|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:51:45 GMT 9
Lê Mỹ Hân với MỘT NGƯỜI MỘT ĐỜI Nguon vietnamexodus
Năm 2000, nhà văn Frank McCourt kể lại thời thơ ấu bi thảm của ông ở Ireland trong quyển hồi ký nổi tiếng Angela's Ashes. Cũng Năm 2000, Lê Mỹ Hân lấy chồng Nhật rời bỏ quê hương, cô kể lại cuộc đời của mình ở Việt Nam xuyên qua cuốn ký sự MỘT NGƯỜI MỘT ĐỜI, được Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2008.
Tương tự như McCourt, lời văn kể chuyện của Lê Mỹ Hân nhẹ nhàng, giản dị, chân thật và không hề oán trách. Đôi lúc câu văn của cô viết rất dí dỏm, bình thản trên cả nỗi đau của riêng mình, mang lại cho độc giả hình ảnh thân phận của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam.
Theo McCourt, vào thập niên 30, khi ông được 3 tuổi. Vì không có việc làm ở NewYork nên cha mẹ ông đã quyết định quay trở về Ireland sinh sống. Rất tiếc, Lê Mỹ Hân không được may mắn như McCourt. Cô sinh trưởng ở miền Bắc Cộng sản Việt Nam vào cuối thập niên 60, Lê Mỹ Hân biết rõ những mặt trái của xã hội miền Bắc thời chiến tranh; sau 1975 vào Nam theo gia đình, Lê Mỹ Hân lại là nhân chứng sống cho cuộc đời người dân miền Nam sau ngày bị “giải phóng”. Ký sự của Lê Mỹ Hân đã khiến cho độc giả đi từ ngạc nhiên đến xúc cảm về thân phận của người Việt Nam, nhất là phụ nữ. Tuy vậy, người phụ nữ Việt Nam trong Một Người Một Đời vẫn mơ ước một ngày mai tươi sáng; ngày mai đối với họ là một bước gần hơn đến tương lai.
Một Người Một Đời được gói gọn trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, vỏn vẹn đúng một tháng từ nước Nhật xa xôi về thăm lại người thân ở Việt Nam. Lê Mỹ Hân đã đưa ta đi hết cả một khoảng đời từ ngày còn là cô bé mới biết yêu nơi xứ Bắc xa xôi nghèo khổ. Đến những năm tháng bơ vơ mất mẹ phải bươn chải kiếm sống ở tỉnh Bến Tre, một cái cù lao giữa mênh mông sông nước trĩu nặng biết bao phận người. Và ngay cả Sài Gòn, dẫu là một nơi chốn tạm dung với bao khắc nghiệt của đời sống đô thị, lại chính là cửa ngõ để ước mơ của cô gái nghèo tỉnh nhỏ bay cao, vươn xa tới những chân trời mới. Mà những mảnh đời, những cảnh sống của bạn bè, người thân của tác giả hiện ra thật gần gũi, sống động.
Tôi xa quê từ bé. Hà Nội, miền Bắc thân thương của tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức về mặt hồ Tây lãng đãng sương mù một buổi sáng mùa Đông. Mẹ tôi mặc chiếc áo nhung đen choàng tấm khăn san tím nhạt, tay cầm bó hoa trên đường lên chùa Trấn Quốc. Qua Lê Mỹ Hân, tôi được biết thêm về một miền Cao nguyên Tây Bắc "rừng thiêng nước độc", một đời sống khốn khó lầm than của người dân trong suốt mấy chục năm dài dưới chế độ cộng sản. Cái nghèo khổ, lạc hậu, cái lối sống mòn mỏi đắng cay của những người đàn bà lam lũ phải oằn mình gánh hết trên vai, những nhọc nhằn trong thời chiến tranh như bà mẹ của cô đã phải chịu đựng:
"Mẹ, người thiếu phụ lam lũ tối đến vẫn thắp đèn dầu tù mù ngồi may đồ cho khách. Mẹ trong bộ quần áo công nhân, đầu quấn khăn che kín đang cố sức mình đẩy cái cái cối xay bột để chuẩn bị làm bánh cho ngày hôm sau. Mẹ phải đổi công việc liên tục, lúc chăn nuôi, lúc làm bánh, lúc nấu phở, bất kể công việc dù khó nhọc như thế nào mẹ cũng chẳng hề kêu ca. Nhà đông con, mấy chị em tụi tôi xúm vào mỗi người một tay đỡ đần cho mẹ. Tôi và chị Phương thường phải lên rừng lấy lá chuối về bán kiếm tiền thêm, lần nào chị em tôi cũng phải leo qua mấy quả đồi mới chặt được một bao lá chuối, bán được vài đồng, tiền đó đều đưa cho mẹ giữ” (Trg 166)
Sau ngày 30 tháng 4 năm 75, dù đất nước đã thống nhất (như lời Cộng Sản ca tụng) thân phận người đàn bà vẫn chẳng có gì khác, nếu không nói là còn cực nhọc tủi nhục hơn. Những người mà tác giả quen biết, thân cận, hầu như ai cũng có số phận không may, cũng bị quay cuồng vùi dập trong biển đời mênh mông. Và mỗi phận người trôi dạt lại cho ta thấy thêm một cảnh sống buồn thảm: Chị Sáu Lem, chị Bông Giấy dở dang trong cuộc sống gia đình phải tìm niềm an ủi từ những người tình đồng giới; Chị Nguyệt, chị Yến với những ước mơ về hạnh phúc vỡ vụn; Sương, Thương với những mối tình đến rồi đi không hy vọng; Má Duyên, cả đời đi tìm "cái nửa" mình đánh mất. Thế nhưng, cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt kết quả chỉ là con số không. Kể cả Trâm và chính tác giả đang sống tha hương cùng người chồng ngoại quốc nơi xứ người, mà ngày qua ngày càng nặng thêm sự bất an ...
