|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:37:08 GMT 9
Phúc Đức, Mồ Mả Tổ Tiên Ảnh Hưởng Đến Con Cháu
TỬ VI SONG LỘC .
Ba của Lan Chi là "con một" một thương gia giàu có tại Saigon. Gia đình này làm ăn với các "ông lớn" hồi đó, nên tiền vào như nước. Họ làm ăn đủ mặt và giàu thêm khi VC và Hoa Kỳ đổ quân vào Nam Việt Nam. Họ có một gia sản kếch xù với nhiều building cơ sở thương mại tại Saigon và các thành phố lớn. Theo gia phả để lại họ từ Trung Hoa chạy qua Việt Nam và có một ngôi tổ mộ của vùng Phan Rí. Ngôi mộ này kết, phát "phúc" nên họ giàu có như thế và tưởng như còn kéo dài nhiều đời nữa. Người ta thường nói "không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời". Nhưng câu này xem ra không đúng đối với họ, vì theo các phong thủy gia thì họ giàu có từ nhiều đời và còn kéo dài thêm nhiều thế hệ, nếu biết tích phúc, giữ gìn, bảo vệ được linh mạch và huyết mộ. Nhưng có lẽ họ "mãi" làm giàu không tích phúc và việc làm đôi khi lại quá đáng, làm giảm ân phước của tổ tiên để lại nên sau này găp phải nạn "Vong gia, thất thổ" như ta sẽ thấy. Lan Chi chào đời vào năm Mậu Thân, khi mà ở Saigon cũng như đa số các thành thị miền nam đều vang tiếng súng và tràn lan khói lửa do bọn cộng sản hiếu chiến gây nên. Trong khi gia đình họ mừng rỡ đón mừng "cô bé" chào đời trong một dưỡng đường sang trọng thì bên ngoài các gia đình nghèo khổ lo chạy giặc. Giặc giết dân, đốt phá nhà dân vì dân chúng oán ghét chúng, không hưởng ứng lời hô hào nội ứng, nổi lên chống chính quyền miền Nam. Nhiều vùng như Huế, chúng đã chôn sống nhiều ngàn người vô tội, không chịu đồng lõa với chúng chiếm lấy miền Nam tự do, dâng cho quan thầy quốc tế cộng sản. Tụi "tội đồ" này chắc chắn sẽ bị trừng phạt "thiên võng khôi khôi sơ nhi bất hậu" và đáng bị đưa ra tòa án quốc tế La Haye về tội diệt chủng ghê gớm kể từ 1945 đến nay. Có thể nói, Lan Chi lớn lên trong nhung lụa nhờ tài vật thu được từ các cuộc làm ăn "lớn" trên chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế và trên mồ hôi xương máu và nước mắt của con dân miền Nam Việt Nam. Vì tài lợi, họ quên những lời dặn trong gia phả là phải tích phúc và quên luôn sự săn sóc mồ mã tổ tiên. Năm 1974 tình hình miền Nam trở nên bi đát, vì bạn hơn là vì thù, thì họ lo gom góp chuyển vốn ra nước ngoài. Họ cũng bất cần khi nhận được tin là ngôi mộ tổ bị phá, có nhiều biến động về địa lý như phía sau (Huyền vũ) sụp lở, phía trước (Minh Đường) cạn nước, Hổ vươn Long phục, bia mộ ngả nghiêng. Thời bại vong của họ đã cận kề, nhưng họ vẫn tin có tiền, có thế lực là đủ. Năm 1975 lúc đó Lan Chi mới lên 7 tuổi, họ đã chân trước chân sau, chuẩn bị sẵn sàng phương tiện để mang của cải ra đi. Họ có sẵn một tàu viện duyên và được dành sẵn một chuyến bay tại phi trường TSN. Nhưng có lẽ vì "động mồ động mả" ân phước đã hết nên tàu thì bị tổ chức cướp mất, máy bay thì phi trường bị pháo kích, lộn xộn không cất cánh được còn đường bộ thì thật là thiên nan vạn nan. Họ quay ra điều đình với cộng sản kinh tài nội thành mối làm ăn trước đây của họ, hiến của để chạy thoát thân. Nhóm này nhận tiền và hứa hẹn sẽ không làm khó dễ họ khi quân cộng sản vào được Saigon. Không yên tâm, họ lo cất giấu của cải bằng mọi cách. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau một thời gian dài bàn cãi, trao đổi, mặc cả…với cộng sản quốc tế, Mỹ âm thầm bỏ lại bạn và thù, rút lui chiến lược, tạo cho Việt cộng sự chiến thắng giả tạo và buộc vào cổ cộng sản quốc tế gánh nặng ngàn cân làm nghiêng lệch thế chiến lược toàn cầu sau đó và góp phần vào sự sụp đổ của "vương quốc đỏ" vào thập niên cận kề. Bắc bộ phủ hí hửng đốp miếng mồi chiến lược, kế không thành của "ai đó" đã thành công đáng kể, để lại mối sầu hận "nhược tiểu" muôn đời cho con dân miền nam tự do. "tuần lễ trăng mật" giữa gian thương+phản quốc+ cộng phỉ qua đi kha mau. Sau khi tom góp hết chiến lợi phẩm được "trao tặng" về tổ quỷ và đưa hết thành phần 'có tinh thần quốc gia" thù ghét cộng sản vào tù, cộng sản bèn thu góp tư hữu của dân "dân đen" cũng như những người có máu mặt, kể cả những kẻ đã làm ăn và tiếp tay cho chúng. Đổi tiền, rồi kiểm kê tài sản, rồi …cướp của các nhà giàu có mà chúng cho là "tư bản mại sản". Cộng sản và bọn kinh tài nội thành lộ nguyên hình tàn ác của những kẻ cướp ban ngày. Ba của Lan Chi bị còng, đưa vào trại giam. Sau đó, được tổ chức cho vượt thoát ra nước ngoài rồi biệt vô âm tín. Có nguồn tin cho là đang định cư tại một xứ sở tự do nhưng cũng có nguồn tin cho là đã bị Việt cộng thủ tiêu khi đã khai thác lấy hết của cải giấu ở các ngân hàng nước ngoài. Ông nội, bà nội buồn tủi, phẫn hận, thay nhau qua đời, chắc họ khó nhắm mắt gặp lại tổ tiên vì quên mồ mả và di huấn của cha ông để lại. Mẹ Lan Chi bị một tên cán bộ kinh tài nội thành lợi dụng, tên nằm vùng này có đủ "mưu ma chước quỷ" hắn thèm khát má Lan Chi từ trước, nay có dịp "thi ân bố đức" gài bẫy để chiếm đoạt người đẹp và cả gia sản bà đang cất giữ. Ăn ở với nhau được 3 tháng tên này "ỉ ôi" là đã chán ngán cộng sản, muốn vượt biên tìm tự do nên cần một số tiền lớn để sắm tàu và mua "bãi". Tin lời và muốn thoát thân, mẹ của Lan Chi đã tiết lộ nơi chôn giấu của cải của gia đình. Một buổi sáng đang ăn sáng với mẹ con Lan Chi , y đứng dậy móc "túi dết" lấy ra một tờ trát tòa, dõng dạc đọc lệnh khám nhà. Của cải, nhà cửa bị tịch thu hết và mẹ con Lan Chi bị đầy đi vùng kinh tế mới ở miệt Long An, nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá, gà mổ cát. Rồi chỉ một thời gian ngắn, những người dân Saigon bị đày này không sống nổi, lại khăn gói gió đưa phiêu bạt về lại Saigon. Không có nhà cửa, không có hộ khẩu, ban đêm họ phải trú ẩn ở bãi tha ma, mộ địa, còn ban ngày thì mua gánh bán bưng đủ thứ để có đồng cơm đồng cháo qua ngày. Sau một thời gian lang thang như thế, có lẽ trước đây biết ăn ở hiền lành, nên mẹ con Lan Chi găp được một quý nhân, nguyên là người lão bộc giúp việc trong nhà ngày xưa, kín đáo đưa về nhà và giúp vốn cho làm ăn, mở một sạp tạp hóa nhỏ ngay trong khu phố. Lúc này, tên kinh tài khốn nạn đó đã biệt dạng, có thể hắn đã bỏ Đảng, ôm của dông mất hoặc lại được bố trí làm kinh tài cho Bắc bộ phủ tại quốc ngoại, chuẩn bị hậu phương cho các tư bản đỏ sau này bỏ chạy. Vài năm sau, cuộc sống của mẹ con cô tạm ổn định. Vì thời gian này tụi cộng nô cướp được tài sản của dân trở nên giàu có, chúng chỉ lo làm giàu. Ai có tiền là có đủ thứ. Mẹ con cô đã có hộ khẩu và Lan Chi được cắp sách đến trường. Mẹ Lan Chi phải về Phan Rí săn sóc lại mồ mả tổ tiên phải tích phúc để có được cuộc sống an bình cho hai mẹ con và phải thường xuyên cầu xin trời Phật phù hộ cho ba của Lan Chi được bình an, gia đình được trùng phùng. Bà hy vọng, "Kẻ buôn bán, bán nước và kẻ làm tan nát gia đình bà sẽ bị trừng phạt đích đáng". Lớn lên, được nghe mẹ kể lại chuyện nhà. Lan Chi rắp tâm tìm dịp xuất ngoại để may ra tìm lại được ba cô để gia đình được đoàn tụ hầu có dịp "đền ơn báo oán". Cô có học lại duyên dáng, mặn mà và buôn bán giỏi nên đươc nhiều gia đình mai mối dạm hỏi và nhiều chàng trai ước mơ, tán tỉnh, kể cả tụi "cán ngố" có địa vị "đũa mốc đòi chòi mâm son". Với tài trí 'tối mò" và tham lam hiếu sắc của tụi chúng thì đất nước này sẽ đi về đâu và chẳng bao giờ vươn lên được. Chúng sẽ bị mai một và sẽ bị đền tội. Từ ngày có phong trào "Việt kiều về quê lấy vợ" cô tin chắc với tài sắc và tiếng tăm của gia đình mình sẽ có nhiều chàng Việt kiều ngấp nghé, thực giả khó phân, tốt hơn hết là qua được bên đó rồi hẳng tính. Sau nhiều lần đắn đo mẹ con cô chọn giải pháp tốn tiền, làm hôn thú giả với một Việt kiều lớn hơn cô mười tuổi với điều kiện: Thủ tục hoàn tất đến nơi mới trao tiền. Chàng này thấy cô trẻ đẹp, có vẻ giàu có nên chấp nhận. Qua người mai mối được biết chàng là một kỹ sư cơ khí và là chủ nhân một tiệm ăn tại Los Angeles. Cưới xong, chàng đưa cô về Mỹ. Và chỉ vài ngày sau cô đã hiểu rõ về người "chồng hờ" của mình. Chàng chỉ là cơ khí viên và có chung vốn mở một tiệm fast food làm ăn khá vất vả tối ngày. Được cái chàng ta rất chân tình, chịu khó làm việc và không đòi hỏi gì ở cô cả. Vài tháng sau, cô đã liên lạc được với vài người bạn hàng cũ của gia đình cô và các ngân hàng ba cô đã bí mật ký thác tiền bạc trước năm 1975. Có tiền trong tay, cô đang làm thủ tục xin nhập cư cho mẹ và đang chờ cơ quan chuyên môn truy tìm tung tích của người cha thân yêu. Thấy tôi đã cao tuổi và giải đoán tổng hợp thật chính xác số mệnh của cô, kể cả mồ mả tổ tiên và các diễn biến xảy ra trong gia đình trước đây nên cô tin tưởng, giải bày tất cả như đã viết lại trên đây. Cô muốn mời tôi về Việt Nam chỉnh lại ngôi mộ Ngũ Đại và chỉ dẫn cô cách thức tích phúc để tạo lai ân đức cho gia đình. Cô nhờ tôi xem kỹ số tử vi của cô và người chồng hờ và giúp cô ý kiến về cuộc sống của cô trong thời gian tới. Chắc cô đã có thiện cảm với chàng ta. Chàng ta thật là tốt phúc nên mới gặp mối "thiên duyên" như thế. Tôi cân nhắc kỹ và khuyên cô nên có một thời gian vừa đủ để hiểu rõ về chàng, nếu chàng là người "thật" như cô đã thấy, thì nên chấp nhận tình chàng và nhất là nên dùng số tiền "đã có lại được" tạo phúc cho gia đình bằng cách trực tiếp giúp cho các gia đình ở trong cũng như nước ngoài đã quá cơ cực vì cuộc chiến tranh do cộng sản gây nên tại đất nước Việt Nam thân yêu, nơi cô đã sinh ra, lớn lên và có nhiều kỷ niệm vui buồn tại đó. Mặt khác, cổ nhân thường nói "Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm" con cháu phải lo giữ gìn nơi yên nghỉ của tổ tiên là gốc rể có ảnh hưởng đến sự thành bại của con cháu. Triệt hạ mồ mả là hành động của kẻ xấu, mưu hại người để duy trì địa vị lâu dài của chúng, đáng bị phỉ nhổ muôn đời. Sang năm Canh Thìn, bước vào đại vận mới, qua hạn tam tai này, nếu lo trồng cây "đức" cuộc đời của cô sẽ là một chuỗi ngày hạnh phúc, hết cảnh gian truân. Tôi ngầm nhắc cô là việc tạo dựng cơ ngơi, tài sản, như cô đã thấy cũng có thể gây ra "cái nghiệp quả" có khi phải trả cả kiếp người mà vẫn chưa hết. Đã mang lấy nghiệp vào thân Thì đừng có trách trời gần trời xa Nghiệp, duyên bởi tại lòng ta Chữ "tâm" kia mới bằng ba chữ "tài" (Kiều) Tôi xin mượn đoạn "Kiều" trên làm phần kết thúc bài viết này. Nếu có sự trùng hợp thì chỉ là ngẫu nhiên, xin qúy vị miễn thứ. Phong thủy & tử vi gia Song Lộc, phone 626-289-8467 TỬ VI SONG LỘC
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:39:49 GMT 9
Reagan, Tung Hoành Từ Hollywood Tới Washington ĐẰNG SƠN . Đúng 1:09 giờ California chiều thứ bảy 5 tháng 6, 2004 vừa qua cựu tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã trút hơi thở cuối cùng sau 9 năm rưỡi trời đấu tranh với bệnh lẫn của người già (Alzheimer). Trước khi linh cữu được chuyển từ California lên thủ đô Washington ngày 9 tháng 6 để chuẩn bị cho lễ quốc táng ngày 11 tháng 6, tại đất nhà Cali đã có hàng trăm ngàn người đến tiễn ông về nơi vĩnh cửu. Một người phải đợi 8 tiếng mới được nghiêng mình trước linh cữu của ông đã chia sẻ cảm tưởng với giới truyền thông như sau: "Tổng thống Reagan đã tận tâm phục vụ đất nước 8 năm, thì tôi đợi 8 tiếng để tiễn ông ra đi cũng là hợp lý." Câu nói này tóm gọn niềm kính trọng, nỗi tiếc thương mà dân chúng Hoa Kỳ dành cho vị tổng thống được gọi là "có một không hai". Mà nếu xét về tuổi tác thì quả ông Reagan có một không hai. Ở Hoa Kỳ tuổi chính thức về hưu là 66 (tức 65 tuổi tây). Khi đắc cử tổng thống lần thứ nhất năm 1980 ông đã quá tuổi về hưu bốn năm, là một kỷ lục mới của Hoa Kỳ. Bốn năm sau, tức năm 1984, ông lại phá kỷ lục này của chính mình bằng cách thắng nhiệm kỳ hai. Rời chức tháng 1 năm 1989 ở tuổi 78, ta có thể tin cái kỷ lục "tổng thống già gân" của ông Reagan sẽ đứng vững mấy mươi năm trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, nếu không lâu hơn nữa. Trước khi nhảy vào chính trị ông Reagan là một tài tử điện ảnh, nhưng chính ông đã tự nhìn nhận mình chỉ là một tài tử hạng B "thỉnh thoảng đóng phim hạng A". Yếu tố nào đã khiến anh tài tử hạng B này trở thành thống đốc tiểu bang lớn nhất nước Mỹ là California hai nhiệm kỳ (từ 1967 đến 1974) và rồi ở tuổi đáng lẽ phải về hưu lại được bầu làm tổng thống toàn thể nước Mỹ cũng hai nhiệm kỳ (từ 1981 đến 1988)? Ta hãy xem thử lá số Tử Vi của ông Reagan xem có manh mối gì không. Lá số nhiều may mắn! Rất may cho giới nghiên cứu số mệnh, năm tháng ngày giờ sinh của ông Ronald Reagan rất minh bạch. Một tài liệu là tuần báo Time số ngày 4 tháng 2 năm 2002, trang 4, trong đó cô con gái của ông Reagan tiết lộ "cha tôi được sinh ra ở nhà lúc 4:16 giờ sáng ngày 6 tháng 2 năm 1911". Nhà đây là Tampico, tiểu bang Illinois, tây kinh tuyến 89 độ 47 phút. Vì giờ sinh cách giờ tiêu chuẩn GMT 6 tiếng, điều chỉnh lại là 4:15 giờ sáng (chỉ đổi 1 phút). Tính ra âm lịch địa phương là giờ Dần ngày 8 tháng giêng năm Tân Hợi. Mệnh ông Reagan cư Tý có Đồng Âm Đào Không có Hồng Việt Tả Xương Khúc hội họp; thân cư quan Cơ Lương ngộ phụ Triệt có Tả Hữu Xương Kình Đà hội họp; mặc dù không phải là hạ cách vẫn thật khó kết luận là đặc sắc nếu xem theo cách cũ. Nhưng thêm các sao tự Hóa vào thì tình hình tức khắc rõ rệt, vì ta sẽ thấy sao hóa trùng trùng xuất hiện ở hết cả 6 cường cung. Theo thứ tự: Mệnh tự Khoa tự Kỵ, phúc Lộc tự Lộc tự Quyền, quan tự Lộc, di tự Khoa, tài Kỵ tự Khoa, thê tự Khoa. Tài tình hơn nữa là hai Kỵ lại cùng cung với hóa Khoa nên bị hóa giải. Hóa Khoa có danh "đệ nhất giải thần" đại biểu may mắn, hóa Lộc là cơ hội trời cho; có bốn Khoa ba Lộc nên đặc điểm của lá số này là may mắn lạ thường. Giấc mộng tuổi thơ Theo các tài liệu chính thức thì cha mẹ ông Ronald Reagan là một cặp di dân người Ái Nhĩ Lan. Người cha, John Reagan, là một ông thợ đóng giày có tật chè chén say sưa làm vợ con khổ sở không ít. Thật ứng hợp với cung phụ mẫu, bởi cung này có Tham Riêu, thêm Bệnh Phù Không Kiếp. Theo khoa tâm lý học, các trẻ em bị người lớn hành hạ thường nhìn đời bằng đôi mắt bi quan và dễ phát triển tâm lý "hận đời đen bạc" khi trưởng thành. Thật may cho cậu Ronald, bà Nelle mẹ của cậu là một người sùng đạo, dịu dàng chịu đựng bao dung. Nhờ ảnh hưởng của bà mà cậu không căm hận cha mình. Bà Nelle lại trọng nghệ thuật, luôn luôn khuyến khích con tham gia các bộ môn văn nghệ trình diễn, nên nhờ bà mà cậu Ronald đã có dịp diễn xuất từ khi còn nhỏ. Càng may cho cậu, lần diễn xuất đầu tiên cậu được khán giả nồng nhiệt hoan hô. Ấn tượng tốt đẹp này khiến cậu có ý theo đuổi con đường nghệ thuật trình diễn, và trở thành cái nhân đưa cậu đến Hollywood sau này. Thái Âm vốn biểu tượng mẹ. Thái Âm đắc địa thêm Xương Khúc Lưu Niên Văn Tinh cư mệnh nên cậu Ronald chịu ảnh hưởng nhiều của mẹ là hợp lý. Bàn rộng thêm nữa thì đời cậu Ronald dễ bị chi phối mạnh mẽ bởi những phụ nữ có tâm lý hoặc khả năng bảo bọc. Có lẽ vì thế mà ngoài việc phát triển tính "yêu đời yêu người" nhờ ảnh hưởng của mẹ, mỗi khi ở nhà có chuyện không vui cậu lại tìm sự bình an bằng cách chạy sang nhà "cô Emma", một người đàn bà hàng xóm lớn tuổi không con rất quý mến cậu. Nơi đây, như cậu kể lại sau này, "trong khủng cảnh bình lặng, giữa những hình tượng cổ quái và những kệ sách thoảng một mùi hương kỳ lạ" cậu say sưa đọc các tiểu thuyết thám hiểm không gian của tác giả Edgar Rice Burrough và mơ là vị anh hùng cứu loài người khỏi họa diệt vong. Chắc chính cậu cũng chẳng thể ngờ sau này cậu sẽ thành tổng thống Hoa Kỳ, rồi ký thỏa ước giảm vũ khí nguyên tử và tăng xác xuất sống còn của nhân loại. Tây tiến về California Tuổi thanh niên của cậu Ronald tương đối suông sẻ. Nhờ chơi thể thao cậu được học bổng nửa học phí, nửa còn lại và tiền ăn ở cậu hoàn toàn tự túc bằng cách tìm việc làm ngoài giờ học. Ra trường năm 1932 là lúc mà cuộc khủng hoảng kinh tế đang phủ trùm toàn thể nước Mỹ, với hai mảnh bằng về kinh tế học và xã hôäi học rất khó kiếm việc cậu lại được việc làm ít giờ mà trả khá tiền là tường thuật thể thao cuối tuần cho WOC, một đài radio địa phương ở Davenport, Iowa. Hai năm sau, tức 1934, cậu tiến lên một bước là chuyển về đài WHO thuộc hệ thống NBC ở De Moines. Thời ấy chưa có trực tiếp truyền thanh nên cậu phụ trách tái tạo lại các trận đấu dã cầu (baseball) và banh cà na (football) từ các tin tức nhận được qua điện tín và phát thanh ngay cho giới hâm mộ thể thao. Nhìn lại lá số, thời gian này nằm trong đại hạn 15-24 tuổi, nhằm cung Hợi có Thiên Phủ là tài tinh, lại đắc vị trí Thái Tuế nên dễ thành tựu. Chỉ có điểm đáng tiếc là cung thê của đại hạn có Liêm Phá gặp Hình Riêu Không Kiếp và đủ cặp Quan Phúc, tình cảm khó được toại lòng. Truyện kể rằng cậu Ronald có mối tình đầu từ thời trung học với cô bạn học Margaret Cleaver. Hai người thề non hẹn biển và cậu đã tặng cô một kỷ vật cộng với chiếc nhẫn đính hôn. Hai vật này đột ngột bị gửi trả lại cậu bằng đường bưu điện khi cô Margaret quyết định bỏ cậu để lấy một nhân viên ngoại vụ. Biến cố này để lại cho cậu một vết thương lòng đau xót; nhưng lại khiến cậu có thêm lý do tìm tương lai ở một phương trời xa lạ. Phương trời ấy là đất hứa California. Năm 1937, cậu Ronald thuyết phục được cấp trên trong đài radio cho cậu về California săn tin các cuộc tập luyện mùa xuân của đội dã cầu Chicago Cubs. Khi đến Cali, một người bạn cũ giới thiệu cậu đến "thử vai" ở Hollywood. Vừa thấy cậu người phụ trách tìm tài tử mừng quá nhận ngay. Thế là chỉ trong nháy mắt cậu đổi từ phóng viên tường thuật thể thao thành tài tử Hollywood. Sở dĩ thuận lợi như thế vì đại hạn 25-34 (ứng với các năm 1935-44) có Kình Dương nhập miếu độc thủ, thêm Tả Hữu tự Khoa Hồng Hỉ Khôi Việt và ba Lộc một Quyền một Khoa hội họp. Kình Dương là "hung tinh đắc địa phát dã như lôi" nên tiếp theo đó là một chuỗi diễn biến thuận lợi: Lấy nữ tài tử đẹp và nổi tiếng Jane Wyman năm 1940, sinh con gái đầu lòng Maureen năm 1941, đạt cao điểm diễn xuất với phim King's Row năm 1942. Chuyển mình thoát xác Nhưng rồi Nhật ném bom Trân Châu Cảng, Mỹ nhảy vào thế chiến thứ hai, và tài tử Reagan phải đăng ký đi lính. Khi ông được giải ngũ năm 1945, lá số đã chuyển sang đại hạn 35-44 (tức thời gian 1945-54). Hãng phim cho ông lương khá cao so với thời tiền chiến có lẽ vì hạn có Lộc Tồn, nhưng phải chăng vì Liêm Phá hãm cư Dậu thêm Hình Riêu Không Kiếp mà những phim thời hậu chiến của ông đều thất bại trên mặt nghệ thuật. Điểm oái oăm là cùng lúc vợ ông bà Jane Wyman lại thành công hơn trước. Có lẽ vì sự khác biệt này mà hai người ly dị nhau năm 1949, cũng chính là năm bà Wyman được trao giải Oscar. Hạn kế tiếp 45-54 (ứng với thời gian 1955-64) có Đà hãm địa độc thủ ở Thân con đường diễn xuất vẫn tuột dốc không phanh. Năm 1964, trong phim "The Killers" ông Reagan thủ vai một đàn anh găng tơ. Vì đây là vai "ác" đầu tiên trong cuộc đời điện ảnh của ông, giới theo dõi điện ảnh cho rằng nó là một dấu hiệu, cho thấy ông sắp sửa bị Hollywood đào thải. Họ đoán đúng, nhưng chỉ phân nửa, vì phim "The Killers" đúng là một dấu hiệu, nhưng chẳng phải là dấu hiệu của sự đào thải, mà là dấu hiệu của một sự chuyển mình thoát xác. Vì cũng năm 1964 sẽ có một biến cố lớn. Biến cố ấy sẽ thay đổi cuộc đời của ông Reagan và ảnh hưởng vận mạng của cả thế giới sau này. Hai mươi năm bộc phát Tháng 10 năm 1964, thấy ông Barry Goldwater (Cộng Hòa) tiếp tục thua xa tổng thống Lyndon Johnson (Dân Chủ) trong mọi cuộc thăm dò dân ý, đảng Cộng Hòa vội vàng phổ biến rộng rãi một chương trình quảng cáo, trong đó tài tử Ronald Reagan kêu gọi dân Mỹ chọn ông Goldwater. Nhờ bài diễn văn này mà đảng Cộng Hòa thu được 8 triệu Mỹ kim tiền ủng hộ tranh cử, là kỷ lục của thời ấy. Kết quả ông Goldwater vẫn thua to, nhưng ông Reagan đột ngột trở thành một tên tuổi được giới theo dõi chính trị của toàn quốc chú ý. Năm 1964 vẫn còn trong đại hạn Đà hãm địa độc thủ nên tiếng chưa thành miếng; nhưng chẳng phải đợi lâu vì năm 1965 đột nhiên một nhóm triệu phú tự tìm đến đề nghị ông Reagan ra tranh cử thống đốc California và hứa tận lực ủng hộ tài chánh giúp ông thắng cử. Cơ hội ngàn năm một thuở này dễ gì có được, vậy mà ông Reagan lại từ chối, bảo rằng nghề của ông là tài tử, và ông không có ý đổi nghề. Đám triệu phú phải khổ công thuyết phục, cuối cùng ông mới chịu. Chuyện đám triệu phú phải ra công nài nỉ ông Reagan mới chịu tranh cử thống đốc California đã khó tin, nhưng chưa khó tin bằng chuyện ông thắng cử; vì ông chẳng có kinh nghiệm chính trị gì cả. Trước tiên ông phải hạ một đối thủ dạn dày kinh nghiệm là cựu tỉnh trưởng San Francisco George Christopher trong cuộc bầu cử nội bộ của đảng Cộng Hòa. Giả như thắng -và rất khó thắng- ông sẽ phải đụng độ thống đốc hai nhiệm kỳ Pat Brown, một đối thủ nặng ký với thành tích là đã oanh liệt hạ ông tổng thống tương lai Nixon trong cuộc bầu cử năm 1962. Rút ngắn câu chuyện, ông Reagan hạ ông Christopher, rồi hạ ông Brown dễ dàng như lấy đồ trong túi! Khỏi cần nói, chiến thắng quá dễ dàng này khiến mọi người cùng sửng sốt, kể cả những người đã đặt hết niềm tin nơi ông. Ông Reagan nhậm chức thống đốc năm 1967 nhằm lúc phong trào hippy lũng loạn đại học Berkeley. Những sinh viên cực đoan liên miên bãi khóa đòi hỏi đủ chuyện. Xui thay cho họ năm này tiểu hạn của ông vào cung Dậu có Liêm Phá Hình Không Kiếp. Chẳng ngần ngại dùng biện pháp mạnh, ông hạ lệnh cho vệ binh quốc gia đến nơi dùng võ lực vãn hồi trật tự, bất chấp lời cảnh cáo rằng như vậy có thể gây ra cảnh đổ máu. Nhờ quyết định cứng rắn này, vấn đề Berkeley được giải quyết, uy tín của ông Reagan càng tăng cao và ông thắng nhiệm kỳ 2 năm 1970 một cách dễ dàng. Năm 1974 nhờ một chuỗi diễn biến không tiền khoáng hậu, ông Gerald Ford trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Lúc ấy đang làm thống đốc năm cuối cùng nhiệm kỳ 2 ở California, ông Reagan hai lần được mời làm tổng trưởng đều từ chối. Lý do dễ hiểu, vì bấy giờ ông đã tính chuyện tranh chức tổng thống! Năm 1976 ông thua đương kim tổng thống Ford đau đớn khi tranh chức đại diện đảng để ra đối đầu với Jimmy Carter. Nhưng sau bước vấp ngã này ông sẽ hạ ông Carter một cách dễ dàng năm 1980 và ông Mondale dễ dàng hơn nữa năm 1984 để trở thành một trong những vị tổng thống được dân chúng yêu thương nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Thảm hại nhất là ông Mondale, các cơ quan truyền thông địa phương phải kêu gọi cử tri "đừng để người con yêu của chúng ta hoàn toàn mất thể diện"; nhờ đó ông mới được dân chúng đất nhà là tiểu bang Minnesota ra sức dồn phiếu cho để thắng suýt soát. Dĩ nhiên 49 tiểu bang còn lại đều lọt vào tay ông Reagan. Quan vận đến nơi, phát như sấm sét Tính từ lúc đám triệu phú thuyết phục ông Reagan ra tranh cử thống đốc California năm 1965 đến lúc ông thắng tổng thống nhiệm kỳ 2 năm 1984, thời gian kéo dài đúng 20 năm. Lý do gì mà trong hai mươi năm này ông bộc phát dữ dội như thế? Để trả lời chúng ta thử nhìn lại lá số của ông. Có thể gượng nói rằng hạn 1965-74 tốt đẹp vì vào vị Bạch Hổ đúng vòng Thái Tuế, lại đắc Thanh Long thành cách "Long Hổ tương phùng"; nhưng lập luận này lung lay vì hạn 1975-84 vào vị Long Đức của vòng Thái Tuế chỉ tốt cho việc tu tâm dưỡng tính mà bất lợi cho việc đấu tranh, tại sao vẫn phát? Có thể thấy rằng việc luận đại hạn chẳng thể nào chỉ dựa vào vòng Thái Tuế. Vậy đáp án ở đâu? Xin thưa, đây là một trường hợp hiếm hoi mà lý ngũ hành chiếm vị trí trung tâm trong bài toán tử vi. Ông Reagan bản mệnh kim, có cách cục nguyên thủy tốt đẹp, nên khi đại vận chuyển đến phương Nam, tức các cung Tỵ Ngọ Mùi, là đắc cách "vượng kim nhập hỏa hương", và vì hỏa là hành quan của mệnh kim nên công danh sự nghiệp đột phát. Hạn 1965-74 hết sức đặc biệt vì có Hỏa Tinh độc thủ ở Mùi. Hỏa Tinh dĩ nhiên thuộc Hỏa nên hoàn toàn ứng hợp với quan vận, chính là "hung tinh đắc thế phát dã như lôi", cung Mùi lại được cách "Phủ Tướng triều viên" là có quý nhân phù trợ, thành ra chẳng cần mưu sự mà vẫn được người bày cỗ cho ăn, thành đạt to tát hơn xa bao kẻ tài ba, thức đêm toan tính. Hạn 1975-84 được Ngọ là chính phương của hỏa, được cặp trung thiên đế tinh Âm Dương hội họp nên dễ mưu chuyện lớn, nhưng nòng cốt hỏa gồm các sao Song Hao Khôi Việt không phải là hung tinh nên phát triển không đột ngột như hạn trước, và có bước vấp ngã là thua ông Ford năm 1976 khi đại tiểu hạn trùng phùng như đã nói trên. Bù lại, cung quan của đại hạn này ở Tuất được đủ cặp Tả Hữu, cả hai lại cùng tự hóa Khoa, đúng là cách làm ít hưởng nhiều nhờ công lao hãn mã của những người phù tá. Triệt phùng Quan Phúc, xấu tốt chất chồng Đại hạn 75-84 tuổi ứng với thời gian 1985-94 vào Tỵ vẫn là phương nam thuộc hỏa, có Tử Sát Binh Hình Tướng Ấn là thượng cách cho kẻ nắm quyền uy. Nhưng đế tinh Tử Vi vốn rất kỵ Triệt; cung gặp chính Triệt lại thêm Quan Phúc ở vị Tuế Phá xung vòng Thái Tuế thì rất khó vẹn toàn; bởi vậy hạn này chứa đủ hai mặt cực đoan tốt xấu. Mặt tốt là thành công rực rỡ trong việc hóa giải cuộc "chiến tranh lạnh" với khối Sô Viết. Họp thượng đỉnh lần đầu với tổng bí thư Liên Sô Gorbachev năm 1985, ký hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạch nhân tầm trung năm 1987, giảm mối nguy diệt chủng cho toàn thể nhân loại. Năm 1987, trong một cuộc họp thượng đỉnh với Gorbachev, khi đến cổng Brandenburg ở bức tường ô nhục Bá Linh ông Reagan dõng dạc bảo đối phương: "Ông Gorbachev, hãy mở cái cổng này ra, hãy phá bức tường này xuống!" Câu nói đầy thách thức này bị nhiều chuyên gia chính trị lúc ấy chê trách là "phản ngoại giao". Nhưng như chúng ta đều biết, chỉ hai năm sau bức tường Bá Linh bị phá tan trong khi trận cuồng phong dân chủ 1989 xô ngã các chính phủ cộng sản Đông Âu như các con bài domino. Cuộc đổi thay vĩ đại này khiến lời tuyên bố "phản ngoại giao" ngày xưa của ông Reagan trở thành lời tiên tri lưu danh hậu thế. Mặt xấu là vụ án "Iran contra" bùng nổ năm 1986. Người viết sẽ không đi vào chi tiết, chỉ ghi nhận rằng có lúc các chuyên gia chính trị tưởng vụ này sẽ làm ông Reagan bay chức tổng thống. Mãi đến năm 1988 là năm cuối cùng đương nhiệm tổng thống, nhờ đề đốc Poindexter đứng ra nhận hoàn toàn trách nhiệm, ông Reagan mới thoát. The Great Communicator! Điểm lạ lùng là mặc dầu bị vết nhơ "Iran contra" ám ảnh 3 năm sau cùng, khi ông Reagan từ giã tòa bạch ốc, nhường quyền lại cho tân tổng thống George Bush Sr. để trở lại đời sống dân sự đầu năm 1989, niềm tin yêu mà quần chúng dành cho ông chẳng hề giảm sút. Người ta bảo sở dĩ thế là vì ông là "the Great Communicator" có biệt tài đánh động trái tim quần chúng khiến người ta không thể nào không thương ông được. Vì yêu thương ông nên người ta "chín bỏ làm mười", chỉ để ý đến ưu điểm và chẳng buồn chê trách khuyết điểm của ông. Cứ xem chuyện gia đình của ông là đủ rõ. Ông xiển dương "giá trị gia đình", nhưng chính ông là vị tổng thống đầu tiên -và đến khi bài này được viết vẫn là vị tổng thống duy nhất- của Hoa Kỳ đã ly dị vợ. Con cái cũng chẳng thân thiết gì với ông, và hay than phiền rằng ông chẳng có thời giờ cho họ. Nhưng nếu theo dõi các phương tiện truyền thông, ta chỉ nghe nói đến mối tình lãng mạn thi vị như tiểu thuyết giữa ông và bà vợ thứ hai, thấy những tấm hình đầy tình yêu thương mà ông chụp chung với con cái ở một thời xưa cũ. Lý thú làm sao, ngay cả cái số "nói hay trời thưởng" này cũng có thể thấy qua lá số của ông. Sao Khoa quá nhiều bảo sao chẳng được đời ưu đãi, hai Kỵ bị Khoa trấn ngay hông thì muốn ghét cũng chẳng được, lục cát Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt tam minh Đào Hồng Hỉ đều tụ ở sáu cường cung, thiên di lại thêm Cự Lộc Quyền Quang Quý hội, Khốc Hư giáp; thảo nào mỗi lời nói ra đều được người chờ đón hoan hô. Giả như ngược lại bị Hình Riêu Không Kiếp đóng ở cường cung thì cũng những lời nói ấy e sẽ bị người nghe lấy sợi tóc chẻ làm tư tìm phương phỉ báng. Thế mới biết dẫu có tài là quý, nhưng "hay không bằng hên" nên có tài vẫn phải thêm số tốt nữa mới được. Lưu danh hậu thế Đại hạn cuối cùng 85-94 tuổi (ứng với thời gian 1995-2004) vào cung Thìn, tức quan lộc nguyên thủy, có Cơ Lương Đế Vượng Tả Hữu Thai Cáo Xương một Lộc bốn Khoa hai Kỵ và đủ bộ tam minh Đào Hồng Hỉ hội họp. Với người tuổi trẻ chính là hạn vẫy vùng đắc chí, nhưng ở tuổi gần đất xa trời thì chính cung Đế Vượng Hồng Loan, hội Đào Hỉ thật khó mà qua khỏi. Nhưng tại sao ông Reagan lây lất "sống như đã chết", đến năm cuối cùng của đại hạn mới ra đi? Phải chăng vì cung Thìn là nhuận thổ (đất ướt) có thể sinh bản mệnh kim nên ông không chết ngay được? Cũng hợp lý, nhưng người viết không cho rằng đó là nguyên nhân chính. Một đặc điểm trong đời chính trị của ông Reagan là ông luôn luôn ở đúng chỗ đúng lúc nên được hưởng hết mọi ánh hào quang rực rỡ. Cứ nhìn lại các thành tích của ông thì rõ. Thái độ cương quyết của ông đối với Liên Sô dĩ nhiên là can đảm, nhưng ông nắm quyền đúng lúc anh khổng lồ Sô Viết với đôi chân bằng đất sét sắp ngã sụm nên được coi là tác nhân chính trong việc làm sụp đổ Sô Viết và khối cộng Đông Âu. Cái nhìn lạc quan của ông về tương lai nước Mỹ dĩ nhiên là hợp thời; nhưng vì tổng thống Carter trước ông đã sai lầm đẩy nước Mỹ đầy sức sống xuống tận cùng vực thẳm của bi quan nên ông được coi là tác nhân kéo nước Mỹ lên trở lại vị trí hùng cường. Khi ông Reagan trút hơi thở sau cùng, ở Âu Châu là đêm khuya 5 tháng 6, 2004; đúng ngay lúc nhiều lãnh tụ thế giới tụ tập ở Pháp để chuẩn bị lễ kỷ niệm 60 năm ngày quân đội đồng minh đổ bộ ở bãi biển Normandie giải phóng nước Pháp (6 tháng 6, 1944). Sự trùng hợp khít khao này khiến người ta không muốn cũng phải nhớ lại bài diễn văn bất hủ khiến bao người rơi lệ mà ông đã đọc ở Normandie 20 năm trước khi ông còn là tổng thống Mỹ. Thì ra ngay khi chết, trời vẫn cho ông Reagan cái may mắn là người đúng lúc. Nhờ vậy, sự ra đi của ông thay vì chỉ là một biến cố ở Hoa Kỳ đã nghiễm nhiên hóa thành một biến cố của toàn thế giới. Suốt tuần lễ sau khi ông Reagan chết nước Mỹ như lắng đọng, cờ treo nửa cột. Thứ sáu 11 tháng 6 tức ngày chôn cất ông được tuyên bố là ngày "toàn quốc khóc thương", các cơ quan chính phủ và thị trường hôái đoái đóng cửa. Hôm ấy, sau lễ quốc táng ở Washington với đầy đủ các nhân vật trọng yếu của toàn thế giới, chiếc quan tài chứa di thể ông Reagan được bay trở lại California, và rồi y như đoạn kết bi hùng của một cuốn phim Hollywood, người ta hạ ông xuống lòng đất lạnh ngay lúc mặt trời chìm xuống phương tây. Những tia nắng quái hoàng hôn như muốn nhắc lại một đoạn trong bức thư ông Reagan viết tháng 11, 1994 để loan báo mình bị bệnh Alzheimer: "Giờ đây tôi bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến buổi hoàng hôn của đời tôi, nhưng tôi biết rằng nước Mỹ luôn luôn có một bình minh rực sáng"* Cuối cùng cuộc hành trình của ông Reagan đã chấm dứt, và ông đã đến nơi. Nhưng nếu quả đúng là định mệnh đã an bài cho một người luôn luôn đúng thời đúng chỗ, có lẽ ông sẽ không biến mất trong bóng tối theo sau buổi hoàng hôn của cuộc đời 93 năm, mà sẽ sống mãi như một trong những biểu tượng quan trọng nhất của chính trị thế giới trong thế kỷ 20./ Ngày 18 tháng 6, 2004 Đằng Sơn * Nguyên văn lời dịch của học giả Nguyễn Ngọc Bích Phụ lục: Yếu tố Quan Phúc trong lá số của cố tổng thống Reagan Như đã nhấn mạnh nhiều lần trong loạt bài Tử Vi và thế cuộc, theo cách xem của người viết Quan Phúc ở đâu là thử thách đã an bài ở đó, tùy cái nhân gieo mà quả ngọt đắng khác nhau. Lá số nguyên thủy của ông Reagan có Quan ở tử tức, Phúc ở Nô. Hãy nói về Quan ở tử tức trước, vì có vài dữ kiện tương ứng với Quan Phúc ít được giới truyền thông phổ biến. Ông Reagan và người vợ đầu mất một cô con gái là Christine, ngoài ra hai người nhận một cậu con nuôi là Michael. Ngoại trừ cô con gái đầu lòng là Maureen (chết năm 2001), những người con khác đều than phiền là có một khoảng cách giữa họ và ông Reagan. Mãi đến khi ông bị bệnh Alzheimer rồi khoảng cách này mới được các người con tự nguyện thu ngắn lại rồi bỏ hẳn. Những sự kiện này ứng với Hình Quan Phúc ở Tử Tức. Điểm đáng chú ý là ông Reagan chưa từng lên tiếng trách lại con cái mình; thế là ông đã vô tình hoặc cố ý hành xử đúng một đòi hỏi của Quan Phúc. Phải chăng vì vậy mà khi ông bị bệnh nan y, trời cho ông sống lây lất kéo dài để con cái có thời giờ đổi thay quan điểm, cho tình cha con được trở thành sâu đậm trước khi ông từ giã cõi đời. Bấy nhiêu đã đủ cho tử tức, nay luận sang Nô Bộc. Năm 1976 đại tiểu hạn trùng phùng ở Ngọ, nên đại hạn nô bộc và tiểu hạn nô bộc cũng trùng phùng có Thiên Phúc xung chiếu. Ông Reagan thua tổng thống Ford đau đớn trong cuộc bầu cử nội bộ đảng Cộng Hòa. Theo nguồn tin thông thạo thời ấy thì một nhân vật có thế lực của đảng (tạm gọi là ông A.) hứa ủng hộ ông Reagan rồi lại xoay sang ủng hộ ông Ford, nên ông Reagan thay vì thắng suýt soát thành thua đau đớn. Chuyện kể rằng sau khi mọi sự đã ngã ngũ, ông A. tìm đến gõ cửa phòng khách sạn của ông bà Reagan, vừa khóc nức nở rằng "Thống đốc ơi. Tôi đã phạm lỗi lầm lớn nhất của đời tôi nên đến đây để nghe ông trách mắng". Bà Nancy, vợ ông Reagan, giận quá ngoảnh mặt đi không nói lời nào cả. Nhưng ông Reagan thì rất bình tĩnh. Ông ôn tồn vỗ về ông A. rồi nói nửa đùa nửa thật rằng: "Không sao cả. Miễn là lần sau anh chịu đoái công chuộc tội!" Khi nói những lời này ông Reagan đã 66 tuổi ta, làm gì có "lần sau"; nhưng nghe thế ông A biết là mình đã được ông Reagan tha tội phản bội. Ai ngờ lại có "lần sau" thật. Đoạn kết của câu chuyện kể rằng nhờ cảm cái khí lượng quân tử của ông Reagan mà ông A. là một trong những người đắc lực nhất của phe Reagan trong cuộc bầu cử 1980. Vì mọi phản ứng của giới lãnh đạo được đồn xa rất lẹ ở nước mà giới truyền thông quá tự do và đói tin như nước Mỹ, giả như ông Reagan không dằn nổi đau đớn nóng giận, hạ nhục ông A trong năm 1976 thì rất có thể nhiều người theo ông đã chém vè bỏ cuộc -như trường hợp ông Howard Dean đầu năm 2004- và nước Mỹ đã chẳng có hai nhiệm kỳ của tổng thống Reagan. Còn một sự kiện đáng chú ý nữa là năm 1981 ông Reagan bị gã khùng John Hinckley mưu sát một cách lãng xẹt (để làm nổi với nữ tài tử Jodie Foster mà hắn chưa từng gặp bao giờ). Nhìn lại tiểu hạn năm này thiên di có Thiên Phúc trấn giữ cùng Tuế Phá Tử Sát Tướng Ấn Mã ngộ chính Triệt, hội họp có Quan Hình Riêu Không Kiếp. Tật ách thì đại hạn có Vũ Tham Hình Riêu Không Kiếp, tiểu hạn vô chính diệu có Song Hao Khôi Việt Kình Linh; thật không hiền lành một chút nào. Nếu ông Reagan trúng đạn tử nạn chẳng thể nói là không đúng số. Thực tế là ông trúng đạn, nhưng may mắn làm sao viên đạn cách tim vài centimét, nên ông thoát chết một cách ly kỳ. Sự bình tĩnh hiếm có của ông sau khi thọ nạn đã thành giai thoại của làng báo. Sau khi tỉnh dậy trong phòng cấp cứu, chuẩn bị mổ ông còn tỉnh bơ giỡn đùa với các bác sĩ "Tôi hy vọng quý vị đều là người của đảng Cộng Hòa". Sau khi hồi phục, một lần nữa tỏ khí độ quân tử ông ngỏ ý muốn gặp mặt kẻ đã bắn ông, hy vọng cuộc gặp gỡ này giúp hắn giảm bệnh tâm lý. Vì các chuyên gia tâm lý sợ cuộc gặp gỡ này gây áp phê ngược khiến Hinckley khùng thêm, ông mới đành bỏ ý định. Tóm lược lại; ông Reagan thua đau đớn năm 1976, thắng dễ dàng năm 1980, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc trong cuộc mưu sát năm 1981, rồi thắng dễ dàng lần nữa năm 1984. Vì tất cả những dữ kiện này đều ở trong đại hạn 1975-84 có Phúc xung chiếu nô bộc, và hai lần bị thử thách ông đều dung thứ cho kẻ đã gây hại cho mình, ta có thêm bằng cớ để tin rằng Quan Phúc quả là hai dấu hiệu đánh dấu hai phương mà trời muốn thử thách con người. ĐẰNG SƠN
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:41:46 GMT 9
