|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 5:52:51 GMT 9
Đi câu cá, đi bắt cá
(Trích cuộc thi Viết về nước Mỹ)
Tác giả Kim N.C. cư dân Anaheim, đã viết "Vui buồn nghề Nails", "Người đẹp Hà Thành và nước Mỹ" và “Nước Mỹ Đủ Chuyện”. Sau đây là bài viết mới của bà.
Chị Ba thuộc típ người bình dân học vụ, ăn to nói lớn, thấy gì nói nấy, cũng có khi nói trúng và cũng có khi nói trật lất. Tuy bình dân học vụ nhưng chị Ba cũng phải công nhận nước Mỹ quả thật là cả một thiên đường. Thiên đường không có nghĩa là buổi sáng thức dậy đi bộ nhặt đôla rớt đầy đường như chuyện TV chạy đầy đường ngoài Hà Nội sau 75. Cũng không phải nhà nào ở Mỹ cũng có cây đèn thần như trong truyện Aladin, cứ gõ một cái là thần đèn hiện ra xin cho con bữa nay trúng lớn ở... bicycle. Xứ Mỹ cũng không phải như trong truyện cổ tích, sờ tay vào đâu là thứ ấy biến thành "dzàng" 24 karat. Dù vậy, nhiều chuyện nhỏ nhặt góp lại đủ cho chị Ba khẳng định là được sống trên đất nước Hoa Kỳ là một điều may mắn. Như mọi người mới tới định cư trên đất Mỹ, muốn sống còn thì phải chịu khó cày, vợ chồng chị Ba cày như điên, cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm, cả hai không mơ màng mơ tưởng gì đến chốn ăn chơi đèn xanh đèn đỏ, anh Ba muốn nghe "dạc dẹ cho đỡ dớ dà" (nhạc nhẹ cho đỡ nhớ nhà) thì cứ việc bấm cái nút của máy CD là nghe đủ thứ từ giọng ca vàng đến giọng ca bạc, muốn mờ mờ ảo ảo romantic thì tắt hết đèn đóm đi. Muốn cà phê ư? Sao lại tốn tiền đi Star Buck mà chị Ba gọi là cà phê fom buck, gần 4 đô la một ly cà phê uống vô đứt ruột. Sao lại tốn tiền tốn thì giờ cà kê dê ngỗng ở cà phê neon mờ chi cho nhức đầu nhức mắt vì mấy bộ bikini. Cứ Vina Cafe, 2 đôla 24 gói uống mệt nghỉ, vừa ủng hộ đồng hương, vừa đậm đà hương vị ban mê rồi mở TV ra mà coi và quên đi mấy em mặt mini-bikini cực kỳ hấp dẫn lượn tới lượn lui ở cà phê Dĩ Vãng hoặc mấy em ở cà phê Lú mặc áo dài trong suốt như chẳng mặc gì. Vợ chồng chị Ba cày miệt mài cho đến khi nhà cửa, xe cộ đầy đủ, con cái học hành thành tài lấy vợ gả chồng xong thì thở một cái phào. Hai đứa, à không, 2 ôn mệ già ngồi ngó nhau trong căn nhà mênh mông là buồn thì mới giật mình tuổi thanh xuân nay còn đâu, và chợt "nhìn lại mình đời đã xanh rêu" (TCS). Chị Ba bèn nảy ra ý kiến vô cùng độc đáo mà rẻ tiền: - Anh à, mình kiếm cái gì giải trí đi, để em đi Target mua 2 cái cần câu, thùng đồ nghề rồi cuối tuần 2 ôn mệ đi biển giăng câu. Anh Ba lẩm bẩm mà không dám để chị Ba nghe: - Giăng câu mà đi với em thì còn làm ăn được cái quái gì được. Nói vậy, chứ anh ba hăng hái đồng ý với chị ba, nhưng anh cũng phải cẩn thận nghe đồn đi câu cá cũng phải mua license nữa, lạng quạng mà đi câu không có "bằng" là bị ăn ticket nữa. Anh Ba thăm dò ý kiến với ông bạn già đi câu chuyên nghiệp. Anh Tư Bốn Xị (vì uống đúng 4 xị là xỉn) gào lên: - Ối giời! Đi câu mà dẫn vợ đi thì có mà câu không khí, đàn bà rất nặng vía, ông tin tôi đi. Mỗi khi đi câu tôi dặn kỹ bà xã tôi rằng: Hễ thấy tôi dậy sớm cuối tuần tức là đi câu, bà không cần phải lè nhè hỏi: anh đi câu hả? Cứ hỏi thế là toi, ngày đó xách cần câu về không. Ông ơi, đi một mình đi, giời ơi nhìn nhau cả tuần chưa chán à mà còn đòi dẫn vợ đi câu nữa hở giời. Anh Ba nghe cũng chột dạ nhưng chẳng lẽ giờ lại nói chị Ba đừng đi câu nữa, cá nó kỵ đàn bà nó khoái đàn ông, mà không chừng lại nghe chị Ba ca cải lương cho cả tháng. Thứ bảy, 2 vợ chồng già chuẩn bị chu đáo cho buổi đi câu đầu tiên, chị ba còn cẩn thận đem theo đủ thứ gia vị, mắm muối bánh tráng, rau sống đề phòng "cá cắn câu biết đâu mà gỡ" thì 2 ôn mệ có bữa cá nướng ngon lành. Anh chị ba vác cần câu ghế xếp, thùng đá đi ra cầu Huntington Beach, sáng sớm mà đã có đông đảo người đi câu và không thiếu chi đồng hương. Theo lời anh Tư bốn xị, mùa này có loại cá không cần tốn mồi , chỉ cần móc mồi giả thôi. Anh Ba quăng giây run đùi ngồi chờ... cá, chị Ba ngó quanh quất góc kia có mấy ông Mỹ già câu cá đang la lối với mấy ông già Việt Nam. - Hey, mấy you phải thả con cá này xuống nó chưa đủ lớn để bắt. Mấy ông già Việt Nam thì tiếc của lẩm bẩm: - Mẹc xà lù, cá ở biển cỡ nào mà chả được. Đây là xứ tự do mà. Thế là các cụ cứ từ từ gỡ cá cho vào thùng. Một lát sau cảnh sát tới, mấy ông Mỹ chỉ chỏ về phía các cụ ta. Ở Mỹ tự do có thiệt nhưng luật là luật. Cảnh sát buộc các cụ phải thả con cá về biển chờ nó lớn còn không là bị phạt tiền. Nhờ đi câu chị Ba mới biết thêm một điều, đi câu là để giải trí thôi chứ không được câu quá số cá ấn định. Nhưng người mình thì thừa thông minh để lọt qua cái luật đó, họ câu được 10 con thì xách ra xe bỏ vô thùng đá để quay vào câu tiếp, có khi được nhiều họ đem ra chợ bán bớt. Anh Ba thấy 2 cần câu trĩu xuống thì la lên kêu chị Ba tới phụ, bầy cá đen nhánh, mập ú trông giống cá nục bơi lang thang vướng vào mấy cái lưỡi câu. Anh Ba kéo lên thấy cá toàn là bị lưỡi câu móc vào bụng, chị Ba vui quá đỗi là vui, anh Ba thì nhủ thầm: cá nó đâu có kỵ đàn bà. Tới xế trưa chị Ba thấy càng đông mấy ông đồng hương trung niên cũng có, xồn xồn cũng có, già chát cũng có, vác cần ra gần cuối cầu thì dừng lại buông dây câu. Xong họ đeo kính đen vào quay lưng lại ngắm mấy kiều nữ Hoa Kỳ thơm như múi mít, em nào em nấy như thần vệ nữ trong mấy bộ bikini cực kỳ nhỏ xíu, mấy em lạng phía nào thì mấy anh phe ta quẹo cả cần cổ về phía đó, cho dù mấy ảnh có đeo kiếng đen như mấy ông coi bói ngồi ở lăng ông, chị Ba cũng thấy mấy con mắt láo liên dòm gái muốn lòi tròng của mấy ảnh. Trời càng nóng mấy em càng bò ra cầu càng đông, báo hại cần cổ của mấy ảnh làm việc nhiều hơn, mắt thì hoa lên, mồm thì há gốc ra xém rớt cả răng giả. Tới chiều mấy em bikini vãn tuồng thì mấy ảnh xếp cần câu lại, chị Ba thấy cần câu chẳng có cái lưỡi câu nào. Bữa đi câu đầu tiên, anh ba câu được 8 con cá bự, chị ba đem cá ra vòi nước làm ruột sạch sẽ (ở Mỹ đã thiệt, đã làm cầu cho câu cá, rồi thì chỗ làm cá, “toi le he” cho dân đi câu, quán cà phê kế bên cạnh), xong chị ướp xả tỏi hành muối tiêu gói sẵn vô giấy bạc. Trong khi đó, anh Ba bốc phone ơi ới gọi mấy cặp vợ chồng già, hẹn nhau ra cái lò nướng có sẵn trên bãi cát dưới chân cầu. Chị Ba chạy ra xe đem than, chén dĩa giấy, anh Ba chạy và đi mua thêm nước uống, chị Ba nhúm than lên lửa đỏ hồng. Cá mới câu tươi rói, mùi xả tỏi hành bay lên ngào ngạt. Chị Ba quả là người nội trợ đảm đang tính trước đủ thứ chuyện. Chị lôi trong thùng đá ra nào mắm nêm pha sẵn, bánh tráng, rau thơm, đủ cho một cuộc nhậu dã chiến. Anh Ba cắc cớ hỏi chị: "Lỡ bữa nay không câu được con cá nào thì sao?" chị trả lời: "Thì dzìa ghé chợ mua cá về nhà nướng". Thế rồi đám bạn già của vợ chồng chị Ba tới, gió mát trăng thanh, cá tươi ngọt lịm, mắm nêm thơm phức, ớt sừng trâu xứ Huế cay giòn. Chỉ tiếc là không được uống bia ở biển, những câu chuyện giòn tan cũng đủ lãng quên dời di tản, chị Ba nói nước Mỹ là thiên đường đâu có sai, như giờ đây chị Ba thấy mình đang hưởng một thứ hạnh phúc khỏ tả với biển trời mênh mông mà quên đi "đời là bể khổ, tu là cõi phúc, tình là giây....thun". Từ đấy, cứ cuối tuần là vợ chồng anh Ba đi câu, nay biển này mai biển khác. Tuần rồi anh Ba rủ chị ba đi câu ở Newport Pier. Trong khi anh ba chờ cá, thì chị ba thả bộ ra phía mấy đứa đang chơi trượt nước, chị thấy có một dải đất trải đá tảng dôi ra bờ biển. Chị Ba quay lại cầu rủ anh Ba xách cần ra bờ đá may ra có nhiều cá và phong cảnh hữu tình. Nửa giờ sau chị ba thấy 2 ông cảnh sát Mỹ đi về phía vợ chồng chị mới thả câu họ nói năng xí xa xí xô rồi ra hiệu cho vợ chồng chị theo họ trở vào bờ cát. Tới bãi cát, cảnh sát chỉ vào tấm bảng tiếng Mỹ, tiếng Việt đề huề "No Fishing" "Cấm câu cà" (cà, xê a ca huyền cà, chứ không phải cá, xê a ca sắc cá). À, thì ra chỗ này không được câu cá. Vậy mà chị ba vốn gốc dân Quảng Nam hay cãi, tiếng anh thì nói như gió tiếng có tiếng không, cũng múa tay nói với ông cảnh sát: - Sir ơi là sir, me câu cá chứ không câu cà. Ngài cảnh sát thì gầm gừ: - No Fishing right here, OK Chị Ba cứng đầu cứng cổ, chạy lại cái bảng chỉ chỏ - Sir, you see, cà là cà, me câu cá. Cảnh sát thì vò đầu bứt tai, chị Ba thì mặt cứ thộn ra như bà cả thộn, may thay có cô nhỏ người Việt Nam chạy bộ ghé lại coi sự gì xảy ra, cổ phì cười vì cái bảng viết sai chính tả, cổ nói với chị Ba đi về phía cầu mà câu đi, chỗ này cấm câu cá. Thế là 2 ôn mệ dắt nhau trở về cầu Newport vừa đi vừa phá ra cười, chị Ba nói: - Bữa nay xui quá, đi về ghé vô Đà Lạt Bistro ăn cá nướng xả xui. Một thứ bảy khác, chị Ba bàn với chồng, đi mua một chiếc xe đạp để khi anh Ba thả câu thì chị Ba đạp xe lòng vòng và anh ta tha hồ mà ngắm mấy nhân ngư mặc 2 mảnh. Chị Ba tuy già chứ cũng còn hăng lắm, đạp xe từ Newport tới tận Sunset Beach rồi mới quay trở lại. Buổi sáng sớm không khí trong lành trên còn đường mòn (trail) dành cho người đi bộ và xe đạp, chị gặp nhiều cụ già Việt Nam đi tà tà thanh thản, quả là một buổi sáng tuyệt vời, chị ba thấy mình sống trong thiên đàng. Khi đạp xe qua khỏi cầu Huntington chị Ba thấy một bãi biển dành cho chó, có tấm bảng bằng đá thật to đề chữ "Welcome to Huntington Dog Beach". Hèn chi mà đủ thứ loại chó nô đùa chạy lung ting dưới nước, chưa hết. Thiệt là nước Mỹ hết chỗ nói, họ chu đáo đến độ chị Ba thấy mấy cái thùng to như thùng thư có đề bảng "Here dog bags", đây rồi cờ tây, à không phải, "đây này, bao hốt phân cho chó". Rồi thì chị Ba thấy mấy ông bà Mỹ chủ nhân của đám chó đang "èn doi" dưới nước, họ đứng trên bãi cát, tay cầm khăn, tay cầm lược gọi chó cứ rối rít cả lên, nào là: - Shushi lên bờ ngay kẻo lạnh, honny. - Ti, ti, come here, không tắm nữa, I miss you, baby. Rồi thì họ ôm chó hôn hít như hôn con nít, chị Ba ngẩn người ra làm thơ: "Kiếp sau xin chớ làm người Làm chó ở Mỹ cho đời lên hương" Ngắm chó đã đời rồi chị Ba chạy tới Seal Beach ngắm mấy đám chơi truợt nước. Khi đạp xe ra khỏi Seal Beach chị ba nhìn ra khơi thấy những tàu chiến có súng cà nông màu xám ngắt, nhìn xa trông giống như những hòn đảo ở Vịnh Hạ Long bên Việt Nam làm chị ba chạnh lòng nhớ quê hương vô kể. Bên kia bờ là quê nhà mà sao đạp xe hoài không thấy tới. * Có buổi tối bạn anh Ba gọi phone ơi ới: - Tối nay cá lên bờ đẻ, chuẩn bị đi bắt cá nha, tui đọc báo Mỹ đàng hoàng, họ nói ở biển Seal Beach đúng 11 giờ đêm nay, mà nhớ nhen không được bắt bằng rổ hay lưới mà chỉ được bắt bằng tay thôi. Chu cha, chưa bao giờ chị Ba thấy biển đêm mà đông đảo người đồng hương VN như vầy. Bà con ơi ới gọi nhau ầm lên cả một vùng biển làm chị ba tưởng đâu mình đang ở biển Vũng Tàu. Mà thiệt ngo,ä đúng 11 giờ cá theo những ngọn sóng dạt vào bờ, ngoáy cái đuôi xuống cát để đẻ trứng xong theo sóng trôi ra biển, đứa nào chậm chân thì bị phe ta tóm cổ. Thực sự thì cũng không dễ bắt, chị Ba thấy cá đập vào cả chân mình rõ ràng, chị chụp cả 2 tay tưởng đâu 2 con cá ai dè toàn là cát không. Không khí bắt cá tưng bừng nhộn nhịp, mỗi lần cá lên bờ là la hét khan cả cổ, cho đến quá nử đêm vợ chồng chị ba mới đi về. Có bữa chị ba tính đi câu ở Dana Point thì mấy đứa bà con của anh Ba gọi tới rủ đi câu ở đâu xa lắm, anh Ba an ủi vợ: - Tuần này em ở nhà, bọn thằng Bình mới mua cái canô nhỏ, anh sẽ mang nhiều cá về cho em tha hồ mà nướng. Câu cá ngoài khơi đâu chẳng thấy chỉ thấy chiếc xe truck kéo chiếc canô chở anh Ba và đám đàn ông chạy tót qua biên giới Mễ phía San Diego, anh Tư bốn xị, giờ này toét miệng ra giải thích: - Bữa nay mình đi câu ở Mexicô bảo đảm cá tôm đầy thuyền. Tối đó đám đàn ông Cali vui chơi thỏa thích trong khu phố Tijuana đèn xanh, đèn đỏ, đã đời rồi cả bọn lái xe vô thêm 4 giờ nữa mua cá tôm dấu vào thùng xe rồi dọt lại về Cali, an toàn trên xa lộ, chị Ba ở nhà sốt ruột vì qua đêm mà chưa thấy chồng về, cell phone thì anh Ba đã tắt lấy đâu mà gọi. Sáng sớm chị Ba đã ra trước sân ngóng, tay bấm phone lia lịa gọi từ nhà này qua nhà khác, chiếc xe truck của thằng Bình vừa dừng trước cửa, anh Ba bước xuống với một thùng cá tôm, chị Ba lúc này đâu có tơ tưởng gì đến lũ cá lũ tôm đó, chị nhìn chăm chăm vào chiếc canô khô khốc không thắm một chút nước nào, để cho chắc ăn chị bước tới nhìn chiếc tàu cho rõ, quay lại bên cạnh anh Ba chị hỉnh hỉnh mũi đánh hơi thấy mùi nước hoa là lạ. chị Ba vừa chống nạnh vừa quắt cặp mắt lên, tính la toáng lên thì bọn thằng Bình bèn cứu bồ anh Ba đang đứng đờ ra như cột đèn, nó ngồi trên xe chỏ miệng xuống. - Xin lỗi chị Ba, tụi em đi câu xa quá nên về trễ, thông cảm nhe bà chị. chị Ba te te đi vô nhà đóng cửa một cái rầm, anh Ba đi vòng ngõ sau xách tôm cá vô nhà. anh Ba giả bộ con nai vàng, giả lả nói với chị Ba: - Có chuyện gì dậy em cưng? anh về trễ chút xíu mà. chị Ba xù lông, xù cánh dữ tợn như con gà mái mẹ sẵn dàng xông trận đá lộn với địch thủ gà trống, chị gầm lên: - Nè, bọn anh đóng tuồng dở quá, giờ trả lời cho tui biết. Cá tôm mua ở chợ nào? đêm qua câu được mấy con "ghẹ"? "ghẹ" gốc nào mà biết xài nước hoa nồng nặc như mùi nước hoa chợ lớn của mấy ông thợ cạo vỉa hè. anh Ba gãi đầu, gãi tai - Em nói năng gì mà linh tinh quá đỗi, anh đi câu rõ ràng, em không tin thì hỏi. .... chị Ba rít lên như tiếng gió bão Evan - Hỏi ai, hỏi ông cai bến đò à.... Tui truyền đời báo danh cho mà biết, kể từ rày sắp lên, biểu bọn thằng Bình, Tư Bốn Xị đừng hòng qua mặt gái già này, đi câu gì mà tàu bè khô rốc, hộp mồi còn nguyên. Đi câu gì mà áo quần nồng nặc mùi thơm điếc mũi. đi câu gì mà.... chị Ba tiến tới gần anh Ba, kéo ra một sợi tóc nâu dài óng ả (điều này không thể chối cãi vì chị Ba cắt tóc demi gargon) chị dí sợi tóc vào mặt anh Ba: - À, há, cá này loại gì mà tóc dài dữ vậy, hay là ông lặn xuống thủy cung gặp được người cá? Rồi thì máu Hoạn Thư nổi lên, chị Ba nhéo lỗ tai anh Ba như hồi nhỏ thấy giáo nhéo tai học trò, chưa hết chị chạy bay vô bếp lấy con dao chặt xương (dao này chị Ba đem từ Saigon qua làm bằng sắt đường rầy) rồi sẵn tay chị chụp cây búa. Thế là tay dao tay búa chị phang tới tấp vô thùng đồ nghề và cái cần câu vô tội vạ, hú hồn tưởng đâu phen này anh Ba bỏ mạnh ở ô Cầu giấy. Thế là chiến tranh lạnh âm ỉ cả tháng rồi anh Ba thú thiệt điều chị Ba mới nguôi ngoai nỗi hận đồ bàn, từ đó cuối tuần, 2 ôn mệ chỉ còn cách ra vườn, ngó lũ cá bàng tớp tớp cái mỏ không nói ra lời, chị Ba vốn nóng nãy nhưng mau quên, nhớ lời má dạy trước khi đi Mỹ rằng: sống là phải biết "forget and forgive", chị thấy chồng lủi thủi với lũ cá vàng hoài cũng tội, chị bèn xách xe chạy lên Target sắm lại đồ nghề đi câu, trở về nhà chị chất ghế, thùng đá, thức ăn lên xe. anh Ba đang nằm dài mơ tưởng tới mấy người đẹp da nâu ở miệt Tijuana chị Ba tới bên khều khều: - Ông già gân, dậy mau đi câu với mệ. anh Ba bật dậy nhanh như chớp: - Câu thì câu, sợ gì......