"Chồng của Trâm keo kiệt bủn xỉn, tuy khá giả nhưng ông không dám ăn xài, chỉ bo bo cất tiền trong nhà băng. Trâm than vãn với tôi về cuộc sống nghẹt thở của vợ chồng nó, đôi khi muốn bỏ quách ông về Việt Nam cho rồi, nhưng lại thương con. Tôi an ủi: - Thì ông kẹo, mai mốt tiền bạc để dành cho mẹ con Trâm chứ cho ai? Chết có mang theo được đâu nào. Trâm cằn nhằn: - Bực mình lắm. Bà không phải là người trong cuộc, bà không hiểu đâu. Rồi thì bao nhiêu nỗi ấm ức bực dọc Trâm tuôn ra bằng sạch. Có lần tôi kiên nhẫn lắng nghe điện thoại của Trâm cả hai tiếng đồng hồ chỉ tâm sự mỗi chuyện chồng con nó…” (Trg 129)
Hay cũng như chính lời tác giả tâm sự với chị Yến khi được chị hỏi rằng hiện giờ cô sống với chồng có hạnh phúc không.
"Nghe chị hỏi, tôi khựng lại giây phút. Thật tình, tôi cũng chẳng biết mình có hạnh phúc hay không, nói đúng ra tôi chưa biết thế nào thì gọi là hạnh phúc" (Trg 451)
Tác giả là người sinh ra và trưởng thành ở miền Bắc, nhưng lại may mắn có một khoảng thời gian dài sống ở miền Nam (14 năm). Nên trong Một Người Một Đời, cái giọng văn chơn chớt Nam bộ được cô thể hiện khá sắc nét. Tôi mê cái lối tả chân của cô qua những hồi ức trần trụi cộng với văn phong đơn giản, gãy gọn đã tạo nên một hấp lực càng ngày càng lôi cuốn người đọc. Thật là thú vi khi nghe cô kể chuyện thím Ba, cô gái xứ dừa từng che dấu cán bộ Cộng Sản thời chiến tranh, nhưng sau này đã có ý nghĩ ngược lại:
"Trời đất ơi! Ông Nguyễn Văn Tý ơi! Thầy Doanh của tôi ơi! Nếu ông nhạc sĩ mà gặp thím Ba tôi trước, thấy được dáng người ục ịch, mái tóc xác xơ, cùng với hàm răng cửa rụng mất vài cái và một tấm lưng đầy vết thẹo bị tra tấn thời đi mần cách mạng. Hơn nữa khi được nghe chính miệng thím Ba, người con gái năm xưa "đi trong lửa đạn, đi như nước lũ tràn về", mặt đỏ bừng, mắt long sòng sọc cất tiếng: "Xí... còn phia à. Tao ngu một lần thôi chớ, đâu có lần thứ hai nữa con. Tao kiu cảnh sát, chỉ từng hầm tụi nó chui rúc bên dưới, còng đầu từng thằng một cho coi!" Thì không biết ông có còn cảm hứng nổi để viết lên được làn điệu dân ca Nam Bộ vừa hào hùng vừa ngọt ngào này nữa chăng? (Trg 61)
Ẩn dấu sau những lời dẫn chuyện mộc mạc miên man của Mỹ Hân là rất nhiều nỗi buồn. Không chỉ Một Đời của riêng cô, mà hầu hết những mảnh đời cô nhắc đến. Mỗi hoàn cảnh lại làm cho ta ái ngại, cảm thương theo từng cách khác nhau. Cái xã hội mà họ đang sống, cuộc sống mà họ đang trải qua, như một bức tranh đầy những vệt màu buồn thảm, nhàu nát và tăm tối. Tương lai là một cái gì mù mịt và xa vời, không hứa hẹn mà cũng chẳng đợi chờ. Đợi chờ gì ở cái xã hội mà tác giả phải thốt lên:
"Nghe cô em kể chuyện mà tôi não hết cả ruột gan. Con người sống trong xã hội này càng ngày càng tồi bại, đất nước gì đâu mà quan lớn ăn lớn, quan nhỏ ăn nhỏ, đến mấy thằng bảo vệ tép riu cũng kéo bè phái để nhũng nhiễu người dân. Mở miệng ra là hỏi tiền, không tiền chỉ có nước chết! Tôi và thằng Út đưa mắt nhìn nhau im lặng không nói năng gì.” (Trg 399)
Hay đoạn viết về cuộc viếng thăm người anh ở tù:
“Chuyện vòi vĩnh đòi hối lộ của viên chức có tí máu mặt ở chế độ này xảy ra thường ngày, chẳng có gì là lạ lẫm đối với tôi. Nhưng kiếm ăn cả trên cái thây người tù sida sắp sửa lìa cõi trần thì quả thật không còn lời gì để nói nữa, tôi chỉ biết buông tiếng tiếng thở dài... ngán ngẩm thay cho sự đời, cho tình người... vì đồng tiền mà biết chất tất tật." (Trg 347)
Những ngày cuối năm và ngày Tết Nguyên Đán là thời khắc tuyệt diệu nhất của một năm. Tất cả những nhọc nhằn lo toan trong cuộc sống đều tạm xếp lại, người ta nô nức chuẩn bị đón năm mới với ước vọng được thay đổi, được bắt đầu lại, một cách tốt đẹp hơn, đầy đủ và trọn vẹn hơn. Nhưng chỉ thấy Mỹ Hân nhớ về những ngày tháng cũ, chỉ nhìn thấy cô xót xa nuối tiếc cho những kỷ niệm và những người thân, bạn bè cũ, quanh cô. Đàng sau những câu văn giản dị đôi lúc có chỗ thô mộc quen thuộc của cô lúc nào cũng như có những tiếng thở dài. Cuộc sống sao mà buồn! Đời sống sao mà mỏi mệt! Những ngày tháng sống ở xứ người cũng chỉ làm cô thêm nhớ thêm thương chốn quê nhà bỏ lại với thật nhiều nước mắt. Những nụ cười hiếm hoi và phận người mỏng tựa lá cỏ, thấp bé, nhỏ nhoi.
