|
Post by Can Tho on Feb 3, 2024 20:04:49 GMT 9
Tủ sách Tuổi Hoa ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ 1- NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM. Chỉ còn khoảng hơn một tuần nữa là tết, bé nghe chị Huyền nói thế. Bé nôn ghê, cứ mong ngày chóng qua cho mau đến tết, để bé còn mặc áo mới, đi chơi và được lì xì thật nhiều. Nhưng sao bé càng mong thì thấy càng lâu, bé sốt ruột chạy ra chạy vào, không biết phải hỏi ai. Ba mẹ, anh Hoàng, chị Huyền ai nấy đều bận rộn lo sửa soạn nhà cửa, lo công việc để đón tết. Chỉ có mỗi mình bé, bé chẳng biết làm gì cả, chỉ biết chơi đùa, nghịch phá và ăn là giỏi thôi, mẹ thường nói thế đấy. Ba đang săm soi mấy chậu kiểng trước thềm nhà, cả một công trình của ba để đón tết, và ba rất hãnh diện khi khách đến nhà, hết lời ngợi khen ngắm nghía. Bé nhìn một lúc thấy chán, bỏ vào bếp, mẹ và chị Huyền đang ngồi tỉa đu đủ để làm mứt. Bé mon men đến bên mẹ, chưa kịp nói gì thì chị Huyền đã hỏi: - Đi đâu thế nhỏ, xuống mè nheo với mẹ để xin tí mứt phải không? Mẹ tiếp lời: - Chứ gì nữa, bé lúc nào mà chả nghĩ đến ăn. Bé phụng phịu: - Mẹ chọc con hoài! Nói thế chứ, rồi mẹ cũng cho bé ít mứt gừng cay xé lưỡi. Bé cám ơn mẹ rồi lên nhà. Ba, anh Hoàng đã dọn dẹp xong xuôi, trên bàn thờ lư hương được lau chùi bóng loáng. Bé nhìn quanh, thấy chỗ nào cũng ngăn nắp, sạch sẽ. Anh Hoàng hất hàm hỏi bé: - Coi được không nhỏ? Bé giả vờ nhăn mặt: - Xời, ngó chẳng giống ai, anh Hoàng làm dở quá à! Anh Hoàng trợn mắt, giơ nắm đấm ra dọa. Bé cười khì. Nhìn lên mấy tờ lịch, bé lẩm bẩm một mình: - Chỉ còn mấy ngày nữa là tết. 2- GIAO THỪA. Bữa cơm chiều kết thúc thật mau lẹ, bé ăn có mỗi một chén, tự nhiên bé thấy no ngang. Ăn xong, bé ra sân ngồi canh nồi bánh chưng với mẹ. Tối nay bé nhất định thức đến giao thừa, chứ như mấy năm trước chưa đến giao thừa là bé đã ngủ khò từ hồi nào. Nồi bánh mẹ nấu từ chiều hôm qua, chắc gần đến giao thừa là chín, mẹ bảo thế. Tiếng nước sôi sùng sục, tiếng củi nổ tí tách nghe thật vui tai. Bé ngước nhìn trời, bầu trời đen như mực, cả một khoảng sân nhà bé rực sáng vì ánh lửa. Thấy lạnh, bé bỏ vào nhà, xem ba sửa soạn nhang đèn bánh mứt để cúng giao thừa. Ba quay sang hỏi bé: - Thế nào, liệu có thức nổi đến giao thừa không bé? - Được chứ ba. Anh Hoàng xen vào: - Nói thì hay lắm, lát nữa là đón giao thừa trên giường ấy chứ. - Bé nói thức được mà. - Thôi không cãi với bé nữa, thức được thì cứ thức đi. Nói xong anh bỏ vào phòng mất tiêu. Bé ngồi loay hoay một lát thì hai mắt đã ríu lại, bé cố gắng hết sức nhưng không tài nào chống nổi cơn buồn ngủ. Thế là bé gục xuống bàn, và hình như có tiếng ba gọi anh Hoàng bế bé vào giường... Trong giấc ngủ, rất mơ hồ bé nghe như có tiếng pháo nổ, mùi trầm hương thoang thoảng, tiếng chuông chùa xa xa vọng lại. Chắc là đến giao thừa rồi. đã qua một năm mới. Bé ngủ thật say, giấc ngủ đầy mộng đẹp như những cánh hoa sang mùa xuân. 3- MỒNG MỘT. Đang ngủ ngon, bé bị ai lay lay, gọi dậy. Giật mình, bé mở choàng mắt, thì ra chị Huyền: - Thôi dậy đi chứ, sáng bét rồi. Nè, bữa nay là sáng đầu năm, liệu mà giữ nghe, coi chừng rông cả năm đấy. Chẳng là hôm qua, chị dặn bé phải dậy sớm, không được khóc nhè, không được vòi vĩnh, nhõng nhẽo với mẹ, như thế trong năm mới ngoan được. Bé lật đật xuống nhà thì thấy cả nhà đông đủ rồi. Tiếng anh Hoàng: - A! Năm mới sao mà bé dậy trễ thế, coi chừng cả năm... Chưa dứt lời anh đã bị mẹ la: - Thôi, chưa gì đã chọc rồi, đầu năm mà khóc nhè là không được đấy. Bé đi rửa mặt rồi đi ăn sáng bé. Ăn xong, mẹ sửa soạn nhang đèn để đi chùa. Thế nào bé cũng tháp tùng theo. Chị Huyền thay đồ mới cho bé, và cột tóc cho bé bằng hai cái nơ hồng thật dễ thương. Bé cứ ngắm nghía, soi gương mãi. Chị cười: - Thôi xinh lắm rồi, xuống nhà đi. Trước tiên bé đến trước ba mẹ, khoanh tay mừng tuổi ba mẹ. Ba xoa đầu bé khen ngoan rồi lì xì cho bé một phong bao đỏ thật mới ; anh Hoàng chị Huyền cũng được lì xì như bé. Anh Hoàng rủ: - Chút chiều chơi bầu cua không bé? Bé lắc đầu: - Anh chơi ăn gian thấy mồ, dụ của bé hết tiền hà. Lúc đó mẹ gọi tất cả lại phân công cho anh Hoàng, chị Huyền xách đồ đi theo, còn bé thì đi tay không thôi. Chỉ có mỗi mình ba ở nhà để tiếp khách. Đường lên chùa hôm nay sao mà vui thế, người đi đông như nước, bé nắm chặt tay mẹ len lỏi vào đám đông. Vào được bên trong thì bé mệt ứ hơi. Xung quanh ai nấy đều chấp tay, nét mặt nghiêm trang. Bàn thờ Phật khói trầm hương nghi ngút tỏa khắp nơi.. Bé lễ theo mẹ và chấp tay nguyện cầu. Bé ngước lên cao, dáng Phật uy nghi lạ thường. 