D. Cheney, Trọn Đời Phúc Lộc Bài này được viết ngày 13 tháng 8 năm 2004, tức chỉ hơn hai tuần trước khi đảng Cộng Hòa của Hoa Kỳ nhóm họp đại hội ở thành phôá New York (30 tháng 8 đến 2 tháng 9). Trừ khi có biến cố động trời, trong đại hội này đảng Cộng Hòa sẽ chính thức đề cử liên danh George W. Bush - thingy Cheney ra tranh hai chức tổng thống và phó tổng thống cho kỳ bầu cử tháng 11 tới này, đối địch lại liên danh John Kerry - John Edwards của đảng Dân Chủ.Vì lá số của đương kim tổng thống George W. Bush và hai thượng nghị sĩ John Kerry, John Edwards đều đã được phân tích trong loạt bài Tử Vi và thế cuộc, để quân bình lần này xin bàn lá số của đương kim phó tổng thống thingy Cheney. Theo tài liệu internet được xếp hạng A về mức độ chính xác thì ông thingy Cheney ra đời lúc 7:30 giờ chiều ngày 30 tháng 1 năm 1941 tại thành phố Lincoln, Nebraska thuộc bắc vĩ tuyến 29 độ 57 phút, tây kinh tuyến 90 độ 4 phút. Xét thiên văn thì ngày ấy mặt trời đạt cao điểm vào lúc 12:40 giờ trưa, nên 7:30 là giờ Dậu. Ngày thì đổi sang âm lịch địa phương thành 4 tháng giêng năm Tân Tỵ, tức là y hệt Việt lịch. Lưỡng Tướng ngộ Triệt oanh liệt thành công! Vừa nhìn vào lá số đã thấy ngay một khúc mắc to lớn. Mệnh ở Tỵ có Thiên Tướng độc thủ thêm Tướng Quân-Quốc Ấn cùng cung hội họp với Thiên Hình, thành hai đại cách là lưỡng Tướng và Binh Hình Tướng Ấn nên rất hợp với việc nắm quyền bính. Điểm quái ác là năm Tân bị chính Triệt án ngay ở Tỵ. Sách gọi Tướng ngộ Triệt là "đoản đầu tướng quân", ví như ông Tướng bị chặt đầu, xấu lắm; vậy thì tại sao đời của ông Cheney đã có rất nhiều thành tựu huy hoàng? Xin thưa vì tử vi là một bài toán có nhiều biến số, không thể dựa vào một hai cách mà phán quyết; phải lấy tất cả các yếu tố xấu tốt chính yếu bù trừ cho nhau mới khỏi bị sai lầm. Đồng ý như vậy rồi, ta xét kỹ lại lá số của ông Cheney. Dù bị cách Lưỡng Tướng ngộ Triệt, cung mệnh đắc cả hai vòng Thái Tuế và Lộc Tồn làm sao mà dở cho nổi? Thân cư thiên di ở Hợi có Vũ Phá phùng Tuế Phá và Mã Tuyệt rõ ràng bế tắc, ai ngờ cung can là Kỷ khiến Vũ tự hóa Lộc, nên theo lý "cùng tắc biến" của dịch biến thành đại cách "tuyệt xứ phùng sinh" cực kỳ tốt đẹp. May hơn nữa cho ông Cheney, bản mệnh kim của ông đồng hành với tính kim của Vũ Khúc, cung Hợi lại không bị Không Kiếp hội họp nên Vũ Khúc lấn Phá Quân, trở thành lực lượng chính. Thành thử thân có Tuế Phá, Phá Quân, Thiên Mã mà ông chẳng phải là loại tà gian; đạt thành công hoàn toàn bằng con đường chính phái. Từng là sự vụ trưởng tòa bạch ốc (White house chief of staff) dưới thời tổng thống Ford, hạ nghị sĩ đại diện tiểu bang Wyoming, tổng trưởng quốc phòng dưới thời tổng thống Bush Sr., và khi bài này được viết đường đường là phó tổng thống của đệ nhất đại cường Mỹ quốc. Bước vấp ngã của tuổi trẻ Nhưng nếu khoa tử vi chính xác thì muốn đến cái huy hoàng của đại cách "tuyệt xứ phùng sinh" của cung thân ông Cheney phải trải qua cái chao đảo gập ghềnh của lưỡng Tướng ngộ Triệt tại cung mệnh trước đã. Quả nhiên, trong phần đầu của đời ông ta thấy dẫy đầy những chứng tích của tuổi trẻ hoang mang. Bắt đầu như một giấc mộng thần tiên toàn mỹ. Từ Lincoln của tiểu bang khỉ ho cò gáy Nebraska cậu Cheney theo chân cha mẹ về thị trấn Casper của tiểu bang khỉ ho cò gáy hơn nữa là Wyoming. Trong cảnh an bình này cậu hưởng một thời thơ ấu êm đềm. Tuổi mới lớn của cậu cũng đầy hứa hẹn. Năm cuối trung học cậu vừa là trưởng lớp vừa là đội trưởng đội banh bầu dục (Mỹ gọi là football), lại được cặp bồ với hoa khôi của trường là cô Lynne Vincent. Rồi trước khi tốt nghiệp cậu được đại học lừng danh Yale nhận vào học và cho luôn học bổng. Ai cũng tưởng đây là bước đầu của một tương lai càng lúc càng rạng rỡ. Không ngờ chỉ sau ba khóa ở Yale, tức chưa đầy hai năm, cậu Cheney lủi thủi trở về Casper. Có người bảo là cậu chán học nên bỏ ngang, có người bảo là cậu bị đuổi học. Nhưng bất chấp nguyên ủy ra sao, sự thật vẫn là con đường học vấn của cậu đã bị gián đoạn. Không học thì phải tay làm hàm nhai, nên cậu đi làm nhân công cho một hãng điện nước. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh nên không có nghề cao nghề thấp, nhưng hiển nhiên việc làm ở hãng điện nước không phù hợp với cái tính thích được đời trọng vọng của những người có Thiên Tướng thủ mệnh. Chán nản với công việc và thấy đời mình bế tắc, cậu Cheney lâm vào bệnh rượu chè, và bị bắt hai lần vì tội say rượu lái xe. Nhìn lại lá số, giai đoạn này ứng với đại hạn 12-21 (tức thời gian 1952-1961). Đại hạn mệnh vào cung Thìn là huynh đệ nguyên thủy, có Cự Môn hãm phản cách thành miếu nhờ hóa Lộc, thêm Tả Hữu chính xung cùng tự hóa Khoa, hội họp Hồng Hỉ Tấu Thư Vượng Thai nên có thể hiểu tại sao cậu Cheney tung hoành thỏa chí ở trung học lại được trời cho cô bồ xinh đẹp. Tiếc thay đại hạn thiên di vào Tuất tức là cung nô bộc nguyên thủy, có Đồng hãm địa không được hóa giải lại ngộ Kình. Đồng là sao của bất nhất thất thường vốn rất kỵ cùng cung với Kình Dương, hãm địa còn tai hại hơn nữa. Thế nên cái họa của lưỡng Tướng ngộ Triệt đã thừa cơ phát tác ở thiên di, khiến cậu đi xa phải thất bại trở về, thật là đúng quá! Danh chồng công vợ May sao, thời gian xa nhà không khiến lòng người thay đổi, nên khi trở về Casper cậu Cheney lại cùng cô Lynne nối tiếp mối tình xưa. Không chỉ là một người tình thụ động, cô Lynne cảm thông nỗi sầu khổ của người yêu. Với sự khuyến khích tích cực của cô, cậu Cheney quyết định trở lại con đường học vấn. Lần này là đại học Wyoming. Trên mọi tiêu chuẩn của giới trí thức thì Wyoming chỉ là một trường làng, nhưng nó đã là nơi ghi dấu một khúc quanh to lớn trong đời cậu Cheney, bởi nó giúp cậu thoát qua cơn khủng hoảng tuổi trẻ và huân tập bồi dưỡng những khả năng cần thiết để đảm đương các trọng trách sau này. Đúng như câu tiểu đăng khoa rồi đại đăng khoa, năm 1964 cậu Cheney thành hôn với cô Lynne, năm 1965 cậu ra trường với bằng cử nhân chính trị học, năm kế tiếp 1966 thêm bằng cao học chính trị. Sau đó cậu theo chân vợ học chương trình tiến sĩ chính trị học ở đại học Wisconsin rồi bỏ dở dang để nhận một cơ hội tập sự với chính giới ở Washington. Cơ hội tập sự ấy dẫn đến sự nghiệp chính trị to lớn sau này của cậu, và nó xảy ra được là vì cậu đang học cao học. Hóa ra, trở lại học đường không chỉ là một khúc quanh to lớn mà đã là khúc quanh quyết định đời cậu Cheney. Và cậu trở lại học đường là nhờ cô Lynne tận tình khuyến khích, nên ta có thể cường điệu rằng không có bà vợ Lynne thì không có sự nghiệp của ông chồng thingy Cheney. Các diễn biến này ứng với đại hạn 22-31 (tức thời gian 1962-71). Đại hạn mệnh vào Mão là cung phu thê nguyên thủy. Cung này có Tử Tham nhưng chẳng ứng với câu "đào hoa phạm chủ vi chí dâm" vì chính cung hoàn toàn không bị dâm tinh xâm phạm, lại đắc các cách thuận lợi cho sự thành đạt là Phụ Cáo, Thai Tọa, Lộc Hình Quang Quý, Thanh Long Lưu Hà. Do đó tính chính đào hoa của Tham ở Dậu xác nhận là vợ đẹp mà thôi, các cách còn lại khẳng định rằng vợ yêu thương chồng và giúp chồng thành đạt. Nói nôm na ngắn gọn, tử vi bảo ta rằng ông Cheney có số nhờ vợ; thật là vô cùng chính xác. Giữa cuồng phong thế cuộc Năm 1969 ông Cheney được ông Donald Rumsfeld, lúc ấy là trưởng phòng cơ hội kinh tế (Department of Economic Opportunity) của tổng thống Nixon mướn làm tùy phái. Liên hệ này phát triển thành một tình bạn dài lâu mà người viết đã nói đến trong một bài khác của Tử Vi và thế cuộc. Nhưng năm 1969 vẫn còn trong đại hạn 22-31 tuổi, vào vị Điếu Khách Phi Liêm xung cả hai vòng Thái Tuế và Lộc Tồn nên chỉ là những bước học hỏi chập chững chưa có kết quả đáng kể. Đại hạn 32-41 (tức thời gian 1972-1981) nhằm lúc chính trị Hoa Kỳ trải qua một cơn khủng hoảng vô tiền khoáng hậu. Kỳ diệu làm sao hạn này của ông Cheney vào thế tiền của hai vòng Thái Tuế và Lộc Tồn nên hoàn toàn phản ảnh cơn cuồng phong của thế cuộc, lúc xuống lúc lên nối tiếp nhau liên miên như chong chóng. Năm 1973, xếp của ông là ông Donald Rumsfeld được tổng thống Nixon cử làm đại sứ Hoa Kỳ ở NATO. Không còn nơi nương tựa, ông Cheney đành tạm trở về đời dân sự, nhận chức phó giám đốc một công ty đầu tư ở Washington. Chẳng được bao lâu, năm sau đó tức 1974 tổng thống Nixon từ chức, ông Ford lên thay. Biến cố này trở thành cơ hội cho ông Rumsfeld, và ông Cheney cũng được kéo vào. Năm 1974 ông Rumsfeld làm sự vụ trưởng tòa bạch ốc (White House Chief of Staff) thì ông Cheney được cho làm phó. Năm 1975 khi ông Rumsfeld nhận chức tổng trưởng quốc phòng thì ông Cheney được thăng lên thay chỗ. Năm ấy ông mới 35 tuổi ta; đúng là thế tiền Lộc Tồn và tiền Thái Tuế thêm Kiêáp Không đắc địa, khi đã lên thì lên như diều. Nhưng cái quái ác của thế Thiên Không cộng với Không Kiếp là khi xuống thì cũng rất nhanh. Năm 1976 ông Cheney được tính nhiệm vào chức điều hành cuộc tranh cử tổng thống của ông Ford. Chẳng may ông Ford thua ông Carter suýt soát, thế là bao nhiêu công lao xây dựng một lúc hóa không; ông Cheney đành ôm hận bỏ Washington trở lại Wyoming tìm phương kế khác. Năm 1978 ông trở lại Washington bằng cách thắng một ghế hạ viện của tiểu bang Wyoming. Đã từng giữ chức sự vụ trưởng tòa bạch ốc, làm hạ nghị sĩ đúng là một bước đi lùi, nên đúng là phản ảnh tính "Không" của thế tiền Thái Tuế. Tiếp theo đó là một giai đoạn ẩn nhẫn kéo dài 10 năm, lây qua đại hạn 42-51. Trong thời gian này ông Cheney giữ ghế bằng cách thắng liên tiếp năm nhiệm kỳ nữa trong khi âm thầm tạo uy tín, càng ngày càng được các bạn đồng sự trong hạ viện kính nể. Nhưng nếu không có biến cố nào khác xảy ra có lẽ ông Cheney sẽ vĩnh viễn bị giam trong giới hạn của một trong mấy trăm bộ mặt của hạ nghị viện Hoa Kỳ, và đời sau sẽ kết tội ông sớm nhụt chí tiến thủ. May mắn làm sao, đại hạn 42-51 (tức thời gian 1982-91) đã vào Sửu được hưởng cả hai vòng Thái Tuế và Lộc Tồn, thêm có Thiên Phủ Xương Khúc Khoa Kỵ Bạch Hổ cùng cung nên sự kiên nhẫn của ông cuối cùng được đền bù. Trở lại trung tâm quyền lực Tháng 12 năm 1988, ông Cheney được các đồng sự tín nhiệm vào chức vụ thứ nhì của các hạ nghị sĩ Cộng Hòa. Bước tiến đáng kể này được nối tiếp bằng một sự kiện bất ngờ đưa ông trở lại trung tâm quyền lực. Nguyên là sau khi nhậm chức đầu năm 1993, tân tổng thống George Bush Sr. đề cử tiền thượng nghị sĩ Texas là John Tower vào chức tổng trưởng quốc phòng, không ngờ tháng 3 năm ấy quốc hội bỏ phiếu loại ông Tower. Người kế tiếp được tổng thống Bush Sr. đề cử dĩ nhiên là ông thingy Cheney. Với uy tín sẵn có, ông Cheney được quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm chỉ vài ngày sau khi được đề cử, và chính thức nhậm chức ngày 21 tháng 3 năm 1989. Nhìn lại tiểu hạn năm 1989 của ông Cheney ta thấy ứng hợp lạ kỳ, vì ở Mùi có Liêm Sát, không bị sát tinh xâm phạm chính là cách "tích thiểu thành đại" (chú ý tại chỗ: Người viết an Hỏa Linh theo trường phái "Tỵ Dậu Sửu nhân Tuất Mão vị" nên Linh ở Tý thay vì ở Mùi), lại tam hợp cung thê nguyên thủy nên được rất nhiều cách tốt cho quyền lực như đã trình bày ở trên. Chẳng qua sao chính của đại hạn là Thiên Phủ cũng như sao được hóa Khoa của đại hạn là Văn Xương đều là nam đẩu, nên ảnh hưởng phải chờ đến nửa sau của đại hạn mới phát triển thành kết quả. Phủ Tướng lại là hai sao dễ lâm vào thế bị khuất tất nên phải có người không được tín nhiệm quyền lực mới đến tay ông. Để danh lịch sử với cuộc hành quân bão cuồng sa mạc Nhiệm kỳ 4 năm tổng trưởng quốc phòng của ông Cheney tuy ngắn ngủi nhưng đây chính là thời gian có dẫy đầy biến cố ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Trong giới hạn của bài này chỉ nhắc đến vài biến cố chính. Trước hết là sự sụp đổ toàn bộ của Đông Âu năm 1989, thứ nhì là của liên bang Sô Viết năm 1990. Nhưng nếu các sử gia tương lai gắn liền ông Cheney với một dữ kiện, thì dữ kiện đó phải là cuộc chiến được mệnh danh là "bão cuồng sa mạc" (desert storm) đánh bật Iraq ra khỏi Kuwait năm 1991. Nhìn lại thì năm 1991 là năm cuối cùng của đại hạn 42-51. Mặc dù chính tinh là Thiên Phủ bình hòa, nhưng những phụ tinh Hổ Kỵ Khốc Hình Phù Hỏa rõ ràng là cực đoan. Tiểu hạn 1991 thì vào cung quan lộc nguyên thủy ở Dậu, có Hình độc thủ cùng cung với Phá Toái, cũng là ứng hợp với chiến tranh. Ở trên ta đã biết cung thân của ông có cách Vũ Phá Tuế Phá Mã Tuyệt. Dù được tuyệt xứ phùng sinh nhờ tự hóa Lộc, tính cực đoan của các cộng hưởng này vẫn phải được phát tiết ở đâu đó mới đúng lẽ bù trừ. Chiến tranh là hoàn cảnh cực đoan ở cấp độ cao nhất, nên ông Cheney để danh nhờ một cuộc chiến tranh xét ra thật là hợp lý. Có thể mất chức vì cớ tim yếu? Cuộc chiến Iraq năm 1991 khiến uy tín của tổng thống Bush Sr. lên như diều, tưởng là ăn chắc thêm nhiệm kỳ hai. Không ngờ hoàn cảnh kinh tế suy sụp và sự hiện diện của ứng cử viên độc lập Ross Perot trong cuộc tranh cử năm 1992 đẩy một nhân vật hoàn toàn mới là Bill Clinton vào chức vụ tổng thống. Nhiều người ủng hộ đương kim tổng thống George W. Bush đang lo ngại vì họ thấy quá nhiều điểm tương tự giữa cuộc bầu cử năm nay 2004 với cuộc bầu cử năm 1992. Cũng một năm sau khi đánh Iraq, cũng trong cảnh kinh tế suy sụp; khác chăng là chưa thấy một Ross Perot mới xuất hiện ở chân trời để cướp phiếu của một số cử tri thường ủng hộ đảng Cộng Hòa. Đã có tin đồn là để tăng xác xuất thắng cử trong đại hội đảng kỳ này ông Bush sẽ bỏ ông Cheney và thay bằng thượng nghị sĩ được nhiều người yêu thích là John McCain. Họ bảo ông Bush có thể làm chuyện này bằng cách mượn một lý do chính đáng là ông Cheney đã bị chứng đau tim kịch phát nhiều lần. Chi tiết là các năm 1978, 1984, 1988, 2000, 2001. Tính trên xác xuất thật khó tin là ông Bush sẽ dám làm chuyện "đổi ngựa giữa đường" động trời này chỉ vì ông Cheney "yếu tim", nhưng đây cũng là cơ hội để ta kiểm chứng lại cung tật ách của ông Cheney. Cung này có Thái Dương thuộc dương hỏa ứng với tim. Thêm Linh Tinh, Đại Hao, Hóa Quyền cùng chứa hỏa tụ lại ở cung tật ách là hỏa quá thịnh; ông bị bệnh tim kinh niên thật là phải quá. Thế nào đi nữa, vẫn quá huy hoàng Như trên đã nói, năm 1973 khi ông Rumsfeld rời Mỹ để nhậm chức đại sứ Hoa Kỳ ở Nato là lần đầu tiên ông Cheney phải trở lại đời sống dân sự. Năm 1993 khi ông Clinton lên làm tổng thống, ông Cheney bị bắt buộc trở về đời dân sự lần thứ hai. Nhưng cái hoàn cảnh "bắt buộc" này của ông còn hơn ước mơ tự nguyện của bao nhiêu triệu người. Là tổng giám đốc hãng thầu quốc tế Halliburton, báo chí Mỹ nói rằng khi từ chức để ra tranh cử phó tổng thống năm 2000 ông đã được trả tổng cộng 44 triệu Mỹ kim. Ngoài ra, mặc dù đã tuyên bố "chấm dứt mọi liên hệ" với hãng này, ông vẫn còn quyền mua rất nhiều cổ phần với giá rẻ, tính ra cũng lời thêm cả chục triệu Mỹ kim khi bài này được viết. Cứ từ đó mà suy thì hoặc là ông sẽ làm tiếp nhiệm kỳ 2 ở chức vụ phó tổng thống, phù hợp vô cùng với Thiên Tướng cư mệnh, hoặc ông sẽ trở về đời dân sự, ngồi trên thiên hạ ở đâu đó với tiền lương tính theo đơn vị triệu Mỹ kim. Tóm lại, bất luận tương lai ra sao, chỉ cần bệnh tim kinh niên không lôi ông đi bất ngờ thì ông tha hồ hưởng phúc lộc trong lúc tuổi già bóng xế. Câu hỏi là ông có gì khác người mà lại may mắn đến thế? Một câu trả lời đã nằm rành rành ngay trong cung phúc đức. Như đã kể trên cung này có Liêm Sát tọa thủ, đắc nhiều cách hay lại không bị sát tinh xâm phạm. Đối cung có hóa Kỵ thì được ngay hóa Khoa cùng cung hóa giải lại thành kỳ cách. Nói theo nhà phật là ông đã trồng nhân nhiều kiếp rồi nên kiếp này được hái quả phúc. Giúp đời là thượng sách! Nhưng cũng phải nhìn nhận thêm rằng ngay trong kiếp này ông Cheney đã tạo đức rất nhiều. Mệnh ông có Thiên Phúc tam hợp với Thiên Quan ở Tài nên đời ông mặc dù nói chung là thành công cũng chẳng phải luôn luôn suôn sẻ. Những người sống trong cảnh đấu tranh lên xuống nhiều thường phát triển tâm lý ích kỷ, chỉ dành phần thắng về mình mà chẳng cần biết đến người khác, nên kẻ mang ơn thường là kẻ bội ơn. Nhưng ông Cheney thì rất vẹn nghĩa tình. Biết ơn vợ, dù công việc bận bịu bao nhiêu mỗi ngày ông cũng cố về đúng giờ để cùng người bạn trăm năm sẻ chia những phút giây đằm thắm. May mắn được ông Rumsfeld cất nhắc khi mới chập chững vào đường chính trị, ông đã cất nhắc lại ông Rumsfeld vào chức tổng trưởng quốc phòng khi nhậm chức phó tổng thống. Về mặt xã hội, vợ chồng ông Cheney có tiếng tích cực trong các công tác tình nguyện. Về số cổ phần đáng giá hàng chục triệu mà ông chưa lãnh của hãng Halliburton, ông hứa là sẽ tặng hết cho các hội từ thiện. Và dĩ nhiên, với một người có khả năng hái ra tiền trong đời sống dân sự như ông, mỗi lần chọn chính trị với đồng lương cố định đã là một lần hy sinh quyền lợi cá nhân cho nhân quần xã hội. Trở lại cách Lưỡng Tướng ngộ Triệt của ông Cheney. Nói rốt ráo thì cách này là dấu hiệu của sự lỗ lã. Nhưng nếu đã tự nguyện chịu hy sinh rồi thì còn gì để mà sợ lỗ lã nữa? Cho nên, từ lá số và cuộc đời của ông Cheney ta một lần nữa lại khẳng định được một bài học mà các cụ đã để lại từ nghìn xưa: Cứ ăn hiền ở lành, chịu khó giúp đời giúp người thì chẳng cần lo số mình xấu tốt. Ngày 13 tháng 8, 2004 Đằng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:45:09 GMT 9
Ted Kennedy, Số Không Làm Tổng Thống ĐẰNG SƠN .
Bài này được viết lúc cuộc chạy đua vào tòa Bạch Ốc bắt đầu bước vào đoạn nước rút sau cùng. Như chúng ta đều biết, hai ứng cử viên kỳ này là đương kim tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đại diện đảng Cộng Hòa và thượng nghị sĩ John Kerry đại diện đảng Dân Chủ.Đứng ngoài kịch liệt chỉ trích tổng thống W. Bush và vỗ tay ủng hộ ông Kerry là một thượng nghị sĩ hết sức đặc biệt của đảng Dân Chủ. Vị này đã được bầu vào thượng viện khi mới 31 tuổi ta và có lúc được tin chắc sẽ là tổng thống tương lai của Hoa Kỳ, nhưng bây giờ ở tuổi 73 e chẳng còn hy vọng gì nữa. Như các độc giả tinh ý đã đoán ra, đó chính là ông Ted Kennedy! Là em út, trên có 3 anh 5 chị, ông Ted Kennedy là ngôi sao duy nhất còn sót lại của một dòng tộc đã trải qua những huy hoàng tột độ và những bi thảm tận cùng. Ba người anh của ông đều yểu tử. Ông anh cả Joe Kennedy chết năm 1944 trong một phi vụ thời đệ nhị thế chiến (30 tuổi). Ông anh thứ 2 là vị tổng thống lừng danh John F. Kennedy bị ám sát năm 1963 trong một chuyến công du ở Texas (47 tuổi). Ông anh thứ ba là thượng nghị sĩ Robert Kennedy bị ám sát năm 1968 ở Los Angeles trong khi đang tranh ngôi vị ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ (44 tuổi). Sau khi ông Robert Kennedy bị ám sát vạn con mắt của giới phân tích chính trị đều đổ dồn vào ông Ted Kennedy, dù chỉ mới 37 tuổi ta nhưng đã có thành tích vững vàng là 6 năm trong thượng viện. Xét từ cảm tình hết sức đặc biệt mà dân chúng Mỹ dành cho hai ông anh John và Robert cộng với hai cái chết bi thảm của họ, thật dễ đoán rằng ông em út Ted sẽ được quần chúng Mỹ bầu bằng lá phiếu của con tim để thành tổng thống một ngày không xa lắm. Nhưng nếu dễ đoán như vậy thì đã chẳng có cuộc đời. Chỉ hơn năm sau, chi tiết hơn là ngày 27 tháng 7 năm 1969, khi lái xe qua một chiếc cầu hẹp ở đảo Chappaquidthingy sau một buổi dạ hội, ông Ted Kennedy lạc tay bánh. Hậu quả là xe bay khỏi cầu xuống nước khiến cô thư ký của ông là Mary Jo Kopechne ngồi cùng xe bị thảm tử. Hơn 9 giờ sau khi tai nạn này xảy ra ông Ted mới thông báo cho cảnh sát; và về sau người ta có bằng cớ hẳn hòi là ông toan chạy tội. Thế nhưng -hiển nhiên là nhờ thanh thế gia đình- khi ra tòa ông chỉ bị án treo! Lạ nữa là khi ông lên TV hỏi ý kiến dân Massachusetts thì đa số vẫn muốn ông tiếp tục làm thượng nghị sĩ đại diện họ, rồi thế hệ này thế hệ kia tiếp tục dồn phiếu tín nhiệm ông, kéo dài cho đến bây giờ. Nhưng dù sao thì sự cố Chappaquidthingy cũng đã trở thành một đám mây đen không chịu tan đi. Vì đám mây đen ấy, ông Ted Kennedy bị đẩy vào một vị trí lạ kỳ: Làm thượng nghị sĩ thì quá dư, nhưng tranh chức tổng thống thì quá thiếu! Ta sẽ trở lại vấn đề này sau. Giới nghiên cứu tử vi thích phân loại các lá số, như số làm quan to, số làm giàu, số nghèo hèn, số yểu mệnh v.v... nên ta không khỏi thắc mắc: Phải chăng sự kiện ông Ted Kennedy chẳng được làm tổng thống Mỹ cũng đã được an bài trên lá số? Tham Lang cư Tý lãng lý thành công! Theo các tài liệu được xếp hạng tối cao về độ đáng tin cậy, thượng nghị sĩ Ted Kennedy ra đời lúc 3:58 giờ sáng ngày 22 tháng 1 năm 1932 ở Dorchester tiểu bang Massachusetts, bắc vĩ tuyến 42.17.50, tây kinh tuyến 71.04.30. Vì ngày hôm ấy ở Dorchester mặt trời lên đỉnh đầu lúc 11:58 trưa; nên 3:58 giờ sáng phải điều chỉnh thành 4:00 sáng (chỉ thêm 2 phút) cho tương ứng. Tính ra âm lịch địa phương được giờ Dần ngày 17 tháng giêng năm Nhâm Thân. Lá số này lạ lùng vì mệnh cư Tý có Tham Lang độc thủ. Sách có câu "Tham Lang cư Tý như lãng lý hành thuyền", lại có câu "Tham Lang Hợi Tý danh vi phiếm thủy đào hoa"; cộng cả hai câu lại ý nghĩa đại khái mệnh cư Tý có Tham Lang vô chí hướng, đời sống trôi nổi bềnh bồng, thích rượu mê hoa chẳng nên tích sự gì cả. Đó là chưa kể lá số này thêm Kình hãm địa đồng thủ mệnh; chẳng có vẻ phù hợp gì với ông Ted Kennedy, dù chẳng được làm tổng thống cũng đã tung hoành ngang dọc ở thượng viện trên 40 năm! Vậy thì phải giải thích làm sao? Xin thưa rằng vì "ngôn bất tận ý" các câu phú tử vi không thể luận một cách cứng ngắc mà phải hiểu theo lý tính của chúng. Trước hết, bốn chữ "thích rượu mê hoa" hoàn toàn đúng với ông Ted Kennedy. Bây giờ người ta tin rằng sự cố Chappaquidthingy xảy ra vì lúc ấy ông đã quá say rượu mà còn ráng lái xe. Gần đây hơn, năm 1989, báo chí tung ra một bức hình chụp từ xa ông trần truồng nằm đè lên một người đàn bà cũng trần truồng ngay giữa sàn một chiếc ghe máy không mui ngoài khơi Coté d'Azure. Vụ này khiến ông bị một thượng nghị sĩ đồng nghiệp 'chơi' một câu khá đau là "I noticed that you had changed your position on offshore drilling!" (xin miễn dịch vì dịch là phản ý), nhưng nhanh chóng bị quên đi. Cuộc đời vốn nghịch lý như vậy: Kẻ đã hay phạm tội thì khi phạm thêm tội thường được giảm khinh hoặc chẳng bị kết án gì cả. Nhưng dù hoang đàng thế nào đi nữa, đã thành tựu như ông Ted Kennedy thì lá số không thể nào tầm thường được. Quả nhiên nhìn lại ta thấy Tham Lang cư đúng vòng Thái Tuế (ở vị trí Quan Phù) lại được đủ cặp Hỏa Linh chia ra hai vị trí tam hợp phù tá, trở thành đại cách. Thêm nữa, thân cư quan có Sát Khoa Tả Hữu Kình Đà và hai cách hết sức tốt đẹp cho người làm chính trị bằng tài miệng lưỡi là Hổ Tấu và Tấu Cái. Điểm quan trọng ở đây là Sát Kình Đà đều thuộc kim, hoàn toàn phù hợp với bản mệnh kim của ông Ted Kennedy nên ông dễ thành tựu. Tiếc thay, Hỏa gây họa cho Sát, tam hợp thì bị Xương cùng cung khiến Phá thiếu quyết liệt, Kình cùng cung khiến Tham trở thành nông nổi. Giả như không bị những phá cách này thì biết đâu đã chẳng có vụ Chappaquidthingy hoặc vẫn có nhưng quần chúng lờ đi, và nước Mỹ đã có hai nhiệm kỳ của tổng thống Ted Kennedy? Cha bá đạo làm sao con ngay thẳng? Muốn thấy cái hại của Kình hãm địa đồng cung Tham Lang trong lá số của ông Ted Kennedy, ta phải trở về tuổi mới lớn khi ông còn là cậu con út cần cha mẹ bảo bọc. Thời gian này thuộc đại hạn thứ 2, vào cung phụ mẫu nên ta phải nói một chút về cung này. Phụ mẫu ở Sửu có Đồng Cự hãm địa thêm Đào Hồng Hỉ Riêu Hình Không Kiếp bình thường phải luận cha mẹ chẳng ra gì nếu không muốn nói là khố rách áo ôm, sinh ly tử biệt. Nhưng kỳ diệu làm sao Cự Môn ở đây tự hóa Quyền, thỏa lẽ cùng tắc biến thành phản cách, giúp cha mẹ có thể thành tựu phi thường. Tuy nhiên, cộng hưởng sao vẫn quá kinh khủng nên ta biết cách thành tựu của cha mẹ cậu Ted phải nhuốm màu bất chính bá đạo. Quả đúng, vì cha cậu là ông Joseph Kennedy làm nên sự nghiệp một phần lớn bằng cách mua bán cổ phiếu bằng tin tức tay trong. Ngoài ra ông Joseph lại lợi dụng một giấy phép đặc biệt, mượn cớ nhập cảng rượu làm thuốc chữa bệnh để tích trữ rượu trong thời gian nước Mỹ có luật cấm rượu. Khi luật cấm rượu bị hủy bỏ năm 1933, ông tức thì tung số rượu tích trữ này ra và tha hồ hốt tiền mệt nghỉ. Chủ trương làm ra tiền bằng mọi giá rồi dùng tiền để mua quyền, ông Joseph tung tiền ủng hộ ông Franklin Roosevelt tranh cử tổng thống với hy vọng được một chân tổng trưởng khi ông Roosevelt đắc cử. Tiếc thay ông chỉ được đền bù bằng chức an ủi là đại sứ Hoa Kỳ ở nước Anh năm 1938, rồi bị triệu hồi về nước năm 1940 sau khi ông biểu lộ cảm tình rõ rệt với Đức quốc xã và tỏ ra ghét cay ghét đắng người Do Thái. Bản thân không đạt mục đích chính trị, ông Joseph đổi trọng tâm sang bốn cậu con trai, cố giúp họ thành công bằng mọi nỗ lực và thủ đoạn. Trở lại đại hạn thứ hai 13-22 (ứng với thời gian 1944-1953) ở phụ mẫu. Năm 1950 cậu Ted theo bước chân cũ của các anh vào học ở đại học số một Harvard. Nhưng cuối năm thứ nhất, tức năm 1951 cậu bị đuổi học vì một tội hết sức trầm trọng là gian lận thi cử. Rõ ràng hơn, cậu nhờ người khác thi dùm một kỳ thi cuối khóa nhưng chẳng may bị bắt. Dữ kiện này hoàn toàn phù hợp với cái liều lĩnh nông nổi của mệnh có Tham ngộ Kình hãm địa. Đồng thời nó cũng phù hợp với tính bá đạo của cung phụ mẫu, nên diễn biến hợp lý là cha cậu ra tay cứu đứa con trai út. Nhờ thế lực của cha, cậu Ted được sang kinh đô hoa lệ Paris phục vụ hai năm trong tổng hành dinh của một cơ quan quân đội gọi là SHAPE. Tức là đi lính để chạy tội mà chẳng khác gì đi chơi. Công danh đắc chí Khi cậu Ted Kennedy mãn hạn ở SHAPE trở về Mỹ vận đã chuyển sang đại hạn 23-32 (ứng với thời gian 1954-63), quan lộc vào cung di nguyên thủy có thượng cách Tử Vi cư Ngọ hội họp Khúc Hữu lại hóa Quyền nên phát triển hết sức thuận lợi. Lại nhờ thế lực của cha, cậu được Harvard cho vào học lại rồi ra trường năm 1956. Tiếp đó cậu vào trường luật của đại học Virginia. Nơi đây cậu có cơ hội phát triển sở trường là tài hùng biện và khả năng thuyết phục người khác. Tiểu đăng khoa rồi đại đăng khoa, năm 1958 lấy vợ, năm 1959 ra trường luật và đậu bằng hành nghề. Năm 1960 ông anh thứ hai của cậu, tức John F. Kennedy, trở thành tổng thống trẻ nhất lịch sử Hoa Kỳ. Hai năm sau tức năm 1962 có cuộc bầu cử để tìm người thế chỗ John Kennedy trong thượng viện. Thật may mắn vì năm ấy cậu Ted vừa đủ tuổi tối thiểu để làm thượng nghị sĩ (tức 30 tuổi tây). Cậu ra tranh ghế này và thắng vẻ vang mặc dù chẳng có kinh nghiệm chính trị gì cả. Dễ hiểu, bởi vì lúc ấy nước Mỹ đang lên "cơn sốt Kennedy". Đã có tổng thống Kennedy (John) và bộ trưởng tư pháp Kennedy (Robert), thì thêm thượng nghị sĩ Kennedy (Ted) có vẻ là một an bài hợp lý. Họa phúc khôn lường Nhưng nếu con người thích an bài hợp lý thì trời đất lại có những an bài rất cay nghiệt nếu không muốn nói là ác nghiệt. Ông Joseph Kennedy không được hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc tột đỉnh của người cha thấy cả ba đứa con trai của mình thành tựu trong năm 1962, vì một năm trước đó tức năm 1961 ông đã bị tai biến mạch máu não, người cứng đờ ra chỉ còn nói được vài chữ giản dị. Rồi ngày 22 tháng 11 năm kế tiếp là 1963 thì như chúng ta đều đã biết, tổng thống Kennedy bị ám sát chết ở Texas, hưởng dương 47 tuổi. Nhìn lại lá số tử vi, ta thấy cung phụ mẫu của đại hạn vào Mão có Nhật Lương hóa Lộc bị Thiên Hình và Thiên Địa Không xung chiếu. Nhật ứng với cha, lại rất sợ Hình cùng cung hoặc xung chiếu nên đây quả là lúc ông già bá đạo Joseph Kennedy phải trả nợ đời. Cái tương ứng nghiệt ngã của huynh đệ lại càng ly kỳ. Chính cách của cung huynh đệ nguyên thủy là Âm Dương Hợi Mão song Lộc. Cung quan của huynh đệ (tức cung điền) lại thành cách Nhật Lương song Lộc Quang Quý, thảo nào anh em của ông Ted Kennedy thành tựu phi thường. Tiếc rằng đại hạn huynh đệ gặp Không Kiếp Hình Riêu, đều là những hung thần phá hại chính cách Âm Dương. Thế nên đã thành công to thì phải có họa lớn kèm theo, làm sao tránh nổi? Cái chết của Robert Kennedy và hậu quả Chappaquidthingy Tưởng trời xanh cay nghiệt như vậy là quá mức rồi, không ngờ sang đại hạn mới 33-42 (tức thời gian 1964-1973), hạn mệnh Thái Dương bị Hình ở thiên di xung, hạn huynh đệ có Vũ Khúc hóa lưỡng Kỵ (hóa Kỵ và tự Kỵ), thêm ác cách Linh Xương Đà Vũ; thảm họa lại tiếp tục đua nhau giáng xuống. Đâàu tiên là năm 1964. Tỏ lộ cái nông nổi của Tham Kình hãm địa cư mệnh, ông Ted Kennedy bất chấp lời khuyên của tả hữu, nhất định bay đi dự một cuộc họp mặt chính trị giữa lúc có bão to. Đây là việc tối kỵ vì lá số của ông có Phá Quân cùng cung với Xương hoặc Khúc dễ bị họa vì nước, tiểu hạn thiên di lại có Kình hãm địa. Kết quả là máy bay rớt, ông may mắn chỉ bị thương nặng rồi bình phục, nhưng phi công và một phụ tá thì chết thảm. Và rồi năm 1968, người anh thứ ba và cuối cùng của ông là Robert Kennedy bị ám sát trong khi tranh cử chức ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ! Cha bị tật nguyền, ba người anh đều chết thảm khốc; mất hết các điểm tựa trên cao, ông Ted Kennedy đâm khủng hoảng. Người ta khuyên ông bình tĩnh lại, biến đau thương thành hành động bằng cách thay ông Robert Kennedy ra tranh cử. Nhưng phải chăng lại vì ảnh hưởng của Tham Kình mà ông không những chẳng đấu tranh vượt thắng mà còn vùi đầu tìm quên trong men rượu. Thời gian khủng hoảng này kéo dài đến khi xảy ra sự cố Chappaquidthingy năm 1969 mà chúng ta đã nói ở trên. Sau đó ông tỉnh ra nhưng đã quá trễ rồi. Số không làm tổng thống Năm 1972 ông Ted được ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ là George McGovern mời làm ứng cử viên phó tổng thống mà từ chối thì có lý, vì lúc ấy chỉ mới 3 năm sau sự cố Chappaquidthingy. Nhưng năm 1974 tại sao ông lại tuyên bố quá sớm rằng sẽ không ra tranh cử năm 1976 mặc dù mọi cuộc thăm dò dân ý đều cho thấy rằng ông có xác xuất thắng rất cao? Câu trả lời đã nằm sẵn trong lá số, vì năm này (1974) đại tiểu hạn trùng phùng ở Thìn, mặc dù chính cung đắc cách Sát Kình Đà, nhưng quan lộc có Phá Xương nên thiếu sự quyết liệt cần thiết. Thật đáng tiếc vì đang ở đại hạn trùng cung thân đắc vị Bạch Hổ, tiểu hạn 1976 lại vào ngọ có Tử Vi hóa Quyền có lẽ là năm mà ông có xác xuất thắng cử cao nhất. Bốn năm sau (1980) ông ra tranh với đương kim tổng thống Carter thì thất bại não nề. Rất dễ hiểu vì tiểu hạn vào tuất, nghĩa là tiểu hạn quan ở Dần, bị lưỡng Kỵ thêm cách Linh Xương Đà Vũ nên quan vận khó được xứng ý toại lòng. Một công dụng thiết thực của khoa Tử Vi là nó cho ta biết khi nào ta được "chín bỏ làm mười" hoặc bị "sợi tóc chẻ làm tư". Hạn 1980 bất lợi chính là lúc "sợi tóc chẻ làm tư". Quả nhiên khi xuất hiện trong chương trình TV đầu tiên của cuộc tranh cử này, ông Ted liền bị người ta dồn vào chân tường bằng cách khơi lại vụ Chappaquidthingy. Chới với, ông chỉ biết giả lả cho qua chuyện. Tiếp đó ông thua tơi tả ở mấy tiểu bang rồi rút lui không kèn không trống. Biết đâu là thượng cách? Năm 1982 là một khúc quanh rất lớn trong đời ông Ted Kennedy. Trước hết, hai vợ chồng ông tiến hành thủ tục ly dị sau gần 24 năm chung sống. Đây cũng là năm ông tuyên bố không có ý tranh cử tổng thống Hoa Kỳ nữa. Việc thứ nhất đáng tiếc, việc thứ hai khó hiểu vì lúc này ông chỉ mới 51 tuổi ta, trong chính trị thế vẫn còn quá trẻ, tại sao lại tuyên bố một câu như muốn tự cắt đứt triển vọng tương lai của mình như vậy? Vì tiểu hạn năm 1982 vào cung mệnh nguyên thủy, có thể luận rằng ảnh hưởng bồng bột thiếu nghĩ suy của Tham Kình đã một lần nữa khiến ông Ted Kennedy làm chuyện dại dột. Nhưng người viết cho rằng vì dòng họ Kennedy quá đặc biệt ta không thể chỉ xét riêng ông Ted mà phải so sánh ông với 3 người anh đi trước. Đồng ý như vậy rồi thì sẽ thấy một bức tranh khác hẳn. Ta có thể chê ông Ted là thiếu cái tham vọng tột đỉnh của dòng họ Kennedy, nhưng cái tham vọng đó đã khiến ba người anh của ông yểu tử nên nghĩ cho cùng thì đã chắc gì hay. Còn ông Ted? Đời sống của ông có như Đoàn Chính Thuần hay không thì dĩ nhiên ông phải giữ bí mật, nhưng phần phong lưu thì ai cũng biết cả rồi. Ở nước Mỹ "chính trị" và "phong lưu" vốn là hai từ mâu thuẫn, vậy mà đến năm nay đã 73 tuổi ta ông Ted vẫn liên tục được cử tri dồn phiếu, tha hồ tung hoành ngang dọc trên sân khấu chính trị, chẳng cần phải nghĩ chuyện về hưu. Thế chẳng phải là cái thượng cách của người có Tham Lang thủ mệnh hay sao? Ngày 9 tháng 9, 2004 Đằng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:47:07 GMT 9
Donald Rumsfeld, Người Sống Sót Của Chính Trị Mỹ? ĐẰNG SƠN . Những hình ảnh quân sĩ Hoa Kỳ hành hạ tù binh Iraq được tung ra liên tiếp trong mấy tuần qua là bằng cớ thảm khốc nhắc nhở rằng chúng ta đang ở giữa một cuộc chiến tranh với tất cả mọi sự tàn bạo vô nhân của nó. Người vì vụ này mà kẹt trong chảo nóng của thời điểm là tổng trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld.Sau khi ra nhận trách nhiệm trước quốc hội Hoa Kỳ ngày 7 tháng 5, ông được thống thống George W. Bush tuyên bố tiếp tục tín nhiệm. Bay sang Iraq giải độc dư luận, khi được hỏi về hoàn cảnh cá nhân, ông đáp lại bằng một câu vừa khiêm nhượng vừa hàm ý kiêu ngạo "I'm a survivor". Mà ông Rumsfeld kiêu ngạo cũng phải, vì với một sự nghiệp chính trị bắt đầu từ năm 1962 khi John Kennedy còn là tổng thống, có lẽ chẳng ai khác ở Washington đã trải qua lắm lần vật đổi sao dời mà vẫn còn sống sót như ông. Lá số khả nghi lại là chính xác Theo các tài liệu tử vi tây phương mà người viết đã đọc trên internet thì ông Rumsfeld ra đời lúc 5:40 chiều giờ kiệm quang (daylight saving time) ngày 9 tháng 7 năm 1932 tại Chicago, thuộc tây kinh tuyến 87 độ 39 phút. Tính ra giờ tiêu chuẩn là 4:49 chiều, âm lịch địa phương ra thành giờ Thân ngày 7 tháng 6 năm Nhâm Thân (hơn Việt lịch một ngày). Nhìn thoáng qua thấy lá số có vẻ sai vì mệnh cư Hợi có Thái Dương, quan cư Mão có Thái Âm; đều là hãm địa. Đành rằng Tuần Triệt ở hai vị trí này cứu giải được phần nào tính hãm của cặp Âm Dương, nhưng không đáng kể vì năm sinh dương mà hai cung này đều âm. Lại nữa, bộ Âm Dương bị đủ cặp Không Kiếp tam hợp. Sách dạy Âm Dương gặp Không Kiếp xấu lắm, vậy làm sao lá số này phản ảnh được cái thượng cách của ông Rumsfeld? Xin trả lời rằng lá số có vẻ xấu chỉ vì ta chưa xét các sao tự Hóa. Thêm các sao này vào rồi sẽ thấy nhờ cung can Tân mà Nhật cực hãm được tự hóa Quyền, nên thỏa lý "tuyệt xứ phùng sinh" trở thành miếu vượng, Âm tự Khoa cũng tốt hẳn lên. Với hậu thuẫn mạnh mẽ của hóa Quyền, Song Lộc Khôi Việt Thai Tọa. Đặc biệt cặp Quang Quý giúp hóa Quyền ức chế cặp Không Kiếp, bắt cặp này trở thành đầy tớ của cặp Âm Dương, nên ông Rumsfeld thành đạt chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Sự nghiệp lắm điều bất xứng ý Để có cái nhìn tổng quát ta hãy đi lùi lại thời gian, bắt đầu từ khi ông Rumsfeld còn là cậu Rumsfeld, ngôi sao sáng giúp trong đội đấu vật vô địch trung học toàn tiểu bang. Thêm chức vô địch đấu vật đại học ở Princeton nơi ông tốt nghiệp ngành chính trị học, rồi chức vô địch đấu vật trong Hải quân Hoa Kỳ, nơi ông phục vụ từ năm 1954 đến 1957. Bắt đầu một đời thành công trong chính trị và thương trường bằng mấy chức vô địch đấu vật thì thật lạ kỳ, nhưng lại phù hợp với lá số, vì đại hạn 14-23 (tức thời gian 1945-54) vào Tý đắc vòng Thái Tuế có Phá Quân miếu gặp Kình Dương Lực Sỹ. Sau khi giải ngũ năm 1957, ông lên Washington làm việc tập sự trong một thời gian ngắn với một nghị sĩ ở Washington năm và trở nên thích thú với chính trị. Năm 1962 ra tranh cử lần đầu ở tuổi 31 đắc cử ngay vào hạ viện, rồi liên tục tái đắc cử các năm 1964, 66, 68. Nhìn lại lá số, quả nhiên đại hạn 24-33 (tức thời gian 1955-64) được giáp Xương Khúc hội họp Khoa Lộc Tả Hữu Quang Quý, và đủ bộ tam minh Đào Hồng Hỉ bổ túc cho cái khiếm khuyết của Thiên Cơ hãm địa, thảo nào được xứng ý toại lòng. Trở lại với năm 1957 là năm ông lên Washington làm việc lần đầu. Đây là một khúc quanh to lớn trong đời ông, vì nó cho ông cơ hội làm quen với guồng máy chính trị trung ương của nước Mỹ. Rất tương ứng với lá số vì tiểu hạn vào cung mệnh nguyên thủy có Thái Dương tự hóa Quyền. Cũng tương ứng lạ kỳ là năm 1969 khi tiểu hạn đi hết 12 năm trở về đúng vị trí cũ, đời ông lại sang một khúc quanh khác, lần này ông từ chức nghị sĩ để tham dự nội các của tổng thống Nixon. Được tham dự trong nội các của tổng thống ở tuổi trẻ măng 38, người khác có để hiu hiu tự đắc, nhưng với một người có bản lãnh cao và đầy tham vọng như ông Rumsfeld thì chức trưởng phòng Cơ Hội Kinh Tế (Department of Economic Opportunities) kiêm thêm vai trò cố vấn tổng thống phải nói là quá thấp, vì ai cũng biết là ông muốn làm tổng trưởng. Cũng biết vậy, tổng thống Nixon hứa sẽ cho ông một chân tổng trưởng "khi cơ hội đến", nhưng chỉ là hứa hôm nay rồi xin lỗi ngày mai và cơ hội chẳng bao giờ đến. Năm 1971 tổng thống Nixon đề nghị một cách giải quyết tạm là cho ông giữ chức đại sứ Hoa Kỳ ở NATO, nhưng ngay cả cách giải quyết này cũng bị cản ngăn, đến năm 1973 mới thành sự thật. Sau người ta tìm ra bằng cớ chính xác rằng trong năm 1972 tổng thống Nixon nhiều lần nói với tả hữu là sẽ cho ông Rumsfeld nghỉ việc vì ông "không chịu tích cực bảo vệ lập trường của chính phủ". Nói thế nhưng tổng thống Nixon chẳng bao giờ đuổi ông Rumsfeld ra khỏi chính phủ, nên trên một phương diêän nào đó có thể nói ông là một người rất may mắn; nhưng hiển nhiên thời gian làm việc cho tổng thống Nixon là một chuỗi ngày đầy thất vọng của ông. Nhìn vào lá số thì giai đoạn này ứng với đại hạn 34-43 (thời gian 1965-74), vào cung Dần có Tử Phủ hóa Quyền; Tử Vi lại tự hóa Quyền nên ý muốn và khả năng nắm quyền mạnh mẽ lắm. Tiếc thay Tử Phủ bị ngay chính Triệt phá hoại. Vả lại ở vị trí xung Thái Tuế là nghịch địa nên phải nhờ công của Mã Khốc Khách. Mã ở ngay Dần gặp Linh là cách tốt, nhưng gặp Hình Song Hao Tuyệt, và dĩ nhiên chính Triệt ví như ngựa chở xác, ngựa què, ngựa đói, ngựa cùng đường thì tung hoành sao nổi? Có chăng là thành cách "Mã ngộ không vong chung thân bôn tẩu", ứng với sự bôn ba thất chí mà thôi. Đó là chưa kể "Linh Xương Đà Vũ" cũng thành cách. Có cách này muốn toại ý thật khó hơn tìm cá trên cây. Đắc ý ngắn ngủi lần thứ nhất Nhưng cuộc đời có những biến chuyển chẳng ai ngờ nổi. Ngày 9 tháng 8 năm 1974, vì áp lực vụ án Watergate tổng thống Nixon từ chức. Biến cố lịch sử này đưa ông Gerald Ford lên chức tổng thống. Đột ngột nắm quyền bính trong tay, ông Ford nghĩ ngay đến một người bạn thân ngày cũ. Người bạn thân ấy dĩ nhiên là ông Donald Rumsfeld! Thế là ông Rumsfeld tức tốc lên máy bay rời Âu châu về nước giữ chức chủ tịch nội các lâm thời cho ông Ford. Khi nội các chính thức thành lập ông được chức sự vụ trưởng tòa Bạch Ốc (Whitehouse chief of staff). Đây là một chức khá lớn, nhưng vẫn dưới cỡ tổng trưởng. Phải chăng vì năm 1974 đại hạn vẫn còn ở cung Dần mà ông phải chịu đựng thêm sự bất đắc ý này? Năm 1975 sang đại hạn mới (1975-84), vào cung Mão có Thái Âm hãm đắc tự Khoa phụ Triệt, thêm Khoa Lộc và tự Quyền hội họp quả nhiên có ngay biến chuyển lớn. Ông Ford lấy cớ ông tổng trưởng quốc phòng đương nhiêm "quá kiêu hãnh", đưa ông Rumsfeld lên thay thế. Thế là sau 6 năm vất vả cuối cùng giấc mơ làm tổng trưởng của ông Rumsfeld đã thành tựu. Ngon hơn nữa, ông phá một kỷ lục chính trị vì là vị tổng trưởng quốc phòng trẻ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Cặp sao Không Kiếp được chế hóa rất phù hợp với chức vụ tổng trưởng quốc phòng. Tiếc thay, cặp này dù sao vẫn không vào khớp với bộ chính tinh Âm Dương. Phải chăng vì thế mà ông Rumsfeld vừa lên đã xuống? Năm sau 1976 tổng thống Ford thua ông Carter. Thế là chỉ sau hơn một năm ông Rumsfeld mất phăng cái chức vụ mà ông phải tranh đấu bao năm mới có. Để an ủi, năm 1977 người ta tặng ông mề đay "Tự Do" (Freedom), tức mề đay cao cấp nhất mà một thường dân có công lao phục vụ đất nước có thể được nhận. Thành công ở thương trường, không rời xa chính trị May sao, Thái Âm cư Mão thích hợp cho việc làm thương mại lại có Song Lộc Tướng Ấn nên vừa rời xa chính trường ông Rumsfeld được mời làm tổng giám đốc một công ty bào chế dược phẩm. Vì cung quan lộc của đại hạn có Không Kiếp hợp kỹ nghệ và cách Cơ Lương Quang Quý phù hợp thuốc men, nên ông thành công rực rỡ. Đặc biệt năm 1980 và 1981 được phần thưởng "tổng giám đốc xuất sắc nhất" của các hãng bào chế. Đại hạn 55-64 (thời gian 1985-94) có Tham Lang miếu, thêm Hổ Tấu Cái hết sức tốt đẹp cho việc giao thiệp nên tiếp tục thành công rực rỡ ở thương trường. Tuy nhiên, ông vẫn liên tục dính líu đến chính trị và được chính phủ Hoa Kỳ liên tục nhờ cậy qua các vai trò cố vấn giai đoạn quan trọng, về kỹ thuật thương mại cũng như chính trị quốc tế. Trở lại quyền lực chính trị Khi tuyên thệ nhậm chức tổng trưởng quốc phòng ngày 20 tháng 1 năm 2001, ông Rumsfeld giữ thêm hai kỷ lục chính trị, vì ông là người duy nhất trong lịch sử làm tổng trưởng quốc phòng dưới hai thời tổng thống khác nhau, và vì ông là người lớn tuổi nhất lịch sử trong chức vụ này. Thật ly kỳ khi ta nhớ lại rằng ông đã nắm kỷ lục là tổng trưởng quốc phòng trẻ nhất. Ông Rumsfeld bản mệnh Kiếm Phong Kim, cung mệnh cư Thủy có thủ lãnh các sao hỏa là Thái Dương hóa Quyền trấn thủ, vào đại hạn hiện tại 65-74 (1995-04) là cung di nguyên thủy thuộc Hỏa, xét trên lý ngũ hành có nhiều xung đột kịch liệt, cung lại có Cự Kiếp Sát Tả Hữu Hỉ Đào Hoa-Thiên Không nên ông nắm chức tổng trưởng quốc phòng nhằm lúc Hoa Kỳ gặp lúc dầu sôi lửa bỏng bị khủng bố tấn công, rồi dùng vũ lực đánh hai nước Afghanistan và Iraq chẳng phải là không có lý. Thế nhưng một số độc giả hẳn phải có thắc mắc. Cộng hưởng sao của đại hạn này không có gì xuất sắc, vậy tại sao ông được trở lại trung tâm quyền lực để điều khiển hai cuộc chiến chấn động hoàn cầu như thế? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải nói đến một nhân vật kiệt liệt khác của chính trường Hoa Kỳ, cựu tổng trưởng quốc phòng và đương kim phó tổng thống Hoa Kỳ thingy Cheney. Anh hùng trọng anh hùng! Một ngày năm 1969, một vị nghị sĩ trẻ tuổi phỏng vấn một thanh niên thua ông 9 tuổi đang tìm việc tập sự ở Washington. Theo lời thuật lại của cậu thanh niên thì cậu đã "thất bại hoàn toàn" trong cuộc phỏng vấn này, và quả nhiên không được ông nghị sĩ nhận vào làm việc. Mặc dù tìm được việc tập sự với nghị sĩ khác, khi vị nghị sĩ đầu tiên gia nhập nội các của tổng thống Nixon, cậu thanh niên tìm cách nhờ người nộp hộ một bản đề nghị của cậu lên ông. Đọc xong bản đề nghị, vị nghị sĩ ấy quyết định nhấc điện thoại gọi cậu thanh niên làm việc cho mình. Trong nhiều năm liên tiếp sau đó, cậu trở thành phụ tá thân tín nhất của ông. Độc giả có thể đoán được rằng vị nghị sĩ trong câu chuyện kể trên là ông Rumsfeld, và cậu thanh niên là ông thingy Cheney. Bề ngoài là chủ tớ, dần dần hai ông Rumsfeld và Cheney phát triển một tình bạn đặc biệt đặt trên niềm tương kính giữa hai bậc anh tài. Khi ông Rumsfeld giữ chức sự vụ trưởng tòa Bạch Ốc năm 1974-75 thì ông Cheney được cho làm phó. Khi nhậm chức tổng trưởng quốc phòng năm 1975, ông Rumsfeld không quên yêu cầu tổng thống Ford thăng ông Cheney lên thay mình ở chức sự vụ trưởng. Năm 1977 hai ông Rumsfeld và Cheney mỗi người đi một ngả. Thật chẳng ai ngờ là gần phần tư thế kỷ sau họ lại một lần nữa bước chung trên con đường chính trị. Nhưng lần này vai trò đảo ngược, người được cân nhắc ngày xưa bây giờ trả ơn cố nhân bằng cách đóng vai người cân nhắc; thật ly kỳ như tiểu thuyết. Chuyện dài nói ngắn lại, nhờ ông Cheney lấy tư cách phó tổng thống đề nghị mà ông Rumsfeld được chức tổng trưởng quốc phòng lần thứ hai. Câu chuyện anh hùng trọng anh hùng kể đến đây đã đủ đầu đuôi, giờ xin trở lại lá số của ông Rumsfeld. Vì ông sinh năm Nhâm nên hai sao Quan Phúc ở vị trí tam hợp. Theo cách xem của người viết Quan Phúc ứng với hai phương có thử thách. Chịu hy sinh thì được đền bù, đòi lấn lướt thì hậu quả không hay. Thiên Quan cư huynh đệ là một đầu của trục giao tế (tức trục Bào-Nô) nên ông Rumsfeld phải chịu bỏ công giúp đỡ những người dưới quyền mới là đúng số. Hiển nhiên với ông Cheney thì ông Rumsfeld đã thỏa điều kiện này, nên đại hạn này cung Nô lại vào cung huynh đệ nguyên thủy, có Quan hội Phúc ông được người xưa đáp ơn làm chuyện cân nhắc xét ra hợp lý vô cùng. Ngày sau ai biết? Nhưng đó chỉ là ân, một người phức tạp như ông Rumsfeld chắc chắn cũng đã từng gieo nhiều oán nữa. Phải chăng vì thế mà năm nay tiểu hạn vào cung Tuất có Quan hội Phúc mới xảy ra chuyện quá nghịch lý là một thiểu số của quân đội Mỹ tự xưng văn minh nhất hoàn cầu dở trò bạo ngược man rợ với kẻ thua cuộc, khiến ông là tư lệnh tối cao trực tiếp phải bị vạ lây? Mặc dù tổng thống Bush đã lên tiếng xác nhận tiếp tục tín nhiệm ông Rumsfeld, nhưng chính trị vốn đổi thay từng lúc từng giờ; tiểu hạn lại bị trấn áp bởi tính nhân quả của hai sao Quan Phúc nên ông Rumsfeld có giữ được chức đến cuối năm nay hay không thật là khó đoán. Hạn tới 74-83 (bắt đầu năm sau 2005) ông lại càng phải đề cao cảnh giác vì chính cung có Phúc và dĩ nhiên Quan tam hợp, cung can lại là Bính nên Liêm Trinh tự hóa Kỵ. Người viết chẳng dám lạm bàn thêm chuyện tương lai, nhưng xin kết thúc bài này với một nhận xét. Dưới thời Nixon, đã có lúc người ta đoán ông Rumsfeld sẽ là một ứng cử viên tổng thống sáng giá. Bây giờ ở tuổi 73, ta có thể tin tưởng một cách khá chắc là lời đoán ấy sẽ chẳng bao giờ thành sự thật. Phải nói thế để ghi nhận rằng mặc dù huy hoàng theo tiêu chuẩn của kẻ bàng quan, sự nghiệp của ông Rumsfeld vẫn dưới mức mong đợi của ông và những người biết rõ ông. Đời ông có vẻ như bị một giới hạn vô hình đè ép, phát triển nhỏ thì suông sẻ nhưng khi cố phát triển lớn thì hoặc không thành, hoặc thành không lâu, hoặc thành rồi bị hậu quả xấu liền theo. Đó là chưa kể ông còn bị miệng đời đàm tiếu, rằng hai lần ông làm chức lớn nhất (tổng trưởng quốc phòng) đều do người quen cân nhắc. Nhìn lại ta thấy cung mệnh của ông đóng ở Thái Âm, cung thân đóng ở Long Đức là hai vị trí kém cỏi, thua thiệt của vòng Thái Tuế. Phải chăng đây là một an bài oái oăm của trời đất để nhắc nhở ông Rumsfeld cũng như chúng ta rằng ngay cả những kẻ bản lĩnh nhất cũng rất khó lòng vượt qua bài toán số mạng để làm chuyện nhân định thắng thiên? Ngày 21 tháng 5, 2004 Đằng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:48:59 GMT 9