Không phải chỉ Một Người, Một Đời. Tôi nghe thấy tiếng nói của nhiều người, nhiều cuộc đời. Những cuộc đời tơi tả, buồn hiu. Những con người thảm thương vất vưởng trong một đời sống bất an quạnh quẽ. Tôi thấy thương cảm cho họ, như thương cảm cho phần đất quê hương đã mất của mình suốt mấy chục năm qua. Mà chưa thể, không biết làm cách nào thay đổi được. Như chính lời kết, như lời than thở của tác giả, dù ở chốn xa hay sống tại xứ mình, thì vẫn cũng chỉ mang nặng niềm xót xa và tuyệt vọng:
"Thật sự, nếu không phải vì con, vì gia đình, tôi sẽ không trở lại nơi này. Quê hương của tôi bây giờ chẳng phải là "chùm khế ngọt", đạo đức suy đồi, xã hội ngày một phân hóa, kẻ giàu, người nghèo cách biệt quá chừng chừng. Đất nước gì đâu mà thứ gì cũng phải nói đến "đồng tiền". Không có tiền chẳng ai coi mình ra gì, không có tiền họ coi mình như rơm như rác. Tình cảm xóm giềng thân ái ngày xưa giờ đã trôi tuột về đâu? Nói như vậy không phải tôi bội bạc gì với quê hương, bởi quê hương vẫn luôn canh cánh trong lòng. Quê hương ơi! từ thủa tôi nằm nôi rồi lớn dần lên theo lời ru à ơi của mẹ. Từ con suối cũ, gốc đa đầu làng... Quê hương.... nơi mỗi góc phố, mỗi con đường từng kỷ vật ngày xưa đều gợi nhắc trong tôi đến một thời không thể nào quên được. Quê hương... Quê hương của tôi giờ như manh chiếu rách, vá víu trăm đầu. Bỏ thì không sao bỏ được, thương quá là thương, mà vương thì tội ơi là tội.
..Tôi nằm đó nghĩ đến từng người, từng mảnh đời rách tươm, khốn khổ... Tôi mơ một ngày mai..."
Và, cũng như tác giả, tôi mơ về một ngày mai tươi sáng hơn.
Tôi đọc Một Người Một Đời để hiểu và cảm nhận thân phận của người phụ nữ Việt Nam sống trong chế độ Cộng sản. Một Người Một Đời, theo thiển ý của tôi là quyển sách nên có trong tủ sách gia đình.
Trần Thị Tường Vân
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:52:47 GMT 9
Hèn
Tôi đang đứng trước cổng khách sạn New Otani trong một ngày đầu Xuân có mưa phùn nhẹ. Bên cạnh tôi là một số bà con đồng hương người Việt tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trong gió, cùng biểu ngữ có hình ảnh Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị bàn tay hộ pháp của tên công an chìm bịt miệng ông. Tất cả đang hào hứng dàn hàng chờ đón Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nông Đức Mạnh cùng tùy tùng đến thăm hữu nghị Nhật Bản.
Lần này, ông Mạnh đến Nhật trong chuyến viếng thăm chính thức 4 ngày (19-22/4). Nói văn hoa thì nó được xem như là hành động hòa dịu để thúc đẩy quan hệ hai quốc gia mà mới vừa đây gặp khá nhiều rắc rối. Còn nói trắng ra là ông Mạnh qua Nhật với mục đích xin lỗi chính phủ Nhật vì chính quyền của mình đã tham nhũng tiền viện trợ ODA, cộng thêm nhiều tai tiếng từ vụ hối lộ cho nhân viên Cộng Sản của công ty PCI và vụ nhân viên hàng không Việt Nam chuyển hàng ăn cắp từ Nhật về Việt Nam tiêu thụ.
Đây là lần thứ hai ông Mạnh đến Nhật Bản trong vai trò tổng bí thư. Lần trước là vào năm 2002.
Hôm nay, 21-4-2009 ông đến khách sạn New Otani gặp gỡ nhiều nhân viên cao cấp khác cùng đại diện các công ty kinh doanh và dùng bữa trưa tại khách sạn. Đó là cái lý do mà chúng tôi đang có mặt tại đây, dàn hàng chào đón ông bằng những lá cờ vàng ba sọc đỏ, cùng những tấm biểu ngữ viết bằng hai thứ tiếng Việt- Nhật: "Đả đảo Nông Đức Mạnh! Đả đảo tập đoàn Việt gian Cộng Sản bán nước! Đả đảo quân ăn cắp!"
Tôi ít khi nào quan tâm đến những chuyến viếng thăm của nhân viên Cộng Sản Việt Nam, cũng ít tham gia những cuộc biểu tình như thế này. Hôm nay tôi đến đây còn có thêm một mục đích khác, đó là gặp một vị khách người Nhật, ông quan tâm tới 2 quyển sách của tôi và ngỏ ý muốn được nói chuyện riêng trong dịp này. Trùng với ngày tôi có ca làm buổi tối nên đồng ý nhận lời gặp ông, nhân tiện mang theo hai cuốn sách tặng cho ông làm kỷ niệm.
Theo như hội ý từ trước, bà con ta gặp nhau tại nhà ga Yotsuya vào lúc 10 giờ sáng. Tôi chưa đến Yotsuya lần nào nên phải nhờ chồng hỏi thăm đường sá. Anh chồng hăng hái vào mạng lưới nhện tìm đường cho vợ, đến đâu, chuyển ga nào, đi theo tuyến nào. Anh ta ghi ra giấy và bắt tôi phải sao chép lại cho thuộc lòng vì anh ta biết tính "đoảng" của vợ. Thế nhưng khi tôi tới ga Otemachi, tìm mãi cũng chẳng thấy tuyến Namboku đâu cả. Otemachi là một ga khá vĩ đại nằm sâu dưới lòng đất ở trung tâm Tokyo, bạn có thể lội bộ rạc cẳng dưới nhà ga này cả tiếng đồng hồ mà tôi cam đoan bạn chưa khám phá hết mọi ngõ ngách của nhà ga. Nói như vậy thì bạn đủ hiểu nó to cỡ nào rồi.