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 5:59:15 GMT 9
Về đồng câu cá rô đồng Sau một buổi thả trâu, những đứa có "tay sát cá" thường mang về 2-3 xâu cá rô dài ngoẵng; đứa ít cũng được mươi con, đủ để làm dậy lên mùi thơm ngậy cho mâm cơm lam lũ. Mẹ tôi thường bảo "siêng đi tát, nhác đi câu, muốn mau đầy bầu xách nhủi đi nhủi", vừa để "tổng kết" kinh nghiệm bắt cá, vừa có ý... xem thường hiệu quả của việc câu. Nhưng trong thời gian lúa còn đứng cái, hễ thấy tôi vác theo cây cần mỗi khi dắt trâu ra đồng, lại không thấy bà đọc câu ấy, mà ngược lại, còn nhìn tôi bằng ánh mắt hài lòng, khuyến khích, động viên... Hồi nhỏ ở quê, năm nào cũng vậy, hễ vừa hết tháng giêng là bọn trẻ chăn trâu chúng tôi lại rủ nhau đi lùng tre nhánh. Cây trúc dùng làm cần câu vừa dẻo, vừa thanh, khi cá dính mồi giật lên là nghe vút một cái bén ngọt, nhưng chúng tôi vẫn thích chiếc cần câu làm bằng tre nhánh hơn. Đơn giản là vì ngọn trúc hơi quều quào, trong khi để câu trong ruộng lúa đang xuân um tùm lá, tốt nhất là dùng loại cần có ngọn cứng cáp, để giữ cho sợi dây câu khỏi lùng nhùng... Tre nhánh chặt về, lấy nẹp ghim xuống đất, coi đoạn nào vẹo vọ thì nắn lại, vít thật chặt rồi chất rơm lên đốt. Chưa đầy một giờ đồng hồ, những chỗ cong ấy đã được định dạng lại, thuỗn ra, được ngay chiếc cần câu như ý. Cuối tháng giêng đầu tháng hai, thường là lúc lúa đang đẻ nhánh, đứng cái, làm đòng đất. Thời điểm này phù du trong ruộng chưa nhiều, cũng chưa có phấn lúa, mồi khan nên cá thường rất đói, dễ câu. Dắt trâu ra đồng, tìm một cái gò mả to cột dây để đó rồi vác cần đi một vòng thám thính, nghe đám ruộng nào có nhiều tiếng cá quẫy thì dừng lại, thả câu. Tốt nhất là thả câu vào những đường phân rãnh của đám lúa, vì đó là nơi lúa mọc thưa hơn, dễ thả câu và cũng là nơi sâu nhất trong đám ruộng bằng phẳng, nên có nhiều cá hơn. Hồi xưa, thuốc trừ sâu không bị lạm dụng như bây giờ, cũng chưa ai nghĩ ra trò bắt cá bằng xung điện, nên cá rất nhiều. Chỉ sau vài cú nhấp, đã thấy sợi dây cước căng lên, cá đã cắn câu... Sau một buổi thả trâu, những đứa có "tay sát cá" thường mang về 2-3 xâu cá rô dài ngoẵng; đứa ít cũng được mươi con, đủ để làm dậy lên mùi thơm ngậy cho mâm cơm lam lũ. Mẹ tôi thường bảo "siêng đi tát, nhác đi câu, muốn mau đầy bầu xách nhủi đi nhủi", vừa để "tổng kết" kinh nghiệm bắt cá, vừa có ý... xem thường hiệu quả của việc câu. Nhưng trong thời gian lúa còn đứng cái, hễ thấy tôi vác theo cây cần mỗi khi dắt trâu ra đồng, lại không thấy bà đọc câu ấy, mà ngược lại, còn nhìn tôi bằng ánh mắt hài lòng, khuyến khích, động viên... Nhưng khi lúa bắt đầu trổ thì việc câu cá rô ở ruộng không còn dễ dàng như vậy nữa. Phấn lúa rụng trắng mặt nước, cá ăn không hết, còn mơ tưởng đến những món mồi khác làm gì!... Nhưng bọn trẻ chăn trâu chúng tôi vẫn cứ thả câu. Vì tin chắc rằng trong đàn cá kia thế nào cũng có con thích mồi lạ, (cũng giống như bây giờ một số người có tính mà thiên hạ gọi là "chán cơm thèm phở" đấy thôi). Quả nhiên, vẫn có nhiều con cá chịu đớp mồi. Và, có vẻ như hầu hết những con dính mồi, trước đó đã ăn rất nhiều phấn lúa nên căng mẩy, mập phởn. Một buổi câu lúc này thường chỉ được dăm bảy con, nhưng quy đổi chất lượng thì chắc cũng ngang bằng với cả xâu cá câu được khi lúa còn con gái, vì độ này con nào con nấy vừa mập, vừa mềm, vừa béo... Nướng trui thì hơi tốn lửa tốn than, nhưng bỏ chảo chiên xù thì lợi dầu là cái chắc. Ruộng khi xưa lúc nào cũng sẵn cá. Trẻ con chăn trâu đứa nào cũng sẵn cần câu. Trong nhà, lúc nào cũng sẵn hũ mắm cái, bên ảng nước đã có bụi gừng, còn cây ớt hiểm ở góc sân đã lúc lỉu trái tự lúc nào... Tất cả đã chờ đợi, đã sẵn sàng cho những cuộc "gặp gỡ" nồng nàn vị quê, vị đất trên mâm cơm nhà nông... Xưa là thế, còn bây giờ ? Hiếm thấy ai vác cần ra đồng câu cá rô, mà cũng còn cá nữa đâu mà câu(!?). Ruộng vẫn tốt tươi sắc lúa, đồng vẫn ăm ắp nước, nhưng đã thiếu vắng một thanh âm gì rất đỗi thân quen. Phải rồi, tiếng quẫy của cá rô đồng, ngắn, giòn và có phần... rạo rực!... Tác giả: thientuongnt CÁ RÔ ĐỒNG LỘI NƯỚC MẮMĐặng Ngữ Điên điển mà đem muối chua Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm Nhà văn Sơn Nam khi còn sinh tiền đã từng thố lộ rằng, mùa nước nổi về Đồng bằng sông Cửu Long phải ăn cá rô kho tộ mới đã.“Mùa nước nổi con cá rô ăn lúa, ăn cào cào, phiêu sinh vật, nên mập lắm. Cá làm sạch ướp muối, nước mắm hòn, kho gần cạn mùi thơm chịu không nổi. Cá kho sền sệt lại rắc tiêu, ăn với cơm gạo mới, chấm bông điên điển hay là bông súng đồng ngon lắm. Món cá kho tộ tuy đơn giản vậy, nhưng nó là kết tinh của đất trời đó. Em nghĩ coi, tộ phải làm từ gốm Đồng Nai, rồi muối Bạc Liêu, nước mắm biển, tiêu Phú Quốc”. Cha ơi, “chỉ nghe tiếng nói mà đem lòng… ưu tư”! caro Biết tui về Miền Tây, anh Võ Đắc Danh nhắn tin "Mày về dưới mùa này, nhớ tìm ăn cho bằng được món cá trê vàng nấu cỏ xước nghen". Anh chơi khó em rồi nghe anh Danh, em vốn thằng tham ăn tục uống, nghe ở đâu có món hay hay thì thường tìm cho bằng được. Thương nhau như thế chả khác gì đem búa chơi nhau. Con cá trê vàng bây giờ khó kiếm lắm, trong thiên nhiên không còn mấy, người ta chỉ nuôi cá trê trắng thôi. Cây cỏ xước, từ thưở cha sinh mẹ đẻ đến giờ em chưa hề nghe qua anh Danh ơi. Cứ cạ cạ mấy người người quen ở Cần Thơ, Hậu Giang mà hỏi "Ê, ông có biết cây cỏ xước là cây gì hôn dậy". Hỏi từ ngày thứ năm, qua đến hết ngày tháng sáu mà chẳng ma nào biết. Thằng bạn miệt vườn Vị Thanh thấy mình vật vã như lên cơn nghiện thiếu thuốc liền an ủi "Thôi, không ăn được cá trê vàng nấu cỏ xước thì tui đãi ông món khác vậy. Món này có khi còn độc hơn món của ông nhà văn kia nhiều, chỉ sợ ông ăn xong không muốn dìa lại trển". Tay miệt vườn cứ dền dứ mãi mới cho biết cái món mà hắn dự định đãi tui chiều nay: CÁ RÔ ĐỒNG LỘI NƯỚC MẮM. Hehehe...cái này hay à nghen bà con. Mùa này, con nước lớn từ bên kia biên giới – vùng Biển Hồ – chỉ mới lấp ló nơi Tịnh Biên, con cá Linh đương lớn chưa kịp về tới miệt Hậu Giang này thì bông Điển Điển vàng ươm đã nở bung ngoài bờ mẫu, ven nhà. Ngoài đồng, lúa nơi những cánh đồng lớn đã khoác lên mình một màu nắng bất tận chân trời. Vài nơi, những thửa ruộng gặt sớm, đã thấy người ta lùa vịt chạy đồng mải miết từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Nơi khác, lúa vừa qua thì con gái vẫn còn ngậm hơi sữa thơm tho. Gió tha hồ chạy nhảy từ rặng tràm vàng đương bông phía xa xa đến đây kể với ta rằng đã bắt đầu mùa đẹp nhất của vùng đất phương Nam này. Mùa này, "mùa nước nổi, con cá rô ăn lúa, ăn cào cào, phiêu sinh vật, nên mập lắm". Thường nói đến cá rô, người ta hay nghĩ đến món cá rô kho tộ, cá rô kho trái giác hoặc cá rô chiên giòn chấm nước mắm gừng. Hấp dẫn hơn thì có món cá rô bí (cá rô con vài tháng tuổi) chiên sơ chấm nước mắm me cũng có thể liệt vào hạng tuyệt cú mèo. Gần đây, mấy nhà hàng giả miệt vườn ở Sài Gòn hay bày cho thực khách dùng món cá rô nướng mọi, cá rô nướng lá chuối... Mấy món đó kể ra cũng ngon nhưng ngồi giữa Sài Gòn nóng bức như vầy, tay cầm đũa khều khều con cá rô nướng to tổ chảng rồi một hai ba dô dô thì mười phần ngon chỉ còn được một hai. Dân Miền Tây thấy dậy thể nào cũng chọc quê: xưa rồi bưởi. Con cá rô đồng, lựa những con cỡ bằng ngón giữa và ngón trỏ cộng lại thì vừa hoặc lớn hơn chút xíu cũng được. Chớ ham mà lựa những con to tổ chảng vì cá rô ngoài tự nhiên không còn mấy con to cỡ vậy. Cá nuôi dù to đến mấy cũng không thể so bì với con cá rô ngoài đồng. Lựa xong con cá rồi thì đem rửa sơ cho sạch meo và thả vào cái cà om. Không có cà om thì có thể dùng cái khạp loại nhỏ cũng xong. Dùng nước mắm mặn (nên nhớ dùng nước mắm mặn thứ thiệt chứ không phải nước chấm như loại dân thành phố bây giờ hay dùng đâu nha) cho vào cà om, nước mắm cho sâm sấp đến sống lưng con cá thì vừa. Con cá rô rộng trong cà om với nước mắm chừng 30 phút thì uống mắm chịu không thấu nên lật trắng bụng mà dãi nhớt cũng theo đó mà ra hết. Lúc này vớt cá ra cho vào rổ (rổ tre đan càng tốt), mỗi con cá rô được cuốn chặt trong một lớp lá chuối già. Sau đó, đem nướng thẳng mà không cần tẩm ướp thêm bất kì một loại gia vị nào. Than nướng nên dùng loại than củi, cá nướng đừng để cho già lửa quá, khi thấy lớp lá chuối chuyển sang màu vàng và giòn thì dừng. Nếu không có sẵn điên điển muối chua thì có thể hái ít húng quế và dấp cá trong vườn nhà thì cũng được gọi là âm dương giao hòa. Hãy tưởng tượng cảnh này mà xem: một buổi chiều ngồi cùng với mấy anh Hai, anh Ba, anh Tư nơi nhà mát, gầy cuộc nhậu không cần bầy biện rườm rà, vài con cá rô đồng lội nước mắm nướng lá chuối và chai ba xi đế loại của nhà để dành đãi khách. Gió tây từ phía kinh xáng Xà No thổi tới mát lồng lộng, dùng ngón tay vấu một miếng cá, kẹp thêm vài lá húng quế lẫn dấp cá; sau đó với tay làm một li ba xi đế và đánh cái khà. Con cá rô đồng đầu mùa nước vừa dai lại vừa béo, nước mắm thấm vào trong từng thớ thịt cá làm dậy vị nơi đầu lưỡi, dớp cá có vị hơi chua chút xíu cộng với mùi húng quế thoang thoảng, hơi ba xi đế cay cay vẫn còn nồng nơi vòm họng. Tía má ơi! ngon hết biết à nghen bà con. Tui đây chỉ mới nghe thôi đã muốn đi nhảy sông cho bớt đi cái sự sướng đang động cỡn lên trong hồn người.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:02:19 GMT 9
Soi cá Tôi không phải là người soi cá chuyên nghiệp, nhưng tuổi thơ tôi đã có nhiều lần theo cha rong ruổi trên đồng trong những đêm trời không trăng để chiêm nghiệm về nghề. Cha tôi nói, người nào sát cá mới kiếm được cá, còn tôi không sát cá nên chỉ lẽo đẽo theo sau để mang giỏ, mang đục. Người xưa thường nói nghề soi cá là một nghề hạ bạc: Nhất đâm hà bá, nhì phá sơn lâm, sớm muộn gì rồi cũng phải giải nghệ, nghèo lại hoàn nghèo. Ấy vậy mà, ở nhiều vùng nông thôn hiện nay, nghề "săn hà bá" trở thành một nghề kiếm sống chuyên nghiệp của không ít hộ nông dân. Ngày qua ngày, họ tẩn mẩn với những thứ công cụ không thể không có như: Chĩa, đèn pha, bình ắc qui, đục, giỏ xách,... xem chúng như là người bạn thân thiết trên mỗi bước đường mưu sinh. Tôi không phải là người soi cá chuyên nghiệp, nhưng tuổi thơ tôi đã có nhiều lần theo cha rong ruổi trên đồng trong những đêm trời không trăng để chiêm nghiệm về nghề. Cha tôi nói, người nào sát cá mới kiếm được cá, còn tôi không sát cá nên chỉ lẽo đẽo theo sau để mang giỏ, mang đục. Đi soi cá phải đi vào những khúc sông, bờ ruộng vắng vẻ, ít người lui tới, hay ít ra chưa ai qua trước mình, nên cha tôi thường dẫn tôi đi vào những đám ruộng hoang, hoặc gần khu nghĩa địa. Mỗi lần qua những chỗ đó, chân tôi như quíu lại, tim đập thình thịch. Nhiều đêm trời rỉ rả mưa, sấm chớp liên hồi, tôi càng lo sợ, nhưng nhất quyết không chịu ở nhà. Vào cuối mùa lũ, khi trên ruộng nước còn xăm xắp cũng là lúc cá tập trung nhiều, đi soi không biết chán, chỉ có điều vì sợ ma nên cảm giác tiếng khua nước bì bõm sau lưng như tiếng ai đang thúc giục, nghe rờn rợn. Nhiều lúc vác chĩa trên vai, tôi phải thoi thoi ra phía sau lưng đề phòng 'con ma' tấn công. Quả là dại tính, nếu lỡ có ai thình lình đi tới, chắc chắn sẽ bị lãnh đủ 7 mũi chĩa vào trán một cách bất ngờ mà không kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nghề soi có lắm điều thú vị, nhưng cũng không kém phần gian nan, vất vả, vừa phải lặn lội nơi "thâm sơn cùng cốc", vừa phải thức trắng đêm, có lúc phải dầm mưa, đội sấm, đội chớp. Đó là chưa kể đến việc sắm sửa bộ đồ nghề sao cho thích hợp để có được nhiều cá, soi trên đồng ruộng thì bộ đồ nghề phải khác so với khi đi soi trên kinh rạch. Nhưng một thứ không thể thiếu là chiếc đèn pha và chiếc bình ắc qui. Đèn pha phải là loại có chụp gom ánh sáng và phải là thứ ánh sáng trắng xanh, thường phải đeo trước trán để ánh sáng đi thẳng về phía trước giống như đèn của công nhân khai thác mỏ. Bình ắc qui thông thường là loại 6 vôn hoặc 8 vôn, nếu đi soi trên ruộng thì phải dùng túi vải đeo bình trên lưng, nếu đi soi dưới kinh thì bình sẽ được đặt dưới gầm xuồng. Bộ chĩa soi cá thông thường là chĩa chùm 7 mũi hoặc 5 mũi, kích cỡ mũi chĩa tùy theo chủ ý của người đi soi, nếu muốn soi cá lớn thì dùng chĩa mũi lớn và dài, ngược lại muốn soi cá nhỏ thì dùng chĩa mũi nhỏ và ngắn, nhưng các loại chĩa đều phải có mũi bén và nhọn. Người đi soi chuyên nghiệp thường họ mang theo cả hai loại chĩa trên để tiện khi gặp 'đối tượng' nào thì sử dụng 'hung khí' ấy. Muốn soi cá lớn thì phải ra sông, kinh rạch hoặc đi vào những chỗ đầm lầy ít người lui tới. Soi cá trên sông thì phải sử dụng phương tiện là xuồng ba lá, người cầm chĩa thì đứng trước mũi, người còn lại cầm lái và có nhiệm vụ bơi chầm chậm, đảm bảo xuồng lướt êm không gây tiếng động. Phải công nhận rằng, chỉ có con nhà nghề mới có thể đứng vững trên chóp mũi xuồng tròng trành như vậy mà không hề té ngã, trừ trường hợp người cầm lái lơ đễnh để lái xuồng va vào gốc cây thì dù có thánh cũng không tránh khỏi nhào xuống sông. Vào ban đêm, cá thường ngủ cặp mé bờ, cho nên xuồng đi soi không ai dại lại bơi ra giữa dòng. Con cá lóc rất kỹ tính nên hay ngụy trang dưới cỏ hoặc nấp sau bụi rong; cá trê lại thích bơi theo đàn có khi cả chục con, chúng bơi sát đất và tập trung nhiều ở những miệng cống có nước ra vào thường xuyên; con cá rô, cá sặt khi gặp ánh đèn chiếu sáng thì nằm im re, chỉ cần nhanh tay 'phập' một phát là chúng tiêu đời. Đi soi bằng xuồng đòi hỏi người soi phải nhanh tay, lẹ mắt, nếu chậm một chút thì xuồng lướt tới, con cá sẽ chuồn mất. Dù khó khăn như vậy, nhưng đối với người đi soi chuyên nghiệp thì mười con như một, ít khi bị sẩy. Độc đáo hơn, để đi soi được nhiều khúc sông trong đêm, bây giờ người ta còn dùng loại máy đuôi tôm hiệu Honda gắn trên xuồng ba lá chạy chầm chậm êm như ru, vừa chạy vừa soi, con cá nào xui xẻo gặp những tay thiện xạ như thế thì coi như chầu trời không kịp ngáp. Đi soi trên ruộng thì đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, nước trên ruộng thì ít lại thường không trong trẻo lắm, cho nên người đi soi phải căng mắt ra tìm kiếm. Vả lại, nếu lội xuống ruộng thì cũng phải lội sao cho nhè nhẹ, tránh bước chân nghe 'xồn xộn', nếu không cá sẽ chạy mất. Thời điểm tháng 10, 11 âm lịch là mùa đi soi cá trên sông sôi động nhất, người ta hy vọng kiếm thật nhiều cá lóc để làm khô bán Tết, những loại cá vụn vặt như cá rô, cá trê, lươn,... thì làm khô để dành ăn, có khi đem ra đãi khách nhâm nhi mấy ngày xuân hổng chừng được khen là... đặc sản. Cách nay khoảng 2 thập niên, người ta còn sử dụng đèn khí đá đi soi, có khi là đèn măng - xông, hoặc chỉ là chiếc đèn dầu leo lét nên sản phẩm thu được hiếm khi là cá, mà chủ yếu là rắn, lươn, ếch, nhái... Thế nhưng, đời sống người dân nông thôn thoải mái hơn bây giờ nhiều. Của tự nhiên, nếu khai thác mãi mà không có biện pháp bảo vệ, thì sớm muộn gì cũng cạn kiệt. Về sau, người đi soi đông dần và con ếch, con nhái cũng thưa dần tiếng kêu gọi bạn vào những đêm mưa. Người ta chuyển hướng qua soi cá với nhiều kiểu soi tận diệt, con cá lóc đồng cũng không kịp lớn. Hậu hỉ Tết nầy mời bạn ghé quê tôi, bên mâm cỗ mấy ngày xuân còn có thêm món khô cá lóc, cá sặt trộn gỏi xoài sống để có thể ngồi bên nhau nhâm nhi mà kể chuyện soi cá, bắt ếch miệt đồng. Bạn sẽ cảm nhận thêm hương vị mộc mạc mà đầm ấm của những ngày xuân thôn dã. Tác giả:NHẬT LINH
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:05:42 GMT 9