Laura Bush, Mệnh Không Thân Kiếp Đệ Nhất Phu Nhân ĐẰNG SƠN . Vũ khí bí mật của tổng thống George W. Bush Sau khi đương kim tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush oanh liệt hạ thượng nghị sĩ John Kerry trong kỳ tổng tuyển cử ngày 2 tháng 11, 2004 vừa qua, các chuyên gia thời sự tức thì nhảy xổ vào phân tích lý do. Người bảo ông thắng là phải rồi, vì đang có chiến tranh ai dại gì thay tổng tư lệnh tối cao; kẻ nói ông đắc cử vì dân chúng Mỹ có thói quen cho người làm chưa xong việc một cơ hội thứ hai; lại có kẻ khẳng định ông thắng vì đối phương, tức ông Kerry tranh cử dở quá v.v... tức là mỗi người một quan điểm, chẳng ai giống ai. Nhưng tất cả đều đồng ý ông Bush có một "vũ khí bí mật" nên đã lấy được một số phiếu không nhỏ của những cử tri chẳng thích gì ông. Như quý độc giả đã đoán ra, cái "vũ khí bí mật" mà giới truyền thông ám chỉ chính là đệ nhất phu nhân Laura Bush! Và họ nói rất có lý, vì theo nhiều cuộc thăm dò dư luận, số dân Mỹ thích bà Laura đạt tỷ lệ áp đảo. Bà chiếm được cảm tình của các đảng viên Cộng Hòa không nói làm gì; đằng này ngay trong hàng ngũ các đảng viên Dân Chủ số người ái mộ bà cũng chẳng ít.Chuyện biến cảm tình thành lá phiếu vốn là tâm lý bình thường của con người nên chẳng cần bàn thêm nữa; nhưng người yêu tử vi tất thắc mắc ngay, lá số của bà Laura Bush như thế nào mà bà lại vượng phu và quý hiển tột bậc như thế. Mệnh Không thân Kiếp lẫm liệt phu nhân Chúng ta biết chắc chắn rằng bà Laura ra đời ngày 4 tháng 11 năm 1946 ở Midland thuộc tiểu bang Texas. Về giờ sinh, người ta kể lại rằng ngày ấy cha của bà làm việc đến 5 giờ chiều rồi đi bộ sang bên kia đường vào nhà thương, bà ra đời một tiếng sau đó, nghĩa là 6 giờ chiều. Theo tài liệu thiên văn, hôm ấy ở Midland mặt trời lên đỉnh lúc 12:32 giờ trưa, nên 6 giờ chiều phải điều chỉnh lại thành 5:28. Cho là trí nhớ con người có thể sai biệt 15 phút, đại khái bà Laura ra đời ở trong khoảng 5:15 đến 5:45 chiều theo giờ thiên văn. Theo đa số các sách tử vi thì đây là giờ Dậu, nhưng người viết cho rằng lúc mặt trời lên đỉnh là đầu giờ Ngọ, không phải giữa giờ Ngọ; vì vậy phải đến 6 giờ chiều mới bắt đầu giờ Dậu. Nói cách khác, trong trường hợp bà Laura phải chọn giờ Thân. Để ăn chắc, người viết đã lấy thử hai lá số giờ Dậu và giờ Thân, rồi giữ giờ Thân vì thấy chính xác hơn. Lại tính âm lịch địa phương, vì Midland ở tây kinh tuyến 120 độ 4 phút 39 giây, ngày 4 tháng 11 năm 1946 đổi thành 12 tháng 10 năm Bính Tuất (thua Việt lịch một ngày, vì Việt lịch tất là 13 tháng 10). Thế nên bài này luận theo lá số giờ Thân, ngày 12 tháng 10 âm lịch năm Bính Thân. Nhưng bất luận có đồng ý giờ sinh, ngày sinh âm lịch hay không; một điểm chẳng thể chối cãi là bà Laura sinh tháng 10 nên vào cách "mệnh Không thân Kiếp". Người ta sợ bốn chữ "mệnh Không thân Kiếp" như sợ truy hồn lệnh, ấy bởi vì đa số các sách tử vi đều nói mệnh Không thân Kiếp là số "bỏ đi", phái nữ càng tệ hơn nữa. Nhưng đã từng là đệ nhất phu nhân của "đại bang" Texas 6 năm và hiện là đệ nhất phu nhân của đệ nhất đại cường Mỹ quốc, đời bà Laura không những chẳng xấu mà còn đạt đỉnh cao nhất của quyền quý. Trường hợp "mệnh Không thân Kiếp lẫm liệt phu nhân" này phải giải thích làm sao? Mệnh Không thân Kiếp bất khả tam toàn! Xin thưa chẳng có gì khó hiểu, vì mệnh Không thân Kiếp chỉ là tín hiệu của sự bất toàn. Rõ ràng hơn cách này là tín hiệu của "tam bất toàn", nghĩa là bản thân, gia đình, bạn bè trong ba tối thiểu phải hỏng một. Sách dạy mệnh Không thân Kiếp là số "bỏ đi" chỉ vì người xưa bảo thủ, hễ lá số phái nữ có tín hiệu của tam bất toàn sẽ bị coi ngay là xấu. Trong loạt bài này chúng ta đã gặp một lá số phái nữ mệnh Không thân Kiếp, tức số của bà Condoleezza Rice (xem bài "Condoleezza Rice và cái giá đắt của thành công"). Khi bài này được viết bà Rice là cố vấn an ninh tối cao của tổng thống Bush, nhiệm kỳ tới nếu muốn thì chức tổng trưởng vào tay dễ như chơi; rồi khi sự nghiệp chính trị đã hoàn thành vẫn còn chức giáo sư ở đại học lừng danh Stanford để rút về; rõ ràng chẳng phải là số "bỏ đi". Nhưng bà quả phạm "tam bất toàn" vì cho đến bây giờ đã 51 tuổi ta vẫn chưa từng được hưởng hạnh phúc lứa đôi. Còn bà Laura Bush? Ta hãy lùi về hơn 40 năm trước khi bà còn là cô nữ sinh Laura Welch thơ ngây. Đêm 6 tháng 11, 1963; tức hai ngày sau khi mừng sinh nhật 17 tuổi, cô Laura lái xe chở một cô bạn, chẳng may đụng một chiếc xe khác ở ngã tư. Cô và cô bạn bình an vô sự, nhưng người trong xe kia văng ra ngoài tử nạn tại chỗ. Oan nghiệt làm sao, đó chính là anh Michael, một bạn học cùng trường (và theo một số nguồn tin chẳng thể nào kiểm chứng thì là bạn trai của cô Laura lúc ấy.) Trên mặt pháp lý cô Laura may mắn được coi là không có tội, nhưng khỏi cần nói cũng đoán được là tai nạn này đã khiến cô trải qua một cuộc khủng hoảng tâm lý trầm trọng. Nhìn lại lá số để tìm tín hiệu, quả nhiên ta thấy năm 1963 đại hạn ở Dần là mã địa có Song Hao Kình Hình Riêu hội, xung chiếu là cung nô nguyên thủy vô chính diệu có Mã Khốc Khách bị Đại Hao phá hoại; tiểu hạn thì ở hợi là cung tài nguyên thủy có đủ Đào Hồng Hỉ Không Kiếp Cô Quả Thiên Không Kiếp Sát Tử (Thất) Sát Hỏa Linh. Nguyên cục có sẵn mệnh Không thân Kiếp, hạn lại gặp những cộng hưởng sao quá kinh khủng này thì làm sao bình yên cho nổi? Thế nhưng tại sao có sự oái oăm là kẻ gây tai nạn được vô sự ở lại trong khi nạn nhân vô tội phải thê thảm ra đi? Phải chăng vì trời đã định cho cô Laura được an toàn lành lặn để trở thành đệ nhất phu nhân sau này, nên một người thân của cô phải thế mạng cho đúng lẽ bù trừ? Trở lại hiện tại, bà Laura Bush đã mấy lần công khai nhìn nhận với giới truyền thông rằng suốt đời bà sẽ chẳng bao giờ quên nổi cái ấn tượng kinh hoàng của vụ đụng xe chết người nói trên. Chúng ta không thể đọc được tâm lý của bà, nhưng cái ám ảnh triền miên của tâm thần mà bà phải chịu đựng có lẽ còn đau đớn hơn dao đâm kiếm chém. Thế mới biết ngay cả bậc mẫu nghi thiên hạ, đường đường đệ nhất phu nhân cũng chẳng thoát khỏi cái bất toàn của mệnh Không thân Kiếp! May được giảm khinh, gần như hoàn hảo Cùng là mệnh Không thân Kiếp mỗi hoàn cảnh lại một khác nhau. Trong trường hợp bà Laura, cặp Không Kiếp lại gặp Đào Hỉ của bộ tam minh nên ứng với sát khí. Nói theo ngôn ngữ mệnh lý thì bà có số sát. Phái nữ có số sát nặng thì gây chết chóc, nhẹ trắc trở hoặc vắng bóng nhân duyên. Phần chết chóc ở trên đã nói, nay bàn phần nhân duyên. Bà là con một nên được cha mẹ hết lòng thương yêu, nhưng là con một cũng có nghĩa bà không có anh chị em để chia sẻ buồn vui trong tuổi ấu thơ và buổi dậy thì. Về tình cảm, bà chờ mãi đến năm 1977 tức đã 32 tuổi ta vẫn không thấy anh hùng xuất hiện. May được bạn bè giới thiệu gặp tổng thống tương lai George W. Bush tháng 8, bị tiếng sét ái tình rồi làm đám cưới liền 3 tháng sau đó; bằng không thì e đã phải chịu phận gái già. Chưa hết, bà và ông Bush đều muốn có nhiều con, nhưng lấy nhau mấy năm trời bà vẫn chẳng mang thai. Năm 1981, hai người tuyệt vọng đã bắt đầu thủ tục xin con nuôi thì được tin vui; rồi cũng phải thập tử nhất sinh, vào nhà thương sớm 7 tuần, dùng phẫu thuật sớm 5 tuần, may sao mẹ tròn con vuông, được cặp gái sinh đôi kháu khỉnh khỏe mạnh. Giả như ngày xưa, y khoa chưa đủ tiến bộ tất cặp song thai phải chết. Lại giả thử xa hơn là ngày xưa ở á đông trọng nam khinh nữ, chỉ có cặp gái sinh đôi tất bị coi là bất hạnh về đường con cái rồi. Tóm lại cuộc đời bà Laura hoàn toàn ứng hợp với cái họa của cặp Không Kiếp, nhưng lại được cứu gỡ để trở thành gần như hoàn hảo một phần nhờ thế giới đã đổi thay nên khả năng và cái nhìn của con người đã khác hẳn xưa; phần còn lại nhờ may mắn. Thay vì dông dài, người viết chỉ xin ngắn gọn rằng bà Laura có phúc phận phi thường. Chắc chắn trên thế giới này có nhiều người mang lá số y hệt bà mà đời sống chẳng hạnh phúc chẳng thành công; và nếu xét cho cùng thì lá số của họ vẫn đúng! Đây chính là cảnh sai một ly đi một dặm giữa cuộc đời thật và lá số tử vi của những người có cách đặc biệt. Mệnh Không thân Kiếp là một trong những cách đặc biệt đó. Mối duyên tiền định? Thế nhưng chẳng phải khoa tử vi không đoán được gì trong trường hợp bà Laura Bush, vì chỉ nhìn lá số ta sẽ thấy ngay cung phu cực kỳ mạnh mẽ với Tham Vũ Tả Hữu Tướng Ấn Lộc (Tồn) Hồng Việt Kỵ. Cách giáp của cung này lại càng rực rỡ, đầy đủ Âm Dương Xương Khúc Long Phượng Thai Tọa Quang Quý và thêm Khoa Lộc. Người sơ học nhìn qua cũng phải đoán (nếu lấy chồng) bà sẽ có một người chồng phi thường, thuộc loại lãnh tụ có đầy đủ quần thần phù tá. Nghĩa là đời bà sẽ thay đổi lớn sau khi lấy chồng, và có thể trở thành bậc mệnh phụ phu nhân. Điều này dĩ nhiên đúng, và người chồng của bà Laura thì chúng ta khỏi cần giới thiệu, chính là đương kim tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush. Chuyện bà Laura gặp ông chồng tương lai George W. Bush đã trở thành một giai thoại lý thú trong làng báo Hoa Kỳ, nên cũng xin kể lại để hầu độc giả. Năm 1950, khi cậu George W. Bush theo cha mẹ về định cư ở Midland nhà cậu và nhà cô Laura cách nhau chỉ 15 dãy phố, hai người lại học cùng một trường năm lên lớp 7. Midland chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ bé, gia đình của hai bên lại cùng thuộc hàng khá giả, vậy mà cậu George và cô Laura không quen cũng chẳng biết nhau kể là một chuyện lạ. Rồi năm 1969, khi "ra tỉnh" dạy học ở Houston cô Laura mướn phòng ở chung cư Chateaux Dijon. Trùng hợp làm sao, cùng lúc ấy cậu George cũng mướn phòng ở Chateaux Dijon. Ấy vậy mà định mệnh một lần nữa cũng không cho họ một lần gặp mặt. Chờ thêm 8 năm nữa, tức là đến 1977 thì chuyện kỳ ngộ bỗng đột ngột xảy ra. Nguyên có một cặp vợ chồng khá đặc biệt, vì chồng là bạn thân của cậu George, vợ là bạn thân của cô Laura. Chồng nóng lòng cho ông bạn George đã 32 tuổi ta mà vẫn độc thân, vợ thì nóng lòng cho cô bạn Laura vì lý do tương tự. Hai vợ chồng bèn tìm cách làm mai. Phương pháp của họ rất cổ điển, tổ chức nướng barbeque cuối tuần rồi chồng mời cậu George, vợ mời cô Laura đến chơi. Điểm kẹt là trong thời gian ấy cô giáo Laura đi làm ở rất xa, cuối tuần mới thỉnh thoảng lái xe 490 dặm về thăm nhà. Nghe phong phanh là họ muốn ghép mình với một ông độc thân sắp ra tranh cử hạ viện, cô Laura phần không muốn người ta nghĩ là mình lấy cớ về thăm nhà cốt để làm quen với đàn ông lạ, phần lại có thành kiến với những người có liên hệ đến chính trị, nên được mời mấy lần vẫn chẳng chịu đi. Rồi có một lần chẳng hiểu sao cô chiều theo tiếng gọi của định mệnh. Phần còn lại, như người ta nói "đã là lịch sử". Hai người vừa gặp là đã xoắn xuýt lấy nhau, tưởng như đã quen từ kiếp trước. Và chỉ ba tháng sau là làm lễ cưới. Nhìn lại năm 1977 là năm cuối của đại hạn 23-32. Kỳ diệu làm sao, đại hạn này ở cung phu. Với những cách giáp như đã kể trên, đúng là gặp duyên trời nhưng phải qua tay người giới thiệu. Rồi mấy mươi năm sau vào hạn 53-62 đắc Thái Tuế, quan có thượng cách Cự Nhật được Xương phò tá là đến ứng kỳ, đang vinh quang là đệ nhất phu nhân của đại bang Texas lại leo thêm bậc nữa lên tột đỉnh là đệ nhất phu nhân của toàn thể đất nước Hoa Kỳ. Bao nhiêu năm lẽ ra gặp nhau lại không gặp. Khi gặp nhau rồi thì hai bên cùng bị "tiếng sét ái tình" rồi mau chóng thành vợ chồng nồng nàn ân ái, chung lưng cát tạn biển đông. Mối duyên đặc biệt của vợ chồng bà Laura khiến ta càng chắc chắn rằng đời quả có số mạng, và vợ chồng quả là duyên nợ ba sinh./ Ngày 12 tháng 11, 2004 Đằng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:52:35 GMT 9
Tưởng Giới Thạch: Lên Làm Bá, Xuống Làm Vương! ĐẰNG SƠN . Một lý do khiến chúng ta say mê đọc các bộ sách gọi là "truyện tàu" như Đông châu liệt sĩ, Hán Sở tranh hùng, Tam quốc chí v.v... là khi thời thế đảo điên, tự nhiên chẳng hiểu từ đâu mà bao nhiêu nhân tài xuất hiện cùng một lúc, tạo thành những cảnh long tranh hổ đấu, với những diễn biến đầy kịch liệt, khúc mắc và kết cuộc thật đột ngột, bất ngờ.Đã ví von với long và hổ, thì trong lịch sử Trung Hoa cận đại có lẽ "long" phải là ông Tôn Dật Tiên. Còn hổ thì sao? Nguyên sau khi Viên Thế Khải tự xưng làm vua và bị áp lực chống đối quá mạnh, phải tự phế chức rồi lo buồn mà chết năm 1916, nước Tàu cả loạn. Các ông tướng vùng nổỉ lên cát cứ mỗi người một nơi, thành thời quân phiệt. Sau khi Tôn Dật Tiên mất năm 1925 thì chẳng còn một hình ảnh lãnh tụ tối cao nào nữa, cảnh loạn lạc đạt đến cấp độ tận cùng. Sức mạnh là lẽ phải duy nhất. Anh hùng hào kiệt kẻ có chí nhỏ thì hùng cứ một phương, người nuôi chí lớn thì nghĩ chuyện "đuổi hươu ở trung nguyên" tức là gồm thâu nước Trung Hoa về một mối. Thế nên nói đến "hổ" thì thời ấy có rất nhiều. Nhưng nếu hỏi hai con hổ hung mãnh nhất là ai thì câu trả lời chắc chắn phải là "Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch". Chuyện Mao đánh bại Tưởng đánh bại Tưởng thì chúng ta ai cũng biết, nhưng vì không thể mang thành bại luận anh hùng, phải nói cả hai đều có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau. Để theo đúng thứ tự lịch sử, lần này xin bàn lá số của Tưởng Giới Thạch. Âm hãm tại Thìn phản vi kỳ cách! Năm tháng ngày giờ sinh của Tưởng Giới Thạch được ghi nhận rất rõ ràng là chính Ngọ ngày 15 tháng 9 năm Đinh Hợi 1887. Người viết chỉ mới gặp một quyển tử bình và một quyển tử vi cho rằng phải là giờ Mùi mới đúng, nhưng ngay cả những sách này cũng phải đồng ý rằng giờ Ngọ mới là tiêu chuẩn, giờ Mùi được đề nghị chỉ vì (theo lối xem của họ) thì giờ này có vẻ hợp hơn với đời của họ Tưởng. Đó là sách tiếng Hoa. Về sách tiếng Anh người viết đã gặp hai quyển có ghi giờ sinh họ Tưởng ("The Xoong Dynasty" và "Chiang Kai Shek, the generalissimo and the country he lost"), đều ghi rõ ông Tưởng sinh ra "at noon", tức là giờ Ngọ. Lá số của Tưởng Giới Thạch đã là đề tài bàn cãi sôi nổi trong làng tử vi Đài Loan và Hồng Kông chẳng thua gì, nếu không muốn nói là có phần hơn cả lá số của Tôn Dật Tiên. Ấy bởi vì trước đó người ta cho rằng tính miếu hãm của chính tinh là yếu tố quyết định. Riêng về trường hợp Âm Dương phú để lại có câu "nhật nguyệt tối hiềm phản bối" nghĩa là hai sao Âm Dương sợ nhất cảnh "phản bối". Phản bối có nhiều cách, nhưng một trong hai cách xấu nhất là nam mệnh cư Thìn có Thái Âm. Run rủi làm sao đây chính là trường hợp của Tưởng Giới Thạch. Nhưng họ Tưởng số rõ rằng chẳng hạ tiện mà là thượng thượng cách. Vậy phải chăng khoa tử vi sai? Xin thưa rằng mặc dù tử vi không thể nào đúng trăm phần trăm, nhưng riêng trường hợp này thì không những chẳng sai mà còn quá chính xác. "Nhật nguyệt tối hiềm phản bội" dĩ nhiên đúng, nhưng đó chỉ là phân nửa bài toán tử vi. Nửa kia là lẽ "cùng tắc biến" thể hiện qua tứ hóa Khoa Quyền Lộc Kỵ. Tưởng Giới Thạch sinh năm Đinh nên Thái Âm hóa Lộc, tức là ở thế cùng được biến thành kỳ cách. Đó là chưa kể Đồng hóa Quyền ở quan, Cơ hóa Khoa ở tài khiến ba cường cung mệnh tài quan có đủ tam hóa Khoa Quyền Lộc; thêm Xương Khúc và bộ tam minh Đào Hồng Hỉ đều là thuộc hạ đắc lực của của cặp Âm Dương. Nhờ vậy cách Nhật Nguyệt phản bội của Tưởng biến từ xấu ra thành cực tốt. Lại nữa, Thái Âm cư Thìn đắc cách dễ tạo nên võ nghiệp phi thường. Thật là phù hợp vô cùng với cuộc đời Tưởng Giới Thạch. Tuổi trẻ gian lao Tử Vi có một bí quyết bất di bất dịch là cặp Âm Dương bất luận ở đâu, hễ lạc hãm là số phải lao tâm khổ tứ, không thể nào an nhàn được. Tưởng Giới Thạch mặc dù có cách đại quý, nhưng vì cặp Âm Dương cực hãm nên cũng không thoát khỏi số phận này. Ngay từ tuổi ấu thơ họ Tưởng đã phải chịu lắm chua xót, đau thương. Mẹ là vợ kế của một thương gia bán muối. Gia cảnh tương đối khá giả; nhưng năm 6 tuổi đã phải chứng kiến cái chết của cô em gái ruột là Thụy Cúc mới sinh. Năm 9 tuổi thì chịu đại tang là cha chết. Vì là phận thứ lẽ mẹ của Tưởng chỉ được bên vợ cả cho một phần tài sản khiêm nhượng; gia cảnh trở thành bần hàn túng thiếu. Năm 12 tuổi một lần nữa Tưởng phải nhìn một người thân khác ra đi, lần này là em trai ruột Thụy Thanh, qua đời khi mới 4 tuổi thơ ngây. Nhìn lại hai cung phụ mẫu và huynh đệ, quả nhiên thấy phụ mẫu bị Liêm Tham hãm ở Tỵ, thêm Đà Hình Không Kiếp, rõ rằng là số sớm khắc cha mẹ, không tử biệt cũng sinh ly từ tuổi ấu thơ. Huynh đệ ở Mão đắc Phủ tưởng tốt, nhưng tiếc thay Phủ bị hai đại phá cách là ngộ Song Hao và bị chính Triệt cắt ngang. Sao Hỏa tinh được mệnh danh là "đoản thọ sát tinh" ở đây trở thành giọt nước tràn ly, thì làm sao anh em không yểu chiết? Cung phụ mẫu có điểm cần chú ý. Tham Không Kiếp Hình là tín hiệu của sự tu hành, vậy tại sao lại trộn lẫn với Tham Đà là cách của sắc giới? Câu hỏi được trả lời khi ta nhìn lại đời họ Tưởng kỹ càng hơn. Thì ra mẹ của Tưởng đã có một đời chồng trước, nhưng chồng chết sớm bà chán cảnh hồng trần xuống tóc đi tu, ai ngờ sau gặp cha của Tưởng, nợ trần chưa dứt đành bỏ nghiệp ni cô về làm vợ kế. Thế mới biết tử vi không ứng thì thôi, khi đã ứng thì chính xác đến mức rùng mình. Quyết theo võ nghiệp Giai thoại kể rằng từ khi còn bé Tưởng đã lộ tính bạo gan, chẳng biết sợ là gì; thường cùng các trẻ hàng xóm chơi trò tập trận đánh nhau, và trong các cuộc tập trận này, Tưởng luôn luôn đóng vai thủ lĩnh. Lớn lên, giã từ cuộc chơi thơ ấu Tưởng làm việc tự nhiên là đi thi Hương. Thi hương hỏng rồi mới quyết tâm theo võ nghiệp. Hãy thử tưởng tượng nếu Tưởng thi Hương đậu và được chính quyền nhà Thanh cử làm một ông tri huyện nào đó; có lẽ lịch sử Trung Hoa đã đổi khác hẳn rồi. Sau khi đả bại Nga ở eo biển Đối Mã, Nhật nghiễm nhiên chiếm địa vị đệ nhất cường quốc ở Á đông, nên du học quân sự ở Nhật hiển nhiên là giấc mộng của mọi thanh niên muốn theo võ nghiệp. Nhưng du học là chuyện xa xỉ, làm sao một cậu thanh niên nghèo như Tưởng lại làm được? Chuyện này lịch sử chẳng mấy rõ ràng, nhưng có thấy nói đến việc cô Mao Phú Mai (tức vợ cả của Tưởng) phải bán tư trang giúp chồng du học. Điểm chính là, sau một lần cầu học thất bại năm 1906 phải trở về, năm 1908 Tưởng hoàn thành ước nguyện, được nhận vào học một trường võ bị của Nhật và tốt nghiệp năm 1910. Trong thời gian du học, Tưởng kết nghĩa anh em với Trần Kỳ Mỹ và được họ Trần tiến dẫn gia nhập Đồng Minh Hội và được diện kiến Tôn Dật Tiên. Thế nhưng cái duyên thầy trò giữa Tôn dật Tiên và Tưởng Giới Thạch phải mười mấy năm sau mới thành hình, và đó là chuyện về sau. Mệnh đới đào hoa lại sinh quý tử Mệnh có Xương Khúc Tả Đào Hồng Hỉ hội họp, thê vô chính diệu có Hữu độc thủ nên số họ Tưởng đào lý đầy vườn. Sử ghi rằng khi mới 14 tuổi (tức 13 tuổi tây) Tưởng đã có một mối tình với một cô em họ xa. Thời ấy còn tục tảo hôn nên mặc dù cả hai còn ở tuổi ngây thơ Tưởng bèn về nhà thưa chuyện xin mẹ hỏi cưới. Tiếc thay lời cầu hôn bị nhà gái chối từ khiến Tưởng vô cùng đau đớn. Để an ủi con năm Tưởng lên 15 tuổi, mẹ Tưởng nhờ người mai mối cho lấy cô Mao Phúc Mai hơn Tưởng 4 tuổi. Năm 1912 thêm cô vợ kế là Diêu Dã Thành (Dã đây nghĩa là xinh đẹp, không phải hoang dã, dã man), rồi năm 1921 lại lấy cô Trần Khiết Như mới 16 tuổi làm thiếp. Đó chỉ là những người được lịch sử ghi lại; chứ có tướng tá và đẹp trai như Tưởng có lẽ còn nhiều mối tình hờ khác nữa. Đời đa thê của Tưởng chấm dứt năm 1927 khi Tưởng bỏ hết cả ba cô Mao, Diêu, Trần để lấy cô Tống Mỹ Linh (tức là một trong ba chị em nhà họ Tống lừng danh lịch sử Trung Hoa). Dù cố biện hộ cách nào đi nữa, cũng không thể tránh được kết luận rằng Tưởng có mới nới cũ, bạc nghĩa vô tình. Người ta bảo "bạc đường vợ nợ đường con" nhưng câu này không đúng chút nào với Tưởng, vì hiển nhiên trời đã trọng đãi Tưởng về đường con cái. Sau một lần xảy thai, năm 1910 bà vợ cả sinh hạ Tưởng Kinh Quốc. Sau này kế nghiệp cha ở Đài Loan, ông Kinh Quốc bỏ chế độ "bạch khủng bố" của Tưởng, mở lại liên hệ với Hoa Lục, cất nhắc dân bản xứ Đài Loan vào giai tầng lãnh đạo; nhờ đó hoàn thành cuộc "cách mạng nhung" đưa Đài Loan lên vị trí một tiểu cường quốc, dương danh trên mặt trận kinh tế toàn cầu. Con thứ Tưởng Vệ Quốc thì theo tài liệu thực ra là con của một người bạn thân và một cô gái Nhật, vì hoàn cảnh trái ngang vừa sinh ra đã ủy thác cho Tưởng. Tưởng nhận trách nhiệm, giao cho vợ kế nuôi nấng, thương yêu như con ruột, sau giúp Tưởng đắc lực trong việc tối tân hóa quân lực Đài Loan. Nhìn lại, cung Tử Tức ở Sửu quả nhiên chẳng tầm thường. Tử Phá được Tả Hữu Thai Tọa giáp, Không Kiếp chiếu đều là thượng cách. Phá lại tự hóa Lộc, thêm Mã Khốc Khách rõ là quý cách. Với Không Kiếp và Hình hội họp, nếu mệnh yếu ắt con cái giỏi giang nhưng bất hiếu. Đây vì Tưởng cách cục cực mạnh, thành thử diệu dụng được các hung cách nói trên; trở thành số được "tử thừa phụ nghiệp" tức là được con cái kế thừa, làm sáng thêm sự nghiệp của mình. Hạn vào tử tức, bạo phát mười năm Hạn 26-35 (ứng với thời gian 1912-21) vào cung thê nguyên thủy, vô chính diệu ngộ phụ Triệt, Thiên Quan; quan lộc gặp Cự Kỵ nên khó được hội thanh vân. Hạn này xảy ra sau cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, nhưng trong tổ chức của Tôn Dật Tiên ông Tưởng vẫn chỉ là hàng vô danh tiểu tốt. Thời gian 1916-18 bôn ba ở Thượng Hải chẳng nên cơm cháo gì. Mùa xuân 1918 về nhậm chức chủ nhiệm khoa tác chiến của quân đoàn Việt địa (thuộc Quảng Đông) dưới quyền ông tướng vùng Trần Quýnh Minh, cơm không lành canh không ngọt mùa hạ đã từ chức. Năm 1920 Trần Quýnh Minh bổ nhiệm Tưởng vào chức cao hơn là đệ nhị tổng chỉ huy quân đoàn nhưng có lẽ vì đã "kỵ rơ" với họ Trần mà Tưởng chối từ, lui về làng cũ ở ẩn. Năm sau 1921 lại mang tang mẹ; hoàn toàn ứng với sự kiện là đại hạn phụ mẫu vào cung Mão có Phủ ngộ Triệt Song Hao Hỏa tinh như đã nói trên. Năm 1922 là năm đầu của đại hạn tử tức, với những hung cách vô cùng tốt đẹp như đã nói trên. Phải chăng vì vậy mà cơ hội đã đến với Tưởng năm trong một hoàn cảnh lạ kỳ. Nguyên năm này Trần Quýnh Minh mưu phản, Tôn Dật Tiên cùng vợ là Tống Khánh Linh phải lánh nạn trên một chiến hạm. Tưởng đến nơi, xẻ chia cảnh thập tử nhất sinh này với vợ chồng họ Tôn hơn 40 ngày. Sau khi thoát khỏi nạn này, Tưởng trở thành người tâm phúc của họ Tôn. Vì vậy năm 1923 được Tôn cử làm tham mưu trưởng của nguyên soái đại bản doanh. Rồi năm 1924 Tôn mở trường võ bị Hoàng Phố, Tưởng được chọn làm hiệu trưởng. Thế là cuối cùng, Tưởng đã tìm được chỗ dụng võ. Tháng 2 năm 1925 khi Tôn Văn đang mang mệnh trầm trọng ở Bắc Kinh, Tưởng lãnh đạo đội quân chỉ ba ngàn người do chính tay mình huấn luyện thành tài ở Hoàng Phố, cả phá đại binh 4 vạn quân của Trần Quýnh Minh. Sau khi họ Tôn qua đời tháng 3 năm 1925 (kỳ trước ghi lầm là tháng 12, xin thành thật cáo lỗi độc giả), vài tướng lãnh ở vùng Quảng Đông định thừa cơ chiếm quyền đều bị Tưởng mau chóng dẹp tan. Thế là trong nháy mắt tiếng anh hùng vô địch của Tưởng vang lừng thiên hạ, trở thành nhân vật thực tế nắm quyền ở Quảng Châu. Năm 1926 Tưởng bắt đầu cuộc hành quân bắc phạt. Chi tiết nhiêu khê rắc rối nhưng nhưng đại khái thế của Tưởng mạnh như chẻ tre, đến cuối năm 1928 thì mọi lực lượng quân phiệt đều bị Tưởng khuất phục. Vậy là Tưởng đã nhất thời gồm thâu thiên hạ, thật là một thành tích vô cùng kinh khủng. Bởi vậy có kẻ nịnh thần tuyên dương rằng vũ công của Tưởng còn vĩ đại hơn Tần thủy Hoàng. Nhưng trong phút huy hoàng đã manh nha mầm tai họa. Thu được giang sơn rồi Tưởng có ý giải giới quân đội, cho lính về quê cày ruộng làm ăn. Ý định này khiến các tướng có công lớn trong cuộc bắc phạt như Diêm Tích Sơn, Lý Tông Nhân bất mãn; và là nguyên nhân dẫn đến cuộc nội loạn sau được sử gọi là "trung nguyên đại chiến" năm 1930. Trong cuộc đại chiến này, phe Diêm Tích Sơn, Lý Tông Nhân có khoảng 800 ngàn quân, đối địch lại khoảng một triệu quân của Tưởng, quả là cảnh máu xương sông núi, thắng bại khó phân. Nhưng phải chăng là nhờ còn trong vận Tử Phá Tả Hữu mà tư lệnh Mãn châu Trương Học Lương quyết định theo phe Tưởng làm lệch cán cân; và một lần nữa Tưởng lại cả thắng. Bá nghiệp tan tành Khi cuộc "trung nguyên đại chiến" xảy ra, đảng cộng sản là ngư ông đắc lợi, nhờ đó thiết lập được căn cứ ở Giang Tây. Sau 3 lần tấn công nửa vời, năm 1933 Tưởng quyết định tổng tấn công. Lực lượng của Tưởng có khoảng 700 ngàn quân, phe cộng chỉ có 150 ngàn thì làm sao chịu nổi. Năm 1934 phe cộng quyết định mở đường máu rút lui. Cuộc rút lui vỉ đại này sau được gọi bằng mỹ danh là cuộc "vạn lý trường chinh" kéo dài hơn một năm, với kết cuộc là phe cộng về được đến một cứ điểm mới, nhưng lực lượng tiêu hao trầm trọng chỉ còn dưới 30 ngàn người. Cuối năm 1936, trong khi tàn quân của phe cộng đang nín thở chờ một cuộc tổng tấn công được mệnh danh là "5 phút sau cùng" thì hình như số trời đã định mà xảy ra biến cố sau này gọi là "Tây An sự biến". Trương Học Lương, người đã về phe với Tưởng trong cuộc trung nguyên đại chiến đột ngột trở mặt, bắt giam Tưởng mưới mấy ngày, ra điều kiện rằng Tưởng phải nhận lời cộng tác với phe cộng để kháng chiến Nhật mới thả. Tưởng may mắn thoát nạn rồi không ra lệnh tận diệt cộng sản. Nhờ đó lực lượng cộng sản mới sống còn. Giai thoại kể rằng ngay trong cuộc vạn lý trường chinh đã có lúc Tưởng có cơ hội dùng hỏa công thiêu rụi Mao và mấy vạn đồng đảng, nhưng Tưởng quyết định không làm. Lại thêm một bí mật là sau vụ Tây An sự biến tại sao Tưởng không ra lệnh tổng tấn công cộng sản? Một số tài liệu không thân thiện với Tưởng nói lý do là Tưởng đã đồng ý không tấn công cộng sản nên mới được Trương Học Lương thả. Thực tế là cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm được bất cứ dấu tích nào chứng tỏ Tưởng đã hứa làm việc này, dù là hứa miệng. Nói thế nào thì nói, rốt cuộc thì nhờ không bị tận diệt năm 1936 mà lực lượng cộng sản có cơ hội hồi sinh và phát triển. Sau đệ nhị thế chiến chấm dứt, cuộc chiến tranh quốc cộng lại vỡ bùng. Năm 1947 phe cộng bắt đầu thắng lợi, và năm 1949 quân đội của Tưởng hoàn toàn tan vỡ. Tưởng phải bỏ đại lục chạy sang Đài Loan. Những diễn biến trên đây ứng với hai đại hạn 46-55 và 56-65 kéo dài từ 1932 đến 1951. Đại hạn thứ nhất vào cung Tý, vẫn đắc tam hóa, nhưng cung thiên di có Cự Kỵ, nô bộc có Tham Liêm hãm Hình Không Kiếp thật chẳng hay; năm 1936 Thái tuế trùng phùng đại hạn, theo nào bị cấp dưới phản bội. Đại hạn thứ hai thì vào Hợi, quan ở Mão là Phủ chính Triệt Song Hao Hỏa tinh, là đại phá cách đã được nhắc đến mấy lần trong bài này, thêm cung tài có Tướng ngộ chính Tuần khác nào ông Tướng bị dao kề cổ. Năm 1949 Thái Tuế ở Sửu xung Tướng, tiểu hạn lại vào Mão chính là đến ứng kỳ, nên sự nghiệp tan tành thật là phải quá! Vẫn một cõi xưng vương! Nhưng may sao đại hạn 56-65 dù xấu vẫn còn có điểm gỡ gạc là vào đúng vị trí Thái Tuế nên không đến nỗi như Hạng Vũ vào thế cùng ở bến Ô Giang. Các chuyên gia chính trị bậc nhất thế giới thời ấy tiên đoán rằng chính phủ của Tưởng không thể nào tồn tại ở Đài Loan quá một năm. Thực tế đã cho thấy rằng họ hoàn toàn sai. Bằng biện pháp vừa khủng bố vừa khuyến khích tiến bộ, Tưởng ổn định tình hình Đài Loan, rồi an hưởng tuổi già ở đó. Năm 1975 đại hạn vào cung Thân có Đồng Lương Đào Hồng Hỉ. Thái Tuế ngộ Phủ Song Hao Triệt, tiểu hạn ở Tỵ gặp Liêm Tham Hình Không Kiếp quả là đã đến số. Nên yên ổn trút hơi thở sau cùng ở Đài Loan, thọ 89 tuổi. Mặc dù chẳng bao giờ thực hiện được giấc mộng trở về giải phóng lục địa, mấy mươi năm sau cùng của Tưởng ở Đài Loan phải kể là một thành công vào hàng phép lạ. Ta có thể trách Tưởng đã quá tàn ác với người Đài Loan (có tài liệu cho rằng Tưởng đã tàn sát mấy trăm ngàn người để bắt dân đảo này theo mình), nhưng phải công nhận rằng sự kiện Đài Loan biến hình từ một hòn đảo lạc hậu thành một tiểu cường quốc không ít thì nhiều cũng do công lao của Tưởng. Đúng như câu "nhất tướng công thành vạn cốt khô", một người làm nên sự nghiệp bằng chiến tranh như Tưởng tất nhiên có người khen kẻ chê, người mê kẻ ghét. Nhưng điểm chính là xưa nay kẻ dựng lên bá nghiệp rồi tan rã mà vẫn còn được hùng cứ một phương và mạnh miệng mắng chửi kẻ thù mà chẳng bị hậu quả gì cả; lúc chết được hưởng quốc táng, lại có quý tử nối nghiệp thì có lẽ chỉ một mình Tưởng Giới Thạch mà thôi. Ngày 10 tháng 17 năm 2004 ĐẰNG SƠN
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:55:30 GMT 9
Tôn Dật Tiên Lưu Danh Thiên Cổ ĐẰNG SƠN . Sách vở ghi lại rằng ngày 10 tháng 12 năm 1949 Tưởng Giới Thạch lên phi cơ bỏ Hoa lục tháo thân tìm đất sống ở Đài Loan. Với Mao Trạch Đông là kẻ chiến thắng, lịch sử Trung Hoa sang một trang mới và những nghịch lý mới. Tình cờ làm sao, từ ngày lịch sử ấy đến nay tính ra đúng 55 năm. Con số 55 có ý nghĩa rất đặc biệt với những người lưu tâm đến mệnh lý, ấy bởi vì nó chính là tổng số 5 cặp số (1,6), (2,7), (3,8), (9,4), (5,10) của hà đồ, một đồ biểu vừa có tính toán học vừa có tính huyền bí vào bậc nhất của Á Đông. Mà đã nói đến mệnh lý và hà đồ thì lại phải trở về nước Trung Hoa. Lịch sử cận đại của Trung Hoa đầy sắt máu hỗn loạn. Đấu tranh luôn luôn phân thành phe phái, ai cũng nói mình đúng nó sai, nên một người được phe Tưởng thán phục, ngợi khen tất bị phe kia Mao chê bai mắng chửi và ngược lại. Thế mà có một nhân vật đặc biệt không bị quy luật này chi phối, đó là ông Tôn Văn, tức Tôn Dật Tiên. Điểm độc đáo của ông Tôn là ông được cả hai phe, theo Tưởng cũng như theo Mao, cùng ca ngợi. Hơn nữa, đã qua đời hơn ba phần tư thế kỷ, đến nay ông vẫn được nhiều người Trung Hoa trong nước cũng như hải ngoại coi như là tác nhân chính dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 lật đổ nhà Mãn Thanh và biến Trung Hoa thành một nước cộng hòa. Để tỏ lòng nhớ ơn, họ gọi ông một cách tôn kính là "quốc phụ," dịch nôm na là "vị cha già của đất nước." Người tò mò không khỏi thắc mắc, lá số họ Tôn có gì đặc biệt mà ông lại có một chỗ đứng lịch sử đặc biệt như vậy? VẤN NẠN NĂM THÁNG NGÀY GIỜ SINH ĐƯỢC GIẢI QUYẾT Để bắt đầu ta phải giải quyết vấn nạn về năm và ngày sinh. Theo ông Bạch Thủy Thanh Tùng viết năm 1937 trong quyển sách bát tự "mệnh lý sách ẩn" thì ông Tôn sinh năm Ất Sửu (1865). Một số sách ra sau này như "Tử Vi Đẩu Số Tân Giải" của ông Khổng Nhật Xương, "Tử Vi Đẩu Số Mệnh Phổ Khảo Chứng" của ông Hồng Lăng cũng ghi như vậy. Một trường phái khác, trong đó có hai mệnh lý gia nổi tiếng của Đài Loan là các ông Chính Huyền Sơn Nhân (trong bộ "Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số") và ông Phan Tử Ngư (trong quyển "Tử Vi Đẩu Số Tâm Đắc") lại cho là năm Bính Dần. Ngày sinh thì các tài liệu trên đều cho là 6 tháng 10 âm lịch; nhưng theo chính lời tự thuật của ông Tôn Dật Tiên thì ông sinh ngày 16 tháng 10 âm lịch. Có bốn dữ kiện mà hai đã bất đồng rồi thì làm sao xem số? Rất may, sau khi người vợ đầu của ông Tôn Dật Tiên qua đời năm 1952, người ta tìm ra trong các tài liệu cá nhân của bà một văn bản quan trọng là tờ "định thời chỉ," do một ông thầy bát tự ghi lại năm tháng ngày giờ sinh khi ông Tôn vừa ra đời. Tờ "định thời chỉ" này ghi rất rõ: "Đồng Trị ngũ niên, thập nguyệt, lục nhật, Dần thời"; tức năm Đồng Trị thứ 5, tháng 10, ngày 6, giờ Dần; và ngay cạnh đó phân thành bát tự cũng nguyên văn "Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Mão, Canh Dần." Dùng phép tỷ giảo, thiết nghĩ phải coi tờ thời trị này là tiêu chuẩn mà bỏ các tư liệu khác, tức là phải coi ông Tôn Dật Tiên ra đời ngày 6 tháng 10 năm Bính Dần giờ Dần. THÂN NGỘ TỨ QUYỀN, UY DANH HIỂN HÁCH! Điểm lạ lùng về lá số của ông Tôn là mệnh ở Dậu có Thiên Đồng hãm độc thủ, thân ở Sửu có Thiên Cơ cũng hãm độc thủ; nghĩa là chính tinh ở mệnh lẫn thân đều lâm hãm địa. Thêm sinh tháng 10 đương nhiên là cảnh "Mệnh không thân kiếp" thì sao lại được lịch sử lưu danh? Có lẽ vì khúc mắc đó mà nhiều nhà mệnh lý đến giờ phút này vẫn chưa tin rằng ông Tôn Dật Tiên sinh ngày 6 tháng 10 năm Bính Dần giờ Dần. Có người còn cho rằng ông phải sinh giờ Mão mới đúng, vì tối thiểu giờ Mão cặp Kiếp Không ở Dần Thân là miếu địa. Thế nhưng nhìn kỹ lại, nhờ sinh năm Bính Thiên Đồng ở mệnh hóa Lộc, Thiên Cơ ở thân (tức cung quan) hóa Quyền; nên mệnh thân đều đắc cách "tuyệt xứ phùng sinh" trở thành kỳ cách. Thân ở Sửu có Cơ hóa Quyền như đã nói trên, lại có ba tự Quyền (của Cự Lương Đồng) hội họp. Vậy là thân và tam phương triều về đều có quyền; lại thêm Tả Hữu Hồng Hỉ Quang Quý; bảo sao số không bột phát kinh khủng? Vì Tôn Dật Tiên có cách "mệnh Không thân Kiếp" thiết tưởng cần nói thêm về cặp sao này. Nhiều người vẫn triệt để theo sách cổ, lên án cặp Không Kiếp theo lẽ "Không tác hư không, Kiếp tác sơ cuồng" nghĩa là Địa Không làm chuyện không đâu, Địa Kiếp làm chuyện rồ dại. Theo ý người viết, vậy là đã nhìn cặp sao này ở ý nghĩa quá nhỏ hẹp. Không Kiếp là yếu tố bất ổn nên hiển nhiên bất lợi cho đời sống bình thường, nhưng ta đâu thể dùng lẽ thường để xét đời của các nhân vật kiệt liệt. Thí dụ trong ngay trong loạt bài này thì đã có hai người là bà Condoleezza Rice, vừa được Tổng Thống W. Bush đề cử làm tổng trưởng ngoại giao Hoa Kỳ; và rõ ràng hơn nữa Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ Laura Bush. Thay vì đi vào chi tiết rắc rối, chỉ xin đưa quan điểm rằng chính nhờ cặp Không Kiếp "hư không" và "rồ dại" này mà họ Tôn đã nghĩ ra một học thuyết rất lạ lùng là "ngôn nan hành dị"; giảng nghĩa nôm na ra là có nhiều chuyện nói nghe khó mà làm rất dễ. Và đời họ Tôn đã là chứng minh hùng hồn giá trị của học thuyết này. Không một tấc sắt trong tay mà đòi lật đổ một triều đại đã kéo dài mấy trăm năm, chẳng phải là việc không tưởng hay sao? Ta có thể nói họ Tôn chỉ là một người may mắn tình cờ ở đúng chỗ đúng thời nên được hưởng công lao. Nhưng nói gì mặc lòng, điểm quan trọng nhất là họ Tôn đã dám bất chấp hậu quả, nhất định theo đuổi lý tưởng có vẻ hết sức viển vông của mình. Thế nên ngược lại phải nói ông lưu danh hậu thế chính là nhờ cặp Không Kiếp "không đâu" và "điên rồ" vậy! GIAI THOẠI TÔN DẬT TIÊN Người Á Đông có khuynh hướng huyền thoại hóa những nhân vật kiệt liệt, thế nên những dữ kiện về đời ông Tôn thật khó biết đúng sai, nhưng dù sao thì vẫn là dữ kiện, nên xin ghi lại đây: Người ta bảo cậu bé Tôn Văn sinh ra trong một gia đình nghèo ở huyện Thúy Hanh thuộc tỉnh Quảng Đông. Lên 6, 7 tuổi đã phải vào rừng lên núi kiếm củi với chị. Lớn hơn chút nữa thì phải làm trẻ chăn bò. Năm 11 tuổi (tức 10 tuổi Tây) mới được cho đi học, và mặc dù còn thơ ngây, cậu Tôn Văn đã thấy ngay tính quan liêu trong cung cách của các thầy giáo, bọn trẻ như ông chẳng được giảng dạy gì cả, phải tự học lấy, lại phải tôn kính cơm bưng nước rước phục vụ cho thầy. Lại có chuyện kể rằng trước nhà cậu Tôn Văn có một cây đa to. Những ngày nóng dưới bóng râm của cây đa ấy có một ông già tên Bằng Sảng Quan từng đi lính cho Thái Bình Thiên Quốc ngồi kể lại chuyện xưa cho bọn trẻ nghe. Những câu chuyện này đã tạo ấn tượng rất mạnh trong đầu cậu, dẫn đến cái nhân cách mạng sau này. Năm 1978, mới ở tuổi 13, cậu có một cơ hội hết sức đặc biệt là cùng mẹ sang quần đảo Hạ Uy Di sống chung với người Anh đã tha phương cầu thực ở đó nhiều năm trước và may mắn trở thành một ông chủ nhỏ. Thật ứng hợp làm sao, vì đây vẫn thuộc đại hạn đầu tiên ở Dậu có Thiên Đồng. Đồng hãm địa vốn ứng với sự phiêu du, đối cung Âm, tam hợp Cơ đều là động tinh, hạn tài có nguyệt mã (khác Thiên Mã) Lộc Tồn, Lộc Quyền hội họp đúng là cách đi xa đắc chí. Cung huynh đệ thì có Sát Phá Tham Mã Khốc Khách Xương Khoa song Hao đắc địa, đúng là cách có anh em xuất ngoại tay trắng làm nên. Ở Hạ Uy Di cậu Tôn được anh gửi vào trường học. Nhờ đó cậu có cơ hội làm quen với những tư tưởng của tây phương như triết lý dẫn đến cuộc cách mạng Pháp và thuyết tiến hóa của Charles Darwin. Cậu cũng được chứng kiến cuộc đấu tranh tuyệt vọng của người dân bản xứ chống lại mưu toan của Hoa Kỳ sát nhập Hawaii. Trông người lại nghĩ đến ta, cậu đau lòng trước cảnh đất nước Trung Hoa đang bị các cường quốc Tây phương xâu xé. Cái nhân cách mạng lại càng rõ nét. NHẤT ĐỊNH ĐẤU TRANH! Cứ theo các câu chuyện kể thì khúc quanh lớn của đời ông Tôn Dật Tiên xảy ra vào năm 1894 khi ông và một đồng chí tìm cách đệ trình lên quan lớn Lý Hồng Chương một bản đề nghị dài tám ngàn chữ, yêu cầu cải cách canh tân. Không được Lý Hồng Chương tiếp, kế đó Trung Hoa đại bại trong cuộc chiến với Nhật Bản (phải ký hòa ước bồi thường chiến phí và nhượng đảo Đài Loan năm 1895). Đây chính là giọt nước tràn lý, cái nhân cách mạng đã mọc lên thành cây; và ông Tôn lao đầu vào cuộc đấu tranh, chẳng bao giờ nhìn lại nữa. HÌNH TÙ KỴ ẤN, LAO NGỤC NAN ĐÀO! Cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên bắt đầu một cách khiêm nhượng nếu không muốn nói là tai hại. Ông trở lại Hạ Uy Di, kêu gọi mãi mới tìm được khoảng 20 đồng chí, lập thành Hưng Trung Hội cuối năm 1894, chủ trương làm cách mạng bằng vũ lực, có nhờ cả một chuyên viên người Đan Mạch làm huấn luyện viên sử dụng vũ khí tiền tiến của tây phương. Nhưng Thiên Đồng cư mệnh khó lòng thực tế, hiển hiện rõ rệt vì mưu toan nổi dậy đầu tiên của ông năm 1895 chưa khởi sự đã lộ ra ngoài và bị bóp chết từ trong trứng nước. Nhà Thanh trương hình ông lên, treo thưởng lớn. May ông kịp thời lánh nạn sang Nhật Bản. Ở đây phải nói về cung tử tức. Cung này vừa có Liêm hóa Kỵ, vừa bị cả Hình lẫn Kình trấn giữ, nhằm cả hai hung cách là Hình Tù giáp Ấn và Hình Tù giáp Kỵ. Từ đó phải đoán đường con cái phải gặp cảnh sinh ly tử biệt. Quả nhiên, mặc dù có một trai hai gái với bà vợ đầu, vì đời tranh đấu bôn ba ông Tôn ít khi có cơ hội gặp con. Bất hạnh hơn nữa là người con gái thứ của ông, tức cô Tôn Kim Diễm, sinh năm 1895, tiểu hạn nhằm đúng ngay cung mệnh nên bị ứng mạnh, đột ngột qua đời năm 1913, khi chưa kịp đến tuổi đôi mươi. Hai hung cách này ở cung tử nghĩa là xung cung điền. Thế nên ngoài chuyện bất hạnh đường con cái cũng rất khó tránh chuyện ngục tù. Đọc thoáng qua đời Tôn Dật Tiên ta không thấy ông bị tù, nhưng xem lại kỹ hơn thì năm 1896 sang vận động đấu tranh ở Luân Đôn ông bị một thám tử người Anh lừa bắt rồi đưa vào giam ở sứ quán Trung Hoa, suýt bị giải về nước cho nhà Thanh xử tử. May sao, ông tìm cách liên lạc được với một ông thầy dạy học cũ. Tin ông bị bắt do đó lộ ra ngoài rồi được đăng lên đủ thứ báo. Quần chúng Anh giận dữ lên tiếng đòi chính phủ phải can