4- MỒNG HAI, MỒNG BA. Mới sáng sớm nhỏ Kim đã sang nhà bé. Bé với Kim học chung lớp, bé thân với Kim ghê lắm. Kim hẹn bé hôm cuối năm sẽ đến nhà bé, Kim đúng hẹn ghê. Bé ra đón Kim ở cổng, rồi dắt ra phía vườn chơi. Bé lấy mứt, hạt dưa đem ra hai đứa ăn chung. Hai đứa ngồi nói chuyện huyên thuyên. Hôm nay Kim cũng có đồ mới như bé, hai đứa nhìn nhau cười hoài. Chợt Kim hỏi bé: - Đầu năm mới, Hà có khai bút không? Bé lắc đầu: - Không, thế Kim có khai bút không? Nét mặt Kim trở nên nghiêm trang: - Có chứ, Kim khai bút bằng bài toán đố cơ, để sau này Kim giỏi toán và cuối năm sẽ thi đậu đệ thất đấy. - Bé Kim giỏi ghê nhỉ, chứ ai như Hà đâu, mới đầu năm đã lười rồi chả chịu khai bút gì cả. Bé và Kim giật mình quay lại. Anh Hoàng đứng sau lưng nheo mắt cười trêu bé. Bé chống chế: - Tại bé không biết, chứ bé đâu có lười. - Ừ, thì bé không lười, nói gì bé cũng cãi được. Bây giờ hai đứa có muốn đi chơi với anh không? Sửa soạn đi liền nghe. Không đợi anh hỏi lần thứ hai, bé và Kim đồng ý liền. Anh dắt hai đứa đi chơi lung tung hết, chỗ nào anh cũng đến, mãi đến tối mịt ba anh em mới dắt nhau về. Vui ghê. Sáng hôm sau Kim lại sang, rủ bé đến chúc tết thầy cô và lại nhà mấy đứa bạn chơi. Đến nhà thầy, bé thấy đông đủ bạn bè. Cả lũ tíu tít chúc tết Thầy cô. Thầy cô xoa đầu từng đứa và trao cho mỗi người một phong bao đỏ. Cả bọn lại lao nhao cám ơn, căn nhà rộn hẳn lên. Tụi bé ở lại nhà thầy chơi bầu cua, đùa giỡn đến trưa mới xin phép ra về. Sau đó lại kéo đến từng nhà lũ bạn bè. Mấy ngày tết thật vui, bé quên hết sách vở bài học, chỉ còn biết đến việc chơi thôi. Bé nghĩ thầm: mau quá chưa gì đã đến mùng ba rồi. Với người lớn thì hết tết nhưng với lũ nhỏ như bé đến khi nào đi học lại mới hết tết cơ. 5- MỒNG BẢY. Bé đứng nhìn ba và anh Hoàng hạ cây nêu trước sân nhà, thế là hết tết. Mẹ, chị Huyền thu dọn nhà cửa, mọi việc trở lại bình thường. Trong nhà, cành mai nhỏ vẫn còn chưng trong lọ để trên bàn khách, anh Hoàng nói: - Kệ, cứ để đó khi nào tàn rồi hãy vứt, để thấy còn có vẻ tết một chút. Gỡ mấy tấm thiệp xuống thôi. Ba đã đi làm từ hôm mồng bốn. Anh Hoàng, chị Huyền và bé bắt đầu sửa soạn sách vở để ngày mai đi học. Bé thẫn thờ nhìn xác pháo đỏ hồng vương vãi ở góc sân, lẩm bẩm một mình: - Thế là hết tết rồi... 🔸HOÀI LINH🔸 (Trích từ tạp chí Tuổi Hoa Tết Ất Mão, 1975)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2024 19:49:45 GMT 9
ĐÔI MẮT MÙA XUÂN 🌻 ●Phạm Tín An Ninh
Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc. Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa. Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu. Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào. Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức. Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau. Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân. Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ. Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe. Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy. Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình. Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng. Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi. Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.) Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường. Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác! Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì. Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng. Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cữu. Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân. ●Phạm Tín An Ninh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 1, 2024 9:33:42 GMT 9
TRÍCH TIÊN Tâm Thanh (Tâm Thanh là bút hiệu của ông Ngô Thanh Tâm, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Đà Lạt khóa 4 và sau đó tốt nghiệp Cao-học Hành chánh Khóa 2/QGHC Sài Gòn, là chồng của thi sĩ Khánh Hà, Cao-học Hành chánh Khóa 3/QGHC/SG.
Căn cứ không quân Banak trong một ngày Hè uể oải. Dưới nắng chói chang, đường bay trải dài loang loáng như có ai khéo tạt một vũng nước vuông vức ra tận vịnh Porsangen. Ba dãy trại sơn trắng, ghép thành hình chữ U nằm buồn như chợ chiều. Cái hăng-ga khổng lồ đóng cửa im ỉm. Tôi ngồi "gác kiểng" trên đài quan sát, mường tượng cảnh những chiếc máy bay F-16, F-5 tấp nập lên xuống hồi NATO còn đóng ở đây. Bây giờ chỉ còn đàn hải âu lười biếng lượn trên bầu trời trong. Giá tôi có thể thả cho đời trôi như thế. Tiếng chuông điện thoại reo. Tôi hấp tấp bắt máy: - Ðài quan sát, phi trường Banak, tôi nghe đây ạ. - Thân đấy hả? Nghe đây: Có một người Việt Nam, đang ở phòng cảnh sát Tana, không biết một chữ Na-Uy. Họ cần người dịch. Cậu có muốn giúp họ không? Tôi nói như trẻ con xí đồ chơi: - Dạ, muốn chứ, thiếu tá. - "Muốn chứ"- ông thiếu tá có tật nhái lời, lúc mới nhập trại tôi cứ tưởng ông kỳ thị, rồi tiếp - Nửa giờ nữa có người lên gác thế, anh xuống văn phòng gặp tôi. Có trực thăng tới đón. Bỏ điện thoại xuống, tôi mới bắt đầu tự hỏi: tại sao lại có người Việt nào lạc loài lên miền địa đầu giới tuyến này? Tưởng chỉ có mình tôi điên. Chắc là một du khách người Việt đi coi mặt trời đêm, quên đường về? Hay là một người từ Nga nhảy rào xin tịn nạn chính trị? Ôi! Nếu là một vụ tị nạn thì thật hấp dẫn. Tôi nhìn cây kim đồng hồ treo dưới chân dung quốc vương Harald và hoàng hậu Sonja nhích đi chậm chạp. Tôi thay đồ dân sự xong lên trình diện. Ông thiếu tá thấy vẻ hăng hái khác thường của tôi, tò mò hỏi: - Tại sao anh - tay tổ làm biếng - lại sáng mắt lên nhận