Nghề câu của dân quê Hai tháng rồi, ruộng cấy xong, lúa đang đứng cái và gần có đòng đòng. Nhà nông rảnh việc. Mùa câu kéo bắt đầu, sau những đám mưa dầm. Nghề câu của dân quê không giống sự tiêu khiển nhàn nhã của dân thị thành mà thỉnh thoảng người ta cũng thấy ngồi buông câu ở bờ sông để… Ảnh minh họa Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa. Hai tháng rồi, ruộng cấy xong, lúa đang đứng cái và gần có đòng đòng. Nhà nông rảnh việc. Mùa câu kéo bắt đầu, sau những đám mưa dầm. Nghề câu của dân quê không giống sự tiêu khiển nhàn nhã của dân thị thành mà thỉnh thoảng người ta cũng thấy ngồi buông câu ở bờ sông để… chờ bữa cơm tối, hay để “giết” một sáng chủ nhật! Ở đồng quê, nó là cả một nghệ thuật và cả một công việc đổ mồ hôi. Phải chịu thức gần phờ râu mới biết giống cá đồng chỉ thèm đớp tới mồi câu vào khoảng đầu hôm đến canh một và từ canh ba đến sáng! Phải năm cơm bảy cháo mới rõ cá lóc có tật ăn “mồi chạy” bằng nhái sống, cá trê ăn bãm bằng mồi cắt[1]và hơi ngầm. Có những đêm trời lạnh tái môi mà phải cởi trần truồng nhảy xuống ruộng, tay đập muỗi, tay vét rong, gặp môn, nghể không từ, đụng rắn, đỉa chẳng sợ… để dọn “luồng” nghĩa là dẹp một khoảng trống trước khi cắm câu! Ðó là nói chuyện ruộng nhà, chớ gặp lúc ruộng mình khan cá, mò qua bên đất ngưòi ta thì còn phải chịu biết bao nhiêu là khổ sở hơn nữa. Tôi chưa từng làm thằng ăn trộm, nhưng tôi chắc đi câu lén không sướng hơn thằng ăn trộm chút nào. Ừ, thì chim trời cá nước, ai bắt được là ăn, tại sao người ta hay cự nự? Có hai lẽ. Lẽ thứ nhứt là ai có của cũng muốn để hưởng một mình, dầu chưa có biết hưởng được hay không. Lẽ thứ hai là kẻ câu lén hay làm chết lúa. Thằng ăn trộm đi ngã sau vường không khi nào biết tiếc mấy ngọn rau, ngọn cải, không khi nào có ý bước tránh cho khỏi giẫm chưn lên đám đậu, cây cà. Thì thằng đi câu lén có khác gì? Cứ chỗ nào lúa cao là đoán rằng nước sâu, gặp chỗ nào kín đáo thì dọn luồng, dầu phải nhổ phăng đi cả chục bụi lúa cho trống trải, nó cũng không từ! Nhưng đó là… ai kìa, chớ tôi, tôi là một kẻ từng lượm mót từ hột ngọc trời, từng cắm từ cộng lúa, có bao giờ tôi đang tay bứt cả cội nguồn. Chẳng dám vỗ ngực xưng mình “tốt” gì hơn ai, bởi tôi cũng đã từng đi câu lén ruộng người ít lắm là vài chục lần, nhưng đến đâu tôi cũng giữ gìn phải phép lắm! Năm ấy, nước giựt sớm, mà ruộng tôi hơi gò, nên cá rất ít. Nghề làm ăn, đã sắm lỡ câu kéo, xuồng bộng, không lẽ đem treo lên giàn bếp… nên tôi đành làm… con vạc ăn đêm! Một đêm nọ, lấy theo mười đường câuy, tôi đẩy xuồng, bỏ sạp dài tử tế đem nào nóp, nào bếp un, một cây giầm, một cái vợt và cây sào nạng. Tôi tính qua “nhờ” bên điền ông Chủ Nghĩa. Ông này xưa nay đã có tiếng “oai như cọp, dữ như thần”! Dọc theo điền ông, ban ngày thấy giăng giăng những bảng cây: “Cấm câu cá! Cấm câu cá!” - Ậy, ông oai, ông dữ mặc ông, ông cấm thì cứ… cấm, tôi câu lén cứ việc… câu! Có rượt cống xuồng tọt về bên mình. Qua khỏi ranh thì “bà hú”… ai còn sợ gì ai? Ỷ y như thế, tôi cứ “đường hoàng” chống xuồng qua ruộng ổng. Thả câu xong, tôi nằm trên sạp, chờ tới giác đi thăm cá. Ðêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng ngũ trong ánh sáng mờ mờ. gió thoảng từng hồi, từng hồi ngọn lúa cựa mình xào xạc. Tiếng giạt sành vang lên trong im lặng xa xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rồi nhẹ nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca. Chưa kịp nói với các bạn rằng tôi là một cây đờn kìm và ca mùi có điệu, nhờ ở nơi sản xuất ra bản Vọng cổ đời này. Ai đã nghe tôi nỉ non những bài ruột như “Ác ngậm non Ðoài” hay “Mỗi độ thu về” thì mới biết tại sao cả làng, các cô gái đều ngã lăn ra mà mê mệt! Ðêm nay, tiếng gió gợi hứng, nằm một mình thanh vắng giữa đồng, lỡ mang cái bịnh tài tử, tôi trút hết nỗi “tơ tằm”: -… Mỗi độ Thu về… Tiếng ca ban đầu nho nhỏ, lần lần đượm vẽ mê say, đến ngang tàng, quên phứt cái “oai như cọp”, cái “dữ như thần” của ông Chủ Nghĩ. -Ôi! Vì thương mà phải bỏ ngai vàng, vì thương mà thành chim, hoá đá, thương thì phải khổ, nhưng càng khổ lại càng thường… ơ!…” - Ai đó! Câu lén phải không? Bị nạt thình lình, chớp một cái, tôi ngồi dậy gọn gàng. Quơ gàu nước đổ xèo vào bếp un, rút sào nạng, tôi ra sức chống vo vo. - Ai đó, ngừng lại! Không, tôi la lên, mấy người rình chung quanh áp lại ví đập chết bây giờ! La mặc la, doạ mặc doạ, người ta đang chạy chết đây mà! Xuồng tôi chống đi thoan thoát, xuồng nọ đuổi bon bon. Thình lình nghe một cài ồ… Thôi chết rồi, xuồng đã rấn lên mô cỏ. Tôi rán sức chống. Xuồng chỉ qua được phân nửa, và lúc rút cây sào tôi nhấn mạnh, lái bị khẩm, nước ào vô rồi chìm lĩm. Tôi điếng hồn loi ngoi tính lắc nước xuồng, lượm sào chống nữa… nhưng xuồng nọ đã tới kề! Dưới ánh lồng đèn, hai cây giầm giơ lên cao toan nện xuống. - Tội nghiệp! Tội nghiệp tôi, ông ơi! Tôi mới lỡ… Một tiếng cười khì bên xuồng kia: - Ông ở đâu đây mà ông? Nghe nói trớ trêu, tôi nhìn lên: Ý trời đất quỷ thần ơi, rõ ràng là một cô gái với một thằng nhãi con! Có nhục nhã cho tôi chưa, có chết được cho tôi chưa, trời nè! Phải dè… mà thôi, đã đến nông nỗi nầy còn mong gì vùng vẫy, tôi nhỏ nhẹ: - Tội nghiệp tôi mà cô hai! Tôi mới lỡ một lần… - Ai biết chú mầy lỡ một lần hay mười lần? Thôi, mau mau lên chống xuồng theo tôi về nhà ông Chủ. - Trời ơi! nếu cô bắt tôi về đó, ông Chủ xiết câu tôi, tịch thâu xuồng tôi, đóng trăng tôi, tội nghiệp tôi lắm cô hai à! - Biết vậy sao chú mầy còn qua đây câu? - Dạ, túng, kiếm ăn chút đỉnh vậy chớ đâu có nhiều nhõi gì, cô. - Nhiều ít không biết. Ông Chủ dặn hễ gặp ai câu lén, cứ bắt quách về cho ông. - Như vậy chết tôi còn gì, cô hai. Cô làm nhơn làm phước tha cho tôi một phen, tôi lạy cômà! Cô gái nín lặng một chút, rồi cười giòn: - Ừ, lạy đi rồi tôi tha! Thằng nhãi con, độc, lại khúc khích: - Á ngộ, đi câu lén mà còn ca mùi cho bị bắt, bị lạy…. Cha chả, tụi nầy chơi “bứt gân” quá! Lạy nó thì nhục, bằng không, nó dẫn về ông Chủ. Rồi làng xóm hay… rồi má mình hay! Ôi, má mình hay được chắc là sầu thảm lắm. Thôi, một liều, ba bảy cũng liều, tôi bặm môi tự an ủi: Trời tối, ai thấy mà sợ! Mình giả dại qua ải mà! Tôi chấp tay, sửa soạn mọp xuống… nước thì… - Ý chết, tôi, thôi! Nè, tôi hỏi thiệt, anh có phải là anh “Sáu đờn kìm” bên điền cậu Bộ không? Tôi giật mình: - Dạ… phải! - Tội nghiệp dữ hôn, lên xuồng tát nước, hơ lửa cho ấm đi anh Sáu, rồi tôi nói cho mà nghe. Tôi riu ríu vưng lời, bụng bảo dạ: “Mẹ thử, nó còn muốn làm gì đây nữa?” Tuy vậy, tôi hơi vững lòng vì giọng con nhỏ đã dịu, coi mòi dễ thương. - Nè anh Sáu, em thấy anh một lần hồi theo Ba em qua điền cậu Bộ mua gà. Chèn ơi, anh ca mùi quá! Hồi nãy nghe thanh giọng, em cũng đoán là anh, mà tại anh chạy… - Không, tôi có chạy đâu, tôi chống chớ! - Qủy vật anh, đã bị bắt mà còn giễu. Tôi thấy có mòi “sống êm biển lặng”, hỏi gặng: - Bây giờ cô tính chở tôi đi đâu? - Không chở đi đâu hết ! - Cảm ơn, vậy là cô tha cho tôi rồi? Cô gái bí mật: - Là tha ở đâu! Tôi lại hơi lo: - Coi kìa, bắt không bắt… mà tha cũng không tha, là làm sao? - Thủng thẳng đã. Nè anh Sáu, bây giờ tôi nói tắt với anh một điều, là tôi tha cho anh… mà lại còn cho anh… câu nữa, nhưng… - Nhưng… sao? - Nhưng anh phải “mùi” cho chị em tôi nghe một bài! - Ý chết! Người ta nghe, áp lại đón ngách, thì phen nầy chắc tôi bị lọi ống quyển! - Anh nhát hít, lúc nãy em dọa chơi, chó Ba em không có ở nhà, mà cũng không có ai canh vùng nầy hết, chỉ có hai chị em tôi thôi! Thằng nhỏ nãy giờ im lặng cũng “xía” vô: - Ừ, ca đi anh Sáu! Mùi một bản nghe chơi rồi câu kéo gì thì câu!… Trích:(1)mồi cắt:(cá sặt chết) Tác giả: Phi vân
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:18:04 GMT 9
Về rừng đước bẫy thòi lòi Với hai mắt như lòi hẳn ra khỏi đầu, nó được gán luôn cho cái tên cá thòi lòi. Ở vùng rừng ngập mặn, đây là món đặc sản. Bắt cá thòi lòi không thể câu, không thể lưới, mà phải đặt bẫy. Thòi lòi thường trú ẩn dưới những bụi đước. Khi thuỷ triều rút, chúng đi đào hang trú ẩn. Những con cá với chiếc đầu to bằng cườm tay, miệng rộng ngoang ngoác răng lởm chởm, cần mẫn tìm một chỗ thích hợp giữa bụi đước che chắn rễ dày đặc, dùng miệng gắp từng cục sình to bằng ngón chân cái vét thành một cái hang. Miệng hang cá thòi lòi được đắp từng cục đất thành vòng tròn rộng như cái nón lá. Khi nước rút trơ lớp sình non dày, mỗi chú thòi lòi đào chừng 3 - 4 cái hang. Mỗi khi có động, chúng nhảy tọt xuống chiếc hang gần nhất. Thòi lòi ít người bắt nên sinh sản nhiều. Ở vùng rừng đước ngập mặn thuộc xã Long Sơn - Hội Bài (Bà Rịa-Vũng Tàu), thuỷ triều rút cạn vào buổi sáng là lúc thuận tiện để theo chân những lão nông đi bắt thòi lòi. Loại cá vừa sống dưới nước vừa thở trên cạn này không câu được, không đào hang bắt được vì hang sâu, bùn sình dễ mất dấu. Cách duy nhất là đặt bẫy. Bẫy thòi lòi là một ống lưới dài 60cm, đường kính độ 40cm, úp ngay miệng hang. Khi chui ra khỏi hang, cá gặp phải lưới, càng vùng vẫy chui sâu vào lưới càng mắc kẹt, đến khi quay đầu lại thì vô tình cuộn tròn mình trong ống lưới. Người đi bắt chỉ việc nhấc lưới mang về. Giống thòi lòi khi gặp người rất dạn, đứng nhìn thao láo. Khi bị đuổi bắt, nó lao vun vút trên mặt sình nhờ hai vây cứng tựa như hai chân nhỏ cùng cái đuôi vẫy trợ lực, không tài nào bắt được. Hễ người đuổi bắt dừng lại, nó đứng nhìn như trêu ngươi. Ở Long Sơn, không có nhiều người đi bẫy thòi lòi. Khi thuỷ triều lên, chúng trốn biệt đâu mất. Nếu hiểu tập tính của thòi lòi thì việc bắt chúng khá đơn giản. Anh Năm Hải - một nhà nông ở Long Sơn có kinh nghiệm lâu năm trong nghề bẫy thòi lòi cho biết: "Bẫy thòi lòi không khó, chỉ lấy ống lưới đặt vô miệng hang rồi tìm bụi nấp, chờ thòi lòi chui lên dính bẫy. Nhưng quan trọng là phải biết xác định đâu là miệng hang thòi lòi, phải biết nhìn vết bùn xem đã có vết chân thòi lòi bò lên chưa, cá lên rồi mà đặt bẫy thì tốn hết cả công". Thòi lòi nướng muối ớt Theo chân anh Năm Hải đi bẫy thòi lòi, lội sình trong rừng đước ngập đến đầu gối, anh kể tiếp: "Giờ con cá này có giá lắm. Một con bán cho mối thu mua 15 nghìn đồng, sau đó lái sang lại cho các quán làm món ăn khoái khẩu cho dân nhậu mà không phải quán nào cũng có". Giữa trưa, dưới những bụi đước, hang thòi lòi nhiều vô kể. Nhưng không dễ nhìn ra vì mỗi miệng hang nước còn đọng lại giống nhau. Đặt chân lún xuống sình, rút lên cũng tạo thành một cái hố nho nhỏ, tròn tròn ngập nước, trông cũng chẳng khác hang thòi lòi. Anh Hải kể thêm tập tính cá thòi lòi: "Có con khó chịu lắm, thấy dấu nó chưa ra khỏi hang, đặt bẫy chờ hoài hơn tiếng đồng hồ nó mới chịu chui lên. Nhưng cũng có khi đi gặp một bầy tụi nó giỡn nhau, nghe động mạnh con nào con nấy chạy, hai ba con chui xuống chung một cái hang là coi như trúng mánh. Chỉ đặt bẫy vô tí xíu dính liền vì tụi nó ở chung hang, đụng nhau là quay đầu cắn nhau, con thua phải chạy lên, con thắng thì đuổi theo, dính bẫy cả chùm". Ở vùng rừng đước Long Sơn - Hội Bài, một lần đi đặt bẫy, dạo một vòng chừng tiếng rưỡi quay lại là có chiến lợi phẩm. Cá thòi lòi khá hiếu chiến, cứ nhốt chung là cắn nhau tơi tả đến khi có kẻ tử nạn mới thôi. Thịt cá thòi lòi chỉ dai, ngon khi được chế biến lúc còn sống. Nếu cá chết thì vị thịt nhạt, bở. Vì vậy, thợ đặt bẫy thường dùng cành đước đâm mù mắt thòi lòi để khi bỏ vào xô đựng, chúng hết thấy đường cắn nhau. Giống thòi lòi cực khoẻ, nhốt 2-3 ngày vẫn sống nhăn răng. Chế biến thòi lòi chủ yếu có hai món: nướng muối ớt hoặc chưng tương. Ăn không thua thịt cá mao ếch. Từng thớ thịt dai chắc, kéo thành từng sớ nhỏ, trắng thơm, ngọt không vị tanh, ăn một lần nhớ mãi. Lam Phong
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:21:18 GMT 9
Tát đìa, ăn cá lóc nướng trui Cá lóc nướng trui là món ăn sướng cả ba giác quan - mắt, tai và mũi - ngay từ lúc chuẩn bị đến khi trải mâm bằng lá chuối lên bờ đìa hay bờ ruộng giữa mênh mông trời đất... Vùng đất Nam bộ, ruộng lúa mênh mông, sông ngòi chằng chịt là nơi sinh sôi của bao nhiêu là tôm cá, thuỷ sản. Chính vì vậy cái thú tát đìa bắt cá đem nướng trui trở thành một kiểu thưởng thức ẩm thực độc đáo ở miền Tây. Thú quê Thú tát đìa bắt cá đem nướng trui trở thành một kiểu thưởng thức ẩm thực độc đáo ở miền Tây. Nhiệm vụ tát đìa thường do đám thanh niên đảm trách, cứ dùng gàu mà tát nước. Đến lúc nước cạn là giai đoạn gay cấn nhất, đám trê, rô cố chúi sâu xuống lớp bùn dưới đáy để trốn. Còn cá lóc thì cố vượt lên để lóc qua bờ mà thoát thân, nhưng đìa đã cạn, cứ lên tới nửa thành đìa thì rớt xuống. Trên bờ, đám con nít hò reo, chỉ chỏ, còn người dưới đìa thì cứ thấy con lóc, con tràu nào phóng lên thì cứ chộp con đó. Người và cá cứ quần thảo nhau huyên náo cả góc ruộng. Trong nhà các bà, các cô đã bắc nồi cháo sôi sùng sục chờ sẵn. Ngoài sân vườn dưới góc hàng điều xoè tán mát rượi, tấm đệm được trải sẵn, những tàu lá chuối xanh mượt xếp dài ở giữa. Bên trên lớp lá chuối là những xấp bánh tráng dẻo trắng phau, những khúm rau rừng như đọt mọt, đọt xoài, lá lụa, quế vị, húng lủi,…tươi roi rói. Xen lẫn là những lát chuối chát, khế chua và mùa này không thể thiếu những trái điều chín với màu vàng ươm, đỏ hồng như mời mọc. Cạnh đó là tô mắm nêm cay cứ bốc mùi, kích thích nước miếng tha hồ ứa ra trong miệng lúc ngồi đợi món chủ chốt của buổi tát đìa là cá lóc nướng trui. Cá lóc sau khi được rửa sạch, lựa con cỡ non 1kg là vừa, thịt cá vừa dai, ngọt và dễ nướng. Xiên một cây trúc hoặc thanh tre tươi vót sẵn từ miệng cá cho đến đuôi. Người sành ăn cá lóc nướng trui phải chuẩn bị thêm một động tác là dùng dao chặt bỏ phần đuôi cá, vì như vậy khi nướng chín trong bụng, xương cá không còn bị ứ máu, thịt cá sẽ trắng và không tanh khi để nguội. Sau đó cắm những thanh tre đã xiên cá xuống đất và phủ rơm khô lên, người nướng cá "có nghề" phải lượng sao cho rơm vừa đủ để khi lửa tàn thì cá cũng vừa chín. Rơm dư thì cá khét hoặc chín quá mất ngọt; rơm thiếu thì cá nhão, tanh; thêm rơm thì khúc đầu chín nhưng khúc đuôi lại khô mất ngon. Còn nướng lại bằng lửa than thì mất đi ít nhiều hương vị của cá lóc nướng trui. Sướng quê Dân Nam bộ mê cá lóc nướng trui vì đây là món ăn sướng mắt từ lúc chuẩn bị. Nhìn đụn rơm cháy đỏ, tiếng mỡ nổ lốp bốp thật sướng tai, sướng mũi vì cá lóc nướng thơm không giống bất cứ loại cá nướng nào khác, mùi thơm cứ toả ra từng lớp vẩy, sớ thịt, càng nghe càng ghiền. Sướng miệng bởi cá dai, béo, ngọt ăn hoài không thấy ngán. Và nó là món ăn đơn giản, dễ thực hiện. Cả nhà cùng ngồi xếp bằng quây quần bên mâm cá lóc nướng nóng hổi, tách bộ lòng cá óng ánh mỡ để riêng mời bậc trưởng thượng. Cánh đàn ông cùng nâng ly xây chừng rượu đế, ực một hơi, khà một cái thiệt đã. Vậy là bữa ăn bắt đầu rôm rả, vừa ăn vừa nói chuyện nhà cửa, con cái, ruộng vườn… Dẽ miếng cá còn bốc khói cuốn với rau rừng, đừng quên những vị chua của khế, chát của chuối xanh và nhất là miếng điều chín mọng nước. Chấm cuốn bánh tráng vào nước mắm hoặc mắm nêm cho vào miệng. Mùi thơm, vị ngọt béo của cá được các loại rau rừng và nhất là hương vị chua, chát, ngọt của trái điều hoà lẫn, dù ăn nhiều cũng không làm ngậy miệng. Nhai thật chậm rãi để nghe bao nhiêu hương vị của rơm rạ, rau cỏ, đồng ruộng như ngấm tận ruột gan. Cho dù ở bất cứ nơi nào, hương vị cá lóc nướng trui vẫn mãi là món ăn đậm đà hồn quê mà người dân đất phương Nam luôn lưu giữ trong tâm khảm của mình. ST
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:25:39 GMT 9
Canh chua cá Nam bộ Món canh chua cay nấu theo kiểu miền trong, với vị ngọt mặn, cay và mùi thơm nổi bật của rau ngổ sẽ khiến cả gia đình bạn khen ngon trong những ngày nóng nực này. Món do trung tâm Ezcooking class giới thiệu. Nguyên liệu: Cá rô (cá quả): 1,2 kg; Giá đỗ: 0,2 kg; Cà chua: 0,2 kg; Dọc mùng: 0,5 kg; Me: 0,1 kg; Rau ngổ, húng chó, mùi tàu; ớt, nước mắm, đường, muối, mỳ chính. Cách làm: - Cá sơ chế sạch, lọc lấy thái mỏng 4cm. -Ướp nước mắm, tiêu, mì chính - Cà chua phi thơm cùng với hành - Me đun lọc nước - Dọc mùng tước bỏ vỏ, bóp muối. - Đầu cá đun nước dùng trong, thả cà chua vào đun sôi, nêm gia vị, cho me vào, sau đó cho cá, đun sôi lên cùng với dọc mùng. - Cuối cùng cho rau ngổ, mùi tàu, húng chó, ăn nóng (Trung tâm hướng dẫn nấu ăn Ezcooking class
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 11, 2008 6:38:01 GMT 9
Câu rắn, lươn độ nhật
3h chiều là lúc con nước thuận lợi cho cả việc lặn lội lẫn bỏ câu, vì đang cạn và cả đêm sẽ có nước để lươn, rắn ăn mồi. Anh Trương Minh Tụ, 42 tuổi, người quê Phụng Hiệp, Cần Thơ, chọn câu ở khu vực gần đình Bình Khánh (TP SG).
Cả một vùng thiên nhiên hoang dã cách phà Thủ Thiêm chỉ chừng ba cây số. Những cánh đồng mênh mông lục bình, cỏ ống, rải rác những cây tràm, cây bần, những bụi dừa nước... Tiếng bìm bịp kêu hòa lẫn những tiếng máy tàu, còi tàu vọng lên từ sông Nhà Bè. Trong cái cảnh hoang sơ đó, người ta cũng thấy nhiều nền nhà bị bỏ hoang hay những chiếc cọc rào phân lô đất.
Anh Tụ nhanh nhẹn lội xuống ruộng, vạch cỏ ra thành từng lỗ hình tròn và vắt ngang cần câu. Dây câu được cột ở giữa cần; khi lươn, rắn ăn câu thì không thể kéo cần đi do vướng các bụi cỏ. Như một "thổ địa" thực thụ của vùng đồng ruộng hoang vu này, anh vừa lội bỏ cần vừa nhìn theo các dấu vết mà giải thích là chỗ này có rắn, chỗ kia có lươn, con này cỡ bao lớn, con kia cỡ nhỏ... Trong buổi chiều, anh bỏ 200 cần, trong đó, chỉ có 20 cần là câu rắn.
Anh Tụ bảo ở quê anh, xứ nổi tiếng về nghề rắn, đi câu phải dùng dây câu dài hơn ở đây do nước ngập sâu hơn. Mồi để dùng câu lươn là những con nhái, được các con anh cắt ra thành từng mảnh và móc vào lưỡi câu. Câu rắn thì dùng cá rô đồng, móc nguyên con. Lưỡi câu cũng phải là loại "đặc chủng" dành riêng cho lươn, rắn, chỉ mua được ở quê...
5h sáng hôm sau, trời chưa hửng, sương mù khá dầy, lạnh đến "răng đánh bò cạp". Khoác thêm chiếc áo sơ mi cũ, anh thản nhiên lội ruộng. Con lươn đầu tiên được anh giơ lên khoe chỉ sau bốn cần không dính. Con rắn đầu tiên dính cách đó vài trăm mét, cũng đã chết.
Khoảng 6 kg vừa lươn vừa rắn, lúc nhúc chiếm lưng nửa chiếc giỏ tre anh đeo trên người, là kết quả của ngày câu. Anh bảo được vậy cũng vừa, không đến nỗi thất. "Lúc này có nhiều người đi chích điện nên lươn rắn gì cũng ít. Hồi trước nhiều bữa được mười mấy ký, giỏ đầy thiếu điều đậy nắp không được", anh nói. 200 cần câu rải rác khắp nơi, anh Tụ thu hồi không sót một cây cần.
Thỉnh thoảng, anh cũng bắt được rùa, ba ba. Cá lóc, cá trê "hồi trước" mà dính thì cả một hai ký một con. Làm nghề câu rắn, đôi khi anh cũng bị những con rắn hổ đất, hổ ngựa rượt chạy có cờ. "Bọn nó rượt theo con mồi, thấy mình, cũng say mồi, phùng mang tấn công luôn. Sợ nhất là bọn rắn hổ đất, cắn là chết liền, chứ hổ ngựa cắn thì nghe người ta nói chỉ bất tỉnh mười phút rồi tỉnh dậy, không sao !".
Thành quả của ngày câu được phân chia thành ba bốn bịch: rắn, lươn, loại lớn, loại nhỏ... Rắn thì được bán cho các quán nhậu hay theo "đơn đặt hàng" từ những dân nhậu quen biết, giá 65.000-70.000 đồng/kg. Được giá, nhưng do "cầu" thất thường nên anh chỉ câu rắn theo "đơn đặt hàng" là nhiều. Lươn thì bỏ cho các quán cơm, giá chừng 30.000-35.000 đồng/kg.
