|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 17:54:43 GMT 9
Khổng Tử 1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử. Gần đây, học giả Hạ Tăng Hựu có viết : " Các sách của Chư Tử, ở nước Trung Hoa, từ xưa cho đến nay là những thiên chính luận rất tinh vi, rất thâm thuý về phương diện triết học, về phương diện văn chương. Đó là những áng văn rất đẹp, cho đến trăm đời sau, nghiên cứu cũng không sao cùng tận được. (Xem trong quyển Trung Quốc sử). Thế nên một số học giả cho rằng Chư Tử là những cổ thư cần đọc, vì Chư Tử có thể đứng ngang hàng với Kinh và Sử. Mạnh Tử có nói : " Đọc thi, thơ là muốn biết người ấy như thế nào, luận đời người ấy như thế nào... Đọc những cuốn sách của Chư Tử là cũng muốn biết những người ấy, luận đời ấy... Chư Tử viết sách, lập học thuyết là muốn cải tiến chế độ, cứu đời. Như thế thì tư tưởng học thuyết của những người ấy rất có quan hệ với hoàn cảnh, xã hội đương thời, thế nên trước hết phải biết những người ấy, luận đến đời ấy rồi sau đó mới đọc những sách của người ấy. Sách Hàn Chí ghi các tác phẩm của Chư Tử rất nhiều, có những loại rõ ràng là do người đời sau viết mà ghi là của cổ nhân, như các loại sách của Thần Nông, Hoàng Đế chẳng hạn, có những loại của người đời sau ghi chép của người đời trước đề tên như sách của Quản Tử, Án Tử, có những loại sách đã mất mát, không thể tìm đâu để làm bằng chứng được, như các loại sách của phái Âm dương và Tiểu thuyết. Cũng có loại sách ghi tên người này người nọ, nhưng thật ra là của môn khách viết, như các loại sách Lữ Lãm, Hoài Nam v.v... Có loại sách đã mất rồi lại xuất hiện, đó là loại giả, như dưới thời nhà Minh có loại Mạnh Tử ngoại thơ chẳng hạn. Trong phần lược khảo về thân thế của Chư Tử nầy, chúng tôi dùng những tài liệu có thể minh chứng được, hoặc có những chỗ mơ hồ, nhưng cũng căn cứ vào những tài liệu có thể tin được, những tài liệu nào không đáng tin thì bỏ, đó là điều cần thiết khi tìm hiểu các nhân vật thời xưa... Chúng tôi cố gắng tránh những lỗi lầm thấy đâu chép đó, hay là nhận định một cách võ đoán. Chỗ nào chưa biết rõ, thì cứ để là chưa hiểu, thế nên thà là sơ lược mà còn hơn là dài dòng để phạm những sai lầm thất thiệt. Cổ sử là tài liệu duy nhứt có thể căn cứ vào đó để tìm hiểu thân thế Chư Tử một cách đáng tin cậy. Trong phần nầy, khi tìm hiểu thân thế Chư Tử, về phần các nhân vật trọng yếu thì theo sách Sử Ký, thêm vào đó những tài liệu có thể chứng minh được, nếu những nhân vật nào đó không có chép trong Sử Ký, thì sưu tập trong các sách khác có thể tin được, rồi tóm lại, có khi một nhân vật chép thành một chương, có khi một chương lại gom nhiều nhân vật, tuỳ theo sự quan trọng của mỗi nhân vật trong môn phái. 1. - Thân thế Khổng Tử Phần trên đã nói, thời ấy đệ tử gọi thầy là " tử " và bắt đầu từ thời Khổng Tử. Đệ tử ghi chép lời thầy thành sách, và lập nên việc sáng tác của tư nhân cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ, thế nên trong Chư Tử, Khổng Tử được kể là nhân vật thứ nhứt, và sách của Chư Tử pho Luận Ngữ được kể là pho sách thứ nhứt. Từ thời Khổng Tử trở về trước, chỉ có quan học mà không có thầy tư nhân, chỉ có quan thơ mà không có sách do tư nhân sáng tác. Khổng Tử đã mở phong trào tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác, chẳng những đã thành tôn sư của Nho gia, mà còn là người mở đầu cho Chư Tử, mở một kỷ nguyên mới về giáo dục và học thuật cho nước Trung Hoa, trở thành một học giả không tiền trong lịch sử, cho nên trong phần nầy, kể ông là nhân vật đầu tiên, đứng trước tất cả Chư Tử. Khổng Tử đã từng tham chánh ở nước Lỗ, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn rồi đi châu du các nước, bất đắc chí với chư hầu sau cùng trở về nước Lỗ, sống trong cảnh áo vải cho đến già. Thế nên lúc đó ông liên hệ rất ít đến chánh trị, nhưng lại dạy học, viết sách. Nhờ đó mà mở đường cho Chư Tử sau nầy...cho nên ảnh hưởng của ông rất lớn đối với nền giáo dục, học thuật của đời sau. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết Nho gia rất thạnh ở thời kỳ đầu thời Chiến quốc, đầu đời Hán Cao Tổ, Khổng Tử rất được sùng bái, và cũng bắt đầu từ thời ấy, Khổng Tử được các bậc Đế Vương sùng bái. Sau đó Văn đế lại thích Hoàng Lão, Cảnh đế thích Hình, Danh gia, ít khi tôn sùng Nho gia, cho đến đời Võ đế, Khổng Tử mới được đặc biệt sùng thượng và cũng từ đó Nho gia được độc tôn. Từ đó trở đi, trải qua các đời như Đường Huyền Tôn, truy phong Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, Tống Chơn Tôn truy phong thêm là Nguyên Thánh Văn Tuyên Vương rồi Đại thành chí Thánh Văn Tuyên Vương, Văn miếu được thiết lập khắp các nơi trong nước, lễ tế rất long trọng, cho đến đời Minh, Thanh vẫn không suy giảm. Các học giả, bất câu dưới thời Hán, Tống, vô luận cổ văn hay kim văn, dù là Trình Chu hay là Lục, Vương cũng đều xem Khổng Tử như là khai tổ. Đầu năm Trung Hoa Dân Quốc, Viên Thế Khải dùng chánh sách tôn Khổng Tử và Khang Hữu Vi muốn dùng Khổng giáo làm quốc giáo. Cho đến lúc chế độ vua quan suy vi, các học giả cho rằng Khổng Tử là người bảo vệ cho chế độ chuyên chế nên nổi lên phản đối. Bình tâm phê phán, đối với bản thân của Khổng Tử, thì đó là một nhân vật đáng tôn kính vì thế mà trải qua nhiều đời, ông được sùng thượng, còn học thuyết của ông có được tôn sùng mãi mãi không đó là một vấn đề khác. Tư Mã Đàm khi bình luận 6 học phái, rất đặc biệt sùng thượng " Đạo đức ", Tư Mã Thiên viết sử ký thì độc tôn Khổng Tử, có lẽ vì thời đại của hai cha con có khác nhau, vì phong trào mỗi lúc nên mới có sự khác biệt, mỗi người có mỗi tư tưởng riêng không thể cưỡng ép cho đồng được. Sách Sử Ký sắp xếp thiên Bổn Kỷ chuyên ghi các vì Đế Vương, Thế gia thì ghi chư hầu, Liệt truyện thì các nhân vật khác. Khổng Tử là dân áo vải nhưng lại được đặc biệt đứng vào hàng thế gia, là cố ý muốn suy tôn. Vương An Thạch trong thiên Khổng Tử Thế gia nghị đã phê phán " Tự làm loại cái lệ, tới lui mất chỗ đứng ". Vương Ứng Lân trong sách Khổng học ký văn, dẫn lời của Lý thị viết " Muốn tôn Đại Thánh Nhơn mà trái lại làm cho thấp ". Xét ra, việc viết sử, bắt đầu từ quyển Sử Ký, xét kỹ theo lệ, lấy thiên Bổn Kỷ làm giềng mối cho toàn quyển sách để biểu thị trung tâm chánh trị đương thời ở chỗ nào, cho nên không chỉ hạn nơi việc ghi các vị Đế vương mà thôi. Như dưới thời Chiến quốc, Tần chưa thống nhứt, Hạng vương chưa là thiên tử, mà trên thực tế, lúc đó đã thành trung tâm chánh trị cho nên lập Hạng Võ Bản Kỷ (có kẻ cho rằng, Thái Sử Công lập Hạng Võ Bản Kỷ là tôn Hạng Võ, truất Lưu Bang, đó là chỉ là ức thuyết, gần đây lại có người cho rằng Thái Sử Công muốn tôn cuộc cách mạng của bình dân, lại càng không đúng). Khổng Tử không phải là người trung tâm chánh trị của lúc cuối thời Xuân Thu, cho nên không lập Bản Kỷ cho ông... Chư hầu gọi là thế gia, là tử tôn thế tập (cha truyền con nối). Trong đoạn chót của Khổng Tư thế gia, có ghi con cháu của Khổng Tử truyền được học thuyết của ông một cách rõ ràng. Chẳng những con cháu của Khổng Tử, mà các Nho gia hậu học, từ Nhan, Tăng, Du, Hạ và các môn đệ khác, đến Mạnh Tử, Tuân Tử và chư nho dưới thời Tây Hán đa số đều noi theo Khổng Tử. Cho đến Mặc Tử, Trang Tử, mặc dầu học thuyết của những người nầy trái ngược hẳn với Khổng Tử, nhưng xét cho kỹ, cũng thừa hưởng được của Khổng Tử mà dựng nên học thuyết của mình. Con cháu của chư hầu thế tập chức vị, đất đai mà được phú quí, còn con cháu của Khổng Tử cùng các môn đệ đời đời truyền học thuyết của ông, đời đời giữ những lời nói của bậc tôn sư, lấy học thuyết làm vinh cho gia đình, như thế là cũng không khác gì con cháu chư hầu được thế tập chức tước, điền thổ, đúng như lời nhà học giả Vương Minh Thạnh đã nói " suy tôn rất đúng, châm chước rất hay ". KHỔNG TỬ Trích trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (trang 161 quyển Thượng). (Theo Grand Larousse Encyclopédique) Thân thế Khổng Tử. Phần nầy chúng tôi xin chép lại thiên Khổng Tử thế gia khảo trong sách Sử Ký, thêm phần chú thích cho bạn đọc dễ nhận xét. Vì trong Sử Ký có những đoạn người đời sau thêm vào hay chép những câu sắp lầm lẫn nên chúng tôi đóng dấu ngoặc cho bạn đọc dễ nhận. Khổng Tử sanh ở nước Lỗ, làng Xương Bình, ấp Trâu. (Ấp Trâu, tức nay là Trâu thành về phía Đông Nam, tỉnh Sơn Đông, huyện Khúc Phụ. Xương Bình sơn hiện nay ở phía Đông Nam, cách huyện Khúc Phụ 15 dặm. Khổng Tử sanh ở ấp Trâu lớn lên dời đến ở xóm Khuyết Lý trong thành Khúc Phụ). Trước tiên, ông là người nước Tống, trước hết Khổng Phòng Thúc hạ sanh Bá Hạ, Bá Hạ sanh Thúc Lương Ngột. (Ngày sanh của Khổng Tử là ngày 27 tháng 8 theo ngày tháng của âm lịch ; Ngày ấy cũng là ngày Tết của các thầy giáo Trung Hoa vì Khổng Tử là người đầu tiên dạy học tư nhơn.) Lúc còn nhỏ Khổng Tử rất thích chơi đùa, thường bày cái trở, cái đậu, y như là cúng kiến... Rồi mẹ Khổng Tử chết, người đất Trâu chỉ chỗ mộ phụ thân ông, ông liền đem mẹ đến hợp táng ở đất Phòng. Đất Phòng ở tại phía Đông nước Lỗ. Quí thị mời kẻ sĩ, Khổng Tử đến, Dương Hổ chê, bảo " Quí thị mời kẻ sĩ nhưng không dám mời nhà ngươi đâu ! "Vì thế Khổng Tử lui. Lúc đó, Khổng Tử mới 17 tuổi. (Lúc đó Khổng Tử chỉ mới 17 tuổi, chưa có thanh danh cho nên bị Dương Hổ chê). Giả Đạt cho rằng lúc đó Khổng Tử đã 35 tuổi là sai lầm. Lỗ đại phu là Mạnh Ly Tử, bịnh gần chết, dặn con là Ý Tử : " Khổng Khâu là hậu duệ của Thánh nhơn, bị diệt ở nước Tống, Tổ phụ ông là Phất Phủ Hà là dòng dõi nước Tống, mà nhường cho Lệ Công, cho đến đời phụ thân ông ấy, phụ giúp cho Đới, Võ và Tuyên Công, giúp cả 3 đời mà vẫn luôn luôn cung kính ". Ta nghe con cháu của Thánh nhơn, tuy chẳng có tiếng đời nay, nhưng thế nào cũng có ngày đạt, bây giờ Khổng Tử tuy còn nhỏ mà ham lễ, thì thế nào người ấy cũng đạt, nếu ta chết, con phải thờ người ấy làm thầy. Khi Ly Tử chết, Ý Tử và người nước Lỗ tên Nam cung Kỉnh Thúc, đến học lễ với Khổng Tử. Năm ấy, Quí Võ Tử mất, Bình Tử lên thế vị. * Khổng Tử nghèo và hèn, đến khi lớn thường làm Ủy lại, đong lường đầy đủ, làm tư chức lại thì gia súc no đủ... Rồi từ đó làm chức Tư Không. Rồi ông rời nước Lỗ, ở nước Tề không được ông lại ra đi, ông lại rời nước Tống, Vệ, rồi lại bị khổn ở giữa hai nước Trần, Thái... vì thế ông trở về Lỗ. Khổng Tử cao 9 thước 6 tấc, người đều cho ông là người cao lớn và cho là lạ. (Nước Lỗ tiếp đãi tử tế, ông mới trở về Lỗ.) Chức Ủy lại là coi giữ kho, cho nên mới nói đong lường đủ và sổ sách đàng hoàng. Làm Tư lại, tức là xem việc nuôi trâu, dê để cúng tế. Đoạn văn trên có chỗ lầm lẫn : " Mấy chữ : rồi từ đó làm chức Tư không phải để phía sau đoạn : ông mới trở về nước Lỗ ". Ông Khổng Tử lúc 20 tuổi, mới bắt đầu ra làm quan ở nước Lỗ, với chức Ủy lại, năm 21 tuổi làm Thừa điền. Họ Khổng, khi ở nước Tống, thuộc dòng quí tộc, khi chạy sang nước Lỗ, trở thành bình dân, từ lúc nhỏ, ông đã mồ côi cha, cho nên nghèo hèn, cho nên khi lớn lên, vì nghèo mà phải đi làm quan với chức Ủy lại, Tư chức lại. Mạnh Tử đã gọi " bực thứ nhơn đi làm quan " là như thế. Nam cung Kỉnh Thúc tâu với vua Lỗ " xin cho Khổng Tử đi qua nhà Châu. Vua Lỗ liền cho một chiếc xe 2 ngựa. Đến nhà Châu, Khổng Tử ra mắt Lão Tử. Đến lúc ra về, Lão Tử đưa mà bảo rằng : " Tôi nghe kẻ giàu sang đưa người dùng tiền của, người nhơn đưa tiễn người thì bằng lời nói... " Tôi không giàu sang, lạm dụng mình là người nhơn, đưa ông có mấy lời : " Thông minh, xét nét kỹ thì gần với cái chết...vì ưa bàn luận người khác, biện bác rộng rãi thì nguy đến thân mình, vì nêu lên cái dở của người...kẻ làm người không nên nghĩ đến mình, làm tôi người, thì cũng không nên nghĩ về mình. " Khổng Tử từ nhà Châu trở về nước Lỗ, học trò lại càng tiến thêm. [Chuyện Khổng Tử qua nhà Châu ra mắt Lão Tử, thấy có chép trong quyển Lão Trang Thân Hàn truyện và Gia Ngữ Quan Châu giải.] Trong thiên Thiên đạo, sách Trang Tử có viết : Khổng Tử muốn qua phương Tây, xem sách ở nhà Châu. Tử Lộ thưa : " Lộ nầy nghe nhà Châu có người giữ kho sách là Lão Đam, thôi làm quan, về nhà ở ẩn...thầy muốn xem sách thì hãy đến thử xem ". Khổng Tử đáp : " Hay lắm ". Liền qua ra mắt Lão Đam mà Lão Đam không cho. Trong sách Lão Tử truyện có viết : Lão Tử là người nước Sở, nếu đã bãi chức thì về quê ở Sở, đâu còn làm quan giữ kho sách ở nhà Châu. Cũng có người cho rằng, Khổng Tử đến gặp Lão Đam, nhờ giới thiệu đến xem sách, nhưng Lão Đam không đồng ý. Như thế thì Khổng Tử chỉ có mục đích đi xem sách, chớ không phải đi gặp Lão Tử. Trong sách Sử Ký có ghi rõ rằng : Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, và ra mắt Lão Đam, khác hẳn với lời nói trong sách Trang Tử. Trang Tử thuộc phái Đạo gia, giả sử như Khổng Tử có đến tìm Lão Tử để hỏi về việc Lễ, tất nhiên là Trang Tử phải ghi rõ ràng, đó là chỗ còn nghi ngờ. Hơn nữa, giọng nói của Lão Tử rất đáng nghi ngờ, có lẽ do người đời sau (thuộc phái Đạo gia) thêm vào để đề cao Lão Tử. Về việc Khổng Tử đến nhà Châu vào lúc mấy tuổi thì chưa có tài liệu nào dám tin được, có sách ghi lúc đó ông mới 17 tuổi. Khổng Tử là người ham học, có lẽ lúc đó ông đã học được rất nhiều sách rồi mà vẫn còn chưa cho là đủ, nên muốn đi thật xa, đến nhà Đông Châu, để xem kho sách của vua, chúa. Việc ấy xảy ra năm nào thật khó xác định, đành chịu khuyết nghi. Nhưng theo sự ước đoán thì lúc ấy ông đã gắng công học tập được một thời gian khá lâu, có lẽ vào lúc tuổi " tam thập nhị lập ". Khi xem sách xong trở về, ông càng tiến bộ hơn, đệ tử đến nhiều hơn, có nhiều thanh danh hơn trước nên được nước Lỗ dùng. Lúc ấy, ở nước Tấn (vua Bình Công dâm) quan Lục Khanh chuyên quyền, phía Đông đánh các chư hầu. Vua Sở (Linh vương) binh mạnh lấn lướt trung ương. Nước Tề lớn mà gần Lỗ, nước Lỗ nhỏ yếu, nếu theo Sở thì Tấn giận, còn theo Tấn thì Sở đến đánh, nếu không đề phòng Tề, thì Tề cũng xâm Lỗ. Năm Lỗ Chiêu Công thứ 20, lúc đó Khổng Tử được 30 tuổi. Tề Cảnh Công và Án Anh đến nước Lỗ, Cảnh Công hỏi Khổng Tử : " Ngày xưa Tần Mục Công nước nhỏ, ở nơi hẻo lánh, mà nên nghiệp bá tại sao vậy ? " Khổng Tử đáp : " Nước Tần tuy nhỏ, nhưng chí lớn, ở chỗ tuy hẻo lánh, nhưng việc làm ngay thẳng, biết dùng người hiền tài, như vậy có thể làm đến bực đế vương, chỉ mới làm nên nghiệp bá là còn nhỏ vậy ". (Theo sách Tề thế gia ký thì Cảnh Công với Án Tử đi săn gần biên giới nước Lỗ, nhơn đó vào nước Lỗ luôn, liền hỏi " lễ " với Khổng Tử. Trong sách Xuân Thu không thấy có ghi chép chuyện nầy, hơn nữa lúc đó Khổng Tử ở nước Lỗ chưa có tiếng tăm gì, làm sao vua nước láng giềng đến hỏi lễ được. Có lẽ người đời sau muốn suy tôn Khổng Tử nên mới bày ra chuyện nầy.) Khổng Tử 35 tuổi, Quí Bình Tử và Hậu Chiêu Bá vì đá gà chọi mà đắc tội với Lỗ Chiêu Công. Chiêu Công đem binh đánh Bình Tử, Bình Tử hợp với Mạnh tôn thị, Thúc tôn thị, 3 nhà hợp công Chiêu Công. Binh Chiêu Công bại, chạy sang nước Tề (Tề đưa Chiêu Công ở Can hậu). (Chuyện nầy thấy có ghi rõ trong Tả truyện. Can hậu hiện nay là An thành huyện, tỉnh Hà Bắc.) Nước Lỗ loạn, Khổng Tử qua Tề (gia thần Cao Chiêu Tử muốn cho Cảnh Công hay) cùng với Thái sư nước Tề bàn về nhạc, nghe nhạc Thiều, rồi học 3 tháng mà không hề biết vị thịt, người nước Tề rất khen. Cảnh Công hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con ". Cảnh Công khen : " Hay lắm ! Như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, con chẳng ra con, tuy có lúa, ta có thể ăn được không ? " Ngày khác, lại hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử đáp : " Việc chánh ở chỗ tiết kiệm tài vật " Cảnh Công nói... (Muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, Án Anh đến tâu : " Vả bọn nho là người khéo léo mà không làm theo đúng phép, kiêu ngạo mà hay thuận theo người. Không thể cho làm người giúp việc được...sùng thương tang lễ, cứ bi ai phá sản để lo việc tống táng cho trọng hậu, không thể lấy đó làm phong tục được, đi du thuyết kiếm lợi, không thể theo đó trị nước. Từ khi bậc đại hiền hết, nhà Châu đã suy, Lễ Nhạc thiếu sót, bây giờ Khổng Tử lại muốn trau tria thêm, làm lễ phiền phức trọn đời không thể tìm cái học của ông ta, nếu bây giờ không thể tìm cái Lễ đó, mà lại muốn dùng để thay đổi phong thái của Tề thì chẳng phải là việc giúp cho dân vậy. Sau đó Cảnh Công cung kính gặp Khổng Tử mà không hỏi Lễ, ngày khác ngăn Khổng Tử mà bảo rằng : Đãi ông như họ Quí, thì tôi không thể làm được, nên chỉ đãi giữa chừng của hai họ Quí, Mạnh mà thôi. Đại phu nước Tề muốn hại Khổng Tử, Khổng Tử nghe được chuyện đó. Cảnh Công nói : " Tôi đã già rồi, không dùng được gì những lời của ông cả ".) Khổng Tử liền trở về nước Lỗ. (Đoạn văn đóng trong 2 dấu ngoặc là chỗ có nghi vấn. Về chuyện Cảnh Công muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, không thấy chép trong sách Luận Ngữ.) Pho Sách ẩn có viết : Thuyết nầy xuất phát từ các sách " Án Tử xuân thu và Mặc Tử, văn thấy hơi lạ ". Mấy học giả đời sau như Kim Lý Tường và Thôi Thuật đều cho rằng không thể tin được. Thiên Bát dật trong pho Luận Ngữ ghi lời Khổng Tử : " Án Bình Trọng rất khó cư xử với người, ở lâu mà cung kính ". Án Tử ngăn Khổng Tử không phải là sự thật. Trong sách " Thù Tứ khảo tín lục " có chép : Lúc Lỗ Chiêu Công chạy qua nước Tề thì Án Tử đã làm quan ở đó 40 năm rồi, năm sau đó có luận về Tuệ tinh (sao chổi) trong sách Tả truyện có ghi, rồi sau đó không thấy nhắc gì đến chuyện Án Anh nữa. Lúc Khổng Tử đến nước Tề, có lẽ Án Anh đã qua đời. Mạnh Tử có nói : Khổng Tử qua nước Tề, không kịp chắt nước cơm mà đi, nhưng tại sao ra đi thì không có chứng cớ gì để tìm hiểu cho ra sự thật).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 17:57:26 GMT 9
Khổng Tử 42 tuổi, Chiêu Công mất ở Can hậu, Định Công lên ngôi.
Mùa hạ, năm Định Công thứ 5 Quí Bình Tử mất, Hoàn Tử kế vị (Quí Hoàn Tử đào giếng, gặp hố đất, ở trong có con như dê, hỏi Trọng Ni, nói đó là chó, Trọng Ni nói : " Theo chỗ tôi nghe, đó là dê. "
Khâu nghe nói rằng : Loài quái của cây đá có : Đâu, vọng, lượng, loài quái của nước có : Long, võng, tượng. Loài quái của đất là phần dương.
Nước Ngô đánh nước Việt, được xương cốt cả xe, Ngô sai sứ đến hỏi Trọng Ni : " Xương của ai mà lớn vậy ? "
Trọng Ni đáp : " Vua Võ hội quần thần ở Cối Kê sơn, họ Phòng phong đến trễ, vua Võ giết trị tội, xương cốt chở đầy xe, vì thế xương mới lớn. "
Khách nước Ngô hỏi : " Ai làm thần ? "
Trọng Ni đáp : " Thần núi, sông, đủ làm kỷ cương cho thiên hạ..giữ đó là thần, xã tắc là chư hầu đều thuộc vua... "
Khách nước Ngô lại hỏi : " Họ Phòng phong giữ ở đâu ? "
Trọng Ni đáp : " Vua Uông Võ giữ núi Phong võ họ Ly, dưới thời Hạ, Thương, là Uông Võ, dưới thời nhà Châu là Trường Địch, bây giờ gọi là đại nhân ".
Khách lại hỏi : " Con người cao chừng bao nhiêu ? "
Trọng Ni đáp : " Họ Tiều Nghiêu thì 2 thước, rất thấp, còn người cao lắm thì bất quá bằng 10...đó là hết số ".
Người khách nước Ngô liền bảo : " Hay lắm ! Thật là Thánh nhân ! ")
(Sách " Gia ngữ biện vật giải " có chép chuyện Hoàn Vương bắt được Phần dương, đó là sự thật.
Còn đoạn viết " Ngô đánh bại Việt ở Cối Kê " trở về sau là do kẻ " tục nho " muốn cho rằng Thánh nhân học nhiều, chuyện gì cũng biết, cho nên mới bày ra chuyện truyền thuyết ấy.
Sử Công (Tư Mã Thiên) trích lại là có ý muốn đề cao Khổng Tử học rộng, nhưng không ngờ, những lời không chứng cớ, giọng nói không trang nhã, là không phải sử liệu chánh thức, bây giờ nên bỏ là đúng hơn.)
Sủng thần của Hoàn Tử là Trọng Lương Hoài cùng Dương Hổ có hiềm khích. Dương Hổ muốn đẩy Hoài, Công Sơn Bất Nửu ngăn việc đó.
Mùa thu năm ấy Hoài càng kiêu, Dương Hổ bắt Hoài, Hoàn Công giận, Dương Hổ liền bắt giam Hoàn Công rồi sau đó ăn thề mà thả Hoàn Công. Vì thế Dương Hổ càng xem thường Quí thị. Quí thị cũng không chường mặt, bồi thần cầm quốc chánh, vì thế từ Đại phu trở xuống đều xa chánh đạo, cho nên Khổng Tử không làm quan nữa, trở về nhà mà soạn lại Thi, Thơ, Lễ, Nhạc...đệ tử càng đông, từ phương xa đến, không ai là không học với Ngài.
(Chuyện nầy trong Tả truyện có ghi. Trong Luận Ngữ chép Dương Hổ là Dương Hóa, trong sách Mạnh Tử khi thì chép Dương Hổ, lúc chép Dương Hóa.)
Định Công năm thứ 8 (Công Sơn Bất Nửu vì bất đắc ý với Quí thị nên...) Dương Hổ làm loạn, muốn phế dòng chánh của Tam Hoàn lập dòng thứ, Dương Hổ giả làm lành và bắ Quí Hoàn Tử.
Hoàn Tử lừa được nên thoát khỏi. Dương Hổ không hơn được chạy sang Tề, lúc đó Khổng Tử 50 tuổi (Công Sơn Bất Nửu dùng đất Phí làm phản Quí Tử, rồi sai người đêán triệu Khổng Tử.
Khổng Tử không đem đạo ra thi hành đã lâu, nên buồn không chỗ đem ra dùng, và không ai dùng mình nên nói " Nhà Chu, Văn, Võ, nổi lên ở Phong sào mà làm vua, bây giờ đất Phí tuy nhỏ, nhưng có thể làm được không ? "
Ông muốn qua đó.
Tử Lộ không vui liền ngăn Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vả kẻ triệu ta, không lẽ phí công sao ? Như dùng ta, biết đâu sẽ thành nhà Đông Châu ?
Nhưng sau cùng ông không đi.)
(Về chuyện Công Sơn Bất Nửu làm phản, trong Tả truyện ghi thật rõ : " Mùa Hạ, năm Định Công thứ 12, Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, tham dự việc chánh, chủ trương trừng phạt Tam gia, Công Sơn Bất Nửu làm quan Tể đất Phí liền làm phản, tấn công Định Công, Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân chinh phạt và đánh bại Công Sơn Bất Nửu, Nửu chạy sang Tề.
Công Sơn Bất Nửu làm phản, là vì phản đối Khổng Tử, đâu có lẽ lại mời người mình chống đối đến tham chánh hay sao ?
Hơn nữa, Khổng Tử đã sai người đi chinh phạt Bất Nửu, thì đâu có lý nào khi nghe Nửu mời lại muốn đi đến ? Rồi lại nghĩ rằng sẽ giúp Nửu để gầy dựng thành nhà Đông Châu, thật là một điều hết sức vô lý.
Chuyện nầy thật đáng nghi, trong sách Thù Tứ khảo tín lục cũng nhận xét như thế, đoạn nầy nên cắt bỏ cho hợp lý.)
Sau đó Định Công dùng Khổng Tử làm Trung đô tể, một năm mà 4 phương đều theo phép tắc, từ Trung đô tể, Khổng Tử làm Tư Không, rồi từ Tư Không lên làm (đại) Tư Khấu.
