Post by Can Tho on Feb 19, 2009 5:51:35 GMT 9
Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh
Kỷ niệm 100 năm Bưởi-Chu Văn An (1909-2009)
(Tặng các bạn đồng môn và các học sinh Chu Văn An thân mến của tôi.
V.N.A.)
Năm tôi mới chừng lên 5, nhân một chuyện gia-đình, tôi được theo bố mẹ đi Hà Nội.
Kể từ chuyến đi lần đầu tiên đó cho tới năm tôi đi học Hà Nội, một giai đoạn trên dưới chưa tới 10 năm, thế mà sao đối với tôi nó lại có thể dài đến như thế.
Trong cái khoảng thời gian dài đằng đẵng đó, ngoài một chuyến theo bố đi Nam-định dự Ðại hội Thanh Niên Công Giáo toàn quốc, một chuyến đi Thanh-hóa và một chuyến đi Ninh bình để dự kỳ thi lấy bằng certificat (Tiểu-học cơ bản, Certificat d'Étude Primaire) tôi không còn có dịp nào được đi Hà Nội nữa.
Từ khi bắt đầu cắp sách đi học, trí óc tôi được mở mang dần dần để rồi bắt đầu biết mơ ước. Dẫu sao thì những điều mơ ước của những thằng bé nhà quê như tôi thời đó thực ra rất đơn sơ, giản dị và tầm thường, tầm thường đến thảm hại và đáng thương, chẳng khác gì cuộc sống phẳng lặng, buồn tẻ và nghèo nàn của miền quê Bắc-Việt vào thời xa xưa đó, những mơ ước không bao giờ vượt ra ngoài cái khuân khổ của cuộc sống tẻ nhạt và chật vật hằng ngày, hoặc nói một cách khác, cái khuân khổ của miếng cơm và manh áo đơn bạc.Nếu bạn hỏi những thằng nhỏ 6,7 tuổi như tôi lúc đó: “Cháu muốn gì”, đứa thì trả lời là “muốn ăn kẹo”, đứa thì “muốn ăn bánh”, đứa khác thì mộng lớn hơn: “cháu muốn có cái áo láng mới”, hoặc “cái quần trắng mới.”
Những đứa không mấy thực tế thì “cháu muốn có cái diều có bộ sáo đồng “cồ” giống như của anh thằng Tèo”, “cháu muốn có con quay gỗ mít” (!)...
Hồi nhỏ chúng tôi ngây thơ và ngu dại là như thế, nên sau này vẫn thường lấy làm lạ và tự hỏi không hiểu tại sao thiên hạ lại có thể có những thần đồng, khôn ngoan gấp trăm, gấp nghìn lần chúng tôi.
Thiệt không thể tưởng tượng nổi.
Nếu quý vị hỏi chúng có thích học không, số trả lời ”không” nhất định sẽ chiếm đại đa số.
Còn nếu như chúng ta hỏi “Cháu có thích học giỏi không” tất nhiên đứa nào cũng sẽ nói là “thích”, nhưng nếu hỏi “Tại sao cháu thích học giỏi” hoặc “Cháu muốn học giỏi để làm gì?” phần đông những đứa trẻ nhà quê đần độn một cách rất đáng tội nghiệp kia sẽ im tắp, không biết trả lời ra sao.
Cũng rất có thể có một vài đứa sau khi suy nghĩ và đắn đo sẽ rụt rè trả lời rất vớ vẩn:” Cháu muốn học giỏi để khỏi bị bố đánh”, hoặc “Cháu muốn học giỏi để khỏi bị thầy giáo phạt”.
Rất có thể có một vài đứa có tham vọng lớn, đồng thời cũng biết trả lời hữu lý hơn: “Cháu muốn học giỏi để sau này làm... thầy giáo”.
Thực vậy “thầy giáo” quả là thần tượng của chúng tôi lúc đó. Làm quan ư? một chuyện quá xa vời hầu như huyễn hoặc. Mặc dầu xưa nay sinh sống ở nhà quê, nhưng gia-đình tôi tương đối sung túc, không đến nỗi quá quê mùa, lại thường có giao thiệp và buôn bán với người ngoài tỉnh nên con cháu đều được gửi cho đi học ở Nam-định hoặc Hà Nội tới bực trung học. Tuy chưa có ai làm quan nhưng cũng đã có một vài người làm giáo học, thư ký bưu-điện, thông phán sở Ðoan v.v.
Riêng tôi, dầu sao thì cũng đã có một vài lần được nếm mùi phồn hoa đô hội, nên cái giấc mộng lớn của tôi lúc đó là một ngày kia sẽ được đi Nam Ðịnh hoặc Hà Nội học, giống như các cậu em mẹ tôi và mấy người anh họ.
Hằng năm vào kỳ nghỉ hè hoặc các ngày giỗ Tết, các cậu em mẹ tôi và mấy người anh họ từ Hà Nội về sống với gia-đình. Thấy họ ăn mặc đồ Tây bảnh bao, lại mang về đủ mọi thứ quà bánh và sách báo Hà Nội, tôi ngưỡng mộ họ vô cùng, và sự thèm muốn một ngày nào đó cũng sẽ được đi học Hà Nội ngày càng gia tăng, tới độ nhiều khi tôi cảm thấy bồn chồn sốt ruột, tưởng như thời giờ chạy chậm hẳn lại.
Trong những ngày vui ngắn ngủi đó, tôi hóng nghe không biết chán những chuyện họ nói về Hà Nội, nào là chợ phiên, nào là đi ăn cao lâu ở hàng Buồm, ăn cơm Tây tại hiệu Fantasio trên hàng Bông, nào là đi xem xi-nê ở Olympia, Palace, Majestic v.v. ngoài ra tôi được họ dạy hát những bài mới nhất của Tino Rossi như Marilou, Tant qu'il y aura des étoiles, Les beaux jours, Marinella, C'est à Capri v.v...