việc này? - Lâu quá tôi không được gặp người đồng hương. Vâng, tôi đang phục vụ ở một nơi hẻo lánh cỡ như Lạng Sơn của Việt Nam, nhưng trong vòng 1000 cây số hình như chỉ có một người Việt. Và lý do tôi vận động đi quân dịch, mặc dầu đã quá tuổi bắt buộc, là vì sau khi ra trường, tôi xin việc mấy chục chỗ không được, đâm buồn chán, trống rỗng, muốn đi thật xa một phen. Hơi quá xa. Từ bãi trực thăng đi vào phố chỉ chừng 2 km. Tana là một xã nhỏ cực bắc của Na-Uy, giáp giới Phần-Lan, và là một trong những con đường chính từ Nga sang. Từ vài năm nay, mùa hè ở đây tràn ngập du khách, nhiều nhất là người Nga và Phần-Lan. Người địa phương, phần đông là thổ dân Same, nghe nói cũng giòng giống Mông-Cổ, nhưng so với dân Viking, không gần gũi với tôi gì hơn. Xe chở tôi chạy qua một khu chợ trời náo nhiệt. Sau ngày Liên bang Xô-viết sụp đổ, người Nga tuồn cả núi quân nhu, quân cụ ra bán. Nào là "mũ nơm gà" Hồng quân Liên xô, huân chương, áo giáp, ống dòm, la bàn, nào là quần áo nhà binh, tượng Lê-Nin, Xít-ta-lin, bao cao-su... được bày la liệt trên lề đường, như một cuộc chiến vừa tàn. Ở vài góc đường, những cô gái Nga - rất dễ phân biệt với gái Na-Uy nhờ nét mặt thanh tú, thân người thon nhỏ, ăn mặc phong phanh, mời mọc. Có lẽ đây là mấy cô mà bọn con trai trong trại thường to nhỏ, xuýt xoa mỗi lần đi phép về, và ông thiếu tá cũng đã cảnh cáo, nhưng vẫn không yên tâm, bắt cả trại thử máu thường xuyên. Ty cảnh sát nằm sau nhà thờ. Người đón tôi là một ông trung sĩ cảnh sát, nhưng người điều tra lại là một cô sĩ quan xinh đẹp, tóc ngắn, da dẻ đỏ như đồng, chắc suốt mùa hè này chỉ tắm nắng. Cô tự giới thiệu là Marianne. Vào phòng thẩm vấn, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng, không hiểu tại sao, khi thấy "đối tượng" thông dịch là một cô gái. Cô đang ngồi quay lưng về phía cửa ra vào, khi cô đứng lên, quay lại, tôi hoa cả mắt vì vẻ đẹp khác thường. Bị hớp hồn, tôi mở lời bằng một câu u mê: - Cô người Việt? Nàng cũng thẫn thờ: - Anh người Việt? Trong lúc chờ Marianne tìm thêm ghế, tôi nhìn trộm đôi môi hồng vừa thốt ra những âm hưởng Hà Nội ấm và sang, và nghĩ cái câu "Anh người Việt?" có thể dùng để chào nhau, thay cho câu "Bác xơi cơm chưa?" của miền bắc Việt Nam. Khi người nữ sĩ quan cảnh sát bắt đầu gài mẫu biên bản lấy cung vào máy đánh chữ, tôi hiểu đây không phải chỉ là vụ cớ mất bóp hay du khách lạc đường, và trong tâm trạng của một người chín tháng nay chưa thấy mặt người Việt Nam, tôi nghĩ bụng cô gái xinh đẹp này... oan, dẫu chưa biết sự cố liên quan tới việc gì. Người sĩ quan bắt đầu: - Cô tên gì? - Natasja Jakusjok. Tôi không nghe kịp tên họ, phải chìa tờ giấy, xin cô gái viết. Trong lúc Marianne so mảnh giấy cô gái viết với tờ thông hành, tôi so nét mặt thuần túy Việt Nam với cái tên Nga Natasja, lòng đầy nghi hoặc. Marianne tiếp: - Cô sang Na-Uy làm gì? - Du lịch. - Từ bao giờ? - Chiều thứ sáu. - Bằng phương tiện gì? - Xe buýt. - Khởi hành từ đâu? - Murmansk. - Ai mời cô sang Na-Uy? - Tôi tự sang. - Không có ai từ Nga tự sang Na-Uy được. Phải có người từ Na-Uy mời, lãnh sự quán của chúng tôi ở Murmansk mới cấp phép nhập cảnh. - Tôi mà được mời? Marianne tỏ vẻ nửa ngạc nhiên, nửa thất vọng. Tôi tự nhiên đâm thông minh hơn thường lệ một chút, dịch chữ "mời" thành "bảo lãnh", và nhắc lại câu hỏi. Quả nhiên người đồng hương hiểu ý, trả lời: - Tôi không biết tên người bảo lãnh. - Cái tên đó cô phải biết để viết đơn xin chiếu khán. - Tôi không viết đơn. Marianne như sắp chụp được con mồi: - Ðó. Tôi muốn hỏi người nào viết đơn giùm và tổ chức chuyến đi cho cô? - Tôi không biết. Tới phiên thì tôi mua vé xe. Người bán vé chỉ cho tôi đi xe nào, tôi lên xe đó. Người nữ cảnh sát thất vọng, xoay mặt lại cái máy chữ từ nãy đến giờ nằm thất nghiệp, lùa tay vào mái tóc nâu. Tôi quay sang Natasja. Tia mắt tôi chạm phải bàn tay cô trắng nuột nà đặt trên đùi, tôi quay đi chỗ khác. Nhưng rồi trong lúc dịch tôi không thể tránh nhìn vào một trong hai người. Tôi nảy ra một so sánh: lúc mới gặp cô cảnh sát, tôi thấy cô đẹp như một nữ tài tử đóng trong các phim James Bond; lúc này ngồi cạnh cô gái Việt, cô trông như một nữ tì. Nhưng người "nữ tì" đã quay phắt lại, nghiêm nghị, dằn từng tiếng: - Chúng tôi bắt được quả tang cô bám dâm. Tôi hụt hẫng, bàn tay co giật, loại co giật mà tôi thường gặp khi rơi từ cơn chập chờn vào giấc ngủ sâu, hoặc như khi đi đường băng trơn với em gái, mà nó bị trượt. Tôi sượng sùng, dịch "bán dâm" thành "tiếp khách". Nhưng hai tiếng này cũng đủ như một tảng đá tròng vào cổ, cô gái Việt cúi đầu xuống. Ðầu tôi cúi theo. Một tiếng nhỏ, khàn đục bật ra từ khóe môi lợt lạt: - Phải... Cô thú nhận với người cảnh sát Na-Uy, nhưng theo thói quen, cô quay sang người thông dịch tội nghiệp. Mắt cô mở lớn, trong vắt, van lơn. Lồng ngực tôi đòi lấy hơi để trút một tiếng thở dài, nhưng tôi cố nín, và càng khó chịu hơn. Và khoảng cách giữa tôi và người con gái đồng hương trở nên bồng bềnh như một mạn thuyền với một cánh bèo trên biển sóng, lúc xa, khi gần. Tôi không làm