới lạnh nét tà áo thơm.Vùi đời dưới gốc cô đơn.Tỉnh cơn, hương rượu chập chờn hóa thơ. Đồng, bút hiệu Hà Nguyên Thạch –( tôi vẫn chưa quen với bút hiệu nầy dẫu đã mấy mươi năm qua), hắn ta học cùng lớp với tôi từ ngày vào Phan Châu Trinh; đi một đoàn Hướng Đạo, diễn chung vỡ kịch đầu đời năm 1956 (Ngày 4 tháng 3- Ngày bầu Quốc Hội đầu tiên ở nước ta...) Khi qua Sông Hàn (chỗ bến Hà Thân để đi diễn kịch bên xóm An Hải), từ trên đò, hai thằng bé nhìn về thành phố Đà Nẵng, và cùng nói lên lời: "Đà Nẵng của mình đẹp thiệt!!" (Ý nói cảnh đẹp của đất nước, quê hương nhưng vì chưa biết diễn tả văn vẽ, chữ nghĩa). Cảm giác nầy - Phản ứng của hai đứa nhỏ khi thấy ra cảnh sắc quê hương kỳ ảo, rực rỡ - được tôi nói lại ra lời, viết nên thành những dòng chữ trong Chương "Đi Bắc Về Nam" (Tù Binh và Hòa Bình, Hiện Đại, Sài Gòn 1974) cũng đúng ngày 4 tháng 3, năm 1973, lần đầu tiên qua sông Bến Hải đi Hà Nội nhận tù binh Mỹ, và khi trở về, từ cửa phi cơ nhìn xuống quê hương Miền Nam trãi rộng thuần hậu dịu dàng trong bóng chiều ngã sẫm tối, bập bùng những khóm lửa ấm áp vùng Long Khánh, Bình Long.. Cảm khích làm nước mắt ứa ra không cầm được. Cảm xúc ngày nhỏ chúng ta thường có trong những dịp nghỉ hè, nghỉ tết khi trở về nhà, về làng; khi đi Huế vào, từ Đèo Hải Vân ngờm ngợp trước cảnh chói loà rực rỡ của Vịnh Đà Nẵng trong nắng sáng.. Hoặc chỉ cần ngồi trước Tòa Thị Chính nhìn lên Sơn Chà (mà tuổi nhỏ chẳng ai trong chúng ta gọi tên chữ Tiên Sa), tưởng ra từng cành cây bụi lùm bí ẩn trên ấy. Và chúng ta chưa biết nói thành lời, viết lên trang giấy.
Nhưng hơn ba mươi năm sau, người bạn Nguyễn Văn Đồng của tôi đã như thế nào, mà Luân Hoán đã phải kêu lên :
ta nghe nói người bây giờ rách lắm
rách áo cơm, rách nát cả tinh thần
nhưng chắc chắn hồn thơ người chưa rách
xin giữ giùm hơi thở đó muôn năm
hãy gắng sống gắng làm thơ uống ruợu
rất bình thường như lao động chân tay
bỏ nghề dạy đâu phải là bỏ hết
ngón tài hoa của một kẻ râu mày
(Hơi Thở Việt Nam)
Thật sự, chẳng phải là tôi vô tâm, sau cuộc đổi chủ bất ngờ, người bạn tốt nghiệp đại học sư phạm Huế của tôi, người bạn từng đứng trên bực giảng, từng ở trong cương vị Phó Chánh Sở Học Chánh của một tỉnh, đã phải bỏ làm thầy đi tìm củi chẻ thuê , cũng chỉ vì Giàu chữ nghĩa nhưng mơ hồ đạo đức (thứ đạo đời của chủ nghĩa vô lương). Ngày nay anh vẫn còn tiếp tục vất vả bên một góc trời quê nhà.