Cái thời gian này chính là cái thời gian tôi đã lên tới lớp Tư (cours Élémentaire), tức vào khoảng 10,11 tuổi. Tôi nhẩm tính, nếu suôn sẻ thì chỉ 3 năm nữa, nghĩa là sau khi đậu bằng Certificat (còn gọi là bằng Primaire, tức bằng Tiểu học Cơ bản) là sẽ được đi Hà Nội để lên học tiếp ban Trung học. Tôi ước mong sẽ được vào trường Bưởi như bố tôi ngày xưa.
Ðúng ra, thời bố tôi Hà Nội chưa có Lycée du Protectorat, mà chỉ có Petit Collège, rồi Grand collège học 4 năm, quen gọi là ban Thành Chung) rồi cuối cùng mới đổi thành Lycée du Protectorat (trường Trung-học Bảo-hộ) để áp-dụng việc dạy một chương-trình trung-học đệ-nhị cấp mới được gọi là chương-trình Tú-tài bản xứ (Baccalauréat local), dành riêng cho học sinh người bản xứ Annamite.
Thực ra thì trên căn bản nó cũng vẫn là cái chương trình gọi là tú-tài Tây (Baccalauréat métropolitain) nhưng lại được kèm thêm một mớ môn học về văn-chương, lịch-sử và địa-lý Việt Nam, nên cái chương trình nhồi sọ này đòi hỏi học trò nhiều cố gắng và thì giờ học hành hơn chương trình Bac métro...
Vì trường tọa lạc ở góc Ðông Bắc làng Bưởi, tức làng Thụy khê, nên quen được gọi là trường Bưởi. Cho tới mấy năm đầu thập niên 40, rất đông học sinh Lypro (tên tắt của trường do mấy chữ Lycée du Protectorat thu gọn lại) từ các tỉnh xa thường tới trọ học trong làng để tiện đi học. Các viên chức nhỏ và giám thị của nhà trường ở đây cũng rất đông. Chính thầy Tổng giám thị Ngọc cũng mua nhà ở trong làng.
Vì chán cảnh buồn tẻ ở nhà quê, tôi càng nóng lòng mong sao chóng tới ngày được lên tỉnh Nam Ðịnh hoặc Hà Nội học như các cậu và mấy người anh họ tôi.
Ba năm học các lớp Ba, lớp Nhì rồi lớp Nhất đối với tôi thiệt là dài, tưởng như mười năm.
Sau kỳ khai trường năm tôi lên lớp nhất, tình hình thế-giới hết sức căng thẳng, Hitler đã bất chấp thỏa ước Munich mà ông đã ký với hai ông thủ tướng Anh, Pháp là Chamberlain và Daladier, dùng chiến thuật “tấn công chớp nhoáng” (blitzkrieg) tung hàng ngàn đại bác và xe tăng tràn ngập nước Ba-lan (tháng 9, 1939).
Trước một tình thế chẳng đặng đừng, Anh và Pháp bất đắc dĩ phải tuyên-chiến với Ðức: Thế-chiến thứ 2 chính thức mở màn.
Tình hình này có phần nào làm cho tôi thêm đôi chút bồn chồn lo lắng, vì thiên hạ đều đồn rằng đồng minh của Ðức ở Á-châu là Nhật-bản nay mai sẽ kéo quân từ Quảng tây sang đánh chiếm Ðông Dương để chặn đường tiếp tế chính-phủ Tưởng Giới Thạch (lúc đó đóng ở Trùng Khánh) qua ngả đường xe lửa nối Hải-phòng với Côn Minh (quen gọi đường xe lửa Vân-nam).
Nếu như mai đây chiến tranh xảy ra và lan rộng, chắc chắn chuyện đi Hà-nội học của tôi có thể coi như là hết hy vọng...
Năm học lớp nhất của tôi rồi cũng trôi qua và nhanh chóng một cách không ngờ. Quả nhiên chiến tranh ngày càng lan rộng, dân chúng bị bom đạn chết hằng hà sa số, nhưng là ở bên Tây bên Tàu chứ bên Ta thì dân chúng vẫn bình chân như vại, mặc dầu chuyện Nhật xâm chiếm giống như lưỡi kiếm Damoclès luôn luôn lơ lửng trên đầu trên cổ người dân Ðông dương.
Thực vậy, đời sống ở thôn quê thời đó thường rất bình lặng, bình lặng tới độ buồn nản, kể cả Phát Diệm, một vùng đạo quanh năm có rất nhiều lễ lạt và rước xách linh đình, nên mỗi buổi chiều sau khi đi học về, tôi chỉ có một cái thú duy nhất là đọc báo hoặc chuyện kiếm hiệp. Cũng may là bố tôi vốn chịu đọc báo nên mua năm hầu như đủ mọi thứ báo và tạp-chí như Trung Bắc Tân văn, Trung hòa nhật báo, La Volonté Indochinoise, Ngày nay, Tiểu-thuyết Thứ bảy v.v.
Có điều bất tiện là các nhật báo thường tới chậm một ngày. Nhưng dẫu sau, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu nhỏ tôi cũng có thể tha hồ mà đọc tới khi đi ngủ vẫn chưa hết.
Riêng tôi thì mỗi khi có được năm ba xu hay một hào thì thế nào cũng phải lên tiệm chạp phô Tàu trên phố Thượng-kiệm rước về một vài tập Trung Nhật Chiến tranh, hoặc Bồng lai Hiệp khách, hoặc Nữ Quái Hiệp, hay Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự v.v... của cái ông văn sĩ Tàu chuyên viết truyện kiếm hiệp nổi tiếng thời đó là Lý Ngọc Hưng.
Nói đến chuyện mê đọc kiếm hiệp, cho đến tận bây giờ, 8 chục tuổi đầu rồi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao hồi đó tôi lại có thể mê đọc truyện kiếm hiệp đến như thế. Hình như cái dư vị của sự thích thú ngày xưa mỗi buổi tối lén đọc kiếm hiệp vẫn còn thoang thoảng nhen nhúm tới tận bây giờ trong lòng tôi. Mặc dầu phần lớn chỉ là những sách báo nhảm nhí nhưng thằng bé nhà quê là tôi lúc đó cũng học hỏi được rất nhiều vấn đề mà nhà trường thời đó không hề dạy, chẳng hạn như nhờ tập Trung Nhật chiến tranh 3 xu ra hằng tuần mà tôi được biết nhiều chuyện thời-sự liên quan đến chiến tranh và tình hình thế-giới vô cùng sôi động lúc đó cũng như tiểu sử của các nhân vật nổi tiếng ở Á Châu và thế giới như Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, Cố Duy Quân, Mao Trạch Ðông, Ðông Ðiều, Phổ Nghi, Franco, Hitler, Mussolini, Staline, Chamberlain, Daladier, Rosevelt, De Gaule v.v...