thiệp để ông được thả ra. Chính quyền nhà Thanh yếu kém, làm sao dám đi ngược lại nước Anh là đại cường số một của thế giới thời ấy? Thế nên ông được thả sau 12 ngày bị giam giữ. Nhìn lại đại hạn năm 1896, quả nhiên cung tật vào Ngọ bị đúng các cách Hình Tù giáp Ấn và Hình Kỵ giáp Ấn đã kể trên. Thế mới biết tử vi chính xác. Số đã nói phải tù thì dù anh hùng kiệt liệt như họ Tôn cũng khó mà thoát được. CHÍNH NHỜ BẤT CẨN, NỔI TIẾNG NĂM CHÂU! Theo quyển "The Soong Dynasty" (triều đại nhà Tống) của ông Sterling Seagrave thì ông Tôn bị bắt hoàn toàn là vì bất cẩn, đã phạm những lỗi lầm cơ bản nhất của một người đang bị nhà Thanh treo giá bêu đầu. Chi tiết chẳng cần đề lại đây, nhưng giả như ông cẩn thận hơn thì có lẽ đã không bị bắt, mà không bị bắt thì đã chẳng ai buồn biết Tôn Dật Tiên là ai. Sự thật đã chứng tỏ là nhờ báo chí khắp nơi đăng tải mà sau khi được thả ra thì Tôn Dật Tiên thành một tên tuổi quốc tế, và rồi nhanh chóng được huyền thoại hóa như một thiên thần. Hóa ra, "nhờ" bất cẩn mà ông Tôn đã đạt cái thành công to lớn nhất của một người đấu tranh chính trị là trở thành tên tuổi trên đầu môi chót lưỡi của người đời. Thế mới biết đời này dại khôn khó luận, họa phúc nan lường. Nhưng hoàn cảnh của ông trong nhiều năm kế tiếp đó vẫn chỉ là có tiếng mà không có miếng. Tính đến cuối năm 1910 các tổ chức dưới quyền ông tổ chức thêm nhiều cuộc nổi dậy nữa, và đều thất bại thê thảm. Xem lại lá số thì đây là hai hạn 26-35 và 36-25 (thời gian 1891-1910). Hạn đầu ở Hợi có Thái Dương cực hãm lại không được cát hóa, may mà Di có Cự tự Quyền Lộc Tồn nguyệt mã, Phúc vào Sửu được bốn Quyền tụ họp như đã bàn trên nên biến hung hiểm thành cơ hội. Hạn sau vào Phá ở Tý tưởng tốt đẹp, tiếc rằng Phá rất kỵ Xương Khúc, cung lại bị Thiên Phúc trấn giữ, đại sự nan thành. MỘT BƯỚC CÔNG DANH, MƯỜI NĂM LAO TOÁI! Kế đó là hạn 46-55 vào chính cung Sửu là lúc thời cơ đã đến. Biến cố đầu tiên là cuộc nổi dậy thất bại ở Hoàng Hoa Cương tháng 4 năm 1911 khiến 72 đồng chí của ông Tôn phải hy sinh (sau này được gọi là cuộc nổi dậy của 72 liệt sĩ). Ngày 9 tháng 10 một cuộc nổi dậy nữa bị bại lộ, nhưng phải chăng vì năm 1911 đại tiểu hạn trùng phùng, số trời đã định phải có biến cố thuận lợi xảy ra cho ông Tôn, mà lịch sử đã thể hiện cái tính nghịch lý của nó? Sự thật là vì chính quyền nhà Thanh nhất quyết tận diệt lực lượng cách mạng bằng bạo lực, nhiều người có cảm tình hoặc dính líu đến tổ chức của ông Tôn cho rằng mình phải nhất tề nổi dậy để tìm cái sống trong cái chết. Chi tiết chẳng cần nói thêm, vì đây chính là cuộc cách mạng Tân Hợi 10 tháng 10 năm 1911, dẫn đến sự cáo chung của nhà Mãn Thanh và sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong lịch sử Trung Hoa, đầy hy vọng nhưng ngập tràn sắt máu. Là vị anh hùng số một, ông Tôn vinh quang về nước và được bầu vào chức lâm thời đại tổng thống cuối năm 1911. Thế nhưng xét trên căn bản đại hạn thì cung Sửu có một khuyết điểm lớn vì nó ở vị trí Trực Phù là nơi rất yếu, đầy thua thiệt của vòng Thái Tuế. Thành thử, công lao cách mạng bị Viên Thế Khải tìm cách chiếm đoạt. Năm 1912 họ Viên ép ấu chúa Phổ Nghi thoái vị, rồi đóng một vở kịch hòa giải với lực lượng cách mạng, bảo rằng chính mình cũng chủ trương dân chủ. Cực chẳng đã ông Tôn phải nhường chức lâm thời đại tổng thống cho họ Viên và nhận một chức vụ khiêm nhượng nếu không muốn nói là bù nhìn là phụ trách việc thiết lập hệ thống đường xe lửa cho chính phủ mới. Khi nắm quyền rồi họ Viên diệt hết lực lượng chống đối bằng vũ lực cũng như thủ đoạn mờ ám, và rồi tự xưng làm vua. Cuối cùng vì áp lực nổi dậy khắp nơi, họ Viên lâm bệnh rồi chết trong nhục nhã năm 1916 sau chỉ 83 ngày "tại vị." Họ Viên chết rồi chuyện cũng chẳng yên vì trung ương trống rỗng tất bốn phương loạn lạc. Trong những năm sau đó, ông Tôn hết lên voi rồi lại xuống chó, liền liền như chong chóng. Hôm nay là đại lãnh tụ, mai lại phải về vườn hoặc hốt hoảng lưu vong; nhưng phải chăng ở tam hợp Thiếu Âm-Long Đức-Trực Phù thêm Không Kiếp thích hợp cho việc dưỡng nuôi tư tưởng mà hai năm 1918 và 1919 ông đã hoàn chỉnh "hệ tư tưởng Tôn Văn" dẫn đến thuyết tân Tam Dân, tức "dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc" và thuyết "tri nan hành dị" (nói khó làm dễ), có thể coi là một cách nhìn vô cùng mới lạ về những vấn đề lớn của cuộc đời. VẪN CHỈ LÀ MỘT CON NGƯỜI! Cho đến đây ta chỉ thấy ông Tôn Dật Tiên như một vị đại anh hùng, cả đời hy sinh vì đất nước chẳng lý gì đến quyền lợi cá nhân. Đây dĩ nhiên là hình ảnh được vẽ ra trong đa số các sách viết về ông bởi người Trung Hoa. Để quân bằng xin bàn đến cung thê vì cung này rất lạ. Lương có Thanh Long Lưu Hà thêm Xương Khúc Thai Tọa giáp tất nhiên chẳng dở, và hoàn toàn ứng hợp với bà vợ kiệt liệt của ông, tức bà Tống Khánh Linh (sau là phó chủ tịch và rồi chủ tịch danh dự của Hoa lục). Thế nhưng sao lại có thêm Hỏa Linh Đào Hồng Hỉ Không Tả Hữu và Mộc Dục hội họp, đại biểu liên hệ thiếu đứng đắn? Xem kỹ lại đời ông, ta mới hiểu. Ông lấy một cô Lô Mộ Trinh làm vợ theo lệnh cha mẹ năm 1885, sinh con trai trưởng Tôn Khoa năm 1891, con gái thứ Tôn Kim Diễm 1895, con gái út Tôn Kim Uyển 1896. Năm 1913 khi ông sang Nhật để tránh họa Viên Thế Khải, bà vợ cũng theo ông. Thế nhưng khi ở Nhật ông và bà Khánh Linh nảy ra một mối tình thầm kín. Vấn đề là ông Tôn và cha bà Khánh Linh, tức ông Charlie Tống vừa là hai người bạn thân, vừa là hai đồng chí đấu tranh, tuổi ông Tôn lại hơn bà Khánh Linh hai con giáp. Bà Khánh Linh có lần khéo miệng thưa chuyện này với cha và bị cực lực phản đối. Năm 1915 bà Tống Khánh Linh trốn nhà từ Thượng Hải sang Nhật gặp ông Tôn. Ông Tôn bảo bà là ông đã ly dị vợ, và hai bên tiến hành hôn lễ. Nhưng chẳng có tài liệu nào chứng thực là ông Tôn đã ly dị vợ, nên tối thiểu trên mặt luật pháp phải nói là ông Tôn đã bỏ vợ theo một người đàn bà khác. Phần bà Khánh Linh, rõ ràng đã bất chấp lệnh cha mẹ lén bỏ sang nước khác theo tiếng gọi của con tim. Vậy thì, dù muốn dù không cũng phải nhìn nhận hai người đã có liên hệ thiếu đứng đắn. Tức là khoa Tử Vi một lần nữa lại đúng không thể tưởng tượng được. Người đau đớn nhất trong vụ này là cha bà Khánh Linh, ông Charlie Tống; vì đã coi ông Tôn như người bạn thân nhất. Cho rằng mình bị phản bội, đến khi chết ông Charlie vẫn không chịu tha tội cho ông Tôn. Chữ tình không ai dám nói, nhưng dữ kiện trên đây cho thấy ông Tôn, với lòng yêu nước yêu dân nồng nàn không ai có thể phủ nhận, vẫn có những khuyết điểm và yếu đuối tầm thường của một con người. MỘNG LỚN CHƯA THÀNH Năm 1921 là khởi đầu hạn 56-65, có vẻ đầy triển vọng cho ông Tôn, với hy vọng bắc phạt, hạ các sứ quân để thống nhất Trung Hoa, nhưng sau bao nhiêu biến chuyển lịch sử liền liền, thời cuộc vẫn ở trong tay kẻ khác. Năm 1924 ông lên Bắc Kinh tiếp tục cuộc tranh luận với những kẻ nắm quyền thời ấy, nhấn mạnh nhu cầu phải đòi hủy bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với các đại cường. Nhưng lúc này ông đã bị bệnh gan ở giai đoạn sau cùng. Nhìn lại cung tật ách của ông có Tham Lang Đà La, sách nói không khốn bởi gan cũng bởi dạ dày, thật là đúng quá! Cuộc chiến đấu với tử thần kéo dài một năm. Cuối cùng, tháng 12 năm 1925 ông trút hơi thở sau cùng ở Bắc Kinh, trong khi đất nước vẫn chia năm xẻ bảy, hẳn nhiên mang theo mối hận là giấc mộng thống nhất và canh tân đất nước vẫn không thành. Nhìn lại cuộc đời của ông Tôn, ta thấy ngay một điểm lạ kỳ là ngoại trừ tài ra hải ngoại dùng miệng lưỡi gây tiền cho tổ chức (ứng với Cự Môn nguyệt Mã song Lộc ở tài bạch) và là cha đẻ của hai thuyết "Tam Dân" và "Ngôn Nan Hành Dị" ông đụng việc gì là hư việc đó. Vậy mà ông đã luôn luôn được coi là lãnh tụ tối cao của mọi phong trào cách mạng. Qua đời khi hoàn cảnh của nước rối như mối bòng bong, nếu là người khác tất bị coi là kẻ cả đời thất bại, vậy thì tại sao ông lại được cả hai phe sau đó kình chống nhau cùng kính ngưỡng, và người Trung Hoa khắp thế giới ghi ơn? Ta có thể nói tấm lòng của ông to lớn như biển nên đã làm cho quần chúng chấn động tâm tư, nhưng lập luận như thế e không ổn vì có lẽ còn nhiều người khác cũng có tấm lòng chẳng thua gì ông. Thiết nghĩ, trong trường hợp này, câu trả lời của tử vi hợp lý hơn nhiều. Thứ nhất, hạn 56-65 vào cung Dần đắc Tử Phủ Vũ Tướng, nhìn thoáng qua tưởng là tốt đẹp, nhưng hội họp thì có Liêm hóa Kỵ Kình Hình Riêu Song Hao, và nhất là vào vị trí Trường Sinh, tối kỵ cho người đã quá ngũ tuần. Tiểu hạn vào cung Di nguyên thủy, gặp Âm Dương hãm địa không được cát hóa, thêm Hỏa Đào Hỉ Thiên Không, chính là đã đến số rồi vậy. Thế nhưng thật kỳ diệu làm sao, đại hạn này lại ở đúng ngay Thái Tuế. Như Thiên Lương tiên sinh đã có nhận xét, từ giã cuộc đời khi đại hạn ở trong vòng Thái Tuế thì dễ được người ở lại tiếc thương. Hóa ra, việc ông Tôn tiếp tục được người Trung Hoa quốc nội cũng như hải ngoại ngưỡng mộ chỉ là một thực tế của số mệnh mà thôi! Ngày 10 tháng 12 năm 2004 ĐẰNG SƠN
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:57:17 GMT 9
Đức Giáo Hoàng John Paul Ii: Tiếng Nói Của Lương Tâm... ĐẰNG SƠN . Cả thế giới tiếc thương! Đúng 9:37 đêm giờ địa phương ngày thứ bảy 2 tháng 4, tức trưa thứ bảy cùng ngày ở Hoa Kỳ, đức giáo hoàng John Paul II (Gioan Phao Lồ đệ nhị) đã trút hơi thở cuối cùng ở Vatican, từ giã chốn phù du gọi là cuộc đời để về bên cạnh Chúa.Vừa được hung tin, tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tức thì hạ lệnh treo cờ rũ ở tòa bạch ốc. Lệnh này sẽ mở rộng đến toàn thể các cơ quan công quyền và quân sự của Hoa Kỳ toàn thế giới vào ngày tang lễ, tức thứ sáu 8 tháng 4. Ngày hôm sau đó, tức chủ nhật 3 tháng 4, tổng thống Bush tuyên bố sẽ cùng phu nhân, hai cựu tổng thống là Bill Clinton, Bush Sr. và tổng trưởng quốc phòng Condoleezza Rice dự lễ mai táng ngài. Thái tử Charles của Anh quốc quyết định dời ngày thành hôn với bà Camilia Parker Bowles vì lý do tương tự. Ở ngay nước Cuba cộng sản vốn chủ trương vô thần, chính phủ đã ban lệnh hai ngày quốc táng. Ngoài việc treo cờ rũ ở các cơ quan công quyền, các hí viện phòng trà đều đóng cửa, các trận cầu quốc gia và quốc tế đều đình lại, và tổng thống Cuba Fidel Castro cũng sẽ đích thân sang Vatican dự tang lễ. Đó là giới chính trị, nay sang địa hạt tôn giáo. Vì đức giáo hoàng là nhà lãnh đạo tối cao của Thiên Chúa giáo, có hiện tượng lạ lùng là nhiều lãnh tụ của những tôn giáo vốn đã đối nghịch lâu đời với Thiên Chúa giáo như Do Thái giáo, Hồi Giáo, và Chính Thống Giáo, Anh giáo đều đã chính thức ngỏ lời chia buồn với giáo hội Vatican và lên tiếng tuyên dương, ca tụng ngài đã có công hàn gắn những rạn nứt tưởng là sẽ tồn tại muôn đời. Riêng nhà lãnh đạo Anh giáo, tức ông Archbishop of Canterburry Rowan William, đã quyết định làm một việc táo bạo là phá cái tiền lệ của bốn thế kỷ kình chống giữa hai giáo hội, tuyên bố sẽ thân hành Vatican sang dự lễ mai táng ngài. Thường dân thì khỏi nói. Họ ào ạt đổ về Vatican từ khắp nơi trên thế giới. Đến chiều thứ ba 5 tháng 4, 2005, tức là chưa đầy 48 tiếng sau khi đức John Paul II băng hà, tính ra đã có hơn triệu người bất chấp thời gian xếp hàng chờ đợi đến 7, 8 tiếng đồng hồ để vái lạy trước thánh thể của ngài lần chót. Con số này vượt mọi sự ước lượng trước đó của tòa thánh, của chính phủ Ý, cũng như của giới truyền thông. Với 26 năm lãnh đạo giáo hội, đức John Paul II là một trong ba giáo hoàng tại vị lâu nhất lịch sử giáo hội. Thời gian lâu dài đó giúp ngài thành một nhân vật quen thuộc của toàn thể thế giới. Lúc sinh thời, ngài được giới truyền thông xưng tụng là một trong những vị giáo hoàng được yêu mến nhất trong lịch sử, thế nhưng có lẽ chẳng ai tưởng tượng được là sự ra đi của ngài lại gây ra nhiều thương tiếc trên toàn thế giới đến mức độ như vậy. Tử vi có áp dụng được không? Xưa nay, giới nghiên cứu tử vi vẫn trăn trở về một vấn nạn là không hiểu khoa này có áp dụng được cho những người tu hành đắc đạo hay không. Có thuyết cho rằng không được, vì tử vi dựa trên cái lý của âm dương ngũ hành, mà theo định nghĩa thì người đắc đạo đã vượt quá lý ấy. Lại có thuyết cho rằng được, vì người đắc đạo vẫn mang xác phàm, và cái xác phàm của họ vẫn phải bị chi phối bởi âm dương ngũ hành. Riêng người viết cho rằng mặc dù rất khó dùng con mắt trần tục để tiên đoán cuộc đời của những người tu hành đắc đạo bằng khoa tử vi, những tín hiệu về cuộc đời họ vẫn phải được phản ảnh trong lá số. Nghĩa là nếu “hậu xét” thì cuộc đời thật của những người đắc đạo vẫn phải tương ứng với lá số tử vi của họ. Để kiểm chứng thuyết này, ta sẽ thử phân tích xem lá số tử vi của đức giáo hoàng John Paul II có phản ảnh cuộc đời phi thường của ngài hay không. Theo các tài liệu chính thức rất đáng tin cậy ngài ra đời ngày 18 tháng 5 năm 1920 ở Wadowice, Ba Lan, thuộc bắc vĩ tuyến 49 độ 53 phút và đông kinh tuyến 19 độ 30 phút. Tính ra âm lịch địa phương là ngày 1 tháng 4 năm Canh Thân. Về giờ sinh, chính miệng ngài nói một lần năm 1996 là “khoảng 5 chiều”, và một lần khác năm 1997 là “giữa 5 và 6 giờ chiều”. Giờ chính thức được đa số chiêm tinh gia tây phương xử dụng là 5:30 giờ chiều, tức giờ trung bình của 5 và 6. Theo dữ liệu thiên văn của sở hải quân Hoa Kỳ, hôm ấy ở Wadowice mặt trời ở đỉnh đầu lúc 12:38 giờ trưa nên 5:30 giờ chiều điều chỉnh lại thành trước 5 giờ chiều, tức là giờ Thân. Sẽ có người nói rằng giờ đúng cũng có thể là sau 5 giờ, nếu thế phải tính là giờ Dậu. Nhưng người viết vốn cho rằng khi mặt trời ở đỉnh đầu mới bắt đầu giờ Ngọ. Theo cách tính này giờ Thân kéo dài từ 4 đến 6 giờ chiều, nên bất luận trước hoặc sau 5 giờ chiều một chút đều là giờ Thân. Bài này vì vậy dựa trên lá số giờ Thân ngày 1 tháng 4 năm Canh Thân. Kiếp ngộ song Không, tu hành đắc đạo! Tên thật của đức giáo hoàng John Paul II là Karol Jozef Wojtyla. Cha ngài là người Ba Lan, mẹ ngài gốc Lithuania. Là những con chiên Công Giáo ngoan đạo, điểm đặc biệt của gia đình ngài là đi ngược lại khuynh hướng chung của người công giáo Ba Lan thời ấy, thay vì khinh ghét người Do Thái lại thân cận họ. Nhờ vậy những đứa trẻ chơi chung rồi trở thành bạn với ngài ở tuổi ấu thơ có nhiều người Do Thái, trong đó có một cậu bé tên là Jerzy Kluger. Cái lý nhân quả của cuộc đời thật huyền diệu, vì khi thành đức giáo hoàng ngài nảy ra ý muốn hàn gắn với nước Do Thái thì Jerzy Kluger chính là người đóng vai môi giới, dẫn đến kết quả tốt đẹp là Vatican chính thức công nhận nước Do Thái năm 1993 và ngài chính thức viếng thăm thánh địa Jerusalem năm 2000. Việc tòa thánh Vatican công nhận nước Do Thái là một diễn biến lớn của lịch sử nhân loại, nhưng chỉ là một trong nhiều thí dụ về cái tâm mở rộng hiếm có của đức giáo hoàng John Paul II. Năm 1981 ngài chính thức đến thăm Pakistan là một nước Hồi Giáo, và theo các tài liệu mà người viết được đọc qua thì ngài là đức giáo hoàng đầu tiên chính thức bước vào một đền thờ đạo Hồi. Ngài cũng hết sức nỗ lực hàn gắn với Chính Thống giáo, chỉ tiếc là bên giáo hội Chính Thống vẫn còn e dè mà đến cuối đời ngài vẫn chưa làm được một chuyến viếng thăm Moscow như ý muốn. Về các nhân vật chính trị, ngài từng tiếp lãnh tụ Palestine Yasser Arafat năm 1982 khi ông này còn bị nhiều nước trên thế giới lên án là phường khủng bố. Năm 1996, ngài lại tiếp lãnh tụ Fidel Castro của nước cộng sản Cuba và rồi, đáp lời mời của Castro, ngài chính thức viếng đảo quốc này năm 1998. Thoạt nhìn, lá số tử vi của ngài có vẻ đi ngược lại cái tâm mở rộng ấy, vì mệnh cư Dậu vốn mang tính hiểm lại là là bại địa của cục, có hai sao lạnh lùng là Vũ Sát thủ, thêm Phá Toái, hóa Quyền và Kình Dương hãm địa đều là biểu tượng của độc đoán, cay nghiệt. Nhưng kỳ diệu làm sao, vì ngài sinh tháng 4 nên mệnh xung Điạ Không, thân xung Địa Kiếp. Cặp Không Kiếp này hãm địa, nói chung rất bất lợi cho những người có đời sống bình thường, nhưng lại ứng hợp hoàn toàn với các bậc tu hành. Mà đã là bậc tu hành thì nhờ cái lý tương phản của dịch, cung Dậu tưởng xấu xa lại biến thành đất tốt. Thêm một sự kỳ diệu nữa là cung mệnh của ngài ở chính vị Thiên Không. Kết quả là nhờ hai Không một Kiếp cộng hưởng, bộ Tứ Đức thường mai một trong mọi lá số có cơ hội hiếm hoi trỗi dậy hỗ trợ sao Thiếu Dương; giúp ngài phá vỡ tất cả những chấp kiến cực đoan của đời sống, biến cái cay nghiệt của Quyền Vũ Sát Kình Toái thành sự cương quyết ghê người, giúp ngài nhất tâm tu hành đắc đạo. Cái khó của người tu hành là phải vượt lên khỏi những sắc hương giả dối. Sắc hương đây được biểu hiện qua bộ tam minh Đào Hồng Hỉ. Bộ ba này luôn luôn liên hệ đến cặp Thiên Không-Thiếu Dương là cặp sao đại biểu sự kình chống liên tục của lương tâm và dục vọng. Nay nhờ sự soi sáng của tứ Đức, Thiên Không và Thiếu Dương hòa hợp làm một, và cái tình cảm vốn tầm thường của Đào Hồng Hỉ được Tứ Đức nâng cấp thành lòng bác ác vô biên, thành thử ngài luôn luôn tích cực xiển dương nhân quyền đạo đức, trở thành biểu tượng chói ngời của lương tâm nhân loại! Sớm gặp nhiều thử thách! Phải chăng trời đất muốn chuẩn bị đức giáo hoàng John Paul II cho sứ mệnh cao cả sau này mà bắt ngài sớm gặp lắm chuyện đau thương? Chị của ngài chết non trước khi ngài ra đời. Năm lên 10 tuổi ta (tức 9 tuổi tây) ngài mất mẹ, và rồi năm 13 tuổi (12 tuổi tây) người anh duy nhất của ngài qua đời vì bạo bệnh, hưởng dương 27 tuổi. Năm ngài lên 22 tuổi đang khi học đại học lại đến lượt cha ngài ra đi. Bản thân ngài thì năm 25 tuổi bị xe đụng hai lần, lần đầu là xe du lịch, lần thứ nhì là xe vận tải. May mắn thay, ngài an toàn thoát hiểm, chỉ mang tật nhẹ vĩnh viễn ở vai. Nguyên ủy sâu xa dĩ nhiên là bí mật muôn đời của trời đất, nhưng những dữ kiện trên đây hoàn toàn phù hợp với lá số của ngài. Phụ mẫu Âm Dương hãm địa, lại thêm Khốc Hư Hỏa Linh hội họp cha mẹ thật khó song toàn. Còn may Nhật được hóa Quyền thành cùng tắc biến nên cha ngài mới không đến nỗi phải sớm ra đi. Năm 10 tuổi đại hạn còn ở mệnh, cung phụ mẫu đầy sát khí như đã nói trên, tiểu hạn phụ mẫu thì vào cung Thân gặp Kỵ hội họp tự Kỵ và Hình Riêu chính là đến ứng kỳ mất mẹ. Năm 22 tuổi tiểu hạn phụ mẫu lại vào cung Thân, đại hạn phụ mẫu ở Tý có Cơ tự Kỵ Hình, thảo nào ngài lại phải gạt lệ tiễn cha về nơi vĩnh cửu. Vì cung huynh đệ nguyên thủy của ngài chính là cung Thân, cái bất hạnh mất chị mất anh đã quá rõ ràng thiết tưởng không cần bàn nhiều thêm nữa. Hai lần ngài bị xe đụng cũng có tín hiệu rõ rệt, đại hạn vô chính diệu có sao nguyệt Mã (khác với Thiên Mã) ứng với đường đi nước bước, lại hội họp Song Hao và Kiếp Không hãm địa, tiểu hạn thì vào Âm Dương hãm địa Khốc Hư Hỏa Linh, muốn bình an vô sự thật là khó lắm. Ngài chỉ bị tật nhẹ ở vai cũng có thể kể là một phép lạ rồi.. Hiến đời cho Chúa! Phương pháp tiêu chuẩn của Tử Vi để định khuynh hướng tu hành là tra cung phúc đức. Trong trường hợp đức giáo hoàng John Paul II cung này cư Hợi là mã địa bất ổn lại vô chính diệu, đắc cách Phủ Tướng triều viên thì Phủ Tướng bị cặp Kiếp Không hãm địa phá vỡ, Liêm Tham hãm địa xung chiếu không được cát hóa lại gặp cặp sao tối kỵ là Song Hao hãm địa, thêm Cô Quả thủ chiếu thì ngài còn gì để mà luyến tiếc cõi hồng trần? Cung phúc đức xấu theo định nghĩa bình thường, nghịch lại chính là cái hạnh của người ở chốn không môn, nên ngài tu hành đắc đạo thật là phải quá. Ly kỳ làm sao, cung phúc đức của ngài ứng với đại hạn 22-31, tức thời gian 1941-52, chính là lúc ngài đi quyết định đi tu và trở thành linh mục. Vừa vào đại hạn, tháng 2 tây năm 1941 cha ngài qua đời. Tương truyền lúc sinh thời, cha ngài có lần nói với ngài rằng “Cha sẽ sống không đủ lâu, nhưng cha muốn được thấy con hiến mình cho Chúa!” Từ đó ta có thể đoán sự ra đi của cha ngài đã trở thành một động lực thúc đẩy ngài tiến bước trên con đường tu tập, nên mặc dù lúc ấy nước Ba Lan nói chung và đạo Thiên Chúa ở Ba Lan nói riêng đang bị đe dọa dưới gót giày thống trị của Đức Quốc Xã, mười tám tháng sau ngài tìm cách nhập một chủng viện bí mật ở Krakow. Từ đó ngài âm thầm học luyện giáo lý, sống đời khắc kỷ của một chủng sinh, trong khi vẫn tiếp tục với các sinh hoạt khác, gồm có làm việc cho một hãng hóa học, đi học triết, ngay cả phát triển sở thích văn nghệ của ngài là diễn kịch. Giai đoạn tu tập này có một thời gian hồi hộp là năm 1944 khi Đức Quốc Xã bắt dân chúng Ba Lan tụ tập lại để điều tra. Ngài phải trốn trong tư gia của ngài tổng giám mục hạt Krakow, và ẩn mãi ở đó đến khi đệ nhị thế chiến chấm dứt năm 1945. Năm 1946 ngài được tấn phong linh mục, thật phù hợp vì tiểu hạn vào cung Tý có Binh Hình Tướng Ấn hóa Kỵ Lưu Hà. Vài năm kế tiếp đó công tác duy nhất của ngài là tiếp tục học hành, với thành tích là hai bằng cao học và một bằng tiến sĩ. Đời phục vụ của ngài chính thức bắt đầu năm 1949 với vai trò một linh mục phó xứ của giáo phận Krakow. Cũng tương hợp lạ lùng, vì năm ấy tiểu hạn vào cung Mão, tam hợp với đại hạn, lại hội họp đủ những sao ứng với sự tu hành là Thiên-Địa Không và Địa Kiếp và Cô Thần Quả Tú. Hạn vào quan lộc, lẫm liệt Hồng Y Năm 1958, tiểu hạn trở về cung Tý lại thêm đại hạn trùng phùng, ngài tiến một bước xa là được tấn phong lên chức phó tổng giám mục giáo phận Krakow. Sau đó vài năm thì đại hạn 42-51 bắt đầu. Đại hạn này vào cung quan lộc nguyên thủy cũng chính là cung thân của lá số. Cộng hưởng sao của cung này thật kinh khủng: Tử Sát Phá Liêm Tham Quyền Đào Hồng Hỉ Khôi Việt Tả Hữu Thai Tọa Quang Quý Long Phượng Xương Khúc, không chính thì chiếu, không chiếu thì giáp, đúng là cách “quân thần khánh hội”. Nếu không biết đây là lá số của ngài, người mới học cũng phải dựa vào cung này mà đoán là phi thường cách. Quả nhiên, đại hạn bắt đầu năm 1961 thì ngay năm sau (1962) đức tổng giám mục giáo phận Krakow qua đời, ngài được phong làm xử lý thường vụ thường vụ chức này, và rồi năm 1963 thì được tòa thánh chính thức tấn phong thành tổng giám mục. Nhìn lại lá số, năm này tiểu hạn vào cung Tỵ gặp Liêm Tham hãm địa song Hao có vẻ kém, nhưng điểm chính yếu là tam hợp với đại hạn, và cung quan của tiểu hạn vào cung mệnh nguyên thủy đắc Quyền Vũ Sát Kình. Năm 1967 thì tiểu hạn trùng vào cung mệnh nguyên thủy, nên cung quan vào cung quan nguyên thủy với những cách kinh khủng ở trên, thảo nào đây chính là năm ngài được tấn phong lên ngôi vị Hồng Y! Phải chăng ý chúa, thành đức giáo hoàng? Năm 1978 được gọi là “năm của 3 đức giáo hoàng” đức giáo hoàng John Paul I qua đời tháng 9 năm này sau chỉ 34 ngày tại vị. Thế là các vị Hồng Y lại phải tụ tập ở Vatican để bầu một vị giáo hoàng mới. Lần bầu cử này thật cam go, bảy đợt bầu đã xong mà vẫn chưa ngã ngũ. Sau đợt bầu cử thứ 8, kết quả bất ngờ là Hồng Y Karol Jozef Wojtyla của giáo phận Krakow được chọn làm vị giáo hoàng thứ 264 của giáo hội, tức là đức giáo hoàng John Paul II. Ngài là đức giáo hoàng người gốc Slavic đầu tiên, đức giáo hoàng đầu tiên không phải gốc Ý trong 455 năm, và ở tuổi 59 (tức 58 tuổi tây) ngài cũng là đức giáo hoàng đăng quang trẻ tuổi nhất trong 132 năm. Tính gay go và bất ngờ của cuộc bầu cử này cũng có tín hiệu khá rõ trong lá số của đức giáo hoàng John Paul II. Đại hạn vô chính diệu vốn thuận lợi cho người Sát Phá Liêm Tham lấy nòng cốt là Không Kiếp, thêm Mã Khốc Khách song Lộc Hỏa Linh Khốc Hư Thanh Long hóa Kỵ Lưu Hà hội họp là dấu hiệu của thành tựu to tát trong cảnh khó khăn. Nhưng công tâm mà nói thì những dữ kiện trên đây không đủ tính xác quyết, vì cung quan lộc của tiểu hạn ở Tý mặc dù đắc Binh Hình Tướng Ấn Lưu Hà Hoá Kỵ nhưng chính cung ở Thân lại ở vị trí Thái Tuế đầy khích bác đua tranh, nên rốt cục lại ta cũng chỉ có thể tán thán rằng sự kiện ngài được Hồng Y đoàn chọn làm giáo hoàng trong hoàn cảnh đặc biệt của năm 1978 có lẽ là ý Chúa đã định, nghĩa là hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu hoặc dự ước của những người trần mắt thịt như chúng ta. Tiếng nói của lương tâm nhân loại Sau khi lên ngôi, đức giáo hoàng John Paul II nhanh chóng thành một khuôn mặt sống động và quan trọng của chính trường cũng như giáo trường thế giới. Phải chăng vì cung Thiên Di có Phủ hai Không một Kiếp mà ngài đã quyết định đi khắp nơi trên thế giới để thăm giáo dân cũng như để xiển dương quan điểm về nhân quyền và tín ngưỡng mở rộng của ngài. Đã từng viếng hơn trăm quốc gia, hiển nhiên ngài giữ kỷ lục là vị giáo hoàng đi công du nhiều nhất trong lịch sử. Có tài liệu ước lượng rằng số dặm đường mà ngài đã đi qua dài gấp ba lần khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng. Đồng hương ở đất mẹ Ba Lan xưng tụng ngài như một anh hùng dân tộc. Họ nói với họ đệ nhị thế chiến không chấm dứt năm 1945 mà chấm dứt với sự sụp đổ của chế độ cộng sản năm 1989. Chúng ta đều biết người hùng của cuộc cách mạng Ba Lan năm 1989 là Lech Walesa, lãnh tụ công đoàn Solidarnosc. Nhưng, như mọi sử gia đều đồng ý, sự ủng hộ công khai của đức giáo hoàng đã là chất sống nuôi dưỡng công đoàn này. Nói cách khác, đa số dân Ba Lan tin rằng không có sự ủng hộ của đức giáo hoàng thì cuộc nổi dậy của Solidarnosc không thể nào thành công được. Và dĩ nhiên, như ta đã biết, cuộc nổi dậy của Solidarnosc đã là ngòi nổ dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu. Người ta xưng tụng ngài là “tiếng nói của lương tâm nhân loại”, và tiếng nói lương tâm ấy đã gây chấn động đến những nơi chốn thật xa xôi. Như trường hợp nước Phi Luật Tân chẳng hạn. Năm 1981, ngài viếng quốc gia này và tuyên bố trong một bài diễn văn được phát hình toàn quốc rằng không một chế độ nào có quyền lấy bất cứ một lý do gì, kể cả khi lý do ấy là “sự sống còn của quốc gia” để đè nén nhân quyền. Cũng trong bài diễn văn này, ngài kêu gọi nhà độc tài Ferdinand Marcos cải cách để cải thiện hoàn cảnh của dân chúng. Nhiều người cho rằng cuộc viếng thăm này của ngài đã là cái nhân dẫn đến phong trào nổi dậy của dân chúng khiến Marcos mất quyền và phải lưu vong cùng với vợ năm 1986 để cho phong trào dân chủ hóa ở Phi Luật Tân bắt đầu. Bình an về với Chúa Năm 1981 thế giới bàng hoàng khi nghe tin đức giáo hoàng bị mưu sát. Hung thủ là Mehmet Ali Agca, một thanh niên 23 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ. Rất may, mặc dù trọng thương vì bị một viên đạn xuyên vào bụng (và một viên khác trúng ngón trỏ trái), ngài bình phục sau khi giải phẫu và tiếp tục sinh hoạt như thường. Năm 1983 ngài vào nhà giam chính thức tỏ lời tha thứ kẻ toan giết mình. Theo tin mới nhất khi bài này được viết thì từ trong ngục, khi nghe tin ngài tạ thế Agca khóc thương và nhất định yêu cầu được dự tang lễ của ngài cho bằng được. Có thể đoán là lời yêu cầu của y sẽ bị giới chức từ khước, nhưng câu chuyện có thật này cho thấy ngài đã một lần nữa thành công trong việc thể hiện cái hiệu quả vô biên của lòng bác ái. Nhìn lại năm ngài bị ám sát, ta thấy tiểu hạn ở Hợi, chính là cung vô chính diệu có Song Hao hãm địa hội họp Kiếp Không hãm địa mà ta đã nói là ứng hợp cho sự tu hành, nhưng đầy bất trắc nếu xét trên lý bình thường của cuộc đời. May mà đại hạn tật ách mặc dù bị cảnh Âm Dương phản bội ở Thìn Tuất, nhưng Nhật được hóa Lộc thành yếu tố cứu giải giúp ngài qua khỏi. Năm nay 2005 tiểu hạn lại trở về cung Hợi đầy bất trắc ấy, điểm khác là đại hạn tật ách gặp Cơ tự Kỵ Hình lại hợp với Riêu Kỵ, cung chính của đại hạn lại là cách Liêm Tham Song Hao hãm địa Đào Hồng Hỉ đều là những cách tối kỵ cho tuổi già, nên ngài từ giã cuộc đời để về bên Chúa quả là phù hợp với lá số. Nhìn lại thời gian tại vị của ngài, mặc dù mấy năm sau cùng tòa thánh lúng túng vì cuộc khủng hoảng do một thiểu số linh mục xách nhiễu và tấn công tình dục các trẻ em, nếu so sánh trước và sau thì không ai có thể phủ nhận công lao to lớn của ngài là đã đưa tòa thánh trở lại trung tâm của bàn cờ thế giới và tạo một luồng hy vọng mới cho các con chiên Công giáo ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Thế giới hơn 6 tỷ người, số giáo dân Thiên Chúa giáo trên thế giới cũng trên 1,2 tỷ người; đều là những con số không nhỏ. Những con số không nhỏ người ấy mỗi người một ý nên khi còn sinh tiền mặc dù được nhiều người sùng kính yêu thương, ngài cũng bị lắm kẻ phê bình chỉ trích. Giờ thì ngài đã ra đi. Người ta bảo muốn xét ảnh hưởng của một người chỉ cần xét những người đến đưa tiễn họ. Từ phản ứng ở các nơi trên giới trong mấy ngày qua, ta phải kết luận rằng phía yêu kính ngài đã biểu dương một lực lượng áp đảo. Suy rộng ra từ tín hiệu đó ta có quyền tin rằng, sau khi bụi thời gian lắng đọng để người ta cân nhắc mọi lời khen chê, ngài sẽ được lịch sử thế giới ghi nhận là một trong vài nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20! San José 8 tháng 4, 2005 Đằng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:59:45 GMT 9
Tượng Ðài Việt Mỹ Qua Cách Nhìn Của Khoa Phong Thủy QUẢNG ĐỨC . Thế sự với nhân tình:Hải Quân Bắc Việt đã chủ động tấn công trước vào các giang đỉnh của lực lượng Hải Quân Hoa kỳ đang tuần tiểu ngoài khơi vịnh Bắc Việt ngày 31 tháng 7 năm 1964 . Ðó chính là lý do cần thiết mà Chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều năm chờ đợi để đưa quân vào tham chiến tại chiến trường Việt nam. Ngày 4 tháng 8 năm 1964, TT Johnson đề nghị Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt, The Gulf of Tokin Resolution , lên án hành động tấn công của Bắc Việt, thì các chiến sĩ của Không Lực Hoa Kỳ cũng đã nhảy vào vòng chiến . Ngay sau đó, tại chiến trường Bình Giả, các lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ cũng phải đụng độ lần đầu với một lực lượng cộng quân cấp Trung đoàn, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Thế nhưng, chiến sử của Quân Ðội Hoa Kỳ thì ghi trận Aáp Bắc, cạnh Mỹ Tho, vào những ngày cuối của năm 1963 mới là trận đầu tiên người lính trận của Hoa Kỳ chiến đấu cùng một chiến hào với các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa . Ngay trận đụng độ đầu tiên, cho dù ccäng quân bỏ lại hơn 100 xác tại chiến trường, nhưng 3 chiến binh Hoa Kỳ và 65 chiến sĩ của Quân Lực VNCH cũng đã ngã xuống . Cuối năm 1965 Quân đội Hoa Kỳ đã đổ 184.300 quân vào chiến trường Việt Nam . Tháng 12, 1966 chưa kể đến trên 30.000 chiến sĩ của các biệt đội thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt và Dân Sự Chiến Ðấu, số quân tăng vọt lên 385.300 người - Gần bằng với con số ở các thời điểm cao nhất - thuộc đủ cả 3 binh chủng Hải , Lục và Không Quân . Có phải vì Cộng Sản Bắc Việt đã vô cớ tấn công vào lực lượng Hải Quân, cho nên Hoa Kỳ phải ào ạt đổ gần nưả triệu quân , thuộc đủ các binh chủng vào chiến trường Việt Nam tham chiến để trả đuã, hay vì một lý do nào khác? Và, lý do tại sao các chiến sĩ của Quân Lực Việt nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu bên cạnh người Mỹ , để sau ngày 27 tháng 1 năm 1973, người Mỹ rút đi rồi mà họ vẫn phải kiên cưòng tiếp tục chiến đấu ? Ðọc lại "Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam", Vietnam Bibliography 2001 , trang 92 và trang 202, tác giả Nguyễn kỳ Phong ghi lại thì rõ biết: "....John F Kennedy khi còn là Dân Biểu Quốc Hội nhân dịp viếng thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 1951 trong một buổi họp tại tòa Ðại Sứ Mỹ tại Saigòn đã luôn miệng hỏi tại sao người Việt chiến đấu bên cạnh người Pháp để Pháp giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa? Tại sao chúng ta phải hùa theo người Pháp, một quốc gia đang cố gắng nắm giữ một tàn tích đế quốc ở Ðông Dương? (Trang 92) . ...Mười năm sau, ở cương vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Kennedy đã không ngần ngại tiết lộ rõ cho báo chí biết là ông đã quyết định ngăn chận ảnh hưỡng cộng sản ở ÐNÁ và sau khi được giới quân sự phân tích ưu và khuyết điểm của 2 chiến trường Lào và Việt Nam, Kennedy đã nói với ngoại trưởng Rusk là ông chọn VN vì VNCH quyết tâm chống cộng và sẽ chiến đấu . Việt Nam là mặt trận ". Ðúng ! Việt Nam là một mặt trận . Người chiến binh Hoa Kỳ đã đến Việt Nam không phải để gây chiến mà để nhằm ngăn chận ảnh hưởng cộng sản ở Ðông Nam Á . Và, người Chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì đã sát cánh cùng với các chiến sĩ của quân đội Hoa Kỳ rõ ràng là vì lý tưởng Tự do . Họï đã không chiến đấu bên cạnh người Mỹ để người Mỹ giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa . Cũng đã hơn 30 năm rồi . Bao nhiêu người lính trận Hoa Kỳ đã ngã xuống trên đất Việt Nam? 58.156 người? Trong đó bao nhiêu người đã chết và bao nhiêu người vẫn còn ghi nhận là mất tích? Cho dù con số vẫn còn chưa dứt khoát. Là vì vẫn còn nhiều hình quả trám chưa được khắc đủ đậm trên 2 bức tường đá cẩm thạch đen Vietnam Veterans Memorial , trên công viên The National Mall tại Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn , để xác quyết tên người đã vĩnh viễn hy sinh. Nhưng dù sao thì các chiến sĩ của Hoa Kỳ vẫn cũng còn đỡ tủi, vì ít ra họ cũng còn được người dân Hoa Kỳ ưu ái dựng cho họ một Ðài Tưởng Niệm ngay tại trung tâm Thủ Ðô của đất nước họ. Còn hàng triệu chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ? Sẽ không bao giờ có được một con số thống kê tin cậy là bao nhiêu người đã nằm xuống để bảo vệ cho quê hương và cho chủ nghĩa Dân Chủ -Tự Do . Ðọc Nhớ Huế, trang 97 , để nghe tác giả Phạm Thành Châu kể lại một trong hàng vạn mảng bi tráng của người lính chiến Quân Lực VNCH vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến "....Sau này tôi mới biết, không phải chỉ riêng tôi, biết bao đơn vị hành chánh, cảnh sát , quân đội... cấp chỉ huy đẵ chạy đâu mất tiêu mà người chiến sĩ vẫn không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì. Họ cảm thấy đất nước lâm nguy , bi đát đến độ chỉ biết đem thân ra chống đỡ một cách vô vọng, quên cả bản thân, cha mẹ, vợ con ..." , Mồ hôi và Máu của triệu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đổ xuống . Người Việt yêu chuộng Dân Chủ và Tự Do vẫn chưa quên được hình ảnh những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì ! Vậy mà ngay trên quê hương của họ, người sống cũng không có đất để sống thì làm sao mà mong cầu cho được một tượng đài để kỷ niệm ? Rõ biết như thế , thì mới có thể đồng cảm với những người Việt tha hương trên đất khách, cho dù gặp phải khó khăn đủ mặt , mà họ vẫn quyết tâm xây dựng cho bằng được một Tượng Ðài Việt Mỹ tại Westminster, tiểu bang California Hoa Kỳ . Sáng ngày 27 tháng 4 năm 2003, trên Vạn người Việt yêu chuộng Tự Do các nơi đã đổ về để tham dự Lễ Khánh Thành Tượng Ðài Việt Mỹ tại công viên Freedom Park, cạnh Tòa thị chính thành phố Westminster . Cờ Vàng Ba Sọc và cờ của Hoa Kỳ tung bay rợp cả khu Little Saigon và hình ảnh các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, hùng khí vẫn còn cao ngất , vào hàng thẳng tắp, nghiêm chỉnh chào kính, đã làm cho hàng ngàn người không cầm được nước mắt . Craig Mandeville, phó chủ tịch hội cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Orange County cũng hòa với lòng người Việt , hảnh diện cho rằng cho đến hôm nay, chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster. Người Việt yêu chuộng Tự Do ở khắp mọi nơi , bằng mọi cách , đã hằng bày tỏ lòng mình với đất nước , với huynh đệ chi binh. Tại vùng Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn, khu Eden, trước hành lang Phở Xe lửa, một số cựu chiến binh , vào những ngày cuối tuần , dù thời tiết có khắc nghiệt mấy , họ vẫn kiên nhẫn đứng bán lẻ từng tờ báo . Tiền lời thu được, phần lớn được chuyển về Việt Nam gởi tặng cho những gia đình thương phế binh VNCH. Khách thử ghé qua một lần, đọc vài lá thư từ Việt Nam gởi sang , thì lòng mới thấm nỗi khốn cùng của số cựu chiến binh đang còn tại quê nhà . Ngay cạnh khu thương mại Little Saigon hàng ngày vẫn biết bao người âm thầm chắt chiu gom góp, có được ít nhiều là họ gởi về cho trẻ em mồ côi và các gia đình nghèo khó , chỉ vì cha hoặc chú của các gia đình nghèo này một thời là chiến sĩ chống cộng . Anh Thanh Lê, người bạn 40 năm , gặp lại mới biết pháp danh của anh là Tâm Chơn , lại chính là người đang nổ lực quyên góp để mua đất xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Aán Ðộ . Vừa nghe nhắc đến Tượng Ðài , anh liền sẳn sàng tạo mọi điều kiện để khách xa mới đến có dịp được tham quan . Anh cho rằng đó cũng là cách để bày tỏ lòng , là mình vẫn còn mang nặng ơn nghĩa của những chiến sĩ VNCH đã hy sinh xương máu và sự sống còn cho non sông gấm vóc Việt Nam. . . Tinh thần huynh đệ chi binh của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Công Hòa mỗi nơi thể hiện một cách , tùy điều kiện và hoàn cảnh địa phương. Thế nhưng, cho đến bây giờ, quả thật chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster . Tượng Ðài vĩnh viễn sẽ là biểu tượng cho tinh thần của người Việt Nam yêu chuộng tự do và cũng là hình thức để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa nhất đến các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và các chiến binh Hoa Kỳ đã chiến đấu và đã nằm xuống trên đất nước Việt Nam thân yêu. Nhân kiệt với địa linh:Khách có thể dọc theo Westminster Av, gặp Monroe thì quẹo trái vào đường All American Way. Hoặc từ Beach Blvd vừøa qua khỏi Hazard Av, nhớ quẹo phải vào con đường 13 . Vừa mới quẹo vào , khách sẽ thấy ngay Tượng Ðài là hai pho tượng bằng đồng cao 11 feet sừng sững dưới cờ Vàng Ba Sọc và lá cờ Hoa Kỳ luôn phất tung bay trong gió . Nếu tính từ tâm công viên Freedom Park , nhìn về hướng Tây thì hai pho tượng ở bên góc trái sát kề bãi đậu xe . Khách có thể nhìn thấy rõ tượng đài là 2 chiến binh một My,õ một Việt , đứng kề bên nhau . Người lính Mỹ có vẻ như ngóng trông, như đang dùng dằng lưỡng lự , tay súng buông lỏng và nón sắt trên tay . Người chiến binh Việt Nam đứng lùi sau một bước , trang bị chuẩn bị vẫn trong thế sẳn sàng , nón sắt trên đầu và súng vẫn ở trên vai , ngón trỏ của tay trái chỉ xuống , biểu lộ thái độ cương quyết . Tiếng súng tạm ngưng, tương đối an toàn để có thể thảnh thơi đôi chút. Vũ khí trang bị còn đủ . Lựu đạn vẫn còn bên hông và lưỡi lê chưa cài trên đầu súng thì trận này chưa hẳn phải là trận cuối. Họ vẫn còn cơ hội mặt đối mặt để cận chiến với quân thù , thì cớ sao người lính Mỹ đã lộ vẻ hoang mang? Có phải vì người lính Mỹ đang phải đối đầu vơí đằng trước làø hỏa lực khủng khiếp của cả khối cộng sản, mà sau lưng là những áp lực nặng nề của quá nhiều mưu toan chính trị? Ngay sau Tượng Ðài là một khoảng trống , không gì che chắn để bảo vệ , ôm ấp cho Tượng Ðài đủ ấm . Giòng Westminster Channel từ phía Ðông ngỡ như bươn bả chảy dồn sinh lực , vừa về tới gần công viên Freedom Park thì đột ngột đổi hướng, quả thiệt hết sức là vô tình. Có khác chi năm 1973, chính phủ Hoa kỳ đã đột ngột rút quân, để lại một mình cho Quân Lực VNCH gánh vác cuộc chiến đang thời kỳ sôi động nhất ? Khách đến tham quan Tượng Ðài sao khỏi ngậm ngùi khi mắt rõ thấy hình ảnh của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa xông pha đầu tuyến mà không được trang bị áo giáp an toàn để che thân như người lính Mỹ. Tượng Ðài không đủ ấm là vì giòng Westminster channel đột ngột chuyển hướng xoay lưng vô tình và người lính trận lại không được trang bị bảo vệ an toàn . Nếu đem so lại với thực cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam thì cả hai đều như bị những móc xích vô hình ràng buộc không rời được nhau . Tất cả hoàn toàn như đang bị vây phủ bởi vòng tương quan nhân quả, thì rõ ràng Ðất Trời cũng đã cảm ứng được với lòng người. Lòng người đã được Ðất Trời cảm ứng. Aâm với Dương nhất định đã hòa hợp và sinh khí phải được tạo thành thì chắc chắn Phong Thủy nơi này phải có xão diệu chi đây. Có phải giòng Westminster channel thoạt mới nhìn, tưởng như đang dồn hết sinh lực bươn bã chảy về. Nhìn kỹ mới thấy giòng Channel đã gần cạn , nước đã bị ố dơ . Thủy cạn và bị ố dơ là phạm phải vào Ngũ Hung của Thủy. Vậy nên Westminster channel đột ngột trở mình , không chịu ôm Tượng Ðài Việt Mỹ vào lòng, mới thoạt nhìn thì ai cũng nghĩ là Hung , nhưng đâu ngờ lại trở thành Cát . Từ ngàn xưa người ta đã biết nguồn nước có sâu hay nông, mà đoán được khí thế của Long mạch mạnh hay yếu. Nhìn nước đục hay trong mà đoán biết huyệt chân hay giả. Phía đằng sau Freedom Park còn có giòng Santa Ana nước tràn đầy sinh lực , lượn ôm toàn cục vào lòng , da diết hữu tình . Long mạch mạnh mẽ đầy khí thế như thế thì không lẽ khu vực Tượng Ðài lại không đủ Aám? Biết bỏ gần mà lấy xa , bỏ cái xấu mà lấy cái tốt, bỏ cái nhỏ mà lấy cái lớn , thì sao không là Xảõo Diệu? Ðất trời đã cảm ứng với lòng người . Ðạo người đã hòa hợp với Ðạo Trời . Ðịa mạch đã được tốt lành. Tượng Ðài chắc hẳn phải linh thiêng . Lại còn biết bỏ gần mà lấy xa, bỏ ngắn mà lấy dài , thì ngày 30 tháng 4 năm 1975 chắc gì là ngày cuối cùng của cuộc chiến? Nếu cho rằng kết luận như vậy là vội vã, thì thử toán thêm quẻ Mai hoa. Có phải dưới chân Tượng Ðài là bệ đá cẩm thạch , màu đen tuyền , bao tròn nửa vòng ôm kín Lư hương Hỏa khí. Khoa Ðịa Lý Phong Thủy xưa nay đều cho rằng Ðá hành Kim - Vòng tròn cũng hành Kim - Lưỡng Kim tương ngộ - tương sinh với Thủy thì Thủy phải Tướng . Trong lòng của Thủy Khí là Lư hương khí Hỏa thì đúng là Thủy ngoại Hỏa nội , Thủy thượng Hỏa hạ , Thủy Hỏa Ký Tế là tượng nước ở trên lửa, nước lửa giao nhau . Trong 64 quẻ Dịch , chỉ Kỷ Tế mới có đủ 6 hào cư đúng vị. Nghĩa của Kỷ tế là đã qua sông , là chuyện đã xong rồi , hay chuyện đã nên, đã cùng , thì coi như cuộc chiến Việt Nam đã tàn , đã xong . Nhưng nếu không vội vã , mà phải nhìn kỷ toàn cục thì có phải Lư hương Hỏa khí lại được đặt để ngay trên một hồ nước đầy tràn : Lửa trên nước là Hỏa thượng Thủy hạ, tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị Tế? Sau Kỷ Tế đến Vị Tế , trời đất cũng đã sắp bày như vậy . Kinh Dịch cũng xếp thứ tự như thế . Kỷ Tế là việc đã xong mà Vị Tế là quẻ của sự việc Chưa Cùng . Theo dự án thiết kế ban đầu , Lư hương cao 4 feet để tỷ lệ hài hòa với chiều cao của tổng thể Tượng Ðài . Nhưng vì điều kiện an toàn quy định , để công trình xây dựng được phép tiến hành , buộc phải nâng chiều cao của Lư hương lên 6 feet . Hai khí Thủy Hỏa đang giao nhau mà Lư hương khí Hỏa thấp yếu, thì sẽ bị Thủy đương Vượng dập tắt tức thời. Hỏa mà bị dập thì coi như mọi chuyện đã an bài . Lư hương may nhờ phải tăng chiều cao lên 6 feet, chỉ vì quy định an toàn trong thiết kế , mà Khí Hỏa hữu lực để thành tựu được Hỏa Thủy Vị Tế . Vị Tế là quẻ của chuyện Chưa Cùng , là chuyện vẫn còn sinh sinh, tiếp diễn, thì cuộc chiến chắc gì đã dứt? Mặt khác, vì an toàn của hệ thống dẫn Gaz , Lư hương phải đặt xoay hai chân ra đằng trước , một chân phía sau . Xưa nay tất cả Lư hương trước chùa , đình hay miễu thường được đặt một chân đằng trước , hai chân đằng sau . Lâu ngày quen mắt , trở thành cái Lệ trong luật tục , cái Nghi trong Lễ đạo . Lư hương trước Tượng Ðài hai chân phía trước như vậy là ngược khác với lệ thường . Hướng của Tượng Ðài xê dịch trong khoảng 260 độ Tây - Tây Nam. Khoa Phong Thủy gọi là chung là hướng Dậu . Nhưng theo phái Phong Thủy Cổ Dịch Huyền Không , phía sau Tượng Ðài gọi là Sơn và trước gọi là Hướng thì 260 độ, phải gọi chính xác là Ðịa Nguyên Long , Sơn Giáp Hướng Canh. Tượng Ðài hoàn thành năm 2003 thuộc cuối vận 7 , thì Ngũ sẽ đáo Sơn và Cữu sẽ đáo Hướng . Sơn tinh Ngũ và Hướng tinh Cữu nhập giữa đều bay thuận. Tượng Ðài đang bị Phạm thượng Sơn hạ Thủy , quẻ Hướng bị sinh xuất : Hung . Lại theo Hiệp Kỷ Biện Phương Thư , năm Quý Mùi 2003, thuộc vận 7 Hạ Nguyên thì Lục Bạch nhập Trung Cung . Bát Bạch tại Ðoài và Tứ Bích tại Chấn . Tam Sát : Thân Dậu Tuất thì hướng Dậu của Tượng Ðài đang phạm vào Tam sát . Tang môn cũng lại đang lãng vãng hướng này. Vậy cái Lư hương đặt ngược khác với lệ thường, mà lại tránh được Họa của Tang môn và Tam sát, đồng thời tránh được Hung của hướng Tây vận 7 . May mắn lạ thường như vậy , làm sao mà Tượng Ðài không linh cho được ? Aån sâu sau Tượng Ðài Việt Mỹ là những trang chiến sử oai hùng. Trên đường dây điện thoại, vẫn còn nghe Nam Lộc nhắc là Khách đến có thể lật lại từng trang chiến sử , để có dịp gặp lại những người bạn cùng chiến đấu năm xưa. Ðôi lúc khách cũng có thể gặp lại chính mình hoặc người thân , ruột thịt của gia đình mình trong đó . Có quá nhiều kỷ niệm buồn vui để nhớ , nhưng chắc chắn tự trong tim, khách không khỏi thấy dấy lên niềm tự hào . Khách nhớ đừng có quá bận tâm tại sao Lư hương để ngược , chỉ vì Tượng Ðài vẫn còn đang đặt tạm tại xứ người . Khách cũng đừng hỏi tại sao những thành viên người Việt trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Ðài, phải chịu nhiều sóng gió bão bùng trong suốt quá trình thực hiện , chỉ vì họ là những Chiến Sĩ tuyến đầu của cuộc chiến . Chiến hữu Hải Quân : Hồ Ngọc Minh Ðức vừa mới được các đồng đội Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vinh danh là tin vui mới nhất có thể vay mượn được để làm quà tặng tiển khách ra về . . . QUẢNG ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 4:03:26 GMT 9