Người thứ hai là Lê Vĩnh Thọ. Lúc ấy, đối với tôi là đang trong một đoạn đời vô cùng khủng khoảng với tuyệt vọng đơn độc nặng chĩu như tảng đá đè xuống lồng ngực. Thế nên, Thọ, dẫu là người liên hệ thân thiết độc nhất, mỗi lần gặp nhau, dù trong cơn say cũng chẳng ai nói với ai tiếng nào - Khoảng thời gian tôi bị quản chế tại Lái Thiêu (sau ngày đi tù về, 1991-1993). Tôi có một căn nhà tranh vùng Bình Nhâm cách Xã Búng của Thọ khoảng mười-lăm phút honda. Bữa rượu thường có vào chiều tối (khi Thọ từ Sài Gòn trở về - Đi dạy Anh Ngữ cho những cơ quan, hoặc nhân sự cộng sản muốn học sinh ngữ nầy để liên lạc với người Mỹ trong các dịch vụ thương mại, du lịch). Rượu loại rẻ tiền, thuốc lá đen, thức ăn chỉ là mấy hạt đậu phụng, hoặc vài trái cây điạ phương. Ly rượu cũng chỉ là một cái cớ để hai chúng tôi ngồi với nhau. Ngồi dựa lưng vào vách nhà tranh nhìn ra khu vườn tối sẫm dầy đặc những cây măng lão (loại măng-cụt tuổi quá trăm năm khi vùng đất nầy vừa được khai khẩn). Khu vườn chập choạng mù sương do hơi nước từ sông Sài gòn loang tỏa, chập xuống những vũng bóng tối kỳ dị như tranh của Ruben, Rousseau. Chúng tôi, hai người độc nhất còn lại của Sài Gòn sau 1975, nay gặp nhau ở một vùng đất mà chắc trước đây cả hai không hề có ý niệm đến: Ấp Bình Đức, Bình Nhâm, Lái Thiêu thuộc Tỉnh Bình Dương. Từ tình cảnh nầy, lời nói, câu chuyện đã trở nên vô nghĩa. Tuy nhiên, mối liên hệ (dẫu lặng lẽ) vẫn vô cùng hòa hợp, thấm đậm (cũng bởi, chị Lan vợ Thọ là em ruột của Nguyễn Văn Minh, bạn cùng lớp của tôi và Đồng ngày nhỏ). Bỗng nhiên, một hôm sự việc xẩy đến như một tai họa mà cả hai đồng linh cảm sau nhiều lần cố tránh: Chúng tôi nói về trách nhiệm, hậu quả của cuộc chiến vừa qua. Lẽ tất nhiên tôi trình bày với quan điểm người lính (như phản ứng hằng có, thêm cảnh sống thực tế trước, sau khi đi tù về). Thọ nhìn chiến tranh với cấp độ của một giáo sư văn chương, và (quan trọng hơn) của một Người Làm Thơ. Từ hai vị thế cách biệt nầy, câu chuyện biến thành lần tranh cải không khoan nhượng. Chúng tôi xa nhau với lời khẳng định (của cả hai phía): "Ông và tôi chẳng nên bao giờ gặp nhau nữa." Và chúng tôi giữ lời ấy cho đến ngày tôi ra khỏi nước (1993-1994).
Không gặp nhau, không có nghĩa không nhớ và qúi nhau.Trước những cảnh huống bức rức, nhạt thếch từng ngày của chúng ta ở đây, càng tạo nhiều cơ hội nhớ quê nhà, nơi mà tôi đã một lần chia chung, gánh đủ. Bao nhiêu điều nầy cần phải phải nói đến nhưng (tôi hay cũng nhiều người) đã không còn sức lực nói nên lời (lẻ tất nhiên không phải vì thiếu phần chữ nghĩa, văn hoa), nhưng quả tình bởi nỗi mệt nhọc kiệt cùng từ quả tim không sinh khí nơi đất người (lẫn quê nhà) trong một thời đại cưc độ khinh miệt Con Người-Kẻ Sĩ...Và dĩ nhiên, những lần buồn nhớ như thế, những khuôn mặt bè bạn lại hiện ra, trong đó không sót Lê Vĩnh Thọ, nhất là qua nhắc nhở từ Luân Hoán :
đời lưu lạc mỗi ngày là một tuổi
dài vô cùng nhưng không đủ xót xa
ta hổ thẹn muốn giấu người tất cả
giấu được người, nhưng đâu giấu được ta
thư viết cho người mấy lần không gởi
ta đốt để nhìn làn khói trắng bay
từng chữ của ta hóa thân trong lửa
ta cũng cháy vèo sao vẫn chưa hay
...
ta biết người chờ từng giây từng phút
bó gối quê nhà nhẫn nhục chờ trông
ta thẹn làm người tự do viễn xứ
ngó lại đời mình trùng điệp số không
đã hẹn với người sao ta chợt khóc
sống phải làm người xứng đáng đương nhiên
tội nghiệp thân ta trót già trước tuổi
ngơ ngác cõi người hiu hắt đuốc thiêng
xin gửi về người niềm tin chưa chết
cùng giòng thơ và chút nhớ thương
thơ hơi mặn vì hình như có máu
có lá cờ vàng đắp mặt quê hương.