(Trung đô là một ấp của nước Lỗ, ngày nay ở phía Tây huyện Văn Thượng tỉnh Sơn Đông.
Thưở đó Chư hầu chỉ có chức Tư Khấu, chớ không bao giờ có Đại Tư Khấu. Chữ Đại là sai...Người đời sau muốn tôn Khổng Tử nên thêm chữ Đại vào một cách sai lầm. Nên bỏ chữ Đại cho đúng).
Mùa Xuân năm thứ 10 đời Định Công, Lỗ đã bằng Tề, đến mùa Hạ (Đại phu nước Tề là Lê Sừ, bảo Tề Cảnh Công : Lỗ dùng Khổng Tử, cái thế tất làm nguy Tề) nước Tề sai sứ đến Lỗ mời đến hội ở Giáp Cốc để giao hảo.
Lỗ Định Công đi xe đến đó. Khổng Tử lo việc nhiếp chánh liền tâu : " Thần nghe nói nếu có việc văn thì phải có võ bị, có việc võ thì phải có văn bị. Đời xưa, khi chư hầu ra biên cảnh, thì phải có quan đi theo, xin vua đem theo quan Tư mã tả hữu.
Định Công nói : " Phải ".
Liền đi đủ với Tư mã tả hữu, hội với Tần hầu ở Giáp Cốc, lập đàn vị, nền đất 3 cấp, dùng lễ hội ngộ tiếp nhau, xá nhường mà lên đàn, lễ dưng rượu xong, nước Tề có chức Hữu Tư bước tới tâu :
- Xin tấu nhạc tứ phương.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Rồi cờ xí trương lên, kiếm kích vung ra, tiếng trống inh ỏi tiến tới.
Khổng Tử lật đật bước tới, leo lên bực đất, chưa hết một cấp giơ tay áo lên nói lớn :
- Hai vua ta đang hội giao hữu, nhạc di địch đến đây làm gì ? Xin hỏi quan Hữu Tư ?
Hữu Tư lại không đi.
Tả hữu liền nhìn Cảnh Công (và Án Tử) Cảnh Công sợ sệt liền cho bọn nhạc thối lui.
Giây lát, Hữu Tư nước Tề lại bước tới bảo :
- Xin tấu nhạc trong cung.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Bọn con hát lại múa may bước tới, Khổng Tử bước ra, bước lên bực đất; chưa hết một cấp đã nói :
- Bọn thất phu mà lại làm rối loạn chư hầu, tội đáng giết ! Quan Hữu Tư liền thi hành theo phép, chặt tay chưn bọn ấy. Cảnh Công sợ mà lung lay, biết lý mình không bằng, trở về mà hết sức sợ, bảo quần thần :
- Nước Lỗ dùng đạo quân quân tử để phò vua, còn các người dùng đạo di dịch để dạy cho quả nhân, làm đắc tội với vua Lỗ, bây giờ mới tính làm sao ?
Quan Hữu Tư liền đáp :
- Người quân tử có lỗi phải tạ bằng vật làm tin, người tiểu nhân thì tạ bằng văn. Như vua có ngại điều đó thì tạ bằng vật làm tin.
- Vì thế Tế hầu liền trả lại những đất Văn dương, Quyền đã lấy của nước Lỗ để tạ lại việc ấy.
(Trong sách Xuân Thu có chép rõ vụ Tề trả mấy vùng đất kể trên cho Lỗ, là do công của Khổng Tử, nhưng tình hình thật sự của cuộc hội ấy như thế nào, thì chưa rõ lắm, có lẽ người ta đã khoa trương thêm nhiều để đề cao Khổng Tử.)
Mùa Hạ, năm thứ 13, đời Định Công, Khổng Tử tâu với Địng Công :
- Làm tôi không chứa giáp binh, Đại phu không có thành cao 100 trỉ.
Khiến Trọng Do làm quan tể cho Quí thị để phạt Tam đô. Vì thế Thúc Tôn thị hạ đất Hậu trước, rồi Quí thị định đánh Phí, Công Sơn Bất Nửu, Thúc Tôn tiếp liền đem người Phí đánh Lỗ. Định Công và 3 người con vào cung Quí thị, lên đài Võ tử.
Người Phí tấn công tới, nhưng không được (có mũi tên bay bên cạnh Định Công).
Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân xuống đánh, người Phí thua, bị đuổi theo và bị bại ở Cô miệt. Hai ông liền chạy sang nước Tề, đất Phí bị hạ luôn...liền sửa soạn đánh đất Thành, Công Kiểm Xử Phủ bảo Mạnh Tôn :
- Đánh Thành, thì người nước Tề ắt kéo đến cửa Bắc, vả lại Thành là bình phong cho Mạnh thị, nếu không còn đất Thành, thì không còn Mạnh thị vậy, ta nên giả vờ là không biết...theo tôi thì không nên đánh Thành.
Tháng 12 Định Công vây thành, nhưng không lấy.
(Chuyện nầy có ghi trong Xuân Thu nhằm năm Định Công thứ 12, đây chép lộn là thứ 13.
Tam Đô là đô của Tam gia, Đất Hậu ở phía Nam huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông, đất Thành ở phía Đông Bắc huyện Ninh Dương tỉnh Sơn Đông.)
Định Công năm thứ 14, Khổng Tử 56 tuổi, từ Đại Tư Khấu, lên làm Nhiếp tướng, có sắc vui. Môn nhơn nói :
- Nghe nói người quân tử họa đến không sợ, phước đến không mừng...
Khổng Tử đáp :
- Có lời nói như vậy, nhưng cũng nên vui vì được làm kẻ dưới của người quí...
Ông liền giết Thiếu chánh Mão là Đại phu nướcLỗ đã làm loạn chánh.
Ông lo việc chánh trị trong nước 3 tháng người trong nước trở nên thành thật, nam nữ đi đứng riêng biệt ngoài đường, ngoài đường không lượm của rơi, khách bốn phương đến ấp chẳng cần quan Hữu Ty, y như là về nhà mình.
Người nước Tề nghe rất sợ liền nói :
- Khổng Tử làm việc chánh thì nên nghiệp bá, nên nghiệp Bá, thì đất ta rất gần, bây giờ ta nên chiếm trước...không nên để lâu.
Lê Sừ nói :
- Xin trước tìm cách ngăn trở, ngăn trở không được thì chiếm đất, đâu có chậm gì ?
Vì thế chọn gái đẹp nước Tề, 80 người, đều mặc áo đẹp, múa nhạc, đem ngựa 30 con đưa qua vua Lỗ...rồi bày nữ nhạc và ngựa ngoài cửa thành nam nước Lỗ.
Quí Hoàn Tử mặc thường phục đến xem đôi ba lần, sắp sửa nhận, liền cho vua Lỗ hay đi chơi khắp đường, và đến xem suốt ngày...trễ nãi cả việc chánh.
Tử Lộ nói :
- Phu Tử có thể bỏ đi rồi đó...
Khổng Tử đáp :
- Nước Lỗ sắp tế giao, nếu như đem phần thịt "phiên" cho Đại phu, thì ta còn có thể ở lại...
Sau nầy Hoàn Tử nhận nữ nhạc, luôn ba ngày không lo việc chánh, tế lễ giao lại không đưa phần thịt cho Đại phu, Khổng Tử liền đi, ở đêm nơi đất Đồn.
Sư Kỷ đưa mà nói rằng :
- Phu Tử chắc không trách...
Khổng Tử đáp :
- Bây giờ ta hát, có được không ? Hát rằng "Vì miệng mấy đứa con gái kia, có thể ra đi...cái êm ấm của mấy đứa con gái kia, vì đó mà chết...hư việc...việc vui chơi duy chỉ làm hết đời."
Sư Kỷ trở lại, Hoàn Tử hỏi :
- Khổng Tử có nói gì không ?
Sư Kỷ thưa lại sự thật.
Hoàn Tử thở ra than rằng :
- Phu Tử trách tội ta là vì mấy đứa nữ nhạc ấy chăng ?
(Chuyện nầy đều có chép trong sách Luận Ngữ và Mạnh Tử. Khi Hoàn Công nhận nữ nhạc là Khổng Tử đã quyết chí ra đi rồi. Nhưng không muốn nêu cái sai lầm của vua lên quá rõ, cho nên mới mượn cớ thiếu phần thịt, một chuyện nhỏ để ra đi.
Nhưng về chuyện nữ nhạc của nước Tề, một nhà học giả sau nầy là Thôi Thuật bảo là không đáng tin, trong sách Thù Tứ khảo tín lục đã biện luận thật rõ ràng. Thiên Hiến vấn trong sách Luận Ngữ có chép : Công Bá Liêu tố Tử Lộ với Quí Tôn, Tử Phục Cảnh Bá cho hay :
- Nếu Phu Tử có gì không đắc chí với Công Bá Liêu, thì tôi có thể giúp ở triều.
Khổng Tử đáp :
- Đạo làm được chăng ? Mạng vậy ! Đạo có bị phế chăng ? Mạng vậy ! Công Bá Liêu có ăn thua gì với mạng đâu !
Sở dĩ Khổng Tử có thể thi hành đạo mình với Quí Tôn, là nhờ Tử Lộ làm quan tể với họ Quí, được Hoàn Tử tín nhiệm...vì thế nếu tố Tử Lộ (học trò Khổng Tử) với Quí Tôn, tức ly gián Khổng Tử.
Quí Hoàn Tử đã bị nghi ngờ vì Công Bá Liêu, thì Tử Lộ không còn được tin dùng như trước, như thế Khổng Tử không thể không đi được.
Rồi nhơn kỳ tế Quân giao ơở tháng Dần [háng giêng ] Khổng Tử tìm cớ ra đi.)
Khổng Tử liền qua nước Vệ, ở nhà anh của Tử Lộ, nhà Nhan Thục Trâu.
Vệ Linh Công hỏi :
- Khổng Tử ở nước Lỗ, ăn lộc bao nhiêu ?
Có người đáp :
- Lúa lương 6 vạn.
Nước Vệ cũng cho lúa 6 vạn...(ở không bao lâu, có kẻ gièm Khổng Tử với Vệ Linh Công, Linh Công sai Công Tôn Giả nói ra nói vào, Khổng Tử sợ bị tội) ở 10 tháng liền bỏ nước Vệ ra đi...
(Nhan Thục Trâu tức Nhan Thùy Do vợ Di Tử Hà...
Khổng Tử bỏ nước Vệ ra đi là vì Linh Công lợt lạt, nếu bị gièm pha mà sợ tội thì tại sao ở đến 10 tháng mới ra đi ? Hơn nữa, không bao lâu ông lại trở về nước Vệ, như thế đoạn "ở không bao lâu...đến sợ bị tội" nằm trong 2 dấu ngoặc nên bỏ là hợp lý hơn).
Sắp qua nước Trần, đi ngang đất Khuôn, Nhan Cao theo hầu giơ tay chỉ nói rằng : "Ngày trước tôi có vào đây...
Người đất Khuôn nghe nói, ngỡ đó là DươngHổ của nước Lỗ...Vì Khổng Tử hình dáng giống Dương Hổ Dương Hổ thường tàn bạo với người Khuôn, người Khuôn liền ngăn Khổng Tử, 5 ngày Nhan Uyên đến...
Khổng Tử nói :
- Ta ngỡ rằng người đã chết !
Nhan Uyên đáp :
- Thầy còn, Hồi đâu dám chết ?
(Người Khuôn vây Khổng Tử càng gấp) đệ tử sợ, Khổng Tử bảo :
- Văn Vương đã mất...Bây giờ văn không còn ở đây sao ? Nếu trời muốn làm mất văn vẻ ấy, thì kẻ sau chết, không thể hưởng được nền văn vẻ ấy...Còn nếu như trời không muốn làm mất nền văn vẻ ấy, thì người Khuôn không làm gì ta được đâu !
(Khổng Tử khiến kẻ đi theo làm tôi cho Ninh Võ Tử ở nước Vệ, sau đó mới được đi).
(Đất Khuôn hiện nay là huyện Trường Viên ở phía Tây Nam tỉnh Hà Bắc. Câu "người Khuôn vây Khổng Tử càng gấp" dư, nên bỏ.
Lúc Khổng Tử đến nước Vệ là nhằm năm thứ 30 Vệ Linh Công, lúc đó Ninh Võ Tử đã chết, nên câu "Khổng Tử khiến kẻ đi theo...nên bỏ, có lẽ người sau lầm nên thêm vào).
Liền qua đất Bồ, hơn 1 tháng, trở lại nước Vệ, ở nhà Cừ Bá Ngọc, vợ vua Linh Công có bà Nam Tử, cho người đến nói với Khổng tử :
- Người quân tử bốn phương nếu không nhục làm bạn với quả quân tôi, thì cũng nên đến gặp quả tiểu quân".
Khổng Tử từ tạ, và bất đắc dĩ đến ra mắt.
Phu nhơn ở trong màn thưa, Khổng Tử bước vào, day mặt về hướng Bắc cuối đầu...Phu nhân ở trong màn đáp lễ, tiếng ngọc đeo trong mình vang lên.
Khổng Tử nói :
- Đáng lẽ tôi không đến, nhưng phu nhân đã gọi ra mắt, tôi phải đáp lễ.
Tử Lộ không vui, Khổng Tử thề rằng :
- Ta có điều gì sai quấy...Trời hại ta...Trời hại ta...
Ở nước Vệ hơn tháng, Linh Công và phu nhân ngồi chung xe, hoạn quan là Ung Cừ cũng ngồi...cùng đi ra, để Khổng Tử ngồi xe sau, rong qua chợ.
Khổng Tử nói :
- Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc.
Ông xấu hổ bỏ nước Vệ qua nước Tào.
(Câu chuyện Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử có chép trong thiên Ung Dã sách Luận Ngữ.
Chuyện Khổng Tử ra mắt Nam Tử, Tử Lộ không vui, Khổng Tử không nói rõ, tại sao mình đến mà chỉ thề thốt, như thế không ai hiểu được. Nhưng xét qua lời nói của sứ giả Nam Tử đến gặp Khổng Tử khi mới đến nước Vệ, ở tại đó độ 10 tháng, Nam Tử chưa gặp ông lần nào.
Lần nầy ở Vệ hơn mười tháng, nàng lại muốn gặp, đó là huyện không hợp tình hợp lý chút nào, có chỗ đáng nghi ngờ...Trong sách Luận Ngữ tập giải, theo lời Khổng An Quốc, cũng nghi ngờ chuyện nầy.
Có thuyết lại cho rằng, trong thời gian ở Vệ 10 tháng, Linh Công với Nam Tử đi xe trước, bảo Khổng Tử ngồi xe sau, ông buồn vì bị đối xử thiếu lễ nên ra đi).
Năm ấy Lỗ Định Công mất.
Khổng Tử qua nước Tào, nước Tống, cùng đệ tử giảng tập Lễ dưới cây to...Tư Mã nước Tống là Hoàn Đồi muốn giết Khổng Tử nên bứng cây...
Đệ tử bảo :"Bây giờ là lúc nên đi..."
Khổng Tử nói :
- Trời sanh đức nơi ta ! Hoàn Đồi làm gì ta được !
Khổng Tử qua nước Trịnh, cùng đệ tử lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở cửa Đông nước Trịnh. Người nước Trịnh có kẻ bảo Tử Cống :
- Ở cửa Đông có người giống như vua Nghiêu, trán như Cao Dao, vai như Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống, ngắn hơn vua Võ 3 tấc...đứng bơ phờ như chó nhà có đám tang...
Tử Cốngnói lại sự thật cho Khổng Tử nghe. Khổng Tử cười nói :
- Hình trạng chưa chắc là như vậy. Nhưng như chó nhà có đám tang thì rất đúng, rất đúng !
(Trong đoạn nầy "bứng cây..." là không hợp lý, vì lúc đó Hoàn Đồi làm Tư Mã nước Tống, lại chuyên quyền, nếu muốn giết Khổng Tử là một chuyện dễ dàng. Bứng gốc cây mà làm gì ?).
Vua nước Ngô là Phù Sai đánh nước Trần, lấy 3 ấp rồi về...
Triệu Ưởng đánh Triều ca, Sở vây nước Thái, nước Đới sang Ngô, nước Ngô đánh bại vua Việt là Câu Tiển.
Có con chim bay đến sân nước Trần mà chết, có mũi tên xuyên ngang, nõ bằng đá, tên dài hơn thước...Vua Trần sai sứ đến hỏi Trọng Ni.
Trọng Ni đáp :
- Chim từ xa đến đây vậy ! Và đây là tên của Tiêu Thận.
Ngày xưa Võ vương đánh nhà Thương, thông đường 9 rợ, 8 man và khiến các nơi đem lễ vật đặc biệt của mình đến cống...để cho không quên nghề nghiệp.
Vì thế Tiêu Thận cống tên và nõ đá, tên dài hơn thước, vì Tiêu vương muốn làm tỏ đức lành của mình liền lấy tên của Tiêu Thận chia cho Thái Cơ, Ngu Hồ Công và phong cho đất Trần...
Chia cho những người đồng tánh châu ngọc, mở rộng thân thích...chia cho những người khác họ những chức phương xa, để cho không quên mến phục...vì thế mà chia tên của Tiêu Thận cho nước Trần...Liền tìm ở phủ xưa, quả thấy loại tên ấy.
(Chuyện nầy giống như chuyện Phần dương và xương của họ Phòng phong ở đoạn trước, mục đích để đề cao Khổng Tử là người hiểu rộng biết nhiều...và đây cũng là loại chuyện truyền thuyết).
Khổng Tử ở nước Trần 3 năm, gặp lúc Tấn, Sở tranh biên giới rồi lại đánh Trần, rồi Ngô xâm lấn Trần, nước Trần thường bị giặc cướp.
(Khổng Tử nói : Về vậy...về vậy, Tiên tử chúng ta điên cuồng, tiến thủ, không quên lúc ban đầu).
Vì thế, Khổng Tử bỏ nước Trần.
(Đoạn "Khổng Tử nói..." nằm trong 2 dấu ngoặc sắp lộn nên bỏ.)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 17:59:38 GMT 9
Qua đất Bồ, họ Công thúc dựa vào đất Bồ làm phản. Người Bồ ngăn Khổng Tử, đệ tử có người tên Lương Nhụ dùng xe riêng 5 chiếc theo Khổng Tử, người nầy cao lớn, hiền, có dõng lực, nói rằng :
- Ta theo Phu Tử, gặp nạn ở đất Khuôn, nay lại gặp nạn ở đây, cũng là mạng mà thôi !
Ta với Phu Tử lại mắc nạn, thà là chiến đấu mà chết !
Đánh rất hăng, người Bồ sợ, nói với Khổng Tử :
- Nếu ông không qua Vệ, tôi để ông đi.
Cùng thề với nhau rồi ra cửa Đông, Khổng Tử liền qua Vệ.
Tử Cống hỏi :
-Lời thề có thể phụ chăng ?
Khổng Tử đáp :
- Nếu cần thề, thì thần không nghe !
Vệ Linh Công nghe Khổng Tử đến rất mừng nên ra tận bên ngoài đón tiếp và hỏi :
- Đất Bồ có thể đánh không ?
Đáp :
- Có Thể...
Linh Công nói :
- Đại phu tôi đều nói là không thể được. Vì đất Bồ, là Vệ dùng để chậm trễ Tấn và Sở, Vệ đánh Bồ có phải là không nên chăng ?
Khổng Tử nói :
- Số đàn ông con trai có chí chết, và số đàn bà có chí gìn giữ Tây Hà...chúng ta chỉ đánh bất quá chừng 4, 5 người mà thôi.
Linh Công nói :
- Hay lắm...
Nhưng không đánh Bồ.
Linh Công đã già...trễ nãi việc chánh, không dùng Khổng Tử.
Khổng Tử buồn than rằng :
- Nếu có kẻ dùng ta, chỉ một tháng mà thôi...Nếu
3 năm thì thành công...(Khổng Tử ra đi).
(Câu "Khổng Tử ra đi lầm lẫn, nên bỏ.)
Phật Hật làm quan Tể đất Trung Mâu, Triệu giản Tử đánh Phạm trung Hàng thị, đánh Trung Mâu,Phật Hật làm phản sai người đến rước Khổng Tử, Khổng Tử muốn đi.
Tử Lộ thưa :
- Do nầy có nghe Phu Tử nói "Người mà gần kẻ không lành, thì người quân tử không đến, bây giờ Phật Hật dựa đất Trung Mâu làm phản, thầy muốn đến là làm sao ?"
Khổng Tử đáp :
- Quả ta có nói lời ấy...nhưng ta cũng từng nói :"thật là cứng, mài cũng mòn, thật là trắng, nhuộm cũng đen", ta đâu phải là trái biều qua, cứ treo mà chẳng ăn ?
(Đất Trung Mâu hiện nay ở phía Tây huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam. Chuyện nầy có ghi trong Luận Ngữ, thiên Dương Hoá, nhưng theo Thù Tứ khảo tín lục, thì chuyện Phật Hật làm phản là dưới thời Triệu Tương Tử, mà lúc Tương Tử lên ngôi thì Khổng Tử đã mất 5 năm rồi...như thế làm sao có chuyện nầy được...đoạn nầy nên bỏ là hợp lý.
Hơn nữa, con người như Khổng Tử đâu có vì cái ăn mặc mà đi theo người bất chánh.)
Khổng Tử đánh cái khánh, có người vác nặng đi ngang qua cửa nói :
- Người đánh khánh, thật là có tâm vậy...không ai biết mình thì thôi vậy !
Khổng Tử học đàn với sư Nhượng 10 ngày mà chẳng tiến, sư Nhượng bảo :
- Có thể học thêm nữa.
Khổng Tử đáp :
- Khâu đã tập cái "khúc" nhưng chưa biết cái "số".
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...
Khổng Tử đáp :
- Khâu chưa nhận được cái "chí".
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "chí" rồi, có thể học thêm...
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...
Khổng Tử lại nói :
- Tôi chưa nhận được cái đạo làm người.
Giây lát, dường như có điều gì sáng lên và nghiêm trang nghĩ ngợi...rồi lại thơ thới nhìn lên cao mà có chí xa :
- Khâu đã nhận được cái đạo làm người...lờ mờ mà tối đen...gần mà như xa...mắt như nhìn biển rộng, tâm như làm vua 4 nước nếu không phải là Văn Vương thì ai làm được việc đó.
Sư Nhượng đúng dậy chắp tay xá bảo rằng :
- Phải rồi, đó là tiếng đàn của vua Văn Vương.
(Đoạn nầy muốn nói lên cái chí học tập chuyên cần của Khổng Tử...ông muốn tìm cái đạo trong tiếng đàn và nhận ra được tính chất của nhạc...)
Khổng Tử đã không đắc dụng ở Vệ, liền sắp sửa đi qua hướng Tây ra mắt Triệu giản Tử, đến sông Hà, nghe tin Đậu Minh và Thuấn Hoa chết, ông đứng bên sông Hà than :
- Đậu Minh và Thuấn Hoa là hiền đại phu của nước Tấn, lúc Triệu giản Tử chưa đắc chí, nhờ 2 người ấy mà bắt đầu việc chánh, nhung đến khi đắc chí rồi, thì giết những người ấy để làm việc chánh.
Khâu có nghe nói : Mổ thai giết trẻ con thì Kỳ Lân chẳng đến bờ cõi, tát đầm cạn cá thì giao long chẳng hợp âm dương, lật ổ phá trứng thời phụng hoàng chẳng bay.
Tại sao vậy ? Người quân tử kiêng việc hại đồng loại, vả lại điểu thú với việc bất nghĩa còn biết tránh, hà huống gì Khâu nầy ?
Bèn trở về Aáp Trâu, làm bài Trâu thao để ghi chuyện buồn ấy, rồi trở lại nước Vệ ở nhà Cừ Bá Ngọc.
*
Ngày nọ Linh Công hỏi việc binh.
Khổng Tử nói :
- Về chuyện cái trở, cái đậu, (tế, lễ) thì tôi thường nghe còn về chuyện binh thì tôi chưa học.
Ngày sau, cùng chuyện trò với Khổng Tử, thấy con chim Hồng, liền ngửng mặt nhìn, không hề chú ý đến Khổng Tử.
Khổng Tử liền ra đi, và lại qua nước Trần.
Mùa Hạ, Vệ Linh Công mất, lập cháu là Triếp, đó là Vệ Xuất Công.
Tháng 6, Triệu Ưởng đem thái tử Khoái Hội vào đất Thích, khiến thái tử để tang và 8 người mặc sô gai, giả vờ như rước từ nước Vệ về khóc mà vào rồi ở luôn.
Mùa Đông, nước Thái dời sang Châu Lai.
Năm ấy, nhằm năm thứ 3 Lỗ Ai Công, Khổng Tử được 60 tuổi, Tề giúp Vệ vây đánh Thích, vì sự có mặt của thái tử nước Vệ là Khoái Hội đang ở đó. *
Miếu thờ của Lỗ Hoàn Ly bị cháy, Nam cung Kỉnh Thúc đến cứu hoả, lúc đó Khổng Tử đang ở nước Trần, nghe chuyện đó, liền bảo :
- Tai nạn xảy ra ở miếu thờ Hoàn ly phải không ?
Quả nhiên là như thế.
Quí Hoàn Tử bịnh, đi xe đến nhìn, thành nước Lỗ và than rằng :
- Ngày trước nước nầy sắp hưng lên nhưng vì ta đắc tội với Khổng Tử, cho nên không hưng được.
Liền quay lại bảo người nối nghiệp là Khương Tử :
- Nếu ta chết, thì người tất làm tướng nước Lỗ, và làm tướng nước Lỗ thì phải triệu Trọng Ni.
Sau đó mấy ngày, Hoàn Tử chết, Khương Tử lên ngôi. Chôn cất xong, muốn triệu Khổng Tử.
Công Chi Ngư nói :
- Ngày xưa tiên quân ta dùng người ấy không trọn, làm cho chư hầu cười...Ngày nay lại dùng nữa, nếu không trọn, thì lại bị chư hầu cười nữa.
Khương Tử nói :
- Như vậy thì triệu ai được ?
Đáp :
- Nên triện Nhiễm Cầu...
Liền sai sứ triệu Nhiễm Cầu.
Nhiễm Cầu sắp sửa đi, Khổng Tử nói :
- Người nước Lỗ triệu Cầu, không phải dùng vào chức vụ nhỏ đâu. Tất là phải giao cho trách nhiệm nặng nề.
Ngày ấy, Khổng Tử nói :
- Về vậy...về vậy...bọn tiểu tử của chúng ta điên cuồng bây giờ đã văn vẻ sáng láng, ta không biết phải lấy gì để giúp đỡ !
Tử Cống biết Khổng Tử có ý nghĩ trở về, nên trong khi đưa Nhiễm Cầu liền căn dặn :
- Nếu ngươi được dùng, là nhờ Khổng Tử làm tiếng tăm đó.
(Nhiễm Cầu đã đi)
Năm sau, Khổng Tử từ Trần qua Thái, Thái Chiêu Công sắp sửa qua Ngô, vì nước Ngô triệu ông.
Trước kia, Chiêu Công dối bầy tôi, dời qua Châu Lai, nên khi sắp sửa đi, quan Đại phu lại sợ ông rồi sẽ đi nữa...
Công Tôn Phiên bắn, giết chết Chiêu Công, nước Sở xâm lăng Thái, mùa Thu năm sau, Tề Cảnh Công mất.
(Câu "Nhiễm Cầu đã đi" nằm trong 2 dấu ngoặc, không liên hệ đến đoạn nầy, nên bỏ).
*
Năm sau, Khổng Tử từ Thái qua đất Diệp. Diệp Công hỏi về việc chánh, Khổng Tử đáp :
- Việc chánh ở chỗ làm cho kẻ xa đến và nương tựa với kẻ gần...
Ngày khác, Diệp Công lại hỏi về chuyện Khổng Tử với Tử Lộ. Tử Lộ không trả lời...
Khổng Tử bảo Tử Lộ :
- Sao ngươi không trả lời...là con người của ta học đạo chẳng mệt mỏi, dạy người không nản, có chuyện gì bứt rứt là quên ăn, lấy cái vui đẻ quên điều lo buồn...chẳng hay cái già đã gần đến nơi.
(Bỏ đất Diệp, trở qua Thái).
(Những câu nằm trong dấu ngoặc lầm lẫn nên bỏ).
Trường Thư, Kiệt Nịch cày đôi.
Khổng Tử (cho rằng những người ấy là ẩn sĩ) khiến Tử Lộ đến hỏi đường...
Trường Thư nói :
- Ai đang ngồi trên xe đó ?
Tử Lộ đáp :
- Đó là Khổng Khâu.
Nói :
- Phải Khổng Khâu ở nước Lỗ không ?
Đáp :
- Phải.
Nói :
- Người ấy tất là phải biết đường...
Kiệt Nịch hỏi Tử Lộ :
- Còn ông là ai ?
Đáp :
- Tôi là Trọng Do.
Nói :
- Ông phải là học trò Khổng Khâu không ?
Đáp :
- Phải.
Kiệt Nịch nói :
- Chuyện lo lắng, trong thiên hạ ai cũng đều như vậy...nhưng ai thay đổi được ? Nếu theo kẻ sĩ lánh người thì thà là kẻ sĩ lánh đời còn hơn...
Rồi tiếp tục cày như trước.
Tử Lộ đem việc ấy thưa lại với Khổng Tử.
Khổng Tử bùi ngùi nói rằng :
- Điểu thú không thể đồng bầy...trong thiên hạ có đạo, Khâu nầy cực nhọc để thay đổi làm gì...
Ngày nọ Tử Lộ đi, gặp người vác bồ cào, chống gậy...
Tử Lộ hỏi :
- Ông có thấy Phu Tử không ?