nghề thông dịch, nhưng hồi còn đi học, thỉnh thoảng tôi có đi dịch để kiếm tiền tiêu vặt. Trước khi được nhận làm, tôi phải học mấy giờ về luân lý chức nghiệp. Hình như tôi nhớ được đôi điều, và bây giờ tôi nhủ lòng mình "Ðây không phải việc của tôi". Cuối cùng cô gái "Natasja" tiếp: - Nhưng... luật pháp Na-Uy không cấm việc này... có phải không? Phản ứng bớt buông xuôi của Natasja khiến tôi ngạc nhiên. Marianne nghe vậy, lại trở nên hăm hở: - Ðúng. Luật pháp Na-Uy không cấm việc mãi dâm, nhưng cấm hoạt động ma cô. Chúng tôi cần biết ai làm ma cô cho cô? - Không ai làm ma cô cho tôi cả. - Thôi. Xin hỏi câu khác: Cô vừa nói luật pháp Na-Uy không cấm mãi dâm, mà cấm ma cô. Ai nói cho cô biết điều này vậy? - Bạn bè. Quanh đi quẩn lại, rõ ràng là cô cảnh sát chỉ muốn tóm cổ mấy thằng ma cô. Nhưng có gái giang hồ nào giám chỉ điểm ma cô của mình? Hồi nãy khi đi qua khu chị em ta, tôi cũng thấy những bộ dạng khả nghi, chẳng phải người địa phương, cũng chẳng phải du khách hay người thập phương tới buôn bán. Cảnh sát cũng dư biết như thế, có lúc gặp tên ma cô nhâng nháo quá, họ ngứa mắt, đã bắt thử, nhưng chẳng có chứng cớ, phải thả ra cho nó nhâng nháo thêm. Cơ hội duy nhất cho biện lý cuộc là lời khai của các cô gái giang hồ. Nhưng các cô ấy, nhất là cô gái lạc loài ngồi trước mặt tôi đây, làm sao dám nói? Tôi ngước lên nhìn Natasja, gặp đúng lúc cô cũng ngước lên nhìn tôi - trong đôi mắt sâu ấy, cô đang chới với. Marianne dòm lăm lăm vào tờ biên bản gài trên máy chữ như để moi ra câu hỏi mới. Cuối cùng cô ta chuyển đề tài: - Cô có quốc tịch Nga, nhưng sanh tại Việt Nam? - Vâng - Cô lấy chồng Nga? - Vâng. Marianne ráng tỏ ra kiên nhẫn: - Cô Natasja ạ, chúng tôi không bao giờ làm gì hại cô. Chúng tôi chỉ muốn biết tên và có bằng chứng truy tố bọn ma cô. Vậy cô cứ nói cho tôi biết ai đã đưa cô tới đây? Natasja ngơ ngác: - Ðưa tới đâu cơ? Marianne nói muốn nghỉ giải lao mươi phút, trong khi đó tôi phải ra văn phòng làm thủ tục tính thù lao. Marianne gặp tôi ở phòng khách lúc tôi định lấy tách cà phê cho tôi và có lẽ một tách cho cô gái. Cô hỏi chuyện lính tráng của tôi, về người tị nạn Việt Nam ở Na-Uy. Câu chuyện lan man sang việc, vào năm 1993, cô tham gia chiến dịch vĩ đại chuẩn bị cho trường hợp một triệu người Nga tràn vào Na-Uy tị nạn chính trị hoặc nạn đói. Một nhà báo nổi tiếng dí dỏm gọi chiến dịch đó là "cuộc chuẩn bị đón tiếp các công dân của Thiên Ðường đở vỡ". Việc đó may không xảy ra, nhưng lại xảy ra một cuộc xâm thực dưới hình thức khác. Cô hỏi tôi có biết về các tệ nạn biên giới? Tôi nói có đọc loạt phóng sự của nhật báo Aftenposten và Verdens gang về việc người Nga sang đây buôn bán ma túy, rượu mạnh, quân nhu quân dụng, và mãi dâm. Tôi hỏi: - Nghe nói có thể mua bất cứ thứ gì? - Ðúng. Từ sau khi Liên-xô sụp đổ, người ta có thể mua mọi thứ, thứ dữ như bom nguyên tử, súng máy, xe tăng, tầu ngầm... Thứ hiền như đồ chơi. Ðồ chơi rẻ tiền có huân chương Anh hùng Liên-xô, huân chương Lê-Nin, Anh hùng dân tộc, Anh hùng lao động. Và đồ chơi đắt tiền là các cô này. - Bao nhiêu mà đắt? - Từ 200 tới 500 kroner một đêm. Tôi nghĩ tới Natasja. Theo cái giá mà văn chương Trung Hoa và Việt Nam đề ra, cô ta phải đáng "ngàn vàng" là ít. Tại sao xuống tới mức này? - Giá đó tương đương với 2 tới 5 giờ làm việc của một người thợ Na-Uy. Có gì mà gọi là đắt? - Chỉ một cuối tuần các cô gái buôn hương kiếm được số tiền bằng lương một năm của một người thợ trung bình ở Nga. - Vậy sao quí vị không để cho người ta kiếm ăn? - Chúng tôi không muốn làm khó dễ các cô gái. Chỉ muốn trừ khử bọn ma cô. - Nghĩa là nếu các cô ấy làm ăn độc lập thì được phép? - Ðược. - Cô thử hỏi cô gái tại sao không làm ăn độc lập? - Cần gì hỏi. Tôi biết họ không thể nào làm ăn độc lập được. Người dân Nga tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Họ vừa thoát ách độc tài cộng sản, đã rơi vào nanh vuốt Mafia. Báo cáo của hội đồng an ninh kinh tế (NSR) cho biết 4/5 xí nghiệp Nga phải trả tiền bảo vệ cho Mafia. Ta không cần hỏi đồng hương của anh câu đó. Marianne nhìn đồng hồ, ý muốn chấm dứt giờ giải lao, nhưng lại đứng thêm một lát hỏi về người Việt ở Nga. Tôi không biết gì ngoài những bài phóng sự về tình cảnh những người được chính quyền Việt Namgởi đi nước ngoài lao động trả nợ chiến tranh, và công thức trả lương: một phần phát cho công nhân, một phần Nhà Nước Việt Nam "lấy thảo". Sau đó khi bức màn sắt sụp đổ, nhiều người ở lại phải xoay xở chật vật để sinh sống, kể cả việc phi pháp và mãi dâm. Và tới phiên người khác “lấy thảo”. Tôi mang cà-phê vào cho Natasja, nhưng cô để nguội tanh không uống. Marianne tiếp tục lại cuộc thẩm vấn. Nhưng câu chuyện về sau biến thành một cuộc mạn đàm nhiều hơn. Sau cuộc thẩm vấn, Marianne tự động nói với tôi: - Chắc anh muốn nói chuyện riêng với người đồng hương? Cứ ngồi đây mà nói. Anh không phải thông dịch viên chính thức, chúng tôi nhờ vả anh trong trường hợp đặc biệt, nên đền công đặc biệt. Nhân tiện, tôi nhờ anh nói cho cô ấy biết theo luật pháp Na-Uy cô ấy không làm