Nhìn tới nhìn lui, nhìn xuôi nhìn ngược mà không kiếm đâu ra tuyến Namboku, tôi đành chạy lại hỏi nhân viên soát vé. Ông trả lời tôi rằng Namboku không nằm ở Otemachi, nó cách đây chừng 4, 5 ga theo tuyến Tozai (tức là tôi phải quay lại tuyến cũ leo lên tàu điện và đi thêm 4, 5 ga nữa mới đến). Nhìn xuống đồng hồ đã là 10 giờ 5 phút sáng, tôi luống cuống chưa biết giải quyết ra sao vì tôi đã ra khỏi cửa soát vé. Ngần ngừ một hồi tôi lại hỏi tiếp ông rằng từ đây đến Yotsuya đi tuyến nào thì đến được. Ông vui vẻ trả lời chỉ cần đáp tàu tuyến Chiyoda và thêm một tràng dài tiếng Nhật tôi nghe lùng bùng lỗ tai câu được câu mất. Tuy nhiên để đến được Chiyodasen tôi phải đi bộ một quãng đường dài 460m (gần nửa cây số). Khi xuống tới tuyến này, tôi căng mắt tìm ga Yotsuya nằm trên bảng hướng dẫn của Chiyoda mà không thấy đâu cả, tôi lại lội ngược trở lên trên hỏi nhân viên soát vé. Ông ta biết tôi là người ngoại quốc nên nói chậm hơn và giải thích cặn kẽ hơn rằng tôi phải đi xuống cầu thang máy, lên tàu bên tay phải rồi đổi qua tuyến Marunouchi ở Asakasa Mitsuke thì mới tới được Yotsuya. Tôi cảm ơn ông và bước vội ra thang máy. Thế nhưng thay vì lên tàu bên tay mặt thì luống cuống làm sao mà tôi lại leo ngược qua tàu bên tay trái. Đi gần hết một ga mới nhận ra sự sai lầm của mình nên tôi xuống ở ga kế tiếp, đổi chuyến tàu ngược lại. Cuối cùng thì tôi cũng đến được Yotsuya vào đúng 10:50 phút.
Điểm tập trung của bà con là trước cổng trường đại học. Khi tôi đến nơi thì đã có vài người đứng chờ, anh Dũng, chú Long, anh Ngọc và một số cô gái tôi chưa biết tên nhưng nhớ mặt trong dịp giỗ Tổ Hùng Vương mới tổ chức hồi cuối tháng Ba vừa qua.
Và bây giờ là 11:31 sáng, toàn bộ nhóm biểu tình đang có mặt trước cổng khách sạn New Otani đón trận đầu phái đoàn của Nông Đức Mạnh. Trong thời gian chờ đợi, tôi lôi máy ảnh ra chụp vài tấm trước. Sau đó để dành quay một đoạn phim vậy mà chỉ mới quay được một khúc ngắn thì máy báo hết pin. Tôi lại rủa thầm cho sự vụng về của mình tối hôm qua quên không xem lại pin trước.
Phía bên kia đường có một số người mặc đồ vest đen đứng nhìn qua bên nhóm biểu tình. Họ là cảnh sát đô thành được lệnh bảo vệ an ninh quanh khu vực này, họ cũng sợ nhóm biểu tình nóng giận, mất bình tĩnh rồi gây rối. Anh Dũng kể cho tôi nghe rằng lần trước còn có cả cảnh sát chống bạo động. Lẫn trong đám cảnh sát đô thành Nhật, có một hai gương mặt lạ đứng núp sau thân cây hé máy quay phim về nhóm biểu tình, chắc là nhân viên Sứ Quán Việt Cộng. Tôi nhìn sang nhưng do khoảng cách khá xa nên không thấy rõ lắm. Mấy anh nhân viên Sứ Quán này thật là dở hơi! Bà con có mặt nơi đây đâu có ai yếu bóng vía mà mấy anh định quay phim đặng hù dọa, nếu sợ thì họ đã không đến.
Một anh đứng bên cạnh tôi hỏi anh Dũng:
- Tụi bên đó là đều là Việt Cộng hết hả anh?
Anh Dũng lắc đầu, trả lời chậm rãi:
- Đâu có, Việt Cộng làm gì ăn bận lịch sự mặt mày sáng sủa như vậy, họ là cảnh sát Nhật đấy. Tụi Việt Cộng thằng nào thằng nấy mặt mày tối thui à.
Tôi nghe anh Dũng trả lời ông bạn mà phì cả cười. Anh Hay một tay giữ chặt cán cờ đang bị gió thổi mạnh, một tay nắm lại giơ lên cao liên tục, miệng hô đả đảo. Hình như anh đang luyện tập trước để chút nữa hét cho thật to. Gia đình anh là người Việt Nam duy nhất sinh sống tại tỉnh Nagano mà hồi tháng Tám năm 2008, bà con ta cũng tập trung lên đó biểu tình chống rước đuốc Bắc Kinh. Và anh cũng là một gương mặt người Việt làm ăn thành đạt ở xứ sở này. Vợ chồng anh mở công ty về xây cất, nhân viên dưới quyền anh toàn là con cháu Thái Dương Thần Nữ. Tôi tự hào là một đồng hương người Việt với anh.
- Anh Hay này, anh xuống đây bằng xe điện hay xe hơi?
- Bằng xe nhà cô à, đi xe điện thì đâu mang được mấy thứ này.