Lăng Hồ Chí Minh THIÊN ĐỨC . Đường nào cũng đi vào tử huyệt - nguồn: nxb bản đồ. Hồ Chí Minh là một nhân vật chính trị với nhiều khen chê tùy theo điểm đứng của mỗi người, lịch sử sẽ có sự phán xét công bằng. Theo truyền thống văn hóa Việt Nam, một người đã mất nên được yên nghỉ, bởi lý do: - Tôn trọng đời tư cá nhân của người chết. - Chết là hết rồi, mọi sự đều là vô thường, nên được hỉ xả, cảm thông và tha thứ. - Các nhà phong thủy, với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp lại càng không nên phổ biến những thông tin mồ mả của người chết một cách công khai. Thế nhưng đối với ông Hồ Chí Minh là một ngoại lệ, bởi vì thân xác của ông Hồ đã được đảng cọng sản việt nam (csvn) lợi dụng như là một thần tượng, làm một bình phong để bảo tồn chế độ hiện nay, gây nhiều tác hại cho đất nước kể từ năm 1975. Vì thế bài viết phong thủy lăng Hồ Chí Minh được phổ biến đến bạn đọc như một lời cảnh báo, một lời kêu gọi thiết tha điều chỉnh sai lầm để cho dân tộc Việt Nam được khởi sắc hơn trong tương lai vậy. Ông Hồ trước khi chết để lại di chúc với mong muốn được hỏa thiêu. Đảng cọng sản là người kế thừa nếu trung thành với ông Hồ thực thi ước vọng đó có lẽ dân tộc Việt Nam khác đi nhiều. Và nếu đảng cs muốn suy tôn, muốn xây lăng đắp mộ cho ông Hồ ở một nghĩa trang hay một rừng núi nào đó thì cũng không ai có ý kiến gì. Đàng này đảng cs đã xây lăng Hồ Chí Minh giữa quảng trường Ba Đình, là trung tâm của thủ đô Hà Nội cũng là trái tim Việt Nam, thì chí ít lăng mộ này có nhiều phần ảnh hưởng đến dân tộc Việt Nam nhất là về mặt phong thủy không những trong hiện tại mà còn di hại đến nhiều đời con cháu sau này. Theo nguyên tắc căn bản để nghiên cứu mồ mả về mặt phong thủy cần chú ý đến 3 điểm: - Vị trị an táng: Là thế đất, theo từ chuyên môn gọi là huyệt hay mạch đất, tùy theo giá trị của mỗi huyệt để có tên gọi như long huyệt, hổ huyệt, huyệt phát văn, hay phát vỏ. Và huyệt chỉ có giá trị đối với hình thức địa táng, tức là người chết được chôn ngay chính trong lòng huyệt đó. - Hợp nguyên lý âm dương: Dựa trên căn bản này khoa phong thủy phân định ra hai loại “Âm trạch, dương trạch”, Âm trạch phải thuần âm, áp dụng cho người chết, mộ huyệt phải là nơi yên tịnh, nếu có biến cố như nước, chấn động cơ giới, rễ cây ăn luồng trong mộ huyệt, phá hỏng sự yên tĩnh (thuần âm) vốn có của nó, sẽ bị phá cách. Trái lại dương trạch dùng cho người sống thì phải thuần dương, tức là căn nhà ở phải luôn luôn có sinh khí luân lưu và hoạt động. Trường hợp căn nhà có cây cối án ngữ sinh khí đi vào nhà, người trong căn nhà đó làm ăn lụn bại hay sức khỏe yếu kém. Thế nhưng sinh khí đi vào nhà quá mạnh thoát ra khỏi căn nhà bằng mọi hướng kéo theo luồng sinh khí tồn đọng trong căn nhà cũng không tốt đó là trường hợp những căn nhà ở ngã ba đường đông xe cộ lưu thông, thường gây sự khó khăn cuộc sống cho những người ở trong căn nhà đó. Vì thế những nơi này chỉ thích hợp cho những cơ sở thương mại rất cần sinh khí lưu thông mạnh, công việc kinh thương mới phát đạt. - Hướng huyệt, thường căn cứ vào tuổi của người chết để chọn lựa. Sự chọn hướng này không có tính cách tuyệt đối vì còn tùy thuộc mối quan hệ nhân thân của người chết đối với những khu mộ tập thể cùng nằm về một hướng. Việc xem hướng chỉ có thể áp dụng đối với những ngôi mộ biệt lập, mà thôi. Áp dụng những điều cơ bản trên vào trường hợp lăng Hồ Chí Minh cho thấy kết quả như sau: 1)- Vị trí lăng: Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa quảng trường Ba Đình, Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét. Lăng được xây theo nguyên bản của lăng Lenin. Mặt tiền hướng về phía đông, phía sau đè bẹp một di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Đó là chùa một cột, chiều cao từ mặt đất sàn cho đến đỉnh mái là 2, 20 mét, chỉ bằng 1/10 chiều cao của lăng. Khu vực lăng đã hình thành trung tâm chính trị Ba Đình bao gồm khu tứ giác phố Hùng Vương, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Diệu và Điện Biên Phủ cũng là nơi tập trung các cơ quan đầu não của đảng cs và nhà nước như: văn phòng trung ương đảng, hội trường Ba Đình (sẽ xây dựng quốc hội mới trong tương lai), phủ chủ tịch, phủ thủ tướng, bộ ngoại giao, bộ quốc phòng, bộ kế hoạch đầu tư, bộ nông nghiệp và phát triển... Nhìn một cách tổng thể hơn, đây cũng là nơi giao thoa của tất cả tuyến đường đi đến khắp mọi miền đất nước như:- QL.1A đi Ninh Bình, Miền trung. - QL.5 đi Hải Phòng. - QL. 1 A đi Lạng Sơn. - QL.3 đi Hồ Ba Bể, Thái Nguyên, Cao Bằng . - QL.2 đi đền Hùng, Lào Cai. - QL.32 đi. - Láng Hòa Lạc đi Sơn Tây. - QL.6 đi Hòa Bình. Sơn La, Lai Châu. - QL.21B đi chùa Hương. Do vậy, khu vực lăng hay trung tâm chính trị Ba Đình nếu được xây dựng thành một quần thể kiến trúc văn hóa, kinh tế để tiếp nhận sinh khí của mọi miền đất nước đổ vào chắc chắn rằng đất nước sẽ phát triển nhanh chóng. Đàng này đảng cs đã duy ý chí xây dựng một nhà mồ to lớn trấn áp tất cả các kiến trúc trong khu vực. Và mọi sinh lực của đất nước đã đi vào huyệt mộ. Nếu châu Âu văn minh phát triển, một thời từng tự hào với câu ngạn ngữ; “Mọi con đường đều dẫn tới La Mã”, thì tại Việt Nam có thể nói không ngoa rằng: “Mọi con đường đất nước Việt nam đều dẫn đến tử huyệt” Về mặt phong thủy chắc chắn đó là một điều không tốt. Và thực tế đã chứng minh trong mười năm đầu của hòa bình tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên Xã Hội chủ nghĩa theo con đường của Hồ Chí Minh đất nước đã đi vào bế tắc cùng cực. Một điểm cần chú ý về mặt phong thủy tất cả các cơ quan công quyền, đầu não của nhà nước nằm chung trong khu vực đều bị ô nhiễm mùi tử khí thì lấy đâu ra sự sáng suốt tìm sinh lộ để phát triển đi lên. 2)- Nguyên lý âm dương: Trước khi đi vào vấn đề này cũng nên tìm hiểu ông Hồ đã được an táng theo hình thức nào? Hiện nay trên thế giới có nhiều hình thức an táng khác nhau như là: - Địa táng: chôn vào lòng đất. - Thủy táng chôn trong nước. - Không táng hay huyền táng: thân xác đặt trên mặt đất hay treo lơ lửng trên vách núi. - Hỏa táng: thiêu đốt tử thi. - Điểu táng là để xác chết lộ thiên cho chim ăn. Ở Việt Nam chỉ có hai hình thức an táng thông dụng là địa táng và hỏa táng. Dựa trên thực tế, có thể trả lời là ông Hồ Chí Minh được an táng theo hình thức không táng, tức là để trên mặt đất. Thế nhưng theo nhu cầu trưng bày cho khách du lịch chiêm ngưỡng xác ướp. Hòm kính của ông Hồ phải di dời từ phòng ướp xác đặc biệt ra phòng triển lãm công cộng một số giờ nhất định. Ngoài theo hằng năm xác ướp phải đem qua Liên Xô trong khoảng tháng 10 - 11 để ngâm hóa chất, tẩy rửa, bảo trì theo định kỳ. Với sự kiện này ông Hồ không nằm yên một chỗ mà luôn luôn di chuyển theo nhu cầu. Như vậy có thể kết luận rằng: Ông Hồ được án táng theo hình thức cơ động táng, nghĩa là luôn luôn di chuyển. Đây là hình thức an táng đi ngược hoàn toàn nguyên lý âm dương như đã trình bày trên là âm trạch phải thuần âm. Âm trạch của Hồ Chí Minh đã phá cách, đảo lộn bởi ba yếu tố: - sự chuyển động của người tham quan. - Bản thân ông Hồ thường xuyên phải di chuyển. Lăng mộ nằm ngay điểm giao tiếp của những dòng chảy sinh khí như đã trình bày trên. Nhân gian có câu: “Mồ yên mã đẹp” con cháu làm ăn phát triển, trong khi đó lăng ông Hồ Chí Minh luôn luôn bị động mồ động mả là điều tối kỵ trong khoa phong thủy. Đưa đến hậu quả tuyệt đường tương lai cho những thế hệ thừa kế của đảng csvn. 3)- Ông Hồ Chí Minh an táng theo hướng nào? Theo nguyên tắc thông thường hướng huyệt mộ (lăng) cũng chính là hướng của người chết được an táng. Đối với trường hợp ông Hồ lại hoàn toàn khác. Hướng lăng là hướng đông, thế nhưng thân xác ông Hồ thường di chuyển theo nhu cầu bảo quản xác ướp cho nên có thể nói là ông Hồ không nằm theo một hướng nhất định nào cả. Phải chăng điều này đúng với con người Hồ đến nay không ai biết đích xác ông sinh năm nào để có thể từ đó định hướng nằm cho ông được ổn định. Ngoài những sai lầm trên đây đảng csvn còn vấp phải nhiều sai lầm khác trong việc sử dụng xác thân Hồ như sau: a)- Chia phần âm khí Đảng cs có một tập tục bất thành văn là trước khi làm một quyết định quan trọng như là nghị quyết, chính sách nhà nước, hay các cuộc lễ lớn, tất cả các đại biểu tham dự đều có tiêu chuẩn vào viếng lăng Hồ Chí Minh, nhằm tỏ lòng tôn kính, nhờ có Bác mà ta có địa vị ngày hôm nay. Về mặt phong thủy đó là nghĩa cử chia phần âm khí của người đã chết. Đây là một tập tục sai lầm nghiệm trọng về mặt phong thủy. Vì đã giẫm bước trở lại bài học lịch sử mà vua Tự Đức đã phạm phải. Thật vậy lúc còn sinh tiền, vua tự Đức đã cho xây lăng mộ của mình, trong thời gian thi công đã có biết bao xương máu của người lính và dân lành hy sinh vì thế mới có câu “Vạn niên là Vạn niên nào, thành xây xương lính hào đào máu dân”. Sau khi xây xong nhà vua đã đem cung tần mỹ nữ cùng các quan lại triều thần vào đây làm việc và hưởng lạc, từ đó cả triều đình nhuộm đầy âm khí, đưa đến hậu quả đất nước loạn ly và nhà Nguyễn suy vong. Đối chiếu lại thực tế, sau khi lăng Hồ Chí Minh mở cửa và tập tục chia phần âm khí được áp dụng một cách nghiêm túc trong khoảng thời gian từ 1975 - 1985 đất nước cũng đã từng điêu đứng suy tàn. b)- Trấn áp linh thần chùa một cột: Chùa một cột xây dựng từ năm 1049, xuất phát từ giấc mộng của vua Lý Thái Tông thấy Phật Bà Quan Âm ngồi giữa tòa sen. Chùa có hình dáng một hoa sen với tượng Phật Bà Quan Âm thờ trong đó. Chùa còn có tên là Diên Hựu (có ý nghĩa là kéo dài cõi phúc). Chùa có giá trị lịch sử. Trải qua bao thăng trầm chiến tranh ngôi chùa và tượng Phật Bà vẫn tồn tại với thời gian. Chùa một cột có thời đã trở thành biểu tượng chung cho Hà Nội, miền Bắc. Sau 1975 lăng ông Hồ Chí Minh đã được xây dựng và lấn chiếm một phần đất đai của chùa, với kiến trúc đồ sộ lấn áp đè bẹp hoàn toàn kiến trúc của chùa một cột. Đây là một điều không tốt đẹp về mặt phong thủy. Kiến trúc ngoại lai của ngôi mộ với cô hồn chưa siêu thoát lại trùm lên đầu một ngôi chùa cổ linh thiêng lịch sử thờ Phật Bà Quan Âm là cả một sự đảo lộn về văn hóa, tâm linh và phong thủy. Để đi vào kết luận chúng ta cũng nên có sự so sánh với lăng Lenin như sau: Lăng Lenin xây dựng từ năm 1924, ướp xác có sự đồng thuận của thân nhân, “S.Delizda, từng là thư ký riêng nhiều năm của Krupskaia (phu nhân Lênin) đã viết trong hồi ký của mình: “Khi được thông báo Lăng Lênin chuẩn bị mở cửa để các tầng lớp nhân dân lao động vào viếng Người, thì Krupskaia đã tới Lăng lần đầu tiên. Đó là ngày 26/5/1924. Cùng đi vơi Krupskaia còn có D.Vullyanrov, một người bà con của Lênin. Sau khi thăm phòng đặc biệt dùng để bảo quản thi hài Lênin, Krupskaia đã gặp gỡ và cám ơn các chuyên gia, đặc biệt là hai giáo sư Sibarski và Valuabov đã không quản ngại khó khăn và nguy hiểm trong công việc bảo quản thi hài. Sau lần đó thì mỗi năm Krupskaia đều tới Lăng khoảng một hai lần. Lần cuối cùng Krupskaia thăm Lăng là vào năm 1939, và sau đó chỉ mấy tháng thì Knupskaia cũng vĩnh viễn ra đi”. www.vnmedia.vn/print.asp?newsid=48186Xác ướp hàng sáu tháng phải ngâm tẩm, bảo trì, cùng áp dụng tập tục chia phần âm khí. Riêng lăng Hồ chí minh ngoài những vi phạm cùng đặc điểm với lăng Lenin, còn chịu thêm ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phong thủy khác như: - Xác chết được lưu giữ lại trái di chúc, nên linh hồn người chết không thể siêu thoát. Vì thế mặc dù xác ướp được đặt trong hòm kính vô sinh với kỹ thuật tối tân của các nhà bác học Liên Xô (đã từng có kinh nghiệm qua xác ướp Lenin), thế mà cũng không tránh được chiếc hòm kính bị xì, tai rụng, mũi bị thúi và khuôn mặt bị biến dạng. www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3353&mode=&order=0&thold=0Do vậy, lăng này phải đóng cửa một thời gian dài để cho chuyên gia Liên Xô đại tu trở lại vào cuối thập niên 70s. - Ông Hồ Chí Minh đã gây nên bao tội lỗi, hận thù dân tộc trên toàn cõi Việt Nam, cho nên phải chịu sự nguyền rủa thậm tệ khó mà mồ yên mã đẹp lâu dài để lại cho kẻ kế thừa. - Ông Hồ Chí Minh trước khi chết mong muốn đi gặp cụ Mac, cụ Lenin chứ không mong đi thăm ông bà tổ tiên. Ông mong ước các đảng cọng sản anh em đoàn kết vô sản. Ông Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời chính trị chưa bao giờ khoan hồng, đặc xá cho ai cả, và cũng chưa từng nói câu từ bi hỉ xả, cõi lòng luôn luôn nung nấu ý chí hận thù giai cấp. Thế mà giờ đây đảng ép buộc ông Hồ Chí Minh phải cúi đầu vô chùa ăn chay niệm kinh phật cùng chư tăng là một điều hoàn toàn nghịch lý, một hình thức cưỡng ép hay tra tấn linh hồn người chết. Thuật phong thủy mồ mả chỉ có thể ảnh hưởng đến thế hệ kế thừa của người chết chứ hiếm khi ảnh hường đến thế hệ cùng thời. Lăng Lenin bị động mồ mả nên đảng cọng sản Liên xô chỉ có thể kế thừa được 2 thế hệ sau thế hệ cách mạng 1917 (tính từ 1924 đến 1986) đất nước Liên Xô là một siêu cường thế giới, mà phải tự tiêu vong do yếu tố phạm phong thủy nội tại của mình. Đối với lăng Hồ Chí Minh bị động mồ động mả chẳng những do yếu tố nội tại, bị tác động của yếu tố ngoại lại (sự nguyền rủa do hận thù dân tộc), lại còn chịu sự quậy phá của chính cô hồn chết vì bị làm trái di chúc và cưỡng nhốt vào chùa trái với ý chí ông Hồ. Do đó tốc độ tàn phá sẽ nhanh chóng hơn. Do vậy có thể kết luận chắc chắn một điều mà không võ đoán là thời gian thừa kế của đảng csvn sẽ ngắn hơn sự tồn tại của đảng cs Liên xô là 62 năm tính từ lúc xây lăng Lenin. Nói một cách cụ thể hơn, đảng csvn sẽ không tồn tại qua hết thế hệ thứ nhất thừa kế di sản của ông Hồ Chí Minh (tính từ năm 1975). Câu hỏi đặt ra là có thể nào cứu vãn được không? Câu trả lời chính xác nên dành cho đảng cọng sản vậy. THIÊN ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 4:06:10 GMT 9
VUA ĐINH VÀ HUYỆN ‘LONG MÃ’
Phong thủy Tử Vi Gia Song Lộc (Viết theo Phả ký Đinh Triều mật truyền, khác hẳn huyền sử dân gian.
Đúng Ngọ. Đột nhiên lòng sông rung động mạnh, một thiếu niên nhoài lên mặt nưóc và sải vội vào bờ. Bây giờ thì cả khúc sông đều sôi sục, sóng nước nhấp nhô rồi lặng dần và đi vào im lặng. Dường như đã biết rõ về hiện tượng vừa xảy rta nên thiếu niên vày vẫn bình tĩnh, mặc áo quần và nhảy vọt lên bờ cao. Trên bờ, vị Phu Tử áo xanh kịp thời đọc "châm ngôn" thu hồi "tay ấn", nhìn cậu thiếu niên, hỏi: "Sao con? Diễn biến đúng như thầy dự liệu, phải không? cậu thiếu niên lễ phép đáp: Thưa, đúng như thế. Khi con lặn xuốntg đến nơi, thấy "Long mã" dường như mừng rỡ, cất cao đầu như ngựa đang hí. Con đặt hài cốt của phụ thân vào miệng vừa xong, thì "Long mã" trầm mình xuống dòng sông. Con vội vọt mình lên mặt nước và bơi nhanh vào bờ kịp lúc. Chậm một chút nữa là có thể bị hút vào lòng vực. Nghe xong, Phu Tử mỉm cười có vẻ hài lòng. Cậu đâu biết, thầy mình đã tính đúng giờ khai huyệt và bế huyệt để cho cậu được bình an. Ông dắt tay thiếu niên và nói: Rồi đây, nhờ ngôi đất này, con sẽ vang danh bốn biển, tạo nên sự nghiệp lớn lao lưu truyền hậu thế…Nhưng kịp dừng lại, vì nếu nói ra quá sớm sẽ gieo vào lòng cậu học trò sự tự đắc, kiêu căng…có hại cho đại cuộc. Ông nói tiếp: Thôi thầy trò ta kịp dời khỏi nơi này, để thiên hạ kéo đến thì không tốt. ra khỏi Sơn thôn, họ rẽ vào đường núi. Thày bảo trò: Con đã học "Thảo Thượng Phi", hãy ôn luyện, mau theo thày, dứt lời, cả hai vút đi như gió. Họ lướt qua khe suối, chòm cây và lọt vào một sơn cốc đầy kỳ hoa dị thảo. Dựa vào bóng núi là một thảo lư, ẩn sau một tàng cây xanh mướt; đang hồi kết lá đâm bông. Vào nhà, cậu bé nhanh nhẹn ra sau đem nước pha trà và chuẩn bị nghiên bút. Dở tập văn bài của học trò ra coi, ông lộ vẻ hài lòng và nhớ đến cố nhân. Ông và phụ thân của cậu bé, Tướng quân Đinh Công Trứ đã nhiều phen vì xã tắc, non sông vào sinh ra tử, vang bóng một thời. Chẳng may Đinh Tướng quân tuẫn nạn. Đinh phu nhân đang hoài thai, được các gia tướng phò về ẩn cư tại Hoa Lư, chờ ngày hở nhụy khai hoa. Đúng như mong ước của mọi người, chỉ ít lâu sau, Đinh phu nhân sinh được một bé trai, hy vọng, đặt tên là Đinh Bộ Lĩnh. Họ cùng nhau nuôi dưỡng cậu bé, hy vọng cậu sẽ nối được nghiệp cha làm nên sự nghiệp, cứu nước an dân, đưa lòng người về một mối, chống lại ngoại thù, mang lại nền tự chủ cho dân tộc và đất nước. Không phụ lòng chăm sóc của mẫu thân và các gia tướng, cậu khỏe mạnh, lớn lên rất nhanh, chăm chỉ ôn văn, luyện võ. Năm lên 6 tuổi, cậu đã làu thông kinh sử và có một căn bản võ công gia truyền đáng kể. Về phần ông, vì một mặt bạn hiền và chán cảnh tanh danh đoạt lợi nên đã bỏ đi, phiêu bạt giang hồ, vân du bốn biển, ngày xem xét thế thái nhân tình, thế nước lòng dân, đem coi Thiên Tượng, mong sẽ có Minh Quân xuất thế, đủ tài đức, khiến lòng người quy về một mối, thoát khỏi nạn tranh chấp giữa các sứ quân. Trời chẳng phụ lòng người, một đem xem Thiên Tượng, ông thấy Đế Tinh xuất hiện tại Hoa Lư, nên về ẩn cư ở một sơn cốc trông chờ Minh quân xuất thế vùng X.Trong lúc đi khảo sát địa thế, tìm mạch đất, ông gặp cậu bé chăn trâu nghịch ngợm, khác thường. Cậu chỉ dẫn võ nghệ cho các mục đồng và chỉ huy bày binh bố trận như người lớn. Vũ khí là các roi tre thay kiếm, nón mê thay lọng và cờ hiệu là các bông lau phất phơ theo gió, rất là ngoạn mục và thú vị. Theo dõi cậu bé, ông gặp lại Đinh phu nhân và các chiến hữu ngày xưa. Mừng mừng tủi tủi, họ hàn huyên tâm sự, mở tiệc mừng "trùng phùng" và trao giải, phó thác cậu bé cho ông dạy dỗ. Họ cho biết, năm lên 6 tuổi, cậu đã làu thông kinh sử và căn bản võ công của Đinh gia, phái Lĩnh Nam. Ông quan sát thấy cậu bé có dáng oai nghi, ban đêm lại có "tướng tinh" xuất hiện, đúng mẫu minh quân. Ông nhận lời đưa hẳn cậu bé về Sơn cốc để đào luyện. Ngoài ra, ông giúp chỉnh lại khu gia cư của Đinh phu nhân và tự nhủ: phải kiếm cho ra thế đất tốt cho người quá cố an nghỉ, giúp cậu bé tạo nên nghiệp cả. Bây giờ, cậu bé đã trở nên một thiếu niên giỏi dang, tài kiêm văn võ, Phụ thân cậu lại được yên nghỉ tại Huyệt Long Mã. Thật là Trời cũng chiều người. Phúc đức nhà họ Đinh phải là lớn lắm. Lúc này, ông thấy cần đưa cậu đi đó, đi đây để có được kinh nghiệm và cái nhìn thực tế, hiểu được thực lực các "sứ quân" trên toàn quốc, mở đường cho cậu "Trò yêu" đủ tài "trị quốc, bình thiên hạ". Ông nghĩ đến đây thì cậu bé dâng trà. Ông nhấp ly trà ngẫm nghĩ, gọi cậu bé đến gần và nói: Thời gian qua, thầy đã đem hết sở học văn võ truyền lại cho con, con cũng đã được học hỏi binh thư đồ trận nhưng cần phải có kinh nghiệm, hiểu mình hiểu người, hiểu được nhân tình thế thái và thế nước lòng dân…thì sau này mới có thể làm nên việc lớn. Do đó, thầy sẽ dẫn con đi khắp xứ để con học hỏi. Ngay mai, con thu xếp, về xin phép thân mẫu, từ biệt các gia tướng. Ngày mốt, thày trò ta sẽ lên đường đi Châu Hoan thăm cảnh cũ, để con làm quen với các bạn hữu cũ của cha con. Được sự yểm trợ và liên kết của họ, con sẽ dễ dàng tạo nghiệp. Hai hôm sau, họ rời Sơn động và trong giới giang hồ xuất hiện hai Kiếm sĩ chuyên cứu khốn phò nguy, trừ gian diệt bạo, tiếng nổi như cồn. Oanh oanh, liệt liệt, lòng người ngưỡng mộ cũng nhiều nhưng oán thù của giới hắc đạo và tham quan ô lại cũng không sao kể xiết. Đó là nguyên nhân của sự thành công và hậu hoan về sau. Bảy, tám năm sau, thấy thời cơ đã đến, hai thày trò trở về Hoa Lư dựng nghiệp. Đức Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được nhiều anh hùng hảo hán, chẳng bao lâu đã có được một đạo quân, binh hùng tướng mạnh gây sự e ngại cho các sứ quân lân cận. Một hôm ông đi săn, lạc sang khu vực khác, bị quân phục bao vây và truy sát. Đến bờ sông cũ thì có một Rồng vàng bay lên đưa ông qua sông. Địch quân thấy Thần long xuất hiện, biết ông có chân mệnh đế vương nên đều quỳ phục và kéo đến thần phục đông đảo. Phu tử mừng rỡ không cùng luôn căn dặn ông là phải bảo vệ huyệt mộ và lấy đức trị dân. Vài năm sau, phu tử qua đời và vì có bất hòa với người chú, tranh giành quyền binh, ông bỏ Hoa Lư sang phò sứ quân Trần Lãm và được tín nhiệm trao hết binh quyền ấn soái. Khi sứ quân Trần Lãm qua đời, ông đem hết quân bản bộ về hợp nhất với Hoa Lư, thanh thế rất lớn. Hậu ngô Vương và các sứ quân khác nhiều lần đem quân tới đánh nhưng đều thất bại. Sau đó, ông chiêu hàng được nhiều sứ quân và đánh đâu thắng đó nên được tôn xưng là Vạn Thắng Vương, hùng cứ một phương. Chỉ vài năm sau, Ngài đã dẹp tan các sứ quân, thống nhất giang san và lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư (968), khai sáng Đinh Triều và hoàn thành sứ mạng thu hồi nền tự chủ cho dân tộc. Ngày nay, Lăng Vua Đinh Tiên Hoàng vẫn được bảo tồn tại Hoa Lư, thuộc tỉnhy Ninh Bình, Bắc Việt Nam. Đinh Tiên Hoàng là một vị anh hùng, thao lược, thông minh tài trí. Triều đình nhà Đinh có pháp luật nghiêm minh và có sức mạnh về quân sự, đủ sức bảo vệ non sông, đất nước…Nhưng nhà vua lại tin dùng thái giám, nịnh thần, coi thường thù trong, giặc ngoài, lại chuyện dùng bạo hình để trấn áp tội đồ, quên đi lời tôn sư, căn dặn là phải lấy đức trị dân và bảo tôn Huyệt mộ phụ thân…nên khi bị kẻ thù dùng "thiết hỏa kim kiếm" yểm trấn, cắt đứt long mạch Huyệt Long Mã, mất đi sự bảo vệ thiêng liêng, là có chuyện. Năm 976, nhà Vua và thái tử Đinh Liễn bị loạn thần, "Thái giám Đỗ Thích" mưu sát, trị vì được 12 năm. Qua câu chuyện lịch sử Triều Đinh, chắc chắn là Dương Cơ và Âm Trạch đã, đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Địa linh- Nhân kiệt là như thế. Do đó, việc xây cất tạo dựng một quốc gia, một thành phố, một làng mạc, một dinh cơ, đắp một con đường, xẻ một dòng sông, đào một cái hồ, thậm chí một cái giếng đều phải nghiên cứu và chuẩn bị kỹ lưỡng tránh sự rủi ro, có thể làm thương tổn đến sự hưng vong, suy thịnh…của một dân tộc, một địa phương, một gia đình…hoặc tiền đồ của các thế hệ hiện tại và kế tục trong tương lai. Trong quá khứ, sự yếm trấn các linh địa trên đất nước ta của các triều đình phương Bắc như Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh và của thực dân, cộng sản… đã một thời làm suy yếu nước ta, gây cảnh Nam-Bắc phân tranh, nồi da xáo thịt mà ta đã thấy, đưa non sông đất nước ta tạt hậu hàng thế kỷ. Chủ trương yểm phá các linh địa, các đền đài, lăng tẩm, miếu mao, lăng một kết phát đã làm sụp đổ các Triều đại, suy yếu các dòng họ và đất nước. Tuy nhiên, họ đã thất bại và đều đã hoặc sẽ gánh lấy các hậu họa khôn lường cho Triều đại, tổ chức, tập thể hoặc cá nhân liên hệ. Yểm trấn các linh địa, đập phá các lăng mộ, nghĩa trang mồ mả để tìm của quý và phá đi linh mạch của các nơi này là hành động bất nhân, tàn ác, thiếu ý thức…sẽ có hậu quả không tốt đối với các người và các thành phần liên hệ. Gieo nhân nào sẽ hái hậu quả đó vậy. Phong Thủy Tử Vi Gia Song Lộc
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 17, 2010 10:56:31 GMT 9
Nha trang: -Tứ Thú Tụ - Tứ Thủy Triều Quy Thành phố Nha-Trang được bao quanh bởi những dòng nước nên khí hậu trở nên dễ chịu, tươi mát, mặc dù cái nắng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới ngự trị trên thành phố này. Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha-Trang, phái chảy vào Cửa Bé,phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển lớn Thái Bình Dương,nên gọi là Tứ Thủy Triều Quy. Rồi mượn bốn hòn núi ở ngay trong thành phố tượng hình thành bốn con thú tụ họp lại để giữ anh khí, nên gọi là Tứ Thú Tụ. Những hòn núi này là : I. Hòn Trại Thủy: là một hòn độc sơn, nằm ngay ở địa đầu thành phố Nhatrang về hướng Tây. Núi cao hơn 30 mét, dài hơn 500 mét, chạy dọc theo Quốc Lộ 1 ở phía Bắc khi con đường Cải Lộ Tuyến (nơi ngã Ba Thành chưa hoàn thành ). Hình thù ngọn núi Trại Thủy giống một con Dơi, nằm sè đôi cánh,đầu hướng về Tây-Nam.Cổ nhân gọi là "Ngọc Bức Hàm Hòan " (Dơi ngọc ngậm vòng ngọc) vì trưóc núi, tại 'đầu Dơi' có một bầu nước hình tròn như nguyệt nhưng ngày nay bị lấp mất, dân chúng cất nhà trên bầu nước này và không còn nhận ra hình dạng của nó nữa . Triền phía sau toàn đá hoa cương và dốc ngược: giáp Đình Phương Sài, chạy dài lên tận đường rầy xe lửa xóm Lò Vôi (Ngọc Hội). Triền phía trước hơi lài lài, cũng bằng đá hoa cương nhưng có lẫn đất điệp .Phía dưới có một khoảng đất rộng, dân đến chiếm xây nhà lập nghiệp, gọi là đất Bà Ngô Đình Nhu, đối diện công trường Trịnh Minh Thế và nhà Ga Thành Phố, với những hàng me xanh tươi. Trên núi không có cây cổ thụ, không có bàn thạch nhưng do sự chiếm cứ của dân nên có trồng những cây ăn trái như mít, mận, xoài, chùm ruột, cốc.. và từ xa nhìn đến thấy cả một màu xanh đang trở mình đầy sinh động . Trên lưng núi cũng tạo thành một con đường mòn,chạy dài từ đầu tới đuôi của hòn núi. Nơi đây một Kim Thân Phật Tổ được xây cất, rất đồ sộ . Núi Trại Thủy thường gọi là Hòn Xưởng. Tên chính thức đã được 'trước bạ' trong sách vở là Khố Sơn, tục danh Hòn Kho. Đại Nam Nhất Thống Chí chép: "Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho Phước Sơn nên đặt như thế. Phía Bắc gần sông Ngu Trường. Năm At Mão đầu lúc Trung Hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ này. Trên núi có đền Quan Công và miếu Ngũ Hành." Ly sở Vĩnh Xương trước kia đóng ở Phú Vinh, nên sách nói "Khố Sơn nằm ở phía Đông ". Và kho Phước Sơn là kho chứa lương thực từ thời Chúa Nguyễn . Nhà Tây Sơn chiến thắng chúa Nguyễn, lập xưởng đóng thuyền bè tại Hòn Kho. Từ ấy núi mang tên Hòn Xưởng." Sau khi lấy lại được Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh lập trại nơi Hòn Xưởng,gần bến Trường Cá (tức Phương Sài) để thuỷ binh đóng giữ mặt biển. Người địa phương bèn gọi là Hòn Trại Thủy. Sang thời Pháp thuộc, tên Trại Thủy được ghi trên các bàn địa đồ và trên giấy tờ của Chính Phủ. Hòn Trại Thủy đứng giữa đất bằng, nhiều người tưởng là một hòn núi độc lập. Nhưng theo các nhà địa lý học thì núi thuộc hệ thống vùng núi Cao Nguyên. Và các nhà Phong Thủy, tục gọi là Thầy Địa, cho biết rằng đó là Trấn Thủy Khẩu của dãy núi phía Tây Diên Khánh. Long mạch phát từ Hòn Thị (ở Bình Khánh, Diên Khánh),chạy ngầm dưới đất đến gần cửa sông Cù thì đột khởi làm cột trụ giữ anh khí cho cuộc đất Diên Khánh, Vĩnh Xương. Và thành Diên Khánh lấy Hòn Thị ở phía Tây làm hữu bậc, lấy Hòn Trại Thủy ở phía Đông làm tả bậc. Vì vậy,về mặt phong thủy, hòn Trại Thủy là hòn núi quan trọng tỉnh Khánh Hòa . Và trông thấy Hòn Trại Thủy có vẽ hiền lành, mấy ai ngờ rằng trước kia đã xãy ra nhiều cuộc quyết chiến ngay dưới chân núi. Đó là những trận đánh ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn năm Quí Sửu (1793) và năm Giáp Dần (1795) tại bến Trường Cá. Và năm Ất Dậu (1885) Nghĩa Quân Cần Vương đã dùng nơi đây làm căn cứ chống Pháp. Ngày nay, hòn Trại Thủy được trở thành một danh lam thắng cảnh nổi tiếng với năm ngôi Chùa đồ sộ với chứng tích lịch sử của thời kỳ hưng thịnh Phật Giáo Việt-Nam, như sau : Chùa Hải Đức : Xưa kia Chùa nằm phía trên chùa Hội Phước. Được xây đựng trên đỉnh núi, nhánh phía Tây, do ngài Viên Giác Thiền Sư, pháp danh Đạt Khương, tục danh Tô Văn Danh, quê quán làng Vạn Thạnh (Nhatrang), trụ trì từ năm Tự Đức (1847-1883). Ban đầu đặt tên là Duyên Sanh Tự. Đến năm Thành Thái thứ ba (1891), mới đổi tên là Hải Đức Tự. Hiện nay là một Đại Tòng Lâm, để tăng chúng khắp nước tụ họp về đây tu học, tham thiền nên chùa được xây dựng đầy đủ tiện nghi như một Phật Học Viện có Tăng phòng, tịnh thất..Phía sau lưng chùa có xây một tiểu đình để treo một Đại Hồng Chung, cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng 1009 Kg. Tiếng chuông ngân rất xa,đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn mộ đạo hay báo hiệu giờ giấc sớm chiều cho người dân sống quanh ngọn núi nhỏ này mà bài thơ sau đây cũng diễn tả một bức tranh Thiền sinh động : "Sương xuống hồi chuông lặng Dư âm tràn hư không Lững lơ vàng gợn sóng Trăng hồ Thu mênh mông " Ngài Viên Giác Thiền Sư viên tịch, các môn đệ kế tiếp nhau trụ trì : -Chánh Niệm Đại Sư , húy Chơn Minh . -Nhân Thụy giáo thọ, húy Như Khánh . -Phước Huệ hòa thượng,húy Ngộ Tánh . Phước Huệ hòa thượng, tục danh là Nguyễn Hưng Long, người Quảng Trị, được Viên Giác thiền sư thọ ký lúc 16 tuổi (1890). Năm 20 tuổi, phải bái biệt bổn sư về quê hương lo báo hiếu cho thân phụ. Rồi vào Huế tu hành. Mãi đến 15 năm sau mới trở lại Nha Trang. Vào lúc này chùa Hải Đức bị hư dột vì lâu đời, Hòa thượng ra công sửa chữa và khôi phục được quang cảnh ngày xưa.Năm 1956, Hòa thượng cùng ban Hộ Tự chùa cúng dường chùa và bất động sản liên hệ cho Phật Giáo Trung Phần để thành lập Phật Học Viện Trung Phần và ủy quyền Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Giám Viện, thay mặt toàn ban điều khiển mọi sinh hoạt của Viện. Viện lại có một quả hồng chung, chú tạo năm 1961,kích thước phỏng theo quả hồng chung chùa Thiên Mụ ở Huế. Cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng hơn 1000 kg. Chuông treo nơi Tiểu Đình phía sau chùa Hải Đức, nơi dốc lên Tịnh Thất. Rồi tuổi già sức yếu, việc đi lại khó khăn, năm Bảo Đại thứ 14 (1938), Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trụ trì chùa cho Bích Không Đại Sư. Bích Không Đại Sư, pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng Hữu Đàng, quê quán Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Đậu Tú Tài năm Mậu Ngọ(1918). Đắc pháp Đại Sư năm Ất Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị do Hòa Thượng Phước Huệ làm đàn đầu truyền giới. Nguyên Đại Sư là trụ trì chùa Giác Phong tỉnh Quảng Trị, nên cũng gọi là Giác Phong Đại Sư . Rồi trải bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại Sư mới trưng đất mới dỡ được non, nới rộng đất trên núi Trai Thuỷ và khởi công từ đầu năm Quí Mùi (1943) đến đầu năm Ất Dậu (1945) mới cáo thành ngôi chùa Hải Đức to lớn nhất, đẹp đẽ nhất. Nhưng chùa chưa kịp lạc thành thì gặp quốc biến năm At Dậu (1945),Đại Sư di cư về Huế, Quảng Trị, Nghệ An. Và năm 1954, ngài thị tịch tại Nam Đàn (Nghệ An). Ngày nay tại chùa vẫn còn bút tích của Đại Sư được khắc chạm trên vách, trên cột mà mưa nắng vẫn còn nguyên . Có thể nói một cách mạnh dạn rằng đó là những tuyệt phẩm của Thiền Môn Khánh-Hòa. Nơi hàng cột ở chánh điện, có ba câu đối liên. Câu chính giữa : Hải thuỷ trừng thanh vạn tượng tề hiện; Đức hương ôn nhã nhất thiết mông huân . Câu kế : Hạnh thảo tác thân mao đoan hiện sát; Vi phong thuyết pháp ngoạn thạch điểm đầu . Câu hai bên : Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu : Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai . Nơi vách mái hiên ngó ra sân, mỗi vách khắc bốn đại tự, mỗi bề rộng đến bốn tấc Tây . Bốn chữ vách tả ( vách phía Đông ): TRÚ BÌNH ĐẲNG HỘI Bốn chữ nơi vách hữu ( vách phía Tây ): TÁC NHƯ THỊ QUÁN Nơi lầu chuông ở phía Đông khắc 8 chữ : PHỔ ĐOẠN SANH TỬ , HƯỞNG BIẾN HÀ SA . Ý nghĩa thâm viễn. Phải thấm đạo lý của Đức Phật, mới thưởng thức nổi những cái hay cái đẹp dưới những nét thanh lão của ngọn bút tài ba đã đượm nhuần giáo lý Đại Thừa . Chùa Bửu Phong : cũng ở trên đồi Trại Thủy, nơi đầu nhánh phía Nam, cạnh đường quốc lộ 1 (nay là mộ con lộ rộng thêng thang chảy từ Thành xuống thành phố), đứng tai nơi ngã ba vào xóm Xưởng nhìn lên không thấy Chùa vì bị những lùm cây che khuất . Chùa này do người Trung Hoa lập, từ đời Hậu Lê.Trong chùa hiện còn một quả Đại Hồng Chung, có khắc tên chùa"Bửu Phong Tự" và năm chú tạo "Tuế Thứ Quí Dậu Niên Tứ Nguyệt Cát Nhật " tức là năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). Chùa thờ Quan Thánh tức Quan Vân Trường đời Tam Quốc. Lâu đời không có người phụng tự, chùa trở thành chùa làng(làng Phước Hải). Làng vẫn thờ ngài Quan Thánh nhưng gian bên thờ thêm Bà Chúa Ngọc Thiên Y-A-NA. Người địa phương thường gọi là Chùa Núi. Dưới triều Bảo Đại (1925-1945) khi phong trào chấn hưng Phật Giáo phát động trong nước, làng Phước Hải hưởng ứng, cải chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Sau khi chùa Linh Phong trên Xuân Phong bị cháy và dời xuống Xuân Lạc đổi tên là Liên Hoa, thì có người được tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" đem cúng cho chùa Bửu Phong, chùa giữ làm kỷ niệm. Rồi chiến tranh bùng nổ, các chùa cũng lâm vào hòan cảnh khó khăn. Sau ngày đình chiến 1954, một nhà sư ở Huế vào trụ trì chùa, thấy tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" nơi chùa, đinh ninh là tên chùa. Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp trước hiên,khắc trước ngõ bốn chữ "LINH PHONG CỔ TỰ" . Từ ấy chùa Bửu Phong là Linh Phong. Nếu không có quả Đại Hồng Chung không ai biết đến chùa có tên là Bửu Phong . Chùa cất theo kiểu trùng thiềm. Cây gỗ tốt. Song vì đã quá lâu đời mái đã quằn, cột đã xiêu. Đường lên chùa dốc thẳng đứng, các bậc đá gập gềnh lỏng chỏng, bị vỡ hay mất đi khá nhiều làm cho việc di chuyển lên xuống khó khăn, tạo cho cảnh trí thêm hoang vắng,khiến cho khách vãng cảnh cảm thấy e ngại . Hòn Trại Thủy hình giống con Dơi nằm sè đôi cánh, đầu hướng về phía Tây Nam.Chùa Bửu Phong đứng trên đầu con Dơi phía hai bên tả hữu bị thân Dơi và hai cánh che khuất chân mây, song phía trước nào núi nào đồng, nào xóm làng, nào phố xá, dường xe lửa..sống động nhưng không ồn ào. Nếu Chùa Bửu Phong làm mặt bằng tốt để xây một ngọn Tháp nhiều tầng như ở Thái Lan, Cao Mên hay như ngọn Tháp Thiên Mụ thì phong cảnh hòn Trai Thủy nói riêng, phong cảnh thành phố Nhatrang nói chung, sẽ nổi tiếng và tăng phần mỹ quang cho thành phố du lịch trong thế kỷ 21 này. *Chùa Long Sơn : Chùa nằm dưói chân hòn Trại Thủy,mặt hướng về Nam-Đông. Chùa Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, còn gọi là Chùa Tỉnh Hội Khánh Hòa, được xây dựng trên núi vào năm 1886 do Hòa thượng Thích Ngộ Chí (1856-1935) trụ trì, là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Canh Tý (1900), sau một trận bão lớn, chùa phải dời từ trên núi xuống vị trí hiện nay. Năm 1936 , chùa được Hội Phật Học chọn làm trụ sở Phật Giáo Tỉnh Khánh Hòa. Năm 1940,chùa được trùng tu do công lao của toàn thể tín đồ trong tỉnh. Năm 1968 , chùa phải sửa chữa lại. Năm 1971-1975,Thượng Tọa Thích Thiện Bình đứng ra lo trùng tu chùa, việc trùng tu mới này thực hiện được 60%theo họa đồ của Kiến Trúc Sư Võ Đình Hiệp. Chùa kiến trúc theo kiểu tân thời,có tánh chất Đông Phương .Nhưng ở vị trí tốt, được cất trên một trảng đất cao, rộng nhìn ra đường quốc lộ 1. Trước chùa có nhiều cây lớn và hàng dừa chạy dài từ Tây sang Đông che mát cho ngôi trường Trung Học Bồ Đề, đây chính cũng là sự thuận lơi cho du khách viếng thăm Chùa trong những ngày Đại Lễ như lễ Phật Đản, Vu Lan hay ngày Tết (Vía Đức Phật Di-Lặc ) để nghe thuyết pháp, cầu nguyện. Tuy gần đường xe hơi xuống lên từ Thành đến thành phố,chùa vẫn giữ được vẽ thanh tịnh, trang nghiêm. Trong các danh lam thắng cảnh ở Khánh Hòa, chùa được nhiều du khách thường lui tới thăm viếng nhiều nhất.Muốn đi lên thăm kim thân Phật Tổ, chúng ta cũng có thể dùng con đường sau lưng chùa đi lên rất là gần nhưng con đường bằng đá hoa cương quá hẹp nên vào những ngày Lễ thì chỉ còn cách chen nhau, kẻ tránh người né làm cho cảnh trí ồn ào,náo nhiệt khiến cho mọi người cảm thấy bồn chồn, thích thú mất cái mỏi gối, đau chân-nam thanh nữ tú lòng thấy rộn rã như những cây xanh đang đâm chồi nẩy lộc vào những ngày Xuân lên viếng chùa. Ngày nay trước sân chùa có xây thêm một ngôi nhà bán các vật kỷ niệm và kinh sách Phật . Từ khi thành lập đến nay, chùa do các nhà sư sau đây trụ trì : Hòa Thượng Thích Ngộ Chí (1886-1935), Thượng Tọa Thích Chánh Hóa (1936-1957), Thượng Tọa Thích Chí Tín ( 1957 về sau ). Sau lưng trên đồi Trại Thủy, ở lưng đồi có kiến tạo một Kim Thân Phật Tổ với chiều cao từ mặt bằng lên 24 m, từ đế lên 21m , phần tượng cao 14 m, đài sen 7m, đường kính đài sen 10 m,. Xung quanh đài là hình bảy vị Thánh tử vì đạo. Trước Phật đài có cặp rồng, chiều dài 7,20 m. Việc đúc tượng khởi công vào năm 1964,hoàn thành năm 1965 do Hòa Thượng Thích Đức Minh, lúc đó là Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa và điêu khắc gia Kim Điền thực hiện . Chùa Tỉnh Đức : nằm tọa lạc ở triền núi phía Đông, hướng về đường Trần Quý Cáp và công trường Trịnh Minh Thế, đi lên chùa từ con đường nhỏ từ bên hông ngôi nhà bán vật liệu xây dựng đối điện với cây xăng Mã Vòng. Ngôi chùa này do các Sư cô thành lập để tu tập và dân địa phương thường gọi là Chùa Nữ. Chùa được xây cất theo lối tân thời không có gì đặc sắc. *Lôi Am Tự : Tọa lạc ở phần cuối của hòn Trại Thủy, hướng về phía Đông,nằm phía trước bồn chứa nước thành phố và kim thân Phật Tổ. Chùa Lôi Am do Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam xây dựng từng phần vào năm 1966. Hội Pháp Hoa được một vị Giáo Chủ đã chứng quả vị Tuyệt- Đối, hướng dẫn cho mọi người tu theo con đường Nhất Thừa của đạo Phật, được giải thoát trong kiếp hiện tại. Vào những năm đầu, hội Pháp Hoa xây một hội trường để Đạo Chúng có nơi sinh hoạt với đầy đủ tiện nghi nào là nhà trù,bếp,nhà vệ sinh.. tiếp đến là xây dựng khu thiền thất phía sau chùa với hai hàng cốc dành cho thiền sinh khắp các tỉnh trên toàn quốc về đây tu học và tham thiền. Sau đó xây đựng một cốc Biệt Giáo và cốc Vô Ưu . Bên phải Chùa phần đất được nới rộng và tạo dựng khu Quán Không Thiền Viện dành riêng cho phái nữ đã xuất gia . Như thế, hàng đêm đạo chúng bao gồm mọi giới như giáo sư, sinh viên, học sinh, công chức, dân lao động, nông dân.. từ dưới thành phố hay các vùng phụ cận như Thành, Cam Ranh, Cầu Đá hay các tỉnh trong nước về đây để nghe thuyết pháp, học giáo lý, tham thiền, sinh hoạt..Từ ngày đặt viên đá đầu tiên năm 1967, Chùa tiến hành xây cất được phần hậu diện Chùa và cột cờ,riêng phần cổng Tứ Quán được thay thế tạm bằng cổng Tam Quan. Thiết kế Chùa được các nhà thầu khoán Giáo sư Nguyễn Hữu Dưỡng, Huỳnh Ngọc Điển … thi công với sự dạy vẽ của Giáo Chủ Pháp Hoa . Chùa được các vị Huynh trông nôm như Huynh Như Trí, Huynh Pháp Hư (G/S Hồ Viết Đốc ) và sau cùng là Huynh Pháp Doãn. Khi Cộng Sản tiến chiếm miền Nam với chánh sách tiêu diệt tôn giáo,chùa Lôi Am bị gài vào tội chống phá lại chế độ nên trong một đêm cuối năm 1975, Công An đột nhập vào chùa tịch thu tất cả tài sản và tiến hành đập phá chùa, nay chùa chỉ còn lai cổng Tam Quan nơi triền dốc. Và trong chùa vẫn còn hai nấm mộ cuả người Hời hay Chàm chôn từ lúc nơi đây là quốc gia cũa họ.Muốn lên chùa,có thể đi bằng hai ngã đường: Đường từ Phương Sài, chéo góc nhà hộ sanh Bác sĩ Tý, đi vào xóm lao động thuộc đất bà Ngô Đình Nhu ; ngã thứ hai là bên đường Trần Quý Cáp, bên hông đồn Quân Cảnh cùng với lối đi lên chùa Tịnh Đức, đi dọc theo triền núi.Cả hai ngã đều qui về cổng Tam Quan "Lôi Am Tự". Chùa Lôi Am tọa lạc ở vị trí của cánh phải,chân phải của con Dơi, nên khi đào hồ chứa nước Quán Không Thiền Viện đã làm thương tích long mạch . Muốn nhìn toàn diện thành phố Nhatrang chỉ có vị trí Chùa Lội Am ta mới ngắm được toàn cảnh từ Bắc (Tháp Bà, Dòng La San, Xóm Bóng,Cồn Dê, Hộ,Xóm Lò Vôi..) kéo dài về biển Đông (hòn En, hòn Tre, đường Duy Tân , Bãi biển, Cầu Đá) băng qua phía Nam (cửa Bé, núi Đồng Bò , khu Phước Hải ..).Chính vì thế vào năm Mậu Thân 1968,Cộng quân đã chiếm vị trí này để đóng bộ chỉ huy tiện việc điều động quân đánh chiếm thành phố nhưng Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa cũng đánh gía tầm quan trọng của vị trí này và cho phi cơ trực thăng phóng pháo ngay vào chổ này tiêu diệt ngay bộ đầu não Cộng quân từ lúc đầu cuộc tấn công vào ngày mồng 1 Tết Mậu Thân . Từ một khu đất hoang nay đã khang trang với các loại cây ăn trái trồng khắp chùa , nào là mận,ổi,mít,cốc,chùm ruột,chuối,mãn cầu …làm cho mảnh đất trở nên có sinh khí nhưng bây giờ đã hoang tàn bởi do một chế độ khắc nghiệt , phá hoại; lại thêm phần không có nước và người chăm sóc vì thế chỉ là chổ dung thân của những kẻ không nhà và nghiện ngập sau một ngày lang thang khắp phố trở về đây dung thân tránh mưa dưới mái chùa hoang này 2 . HÒN HOA-SƠN : tục gọi là Núi Một, ở quận Nhatrang Tây (nay đổi thành phường Phước Tiến và Phước Tân ) . Đi vào thành phố bằng con đường Gia-Long (nay là Thái Nguyên), qua Mã Vòng, đến nhà Ga Xe Lửa và gặp ngay Ngã Sáu-nhìn bên phải thấy một giáo đường to lớn , đồ sộ,uy nghi chọc thẳng lên trời và được xay trên một hòn núi nhỏ, đây chính là hòn Hoa Sơn. Nguyên thủy lúc ban sơ, hòn núi này không bị cắt thành hai cụm núi nhỏ, nó trông giống con Rùa vì phần núi nhỏ hướng ra biển Đông như "đầu Rùa", trên có ngọn cổ Tháp nhỏ; phần núi lớn hướng về phía Tây là 'thân Rùa , nên gọi là "Kim Qui đới Tháp ", nghĩa là Rùa Vàng đội tháp . Vào thời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786), một vị Thiền Sư, pháp danh Phật An đến cất một am tranh tu khổ hạnh trên hòn Núi Một-Năm Bình Ngọ 1786, vị Thiền Sư thiết hóa trà tỳ (tự hỏa tán), đệ tử thâu xá lợi, xây Liên Hoa tháp thờ phụng ở trên đầu hòn núi Một . Khi người Pháp chiếm cứ tỉnh Khánh Hòa, núi Hoa Sơn chỉ có một ngọn cổ tháp của Thiền Sư Phật An và nơi 'cổ Rùa' người ta khai phá một con đường mòn đi qua vùng Phước Hải-Đồng Bò để kiếm củi, đốt than, bắt cá hay đi chặt những nhánh mai vào dịp gần Tết, vì đây là một động mai vàng tuyệt đẹp, được khen qua những vần thơ : Mã Vòng đêm trắng,ma trêu nguyệt, Phước Hải rừng mai,cọp thưởng Xuân . Hay : Biển En sóng vờn trăng thúy liễu, Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai . Khi đất nước chia đôi, dân miền Bắc di cư vào Nam, thành phố Nhatrang cũng đã tiếp nhận một số khá đông đồng bào miền Bắc và họ đã định cư tại khu Xóm Mới -Phước Hải vì thế thành phố nới rộng ra và phát triển mạnh và con đường mòn qua cổ Rùa trở thành con đường Phước Hải (nay là Nguyễn Trãi ) với chiều rộng 8 mét, hai bên đường nhà cửa mọc lên như nấm và từ đấy hòn Hoa Sơn bị cắt hẳn thành hai phần rỏ rệt, khu rừng mai Phước Hải cũng mất luôn với những cây xương rồng trổ hoa màu đỏ khi hè về, nay thì dân chen chút nhau mà sống . Riêng ngôi giáo đường trên phần núi còn lại vẫn như ngày nào . Vào năm 1930-1935, một nhà truyền giáo người Pháp tên là Vallet, kiến lập ngôi giáo đường này. Nhà thờ kiến trúc không giống như những giáo đường trong nước và đặt tên là Nhà Thờ Chánh Tòa Nhatrang , dân địa phương gọi là nhà thờ ông Cố hay nhà thờ Núi. Nhà thờ vừa cổ kính,trang nghiêm-vừa tân kỳ vì vật liệu xây dựng toàn là xi măng với những kính đủ màu lắp trên các cửa sổ, vách khi ánh sáng mặt trời vừa hừng đông chiếu vào tạo thành nhiều màu sắc rực rỡ, đẹp lạ thường , kỳ ảo ẩn hiện những bức tranh có tánh cách tôn giáo và đứng chắc trên một đầu non, với bộ áo xám tro', hình tướng trông nửa như khiêm nhường, nửa ngạo nghễ. Đi lên nhà thờ chúng ta có thể dùng hai lối đi: một con đường bằng đá hoa cương chạy từ dưới ngã Sáu chạy men theo triền núi phía Nam lên tận sân giáo đường với chiều rộng khoảng 8 mét, có thể dùng xe hơi lên cũng được và một con đường khác bên hông trường Hưng Đạo (đường Gia Long ) ta phải đi bằng chân với những bậc cấp xi măng . Phía bên trái nhà thờ có xây một hang đá "Tiểu Vương Cung" thờ Đức Mẹ Maria, được che mát bởi cây đa lớn nhiều lá. Lầu chuông cao ngất! Lên đứng nơi gác chuông nhìn bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nhatrang. Trông tới ngó lui,nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của một vùng đất giàu sang trù phú với biển xanh, núi cao, đồng bằng với hòn non bộ nhỏ này. Tiếng chuông làm cho ta thức tỉnh nhưng xung quanh tháp chuông có gắn bốn cái đồng hồ to thường báo hiệu giờ giấc cho mọi người trong thành phố sớm hôm đi làm . 3. NUÍ CẢNH LONG : Núi Cảnh Long ở Chụt, là Con Rồng Cảnh là bờ cõi - Long là tốt, thịnh. Không hiểu cổ nhân thủ nghĩa ra sao, có người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ làm ký lục Tòa Sứ Nhatrang thời tiền chiến , cụ đáp : - Có lẽ ông cha chúng ta biết trước rằng thế nào vua ta cùng các auan bảo hộ cũng đến cất dinh thự để làm nơi thừa lương nên mới đạt tên là nuí Cảnh Long. Hình nuí chạy dài theo bờ biển, giống như một con Rồng xanh. Cổ nhân gọi là "Thanh Long hý thủy" tức là Rồng xanh giỡn nước . Con đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú) chạy ngang qua phi trường Nhatrang và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, rồi đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, chạy đến tận Chụt, con đường đổi thành tên là Đường Tự Do và vượt qua một dốc nhỏ, thấy ngay Cảng Cầu Đá và Hải Học Viện bên tay trái. Chính con dốc này cắt ngọn nuí Cảnh Long thành hai phần: một phần nhìn ra biển, gọi là "đầu Rồng " ; phần còn lại chạy dài đến tận cửa Bé, gọi là "mình Rồng ". Ngoài ra còn có một con đường piste chạy vòng theo từ sườn phía Đông cho đến Cửa Bé (cảng cá Vĩnh Trường ), chạy vòng lên sườn phía Tây, để xuống đất bằng trở về Chụt, đường này có thể gọi là " đường vòng mỹ cảnh ". Ngoạn mục nhất là đơạn đường chạy ra biển. Nằm trên lưng chừng núi, đường khi lên khi xuống, uốn éo quanh co , như con rắn bò quanh hòn non bộ. Trên đầu núi về phía Cầu Đá có lầu Bảo Đại và nhiều dinh thự của người Pháp xây vào thời Pháp thuộc. Hiện nay cũng là nơi nghĩ mát của các vị lãnh đạo Trung Ương ,đồng thời cũng mở cửa cho du khách vào thăm viếng coi như là nhà bảo tàng của thành phố . Bên dưới "đầu Rồng" sát chân núi là viện Hải Dương Học, do phủ Toàn Quyền Đông-Dương xây dựng năm 1927 và bàn giao lại cho chánh phủ Việt Nam Cọng Hòa vào năm 1952 . Viện được xây theo lối kiến trúc Tây Phương ,tọa lạc trên một khu đất rộng 20 mẫu tây, phạm vi bao trùm cả phần bên dưới đầu con Rồng. Cơ sở viện chia làm hai phần: - Nhà của cấp Chỉ Huy gồm 5 ngôi biệt thự ,khang trang, cất trên đỉnh núi cách mặt biển chừng 35 m và ẩn hiện trong bóng xanh của những cây Bàng lâu đời , lá thay đổi bốn mùa. -Viện chính thức: một sở nhà lầu đồ sộ, cất dưới chân núi phía Đông,trên một khoảng đất bằng phẳng , cách mặt biển 4m . Bao gồm : Một tòa nhà lầu hình khối chữ nhật, ba tầng với hai tầng lầu một; tầng trệt cao 12 m, dài 40 m; hai tầng lầu dùng làm phòng thí nghiệm, thư viện và văn phòng. Tầng trệt dùng nuôi những giống cá lạ ở dưới biển.. để cho công chúng thưởng lãm ( Aquarium). Một tòa lầu thứ hai, kiểu thức giống như tòa thứ nhất nhưng nhỏ thua,nằm phía Nam tòa thứ nhất, sát chân dốc, mặt ngó ra hướng Bắc dùng làm phòng nghiên cứu về Sử, Lý Hóa…trong ngành Hải học . Một nhà bảo tàng, rộng 400 mét vuông, cao 5m ,nằm phía sau chính viện và dùng cất giữ những giống thủy tộc sưu tập được ( Hall des collections ) . 4. HÒN SINH TRUNG : là một hòn độc sơn , đứng trên mé đầm Xương Huân, cạnh bến Hà Ra của con sông Cù, nơi đây có một bến xe chạy các vùng lân cận phía Bắc- Nam như Ninh Hòa, Tu Bông , Đại Lãnh, Cam ranh …(Nay bến xe chuyển lên Mã Vòng ) . Các thầy Địa Lý gọi là "Bạch Tượng quyện hồ" tức là Voi trắng cuốn hồ . Núi Sinh Trung không cao lắm, đi lên đỉnh núi chỉ cần bước trên 90 bậc cấp, được làm bằng xi măng, ngay chân núi có xay một cổng Chùa mặc dù trên đỉnh núi vẫn còn cổng Miếu cũ , nay đã trùng tu rất đẹp. Đối với thành phố Nhatrang thì núi Sinh Trung chẳng khác nào như một hòn non bộ đứng trong vườn cảnh xung quanh có sông nước bao bọc; rừng dừa, cây cối, dương liễu xếp thành hình vòng cung theo dọc bờ biển. Quanh núi toàn hững cây dẹp mọc (loại cây, dân chúng thường dùng để trị bệnh sán lãi ). Trên đỉnh núi là một vùng đất rộng khoảng hơn 150 m chiều dài và 100 m chiều ngang nhưng thiết trí chùa cũng rất gọn và trang nghiêm. Vào năm 1802- 1852,triều Nguyễn dựng một cái Miếu thờ 350 vị công thần bị tử trận hay bị mệnh vong trong khi tranh hùng với nhà Tây Sơn ,miếu có tên là Tinh Trung , sau đổi là Sinh Trung. Tên núi mượn tên Miếu mà kêu. Người địa phương cũng thường gọi là núi Ha Ra . Ha Ra là tên khu vực . Sách Đại Nam chép là A La. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) trùng tu miếu và đặt lại tên là Trung-Nghĩa miếu . Đến năm 1945 -1950, Đức bà Từ-Cung và một số hào lão làng Vạn Thạnh vận động hiến cúng Miếu cho Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa , vị trù trì đầu tiên là Hoà Thượng Thích Thiện Minh, đặt tên chùa là Khuôn Hội Kỳ Viên; kế thừa là Hòa Thượng Thích Từ Mãn, Hòa Thượng Thích Chí Tín, Đại đức Thích Viên Mãn. Từ đấy thật sự Miếu Sinh Trung đổi thành tên Kỳ Viên Trung Nghĩa Tự . Năm 1990 , thầy trù trì Thích Trí Viên cùng Phật Tử khắp nước và địa phương phát nguyện cúng dường trùng tu chùa : xây dựng phần chánh điện rất trang nghiêm, nhà Tổ và những công trình phụ trông rất mỹ quang như đúc tạc các tượng Đức Di Lặc với lục tặc đặt trước cổng chùa, tượng Đức Quan Thế Am đứng trên toà sen, nhìn về hướng Đông, đặt sau lưng chùa với một công viên trồng hoa hai bên có những bức tường đá dùng làm những hộc đựng hài cốt, mặt hộc có ghi tên tuổi người quá cố để thân nhân dễ tìm và thăm viếng . Phía sau chùa một khoảng đất trống lớn xây một gác chuông với một Đại Hồng Chung cao hơn 1 mét bên cạnh có một hồ nuôi cá với những hòn non bộ và cây cảnh, cây mai chiếu thủy nở hoa trắng suốt bốn mùa , có cầu nhỏ bắt qua trông rất thơ mộng ; một tấm bia ghi tiểu sử thành lập chùa và miếu . Bên phía trái Chùa là một dãy nhà trù dành cho cho việc ăn ở của các Tu sĩ-toàn công trình được hoàn tất vào tháng 2 năm 1992. Vào năm 1995,chùa lại xây thêm một nhà mát tứ giác hai tầng , dùng vào việc tiếp khách thập phương, đối diện với nhà trù. Ngày nay, việc xây dựng chùa xem như là hoàn mỹ. Một quang cảnh tươi sáng với sân chùa trồng toàn cây bông sứ trắng nhụy vàng , xen lẫn những cây hoa phượng vỹ đỏ thắm và bức bình phong có hình con Cọp được sơn vẽ lại làm cho Chùa trở nên uy nghi . Miếu Sinh Trung và đầm Xương Huân vốn có tình "cốt nhục" . Truyền rằng : lúc ban sơ không có đầm cũng không có núi . Khi nữ thần Poh Naga giáng thế, sấm trời nổi dậy báo cho vạn vật biết tin, thì một con Cù sanh từ lúc khai thiên lập địa nằm ngủ quên trong lòng đất, giật mình vùng dậy, những lớp đất đá đã phủ lên mình Cù bị hất tung lên thành Núi và nơi Cù nằm lủng xuống thành Đầm. Cho nên Đầm có tên là Cù Đàm và Núi có tên là Cù Lĩnh . Đầm nằm ôm chân núi, núi đứng soi bóng vào lòng đầm. Nước trang điểm cho non, non trang điểm cho nước. Tương y tương ỷ, ngày nắng cũng như ngày mưa. Những đêm gió mát trăng trong, lên núi Cù Lĩnh xem Đầm thì cực kỳ thanh thú như chốn bồng lai tiên cảnh. Mặt đầm như tờ giấy băng cơ trắng láng và vầng trăng như quả ấn ngàn châu treo lơ lửng trên bầu trời, mờ mờ dưới chân núi là nhà cửa với những ngọn đèn dầu leo lét hay ngọn đèn điện thắp sáng choang-cây cối chỗ thấp, chỗ cao ẩn hiện trong ánh đèn khi thành phố bắt đầu sinh hoạt về đêm. Ngày nay, Cù Đàm bị lấp đi, để xây một ngôi chợ hình tròn, đó là chợ Đầm Nha Trang, Cù Lĩnh trơ trọi một mình, không còn soi dưới bóng nước và chị Hằng, con Voi trắng không có nước để uống khi trời hạn hán và bơ vơ giữa cảnh ồn ào, náo nhiệt của một thành phố đông người khi một cuộc 'di dân có qui mô' sau năm 1975. Đặc biệt là đứng trên núi Sinh Trung ta nhìn thấy ba hòn núi kia tượng hình ba con vật linh thiêng (Dơi , Rùa , Rồng) cùng với con Voi trắng đang hộ trì và phù trợ cho người dân thành phố nói riêng, người Khánh Hòa nói chung được phát tài như cuộc đất : Đại phú đại quí . Theo nhà phong thủy, Huyền Vi, viết trong cuốn sách Thiền và Phong Thủy đã nói về cuộc đất Nhatrang như sau : Hình thể thành phố Nhatrang rất giống Con Cóc. Bãi biển Nhatrang là bụng Cóc, hai chân sau là vùng Cầu Đá , hai chân trước chạy ra đến gần Hòn CHồng . Sóng biển vỗ quanh năm vào bụng Cóc Thần . Điều quan trọng là con Cóc Nhatrang tuy ngon lành thật nhưng chưa đủ hấp dẫn để dụ Xà Tinh vào miền Nam. Vậy phải làm sao thay đổi long mạch cho con Cóc mau chóng ngậm một hạt Minh Châu để cho Xà Tinh tăng thêm sự ham muốn .Sau khi long mạch con Cóc được làm cho vận hành mạnh mẽ , "đốt giai đoạn " thì chợ Đầm, ngôi chợ chính của Nhatrang , bị hỏa hoạn thiêu rụi . Long mạch xui khiến Kiến Trúc Sư vẽ lại Chợ Đầm để tái thiết lại vẽ thành một hình thể độc đáo, hiếm có : chợ Đầm hình tròn! Nhìn lên bản đồ thành phố Nhatrang ta thấy rõ ràng hình con Cóc ngậm hạt Minh Châu hình tròn! Ngày nay, nếu ta đi máy bay nhìn xuống Nhatrang, ta sẽ thấy hình thể của một con Cóc khổng lồ ngậm hạt minh châu! So với thiết kế thì chợ Đầm xây chưa hoàn tất, phía bên tay trái hai chung cư A va B đã xong , còn chung cư C và D bên phải chưa dựng nên phần này đã hở hẳn ra, phía sau chợ chạy dài ra tận nhánh sông Hà Ra một khoảng đất trống lớn, dân đã chiếm cất ở lộn xộn nên không thể xây phần nối tiếp khu chợ trái cây và bán thịt cá với cái cảng nhỏ cho ghe thuyền từ các nơi vào, tạo thành một khối chữ T án ngữ mặt sau. Như thế hạt Minh Châu ở cái thế nửa kín nửa hở. Nhưng nói về địa lý tạo dựng mảnh đất Nha Trang nhìn từ biển Thái Bình Dương vào,mảnh đất Nhatrang là một bãi cát trắng rộng với bốn hòn núi trấn bốn góc tạo cái thế Bốn Con Thú qui tụ gồm Long (tại Cầu Đá),Tượng (tại Sinh Trung, chợ Đầm), Dơi (tai Mã Vòng) và Qui (tại Ngã Sáu). Long Mạch thành phố lấy hai hòn núi : Hòn Trại Thuỷ và Hòn Thị ở Diên Khánh làm Hữu và Tả bậc , với bốn mặt có hai con sông Cái và sông Đồng Bò ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển khơi .Nhưng nếu ta nhìn thật lâu và hình dung bãi biển Nhatrang vừa rộng và dài trông giống như một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng . Chính vì vậy thành phố Nha Trang mỗi ngày càng hưng khởi lên sự vượng khí : " Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ cái hào quang ấy, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy tráng lệ tạo thành một kỳ quan đẹp cho mảnh đất Thánh này. Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những vật nhân cách hóa thành những người đang đứng canh giữ mảnh đất thiên. Buổi chiều,tất cả biển trời cây đá đều trõ thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa. Còn ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân,và ánh đèn câu ngoài khơi giăng dài trên đường chân trới như nhừng hạt châu kềt thành xâu đang tỏa ra ánh sáng lúc ẩn lúc hiện. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương , nếu trời không trăng thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích ,một nửa trải nền một nửa phất trên trần,trong một đền thờ người Ấn ". Nha Trang với cảnh đẹp tự nhiên với thiên hình vạn trạng , nó đã tạo dựng một thế phong thủy đặc biệt cho nên khi còn là đất của người Chiêm Thành hoặc là đất của dân Việt ta ngày nay và tiến dần về tương lai thì mảnh đất này chính là vùng đất Đại Phú và Đại Quý. Bước vào thế kỷ 21, thành phố đang tiến hành xây dựng chiếc Cầu nối liền từ bờ xóm Cồn đến Hòn Chồng và chạy dài ra tận bãi Tiên thì cái thế đất chưa hoàn hảo bởi vì cái long mạch chưa được nối liền bởi con sông Đồng Bò còn hở, vậy ta chỉ còn thêm một chiếc cầu nối liền Cầu Đá với Đồng Bò chạy dài đến tận Bãi Dài, Cam Ranh thì lúc ấy cái long mạch ấy mới hình thành trọn vẹn . Nhưng muốn chiếm cái ưu thế vững vàng nhất cho thành phố thì phải thay đổi vị trí tòa Thị Sảnh Nha Trang thì mặt hưng vượng của ngưới dân và chính quyền càng ngày càng cao về mọi mặt như sự xuất hiện các tài nhân, dân giàu sang, chính quyền có người tài đức ra gánh vác, đồng thời cũng là nơi đào tạo nhân tài về quân sự như Hải-Lục-Không quân rất là thuận tiện cho cả vùng Đông Nam Á và Đông Dương (Lào và Campuchia). Về mặt tâm linh, huyền bí nơi đây chính là Thánh địa vì một vị Đại Bồ Tát đến với cõi Ta Bà này thuyết pháp Đại-Thừa và Nhất Thừa trước tiên và đây chính là cái duyên to lớn nhất của chúng sanh và cho người dân Nhatrang vậy . Nhưng theo nhà Địa Lý HỨA MINH cùng con trai là HỨA VINH viết trong sách :'Địa Lý Toàn Thư" do Lưu Bá Ôn và một số tác giả ghi đã nói như sau: Chỉ có nơi Tứ Thú hội họp mới được gọi là Long Tụ Tinh. Và để hình thành một vùng Đại- Phú Đại- Quý, nhân tài xuất hiện thì khí Âm Dương cần phối hợp tức là trước biển cả mênh mông sau là núi rừng vây bọ. Vậy thì Long mạch chính nằm ở vị trí nào trong thành phố Nhatrang? Khi ấy người đầu Tỉnh đặt bản doanh mình nơi ấy thì cái hào quang vi diệu kia tỏa khắp cho mọi người đều cùng hưởng cái diễm phúc của vũ trụ dành cho. Tôi không bàn rộng vấn đề này, xin để lại cho những ai có Đức, có Hạnh mà suy nghĩ, đem cái tài mình ra mà giúp dân, giúp nước được cái hạnh phúc-phú quý trong những năm kế tiếp của thế kỷ 21
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 17, 2010 10:59:08 GMT 9
Kinh Dịch Vietsciences- Nguyễn Lân Dũng Hiện nay có rất nhiều sách viết và dịch về Kinh Dịch. Các bạn trẻ lật vài trang xem qua thấy chưa hiểu gì cả, vì vậy, ít bạn chịu khó đọc kinh Dịch. Ngược lại, có bạn đọc ít nhiều sách về Kinh Dịch lại chuyên đem chuyện này ra để loè bè bạn và dự đoán lung tung về số phận từng con người. Thật ra Kinh Dịch là cái gì vậy? Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay, bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch rồi, mà ông vua huyền thoại này xuất hiện cách đây hàng nghìn năm hay hàng vạn năm thì hiện vẫn chưa có gì chứng minh được. Tri qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, đã lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm vừa lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, bởi vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý rồi. Đời nhà Tống, khi viết về Kinh Dịch học giả Trình Di đã phải thốt lên: “ Thánh nhân lo đời sau như thế có thể gọi là tột bậc”. Không phải không có lý khi cụ Phan Bội Châu coi Kinh Dịch “Là nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ Phan cho rằng đúng như tinh thần Kinh Dịch: “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh”, “Tinh thần có quy củ trật tự đạo đức là lẽ công bình của mỗi người”. Những tư duy Khổng học như “Không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phân chia không đều” (sách Luận ngữ), “Tính kế trăm năm không gì bằng trồng người” (sách Hán thư) … Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng: “Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng nhiều là ít, chẳng khen là chê, chẳng tiến là lùi, chẳng mặn là nhạt, chẳng nhanh là chậm, chẳng xấu là tốt, chẳng to là nhỏ, chẳng trước là sau, chẳng rủi là may. Hoá ra lâu nay ta quá say sưa với triết học Tây phương mà ít chú ý đến triết học Đông phương, trong khi đó thì người dân thường tuy ít học nhưng lại thường tin tưởng và làm theo vô số những lời dạy của thánh hiền. Sự biến động ghê gớm của các nước phương Tây với đầy những mâu thuẫn nội sinh đồng thời với sự hưng thịnh đột xuất của không ít quốc gia châu Á, kể cả sự phục hồi nhanh chóng sau khi xảy ra tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế…đã làm cho cả nhân loại không thể không chú ý nhiều hơn đến triết học Đông phương. Văn minh châu Á trở nên hấp dẫn đối với hàng tỉ người dân bình thường ở phương Tây. Kinh Dịch là một trong những thần kỳ của triết học và văn minh Đông phương. Trong hoạt động của con người rõ ràng là âm dương luôn luôn biến động, song thường vẫn giữ được những sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không ắt hẳn sẽ sinh ra ốm đau, bệnh tật. Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là Dịch, cái lý của nó là Đạo, cái dụng của nó là Thần, âm dương khép ngỏ là Dịch, một khép một ngỏ là Biến. Ở đời, dương thường thừa, âm thường thiếu, chính vì không bằng nhau nên đã sinh và sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là Thiện-ác, nhưng cái thời, cái cơ bản của mỗi lúc một khác, không phải lúc nào cũng giống nhau. Phải hiểu rõ ràng các phép tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội. Cổ nhân dạy rằng: “Bất học Dịch khả dĩ thức tạo hoá chi đoạn” (Không học Dịch làm gì rõ được đầu mối của tạo hoá). Ngược lại: “Dịch thông tắc vật lý tự thông” (Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật khắc thông). Ngũ hành có Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Bát quái có Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Thiên can có Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Địa chi có Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dởu, Tuất, Hợi. Chu kỳ của cửu cung là 1 (Khảm) > 2 (Khôn) > 3 (Chấn) > 4 (Tốn) > 5 (Cấn) > 6 (Càn) > 7 (Đoài) > 8 (Cấn) > 9 (Ly) > 10 (Khảm). Ngày xưa, cổ nhân ngẩng đầu lên quan sát bầu trời, quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, cúi đầu xuống xem phép tắc dưới đất, xem những sự thích nghi của muôn loài, ngẫm nghĩ ngay về cơ thể mình và nhìn ra xa, gần từ đó làm ra các quẻ để thông suốt đức thần minh, để điều hoà cái tình của muôn vật. Dịch bắt nguồn bằng các hình ảnh, nói đúng hơn là các phù hiệu, mỗi quẻ có ba hào gồm hào âm, hào dương, ba hào xếp thành ngôi dưới, ngôi giữa, ngôi trên (đối xứng với đất, người và trời), quẻ đơn gọi là kinh quái, quẻ kép gọi là biệt quái. Vì sao như vậy, thì thượng cổ đã làm gì có văn tự. Bát quái, thái cực, hà đồ, lạc thư… đều là hình ảnh. Người xưa nói: “Đông tình vô đoan, âm dương vô thủy”, còn nói: “Vật phương sinh phương tử”. Có nghĩa là âm dương không có cái trước cái sau, không có cái này sinh ra cái kia, mọi vật đều vừa sinh vừa tử. Thực ra thì cũng không thể phân biệt rạch ròi âm dương, sinh tử. Gọi là dương khi phần dương lấn át phần âm và ngược lai, gọi là âm khi phần âm lấn át phần dương. Âm dương xen kẽ nhau và hàm chứa lẫn nhau. Âm dương lúc dày (thái), lúc mỏng (thiếu) cho nên mới có thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm. Âm là bề trái, dương là bề phải, âm là bề lưng, dương là bề bụng, âm là vật chất bên ngoài, dương là tinh thần bên trong, âm thuộc về đất, dương thuộc về trời, âm nặng nên xuống đất, dương nhẹ nên lên cao. Gọi là âm dương (chứ không gọi là dương âm) có cái lý của nó. Cái gì cũng từ dưới đi lên, từ ngoài vào trong, có phần tối mới nổi được phần sáng. Kinh dịch thật là thú vị nhưng cũng thật là khó. Đọc mãi không hiểu đừng vội lấy làm lạ. Đọc lại chỉ hiểu thêm một ít. Đọc thêm nữa lại hiểu nhiều hơn. Có nhiều sách kinh dịch, nhưng theo thiển ý của tôi thì chỉ nên đọc nguyên bản Kinh dịch qua bản dịch của học giả cừ khôi Ngô Tất Tố. Đọc Kinh dịch qua sự giải thích của người khác mất hết cả sự thiêng liêng, huyền bí, vả lại đã chắc gì hiểu được đúng để giải thích cho người khác. Chính vì vậy, các bạn trẻ đừng đọc Kinh Dịch như đọc tiểu thuyết mà nên đọc dẫn từng đoạn, đọc vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn êm, thanh thoát. Chỉ đọc như vậy mới mong đạo lý lưu thông, nghĩa tình bao quát. Khổng Tử đã bảo là phải “ học Dịch” ( chứ không phải là đọc Dịch), thật là chí lý! Bạn đọc cứ đọc đi và thấy hiện dần vô số điều tâm đắc. Hãy xem vài ví dụ: Trong quẻ Kiều có lời Kinh: “ Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã, tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã... ” (Lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng ... ). Trong quẻ truân có lời Kinh: “ Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quí hạ tiện, đại đắc dân dã ... ” (Tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn, nhưng rồi sẽ được dân tin...) . Trong quẻ Mông có lời Kinh: “ Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã...” ( dung quẻ phạt người để giữ nghiêm pháp luật). Quẻ Nhu có lời Kinh: “ Nhu, hữu phu, quang ranh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên...” (Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng, hanh thông, chính bền là tốt, có lợi cho việc vượt sông lớn...). Quẻ Tụng có lời Kinh: “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã...” (Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình...). Nếu vừa “học Dịch” vừa học thêm chữ Hán trong lời Kinh thì càng ích lợi và thú vị thêm biết bao. Đừng quên rằng trong ngôn ngữ của nhân dân ta hiện nay có tới trên 60% số từ có nguồn gốc từ âm Hán. Nếu tính cũng đừng quên rằng trên thế giới cứ 6 người thì có tới gần hai người biết chữ Hán. Thiết nghĩ, trong thời buổi cái đúng, cái sai còn lẫn lộn; người tốt, người xấu chưa tường minh; khó chung, khó riêng còn đầy rẫy; nên nhớ rằng cái gốc của dân ta thì mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở. Trong điều kiện như vậy mong sao mỗi bạn trẻ mỗi tuần có xếp chút thời gian để bình tâm đọc (đúng hơn phải nói là học) Kinh Dịch. Nghe lời người xưa mà ngẫm đến chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều nghĩa... Cuộc đời sẽ đẹp thêm biết bao, tâm hồn mỗi người sẽ rộng mở và sáng láng thêm biết bao, quan hệ giữa người với người sẽ tốt lành hơn biết bao- bạn cứ kiên nhẫn đọc đi, sẽ thấy đúng là như vậy đấy.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 17, 2010 11:05:05 GMT 9
Chu Dịch Cứu Nguyên 周易究原(1916) của Lê Văn Ngữ 黎文敔 (1859–?) Dịch học Việt Nam là một lĩnh vực nghiên cứu chưa được biết nhiều. Rất ít tác phẩm của người Việt viết về Kinh Dịch hiện tồn và giới học giả hiện đại về Kinh Dịch về cơ bản là không có.[2] Bài tham luận này chỉ là bước đầu tìm hiểu Dịch học Việt Nam từ góc độ đối chiếu, văn bản, và lịch sử. Trước tiên, tôi khái quát về Dịch học Việt Nam từ khi Kinh Dịch được du nhập vào Việt Nam đầu đời Nguyễn (1802–1945), đồng thời giới thiệu vài học giả tiêu biểu cùng tác phẩm của họ, và nêu các đặc điểm của Dịch học Việt Nam. Phần chính yếu của bài tham luận này nhằm phân tích văn bản của một trong các bản bình chú Kinh Dịch hiện tồn, đó là tác phẩm Chu Dịch Cứu Nguyên 周易究原 (Khảo cứu nguồn gốc Chu Dịch, 1916). Bài tham luận này nhằm giúp chúng ta hiểu biết sâu thêm về sự phát triển của Dịch học và Nho học vào thời kỳ đầy biến động cuối đời Nguyễn (1886–1945). DỊCH HỌC VIỆT NAM TRƯỚC THỜI LÊ VĂN NGỮ Kinh Dịch không phải là kinh điển Trung Quốc có ảnh hưởng và phổ thông nhiều trong giới học giả Việt Nam. Tống Nho – cụ thể là học thuyết của Chu Hi 朱熹 (1130–1200) vốn coi trọng Tứ Thư hơn Ngũ Kinh – đã chiếm ưu thế trong Nho học Việt Nam. Không ai biết đích xác Kinh Dịch được truyền vào Việt Nam tự bao giờ. Suốt hơn một ngàn năm dài, từ 111 tcn đến 939 cn, Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ, các quan lại và thương buôn Trung Quốc đã định cư hoặc tạm trú tại Việt Nam, còn người Việt thì cũng qua Trung Quốc để triều cống, mua bán, hoặc du học. Dường như những người Trung Quốc và Việt Nam này đã mang các bản bình chú Kinh Dịch của đời Hán (206 tcn–200 cn) đến đời Đường (618–906) vào Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc Việt Nam. Việt Nam cũng in lại các kinh điển Trung Quốc vào các thời kỳ khác nhau. Một trong những tư liệu ghi chép sớm nhất cho biết rằng các văn bản Trung Quốc được in tại Việt Nam vào năm 1007. Đó là lúc triều đình Việt Nam cho in lại các kinh điển Phật giáo và Nho giáo. Nhưng không rõ trong đó có bản Kinh Dịch hay không. Vào đời Lý (1010–1225), triều đình áp dụng hệ thống khoa cử và lập nhà Thái học theo mô hình của Trung Quốc. Mặc dù không phải là môn học chính nhưng Kinh Dịch cũng nằm trong chương trình học. Phật giáo cũng có nhiều ảnh hưởng như Nho giáo trong thời này và một số nhà sư (như sư Bảo Giám 寶鑒) cũng đã nghiên cứu Kinh Dịch.[3] Suốt đời Trần (1225–1400), triều đình hoàn thiện và phát triển hệ thống trường học và khoa cử. Triều đình cho in Tứ Thư Ngũ Kinh làm sách giáo khoa áp dụng cho các kỳ thi và các trường công. Các học giả đời Trần cũng viết thêm lời bình chú của mình vào kinh điển Nho giáo. Tại trường, các học sinh từ 14 đến15 tuổi phải đọc Tứ Thư Ngũ Kinh để chuẩn bị cho các khoa thi sau này.[4] Tống Nho của Chu Hi trở thành học thuyết có ít nhiều ảnh hưởng vào đời Lê (1428–1789). Triều đình lập ra các chức tiến sĩ Ngũ Kinh để đề cao Ngũ Kinh vì e rằng các kinh điển Nho giáo như Kinh Dịch, Lễ Ký, Xuân Thu bị xao lãng.[5] Tại triều đình, nơi nhà Thái học Kinh Dịch được nghiên cứu như một bộ kinh của Nho giáo và nơi bộ Lễ Kinh Dịch được sử dụng như một sách bói. Tuy nhiên, vì không phải là kinh sách quan trọng tại cả nhà Thái học lẫn bộ Lễ, rất ít học sinh chuyên về Kinh Dịch.[6] Kinh Dịch chưa hề chiếm vị trí quan trọng trong các khoa thi.[7] Triều đình cho in lại Ngũ Kinh và các lời bình chú làm sách giáo khoa cho các trường công tại kinh đô cũng như các địa phương. Nhiều Nho sĩ trong thời này đã bình chú kinh điển Trung Quốc bằng chữ Hán và phiên dịch các kinh này ra chữ Nôm. Một số Nho sĩ đã nổi tiếng về Dịch học. Thí dụ như Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 (1491–1587), một Nho sĩ cũng là nhà thơ Nôm, rất nổi tiếng về Kinh Dịch.[8] Lê Quý Đôn 黎貴敦 (1726–1784) – một nhà ngoại giao cũng là Nho gia theo Chu Hi và trứ tác rất nhiều – đã viết một bình chú quan trọng về Kinh Dịch với nhan đề Dịch Kinh Tằng Thuyết 易經層說 (Sự giải thích có lớp lang về Kinh Dịch, 1752). Chịu ảnh hưởng của cái học khảo chứng, từ góc độ văn bản học Lê Quý Đôn đã phê bình Kinh Dịch cùng với các kinh điển Nho giáo khác. Đời Nguyễn (1802–1945) là một giai đoạn đầy biến động. Nho học đỉnh thịnh vào đầu đời Nguyễn (1802–1885). Triều đình cải thiện khoa cử và đề cao luân lý Nho giáo. Triều đình đã cho xuất bản các bản dịch chữ Nôm của những kinh điển Trung Quốc, trong đó có Kinh Dịch.[9] Các lời bình chú của Chu Hi và Trình Di 程頤 (1033–1107) đã được chấp nhận như những văn bản chính thức để học thi.[10] Các nhà Nho đã bình chú rất nhiều và không ít những bình chú này vẫn hiện tồn. Phạm Quý Thích 范貴適 (1759–1825) đã viết quyển bình chú quan trọng nhan đề Chu Dịch Vấn Giải Toát Yếu 周易問解撮要 (Tóm tắt các câu hỏi và lời giải đáp về Chu Dịch, 1805). Nhữ Bá Sĩ 汝伯士 (1759–1840), một vị quan cao cấp, đã khai triển tư tưởng Nho giáo trong quyển Dịch Hệ Giải Thuyết 易系解說 (Giải thích về hệ thống của Kinh Dịch). Cuối đời Nguyễn (1886–1945) là một giai đoạn đầy khủng hoảng và cải cách, tác động nhiều đến giới trí thức mới. Dưới ách cai trị của Pháp, Việt Nam đã tiếp nhận một chính sách văn hóa đề cao Tây học, bài xích Hán học. Thẩm quyền của học thuyết Chu Hi đã bị các học giả có tư tưởng cải cách chất vấn.[11] Nguyễn Khuyến 阮勸 (1835–1909), một vị quan kiêm thi nhân, đã bày tỏ nỗi lòng của mình trước sự suy tàn của hệ thống Nho giáo. Trong bài thơ «Độc Dịch» 讀易 (Đọc Kinh Dịch), ông đã viết: Hải vũ nhược khai tân thế giới, 海 宇 若 開 新 世 界 Dân phong ưng nhập cổ hồng hoang; 民 風 應 入 古 鴻 荒 Thanh thần độc khởi quan Chu Dịch, 清 晨 獨 起 觀 周 易 Tiêu tức doanh hư vị dị tường. 消 息 盈 虛 未 易 詳 (Nếu đời mở khai tân thế giới, Người ta cũng nên theo nền nếp thuở xa xưa, Sáng sớm thức dậy, riêng mình ta đọc Dịch, Hiểu rõ thế sự thay đổi cũng chưa dễ.) [12] Cuối đời Nguyễn được xem là buổi suy tàn của Nho giáo và Hán học. Các lời bình chú cuối đời Nguyễn cho thấy một mức độ sáng tân và đả phá cựu tục mà điều này khó có thể thấy được trong bất kỳ giai đoạn nào khác trong lịch sử Việt Nam. Bầu không khí trí thức đang biến đổi này có thể thấy trong lĩnh vực Dịch học. Thí dụ, Phan Bội Châu 潘佩珠 (1867–1940) – một nhà cải cách và tiên phong trong các phong trào Tân học và Đông Du – đã nhấn mạnh sự quan trọng của việc áp dụng kinh điển Trung Quốc để phát huy các cải cách hiện đại.[13] Tác phẩm Dịch Học Chú Giải 易學注解 của ông là một nỗ lực theo xu hướng này. Lê Văn Ngữ 黎文敔 (1859–?) đã viết một tác phẩm mới mẻ và đầy tham vọng, nhan đề Chu Dịch Cứu Nguyên 周易究原 (Khảo cứu nguồn gốc Chu Dịch, 1916). Có thể kết luận về đặc điểm dễ nhận thấy nhất của một ngàn năm Dịch học Việt Nam là sự trì trệ kém phát triển. Dịch học chỉ dừng ở mức khai tâm hay nhập môn và Kinh Dịch chưa bao giờ trở thành một kinh điển phổ thông trong giới học giả Việt Nam. Các tác phẩm của Việt Nam viết về Kinh Dịch thì ít ỏi và không có ảnh hưởng gì lắm. Không giống như Dịch học của Nhật và của Triều Tiên, Dịch học Việt Nam đã không phát triển thành các phái nghiên cứu, chẳng hạn như phái khảo chứng, phái tượng số, phái chiêm bốc, hay phái thực hành. Đặc điểm thứ hai: về cơ bản, Kinh Dịch chỉ được xem như sách học để đi thi. Triều đình bao lần cho tái bản các bản bình chú của Chu Hi và Trình Di cũng để phục vụ cho khoa cử. Hầu hết người ta học Dịch như là một bộ môn trong chương trình học để đi thi. Đặc điểm thứ ba: học giả Việt Nam chưa đủ lão luyện để khai triển những sự thuyên thích riêng của mình về Kinh Dịch. Họ trung thành với các bản thuyên thích của đời Tống, còn các bản thuyên thích hay bình chú riêng của họ thì rất ít. Mặc dù một số học giả riêng lẻ đã chịu ảnh hưởng của Vương Dương Minh, khảo chứng học, và thực học, nhưng về cơ bản đã không có các trường phái Nho học khác được thành lập tại Việt Nam để ganh đua với Tống Nho của Chu Hi. Đặc điểm thứ tư: Dịch học vẫn chủ yếu là thực dụng. Các học giả Việt Nam đã không quan tâm đến vấn đề hình nhi thượng và khảo sát văn bản. Đối với hầu hết người Việt Nam, Kinh Dịch vẫn là quyển sách thực hành. Họ học Dịch để đi thi và vận dụng Dịch lý vào mọi việc trong đời sống hàng ngày. Mặc dù không phải là một kinh sách phổ thông và có ảnh hưởng trong giới Nho sĩ Việt Nam, nhưng Kinh Dịch và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của nó đã ăn sâu vào tư tưởng và sự thực hành của người Việt trong các lĩnh vực chính trị, y học, nông nghiệp, lịch pháp, địa lý, tôn giáo, và dân học. Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã khuôn định quan niệm của người Việt về xã hội, chính trị, giao tế, và ngoại giới.[14] Biểu tượng Bát Quái được sử dụng phổ biến như một loại bùa.[15] Hoàng tộc và triều thần sử dụng Ngũ Hành để đặt tên.[16] Văn nhân Việt Nam dùng Kinh Dịch để cổ xúy thơ lục bát.[17] Một số quan lại Việt Nam cho rằng mình có thẩm quyền trong Bói Dịch.[18] Phong thủy – vốn dựa trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành – cũng rất phổ biến trong tư tưởng người Việt.[19] DỊCH HỌC CỦA LÊ VĂN NGỮ Lê Văn Ngữ là một Nho sĩ đặc trị Dịch. Mặc dù xuất thân từ một gia đình khoa bảng, ông đã không trúng tuyển một kỳ khảo thí nào. Khi 27 tuổi, ông quyết định không đi thi nữa mà đóng cửa để chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Nho giáo. Lê Văn Ngữ không phải là ẩn sĩ và ông chưa nguôi khát vọng về khoa hoạn. Ông đã giao du với các văn nhân Trung Quốc trong Quảng Học Hội 廣學會 ở Thượng Hải và giao du với các quan lại Việt Nam để cho họ nhìn nhận cái vốn liếng Nho học của ông.[20] Các trứ tác của ông chưa hề được in ấn, nhưng ông đã chép tay nhiều bản và gởi cho các quan lại và học giả tại Việt Nam. Ông rất chú trọng Kinh Dịch và chuyên trị Dịch trên 30 năm trước khi viết lời bình chú Kinh Dịch bằng chữ Hán, tức là quyển Chu Dịch Cứu Nguyên, khi ông 57 tuổi. Tác phẩm này gồm 17 bài ngắn về các vấn đề khác nhau của Kinh Dịch và các chú thích của ông về 64 quẻ Dịch. Ông viết nhiều, thí dụ như viết lời bình chú về Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, và một quyển sách về y học Trung Quốc. Cơ bản là các trứ tác của ông đều chịu ảnh hưởng Dịch học của ông.