Dòng đời xoay chuyển và biến hóa thiệt kỳ lạ. Không một ai có thể ngờ là sau đó 35, 36 năm, thằng bé nhà quê A-na-mít là tôi kia đã có cái cơ may được yết kiến hoặc dự tiệc với một vài nhân vật lẫy lừng mà tôi vừa mới kể tên trên đây. Chẳng hạn như được yết kiến cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và phu nhân tại dinh Dương Minh Sơn và đàm đạo với mấy vị xưa là bạn thân và đồng liêu với cựu đại sứ Cố Duy Quân tại một bữa tiệc do Tối Cao Pháp Viện Trung Hoa khoản đãi dân biểu Dương Minh Kính và tôi ở Ðài Bắc cách đây 40 năm.
Tôi tuy chưa có dịp được gặp ông De Gaule, nhưng có điều ly kỳ là vào khoảng 1968, vợ tôi trong khi ngồi đợi tại phòng khách danh dự nhỏ xíu của phi-trường Orly (Salle 105) đã có dịp gặp và bắt tay Tổng Thống De Gaule khi ông trở về qua đó sau một cuộc công du tại Ðức. Ông Tây già vốn rất “nịnh đầm” này hình như còn hôn tay mụ nữa. Có lẽ ông tưởng mụ vợ tôi là một nhân vật thuộc ngoại giao đoàn ra đón ông, nên cám ơn rối rít.
Tôi cũng đã có dịp được nhiều nhân vật lừng danh ngày xưa như chủ tịch quốc hội Pháp Chaban Delmas, một thủ lãnh kháng chiến nổi tiếng thời đệ Nhị Thế chiến, cựu toàn quyền Letournau v.v... khoản đãi như thượng khách. Và có một năm, nghị sĩ Mortaix de Narbonne (xưa làm luật sư ở Saigon) và một số nghị sĩ Pháp đã tổ chức mừng sinh nhật tôi tại điện Luxembourg (trụ sở Thượng Nghị viện Pháp). Khi mà những nhân vật “légendaire“trên đây danh tiếng như sóng cồn trên chính trường thế giới, hoặc ở những địa vị tột đỉnh cao sang, tôi chỉ là một thằng bé bẩn thỉu ở một xó nhà quê “a-na-mít”, nước mũi chảy dài thò lò, chạy ra đường ngó nhìn một cách vừa thán phục, vừa rụt dè, sợ sệt mấy ông Tây bà Ðầm mỗi khi những người này về tham quan nhà thờ Lớn Phát Diệm.
Kể lại những chuyện trên đây, tôi không hề có ý muốn phô trương hay khoe khoang một điều gì mà chỉ muốn kể lại những biến đổi lạ lùng trong cuộc đời của mỗi người trong chúng ta, dưới một khía cạnh hay hoàn cảnh nào đó mà hồi còn nhỏ chúng ta thường không thể nào ngờ tới hoặc tưởng tượng nổi...
Ngoài ra, cái thú mê đọc sách báo nhảm nhí hồi còn bé cũng đã tạo cho tôi cái thói quen đọc sách rất có ích lợi sau này...
Kỳ thi Certificat ở Ninh bình năm đó tôi đậu mention bien lại thêm mention về franais nữa, nên chuyện thi vào trường Bưởi xem ra có nhiều hy vọng, và nếu như không có chuyện gì bất trắc, chắc chắn là bố mẹ tôi sẽ cho tôi đi học Hà Nội.
Mùa hè năm đó, có lẽ là cái mùa hè vui nhất trong đời tôi. Tuy nhiên, một mặt tôi mong chóng tới ngày được đi học Hà Nội, nhưng mặt khác lại cảm thấy hơi buồn vì sắp phải xa nhà, xa bố mẹ và các em tôi. Tôi bỗng dưng cảm thấy bịn rịn và khăng khít đối với những người thân hơn trước.
Nhìn căn nhà cổ rêu phong, cái sân lát gạch Bát-tràng, những chum nước mưa ở đầu hè, mấy hàng cau, những luống hồng và hoa thược dược đủ màu mà bố tôi lấy giống từ Hà Nội trồng trước nhà, tôi như muốn in sâu những hình ảnh đó trong lòng tôi...
Những chuyện tình cảm vớ vẩn này thực ra cũng là thường tình mà thôi, bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời tôi phải xa nhà và cũng là cơ hội cho tôi bắt đầu cảm giác thấy thế nào là ly biệt, cái hoàn cảnh mà con người ở thời đại nào, hoàn cảnh nào cũng đều luôn phải đối phó, nhất là trong cái thời đại loạn lạc của đất nước khốn khổ chúng ta sau này.
Thực vậy, chính tôi cũng không ngờ là kể từ cuộc ly biệt sắp tới này tôi sẽ chẳng còn có dịp nào sống với gia-đình trong một thời gian quá hai tháng, để rồi sau cùng, cho tới khi trưởng thành, có gia-đình riêng, tôi đã chẳng bao giờ có được cái cơ hội được sống chung với bố mẹ và các em tôi dưới cùng một mái nhà. Tình ruột thịt do đó dường như đã phần nào giảm đi dần dần. Mỗi khi nghĩ lại, tôi thấy thấy nao nao trong dạ và cảm thấy thiệt buồn. Nhưng cuộc đời là như thế, biết làm sao đây?
Ðể chuẩn bị thi vào Bưởi, suốt gần 2 tháng hè tôi không đi chơi đâu mà chỉ lo luyện Toán và Franais với cậu út em mẹ tôi. Các giấy tờ và đơn từ phải gửi nộp nhà trường, đều do một tay người bạn bố tôi là ông Tú Ch... lo hết vì năm đó em vợ của ông Ch... là Phạm Kh... cũng cùng thi vào Bưởi, nên tiện tay ông lo luôn cho cả 2 đứa trẻ.