Anh đưa tay chỉ vào những tấm biểu ngữ mà mấy chàng nhân viên của anh đang giương cao. Tôi lại buột miệng thốt lên:
- Trời ơi! Yêu nước mà cũng cực khổ quá anh há!
- Thì đó, may mà mình sống ở xứ tự do, thoải mái đi biểu tình. Chứ còn trong nước, Cộng Sản nó nhốt tù như chơi.
Tôi lại đưa tay chỉ vào tấm hình Linh Mục Nguyễn Văn Lý:
- Giống như Cha Lý bị bịt miệng há anh.
Mặt anh Hay đanh lại. Tôi nghe ai đó chửi đổng:
- Đù má tụi Cộng Sản bán nước, đù má thằng Nông Đức "Cặc", cặc chứ Mạnh gì nó.
Tôi lại phì cười, tôi hiểu nỗi lòng bực tức của anh, làm người dân nước Việt ai mà không bàng hoàng xót xa khi từng tấc đất, tấc biển của tổ tiên để lại cứ dần dần bị tập đoàn Cộng Sản cắt xén, biếu dâng cho Trung Cộng.
Theo thông báo từ cảnh sát thì chỉ còn ít phút nữa xe của phái đoàn Việt Cộng sẽ tiến đến. Tôi đưa tay đếm đầu người, đâu được khoảng hai chục kể cả hai đứa bé. Thấy ít ỏi quá, tôi lại hỏi anh Dũng:
- Sao anh không huy động đông đông bà con cho có thêm "khí thế".
- Cũng phải thông cảm cho bà con mình vì hôm nay là ngày đi làm, với lại xa xôi quá. Đến vợ chồng ông Hội Trưởng Hiệp Hội Người Việt còn không xin nghỉ được nữa mà...
Tôi gật đầu đồng ý, phải là ngày thứ Bảy hoặc Chủ Nhật thì chắc có nhiều người tham gia. Thế nhưng, những cuộc viếng thăm kiểu này đâu bao giờ rơi vào ngày cuối tuần.
Tiếng ai đó hét lớn:
- Tụi nó tới rồi kìa!
Bà con ta nhào lại gần nhau hơn. Cảnh sát đã chặn xe hai đầu đường khách sạn để chiếc xe mô tô dẫn đường. Anh Hải cầm loa chĩa về đoàn xe hô lớn:
- "Đả đảo Nông Đức Mạnh!"
Lập tức bào con hưởng ứng:
- "Đả đảo,đả đảo, đả đảo!"
Anh Hải lại tiếp tục:
- "Đả đảo tập đoàn Việt gian Cộng Sản bán nước"
- "Đả đảo,đả đảo, đả đảo!"
- "Đả đảo quân ăn cắp!"
- "Đả đảo,đả đảo, đả đảo!"
Đoàn xe rẽ ngoặt vào đường một chiều tức là cổng ra (out), thay vì đàng hoàng đi vào cổng vô (in).
Cứ thế tiếp tục tiếng hô "đả đảo" của nhóm biểu tình vang rầm trời cho tới lúc đoàn xe lọt vào hẳn bên trong khách sạn. Anh Dũng hô lớn:
- Thôi, bà con ta "kiuke" (nghỉ giải lao) một lát, đợi tụi nó trở ra mình "đả đảo" tiếp.
Mọi người tản ra để dành cho lối đi của người bộ hành. Tôi đứng nãy giờ cũng đã mỏi chân nên lại bậc thềm dẫn lên nhà thờ ngồi nghỉ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu vẫn còn trên tay mình. Tôi mân mê lá cờ, lật qua lật lại. Lá cờ đẹp thật! Bỏ qua về chính trị và ý nghĩa, mà chỉ đánh giá về mặt thẩm mỹ thì tôi phải công nhận vị tiền nhân nào thiết kế lá cờ này quả có cặp mắt đầy nghệ thuật! Hình dáng, màu sắc của lá cờ đập ngay vào mắt người xem một cái nhìn thiện cảm. Ngay tại Tokyo, tôi bắt gặp nhiều nhà sách, nhiều bảng hiệu có sơn nền vàng ba sọc đỏ như biểu tượng cờ của Việt Nam Cộng Hòa ngay trước cửa. Chồng tôi bảo rằng vì nó đẹp và dễ đập vào mắt người đi đường.
Tôi không có ác cảm lắm với lá cờ đỏ sao vàng của Việt Cộng, vì từ nhỏ đến lớn tôi chỉ biết có mình lá cờ này. Chỉ nói riêng về mặt thẩm mỹ thì quả nó khác xa một trời một vực với lá cờ vàng ba sọc đỏ. Và về ý nghĩa thì còn xa hơn nữa.
Lá cờ nền vàng tượng trưng cho màu da vàng của dân Việt, thêm ba sọc đỏ là máu thịt của con dân ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Một lá cờ mang ý nghĩa thật tuyệt! Thật Việt Nam!
Riêng lá cờ đỏ sao vàng thì tôi được cô giáo giảng giải từ ngày còn đi học rằng màu đỏ tượng trưng cho máu cha ông ta hy sinh vì đất nước, bốn góc là bốn Bể, còn ngôi sao vàng năm cánh chính giữa tượng chưng cho năm Châu. Ừ mà cũng phải thôi, tôi nhớ ông Hồ đã từng làm thơ dưới đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rằng ông muốn "đưa thế giới đến đại đồng" mà. Thôi thì để ông Hồ cùng với ông râu xồm và ông Lê Nin đưa thế giới địa phủ của ổng tới đại đồng đi!
Bên trong khách sạn, Nông Đức Mạnh đang xum xoe nịnh hót kêu gọi thêm đầu tư từ phía Nhật. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang bi đát. Kinh tế Nhật thì cũng te tua, hàng hóa xuất cảng giảm hơn 50%, hàng hóa nội địa bán không chạy. Các công ty ầm ĩ loan báo lỗ và đang tiến hành sa thải nhân viên hàng loạt. Với tình hình này, liệu ông Mạnh kêu gọi thêm được bao nhiêu đầu tư từ phía Nhật?