Vừa lựa rắn, lươn, anh vừa bảo: "Sợ nhất là bệnh. Nắng mưa, lạnh lẽo gì cũng phải đi. Ngày nào cũng vậy, sáng mở mắt ra là phải tốn 10.000 đồng tiền quà bánh cho bọn nhỏ đi học rồi. Làm nghề này cũng có tiền, nhưng hễ buông ra là mang nợ". Vợ chồng anh sống trong một căn ổ chuột trống tuênh rộng chừng mười mấy mét vuông, bên cạnh một con mương hôi hám trong một con hẻm trên đường Ung Văn Khiêm. Anh thì đi câu, chị làm nghề giúp việc nhà, cả hai vợ chồng đều nai lưng ra làm để nuôi đàn con năm đứa đều đang đi học ở trường tình thương, chưa kể thỉnh thoảng lại phải thăm nuôi đứa con trai đang nằm trong trại tạm giam vì tham gia một vụ đánh lộn gây thương tích.
Anh Tụ mới trở lại với nghề cũ cách đây hai năm, khi tình cờ đi câu cùng bạn bè. Trước đó anh từng lăn lộn với nghề phụ hồ, bán ve chai. "Nghề này ông bà mình bảo là nghề bà cậu, không khá nổi". Anh giải thích nghề "bà cậu" là nghề "đâm hà bá". Giang sơn của anh, trải dài mười mấy cây số ven sông từ phà Thủ Thiêm đến cầu Ông Tranh, đã dần dần bị thu hẹp do san lấp, xây dựng. "Chưa biết sẽ làm gì, nhưng chỉ chừng một năm nữa là mình hết có cơ để làm nghề này nữa", anh cảm nhận.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 20, 2008 4:47:11 GMT 9
Thú câu cá đồng
Chuyện đi câu kiểu "quý tộc" - có đội ngũ "mắt xanh mỏ đỏ" hầu hạ, mồi bưng nước rót - xin được miễn bàn; tôi chưa có vinh dự gia nhập vào giới "điếu đổ" thượng đẳng. Chuyện đi câu hải sản - câu cá ngừ đại dương, câu cá mập, hay… cá voi chẳng hạn - cũng xin mạn phép thông qua; tôi vốn sinh ra và lớn lên sau lũy tre làng, chẳng biết gì nhiều về biển ngoại trừ một lần suýt… chết đuối vì nước mặn. Chỉ xin nói về cái thú đi câu dân dã, chả tốn kém là bao nhưng không hề kém phần thích thú: câu cá đồng!
Thú câu cá
Từ chuyện mưu sinh đến trò giải trí…
Đi câu - thoạt kỳ thủy là chuyện mưu sinh, là một nghề đem lại miếng ăn cho những điếu đồ quanh năm sống nhờ sông nước. Chẳng biết nhân loại phát minh ra chiếc cần câu tự lúc nào, nhưng có thể chắc chắn một điều: chuyện đi câu phải có mặt rất sớm trên quả địa cầu lồi lõm, đầy dẫy những sông hồ và biển cả này. Thuở trước khi mặt nước còn đầy dẫy cá tôm, các phương tiện đánh bắt hiện đại chưa có, thì đi câu là cách bắt cá đơn giản và hiệu quả nhất. Nghề câu cá đồng không tốn nhiều sức lực; từ già đến trẻ, từ đàn ông chí đàn bà đều có thể làm được. Thời nay, chuyện đi câu vẫn còn đó, nhưng không đơn thuần vì mục đích mưu sinh. Đi câu cá đồng đã trở thành cái thú - một thú chơi hào hứng, đam mê.
… Thời trước, một năm hai vụ lúa dài ngày - chưa có tình trạng hóa chất trừ sâu sử dụng tràn lan, chưa phát minh ra màn châm điện hủy diệt môi sinh - cá đồng sinh sôi nhiều vô kể. Tại các chân ruộng rộc (ruộng trũng), ao chuôm, bàu cạn, mương rút… cá sặc, cá trắng lượn lờ trên mặt nước; cá rô đánh móng như cơm sôi; cá trê quẫy roàn roạt sau các gốc lúa. Còn cá tràu (cá lóc) thỉnh thoảng lại phởn chí vọt lên mặt nước uốn cong mình, giương những chiếc vi ánh bạc như trêu tức cơn thèm của lũ trẻ con. Vậy là: tìm tre vót cần; xin mẹ dăm đồng mua dây câu, lưỡi câu, kiếm thêm chiếc giỏ loa (giỏ đựng cá mình bầu, miệng loe)… Tất cả để sẵn sàng cho những phi vụ hứa hẹn đầy tính đam mê và… cả trò may rủi!
Một sáng chủ nhật đẹp trời, hay một ngày hè thảnh thơi, bó cần câu trên vai, giỏ loa cột ngang lưng - trong có búi giun to đang ngọ nguậy - chụp thêm chiếc nón mê hay cái mũ vành rộng lên đầu; và thế là - một, hai, ba - lên đường. Bạn đã có bộ dạng của một dân câu cá đồng thứ thiệt…
Nghề… câu cũng lắm công phu!
Câu cá đồng có nhiều cách- tùy theo chủng loại cá, thời điểm câu và địa hình nơi câu. Không nắm rõ quy trình nghề nghiệp, bạn chỉ có nước theo… cụ Khương Tử Nha ra bờ sông Dịch ngồi câu… thời vận chứ khó lòng câu được
Câu cắm
Là kiểu câu cổ điển nhất. Lối câu này chỉ dùng để bắt những loài cá lớn như cá tràu, cá trê. Cầu câu cắm thường ngắn, đuôi vót nhọn (để dễ cắm xuống đất). Đầu cần, người ta chuốt bỏ ruột tre, chỉ để phần cật - tạo thành một bản mỏng, có độ đàn hồi cao. Dây và lưới câu sử dụng loại lớn (để không bị đứt khi cá quẫy, kéo). Câu cắm có thể tiến hành cả ngày lẫn đêm; nhưng thường là về đêm. Mồi câu được chọn tùy theo loại cá. Nếu câu cá trê, bạn sử dụng mồi giun (loại giun đất bự con đào trong vườn); nếu câu cá tràu, bạn phải dùng nhái hoặc ếch con. Nơi cắm câu, bạn dùng chân dộng các gốc lúa ra xung quanh, tạo thành một vũng tròn có mực nước sâu và không gian thoáng đãng. Cần câu được cắm chặt vào gốc lúa, nằm chênh chếch để dây buông đúng tâm vũng nước. Với cá trê, bạn chỉ đơn giản móc giun ôm vừa kín lưỡi câu nếu để thừa nhiều, cá sẽ đớp phần thừa, kéo tuột giun ra khỏi lưỡi). Cá trê sống ở tầng nước đáy, nên độ buông của dây câu phải tính toán sao cho mồi chìm vừa đụng đáy (nếu mồi lơ lửng bên trên sẽ bị cá nhỏ rỉa phá). Bố trí cẩn thận đến vậy - vẫn còn chưa thoát khỏi kẻ phá hoại. Thủ phạm ở đây là các chú… cua đồng. Cua đồng vốn khoái giun đất, lò dò đến xơi xong chỗ của… trời cho, bị vướng víu chiếc lưỡi câu trong miệng, các chú bèn nổi khùng giơ càng kẹp, tiện đứt phăng dây câu. Vậy là kể như khổ chủ mất cả chì lẫn chài!
Câu cá tràu nhiêu khê hơn. Bạn phải lặn lội đi bắt nhái - những chú nhái tầm trung, không quá to cũng không quá nhỏ. Nhái phải đảm bảo còn sống khỏe mạnh (nhái chết hoặc lừ đừ - coi như vứt!). lưỡi câu được móc nhẹ nhàng ngang hông, phía dưới xương cột sống - nhưng không được phạm đến nội tạng (nếu phạm vào nội tạng, nhái sẽ chết). Độ buông của dây câu chỉ được tính toán sao cho chú nhái vừa đụng đến mặt nước. Nếu buông dây chùng quá, chú nhái bơi đến nhảy phốc lên bụi lúa ngồi - coi như… hết chuyện. Đặc tính cá tràu chỉ xơi mồi sống, nhái mồi phải quẫy, đạp, bơi chấp chới mới kích thích được cơn thèm của chúng. Nếu nhái nằm im, dầu nằm ngay trước mũi, cu cậu cũng chẳng thèm đoái hoài. Khổ thay, tai ương bây giờ lại là các gã… rắn. Rắn nước, rắn ráo… - những vị khách không mời - cũng khoái nhái sống chẳng kém cá tràu. Con nít miền Trung vốn nhát rắn. Chuyện thăm câu đêm - mắt nhắm mắt mở lôi từ dưới nước lên con vật dài ngoằng - quăng cần chạy sấp ngửa là chuyện… cơm bữa!
Cắm câu cá trê thường tiến hành vào chiều tối (dựa vào đặc tính ăn đêm của cá trê). Cắm câu cá tràu thì cả ngày lẫn đêm đều được. Lợi hại của kiểu câu cắm là ở chỗ: nó hoạt động theo nguyên tắc mềm nắn, rắn buông. Các loại cá lớn khi dính câu thường vùng vẫy rất mạnh. Lúc này, cái đầu cần vót mỏng sẽ có tác dụng như một chiếc lò xo. Khi chú cá trì mạnh, dầu cần uốn cong theo sức trì của cá để giảm những lực căng đột ngột (có thể làm đứt dây câu). Đến lúc cá thấm mệt, đầu cần lại bật lên, lôi cá về giữa vũng nước…
Câu giăng
Câu giăng (xin đừng nhầm với kiểu giăng câu bằng xuồng trên sông, rạch) là cách thức phổ biến, nhẹ nhàng nhất - dùng để câu các loại cá nhỏ như cá rô, cá bống… Tiết tháng 6, tháng 7 - khi lúa vụ tám vừa chớm ngả vàng, khi những trận mưa đầu mùa bất thần ập xuống - cá rô bắt đầu sinh sôi. Cần câu giăng dài khoảng 1,5 m đến 2m, được chế tác đơn giản hơn cần câu cắm, chỉ cần chọn đoạn tre già, thẳng, vót tròn trơn tru, đầu cần vót hơi nhỏ một tí cho đẹp. Dây và lưỡi câu dùng loại nhỏ. Mồi dùng câu giăng cũng là giun, nhưng là loại giun… bờ ruộng, đùn quanh các gốc lúa. Loại giun này có màu đỏ hồng, thân hơi vuông, lớn cỡ que tăm xe đạp. Câu giăng bài bản phải chuẩn bị một bó cần câu tối thiểu mười chiếc. Nếu câu trong các ruộng lúa, phải có thêm một chiếc cần phụ (không có dây câu) gọi là câu vẹt.
Câu giăng phải tiến hành ban ngày, lúc trời còn nắng - nhưng là nắng dịu ban mai hoặc xế chiều. Nếu trước đó có một trận mưa rào nữa thì tuyệt. Chọn chân ruộng rộc có nhiều cá, móc mồi xong, bạn đứng trên bờ, một tay dùng cần vẹt nhẹ nhàng vẹt lúa sang bên, tay kia cầm cần câu thả mồi chìm xuống nước, thân cần gác luôn lên vạt lúa. Cự li giăng cứ khoảng 2m một cần là vừa. Giăng xong chiếc cần cuối cùng, bạn quay lại giở cần thứ nhất. Đặc điểm câu giăng là không có công đoạn… ngồi chờ. Thường với một bó cần mười chiếc, bạn phải làm việc liên tục; gỡ cá, móc mồi, thả câu… lắm lúc cá háu ăn, bạn phải chạy toát mồ hôi mới kịp!
Câu thả
Câu thả (hay câu buông) là kiểu câu mang tính… chơi bời nhất. Cần câu thả phải có độ dài ít nhất 3 mét, có thể vót bằng tre, nhưng tốt nhất là trúc (còn có thứ cần câu ngoại nhập mà giá cả chắc sẽ làm… điếc tai không ít dân nghèo). Cần câu dài, nhưng dây câu cũng phải dài để có thể quăng mồi ra xa. Vì công dụng chính là để câu các loại cá tầm trung và nhỏ, nên lưỡi và câu thả cũng xài cỡ nhỏ. Trên dây câu cột một chiếc phao có thể dịch chuyển lên xuống đến tầm nào tùy thích. Đoạn cuối dây, gần sát lưỡi được kẹp một mẩu chì nhỏ đủ nặng để có thẳng kéo thẳng dây câu từ phao trở xuống. Vị trí câu thả phải là nơi có mặt nước rộng, thoáng đãng như bàu, hồ, mương hoặc sông. Nếu nơi ngồi câu còn có thêm một gốc cổ thụ rợp mát thì… quả đến 2 lần tuyệt diệu! Chủng loại cá có thể câu được bằng câu thả cũng rất đa dạng - từ rô, trê, bống, ngách, thát lát… đến các loại cá trắng sống ở tầng nước mặt. Tùy theo ý thích muốn câu loại cá nào, bạn điều chỉnh chiếc phao để mồi chìm đến tầng nước loại cá đó sống. Móc mồi xong, quăng dây câu ra xa, mồi chìm nghỉm, để lại chiếc phao dập dềnh trên mặt nước - bạn chỉ còn mỗi việc… ngồi chờ. Phao nhấp nháy - tức cá đang rỉa mồi- nắm chặt cần, căn mắt, nín thở; phao chìm nghỉm là… giật. Chuyện dính cá hay không, còn tùy thuộc ở… số trời. Lắm lúc, tưởng vớ bở đến nơi, hóa ra chỉ lôi lên một túm rong lòng thòng, chán mứa. Điên tiết hơn, có khi chú cá vừa lên khỏi nước đã tuột khỏi lưỡi câu, roi tõm…
Ngoài chuyện trúng mánh hãn hữu, người đi câu thả thường có mục đích giải trí nhiều hơn là kinh tế. Sau một tuần công việc căng thẳng, chủ nhật - một mình hay rủ thêm và bầu bạn - làm chuyến dã ngoại nho nhỏ ra bờ hồ, bờ sông. Móc mồi, thả câu, nhàn nhã đợi chờ thời vận giữa trời nước mênh mông - ta có thể thả hồn mơ mộng, bù khú với bạn bè, hay… làm thơ tùy thích. Thật là một cái thú tao nhã.
23/10/2004 BĐ online
Y Nguyên
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 20, 2008 4:50:26 GMT 9
"Dân câu" ngày nay (Báo Đồng Nai đăng ngày 10/08/2005) Họ thừa kiên nhẫn để "ngồi đồng" cả ngày, bất kể nắng gắt hay mưa dầm. Họ chấp nhận bỏ ra hàng trăm ngàn đồng dù chỉ câu được một vài chú cá mà giá của chúng có khi chỉ ... vài ngàn đồng! nhưng tất cả họ đều vui vẻ, đam mê đến cực độ !... Các "ngư bà" đang câu cá * Những người thích... ngồi đồng! Câu cá là thú vui không phân biệt tầng lớp xã hội, tuổi tác, giới tính! Ngày nay, do đời sống kinh tế của đại bộ phận người dân được nâng cao nên ngày càng có nhiều người thích, thậm chí rất mê câu cá để giải trí, thư giãn tinh thần. Câu cá vốn là thú tiêu khiển bình dị, tao nhã, cho nên khi đã vào tròng có không ít người chẳng ngại chuyện dầm mưa, dãi nắng, kiên nhẫn ngồi đồng giờ này qua giờ nọ, có khi suốt cả ngày trời tại các khu câu cá giải trí hay các vùng sông nước. Mỗi lần câu cá, họ sẵn sàng bỏ ra vài trăm ngàn đồng, dù chỉ câu được vài ba chú cá! Nếu chọn giá đúng thì thực giá của chúng có khi chỉ ... vài ngàn đồng, chưa kể bị lốc chẳng câu được con cá nào! Câu cá hả? Ồ, không chỉ riêng tôi, mà đó là thú vui nhiều người, rất mê. Sau những ngày, những giờ làm việc mệt nhọc, tôi thường đến các khu câu cá giải trí hoặc các bến sông để câu cá. Nếu so đo với chi phí bỏ ra và giá trị số cá câu được thì còn gì là thư giãn, giải trí nữa!. Lập luận trên của anh Hùng, một cán bộ ngành Điện lực Biên Hòa gần như là suy nghĩ chung của dân câu ngày nay. Bởi lẽ, đa số họ đều có đời sống kinh tế ổn định, trong đó có không ít đại gia mà giá mỗi cây cần câu cá của họ đến vài triệu đồng! Anh Huỳnh Ngọc Hiếu, chủ doanh nghiệp ngành xây dựng (huyện Long Thành), nói: Tôi tham gia làng câu cá tuy chưa được bao lâu, nhưng cũng đã... nổi tiếng là... câu cá thì dở ẹc mà sắm đồ câu thì hay. Nghề chơi nào chẳng lắm công phu! Dù cây cần câu chỉ là phương tiện để thư giãn, nhưng ai cũng muốn xài đồ cho tốt tất nhiên giá cả phải cao. Ông Đức, 65 tuổi, một cán bộ ngành lâm nghiệp đã về hưu tự an ủi mình: Với lương hưu, mình sắm được cây cần câu máy, giá gần 200 ngàn đồng là... sang lắm rồi. Tôi cho rằng, cảm giác của người câu được cá không tùy thuộc vào giá trị của cây cần câu. Cho dù cây cần câu có giá hàng triệu đồng hay vài ngàn đồng, theo tôi cảm giác đó đều như nhau!. * Dân câu ...lên đời! Tại khu câu cá giải trí Kình Ngư (xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa), anh Phúc, giáo viên, vừa câu cá vừa giải thích: Bây giờ, mang mấy cây cần câu tre, trúc... sẽ bị chê là lạc hậu. Hiện nay, kỹ thuật, dụng cụ câu cá rất phong phú và đa dạng. Đó, anh nhìn xem. Hầu hết mấy chục người đang câu cá tại đây đều xài cần câu ngoại. Nhưng để câu được cá nội lại là chuyện khác!. Vào các ngày thứ bảy, chủ nhật hay ngày lễ, khắp nơi, không chỉ trên đường phố nơi thị tứ mà cả ở các nẻo đường nông thôn, rừng núi, nếu không phải là người trong giới câu cá sẽ rất khó nhận ra ai là dân câu, ai là người đi đường. Bởi lẽ, dụng cụ câu cá ngày nay tuy phong phú, lỉnh kỉnh nhưng rất gọn nhẹ, đa năng và cơ động. Có những cần câu chiều dài đến 5-6 mét, nhưng thu gọn lại chỉ vài tấc! Những chiếc vợt cá, cán dài trên 1 mét,đường kính miệng vợt cỡ nửa mét có thể xếp gọn lại chỉ bằng cái chày đâm tiêu! Trang bị chuyến đi câu, thì đủ thứ: nào ghế, vợt, cần câu, giỏ đựng cá dù, chống cần câu ... Nhưng tất cả đều có thể xếp gọn, cho vào cái bao chuyên dụng dành cho người câu cá, rồi mang trên vai trông giống như các vận động viên quần vợt hay các tay thợ săn. Anh Hoàng, tài xế xe tải kể: Có lần tôi vác bao cần câu vào khu vực lâm trường Hiếu Liêm thì bị một nhân viên bảo vệ rừng chặn lại đòi ... kiểm tra cái bao. Tôi giải thích đó là bao đựng cần câu cá. Anh nhân viên này không tin, buộc tôi phải mở bao và, sau đó, anh đã xin lỗi vì ... tưởng là tôi mang súng săn vào rừng!. Có thể nói, giới đi câu ngày nay ngoài chuyện bái phục nhau về tài câu cá, họ còn đang có xu hướng kèn cựa nhau về dụng cụ câu cá. Nói cách khác, thời trang đã đi vào đời sống tinh thần của giới dân câu! Chị Mai Thị Giàu, kinh doanh dụng cụ câu cá trên đường Cách mạng tháng Tám - Biên Hòa (gần Công ty xây dựng cấp nước Đồng Nai) cho biết: Cách đây 5-6 năm, một bộ cần câu ngoại sản xuất tại Trung Quốc có giá trên dưới 200 ngàn đồng mà khách còn lắc đầu lè lưỡi. Bây giờ, trái lại, có nhiều bộ cần câu sản xuất tại Mỹ, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật, Malaysia... có giá gấp 10 lần, hoặc hơn mà khách lại mua một cách... vô tư!. Anh Trần K., một cán bộ ngành kinh tế, ngoài chuyện ghiền câu cá anh còn mê sắm cần câu. Tại nhà anh, hiện có trên 30 cây cần câu ngoại nhập, cả một bộ sưu tập cần câu quốc tế toàn là hàng hiệu: Simano, Mitchel, Banax, Daiwa v.v... Anh K. tâm sự: Những lúc câu không được cá, về nhà nhìn dàn cần câu mình cũng cảm thấy vui rồi!. * Kỹ nghệ câu cá Làm mồi chuẩn bị câu cá. Chẳng có gì là nghịch lý khi cho rằng dân câu cá giải trí ngày nay chuyên nghiệp hơn dân câu cá để sinh sống. Để so tài nhau trong thú vui này, đã có không ít ngư ông dám bỏ cả chuyện làm ăn để dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu tập quán ăn mồi của từng loại cá, từng kiểu lưỡi câu, cần câu nhất là mồi câu. Thậm chí họ còn tung gián điệp trong làng câu để xem và có thể lén chôm một ít mồi câu của các tay cao thủ này, rồi mang về phân chất thành phần của mồi câu. Thật ra, các loại mồi câu truyền thống từ thiên nhiên như: trùn, tép, gián, dế... đã không còn hiệu nghiệm so với mồi câu công nghiệp. Hiện nay, trên thị trường bày bán nhiều loại hương liệu mồi câu cá ngoại nhập dưới dạng mồi câu liền: mùi thơm, tanh, chua... Tùy theo kinh nghiệm, người câu cá có thể thêm vào các chất phụ gia khác như bơ protein, Fromage đầu bò, dầu cá thu, trứng gà, bột sữa... Do vậy, giá thành một cục mồi câu khoảng 500 gam có khi lên đến cả trăm ngàn đồng! Anh Răng, chủ cửa hàng vật liệu xây dựng Thanh Vân (TP. Biên Hòa) kể: Có lần chúng tôi câu cá giải trí ở lòng hồ Sông Mây, nhóm 5 người chúng tôi câu suốt buổi, mồi câu rất xịn nhưng chỉ câu được 3 con cá chép, trong khi đó một ngư bà khoảng 40 tuổi, chỉ câu một mình, cùng thời gian ấy, đã câu hơn một chục con cá chép! Đúng cao thủ, chúng tôi liền cho người tiếp cận nữ cao thủ này thì... chị ấy lấy... mồi trùn ra câu! Mà theo kinh nghiệm, chúng tôi biết chắc là cá chép hiếm khi xơi mồi trùn. Thật ra, các loại cá thả ao để cho câu giải trí đều có nguồn gốc từ cá nuôi lồng bè. Nên, tuy cùng một loại cá, nhưng cá chép ở ao này xơi mồi thơm, ở ao khác lại xơi mồi tanh hay xực trùn chỉ. Thật ra là do tập quán ăn mồi của các loại cá này từ khi còn cá bột. Tùy theo chủ bè nuôi cá, nuôi bằng cám công nghiệp hay cá tạp xay, ruột gà... mà chúng có thói quen cắn mồi tanh, thơm, hôi hoặc chua...: Thật là điên cái đầu về ba cái vụ mồi câu. Tiền để chế biến mồi câu, tính ra tôi có thể mua nửa tạ cá. Bà xã ở nhà cứ cự nự: câu kéo như ông có nước ... bán nhà. Anh Nguyễn Thành Long, hành nghề dịch vụ du lịch, cho biết như vậy. Anh Long cũng cho biết thêm: Bà xã tôi tuy cự nự nhưng lại khoe với mấy chị em bạn là ... dù sao ổng mê câu cá mình đỡ lo hơn là mê các thú vui nguy hiểm, vô bổ khác!. Câu cá là để giải trí, thư giãn, nhưng qua phong trào nở rộ hiện nay, câu cá giải trí đã trở thành một loại hình đặc trưng của ngành du lịch sinh thái. Từ đó đã phát sinh ra một số nghề ăn theo, tạm nuôi sống không ít gia đình, như nghề: đào trùn huyết, bắt trùn biển, thọc trứng kiến, vớt trùn chỉ, làm mồi câu cá mè, cá chép , cá tra v.v... Hiện nay, riêng tại TP. Biên Hòa có trên 20 điểm câu cá giải trí. Số tiền cho mỗi lần câu, thường là 50 ngàn đồng trong vòng 8-10 tiếng đồng hồ. Đặc biệt,trong các ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật, các điểm câu cá này thu hút không dưới 500 dân câu từ các khu vực trong và ngoài tỉnh Đồng Nai như Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh... đổ về. Chưa kể vào các ngày này, các chủ ao cá tổ chức thi giải thì lượng người đi câu có thể tăng đến 3-4 lần. Dân câu ngày nay hơi bị ... lạ, vì họ sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn dù chỉ câu được con cá nhỏ. Lê Hoàng