Hơn nữa, ông Ch... vốn xuất thân Tú tài Bản xứ từ trường Bưởi ra cách đó mới 5,6 năm mà thôi, nên theo ý kiến bố tôi, những chuyện lặt vặt về thi cử, xin học v.v. ông rất quen. Ngoài ra, như bố tôi thường nói với mẹ tôi, ông còn là một tay thổ công của đất Hà-thành văn vật, hầu như cửa nào ông cũng lọt.Vì muốn hoàn toàn lột xác, tôi xin bố mẹ cho tôi được mặc “tây”. Giữa lúc đó, một ông bạn của bố tôi từ Hà Nội về thăm, nhân tiện bố tôi đem chuyện này ra bàn với ông bạn. Ông bạn này rất bảo thủ nên nhất định không đồng ý chuyện cho tôi mặc đồ tây vì sợ tôi sẽ quen thói đua đòi chưng diện mà không chịu lo học hành. Theo ý ông thì thằng cháu cứ tiếp tục áo chùng thâm (áo dài đen), quần trắng là tốt nhất, ăn diện đồ tây chỉ tổ hư (?)mà lại tốn kém.
Hơn nữa, theo như ông biết, phần lớn học trò trường Bưởi, nhất là ở những lớp dưới, vẫn mặc đồ ta. Và ông nhắn nhủ riêng tôi: “Thôi cháu ơi, người ta sao thì mình vậy? Ðua đòi Tây, Tàu làm gì cho tốn kém bố mẹ cháụ. Vả lại, bác nhận thấy những đứa thích chưng diện thường học hành không ra gì?”
Bố tôi bị ông bạn thuyết phục nên xiêu lòng với giải pháp “tiếp tục áo the đen và quần trắng trúc bâu”, tức “đồ ta”.
Khốn nạn, nói là đồ tây chứ thực ra là mấy cái quần “soọc”, mấy cái sơ-mi, và thay vào đôi guốc lọc cọc là một đôi săng-đan hay đôi giầy vải “ten-nít”, thế thôi. Khi nào trời lạnh thì chỉ cần thêm chiếc áo len hoặc trở lại với chiếc áo mền bông quốc hồn quốc túy cũng không phải là muộn, có chết chóc gì ai đâu.
Rốt cuộc, trước hôm tôi đi mấy ngày, có lẽ vì thương con, mẹ tôi dung hòa: “Thôi được, ngoài mấy chiếc áo “chùng” the, 4 quần và 4 áo cánh trắng trúc bâu, mẹ sẽ mua thêm cho con 2 quần “soọc”, mấy cái sơ-mi, một đôi sandal để con tùy tiện thay đổi cũng không sao, miễn là con phải luôn luôn nhớ lời mẹ dặn, phải chịu khó học hành sao cho nên người. Ở nhà bố mẹ cũng phải cố gắng nhiều lắm đấy con ơi!”
Nghe những lời mẹ dặn dò thiệt đơn sơ và chân tình, tôi không sao cầm được nước mắt, nhất là trong lúc tôi sắp sửa phải tạm xa bố mẹ và các em tôi.
Trong mấy ngày cả nhà bận rộn chuẩn bị cho tôi lên đường đi học Hà Nội, tình hình Ðông Dương dường như ngày càng đồi tệ. Trong khi đó Nhật tập-trung quân dọc biên-giới Việt-nam-Quảng Tây, chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Ðông Dương bất cứ lúc nào. Toàn quyền Catroux cố gắng điều đình với Tokyo, nhưng mọi chuyện hình như không đi tới kết quả nào. Do đó, việc Nhật sẽ tấn công Ðông Dương không còn là một dự đoán hoặc một sự đe dọa suông, mà dường như đương biến thành một sự thiệt hiển nhiên trong nay mai mà thôi. Riêng tôi, tôi rất lo là nếu như chiến cuộc bùng nổ và lan rộng, chuyện tôi đi học Hà Nội sẽ có thể tan biến thành mây khói. Cũng may là cho tới ngày tôi lên đường, mọi việc suôn sẻ, không có chuyện gì rắc rối xảy ra.
Trên chiếc toa xe lửa hạng tư chật chội, người ngồi người đứng chen chúc nhau, tôi chỉ mong sao chóng lên tới Hà Nội.
Không như lần đầu tiên đi Hà Nội, vì quá nhỏ, tôi hầu như chẳng biết gì, nhưng lần này, tôi hết sức bồn chồn và náo nức, tới cái độ, chẳng thèm ăn, thèm uống cái gì, chẳng buồn nói chuyện với ai, thỉnh thoảng chỉ hỏi bố tôi về những cái gì tôi muốn biết ở hai bên dọc đường...
Tới ga Văn Ðiển tức là chỉ còn chút ít cây số nữa thôi là tới Hà Nội, tôi đứng ngồi không yên, mê mải nhìn những cảnh tượng bên ngoài mà tôi nghĩ rằng chúng đã có mang ít nhiều tính chất của Hà Nội phồn hoa... Rồi thì là tới làng Tám, có cây tháp nhà thờ trăng trắng với những lùm cây và lũy tre xanh mờ mờ ở phía xa... Rồi tới Bạch Mai, sân tàu bay, khu nhà thương thật rộng lớn... Tôi bỗng liên tưởng tới một cuốn tiểu thuyết tôi đọc cách đó mấy năm kể câu chuyện một chàng thanh niên làm cách mạng mà khung cảnh là Bạch Mai... Và từ đây, nhìn về phía Hà Nội, nhà cửa san sát, đèn điện lấp lánh như sao sa, tôi nhận thấy vòm nhà Ðấu xảo, hai ngọn tháp nhà thờ Lớn, những lùm cây xanh đậm nổi bật trên nền trời úa vàng của một buổi chiều đầu thu...
Nhìn cảnh tượng này, thú thiệt, tôi hết sức vui và xúc động, chẳng hề thấy xa lạ mà trái lại có một cảm giác rất thân thương, quen thuộc, chẳng khác gì một kẻ mới đi xa về thăm quê cũ.