Người chống gậy hỏi :
- Tay chân không siêng năng, không phân biệt được loài ngũ cốc, mà làm thầy ai ?
Rồi cầm gậy mà bừa...
Tử Lộ đem việc ấy thưa lại với Khổng Tử.
Khổng Tử nói :
- Đó là kẻ ở ẩn.
Trở lại tìm thì không còn tìm thấy người ấy nữa.
(Hai chuyện kể trên có chép trong thiên Vi Tử sách Luận Ngữ, Trường Thư và Kịch Niệt không phải là tên người, Trường và Kiệt là chỉ người diện mạo khôi ngô, còn Thư và Nịch là muốn nói chân dẫm trong bùn.
Ngẫu nhiên mà gặp để hỏi đường thì làm sao mà biết tên được...cũng y như trên, người vác giỏ và vác bồ cào.
Trong sách Luận Ngữ đoạn nầy viết rất rõ).
Khổng Tử dời qua Thái, ở 3 năm, Ngô đánh Trần...Sở đến cứu Trần đóng quân ở Thành Phủ (nghe) Khổng Tử đang ở giữa 2 nuớc Trần, Thái (Sở sai người đến mời Khổng Tử... Khổng Tử sắp đến đáp lễ, Đại phu của Trần và Thái liền bàn :
- Khổng Tử là người hiền những lời phê phán của ông đều đúng với lịnh của chư hầu...bây giờ ông đã ở bên giữa Trần và Thái, mà những lời nói, việc làm của các Đại phu đều không đúng với ý của Khổng Tử.
Nước Sở là nước lớn, đến rước Khổng Tử, nếu Khổng Tử đắc dụng ở Sở thì các Đại phu đang làm việc ở Trần, Thái đều nguy.
Liền sai bọn tay chân đến vây Khổng Tử ở giữa đồng, làm cho ông không đi được).
Tuyệt lương, những người đi theo đều bịnh không ai dậy được. Khổng Tử vẫn cứ dạy học, đàn hát không ngưng.
Tử Lộ tức giận ra mắt và nói :
- Người quân tử cũng có lúc cùng sao ?
Khổng Tử đáp :
- Người quân tử cầm chắc cái cùng, còn kẻ tiểu nhân gặp cùng là bị lạm vậy.
Tử Cống nghiêm sắc mặt.
Khổng Tử :
- Tử à...ngươi nghĩ rằng ta học nhiều mà nhớ chăng ?
Thưa :
- Chẳng phải như vậy sao ?
Khổng Tử đáp :
Không phải như vậy, ta chỉ "nhứt dĩ quán chi" mà thôi (nắm điều mấu chốt mà thông tất cả).
Khổng Tử biết đệ tử có lòng lo lắng, (liền triệu Tử Lộ) nói :
Kinh Thi có nói rằng : loài thú dữ, hãy đuổi nó ra đồng vắng".
Đạo của ta sai quấy chăng ? Tại sao ta lại đến mức nầy ?
Tử Lộ nói :
- Hay là chúng ta chưa đủ " nhơn " chăng ? Vì thế người ta không tin ta. Hay là chúng ta chưa đủ trí chăng, Vì thế người ta không làm theo ta ?
Khổng Tử nói :
- Đâu có lẽ như thế ! Do ơi : Ví như người nhơn tất phải có người tin theo thì đâu có Bá Di, Thúc Tề. Ví như người trí, tất phải có người làm theo, thì đâu có Vương Tử, Tỷ Can ?
(Tử Lộ ra, Tử Cống vào ra mắt)
Khổng Tử nói :
- Tứ ơi ! Kinh Thi có nói : loài thú dữ, đuổi mầy ra đồng trống...Đạo của ta sai chăng ? Tại sao ta lại đến mức nầy ?
Tử Cống thưa :
- Đạo của Phu Tử rất lớn...cho nên trong thiên hạ không một ai có thể dung chứa Phu Tử được ! Tại sao Phu Tử xem thường mình ?
Khổng Tử nói :
- Tứ ơi ! Người làm ruộng giỏi có cấy trồng mà không gặt hái, người thợ giỏi làm khéo léo mà không có người thuận, người quân tử trau dồi được giềng mối lớn mà gom lại rồi sắp xếp có qui tắc, mà không có người dung chứa mình được...Bây giờ ngươi không lo trau dồi đạo của ngươi mà cứ cầu cho được người dung chứa...như thế thì Tứ ơi ! Chí của nhà ngươi không rộng !
(Tử Cống ra, Nhan Hồi vào ra mắt)
Khổng Tử nói :
- Hồi ơi ! Trong Kinh Thi có nói : loài vật dữ đuổi mầy ra đồng trống...Đạo của ta sai lầm chăng ? tại sao ta lại đến mức nầy ?
Nhan Hồi thưa :
- Đạo của Phu Tử rất lớn, cho nên trong thiên hạ không ai dung chứa được. Tuy nhiên, Phu Tử cứ tiến tới mà làm, dù cho không dung chứa được, thì cũng chẳng hại gì.
Chẳng dung được...mà sau đó mới thấy được người quân tử. Nếu đạo mà không trau dồi, đó là điều xấu hổ của chúng ta.
Nếu đạo đã được trau dồi nhiều, mà không được dùng, thì đó là điều xấu hổ của kẻ cầm vận mạng nước...
Không dung được...có hại gì đâu ! Không dung được, sau đó mới thấy được người quân tử !
Khổng Tử vui vẻ cười mà nói rằng :
- Có như thế chớ ! Như Nhan Hồi, nếu mà ngươi nhiều của, thì ta làm quan Tể cho ngươi !
(Liền sai Tử Cống qua Sở, Sở Chiêu Vương hưng binh rước Khổng Tử, mà sau đó mới khỏi bị vây).
(Chuyện nầy có chép trong sách Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công.
Những đoạn nằm trong dấu ngoặc đều sai lầm nên bỏ.
Về đoạn nầy học giả Tưởng Bá Tiềm có nhận xét : câu chuyện Khổng Tử bị tuyệt lương do các quan Đại phu của hai nước Trần, Thái âm mưu vây khổn, Châu Tử đã phân tích là sai lầm rồi...Nhưng Châu Tử lại nói lúc đó Trần và Thái đều thần phục nước Sở, đó là điều lầm lẫn.
Thật ra lúc ấy nước Trần thần phục Sở, Thái thì thần phục Ngô, cho nên Sở bức nước Thái, Ngô mới dời nước ấy đến Châu Lai, Ngô mà đánh Trần, thì Sở cứu.
Hai nước Trần, Thái, một thì theo Sở, một theo Ngô, găng nhau như nước với lửa, hơn nữa, Thái đã dời đến Châu Lai, cách Trần rất xa, Đại phu của hai nước ấy làm sao hợp nhau để bàn mưu vây Khổng Tửđược ?
Nếu như hưng binh hai nước ấy để vây Khổng Tử, thì số thầy trò của Khổng Tử không đông bao nhiêu, nếu bắt và giết là một việc rất dễ dàng, tại sao lại để cho những người ấy ở giữa vòng vây giảng đạo...đàn, hát như thế ?
Hơn nữa, nước Sở vì cứu Trần mà đến, nếu Trần nghe Sở định rước Khổng Tử, thì có bao giờ dám vây những người ấy ? Nước Sở cứ ra lịnh, là Trần tất nhiên phải thả thầy trò Khổng Tử...đâu có cần phải hưng binh để đi rước...
Một điều khác, nước Sở đến là để cứu Trần, chớ chẳng phải chỉ có việc cứu Khổng Tử...Cũng có thể Sở đến rước mấy thầy trò Trọng Ni, nhưng theo sử sách thì mùa Thu năm ấy, Sở Chiêu Vương mất ở Thành phủ, đâu có về Sở, nếu Khổng Tử đến thăm Chiêu Vương thì tất nhiên cũng đang ở Thành phủ.
Câu chuyện kể trên không có bằng chứng gì xác đáng để tin.
Mặc Tử, trong thiên Phi Nho đã viết : " Khổng Tử bị cùng ở vùng Trần Thái, canh rau không đủ...10 ngày đã qua, Tử Lộ nấu thịt heo, Khổng Tử không hỏi thịt từ đâu có mà cứ ăn...Có người dưng rượu, Khổng Tử không hỏi rượu từ đâu đến mà cứ uống.
Tất nhiên, đây là những lời phỉ báng của phái Mặc, nhưng sự tuyệt lương của Khổng Tử là có thật.
Mạnh Tử có nói : Khổng Tử bị tai nạn ở vùng Trần, Thái vì trên dưới không giao thiệp nhau, nhưng lại nói Khổng Tử là tôi Trần Hầu, nếu đã là tôi thì tại sao trên dưới không có giao thiệp nhau ?
Nếu lúc đó đã làm tôi nước Trần, tại sao lại lưu liên ở giữa hai vùng Trần, Thái, để gặp Ngô, Sở đánh nhau rồi bị tuyệt lương.
Trong sách Luận Ngữ tập giải, thiên Vệ Linh Công ở chương Tại Trần tuyệt lương có ghi lời chú : theo Khổng an Quốc thì Ngô đánh Trần, nước Trần bị loạn, cho nên thiếu ăn.
Theo lời chú nầy có lẽ gần với sự thật hơn hết).
(Chiêu Vương sắp đem đất thơ xã 700 dặm phong cho Khổng Tử.
Sở Linh Doãn là Tử Tây nói :
- Sứ của vua, đi sứ ở cghư hầu, có ai bằng Tử Cống không ?
Đáp :
- Không có.
- Phụ tướng của vua, có ai bằng Nhan Hồi không ?
Đáp :
- Không có.
- Tướng quân của vua có ai bằng Tử Lộ không ?
Đáp :
- Không có.
-Thỉ tổ của Sở là bắt đầu từ nhà Châu, hể là Tử, Nam thì có 50 dặm đất, bây giờ Khổng Tử noi theo phép của ba đời vương tước, làm sáng tỏ sự nghiệp của Châu, Chiêu, nếu vua mà phong chức cho y thì nước Sở nầy đâu có thể đời đời có được mãi mấy ngàn dặm đất đai...
Trước kia Văn Vương ở đất Phong, Võ Vương ở đất Sào, làm vua trên đất 100 dặm, mà sau cùng nên nghiệp vương trong thiên hạ.
Này nay Khổng Khâu được đất đai, được đệ tử giỏi phụ giúp đó không phải là điều phước cho nước Sở vậy !
Chiêu Vương bèn thôi.)
Mùa thu năm ấy, Sở Chiêu Vương mất ở Thành phủ.
(Đoạn nầy giống như đoạn trên về việc Án Anh ngăn Tề Cảnh Công phong đất cho Khổng Tử, đó chỉ là ức thuyết của hậu nho muốn đề cao Khổng Tử mà thôi, trong sách Sử Ký Chí Nghi có dẫn chứng sự kiện rất rõ chứng minh là chuyện nầy không có thật, vì thế, đoạn nầy nên cắt bỏ cho hợp lý).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 18:05:07 GMT 9
Kẻ cuồng nước Sở đi về phía xe Khổng Tử, ca mà đi ngang qua nói rằng : - Phượng ơi ! Phượng ơi ! Đức tại sao lại suy như vậy ? Chuyện đã qua không thểhối được, chuyện đến không thể biết được... Thôi rồi...thôi rồi...Bây giờ mà còn đi theo việc chánh là đã trể rồi vậy. Khổng Tử xuống xe, muốn tiếp chuyện, người ấy rảo bước mà đi, không thể cùng nói được. (Chuyện nầy trong thiên Vi Tử sách Luâïn Ngữ có chép. Chữ " tiếp dư " trong sách không phải là tên người, đó là người cuồng nước Sở, đi về phía xe của Khổng Tử. Khổng Tử nghe thấy xuống xe muốn tiếp chuyện, nhưng người ấy bỏ đi như muốn lẩn tránh...Mới gặp nhau, thì làm sao biết được tên họ. Hành động của người lạ ấy rất ngông, nên mới gọi là cuồng, đó là kẻ ẩn sĩ, giống như những người vác giỏ, bừa cào, lội nước đã kể ở trên...) Khổng Tử liền (từ nước Sở) trở lại nước Vệ, năm ấy ông 63 tuổi, nhằm năm thứ 6 đời Lỗ Ai Công. Năm sau, Ngô và Lỗ, hội nhau ở đất Cối, trưng bày trăm cổ, quan Thái tể triệu Quí Khương Tử, Quí Khương Tử khiến Tử Cống đến mà sau đó việc mới xuôi. * Khổng Tử nói : - Việc chánh của Lỗ. Vệ là anh em vậy. Lúc đó, vua nước Vệ là phụ thân của Triếp, không được lập lên ngôi, đang ở nước ngoài, chư hầu nghĩ rằng ông nhường ngôi. Đa số đệ tử của Khổng Tử đều làm quan nước Vệ. Vua Vệ muốn được Khổng Tử làm việc chánh. Tử Lộ hỏi : - Vua Vệ mời thầy làm việc chánh, thầy sẽ làm gì trước ? Khổng Tử đáp : - Trước hết là phải chánh danh vậy. Tử Lộ nói : - Tại sao lại có chuyện đó ? Thầy thật là lẩn quẩn...Tại sao lại phải chánh danh ? Khổng Tử đáp : - Do ơi ! Ngươi thật là quê mùa ! Danh không chánh thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì sự không thành...thì lễ nhạc không hưng được, thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng, thì dân sẽ lúng túng không biết phải hành động ra sao... Là người quân tử, việc làm phải danh chánh, hễ nói là làm được, người quân tử đối với lời nói của mình, không thể có chỗ xem thường ! * Năm sau, Nhiễm Hữu làm tướng soái cho Quí thị đánh với Tề ở đất Lang, thắng Tề. Quí Khương Tử nói : - Nhà thầy đối với việc quân lữ, học mà có, hay là do tánh sẵn có. Nhiễm Lữ đáp : - Tôi học với Khổng Tử. Quí Khương Tử nói : - Khổng Tử là người như thế nào ? Đáp : - Dùng người ấy thì có danh, truyền đạo người ấy ra bách tánh, đối với quỉ thần thì không có điều gì sơ sót. Nếu cần đến đạo ấy, thì dù cho có đông đến ngàn xã (ngày xưa cứ 25 nhà gọi là một xã) thì không đâu là không thông suốt. Khương Tử hỏi : - Ta muốn triệu ông ấy, có thể được không ? Đáp : - Như muốn triệu ông thì không nên dùng mực thước của tiểu nhơn, thì có thể được. Lúc đó Khổng Văn Tử nước Vệ sắp đánh Thái Thúc, hỏi sách lược với Trọng ni. Trọng Ni tìm cách từ chối, bảo là không biết, rồi rút lui ra đi. Ông nói : - Chim có thể chọn cây, cây có thể chọn chim được chăng ? Văn Tử cố giữ, gặp lúc Quí Khương Tử đuổi Công Hoa, Công Tân, và Công Lâm, rồi dùng lễ rước Khổng Tử. Khổng Tử liền về nước Lỗ. Khổng Tử bỏ nước Lỗ ra đi, tính có đến 14 năm, sau đó mới trở về. * Lỗ Ai Công hỏi việc chánh. Đáp : - Việc chánh ở chỗ bọn bầy tôi... Quí Khương Tử hỏi việc chánh. Khổng Tử đáp : - Nên ngay thẳng, chỉ cái sai của tà vạy, thì tà vạy trở nên ngay thẳng. Quí Khương Tử lo ngại về việc trộm cắp. Khổng Tử nói : - Nếu không có lòng tham, thì dù cho có thưởng, cũng không ai chịu ăn trộm. Nhưng Lỗ cũng vẫn không dùng được Khổng Tử, và Khổng Tử cũng không muốn làm quan. Dưới thời Khổng Tử, nhà Châu suy vi, lễ nhạc bị phế, thi thơ thiếu. Tìm theo dấu lễ của Tam Đại (làm lời tựa cho Kinh Thơ, bắt đầu từ đời Đường Ngu, đi đến thời Tần Mục...biên việc có thứ lớp). Khổng Tử nói : - Lễ nhà Hạ, ta có thể nói được. Nhưng nước Kỷ, không còn đủ bằng chứng...Lễ nhà Ân ta có thể nói được, nhưng nước Tống không còn đủ bằng chứng. Nếu có đủ, thì ta có thể nêu ra làm bằng chứng. Xem xét cái hay cái dở của nhà Hạ, nhà Ân, Khổng Tử nói : Đời sau, tuy cả 100 đời, cũng còn có thể biết được...Một là cái văn vẻ, còn một là cái chất... Nhà Châu xem xét 2 đời trước, nên văn vẻ sáng rỡ, ta theo nhà Châu. Làm lời tựa Kinh Thơ, trước bắt đầu từ thời Đường Ngu, biên chép việc có thứ lớp, cho nên Kinh Thơ và Lễ ký từ Khổng thị mà ra). (Đoạn nầy viết về chuyện Khổng Tử định kinh Lễ, biên kinh Thơ, nhưng có sự lầm lẫn về trật tự, theo sách Sử ký thám nguyên thì trước hết là định kinh Lễ rồi sau đó mới là biên kinh Thơ. Theo Tưởng Bá Tiềm thì cuốn kinh Lễ của Khổng Tử san định tức là cuốn Sĩ Lễ gồm 17 thiên, ngày nay gọi là Nghi Lễ...còn cuốn kinh Thơ do Khổng Tử biên soạn tức là quyển Thượng Thơ gồm 28 thiên.) Khổng Tử nói với Lỗ Thái Sư : - " Về Nhạc, có thể biết được...mới bắt đầu thì nhịp nhàng, rồi mở rôïng ra, thì thuần, kích động và êm ả mà thành. Ta từ Vệ trở về Lỗ mà sau đó nhạc mới chánh, phần Nhã và Tụng trong kinh Thi được sắp xếp đúng chỗ. " Thời xưa, kinh Thi có hơn 3000 thiên, cho đến Khổng Tử, bỏ những chỗ nặng nề, lấy chỗ có thể dùng vào việc Lễ, Nghĩa ; trên thì chọn ông Triết, Hậu Tắc, phần giữa thuật cái thạnh của thời Ân Chu, đến cái thiếu sót của thời U, Lệ... Bắt đầu từ phong tục cho nên mới nói : " Cái rối loạn của chương Quan, Thư bắt đầu từ phần Phong, và chương Lộc, Minh là bắt đầu do thiên Tiểu Nhã...Chương Văn Vương bắt đầu cho thiên Đại Nhã, chương Thanh miếu là bắt đầu cho phần Tụng. Khổng Tử đều phổ vào lời ca nhạc để hợp với nhạc Thiều võ và Nhã Tụng, Lễ, Nhạc từ đó mà được truyền thuật (để cho đầy đủ với Vương đạo, thành Lục Nghệ). (Đoạn nầy trình bày Khổng Tử chánh Nhạc, chánh Thi, câu gần chót : " Lễ, Nhạc từ đó mà được truyền thuật.. " là kết đoạn trên nói về phần Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, chưa đề cập đến kinh Dịch và Xuân Thu cho nên câu " để cho đầy đủ với Vương đạo, thành Lục nghệ " phải dời ra phần sau cho hợp lý). Khổng Tử trở về già, thích kinh Dịch, làm tựa cho Thoán, Hệ, Tượng, Thiết quái, Văn ngôn. Ông đọc kinh Dịch bìa da 3 lần đứt. Ông nói : - Như cho ta sống thêm được vài năm nữa, thì sẽ khá sáng tỏ về kinh Dịch. (Theo sách " Sử Ký thám nguyên " thì đoạn nầy nên dời lại ở sau phần kế đây, để trên phần nói về sách " Xuân Thu " mới hợp lý, là vì việc đọc kinh Dịch và viết Xuân Thu là những việc làm vào lúc vãn niên của Khổng Tử, hơn nữa ông cũng không đem kinh Dịch và Xuân Thu dạy đệ tử. Nếu dời đoạn trên đây ra phần sau, thì đoạn trên nói về việc định kinh Thơ, kinh Lễ, chánh kinh Thi, kinh Nhạc, sẽ liền với đoạn kế sau đây nói về việc Khổng Tử dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò như thế ý văn sẽ liền lạc nhau.) Khổng Tử dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò đến 3000 (người thông lục nghệ có đến số 72) như trong số Nhan Thục Trâu đến thọ nghiệp rất đông. Khổng Tử dạy 4 điều : Văn, Hạnh, Trung, Tín (cấm 4 điều : vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã, chỗ ông cẩn thận là : việc chay lạt, chiến tranh, và tật bịnh... Phu Tử ít nói về chuyện lợi, chuyện mạng và chuyện nhơn). Những người không phẫn chí, không mở mang, nói một mà không hiểu ba, thì không trở đi trở lại dạy nữa. (Đoạn nầy nói về việc Khổng Tử dạy đệ tử. Sách Trọng Ni đệ tử truyện có viết : " Kẻ học mà thông được là 77 người, trong sách cũng có ghi 77 học trò ấy. " Sách " Gia Ngữ đệ tử giải " cũng có ghi 77 tên học trò nhưng lại khác với sách kể trên. Trong bức họa Gia miếu của Văn ông thì lại vẽ số học trò là 72 (thất thập nhị hiền). Cao đệ của Khổng Tử, tương truyền là có hơn 70 người, nhưng con số chính xác thì mỗi thuyết đều khác nhau. Trong phần trên có viết rõ ràng : " Dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò " thì là chưa dạy đến kinh Dịch và Xuân Thu. Tán kinh Dịch, sửa chữa kinh Xuân Thu, đều là những việc làm trong những năm cuối cùng của đời Khổng Tử, thì ông đâu có thể dùng 2 quyển sách ấy để dạy học trò được ? Các Hán Nho cho rằng : " Kiêm thông lục nghệ " là một điều quí, thế nên mới viết như vậy... Vì đây là một điều không có thật nên câu " thân thông lục nghệ, có 72 người " nên lược boỏ cho đúng. Câu " cấm 4 điều...lợi, mạng và nhơn " câu nầy không phải là giáo điều để dạy đệ tử, và đoạn nầy cũng không cùng loại với các đoạn văn trên dưới, nên dời ra phía sau, dưới đoạn " thầy không nói... " cho hợp lý. Ba ngàn học trò, 3000 là hư số để nói lên số học trò rất đông của Khổng Tử, không phải là số chính xác. Chữ " thọ nghiệp " là nói số học trò đến học mà không có viết sách như Mạnh Ý Tử v.v... Thi, Thơ, Lễ Nhạc, là tài liệu dùng dể dạy học, Văn, Hạnh, Trung, Tín là đường lối, là nội dung của việc dạy học. Văn là văn chương, có trong Thi, Thơ, hạnh là hành vi, phẩm hạnh, Lễ dùng để huấn luyện hành vi, phẩm hạnh...Trung tín là đức tính cần thiết. Nhạc để đào luyện tánh tình, cho nên Lễ và Nhạc phải đi đôi. Không phẫn chí học tập, không tiến bộ mở mang, là nói thiếu ý chí học tập. Nói một mà không biết ba là nói người không chịu khó suy nghĩ, đó là nói về phương pháp dạy và học tập.) * Khổng Tử ở chốn Hương đảng, dường như không nói được gì, ở Tôn miếu, Triều đình, lời biện luận rất cẩn thận, khi đàm luận với Thượng Đại phu thì khảng khái rõ ràng, khi bàn với Hạ Đại phu thì thẳng thắn...vào chốn công môn thì cúc cung, bước tới rất ngay ngắn, chỉnh tề, vua gọi đến giúp lễ thì sắc nghiêm trang. Vua có lịnh gọi, chẳng đợi gác xe mà đi liền. Cá ươn, thịt hư, cắt không ngay không ăn, chiếu không ngay không ngồi, ăn gần kẻ có tang, không bao giờ ăn no, đó là ngày buồn thì không ca hát. Gặp kẻ có tang, tàn tật, dù là trẻ con, cũng nghiêm sắc mặt (ba người cùng đi, tất có kẻ đáng là thầy ta) [đức mà chẳng trau dồi, học mà không thông, nghe điều nghĩa mà không sửa đổi được đó là điều lo của ta]. Bảo người xướng ca, nếu hay, thì bảo hát lại và sau họa theo. Phu Tử không nói về chuyện quái dị, sức mạnh, điều loạn và chuyện quỉ thần, cấm 4 điều : vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã... Phu Tử ít nói về chuyện lợi, chuyện mạng, và chuyện nhơn. (Đoạn nầy nói về thái độ, tư cách của Khổng Tử, khi ở triều đình, hương lý, và cách đối xử với người, trau dồi ngôn hạnh của ông...Đoạn nầy đều có chép trong sách Luận Ngữ. Đoạn " cấm 4 điều... " sắp ở đây hợp lý hơn, nên dời từ đoạn trước đến đây.) Tử Cống nói : - Cái văn chương của Phu Tử, có thể nghe, học được, còn lời nói về tánh và Thiên đạo thì không thể nghe và học được. Nhan Uyên thở ra than rằng : - Ngửng lên nhìn thì thấy rất cao...xoi vào thì thấy rất cứng, nhìn thì thấy trước mặt, rồi bỗng nhiên lại ở phía sau...Phu Tử tuần tự mà dạy người, dùng văn mở mang cho chúng ta, muốn nghỉ cũng không được...đã dùng hết tài lực mình, dù cho được chỗ xuất sắc, mà muốn theo ông, cũng không biết phải theo từ đâu... Đạt hạng đảng nhơn nói : - Vĩ đại thay Khổng Tử...Bác học mà không thành danh ở chỗ nào cả. Khổng Tử nghe mới nói rằng : - Ta làm nghề gì bây giờ ? Đánh xe chăng ? Bắn cung chăng ? Lao nói rằng : - Khổng Tử có nói : Ta không làm thử cho nên không có nghề. Đoạn nầy ghi lời người đương thời thán dương Khổng Tử). * Lúc về già, Khổng Tử thích Kinh dịch, ông đọc kinh Dịch, bìa da 3 lần đứt. Ông nói : - Như ta còn sống vài năm nữa, thì ta sẽ làm sáng tỏ về kinh Dịch. (Đoạn nầy nói về việc Khổng Tử học kinh Dịch, từ phần trên dời xuống đây cho hợp lý). Mùa Xuân, năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công, đi tuần thú ở Đại dã người đánh xe của Thúc tôn thị là Thư Thương bắt được con thú, cho là điềm bất thường. Trọng Ni xem và nói rằng : - Con Kỳ Lân đó . Ông giữ và nói : - Sông Hà không có Đồ...đất Lạc không có Thư (Hà Đồ, Lạc Thư) ta hết rồi vậy ! Nhan Uyên chết. Khổng Tử nói : - Trời hại ta. Và khi đi thú về phía Tây, gặp Kỳ Lân ông nói : - Đạo ta đã cùng rồi. Ông thở ra than : - Không có ai hiểu ta chăng ? Tử Cống nói : - Tại sao lại không hiểu thầy ? Khổng Tử nói : - Chẳng oán trời, chẳng trách người. Học với kẻ dưới mà đạt đến trên, hiểu ta...chỉ có trời thôi sao ! (không xuống chí, không nhục thân mình, Bá Di, Thúc Tề chăng ? Hay là Liểu Hạ Huệ, Thiếu Liên xuống chí, nhục thân ?) [Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cư, lời nói phóng khoáng, thân trong sạch, bỏ chức quyền] (Ta thời khác thế, chuyện gì cũng được...mà chuyện gì cũng không)... Khổng Tử nói : - Thôi vậy...thôi vậy...Người quân tử bịnh qua đời mà danh không xưng vậy... Đạo ta mà không hành được...thì ta còn mặt mũi nào đối với hậu thế ? Liền nương theo Sử ký, viết kinh Xuân Thu, trên bắt đầu từ thời Ẩn công, dưới đến thời Thập nhị công. Căn cứ theo Lễ, gần nhà Châu, theo nhà Ân, thông 3 đời Tam Đại, lời văn gọn mà ý rộng, giúp Vương đạo đầy đủ, hoàn thành Lục Nghệ...cho nên khi vua Ngô, Sở tự xưng vương mà sách Xuân Thu mới chê gọi bằng chữ " Tử ". Hội Tiểu thổ thật là triệu Thiên Tử mà sách Xuân Thu viết huý ra là : " Thiên vương đi tuần thú ở Hà dương... " Suy lại ấy để làm mẫu mực đương thời, có ý nghĩa chê bai...