điều gì bậy cả. Cô ấy đẹp và hiền quá. Tôi ngồi lại, không hiểu vì động lực nào - vì tò mò hay tội nghiệp, vì đây là một người con gái đẹp hay một đồng hương? Marianne đã khép cửa văn phòng lại. Bỗng nhiên tôi hoang mang, không biết tại sao ngày hôm nay, giờ này mình ngồi đây với một cô gái lạ. Tôi nghĩ có thể Natasja cũng có cảm giác đó, khi cô loay hoay sửa lại thế ngồi, rồi lại trở về thế cũ. Gò má cô từ từ ửng hồng. Cô mở lời rụt rè: - Anh là người tị nạn ra đi từ miền Nam? - Dạ. - Nghe cách ăn nói đủ biết. - Còn cô? Chắc từ Hà Nội? - Vâng. - Nghe giọng nói đủ biết. Lần đầu tiên chúng tôi cùng cười nhẹ. Cô tiếp: - Ở đây đông người Việt không? - Chỉ có mình tôi đi quân dịch lên đây. Cách đây 500 cây số có một ông bác sĩ lên phục vụ để lấy thâm niên. Ngoài ra nhóm người Việt gần nhất ở cách đây chừng 1000 cây số. Khi nêu những khoảng cách xa xăm, bỗng tôi cảm thấy cô gần lại một chút. Cô nói, do dự: - Tôi... em tên Quỳnh Hương. - Tên đẹp quá. Tôi tên Thân. - Anh có trách em không? - Tại sao lại trách? - Em làm xấu hổ chung. Tôi cảm thấy mình vụng về, không tìm được lời, chỉ biết nói: - Cô cảnh sát nhắn tôi nói lại: Cô không làm điều gì bậy cả, theo luật pháp Na-Uy. Cô ấy còn khen chưa thấy ai đẹp và hiền như cô. “Chưa thấy ai” là ba chữ quá giang, nhưng thực tình không “quá tải”. Quỳnh Hương cảm động, nét mặt bớt căng thẳng. Nhưng giữa chúng tôi có cái gì thiếu tự nhiên, câu chuyện không hào hứng như tôi tưởng tượng lúc ngồi trên trực thăng đáp xuống Tana, và nhất là giây phút đầu tiên thấy mặt cô gái. Vì lịch sự tôi vẫn cho cô địa chỉ và số điện thoại, dặn cần gì có thể liên lạc. Tôi ra ngoài móc hết tiền bạc trong túi - hình như dăm trăm - bỏ vào một phong bì, viết mấy chữ an ủi nhờ Marianne đưa cho cô gái. Quỳnh Hương thất thểu theo một người nữ cảnh sát khác ra khỏi bót. Tôi đứng nhìn cô đi về phía nhà thờ, lủi thủi. Tôi tưởng tượng ra cô gái làng chơi Magdalenatrong Thánh kinh trên đường đi tìm Chúa Giêsu để thú tội. Nhưng cô có tội tình gì? Câu hỏi thành hình từ khi tôi ngồi lên trực thăng, và nó cứ lớn dần từng ngày khi tôi trở về trại. Tôi càng mong đợi càng bặt tin Quỳnh Hương. Tôi đinh ninh thể nào cô về cũng viết thư ngay cho tôi để cám ơn nghĩa cử, để tôi có thể nói những lời tốt đẹp, kể cả lời hứa giúp đỡ. Tôi còn tưởng tượng ra câu chuyện về một chàng thanh niên hào hoa, đóng ở "tiền đồn heo hút", tình cờ gặp một cô gái giang hồ và cảm hóa được nàng đi tu thành ma sơ thánh thiện. Không ngờ một tuần, hai tuần, rồi một tháng trôi qua, không có tin cô. Rõ ràng cô đã nhét địa chỉ tôi cho vào bóp. Ngoài ra, trên phong bì tiền tôi cũng quen tay ghi tên và địa chỉ một lần nữa. Chờ đợi, băn khoăn, cuối cùng là hối hận. Tôi đã quá lạnh lùng, đã thay đổi thái độ quá nhanh sau khi biết cô là gái giang hồ. Tất cả chỉ xảy ra trong lòng tôi, nhưng tránh sao cô chẳng linh cảm được. Nét mặt thông minh ấy. Vì trịch thượng ngầm, tôi không nghĩ tới việc xin địa chỉ cô. Năm tuần sau, tôi nhận được lá thư đóng dấu bưu chính Murmansk. Tôi mừng như được thư người tình, leo lên tháp canh đọc cho... thấm. Nhưng đọc thư xong tôi vô cùng thất vọng. Nét chữ xấu xí quê mùa, lời lẽ tình nghĩa kệch cỡm, nghe rợn tóc gáy. "Chủ đề" của thư đương nhiên là xin gởi tiền (bằng tiền Norway) về địa chỉ v.v… Tôi nổi giận, xé lá thư vất vào sọt rác. Không thể ngờ được bộ mặt xinh đẹp như thế lại mang tâm hồn bần tiện như vậy. Dù cố thử biện hộ cho cô gái bằng lý luận "cái khó bó cái khôn", tôi vẫn chán ghét cô gái, ê chề tình đời, tôi chán ghét cái vùng đất mất hết tình người. Ðau nhất là con người lãng mạn của tôi bị quê nặng quá. Hết phiên gác, việc đầu tiên là tôi về phòng để hủy cái dấu vết cuối cùng về cô gái bất xứng - miếng giấy viết hai chữ Natasja Jakusjok. Ðó là miếng giấy mà cô gái viết tên trong bót cảnh sát, đi Tana về tôi gắn trước bàn viết để kỷ niệm một buổi gặp gỡ... hay hay. Nhưng khi gỡ miếng giấy, cầm trên tay, tôi bỗng giật mình - nét chữ này thanh tao, nhuyễn mềm, khác xa một trời một vực với nét chữ thô lậu, tục tằn trong thư tôi vừa xé. Tôi tức tốc chạy lên đài quan sát, lục lại lá thư. Chẳng cần so lại tuồng chữ, tôi cũng biết thư này không phải do Quỳnh Hương viết. Tôi "sang" hết mấy lời xỉ vả hồi nãy cho bọn bất lương, và nôn nả bắt tay vào việc tìm tung tích Quỳnh Hương. Sau buổi thông dịch, tôi thỉnh thoảng có điện thoại cho cô cảnh sát Marianne, vừa để tán gẫu chơi, vừa thăm dò xem "ngựa có về đường cũ không". Bây giờ muốn biết địa chỉ thật của Quỳnh Hương tôi chỉ việc hỏi Marianne. Nhưng tôi không được phép làm như vậy. Tôi thử làm điệp viên si tình một phen. Một mặt tôi ra ngân hàng gởi 300 kroner cho bọn làm tiền, tất nhiên dưới tên Natasja Jakusjok. Na-Uy đang mở rộng việc làm ăn với Nga, để biến đổi bán đảo láng giềng Kola thành một vùng bớt nghèo đói và ô nhiễm, nên có rất nhiều hãng xưởng và ngân hàng Na-Uy mọc lên hai bên đại lộ Lê-Nin. Tôi chọn gởi tiền qua ngân hàng Kirkenes, vì nó nằm đối diện với một khách sạn. Gởi tiền đi hôm trước, hôm sau tôi đáp xe đò đi