(Ngơ Ngác Cõi Người)
Người thứ ba, Huỳnh Bá Dũng. Nỗi đau cố kết, đọng cứng lại nơi đây. Làm sao có thể nói hết mối thâm tình ân nghĩa giữa hai chúng tôi. Dẫu thuộc hai khoá sĩ quan khác nhau (18 và 19 Trường Đà Lạt); nhưng từ chiều thứ bảy đến chiều chủ nhật trong suốt hai năm (nếu không phải bận gác trực, tôi và Dũng luôn tìm tới nhau trong những thời giờ thuận tiện) Và điều thân thiết cảm động lý thú nhất (đối với lứa tuổi thanh niên, trong khung cảnh, môi trường sinh hoạt phiền hà, gắt gao kỹ luật của quân trường - lại là một quân trường nổi tiếng kỹ luật nhất trong số các học viện quân sự thế giới) là những giờ phút hiếm hoi kia là dịp để Dũng chia sẻ với tôi về niềm yêu thương trong sáng, thuần hậu đối với Đặng Nguyệt Thi (cô bạn gái cùng đường Nguyễn Hoàng, cùng lớp với anh từ những năm thơ ấu sau lần di cư vào Đà Nẵng, 1954). Tôi đã là tấm gương trung trực nhất (cũng là độc nhất) để hai người trải đủ lên tất cả những chi tiết, tiếng lời, cảm xúc về một tình nghĩa hiếm có (rất hiếm hoi) của thế kỷ nhiễu nhương, và nhiều điều tệ hại đổ vỡ tự lòng người. Tôi được chứng kiến tự ngày đầu Mối Tình Tưởng Như Không Hề Có Thật của Dũng-Thi cho đến nay hơn bốn-mươi năm sau, dẫu đã cách biệt vì một tai họa cắt xé không thể đền bù. Không bao giờ đền bù được bởi sự việc sau đây.. Đêm Giao Thừa Mậu Thân, 1968, Trung Úy Huỳnh Bá Dũng, sĩ quan trực Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn II Bộ Binh đóng tại thị xã Quảng Ngãi; lực lượng cộng sản chiếm hết những điểm then chốt trong thành phố, Trường Kim Thông, khu nhà của Dũng. Đợi đến trời tờ mờ sáng, lúc chiếc xe có thể len lỏi qua những khu vực đổ nát, xác người rải rác, Dũng vội vã trở về nhà dẫu tất cả nhân viên phòng hành quân đồng ngăn cản. Lòng anh là cơn lửa cháy với độ nóng nhất bởi Thi đang mang thai cháu bé thứ hai (sau nầy là Mỹ Linh, hiện tại là một trong những bác sĩ xuất sắc về thần kinh não bộ của Đại Học Berkeley, CA); Thùy Linh còn nằm nôi. Thi chỉ là một cô giáo hai-mươi lăm tuổi không biết gì, không làm được gì hơn những công việc bên trong lớp học, và gia đình. Bạn tôi ôm đứa con nhỏ trên chiếc bụng rộn đập tiếng động của sự sống thứ hai đang thành hình. Gần cổng Trường Kim Thông, xe Dũng bị bắn chận lại, anh rút khẩu súng ngắn cầm tay, nhảy khỏi tay lái chạy vào xóm nhà quen thuộc.. Nhà của Bạn- Nơi Luân Hoán, Đynh Hoàng Sa trú ngụ - Chốn thân thiết mà các bạn, những Hà Nguyên thạch, Châu Văn Tùng,Lê Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Pháp, Trần Mỹ Lộc... Bạn cũ từ ngày còn chung Trường Phan Châu Trinh chọn làm địa điểm vui thú, gặp gỡ thường ngày. Nhưng oan nghiệt thay- Căn nhà đóng kín cửa. Luân Hoán đã về Đà Nẵng; Đynh Hoàng Sa đến nhà bên vợ; những bạn kia đang nơi chốn chiến đấu. Lực lượng cộng sản vốn đầy hiểm độc, kinh nghiệm trong kỹ thuật tác chiến, và cũng luôn khôn ngoan (cách khôn ngoan của kẻ chuyên nghiệp giết người), xử dụng căn nhà làm địa điểm phục kích, vì đã biết rõ một điều: Đấy là chốn của bọn ngụy hằng ngày thường tập họp để không ai sẽ nghi ngờ là một bẫy chết. Dũng chạy nhanh vào nhà.. Toán lính cộng sản đồng nổ súng với tất cả vũ khí chúng có được. Dũng ngã xuống không kịp kêu lên tiếng đau. Cũng không kịp hiểu Chốn Của Bạn nay đã ngụy trang nên thành Bẫy Chết. Cùng một lúc. Thi rú lên tiếng khủng khiếp, siết chặt hai con vào ngực. Đứa bé vụt khóc thét kinh hoàng. Xác của Dũng được xem như chiến công đầu tiên, đáng hãnh diện của toán lính cộng sản. Chúng lột truồng người chết. Úp mặt xuống đất để không ai nhận ra đấy là Trung úy Huỳnh Bá Dũng - Người sĩ quan có nét mặt trong sáng đầy nam tính của những pho tượng Hy lạp, La Mã cổ.