Đời sau, các vì Vương giả khởi lên mà suy nghĩ. Nghĩa của kinh Xuân Thu thi hành được thì loạn thần, tặc tử trong thiên hạ đều sợ. Khổng Tử trong việc lập đức, đọc văn từ, có chỗ cộng đồng cùng người mà không độc hữu. Về việc viết sách Xuân Thu hễ đáng ghi thì ghi, bớt thì bớt, bọn Tử Hạ không thể thêm bớt một lời. (Đệ tử học Xuân Thu). Khổng Tử nói : - Hậu thế biết Khâu nầy qua sách Xuân Thu, mà cũng bắt tội Khâu nầy qua sách Xuân Thu. (Đoạn nầy chép về chuyện Khổng Tử viết sách Xuân Thu. Viết kinh Xuân Thu là một đại sự trong đời Khổng Tử cho nên mới ghi lại một cách trịnh trọng như trên. Những đoạn trong dấu ngoặc lầm lẫn nên bỏ.) Hình 3. KHỔNG LÂM Trích trong : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (Rút ở Confucius et l'Humanisme Chinois của P. Đỗ Đình) Năm sau, Tử Lộ mất ở nước Vệ. Khổng Tử bịnh, Tử Cống xin ra mắt, lúc đó Khổng Tử đang chống gậy thong thả ngoài cửa, ông nói : - Tử ơi, sao ngươi đến trễ vậy ? Khổng Tử than thở và ca rằng : - Thái Sơn lở chăng ? cây cột xiêu chăng ? Triết nhơn tàn rụi chăng ? Rồi ông sa nước mắt. Ông bảo Tử Cống : - Thiên hạ vô đạo đã lâu rồi, không có ai nối cho ta...Nguời nhà Hạ tẩn liệm ở phía Đông, người nhà Châu thì ở phía Tây, còn người nhà Ân thì ở giữa 2 cột trụ. Đêm qua, ta nằm mộng thấy ngồi ở giữa cột trụ, ta là người nhà Ân vậy. Bảy ngày sau, Khổng Tử mất... Khổng Tử 73 tuổi, mất vào ngày Kỷ Sửu tháng 4 đời Lỗ Ai Công thứ 16. (Về đoạn nầy, Đỗ Dự đã ghi chép trong Tả truyện : tháng 4, ngày 18 Kỷ Sửu, tháng 4 không có ngày Kỷ Sửu, Kỷ Sửu là ngày 12 tháng 5, như vậy là có sự lầm lẫn về ngày tháng... Xét theo trong lịch, thì năm 16 thời Ai Công có tháng nhuần, cho nên Thôi Thích nói, tháng 4, nên ghi là tháng 3 mới đúng. Giang Vĩnh lại nói : Kỷ Sửu, nếu theo lịch nhà Châu thì là ngày 11 tháng 4, còn theo lịch nhà Hạ thì 11 tháng 2. [Nhà Châu kể tháng 11 là tháng giêng, tháng Tý] các thuyết đều khác nhau, chưa có thể khảo định được... Có điều là ngày sanh, tử của các Chư Tử dưới thời Chu Tần, duy chỉ có Khổng Tử là có chứng cớ khá rõ rệt mà thôi. Lỗ Ai Công năm thứ 16, nhằm năm Nhâm Tuất, vào thời Châu Kỉnh vương thứ 41, đúng năm 479 trước Tây lịch.) Ai Công làm lời lụy rằng : -"Trời cao không giúp, chẳng gượng để một bực già lại, để cho ta một mình tại vị, làm cho ta đau đớn...Ô hô ! Ai tai ! Ni Phụ ơi ! Từ đây có ai để làm gương mẫu... Tử Cống nói : - Vua có bị mất gì ở nước Lỗ không ? Lời Phu Tử có nói : Lễ mất thì tối tăm, danh mất thì sai lầm, mất chí là tối tăm, mất chỗ tựa là sai lầm. Khi còn sống thì không dùng được, đến lúc chết lại làm lời lụy, không phải lễ vậy. Xưng là ta...không đúng với danh vậy. Khổng Tử được chôn ở phía Bắc Lỗ thành, trên sông Tứ. (Sách Khổng đình trích yếu chép lễ an táng nhằm ngày mùng 9 tháng 6, chôn trên sông Tứ, hợp táng với phu nhơn là Thượng quan thị. Ngày nay, ở phía Bắc huyện Khúc phụ, cách 2 dặm, có Khổng lâm tức là mộ Khổng Tử, vùng đất ấy, phía sau lưng là sông Tứ, phía trước mặt là sông Thù, xung quanh có tường bao kín. Sách Hoàng Lãm có viết, trong số đệ tử của Khổng Tử có nhiều người ở nước khác nhau, nên mỗi người đem loại cây đặc biệt ở nước mình đến trồng, thế nên quanh mộ có nnhiều loại cây lạ. Phu nhơn Khổng Tử là người nước Tống...) Đệ tử đều (tang phục 3 năm) Tâm tang 3 năm xong, liền chia tay nhau ra đi, khóc ròng, mỗi người đều rất buồn, hoặc có kẻ ở lại, duy Tử Cống cất nhà ở bên mộ 6 năm rồi sau mới đi. Đệ tử và người nước Lỗ đến bên mộ cất nhà ở có hơn cả 100 vì thế mới gọi là xóm Khổng. (Sách Đàn cung có viết : về tang lễ của Khổng Tử, đệ tử không hiểu phải để tang như thế nào. Tử Cống nói : - Ngày xưa, Phu Tử làm lễ tang cho Nhan Hồi, như là làm lễ tang cho con mà không tang phục...đến đám tang của Tử Lộ cũng như thế. Bây giờ chúng ta làm lễ tang cho Phu Tử, cũng như cha mà không tang phục. Châu Tử có viết : "Thờ thầy để tâm tang 3 năm...buồn như để tang cha mẹ mà không tang phục, tình thì tột mà nghĩa thì không tận". Vì thế câu "tang phục 3 năm" là sai nên bỏ. Trong sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công có viết :"Ngày xưa Khổng Tử mất, sau 3 năm, môn nhơn mới sắp sửa ra về, vào xá từ giã Tử Cống mà khóc đến khan tiếng, sau đó mới ra về. Tử Cống trở lại, cất nhà ở tại chỗ, 3 năm mới về". Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tử Cống là giàu hơn hết, nên tang lễ của Khổng Tử nhờ sức của Tử Cống rất nhiều, lúc mới bắt đầu tang lễ, đã cất nhà gần mộ để cho bạn đồng môn ở, lúc vào xá từ giã là vì Tử Cống là chủ.) * (Trong Khổng môn, thầy trò bàn luận rất thường, và tư nhân dạy học, Khổng Tử là người đầu tiên, chủ trương về giáo dục của ông là trọng về phần nhơn cách, việc thầy trò thường bàn luận với nhau, cho đến bây giờ chắc chẳng có mấy ai làm được. Thầy trò bàn luận với nhau, bình đẳng như là bằng hữu nhưng về phương diện tình cảm thì như cha con, đó là điều đặc biệt đối với số hơn 70 người học trò thân cận... Ngày nay, thầy trò đối xử nhau như khách qua đường, thậm chí có khi xem nhau như là kẻ thù, đạo thầy trò suy đồi, trách nhiệm tại đệ tử, tại thầy và cũng tại kẻ cầm vận mạng quốc gia.) Nước Lỗ đời đời truyền nhau, đúng năm tháng phụng tự mộ Khổng Tử, mà chư nho cũng dạy lễ, hội họp, luyện tập ở bên mộ Khổng Tử. Một vùng đất lớn bên ngôi mộ, chỗ ngôi nhà của đệ tử ở, đời sau nhơn đó làm ngôi miếu thờ, cất giữ luôn y quan, đàn, xe và sách của Khổng Tử ở đó. Đến đời Hán, liên tiếp hơn 200 năm không dứt. Cao hoàng đế qua nước Lỗ, dùng Lễ Thái lao cúng tế, chư hầu, khanh tướng đến, thường ra mắt miếu trước rồi sau mới đi lo việc chánh. Đoạn nầy chép về việc người đời sau sùng bái và tế tự Khổng Tử...Tiểu sử Khổng Tử đến đây chấm dứt, phần sau là phụ thêm con cháu của Ngài...) Khổng Tử sanh Lý, tự Bá Ngư, Bá Ngư 50 tuổi, chết trước Khổng Tử. (Trong sách Gia ngữ, thiên Bổn tánh giải có chép : Khổng Tử 19 tuổi cưới vợ ở nước Tống là Thượng Quan Thị được một năm sanh con, nhơn dịp Chiêu Công đem tặng cá Lý nhơn đó mới đặt tên con là Lý, tự Bá Ngư... Lúc 20 tuổi, Khổng Tử chưa đạt, thế nên việc Chiêu Công cho cá Lý là không có bằng chứng xác thực đáng tin. Khổng Tử sanh Lý vào năm 20 tuổi, nhằm năm thứ 20 Chiêu Công, Lý chết vào năm 50 tuổi, Khổng Tử được 69 tuổi nhằm năm thứ 12 thời Ai Công.) Bá Ngư sanh Cấp, tự Tử Tư, sống được 62 tuổi, thường bị khốn đốn ở nước Tống, viết sách Trung dung. (Sách Trung dung thấy trong pho Lễ ký của Tiểu Đái... Trong thiên Chư Tử lược của sách Hán thư Nghệ văn chí, về phần Nho gia có chép sách của Tử Tư gồm 23 thiên... Vương phục Lễ xét rằng, Tử Tư sống 82 tuổi mới đúng, 62 tuổi là chép lầm). [Xem Tứ thơ khoán ngôn của Mao Kỳ Linh] Tử Tư sanh Bạch, tự Tử Thượng, được 47 tuổi, Tử Thượng sanh Truật, tự Tử Gia, được 45 tuổi, Tử Gia sanh Cơ, tự Tử Kinh, được 46 tuổi, Tử Kinh sanh Xuyên, tự Tử Cao, được 51 tuổi, Tử Cao sanh Tử Thận làm tướng nước Ngụy. Tử Thận sanh Phụ, được 57 tuổi, làm Bác sĩ cho vua Trần là Thiệp, và chết ở nước Trần. Em của Phụ là Tử Tương, được 57 tuổi, làm bác sĩ cho Hiếu Công Hoàng Đế, rồi dời sang Trường Sa làm Thái thú, ông cao 9 thước 6 tấc. Tử Tương sanh Trung, được 57 tuổi, Trung sanh Võ, Võ sanh Diên Niên và An Quốc cũng làm Bác sĩ cho vua, rồi làm Thái thú Lâm Hoài và mất sớm ở đó. An Quốc sanh Cung, Cung sanh Hoan. * Trở lên, phần tiểu sử của Khổng Tử chép theo tài liệu Khổng Tử thế gia trong pho Sử ký của Tư Mã Thiên. Đây là tài liệu rõ ràng nhứt, đáng tin cậy nhứt về tiểu sử của Khổng Tử, tài liệu nầy ghi rõ ngôn, hạnh của người, đại để đều dùng sách Luận Ngữ làm chủ, rồi lại tìm thêm tài liệu ở các nơi khác, những lời truyền thuyết, những mẫu chuyện lạ...cũng được gom góp vào làm sử liệu. Có điều đáng chú ý là những điều ghi trong sách Luận Ngữ, cũng không đáng tin cậy hoàn toàn...như thế thì gom thêm vào những lời truyền thuyết, làm sao tránh khỏi những sai lầm cho được. Kế đó có nhiều câu, chữ lộn xộn, phần dưới đem lên trên, trên lộn xuống dưới, có chỗ bị mất chữ, chỗ lại thừa, thế nên trong tài liệu nầy có tham khảo thêm nhiều tài liệu khác để chỉnh đốn lại với ý định được hoàn chỉnh đến mức nào hay mức ấy. * Tóm lại, thì gia đình Khổng Tử trước kia, thuộc vào hàng quí tộc ở nước Tống, rồi sang nước Lỗ, thành giới bình dân, từ trước đời Khổng Tử chưa từng có một nhà học giả nào vĩ đại bằng ông. Tổng kết sự nghiệp ông, thì có các phương diện chánh trị, giáo dục và sáng tác. Về phương diện chánh trị, ông chỉ làm quan ở nước Lỗ một thời gian ngắn, chưa thỏa mãn được chí lớn của mình về phương diện giáo dục, trước tác, thì trước Khổng Tử chưa có tư nhân dạy học và tư nhân trước tác. * Trong thiên học nhi, sách Luận Ngữ có chép lời tự thuật của Khổng Tử : "Ta 15 tuổi mà đã có chí với việc học, 30 tuổi mà lập thân", như thế từ nhỏ đến 30 tuổi là Khổng Tử chỉ lo việc học hành. Sách Gia ngữ có viết "Khổng Tử bắt đầu mở trường dạy học ở Hương lý, Nhan Lộ là phụ thân của Nhan Uyên thường đến học". Trong Khổng Tử thế gia có viết : Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, rồi sau khi trở về nước Lỗ, đệ tử càng đông, mặc dù ông qua nhà Châu, chưa xác định được nhằm năm nào nhưng, chắc chắn là lối thời Chiêu Công năm thứ 24...cho nên sau 30 tuổi và trước 50 tuổi, đó là thời kỳ ông bắt đầu dạy học. Vào năm Định Công thứ 9, Khổng Tử làm Trung đô tể, rồi từ đó lên chức Tư Không, Tư Khấu, dự vào việc chánh nước Lỗ. Rồi vào năm Định Công thứ 12, lúc đó ông được 54 tuổi, Khổng Tử rời nước Lỗ. Trong thời gian 4 năm ấy, đó là thời kỳ ông làm chánh trị. Sau khi rời nước Lỗ, Khổng Tử châu du qua các nước Vệ, Tống, Tào, Trịnh, Trần, Thái, lận đận lao đao, không được ở lâu, yên ổn ở một chỗ nào. Ông đã gặp nạn ở đất Khuôn, bị Hoàn Đồi mưu hại, tuyệt lương ở giữa khoản Trần Thái, bị kẻ ẩn sĩ mỉa mai. Mặc dù trong thời kỳ ấy có lúc ông trở về nước Lỗ, nhưng vẫn không ở được yên nơi, yên chốn. Đến năm Ai Công thứ 12 (486 trước Tây lịch) ông mới trở về Lỗ, sống luôn cho đến lúc qua đời. Trong thời gian 14 năm kể trên, đó là thời gian Khổng Tử đi châu du khắp nơi, đệ tử đi theo cũng đông, y như lãnh tụ của một chánh đảng ngày nay dẫn dắt môn đệ đi hoạt động chánh trị vậy. Mặc khác, Khổng Tử cũng tìm dịp thuận tiện, bất câu lúc nào, hay ở đâu, tìm cách dạy học, mặc dầu trong lúc nguy khổn, cũng vẫn dạy học, đàn hát không ngưng... Sau khi trở về nước Lỗ, ông chuyên tâm về việc dạy học và trước tác, mà nhứt là việc trước tác. Ông biên soạn sách Thượng Thơ để gìn giữ sử liệu đời cổ đại, định sách Sĩ Lễ 17 thiên để dạy đệ tử, chánh kinh Nhạc, chánh kinh Thi, 4 quyển sách ấy đều do tự tay Khổng Tử biên soạn để làm tài liệu dạy học. Ông đọc Chu Dịch và làm lời truyện cho Thoán, Tượng, căn cứ theo sử nước Lỗ, viết thành quyển Xuân Thu... Hai tác phẩm sau, là Khổng Tử giũa gọt quan thơ để thành nên sự nghiệp xuất sắc đặc biệt cho mình. Mặc dù Khổng Tử đã nói :" Chỉ thuật mà không viết gì". Nhưng sự thật ông lấy sự "thuật" làm trước tác...cho nên trong thời gian ấy, có thể nói là thời kỳ trước thuật của Khổng Tử. * Khổng Tử tuy có làm chánh trị, nhưng vẫn không thực hiện được lý tưởng chánh trị của mình. Ông cũng đã trước thuật, nhưng vẫn thuật mà không có trước tác. Hậu nho đối với việc sáng thuật Lục kinh của Khổng Tử, đều có những ý kiến khác nhau, duy chỉ có một điều không ai có thể chối cãi được là sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử rất vĩ đại, và vĩ đại nhứt là tinh thần của ông trong việc giáo dục "học không mỏi, dạy không mệt". Sáu chữ trên nói lên được rõ ràng tinh thần của ông, trong việc giáo dục, nhờ thế mà ông lập nên sự nghiệp vĩ đại, lưu truyền cho đến ngày nay. Nền giáo dục có mục đích làm cho người thông đạt, biết lập thân và trở thành người tốt, hữu dụng. Có tinh thần phấn phát không biết mệt mỏi là có quyết tâm, có chí lớn. Lập thân cho mình, lại muốn lập thân cho kẻ khác, muốn mình thông đạt rồi lại làm cho kẻ khác thông đạt, tự mình học tập đi đến chỗ dạy người, từ chỗ không chán nản mà không bao giờ thấy mệt mỏi, đó là lòng rộng rãi bao la, biết thương yêu mọi ngưòi. Vì thế cho nên Tăng Tử mới nói :"Cái đạo của Phu Tử Trung Thứ mà thôi vậy". Sở dĩ Khổng Tử trở thành bậc đại thánh, là nhờ ở những đức tánh ấy, các môn đệ cảm phục, kính yêu Khổng Tử là cũng nhờ ở những đức tánh ấy, cho nên mới ghi lại tất cả những lời nói, việc làm, thái độ, nếp sống của Ngài để thành pho Luận Ngữ. Đệ tử ghi chép lời nói của thầy để thành một pho sách, đây là lần đầu tiên thấy trong lịch sử, vì thế mới sắp Khổng Tử là người đầu tiên trong Chư Tử...và trong các tác phẩm của Chư Tử, pho Luận Ngữ, cũng là pho sách đứng hàng đầu, người đời sau dùng chữ Nho để đặt tên cho học phái của Khổng Tử là rất đúng, vì chữ Nho bao hàm những ý nghĩa tốt đẹp đã kể trên. * Về Kinh, các nhà học giả thời nay cho rằng do Khổng Tử trước tác, còn các nhà học giả thời xưa thì lại cho rằng Lục Kinh là sách xưa của ông Châu Công và đó là quan thơ, không phải do Khổng Tử trước tác, trong quyển Thập Tam Kinh Khái Luận của Tưởng bá Tiềm có viết rõ về vấn đề nầy. Thiên Học nhi trong sách Luận Ngữ có viết : "Học mà thường tập cũng chẳng vui vẻ sao ? Có bạn bè từ phương xa đến cũng chẳng thích sao ? Người không biết mà không giận, cũng chẳng là quân tử sao ? " Học để biết cái mới, tập để ôn cái cũ, học tập mà có tâm đắc, thì nội tâm vui sướng, muốn thôi cũng không được, mà cũng không thấy chán nản. Trong sách Bạch Hổ thông nghĩa có chép :" Thầy và trò có cái đạo bằng hữu" cho nên mới có câu "Có bằng hữu từ phương xa đến" tức là trong đoạn sách Thế Gia chép "Đệ tử ngày càng đông, từ phương xa đến, không ai là không thọ nghiệp... Cái vui khi bạn bè đến, đó cũng là một cái vui trong 3 cái vui của người quân tử, đó là ý của Mạnh Tử khi được giáo dục kẻ anh tài trong thiên hạ. Người không biết mà không giận, chẳng phải là người thờ ơ, chẳng chú tâm đến việc gì cả...mà là người khiêm nhượng, kiên nhẫn, chỉ lấy việc giáo dục người làm điều vui cho mình... Bạn bè từ phương xa đến, tri thức không đồng đều, có người chậm chạp thiếu hiểu, cũng không vì đó mà giận, và nếu không giận thì có kiên nhẫn để dạy dỗ đúng như lời Khổng Tử đã nói "học không chán, dạy không mệt"...Vì lẽ đó mà khi viết sách Luận Ngữ, các đệ tử đã viết trước tiên trong thiên Thuật nhi câu :"thầy có nói : Yên lặng suy nghĩ mà biết...học không mỏi, dạy không mỏi, những điều đó ta có chăng ? Làm hết bổn phận mình là "Trung" xét mình và xét người là Thứ...Chuyện gì mình không muốn đừng làm cho người khác, đó là cái đạo "Thứ" tiêu cực, còn "chuyện gì mình muốn, thì cũng làm cho người khác" đó là đạo "Thứ" tích cực. Đạo của Khổng Tử là "đạo người" mà cũng là đạo của lòng nhơn cho nên Tăng Tử mới nói :"Đạo của Phu Tử là Trung và Thứ mà thôi". xxxxxxxxxx Hình 4. THẤT THẬP NHỊ HIỀN Trích trong : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (quyển Hạ trang 81) (Theo Confucius et l'Humanisme Chinois của P. Đỗ Đình)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 18:08:21 GMT 9
Các đệ tử của khổng tử
A - 1. Hữu Nhược - 2. Tăng Sâm - 3. Bốc Thương - 4. Đoan Mộc Tứ - 5. Phàn Tu - 6. Ngôn Yển - 7. Nhan Hồi - 8. Trọng Do - 9. Chuyên Tôn Sư - 10. Nhiễm Cầu - 11. Tể Dư - 12. Công Dã Trường - 13. Mật Bất Tề - 14. Nhiễm Ung - 15. Tất Điêu Khai - 16. Công Tây Xích - 17. Nguyên Hiến - 18. Mẫn Tổn - 19. Tư Mã Canh - 20. Nhiễm Canh - 21. Vu Mã Thi - 22. Nhan Vô Do - 23. Cao Sài - 24. Tăng Điểm
B - 1. Nam Dung - 2.Thân Tranh - 3.Trần Cang - 4.Lao - 5.Thiềm Đài Điệt Minh - 6.Công Bá Liêu - 7.Lâm Phóng - 8.Nhụ Bi - 9.Mạnh Ý Tử.
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
Khổng Tử mở đầu phong trào dạy học tư nhơn, tụ tập học trò rất đông, và ông dạy không bao giờ biết mệt mỏi...Học trò noi theo đạo thầy làm cho học phái hưng thịnh thêm : đó là phái Nho gia.
Lúc đầu thời Chiến quốc, đó là thời kỳ toàn thạnh của Nho gia, cho nên khi nhắc đến Chư Tử của thời ấy, là không thế nào không đề cập đến các đệ tử của Khổng Tử...mà Mạnh Tử là người được kể là người cao đệ trong số hơn 70 đệ tử của Khổng Tử.
Phần Khổng Tử Thế Gia trong sách Sử Ký có viết : " Khổng Tử dùng Thơ, Thi, Lễ Nhạc để dạy ".
Số đệ tử có đến 3000. Người thông Lục nghệ có 72 như nhóm Nhan Thục Trâu đến thọ nghiệp rất đông...như thế thì cao đệ của Khổng Tử có đến 72 người.
Trong sách Trọng Ni đệ tử liệt truyện có viết : " Kẻ thọ nghiệp mà thông, có đến 77 người ".
Chữ thông đây có nghĩa là thông Lục Nghệ (Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu).
Kiểm lại số người có chép trong sách quả đủ số 77, so với tài liệu Thế gia thì thấy nhiều hơn 5 người.
Tại sao lại có sự sai biệt như thế ? Hay là tài liệu Thế gia chỉ ghi những người tinh thông đầy đủ Lục nghệ, còn sách Liệt truyện không có ghi đủ mấy chữ " thông Lục nghệ ".
Cũng có người cho rằng số 5 người ấy chỉ là những người hay lui tới thọ nghiệp chớ chẳng phải là những môn đệ chánh thức chăng ?
Có điều đáng chú ý là Nhan thục Trâu, một môn đệ không chánh thức không thấy ghi tên trong sách Liệt truyện.
Trong quyển " sách Ẩn " có viết : Sách Khổng Tử gia ngữ có viết số môn đệ là 77 nhưng trong pho Gia miếu đồ của Văn Ông thì lại vẽ 72 người học trò.
Tài liệu Thế gia và Gia miếu đồ giống nhau, sách Liệt truyện và Gia ngữ giống nhau. Có điều đáng chú ý là trong quyển Gia ngữ bản mới ở thiên " Thất thập nhị đệ tử bi " phần sau cùng có viết : Sau đây là 72 người đệ tử của Phu Tử đều đến mức " thăng đường, nhập thất " (học đến nơi đến chốn).
Mặc dù viết như thế, nhưng số tên người chép phía sau lại tới 77 ! Qua chứng cứ trên, ta thấy sách Sử ký và Gia ngữ đều có những chỗ mâu thuẫn.
Tại sao lại có chuyện ấy ?
Sách " Sử ký thám nguyên " viết : " Có người trong truyện nầy không chép, nhưng lại thấy trong Luận Ngữ, đó là tên " Lao ", trong phần Thế gia có chép thêm 2 tên người đó là Mạnh ý Tử, Nhan thục Trâu ", dường như Mạnh ý Tử không phải là đệ tử, Lao và Nhan thục Trâu trong sách truyện không có ghi, nếu hợp tất cả tên có ghi trong các sách lại thì có đến 79 người "
Nếu xét kỹ số người đệ tử có ghi trong quyển Đệ tử truyện thì có một số khá đông, không thấy có tên trong sách Luận Ngữ. Nếu căn cứ theo Luận Ngữ, thì có một số người khộng phải là đệ tử, và cũng có một số người khác đáng nghi ngờ.
Trong các sách của Khổng môn, quyển Luận Ngữ là đáng tin hơn hết, còn Mạnh Tử nói " 70 học trò " chắc là chỉ muốn nói số tròn cho gọn.
Bây giờ, tốt hơn hết là dùng sách Luận Ngữ làm căn cứ, phối hợp với các sách Sử ký, Gia ngữ để tìm hiểu về các đệ tử của Khổng Tử...như thế có phần ổn hơn.
Theo sách Sử ký và Trọng Ni đệ tử liệt truyện thì số học trò có ghi tên đến 77, được phân làm 2 lớp.
1.- Lớp thứ nhứt là những người có tên, tuổi, việc học thấy có ghi trong sách vở, tổng cộng số nầy có tất cả là 33 người.
2.- Lớp thứ hai, là những người không có ghi tên, có đi học mà không thấy tên được nhắc trong sách vở, số nầy tổng cộng 44 người.
Thật ra, trong số người ở lớp thứ nhứt, cũng có 8 người không thấy được nhắc tên trong sách Luận Ngữ, đó là Công tích Ai, Thương Cù, Nhan Hạnh, Nhiễm Nho, Tào Truất, Công tôn Long, Bá Kiều.
Trong lớp thứ hai lại có hai tên người thấy trong Luận Ngữ, nhưng danh tánh lại khác nhau, đó là Thân Đảng, tức trong Luận Ngữ gọi là Thân Tứ, Nguyên cang Tịch, tức trong Luận Ngữ gọi là Trần Cang.
Trong Luận Ngữ cũng có 4 tên người không thấy ghi trong sách Đệ tử truyện đó là : Lao, Lâm Phóng, Nhu Bi, Mạnh ý Tử.
Lược khảo về đệ tử của Khổng Tử, căn cứ theo Luận Ngữ là chắc chắn hơn hết, nên xin theo thứ tự trong Luận Ngữ, liệt kê những nhân vật như sau : 1. Hữu Nhược.
Trong thiên Học nhi, thiên thứ nhứt của Luận Ngữ, chương đầu ghi lời nói của Khổng Tử, chương hai là ghi lời của Hữu Tử.
Hữu Tử tên là Hữu Nhược, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Là người nước Trịnh " (Trịnh Huyền có sách Mục lục về đệ tử của Khổng Tử, nhưng sách đã mất).
Sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 13 tuổi, sách Chánh nghĩa lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 33 tuổi ".
Ấn bản mới của sách Gia ngữ thiên đệ tử giải có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Trong các sách khác như Lễ ký, sách của Khổng Dĩnh Đạt thì lại ghi " Nhỏ hơn Khổng Tử 43 tuổi ".
Các thuyết đều khác nhau, không biết đâu là đúng.
Sách Đệ tử có chép : " Khổng Tử đã mất, đệ tử nhớ thương, Hữu Nhược hình dáng giống Khổng Tử, đệ tử đồng ý với nhau lập Hữu Nhược làm thầy, rồi thờ như thờ lúc Khổng Tử còn sống. "
Sách Gia ngữ lại chép Khổng Tử tiên tri, biết trời sẽ mưa, và Thượng Cù sẽ có 5 người con, đó là những điều truyền thuyết huyền hoặc của hậu nho đề cao Khổng Tử một cách vụng về và nhơn đó để so sánh Hữu Nhược không thể nào bằng Khổng Tử được...
Sách Luận Ngữ nhắc đến các đệ tử, dùng chữ " tử " (thầy) để gọi, duy chỉ có hai người mà thôi : đó là Hữu Nhược và Tăng Tử.
Hữu Nhược được tất cả các đồng môn tôn xưng, sách Lễ ký có viết : Lời nói của Hữu Nhược giống như Khổng Tử, sách Đệ tử truyện lại viết : Hình trạng ông giống Khổng Tử, vì thế mà tất cả môn đệ đều lập ông lên làm thầy...như thế thì " trông diện mạo mà chọn người " vậy.
Thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử có viết về sau cái chết của Khổng Tử :
" Ngày nọ, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương, vì thấy Hữu Nhược giống như thầy mà muốn thờ Hữu Nhược như thờ thầy nên bắt ép Tăng Tử theo.
Tăng Tử nói :
- Không nên...Sông Giang, Hán đã gột rửa, nắng thu đã hong sấy, nên sáng rỡ, không thể nào được như thế !
Quả thật chuyện đó đã có bàn đến, nhưng bị tăng Tử không đồng ý nên Hữu Nhược không được tôn...
Tăng Tử chỉ nói Khổng Tử không có ai so sánh được, không thể suy tôn một người nào để kế vị, chớ không phê phán một lời nào về Hữu Nhược cả.
Trong Sử ký có chép : Khổng Tử là người học rộng, biết nhiều, không việc gì mà không biết...Nhơn đó mà người đời sau phụ họa cho rằng Khổng Tử tiên tri để quá khen ông một cách vụng về.
Hữu Tử, họ Hữu mà tên Nhược, dường như không có gì đáng nghi cả.
Trong sách Lộ sử chép " Hữu thị là hậu duệ Hữu sào thị nhưng Hữu sào thị chỉ là một danh từ tuợng trưng chỉ người thời thượng cổ làm ổ trên cây mà ở, chớ không phải ở thời ấy có dòng Đế vương tên họ như thế.
Thời thượng cổ cũng có những tên : Hữu hùng thị, Hữu nga thị, Hữu hộ thị, Hữu tô thị, rồi Hữu Ngu, Hữu Hạ, Hữu Ân, Hữu Châu, nhưng chữ Hữu ở đây chỉ là " phát ngữ từ " mà thôi.
Từ xưa đến nay, ở Trung Hoa chưa bao giờ nghe ai có họ Hữu cả.
Sách Gia Ngữ Đệ Tử Giải có viết : Hữu Nhược, người nước Lỗ, tự là Tử Hữu như thế là tên Nhược, còn tự là Tử Hữu chớ không phải họ Hữu.