Murmansk và thuê khách sạn đó, phòng có cửa sổ quay ra mặt đường. May mắn quá mong đợi, ngày rình chực thứ ba tôi đã thấy bóng Quỳnh Hương ra ngân hàng. Tôi không cần ngụy trang nhiều, chỉ cần cái quần soọc, cái mũ lưỡi trai, và cái máy Nikon là ra dáng một anh triệu phú Nhật Bổn rồi. Phải thêm cái kính mát to để che mặt. Vào ngân hàng tôi đứng xa xa, thấy Quỳnh Hương đang xếp hàng quay lưng lại, tôi cẩn thận không lộ diện, nhỡ có tên cô hồn nào đi kềm nàng không. Khi nàng lãnh tiền xong quay ra, tôi đau nhói tim thấy mặt nàng tiều tụy, và có vết bầm xanh. Một tên đàn ông mặt mũi bất lương ở đâu sán lại kè nàng, chưa ra khỏi cửa, nó đã giằng lấy tiền, chửi thề "Ð.M. có mấy đồng ranh mà nàm nhọc xác ông". Quỳnh Hương cúi đầu, không trả lời. Tôi lén theo dõi hai người, nhưng tới ngã tư thì họ lên một chiếc xe hơi do người thứ ba lái chạy mất tăm, tôi đón taxi không kịp. Tôi thất vọng trở về Na-Uy, viết thư làm bộ nói nhớ thương Natasja và mong gặp nàng, bóng gió cho biết sang Na-Uy sẽ dễ dàng mang tiền về hơn. Nàng sang thật. Vết bầm trên mặt đã biến mất, nhưng vẫn còn tiều tụy. Tôi đưa nàng thẳng vào một khách sạn đàng hoàng cho nàng nghỉ ngơi. Chúng tôi ăn ngay trong khách sạn. Nàng ngạc nhiên vô cùng khi tôi nói tôi biết hết trò giả mạo thư và làm tiền của bọn vô lại. Nhưng tôi thắc mắc: - Tại sao chúng biết cô có liên hệ với tôi? - Em vừa từ biên giới về, chúng nó lục lọi khám xét ngay, và tất nhiên thấy phong bì tiền của Anh cho, địa chỉ nằm đó. Chúng bắt em viết thư vòi tiền, em không làm, chúng đánh đập, bắt trở lại đứng đường. Em xin làm mọi việc trâu ngựa để hầu hạ cả bọn miễn đừng bắt em làm việc đó. Chúng chấp thuận nhưng vẫn giả mạo thư tống tiền Anh. Em xấu hổ quá. Tôi hỏi một câu mà định hỏi mấy lần nhưng chưa có dịp: - Cô sang Nga theo diện nào? - Nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh sử học. Tôi kinh ngạc: - Nhà Nước Việt Nam gởi đi? - Vâng. Tôi nhớ lại việc thông dịch, hỏi: - Sao cô không nói tiếng Nga, dễ kiếm người thông dịch ngay tại đây? - Em muốn giấu tông tích. Chẳng may... Tôi hơi phật ý về hai chữ "chẳng may", nhưng không tỏ ra, hỏi tiếp: - Cô... xong tiến sĩ chưa? - Thưa, rồi ạ. - Vậy cô chỉ việc trở về phục vụ đất nước. - Trễ rồi. - Sao vậy? Quỳnh Hương hít hơi thật sâu, như để đè nén cái gì, cuối cùng nói nhẫn nại: - Truyện dài lắm. Em chỉ vắn tắt thế này: Khi em đang chuẩn bị về nước, thì bố em bay sang nói bất cứ giá nào đừng về. - Tại sao vậy? Ở Việt Nam bây giờ thay đổi khá lắm, và bắt đầu đãi ngộ những người có trình độ. - Lợi dụng thì có, đãi ngộ không. Chúng tôi ra ban-công. Nắng đêm quyện vào gió bắc cực lùa vào mặt mát rượi. Tóc Quỳnh Hương thơm. Tôi hỏi: - Ngoài ra bố cô nêu lý do gì để khuyên cô đừng về nước? Nàng nhìn con hải âu đậu một mình trên cột đèn, đáp: - Là lý luận gia lâu năm của Ðảng, khi thấy bức tường Bá-Linh rạn nứt và thiên đàng Liên-Xô sắp bốc lửa, bố em dự kiến Ðảng cộng sản Việt Nam sẽ biến từ một tổ chức cách mạng thành một guồng máy tư bản. - Vậy càng tốt chứ sao? - Anh không hiểu đâu, cũng như em hồi đó không hiểu. Vì thế bố phải đích thân bay sang. Gặp bố em vừa mừng vừa ngạc nhiên hết sức, nhưng run sợ khi ông nói nước Việt Nam sẽ không còn là nơi dung thân của con người nữa. - Sao vậy? - Bố hỏi em "Chị xem - cái thiên đàng kiểu mẫu mà sắp sụp đổ nay mai, thì cái thiên đàng mô phỏng sẽ ra sao?" Em không trả lời, ông nói "Các ông ấy là những kiến trúc sư chuyên vẽ thiên đàng. Kiểu này đổ vẽ kiểu khác. Mà mỗi lần đổ, mỗi lần đổi kiểu là hàng vạn người chết vì cột kèo đè."... Bố em về, tự vẫn chết, để họ không còn gây sức ép với em được, trước khi bị cột kèo đè. Nghe đến đây, tôi lạnh toát xương sống, khô cổ họng. Cột đèn đằng trước, con hải âu đã bay đi, còn cái tay đèn đua ra, như chờ một sợi dây thòng lọng. Mãi lâu sau tôi mới thốt lên được câu gần như vô nghĩa: - Khủng khiếp quá! Quỳnh Hương mím môi để khỏi bật ra tiếng khóc, nhưng giọng ướt lệ: - Người ở ngoài không hiểu nổi sự khủng khiếp tới mức nào đâu. Người trong cuộc, đa số khi hiểu thì trễ quá rồi. Vai tôi chờ một mái đầu tựa vào. Nhưng tôi phải làm như tỉnh táo, hỏi: - Với cô, có quá trễ chưa? - Em không biết. Nhưng để em kể em đã sa xuống chỗ nào. Lúc đầu em may mắn trên con đường tị nạn. Ông giáo sư đỡ đầu cho em li dị vợ để cưới em. Anh đừng trách em. Vì ông ta li dị xong mới cho em biết đã có vợ và mới li dị. Ở Nga, li dị là chuyện cơm bữa, cũng như chuyện trai gái chung chạ. 30% các cặp vợ chồng li dị. Việc làm tình hổ lốn trở thành phổ thông là vì tình trạng ăn chung ở chạ, nhà cửa chật chội. Chồng em là một tên ghiền rượu, đánh đập em mãi, em vẫn chịu đựng được. Nhưng hai ba lần em bị anh họ chồng, em chồng, rồi cả bố chồng cưỡng hiếp, thì anh bảo sao em chịu được? Em phải ra đi, và sa vào tay Mafia. Tôi lại ớn lạnh. Không phải vì gió đêm. Mà vì nhớ chúng tôi đang ở gần biên giới. Tôi dìu Quỳnh Hương vào trong. Ðóng cửa sổ lại. Chúng tôi im lặng uống một thứ rượu kem gì đó khá ngon. Tôi quyết định ngày mai ra lãnh sự quán bí mật làm