Gần ba-mươi năm sau, ngày tôi đi tù về, bị chỉ định cư trú tại Lái Thiêu (đã nói ở phần trên), mỗi khi cần có chuyện phải về Sài Gòn, tôi thường chọn đường liên tỉnh qua lối Cầu Sắt Lái Thiêu, Nhị Bình, An Phú Đông.. nơi đơn vị anh đã đụng trận suốt năm Mậu Thân, khởi đi từ những ngày đầu xuân khi ở Huế về, tháng Hai, 1968. Đi giữa đường quê yên lắng, thoang thoảng mùi hoa cau, nhưng quả thật lòng tôi nặng phần ủ dột.. Nơi nầy, Nguyễn Ngọc Khiêm gục chết, chỗ vườn mía mà sau nầy Như Phong mướn đất, làm nhà trồng hoa hồng, hoa lan; đây là cầu Ông Đụng nơi Mai Ngọc Liên đã ngã ngữa, bung người lên cao do hứng nguyên băng thượng liên khi thúc đơn vị qua cầu; chỗ kia là của Nguyễn Văn Được phọt ra búng máu tươi khi đang ra lệnh xung phong.. Nhưng đường về, tôi phải chọn ngã qua cầu Thanh Đa, lối Quốc Lộ 14. Vì tại căn nhà 321 Lô I, cư Xá Thanh Đa luôn có tiếng nói... "Mầy hỏi bố mầy ấy chứ, mẹ đâu có biết.. Mầy có lớn đến bao nhiêu, bố vẫn mi mầy trước khi đi làm cơ đấy.." Và khi tôi vừa bước vào thì luôn có lời chào: "Gớm, ông đi đâu mà mất mặt đến mấy tuần nay, bạn ông đợi ông đấy; vào chơi với ông ấy một chút xong tôi cho ăn cái món mà ông và bạn ông thích. Kỳ ở Đà Lạt mỗi chủ nhật đi phố, hai cậu ăn gì tôi cũng biết.." Bữa cơm được dọn lên, dĩa thịt đông, dưa chua, hai cái chén, hai đôi đũa để sẵn.. Ông ăn đi. Ăn với bạn ông. Tôi ngồi nhìn cho vui thôi. Chắc Thi không phải nói riêng với tôi. Thịt đông dưa chua - Món ăn mà hai cậu thanh niên lần tiên đi chơi phố Đà Lạt đầu xuân 1962 đã gọi dọn ra, "vì ngoài mình (Đà Nẵng) đâu có cái món của người Bắc nầy." Trong bữa ăn hôm xa xôi kia hình như Dũng có câu: "Sau nầy, khi hai đứa mình lấy nhau, mỗi khi tới nhà, mình nói Thi làm cho tôi với bạn món thịt đông dưa chua nầy." Tôi nhớ ra câu nói kia khi xắn đầu đũa vào dĩa thịt. Thi nhìn tôi ăn, cười cười như thể có người thứ ba đang ngồi ở đấy. Quả thật Dũng đang có với chúng tôi như một người không hề vắng mặt.
Hóa ra tôi đã chứng kiến, dự phần với bạn tôi, từ cô học trò nhỏ lần di cư 1954, tóc chưa dài tới vai, nay đã thành một lão nhân mệt nhọc, lạc lõng, vô hồn từng ngày nơi đất Mỹ - Cảnh sống kéo dài trong một nỗi chờ đợi thăm thẳm không hề được hiện thực - phi lý, bi thảm gấp vạn lần tình cảnh nhân vật của Beckett đợi Godot. Và bạn tôi, Đặng Nguyệt Thi thật sống với Dũng, bên Dũng, bằng Dũng qua trí tưởng, với ý niệm.. Ông ấy làm thế nầy; ông ấy nói như thế đấy, ông ấy thích ăn cái món đồ do tôi nấu cho ông ăn đây nầy... Dũng hiện diện cùng bạn tôi trong suốt một cuộc đời - băng qua cái chết - vượt lên cái chết suốt ba mươi- sáu năm không một ngày giờ đứt đoạn.
Những chữ nghĩa cào xé sau đây đáng ra tôi có bổn phận viết nên đối với Dũng. Và không phải chỉ chừng ấy, mà phải viết từng đêm, từng ngày, vào mỗi bữa ăn, khi nói đùa trong mỗi câu chuyện sinh hoạt gia đình với Thi, và hai cháu Thùy Linh, Mỹ Linh - Gần nửa thế kỷ chứ đâu ngày một ngày hai bạn ơi. Nhưng quả thật tôi có cảm giác kiệt lực, vô dụng, nên cuối cùng, tôi phải cậy đến những chữ nghĩa xót xa sau đây của Luân Hoán- Người Bạn của Huỳnh Bá Dũng - Bạn của chúng ta.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 9:00:05 GMT 9
...em hỡi em có biết
bậc thềm chúng mình vẫn hôn nhau
trước khi anh ra trận
cánh cửa chúng mình vẫn hôn nhau
khi cuộc săn người tạm dứt
một người bạn anh
một người bạn thân của anh đã đến
đã nằm đó không biết bao lâu
với chiếc áo maillot, chiếc quần lót trắng
với vết máu loang
cùng nước mắt y
vào buổi sáng của một ngày đầu năm mới
Dũng có còn biết không?