[21] Học giả Việt Nam rất trung thành với cái học của Chu Hi khi họ đọc kinh điển Nho giáo. Nho giáo của Chu Hi trở thành một ý thức hệ bán chính thức, có ảnh hưởng mạnh mẽ lên sự cai trị đất nước, luân lý, và học thuật. Trước sự suy sụp của triều đình cuối đời Nguyễn và trước ảnh hưởng của Tây học, các Nho sĩ Việt Nam bắt đầu đặt nghi vấn về tính chất thiêng liêng và phổ quát của học thuyết Chu Hi. Lê Văn Ngữ là một Nho sĩ như thế, đã dám khai triển các ý tưởng của riêng mình về kinh điển Trung Quốc và nỗ lực tìm ra một vị trí khả kính của Nho giáo trong cái trật tự văn hoá chính trị đang biến đổi tại Việt Nam đầu thế kỷ XX. Các Nho sĩ thuộc môn phái của Chu Hi đánh giá Lê Văn Ngữ là kẻ bàng môn tả đạo. Chính Lê Văn Ngữ cũng hiểu rõ vị trí học thuật của mình khi ông tự xưng là «cuồng sĩ» trong các trứ tác của ông và trong các thư từ gởi cho các quan lại. Mặc dù ông thuộc gia đình theo cái học Chu Hi, coi trọng Chu Hi, nhưng lời bình chú ông về Kinh Dịch lại không dựa vào Chu Hi. Trong phần chú thích 64 quẻ Dịch, ông không hề trích dẫn lời chú Trung Quốc. Là người có óc phán đoán về Dịch học của Trung Quốc qua bao đời, ông tự cho mình là người duy nhất – sau Tứ Thánh Trung Quốc: Phục Hi, Chu Công, Văn Vương, Khổng Tử – hiểu đúng Kinh Dịch. Trong lời tựa của Chu Dịch Cứu Nguyên, ông viết: «Sinh sau các thánh nhân hàng ngàn năm và chứng kiến cảnh suy tàn của Dịch học cùng sự khởi phát của tà thuyết, tôi đã chuyên tâm học Dịch. Tôi đã phát hiện những ý tưởng chưa từng được tiên Nho phát hiện và đã khai triển các ý tưởng chưa từng được triển khai.» [22] Phương pháp tiếp cận của Lê Văn Ngữ với Kinh Dịch là phương pháp chiết trung. Trong lời bình chú của mình, ông cố kết hợp ba yếu tố chính (hay ba phái chính) của Dịch học là Tượng số, Nghĩa lý, và Chiêm bốc. Ông cho rằng tượng và số do các thánh hiền Trung Quốc tạo ra dựa trêân nhận thức của các ngài về các nguyên lý trong cõi tự nhiên. Tượng và số đã hình thành đối tượng nghiên cứu cơ bản nhất của Dịch học.[23] Ông viết: «Đạo của Dịch thật vĩ đại thay. Khởi nguyên từ các con số và rồi được Tứ Thánh khuôn định, Kinh Dịch đã trở thành kinh điển cơ bản nhất để giáo hoá nhân tâm.» [24] Do đó Lê Văn Ngữ đã bắt đầu sự bình chú của mình bằng một số đồ bản của Kinh Dịch. Ông chấp nhận thuyết Phục Hi tạo bát quái căn cứ vào hai đồ bản xưa là Hà Đồ 河圖 và Lạc Thư 洛書. Ông nhấn mạnh rằng mọi nguyên lý trong thiên nhiên như Âm Dương ngũ hành và ngũ vận lục khí 五運六氣 đều có thể tìm thấy trong Hà Đồ và Lạc Thư.[25] Ông đã dùng Dịch lý để giải thích chính trị, luân lý, y học, thiên văn, vật lý, địa lý, toán học, và chiêm bốc, cũng như dùng Dịch lý để giải thích các kinh điển Nho giáo khác. Lê Văn Ngữ đã phê bình các lời bình chú bao đời của Trung Quốc về Kinh Dịch – các bình chú từ đời Đông Chu (771–221 tcn) đến đời Thanh (1644–1911). Giống như các học giả Trung Quốc đời Thanh và các học giả Nhật thời Tokugawa (Đức Xuyên, 1603–1868), Lê Văn Ngữ đã chỉ ra rằng không phải Khổng Tử viết trọn vẹn Thập Dực 十翼 (tức 10 lời bình xưa nhất về Kinh Dịch) mà hầu hết chúng được viết vào đời Chu. Ông viết: «Các tiên nho đã bảo rằng Tự Quái 序卦 không phải là công trình của các thánh nhân viết ra. Nay tôi muốn nhấn mạnh rằng Hệ Từ 繫辭 và Thuyết Quái 說卦 cũng chẳng phải là công trình của các thánh nhân viết ra. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì có quá nhiều ý tưởng phi lý và vô bổ trong Hệ Từ và Thuyết Quái.» [26] Lê Văn Ngữ đã nhắc độc giả nhớ cho rằng ba dực (tức Tự Quái, Hệ Từ, Thuyết Quái) trong Thập Dực nêu trên cần phải bỏ đi hoặc nếu đọc và dùng thì phải cân nhắc. Mặc dù trước Lê Văn Ngữ các học giả Trung Quốc và Nhật Bản cũng đã nêu ra những nhận xét như vậy, tức là không phải Lê Văn Ngữ là người đầu tiên phát hiện điều này, nhưng tinh thần hoài nghi của ông rất có ý nghĩa về mặt trí thức.[27] Trong Thập Dực, ông chỉ thích Văn Ngôn 文言, và ca tụng rằng đó là nguồn tham khảo tốt nhất về ý nghĩa của các thuật ngữ dùng trong Kinh Dịch.[28] Ông cho rằng Thoán Truyện 彖傳 và Đại Tượng 大象 mới là công trình của Khổng Tử. Do đó ông thường xuyên trích dẫn Văn Ngôn, Thoán Truyện, và Đại Tượng trong lời bình chú của riêng ông. Lê Văn Ngữ hoàn toàn phủ nhận giá trị các bản bình chú đời Hán và đời Đường, bởi vì – như lời ông nói – «từ đời Tần-Hán về sau các Nho gia đã bàn luận hời hợt về Kinh Dịch và rất ít người hiểu được chân nghĩa của Dịch.» [29] Ông phê bình họ chỉ chăm chăm vào kinh văn và đã tách rời kinh văn với các đồ bản của Dịch. Ông nói: «Khi quan sát các hào và tượng, Khổng Tử đã viết lời bình chú để khai hóa hậu thế ... Tuy nhiên, một số người đã noi theo các bình giải lỗi thời của Trịnh Huyền 鄭玄 (127–200) và Vương Bật 王弼 (226–249)... họ chỉ xem hào và tượng chỉ là hào và tượng, và kinh văn chỉ là kinh văn.» [30] Nói chung, Lê Văn Ngữ không thích các lời bình chú xưa, nhưng ông nhìn nhận rằng Chu Dịch Chú 周易注 của Vương Bật có nhiều kiến giải tốt dựa trên sự phân tích văn bản đúng đắn.[31] Khi so sánh Nho học qua các thời đại, Lê Văn Ngữ chấp nhận Tống Nho nhiều hơn cả. Bản thân ông thuộc gia đình theo Tống Nho và ông xem Tống Nho mới là cái học chính thống (Chính học 正學).[32] Đặc biệt, ông cho rằng Chu Hi và Trình Di đã có đóng góp quan trọng cho Dịch học vì đã phát huy các ý nghĩa tiềm ẩn về luân lý, chính trị, và triết học trong các tượng và từ. Ông cho rằng Dịch Truyện của Trình Di là sự phân tích văn bản xuất sắc nhất và lời bình chú của Chu Hi rất hay về tượng và chiêm bốc. Tuy nhiên, ông phê bình lời bình chú của Chu Hi và Trình Di vẫn chưa hoàn chỉnh và khập khiễng bởi vì hai Nho gia này đã tách biệt các lời bình chú của Chu Công và Khổng Tử và họ đã quên không kết hợp các tượng và kinh văn.[33] Ông nói: «Hai đại Nho đời Tống là Trình Di viết Dịch Truyện 易傳 và Chu Hi viết Chu Dịch Bản Nghĩa 周易本義. Ý tưởng của các ngài bao la vạn tượng, nhưng các ngài chỉ thấy nguồn gốc của Kinh Dịch và các con số trong các đồ bản Kinh Dịch như những gì đương nhiên, do đó các ngài đã không giải thích các nguyên lý sáng tạo. Khuyết điểm này khiến cho tâm kinh (tức Kinh Dịch) rơi vào chỗ khẩu truyền với lời lẽ sáo rỗng. Hậu quả là không ai hiểu được Kinh Dịch và lời dạy trong đó bị bỏ qua. Ôi thật là tệ hại!» [34] Lê Văn Ngữ cũng không thích tư tưởng của Thiệu Ung 邵雍 (1011–1077) về tính cách bói toán và khía cạnh siêu hình của Kinh Dịch; ông cho rằng những thứ này quá phức tạp và trừu tượng.[35] Ông coi thường toàn bộ Dịch học sau đời Tống và không hề trích dẫn các lời chú từ đời Tống về sau. Không những phê bình Dịch học của Trung Quốc, ông còn có lời phê bình rất ý nghĩa và thú vị về tư tưởng Tây phương chẳng hạn như tự do, quân chủ lập hiến, thiên văn học và vật lý của Tây phương, đạo Thiên Chúa. Nói chung, ông phán xét nghiêm khắc các tư tưởng Tây phương mặc dù ông không hoàn toàn phủ nhận các giá trị của chúng. Ông phê phán ảnh hưởng của Tây học đối với sự suy tàn của Dịch học: «Người Tây phương đã đến cõi Đông phương bằng đường biển và mang đến cho chúng ta các kỹ xảo lạ kỳ cùng với những đồ vật giải trí. Tây học đã làm loạn tâm chúng ta, dân ta đã tiếp thu nó và chạy theo danh lợi. Kinh Dịch đã trở thành một mớ giấy lộn.» [36] Lê Văn Ngữ vận dụng thuyết Thái Cực và Âm Dương ngũ hành trong các đồ bản Kinh Dịch để giải thích nguồn gốc vũ trụ, và ông đã chỉ trích thuyết sáng thế của Tây phương.[37] Ông cho rằng: «Nếu đọc Dịch, người ta sẽ biết sự diệu huyền của Dịch còn đáng ngạc nhiên gấp vạn lần các nguyên lý về đại bác, tàu thủy, xe hơi, hay điện khí của Tây phương.» [38] Ông cũng cho rằng thuyết ngũ hành của Trung Quốc còn hay hơn thuyết tứ đại của Tây phương (the Western theory of the four elements) để giải thích về các nguyên lý của điện, vật lý, và địa lý.[39] Thuyết tứ đại của Tây phương tức là thuyết của Aristote về vật lý, xem bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió là bốn yếu tố cơ bản của trần gian. Sự so sánh này của Lê Văn Ngữ cũng tương đồng với sự so sánh của Sawano Chūan (Trạch Dã Trung Am 澤野忠庵, 1580–1652) và Chong Tasan (Đinh Trà Sơn 丁茶山, 1762–1836).[40] Lê Văn Ngữ không chấp nhận quan niệm về thiên đàng và địa ngục cũng như thuyết sáng thế của Thiên Chúa giáo, ông nhấn mạnh rằng thuyết Âm Dương ngũ hành trong Kinh Dịch là cách giải thích tốt hơn về căn nguyên của vạn vật.[41] Đôi lúc ông đã cố gắng vận dụng thuyết Âm Dương ngũ hành để giải thích tri thức của Tây phương về thiên văn, địa lý, và vật lý, nhưng như vậy sự tư duy của ông có tính khiên cưỡng. Thí dụ, dựa trên thuyết Âm Dương ngũ hành, ông đã tư duy một cách nhầm lẫn rằng trong vũ trụ có 5 tầng trời và rằng các hành tinh như Mộc tinh (Jupiter), Hỏa tinh (Mars), và Thổ tinh (Saturn) không có vệ tinh.[42] Lê Văn Ngữ cũng luận bàn về các khái niệm chính trị Tây phương như tự do, bình đẳng, hiến pháp, quốc hội. Ông cho rằng sự tự do gắn liền với nền chính trị lấy dân làm gốc (people-oriented politics) mà quan niệm về nền chính trị vì dân như thế đã xuất hiện trong kinh điển Trung Quốc, kể cả Kinh Dịch. Cho nên ông chấp nhận một thể chế quốc hội dưới hình thức là sự tự do hóa về chính trị (a form of political liberalization). Trong phần bình giải về quẻ Sơn Địa Bác 山地剝, ông ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến như sau: «Thuyết Quái nói: «Núi (Cấn: Sơn) nằm trên đất (Khôn: Địa) là hình tượng quẻ Bác.»... Tuyết rơi trên núi để dưỡng nuôi và làm thanh tân mọi vật ... Xem hình tượng của quẻ này, bậc cai trị phải chấp nhận chế độ chính trị lập hiến và phải quan tâm đến nhu cầu của nhân dân để làm quốc gia thêm hùng cường. Làm được điều này cũng giống như tuyết trên núi.» [43] Tuy nhiên ông lên án quan niệm bình quân (the idea of equality). Ông nghĩ rằng cái quan niệm cào bằng mọi thứ này sẽ làm đảo lộn xã hội và luân lý.[44] KẾT LUẬN Nói công bằng thì Lê Văn Ngữ không phải là một Nho sĩ kiệt xuất cuối đời Nguyễn và tác phẩm Chu Dịch Cứu Nguyên của ông chẳng phải là viên đá đặt nền móng cho Dịch học tại Á châu. Ý nghĩa quan trọng của Chu Dịch Cứu Nguyên chủ yếu nằm ở tinh thần hoài nghi, tư tưởng phóng khoáng, và sự chú trọng hiệu quả thực tế (pragmaticism) hơn là tính chất học thuật. Lê Văn Ngữ đã chất vấn Tống Nho, đã luận bàn tư tưởng Tây phương, và gợi mở các phương hướng phát triển chính trị và học thuật của Việt Nam. Giống như nhiều Nho sĩ cuối đời Nguyễn, Lê Văn Ngữ đã dám phê bình Chu Hi và các Nho gia bao đời. Tuy nhiên ông thận trọng không tấn công các thánh hiền Trung Quốc và giáo huấn của các ngài, mà ông chỉ chê trách các Nho sĩ sau này đã làm hỏng đi cái học chân nguyên của Nho giáo.[45] Chủ yếu thu lượm từ các bản phiên dịch và các trứ tác của Trung Quốc về Tây phương và từ sự quan sát cá nhân, sự hiểu biết của Lê Văn Ngữ về Tây phương thật hời hợt và bất toàn. Thái độ của ông đối với sự hiện đại hóa thật mơ hồ. Ông bác bỏ quan niệm bình quân mà ông cho rằng nó chống lại cái nguyên lý cơ bản của trật tự xã hội theo Nho giáo, nhưng ông lại ủng hộ các định chế chính trị Tây phương như hiến pháp và quốc hội. Đôi khi ông xuyên tạc hoặc hiểu sai các quan niệm của Tây phương, chẳng hạn khi ông bàn luận về tự do, Thiên Chúa giáo, thái dương hệ, v.v... Ông cũng cố gắng đối chiếu và kết hợp một vài quan niệm Trung Quốc với quan niệm Tây phương, thí dụ thuyết Âm Dương ngũ hành so sánh với thuyết tứ đại của Aristote, hoặc kết hợp quan niệm nền chính trị vì dân (people-oriented politics) với sự tự do. Theo một ý nghĩa nghiêm nhặt, Lê Văn Ngữ không phải là một nhà cải cách, cũng không phải là một nhà chủ trương Tây hoá (Westernizer). Ông cũng chẳng phải là một môn đồ trung thành của Chu Hi. Ông chỉ là một Nho sĩ băn khoăn trước đôi nẻo đường: hoặc là duy trì truyền thống, hoặc là chấp nhận hiện đại hoá. Để cho Nho học có thể thích ứng được với thế giới hiện đại, Lê Văn Ngữ đã tái định nghĩa, đã bác bỏ, và thậm chí đã xuyên tạc các ý tưởng trong Kinh Dịch và trong các kinh điển khác của Trung Quốc. Đây quả thực là một phản ứng thông thường về văn hoá của các Nho sĩ Á châu trong giai đoạn khủng hoảng đối với Tây học. Các Dịch học gia tại Trung Quốc, Nhật Bản, và Triều Tiên vào đầu thế kỷ XX đều bộc lộ xu hướng tương tự trong Dịch học như vậy.[46] ● * LÊ ANH MINH dịch CHÚ THÍCH [1] Bài tham luận của Benjamin Wai-ming Ng (Ngô Vĩ Minh) 吳偉明 (Chinese University of Hong Kong) trong Hội nghị lần 3 về Nho Giáo tại Việt Nam, tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh từ 19 đến 21 tháng 7, 2001. Nguyên tựa bài tham luận: Yijing Scholarship in Late-Nguyen Vietnam: A Study of Le Van Ngu's 黎文敔 Chu Dich Cuu Nguyen 周易究原 (An Investigation of the Origins of the Yijing, 1916). [2] Chỉ có 13 tác phẩm về Kinh Dịch được liệt kê trong thư mục về các sách cổ do Viện Nghiên Cứu Hán Nôm xuất bản. Hầu hết được là các bản in lại bằng chữ Hán hoặc là các nguyên bản chữ Hán được đem vào Việt Nam. Chỉ có một số ít nhan đề (khoảng 2% của bộ sưu tập) là chú giải của các nhà Nho Việt Nam. Xem: Trần Nghĩa và François Gros (chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam: Thư mục đề yếu, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993, tập I, các trang. 289–291, 591, 707, 769; tập III, tr. 738, 749–750, 761, 946–947. [3] Trần Ngọc Long 陳玉龍, Hán văn hóa luận cương 漢文化論綱, Bắc Kinh Đại học xuất bản xã (xbx), 1993, tr. 387. [4] Alexander Barton Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Nguyen and Ch'ing Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình Trung Quốc: So sánh hệ thống hành chánh của triều Nguyễn và triều Thanh vào nửa đầu thế kỷ XIX), Cambridge, Harvard University Press, 1971, tr. 189. [5] Hạ Thánh Đạt 賀聖達, Đông Nam Á văn hóa phát triển sử 東南亞文化 發展史 (Cultural History of Southeast Asia), Vân Nam Nhân Dân xbx, tr. 155. [6] Ngô Sĩ Liên 吳士連, Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 (A Complete History of Great Vietnam, comp. 15th century), Tōyōbunka kenyūjō, Tōkyō, 1984, tr.1002. [7] Fujiwara Riichirō 藤原利一郎 (Đằng Nguyên Lợi Nhất Lang), Tōnan Ajia shi no kenkyū 東南アジア史の研究 (Đông Nam Á sử nghiên cứu: A Study of Southeast Asian History), Hōzōkan, Kyotō, 1983, tr. 436–435, 460. [8] Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân, An Introduction to Vietnamese Literature (Dẫn nhập văn chương Việt Nam), bản dịch Pháp-Anh của D.M. Hawke, New York, Columbia University Press, 1985, tr. 71. [9] Hạ Thánh Đạt, Đông Nam Á văn hóa phát triển sử 東南亞文化 發展史, tr.184. [10] Alexander Barton Woodside, Sđd., tr. 208. [11] Về sự thay đổi thái độ của giới trí thức cuối đời Nguyễn, xem: (1) Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Scholar in Anguish: Nguyen Khuyen and the Decline of the Confucian Order, 1884-1909 (Một nhà Nho Việt Nam thống khổ: Nguyễn Khuyến và sự suy tàn của hệ thống Nho giáo), Singapore, National University of Singapore Press, 1991; (2) Trần Đình Hượu, «Vitonamu ni okeru Jukyō to Jugaku» ヴィトナム における 儒教と儒学 (Nho giáo và Nho học tại Việt Nam), in trong: Mizoguchi Yūzō (Câu Khẩu Hùng Tam 溝口雄三), chủ biên, Kanji bunkaken no rekishi to mirai 漢字文化圏の歴史と未来 (Lịch sử và tương lai của khu vực theo văn hóa chữ Hán: History and Prospects of the Sphere of Chinese Characters), Tōkyō, Taishūkan shoten, 1992, tr. 79; (3) Oscar Chapuis, The Last Emperors of Vietnam (Vị vua cuối cùng của Việt Nam), London, Greenwood Press, 2000, tr. 94-101. [12] Trần Mỹ Vân, Sđd., «Phụ lục». (Lê Anh Minh ghi chú: Ngô Vĩ Minh không trích dẫn nguyên văn bài chữ Hán 8 câu. Tôi tra lại bài này ở phần phụ lục trong tác phẩm này của Trần Mỹ Vân và chép lại 4 câu như trên). [13] Về cuộc đời và tư tưởng của họ Phan, xem: Phan Bội Châu, The Autobiography of Phan Boi Chau (Tự truyện Phan Bội Châu), bản dịch Anh ngữ của Vĩnh Sính và Nicholas Wickenden, Honolulu, University of Hawaii Press, 1999. [14] Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Am hiểu Việt Nam), Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1993, tr. 11-15. [15] Pham Kim Vinh, The Vietnamese Culture: An Introduction (Dẫn nhập văn hóa Việt Nam), CA.: Solana Beach, The Pham Kim Vinh Research Institute (Viện nghiên cứu Phạm Kim Vinh), 1990, tr. 120. [16] Trần Ngọc Long, Sđd., tr. 374. [17] Alexander Barton Woodside, Sđd., tr. 56. [18] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tr.617–618, 1074–1075. Xem thêm: Fujiwara Riichirō, Sđd., tr. 617, 1074. [19] Nguyễn Khắc Kham, An Introduction to Vietnamese Culture (Dẫn nhập văn hóa Việt Nam), Tōkyō, Centre for East Asian Cultural Studies (Trung tâm nghiên cứu văn hóa Đông Á), 1967, tr. 41. [20] Lê Văn Ngữ, Đại Học Tích Nghĩa 大學晰義 (Giải thích ý nghĩa của Đại Học) tr.1–2. Tôi đã đọc một bản photocopy từ bản gốc chép tay lưu trữ tại Viện Hán Nôm. [21] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr.17, 33, 53. Tôi đã đọc một bản photocopy từ bản gốc chép tay lưu trữ tại Viện Hán Nôm. Xem thêm: Đại Học Tích Nghĩa, tr. 1–3. [22] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 6. [23] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 10, 52. [24] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 6. [25] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 5, 10. [26] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 41. [27] Thí dụ, ý kiến của Lê Văn Ngữ rất tương đồng với ý kiến của Itō Jinsai (Y Đằng Nhân Trai 伊藤仁齋, 1627-1705) và Itō Tōgai (Y Đằng Đông Nhai 伊藤東涯, 1670-1736). Xem Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), The I Ching in Tokugawa Thought and Culture (Kinh Dịch trong văn hoá và tư tưởng thời Đức Xuyên 德川), Honolulu: University of Hawaii Press, 2000, tr. 39–40. [28] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 37. [29] Như đã dẫn. [30] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 40. [31] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 39–40. [32] Lê Văn Ngữ, Đại Học Tích Nghĩa, tr. 46. [33] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 37 [34] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 6. [35] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 44. Ông thích các bói đơn giản hơn của các Nho gia đời Đường. [36] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 35. [37] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 7–10. [38] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 15. [39] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 17. [40] Xem Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), The I Ching in Tokugawa Thought and Culture (Kinh Dịch trong văn hoá và tư tưởng thời Đức Xuyên), Honolulu: University of Hawaii Press, 2000, tr.136–137; và: Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), «The I Ching in Late-Chǒson Thought» (Dịch Kinh trong tư tưởng thời đại Hậu Triều Tiên), in trong Korean Studies, vol. 24 (2000), tr.62. [41] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 43–44. [42] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 27, 31. [43] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, quyển 2, tr. 17. Tương tự như thế, Kumazawa Banzan (Hùng Trạch Phan Sơn 熊澤蕃山, 1619-1691) đã dùng quẻ Dịch này để giải thích nền chính trị lấy nhân dân làm gốc (people-oriented politics). Xem Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), The I Ching in Tokugawa Thought and Culture (Kinh Dịch trong văn hoá và tư tưởng thời Đức Xuyên), Honolulu: University of Hawaii Press, 2000, tr. 61. [44] Lê Văn Ngữ, Chu Dịch Cứu Nguyên, tr. 21–22, 34, 46–47. [45] Để khảo sát thái độ tương tự này trong số các Nho sĩ cuối đời Nguyễn, xem: Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Am hiểu Việt Nam), tr.77–78. [46] Xem Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), The I Ching in Tokugawa Thought and Culture (Kinh Dịch trong văn hoá và tư tưởng thời Đức Xuyên), Honolulu: University of Hawaii Press, 2000, tr. 47–49; và Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), «The I Ching in Late-Chǒson Thought» (Dịch Kinh trong tư tưởng thời đại Hậu Triều Tiên), in trong Korean Studies, vol.24, tr. 24-25; Ngô Vĩ Minh (Wai-ming Ng), «I Ching Scholarship in Ching China: A Historical and Comparative Study» (Dịch học đời Thanh Trung Quốc: khảo cứu theo quan điểm lịch sử và đối chiếu), in trong Chinese Culture, 37: 1 (Taipei, March 1996), tr. 64–65.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 5:25:58 GMT 9
Thăng Long Lược Phong Thủy Kí Gọi là long mạch được chia ra thân (can long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)... Lớn thì gọi là đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long... Long mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi, bát Quái... con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử... Đó chính là một bộ nhớ vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không - Thời gian trong tổng thể cái gọi là quá khứ, vị lai... của vũ trụ. Sách “Địa giải Huyền thư” nêu rằng nằm trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện, xã)... Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết, vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy. Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao... nên xem Trời là tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long mạch tạo nên sự vận hành của “khí”. Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát... biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường. Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bẩy mươi tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây giờ. Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý tưởng: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...” (Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước. Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy “cát” đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí “hung”. Thăng Long ngược lại với nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài. Ba triều vua trước (Ngô, Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Liệu đó có phải là lý do chính để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau (Trần, Hậu Lê...), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận Kinh sư. Long mạch để phúc trạch cho con người không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một “giới hạn” đã định sẵn cho những “nhà” nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau: Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc... thì Ngài lại cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc Giang) - quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt, vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác. Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý, tồn tại được hơn một trăm bẩy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông (con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bẩy. Cuối cùng, Thiếu Đế (con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau: Đời thứ nhất:.........................................Trần Thái Tông Đời thứ hai:...........................................Trần Thánh Tông Đời thứ ba:............................................Trần Nhân Tông Đời thứ tư:.............................................Trần Anh Tông Đời thứ năm:.........................................Trần Minh Tông Đời thứ sáu:...Trần Hiến Tông - Trần Dụ Tông - Trần Nghệ Tông - Trần Duệ Tông Đời thứ bẩy:...............................Phế Đế - Trần Thuận Tông Đời thứ tám:..........................................Thiếu Đế. Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái Tông đến Trần Nghệ Tông - đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly. Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi. Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt. Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm (1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bẩy đời. Đó là một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung Hoàng cùng đời thứ bẩy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thử bẩy? Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở thành Cổ Lộng của Trần Cảo, vị vua do chính Lê Lợi lập nên và cũng do chính Lê Lợi sai người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho Trần Cảo? Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau lại bị chính Lê Lợi giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước(?). Gia phả ấy còn chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì (trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân gian có câu: “hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” nói về ngày giỗ của hai vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai là... đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi...). Thế là trước sau vẫn đủ... tám đời. Nếu quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa... công bằng. Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ: Đời thứ nhất:.........................................Trần Cảo (hoặc Lê Lai)?? Đời thứ hai:............................................Lê Thái Tổ Đời thứ ba:.............................................Lê Thái Tông Đời thứ tư:..............................................Lê Nhân Tông Đời thứ năm:..........................................Lê Thánh Tông Đời thứ sáu:...........................................Lê Hiến Tông Đời thứ bẩy:....................Lê Túc Tông - Uy Mục Đế - Tương Dực Đế Đời thứ tám:............................Lê Chiêu Tông - Cung Hoàng Đế Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây sẽ nói) mà thôi. Mạc Đăng Dung tàn sát con cháu Lê Lợi, cướp cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc, chiếm giữ Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long mạch đó mà phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung, trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước. Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà Mạc. Song thực ra chỉ có hư vị, Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã có lời “sấm”: “phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”. Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan... Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa quá khứ - hiện tại và tương lai... điều mà chính khoa học đang cố chứng minh và ngày càng tiến gần tới... cổ xưa. Kiến thức về long mạch của người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do, kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con cháu chúng ta sau này. Viết tại Tân Uyên - Bình Dương 11/2005 Vũ Phong Lưu
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 21, 2011 8:45:45 GMT 9
Linh Hồn Và Cõi Âm Vietsciences- Bùi Duy Tâm 20/01/2011
Người ta đã sinh ra thì tất sẽ chết. Nên mọi người đều rất quan tâm và đa số sợ chết. Do đó sinh ra các triết nhân và triết thuyết về cái chết, các thánh nhân và tôn giáo về thiên đàng, địa ngục, các mê tín dị đoan về ma quỷ.
Chúng tôi cũng như mọi người thường suy nghĩ về Cái chết, về Linh hồn, về Cõi đời sau khi chết, nhưng hơi nhiều hơn mọi người.
Tôi, Bùi Duy Tâm, sinh ra trong một gia đình ba đời theo Đạo Thiên Chúa, đã đọc Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước) ba lần, đi nhà thờ rất đều mỗi sáng chủ nhật cho đến năm 30 tuổi. Sau này làm bạn tâm giao với cố Linh mục Bửu Dưỡng và Hoà thượng Thích Mãn Giác, nên tôi có điều kiện đàm luận về Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Tôi đã được hiểu cái tinh tuý của Lý Dịch và Đạo Nho với cố Bác sĩ Nguyễn Văn Ba. Tôi đã đọc rất kỹ các cuốn Tử Thư của Ai Cập và Tây Tạng cũng như nhiều sách khác cùng loại. Tôi đã sang Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng… để tìm hiểu thêm về Huyền Bí Học và Siêu Hình Học. Nhưng tất cả đều mù mờ về “Linh hồn” và “Cõi đời sau khi chết”. Không có đủ chứng cứ cụ thể có thể thuyết phục tôi. Tôi không chấp nhận các giáo điều của chính trị và tôn giáo. Tôi không yên tâm với tín ngưỡng và chán ngấy các loại sách viết huyên thuyên xích đế chẳng có gì cụ thể.
Tôi trở thành một người theo phái bất khả tri: “Con người nhận biết thế giới và vũ trụ với khả năng rất giới hạn nên không thể biết được sự tuyệt đối về Thượng Đế, Linh hồn và Cõi đời sau khi chết”.
Và như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sự hiện hữu của Linh hồn và Cõi Âm của tôi chưa đi đến đâu cả, chưa thấy một sự kiện gì đủ thực tế để bấu víu.
Đầu thế kỷ 21, tình cờ cầm tờ Y Tế Nguyệt San số 5, tháng 5, 2001 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ và đọc bài viết “Thế giới vô hình và việc tìm kiếm mồ mả ở Việt Nam” của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên (nguyên Phó thủ tướng đặc trách Văn hoá, Giáo dục, Y tế, Xã hội thời Việt Nam Cộng Hoà). Trong bài báo, Bác sĩ Viên tả lại việc tìm mộ gia đình của Kỹ sư Trần Lưu Cung (nguyên Tổng giám đốc Giáo dục kỹ thuật và Thứ trưởng Đại học thời Việt Nam Cộng Hoà) do hướng dẫn của các nhà ngoại cảm (ông Ngà, cậu Liên, cậu Nguyện…). Các nhà ngoại cảm tìm mộ đều nói chính vong linh của người quá cố đã chỉ cho họ những chi tiết để hướng dẫn gia đình tìm mộ. Đặc biệt trong bài báo, Bác sĩ Viên còn đề cập đến bài tự thuật “Tôi đi gặp người thân đã mất (vong) tại nhà cô Phương ở Bắc cầu Hàm Rồng tỉnh Thanh Hoá
Ông Nguyễn Hùng Phong. Ông Phong đã tường thuật lại việc ngày 16-12-1999 đến nhờ cô Phương giúp cho được gặp lại vong linh của vợ là bà Vũ Thị Hạnh, nguyên Trưởng phòng Giáo dục quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, đã mất đột ngột tại nơi làm việc tháng 3 năm 1999 do bệnh tim…
Sau khi đọc xong bài báo, tôi mừng quá, liền gọi điện thoại ngay cho ông Trần Lưu Cung. Ông Cung xác nhận sự kỳ diệu của việc tìm mộ và còn gửi cho tôi xấp tài liệu riêng của gia đình kèm theo rất nhiều hình ảnh.
Như vậy là đề tài “Linh hồn và Cõi âm” đã có cơ hội hé mở sau bao thất vọng. Còn đợi gì nữa mà không về Việt Nam , đến cầu Hàm Rồng để tìm gặp cô Phương cho ra nhẽ?
***
Tháng 10 năm 2003 tôi về Hà Nội để làm lễ Cửu Tuần Đại Thọ cho mẹ tôi. Tới Hà Nội đêm hôm trước, thì sáng sớm hôm sau tôi lên đường đi Thanh Hoá để gặp cô Phương. Tôi mời mẹ tôi đi cùng, lấy cớ đưa mẹ đi Sầm Sơn để ôn lại các kỷ niệm xưa. Trước khi rời Hà Nội, mẹ con tôi ghé lại tiệm may áo dài. Tôi mang từ Mỹ về xấp vải nhung đỏ để may cho mẹ một áo dài mặc trong lễ Cửu Tuần Đại Thọ sắp tới.
Trên đường đi Thanh Hoá, tôi ghé vào em Bùi Duy Tuấn nhằm cầu xin cha tôi (mất năm 1990 tại Sài Gòn) về điện cô Phương, cầu Hàm Rồng để các con và mẹ được gặp cha. Chúng tôi không dám nói với mẹ mục đích của chuyến đi vì mẹ tôi sùng Đạo Chúa (Tin Lành), không chấp nhận những chuyện “ma quỷ” như vậy.
Khi đến nơi, hai anh em tôi thấy quang cảnh đúng như trong bài báo của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên: Khoảng 30-40 người ngồi im lặng, nghiêm chỉnh, có vẻ lo âu chờ đợi trước một cánh cửa đóng kín. Một người đàn bà (sau này tôi biết là chị chồng cô Phương) dáng mập ngồi chắn trước cửa, thỉnh thoảng hô lên “Nhà ai có vong tên… thì vào”. Thế là vài ba người hay dăm bảy người mừng rỡ hấp tấp đi vào…
Chúng tôi mời mẹ vào ăn sáng tại một nhà nghỉ khá lớn ở ngay trước điện cô Phương (nhà nghỉ này của nhà chồng cô Phương tiếp các khách ở xa đến phải chờ đợi vong nhà mình có khi tới ba ngày, cả tuần lễ hay đôi khi thiếu may mắn không gặp được vong, đành phải ra về tay không). Hai anh em tôi lén đi thắp nhang trước điện để cầu khẩn cha tôi về theo thủ tục như mọi người. Thỉnh thoảng cửa hé mở để dăm ba người đi ra. Người thì tỏ ra hớn hở. Người thì nước mắt sụt sùi.
Tôi sốt ruột đi hỏi xem có phải đăng ký hay làm thủ tục gì nữa không, thì mọi người đều xác nhận không phải làm gì cả, mà cứ kiên nhẫn ngồi chờ. Khi vong nhà mình về thì người ta gọi vào.
Tôi thắc mắc là tôi chưa khai tên của cha tôi thì ai biết mà gọi. Mọi người cười, chế nhạo tôi là hỏi thật ngớ ngẩn!
Chúng tôi chờ từ 10 giờ sáng đến ba giờ chiều thì người đàn bà ngồi trước cửa đứng lên nói to: “Cô Phương nghỉ làm. Xin mời quý vị ngày mai trở lại”. Thế là anh em tôi ngao ngán cùng với vài ba chục người đứng dậy ra về.
Chúng tôi đưa mẹ ra Sầm Sơn nghỉ ngơi và thăm lại cảnh xưa chốn cũ. Thật cảm động khi trở về nơi mà tôi đã sống những ngày thơ ấu cách đây hơn nửa thế kỷ (gần 60 năm).
Sáng hôm sau chúng tôi trở lại điện cô Phương. Lần này chúng tôi phải thú thật với mẹ chuyện hai anh em đang làm. Mẹ tôi dẫy nảy lên: “Đến chỗ ma quỷ! Tao không vào đâu!”. Chúng tôi lại phải đành mời mẹ ngồi ăn sáng ở nhà nghỉ như ngày hôm trước.
Lần này tôi sốt ruột lắm rồi. Tôi đi ra đi vào, hỏi chuyện người này người nọ. Tôi gặp bố mẹ chồng cô Phương. Ông Nghinh (bố chồng) mời tôi uống nước, đang kể chuyện cô Phương thì bỗng nghe có tiếng gọi: “Bà Tỉnh đâu, người nhà ông Tỉnh đâu?” (cha tôi tên là Bùi Văn Tĩnh, nhưng vì nói giọng Thanh Hoá nên nghe gọi tên là Tỉnh). Phải gọi đến vài ba lần thì anh em tôi mới biết là gọi mình. Tôi chạy tới cánh cửa. Em Tuấn chạy ra hối hả gọi mẹ: “Mợ ơi, Cậu về gọi mợ đấy!”. Mẹ tôi hốt hoảng đứng bật dậy chạy theo em tôi, quên mất lập trường chống ma quỷ của mình.
Qua cánh cửa, chúng tôi bước vào một căn phòng khá rộng rãi, trống rỗng. Ngoài cái bệ trên tường để trái cây và các phong bì (chắc là tiền thưởng), thì không có bàn thờ hay trang trí gì khác của một cái am, cái điện. Cô Phương ăn mặc diêm dúa như các cô gái Hà Nội, mặt hoa da phấn, đang ngồi tỉnh táo trên chiếu cùng với một gia đình đông trên chục người. Cô cất tiếng: “Gọi mãi mà các bác không vào, nên vong nhà khác tranh vào trước. Thôi, các bác vui lòng ngồi chờ nhé!”.
Thế cũng tốt, chúng tôi có dịp được quan sát thêm. Cô Phương gọi tên hết người này đến người nọ trong gia đình ngồi chung quanh cô. Khi gọi trúng tên ai thì giơ tay thưa: “Dạ, con đây (hay em đây, cháu đây…)”. Và người đó nói chuyện với vong (qua miệng cô Phương). Tôi nghe thấy đa số trả lời: “Dạ, đúng vậy…” có vẻ cung kính lắm.
Có một chuyện cười ra nước mắt. Vong gọi: “Thằng Thanh đâu?”. Một thanh niên chừng 25 tuổi đứng bật dậy: “Dạ, con đây!”. Vong nói: “Mày không biết thương vợ con. Mày tằng tịu với con Mai ở cùng cơ quan”. Chàng thanh niên sợ hãi líu ríu nhận tội. Người phụ nữ ngồi cạnh (chắc là vợ) oà lên khóc nức nở. Sau gần một giờ, gia đình đó mới kéo nhau ra.
Bỗng cô Phương nhìn chằm chằm vào mẹ tôi rồi kêu to lên: “Mợ ơi! Con của Mợ đây! Thắng đây! (Thắng là đứa em út của chúng tôi, mất lúc chưa đầy một tuổi.)
Mẹ tôi vừa xúc động vừa ngạc nhiên: “Trời ơi! Con tôi… Nhưng con mất từ hồi mới… tám tháng…”.
Vong nói qua miệng cô Phương: “Bây giờ con lớn rồi. Hôm qua con biết Mợ và hai anh đến, nhưng con phải đi mời Cậu. Cậu không chịu về. Con phải nói: Mợ già yếu, còn anh Tâm ở xa về nên Cậu mới chịu. Cậu và Ông Nội cũng về đây với con”.
Rồi quay sang phía hai anh em tôi, cô Phương nói: “Hai anh chẳng nhớ gì đến em. Hai anh chỉ khấn Cậu thôi!”.
Đúng vậy! Chúng tôi đâu có nghĩ đến thằng em út đã mất từ lúc tám tháng. Thật bất ngờ cho chúng tôi.
Quay trở lại mẹ tôi, cô Phương nói: “Con thích tên là Bùi Duy Thắng như các anh con là Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn. Sao Mợ lại đặt tên con là Bùi Tất Thắng?”.
Mẹ tôi luống cuống: “Tại bố con đấy! ”. (Hồi đó cả nhà trách bố tôi vì đặt tên thằng út là Tất Thắng. Tất còn có nghĩa là hết, tức là chết. Nên nó mới mất sớm. Nhân tiện tôi nói thêm là việc đặt tên rất quan trọng, còn quan trọng như thế nào thì tôi không biết. Nhưng tôi có biết ông Đỗ Trí ở Sơn Tây có tài chỉ cần đọc tên là ông biết con người ấy như thế nào, như xem chỉ tay hay số tử vi vậy.)
Vong em tôi nói tiếp qua cô Phương: “Thôi, Mợ đã khắc tên con trên bia mộ rồi!”.
Đúng thế. Tên em tôi đã được khắc trên bia mộ, nằm cạnh ông bà ngoại tôi trong nghĩa trang Bất Bạt.
Đến lượt bố tôi vào. Vong bố tôi qua thân xác cô Phương nắm tay mẹ tôi, rồi nói: “Hơn mười năm rồi mới gặp lại bà. Tôi nhớ bà lắm…”. Mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi cũng khóc. Bố tôi bỗng trách đùa mẹ tôi: “Bà diện lắm! Mới đi may áo đỏ…”.
Trời ơi! Sao bố tôi biết nhanh thế? Trong gia đình tôi đã có ai biết chuyện may áo đỏ của mẹ tôi đâu! Tôi mới về Hà Nội tối hôm trước thì sáng hôm sau trên đường đi Thanh Hoá ghé qua tiệm may, bỏ xấp vải nhung đỏ để may áo cho mẹ kịp mặc vào Lễ Đại Thọ. Mẹ tôi đương líu ríu chống chế thì bố tôi bồi thêm một câu đùa yêu tiếp: “Bà còn muốn tô son đánh phấn nữa!”.
Mẹ tôi rên rỉ: “Cái gì ông cũng biết! Đúng rồi! Tôi vừa xin con cháu Trinh Hương, con gái anh Minh, một chút son phấn để hôm Lễ Đại Thọ thoa một chút. Mặt mũi răn reo quá, sợ thằng con trai cả của ông nó ngượng với bạn bè”. (Chuyện này mẹ tôi giấu kín mọi người, trong khi anh em tôi không hay biết gì, thế mà bố tôi cũng biết!)”
Rồi cô Phương quay sang tôi: “Tâm ơi! Cậu buồn quá vì chuyện con Hà nhà con. Nó lôi thôi với chồng nó thì chỉ khổ cho ba đứa con thôi”. (Hà là con gái tôi. Chuyện của nó mới xảy ra trước khi tôi về Hà Nội. Vợ chồng tôi nghe phong phanh, nhưng chưa có dịp trao đổi với nhau. Thế mà mọi chuyện người Âm đều biết, không giấu giếm được!)
Một lúc sau thì ông nội tôi về. Qua miệng cô Phương: “Tao là Bùi Văn Khanh, ông nội đây. Cả bà nội Nguyễn Thị Ngọt cũng về đây!”.
Tôi vội thưa: “Thưa Ông, con nghe anh Đại con cô Hai nói tên Ông là Khánh, nhưng lâu ngày trên giấy khai sinh của Bố con mất dần dấu sắc, nên đọc là Khanh” (cô Hai là chị ruột bố tôi.)
Ông nội tôi gắt lên: “Tên tao là Khanh, chứ không phải là Khánh”.
Rồi quay sang mắng mẹ tôi: “Chị về làm dâu nhà tôi mà không đoái hoài mồ mả tổ tiên nhà chồng. Từ ngày cưới chị, chị chỉ về quê nội có một lần!”.
Mẹ tôi sợ hãi chống chế: “Gia đình con ở Hà Nội, Hải Phòng. Quê nội ở mãi Bái Đô, Lam Kinh – Thanh Hoá, nên đi lại khó khăn. Và, con sinh con đẻ cái đều đều ba năm hai đứa nên không về thăm quê được. Con xin nhận tội với ông bà”.
Cứ như thế trong 90 phút vui buồn, khóc lóc…
Hai anh em tôi và mẹ hớn hở ra về. Có lẽ vì cao hứng nên chúng tôi ghé thăm nhà thơ Hữu Loan, người bạn cũ ở Thanh Hoá. Đáng nhẽ về thẳng Hà Nội, nhưng chắc còn luyến tiếc những giờ phút quý báu xúc động buổi sáng đó nên chúng tôi quay trở ngược lại cầu Hàm Rồng để chụp ảnh với cô Phương. Kỳ này mẹ tôi không phản đối nữa mà còn hăm hở muốn gặp cô Phương.
Cô Phương vui vẻ cho biết thêm: “Cụ ông lại vừa về cho biết đã đăng ký chỗ dạy học cho bà rồi”.
Lại thêm một ngạc nhiên: Mẹ tôi vốn là một giáo viên hồi hưu. Ngày xưa, mẹ tôi là người đàn bà Tây học. Khi lấy chồng, sinh con thì ở nhà. Khi các con khôn lớn thì bà mới đi dạy lại vì sự khuyến khích của bố tôi. Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là vong linh của bố tôi rồi! Lúc nào bố tôi cũng muốn mẹ tôi sử dụng cái tri thức của mình.
Ngày hôm đó là ngày trọng đại của đời tôi. Tôi thấy cụ thể sự hiện hữu của Linh hồn và cõi âm. Dù cho sau này cô Phương có nói bậy gì đi nữa, các cô gọi hồn khác, các nhà ngoại cảm khác đôi khi có nói bậy vì mưu sinh thì kết quả của ngày hôm đó vẫn không thể chối cãi được, nếu không nói là được tuyệt đối chấp nhận.
Khác nào như ta cố gắng gọi điện thoại cho người thân, đường dây rất khó khăn, rất xấu, nhưng chỉ một lần thôi ta nghe rõ tiếng người thân trò chuyện với ta về những chuyện gia đình mà người ngoài không thể biết được, thì cũng khá đủ cho ta biết rằng người thân của ta vẫn tồn tại. Tuy ta không nhìn thấy được vì giới hạn của ngũ quan, nhưng người thân quá cố của ta vẫn tồn tại với các ký ức, với các kỷ niệm dưới một dạng nào đó mà ta không biết, ta tạm gọi là “Linh hồn”, trong một thế giới nào đó mà ta cũng không biết, tạm gọi là “cõi âm” (để phân biệt với cõi Dương mà ta đang sống) hay theo kiểu Tây Phương gọi là “Cuộc đời sau khi chết” (“Life after death”).
Sau này mỗi lần về thăm quê hương, tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Lần sau cùng mẹ tôi gặp cô ấy là cuối năm 2005. Khi đó mẹ tôi vẫn còn khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Trước khi ra về, cô Phương nói nhỏ với tôi: “Cụ ông nhớ bà lắm. Cụ ông sắp đưa bà về rồi. Một cách bình yên”. Ít lâu sau, mẹ tôi mất rất nhanh.
Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương – cô Bằng, cô Thao, cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng.
Tôi cũng đã gặp các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị Bích Hằng…
Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh… làm việc ở các cơ quan khác nhau. Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau: “Thế giới tâm linh là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe những lời nhắn nhủ từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn, lương thiện hơn“.