2. Tăng Sâm.
Sách Luận Ngữ, thiên Học nhi, chương tư, có ghi lời Tăng Sâm, và cũng gọi là Tăng Tử.
Tăng Sâm tự Tử Dư, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều ghi nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, người ở Nam Võ thành, tức hiện nay thuộc tỉnh Sơn Đông, phía Tây Nam, cách Phí huyện 90 dặm.
Quyển " sách Ẩn " có viết : " Đất Võ thành thuộc nước Lỗ, lúc đó cũng có Bắc Võ thành, cho nên mới ghi rõ là Nam Võ thành ".
Như thế thì Tăng Tử cũng là người nước Lỗ. Tăng Tử là người nỗi tiếng có hiếu, thiên Thái Bá trong sách Luận Ngữ có viết : " Tăng Tử có bịnh, triệu môn đệ tử vào nói : " Mở chưn cho ta, mở tay ta (xem coi có gì lạ không). Kinh Thi viết : Nơm nớp lo ngại như đi gần vực sâu, như bước trên giá mỏng ". Từ nay trở đi ta mới biết là khỏi vậy các người ơi !
Trong Hiếu kinh có câu " Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cam hủy thương " là do câu nói trên mà ra vậy.
Mạnh Tử có nói : "Tăng Tử nuôi Tăng Tích, ắt có rượu, thịt, sắp dọn thì hỏi có cần thêm gì không ? Nếu có hỏi có còn thức ăn nữa không, thì cứ bảo luôn là còn. "
Mạnh Tử đã khen Tăng Tử nuôi cha.
Gia ngữ có viết : Nước Tề thường rước ông, muốn ông làm quan Khanh, nhưng ông không đến mà nói rằng :
- Cha mẹ tôi già, ăn lộc của người thì lo việc người, cho nên tôi không nỡ xa cha mẹ để làm việc cho người khác.
Như thế chúng ta đã thấy chữ Hiếu của Tăng Sâm.
Gia ngữ cũng có viết chuyện ông bỏ vợ vì vợ chưng trái lê không chín, rồi sau đó không cưới vợ nữa v.v...chuyện nầy chắc do kẻ hiếu sự đặt thêm chớ không có sự thật.
Trong các sách Đệ tử truyện, Gia ngữ, Hán chí đều nói : " Khổng Tử nói về đạo Hiếu cho Tăng Tử nghe, rồi Tăng Tử mới viết Hiếu kinh. "
Nhưng trong Hiếu kinh bắt đầu có câu : " Trọng Ni ở đó, Tăng Tử hầu... ". Như thế thì dù cho quyển sách nầy của Khổng Tử nói ra, Tăng Tử chép thì cũng không bao giờ có việc ghi lên trên mấy chữ Khổng Tử và Tăng Tử như vậy.
Người ta nghĩ rằng ai đó đã viết quyển Hiếu kinh và vì Tăng Tử có hiếu nổi tiếng, cho nên mới mượn danh mà ghi vào quyển sách.
Mạnh Tử có viết : " Tăng Tử ở Võ thành dạy học ", thật ra thì Tăng Tử không bao giờ có dạy học cả.
Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tăng Tử là người nhỏ tuổi hơn cả và cũng thọ hơn nhiều người, cho nên trong các thiên của sách Lễ ký, thường có nhắc đến Tăng Tử luôn.
Trong thiên Lý nhơn sách Luận Ngữ có chép :
" Khổng Tử bảo Tăng Tử :
- Đạo của ta " Nhứt dĩ quán chi ".
Tăng Tử liền nói với môn nhơn :
- Cái đạo của Phu Tử, Trung Thứ mà thôi vậy "
Vì thế Chu Tử mới viết " Chỉ có mình Tăng Tử mới độc cái chơn truyền đạo thống. "
Ông cũng cho rằng thiên Đại Học trong sách Lễ Ký là do Tăng Tử viết, và định đó là một trong pho Tứ Thơ.
Trong sách Hán chí, phần Nho gia, có ghi tên sách của Tăng Tử viết gồm 18 thiên, nhưng đã bị thất lạc.
Sách " Nguyên hoà tánh soán " có viết : " Dưới thời Xuân Thu, Lữ diệt Tăng, Tăng thái tử là Vu làm quan ở nước Lỗ, bỏ ấp của mình mà trở thành Tăng thị (lớp bình dân).
Theo sách Thế bổn : Vu sanh Phụ, Phụ sanh Tích là phụ thân của Tăng Tử 3. Bốc Thương.
Tự Tử Hạ, sách Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi ".
Sách Tập giảo dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Bốc Thương ở Ôn Quốc ". Gia ngữ thì lại nói là người nước Vệ, sách Lễ Ký lại ghi là người nước Nguỵ.
Thành cũ nước Ôn, ngày nay nằm ở Tây Nam Ôn huyện, tỉnh Hà Nam. Ôn là một nội ấp của nhà Châu, sau thuộc nước Vệ.
Lễ ký chép là người nước Nguỵ có lẽ vì Tử Hạ đã ở một thời gian rất lâu ở vùng Ngụy phía Tây Hà.
Sách Đệ tử truyện viết : Khổng Tử đã mất, Tử Hạ ở Tây Hà dạy học, làm thầy Ngụy Văn hầu...
Sách Tùy đồ kinh chí chép đất An âm có Tây Hà đó là chỗ ở của Tử Hạ, chỗ ấy hiện nay ở phía Đông cách huyện Thang âm 30 dặm, phía Nam sông Khương thủy ; sách " Sách Ẩn " thì lại nói đất ấy hiện nay là Đồng Châu của tỉnh Thiểm Tây, còn sách Chánh nghĩa thì lại nói đó là quận Tây Hà thuộc huyện Phàn Dương tỉnh Sơn Tây, các thuyết trên đây đều không đúng.
Trong sách Sử ký, phần Nho lâm truyện có viết : " Điền Tử Phương, Đoàn can Mộc, Ngô Khởi, Cầm hoạt Ly v.v... đều thọ nghiệp với Tử Hạ ", như thế thì việc dạy học ở Tây Hà thịnh hành là dường nào cũng đủ thấy.
Trong thiên Tử Lộ, sách Luận Ngữ đã viết : " Tử Hạ làm quan Tể ở Lữ phủ ", Lữ phủ là một ấp của nước Lỗ, như thế thì Tử Hạ thường làm quan ở nước Lỗ.
Thiên Tiên Tiến trong sách kể trên cũng có viết : " Văn học thì Tử Du, Tử Hạ,... "
Trong thiên Tử Trương cũng có ghi lời Tử Hạ : " Hằng ngày đều biết cái quên của mình, hằng tháng không quên cái hay của mình...đó có thể nói là hiếu học vậy ". Như thế là Tử Hạ giỏi về văn học mà lại còn hay về ôn cố, tri tân nữa. Những nhà Kinh học cũng cho rằng, Lục kinh, đa số đều do Tử Hạ truyền, vì thế Hậu nho mới gọi Tử Hạ là thầy " truyền kinh " sắp ngang hàng với Tăng Tử là thầy " truyền đạo ", và Hán nho thì theo Tử Hạ, còn Tống nho thì theo Tăng Tử. 4. Đoan Mộc Tứ.
Tự Tử Cống, người nước Vệ. Sách Đệ tử truyện và Gia ngữ đều nói nhỏ hơn Khổng Tử 31 tuổi.
Trong thiên Tiên Tiến, sách Luận Ngữ có viết : " Ngôn ngữ, có Tể Ngã và Tử Cống ", như thế là Tử Cống giỏi về khoa ngôn ngữ.
Đệ tử truyện cũng có viết : " Tề sắp đánh Tấn, Tử Cống qua du thuyết với Ngô, bảo hãy bỏ Việt để đánh Tề, rồi lại qua Tấn du thuyết đánh Ngô, Tử Cống một lần ra đi du thuyết, giữ còn nước Lỗ, làm loạn Tề, phá Ngô, làm mạnh Tấn, làm Bá nước Việt, là nhờ giỏi về khoa ngôn ngữ...
Thật ra, chuyện ghi trên đây không giống với tài liệu Ngô thế gia và Tề thế gia...cũng có thuyết nói ông làm tướng nước Tề, Vệ, nhưng không có bằng chứng gì đáng tin.
Trong thiên Tiên Tiến cũng có chép : " Nếu Tứ không chịu mạng với đế vương mà đi buôn thì làm giàu ".
Tử Cống có tài sản đến ngàn vàng, trong các sách Đệ tử truyện, Hóa thực truyện và Gia ngữ đều có chép.
Sách Thôi thuật chép rằng, Tử Cống giàu, là chỉ lưu tâm đến việc sản xuất, chớ không phải buôn bán.
Về cuối đời Xuân Thu, thương nghiệp đã lần lần phát đạt, vì các đệ tử của Khổng Tử không chú tâm đến việc lợi, nếu lo làm giàu thì tất nhiên sẽ có nhiều người sẽ giàu lớn, lời nói của họ Thôi, không phải là không căn cứ.
Tử Cống là người có tiền nhiều nhứt trong số môn đệ của Khổng Tử, mà nghèo nhứt là Nguyên Hiến và Nhan Uyên, cho nên sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều có chép chuyện Tử Cống đến thăm Nguyên Hiến.
Tử Cống sùng bái ngôn luận của Khổng Tử, điều nầy thấy có chép rất nhiều trong sách Mạnh Tử, cho nên Thôi Thuật mới nói : " Khổng Tử mà được sáng danh trên đời là nhờ công của Tử Cống rất nhiều ". 5. Phàn Tu.
Tự là Tử Trì, trong sách Gia ngữ và Đệ tử truyện đều chép nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi. Trịnh Huyền cho ông là người nước Tề, nhưng Gia ngữ lại nói là người nước Lỗ.
Sách Gia ngữ cũng chép : Ông thường làm quan với Quí thị, nhưng không biết căn cứ vào đâu mà sách Gia ngữ lại viết như thế.
Thiên Tử Lộ trong sách Luận Ngữ có viết : Phàn Trì xin học làm ruộng làm vườn, Khổng Tử chê là " tiểu nhơn "
Chữ tiểu nhơn nầy là đối với chữ quân tử tại vị...cũng như Mạnh Tử đã nói chữ " dã nhơn " vậy (người quê mùa).
Sách Bạch Thủy Bi có viết : " Phàn Tu tự là Tử Đạt, Phàn Hưởn tự Tử Trì, như thế dường như Phàn Tu và Phàn Hưởn là hai người...Người đời xưa dùng chữ Tu có nghĩa là " râu " mà cũng có nghĩa là chờ đợi, như thế thì Phàn Tu, tự là Trì cũng có lý...
Phần trên có nói : Một người chống gậy mỉa mai Khổng Tử : " Tay chưn không động, 5 giống lúa không phân biệt được " là ý muốn chê Khổng Tử không lao động.
Trước thời Khổng Tử, chưa có tư nhơn dạy học, thâu học phí của đệ tử [ngày xưa chữ thúc tu (bó nem) là như học phí bây giờ]. Lúc đó cũng chưa có giới bình dân đi đó đi đây du thuyết, và hoạt động chánh trị...vì hế những kẻ ẩn sĩ rất chướng tai gai mắt với phong trào mới mẻ ấy.
Ýù của Phàn Trì, có phải muốn chống đối thái độ thiếu lao động của Nho gia thời ấy chăng ? Hay là ông phẫn chí vì cái đạo không hành được trong lúc ấy chăng ? Hay là Phàn Trì đã nhận được sự cần thiết của lao động, cày cấy ; làm vườn là điều thực tế trong hoàn cảnh xã hội lúc đó ? 6. Ngôn Yển.
Tự Tử Du, Đệ tử truyện chép : " Người nước Ngô, nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi ". Sách Gia ngữ chép : " Người nước Lỗ, nhỏ hơn Khổng Tử 35 tuổi... "
Theo sách Luận Ngữ, Lễ Ký, có chép thì Tử Du, Tử Hạ và Tăng Tử đều có nhiều lời nói trong các sách ấy, tuổi những người ấy xấp xỉ nhau. Có lẽ theo sách Đệ tử truyện là đúng.
Số đệ tử của Khổng Tử, người nước Lỗ là nhiều hơn hết. Kế đó là người nước Vệ, rồi sau là người nước Tống.
Sách Mạnh Tử có chép : " Nước Trần, Lương, Sở sanh ra, đẹp cái đạo của Châu Công, Trọng Ni, phía Bác học với Trung quốc ". (Trong thiên Đằng Văn Công).
Sau khi Khổng Tử mất, vì Ngô cách xa với Lỗ, và Khổng Tử cũng chưa hề đến Ngô, mà Tử Du, chỉ là người độc nhứt mà nước Ngô, không nài đường xa vạn dặm đến học, xét ra, sách Gia ngữ chép có phần đúng.
Tử Du thường làm quan ở Lỗ, làm quan Tể ở Võ Thành. Thiên Dương Hóa trong sách Luận Ngữ có viết : " Tiếc người có đại tài mà đem dùng vào việc nhỏ ".
Thiên Lễ vận sách Lễ Ký có chép Tử Du dạy " Đại đồng và Tiểu khương ", Tử Du và Tử Hạ đều nổi tiếng về văn học và cũng giỏi về Lễ, và thiên Lễ vận là cũng do học trò của Tử Du ghi chép. 7. Nhan Hồi.
Tự Tử Uyên, Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Người nước Lỗ, một đai cơm, một bầu nước, nhưng không thay đổi sự vui thích (Thiên Ung dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã Tràng), ham học, không giận dỗi vô lý, không bị lầm lỗi hai lần (thiên Ung dã) cho nên Khổng Tử khen : Ta thấy nó tiến mà không hề thấy nó dừng lại (thiên Tử Hản), các bạn đồng môn nhiều người tôn sùng, như Tử Cống đã nói : " Tứ nầy đâu dám mong như Hồi " (thiên Tiên Tiến) nhưng ông không may chết sớm, cho nên Khổng Tử khóc rất cảm động : " Trời hại ta, trời hại ta ". Tình cảm đau xót tràn ngập ngoài thái độ và ngôn ngữ, vì Nhan Uyên là một đệ tử rất đắc ý của Khổng Tử, cho nên trong thiên Tiên Tiến đã sắp ông là người có nhiều đức hạnh hơn hết.
Về tuổi của Nhan Uyên, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi.
Đệ tử truyện lại có viết : " Nhan Hồi 29 tuổi, tóc đều bạc, chết sớm ". Gia ngữ cũng viết : " Nhan Tử 29 tuổi mà tóc bạc, mới 32 tuổi mà chết sớm ".
Thiên Lực mạng trong sách Liệt tử lại viết " tài Nhan Hồi không dưới đám đông, nhưng chỉ thọ có 4, 8 (32).
Truyện Tôn Đăng, sách Tam quốc Ngô chí có viết : " Tôn Quyền lập Đăng làm thái tử, tuổi 33, Đăng đã thượng sớ viết : Nhan Hồi ở Châu Lỗ có tài thượng trí mà còn yểu chiết...hà huống gì thần đã qua tuổi thọ của ông, v.v... " như thế thì Nhan Tử chỉ có 32 tuổi dường như là đúng.
Nhan Hồi nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi, chết vào năm 32, lúc đó Khổng Tử 62 tuổi nhằm năm thứ 5 đời Ai Công.
Bá Ngư chết vào năm 12 đời Ai Công, lúc đó Khổng Tử 69 tuổi, như thế chết sau Nhan Hồi 8 năm, nhưng trong thiên Tiên Tiến sách Luận Ngữ lại chép, Nhan Uyên chết, Nhan Lộ xin chiếc xe của Khổng Tử làm cái quách, Khổng Tử đáp :
- Khi Lý (Bá Ngư) chết, cũng chỉ có quan mà không quách...
Như thế thì Bá Ngư chết trước Nhan Uyên.
Trong sách Ngũ Kinh dị nghĩa của Hứa Thận, cho đó nếu là lời giả thiết cũng không hợp tình lý, thế nên trong sách Sử Ký thám nguyên nói rằng tuổi của Nhan Uyên phải là nhỏ hơn Khổng Tử 40 mới hợp lý, vì nếu ông chết vào năm 32 tuổi, thì Khổng Tử 72, lúc đó thì Bá Ngư đã chết được 3 năm rồi... 8. Trọng Do.
Tự Tử Lộ, cũng gọi là Quí Lộ. Đệ tử truyện và Gia ngữ đều chép : " Nhỏ hơn Khổng Tử 9 tuổi, người đất Biện, Biện là một ấp của Lỗ, thành cũ hiện nay ở phía Đông huyện Tư Thủy, tỉnh Sơn Đông, như thế thì Tử Lộ cũng là người nước Lỗ.
Tử Lộ hiếu dõng, thích tiến thủ, học được điều gì chưa làm được, thì không chịu học thêm (Thiên Công dã Trường trong Luận Ngữ), nhưng ông không biết lo ngại, dè dặt, tính toán khi lâm sự để thành công nên Khổng Tử mới nói : Tay không cự cọp dữ, lội bừa qua sông nguy hiểm, chết mà không hối hận...ta không như thế (thiên Thuật nhi).
Khổng Tử cũng thường than thở : " Như ngươi Do, thì bất đắc kỳ tử vậy " (thiên Tiên Tiến).
Sau Tử Lộ làm quan ở nước Vệ và chết trong nạn Bằng Khoái đánh đuổi Triếp.
Khổng Tử đang ăn, nghe tin Tử Lộ bị chết thảm, liền khóc lớn : " Trời dứt ta, trời dứt ta ". (Xem Đệ tử truyện và thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký).
Khổng Tử thường khen Tử Lộ : " Một lời nói có thể đoán định được việc hình ngục " (thiên Nhan Uyên) và " Nước có ngàn cổ xe có thể dùng ông vào việc tài chánh (thuế má) " (thiên Công dã Trường) thế nên trong sách Luận Ngữ có viết : " Việc chánh thì Nhiễm Hữu và Quí Lộ ".
Dưới thời Quí Hoàn Tử, ông thường làm quan Tể cho Quí thị. Lúc Khổng Tử làm quan ở nước Lỗ, mà được Quí tôn trọng dụng là cũng nhờ Tử Lộ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 18:12:18 GMT 9
9. Chuyên Tôn Sư. Tự Tử Trương, Đệ tử truyện và Gia ngữ có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 48 tuổi, người nước Trần ". Sách " Sách Ẩn " dẫn lời Trịnh Huyền : " Người đất Dương Thành. Dương Thành thuộc về nước Trần... " Thiên Tôn Sư trong " Lã thị Xuân Thu " viết : " Tử Trương thuộc về một gia đình tầm thường ở nước Lỗ " như thế là cho Tử Trương là người nước Lỗ. Họ Chuyên Tôn đuổi Trần công tử, chuyện nầy thấy có chép trong sách Thông chí thị tộc lược...nhưng theo sách Tả truyện thì vào năm 25 đời Chiêu Công, Chuyên Tôn ra đi...Năm Chiêu Công thứ 25 thì Khổng Tử mới 35 tuổi thì Tử Trương chưa sanh, làm sao Tử Trương là con Chuyên Tôn được. Họ Chuyên Tôn đẩy Trần công tử qua Lỗ, thế nên mới có thuyết Tử Trương là người nước Trần, nước Lỗ. Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ có viết : " Tử Cống hỏi Sư với Thương (Bốc Thương) ai hiền ? " Khổng Tử đáp : " Sư thì thái quá, còn Thương thì bất cập ". Tử Cống lại hỏi thêm : " Như thế thì Sư hơn chăng ? " Khổng Tử đáp : " Thái quá thì cũng như bất cập...vì Tử Hạ tánh tình đôn hậu thành thật, nhưng khí độ lại hẹp hòi, còn Tử Trương thì khí độ rộng rãi, tánh tình xốp nổi, hay khoa trương và hơi bạc... " Thiên Tử Trương trong sách Luận Ngữ có viết : Môn nhơn của Tử Hạ hỏi về chuyện giao thiệp với Tử Trương. Tử Trương hỏi : " Về chuyện đó thầy Tử Hạ nói như thế nào ? ". Môn nhơn đáp : - Thầy Tử Hạ nói : Nếu người khá thì cùng giao thiệp. Nếu không khá thì cự tuyệt... Tử Trương nói : - Chỗ tôi biết thì khác : Người quân tử tôn hiền mà bao dung đám đông, khen người lành mà xót thương người dở...Ta có phải là kẻ đại hiền chăng ? Làm sao không dung người được ? Ta là kẻ chẳng hiền chăng ? Người ta sẽ cự tuyệt ta, ta làm sao cự tuyệt người được ? Xem chương nầy, chúng ta thấy khí độ hai người không giống nhau. Thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký có viết : " Tử Hạ đã hết tang mà đến ra mắt...Ta đàn, họa đó mà không hòa, đàn mà không thành tiếng... Bảo rằng : Buồn chưa quên được...vì Tiên vương chế lễ mà không dám vượt qua... Tử Trương đã hết tang, mà đến ra mắt, ta đàn, họa đó mà hòa, đàn mà thành tiếng. Bảo rằng : Tiên Vương chế lễ, chẳng dám chẳng đến... ". Đọc chương nầy, ta thấy tánh tình hai người chẳng giống nhau. Tăng Tử nói : - Đường đường Tử Trương cũng khó mà sánh được cái nhơn của người ấy. Theo Đệ tử truyện, Tử Hạ nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi, Tử Du nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi, Tăng Tử nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, Tử Trương nhỏ hơn 48 tuổi, 4 ông nầy là lớp thiếu niên đồng môn tuổi xấp xỉ nhau, mà Tử Trương nhỏ hơn hết. Mạnh Tử có nói : Khổng Tử đã mất, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương vì thấy Hữu Nhược giống thánh nhơn nên muốn dùng lễ thờ Khổng Tử, thờ Hữu Nhược mà bắt Tăng Tử phải theo. Tăng Tử không đồng ý (thiên Đằng văn Công) như thế, lúc Khổng Tử mất, 4 thầy kể trên là lãnh tụ của các đồng môn vậy. Trong thiên " Phi thập nhị tử ", Tuân Tử đã phê bình Tử Trương, Tử Hạ và Tử Du là 3 phái " tiện Nho " mà không đề cập đến Tăng Tử là vì cho phái của Tăng Tử là chánh thống. Sách Luận Ngữ ghi những lời đệ tử phát biểu ý kiến mình, về Tăng Tử thấy có 13 lần, Tử Hạ 12 lần, Tử Trương 2 lần, Tử Du 4 lần, 4 ông ấy là tuổi trẻ nhứt trong số đồng môn, và đó là số đệ tử nổi nhứt trong số đệ tử lớp sau. Số đệ tử lớp trước, như Nhan Tử, chỉ thấy lời nói có một lần ; và đó là lời tán tụng Khổng Tử, lời nói của Tử Cống có 7 lần ; trong số có 5 lần tán tụng Khổng Tử còn phát biểu ý kiến mình chỉ có 2 lần...Như thế thì số đệ tử từ lớp sau phát biểu ý kiến riêng của mình nhiều hơn lớp trước. 10. Nhiễm Cầu Tự Tử Hữu, người nước Lỗ, Gia ngữ vết : " Ông thuộc tông tộc Trọng Cung ". Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ". Khổng Tử khen ông có thể làm quan Tể cho một ấp ngàn nhà, hay là một nhà có đến 100 cổ xe (Thiên Công dã Tràng trong Luận Ngữ), như vậy là giỏi về việc chánh cũng như Tử Lộ. Nhiễm Hữu có nói về chí, cho rằng : " Nếu cần làm việc đó, thì 3 năm có thể làm cho dân ấm no " ; như thế là giỏi về lý tài. Ông đã làm chức việc coi thu góp cho Quí thị. Khổng Tử có nói : " Cầu không phải là học trò của ta...tiểu tử hãy nổi trống công kích nó ! " Nếu chuyên môn về lý tài thì sẽ đi đến chỗ tệ hại là cứ lo thu góp. Cá tánh của ông tương phản với Tử Lộ...cho nên Khổng Tử đã nói : " Cầu thoái bộ cho nên phải đẩy tới, còn Do thì lấn lướt người, nên phải kéo lui...(thiên Tiên Tiến). Nhiễm Hữu thường nói : " Không phải tôi không thích cái đạo của thầy, tôi chỉ không đủ sức ". Khổng Tử nói : " Sức không đủ, giữa đường mà bỏ, là tại ngươi tự vạch cho mình. Tự cho mình là sức không đủ, tự vạch lằn mức cho mình mà không cầu tiến, đó gọi là thối vậy ". Trong sách Khổng Tử thế gia có ghi chuyện Quí Khương Tử trước triệu Nhiễm Hữu trở về nước Lỗ, nhờ lời Nhiễm Hữu mà mới rước Khổng Tử về để an dưỡng tuổi già. Khổng Tử được trở về Lỗ là nhờ công Nhiễm Hữu vậy. 11. Tể Dư Tự Tử Ngã, sách Gia ngữ và Trịnh Huyền đều viết là người nước Lỗ, cùng với Tử Cống nổi tiếng về ngôn ngữ (thiên Tiên Tiến trong Luận Ngữ). Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Tể Ngã làm quan ở nước Tề, làm đại phu đất Lâm Tri, rồi làm loạn với Điền Thường mà bị tội tru di... Khổng Tử xấu hổ về việc đó... ". Trong sách Tề thái công thế gia, có Hám Chỉ cũng tự là Ngã (Tề thế gia viết là Giám Chỉ, cũng tức là người nầy), bị Điền Thườngh giêÙt, Lý Tư truyện, cũng có viết : " Điền Thường âm mưu chiếm nước Tề, giết Tể Dư trước sân chầu...và giết Giản Công ở nhà thái miếu ". Người ta đã lầm Hám Chỉ với Tể Ngã, trong Đệ tử truyện cũng như thế, nhưng trong Đệ tử truyện lại lầm thêm là người bị Điền Thường giết lại viết ra là người ấy cùng âm mưu với Điền Thường làm loạn, đã lầm lẫn rồi còn lầm lẫn thêm làm cho đệ tử của Khổng Tử bị hàm oan. Các sách Cổ sử, Duy trai tục bút, Sử Ký thảo chứng đều có biện bạch chuyện nầy rất rõ ràng. Tể Ngã ngủ ngày, Khổng Tử trách " Củi mục không thể chạm trỗ được, vách đất không thể tô phết được (thiên Công dã Tràng) ". Tể Ngã muốn tang 3 năm ngắn lại, Khổng Tử chê là " bất nhơn " (thiên Dương Hóa). Khổng Tử lại nói : Trước kia ta đối với người, nghe lời nói mà xem xét việc làm, bây giờ ta đối với người, nghe lời nói mà tin việc làm...đối với Tể Dư ta đã thay đổi như thế. Tể Ngã bị mắng, trách, thật ra cũng quá nhiều. Điền Thường tức là Trần Hằng trong thiên Hiếu Vấn sách Luận Ngữ. Trần Hằng giết vua, Khổng Tử tắm rửa mà đi chầu, xin thảo phạt, như thế thì lúc Điền Thường giết Giản Công, Khổng Tử còn sống. Nhiễm Hữu làm nhiệm vụ thu góp cho Quí thị, Khổng Tử còn không thích việc làm đó, giả sử như Tể Ngã mà hiệp lực với Điền Thường làm loạn thì Khổng Tử đâu có thể làm thinh mà không phê phán được ? Tử Lộ tử nạn ở nước Vệ, Khổng Tử nghe tin buồn rầu khóc lóc, giả sử như Tể Ngã bị chết trong loạn Điền Thường thì thế nào Khổng Tử cũng khóc...nhưng trong sách lại không thấy ghi hai việc nêu trên, như thế chắc chắn là đã có sự lầm lẫn về tên người. 12. Công Dã Trường Sách Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, tự Tử Trường. Sách " Sách Ẩn " viết : Người nước Lỗ, tên Trường. Phạm Ninh viết : Tự Tử Chi. Sách Luận Ngữ thích văn lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : tự Tử Trương. Sách Luận Ngữ tập giải dẫn lời Khổng an Quốc viết : " Công dã Trường người nước Lỗ, họ Công dã, tên Trường, các thuyết khác nhau là do chữ gần nhau và âm cũng tương tợ ". Khổng Tử đã gã con cho Công dã Trường, như vậy là rễ của Khổng Tử. 13. Mật Bất Tề. Tự Tử Tiện, sách Gia ngữ và Luận Ngữ tập giải đều viết : người nước Lỗ, sách Đệ tử truyện viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi. Sách " Sách Ẩn " dẫn lời sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Gia ngữ bản mới lại chép : Nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi, thường làm quan Tể ở Đơn phụ, gảy đàn, chẳng ra khỏi nhà mà trị. Sách Đệ tử truyện và Lã thị Xuân Thu đều có viết những dật sự lúc ông làm quan. Khổng Tử khen ông : " Quân tử thay con người đó...như vậy ông cũng là một cao đệ trong Khổng môn ". Sách Hán chí có chép : Nho gia, Mật Tử có viết quyển sách gồm 16 thiên nhưng bị thất lạc. Sách " Chánh Nghĩa " dẫn lời Nhan thị gia huấn viết : " Vĩnh Thành huyện ở Đái Châu tức là huyện Đơn phủ cũ, phía Đông có Tử Tiện bi, có khắc " Tế Nam phục sanh " tức là người dòng dõi của Tử Tiện. 14. Nhiễm Ung Tự Trọng Cung. Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ. Sách " Sách Ẩn ", dẫn lời Gia ngữ viết : " là tông tộc của Bá Ngưu, nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ". Thiên Ung dã trong Luận ngữ viết : Phu Tử gọi Trọng Cung bảo : " Con của trâu lang mà đã có sừng và sắc đỏ (có thể dùng cúng tế) tuy muốn chẳng dùng, nhưng núi sông (thần thánh) đâu có thể bỏ được. " Gia ngữ cũng có viết : " Sanh trong gia đình một người cha bất hiếu ". Sách Đệ tử truyện viết : " Cha của Trọng Cung là người đê tiện ". Những điều đó đều do ức đoán của sách Luận Ngữ mà ra. Trong thiên Tiên Tiến thì liệt Trọng Cung vào hạng đức hạnh, trong thiên Ung Dã, Khổng Tử khen " Có thể khiến ngồi day mặt về phương Nam " là rất hợp với ý trên. Trọng Cung thường làm quan Tể cho Quí thị (xem thiên Tử Lộ) mà thành tích chánh trị không thấy ghi trong sách vở, không hiểu tại sao... 15. Tất Điêu Khai. Tự Tử Khai, sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ, sách Chánh nghĩa dẫn lời Gia ngữ viết : Người nước Thái tự Tử Nhược nhỏ hơn Khổng Tử 11 tuổi. Trong sách Hán chí phần Nho gia có Tất điêu Tử, là đệ tử Khổng Tử, hậu duệ cuả Tất điêu Khai. Sách " Tiên kinh đại huấn " viết tên là Bằng. Sách Bạch thủy bi ghi tự là Tử Tu. Thiên Công dã Tràng sách Luận Ngữ có viết : " Phu Tử bảo Tất điêu Khai làm quan. Thưa : " Dạ đối với việc ấy tôi chưa được tự tin ". Phu Tử rất thích ". Trong sách Luận Ngữ, thấy tên Tất điêu Khai chỉ có trong chương ấy mà thôi. 16. Công Tây Xích Đệ tử truyện viết : " Tự Tử Hoa, nhỏ hơn Khổng Tử 42 tuổi ". Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ. Khổng Tử khen : Thắt đai đứng chốn thiên đình, có thể nói chuyện với tân khách (Thiên Công dã Tràng, sách Luận Ngữ) ". Tử Hoa cũng nhận mình : " Nguyện làm tiểu tướng ở chốn Tôn miếu Hội đồng " (thiên Tiên Tiến) như vậy Tử Hoa có tài về ngoại giao. Mã Dung trong sách Luận Ngữ tập giải viết : Tử Hoa có dung nghi có thể làm hành nhơn (đi sứ) Thiên Ung dã cũng có ghi chuyện Tử Hoa đi sứ ở nước Tề, Nhiễm Tử xin gạo cho mẹ, và Khổng Tử có nói : Chu cấp không nên tiếp giúp cho kẻ có tiền... Đây là chuyện chép lúc Khổng Tử còn làm quan Tư Khấu, dự việc chánh ở nước Lỗ. Nếu xét cho kỹ, lúc đó Khổng Tử đúng 52 tuổi, thì Tử Hoa mới có 10 tuổi thôi, như thế là Đệ tử truyện sai lầm. 17. Nguyên Hiến Tự Tử Tư, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ ". Sách Gia ngữ viết : " Người nước Tống, nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Thiên Ung dã trong sách Luận Ngữ viết : " Nguyên Tư làm quan Tể, cho lúa 900 mà từ chối ". Sách Gia ngữ cũng viết : " Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, Nguyên Hiến thường làm quan Tể cho Khổng Tử ". Không nghe nói Khổng Tử có Thái ấp (đất cấp) như thế thì tể đây là giao tể, không phải là ấp tể. Có thuyết nghi rằng, Nguyên Hiến nhỏ hơn Khổng Tử 26 tuổi, Gia ngữ lầm chữ " tam " với chữ " nhị ". Nếu như Gia ngữ nói đúng thì lúc Khổng Tử làm Tư Khấu, thì Nguyên Hiến chỉ có 16 tuổi, Nguyên Hiến rất nghèo, sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều chép như thế. 18. Mẫn Tổn. Tự Tử Khiên, người nước Lỗ, Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 15 tuổi ". Gia ngữ viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 50 tuổi ". Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tăng Tử và Tử Trương nhỏ hơn hết, chữ 50 đây rõ ràng là 15 (chữ Nho đọc đảo ngược 50 thành 15). Thiên Ung dã trong sách Luận Ngữ, làm quan Tể đất Phí, ông hết sức từ chối, như thế thấy ông thanh khiết thế nào. Trong thiên Tiên Tiến, Khổng Tử lại khen Mẫn Tử có hiếu, ông cũng được khen có nhiều đức hạnh sau Nhan Tử. Trong sách Hàn thi ngoại truyện, Nghệ văn loại tụ, có chép chuyện Lư Y cố sự là do người đời sau bày vẽ thêm. Mẫn Tử Khiên Theo bản khắc trên đá mộ chí dưới thời Bắc Ngụy (220 T.L) (rút trung Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc, quyển 1 trang 127) 19. Tư Mã Canh Tự Tử Ngưu, người nước Tống, sách Luận Ngữ tập giải của Khổng an Quốc viết : Ngưu là đệ tử của Tư mã Lê, dường như cũng có tên là Lê. Ngưu là em của Tư mã Hoàn Đồi nước Tống, Hoàn Đồi chuyên quyền ngang ngược, vua Tống thảo phạt, Hoàn Đồi thua chạy qua nước Tào rồi nước Vệ. Ngưu bỏ ấp chạy qua Tề, Hoàn Đồi cũng chạy qua Tề, Ngưu lại bỏ Tề, chạy qua Ngô, người nước Ngô không ưa, liền trở về Bắc, đi ngang qua Lỗ, chết ngoài cửa thành, cho nên Khổng Tử đã khuyên : " Người quân tử không lo, không sợ ", mà Ngưu thì có lời than : " Người ta đều có anh em, chỉ có mình tôi là không có gì cả " (thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ). (Trong chữ Nho, Ngưu và Lê hình và nghĩa tương tợ nhau, nên Ngưu lầm ra Lê, chớ chẳng phải có hai tên). 20. Nhiễm Canh. Tự Bá Ngưu, người nước Lỗ, sách Khuyết lý quảng chí và Thánh môn chí đều viết : nhở hơn Khổng Tử 7 tuổi. Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ liệt ông vào hàng đức hạnh, thiên Ung dã viết : Bá Ngưu có bịnh, Phu Tử hỏi thăm ngoài cửa và nắm tay yên ủi : " Mất ...là mạng vậy, người như vầy mà lại có bịnh như thế ". Phu Tử thương tiếc sâu xa, tình cảm hiện rõ ra lời nói. Tên Bá Ngưu thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có hai chương mà thôi. Sách Luận Ngữ chỉ viết có bịnh. Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : Bá Ngưu có " ác tật ". Sách của Hoài nam Tử, Tinh thần huấn có viết : " Bá Ngưu có bịnh phong cùi, đó là bịnh khó trị và cũng dễ truyền nhiễm, thế nên mới gọi là ác tật. Khổng Tử thân đến thăm, Bá Ngưu sợ truyền nhiễm nên không để cho Phu Tử vào, mà chỉ để đứng ngoài cửa hỏi thăm, Bá Ngưu ra ngoài nằm phía trong cửa, Khổng Tử thấy bịnh tình nguy ngập, cảm thương nên cầm tay Bá Ngưu xem thử mạch, thấy mạch đã mất nên than thở ". Đọc đoạn nầy, thấy tình cảm của Khổng Tử đối với môn đệ thật đậm đà. 21. Vu Mã Thi Gia ngữ viết : tự là Tử Kỳ, người nước Trần, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Luận Ngữ lại chép là : Vũ Mã Kỳ (thiên Thuật nhi). Đệ tử truyện chép : tự Tử Kỳ. Sách Hán thơ, thiên Lễ kim nhơn biểu, và thiên Câu bị lãm của Lã thị Xuân Thu cũng chép là Tư Mã Kỳ. 22. Nhan Vô Do. Tự Tử Lộ, nhỏ hơn Khổng Tử 6 tuổi, theo sách Đệ tử truyện và Gia ngữ, thì trong số đệ tử, chỉ có Nhan Lộ là lớn hơn hết. Sách Gia ngữ viết : Nhan Do, tự Quí Lộ, cha Nhan Uyên. Lúc Khổng Tử mới bắt đầu mở trường dạy ở xóm ấp, thường đến học. Thiên Tiên Tiến có chép : Nhan Uyên chết, Nhan Lộ xin xe của Khổng Tử để làm cái quách. Luận Ngữ nhắc đến Nhan Lộ chỉ có chương ấy mà thôi, xem qua chương ấy, cũng chưa chắc được là ông đã có học với Khổng Tử hay không. 23. Cao Sài. Tự Tử Cao, Đàn Cung cũng viết là Tử Cao (chữ Cao trong tên ông Cao Dao). Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết Người nước Vệ. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng 40 tuổi. Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ viết : " Bảo Tử Lộ cho Tử Cao làm quan Tể đất Phí, Gia ngữ viết Tử Cao thường làm quan Tể đất Võ thành. Cũng có sách chép ông làm quan Sĩ sư nước Vệ, thường làm tội chặt chân người, và trong cuộc loạn Bằng Khoái, những người bị tội chặt chân thoát đượcv.v... 24. Tăng Điểm Tự Tích, sách Đệ tử truyện lại chép là Tăng Điềm. Sách Thuyết văn viết : Điềm tuy có nghĩa là đen, nhưng lại sáng suốt. Trong thiên Tiên Tiến, chương Thị tọa, sách Luận Ngữ có viết chuyện Tử Lộ, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa, mỗi người đều nói xong " chí " của mình, Phu Tử liền quay lại hỏi Tăng Tích : - Còn Điểm, ngươi như thế nào ? - Tôi thì khác với ba người ấy... Phu Tử nói : - Cũng là mỗi người nên nói lên cái chí của mình vậy. Tăng Điểm tiếp : - Xuân phục đã thành, kẻ đội mũ năm, sáu người, tắm ở sông Kỳ, hứng gió ở nền Võ Vu, ca hát mà về. Trong thiên Đàn Cung cũng có chép chuyện đám tang Quí Võ Tử, Tăng Tích đứng dựa cửa mà hát v.v...cho nên Mạnh Tử đã đáp với Vạn Chương, cho rằng ông với Cầm Trương, Mục Bì là một số người mà Khổng Tử cho là cuồng sĩ (Thiên Tận Tâm). * Trong sách Luận Ngữ, có ghi tên số đệ tử của Khổng Tử, chỉ có 24 người kể trên mà thôi. Nhưng số người nổi danh, cũng có thêm một số người nữa, mà còn được tài liệu để tham khảo là 9 người, xin ghi thêm như sau : 1. Nam Dung. Thiên Công Dã Trường trong sách Luận Ngữ có viết : " Phu Tử bảo Nam Dung : Nước có đạo thì không bị bỏ, nước không đạo thì khỏi bị hình lục, Phu Tử liền đem đứa cháu gái (con của anh) gả cho ông ấy ". Sách Luận Ngữ tập giải viết : " Nam Dung là đệ tử của Nam Cung Đạo, người nước Lỗ ". Sách Gia ngữ viết : " Nam Cung Đạo tự Tử Dung, đời trong sạch không bị bỏ, đời ô trọc không bị nhiễm. Khổng Tử đem đứa cháu gái gả cho. Đệ tử truyện viết : " Nam Cung Quát tự Tử Dung, thiên Hiến Vấn sách Luận Ngữ viết Nam Cung Quát, Nghệ, rất thiện xạ ". Sách tập giải dẫn lời Khổng an Quốc : Quát là Nam Cung Kỉnh Thúc. Sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu, sách Thù Tứ khảo tín lục đều viết là Nam Cung Quát và Nam Cung Kỉnh Thúc là một người. Sách Lễ Ký của Trịnh Huyền viết : Nam Cung Đạo tức là Nam Cung Duyệt con của Mạnh hi Tử. Sách Thế bản cũng có viết : " Trọng Tôn Quốc sanh Nam Cung Đạo ". Sách Tả truyện viết : Nam Cung Kỉnh Thúc và Khổng Tử qua nhà Châu, Kỉnh Thúc là con Mạnh hi Tử, tức Nam Cung Kỉnh Thúc là Nam Cung Đạo vậy. Trong sách Hán thơ, phần Cổ kim nhơn biểu thì lại cho rằng Nam Cung Kỉnh Thúc và Nam Dung là hai người, thế nên về những nhân vật Nam Dung, Nam Cung Quát, Nam Cung Đạo, Nam Cung Kỉnh Thúc, Trọng Tôn Duyệt, những người ấy liên quan như thế nào, chưa có tài liệu nào xác định được cả. 2.Thân Tranh. Thiên Công dã Tràng trong sách Luận Ngữ viết : Phu Tử nói : Ta chưa thấy ai cứng rắn... Hoặc có kẻ đáp : Có Thân Tranh. Phu Tử nói : Thân Tranh nhiều lòng dục, đâu có cứng rắn. Sách Tập giải viết : " Thân Tranh người nước Lỗ. Sách Đệ tử truyện không có tên Thân Tranh, chỉ có Thân Đảng, tự là Châu. Sách Chánh Nghĩa viết : " Người nước Lỗ. Sách Đệ tử khảo dẫn Lễ điện đồ của Văn ông nói có Thân Đảng ; Hán Vương Chánh bi có viết : " Không có lòng dục của Thân Đường ". Sách Luận Ngữ thích văn có dẫn lời Gia ngữ : " Thân Tục, tự Châu. Sách Sử ký, sách Ẩn lại viết Thân Trách...các thuyết đều khác nhau không biết đâu là đúng. 3.Trần Cang. Tự Tử Cầm, thấy có tên trong sách Luận Ngữ ở 3 chương, chương 1 là Học nhi, chương 2, Tử Cầm hỏi Tử Cống và thiên Quí thị, chương Trần Cang hỏi Bá Ngư. Sách Luận Ngữ do Trịnh Huyền chú và thiên Đàn Cung trong kinh Lễ đều nói là đệ tử của Khổng Tử. Trong sách Đệ tử giải không có tên Trần Cang, mà chỉ có Nguyên Cang Tịch. Sách Gia ngữ viết : " Trần Cang, người nước Trần, tự Tử Ngươn, cũng tự là Tử Cầm, nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi rồi cũng có người có tên là Nguyên Cang tự Tử Tịch, như thế thì Trần Cang và Nguyên Cang không phải là một người. Thiên Đàn Cung viết : " Trần Tử Xa chết ở nước Vệ, vợ ông và quan Đại phu tính toán việc tuẫn táng mà Trần Tử Cang đến...Trịnh Huyền có lời chú : Tử Xa là Đại phu nước Tề, Tử Cang là em Tử Xa, như thế thì Tử Cang lại là người nước Tề. Sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu phân : Trần Cang, Trần Tử Cầm và Trần Tử Cang là 3 người, và không cho là đệ tử của Khổng Tử. 4.Lao. Thiên Tử Hản trong sách Luận Ngữ có viết : " Lao có nói : Phu Tử nói : Ta không làm thử, nên không có nghề ". Tên Lao thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có chương ấy mà thôi. Trịnh Huyền, trong sách Tập giải viết : " Lao là đệ tử Tử Lao không biết họ là gì. Thiên Tắc dương trong sách Trang Tử có viết : " Trường Ngô hỏi người về chuyện Tử Lao ". Sách Thích văn dẫn lời Tư mã Ban viết : " Tức là Cầm Lao, đệ tử của Khổng Tử ". Trong sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu cũng có Cầm Lao. Vương Kiện Tôn trong Đọc thơ tạp chí gọi tên Cầm Lao là lầm với Cầm Trương, vì Tả truyện và Mạnh Tử đều có tên Cầm Trương và sách Trang Tử cũng có Tử Cầm Trương mà không viết Cầm Lao. Cầm Lao tự là Trương, thấy có chép trong Gia ngữ, người đời sau căn cứ theo đó mà sửa chữa lại trong sách Hán thơ. 5.Thiềm Đài Điệt Minh. Tự Tử Vũ, người Võ thành, sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 39 tuổi. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi ". Thiên Ung dã trong sách Luận ngữ có ghi việc Tử Du làm quan Tể đất Võ thành, Khổng Tử hỏi có tìm được người giỏi không. Tử Du tiến cử Thiềm Đài Diệt Minh. Đệ tử truyện chép : Hình trạng Tử Vũ thật xấu xa, muốn đến thờ Khổng Tử làm thầy. Khổng Tử nghĩ rằng dù cho có tài ít, mà chịu khó học tập thì cũng có thể lập danh được. Sau đó, Khổng Tử nói : " Ta xem lời nói để dùng người, thì bị thất bại với Tể Dư, xem diện mạo dùng người, thì bị thất bại với Tử Vũ ". Sách Gia ngữ viết : Tử Vũ có dung mạo của người quân tử, mà tài thì không xứng, trái ngược lại những điều đã chép trong Đệ tử truyện. 6.Công Bá Liêu Đệ tử truyện chép Công Bá Liêu, tự Tử Châu, Luận Ngữ tập giải viết : Người nước Lỗ, trong sách Gia ngữ không thấy chép tên người nầy. Trong sách Luận Ngữ, đề cập đến Công Bá Liêu chỉ có 1 chương trong thiên Hiến Vấn, đề cập đến việc tố Tử Lộ với Quí Tôn. Thiên Hoặc Vấn trong sách Luận Ngữ của Chu Tử chú giải cho rằng : " Đó là lúc đánh Tam độ, tìm thấy giáp binh " ! Công Bá Liêu tố cáo Tử Lộ, tức là muốn ly gián Khổng Tử như thế rõ ràng là ông nầy không phải là đệ tử của Khổng Tử. Như thế, Luận Ngữ và Đệ tử truyện đều lầm lẫn. 7.Lâm Phóng Thiên Bát dật trong Luận Ngữ, có chép chuyện Lâm Phóng hỏi về cái goấc của Lễ, Khổng Tử khen : Đó là câu hỏi " lớn " và cũng có ghi chuyện Quí thị đến Thái Sơn, Khổng Tử lại có nói " Thái Sơn không bằng Lâm Phóng chăng ? " Lời chú sách Luận Ngữ không có ghi ông là đệ tử, trong Đệ tử truyện cũng không thấy nói đến, duy chỉ trong Lễ điện đồ của Văn Ông nói Lâm Phóng là đệ tử của Khổng Tử mà thôi. 8.Nhụ Bi Trong thiên Dương hoá sách Luận Ngữ, có ghi Nhụ Bi muốn ra mắt Khổng Tử. Khổng Tử từ chối, bảo là mình có bịnh, người truyền lờivừa ra ngoài là ông lấy đàn, đàn hát, muốn cho Nhụ Bi nghe. Thiên Tạp Ký trong Lễ ký viết : " Tang của Truất Do, Ai Công khiến Nhụ Bi đến học tang lễ với Khổng Tử, vì đó mà có thiên Sĩ tang lễ, như thế chứng minh Nhụ Bi là đệ tử Khổng Tử. 9.Mạnh Ý Tử. Thiên Vi chánh trong Luận Ngữ, có chương Vấn hiếu của Mạnh Ý Tử, nhưng lại viết ông là Đại phu nước Lỗ, Đệ tử truyện cũng không thấy ghi tên ông, duy chỉ có sách Khổng Tử thế gia chép : Nghe theo lời di mạng của cha là Hi Tử đến học lễ với Khổng Tử * Trở lên, tất cả 33 người, trừ Công Bá Liêu, chắc chắn không phải là đệ tử của Khổng Tử, cũng còn một số đáng nghi ngờ. Người đời Thanh, khảo cứu về đệ tử Khổng Tử, lạm tăng lên đến con số 109 người, như thế là có ý nghĩ " càng nhiều càng tốt " nhưng lại thiếu những bằng chứng xác đáng, không dám tin hết được.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 18:16:45 GMT 9
Thân thế Bách Gia Chư Tử 3. Mạnh Tử
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
3. Mạnh Tử. Sau Khổng Tử, Mạnh Tử đáng tôn là bực Nho gia đại sư. Về Mạnh Tử, trong sách Sử ký có chép Mạnh Tử và Tuân Khanh liệt truyện, trong đoạn đầu phần Mạnh Tử có viết :
" Thái sử công nói rằng : Ta đọc Mạnh Tử, đến thiên Lương Huệ Vương, hỏi về chuyện lấy gì làm " lợi " cho nước, mà buông sách than thở và nói rằng : " Hỡi ôi ! Lợi là cái bắt đầu cho loạn vậy ! "
Phu Tử mà ít nói đến chuyện lợi là đề phòng cái nguồn hại đó...cho nên mới nói : Buông lung theo lợi mà làm thì gây ra nhiều oán.
Từ bực thiên tử cho đến thứ dân, cái tệ của ham lợi cũng có khác gì nhau đâu ! "
Hình 6. MẠNH TỬ Theo : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, quyển Thượng (trang 433). (Rút ở : Conficius et l'Humaniste Chinois của P. Đỗ Đình).
" Mạnh Kha là người đất Trâu, môn nhơn thọ nghiệp với Tử Tư, đạo đã thông mà đi du thuyết đến Tề Tuyên Vương, Tuyên Vương không dùng mà qua nước Lương.
Lương Huệ Vương không tin chắc lời nói của ông, cho rằng đó là những chuyện xa vời. Lúc đó, Tần dùng Thương quân, nước giàu quân mạnh, Sở, Ngụy dùng Ngô Khởi, chiến thắng những nước nhỏ, Tề Uy Vương, Tuyên Vương dùng Tôn Tử, Điền Kỵ, mà các nước chư hầu day mặt về phía Đông chầu nước Tề, trong thiên hạ chạy theo kế hiệp tung, liên hoành để công phạt lẫn nhau và xem đó là kế hoạch hay nhứt.
Trong khi đó thì Mạnh Tử thuật cái đức của Đường, Ngu, Tam Đại vì thế cho nên không hợp. Ông liền rút lui cùng với Vạn Chương, Công Tôn Sửu, thuật lại ý Trọng Ni mà viết quyển Mạnh Tử gồm 7 thiên ". Đây là truyện Mạnh Tử theo sách Sử ký, chỉ gồm có trên dưới 220 chữ.
Hơn nữa lại có những đoạn như " Thái sử Công nói : " Chuyện ấy có lạ gì " hay là vào lúc ấy ", v.v...Nếu lược bỏ những đoạn ấy ra thì số tài liệu còn dùng được chẳng còn lại bao nhiêu.
Các vì Tiên nho, khảo cứu về sanh bình của Mạnh Tử, thì có Trình phúc Tâm với quyển " Mạnh Tử biên niên lược; Đàm trinh Mặc với quyển " Mạnh Tử sự tích đồ phổ " ; Nhiêm khải Vận với " Mạnh Tử khảo lược ", Tào chi Thăng với " Mạnh Tử niên phổ " ; Định Tử Kỳ với " Mạnh Tử biên niên "...Diêm Nhược Cừ với " Mạnh Tử sanh, tốt, niên nguyệt khảo " ; Châu quảng Nghiệp với " Mạnh Tử tứ khảo " ; Thôi Thuật với " Mạnh Tử sự tích khảo ", đây là quyển sách nổi tiếng hơn hết.
Kiến hầu Công cho rằng tài liệu trong quyển Sử ký quá đơn sơ cho nên không dùng theo nguyên văn ấy để khảo sát mà gom góp các thuyết đáng tin cậy của nhiều tác giả để làm tài liệu lược khảo như sau :
Mạnh Tử lược khảo
Mạnh Tử tên Kha, người đất Trâu.
(Theo sách Hán chí, Triệu Kỳ viết : Chưa nghe ai nói tự là gì...Tương truyền gọi là Tử Dư, nhưng không có gì làm chắc.
Triệu Kỳ cũng viết : Mạnh Tử là công tộc nước Lỗ, hậu duệ của Mạnh Tôn, cho nên Mạnh Tử làm quan ở Tề, mẹ mất mà về để tang ở Lỗ.
Con cháu Tam Hoàn suy vi, nên phân tán ra các nước...
Diêm nhược Cừ viết : Mạnh Tử là hậu duệ của Mạnh Tôn, dòng công hầu ở Lỗ, rồi không biết ra đi đến đất Trâu lúc nào mà trở thành người ở Trâu...rồi sau về để tang ở Lỗ.
Khảo sát mộ bia của Mạnh mẫu, chúng ta cũng tìm thêm được một vài tài liệu. Mộ ở phía Bắc Trâu huyện, cách 20 dặm, phía Đông núi Mã Yên Sơn, ở đó không phải là nước Lỗ, chỉ nghi rằng hồi xưa thuộc về nước Lỗ, hiện nay nằm trong vùng Trâu huyện, vì hai nước ở sát bên nhau...Có sách chép mộ Mạnh mẫu ở cách không xa mộ Mạnh Tử, có thể nghi rằng cố lý của Mạnh Tư ûở vùng giáp giới Trâu-Lỗ.)
Ông sanh vào năm thứ tư đời Châu Liệt Vương.
Sách Sử ký, Sách Ẩn viết : Mạnh Tử chết vào năm Châu Noãn Vương năm thứ 26 (Nhâm Thân) thọ 84 tuổi, sách Địch thị biên niên theo thuyết trên và lại ghi thêm sanh vào ngày mùng 2 tháng 4.
Đời Châu Liệt Vương năm thứ tư nhằm năm 372 trước Tây lịch.
Thuở còn nhỏ, ông được nền giáo dục nghĩa phương của mẹ.
(Kinh Dịch viết : Còn nhỏ thì phải dưỡng cái " chánh ". Ngạn ngữ cũng có nói : " Dạy con dạy thuở còn thơ ", vì mẫu giáo ảnh hưởng đến con cái rất lớn.
Tương truyền Mạnh mẫu là Chưởng thị dạy con có nghĩa phương. Sách Liệt nữ truyện, thiên Mẫu nghi, sách Hàn thi ngoại truyện, có chép chuyện bà dời nhà 3 lần, và cắt đoạn lụa đang dệt để dạy con, cho đến ngày nay vẫn còn truyền làm giai thoại.
Sách Sử ký bổn truyện không có đề cập đến phụ mẫu của Mạnh Tử, nhưng sách Đề từ của Triệu Kỳ có viết : Cha chết sớm.
Mạnh Tử mất cha sớm, rồi sau mất mẹ, trong thiên Lương Huệ Vương sách Mạnh Tử có chép.
Sách Khuyết lý chí của Trần Oa, sách Tứ thơ nhân vật khảo của Tiết ứng Kỳ đều có viết : Mạnh Tử 3 tuổi, mồ côi cha, nhưng lại không biết căn cứ vào đâu.
Sách Địch thị biên niên, lại viết Mạnh mẫu là Lý thị, cha là Khích, tự Công Nghi.
Sách Liệt nữ truyện có chép : Lúc Mạnh mẫu cắt ngang đoạn lụa có nói : " Mẹ dệt mà có ăn. Nếu nửa đường bỏ mà không làm, thì đâu có thể có cho chồng mặc, và đâu có thể có ăn lâu dài ". Như thế thì lúc đó phụ thân của Mạnh Tử vẫn còn sống, nhưng vì Mạnh mẫu hiền, dạy con có phương pháp, nên vai trò của người cha bị lu mờ, người đời sau lầm lẫn mà cho là ông mất sớm khi Mạnh Tử còn nhỏ.
Khi ông lớn, thọ nghiệp với môn nhơn của Tử Tư và thành Đại Nho.
Ban đầu ông dạy học, rồi sau đi châu du, rồi sau cùng trở về quê hưởng tuổi già, trọn đời, việc làm rất giống Khổng Tử, ông đến gặp chư hầu, bắt đầu từ Trâu Mục Vương, lúc đó ông được 41 tuổi.
(Từ năm 40 tuổi trở về trước, Mạnh Tử chỉ dạy học, từ năm 40 về sau, đi châu du các nước, và sau 60 tuổi trở về an dưỡng tuổi già, như thế thì ông đi châu du các nước trong thời gian không quá 20 năm).
Ông từ nước Trâu qua Nhiệm, rồi từ Bình lục qua Tề, dưới thời Uy Vương làm quan ở Tề, chưa bao lâu, từ chức mà về quê.
Lúc qua Tống, gặp thế tử Đằng, sau thế tử lên ngôi, là Văn Công, Văn Công rước Mạnh Tử, Mạnh Tử từ Trâu qua Đằng rồi tìm cách bỏ nước Đằng qua Lương, ra mắt Lương Huệ Vương.
Huệ Vương mất, Tương Vương lên ngôi, Mạnh Tử rời nước Lương lại qua Tề. Rồi làm tân sư cho Tuyên Vương.
(Tân sư là lãnh tiền luơng mà không lãnh chức tước. Cho nên trong thiên Công Tôn Sửu, Mạnh Tử đã nói : " Không giữ chức quan thì không có trách nhiệm ".
Sung Ngu lại có nói : Làm quan mà không nhận lãnh chức tước. Lúc đó chức Tắc Hạ học sĩ ở Tề rất thạnh, không làm quan chức mà nghị luận về việc chánh, gọi đó là " Liệt Đại phu " Mạnh Tử cũng là một Liệt Đại phu).
Vua nước Yên là Khoái, nhường nước cho tôi là Tử Chi, trong nước loạn, Tề Tuyên Vương phạt Yên, lấy nước. Người Yên nổi lên chống Tề.
Người nước Tề cho rằng Mạnh Tử khuyên vua phạt Yên... Mạnh Tử liền bỏ nước Tề ra đi.
Yên Vương Khoái nhường nước, nhằm năm thứ 5 đời Thận Tịnh Vương, và năm đầu Noãn Vương. Nước Yên nội loạn, Tuyên Vương thừa cơn loạn kéo binh sang đánh, 5 tuần mà lấy nước Yên.
Người Yên nổi lên chống Tề.
Lúc ban đầu, Đại phu nước Tề là Trầm Đồng hỏi Mạnh Tử, nước Yên có thể đánh không ? Mạnh Tử đáp : " Được ".
Tề đã thắng Yên, Tuyên Vương hỏi : Nước Yên có thể lấy không ? Mạnh Tử đáp : Nếu dân Yên đồng ý thì có thể lấy, còn dân Yên không đồng ý thì không nên.