Kỷ niệm 100 năm Bưởi-Chu Văn An (1909-2009)
(Tặng các bạn đồng môn và các học sinh Chu Văn An thân mến của tôi.
V.N.A.)
Năm tôi mới chừng lên 5, nhân một chuyện gia-đình, tôi được theo bố mẹ đi Hà Nội.
Kể từ chuyến đi lần đầu tiên đó cho tới năm tôi đi học Hà Nội, một giai đoạn trên dưới chưa tới 10 năm, thế mà sao đối với tôi nó lại có thể dài đến như thế.
Trong cái khoảng thời gian dài đằng đẵng đó, ngoài một chuyến theo bố đi Nam-định dự Ðại hội Thanh Niên Công Giáo toàn quốc, một chuyến đi Thanh-hóa và một chuyến đi Ninh bình để dự kỳ thi lấy bằng certificat (Tiểu-học cơ bản, Certificat d'Étude Primaire) tôi không còn có dịp nào được đi Hà Nội nữa.
Từ khi bắt đầu cắp sách đi học, trí óc tôi được mở mang dần dần để rồi bắt đầu biết mơ ước. Dẫu sao thì những điều mơ ước của những thằng bé nhà quê như tôi thời đó thực ra rất đơn sơ, giản dị và tầm thường, tầm thường đến thảm hại và đáng thương, chẳng khác gì cuộc sống phẳng lặng, buồn tẻ và nghèo nàn của miền quê Bắc-Việt vào thời xa xưa đó, những mơ ước không bao giờ vượt ra ngoài cái khuân khổ của cuộc sống tẻ nhạt và chật vật hằng ngày, hoặc nói một cách khác, cái khuân khổ của miếng cơm và manh áo đơn bạc.Nếu bạn hỏi những thằng nhỏ 6,7 tuổi như tôi lúc đó: “Cháu muốn gì”, đứa thì trả lời là “muốn ăn kẹo”, đứa thì “muốn ăn bánh”, đứa khác thì mộng lớn hơn: “cháu muốn có cái áo láng mới”, hoặc “cái quần trắng mới.”
Những đứa không mấy thực tế thì “cháu muốn có cái diều có bộ sáo đồng “cồ” giống như của anh thằng Tèo”, “cháu muốn có con quay gỗ mít” (!)...
Hồi nhỏ chúng tôi ngây thơ và ngu dại là như thế, nên sau này vẫn thường lấy làm lạ và tự hỏi không hiểu tại sao thiên hạ lại có thể có những thần đồng, khôn ngoan gấp trăm, gấp nghìn lần chúng tôi.
Thiệt không thể tưởng tượng nổi.
Nếu quý vị hỏi chúng có thích học không, số trả lời ”không” nhất định sẽ chiếm đại đa số.
Còn nếu như chúng ta hỏi “Cháu có thích học giỏi không” tất nhiên đứa nào cũng sẽ nói là “thích”, nhưng nếu hỏi “Tại sao cháu thích học giỏi” hoặc “Cháu muốn học giỏi để làm gì?” phần đông những đứa trẻ nhà quê đần độn một cách rất đáng tội nghiệp kia sẽ im tắp, không biết trả lời ra sao.
Cũng rất có thể có một vài đứa sau khi suy nghĩ và đắn đo sẽ rụt rè trả lời rất vớ vẩn:” Cháu muốn học giỏi để khỏi bị bố đánh”, hoặc “Cháu muốn học giỏi để khỏi bị thầy giáo phạt”.
Rất có thể có một vài đứa có tham vọng lớn, đồng thời cũng biết trả lời hữu lý hơn: “Cháu muốn học giỏi để sau này làm... thầy giáo”.
Thực vậy “thầy giáo” quả là thần tượng của chúng tôi lúc đó. Làm quan ư? một chuyện quá xa vời hầu như huyễn hoặc. Mặc dầu xưa nay sinh sống ở nhà quê, nhưng gia-đình tôi tương đối sung túc, không đến nỗi quá quê mùa, lại thường có giao thiệp và buôn bán với người ngoài tỉnh nên con cháu đều được gửi cho đi học ở Nam-định hoặc Hà Nội tới bực trung học. Tuy chưa có ai làm quan nhưng cũng đã có một vài người làm giáo học, thư ký bưu-điện, thông phán sở Ðoan v.v.
Riêng tôi, dầu sao thì cũng đã có một vài lần được nếm mùi phồn hoa đô hội, nên cái giấc mộng lớn của tôi lúc đó là một ngày kia sẽ được đi Nam Ðịnh hoặc Hà Nội học, giống như các cậu em mẹ tôi và mấy người anh họ.
Hằng năm vào kỳ nghỉ hè hoặc các ngày giỗ Tết, các cậu em mẹ tôi và mấy người anh họ từ Hà Nội về sống với gia-đình. Thấy họ ăn mặc đồ Tây bảnh bao, lại mang về đủ mọi thứ quà bánh và sách báo Hà Nội, tôi ngưỡng mộ họ vô cùng, và sự thèm muốn một ngày nào đó cũng sẽ được đi học Hà Nội ngày càng gia tăng, tới độ nhiều khi tôi cảm thấy bồn chồn sốt ruột, tưởng như thời giờ chạy chậm hẳn lại.
Trong những ngày vui ngắn ngủi đó, tôi hóng nghe không biết chán những chuyện họ nói về Hà Nội, nào là chợ phiên, nào là đi ăn cao lâu ở hàng Buồm, ăn cơm Tây tại hiệu Fantasio trên hàng Bông, nào là đi xem xi-nê ở Olympia, Palace, Majestic v.v. ngoài ra tôi được họ dạy hát những bài mới nhất của Tino Rossi như Marilou, Tant qu'il y aura des étoiles, Les beaux jours, Marinella, C'est à Capri v.v...
Cái thời gian này chính là cái thời gian tôi đã lên tới lớp Tư (cours Élémentaire), tức vào khoảng 10,11 tuổi. Tôi nhẩm tính, nếu suôn sẻ thì chỉ 3 năm nữa, nghĩa là sau khi đậu bằng Certificat (còn gọi là bằng Primaire, tức bằng Tiểu học Cơ bản) là sẽ được đi Hà Nội để lên học tiếp ban Trung học. Tôi ước mong sẽ được vào trường Bưởi như bố tôi ngày xưa.