giấy bảo lãnh hẳn cho Quỳnh Hương sang Na-Uy. Ðiều làm tôi do dự là cái giấy hôn thú. Trước khi về phòng riêng, tôi đắp mền cho Quỳnh Hương như một đứa em gái và nói: - Ngủ ngon. Ðừng mộng mị gì cả, dù thiên đường. Quỳnh Hương sang chơi Na-Uy lần kế tiếp vào ngày lễ Sankthans, ngày dài nhất, đúng hơn, không có đêm. Nàng từ xe buýt Murmanskbước xuống, ăn mặc đơn giản, càng xinh đẹp hơn. Nàng tha thướt đi giữa những huân chương và mũ áo Hồng quân bên vệ đường, tàn tích của một thiên đường vừa đổ vỡ, diễm lệ như một nàng tiên, tôi đặt tên cho nàng là "Trích Tiên". Khi tôi nói ra, nàng cười tươi, chấp nhận. Từ đó cuối tuần nào nàng cũng qua. Thường tôi đưa nàng về căn chòi thuê của xã ở sườn núi trông ra biển, rất thơ mộng. Từ mùa thu không còn mặt trời giữa đêm nữa, nhưng rừng thu biến thành những tảng màu đỏ, vàng tuyệt diệu. Vài cánh buồm trắng nhẹ trôi trên mặt nước xanh lộng bóng núi. Ban đêm trời trong, trăng sao vằng vặc chiếu xuống vịnh bao la. Chúng tôi ngồi bên nhau ngoài hiên nói chuyện tới khi sương ngập thềm. Tôi gọi căn chòi này là "Ðộng Tiên", muốn vĩnh viễn ở lại không về trần gian. Nàng "trích tiên" thỉnh thoảng lại khóc làm tôi lo lắng. Nhưng nàng nói: - Xin lỗi Anh, em khóc chỉ vì quá hạnh phúc. Tôi uống những giọt hạnh phúc này từ mắt nàng, và nói: - Ðây là nước mắt hạnh phúc. Nhưng nước mắt đau khổ của Em, anh cũng xin uống. Chúng tôi chỉ ước có phép mầu cho thời gian và không gian ngừng ở đây. Lạ lùng là những lúc tôi gần gũi Quỳnh Hương trên chòi nghỉ mát, tôi chỉ say sưa nhìn ngắm, lắng nghe, ngửi hương nàng, không xàm xỡ. Tôi sống sự hiện diện nàng. Sự sống nồng nàn, ngây ngất mà thanh khiết. Tạo hóa đã khắc cho nàng một chân dung kỳ diệu - từng nét thì đối chỏi mà toàn thể thì hài hòa. Các nhà giải phẫu thẩm mỹ không bao giờ làm được như vậy. Chỉ có Nhà Ðiêu khắc tối cao, thừa thương yêu và tinh quái mới nắn nên khuôn mặt và thân thể Quỳnh Hương - để tặng riêng tôi, cho riêng mỹ cảm mà Ngài tạo cho tôi. Và Ngài gởi tặng phẩm tới cho tôi qua con đường sầu thảm quá. Con đường các phép lạ thường đi. Khốn nạn thân tôi (tiếng Bắc của Quỳnh Hương), nỗi đam mê lành thánh kia, tôi chỉ giữ được khi có sự hiện diện của nàng. Khi nàng qua lãnh thổ Nga, tôi trở về trại Banak, thì xác thịt tôi giằn vặt, réo gọi. Tôi quằn quại trong giường lính độc thân, thèm khát thân hình nuột nà cô gái giang hồ Natasja. Xác thịt tôi trách móc tôi đã dại dột bỏ qua cơ hội nọ, cơ hội kia trên Ðộng Tiên. Cho tới khi tôi ngủ thiếp đi. Có vài lần trong mơ... Nhưng thường trong mơ tôi thấy nàng Trích Tiên mặc áo dài trắng tinh khiết trổi lên từ giòng nước trong xanh vẫy gọi tôi. Phải chờ tới buổi sáng, khi mặt trời mọc, rọi sáng vào những góc tăm tối trong tâm hồn, tôi mới thực tỉnh táo, và hãnh diện cuối tuần trước đã giữ mình đứng ngoài cái giòng đục lềnh bềnh những xác bố chồng, xác anh, xác em chồng nàng, và những thiên đường mà nàng đang vùng vẫy thoát ra. Ðúng hơn, chúng đẩy nàng ra như một vật lạ trong cơ thể. Chỉ có một lần tôi táo bạo, lần đi thăm Nordkapp. Nordkapp hay "Mũi Bắc" nằm trên vĩ độ cao nhất nước, có lẽ là kỳ quan Na-Uy thu hút nhiều du khách nhất. Mỗi năm, hàng vạn người từ khắp thế giới, nhất là Nhật, Ðức, Mỹ mua vé máy bay lên đây, chỉ để coi mặt trời đêm. Lúc tôi đưa Quỳnh Hương đi thăm Mũi Bắc, trời đã sang đông, không còn du khách nào nữa, cũng không còn mặt trời đêm. Tôi nắm tay Quỳnh Hương đứng trên ghềnh đá vách dựng đứng. Nước biển vẫn thăm thẳm. Gió lạnh buốt. Nhưng chúng tôi càng thích thú. Bỗng nhiên, mây trên trời biến thành màu xanh như lân tinh, và quay tít như đèn kéo quân, hào quang lấp lánh rực rỡ, những luồng điện nổ tí tách trong mây như hàng ngàn tràng pháo chuột ngày Tết. Quỳnh Hương kinh sợ nhưng lại reo vui vì có tôi bên cạnh. Tôi giải thích: - Ðó là nordlys (bắc quang). Hiện tượng huy hoàng này không phải lúc nào cũng xảy ra. Hôm nay nó xảy ra đúng lúc em tới đây. Ðó là dấu hiệu Trời cũng muốn chào đón em đó. Quỳnh Hương tựa lưng vào ngực tôi. Giọng nàng mật ngọt: - Còn anh, anh cho em dấu hiệu gì? Cầm lòng chẳng đậu, tôi xoay người nàng lại, và hôn vào đôi môi nồng nàn. Ðó là lần đầu tôi hôn một người con gái. Trên mỏm đá lịch sử Nordkapp, dưới ánh bắc quang. Chỉ còn một tháng nữa là Tết ta. Thu An gọi điện thoại nhắc thế nào tôi cũng phải xin về phép cho kịp ngày cúng Giao Thừa. Thay vì nói trong điện thoại, sợ không đủ mạch lạc và không đối đáp được con em lí lắt, tôi viết cho nó một thư dài 6 trang trình bày ý định mời Quỳnh Hương về Oslo ăn Tết. Tất nhiên trong thư tôi dấu một số chi tiết về thảm cảnh của Quỳnh Hương, nhưng tên "Trích Tiên" thì không thể không khoe. May quá con bé chấp thuận liền, còn hào hứng chuẩn bị đón "chị dâu". Tôi nói tuyệt đối nó không được... lạc quan. Gia đình chúng tôi đã nhận bao nhiêu tai họa bất ngờ, đúng trong những lúc tưởng là hạnh phước nhất. Tết Mậu Thân, ông Nội đang công tác ngoài Huế bị cộng sản Bắc Việt bắt đi chôn sống, đúng lúc ông được điện tín về mà coi mặt và đặt tên cho cháu đích tôn là tôi; bà