mày là que hương tao vừa thắp
cháy suốt cuộc đời tao
Dũng thân yêu
hãy về đó
về trên nụ lệ xanh
tao vay mượn vợ con mày và bạn bè cũ
hãy về đó
về trên lá quốc kỳ phủ quan tài
bay bay trước gió
về trên tay súng anh em
cùng nỗi đau trong ngực
hỡi Dũng, bạn có biết không
tôi gọi tên bạn ngoài phố chết
tôi viết tên bạn lên bậc thềm xưa
và qùi xuống
bạn chết chưa kịp biết
khói lửa vây Sài Gòn
máu xương vỡ tràn ở Huế
và hầu hết nhiều thành phố chúng ta
hỡi Dũng,
bạn chết chưa kịp biết
nỗi đau xót nghìn đời không phai nhạt
hỡi những đầu cầu nào bắt tay nhau
những giòng sông nào kiếm tìm nhau
tôi biết vợ bạn người Hà Nội
bạn người Lăng Cô
gặp yêu nhau từ Đà Nẵng
hai cô cậu chim sâu lộng lẫy ra đời
hát từng giọng Quảng Nam chân thật
sao bây giờ bạn nỡ nằm đây
trên bậc thềm tình tôi heo hút
em hỡi em
anh vẫn thường ao ước
một ngày nào vui tay
anh sẽ vẽ trái tim anh lên vách
đó là một bài thơ
suốt đời anh để lại
nhưng bây giờ anh chợt nhận ra
trên bàn tay anh tím bầm những máu
máu của quê hương
máu của bạn bè
máu của anh
máu của em
tất cả
Việt Nam Việt Nam
bài thơ tôi vẫn là thứ ngôn ngữ ba hoa
với chút tài vặt cũ
nên Dũng dễ gì hiểu cho
anh chết cho chúng ta thêm yêu nước
anh chết cho chúng ta qúi tự do
tội cho anh không kịp thấy
trong sân trường Kim Thông
trên núi cao bên đầu cầu sông Trà Khúc
bên cửa đông doanh trại Sư đoàn
bên lòng dân Quảng Ngãi
những hung thần đã rụng cánh gãy vây
những hung thần đã rơi đầu ở đó
tôi có cần nêu lên
những con số chua cay buồn thảm ?
Dũng hỡi Dũng
hãy thông cảm tôi
cho dù bạn đã chết
đạ bị lột đi bộ quân phục xanh
vẫn mang ra mặt trận
hãy nhớ giùm tôi
cái chết nằm kề chiến thắng
tôi đứng nghiêm khe khẻ đưa tay
ngang mày tôi một trái tim sáng chói
.....
Cám ơn Luân Hoán thêm một lần với những bài thơ để tất cả Bằng Hữu luôn hằng sống, hiện diện đủ với chúng ta. Chân thành gởi đến Đặng Nguyệt Thi bởi đã hiện thực Sức Mạnh của Trái Tim Người một cách đơn giản, lặng lẽ, nhưng vô vàn cao quý. Dẫu Người đã vắng mặt từ những ngày tưởng như không thật cách đây rất xa.
La Puente, CA. 20 tháng 5, 2004. (Ngày của LeThTr) Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:15:21 GMT 9
Người Chết Dưới Chân Chúa
Phan Nhật Nam Sông Tiền Giang mênh mông như bể, chiếc phà lớn chuyên chất ba GMC, vài chiếc xe du lịch bềnh bồng mang chúng tôi qua sông lẫn với đám hành khách đầy mầu sắc. Họ dồn về một phía, nhìn lũ người gươm đao thật xa cách. Tôi ngồi trên mui tầu thả từng mẩu giấy vụn xuống giòng nước, trí não lãng đãng như bọt sóng. Đoàn xe rời quốc lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc-giang qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngất Biệt động quân, Tiểu đoàn 41... Nghe nói hình như Tiểu đoàn trưởng hay Tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe xì xầm bàn tán với một vẻ thản nhiên. Họ không biết chiến trận đã đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn dù gồm có tiểu đoàn chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đã có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước. Đến phi trường, nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền giang, trung tâm của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân. Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ý niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, bình thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận: trực thăng vận đối với nhảy dù chỉ là trò đùa, không có gì mới lạ. Ngày 22, 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về bãi đáp nhả đạn liên hồi để dọn bãi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe mình, nguyên lý của chiến tranh quả thật tàn khốc. Tiếng súng dọn bãi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt mang hai đại hội 71 và 72 vào trận địa. Báo cáo xuống bãi tốt, bình yên. Phần còn lại của tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đã xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu cho đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ. Đụng rồi, đụng rồi... Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xa. Phía trước của tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta, sắc nhọn của địch...Đại đội 72 rút lên bố trí về phía phải của ĐĐ 73. Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ của thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả đạn 57 ly vừa nổ khi ra ngay khỏi nòng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một bàn tay bị đứt. Ông tiểu đoàn trưởng hét lớn qua màu khói... Trung đội anh chạy ra cái nhà tranh... Như vậy là đụng lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rãnh dừa nước, Toàn đang đứng trong một giao thông hao chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong. Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương vùng với hai người khinh binh. Bám cỏ bò lên, xác hai tên Việt Cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát ngực, xác kia nằm xấp, không rõ... Người chết, lần đầu tiên tôi chạm phải một thây chết của đối phương. - Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau, tao bắn gãy giò... Tôi quát tháo cũng ra gì, mấy tên lính đi chậm dớn dác tìm lối qua rạch họ không nhảy qua được vì mang đồ quá nặng. Đ...m... có nhảy qua được không? Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa. Tôi chửi mắng om sòm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt vì phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đã thành một người lạ nào đấy. Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn. Bắn. Trung đội tôi khai hỏa ròn rã. Một vài bóng áo đen ngã xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy. Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng đại đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói mầu xanh làm dấu bãi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngã vào đêm, rừng dừa xanh thẩm lại. Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính mò lại bên cạnh. - Thiếu uý ăn cháo gà. - Cháo gà? - Dạ, gà em bắt được, nó còn ấp trứng... - Thôi mầy cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi. Khi lính trong Trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai tên Việt Cộng. Tên nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của nó trước khi chết. Tôi đặt tay lên một xác chết, da người chết lạnh tanh. Đêm xuống, chúng tôi trải Poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ý tấn công lại nên phải đề phòng. Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi. - Hầm có dấu chân người. Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi. Tôi ra lệnh. - Ai ở dưới, đi lên! Im lặng... - Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu uý, cho em ném lựu đạn xuống. Tên lính hỏi ý kiến. - Không, mầy bắn xuống mà thôi. Tên lính lanh lẹ bắn một tràng Thompson, có tiếng rên khe khẽ. - Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước. Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lão bế một bà lão lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lão chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lão nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương... Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống khỏi cuối đường bay. Hình ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hoảng của hai tên địch chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một tên còn đang ngậm một búng cơm... Những hình ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết của hai vợ chồng và ba đứa con trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt Bộ chỉ huy ở khu nhà thờ, người chống là ông Từ giữ nhà thờ đã đem cả gia đình vào trốn dưới cái bệ thờ Chúa. Tượng Đức Chúa ngả nghiêng, tượng hai Thiên thần rơi tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay nầy thì khám phá ra năm xác chết trên. Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết vì bị xức ép nên thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nét mặt in vẻ hốt hoảng. Tôi ra lệnh kép xác họ ra sân. Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngả, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt... Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm... Thượng đế, ngài có thật đấy chăng? Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô con gái còn phơi phới bay trong gió... Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng, rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết quả là một bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết trong khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang trong trí náo tôi như một tiếng kêu thê thảm không biên giới. Hai ông bà cụ già, tên Việt cộng trể, người cha và người mẹ, họ đã sống, đã chết dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đã qua gần hết cảnh sống. Cô gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi và sầu muộn mênh mông. Đụng lớn. Tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng xông lên truy kích địch để lùa chúng về Quốc lộ Bốn. Bên trái là sông Tiền Giang. Tiểu đoàn ba nhẩy dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây. Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để chạy trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một hốc nhỏ... Việt Cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đun rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như trò chơi. Tôi lầm lì đi giữa hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt Cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên linh hồn còn hồn nhiên. Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu như đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xanh ngắt... Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẳng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không phản ứng. Thằng bé theo tôi cùng tên Hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà... - Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao? Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẳng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy... Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi dây chuyền vàng một đôi bông tai. - Của chị đây hả? Vẫn im lặng, nỗi im lặng ngột ngạt lạnh lùng. - Con mẹ này điên rồi Thiếu úy, chắc sợ quá hóa điên. Tên Hiệu thính viên thì thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nhìn vào những miếng vàng chói trên giấy... Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi Thiếu úy... Ê! Đi đi. Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng. Chị kia quay lại đây tôi trả cái này... Tôi nói vọng theo. Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ chứa đầy sợ hãi, một vẻ hốt hoảng thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi. Chị ta còn trẻ lắm, khoảng trên dưới 27, 28 tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú. Tôi đưa trả chiếc lẳng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống... Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay thả xuống mệt nhọc song song với thân thể... Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta. Ngồi đây. Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tui đi thì chị đi theo... Tại sao khóc, nhặt vàng lên chứ... Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa... Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực. Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng. Không phải như thế chị ơi... Người đàn bà đã hiểu lầm vì tôi...không lấy vàng và bắt đứng lại, chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm. Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên Sĩ quan 21 tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hờn đến ngần này. Tôi đi lính đánh giặc chỉ vì một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến trang bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu với ngộ nhận tủi hổ này... Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh vì lính chúng tôi có thể tàn bạo trong khoảnh khắc, tham lam trong lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ lính tẩy trên quê hương - Người ngoại cuộc của những tàn phá kinh tởm do chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có lòng nào hưởng cảm giác trên xác thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng đau đớn... Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hoà đâu có biết rằng chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà bình yên như giấc mơ của chị... Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm! Tôi muốn đưa tay lên gài những nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, đời sống nào đã đưa chị và cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt cho những ngón tay cởi tung hàng nút cáo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hoà trên khuôn mặt đôn hậu đầy kinh hãi. Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượp ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào khoảng trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: hạnh phúc đến chót sau những đau khổ rời rã, hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bao giờ bị xúc phạm. Quân rút ra gần đến Quốc lộ, con sông đầy thuyền, hỗn loạn bóng người chen chúc, dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước. Tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông. Họ hỏi thăm tình trạng nhà cửa, người thân thích người kẹt trong vùng hành quân. Có tiếng khóc vang lên: “Trời ơi nhà ông Năm bị chết hết cả nhà rồi bà con cô bác ơi!” Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đò. “Lai! Mày đó Lai ơi!” Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ vãng, như nhớ một đời sống đã đi qua. “Lai! Lai ơi, má đây con...” chị đàn bà đứng lại xoay người về phía dòng sông... “Má! Má!” Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: “nhà cháy rồi, nhà cháy rồi.” Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh... Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy thằng lính đứng tần ngần nhìn theo người đàn bà. “Tiên sư, đi lẹ còn qua phà sớm.” Lòng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ... Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho, dân chúng ta ra đứng nhìn cảm phục. Tôi đóng quân ở sân vận động, tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía Gò Công dòng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như linh hồn tôi. Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính mình, gặp Bang ở Biệt Động Quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh Khóa Mười Lăm Thủ Đức về Biệt Động Quân. Bang đãi tôi cơm, tôi chỉ uống đượi chai bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rises, phục Hemingway thì có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng và nhạt nhẽo... Tôi đi về trong đêm khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô con gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa. Ngày mai chúng tôi về Sài Gòn, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước vì chúng tôi biết rằng Sài Gòn đang có biến động, Phật Giáo và Công Giáo xua tín đồ ra đường phố... Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là thù hận khi về đến Sài Gòn, đóng cửa Tổng Nha Cảnh Sát, lãnh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu tình. Tháng 8-1964 - Kiên Hoà Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2014 17:17:22 GMT 9