Tề đã lấy Yên, chư hầu mưu tính việc cứu Yên, Mạnh Tử khuyên Tuyên Vương bàn với người Yên lập vua mới. Đến lúc người Yên nổi lên chống lại, đa số người nước Tề đều đổ lỗi cho Mạnh Tử khuyên Tề đánh Yên, Mạnh Tử liền quyết ý rời bỏ Tề, mà bọn Thuần vu Khôn, Doãn Sĩ lại mỉa mai, nên chỉ có 3 đêm mà ra khỏi đất Hoạch, Tuyên Vương lại không cầm ông lại, nên Mạnh Tử dứt khoát ra về). [Xem thiên Công Tôn Sửu].
Từ đó ông qua nước Tống, nước Tiết, gặp lúc nước Lỗ khiến đệ tử Mạnh Tử là Nhạc chánh Khắc làm việc chánh, Mạnh Tử liền đến nước Lỗ, sau cùng lại bị Tàng Thương là người được vua sủng ái ngăn trở, ông lại trở về nước Trâu và an hưởng tuổi già.
(Khổng Tử mặc áo vải dẫn đệ tử đi châu du liệt quốc lúc cuối thời Xuân Thu, mở ra phong trào đi du thuyết, đến thời Mạnh Tử thì phong trào du thuyết đã thạnh hành.
Mạnh Tử đi châu du rất giống như Khổng Tử, nhưng Khổng Tử thì bị uy hiếp ở Khuôn, bị nguy ở Tống, bị tuyệt lương ở Trần, thường bị mỉa mai, còn Mạnh Tử thì có mấy mươi chiếc xe đi theo hộ tống, kẻ tùy tùng có đến mấy trăm, được chư hầu cung phụng đầy đủ.
Sở dĩ có chỗ khác nhau là vì hoàn cảnh, thời thế không giống nhau. Về chuyện du thuyết của Mạnh Tử, có rất nhiều nhà khảo cứu, nhưng cũng còn nhiều chỗ sai lầm về không gian và thời gian).
Năm Châu Noãn Vương thứ 26 ông mất, thọ 84 tuổi.
(Trong Sử Ký, sách Ẩn có ghi năm sanh và năm mất của Mạnh Tử. Trong Địch thị biên niên ghi Mạnh Tử mất vào ngày rằm tháng giêng.
Trong Niên Phổ của Tào chi Thăng, căn cứ theo cổ bia viết : Mạnh Tử mất vào ngày Đông chí. Người nước Trâu vì khóc Mạnh Tử mà bỏ lễ Đông chí, nhơn đó mà thành tục luôn. Vì nghi ngày Đông chí ấy không phải ở tháng Giêng nên đổi lại là ngày 15 tháng 11, v.v...
Theo lịch của nhà Châu thì tháng Giêng là tháng 11 của năm trước theo lịch nhà Hạ. Như thế, Đông chí tức là ở giữa tháng 11 của lịch nhà Hạ, nhưng tóm lại, Mạnh Tử mất vào ngày nào, tháng nào, năm nào, chỉ là truyền thuyết mà không có bằng chứng gì chắc chắn cả.
Mộ của Mạnh Tử hiện nay ở tỉnh Sơn đông, huyện Trâu, phía Bắc, cách 30 dặm, mộ nằm ở phía Đông núi Tứ Cơ sơn.
Dưới thời nhà Tống, Khổng đạo Phủ thú Đái Châu, tìm gặp mộ, liền sửa sang lại và cất miếu thờ, rồi Tôn Phục có làm bài ký về việc ấy.
Sách Mạnh Tử Tứ khảo của Châu quảng Mục có viết phía Bắc Đường khẩu sơn có mộ của Mạnh Tử, tức là mộ nầy.
Sách Sơn đông tỉnh chí có viết : Cố lý của Mạnh Tử ở Trâu huyện, hiện là Bác thôn, ở phía Bắc 30 dặm, trước nhà có Mạnh mẫu từ, như thế thì mộ ở cách ngôi nhà xưa không bao xa.
Hiện nay ở phía Nam Trâu huyện có Mạnh Tử miếu, là do huyện lịnh Châu Nhạc dưới thời Tống Huy Tôn, đời Tuyên Hòa dựng lên (1125 T.L.)
Sách Tục Văn hiến thông khảo chép : Vợ Mạnh Tử là Điền thị, con tên là Trạch. Sách Tam thiên chí viết : Con Mạnh Tử tên là Trọng Tử. Mạnh Tử niên phổ viết : Mạnh Trọng Tử tên là Trạch.
Con cháu của Khổng Tử, trong thiên Khổng Tử thế gia sách Sử ký ghi rất rõ, còn con cháu của Mạnh Tử không thấy có tài liệu nào ghi chép cả). Mạnh Tử đã mất, bọn đệ tử là Vạn Chương, Công Tôn Sửu liền biên thuật những lời nói của ông, gom lại thành bộ Mạnh Tử 7 thiên.
(Sách Hán chí, phần Nho gia, có ghi Mạnh Tử gồm 11 thiên. Triệu Kỳ, trong chú bổn của ông lại có 7 thiên, giống với bổn Mạnh Tử ngày nay.
Theo Sử ký bổn truyện và Triệu Kỳ đề từ, thì dường như 7 thiên ấy là do Mạnh Tử viết ra, nhưng thật là chỉ do đệ tử ghi chép lại mà thôi, trong phần sau, khi lược khảo về các tác phẩm, sẽ có những chứng cớ tường tận hơn.
Từ sau khi đệ tử Khổng Tử biên tập bộ Luận Ngữ, đệ tử của Mặc Tử biên tập lời nói của thầy để thành bộ Mặc Tử, cho đến đời Mạnh Tử thì thành thói quen.
Về đệ tử của Khổng Tử, thì sách Sử ký có ghi, còn đệ tử Mạnh Tử thì không thấy tài liệu nào ghi chép cả.
Trong sách nầy ghi tên những người ấy, hoặc có tên họ đủ, như Vạn Chương, Công Tôn Sửu, hay chỉ gọi là " Tử " như Nhạc Chánh Tử, Công Đô Tử, có khi cũng ghi là Trần Trăng hay là Trần Tử. Ngoài ra như Tào Giao, Cao Tử hay Cao Tẩu, Cao Tử là người đồng thời và lớn tuổi hơn, tất cả những người nầy đều không phải là đệ tử của Mạnh Tử.
* 4. Tuân Tử.
Sau Mạnh Tử, Tuân Tử cũng là một Nho gia đại sư, cho nên các học giả đời sau, hễ nhắc đến Mạnh Tử là nhắc luôn Tuân Tử.
Sách Sử ký hợp Mạnh Tử và Tuân Tử lại làm một truyện, cũng vì lý do ấy.
Tuân Tử truyện chép : " Tuân Khanh, người nước Triệu, tuổi 50 mới đến du " học " ở Tề (chữ " học " chép lầm). Bọn Điền Biền đã chết dưới thời Tề Tuyên Vương, mà Tuân Khanh còn là một lão sư.
Nước Tề luôn luôn sửa cái khuyết " Liệt đại phu " mà Tuân Khanh 3 lần làm chức Tế tửu.
Người nước Tề, có kẻ gièm pha ông, ông liền qua Sở, mà Xuân Thân Quân cho ông làm quan Lịnh đất Lan Lăng.
Xuân Thân Quân chết, rồi Tuân Khanh bị phế và nhơn đó, cất nhà ở luôn nơi đất Lan Lăng...Trước kia Lý Tư Thường là đệ tử ông, bây giờ làm tướng nước Tần. Tuân Khanh ghét cái chánh trị ô trược của đời, bọn vong quốc, loạn quân kế tiếp nhau, không thể làm đạo lớn được, mà chỉ lo về việc bói toán, phù thủy, tin số mạng. Bọn tầm thường, câu nệ như Trang Châu lại hoạt kê việc làm nên hư của Nho, Mặc viết ra thành mấy vạn lời rồi mới qua đời...và luôn đó được chôn ở Lan Lăng. "
Sách Sử ký ghi chuyện Tuân Khanh đơn giản như thế, hơn nữa tên ông là gì không thấy ghi rõ.
Hình 7. TUÂN TỬ Rút trong : Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc quyển 1 (trang 94).
*
Dưới thời Tây Hán, Lưu Hướng hiệu đính sách Tuân Tử, ghi tên là Tôn Khanh tân thơ, ông đã ghi về chuyện của Tuân Khanh như sau :
Tuân Khanh tên Huống, người nước Triệu. Vào lúc Tề Uy Vương và Tuyên Vương, tụ hiền sĩ trong thiên hạ ở Tắc Hạ và tôn kính, thương yêu, như Trâu Viễn, Điền Biền, Thuần Vu Khôn, số người như thế thật đông và gọi đó là " Liệt đại phu ", họ được người đời khen tặng, và có kẻ đã viết sách châm biếm đời.
Lúc đó Tôn Khanh đã có tài, tuổi 50 mới bắt đầu đi du thuyết đến thời Tề Tuyên Vương thì Tôn Khanh đã thành một lão sư được trọng vọng.
Người nước Tề, có kẻ gièm pha Tôn Khanh, ông liền qua Sở, Sở tướng là Xuân Thân Quân cho ông làm quan lịnh đất Lan Lăng.
Có người nói với Xuân Thân Quân : " Vua Thang dấy nghiệp có 70 dặm, vua Văn Vương 100 dặm, Tôn Khanh là người giỏi, mà lại cho đất 100 dặm, nước Sở sẽ bị nguy chăng ? "
Xuân Thân Quân liền tạ từ Tôn Khanh.
Tôn Khanh qua Triệu, sau đó, có người lại nói với Xuân Thân Quân : Ông Y Doãn bỏ nhà Hạ mà vào nhà Ân, nhà Ân nên nghiệp vương mà nhà Hạ mất. Quảng Trọng bỏ nước Lỗ vào nước Tề, mà nước Lỗ yếu, nước Tề mạnh, cho nên kẻ hiền ở đâu, thì vua được tôn, nước được yên, bây giờ Tôn Khanh là kẻ hiền trong thiên hạ, ông bỏ nước nào ra đi, nước ấy có yên chăng ?
Xuân Thân Quân lại sai người đến mời Tôn Khanh, Tôn Khanh viết thơ cho Xuân Thân Quân, chua chát với nước Sở. Xuân Thân Quân giận liền không mời nữa.
Sau đó, Xuân Thân Quân mất, ông liền làm nhà ở Lan Lăng.
Trước kia, Lý Tư Thường là đệ tử ông, bây giờ làm tướng cho Tần, và nhóm Hàn Phi, hiệu thuyết với ông...cho đến lúc Tần dùng Ứng Hầu làm tướng quốc, đều không thể dùng ông...
Ông đến nước Triệu, bàn luận việc binh với Tôn Tẩn, trước mặt Hiếu thành Vương, Tôn Tẩn nói về việc biến trá trong việc binh, Tôn Khanh lấy việc dùng binh theo vương đạo để vấn nạn, Tôn Tẩn không đáp được...và vì thế ông không được dùng.
Tôn Khanh không được đời dùng, về an dưỡng tuổi già ở Lan Lăng, ông ghét các chánh sách của đời ô trược, bọn vong quốc, loạn quân bè đảng nhau, đại đạo không thi hành được, mà chỉ chạy theo đồng bóng, bói toán, tin số mạng, bọn tầm thường như Trang Châu lại hoạt kê, làm rối loạn phong tục, vì thế mới suy diễn cái đạo đức và việc làm nên hư của Nho, Mặc, ghi chép mấy vạn lời mà sau đó qua đời, và được chôn ở Lan Lăng.
Người Lan Lăng giỏi về học vấn, là cũng nhờ Tôn Khanh vậy. Đến nay bậc trưởng lão còn khen ông : người Lan Lăng thích chữ nghĩa là nhờ ông...là vì bắt chước theo ông vậy.
Tài liệu nầy so với Sử ký bổn truyện thì có phần đầy đủ hơn, nhưng chỗ sai lầm thì cũng y như trong Sử ký.
Trong sách Tuân Tử lược khảo có chép thân thế của Tuân Tử, nhưng không y theo tài liệu của Sử ký, mà chỉ căn cứ theo tài liệu của Lưu Hướng.
Xin chép ra sau :
Tuân Tử Lược Khảo
Tuân Tử tên Huống, người nước Triệu, gọi là Tuân Khanh là người đương thời tôn ông vậy.
Cũng gọi là Tôn Khanh, Tuân thị, hậu duệ của Tuân Bá ngày xưa, chữ Tuân xưa có chữ " phụ " một bên, chữ Tuân hay Tôn, cũng là một âm mà chuyển ra.
Tuân Tử thường bàn luận việc binh với Lâm võ Quân, trước mặt vua Triệu Hiếu Thành Vương, ông ra mắt chư hầu, bắt đầu từ lúc đó, ông lại thường vào nước Tần ở phía Tây, ra mắt Chiêu Vương và Ứng Hầu Phạm Thư, lúc đó tuổi Tuân Tử chưa đến 50.
(Sách Tự lục và Hồ thị đều cho Lâm võ Quân là Tôn Tẩn, như thế là sai.
Tôn Tẩn giúp tướng nước Tề là Điền Kỵ, đánh bại binh Ngụy ở Mã Lăng giết tướng Ngụy là Bàng Quyên vào năm thứ 28 đời Châu Hiển Vương (341 trước T.L.) còn Triệu Hiếu Thành Vương lên ngôi vào năm thứ 50 đời Châu Noãn Vương (265 trước T.L.) như thế cách nhau đến 86 năm, như thế thì Tôn Tẩn đâu có thể nào ở với Hiếu Thành Vương được.
Sách Tuân Tử tập giải của Vương tiên Khiêm có phân tích rõ điều nầy).
Năm 50 tuổi, ông bắt đầu đi thuyết đến nước Tề, lúc đó là năm đầu của Tề vương Kiến...Nước Tề sắp xếp về Liệt Đại phu, vì Tuân Tử tuổi tác và đức hạnh đều cao, cho nên nhiều lần được tôn làm Tế tửu, ông thường bàn luận với tướng quốc nước Tề, nhưng sau cùng không được dùng.
Ông bỏ Tề qua Sở, nhằm năm thứ 8 Sở Khảo Liệt Vương, tức Tề vương Kiến năm thứ 10. Tướng quốc nước Sở là Xuân thân Quân, cho Tuân Tử làm quan Lịnh đất Lan Lăng, nhơn đó mà Tuân Tử cất nhà luôn ở Lan Lăng.
Khảo Liệt Vương ở ngôi 25 năm, sau khi mất, Xuân thân Quân bị giết, lúc đó Tuân Tử vẫn còn.
Tuân Tử đã an dưỡng tuổi già luôn ở Lan Lăng, bèn dạy học, viết sách, đệ tử ông như Hàn Phi, Lý Tư, Phù khâu Bá, đều nổi danh sách Hán chí phần Nho giáo, có Tuân Khanh Tử, tự Tuân Tử, cho đến bây giờ vẫn còn.
[Hàn Phi và Lý Tư thường thọ nghiệp với Tuân Tử, trong sách Sử ký, trong phần Lý Tư truyện và Hàn Phi truyện có chép điều nầy. Phù khâu Bá thường học kinh Thi với Tuân Tử, thấy có chép trong Hán thơ. Ba người nầy là những đệ tử nổi tiếng nhứt của Tuân Tử.
Theo sách Hán chí thì sách Tuân Tử gồm 33 thiên, Lưu Thượng trong sách Tự Lục thì ghi 32 thiên, giống với bổn chúng ta có ngày nay].
Tuổi thọ của Tuân Tử và ngày sanh, ngày qua đời của ông, không có tài liệu gì dùng để xác định được cả. Con cháu của ông cũng không có sách vở gì ghi lại.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2010 18:18:48 GMT 9
Lão Tử.
Lão Tử là người của phái Đạo gia tôn sùng, nhưng cũng có người cho rằng Lão Tử là người khai tổ cho Bách Gia Chư Tử.
Gần đây, Giang Tuyền, trong sách " Đọc tử hộ ngôn " có một thiên : " Luận về Đạo gia, và Bách gia cũng từ đó mà ra... " tức là suy tôn Lão Tử là người khai tổ cho Bách Gia Chư Tử.
Giang Tuyền đã viết : " Đời thượng cổ, tam đại, học ở nhà quan, mà không học ở đâu, người dân quê mùa không biết làm sao để lên chỗ " đại nhã " được...[đến chỗ có học tập] duy chỉ có Lão Tử, đời đời làm sử quan, trong tay nắm được chìa khóa kho học mấy ngàn năm, giữ quyền mở đóng, cho nên khi Lão Tử ra, là tiết lộ được cái chất chứa bí mật của trời, đất, gom góp được cái đại thành của cổ kim, học giả noi theo, và thiên hạ cũng cúi đầu theo. Cái học của Đạo gia đã đông, rồi lại chia ra nhiều nhánh, mỗi người nắm được một mối của thầy, diễn ra mà thành cái học của 9 phái, rồi thành tên gọi là Cửu lưu vậy...
Hình 8. LÃO TỬ Trích trong Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc, quyển 1 (trang 70) Thật ra, đời xưa, việc học ở vua quan, các nhà học giả đều công nhận điều đó, Lão Tử làm quan giữ kho sách nhà Châu, nắm chìa khóa kho học, điều đó có sách Sử ký làm căn cứ...nhưng gọi là " đời đời làm sử quan " đó chỉ là suy tưởng theo chế độ thế cha truyền con nối của thời xưa mà thôi.
Lão Tử không có như Khổng Tử, mở trường dạy học, thì " học giả noi theo...thiên hạ cúi đầu... " và " cái học của Đạo gia bèn phổ cập trong dân gian ", " môn đệ của Đạo gia đã đông...Mỗi người nắm được một mối của thầy ", v.v...đó chỉ là ức thuyết.
Và " Phân ra từng phái mà đi...diễn thành cái học của 9 nhà "...lại càng không có gì để làm bằng chứng xác đáng cả.
Họ Giang đã nói : " Từ đại gia mà suy diễn ra cái học của 9 môn phái, như thế tức là muốn nói 10 phái trong Bách Gia Chư Tử, trừ phái Đạo gia vậy ".
Trong Hán Chí gọi là Cửu lưu, thì lại là trong số 10 môn phái, trừ ra phái Tiểu thuyết gia, họ Giang chỉ ước đoán, lập luận thiếu bằng chứng xác đáng, nên không có gì đáng tin.
*
Trong sách Sử ký có chép tên Lão Tử, vậy Lão Tử là người như thế nào ? Những tài liệu đã chép có xác thực, có đáng tin hay không ? Điều đó còn cần phải tìm hiểu thêm.
Trong Sử ký, Lão Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi đồng viết chung trong một truyện, sau đây xin chép lại phần Lão Tử truyện khảo của tiên nho Kiến Hầu, tìm hiểu Lão Tử qua Lão Tử tài liệu của sách Sử ký.
Lão Tử Truyện Khảo
Trong sách Sử ký, Lão Trang, Thân Hàn liệt truyện được sắp vào phần thứ 3, trong sách Sách Ẩn thi sắp Bá Di liệt truyện vào phần 1, và Lão Tử, Trang Tử, Hàn Phi đồng truyện vào phần 3, nhưng trong sách Chánh nghĩa thì lại sắp Lão Tử, Trang Tử vào phần đầu của liệt truyện, với lời chú : " Vào năm khai nguyên thứ 23, Lão Tử và Trang Tử được phụng sắc lên phần đầu liệt truyện, đứng trước Bá Di. "
Lão Tử...
[Về phần danh xưng Lão Tử co ùnhiều giả thuyết khác nhau :
1. Giải thích theo người đời trước thì căn cứ theo Thần tiên truyện, và Huyền diệu nội thơ, cho rằng Lý mẫu mang thai 81 năm mà sanh, sanh ra đầu đã bạc, cho nên mới gọi là Lão Tử.
Thuyết nầy thật là hoang đường, không có gì đáng tin cả.
2. Sách Chánh nghĩa dẫn lời Trương quân Tướng viết : " Lão Tử là hiệu chớ chẳng phải tên, Lão là khảo, tìm hiểu, khảo sát, Tử là chăm, chăm học, tức là người tìm hiểu nhiều và dạy dỗ, đạt thành cho nhiều người khác...nhờ đó mà sanh ra vạn vật, giúp đỡ sự hóa sanh cho muôn loài mà không sót một ai. "
Thuyết nầy thật là ba hoa, rỗng tuếch, không có một ý nghĩa gì đáng tin được.
Dưới thời Châu Tần, học giả được gọi là " Tử " đó là việc phổ thông của thời ấy, tại sao lại giải thích chữ " Tử " thành ra là " nhiều " " chăm " hay là " siêng năng " ?
3. Ngụy Nguyên có viết : Trang Tử nói Lão Tử ở đất Bái, Bái là đất của Tống, mà nước Tống có dòng họ Lão, như thế Lão Tử là người đất Bái mà họ " Tử " chăng ? Rồi chữ " Tử " lại chuyển thành chữ Lý vì âm vận và hình trạng chữ giống nhau chăng ?
Thuyết nầy cũng còn có thể nghe được, nhưng nếu vốn là họ Lý thì tại sao không thấy viết là Lý Tử ?
4. Có thuyết cho rằng ông trường thọ, cho nên mới gọi là Lão Tử. Đời trước cho rằng Lão Tử sống lâu, chớ không phải vì tu tiên, dưỡng thọ mà đặc biệt sống lâu đến 160 hay 200 tuổi.
Lão Tử là người ẩn sĩ, ông thích ở ẩn, vô danh, không muốn chường mặt với đời, cho nên không ai biết tánh danh ông là gì, chỉ thấy ông tuổi già, có học thức, nên mới gọi là Lão Tử].
Dưới thời Châu Tần, học giả được gọi là " Tử " bắt đầu từ Khổng Tử. Khổng Tử thường làm quan Tư Khấu nước Lỗ, cho nên đệ tử mới gọi là " Tử ", sau đó được quan dùng để tôn xưng với thầy, cho nên ngày nay chữ Tử được xem như là tiên sinh...là thầy...Thế thì Lão Tử cũng như " Lão tiên sinh ", đó không phải là một tên riêng.
Ông là người Khúc nhơn Lý, làng Lệ, huyện Khổ nước Sở.
[Khổ huyện trước kia thuộc nước Tống, dưới thời Xuân Thu, Sở diệt Trần, Khổ huyện lại thuộc Sở, cho nên mới gọi Sở, Khổ huyện.
Sách chánh nghĩa viết : " Lệ (lệ hương) đọc là Lại, sách Tấn Thái Khương địa lý có viết : Thành Đông Khổ huyện có Lại hương Từ, là chỗ Lão Tử sanh ra.
Cố thành Khổ huyện ngày nay thuộc tỉnh Hà nam, huyện Lộc ấp, cách phía Đông 10 dặm.
Sách Thúy kinh chú dẫn lời của Vương Phụ đời Đông Hán chép theo Lão Tử thánh mẫu bia cho rằng Lão Tử sanh ở vùng Khúc Oa. Theo Lão tử Minh, thì Lão Tử là người đất Tương, còn theo sách Trang Tử thì chép Lão Tử là người đất Tương của nước Trần...Theo Diêu Đỉnh thì có lần Dương Châu đã đến đất Bái để gặp Lão Tử, vì thế có thuyết cho rằng Lão Tử là người đất Bái thuộc nước Tống.
Theo Bá Tiềm, trong sách Thủy kinh chú có viết : " Phía Đông Nam đến đất Bái có sông Oa thủy. Oa thủy lại chảy về phía đông qua phía nam thành Khổ huyện, tức là đất Tương dưới thời Xuân Thu.
Dưới thời Vương Mãng đất ấy lại đổi tên thành Lại Lăng, con sông lại chảy về phía đông qua phía nam thành Lại Hương, rồi lại chảy về phía bắc, qua phía đông miếu Lão Tử, qua phía nam thành của Tương huyện.
Tương huyện bị hoang phế, bấy giờ thuộc Khổ huyện, Lão Tử sanh ở chỗ ngoặc của sông Oa [Khúc Oa]. Chữ Lệ và chữ Lại, âm giống nhau, Lệ hương tức Lại hương, như vậy thì Khúc nhơn Lý, có phải ngay tại chỗ quanh của sông Oa chăng ? [Khúc Oa].
Sách Hậu Hán thơ, phần Quận quốc chí có chép " Huyện Khổ, dưới thời Xuân Thu gọi là Tương ".
Tương cũng thuộc về nước Trần rồi sau thuộc về Sở, thành cũ của Tương huyện nay ở phía Đông cách 15 dặm của Lộc ấp huyện. Như thế thì 3 địa điểm Khổ, Tương, Bái, cách nhau không bao xa vậy].
Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, được tên thụy là Đam.
[Trong Sách Ẩn có viết : Cát Huyền nói : " Lý mẫu sanh ông, nhơn đó lấy theo họ mẹ "...Sanh ra mà chỉ cây Lý, nhơn đó lấy làm họ luôn.
Hứa Thận viết : Đam là lỗ tai dài...cho nên tên là Nhĩ mà tự là Đam...gọi là Bá Dương là không đúng.
Diêu Đinh, trong Lão Tử chương nghĩa đã viết : Bái là đất nước Tống, như thế thì Lão Tử là người Tống và Tử có phải là họ không ?
Chữ Tử và chữ Lý âm cũng gần nhau...đó là một thuyết nói về Lão Tử họ Lý...so với thuyết trên nói ông theo họ mẹ, hay là " chỉ cây Lý " thì có phần hữu lý hơn.
Theo sách Ẩn, trong nguyên văn pho Sử ký, không thấy có 4 chữ " Bá Dương, thụy là... " mà chỉ viết có tên Nhĩ, tự Đam mà thôi.
Lương ngọc Thằng trong sách Sử ký chí nghi có viết : " Cổ thơ thời Tiên Tần, không thấy gọi Lão Tử là Bá Dương. Vương niệm Tôn trong Đọc thơ tạp chí cũng viết : Lão Tử tên Nhĩ, tự là Đam... ". Nhưng trong thiên Chư Tử của sách Văn Tâm Điêu Long có viết : " Bá Dương coi về việc Lễ, mà Trọng Ni đến hỏi, để đạo đức có thứ lớp dạy dỗ trăm dân...như thế thì dưới thời nhà Lương, có ai đã thêm vào pho Sử ký 4 chữ : " Bá Dương...thụy là... " đã kể trên].
Dưới thời nhà Châu, làm quan giữ kho sách.
[Trong thiên Thiên vấn, sách Trang Tử viết " Trưng tàng sử " chữ trưng có nghĩa là gom góp...Thời xưa, sách vở chỉ được chứa ở nhà vua quan, có quan lo riêng về việc đó.
Sách Trương thang truyện có viết : " Lão Tử làm trụ hạ sử " là vì lúc hội triều, ngôi vị là ở dưới trụ, cầm thẻ, ghi việc...cũng như ngày nay, người làm thơ ký ghi chép những lời bàn bạc trong hội nghị vậy].
Khổng Tử qua nhà Châu, đến vấn Lễ với Lão Tử. Lão Tử nói : " Các người mà ông nói đó, người và xương đều mục hết cả rồi, duy lời nói của người ấy thì còn tại đây.
Người quân tử đắc thời thì đi xe, chẳng đặng thời thì đầu rối mỏi mệt mà đi bộ, tôi có nghe, người buôn bán giỏi, chứa hàng hóa kỹ, mà xem như trống rỗng, người quân tử chứa đầy đức mà dung mạo như ngu.
Hãy bỏ cái ngạo khí và cái nhiều lòng dục của ông, bỏ luôn cái sắc làm cao và cái chí, cái dâm, vì những cái ấy đều không có ích gì đối với thân ông.
Tôi nói với ông, chỉ có bấy nhiêu mà thôi ! "
Khổng Tử ra về, bảo với đệ tử :
" Con chim...ta biết nó bay như thế nào, con cá, ta biết nó lội như thế nào, con thú, ta biết nó chạy như thế nào, nó chạy ta có thể làm lưới, nó lội, ta có thể dùng câu, nó bay ta có thể dùng tên, còn như rồng, ta không thể biết được nó cỡi mây bay mù lên trời, hôm nay ta ra mắt Lão Tử, ông ấy cũng như rồng vậy ".
[Chuyện Khổng Tử hỏi Lễ với Lão Tử, cũng thấy trong phần Khổng Tử thế gia trong Sử ký.
Thiên " Tăng Tử vấn " trong Lễ ký, ghi ngôn, hạnh của Lão Tử có 4, tất cả đều có liên quan đến Lễ...như thế thì việc Khổng Tử đến hỏi Lễ với Lão Tử là đáng tin được.
Thiên Tăng Tử chế ngôn trong sách Đại đái có viết : " Người đi buôn giỏi chứa kín mà như không có gì...Người quân tử có nền giáo dục cao mà như không ".
Thiên Ngoại vật trong sách Trang Tử có chép : Lão lai tử nói với Khổng Tử : Khâu ơi ! Thân hình ngươi kiêu và cái dung nhan ngươi ra dáng người trí...như thế là quân tử sao ?
Câu nầy với đoạn ghi lời nói của Lão Tử đại đồng tiểu dị...Những lời ghi trong sách Trang Tử, cũng thấy trong thiên Kháng chí sách Khổng tòng tử, nhưng lại cho Khổng Tử là Tử Tư.
Tử Tư đâu có thể là Khổng Tử được, biết đâu Lão lai tử nói với Tử Tư mà người ta lại lầm lẫn là Lão tử nói với Khổng Tử chăng ?
Trong thiên Thiên Vận lại có viết : " Khổng Tử ra mắt Lão Đam, ra về, 3 ngày không trò chuyện gì cả.