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 20, 2008 4:57:24 GMT 9
Kỹ thuật câu Fly Fly là đỉnh cao nghệ thuật câu trong các trường phái câu trên thế giới.Nó áp dụng cho tất cả vùng nước,ao,hồ,sông,suối dùng để câu các loại cá săn mồi như cá Hồi ,trout,bass,pike,v,v… Ảnh: alaska-in-pictures.com Vì có những loại cá không có tại VN nên tôi loại bỏ bớt phần kỹ thuật câu cho các loại cá đó,cũng nhưng trong bài viết sẽ lướt qua phần cá thông dụng câu bên này như cá Hồi ,trout,bass,pike,v,v… Bài sẽ rất dài nên tôi sẽ biên dịch từ từ cho các bạn tìm hiểu môn chơi thật công phu và là đỉnh cao nghệ thuật câu trong các trường phái câu trên thế giới.Vì nó áp dụng cho tất cả vùng nước,ao,hồ,sông,suối và ngoài biển cả mênh mông. Sách xuất bản từ năm 1984 ,tái bản sửa chữa lẫn bổ xung năm 2007 nên cập nhật hoá tất cả các dụng cụ câu Fly hiện đại nhất.Hy vọng sẽ là bài bổ ích cho những người đam mê tìm hiểu . CHƯƠNG I CÂU FLY LÀ GÌ ? Câu fly là cách ném những con mồi giả thật nhẹ hay là ném những con mồi tạo hình con bọ y như thật trong thiên nhiên tới mục tiêu mong muốn, bằng cách xử dụng sức nặng của dây câu phát huy động lực di chuyển. Đó là cách diễn tả văn hoa như thế,xử dụng cần fly để bắt cá bằng những con mổi giả thật nhỏ bé mà không một cách câu nào làm được. Nghĩa là bạn có thể thành công dụ cá tới ăn con mồi bọ nhỏ bé có kích cỡ khoảng 3 mm hay dụ cá Tarpon nặng 70 kg tấn công con mồi dài khoảng 15 cm. Mồi bọ nhân tạo để dùng bắt cá hồi,cá hương,cá mập,v,v… và kể cả cá trê,có thể danh sách cá ăn mồi bọ còn dài hơn nữa.Bất cứ loại cá nào săn mồi bọ,cá con,hay các con giáp xác nhỏ đều có thể câu được bằng mồi bọ.Dìu lên thuyền một con cá ngừ vây xanh 250 kg bằng cần fly lại là một chuyện khác nữa,nhưng tôi tin chắc bạn sẽ bắt được cá, nếu như cá hay ăn mồi trùn biển dài khoảng 15cm,cho đến cá shad là một loại cá chỉ ăn phiêu sinh vật,nó có thể tấn công mồi bọ, khi nó từ biển đi vào dòng nước ngọt của sông suối để sinh nở. Nói đến câu fly là hình tượng chữ diễn tả đến cách câu cá hương (trout) hay câu cá hồi trên suối.Mặt khác,đa phần theo luật định,muốn câu cá hồi Đại tây dương (Atlantic salmon) trên những dòng sông của bắc Mỹ đều bắt buộc phải dùng cách câu fly này để câu nó.Nhưng với bộ cần fly câu trout 9’6w (9-foot 6-weight) ta có thể say mê trong cuộc câu cá bluegills (một loại sunfish) mà không biết thời gian trôi qua ở trong vùng trung tây nước Mỹ,những cú phóng vượt mặt nước của cá smallmouth bass khi mắc lưỡi làm đứng tim ở sông Potomac trong vùng Washongton DC.Dân câu fly sống ở Florida,cách xa dòng suối có cá trout hàng trăm dặm,cũng có thế dùng cần fly như thế để câu cá largemouth bass,cá tarpon nhỏ,trên các con kinh gần đó hay câu cá bonefish ở vùng nước biển cạn không xa hoặc câu cá bluefish và cá thu ngoài khơi trong cuộc thi chung kết nào đó. Môn câu fly là một công việc có từ xa xưa,có thể là một việc đã thực hành bởi nhà thơ Martial của La mã (40-104 sau Công nguyên) ông ta cho biết đã dùng lông thú gắn vào lưỡi câu để bắt cá ở biển,cũng trong tài liệu lịch sử Aelian, khoảng 100 năm sau đó,một người La mã khác đã quan sát dân câu xứ Macedonian câu cá hương bằng mồi bọ nhân. Xuyên qua thời Trung cổ đến thời Phục Hưng ,những tài liệu cho thấy người thời đó đã chế tạo mồi bọ gần giống như thật khi đi câu cá hương.Lúc xưa,dân câu fly không ai nghĩ mình là một người câu cá thể thao,họ đánh lừa cá vì lý do thực dụng hơn. Con bọ Mayflies và những con bọ nhỏ bé khác trong thiên nhiên không thể dính lâu trên lưỡi câu hoặc không giữ được hình dáng nguyên thủy sống động sau khi xiên qua lưỡi câu.Vì vậy lúc khởi đầu dân câu fly rất vất vả khi dùng mồi, họ phải gắn cả chục con mồi mới có được 1 con không rơi khỏi lưỡi. Dụng cụ câu fly thay đổi dần dần,lúc xưa họ không có được dây câu fly như bây giờ ta có,họ câu bằng những cần dài,có đôi khi cần dài hơn 20’(6m) và sợi dây rất dài.Họ xử dụng kỹ thuật “dapping”,đó là một cách nhử mồi lơ lững trên nước mà dụ cá tấn công trong chu vi chiều dài của cần mà họ dùng,thời gian ấy máy câu chưa phát minh ra,và dây chỉ đơn giản buộc ở đầu cần. Hiện nay,”con bọ” được làm giống y như bất thứ gì mà cá ăn được,từ chính trứng của chúng tới ếch nhái,chuột, đỉa,còng,cá con,cho đến cả ốc sên.Cần câu làm từ sợi hợp chất tinh chế ,máy làm bằng nguyên vật liệu kim loại tổng hợp thật nhẹ để quăng loại dây được chế tạo từ công thức tối tân nhất như kiểu phun bọt li ti vào nguyên liệu.Lông vũ và lông thú được thay thế bằng rất nhiều sợi tổng hợp khác nhau,dù vậy các dân fly quấn tự mồi câu vẫn thích tìm đến nguyên vật liệu cổ truyền.Nhưng nguyên tắc chính vẫn vậy,nghĩa là mồi bọ nhỏ,nhẹ,vẫn phải phóng tới con cá qua một cần câu dịu,dài,với dây có một trọng lượng nào đó.Và người câu fly vẫn phải tìm tòi nghiên cứu chế tạo sao cho con mồi bọ thật tuyệt mỹ,sống động để câu được cá trong mỗi lần vung cần.Hy vọng rằng chúng ta không bao giờ đạt tới chân trời cầu vồng đẹp đẽ ấy. Hiện thời hầu hết chúng ta đều dùng hay đã thấy bộ cần máy câu spinning (lancer),để hiểu cách ném cần fly ra sao,ta nên so sánh cách câu fly và câu spin,nó sẽ giúp ích chúng ta được đôi chút.Hãy quan sát hai người câu cá,cả hai người đều thao tác ném mồi trên hai thuyền câu như nhau và cùng đều dùng mồi cá giả. Thông thường người câu spin dùng con mồi giả nặng khoảng ¼ oz (khoảng 7gr),một loại mồi phổ biến làm từ gỗ balsa hoặc làm từ nhựa với hình dáng cá con,hoàn tất rất óng ánh màu kim loại,với miếng lưỡi nhựa gắn phía đầu để cho con mồi lắc lư như cá thật lúc kéo dây dưới nước.Cần câu của người câu spin dài 6’(1,8m) thuộc loại cần có tính năng thật nhẹ (ultra light) máy câu spin chứa 200 yards (182m),dây cước mono loại chịu lực 6 lbs (2.7 kg).Mồi câu được buộc thẳng vào dây cước. Ông ta cầm cần vào tư thế 10:00 giờ phía trước mặt,rồi nhấc tay đưa đầu cần ngược về phía sau theo tư thế 12:30 giờ sau đôi vai, ông ta phất tay thật nhanh để đưa đầu cần trở lại vào thế 10:00,ngang tầm mắt ,cùng lúc ấy ông ta thả ngón tay trỏ ra,(ngón tay kềm dây). Độ dịu của cần bật con mồi vào khoảng không kéo theo dây tuôn từ máy câu.Lực cản của không khí và trọng lượng của con mồi làm giảm đường phóng con mồi rơi cách xa khoảng 60 feet (18m) chạm mặt nước khá nhẹ nhàng.Người câu spin thu dây điều khiển con mồi bắng cách quay máy câu,bộ phận gạt dây cuộn dây ngược vào ổ máy,trong khi đó con mồi sẽ bơi xuyên qua nước với cử động y như cá con thật.Khi con mồi đến gần thuyền,ông ta quay dây thêm cho đến khi con mồi giả tòng teng trước đầu cần khoảng vài tấc.Và ông ta lại sẵn sàng bắt đầu một cú ném khác. Bây giờ quan sát một người câu fly,mục đích của ông ta cũng như người câu spin kia,nhưng cả 2 thứ: mồi và dụng cụ câu khác bộ câu spin,con mồi là một lưỡi câu quấn bằng dây kim tuyến và lông thú,dây kim tuyến quấn thẳng vào thân lưỡi làm thành cái “thân” óng ánh,phản chiếu ánh sáng lấp lánh y như vảy cá con. Đôi “cánh” của con bọ làm bằng lông vũ màu trắng có lằn vân đen ở giữa để tạo cảm tưởng là một loại cá con sọc.Con bọ này gọi là “streamer fly”và phải cần độ vài chục con mới nặng bằng con cá giả làm từ gỗ balsa. Kể như con bọ không có trọng lượng,nên khi ném dây con bọ khó kéo dây tuôn ra khỏi ổ cước.Cho dù bạn cầm con bọ trong tay và ném nó càng xa càng tốt, nó không thể rơi xa quá 10 feet (3m). Bạn cũng có thể gắn con bọ vào dây câu spin mà nhúng nhử xuống mặt nước giống như lớp người xưa thời tiền sử khi họ làm thế với các con nhộng là mồi câu của họ,dù có nhiều cách khác để thao tác con mồi bọ một cách hữu hiệu hơn. Thay vì dùng dây thật dài,hay sức chịu lực của dây nylon,người câu fly dùng sức nặng của dây để phóng con mồi bọ của họ,dây có thể chìm,có thể nổi,nhưng nó phải đủ nặng để phóng con mồi bọ đi xa khoảng 100 feet (30m) thường trung bình khoảng cách xa ít hơn,trên dưới 30 feet (10m).Phần dây fly chính được nối cách biệt với con bọ bằng một sợi dây dẫn (leader) dây nylon khá nhỏ,căn bản cũng như là loại dây nylon mà người câu spin dùng.Dây dẫn thường dẻo,trong suốt,khi nối từ con bọ đến dây fly chính, cho nên con bọ trở nên sống động và không thấy bị nối liền vào đâu trên mặt nước,dây dẫn cũng phát sinh lực cản có từ không khí làm con bọ đáp nhẹ nhàng xuống mặt nước. Ta quan sát tiếp người câu fly thao tác,sau khi buộc mồi bọ vào dây dẫn, ông ta kéo dây fly ra khỏi đầu ngọn cần khoảng 10 feet (3m),rồi xả dây fly ra khỏi ổ máy quay khoảng 30 feet (10m) quấn thõng dây,cầm trong tay trái, với cách vụt cần tới lui, nhanh nhẹ,dùng từ khuỷu tay tới cổ tay, ông ta chuyển đầu cần thẳng trước mặt lên hướng thẳng đứng trên đầu,khi dây fly di chuyển trên không thì nó sẽ tạo một đường cung nhỏ,dài gọi là “vòng ném” (casting loop)cho đến khi vòng cung này dẹp ra biến đổi thành song song với mặt nước từ phía sau đến phía trước mặt ông ta,ông ta vung cần như thế trong 3 hay 4 lần mà không để dây rơi xuống nước,mỗi lần vung ông ta xả một ít dây quấn bên tay trái ra khi đầu dây hướng về phía trước,khi ông ta vờn cú chót mà dân câu fly gọi là “phóng giả”(false cast).Thì dây dẫn,dây fly rơi xuống mặt nước nhẹ nhàng và con bọ “đậu” thật nhẹ cách xa 40 feet (12m). Con bọ streamer là một loại wet fly (bọ ướt) chìm dưới nước,sẽ kéo dây dẫn dãn từ từ ra,người câu fly bắt đầu rút dây cho con mồi bọ di chuyển dưới nước,thay vì quay máy như người câu spin để thu dây. Ông ta móc sợi dây vào ngón trỏ ở phía tay cầm cần,kéo thu dây bằng tay kia,mỗi đoạn kéo thu dây sẽ làm con mồi chuyển động như cá thật,mỗi đoạn dây câu thu được sẽ quấn thõng lại thứ tự trên tay trái, để sẵn sàng tung tiếp lần kế.Khi con mồi bọ còn cách thuyền chừng 10 feet (3m) ông ta nhấc cần và bắt đầu vờn dây để tung tiếp, ông lập đi lập lại thao tác cho đến khi bắt được cá. Nhìn thoáng sơ thì người câu fly có vẻ trải qua nhiều cố gắng thao tác trong một giai đoạn ném dây,trong khi người câu spin chỉ nhấc cần nhẹ và tung mồi giả đi nhanh hơn.Người câu fly phải nhấc cần,vờn dây vài lần trước khi đạt tới được khoảng cách mong muốn mà thả mồi rơi xuống nước. Nhưng câu fly có một ưu thế khác,khi người câu fly đột nhiên thấy cá táp mồi gần đó họ có thể thu đoạn dây dài 40 feet, thay đổi hướng,tung mồi lại giữa lưng chừng trên không,để cho mồi rơi ngay trước mặt cá,khác người câu spin phải bắt buộc quay máy thu hết dây trước khi nghĩ đến quăng mồi vào điểm khác. Học cách câu fly có khó không?cũng như nhiều việc khác,nó tùy thuộc vào cách chúng ta quan sát,nghe hiểu và tay,mắt có kết hợp đồng đều hay không ? Đa số chúng ta đều nghĩ học môn câu này cũng khó như học môn chơi tennis hay môn chơi golf,có cái giống các môn thể thao đó,chúng ta không bao giờ hài lòng với kỹ năng của chính chúng ta.Có những ngày chúng ta cảm thấy vô ích khi đi câu,để hiểu những vấn đề này,bạn thử tượng tượng cái khéo tay một cách máy móc khi vung cần ngược hướng gió,điều kiện con nước xấu,hay những lúc cá không ăn bất cứ thứ mồi gì.Cho nên để ưa thích môn câu fly bạn phài mất vài năm để say mê. Trong một vài trường hợp đối với một ít loại cá biển,mồi câu bọ tạo cho cá nhiều cú tấn công hơn,câu fly ở biển là một cách bắt cá có rất nhiều thách đố,hào hứng nhất.Một số người không câu fly vì hình như đó là môn câu kỳ diệu vượt ngoài khả năng của họ,nhưng thực tế cách câu fly cũng dễ tập như cách câu spin,nó khác biệt về thời gian ném mồi, lý do tại sao người câu spin khó tập chuyển qua câu fly khi đã quen với thao tác ném mồi bằng cần spin,cho nên nhưng người chưa bao giờ xử dụng cần spin,baitcast,ít gặp trở ngại khi luyện tập cách câu fly. Môn câu fly trở nên phong trào rầm rộ vào cuối thập niên 1990 khi cuốn phim “A River runs though it” xuất hiện trên màn ảnh,nhưng những người mới nhào vô chơi môn câu fly sớm nhận ra rằng môn câu này cần có thật nhiều cố gắng, bắt buộc,thời gian,nên bỏ cuộc.Môn câu fly là một môn câu có xác xuất bỏ ngang nửa chừng rất cao so với bất cứ môn chơi thể thao nào,nếu bạn say mê môn câu fly này tức là bạn đã chứng tỏ được bản lãnh của bạn. Môn câu fly không hẳn là môn chơi tốn nhiều tiền.Để có một bộ cần fly tương đối tốt cho mình,bạn có thể mua một bộ cần,máy fly khoảng 100$ dùng bắt tất cả những loại cá hương nhỏ hoặc một số cá biển thật nhỏ ( Những loại cá hung dữ ở biển thường đòi hỏi phải có những bộ cần,máy rất mắc tiền sau khi đã mua được thuyền hay đã thuê được những hướng dẫn viên rành nghề câu biển). Đừng để một ai nói đúng hay sai cách bạn dùng mồi câu,bạn sẽ nghe một số lời bình phẩm là con bọ này không tạo được cú tấn công của cá,hay con bọ kia không thể rê được,hoặc câu cá hồi với trứng giả của nó không phải là cách câu fly. Đừng ngại,một khi bộ đồ câu bạn dùng đúng luật (Một số vùng nước cho câu fly cấm tuyệt đối dùng mồi bọ ướt để câu,hay giới hạn dùng một số dụng cụ câu fly nào đó) miễn sao bạn vui và hứng thú với môn câu cho chính bạn.Nếu bạn muốn giữ một vài con cá để ăn, đừng sợ mặc cảm có tội,nếu bạn là người chỉ muốn câu cá rồi thả, đừng để bị thuyết phục. Bảo vệ môi sinh và môi trường đi câu là chìa khoá tương lai cho môn câu ,không phải chỉ là lưu trữ cá trong vài năm.Chỉ là ảo tưởng khi nói là tiêu diệt toàn thể các loại cá bằng môn câu thể thao,nhưng nếu bạn phá hoại môi sinh thì cá không bao giờ trở lại nữa. Hãy cam đoan rằng trong môi trường bạn đang hưởng thụ niềm vui thì bạn đừng phá hoại nó, mà còn để người khác hưởng nữa.Xả rác bừa bãi là một thí dụ rõ ràng làm ô uế môi trường,mà còn tệ hơn nữa là đập phá hàng rào cấm vượt,cửa cổng khoá vào vùng cấm câu. Nên để khoảng cách rộng rãi cho người khác câu cùng, khi trên hồ hay trên biển,đừng chạy thuyền vào nơi cá đàn cá đang ăn mồi,và luôn luôn giữ cách xa với các thuyền câu khác,trên suối nên chọn chỗ đứng khác khi có người đang câu,dù rằng chỉ có một người đứng,đừng câu chỗ đấy nếu có điểm câu khác cũng gần.Hoặc khi tất cả điểm câu đều đông người câu thì ta kiếm chỗ bờ,kênh,vũng ở nơi nào khác,bạn có thể luôn luôn tìm được nơi câu lý tưởng mà không làm phiền ai cả.Bạn sẽ tìm được một niềm vui hài hòa trong môn thể thao này là: “Sự bình yên của tâm hồn”. Phạm Đình Nam, tháng 8-2008 Mục lục : 1- Câu Fly là gì? 2- Kích cở cần và dây câu 3- Dây và máy 4- Dây dẫn và Nút thắt 5- Cách ném Fly 6- Các loại con Flies 7- Tuyển lựa Fly câu 8- Kỹ thuật dùng trên suối 9- Kỹ thuật dùng trong hồ 10- Kỹ thuật dùng ở biển 11- Cách dìu và vớt cá 12- Dụng cụ 13- Cách bảo trì dụng cụ câu Fly
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 20, 2008 5:03:36 GMT 9