PHAN NHẬT NAM - Kẻ Phục Hồi Danh Dự Người Chết 09/27/2010 Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, khi các mặt trận ở miền Nam Việt Nam đi tới cực độ tổn thất xương, máu, khi mỗi tấc đất miền Nam là một gải khăn tang, như ý thơ của Lâm Hảo Dũng, thì, sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam cũng bước tới cực điểm phồn thịnh. Nếu lãnh vực âm nhạc, mang lại cho miền Nam một Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Trầm Tử Thiêng, Trần Thiện Thanh, Song Ngọc,... thì, lãnh vực văn chương cũng mang lại cho miền nam một Thế Uyên, Nguyên Vũ, Cung Tích Biền, Phan Nhật Nam, Nguyễn Bắc Sơn,... vân vân... Tùy từng góc nhìn với những cảm nhận riêng tư, mỗi tác giả hiện ra, như một nạn nhân, đồng thời, chứng nhân của cuộc chiến. Tuy nhiên, trong số những nhà văn phản ánh thời điêu linh đổ nát tận cùng này, Phan Nhật Nam là chiếc bóng lớn, cao. Ngay tự tác phẩm đầu tay "Dấu Binh Lửa" in năm 1969, Phan Nhật Nam đã mang lại cho thể văn ký sự một kích thước khác, một linh hồn khác. Đó là kích thước bao trùm nhiều thể văn trong một thể văn. Đó là sự lên tiếng một cách dõng dạc, đâu đó của hình bóng những người lính miền Nam đã chết cho tổ quốc, cho lý tưởng tự do của họ. Với những tác phẩm kế tiếp, như "Dọc Đường Số Một," rồi "Ải Trần Gian" in năm 1970; "Dựa Lưng Nỗi Chết" in năm 1971, "Mùa Hè Đỏ Lửa" in năm 1972, "Tù Binh và Hòa Bình" in năm 1974...Phan Nhật Nam, bằng trang giấy, ngòi bút và tấm lòng trời biển của mình, đã không ngưng nghỉ trong những trường khúc ngậm ngùi tới thắt xót ruột gan người đọc, buộc đòi thế giới phải trả lại danh dự, nhìn nhận chỗ đứng của những người lính miền Nam Việt Nam, trong cuộc chiến tự vệ và bảo vệ tự do của nửa phần tổ quốc. Mỗi dòng chữ ông viết xuống, mỗi thước đường quê hương ông đã đi qua, mỗi người lính ông đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt, đều được ông ghi, nhớ với tất cả rực rỡ của lòng biết ơn chân thành, tinh thần cảm phục nghiêm cẩn; như thể ông được sinh ra để nhắc nhở mọi người, dù ở đâu, bên này hay bên kia chiến tuyến, cách gì thì, tổ quốc Việt Nam cũng đã có những người con như vậy. Với tài năng và trái tim của mình, họ Phan đã nâng cấp thể văn Bút ký, vốn từ vị trí khiêm tốn trong bậc thang gía trị văn học, trở thành một thể văn có giá trị ngang tầm với tiểu thuyết, truyện ngắn chí ít cũng trên phương diện hơi thở của dữ kiện. Những mảnh đời sống nóng bỏng thịt, xương chiến địa, những hoạt cảnh chiến tranh đẫm, dầm tình yêu tổ quốc của những người lính miền Nam Việt Nam, nơi những ngòi bút tường thuật tầm tầm, chỉ có thể mang lại cho nó tính chất phóng sự, thời cuộc. Nhưng, qua ngòi bút Phan Nhật Nam, không chỉ máu, xương người lính, không chỉ cảnh tượng chiến trường mà ngay tới những ngọn cỏ, những cục đất, những viên đá, những lũy trẻ, ngọn cau...cũng đã có được cho nó một sự sống, một linh hồn, một khát khao sinh tồn tới ngậm ngùi, thắt, bóp... Theo tiểu sử do chính ông phổ biến thì, Phan Nhật Nam Sinh năm 1943 tại Thừa Thiên, chánh quán làng Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Phan Nhật Nam là cựu học sinh trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Ông tốt nghiệp khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, cựu sĩ quan binh chủng Nhẩy Dù, 14 năm lính, 14 năm tù cải tạo, trải qua 14 hầm cấm cố tử hình nơi các trại tù từ Nam ra Bắc, năm 1989 ông mới được tạm tha. Nếu trước biến cố tháng 4-75, văn chương Phan Nhật Nam là ngọn lửa ngùn ngụt của tình yêu đồng đội, tình yêu đất nước, thì, những năm tháng trong tù, theo lời kể của nhiều bạn tù thì, họ Phan lại là một trong những ngọn lửa nêu cao danh dự, tinh thần bất khuất của người lính và, cũng là kẻ sĩ miền Nam. Cuối năm 1993, rời khỏi đất nước trong chương trình H.O., Phan Nhật Nam lại tiếp tục cống hiến cho cuộc đời, cho Việt Nam những tác phẩm như "Những Chuyện Cần Kể Lại," viết về khổ nạn Việt Nam không dấu hiệu chấm dứt, kể từ tháng 3-1975, "Đường Trường Xa Xăm" tâm bút của người luôn trên đường đi. Cả hai cùng được in trong năm 1985. Rồi tới Thi phẩm "Đêm Tận Thất Thanh" in năm 1997 - - Là những bài thơ họ Phan viết giữa vũng tối với đêm không cùng của hơn hai mươi năm (1975-1993) nơi các trại tù Long Giao, Long Khánh, Hoàng Liên Sơn, Thanh Hóa; và "Mùa Đông Giữ Lửa" bút ký sau ba năm ở quê người... Dù ở điểm đứng văn chương nào, bút ký hay tiểu luận; thi ca hay tâm bút, người đọc vẫn thấy được một Phan Nhật Nam duy nhất. Một Phan Nhật Nam bất biến, nghẹn ngào với tấm lòng yêu đất nước, con người vốn ngùn ngụt trong ông. Dù đứng ở điểm đứng văn chương nào, giữa quê cha, trong lao tù, hay phơi phới tự do, quê người, người đọc vẫn thấy được một Phan Nhật Nam nhất quán với ngọn cờ phục hồi danh dự người lính miền Nam. Khản giọng khẩn thiết buộc, đòi mọi người phải mãi nhớ, phải biết ghi ơn những người đã nằm xuống cho những giá trị nhân bản bất biến, dù cho hôm qua, họ là những kẻ thua trận. Dù cho hôm nay, những kẻ thất trận kia, những kẻ nằm xuống nọ, đã không có được một nấm mồ, một mộ bia. Tùy từng cảm nhận, tùy từng vị trí, tùy từng tâm cảnh mỗi cá nhân, trong hạn hẹp, phù du một kiếp, người ta có thể đồng ý, hoặc không đồng ý với Phan Nhật Nam. Nhưng bằng vào đòi hỏi công bình, khách quan tối thiểu, khó ai có thể phủ nhận tài năng, nhân cách Phan Nhật Nam. Như thể, người ta không thể phủ nhận cuộc chiến miền Nam, hai mươi năm. Bởi vì, đứng trên mọi chủ nghĩa, mọi lý thuyết, mọi chế độ, trước nhất, Phan Nhật Nam là một người Việt Nam. Kế đến, ông là một người lính. Một người lính, dù thất trận, dù đã phải buông súng, đã tù đầy, nhưng chẳng vì thế mà ông quên ông là một người lính, một người lính của miền Nam Việt Nam. Đúng hơn, ông là người lính tiền phong của tổ quốc Việt. Cũng như trong văn chương, ông là chiếc bóng to lớn nhất của thể văn bút ký chiến trường. Nhờ có ông, mà thể văn này đã có được cho nó một kích thước, một linh hồn mới. Kích thước và linh hồn chữ, nghĩa. 2003.
|
|