Đệ tử thưa :
-Phu Tử ra mắt Lão Tử...có nhìn thấy được gì chăng ?
Khổng Tử đáp :
- Bây giờ ta mới thấy rồng, rồng hợp mà thành " thể ", tan mà thành " chương ", cỡi lên khí mây mà dưỡng bởi âm dương...ta mở miệng mà không thể ngậm lại được...ta có tìm thấy được gì ở Lão Tử đâu ?
Sách Lão Tử truyện, được tán duơng là như rồng, là do theo ý Trang Tử].
Lão Tử trau dồi dạo đức, cái học của ông chuyên về tự ẩn, không danh.
Ông ở nhà Châu lâu, thấy nhà Châu suy, liền ra đi, đến cửa ải, quan lịnh doãn là Hỉ nói :
- Thầy sắp đi ẩn chăng ? Vậy hãy cố gắng vì tôi mà viết sách.
Vì thế Lão Tử liền viết sách, gồm 2 thiên thượng, hạ, nói cái ý đạo đức hơn 5000 chữ, rồi đi.
Sau đó, không ai biết ông như thế nào.
[Sách Sách Ẩn và Chánh Nghĩa, chữ " quan, cửa ải " đây là Hàm cốc quan hay là Tán quan, chưa có tài liệu nào chắc chắn để xác định được.
Tán quan thì ở vùng Trần thương đất Kỳ Châu, không phải là con đường từ nhà Châu vào đất Tần, còn Hàm cốc quan thì ở vùng Đào lâm đất Thiểm Châu, đó là con đường từ nhà Châu vào đất Tần, như thế thì chắc chắn phải là Hàm cốc quan.
Cửa Hàm cốc quan không biết được đặt vào năm nào, nhưng vào thời Khổng Tử, đất Nhị hao còn thuộc nước Tần, nếu Lão Tử đồng thời với Khổng Tử, như vậy thì lúc đó chưa có Hàm cốc quan.
Quan doãn là chức quan giữ cửa ải, lịnh doãn là một chức quan của Sở, nhưng ở đó không phải là đất Sở, như thế thì chữ " lịnh " ở đây sai.
Theo hơi văn ở đây thì quan doãn nhìn thấy Lão Tử đến nên mừng, nhưng người đời sau lại nói quan doãn tên Hỉ, rồi lại có quyển sách để tên quan doãn Hỉ viết, lại càng sai hơn...
Nói về đạo đức đến hơn 5000 chữ, tức là quyển Lão Tử còn cho đến ngày nay.
Quyển sách ấy có phải tự tay Lão Tử viết ra không ? Điều đó còn phải suy xét cho thật kỹ.
Mặc dù lúc đó đã có phong trào tư nhơn viết sách, nhưng dùng dao khắc, bôi sơn vào tre, trong lúc trên đường đi, chỉ trong một thời gian ngắn để thành một pho sách đến 5000 chữ thật là một điều khó tin...hơn nữa, thể tài của quyển sách, so với các quyển của Chư Tử đương thời thì không giống nhau.
Giọng văn của sách ấy y như những câu cách ngôn được gom góp quyết không phải do một người, trong một thời gian nào đó đã sáng tác ra. [Xem thêm phần dưới quyển sách nầy, đoạn tìm hiểu về tác phẩm của Lão Tử].
Lão Tử đã cố ý tự ẩn, vô danh, hơn nữa, sắp đi lánh đời, tại sao lại giữa đường còn hấp tấp cố gắng để viết cho quan doãn một quyển sách ? Tóm lại, về phương diện tình lý, không có chỗ nào đáng tin cả...Câu nói : " Không một ai biết sau đó ông như thế nào " đã chỉ rõ ý lánh đời của ông...và cũng vì thế mà phương sĩ đời sau mới có truyền thuyết " Lão Tử đi qua phía Tây đến Lưu sa hà [sa mạc] rồi hóa ra người Hồ... " như thế lại lầm thêm là Lão Tử đã qua Ngọc môn quan.
Thiên Dưỡng sanh chủ trong sách Trang Tử chép Lão Đam chết, Tần Thất đi điếu, v.v...
Sách Trang Tử, phần nhiều là ngụ ngôn, nhưng lại không ghi " sau đó không biết ông ấy như thế nào " như thế đã thấy rõ chuyện Lão Tử qua Lưu sa hà là không có thật.
Đến như các việc trong sách Sách Ẩn, Liệt dị truyện, Liệt tiên truyện ghi rằng " Tử khí từ phương Đông đến ", " Cỡi trâu xanh qua cửa ải " đều là những chuyện hoang đường do các phương sĩ đời sau ngụy tạo ra mà thôi.]
Hoặc có người nói : Lão lai tử cũng ngưòi nước Sở, viết sách 15 thiên...nói cái dụng ý của Đạo gia, cùng đồng thời với Khổng Tử...
[Chữ " hoặc " ở đây có ý muốn nói Lão lai tử là Lão Tử, trong sách Hán chí, phần Đạo gia, chép : có sách Lão lai tử 16 thiên, có thuyết nói : đồng thời với Khổng Tử.
Nhưng theo Khổng Tòng Tử thì đồng thời với Lão lai tử là Tử Tư phần trước đã có trình bày.
Trong bài tựa của Đạo đức kinh, Tất Ngươn có viết : trong Tả truyện có " Lai câu ", Lai là họ, để chữ Lão lên trên là vì có tuổi thọ, cũng như sư phụ của Liệt Tử là Lão Thương thị vậy.
Trong Hán chí, tuy ghi số thiên trong sách ấy, có nhiều hơn một thiên, nhưng cũng là quyển sách ấy.
Phần đầu của phần khảo cứu về truyện Lão Tử có viết : " Lão Tử là người ở Khúc nhơn Lý, Lệ hương, huyện Khổ, nước Sở " cho nên ở đoạn nầy có viết : " cũng người nước Sở ".
Sách Lão Tử khảo dị, nghi tài liệu nầy cho rằng Lão Tử là người nước Sở, là vì lầm lẫn với Lão lai tử, nhận xét như thế, có phần đúng, vì theo truyền thuyết, người ta thường lầm lẫn Lão lai tử và Lão Tử, cho là một người, cho nên Sử ông mới ghi đoạn nầy có chữ " hoặc " ở trên.]
Lão Tử mà thọ đến hơn 160 tuổi, hoặc có người nới đến hơn 200 tuổi, là vì ông ta dưỡng mà được thọ đến mức ấy.
[Đoạn nầy trong sách Sử ky sắp lầm, nên dời vào đoạn văn sau mới đúng].
Từ sau khi Khổng Tử mất 129 năm, mà sử nhà Châu, Thái sử Chiêm ra mắt Tần Hiếu Công nói :
- Ban đầu nước Tần hợp với nhà Châu rồi chia ra 500 năm rồi sau lại hợp, hợp 70 năm mà Bá vương xuất hiện.
Hoặc có kẻ nói :
- Chiêm tức là Lão Tử
Cũng có kẻ nói :
- Không phải.
Là vì Lão Tử thọ hơn 160 tuổi, hay có kẻ nói hơn 200 tuổi [là vì trau dồi đạo mà duỡng được thọ].
[Đoạn nầy lại ghi thêm một thuyết khác, nói rằng Thái sử Chiêm của nhà Châu, vào nước Tần gặp Hiếu Công, tức là Lão Tử.
Trong thiên Bất nhị của Lã thị Xuân Thu, ghi chung Lão Đam, với Khổng Tử, Mặc Địch, Quan doãn và Lão Đam là Lão Tử.
Sách Thuyết văn chép : " Đam tức là tai dài, thòng xuống " lại chép : " Chiêm, cũng là tai thòng, ở phương Nam là nước Chiêm nhĩ ". Như thế thì nghĩa các chữ Đam và Chiêm giống nhau.
Lý Nhĩ tức Đam, thường làm chức Thủ tàng sử nhà Châu, chữ Chiêm và chữ Đam lại giống nhau, mà Chiêm cũng từng làm Thái sử nhà Châu, cho nên có thể lẫn lộn là một người.
Chiêm vào nước Tần ra mắt Hiếu Công theo Tần Bản Kỷ thì vào năm thứ 11 đời Hiếu Công, mà Hàm cốc quan được dựng lên trước năm ấy tức là năm 10 đời Hiếu Công, như thế người đi về phía Tây, qua cửa ải là Thái Sử Chiêm nhà Châu, chớ không phải Thủ tàng sử nhà Châu là Lý Nhĩ...Bằng chứng như thế là khá chính xác.
Theo Bá Tiềm, việc Thái Sử Chiêm đến Tần Hiếu Công thấy có chép trong Châu Bản Kỷ và Tần Bản Kỷ. Châu Bản Kỷ chép " Hợp 17 năm " chép " 70 năm " là sai lầm vì đảo ngược chữ trong Tần Bản Kỷ lại chép " Hợp 77 năm " như thế là dư một chữ " Thất " [7].
Chuyện nầy, Bản Kỷ chép xảy ra vào năm Liệt Vương thứ hai, còn Tần Bản Kỷ thì vào năm Hiếu Công thứ 11, lúc đó sau ngày Khổng Tử mất đến 53 năm, mà ghi là " Khổng Tử mất, cho đến nay là 129 năm " thì là sai].
Lão Tử là một ẩn quân tử, con Lão Tử tên là Tôn, Tôn làm tướng nước Ngụy, được phong đất Đoạn can.
Con Tôn là Chú, con Chú là Cung, huyền tôn của Cung là Giả, Giả làm quan dưới thời Hán Văn đế.
Con của Giả là Giải làm thái phó cho Giao tây Vương là Cung, vì thế cất nhà luôn ở đất Tề.
[Lão Tử là một " ẩn quân tử " nhưng lại chép tên con cháu của ông rất rõ ràng, Lão Tử chỉ thích lánh đời, không chường mặt, lại ra cửa ải, đi về phía Tây và mất tích luôn.
Truyền thuyết ấy dễ làm cho các phương sĩ dễ thêu dệt thành những chuyện hoang đường.
Dưới thời Võ đế, ông nầy rất thích bọn phương sĩ, và các chuyện về thần tiên, thế nên Sử công cố ý chép đoạn nầy rõ ràng để chứng minh Lão Tử là một người thường như mọi người khác, mà không phải là một thần tiên gì cả.
Dụng ý của Sử công thật là sâu sắc].
Người đời, hễ học Lão Tử, thì chê Nho học, học Nho thì lại chê Lão Tử [Đạo không đồng, thì không bàn luận với nhau] như thế là phải chăng ?
[Lý Nhĩ vô vi, tự hoá và thanh tịnh để tự chánh].
[Đoạn nầy nói về việc Nho và Đạo gia vì đạo bất đồng mà chê lẫn nhau để kết luận. Còn " Đạo không đồng, thì không bàn luận với nhau ", đó là dùng câu của Khổng Tử [trong thiên Vệ linh Công sách Luận Ngữ].
Câu cuối cùng, cùng với đoạn văn trên không nối tiếp ý nhau, và cũng không phải là câu dùng để kết luận, nghi là người đời sau đọc sách Sử ký ngẫu nhiên ghi thêm vào, làm cho người sau lầm lẫn đó là chánh văn. Nên bỏ cho hợp lý].
*
Lão Tử truyện trong sách Sử ký đến đây là chấm dứt, trong truyện có chép tên 3 người :
1. Thủ tàng thất sử nhà Châu là Lý Nhĩ, Khổng Tử có đến hỏi về việc Lễ. 2. Ẩn sĩ người nước Sở là Lão lai Tử. 3. Châu Thái sử Chiêm vào nhà Tần ra mắt Hiếu Công... Ba người ấy đều khác nhau, nhưng truyền thuyết lại lầm mà hợp lại làm một, nhưng xét lại kỹ các đoạn văn dẫn chứng trên, thì tất cả 3 người ấy đều không phải là Lão Tử của phái Đạo gia, vì Lão Tử là một tên chung, nhưng không phải là một danh từ riêng, chỉ dùng để gọi những học giả lớn tuổi, cũng như ngày nay chúng ta gọi là " Lão tiên sinh " vậy, vì thế cho nên chúng ta cũng có thể dùng tên Lão Tử để gọi Lý Nhĩ, Lão lai Tử và Thái sử Chiêm.
Người đời sau không tìm hiểu cho chính xác nên lầm lẫn, hợp ba người ấy làm một, làm cho lộn xộn thêm, càng khó phân biệt.
Về Trang Tử, trong thiên Thiên hạ, người gọi là Lão Đam là một " bác đại chơn nhơn " của thời xưa, do nhóm Đạo gia truyền thuyết suy tôn..., đó là một nhân vật lý tưởng được đặt để ra mà thôi, thuyết trên đây, trong các sách Thù tứ khảo tín lục và Trung Quốc Triết học sử của Phùng hữu Lan đều có đề cập đến.
Như thế thì quyển Lão Tử còn đến ngày nay, đó là một quyển sách góp những thành ngữ và cách ngôn được truyền tụng của phái Đạo gia dưới thời Chiến quốc [xem thêm phần lược khảo tác phẩm của ở đoạn sau] mà chẳng phải là một tác phẩm của Lão Tử viết ra khi qua Hàm cốc quan.
Trong quy?n Lão Tử có những lời trái ngược hẳn với đạo Nho, nếu đó là tác phẫm của Lão Tử người đồng thời với Khổng Tử, tất nhiên thế nào cũng bị Mạnh Tử sau nầy đã kích dữ dội, nhưng trong quyển Mạnh Tử ta không hề thấy điều đó.
Tóm lại, quyển Lão Tử, không phải chính do Lão Tử viết ra, mà đó là một tác phẩm gom góp của một số học giả cao niên viết ra, và Đạo gia lấy đó làm tôn chỉ của mình.
Lão Đam là một nhân vật truyền thuyết, do tưởng tưọng mà có, như thế mà cho Lão Tử là người khai tổ cho Chư Tử là một điều hết sức không hợp lý.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:03:43 GMT 9
Gửi ông Khổng tử Vietsciences- Bùi Trọng Liễu 03/01/2006
Trong một số tác phẩm văn học xưa và nay, đôi khi xuất hiện những nhân vật ảo xen lẫn với nhân vật thực, thí dụ như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỉ 16). Có lẽ cũng là một hình thức hữu hiệu để tác giả phát biểu được ý kiến của mình trên một số vấn đề nóng hổi nhưng tế nhị, của thời đại. Mặt khác, ở chính trong một con người - tác giả - cũng có thể có mặt này và mặt nọ, vv. , làm tôi liên tưởng tới truyện « Dr. Jekyll và Mr. Hyde » (1886) của tác giả (người Anh) Robert Louis Balfour Stevenson (*). Bác sỹ Jekyll, là con người thiện, tình cờ phát minh ra được một liều thuốc, uống vào thì biến thành ông Hyde, một con người ác. Nhưng trong bài viết này, không phải là lúc luận chuyện thiện hay ác, thuần đạo hay nghịch đạo, có chăng chỉ là hình thức phát biểu.
Tôi có một kẻ đối thoại, thực và ảo, gọi là Y, thường cùng tôi trao đổi, luận bàn, trong những buổi thư nhàn hay trong những cơn mộng mị, và tôi đã có dịp giới thiệu tỉ mỉ trong cuốn sách cuốn sách Học gần Học xa của tôi, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. Y và tôi có qui ước như sau : khi đã trao đổi xong về một vấn đề gì mà y muốn tôi viết ra, tôi mất công ghi chép, thì tôi nhận phần « hơn » : những gì ôn tồn, nghiêm chỉnh, thanh tú, thì tôi nhận phần tôi ; những gì thô bạo ngang ngược, chướng tai thì y phải nhận ; và y đã đồng ý.
Y có bài thơ «gửi ông Khổng tử» trao cho tôi trong giấc mộng. Nay đang thời thượng của tâm linh, cũng không có gì là lạ. Thời nay nước nhà mở cửa, mọi ý kiến được tiếp nhận, tôi xin chép lại dưới đây, và ghi chú thích, còn việc phê bình hay, dở, đúng, sai, xin để phần người đọc:
Khổng tử, ông người Tàu, sinh ra ở nước Lỗ,
Lũ hủ nho nước tôi vái ông, đặt ông trên cả bố (1).
Họ phục nước ông văn minh,
Họ chê dân tôi mọi rợ, sơn răng đóng khố (2).
Họ học ông những điều hay, điều dở,
Rồi họ chế biến cả những điều vô bổ.
Họ lập Văn miếu (3), họ lập Võ miếu (4),
Họ thờ người nước ông, hơn cả thờ tổ (5).
Họ bày ra thứ chữ Nho,
Làm dân nước tôi, nhiều thể kỉ, học khổ (6).
Mấy thế kỉ độn đần, hiểu biết thô lỗ.
Hậu quả đến tận nay, còn gây ra những điều nhăng nhố.
Chẳng qua vì trọng sự vinh danh, hám ngồi chiếu trên ăn cỗ.
Lũ hủ nho tân thời, hậu sinh khả ố,
Dẫn mấy học thuyết phương Tây,
Nhưng trong đầu họ, tư tưởng tôn ti của ông đâu có đổ !
Người khôn nước mình thì chẳng nghe,
Với người nước ngoài thì vái như búa bổ.
Lời, ý phát ra, sặc mùi lưỡi gỗ.
Đấy cũng là một yếu tố
Gây ra một số chuyện lạ kỳ, lố lăng tổ bố:
Dỡ ngói, ném phao ; học không nổi, thi không đạt, mà vẫn đỗ.
Bằng thật bằng giả cũng là bằng,
Công việc làm thì dành chỗ,
Chèn ép những người năng nổ.
Đâu có phải một vài kẻ, bè cánh cũng cả ổ.
Lợi cho kẻ giàu, thiệt cho kẻ nghèo, bất công trong phân bố.
Tưởng rằng tân, hóa ra vẫn cổ (7).
Vinh danh giáo sư viện sĩ, bộ óc vĩ đại, danh nhân thế giới,…
Để cho bọn kinh doanh tiểu sử quốc tế dụ dỗ (8).
Thật lố,
Mà không biết rằng mình ngố.
Học thế, dạy thế, muốn mua bán giáo dục thế, có mà xuống hố.
Chứng kiến việc họ làm, người ngay muốn độn thổ.
Khổng tử ông ơi, nếu ông linh thiêng, phù phép cho họ tỉnh ngộ.
Nếu không, xin mời tư tưởng ông về Tàu,
Cho Hồng vệ binh (9) họ tố.
Để dân tôi đổi mới tư duy,
Để những việc lố lăng chóng xuống lỗ.
Để danh nước tôi khỏi hoen ố,
Để con cháu chúng tôi khỏi hổ.
Tháng 8/2005
_________ Chú thích :
(*)
Robert Louis Balfour Stevenson
(1) Quân, sư, phụ.
(2) Câu người xưa « sơn răng, chằng đít, đánh đai đầu », nghĩa là nhuộm răng đen, đóng khố và chít khăn.
(3) Theo Đại việt sử ký, Văn miếu ở Hà Nội, từ lúc thành lập, thờ Khổng tử, Chu công, Tứ phối (Nhan tử, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử) và thất thập nhị hiền (72 người học trò giỏi của Khổng tử) đều là người Trung Hoa. Còn Chu (Văn) An người nước ta (1292-1370, thời nhà Trần) được thờ theo ở Văn miếu.
(4) Theo bài « Võ miếu ở Huế » của Phan Thuận An, trong « Hồn Việt » số 2, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, nxb Văn Học, 2004, tr. 291-309, tôi tóm tắt như sau : Võ miếu ở Huế được bắt đầu xây dựng vào năm 1835, thời vua Minh Mạng, đến 1836 thì xong. Tại Miếu chính thờ 12 danh tướng Trung Hoa sau đây : ở án chính trung, thờ Khương Tử Nha (thời nhà Chu) ; ở án phía đông, thờ 6 nhân vật : Quản Trọng (nước Tề thời Đông Chu liệt quốc), Tôn Võ (nước Ngô thời Đông Chu liệt quốc), Hàn Tín (nhà Hán), Lý Tĩnh (nhà Đường), Lý Thanh (nhà Đường), Từ Đạt (nhà Minh) ; ở án phía tây, thờ 5 nhân vật : Điền Nhương Thư (nước Tề thời Đông Chu liệt quốc), Trương Lương (nhà Hán), Gia Cát Lượng (nhà Hán thời Tam quốc), Quách Tử Nghi (nhà Đường), Nhạc Phi (nhà Tống). Tại 2 Miếu phụ (Tả Vu và Hữu Vu), thờ 6 nhân vật Việt Nam ; ở Tả Vu, thờ 3 vị : Trần Quốc Tuấn (1226-1300, nhà Trần) ; Nguyễn Hữu Tiến (1602-1665, thời các chúa Nguyễn), Tôn Thất Hội (1757-1789, thời Nguyễn Ánh) ; ở Hữu Vu, thờ 3 vị : Lê Khôi ( ?-1446, nhà Lê), Nguyễn Hữu Dật (1603-1681, thời các chúa Nguyễn) ; Nguyễn Văn Trương (1740-1810, thời Nguyễn Ánh-Gia Long). Với binh lửa và thời gian, hiện nay, chỉ còn 10 bài vị thờ 5 nhân vật Trung Hoa (Quản Trọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng, Lý Thanh, Quách Tử Nghi) và 5 nhân vật Việt Nam (Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương). 5 bài vị thờ người Tàu thì được sơn son thếp vàng, trang trí kỹ, đều một cỡ cao khoảng 52,5cm ; 5 bài vị thờ người Việt Nam sơ sài hơn, sơ son nhưng không thếp vàng, cũng không trang trí gì, không cùng một cỡ, nhưng nói chung nhỏ hơn (cao từ 47cm đến 48cm).
(5) Trong bài Nhân đọc 2 lời bình về việc học của người xưa, của tôi đăng trên tạp chí Thời Đại số 4/1999, và có in lại trong cuốn sách Chung quanh việc Học, của tôi, nxb Thanh niên, Hà Nội 2004, tôi có trích lời bình của hai vị sau đây :
a/ Ông Nguyễn Trường Tộ viết trong Tế cấp bát điều, (bản dịch của Trần Lê Hữu trong Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỉ XIX - Đăng Huy Vận, Chương Thâu - nxb Giáo dục 1961):
« Nước ta cũng có tổ tiên mà sự tích còn lưu truyền lại [...]. Các vị danh thần trong các triều đại trước của nước ta còn lưu lại biết bao công lao thành tích [...], cũng có việc đáng nêu lên, sao không truyền tụng những gương tốt đó cho người ta phấn khởi bắt chước vùng lên [...] mà cứ không kể đêm ngày luôn miệng kêu réo Hàn Tín, Tiêu Hà của Trung quốc, là những người đã chết từ mấy ngàn năm nay? Phải chăng hôm nay chúng ta còn mang ơn họ? »
b/ Ông Dương Bá Trạc viết trong Tiếng gọi đàn (Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội 1925):
Người Tàu thờ ông thánh Quan, bà Thiên-hậu, kỷ niệm ông Khuất Bình, ông Giới Tử-Thôi, người mình cũng bắt chước thờ ông thánh Quan, bà Thiên-hậu, kỷ niệm ông Khuất Bình, ông Giới Tử-Thôi. Trong cái lúc thâu-thái được chút đỉnh luân-lý, học-vấn, văn-chương, kỹ-nghệ [...] thì bao nhiêu cái dại cái dở [...] , mình cũng nhắm mắt theo cho kỳ hết. Nhân thế mà bao nhiêu cái tinh-thần tự-lập, cái năng-lực sáng-tạo mất dần đi cả.
(6) Trong bài báo Thoáng nghĩ về chữ Nho, đăng trên báo Tia Sáng số Xuân, tháng 2/2002, có in lại trong cuốn sách Chung quanh việc Học, đã dẫn trên, tôi có nói ý nghĩ của tôi về cái thứ chữ này : viết thì viết như người Tàu, nhưng đọc ra thì người Tàu cũng không hiểu, người nước ta cũng không hiểu, trừ vua quan và nho sĩ. Chín thế kỉ học hành, thi cử, sách vở, văn bản, pháp lệnh vv. đều dùng thứ chữ Nho như vậy ; đến thời Pháp thuộc, năm 1918 mới bỏ thi Hương, 1919 mới bỏ thi Hội thi Đình.
(7) Phạm Đình Hổ (1768-1839) kể trong cuốn Vũ Trung tuỳ bút của ông (có bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến) mấy câu chuyện về thi cử thòi Lê mạt, với sự nghi ngờ là có người đỗ không xứng đáng. Tôi xin tóm tắt một chuyện :
« Thời đó, người ta đồn là ông Nguyễn Hoãn, khi đi thi tiến sĩ, bài văn sách là do bài của sáu văn sĩ làm giúp cho trước. Lời đồn kể rằng vì thuở ấy bố ông Nguyễn Hoãn, là Phong quận công Hiệu đang làm Tham tụng (nghiã là Tể tướng), quyền to, các quan khác đều sợ. Khi ấy có một ông quan bị khiển trách, phải bãi chức. Một hôm, ông này được triệu vào tướng phủ, nhưng ngồi đợi lâu ở nhà trong mà không được yết kiến. Ngồi mãi, không có gì làm, ông ta chợt thấy trên kỷ có một đầu đề văn sách, mở ra xem đọc đi đọc lại thuộc hết cả. Suốt ngày được kẻ hầu người hạ khoản đãi rất tử tế, đến chiều ra về mà vẫn không thấy quan Tham tụng hỏi đến, không hiểu ra sao. Đến khi phủ chúa (chúa Trịnh) triệu tập các quan văn thần vào soạn đề thi, thì ông quan ấy cũng được triệu vào, ông ta liền đề nghị cái đầu đề văn sách đọc được bữa trước trong tướng phủ. Khoa ấy, ông Nguyễn Hoãn đỗ Hội nguyên ».
(8) Trong cuốn Chung quanh việc Học đã dẫn trên, tôi có viết :
« Hiện nay, xem chừng như có sự tiếm xưng, tự tôn vinh hay tôn vinh quá đáng, gây ra một sự lẫn lộn không lành mạnh. Khởi thuỷ là một sự hiểu sai thông tin. Trong một khoảng thời gian mấy chục năm, tổ chức việc học đại học và cơ sở nghiên cứu của ta chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Theo cách tổ chức đó, vai trò của Viện Hàn lâm rất lớn, bao gộp hầu hết các viện nghiên cứu, và do một số thành tựu khoa học thuở đó của Liên Xô, danh hiệu viện sĩ được một số người Việt Nam chiêm ngưỡng, nhất là khi danh hiệu này có trọng lượng trong lĩnh vực quản lý khoa học và có kèm theo những ưu đãi vật chất. Gần đây, khi nước nhà đổi mới, mở cửa ra quốc tế, một số nhà khoa học Việt Nam có dịp tiếp xúc với Mỹ và Tây Âu, đã gặp loáng thoáng loại danh từ tương tự, nên đã xảy ra một sự ngộ nhận. Academy (tiếng Mỹ), Académie (tiếng Pháp) bị một số người hiểu lầm là Viện Hàn lâm Quốc gia trong bất cứ trường hợp nào; trong khi đó từ này có thể là tên gọi của một hội khoa học tư, đóng một số tiền thì có thể gia nhập, như New York Academy of Sciences; hoặc có nghĩa là nơi mà người ta hành một thuật, một trò giải trí như Académie Equitation Western (cưỡi ngựa kiểu cao bồi), Académie de billard (trò chơi bi-a), tất nhiên người gia nhập không thể gọi là viện sĩ được. Từ sự ngộ nhận, nghe nói đã có trường hợp tiến tới sự nhập nhằng tiếm xưng và được tôn vinh. Trong một vài bài báo từ năm 1999, cũng như một số người khác, tôi có báo động việc này, nhưng có lẽ không mấy ai chú ý ».
Cũng trong cuốn sách đã dẫn, tôi có in lại bài báo Bán hàm của tôi đăng trên báo Nông Nghiệp Việt Nam, 15/4/2002, tạp chí Tia Sáng nhắc lại 20/8/2005; nay tôi xin trích vài câu như sau :
« Ngày nay, nghe đồn có một vài người hám danh, dùng tiền của cơ quan để : trả niên liễm cho một vài hội khoa học tư ngoại quốc để tiếm xưng « viện sĩ », trả niên liễm cho mấy nhà xuất bản cái mà họ gọi là danh sách « danh nhân thế giới », để được đề cao, vv. Thay vì để việc này tiếp tục, vừa không đẹp cho hình ảnh nước nhà, vừa phạm vào việc « danh hiệu không đúng tiêu chuẩn » nói trên, có thể nào bắt chước tổ tiên ta trong cách giải quyết không ? Xin nêu hai thí dụ. Nước ta hiện nay chưa có [và chưa cần thiết có] Viện Hàn lâm, có thể nào qui định cho phép những ai muốn, bỏ tiền ra mua một hư hàm « Viện sĩ ». Như vậy, không những thoả mãn được ham muốn của họ, mà còn lấy tiền của họ để làm việc công ích như giúp học bổng cho sinh viên học sinh, tu sửa trường sở, bồi dưỡng cho những cán bộ giảng dạy chân chính, vv. ? […]. Lại có thể nào cho phép mấy nhà xuất bản của một vài cơ quan nhà nước, trước đây đã bỏ của công ra đăng những cuốn sách tôn vinh một vài « danh nhân không đúng tiêu chuẩn », nay được phép « bán chỗ » trong các « danh sách danh nhân » địa phương cho những ai muốn có tên trên các danh sách đó, xen lẫn với vài tên danh nhân thế giới ? Tiền thu được vào công quĩ để làm những việc thực sự có ích cho nền giáo dục đào tạo nước nhà, phải chăng cũng là một việc tốt ? ».
(9) Cuộc Đại cách mạng văn hóa, thời Mao Trạch Đông.
|
|