Ðúng ra, thời bố tôi Hà Nội chưa có Lycée du Protectorat, mà chỉ có Petit Collège, rồi Grand collège học 4 năm, quen gọi là ban Thành Chung) rồi cuối cùng mới đổi thành Lycée du Protectorat (trường Trung-học Bảo-hộ) để áp-dụng việc dạy một chương-trình trung-học đệ-nhị cấp mới được gọi là chương-trình Tú-tài bản xứ (Baccalauréat local), dành riêng cho học sinh người bản xứ Annamite.
Thực ra thì trên căn bản nó cũng vẫn là cái chương trình gọi là tú-tài Tây (Baccalauréat métropolitain) nhưng lại được kèm thêm một mớ môn học về văn-chương, lịch-sử và địa-lý Việt Nam, nên cái chương trình nhồi sọ này đòi hỏi học trò nhiều cố gắng và thì giờ học hành hơn chương trình Bac métro...
Vì trường tọa lạc ở góc Ðông Bắc làng Bưởi, tức làng Thụy khê, nên quen được gọi là trường Bưởi. Cho tới mấy năm đầu thập niên 40, rất đông học sinh Lypro (tên tắt của trường do mấy chữ Lycée du Protectorat thu gọn lại) từ các tỉnh xa thường tới trọ học trong làng để tiện đi học. Các viên chức nhỏ và giám thị của nhà trường ở đây cũng rất đông. Chính thầy Tổng giám thị Ngọc cũng mua nhà ở trong làng.
Vì chán cảnh buồn tẻ ở nhà quê, tôi càng nóng lòng mong sao chóng tới ngày được lên tỉnh Nam Ðịnh hoặc Hà Nội học như các cậu và mấy người anh họ tôi.
Ba năm học các lớp Ba, lớp Nhì rồi lớp Nhất đối với tôi thiệt là dài, tưởng như mười năm.
Sau kỳ khai trường năm tôi lên lớp nhất, tình hình thế-giới hết sức căng thẳng, Hitler đã bất chấp thỏa ước Munich mà ông đã ký với hai ông thủ tướng Anh, Pháp là Chamberlain và Daladier, dùng chiến thuật “tấn công chớp nhoáng” (blitzkrieg) tung hàng ngàn đại bác và xe tăng tràn ngập nước Ba-lan (tháng 9, 1939).
Trước một tình thế chẳng đặng đừng, Anh và Pháp bất đắc dĩ phải tuyên-chiến với Ðức: Thế-chiến thứ 2 chính thức mở màn.
Tình hình này có phần nào làm cho tôi thêm đôi chút bồn chồn lo lắng, vì thiên hạ đều đồn rằng đồng minh của Ðức ở Á-châu là Nhật-bản nay mai sẽ kéo quân từ Quảng tây sang đánh chiếm Ðông Dương để chặn đường tiếp tế chính-phủ Tưởng Giới Thạch (lúc đó đóng ở Trùng Khánh) qua ngả đường xe lửa nối Hải-phòng với Côn Minh (quen gọi đường xe lửa Vân-nam).
Nếu như mai đây chiến tranh xảy ra và lan rộng, chắc chắn chuyện đi Hà-nội học của tôi có thể coi như là hết hy vọng...
Năm học lớp nhất của tôi rồi cũng trôi qua và nhanh chóng một cách không ngờ. Quả nhiên chiến tranh ngày càng lan rộng, dân chúng bị bom đạn chết hằng hà sa số, nhưng là ở bên Tây bên Tàu chứ bên Ta thì dân chúng vẫn bình chân như vại, mặc dầu chuyện Nhật xâm chiếm giống như lưỡi kiếm Damoclès luôn luôn lơ lửng trên đầu trên cổ người dân Ðông dương.
Thực vậy, đời sống ở thôn quê thời đó thường rất bình lặng, bình lặng tới độ buồn nản, kể cả Phát Diệm, một vùng đạo quanh năm có rất nhiều lễ lạt và rước xách linh đình, nên mỗi buổi chiều sau khi đi học về, tôi chỉ có một cái thú duy nhất là đọc báo hoặc chuyện kiếm hiệp. Cũng may là bố tôi vốn chịu đọc báo nên mua năm hầu như đủ mọi thứ báo và tạp-chí như Trung Bắc Tân văn, Trung hòa nhật báo, La Volonté Indochinoise, Ngày nay, Tiểu-thuyết Thứ bảy v.v.
Có điều bất tiện là các nhật báo thường tới chậm một ngày. Nhưng dẫu sau, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu nhỏ tôi cũng có thể tha hồ mà đọc tới khi đi ngủ vẫn chưa hết.
Riêng tôi thì mỗi khi có được năm ba xu hay một hào thì thế nào cũng phải lên tiệm chạp phô Tàu trên phố Thượng-kiệm rước về một vài tập Trung Nhật Chiến tranh, hoặc Bồng lai Hiệp khách, hoặc Nữ Quái Hiệp, hay Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự v.v... của cái ông văn sĩ Tàu chuyên viết truyện kiếm hiệp nổi tiếng thời đó là Lý Ngọc Hưng.
Nói đến chuyện mê đọc kiếm hiệp, cho đến tận bây giờ, 8 chục tuổi đầu rồi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao hồi đó tôi lại có thể mê đọc truyện kiếm hiệp đến như thế. Hình như cái dư vị của sự thích thú ngày xưa mỗi buổi tối lén đọc kiếm hiệp vẫn còn thoang thoảng nhen nhúm tới tận bây giờ trong lòng tôi. Mặc dầu phần lớn chỉ là những sách báo nhảm nhí nhưng thằng bé nhà quê là tôi lúc đó cũng học hỏi được rất nhiều vấn đề mà nhà trường thời đó không hề dạy, chẳng hạn như nhờ tập Trung Nhật chiến tranh 3 xu ra hằng tuần mà tôi được biết nhiều chuyện thời-sự liên quan đến chiến tranh và tình hình thế-giới vô cùng sôi động lúc đó cũng như tiểu sử của các nhân vật nổi tiếng ở Á Châu và thế giới như Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, Cố Duy Quân, Mao Trạch Ðông, Ðông Ðiều, Phổ Nghi, Franco, Hitler, Mussolini, Staline, Chamberlain, Daladier, Rosevelt, De Gaule v.v...