TENKARA-Môn câu fly của Người Nhật Nhân dịp đi qua Nhật chuyến vừa qua tôi có thấy một cách câu rất lạ,tôi có hỏi Toshi và Cẩm Vân thì được biết đó là một cách câu fly cổ truyền của Nhật,Toshi cũng có chỉ tôi cách thắt nút loại dây câu này rất nhanh gọn và tiện thể cũng có người hỏi cách câu này,nên tôi tham khảo và biên dịch cho các bạn biết thêm một kiểu câu mới lạ hơi giống kiểu câu fly của bắc Mỹ. TENKARA Môn câu fly của Nhật được gọi là TENKARA xuất xứ nguyên thủy từ những làng nằm trên cao nguyên,nó được phổ biến xuống vùng đồng bằng như là một kiểu câu cổ truyền từ xa xưa.Cách câu gồm một cần dài khoảng 3 – 5 m gắn với dây và mồi fly riêng biệt của Tankara gọi là Kebari.Vì đa số những con suối bên Nhật chiều ngang rất hẹp nên cách câu này rất thích hợp với vùng rừng núi đó. Mồi fly Tenkara có nhiều loại và nhiều màu sắc theo từng vùng,những dòng suối ở Nhật có nhiều khác biệt nhau về dòng chảy cũng như lưu lượng nước chảy, đó là tại sao cách câu fly Tenkara rất đơn giản và căn bản mồi làm y như loại mồi wet fly,nhưng nó lại không bắt buộc dùng y như cách câu fly của dân tây phương. Không có ai biết chắc chắn cách câu này tại sao gọi là Tenkara,một số người cho Tenkara có nghĩa là “từ trên trời” theo cái nghĩa những con flies đáp xuống mặt nước,những người khác thì cho là xuất xứ từ chữ “Tengara” một cách câu hoàn toàn khác biệt đối với cách câu loại cá Ayu được lưu nhập từ Trung Hoa vào Nhật. Vẫn có người cho rằng nó là biến đổi của môn chơi trẻ em nhảy một chân chung quanh vòng tròn vẽ dưới đất,cũng như những người câu kiểu Tenkara nhảy từ mõm đá này qua mõm đá khác trong con suối, giống như trẻ em chơi trò Ken Ken.Cách phát âm chữ này thay đổi theo từng vùng có thể gọi là Chingara,Shinkara hay Tsunkara. Hiện nay môn câu Tenkara chỉ có những người câu chuyện nghiệp ở Nhật dùng để câu cá trout trong suối,dụng cụ câu fly Tenkara rất giống với dụng cụ câu fly của tây phương,những con fly được gọi là Kebari, Tiếng Nhật gọi là Ke là lông, bari là lưỡi câu, con mồi fly này rất giống với loại mồi fly mềm ( soft hackle fly) của tây phương,cần câu nguyên thủy được làm từ cây tre ,nhưng bây giờ có những cần làm bằng tổng hợp carbon graphite như chúng ta thấy hiện giờ,dây câu được làm bằng sợi tơ của kén con bướm và đan xéo (taper line) với lông đuôi con ngựa được gọi là Basu,Tegusu hay Kiwata. Cái duy nhất đặc biệt của Tenkara khác cách câu tây phương là cần không có máy cuộn dây.Những mồi câu đa số làm từ địa phận Banshu thuộc vùng Hyogo,phiá tây nước Nhật. Người dân câu Tenkara dưới thời đại EDO (1603-1867) thường dùng mồi fly thật ( nghĩa là bắt con fly buộc vào lưỡi câu) phát xứ từ vùng Kyoto,Dưới thời đại Tempo (1830-1844) người dân Banshu phát triển nghề làm mồi khéo léo của riêng họ thành loại mồi phổ biến cho dân câu khắp nơi. Với cách câu Tenkara ,người câu chuyên dùng để nhắm bắt cá “Iwana”( loại cá sống ở vùng nước lạnh), “Yamame” ( loại cá được gọi là vua cá Trout,hoặc như brook trout), “ Amago”và “Ayu”(sweetfish). Kiểu câu Tenkara là kiểu câu quan trọng phải biết được cách đọc làn nước chảy của dòng suối ; 1- Cách ném mồi ( hình 1) Người câu Tenkara vung cần phải trong khoảng cách 90 độ nếu cần và dây ,nếu mỗi thứ dài khoảng 3,3m thì con mồi fly phải rơi ở đoạn 6,7m,tuy vậy độ dài của dây câu thay đổi theo chiều dài dòng nước hay kỹ thuật của người câu.Cách ném mồi của TenKara không khác nhau gì nhiều cách ném của tây phương ,chỉ khác một chút ở chỗ Tenkara phất với nhịp điệu nhanh hơn. 2- Điều khiển cần để nhắp mồi ( hình 2) Cách điều khiển cần trong môn Tenkara làm cho con fly trở nên lôi cuốn và tkích thích cá ăn mồi,nên ném mồi fly phía ngược dòng nước chảy hay trên mặt nước, không để dây câu chìm dưới nước mà chỉ để chìm con mồi fly trong dòng nước mà thôi. 3-Cách ném mồi theo kiểu “ Sutebari”.( hình 3) Một trong kỹ thuật ném mồi Tenkara được gọi là “Sutebari” nghĩa là “ ném mồi xa ra”, kỹ thuật này là ném mồi ra chỗ có cá làm nhiều lần,cho chạm mặt nước, để gây sự chú ý của cá,trước khi ném con mồi nằm im ở đó. Còn được gọi là “dapping” nghĩa là phất cần dài ra tới chỗ có cá cho mồi chạm xuống mặt nước và nhấc cần cho con mồi nhảy theo y như cách con fly đang bay là là chạm nước để đẻ trứng, đây là một kỹ thuật câu rất sát cá ,nó làm tăng hiệu quả con mồi fly,cách này thường dùng ở phía đông vùng bắc Mỹ, là phải phất cần thật khéo cho con mồi chạm mặt nước rồi phất lại cần cho con mồi chạm vài lần nữa trươc khi vờn dây lần chót cho con mồi “đậu” xuống mặt nước,chứ không phải rơi xuống mặt nước,nếu không con mồi sẽ làm cho cá sợ mà không ăn. Phạm Đình Nam,26-06-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 21, 2009 5:12:59 GMT 9
Cá lóc nướng trui - hương vị đất phương Nam Thứ Bảy, 31/1/2009, 06:55 (GMT+7) Cá lóc nướng trui - hương vị đất phương Nam Cá lóc nướng trui cuốn với rau, bún chấm mắm me... đơn giản, nhưng ăn rồi khó quên. Ảnh: Huỳnh Biển (TBKTSG) - Cá lóc có thể chế biến thành nhiều món ăn đặc sản như quay lu, hấp bầu, nấu canh chua…, nhưng nhiều người cho rằng món cá lóc nướng trui bằng lửa rơm là ngon nhất. Đây là món ăn phổ biến từ thời khẩn hoang đất phương Nam. Trải qua hàng trăm năm nhưng món cá lóc nướng trui rất dân dã này vẫn là món khoái khẩu của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Quê tôi ở miệt ruộng đồng Phụng Hiệp (Hậu Giang), là xứ nổi tiếng đặc sản rùa rắn, cá tôm… Dẫu xa quê gần 30 năm nhưng hình bóng và hương vị quê nhà vẫn in đậm trong tôi. Mỗi bận Tết đến, tôi lại nhớ và thèm được về quê ăn món cá lóc nướng trui. Bởi hồi nhỏ ở quê tôi cá tôm nhiều lắm! Mê nhất là mùa tát đìa, tát mương. Cá vô số kể, cá lóc bằng bắp tay, còn cá rô bằng 4 ngón tay trở lên mới bắt ăn. Mỗi đìa tát bắt được hàng trăm ký cá, rắn, rùa… không thể nào gánh nổi mà phải bắt trâu kéo cộ chở cá về nhà. Mùa tát đìa cũng là mùa được ăn cá lóc nướng trui nhiều nhất. Cánh đàn ông lực lưỡng thì dọn cỏ, tát gàu sòng, còn tụi nhỏ chúng tôi được phân công đi ôm rơm nướng cá, tìm hái rau đồng mọc hoang dại gần mương đìa như rau đắng, rau cóc (giống như rau tần)…, chuẩn bị cho buổi ăn trưa tát đìa. Vì đìa lớn, không có máy bơm tát như bây giờ, chỉ tát bằng gàu sòng đến chiều mới cạn. Buổi ăn trưa, chỉ có lóc nướng trui với rau đồng nội, cùng muối hột hay nước mắm me nhưng thật tuyệt vời. Bọn trẻ con chúng tôi rất vui sướng được giao việc nướng cá, bắt nhiều con cá lóc bằng bắp tay, dùng nhành tre bằng ngón tay út đâm từ đầu đến đuôi cá, rồi cắm cây cho đầu cá chúi xuống đất, chất rơm lên đốt lửa. Rơm gặp gió cháy phừng phừng, chỉ vài phút sau, cá chín nức mùi thơm. Chúng tôi, lấy cây đùa lửa rơm ra, rồi lấy lá chuối cào lớp cháy đen vảy cá, phía trong da vàng thơm phức mùi thịt cá nướng khó cầm lòng được. Tát mương đìa cá nhiều không thể ăn hết, một số được dành làm mắm trữ đến mùa cấy ăn, số còn lại dùng lu chứa để ăn trong những ngày tết. Quanh năm chẳng mấy khi được ăn thịt bò, heo, gà. vịt, nhưng mấy ngày tết, những thứ ấy chỉ ăn ba hôm thì ngán. Lúc ấy, món cá lóc nướng trui cuốn bánh tráng, bún, cùng với các thứ rau thơm, húng nhũi, tía tô, chuối chát, khế, khóm, dưa leo, xà lách… chấm nước mắm me, thì đúng là ăn quên... no, sướng cái miệng biết bao. Món ngon từ thời khẩn hoang đất phương Nam. Ảnh: Huỳnh Biển Sinh thời, nhà điêu khắc Nguyễn Phước Sanh, sau 27 năm tập kết ra Bắc trở về sau ngày đất nước thống nhất, đến thăm ba tôi đúng vào dịp tết năm 1976. Ba tôi đãi ông món cá lóc nướng trui, lai rai cùng rượu đế. Ông Sanh vừa thưởng thức vừa tấm tắc khen: “Ngon quá! Lâu lắm mới được ăn món cá lóc nướng trui của quê nhà!”. Năm nay, anh tôi làm ăn ở nước ngoài đã gần 40 năm qua, về quê ăn tết. Trước khi về, anh căn dặn mấy anh tôi ở quê phải kiếm bằng được cá lóc để nướng trui. Anh nói: “Kiếm vài con cá lóc đồng, rồi anh em mình đem ra vườn nướng trui, nhâm nhi, hàn huyên chuyện gia đình thì hay biết mấy!” Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, một người sành sõi các món ăn miền sông nước Cửu Long, trong một lần trả lời phỏng vấn của một tạp chí chuyên về ẩm thực, đã nói: “Món nướng cũng là món ngon. Mấy năm gần đây “làng nướng” mọc lên khắp nơi. Nhưng phải biết lửa nào nướng con nào. Cá lóc nướng trui phải nướng bằng lửa rơm". Và ông kể: "Có lần, tôi với Lê Văn Thảo về Bến Tre thăm Trang Thế Hy, trên đường thấy cây rơm bên đường liền xin một bó bỏ lên xe. Rút kinh nghiệm lần trước, nhà Trang Thế Hy là nhà vườn, không có một cọng rơm, đành lấy lá dừa nước nướng cá. Cá lóc nướng trui bằng lá dừa, thịt không thơm mà hôi, ăn không nổi. Cá lóc nướng trui bằng lửa rơm có mùi thơm của rơm. Con cá nằm dài trên lá chuối, cá chấm với muối ớt, mà phải muối hột mới đúng điệu, xị này qua xị khác, cứ tà tà”. Cũng con cá lóc, người ngoài Bắc gọi là cá quả, vô miền Trung lại kêu là cá tràu; vào quán bình dân hay nhà hàng sang trọng ở đâu cũng đều có trong thực đơn. Nhưng những món cá lóc được các đầu bếp chế biến cầu kỳ, với nhiều gia vị nhưng không thể qua được món lóc nướng trui bằng rơm kiểu đất phương Nam. Tết đến, kiếm cho được lóc đồng “thứ thiệt” (không phải cá lóc nuôi) đem nướng rơm mà lai rai cùng bằng hữu tri âm, thưởng thức hương đồng, gió nội thì mới thấy người xưa sành điệu biết bao! HUỲNH BIỂN
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 8:50:39 GMT 9
Thú ăn ốc mưuVietsciences- Bùi Minh Đức Ốc là một món ăn bình dân, đã có từ lâu đời ở Huế. Trong “Hò Huế” cũng đã có câu hò tình nghĩa dính dáng đến Con Ốc : “Mẹ ơi chớ đánh con đau, Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ”. Tục ngữ Huế cũng có câu nói về chuyện ăn ốc của người xưa : “Người ăn ốc, người đổ vỏ”. “Bắt ốc hái rau” là công việc thường ngày của người nghèo trên đường đi kiếm thêm đồ ăn độn bụng và thêm nguồn “protid” dinh dưỡng cho gia đình ngoài các món ăn thế cơm hàng ngày của họ như khoai, sắn hay bắp luộc trong những năm tháng mất mùa. Người nhà quê mò ốc phải đắm mình hàng ngày trong nước hói đục ngầu với cái “oi vịt” nổi lềnh bềnh trên mặt nước phía trước mặt họ. Họ mang trên người chỉ chiếc yếm che ngực, đầu đội nón để che nắng và trầm hẳn thân mình vào trong nước, hai tay mò qua mò lại dưới đáy hói để tìm kiếm ốc. Nhìn họ đang bắt ốc trông như chiếc nón lá đang trôi dạt nhẹ nhàng trên mặt nước. Khuôn mặt họ hoàn toàn bị chiếc nón che khuất. Mỗi lần bắt được ốc là họ chao ngay trong nước và bỏ vào oi vịt. Oi vịt thường được đan bằng mây nhẹ và được phết kỹ vài lớp nước dầu rái nên không thấm nước. Vì nhẹ và không thấm nước nên oi vịt nổi được trên mặt nước. Sở dĩ “oi vịt” có tên như thế là vì chiếc oi có hình con vịt dương cao cổ và trên lưng có lỗ lớn để bỏ ốc, cá và tôm vào mà không bị thất thoát. Hai tay của người đàn bà quê quờ quạng ngầm dưới nước và chỉ nhờ vào cảm giác của bàn tay mà biết được vật rờ được là ốc mưu, ốc hút hay ốc gạo. “Ốc gạo” rất nhỏ, chỉ bằng hột bắp nên công việc bắt ốc mà gặp phải thứ ốc nầy thì cũng phải lâu lắm mới đầy giỏ. “Ốc mưu” hay còn gọi là “Ốc Bưu” lớn mình nhất, to bằng nắm tay con nít và thường được dân quê thích hơn, vì ăn đã ngon mà thịt lại nhiều nên có thể ăn thay cơm. “Ốc mút” có đáy nhọn, thường chỉ dùng để ăn chơi vào bựa lợ buổi chiều chứ chẳng thể nào thay thế bữa ăn thường ngày của gia đình. Khi ăn “ốc mút” phải cắn đứt hẳn đuôi ốc mới có thể khươi thịt ốc bên trong ra được. Người Huế thường có lệ vừa cắn đáy “ốc hút” vừa mút nước trong vỏ ốc trước khi khều thịt ốc và xóc ra ăn. Nhiều khi do cắn đáy ốc khá rộng, nên khi mút nước, thân ốc sẽ theo ra cùng, không cần phải ngóay ốc và móc ốc ra. Ốc mưu hình tròn xoắn ốc, trước khi ăn phải chặt đuôi mới xóc được thịt ốc và lấy ra khỏi vỏ ốc được. Thân của ốc mưu có phần dưới là “sáp ốc”, màu hơi vàng vàng, ăn vào cảm thấy béo và mềm. Phần trên của thân ốc mưu là thịt ốc, ăn vào cảm thấy sần sật hơi cứng và khi nhai cảm thấy ngon. Trước khi ăn phải khêu bỏ cái màng che ở đầu lớn của con ốc, “để lòi” đầu con ốc bên trong thì mới xóc ra ăn được. Màng ốc đó được gọi là “yếm ốc”. Ốc sên trắng Ốc sên Bourgogne Ốc bắt về phải ngâm trong nước mã, thứ nước vo gạo, cho sạch ốc để ốc nhả hết nhựa độc trong vỏ ốc ra. Phải ngâm kỹ ốc trong nước mã tối thiểu trong 10 ngày và thay nước hàng ngày để ốc trút cho hết các nước nhớp trong người ra. Ốc thường bò sát dưới đất để đi quanh ăn nên vì thế ốc có thể ăn các chất độc nằm sát đất như các thứ nấm độc và do đó. có thể truyền độc chết người qua cho người. Vì thế ngay cả người Pháp ngày nay cũng phải nuôi lấy ốc để ăn chứ không còn dám ăn “ốc hoang”, thứ ốc mà mình thấy bò quanh vườn nữa. Tuy nuôi ốc sên để ăn nhưng người Pháp cũng không dám gan cùng mình, luộc ốc ăn liền mà cũng phải “sửa sọan” con ốc trước khi ăn. Họ cũng phải làm sạch sẽ con ốc trước bằng cách nhốt ốc trong nước ít lâu, có khi cả 15 ngày rồi rửa bằng nước ấm, chà xát vỏ ốc cho sạch rồi mới cho vào lò. Người Pháp gọi giai đọan ngâm ốc cho sạch nầy, là giai đọan “Rửa ốc” (Toilette des escargots). Khi ngâm ốc cũng phải cẩn thận đậy kỹ thau ốc lại vì nếu không, đêm khuya ốc sẽ thóat ra ngoài và bò tứ tung trong bếp. Có con bò vào ngay cả trong tủ áo quần, trong xó tối, trong chiếu trong mền của những người thích nằm dưới đất. Bên Pháp, có một người nhà quê có một rá ốc định đem đi ngâm nước cho sạch nhưng rồi ham làm việc gì đó, quên khuấy đi mất, bỏ quên rá ốc trong tủ áo quần suốt 3 tháng trời. Khi nhớ ra thì ốc trong chiếc rá vẫn còn sống nhăn! Loài ốc mãn trên thế giới còn hơn là chỉ biết dùng thịt của chúng để ăn mà thôi. Lại biết đâu trong tương lai sẽ có người tìm ra phương pháp sống lâu cho loài người nhờ nghiên cứu kỹ cách xem ra cũng ít ăn và sống cũng lâu dài. Tìm cho ra bí quyết nầy để giải quyết nạn nhân ăn uống của loài ốc ! Ốc sên xám Người Huế thường bày món ốc luộc ra ăn vào “bữa lợ” tức vào bữa ăn dặm truyền thống của dân Huế vào ban chiều khoảng 4 giờ chiều, một tập tục có từ ngàn xưa còn duy trì tại Huế cho thấu ngày nay. Trong buổi lợ, họ dọn những đồ ăn nhẹ để lấy thêm sức làm việc, khi thì rá sắn rá khoai, khi thì trái mít chín lỗn cồi, khi thì rá ốc hút, rá ốc mưu với chén nước mắm ớt tỏi. Đám trẻ trong nhà, những dân thạo ăn bữa lợ nhất nhà, thường lo dự trữ sẵn gai bưởi khươi ốc khi thấy có rá ốc để sẵn. Ăn ốc thường bị nhớp tay nên chúng biết trước, để dành sẵn tro trong bếp mà chùi tay sau khi ăn. Với mít chín dọn trong bữa lợ, chúng biết lu để gạo ở đâu, để khi ăn mít xong chạy vội vào lu gạo để dùng gạo xoa tay cho sạch. Lấy gạo xoa tay sẽ làm sạch mủ mít ở tay hơn là với dầu hỏa. Bảo chúng là những chuyên viên ăn bữa lợ thật không ngoa chút nào. Ốc được nấu chín trong nồi lớn với lá bưởi, lá chanh và lá sả, thường được đậy nắp lại trong khi nấu cho thơm mình ốc. Có người còn thêm nhiều lát gừng hoặc đập dẹp cả củ gừng cho vào nồi nấu để có nhiều mùi thơm hơn. Nắp vung vừa mở ra, hơi thơm đã bay ra ngào ngạt. Cũing có người cho một tí ruốc Huế vào - thứ mắm tôm của người Bắc- để cho ốc có mùi vị mặn mà, tránh cảnh “Lạt như nước ốc” trong câu tục ngữ Huế. Có người hít vội hít vàng vài hơi từ nồi ốc nóng, cho cảm thấy được nhiều hương vị hơn trước khi ngồi xuống ăn ốc. Nguyên tắc ăn ốc mưu là lấy con ốc luộc từ nồi ra, khẩy cái mày phía trước với cái gai bưởi và đâm gai bưởi vào phía trong miệng con ốc, xóc vào thịt ốc rồi vừa quây một vòng tay vừa rút ốc ra. Con ốc đã dính vào chiếc gai bưởi ! Cũng dùng gai bưởi, chấm thịt ốc vào chén nước mắm tỏi ớt, đưa con ốc chà kỹ dưới đáy chén nước mắm cho thiệt thấm vô ốc, rồi đưa vào miệng ăn. Vừa ăn vừa nhắm mắt tận hưởng vừa khen đồ ăn ngon : “Thiệt ngon cho rồi !”. Đó là cố tật của dân Huế. Có người ở thôn quê luôn luôn mang trong người một cái kim băng “nhà nghề”, một cây kim băng đa năng, thường gài trên túi áo đễ giữ chặt tiền không cho rớt ra. Khi ngồi xuống ăn ốc, họ là những người sẵn sàng trước nhất để khươi ốc ra vì chỉ cán tháo cái kim băng ra là họ đã có “cái que khươi” rồi. Ăn ốc xong, họ mút đầu kim băng cho sạch mùi ốc rồi gài lại trên túi áo, sẵn sàng đợi chờ cho nồi ốc khác trong những ngày sắp tới. Cây kim băng “nhà nghề” của họ vừa là cây kim băng để giữ tiền cho chặt và cũng vừa là cây tăm của họ, vừa là dụng cụ để ngóay tai, để lấy “dằm” ở bàn chân bàn tay, để đục lỗ khi đóng sách, đôi khi còn được dùng để thay thế khẩn cấp chiếc nút áo bị đứt, cái dây lưng quần bị sút, mà cũng còn là cây kim để cột tả em bé và khi cần thì cũng dùng để bóc quýt bóc cam ăn. Ăn ốc theo lệ phải ăn nóng từ trong nồi mới duống xuống mới ngon. Cả nhà ngồi quanh nồi ốc luộc và ai ai cũng tự mình lo lấy gai bưởi làm đồ khêu ốc. Trên mâm có để sẵn cái rá lớn để đựng vỏ ốc. Ăn ốc xong, ai nấy đứng dậy rời khỏi chiếc chõng tre đã ngồi và người bưng rổ ốc đi đổ không khỏi lầm thầm trong miệng câu tục ngữ “Người ăn ốc người đổ vỏ!”. Khi vào cuộc trong buổi ăn ốc, các thực khách tìm ra ngay người nào là người “rành ăn ốc” nhất. Đó là người có cây khêu nghề, họat động có quy củ, tuy chậm rãi nhưng có thứ lớp, “ xóc gai vào thịt ốc, quây quanh vòng tay, ốc được rút ra, chấm nước mắm và bỏ vào miệng”. Không nói, không cười. Hai bàn tay cùng một nhịp điệu, miệng mở đúng lúc để mút con ốc thịt vào miệng. Vừa nhai vừa bắt đầu xóc con ốc khác ! Lại nữa, có người ăn ốc mưu luộc đã đòi hỏi cho được một dĩa rau thơm, với rau răm dọn theo kèm để ăn cùng. Rau thơm và rau răm làm tăng hương vị của thịt ốc. Các cụ già nhiều người không dám ăn ốc, “để dành cho người có bụng mạnh”, vì các cụ biết là thứ ốc mưu không phải là hiền, “hại mình như chơi”. Theo họ, ốc là nòi lạnh, “ăn vô không khéo thì bị hắn vật như chơi!”. Các cụ dạy con cháu ai đã ăn ốc thì ban đêm phải đắp mền thật kỹ trên bụng để tránh bị đau bụng. Các cụ đỗ cho tánh hàn của Ốc làm hại các cụ nhưng thời nay có thể giải thích chuyện “ăn ốc bị vật” với bệnh thương hàn, bệnh “Typhus” nằm trong bùn lầy nơi ốc thường cư ngụ và có thể hại đến tính mạng của con người rất dễ dàng ! Ốc là giống ở bùn, ở sình nên thân ốc dễ mang mầm mống bệnh thương hàn. Hồi xưa mà nghe bị bệnh thương hàn lúc chưa có thuốc kháng sinh Tifomycin để chữa là có thể “chết như chơi”, nhất là khi bị “nhập lý”, mà các cụ gọi là “thương hàn nhập lý”, tức là bệnh đã vào bên trong và làm lủng ruột ! Các cô các cậu học sinh Huế ngày nay có lẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện bị bệnh thương hàn khi cắn đáy ốc rạo rạo mỗi ngày. Có lẽ họ cũng đã được phần nào miễn nhiễm với thứ vi trùng nầy rồi. Nhưng cũng vì sợ “cái lạnh của ốc nhiễm vào trong người mà các cụ bắt khi ăn ốc phải ăn với nước mắm cay, với ớt thiệt cay, với gừng và với tỏi, những gia vị “nóng” nhưng là những món thuốc. Trong đời sống của dân ta, có bốn món gọi là “tứ qúy”, ăn vô để chữa bệnh, đó là : “Gừng, nghệ, tỏi, hành”. Vì thế, ta không lấy làm lạ khi ai bị ho là các cụ khuyên ngay nên ăn gừng, aị thương ở mặt có thể bị có sẹo thì phải bôi nghệ cho mau liền da, khi ai ăn nem thì các cụ khuyên phải ăn với tỏi “để sán khỏi chòi” và khi ai đau đầu cảm cúm thì phải ăn ngay cháo hành với củ hành đập vào bỏ vào trong chén, thậm chí còn bị cha mẹ bắt ăn cả dĩa củ hành ta chấm muối để trị bệnh. Đó là món ăn nhưng cũng là món thuốc. Các cụ cũng không thích ăn ốc một phần cũng do thân ốc cứng chứ không mềm, “về già răng cỏ mô mà nhai cho nổi !”. Vì vậy, với món ốc mưu, các cụ đánh chữ “hang huyền hàng” tức đầu hàng, không dám ăn và cũng không nào ăn được. Hồi xưa, vì loài ốc là loài phá họai mùa màng, cây cối nên các cụ xưa làm một công hai chuyện, ăn ốc để không còn ốc phá họai mùa màng. Chuyện nầy cũng giống như khi bị dịch châu chấu cào cào làm hại mùa màng, dân ta cũng kiếm cách ăn ngay châu chấu, thường là đem châu chấu ra rang cho dòn và bỏ vào mồm nhai như ăn bắp rang. Dân châu Phi cũng có cùng một kinh nghiệm, ăn luôn cả châu chấu phá họai mùa màng.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 13, 2010 4:50:36 GMT 9