Bùi Duy Tâm
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 21, 2011 8:50:11 GMT 9
Vận nước Vietsciences- Tương Lai Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh
Thiền sư Pháp Thuận (915-990)Ông cha từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa [Chế Lan Viên] ….Một câu hỏi lớn không lời đáp. Cho đến bây giờ mặt vẫn chau ” [Huy Cận] . Nhưng có đúng thế không nhỉ? Vậy mà câu thơ ấy từng hấp dẫn những tâm hồn đa cảm một thời. Đúng hơn, những tâm hồn bị khúc xạ bởi màn sương hư ảo của những chấn động dữ dội một thời ấy khiến người ta rất thật trong những ý nghĩ, những lời nói, những câu chữ không lấy gì làm thật. Trong sự thăng hoa cảm xúc, người ta khẳng định không chút e dè, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng… Những ngày ta sống đây là những ngày đẹp nhất” [ Chế Lan Viên]. Có lẽ khi nghĩ lại những điều mình viết, trong “Di cảo Thơ”, tác giả của những câu thơ trên tự nhủ : “ Khi anh gần chạng vạng/ Thì có người bình minh/ Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản/ Ban mai của họ sinh thành” . Có lẽ cần phải thấy thêm rằng, lấy “hoàng hôn” ngăn cản “ban mai” thì xem ra nguy hiểm cũng chẳng kém việc nhằm tụng ca cái hôm nay mà phũ phàng với cái đã qua, phũ phàng với lịch sử, chưa nói đúng về ông cha mình. Ở đây gợi nhớ đến một phân tích lạnh lùng, sắc sảo của Gustave le Bon trong “Tâm lý học đám đông” : “Chẳng gì chứng minh rõ hơn sự mê hoặc do một niềm tin chung gây ra, nhưng cũng chẳng gì chỉ ra rõ hơn những giới hạn nhục nhã của trí tuệ con người”!+ Bởi vậy ngẫm cho kỹ, sẽ nhận ra sự dễ dãi đến bạc bẽo khi đưa ra những phán xét, cho dù bằng những rung động thẩm mỹ có phần cảm tính, về ông cha. Ông cha ta đâu có “bế tắc”, cái “câu hỏi lớn” mà nhà thơ cho là “không lời đáp” là gì nếu không là vận mệnh của đất nước? Mà nếu thế thì ông cha ta đã từng đưa ra những lời đáp thật thuyết phục với những bằng chứng lịch sử không thể bác bỏ. Nếu không như vậy thì làm gì có “Nghìn năm Thăng Long” để hôm nay chúng ta long trọng và tưng bừng kỷ niệm. Mà quả thật, không nhiều những quốc gia có được một thủ đô nghìn năm tuổi để tự hào trình diễn trước thế giới như chúng ta đang chuẩn bị. Khi mà kim chiếc đồng hồ bên Hồ Gươm hồi hộp từng giây, từng giây ngược về con số chờ đợi, thì cũng là lúc người ta hiểu ra rằng, lịch sử là một thành phần mà nếu thiếu nó, thì không một ý thức dân tôc nào có thể được khẳng định. Mà nếu không có điều ấy thì cũng không thể có bất cứ sự phát triển nào có ý nghĩa cả. Càng không thể có sự hội nhập một cách chủ động và biết chọn lựa để phát triển. Mà giả dụ nếu có, thì e chỉ có thể là sự vong bản, tự đánh mất mình, khởi đầu bằng đánh mất văn hóa. Vì thế, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, xét đến cùng, là để khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt Nam nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, lấy đó làm điểm tựa để động viên lòng yêu nước, khí phách anh hùng “có cứng mới đứng đầu gió”, gió Biển Đông đầy bất trắc dồn dập sóng cồn giữa biển cả thời gian đầy thách thức. Phải có bản lĩnh ấy để tồn tại và phát triển trong cái thế kẹt địa-chính trị đầu cầu dẫn đến một vùng Đông Nam Á giàu tiềm năng, vốn luôn là đối tượng của những tham vọng bành trướng khó bề thay đổi. Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long cũng là để gợi nhớ và tôn vinh một bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh của vị vua khai sáng vương triều Lý. Sau chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đánh tan quân Nam Hán, chặn đứng mộng bành trướng, mở đầu việc dựng xây nền móng cho một nhà nước tự chủ, thì quyết định dời đô về Thăng Long của Lý Thái Tổ là sự khẳng định quyết tâm củng cố nền độc lập và phát triển đất nước, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp trường kỳ dựng nước, mở nước và giữ nước của ông cha ta. Trên ý nghĩa ấy, cần thấy cho ra “Chiếu dời đô” thể hiện một tầm nhìn khởi đầu một sự nghiệp. Cũng có thể nói, “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ là sản phẩm của một bản lĩnh văn hóa. Không có bản lĩnh văn hóa ấy thì dễ gì hôm nay đất nước có một thủ đô nghìn năm tuổi! Muốn cho “vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh” nhằm “làm kế cho con cháu muôn vạn đời”, vì vậy “xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” nên quyết dời đô về đây. Ấy chính là “trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân”!* Phải có một bản lĩnh văn hóa đủ tầm mới chỉ ra được những điều ấy. Đương nhiên, bản lĩnh ấy không ngẫu nhiên mà có. Người mở đầu cho vương triều Lý là một người được hấp thu một học vấn nghiêm chỉnh từ nhỏ. Thầy dạy của Lý Công Uẩn là thiền sư Vạn Hạnh, một nhà sư uyên bác, một trí thức đứng hàng đầu trong những người có học vấn đương thời. Hãy chỉ đọc một bài thơ của ông để cảm nhận điều đó, bài “Thị đệ tử” : Thân như điện ảnh hữu toàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô [ Thân người như bóng chớp, có rồi lại không/ Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo/ Ngẫm và hiểu cái lý của thịnh suy, lòng không sợ hãi/ Vì thịnh suy nối tiếp nhau như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ]. Theo tác giả của “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, giáo sư Lê Mạnh Thát, “trước khi mất, Vạn Hạnh đã gọi đệ tử mình ở chùa Lục Tổ đến và đọc cho họ nghe bài kệ trên, rồi dặn dò đệ tử của mình : “Các con muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ để trụ, mà cũng không dựa vào chỗ không trụ để trụ”. Bài thơ này là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam…nó đúc kết cả một triết lý hành động mà suốt đời Vạn Hạnh đã theo đuổi”. Có thể vắn tắt gợi lên những phân tích của tác giả “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” về bài thơ này như sau : Câu đầu là một cái nhìn về chính bản thân. Con người xuất hiện trên thế giới này đúng như một ánh chớp, chỉ lóe lên rối tan biến vào đâu đó trong không gian mênh mông của vũ trụ. Con người, như vậy, vừa có tính bi kịch, nhưng lại vừa có tính thần thánh cao sang của nó. Câu hai là một cái nhìn tổng quát về thế giới con người đang sống, một cái nhìn về quy luật phát triển của thế giới tự nhiên, mọi sự sống đều kèm theo cái chết. Câu thứ ba và bốn là một cái nhìn về quy luật của phát triển xã hội. Xã hội nào có thịnh rồi cũng có suy. Tổ chức cao nào cũng có lên rồi cũng có xuống. Xã hội loài người chuyển dịch theo những quy luật vận động của nó. Chính quy luật vận động đó đã tạo nên sự thịnh suy. Con người Phật giáo biết nắm lấy quy luật vận động đó [nhậm vận] thì đứng trước sự thịnh suy hoàn toàn có thể làm chủ được tình thế, chẳng có gì phải sợ hãi. Mà có gì phải sợ hãi khi sự thịnh suy đó diễn ra cũng chóng vánh như một hạt sương mai long lanh trên ngọn cỏ trong chốc lát biến mất dưới ánh sáng của mặt trời ! Triết lý hành động của Vạn Hạnh yêu cầu con người phải chủ động nắm lấy quy luật phát triển của sự vật và xã hội để không có gì phải choáng váng khi một biến cố nào đó xảy ra, để tích cực hành động, thúc đẩy lịch sử tiến lên. Cả cuộc đời trên 90 năm của Vạn Hạnh đã thể hiện được trọn vẹn triết lý hành động này. Trong số những đệ tử đến giã từ ông lần cuối và nhận bài kệ thị tịch đó, chắc hẳn không thiếu Lý Thái Tổ. Dáng chừng bài kệ này muốn nhắn gửi trước tiên đến Lý Thái Tổ, vì sự thịnh suy của triều đại còn chóng vánh hơn cả sự có không của thân mạng con người, đây là một triết lý hành động tích cực xuất phát từ những con người đã làm nên thời kỳ oanh liệt của lịch sử đất nước.* Cần lưu ý, đây không chỉ là nhận định của những người theo đuổi sự nghiệp Phật giáo, mà ngay những nhà Nho vốn không mặn mà nếu chưa muốn nói đến kỳ thị, khi nhìn nhận về vai trò của nhà Phật trong đời sống tinh thần của xã hội cũng có những đánh giá cao về thiền sư Vạn Hạnh. Ngô Sĩ Liên là một ví dụ. Nhìn nhận về Lý Thái Tổ, ông cho rằng : “Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về…Có mưu lược của bậc đế vương”, tuy vậy, ông vẫn hạ một câu chê trách : “Duy chỉ có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém (!?)”. Ấy vậy mà, nói về thiền sư Vạn Hạnh, Ngô Sĩ Liên vẫn phải viết : “Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, … đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường*. Cũng như thế, bằng quan điểm của một nho gia, Ngô Thì Sĩ không đồng tình với các nhà sư trong cách hành xử, nhưng vẫn phải nhận định rằng “Vạn Hạnh có kiến thức vượt ra ngoài mọi vật, có thần toán trước cả cơ trời, cũng là đại biểu của dòng thiền”.[Việt sử tiêu án.]** Tất nhiên, những điều đã dẫn ra ở trên không đến từ một khoảng trống lịch sử, mà là đã phát triển một cách logic từ truyền thống văn hóa dân tộc. Thời đại của Vạn Hạnh là thời đại dân tộc đang đấu tranh bền bỉ cho nền độc lập và thống nhất tổ quốc, để có thể xây dựng và phát triển một đất nước thanh bình và một nền Phật giáo hưng thịnh. Vì thế, không chỉ có một bài thơ của Vạn Hạnh. Ngược về trước, còn những bài thơ gợi lên cảm thức hùng vĩ về đất nước, về con người mà bài thơ “Nguyên Hỏa” của đại sư Khuông Việt, và trước đó là bài “Quốc Tộ” của thiền sư Pháp Thuận là những ví dụ sống động về dòng thơ quan tâm đến vận mạng của đất nước, đến cuộc sống của người dân được nhìn nhận như là “dòng thơ chủ lưu của nền văn học Việt Nam”**. Xin nói đôi điều về bài thơ “Nguyên hỏa” [Gốc lửa] của Khuông Việt : Mộc trung nguyên hữu hỏa Nguyên hỏa phục hoàn sanh Nhược vị mộc vô hỏa Toàn toại hà do manh [Trong cây vốn có lửa/ Sẵn lửa, lửa mới sinh ra/ Nếu cây không có lửa/ khi cọ xát sao lại thành]. Đây cũng là một bài kệ thị tịch mà đại sư đã trao lại cho học trò của mình trước khi mất. Hình ảnh ngọn lửa phải chăng là ánh sáng giác ngộ? Không phải tìm một thế giới giác ngộ nào khác ở ngoài cuộc đời mà ta đang sống. Mỗi người đều có thể đạt tới sự giác ngộ, nhận ra được chân lý từ chính cuộc sống của mình. Như lửa vốn có ở trong cây, vấn đề là làm sao cho cây bật lên ngọn lửa. Hình tượng này diễn đạt một triết lý sống, một triết lý dẫn dắt hành động nhằm cứu dân giúp nước của Phật giáo thời kỳ này. Để hiểu hơn điều này, xin dẫn ra mấy câu trong kinh Lục độ tập của học giới Phật giáo Việt Nam thời kỳ ấy : “ Phù hữu tất không, do nhược lưỡng mộc tương toán sinh hỏa, hỏa hoạn thiêu mộc, hỏa mộc câu tận, nhị sự giai không” [Hễ có tất không, giống như hai miếng gỗ cọ nhau mà sinh ra lửa, lửa trở lại đốt gỗ, lửa gỗ đều tiêu hết, hai việc đều không] ** Trước “Nguyên hỏa” của Khuông Việt [930-1011] , bài “Quốc Tộ” [Vận Nước] của thiền sư Pháp Thuận [915-990], một kiệt tác ghi lại dấu ấn của một tầm vóc tư tưởng và triết lý mà đến cả nghìn năm sau, đọc lại vẫn tươi nguyên tính hàm súc, giàu sức thuyết phục : Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh [Vận nước đan xen với nhau như mây quấn/ Đất trời Nam đang hưởng thái bình/ Nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi/ Mọi nơi sẽ không còn chiến tranh] Bời bời vận nước quấn mây Trới Nam mở lượng đó đây thái bình Thiền tâm thấm tận triều đình Thì nhân gian dứt đao binh đời đời Nguyễn Duy dịch thơ Phải trở lại với bối cảnh ra đời của bài thơ mới thấy hết được những ý tứ sâu sắc tiềm ẩn trong hình tượng, trong câu chữ của bài thơ ra đời cách đây hơn 1000 năm. Đó là bối cảnh mà “Việt Giám Thông Khảo Tổng luận” chép : “Nước nhà nhiều nạn, xã tắc lâm nguy, lại thêm giặc Chiêm quấy nhiễu phía nam, quân Tống xâm lăng phía bắc, quyền thần nắm việc nước, người trong nước lìa lòng… họ Đinh dấy lên do ở Tiên Hoàng mà họ Đinh mất đi cũng là do Tiên Hoàng, không phải mệnh trời không giúp, chính là vì mưu của người không ra gì. Lê Đại Hành cầm quyền mười đạo, giữ chức nhiếp chính, vua bé nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị bắt, phá quân Triệu Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng…Cày ruộng tịch điền ở Long Đội, mời người xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của bậc đế vương”.* Bài thơ nói trên chính là câu trả lời của thiền sư Pháp Thuận đối với câu hỏi của nhà vua về vận nước trong bối cảnh thù trong giặc ngoài. Câu hỏi thể hiện một trực cảm của nhà chính trị đứng trước những thử thách khắc nghiệt của một vương triều mới dấy nghiệp, và câu trả lời cũng là một trực cảm chính trị sâu sắc trên nền tảng một triết lý nhân bản thâm hậu. Trọng lực của ý tưởng cũng như sự đúc kết toàn bộ triết lý của tác giả bài thơ dồn vào khái niệm “vô vi”. Vận nước có dài lâu được hay không tùy thuộc vào nhận thức và ứng xử của người gánh vác trọng trách với sơn hà xã tắc, đất trời Nam đang hưởng thái bình liệu có duy trì được tiếp hay không, là do ở chỗ “Vô vi cư điện các. Xứ xứ tức đao binh” [nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi [thì] mọi nơi sẽ không còn chiến tranh”. Chiến tranh ở đây là những cuộc tranh bá đồ vương, nồi da xáo thịt của anh em dòng họ và của các phe nhóm muốn tranh giành ngôi vua, kiếm chác quyền lực mà hệ lụy là loạn lạc, là máu xương đổ lên đầu trăm họ. Loạn 12 sứ quân làm sụp đổ vương triều Ngô, rồi loạn Đỗ Thích giết vua để rồi bị giết và tiếp theo là các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng định mưu phạt Lê Hoàn [Lê Đại Hành] để rồi bị giết, kết thúc vương triều Đinh. Và đồng thời, đáng ngại hơn nữa, là âm mưu xâm lược từ phương Bắc khi mà nhà Tống chấm dứt thời kỳ “ngũ đại thập quốc” và đang bành trướng về phía nam. Tháng tư năm 981 đội quân xâm lược do Hầu Nhân Bảo chỉ huy chia quân làm hai ngả, hòng nuốt chửng quốc gia nhỏ bé không chịu thần phục cứ như cái xương mắc trong họng khiến không nuốt được những miếng mồi ngon phương Nam! Bị đánh tan tác trên cửa sông Bạch Đằng, Hầu Nhân Bảo phải đền mạng. Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh chấp ngôi vua, đem quân đánh lẫn nhau, kết thúc nhà Tiền Lê. Có hiểu bối cảnh đó mới hiểu được ý tưởng của thiền sư Pháp Thuận muốn tác động đến suy nghĩ của người đứng đầu trăm họ. Liệu có phải hai chữ “vô vi” trong bài thơ của ông có gốc gác từ kinh “Lục độ tập” của nhà Phật “Cẩn thận không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bậm của sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che giấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt, đó là vô vi”? ** Xin đọc thêm hai bài thơ sau: Thiền sư Chân Không [1046-1100] trong bài “Cảm Hoài” [Tỏ nỗi lòng] thì lại nói đến khái niệm “vô vi” dưới một chiều cạnh khác : Diệu bản hư vô nhật nhật khoa Hòa phong xuy khởi biến sa bà Nhân nhân tận thức vô vi lạc Nhược đắc vô vi thủy thị gia. [cái bản tính vi diệu trống không ngày ngày có mặt/Gây nên cơn gió hòa ở khắp thế gian/Người người ai cũng biết cái hạnh phúc của vô vi/Phải thể hiện được cái vô vi đó trong cuộc sống mới gọi là nhà] Thiền sư Từ Đạo Hạnh [?-1117] trong bài “Hữu Không” [Có và không] lại cho rằng : Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu, không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không [ Có thì có tự mảy may Không thì cả thế gian này cũng không Kìa xem bóng nguyệt dòng sông Ai hay không có, có không là gì ] Tục truyền theo Huyền Quang Tam Tổ Rõ ràng là “vô vi cư điện các” hàm nghĩa một phẩm chất được hình thành và nuôi dưỡng từ một tư tưởng triết học Phật rất sâu sắc. Mới đây thôi, trong cái ồn ào, bụi bậm của dòng đời thời hiện đại ào ạt tuôn chảy, trong tập thơ đượm màu sắc triết lý “Cỏ dọc đường trần” của Việt Phương, nhà thơ và là nhà nghiên cứu, có hai câu gợi nhiều suy tưởng từ bài thơ có nhan đề là “Nghĩa” dường như muốn diễn đạt sự cảm nhận của mình về tinh thần cơ bản của triết học ấy : “ Không có gì tạo thành tất cả Tất cả đầy những không có gì ”*** Liệu có thể nhận thức rằng “tất cả là không có gì, và không có gì là tất cả” chính là sự thâu tóm một cách đơn giản nhất triết học Phật? Có lẽ phải trên tinh thần đó mới có thể hiểu rõ khái niệm “vô vi” trong bài thơ “Vận nước” của Pháp Thuận. Để có thể “vô vi cư điện các” [triều đình thấm nhuần lẽ vô vi] thì tất nhiên người đứng đầu trăm họ phải là người có trí và có đức. Có được điều đó mới chấm dứt được nạn binh đao khiến muôn dân chịu cảnh lầm than, đem xương máu lót đường cho những mưu ma chước quỷ trong những cuộc tranh bá đồ vương nhằm giành giật cái ghế quyền lực. Oái oăm thay, những con người với những phẩm chất như vậy thường chỉ xuất hiện trong thời kỳ mở đầu cho một triều đại! Rồi triều đại do họ lập nên thịnh suy, dài ngắn ra sao gắn liền với việc những phẩm chất đẹp đẽ như vừa nói của người nắm quyền được gìn giữ, kết thừa và phát huy đến đâu, hay lụn bại dần dần rồi dẫn đến chỗ băng hoại. Người lập nên triều đại Tiền Lê, người anh hùng dân tộc đánh tan quân xâm lược nhà Tống làm rạng rỡ non sông, nhưng rồi khi nằm xuống thì các con trai ông đã giết nhau để tranh ngôi. Lê Long Đỉnh, người tranh được chiếc ngai vàng sau khi giết hết anh em mình, đã không ngồi được trên ngai, mà phải “ngọa triều” để điều hành việc nước! Và thế tất là phải hèn mạt cúi đầu trước nhà Tống để duy trì cho được tư thế “ngọa triều” đó, để rồi chóng vánh chấm dứt triều đại do cha mình lập nên! Và đây là chuyện diễn ra không chỉ một lần trong lịch sử. Sự suy thoái về phẩm chất, về đạo lý của người cầm quyền gắn liền với sự rối ren của thời cuộc, sự ly tán của lòng dân, vận nước gặp buổi khó khăn dẫn tới sự sụp đổ của một triều đại là điều thường thấy, và dường như đã thành quy luật “đẩy thuyền là dân mà lật đổ thuyền cũng là dân”. Chỉ một lời bình được chép trong Đại Việt Sử ký Toàn thư về “Ngọa triều Hoàng đế” đủ diễn tả được quy luật ấy : “Vua làm việc càn rỡ, giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?”! Cũng chẳng cần đến loại “ngọa triều” như Lê Long Đỉnh mới làm sụp đổ chóng vánh một triều đại! Lịch sử đầy rẫy những thảm họa từ bọn vô tài bất tướng, vì những lý do khác nhau mà ngoi lên nắm được quyền hành, đẩy trăm họ đến chỗ lầm than, sơn hà nghiêng ngả, đấy là thời vận nước suy. Điều này chẳng lấy gì khó hiểu. Những người lập nên một triều đại mới thường thường là phải trải qua thời “nằm gai nếm mật” nên hiểu được nguyên lý “đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân” nói trên, do vậy mà biết lo tìm cách “an dân”, “khoan thư sức dân”, thu phục nhân tâm, trọng dụng hiền tài. Nhưng rồi những hậu duệ của họ, nếu không được giáo dục và rèn luyện, thì theo quy luật khắc nghiệt của quyền lực bị tha hóa, sẽ chóng vánh bộc lộ những bệnh hoạn của kẻ ăn trên ngồi trốc nhờ những ngẫu nhiên của lịch sử mà leo được lên, không có “đức”, cũng chẳng có “trí”, thế tất nhanh chóng bị lịch sử phế bỏ! Đó là chuyện xảy ra như cơm bữa, xưa nay đều như vậy! Xem ra, sự diễn đạt hết sức cô đọng quan điểm triết lý “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” trong lời thị tịch của Vạn Hạnh không chỉ biểu lộ một bản lĩnh, một nhân cách mà còn là sự đúc kết một quy luật. Nối liền bài thơ này với hai bài thơ thị tịch trước đó của đại sư Khuông Việt và thiền sư Pháp Thuận dẫn ra ở trên, và sau đó như những bài thơ của thiền sư Viên Chiếu [999-1090], thiền sư Mãn Giác [1052-1096] và nhiều bài thơ Thiền khác nữa mà ở đây không thể kể ra hết được, sẽ thấy rõ một dòng mạch tư tưởng trong nền văn học ghi đậm ảnh hưởng triết học Phật có ý nghĩa lớn thế nào đến vương triều Lý với Lý Thái Tổ. Xin dẫn thêm lời danh nho Ngô Thì Sĩ, cũng trong “Việt sử tiêu án” đã chép ở trên, để hiểu hơn vai trò của văn hóa Phật giáo với những đóng góp lớn lao của họ vào đời sống tinh thần của xã hội ta thông qua các vị danh sư của thế kỷ thứ X và XI : “Văn nhân cũng không thể làm hơn được, không biết học hành dồi mài từ đâu. Anh hùng cái thế ra đời, luôn không thiếu người…”. Chính họ đã giúp sinh thành nên một Lý Thái Tổ với “Chiếu dời đô”.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 21, 2011 8:51:23 GMT 9
Cần lưu ý rằng, trong bối cảnh của xã hội ta thời kỳ này thì nhà chùa không chỉ là trường học mà còn là những trung tâm văn hóa. Hầu hết các lễ hội dân gian hiện đang tồn tại thì xem ra ít nhiều đều gắn bó với nhà chùa, nếu không muốn nói rằng phần lớn xuất phát từ đó. Ba lễ hội lớn như hội Khám, hội Dâu và hội Gióng đều xoay quanh ngày Phật đản, tức là ngày mồng tám tháng tư. Đừng quên là đền Gióng nằm sát cạnh chùa Kiến Sơ và lễ hội thường diễn ra tại chùa. Mồng bảy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu
Kéo về hội Gióng
Trong những lời hát tại lễ hội này, có cả lời hát vào chùa xin lễ :
Vào chùa thắp một nén nhang
Khói lên nghi ngút bốn phương nhà chùa …**
Có thấy ra điều đó mới hiểu được ý nghĩa sâu xa việc Lý Công Uẩn, như “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục” ghi : “Khi lên ba tuổi, sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nuôi làm con, nhân đấy lấy theo họ Lý”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” cũng chép rằng : “Chùa Cổ Pháp ở xã Đình Bảng, huyện đông Ngạn, là nơi trụ trì của Lý Khánh văn. Sử chép Lý Thái Tổ sinh được ba năm thì mẹ ẵm đến đây, được Khánh Văn nhận nuôi. Nay trong chùa có tượng mẹ Lý Thái Tổ”. Sách “Đại Việt Sử Ký Toàn thư” lại chép : “Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng : “Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy, gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”.
Bằng những phân tích dựa trên các dữ liệu sưu tập được, tác giả của “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” đưa ra nhận định : “nếu chùa Lục Tổ là chùa Cổ Pháp đổi tên thì rõ ràng Lý Khánh Văn chính là thiền sư Vạn Hạnh. Người đã nhận cậu bé Lý Công Uẩn làm con nuôi và người thầy dạy dỗ cậu là một…”**
Không đi sâu vào dữ liệu còn tranh cãi, điều cần khẳng định là : tài đức của Lý Thái Tổ, người khai sáng thế kỷ XI, mở ra một trang mới trong lịch sử nước nhà với thủ đô Thăng Long trường tồn cả nghìn năm, trải nghiệm bao thăng trầm biến động không phải ngẫu nhiên mà có. Tài đức ấy, bản lĩnh ấy là do được dạy dỗ, rèn đúc từ ấu thơ bởi những bậc danh sư như thiền sư Vạn Hạnh, một đỉnh cao của tri thức đương thời như đã phân tích ở trên. Mà tầm cao tri thức ấy là do thu góp cả một đời người từng sống qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê để góp phần dựng nên vương triều Lý. Phải chăng vì thế mà gây dựng được nền móng cho một vương triều kéo dài 216 năm, có thể nói là dài hơn bất cứ triều đại nào sau đó.
Chẳng phải bây giờ, mà trước đây, Lý Nhân Tông sống vào nửa thế kỷ sau Van Hạnh, vẫn hết lời ghi nhận công đức của vị thiền sư có công lớn dựng nên cơ nghiệp nhà Lý : “Vạn Hạnh dựng ba cõi/ Thật hợp sấm lời xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy giữ kinh vua”.
Tưởng cũng nên nói thêm đôi điều về Lý Nhân Tông người đã tôn vinh công đức vị danh sư, người thầy của vị vua sáng lập vương triều Lý. Đến Nhân tông, triều Lý đã được 4 đời trải qua 127 năm, Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những minh quân. Sử chép khi sắp mất, Nhân Tông gọi thái úy Lưu Khánh Đàm nhận di chiếu : “…Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! …chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế…”.* Thì ra kiệm ước vì thương dân, tránh chuyện phô trương hình thức trong tang lễ, xây lăng mộ tốn kém đã là vấn đề được đặt ra cả nghìn năm trước khi mà thể chế quốc gia đã đi vào khuôn phép!
“Tiên đế” nói đây là Thánh Tông. Đại Việt sử ký Toàn thư chép : “Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đắt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt”* Kế thừa là kế thừa công đức của vua cha Thái Tông, vị vua được Ngô Sĩ Liên bình như sau : “Cùng lòng cùng đức, tất sự nghiệp có thể thành. Có vua có tôi, gian hiểm nào cũng vượt được. Thái Tông đương lúc đau xót, biến loạn sinh ngay kẻ nách mà vua tôi xử trí gãy gọn phải lẽ, vượt được hiểm nạn làm nên sự nghiệp, tông miếu nhờ đó được vững yên. Không phải là vua tôi gặp gỡ cùng đức cùng lòng mà được như thế ư?”. Đây là nói về chuyện vua nghĩ tình cốt nhục mà tha cho tội mưu phản không thành của hai người em. Phải chăng ẩn chìm trong vấn đề “nghĩ tình cốt nhục” mà tha không giết lại cho phục chức như cũ chính là thực hành triết lý “vô vi cư điện các” mà thiền sư Pháp Thuận đã khuyến cáo?
Chừng nào người đứng đầu trăm họ còn theo đuổi được một triết lý nhân bản, còn nắm được quy luật “nhậm vận thịnh suy, thịnh suy như lộ thảo đầu phô” thì vận nước còn có cơ hưng thịnh. Một khi mà những kẻ cầm quyền suy đốn, nhân tâm lý tán, họa ngoại bang rình rập thì vận nước suy vong. Tuy nhiên, “quốc tộ như đằng lạc” [vận nước đan xen với nhau như mây quấn], sự suy vong của một triều đại chỉ có thể là một sự chuẩn bị cho việc ra đời của một triều đại mới đáp ứng được khát vọng của nhân dân. Mà sức dân thì như nước có thể đẩy thuyền, cũng dư sức lật thuyền! Vả chăng, “thịnh suy nối tiếp nhau chỉ như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ ”. Cái mới đã ươm mầm từ trong cái cũ, và sự ra đời của cái mới là không gì có thể cưỡng lại được!
Thì đấy,“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” [ Đừng bảo xuân tàn hoa cũng rụng hết. Đêm hôm qua, trước sân (rộ) một cành mai]. Đây là lời nhắn gửi của thiền sư Mãn Giác, người sống cùng thời với Lý Thánh Tông, trong bài “Cáo tật thị chúng” [Có bệnh báo mọi người]. Ở đây là một cách diễn đạt khác về điều mà thiền sư Vạn Hạnh khuyến cáo vừa dẫn ở trên: “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” [Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo].
Sự sống thật sự vô cùng vô tận và bất diệt. Đó là vận động bất tận. Mà vận động luôn luôn là tự thân vận động, những cú hích ở bên ngoài chỉ có tác động nhằm thúc đẩy nhanh những “hợp trội” khiến nảy sinh những đột biến, thúc đẩy sự phát triển. Sự tự thân vận động ấy là không sao cưỡng lại được. Thì chẳng thế sao : “Mộc trung nguyên hữu hỏa. Nguyên hỏa phục hoàn sanh” [trong cây vốn có lửa, sẵn lửa, lửa mới sinh ra]. Bởi lẽ “Nhược vị mộc vô hỏa. Toàn toại hà do manh” [nếu cây không có lửa. khi cọ xát sao lại thành?]
Suy ngẫm về ngày kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đang đến gần, gợi nhớ hình ảnh vị vua khai sáng Nhà Lý cách đây mười thể kỷ, đọc lại “Chiếu dời đô” càng thấm thía đến lẽ thịnh suy và vai trò của văn hóa trong sự định hình một triều đại vốn giữ một vị thế hết sức độc đáo trong lịch sử dân tộc. Ở đây là văn hóa thấm nhuần triết lý Phật. Vào thời đó, Phật giáo được xác định như một con đường “mà ngoài xã hội có thể cứu dân giúp nước, còn ở nhà thì có thể phụng thờ cha mẹ và lúc ở một mình có thể dùng để hoàn thiện bản thân” như Mâu Tử đã viết trong Lý Họăc Luận!****
Với tính cách là một lực lượng văn hóa dân tộc, Phật giáo không thể tách rời sự nghiệp đấu tranh thường trực để dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể hiểu vì sao những bài thơ Thiền thấm đãm triết lý Phật dẫn ra ở trên đều hàm chứa mối quan tâm đến vận nước . Chính ở đây, khi nói về về mối tương quan giữa thiên nhiên, đất nước và con người đã thể hiện sâu sắc quan điểm “duyên sanh” cơ bản của triết lý Phật giáo.
Đưa ra những cảm nhận trên đây cốt chỉ để trình bày một nhận thức : được đào luyện từ tấm bé, với một bản lĩnh văn hóa được dày công hun đúc, Lý Công Uẩn đã trở thành Lý Thái Tổ, mở đầu cho một triều đại dài nhất trong lịch sử dân tộc. Xét đến cùng , đó là bài học về văn hóa, mà ở thời đoạn lịch sử thế kỷ XI-XII là sự kết tinh của triết lý Phật, điểm tựa cơ bản nhất của triều đại nhà Lý !
Để kết thúc bài viết, xin chép lại bài thơ “Tức cảnh”, tương truyền là của Lý Công Uẩn lúc còn trẻ. Nhân tình cảnh bị thầy phạt phải trói nằm dưới đất, không ngủ được, đã làm bài thơ tự vịnh :
Thiên vi khâm chẩm địa vi chiên
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm trường thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên
[Trời làm chăn gối, đất làm nệm/ Trời trăng cùng đối diện giấc ngủ của ta/ Đêm tối quá không dám duỗi dài chân/ Chỉ sợ đất nước rối loạn]
Nếu đích thực đây là bài thơ của chàng trai trẻ rồi sẽ sáng lập nên vương triều Lý thì, thơ tức là người, một khí phách, một bản lĩnh. Tưởng cũng chẳng nên bình luận gì thêm. Không có một bản lĩnh văn hóa, không có một điểm tựa đúng đắn và vững vàng về triết lý dẫn dắt cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khó để lập nên một triều đại hưng thịnh và dài lâu. Lý Công Uẩn với “Chiếu đời đô” là một minh chứng sống động về điều lớn lao ấy.
Tượng Lý Thái Tổ trầm mặc bên Hồ Gươm đang nhắc nhở con cháu hôm nay nghĩ về cách ông cha mình đã trả lời “những câu hỏi lớn” của lịch sử như thế nào, và dựa vào đâu để có bản lĩnh trả lời câu hỏi cho vận nước. Dựa vào ông cha, và dựa vào chính mình, dựa vào thế hệ trẻ.
Vì, “Xe vẫn chạy nghìn đời…Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từng đi chuyến trước, Những chuyến xe không có khứ hồi” [Chế Lan Viên. “Di cảo thơ” ]. Sự nghiệp của ông cha để lại, vận mệnh của dân tộc “sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên...Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm : họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào”. 4
Chú thích :
+ Gustave le Bon “Tâm lý học đám đông”NXB Tri thu7c12008, tr.213
* Đại Việt Sử ký Toàn thư. Tập 1. NXBKHXH Hà Nội 1998, tr.241, tr.122, tr.247, tr.233, tr.250, tr.240, tr.271
** Lê Mạnh Thát. “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”.Tập II. NXBTổng Hợp TPHCM. 2006, tr. 363, tr.442, tr. 450, tr.365, tr.395
*** Việt Phương “Cỏ dọc đường trân”. NXB Hội Nhà văn.2010, tr.46
**** Thơ Thiền Lý Trần. “Lời nói đầu” . NXB Văn hóa Sài Gòn. 2005, tr.7.
***** C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập , Tập XXI. NXBCTQG . Hà Nội, 1995 tr..128
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 5:03:11 GMT 9
Chùa-Một-Cột qua lăng-kính Việt Dịch
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Từ cuối năm 1995, sau khi đã thấy rõ 36 quân của Trò Khép-Mở KIANO Close-Open Game [một trò-chơi kết-tinh giữa Văn-hóa truyền-thống của Việt-Nam (mà hình ảnh mâm Bánh-Dầy và Đồng Bánh-Chưng lớn buộc bằng 4 lạt, từ thời Tổ Hùng-Vương truyền ngôi cho con-thứ Lang-Liêu, là chính) và luật đối-xứng quân-bình của thiên-nhiên (mọi sinh-vật đều có trục đối-xứng quân-bình tự-thân để dễ tồn-tại)] là 64 tượng-quẻ của Việt Dịch, tôi nhận ra những di-tích của Văn-Minh Việt-Nam (như Gậy-Thần 9 đốt, Thành Cổ-Loa, Chùa-Một-Cột...) xuất-phát từ Việt Dịch (1). Thí-dụ như quẻ Sơn-Lôi-Di là hình ảnh chiếc-thuyền-con hay cái-võng mà Đại-Đế Quang-Trung đã ra lệnh cho quân sĩ xử-dụng trong cuộc hành-quân thần-tốc ra Thăng-Long đánh đuổi quân Thanh vào năm Kỷ-Dậu 1789. Quẻ Hỏa-Thiên-Đại-Hữu là hình Thập-Tự-giá của Thiên-Chúa-Giáo... Và quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc thì rõ-ràng là hình-ảnh Chùa-Một-Cột, một kỳ-quan của Việt-Nam.Tôi cho rằng người nghĩ ra và cho xây-dựng Chùa-Một-Cột là một nhà Việt-Dịch, hoặc nếu là một Thiền-Sư thì ít ra vị này cũng làu thông Tam-giáo và Việt-Dịch. Vào tháng 10 năm 1990, trong khi giảng về chữ "Tâm", nhân dịp Thiền-Sư Thích-Thanh-Từ dẫn một phái-oàn Tăng Ni và Cư-Sĩ Phật-Tử ghé thăm Hà-Nội, Hòa-Thượng Pháp-Chủ Phật-Giáo Việt-Nam Thích-Đức-Nhuận có nói:"Cái Thái-Cực trong Dịch chính là Chân-Tâm trong Phật-Học vậy". Suy-xét về tượng-quẻ của Việt-Dịch và hình ảnh thực-tế, ta thấy có sự đồng-nhất: Tượng-quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc Hình vẽ đơn-giản & theo Việt-Dịch Chùa-Một-Cột O . 0 0 . . 0 0 . . O . O . O . Trước đây, qua cuốn Việt-Nam Văn-học Toàn-thư (3) và gần đây là "Tập Kỷ-Yếu về Hòa-Thượng Pháp-Chủ" (4) có nói đến Sự-tích Chùa-Một-Cột, nhất là trên tấm bia tại chùa Long-Đọi (Nam-Hà Bắc-phần Việt-Nam). Hai tài-liệu cho chúng ta thấy Chùa-Một-Cột có tên chữ là Chùa Diên-Hựu: Vào thời thịnh-đạt của Phật-Giáo (hay nói đúng hơn, Việt dung Tam-giáo), năm 1049, một hôm vua Lý-Thái-Tôn nằm mộng thấy Phật-Bà-Quàn-Âm hiện ra, đưa nhà vua đến một tòa sen rạng-ngời ánh-sáng. Sau khi tỉnh dậy, Vua thuật lại câu chuyện cho triều-thần cùng nghe. Thiền-Tăng Thuyền-Lão, vị Sư đã hướng-dẫn nhà vua trên đường đạo-hạnh, bàn cùng Vua nên dựng một ngôi chùa để kỷ-niệm và nhớ ơn Đức Quán-Âm. Chùa được xây giữa hồ Linh-Chiếu, trong vườn Tây-Cấm gần Kinh-đô Thăng-Long. Về chi-tiết, Chùa Diên-Hựu được dựng trên một cây cột lớn độc nhất, đỉnh cột là một bông sen nghìn cánh, trên bông sen đặt một tòa nhà đỏ-tía và trong nhà có tượng-Phật-mình-vàng. Kiến-trúc ngôi Chùa đặc-biệt này theo nghệ-thuật Đại-La thời Nhà Lý. Bông sen nghìn cánh tượng trưng cho trí-tuệ viên-mãn: Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng. Nhụy vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (ca-dao) Chùa-Một-Cột hàm-chứa ước-vọng của người Việt, đã đồng-nhất Đức-Phật, hiện-thân của trí-tuệ vô-biên với nguồn sinh-lực vĩnh-cửu của Đất-Trời. Nguồn sinh-lực này chảy qua cột đá, truyền xuống Đất và Nước để bừng trở lên một cuộc sống hạnh-phúc cho thế-gian. Ý-thức nọ và biểu-tượng kia đã đủ là một thách-thức hào-hùng đủ trấn-áp và làm triệt-tiêu ảnh-hưởng và vết-tích Cột-Đồng-Mã-Viện của thực-dân Hán ngày trước và máy-chém của thực-dân trắng sau này: “Đồng Trung-Hoa đến mang làm cột, Máy Pháp-Lan sang để chém người” (Lý-Đông-A/ Đ.T.N.) Chùa-Một-Cột cũng như"Nhà Việt-Nam ở trên Trời" không khác gì ý-nghĩa câu: "Tuyệt nhiên định phận tại thiên-thư" (Lý-Thường-Kiệt) hoàn-toàn phù-hợp với giai-đoạn đầu của thời-kỳ khẳng-định nền Độc-Lập Dân-Tộc. Hiện nay ngôi Chùa-Một-Cột vẫn còn tồn-tại trên đất Thăng-Long, Việt-Nam. Và một ngôi Chùa-Một-Cột khác cũng đã được Hòa-Thượng Thích-Trí-Dũng tôn-tạo tại Thủ-Đức, miền Nam Việt-Nam từ năm 1958 với tên chữ là Nam-Thiên-Nhất-Trụ. Về phương-diện Lý-Dịch, tượng Sơn-Thiên Đại-Súc trong Việt-Dịch là "núi ở trên Trời" như có ý nhắn-nhủ kẻ thù phương Bắc rằng "Các người không thể tiêu-diệt được Dân-Tộc ta đâu, Trời đã định vậy, Trời nâng-đỡ chúng tao!”. Riêng hai chữ "Diên-Hựu" đã đầy đủ ý-nghĩa của sự "hiện-hữu lâu dài"; nay qua Việt-Dịch, ta còn thấy có thêm ý-nghĩa "chất-chứa đại-thể cao-cả” của tượng-quẻ Đại-Súc nữa, thật là dịêu-kỳ. Các vị Thiền-gia Đạo cao Đức trọng, làu thông Phật và Dịch, luôn có tấm lòng Đại-Bi lo cho sự tồn-vong của Dân-Tộc, một nền Độc-lập và cường-thịnh cho Dân Nước qua những biểu-tượng: - Độc-lập (một cột). - Diên-Hựu (hiện-hữu lâu bền) - Đại-Súc (chất chứa những điều cao-cả, thịnh-vượng) - Đạo-hạnh (như hoa-sen trong đầm bùn, như nhà trên Trời, không ô-trọc, cao-cả) đầy-đủ Chân – Thiện – Mỹ vậy. Chùa Một-Cột Diên-Hựu, qua lăng-kính Việt-Dịch, như một nhắn gửi, khuyên răn những kẻ theo khuynh-hướng độc-tôn cần biết hối-cải, lo cho đại bộ-phận Dân-Tộc: Không chỉ độc-lập xuông (thực sự hay chỉ là chiêu-bài?) mà còn phải gồm cả thịnh-vượng cho toàn-dân! Biểu-tượng Chùa-Một-Cột, vượt thời-gian và không-gian, vẫn mãi mãi là hình-ảnh hào-hùng, một ước-vọng chính-đáng của Dân-Tộc Việt-Nam. Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Thủ-Đô Hoa-Kỳ, tháng 7 năm Đinh-Sửu 1997 Chú-thích- Xem ‘Văn-Minh Chế-tác của Nòi Việt’, sẽ công-bố, của cùng tác-giả. Tạp-chí Nguồn-Đạo, chùa Giác-Hoàng phát-hành 1994. của Hoàng-Trọng-Miên, xuất-bản 1976 Hoa-Kỳ. Bài "Đôi lần yết-kiến Đức Pháp-Chủ” của G.S. Trần Lâm Biền, trang 126. Phụ chú: Dường như tại Thành Lục-Niên ở Thanh-Hóa, dưới thời Vạn-Thắng-Vương Đinh-Tiên-Hoàng cũng có di-tích một Chùa-Một-Cột. Thành Đại-La cũng được xây-dựng vào thời Nhà Lý (1009-1225), tiều Lý-Thái-Tổ; khi dời Đô đến, vì thấy Rồng xuất-hiện, Vua mới đổi tên là Thăng-Long-Thành. Thành này có kiến-trúc phối-trí theo hình 8 quái (Văn-Minh Việt-Nam / Lê-Văn-Siêu). Xin đề-cập vào một dịp khác. Tại Thủ-Đức, gần Sài-Gòn, Chùa "Nam-Thiên-Nhất-Trụ" cũng còn được gọi là Chùa Diên-Hựu II. Bề cao xử-dụng trong lòng Chùa cao hơn Chùa chính ở Hà-Nội một chút nên việc đi đứng trong Chùa tương-đối thoải-mái hơn. Chùa do Hòa-Thượng Thích-Trí-Dũng tôn-tạo vào năm 1958. Khuôn viên Chùa có nhiều công-trình phụ, gồm cảtượng Phật lộ-thiên, tháp ‘Báo-Ân’, Nhà Tổ . v . v . Chùa vẫn có tượng-quẻ Đại-Súc và bao-hàm ý-nghĩa Độc-lập Tự-chủ và phồn-vinh cho Dân-Tộc. Được biết, trong tương-lai, Thượng-Tọa Thích-Thanh-Ngọc sẽ là người kế-thừa Trụ-trì Thắng-tích Nam-Thiên-Nhất-Trụ này.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 3:16:47 GMT 9
Đại địa mạch quốc gia Trần Thanh Vân Ảnh : Sơ đồ đại địa mạch Chuyện 700 năm trước Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống. Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau: Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận Người giỏi bày trận thì không cần đánh Người giỏi đánh thì không thua Người khéo thua thì không chết Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ. Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long. Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta? Khi bí mật không còn là bí mật Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước. Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả. Cái chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không? Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch” Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu… Thế nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne? Am Mỵ Châu thờ ai? Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau. Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta. Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi: - Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không? - Dạ không Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa. Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.” - Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không? - Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay. - Vậy làm cách nào để khắc phục? - Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không? - Có ạ, có ạ! - Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán. Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!”
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 7, 2011 3:16:42 GMT 9
Vài chuyện phù thủy Đông và Tây. Vietsciences- Bùi Trọng Liễu Chuyện phù thủy thì dẫn cả chục cuốn sách cũng không hết. Tôi chỉ muốn nói tới vài chuyện gây “ấn tượng” cho tôi.Thuở nhỏ tôi về quê, tôi thuờng nghe mấy người lớn kể chuyện phù thủy. Có ông phù thủy ra chợ, đi rảo qua mấy hàng bánh đúc, đe rằng ông ta đang dẫn theo âm binh, nếu không “cúng” ông ta mấy đĩa bánh để nuôi âm binh, thì chúng sẽ “vầy” làm cho bánh đúc bị thiu, không bán cho ai được cả. Có người tin ngay, có người chưa tin nhưng mùa hè, thời đó không có tủ lạnh, bánh đúc chậm bán, để lâu thì tự nó cũng thiu; rốt cục ai cũng tin. Ông ta vì bịp mà được ăn không trả tiền. Rồi lại có câu chuyện phù thủy phù phép cho cái hình nộm bằng rơm “đi” được trên cái mâm đồng, bà con ở quê sợ tay phù thuỷ này lắm. Sau Cách mạng mới được giải thích như sau : dưới chân cái hình nộm có độn mấy con ốc đã bị để khát từ lâu, trên mặt mâm đồng, bôi 2 dòng nuớc; ốc đang khát, cứ moi theo đường nước bôi mà uống nên cái hình nộm di chuyển được là như vậy. Tôi chỉ nghe kể mà chưa được chứng kiến, nên không dám khẳng định là đúng hay sai, theo nghĩa khả thi hay không. Chỉ có điều là tôi đã không tin ma quỉ, thì cũng chẳng tin phù thủy! Mới đây, tôi đọc thấy bài “Vuốt đùi, vuốt ngực chữa bách bệnh” Tôi dẫn vài đoạn: “Lấy được tiền lại thỏa máu... dê […]. Đàn ông thì thầy chữa chớp nhoáng, còn phụ nữ thì thầy bảo xắn quần lên cao, vén áo qua ngực rồi hồn nhiên dùng tay điểm, vuốt. Có cô đau mắt mà bị thầy vuốt ngực tới 20 phút […]. Theo người dân địa phương, có lúc hàng chục khách cùng thuê ô tô từ Long An lên rồi thuê phòng trọ ở lại 5-10 ngày để chờ thầy chữa bệnh […]”. Hoặc, bài “Nườm nượp đi sờ đầu rùa, đánh trống cầu may” “Chiều 2/7, Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) kẹt cứng người đến cầu may trước ngày thi ĐH. để cầu may. Nhiều sỹ tử còn tranh thủ đến những nơi như đền, chùa, miếu, phủ...”. Thời nay lắm chuyện lạ kỳ, khó tả, nhảm nhí chẳng kém hoặc còn hơn cả thời xưa. Quỉ thần cũng được thương mại hóa, được trả “thù lao” bằng huơng nến, vàng mã. Có lẽ do xã hội không ổn nên một số người muốn dựa vào cái mà họ gọi là “tâm linh” để tìm một sự an bình nào đó chăng? Rồi có một lũ vua bịp, thấy có “cầu” nên sẵn sàng “cung”, theo một cái học thuyết mới được chế biến nào đó. Dù sao, đó chỉ mới là những chuyện bịp bợm ở mức độ cá nhân, lẽ ra chính quyền nên biết ngăn cấm; nhưng chỉ một số người cả tin bị lừa thì cũng chưa tại hại lắm. Cái tai hại lớn có lẽ là “tư duy phù thủy” nằm chềnh ềnh ngay trong bộ máy hành chính chính quyền. Chắc chẳng cần triển khai dài dòng những “thiên biến vạn hóa” giữa những từ ngữ xì ra nhưng với ý nghĩa ngược lại, những quyết định với những lý lẽ nêu ra và thực tế của kết quả. Ở đây, tôi cũng muốn đề cập đến một vế khác của chuyện phù thủy “sạch” hơn: phù thủy thành thực nhưng “non” tay ấn. Đó là chuyện “phù thủy tập việc”. Khởi thủy, là nội dung một bài thơ (1797) của văn hào Đức J.W. von Goethe (tiếng Đức là Der Zauberlehrling, tiếng Pháp dịch là L’apprenti sorcier) ; trăm năm sau gợi hứng cho nhà soạn nhạc Pháp Paul Dukas viết bản nhạc giao hưởng vui scherzo symphonique (1897) ; rồi nhà làm phim Mỹ Walt Disney đưa vào cuốn phim hoạt họa Fantasia (1940) mà vai trò « phù thủy tập việc » là chú chuột Mickey. Nội dung câu chuyện đại khái như sau. Một cậu học nghề phù thủy, được ông chủ, phù thủy, trước khi đi vắng, giao cho nhiệm vụ đổ nước quét nhà. Đáng lẽ phải tự làm, cậu ta phù phép, sai cái chổi làm việc thay mình. Không dè học chưa thấu, niệm thần chú thế nào mà từ một cái chổi, một thùng nước, biến thành mười thành trăm, nước đổ lênh láng lụt cả nhà của chủ, cậu ta không biết làm cách nào ngưng lại được. Thoạt đầu, tôi ngỡ dịch Der Zauberlehrling ra tiếng Việt là dễ, ai dè khó hơn tưởng : “Phù thủy tập tễnh”, “Học trò phù thủy” , “Kẻ tập làm phù thủy”, “Gã học dỏm làm phù thủy”, vv. nghe ra không thoát hết nghĩa, vì ngày nay ở phương Tây, người ta quen dùng cách gọi này để chỉ một kẻ không có “tầm” (chữ có dấu huyền), học chưa thấu, hiểu biết lõm bõm, mà đã tưởng là mình khôn, đua đòi thực hiện để rồi gây ra tai họa. Chuyện gốc thì hài hước như vậy. Nhưng sự đời ở thế kỉ 21 này thì không như thế. Không thiếu lĩnh vực bị những gã “phù thủy tập tễnh” gây ra tai họa như trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, giáo dục đào tạo, kinh tế, kiến trúc, bảo tồn di tích, khai thác tài nguyên, vv. Đào tạo ra những loại người học giả bằng thật, tất nhiên họ chỉ có thể là những chuyên gia dỏm ; để rồi khi được đề bạt chức vụ cao, họ có thể có những quyết định bất cập, quái gở, thí dụ như lựa chọn những giải pháp kinh tế lạ kỳ, hay những đề án khai thác tài nguyên tưởng rằng béo bở, mà không thấy những hậu quả tai hại lâu dài. Câu chuyện “phù thủy tập việc”, cũng làm liên tưởng đến câu chuyện cái “hộp của Pandora”, tóm tắt là chuyện cái hộp mà chúa tể các thần Hy-lạp trên trời trao cho nàng Pandora làm của hồi môn khi nàng này được xuống trần gian lấy chồng. Trao cho cái hộp, nhưng lại dặn là đừng mở ra; nhưng nàng này xuống trần gian rồi, tò mò mở ra xem. Thế là bao nhiêu cái xấu, khổ ải, tai họa, đang nhốt trong đó, tuồn tuột theo nhau chui ra. Nàng hãi quá, vội đậy cái nắp hộp lại, nhưng không kịp nữa, vv ( Xem video Julie Zenatti & MC Solaar - La boîte de Pandore ) Ngày nay, ở phương Tây, người ta quen dùng cụm từ này để khuyên kẻ chưa đủ “tầm”, thì đừng đụng vào những việc khó ; đụng vào nó rồi thì gây ra hậu quả tai hại, cuống queo muốn sửa cũng không kịp nữa. Hay nói một cách dân dã dễ hiểu như trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân: « [để] rắm đã lìa trôn, còn [cố] đưa tay bịt » – (theo bản dịch của Phan Quân, nxb Khai Trí, Sài Gòn). Nhưng đó là nói với những người còn có “tâm” (chữ không có dấu huyền). Chứ với nguời không còn “tâm”, thì ta có câu tục ngữ : “Tham thì thâm, Bụt đã nhủ thầm rằng chớ có tham”. “Thâm” đây – (theo Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê) – mang nghĩa “lạm vào một khoản tiền khác”, thí dụ như vì lợi riêng mà tiêu lạm vào ngân quĩ chung, nghĩa là lạm vào ngân quĩ của dân, từ thuế, từ tài sản của Đất nước. Bụt đã nhủ như vậy, nhưng nếu họ cứ tham, thì sao? Có lẽ chỉ Bụt mới biết câu trả lời! Tìm trong từ điển, tôi chưa thấy có từ nào để chỉ những loại sự việc kể trên xảy ra ở xã hội ta, chúng không thuộc một thứ lôgic nào cả, có lẽ chúng gần gụi với một thứ “tâm linh” nào đó, đồng thời chúng rất kỳ dị, hơn cả phép phù thủy. Không biết gọi chúng là “u dị” – “u” nghĩa là “tối tăm” – có phù hợp không? Đã đăng trên Diễn Đàn: Xin mời đọc trang www.buitronglieu.net
|
|