Dòng đời xoay chuyển và biến hóa thiệt kỳ lạ. Không một ai có thể ngờ là sau đó 35, 36 năm, thằng bé nhà quê A-na-mít là tôi kia đã có cái cơ may được yết kiến hoặc dự tiệc với một vài nhân vật lẫy lừng mà tôi vừa mới kể tên trên đây. Chẳng hạn như được yết kiến cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và phu nhân tại dinh Dương Minh Sơn và đàm đạo với mấy vị xưa là bạn thân và đồng liêu với cựu đại sứ Cố Duy Quân tại một bữa tiệc do Tối Cao Pháp Viện Trung Hoa khoản đãi dân biểu Dương Minh Kính và tôi ở Ðài Bắc cách đây 40 năm.
Tôi tuy chưa có dịp được gặp ông De Gaule, nhưng có điều ly kỳ là vào khoảng 1968, vợ tôi trong khi ngồi đợi tại phòng khách danh dự nhỏ xíu của phi-trường Orly (Salle 105) đã có dịp gặp và bắt tay Tổng Thống De Gaule khi ông trở về qua đó sau một cuộc công du tại Ðức. Ông Tây già vốn rất “nịnh đầm” này hình như còn hôn tay mụ nữa. Có lẽ ông tưởng mụ vợ tôi là một nhân vật thuộc ngoại giao đoàn ra đón ông, nên cám ơn rối rít.
Tôi cũng đã có dịp được nhiều nhân vật lừng danh ngày xưa như chủ tịch quốc hội Pháp Chaban Delmas, một thủ lãnh kháng chiến nổi tiếng thời đệ Nhị Thế chiến, cựu toàn quyền Letournau v.v... khoản đãi như thượng khách. Và có một năm, nghị sĩ Mortaix de Narbonne (xưa làm luật sư ở Saigon) và một số nghị sĩ Pháp đã tổ chức mừng sinh nhật tôi tại điện Luxembourg (trụ sở Thượng Nghị viện Pháp). Khi mà những nhân vật “légendaire“trên đây danh tiếng như sóng cồn trên chính trường thế giới, hoặc ở những địa vị tột đỉnh cao sang, tôi chỉ là một thằng bé bẩn thỉu ở một xó nhà quê “a-na-mít”, nước mũi chảy dài thò lò, chạy ra đường ngó nhìn một cách vừa thán phục, vừa rụt dè, sợ sệt mấy ông Tây bà Ðầm mỗi khi những người này về tham quan nhà thờ Lớn Phát Diệm.
Kể lại những chuyện trên đây, tôi không hề có ý muốn phô trương hay khoe khoang một điều gì mà chỉ muốn kể lại những biến đổi lạ lùng trong cuộc đời của mỗi người trong chúng ta, dưới một khía cạnh hay hoàn cảnh nào đó mà hồi còn nhỏ chúng ta thường không thể nào ngờ tới hoặc tưởng tượng nổi...
Ngoài ra, cái thú mê đọc sách báo nhảm nhí hồi còn bé cũng đã tạo cho tôi cái thói quen đọc sách rất có ích lợi sau này...
Kỳ thi Certificat ở Ninh bình năm đó tôi đậu mention bien lại thêm mention về franais nữa, nên chuyện thi vào trường Bưởi xem ra có nhiều hy vọng, và nếu như không có chuyện gì bất trắc, chắc chắn là bố mẹ tôi sẽ cho tôi đi học Hà Nội.
Mùa hè năm đó, có lẽ là cái mùa hè vui nhất trong đời tôi. Tuy nhiên, một mặt tôi mong chóng tới ngày được đi học Hà Nội, nhưng mặt khác lại cảm thấy hơi buồn vì sắp phải xa nhà, xa bố mẹ và các em tôi. Tôi bỗng dưng cảm thấy bịn rịn và khăng khít đối với những người thân hơn trước.
Nhìn căn nhà cổ rêu phong, cái sân lát gạch Bát-tràng, những chum nước mưa ở đầu hè, mấy hàng cau, những luống hồng và hoa thược dược đủ màu mà bố tôi lấy giống từ Hà Nội trồng trước nhà, tôi như muốn in sâu những hình ảnh đó trong lòng tôi...
Những chuyện tình cảm vớ vẩn này thực ra cũng là thường tình mà thôi, bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời tôi phải xa nhà và cũng là cơ hội cho tôi bắt đầu cảm giác thấy thế nào là ly biệt, cái hoàn cảnh mà con người ở thời đại nào, hoàn cảnh nào cũng đều luôn phải đối phó, nhất là trong cái thời đại loạn lạc của đất nước khốn khổ chúng ta sau này.
Thực vậy, chính tôi cũng không ngờ là kể từ cuộc ly biệt sắp tới này tôi sẽ chẳng còn có dịp nào sống với gia-đình trong một thời gian quá hai tháng, để rồi sau cùng, cho tới khi trưởng thành, có gia-đình riêng, tôi đã chẳng bao giờ có được cái cơ hội được sống chung với bố mẹ và các em tôi dưới cùng một mái nhà. Tình ruột thịt do đó dường như đã phần nào giảm đi dần dần. Mỗi khi nghĩ lại, tôi thấy thấy nao nao trong dạ và cảm thấy thiệt buồn. Nhưng cuộc đời là như thế, biết làm sao đây?
Ðể chuẩn bị thi vào Bưởi, suốt gần 2 tháng hè tôi không đi chơi đâu mà chỉ lo luyện Toán và Franais với cậu út em mẹ tôi. Các giấy tờ và đơn từ phải gửi nộp nhà trường, đều do một tay người bạn bố tôi là ông Tú Ch... lo hết vì năm đó em vợ của ông Ch... là Phạm Kh... cũng cùng thi vào Bưởi, nên tiện tay ông lo luôn cho cả 2 đứa trẻ.