Chỉ hai năm về trước, báo chí Nhật Bản viết rất nhiều về "con rồng Việt Nam đang cựa mình vươn lên". Ngay tại các nhà sách, sách nghiên cứu về nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn tất cả. Họ tâng bốc nền kinh tế của Việt Nam lên đến mây xanh, họ kêu gọi hãy đầu tư vào Việt Nam, ai muốn kiếm tiền hãy đến Việt Nam. Quả thật, có nhiều người Nhật ôm tiền đến Việt Nam đầu tư cổ phiếu, và rồi con rồng đang vươn lên bỗng lộn nhào khiến nhiều ông treo cổ tự tử.
Đối với người Việt Nam ta thất bại là mẹ thành công, mất rồi ta có thể làm lại từ đầu. Nhưng đối với người Nhật thì nếu thất bại thường họ tìm đến cái chết. Cho nên Nhật là đất nước có tỉ lệ người tự tử cao nhất thế giới.
Một số người bộ hành đi ngang qua, thấy nhóm người biểu tình, họ dừng chân đọc biểu ngữ và đưa ngón tay cái giơ lên tỏ vẻ đồng tình. Có một vị khách đi ngang qua rồi quay ngược trở lại đọc thật kỹ, ông nói với nhóm biểu tình:
- Phải làm mạnh hơn, phải tập trung nhiều người hơn nữa.
Tôi quay lại nhìn nhóm biểu tình, vẻn vẹn chỉ có hai chục người. Nhóm cảnh sát đô thành Nhật đứng rải rác quanh khu vực này còn đông hơn số người biểu tình. Đường đường là tổng bí thư đảng Cộng Sản, là Vua một cõi thét ra lửa mửa ra khói, thế mà lại sợ hãi một nhóm loe ngoe chỉ vài ba người, đoàn xe phải rẽ vào đường một chiều. Tôi buột miệng thốt lên:
- Cộng Sản sao mà hèn thật!
Cô gái đứng bên cạnh tôi cũng thêm vào:
- Ờ há chị, làm gì mà cứ phải trốn tránh. Ở mấy nước tự do thì việc biểu tình chỉ là chuyện thường ngày đâu có gì to tát.
Anh Dũng thì bảo rằng vì tụi Cộng Sản biết cảm thấy có tội nên lúc nào cũng hành động lén lút. Tôi quay qua chọc ghẹo cô bé đang đứng giữ tấm biểu ngữ:
- Cháu không sợ về Việt Nam bị công an bắt à. Tụi nó quay phim hết rồi đấy!
- Sợ gì chứ cô.
Một cô bé khác xen vào:
- Cháu mới qua có vài bữa mà còn dám đi nè!
- Ừ cô biết rồi, dân Đồng Nai đâu sợ gì Cộng Sản.
Đúng 1:40 chiều, xe của phái đoàn Cộng Sản Việt Nam quay trở ra. Nhóm biểu tình lại ùa lên hô vang "Đả đảo Nông Đức Mạnh! Đả đảo tập đoàn Việt gian Cộng Sản bán nước! Đả đảo quân ăn cắp!" Bà con đồng loạt hô vang trong vòng 5 phút. Lúc đoàn xe khuất hẳn thì ngưng, chuẩn bị dọn dẹp hành trang, cờ quạt để ra về. Cộng sản đi hết rồi con ai lảng vảng ở đây nữa đâu mà biểu tình đả đảo.
Trời đã ngưng hẳn mưa, ánh nắng le lói sau nóc nhà thờ đối diện khách sạn. Bà con tản ra, ai về nhà nấy. Tôi cùng anh Hay rảo bước trên con đường tiến về nhà ga. Vị khách người Nhật bên cạnh vừa đi vừa bắt chuyện. Ông lôi trong cặp sách hai cuốn tạp chí của hội đoàn mà ông tham gia để tặng tôi. Tôi cũng tặng lại ông hai cuốn sách của mình, hy vọng sẽ có một ngày nào đó sách của mình sẽ được dịch ra tiếng Nhật cho nhiều người Nhật cùng đọc để hiểu thêm về đất nước của tôi, hiểu thêm về cuộc sống của người dân Việt sống dưới chế độ Cộng Sản.
Tokyo 24-4-2009 Lê Mỹ Hân
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:53:39 GMT 9
CHUYẾN XE TANG VỀ QUÊ CHỒNG Giao Chỉ - San Jose (Viết theo lời kể lại của Lệ Hà)
Cố Trung Úy Dù QUÁCH VĂN SỞ Khóa 24 Trường VBQGVN
San Jose ngày 29 tháng 04 năm 2009.. Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện 34 năm về trước. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày. Ðó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Ðêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, võ bị Ðà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám.
Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Ðường xá kẹt hết.. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chE1ng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai. Xác anh, giờ ở phương nào?
Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đã di tản. Ở một vài nơi quân ta còn kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ còn di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng còn thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đã tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Hòa.Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên tìm chồng tại nghĩa trang Biên Hòa. Ðây là lần đầu tiên em tìm về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Hòa vẫn c2n đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta còn làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng còn ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy tìm xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn còn đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn còn đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em tìm được xác anh Quách Văn Sở, đã được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Hòa.
Ðã hơn 30 năm rồi, em vẫn còn nhớ hình dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không còn nữa.. Sau khi thấy rõ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu tìm xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài Gòn, bây giờ anh đã vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đình, về nơi anh đã ra đời.Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đã hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em tìm mọi cách để thuê xe chở quan tài..
Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi tìm được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ tra ng và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.. Chuyến xe tang về quê chồng.Ðưa xe tải về nhà, dọn những gì có thể đem đi được, từ giã cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Ðó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đã thay đổi. Tất cả các xác chết đã bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn còn. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc thì vứt đống dưới đất. Ngư9 Di lính chung sự Việt Nam Cộng Hòa mặc đồ dân sự vẫn còn đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đã có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh thì em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quãng đường dài. Ðó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Lòng dạ nào mà nhìn thấy hai bên đường. Mắt em m nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Ðoàn Thị Ðiểm, Cần Thơ..
Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn hò, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào võ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Ðà Lạt, Sài Gòn tình yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn phòng phủ thủ tướng. Ðâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu thì làm đó. Chiến tranh ở đâu thì không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đình trẻ với đứa con trai.Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.
Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng còn thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nhìn theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thang rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận. Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang.
Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân võ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Ðoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa. Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đã tử trận. Còn cậu út nhất định đi võ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Ðống vốn là thân quyến thì cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.
Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đã làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đã một mình đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ. Nước non ngàn dặm ra đi.
Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang vì muốn dấu lý lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mã Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm thì vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xã sau này, hai bên lập gia đình và có thêm hai cháu. Thưa với bác Lộc rõ, em có duyên số với Võ bị và Rạch Giá. Ông xã hiện nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường võ bị Ðà Lạt.. Con cái của gia đình em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đã lập gia đình và có thêm các cháu nội ngoại.Ông xã em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đã làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ hình ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.
Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu.Ðã 34 năm qua, em còn lưu giử hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đình của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Hòa Thám. Có chữ ký của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ ký của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra còn giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Ðống. Trung úy Sở còn tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. Vì lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đã làm thay đổi vận mệnh của cả gia đình. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên võ bị Ðà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giã cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đình còn giữ suốt 34 năm qua. Nay đã đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. Còn một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu. Tâm nguyện cho tương lai.
Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư võ bị ngày xưa đã thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đã 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đình và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Ðà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu võ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang. Và em tạ ơn trời đất còn có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đã từng sống trong trại gia binh.Em cám ơn các bác đã nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.
Giao Chi - San Jose
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:54:26 GMT 9
Thời sự Nhật Bản và Chiến Hạm Yamato
Chiếc xe taxi dừng lại bên vệ đường, cánh cửa tự động bật mở. Tôi bước ra, khoan khoái hít thở không khí trong lành của một buổi chiều Xuân ở thành phố ven biển quê nhà chồng.
Mẹ chồng tôi đứng đón từ ngoài cổng, nét mặt bà rạng rỡ khi nhìn thấy các con. Đã hơn 3 năm rồi tôi mới trở lại thăm ngôi nhà này, cái ngôi nhà nằm cheo leo bên sườn núi trông rờn rợn. Thời gian thấm thoát trôi qua, vậy mà nó dường như không thay đổi, trông còn có phần khởi sắc hơn xưa bởi những luống hoa đang đua nhau khoe sắc. Chỉ khác một điều, giàn nho lúc trước nay đã không còn, cái hồ nuôi cá kiểng bị phơi ra dưới ánh nắng mặt trời. Bố tôi sợ lũ cá vàng chói mắt nên ông che chiếc cũ lên trên, và cái máy lọc nước vẫn chạy xè xè bên cạnh.
Mẹ chồng tôi cười nói luôn miệng, bà nắm tay tôi chỉ xuống đôi guốc cao gót, lắc đầu:
- Đôi guốc gì mà cao quá!
Tôi nhoẻn miệng cười, theo mẹ vào nhà. Trong nhà, bố tôi nằm nghỉ ở phòng khách kế gian nhà bếp, nghe tiếng các con ông nhổm dậy, giơ tay chào. Từ ngày còn trai trẻ, bố thường giao thương với nhóm quân nhân người Mỹ tại Kure nên ông vẫn còn nhớ bập bõm vài câu tiếng Anh, lâu lâu ông lại xổ ra hỏi vì ông tưởng cô con dâu chưa thể nói được tiếng Nhật.
Trong nhà vẫn lạnh lẽo như mùa đông năm nào tôi về đây ăn Tết với gia đình chồng. Mẹ bảo rằng chỉ mới từ hôm qua bỗng dưng trời trở lạnh, mọi máy sưởi ấm bà đều mang cất hết từ lâu. Thấy tôi ngồi co rúm, mẹ lại lật đật mở kho lôi ra cái nệm sưởi chạy bằng điện.
Mặc dù tôi đã ngủ mê mệt suốt chặng đường từ Tokyo về Hiroshima, vậy mà giờ ngồi trong căn phòng này, mắt tôi cứ đờ đẫn ngước lên không nổi. Từ ngày có việc làm, tôi bận tối mắt tối mũi ít có thời gian nghỉ ngơi. Phải thú thật rằng lúc nào tôi cũng buồn ngủ, ngay cả khi đứng lắc lư trên xe điện, hoặc ngồi trên xe bus tôi vẫn ngủ được như thường (dù chỉ là năm, mười phút). Chẳng cần giữ ý tứ dâu con, tôi nằm lăn trên tấm thảm sưởi ấm, kế bên ông bố chồng, đánh một giấc thẳng cẳng tới tận giờ ăn tối mới tỉnh giấc.
Mẹ đứng nấu ăn trong bếp, Yukio thì ngồi ngay bên cái bàn ăn, hai mẹ con nói chuyện rôm rả. Mẹ tôi luôn miệng than rằng: "kawaiso!" (tội nghiệp!). Tôi mới ngủ dậy, chưa biết đầu đuôi câu chuyện hai mẹ con nhà chàng đang bàn về cái gì mà chỉ thấy mẹ cứ than tội nghiệp. Cũng biết vợ là một tay nhiều chuyện có hạng nên Yukio giải thích liền rằng hai mẹ con đang bàn chuyện Kusanagi. Anh còn đưa cho tôi xem tờ báo có đăng hình chàng cúi gằm mặt xin lỗi người hâm mộ trước ống kính truyền thanh báo chí.