Nội đi bốc xác ông, về phát điên rồi mất. Năm 75 con Thu An vừa sanh ra, để trong cái biệt thự thơ mộng Ba Má mới mua ở Chí Hòa mấy năm sau "có một tiểu thư ra vào", thì cộng sản tràn vào "giải phóng"; ba đi tù,m bị sa thải. Ba trốn học tập về, đúng lúc má đặt được chỗ vượt biên chính thức, tưởng vĩnh viễn thoát khỏi cái thế giới điêu ngoa, hận thù, gian manh, thì tầu do tỉnh ủy Ðồng Nai đóng bị vỡ, ba má chết đuối. Từ đó, cứ thấy bóng dáng hạnh phúc là tôi giật mình. Lần này, với Quỳnh Hương, tôi lại lăn xả vào, không phải như con thiêu thân nhào vào lửa nhan sắc, mà như muối gặp biển mặn. Nàng là hiện thân của tôi - phần nước mắt, và cả gia đình, dân tộc tôi, phần ước mơ và bất hạnh. Tôi đón nhận hết. Một lần, trong Trích Tiên. Tôi thu xếp cho Quỳnh Hương sang đúng dịp tôi và Thu An nghỉ phép mùa đông. Và để tránh mọi dị nghị, tôi trình bày nội vụ với ông thiếu tá, và nhờ ông trình ông đại tá luôn. Ông dễ thương tặng Quỳnh Hương cái vé máy bay. Thu An bày đặt mang hoa ra phi trường Fornebu đón khách. Vừa giáp mặt Quỳnh Hương, nó đã reo ầm lên: - Eo ơi! Chị Quỳnh Hương đẹp dễ sợ. Quỳnh Hương bật cười vì những từ ngữ kỳ cục của con bé, cảm động nhận hoa. Tôi giới thiệu với khách: - Ðây là đứa em gái thua tôi tới sáu tuổi, nhưng từ ngày chúng tôi mồ côi, nó nhảy tót lên ngôi chị hai, "kềm kẹp" tôi từ miếng cơm tới manh áo. Thu An cong cớn: - Từ nay em không thèm kềm kẹp nữa, em sắp bàn giao chủ quyền Trường Sa cho người khác. Quỳnh Hương chỉ biết đỏ mặt. Tôi huých Thu An một cái làm nó chạy giạt sang bên kia, núp bóng Quỳnh Hương. - Ê ê! Từ nay có chị Quỳnh Hương che chở, anh Hai không được ăn hiếp em nữa. Thu An vừa lái xe vừa giới thiệu thành phố cho khách. Chị em nói chuyện líu lo. Tôi ngồi băng sau, nhắm mắt nghe giọng Hà Nội và giọng Sài Gòn quấn quít. Quỳnh Hương như thơ trẻ lại. Tôi ngả người tận hưởng hạnh phúc của một gia đình, lần đầu tiên sau 15 năm cô độc, lạc lõng nơi xứ người. Ðêm giao thừa, cúng vái, ăn cơm xong, Quỳnh Hương dọn trà mứt, Thu An bưng ra một cái bánh bông bơ, thắp 30 ngọn nến. Quỳnh Hương trầm trồ: - Người Việt tại Na-Uy có tục lệ riêng để đón xuân? Ðẹp quá! Thu An trả lời: - Không phải đâu, chị. Năm nào chúng em cũng ăn Tết, đồng thời mừng ngày sanh anh Hai. Nhưng năm nay đặc biệt hơn, vì năm nay anh Hai "tam thập nhi lập". Quỳnh Hương hiểu ngay: - Thế tức là anh sinh năm 1968? Tôi nói: - Ðúng, năm Mậu Thân. Thu An hớt: - Vì thế ba má mới đặt tên ảnh là Thân. Ba Má nói "Thân" đây có hai nghĩa là "yêu mến", "thân thiện" chứ không phải "con khỉ". Nhưng em thấy ảnh "mậu thân" với em lắm. Từ nay ảnh "mậu thân" là ảnh chết. Quỳnh Hương cười ngặt nghẹo. Chưa bao giờ nàng cười nhiều như vậy. Tôi nói: - Năm đó con khỉ con này chưa sinh ra, sao bây giờ khoọc khẹc dữ vậy? - Chính anh Hai nghe lóm ba má kể rồi khoe với em hết chứ bộ. Cũng như anh, năm Mậu Thân đâu có biết gì về chuyện ông bà Nội, bây giờ cũng kể vanh vách. - Chuyện gì vậy? Quỳnh Hương hỏi. Tôi chần chờ. Thu An lần lượt kể về những thảm cảnh gia đình. Thảm cảnh nào nó không trực tiếp trải qua, nó kể lể rành mạch như chuyện cổ tích; đến thảm cảnh ba bị công an vào nhà còng tay ba lần thứ hai, cảnh đắm tầu thì nó kể lộn xộn như cơn ác mộng. Cuối cùng tôi kết luận một câu mà trong những dịp thiêng liêng thường nói với em gái, như bổn phận nhắc lại một gia qui đơn giản, Quỳnh Hương là người dưng đầu tiên nghe: - “Ba Má chỉ dạy chúng tôi một điều: lòng trắc ẩn”. Một làn khói hương từ trên bàn thờ bay là đà xuống đầu Quỳnh Hương. Nàng lên tiếng: - Hai Bác thật là nhân hậu, từ những khủng khiếp của năm Mậu Thân và bao năm sau đó, chỉ rút ra chữ "Thân" đặt tên cho con trai và hai chữ "Trắc ẩn" khắc trong lòng hai con. Không muốn hai người con gái thấy ngấn nước trong mắt tôi, tôi bèn đứng lên thắp thêm nhang trên bàn thờ ông bà. Nghĩ tới "Trích Tiên" và mấy chục triệu người đáng thương xót ở ngàn dậm xa, tôi khấn thầm: "Lạy Trời Phật! Hai chữ trắc ẩn Ba Má khắc trong lòng chúng con, cũng là lẽ sống bàng bạc trong lòng Trời Ðất. Xin Trời Ðất nhỏ xuống lòng mọi người ở bên kia một giọt trắc ẩn. Riêng tình yêu của con dành cho Quỳnh Hương, đã khởi đầu do lòng trắc ẩn, nhưng bây giờ kết thúc là tình yêu. Xin Trời Phật, Ba Má chứng kiến và chúc phúc cho chúng con". Im lặng một lúc, Thu An hỏi: - Anh Hai vừa ăn mảnh, lén xin Ba Má thêm cái gì, phải không? Tôi nửa đùa nửa thật: - Anh không xin xỏ gì cả, chỉ hỏi ý kiến thôi. Ba tháng nữa anh Hai hết thời hạn quân dịch, và có quyền bảo lãnh một người ngoại quốc sang Na-Uy. Anh hỏi Ba Má muốn con dâu là một người trần hay tiên. Quỳnh Hương mắc cỡ gục mặt xuống, trong khi Thu An nhảy lại ôm vai nàng, reo: - Em thay mặt Ba Má trả lời: Tiên. Trích Tiên! Nhưng còn Quỳnh Hương, nàng có ưng thuận vào trong cái mà tôi cho là "thiên đường" của chúng tôi không? Một con người suốt đời bị số phận đẩy đưa và người khác định đoạt, lần này quyết định phải thuộc quyền nàng. Vì thế lúc bạn đọc tới giòng này, tôi vẫn đang ở trong giây phút thiên thu chờ đợi nàng trả lời.
|
|