Hơn nữa, ông Ch... vốn xuất thân Tú tài Bản xứ từ trường Bưởi ra cách đó mới 5,6 năm mà thôi, nên theo ý kiến bố tôi, những chuyện lặt vặt về thi cử, xin học v.v. ông rất quen. Ngoài ra, như bố tôi thường nói với mẹ tôi, ông còn là một tay thổ công của đất Hà-thành văn vật, hầu như cửa nào ông cũng lọt.Vì muốn hoàn toàn lột xác, tôi xin bố mẹ cho tôi được mặc “tây”. Giữa lúc đó, một ông bạn của bố tôi từ Hà Nội về thăm, nhân tiện bố tôi đem chuyện này ra bàn với ông bạn. Ông bạn này rất bảo thủ nên nhất định không đồng ý chuyện cho tôi mặc đồ tây vì sợ tôi sẽ quen thói đua đòi chưng diện mà không chịu lo học hành. Theo ý ông thì thằng cháu cứ tiếp tục áo chùng thâm (áo dài đen), quần trắng là tốt nhất, ăn diện đồ tây chỉ tổ hư (?)mà lại tốn kém.
Hơn nữa, theo như ông biết, phần lớn học trò trường Bưởi, nhất là ở những lớp dưới, vẫn mặc đồ ta. Và ông nhắn nhủ riêng tôi: “Thôi cháu ơi, người ta sao thì mình vậy? Ðua đòi Tây, Tàu làm gì cho tốn kém bố mẹ cháụ. Vả lại, bác nhận thấy những đứa thích chưng diện thường học hành không ra gì?”
Bố tôi bị ông bạn thuyết phục nên xiêu lòng với giải pháp “tiếp tục áo the đen và quần trắng trúc bâu”, tức “đồ ta”.
Khốn nạn, nói là đồ tây chứ thực ra là mấy cái quần “soọc”, mấy cái sơ-mi, và thay vào đôi guốc lọc cọc là một đôi săng-đan hay đôi giầy vải “ten-nít”, thế thôi. Khi nào trời lạnh thì chỉ cần thêm chiếc áo len hoặc trở lại với chiếc áo mền bông quốc hồn quốc túy cũng không phải là muộn, có chết chóc gì ai đâu.
Rốt cuộc, trước hôm tôi đi mấy ngày, có lẽ vì thương con, mẹ tôi dung hòa: “Thôi được, ngoài mấy chiếc áo “chùng” the, 4 quần và 4 áo cánh trắng trúc bâu, mẹ sẽ mua thêm cho con 2 quần “soọc”, mấy cái sơ-mi, một đôi sandal để con tùy tiện thay đổi cũng không sao, miễn là con phải luôn luôn nhớ lời mẹ dặn, phải chịu khó học hành sao cho nên người. Ở nhà bố mẹ cũng phải cố gắng nhiều lắm đấy con ơi!”
Nghe những lời mẹ dặn dò thiệt đơn sơ và chân tình, tôi không sao cầm được nước mắt, nhất là trong lúc tôi sắp sửa phải tạm xa bố mẹ và các em tôi.
Trong mấy ngày cả nhà bận rộn chuẩn bị cho tôi lên đường đi học Hà Nội, tình hình Ðông Dương dường như ngày càng đồi tệ. Trong khi đó Nhật tập-trung quân dọc biên-giới Việt-nam-Quảng Tây, chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Ðông Dương bất cứ lúc nào. Toàn quyền Catroux cố gắng điều đình với Tokyo, nhưng mọi chuyện hình như không đi tới kết quả nào. Do đó, việc Nhật sẽ tấn công Ðông Dương không còn là một dự đoán hoặc một sự đe dọa suông, mà dường như đương biến thành một sự thiệt hiển nhiên trong nay mai mà thôi. Riêng tôi, tôi rất lo là nếu như chiến cuộc bùng nổ và lan rộng, chuyện tôi đi học Hà Nội sẽ có thể tan biến thành mây khói. Cũng may là cho tới ngày tôi lên đường, mọi việc suôn sẻ, không có chuyện gì rắc rối xảy ra.
Trên chiếc toa xe lửa hạng tư chật chội, người ngồi người đứng chen chúc nhau, tôi chỉ mong sao chóng lên tới Hà Nội.
Không như lần đầu tiên đi Hà Nội, vì quá nhỏ, tôi hầu như chẳng biết gì, nhưng lần này, tôi hết sức bồn chồn và náo nức, tới cái độ, chẳng thèm ăn, thèm uống cái gì, chẳng buồn nói chuyện với ai, thỉnh thoảng chỉ hỏi bố tôi về những cái gì tôi muốn biết ở hai bên dọc đường...
Tới ga Văn Ðiển tức là chỉ còn chút ít cây số nữa thôi là tới Hà Nội, tôi đứng ngồi không yên, mê mải nhìn những cảnh tượng bên ngoài mà tôi nghĩ rằng chúng đã có mang ít nhiều tính chất của Hà Nội phồn hoa... Rồi thì là tới làng Tám, có cây tháp nhà thờ trăng trắng với những lùm cây và lũy tre xanh mờ mờ ở phía xa... Rồi tới Bạch Mai, sân tàu bay, khu nhà thương thật rộng lớn... Tôi bỗng liên tưởng tới một cuốn tiểu thuyết tôi đọc cách đó mấy năm kể câu chuyện một chàng thanh niên làm cách mạng mà khung cảnh là Bạch Mai... Và từ đây, nhìn về phía Hà Nội, nhà cửa san sát, đèn điện lấp lánh như sao sa, tôi nhận thấy vòm nhà Ðấu xảo, hai ngọn tháp nhà thờ Lớn, những lùm cây xanh đậm nổi bật trên nền trời úa vàng của một buổi chiều đầu thu...
Nhìn cảnh tượng này, thú thiệt, tôi hết sức vui và xúc động, chẳng hề thấy xa lạ mà trái lại có một cảm giác rất thân thương, quen thuộc, chẳng khác gì một kẻ mới đi xa về thăm quê cũ.