Món Cá quê hương Vietsciences-Nguyễn Ý-Đức Ngày xưa, những món cá quê hương lưới bắt bắt được từ đầm, ao, sông lạch của quê hương ta rất nhiều mà cũng rất hấp dẫn. Cá kho nhừ trong nồi đất, chả cá Lã Vọng, Sơn Hải, cá nấu giấm, nấu canh chua, lẩu cá, gỏi cá lá mơ, cá lẩu, cá rút xương, canh chua, cá kho tộ ...là những món ăn đặc biệt ngon lành, bổ dưỡng, dễ tiêu mà giá cả phải chăng. Hiếm hoi hơn còn có các món cá chình, cá anh vũ , cá song, cá măng, bông lau, cá vượt... Ngày nay, người ta còn chế ra nhiều món ăn từ cá rất hấp dẫn, nhưng đôi khi chỉ hợp khẩu vị một số người... “ Có cá đổ vạ cho cơm”, các cụ ta vẫn thường nói vậy vì với món cá ngon, cơm ăn bao nhiêu cũng hết, nhất là với gạo tám xoan Hải Hậu thơm phức hoặc gạo ba giăng tháng 10 mềm dẻo. Miền Nam có cá lóc chà bông, cá chạch kho nghệ, cá chẽm chưng tương hột hoặc chiên giòn, cá chốt kho, cá bống sao kho sả ớt, cá bống dừa Gò Công kho tiêu... Miệt sông rạch Gò Công, Tiền Giang có loại cá bống dừa, sống trong rừng dừa nước, to bằng cổ tay, thịt dẻo và ngọt. Cá này mà kho sả ớt, kho tiêu, nấu canh với lá bồ ngót, mướp hương thì ăn một lần cầm chắc khó quên. Cũng họ cá bống, còn cá bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống xèo, bống nhẩy cũng đều rất ngon. Món bún cá lóc đồng Kiên Giang rất nổi tiếng. Đặc sản miền Trung như cá sứt mũi sông Chu Bái Thượng nấu với dưa cải sen núi Mục hoặc canh chua thập cẩm với cúc tần, cần trắng, cà chua, khế, tiêu; cá chép gói lá chuối lùi trấu nóng; cá chép nấu hoa cúc đại; cá ngứa chiên giòn; cá vượt nấu canh chua... Cố đô Huế còn nổi tiếng với năm món canh cá: thác lác nấu hành lá, rau mùi; cá thệ nấu dứa; cá ngạnh nấu măng chua; cá tràu nấu với mít và cá lúi nấu khế; cá sứt mũi sông Chu nấu canh chua với dưa cải sen núi Mục của miền Trung. Miền Bắc cũng có nhiều món cá như hai miền kia nhưng nổi tiếng là cá rô Đầm Sét ở ngoại thành Hà Nội rán chìm trong mỡ; cá chắm đen kho ngũ vị, gừng ở Nam Định; cháo cá quả Hà Nội. Cá rô Đầm Sét đã đi vào văn hóa dân gian với câu: “ Vải Quang, Húng Láng, Ngổ Đầm; cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” . Ngoài ra còn có “cá rô làng Cháy, cá gáy làng Chờ” cũng được văn học dân gian ghi nhận. Cá rô mùa gặt lúa mà mang vùi chín trong đống lửa trấu hay rán mỡ sôi rồi ăn với cơm gạo mới thì bao nhiêu cơm cũng thiếu! Nhà văn Văn Quang đã tả món cháo ám gia truyền với cá lóc, cá quả mà chỉ nghe thôi đã thấy thèm thèm. Tiết trời lành lạnh Hà Nội mà ăn bát bún cá quả nấu với rau cần tháng Giêng thì chẳng ai chịu ngưng ở một bát. Cũng không quên những con cá được ướp khô để dành từ mùa này sang mùa khác. Vào một tối mùa Đông, ngoài trời gió lạnh, quây quần bên bếp lửa than hồng mà nướng những con khô mực, khô ổi, khô kèo… nhâm nhi với nước mắm me thêm vài nhánh tỏi, lát ớt thì tưởng như chuyện xưa kể mãi không chán. Cá đi vào văn học dân gian. Là một thực phẩm phổ thông, ưa thích nên cá đã đi vào thi ca dân gian mình với những câu trữ tình, lãng mạn, mang đậm bản sắc, tình tự quê hương. Phận làm dâu làm vợ thì: Chai rượu miếng trầu em hầu Tía, Má Nấu tô bún cá đặng lấy lòng anh. Hoặc: “Đốt than nướng cá cho vàng; Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi” “Cá chọn nơi sâu, người tìm chỗ tốt ”, Ý nói trong đời sống ai cũng chọn nơi có điều kiện thuận tiện để sống. “Cá chuối đắm đuối vì con” Ý nói cha mẹ chịu nhiều khổ đau, vất vả để gây dựng cho con cái. “Cá đối bằng đầu” Nhắc nhở con người phải biết cư xử phân biệt, thích hợp với vai vế trong gia đình, xã hội, phải biết kính trên nhường dưới, đừng “cá mè một lứa”, xem ai cũng như ai. “ Cá nhẩy, ốc cũng nhẩy”, hay: “Voi đú, chó đú chuột chù cũng nhẩy”. Ý nói không nên đua đòi theo kẻ khác mà đi ngược với bản chất hoặc vượt quá khả năng hiện có của mình. “Cá ngoi mặt nước là trời sắp mưa” Đây là kinh nghiệm quan sát thời tiết của dân gian, khi sắp mưa khí trời thường oi bức, dưỡng khí trong nước giảm, cá phải ngoi lên để đớp không khí. “ Cá vàng, bụng bọ” Ý nói bề ngoài hào nhoáng bên trong xấu xa, và không nên đánh giá con người hay sự vật qua vẻ bên ngoài. Khác chi câu nói của một anh sĩ diện hão: “Ra ngoài bộ mặt vênh vang Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mình” “Cá vào tay ai nấy bắt”, Ý nói mối lợi ngẫu nhiên đến với ai thì người đó chiếm giữ. Cá cháy vàm Trà Ôn đã được ghép chung với hai món ăn ngon quý của người phong lưu: “ Sáng ngày bồ dục chấm chanh, Trưa gỏi cá Cháy, tối canh cá Chầy” Và dưới đây là một số câu ca dao về các món cá trong dân gian, hoặc đôi khi mượn hình tượng con cá để truyền lại kinh nghiệm, ví von hay câu răn đời: “Cá nục nấu với dưa hồng; Lờ đờ có kẻ mất chồng như chơi” “Canh bún mà nấu cá Rô; Bà xơi hết thẩy mấy tô hỡi bà”! “ Con cá cơm thơm hơn con cá bẹ; Bởi mê nước mắm Hòn, em bỏ mẹ theo anh” “Chim mía Xuân Phổ; Cá bống Sông Trà”. “Đập con cá lóc nướng trui; Làm mâm rượu trắng, đãi người phương xa” “Đắt cá còn hơn rẻ thịt” “Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm” “Điên điển mà đem muối dưa; Ăn cặp cá nướng, đến vua cũng thèm” “Kèo nèo mà lại làm chua; Ăn với cá rán chẳng thua món nào” “Một con cá trích cắn ngang; Mắm tôm quệt ngược, tan hoang cửa nhà” “ Mùa Hè cá sông, mùa Đông cá ao” “Rau đắng nấu với cá trê; Ai đi Lục Tỉnh thì mê không về” Ai về Rạch Giá, Kiên Giang Ăn tô bún cá chứa chan tình người. Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:10:26 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 28, 2011 8:27:14 GMT 9
Câu cá chơi, nhưng ăn thiệt24/01/2011 Thú vui câu cá (kỳ 9) Thomas Trương/Viễn Đông Anh Hùng câu được cá hanh sọc ở hồ Castaic – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Anh Hùng, một tay câu cá chuyên nghiệp ở Quận Cam, tâm sự: “Do công việc làm không bị gò bó nên có thời gian rảnh là rủ anh em đi câu đỡ ghiền. Mùa nắng thì đi câu biển, mùa mưa thì đi câu hồ. Thích đi câu là vì có cá để ăn cả tuần. Nhờ ăn cá tươi mà chống lại được nhiều thứ bệnh. Vào mùa câu cá, câu được nhiều, ăn không hết phải ‘nhờ’ anh em bà con ăn tiếp. Nhiều anh em khác cũng có hoàn cảnh như vậy, tức là phải ‘nhờ’ người ăn tiếp… Cá câu được nhiều quá không có nơi chứa, nhiều lúc phải gọi điện thoại hỏi thăm ‘bà con’ thích ăn cá không, để gởi cho cá; nhiều trường hợp còn phải làm cá sạch sẽ người ta mới nhận, vì gia đình không biết làm cá… Họ mua ở chợ toàn là cá làm sẵn rồi”. Chị Hồng, em anh Hùng, chuẩn bị làm món cá – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Chuyện đi câu cá lúc đầu ai cũng nghĩ là đi câu cho vui. Nhưng câu một vài lần có kinh nghiệm, câu được nhiều cá và cảm nhận được cái cảm giác cá cắn câu, giật lên cong cả cần câu và kéo thấy nặng tay. Có khi còn kéo lên những con cá to tướng cả mấy chục pound, sung sướng vô cùng. Mang cá về nhà cắt ra từng khúc, cho anh em ăn “lấy le”. Phần đầu cá thì nấu lẩu mời bạn bè tới lai rai riết thành thích. Nhờ vậy chuyện câu được cá lớn chẳng mấy chốc được truyền bá khắp nơi, ai cũng biết. Từ một tay câu cá nghiệp dư, một người chẳng bao lâu trở thành chuyên nghiệp và chiêu mộ được nhiều anh em khác tham gia. Như vậy mà câu cá ở Mỹ đã trở nên phổ biến trong cộng đồng người Việt Nam trên xứ người. Nghĩ lại lúc xưa ở miền quê Việt Nam, nhỏ lớn, già trẻ, nam nữ, ai cũng một thời từng đi câu cá, cắm câu… Câu cá lòng tong, cá thiểu, cá chốt, cá rô đồng, cá he, cá thác lác... Có câu hát mà hầu như ai cũng biết, “nếu mai thất nghiệp tôi trở về quê cắm câu, bắt con nhái bầu, móc ngay cái hầu...”. Nhưng tuổi trẻ Việt Nam ngày nay ít ai còn biết câu cá, một phần dưới sông, rạch đâu còn cá nhiều để cắn câu, một phần do dân số ngày một đông hơn, một phần vì nhà nông sử dụng phân và thuốc rầy, cộng thêm nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải công nghiệp. Cá chết hàng loạt. Ở miền Tây, nước sông Mê Kông cũng ngày một ít hơn do các đập ngăn dòng ở thượng nguồn của Trung Cộng… Nên bữa ăn trong các gia đình thôn quê Việt Nam bây giờ cũng ít có mẻ cá mà kho. Anh Dương khoe con cá của ông anh vừa câu về – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Nhớ ngày xưa, với mẻ cá “chút chút” câu được, kho quẹt mà cả nhà ăn ngon lành với rau muống đồng, hay rau má nấu canh, cũng sống qua ngày. Nhưng theo anh Chước, câu cá ở Mỹ ngày nay sướng hơn nhiều. Cá câu được toàn là cá lớn, ăn không hết thì sớt cho bà con bạn bè ăn tiếp. Chuyện cho cá cũng lắm vui buồn. Anh H., một tay câu cá chuyên nghiệp, kể: “Lúc đầu câu được nhiều cá để tủ lạnh cũng đầy; thấy vậy mua một tủ đông đá để chứa cá ăn từ từ. Lúc đầu còn ghi bên ngoài bịch, cá loại gì, ngày tháng, để biết cá nào mới, cá nào cũ mà ăn. Nhưng ngày nào cũng câu được cá, dại gì mà không ăn cá tươi. Thế là mang đi cho bà con ăn tiếp. Một hôm đi câu về, sẵn có nhiều cá, nên chạy tới biếu cho anh bạn quen hay sửa giùm cái máy vi tính cả chục con cá lớn. Đưa cá cho anh, anh phán một câu quê hết biết, ‘Trời lạnh lẽo quá, sao không ở nhà nghỉ ngơi cho khoẻ, lên internet chát chiết thú vị biết mấy, đi câu làm chi cho cực nhọc vậy. Thức khuya dậy sớm câu cá rồi đem cho người nầy người kia, tốn công tốn sức tốn tiền nữa’. Kể từ đó tôi không bao giờ mang cá đến cho người này. Chỉ cho bà con, anh em nào thích ăn cá thôi”. Những người trong giới câu cá trở nên chuyên nghiệp, cũng chỉ vì sự đam mê cái thú câu cá, chứ câu cá có đi bán cho ai bao giờ đâu. Toàn là “tặng không biếu không”. Lâu lâu, anh em thấy vậy cũng gởi ít tiền gọi là mua vé vào hồ hay lên thuyền ra khơi. Thế là anh em thường xuyên tổ chức đi câu cá. Nhiều anh em ở nhà không đi câu, nhưng bù lại biết chế biến “cá bảy món”, người hùn thùng bia… làm bữa nhậu cuối tuần cũng vui. Thiên Bảo thấy anh Hùng mang về nhiều cá cũng mừng lây – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Cả nhà cũng làm cá “bảy món” để nhậu – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Anh Hùng mang cá đến nhà anh em ăn tiếp – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông Cá câu lên được đông lạnh cho tươi – ảnh: Thomas Trương/Viễn Đông
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 28, 2011 9:23:34 GMT 9
CharkBait: Tiệm bán đồ câu “thứ thiệt”!Lưu Sơn/Việt Herald (09/13/2010)http://www.vietherald.com/D_1-2_2-410_4-5823_5-100_6-1_15-1/CharkBait-Tiem-ban-do-cau-thu-thiet.html Ông Mark Smith chủ nhân tiệm bán đồ câu “thứ thiệt” CharkBait. HUNTINGTON BEACH, California (VH): Trong trang báo đầu tiên hàng tuần về săn bắn và câu cá trên nhật báo Việt Herald, chúng tôi xin được giới thiệu đến quý độc giả một cơ sở bán dụng cụ câu cá rất đầy đủ các mặt hàng này. Tiệm bán đồ câu CharkBait nằm trong khu thương mại trên đường Bolsa Chica thuộc thành phố Huntington Beach. Điểm rất đặc biệt là cơ sở này bán hàng trên mạng và ngay tại cửa tiệm với một giá thật vừa phải, người đam mê câu cá có thể vào trang mạng www.charkbait.com để đặt mua hàng. Hiện nay có nhiều mặt hàng cao cấp được bán giảm giá, có nhiều loại máy câu được gởi về tận nhà khách hàng mà không tính tiền lệ phí giao hàng. Trả lời phóng viên nhật báo Việt Herald, ông Mark Smith chủ nhân cơ sở trên cho biết tiệm đã mở cửa hơn 10 năm và hiện nay có hai cửa hàng, một tại Huntington Beach và cửa hàng thứ hai tại San Diego. Ông Mark cho biết việc bán hàng trên mạng điện tử cũng có rất nhiều khách hàng chiếu cố, công ty đã bán và giao hàng trên khắp thế giới. Với các loại máy câu đời mới, cửa hàng đều có đầy đủ hết như các loại máy Avet hay Penn chuyên câu cá biển. Hiện nay mùa câu cá tuna bắt đầu có nhiều cá, ông Mark cũng cho biết thêm các loại máy câu được chiếu cố nhiều nhất hiện nay là máy câu Avet với hộp số 2 vận tốc, giá cả cũng rất nhẹ nhàng. Tại cửa tiệm trên đường Bolsa Chica, khách hàng có vô số loại máy câu để lựa chọn, cần câu đủ thứ đủ kiểu mặc tình khách hàng chọn vừa với túi tiền của mình. Một số trong những máy câu bán tại đây hay mua trên mạng được tặng không dây câu tùy theo ý khách hàng muốn kể cả những loại dây câu xịn như P-Line hay Trilene, mỗi tuần lễ có giảm giá từng món hàng được công bố trên trang nhà của Charkbait. Khách hàng cần biết hay muốn tham khảo về việc câu cá nhất là câu cá Tuna hay YellowTail xin gọi điện thoại về tiệm sẽ được tận tình giúp đỡ để chọn cho được cây cần câu và cái máy tùy theo loại cá mình muốn câu. Địa chỉ của tiệm CharkBait tại thành phố Huntington Beach: CharkBait! Sportfishing Supplies 16561 Bolsa Chica St. suite 105 Huntington Beach , CA 92649 Phone 714-846-6452 Mua trên Internet www.charkbait.com
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 28, 2011 9:41:06 GMT 9
Câu cá trong thành phố Lưu Sơn/Việt Herald (01/19/2011) Có nhiều người không tin trong thành phố có cá để câu, vâng có cá câu được trong các thành phố thuộc vùng quận Cam nếu bạn không thích đi xa lên các hồ hay những con sông rạch.Trong một chương trình được Sở Kiểm Lâm và Ngư Nghiệp của tiểu bang California đề ra từ năm 1993 được gọi là Fishing in the City (Câu cá trong thành phố), với mục đích tạo cơ hội cho việc câu cá giải trí gần nhà, tạo nên một thế hệ trẻ hưởng ứng phong trào câu cá và nhất là giáo dục các thanh thiếu niên có một cuộc sống lành mạnh ngoài trời với các thú vui không độc hại. Trong các thành phố có rất nhiều công viên với các hồ nước thiên nhiên hay nhân tạo mà trước đây không có phương tiện hay nguồn nước sạch để tạo một môi trường nước tốt có thể các loài cá sinh sống được. Các hồ nước này được Sở Kiểm Lâm/Ngư Nghiệp cho chuyên viên sinh vật học đến kiểm soát lại nguồn nước cùng với Sở Phụ Trách Công Viên của quận hạt tiếp một tay xây dựng các công trình kiểm soát nguồn nước. Sau khi các hồ nước được chấp nhận đủ tiêu chuẩn cá sống được, Sở Kiểm Lâm và Ngư Nghiệp tiểu bang sẽ cho thả cá vào nơi đây để biến các hồ nước này thành một nơi giải trí cho phong trào câu cá của tiểu bang. Cũng như các hồ thiên nhiên và sông rạch trong tiểu bang California, các hồ trong công viên của thành phố có thả cá, được phép câu cá theo luật định của Sở Kiểm Lâm, Ngư. Bằng câu cá dĩ nhiên phải có và các giới hạn và điều kiện bắt cá cũng giống như mọi nơi. Chỉ đặc biệt nơi các hồ này là cá không do thiên nhiên mà có, nguồn cá do các trại nuôi dưỡng cá công cũng như tư cung cấp thả vào các nơi nầy được chi trả qua tiền thuế và tiền bán bằng đi câu của tiểu bang. Các loại cá được thả nơi các hồ này chỉ có 2 loại đó là cá trout hay cá catfish. Sở Kiểm Lâm và Ngư Nghiệp đều có thông báo lịch trình thả cá vào các hồ thuộc các công viên trong thành phố. Trong tuần lễ thứ nhì của tháng 1 năm 2011 các hồ dưới đây thuộc quận Cam đã được thả cá trout đúng size để câu được. Carr Park Lake, thành phố Huntington Beach. Centennial Regional Park Lake, thành phố Santa Ana. Eisenhower Park Lake, thành phố Orange. Greer Park Lake, thành phố Huntington Beach trên đường McFadden. Huntington Central Park Lake, thành phố Huntington Beach. Laguna Lake, thành phố Laguna. Mile Square Regional Park Lake, thành phố Fountain Valley. Ralph Regional Park Lake, thành phố Buena Park. Tri-City Park Lake, thành phố Placentia. Trong năm vừa qua và cũng như năm 2011, việc thả cá catfish đã tạm ngưng vì ngân quỹ eo hẹp của chính quyền tiểu bang. Nhưng trong những năm trước số cá thả xuống bắt đầu sinh sôi nảy nở, các hồ trong hệ thống công viên của quận Cam vẫn còn có cá catfish để câu được. Ngoài cá catfish và cá trout, các loại cá như bass cũng có nơi đây, cá carp có thấy một vài nơi cư dân câu được. Muốn biết thêm về lịch trình thả cá trong năm 2011 tại các hồ trong quận Cam xin gọi về số điện thoại 562-594-7268 để nghe lời ghi âm sẵn, lịch thả cá. Trong lịch trình thả cá chỉ nói trong tuần lễ mà thôi không nói chính xác ngày nào tại đâu để tránh tình trạng bà con canh me tới quá nhiều ngay sau khi thả cá. Trung bình mỗi lần thả cá khoảng vài trăm pound cho một lần và phải theo điều kiện nhiệt độ của nước có cho phép thả cá hay không, ví dụ cá trout chỉ thả khi nhiệt độ nước không nóng quá 70 độ F hay lạnh dưới 45 độ F. Ngoài việc tạo dựng các nơi câu cá trong các công viên có hồ nước thành phố, tiểu bang còn có thêm hai ngày trong một năm mà tất cả cư dân đều được câu cá không cần bằng câu. Trong năm 2011 ngày 2 tháng 7, và 3 tháng 9, được ấn định là ngày câu cá không cần bằng câu cho tất cả nơi nào trên tiểu bang California, nhưng luật lệ câu vẫn phải áp dụng như giới hạn số cá và chiều dài mỗi con cá hay các loại thẻ câu như câu tôm hùm hay bắt ốc bào ngư phải có trong tay. Hồ câu trong công viên Mile Square gần khu phố Little Saigon nhất và cũng là một hồ được thả cá thường xuyên, nơi đây có nhiều điểm câu rất tốt và đẹp cho một ngày cuối tuần cả gia đình ra cắm trại nơi đây, ăn uống vui chơi dưới cây cao bóng mát và các cháu có nơi giải trí lành mạnh. Biết đâu lại có thêm vài chú cá trout mang về chiên tươi dầm nước mắm ăn ngon hết ý. Nơi đây câu cá không phải tốn tiền lệ phí chỉ tốn có chút mồi câu mà thôi, đổi lại được một ngày thư giãn cho cả gia đình. (L.S)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 7, 2012 5:43:52 GMT 9
Cá Fugu không còn độc nữa? BS LyLeTran Web ThuVienVietNam * Hình ảnh của Đại Học Florida, Talahassee Fugu hay “blow fish” là một giống cá lạ mắt, chứa độc chất, nhưng là một món thức ăn được xem như quý hiếm của dân Nhật. Người Nhật nhắc đến fugu như một món ăn ngon, tạo ra nguồn cảm hứng cho cụ Basho, thi hào lừng lẫy nhất Nhật Bản qua một bài hài cú. Fugu cũng được nhắc đến trong phim hoạt họa của Hoa Kỳ, the Simpsons, khi nhân vật Homer ăn cá và trúng độc. Dù biết món thực phẩm kia chứa độc tố và giết người, qua nhiều thế kỷ, người Nhật vẫn ham chuộng fugu. Một số đầu bếp danh tiếng có thể lọc bỏ gan và những bộ phận chứa độc tố của fugu, và chỉ dùng những phần thịt “an toàn”. Những đầu bếp này cho rằng chỉ có 35% fugu từ biển cả là chứa độc tố, phần cá còn lại thì an toàn, cứ ăn uống tự nhiên không phải lo lắng. Nhưng làm thế nào để mấy ông đầu bếp này lại nói như Thánh thế? Ta có nên tin chăng? Hay trước khi ăn, ta mời đầu bếp ăn… thử trước xem ông ta có làm sao không? Có một điều khá quái đản là mấy ông đầu bếp kia cố tình để lại một ít độc tố, không biết họ đo đạc hay tính toán thế nào để biết rằng một lượng độc tố nhỏ cỡ nào thì không giết thực khách mà chỉ gây tê dại đôi môi? Vì việc ăn fugu rồi cảm thấy tê dại trên môi là một cảm giác mạnh, thực khách ăn cá để có cảm giác ấy! Dù cẩn thận thế nào đi nữa, cũng vẫn có một số người Nhật trúng độc khi ăn fugu. Vào thế kỷ thứ XVI, lãnh chúa Hideyoshi đã cấm hẳn món ăn này sau một số binh sĩ tử vong. Phép vua thua lệ làng, cấm thế nào thì cấm, dân Nhật vẫn tiếp tục lén lút ăn fugu. Năm 1975, một tên tuổi lớn trong ngành diễn xuất kabuki, Bando Mitsugoro VIII, cũng trúng độc và chết vì ăn (fugu)! Từ biến cố ấy, Bộ Y Tế Nhật ban hành lệnh cấm buôn bán gan fugu. Số người tử vong vì trúng độc giảm sút nhanh lẹ. Ngày nay, mỗi năm chỉ có vài người chết vì ăn fugu do chính họ câu được. Nhưng lý do chính là người Nhật chỉ ăn fugu nuôi từ các trại nuôi cá, và những con cá này không chứa chất độc. Tại Shimoniseki, thành phố biển của kỹ nghệ nuôi, bán cá tại Nhật Bản, người ta bán ra những con fugu an toàn như cá vàng. Nhất là phần gan, một bộ phận bị xem là chứa nhiều độc tố nhất, người ta đã tìm ra cách loại bỏ độc tố từ gan cá fugu, và biến nó thành một món ăn an toàn, nghĩa là thực khách yêu fugu có thể ăn trọn con cá, từ đầu đến đuôi, từ thân ngoài đến lục phủ ngũ tạng bên trong nếu muốn. Nhưng còn cái luật cấm buôn bán gan cá fugu thì sao? Người Nhật đang cãi nhau, bạn ạ! Những người chuộng (ăn) fugu thì đòi chính phủ hủy bỏ cái đạo luật mà họ cho rằng không cần thiết nữa. Nhưng kỹ nghệ nuôi và bán fugu thì nhất định chống đối (vì quyền lợi, nếu không cấm nữa vì fugu ngày nay an toàn, lỡ thực khách chạy đi mua fugu từ sông biển thì hỏng mất) nên ông Hisashi Matsumura, Chủ Tịch, the Shimonoseki Fugu Association, kiêm phó Chủ Tịch the National Fugu Association, nhất định không ủng hộ việc buôn bán gan fugu. Ông ta còn nói thêm rằng chúng tôi không cãi cọ chi nữa về cuộc thảo luận vô bổ này. Hải cảng Shimonoseki là nơi những trại cá mua fugu từ những thành phố khác của Nhật và của Trung Hoa, mổ ruột, loại bỏ những bộ phận chứa độc tố, rồi bán đi khắp Nhật Bản cũng như xuất cảng sang New York. Gần đây, cho dù mãi lực fugu của Shimonoseki đã suy giảm khá nhiều, hải cảng này vẫn chiếm 50% mãi lực fugu của toàn nước Nhật. Những thành phố khác, mặc cho Shimonoseki dọa dẫm và kêu la rằng chỉ có những tay thợ làm cá của hải cảng họ mới biết làm cá đúng phương pháp và bán ra những con cá không có chất độc, hè nhau ăn fugu, và ăn cả gan để chứng minh rằng gan fugu hổng có độc như ngày xửa ngày xưa nữa. Những tay sành ăn còn hô hoán rằng gan fugu không kém chi món foie gras (paté gan ngỗng) của Tây, đầy omega-3 fatty acid mà hổng béo! Nhà Độc Tố Học chuyên môn về fugu của Nhật Bản, ông Tamao Noguchi, Tokyo Healthcare University cũng đồng ý rằng fugu nuôi trong trại cá không chứa chất độc, và cái hiệp hội ở Shimonoseki chỉ la làng để bảo vệ quyền lợi riêng. Chính ông Noguchi đã tìm hiểu cách thức nuôi cá fugu thế nào cho an toàn, và đã chứng minh rằng kiểm soát thức ăn của cá, không để thức ăn nhiễm độc qua những vi khuẩn nhiễm trùng, thì cá sẽ không nhiễm độc. Hầu hết những người trúng độc do việc ăn gan (50%), da (7%), và buồng trứng (43%). Ngoài việc thưởng thức gan fugu, dân sành ăn Nhật Bản còn tin rằng tinh hoàn của fugu sẽ gia tăng tính dục, giúp họ mạnh mẽ hơn. Fugu là loài thủy sinh thuộc nhóm Tetradontidae, gồm nhiều chủng loại có hình dạng tương tự, bụng cá được thổi phồng nên có tên là “puffer”, “ballonfish”, “blowfish”… Fugu là tên gọi của loài cá này tại Nhật Bản và người Đại Hàn gọi chúng là “bok-uh”. Tên gọi theo khoa học dựa trên 4 cái răng lớn, tạo thành hai hàm, hàm trên và hàm dưới, fugu dùng răng này để nghiền nát vỏ của những loài thủy sinh như cua cá khi ăn mồi. Độc tố trong fugu có tên là tetrodotoxin, hay chính xác hơn, anhydrotetrodotoxin 4-epitetrodotoxin. Tetrodotoxin trong fugu xuất phát từ những vi khuẩn trong cá. Tuy nhiên chính fugu lại không bị nhiễm độc vì cơ thể miễn nhiễm. Tính miễn nhiễm này do một di thể tại màng tế bào bị biến thể, sự biến thể kia bảo vệ giống cá này. Tetrodotoxin độc hơn 1,200 lần so với cyanide, giết người trúng độc nhanh chóng, LD50* là 8 μg/kg. Một con fugu có thể giết 30 người lớn trúng độc. Khi trúng độc, triệu chứng đầu tiên là tê môi và lưỡi, khoảng 20 phút -3 tiếng sau khi ăn cá chứa độc tố. Kế tiếp là tê dại mặt và chân tay, nạn nhân có thể bị nhức đầu, đau bụng, ói mửa và tiêu chảy. Nạn nhân mất thăng bằng, không thể đi đứng và tê liệt toàn thân dù vẫn còn nhận biết sự việc xảy ra chung quanh. Sau đó, nạn nhân ngừng thở, làm kinh và chết trong vòng 4-6 tiếng. Khi tìm hiểu đến đây thì Dế Mèn tò mò quá, ăn một miếng fugu thì có xứng đáng như câu nói của ông bà ta sống ở trên đời ăn miếng dối chó không? Dế Mèn chưa ăn dồi chó, mà cũng chẳng hề có ý muốn ăn vì nghĩ đến con chó nuôi trong nhà, ăn hổng đặng. Còn con fugu kia? Ngon thế nào thì ngon nhưng hình ảnh của một nạn nhân tê liệt và lên kinh phong thì Dế Mèn hổng ham, chết vì… ăn coi bộ không hay ho chút nào, bạn nhỉ? *LD50 = lethal dose: lượng độc tố gây tử vong cho 50% thú vật thử nghiệm. Tvvn.org, tháng Năm 2008
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 31, 2013 4:07:49 GMT 9
Câu cá bông lau ở Việt NamBài và hình: Thomas Trương Khoảng tháng Ba đến tháng Bảy hàng năm là mùa câu cá bông lau. Hàng ngàn người từ khắp từ các tỉnh miền Tây nối nhau hướng về hạ nguồn sông Cửu Long theo hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Cá bông lau câu được thường là những con cá lớn từ 5-10kg, có những con lớn nặng đến 15-20 ký. Từ đầu cồn Cái Trâm đến cồn Phong Mẩm (huyện Kế Sách), xuống Cù Lao Dung, ra cửa Đại Ngãi (Long Phú–Sóc Trăng), có hàng trăm xuồng câu neo đậu ngày đêm trên hạ lưu sông Hậu, chưa kể hàng nghìn ngư dân từ các tỉnh khác như Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp... cũng đổ về đây giăng lưới thả câu… Cá bông lau bán ở chợ Cần Thơ Chuyện Mồi Câu Anh Nguyễn Tấn Tài, ở xã Song Phụng, huyện Long Phú–Sóc Trăng, cho biết: -Từ thời ông cha cho tới đời tôi vẫn theo nghề câu cá bông lau. Không có gì thú vị hơn khi những con cá bông lau nặng cả chục ký cắn câu lôi nặng cả tay. Ngoài kinh nghiệm còn phải hên nữa, phải chọn đúng con nước và quan trọng là mồi câu phải “độc chiêu”. Nên mới có chuyện người về đầy cá người thì tay không. Tôi nghe nói trước đây ngư dân ở đây câu bằng mồi cá cơm quết nhuyễn trộn với bông gòn, có người còn dùng trái bần (loại cây mọc thành rừng ở bãi bồi ven cồn, ven sông). Nhưng đến thời ba tôi thì phát hiện ra mồi “độc chiêu” chỉ là con gián. Hơn 30 năm qua tôi chỉ thấy mọi người dùng mồi gián để câu. Lão ngư câu được cá Em Châu Thanh Toàn cũng ở xã Song Phụng, huyện Long Phú, Sóc Trăng nói: -Tụi tôi cũng theo mùa cá bông lau mà đi bắt gián. Tám năm nay tôi cùng với nhóm bạn khoảng 10 người ở làng câu cá bông lau Kinh 3 (nơi có đến cả 100 nhà chuyên nghề câu cá bông lau), mỗi chiều 3, 4 giờ là xuống tàu khách đi Cần Thơ bắt gián. Mỗi đứa quẩy một cái bội để đựng gián và một bịch mồi nhử gián (mồi được làm bằng cám trộn với đường mía). Đến Cần Thơ khoảng 9 giờ tối thì bắt đầu phân địa bàn, đến 10 giờ khi đường phố trở nên vắng vẻ thì đi bỏ mồi theo các nắp cống trên các đường, chỉ một nhúm nhỏ bằng nắm tay bỏ xuống thì không đầy 5 phút sau lũ gián kéo ra bu ăn say luôn. Khi ấy gián rất chậm chạp, em dùng tay bắt sống từng con bỏ vào bội, một đêm mỗi đứa bắt được từ 700- 1.000 con gián. Đến 4, 5giờ sáng thì lên tàu về lại Song Phụng. Em Huỳnh Văn Rấm trong nhóm cho biết: -Tụi em lúc đầu bắt gián cũng thấy dơ quá, nên lấy bọc nilông làm găng tay bắt cho đỡ dơ, nhưng hay bị vuột, nên sau cũng bắt bằng tay thôi, dơ thì rửa có sao đâu. Nhiều người thấy tụi em cũng “kinh dị” lắm nhưng đối với tụi em bắt gián là kiếm tiền đó anh, về quê bán gián cho các nhà câu, giá từ 1000-1.500đ/10 con gián. Bây giờ chúng em là khắc tinh của gián tại Cần Thơ. Cá càng lớn càng có giá Thủ Thuật Làm Luỡi Câu Anh Lê Văn Quạn ở xã An Lạc Tây, huyện Kế Sách, một dân câu chuyên nghiệp, cho biết: -Đa số các ngư dân chọn câu diền đầu số 3, dây nhỏ 12 tơ 8 xe, buộc lưỡi câu số 7, loại câu chùm có từ 1000 - 2.500 lưỡi, dài từ 500 –1000m. Do quá dài, mỗi thước một lưỡi câu nên khoảng 30 thước phải neo đá để giữ cho lưỡi câu nằm yên gần đáy sông. Tuỳ theo kinh nghiệm mà mỗi người đều có cách thả câu riêng: thả câu theo kiểu “ma trận” hoặc thả theo hình chữ V chữ U mà chỉ cần một con cắn câu thôi cũng có thể làm rối beng cả một vùng. Khi cá mắc câu chỉ cần vài ba cái rị mạnh là chúng đau, từ từ nổi lên mặt nước, khi đó dùng vợt vớt cá bắt bỏ lên xuồng. Chỉ vài phút sau là cá chết nên thường khu vực câu nào cũng có tàu đi thu mua cá. Thường cá cũng đi theo con nước, nên ai có kinh nghiệm thả câu đúng luồng thì thắng, có ngày dính 5- 10 con, nhưng cũng có người không dính con nào. Một lúc bắt hai con cá bông lau Ông Nguyễn Thành Trung ở Kinh 4 Long Phú, cho biết: -Đối với dân chuyên nghiệp thì không sử dụng câu dây mà dùng câu cần hiệu quả hơn, cá dính thường là con lớn. Câu cần dây rất chắc, lưỡi câu đại (loại lưỡi câu nhắp cá lóc), mồi chủ yếu là gián, một lưỡi như vậy móc từ 5 – 10 con. Khoảng 2m gần lưỡi câu còn neo thêm cục chì nặng từ nửa ký đến 1 ký trên có phao. Một xuồng như vậy câu từ 4 -6 cần (cột chắc vô xuồng). Cá cắn câu thì phao nhịp mạnh trên mặt nước, kéo mạnh vài cái thì nó chịu yên cho mình kéo lên xuồng, có nhiều người câu được cá to từ 13 – 15 ký là thường. Còn loại câu dây chỉ khoảng 3 -10 ký thôi. Vào mùa cá về rộ (tháng 3, 4) chúng tôi câu suốt ngày suốt đêm, có người thay phiên mang đồ ăn ra tiếp tế, còn cá thì có vỏ lãi đến từng ghe mua giá từ 50.000 – 80.000đ/kg. Có người câu cả ngày trên 10 con cá bông lau bán hơn triệu đồng. Mùa này không những dân địa phương đi câu mà có nhiều người từ nơi khác đến câu, nhưng người lạ đến câu thường không dính nhiều bằng dân địa phương, vì nghề câu cá bông lau ở đây có cả trăm năm nay rồi, nên kinh nghiệm chọn dòng nước cũng thuộc dạng “bí quyết” gia truyền Nghề câu cá bông lau ở hạ nguồn sông Hậu giúp tạo việc làm cho hàng trăm nhà dân, mà còn góp phần làm phong phú hơn cho các bữa ăn của người dân vùng Miền Tây Nam Bộ. Trẻ em Long Phú lên Cần Thơ bắt gián Gián say mồi cám Bắt mồi câu cá bông lau
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 11, 2013 6:06:50 GMT 9
Nghề đặt trúm bắt lươn ở Miền NamBài ảnh: Thomas Trương Từ cái thời sơ khai khẩn hoang của cha ông chúng ta trên vùng đất phương Nam, nghề đặt trúm bắt lươn đã có và cho đến ngày nay nghề này vẫn còn tồn tại ở một vài tỉnh thành, nơi được xem là “mê cung sông nước Cửu Long”. Nghề đặt trúm bắt lươn khởi dầu như một sự tình cờ, khi trên kinh mương một vài người ngâm tre cắt khúc để cất nhà và vô tình phát hiện loài lươn thích chui vào đó để ẩn mình. Có lẽ vì thế mà cho đến ngày nay phần lớn những cái trúm đều được làm bằng một loại tre mỏng cơm dài khoảng một mét. Chúng được làm rỗng ruột, hai đầu là cái hộp tre vừa dễ dàng cho lươn chui vào ăn mồi mà ra thì không được. Trước đây, dưới sông rạch miền Tây tôm cá nhiều vô số kể. Loài lươn có tự nhiên cũng nhiều, người dân tha hồ bắt lươn để chế biến nhiều món ăn bổ dưỡng. Ngày nay lươn tự nhiên khan hiếm và rất được nhiều thượng khách ưa chuộng, có thể nói đây là món ăn của người giàu thời nay. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có có nhiều lươn sinh sống và người ta vẫn đặt trúm bắt lươn. Ngày nay bắt lươn thì khó nhưng những ống tre khá nặng nề đã được thay thế bằng những loại ống nhựa màu đen vừa rẻ tiền vừa nhẹ nhàng. Vì vậy, người ta không cần phải chống xuồng chở đầy ống trúm để đi đặt mà có thể sử dụng xe đạp, xe gắn máy để chở trúm đi đặt khắp các ngõ ngách sông nước min Nam. Nơi nào có cỏ có nước là có lươn U Minh được xem là nơi lắm cá nhiều tôm, lươn cá ngày xưa lội đen kịnh mà người đời thường ví “lươn cá lội như bánh canh”. Theo kinh nghiệm người xưa, khi mùa mưa chính thức bắt đầu (khoảng tháng 4 - 5 âm lịch), những cánh rừng tràm bạt ngàn tại các huyện U Minh, Trần Văn Thời…, nước đã ngập chừng 2 tấc, năng mọc dày và tươi tốt. Đây cũng là lúc lươn bắt đầu “chạy”. Theo đó, cứ độ 2-3 giờ chiều, tại các tuyến kinh xẻ ngang dọc trong rừng tràm, người dân vội vã bơi xuồng ba lá chở đầy trúm túa ra nhiều hướng. Mỗi người dò xét từng đám năng, sau đó là chọn vùng, vạch luồng năng để đặt trúm. Ông Ba Hổ, một lão nông có tiếng trong nghề tại huyện U Minh cho biết: “Lươn là loài háu ăn, để“dụ” chúng, ngoài kỹ thuật làm trúm thì mồi nhử lươn rất quan trọng. Mồi thường được trộn từ các loại cua, cá sặt, cám, mắm, ruột gà vịt... băm nhuyễn, xào với xác dừa khô, thêm một chút dầu cá, mỡ trâu hoặc lá chanh băm nhỏ để tạo mùi thơm lan rộng trong làn nước để lũ lươn tìm đến và chui vào trúm ăn no nê. Điều thú vị hơn nữa là muốn cho lươn "chạy" nhiều thì pha thêm tỏi vào mồi để lươn ăn bị cay, phát ra tiếng kêu như mời gọi đồng loại.” Chuẩn bị mang lươn ra chợ bán Thường vào mùa nước nổi, khi mà những bụi cỏ lác, lục bình chất đống chất ụ, lũ lươn rất thích tìm đến đây trú mình và thưởng thức món thơm ngon để rồi bị bắt dễ dàng. Vào những lúc trời mưa to, phải đặt trúm ở các gò cao, vì lươn có thói quen đến vùng đất mới tìm mồi. Hướng gió cũng quyết định việc bắt được lươn nhiều hay ít. Phải đặt miệng trúm xuôi theo chiều gió để hương thơm của mồi theo đó lan rộng ra, dụ lươn chui vào. Xem ra nghề đặt trúm bắt lươn cũng phải thuộc hàng “cha truyền con nối” mới mong “sát lươn”. Thú vị là khi trúm đầy lươn Còn tại các vùng như An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ nghề bắt lươn đơn giản như đang giỡn. Thì cũng chỉ là những ống trúm được làm từ ống nhựa chỉ cần đan cái hom buộc chặt rồi bỏ mồi vào đó chở trên xe đi dọc theo lộ giao thông nông thôn, thấy nơi nào “nghi” có lươn thì dừng xe xuống đặt, sáng hôm sau trở lại thu hoạch. Một trăm cái trúm kiếm ít nhất cũng được vài ba chục con lươn bán kiếm cũng được hai ba trăm ngàn đồng, dễ hơn đi làm mướn hay làm công nhân xí nhiệp. Lươn càng vàng càng lớn càng có giá Phần lớn người dân miền Tây quen với ruộng đồng, hiểu rõ từng mùa nước mùa cá và cứ thế, những lúc nhàn hạ không đi đặt lợp lờ, giăng câu thì cũng đi đặt trúm, đặt ít thì cũng kiếm được vài con cho bữa ăn gia đình, còn muốn có nhiều lươn bán thì làm nhiều. Mùa khô người dân mang trúm chất giữ bên hông nhà chờ đến mùa nước, mùa mưa về mới mang ra sử dụng tiếp như một mắc xích không thể thiếu của một gia đình có làm nghề đặt trúm. Nam giới vào rừng đặt trúm lươn, phụ nữ và trẻ em thì bắt nhái, dế, cá con, cua, ốc… để làm mồi lươn. Bác Ba Phi, vua kể chuyện tiếu lâm danh tiếng ở miền Nam, cũng có nhiều giai thoại về nghề bắt lươn. Theo đó nghề bắt lươn thời Bác Ba Phi rất ăn tiền, một xuồng trúm đi đặt thì phải đến hai xuồng mới chở hết số lươn bắt được. Một ký lươn bắt được trong tự nhiên giá cao gấp đôi lươn nuôi vì thịt lươn nuôi ăn không thơm ngon bằng lươn tự nhiên, với một ký khoảng 300 ngàn đồng tại các nhà hàng khách sạn ở miền Tây. Còn ở Sài Gòn thì có khi giá gấp đôi. Chở trúm đi đặt Đặt trúm Bỏ mồi vào trúm Bắt lươn Mồi được trộn từ nhiều thứ cá cua ốc trùng khác nhau
|
|