Tsuyoshi Kusanagi là một ca sĩ nhạc pop trong nhóm SMAP, kiêm diễn viên điện ảnh không chỉ nổi tiếng tại Nhật Bản mà còn được nhiều người hâm mộ ở vùng Á Châu như (Đài Loan, Hồng Kông, Nam Hàn...) Nghe đâu chàng nổi đình nổi đám từ năm 16 tuổi.
Xin thú thật là tôi chưa nghe chàng hát bao giờ, nhưng có xem phim chàng đóng và nhẵn mặt chàng ở các show quảng cáo đến bội thực trên tivi. Với tôi, chàng chẳng là thần tượng, trông xấu òm, ốm nhom, cao nhòng, mặt dài như cái bơm xe đạp. Thế mà không hiểu sao chàng lại nổi tiếng như cồn, và là một trong những nghệ sĩ có giá nhất tại Nhật Bản. Chàng sinh năm 1974, cũng đủ đếm được 35 mùa hoa anh đào rụng.
Vào 3 giờ sáng ngày 23-4-2009, chẳng biết ma đưa lối rượu dẫn đường thế nào mà chàng trút bỏ y phục, lả lướt vũ điệu tô hô trước mặt bàn dân thiên hạ. Ngay lập tức, chàng bị cảnh sát còng tay vì vi phạm luật thuần phong mỹ tục của thành phố. Ngày hôm sau báo chí, truyền hình đồng loạt loan tin, và chàng cúi đầu trong cuộc họp báo xin lỗi người hâm mộ.
Phải nói rằng chàng có một khối lượng đông đảo người hâm mộ, nhất là giới trẻ và những bà già như mẹ chồng tôi. Nghe chàng gặp nạn thì miệng mồm cứ xít xoa than "tội nghiệp quá!"
Yukio thì thẳng thừng bác bỏ, anh bảo rằng chàng35 tuổi rồi, đâu phải là con nít, phải tự chịu trách nhiệm mọi hành động sai trái của mình. Anh còn dè bỉu cho chàng là cái thứ "sướng ca vô loài" chẳng học hành gì chỉ biết hát hò nhảy múa nên đầu óc rỗng tuyếch.
Tôi cười cười, ỏn ẻn với chồng:
- Thôi kệ, rỗng tuyếch cũng được miễn sao nổi tiếng và giàu có. Nếu mình cũng kiếm được nhiều tiền như thế thì em sẽ yêu mình nhiều hơn nữa.
Nói xong câu đó, tôi thè lưỡi, đá lông nheo với chồng. Anh chàng tức lắm nhưng chỉ biết cười với cô vợ có cái tật ưa nói đểu.
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:54:57 GMT 9
Cuộc sống của vợ chồng tôi khá êm ả trước khi có sự xuất hiện của thằng con. Chuyện của nó là chuyện dài nhiều tập viết cả năm cũng không hết. Tuy nhiên, đằng sau những cuộc cãi vã nảy lửa vì con, tụi tôi vẫn có những giây phút hào hứng tranh luận về mọi vấn đề trong xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo dục... thứ gì cũng đều được đem ra mổ xẻ, có khi còn hấp dẫn hơn cả những chương trình phỏng vấn ăn khách trên tivi.
Yukio vẫn bảo vợ rằng em đóng kịch giỏi lắm! Sao ngày trẻ em không theo nghiệp điện ảnh, dám em sẽ trở thành ngôi sao. Tôi chỉ cười và độp lại rằng nếu ngày xưa tôi theo nghiệp diễn viên thì tôi chả thèm lấy anh ta làm chồng.
Hồi đầu, lúc hai đứa mới quen nhau, tôi nhìn thấy ở anh như có cái gì bất ổn, lập dị và hơi mát mát. Tuy nhiên, anh rất tốt bụng và thương yêu tôi thật lòng, đó là cái lý do tôi gật đầu đồng ý theo nâng khăn sửa túi cho anh suốt đời. Tôi thuộc tuýp phụ nữ khá lạnh lùng, rất dễ rụng động trước người khác phái nhưng cũng rất dễ ngoảnh mặt sau một vài lần tiếp súc. Có người thì chỉ một lần là đủ để thẳng thừng nói lời chia tay. Sau ngày cưới theo chồng qua định cư tại Nhật, tôi mới khám phá ra rằng anh chẳng mát chút nào mà trái lại anh là người học cao hiểu rộng. Tôi ví chồng mình như cuốn từ điển bách khoa, cần gì mang ra hỏi và anh giải đáp cho vợ tận tình.
Tôi có một mối quan hệ bạn bè khá rộng rãi. Giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ đủ cả, có người là quan chức cao cấp trong chính phủ, người là giám đốc điều hành công ty danh tiếng, còn người thì đứng đầu tổ chức bất vụ lợi mà ai muốn gia nhập cần phải đóng hội phí lên đến 5000,00$. Mặc dù tôi chỉ là cô gái nghèo tỉnh lẻ được sinh ra ở xó rừng Tây Bắc thời chiến tranh Việt Nam. Với tôi, bạn bè thì luôn là bạn cho dù người ấy có là ông trời hay là dân nghèo mạt dệp. Tôi không có cái quan niệm "thấy người sang bắt quàng làm họ"
Dù những người bạn của tôi đều là dân trí thức khoa bảng nhưng hiếm ai có kiến thức sâu rộng như chồng mình ngoại trừ chị Trần Lý Lê. Chỉ vài ngày tiếp xúc với vợ chồng chị trong chuyến viếng thăm Nhật Bản năm 2006, Yukio đã thốt lên rằng chị Lê của em giống như một cuốn từ điển sống, hỏi gì chị ấy cũng có thể trả lời vanh vách, còn anh cần phải tìm trong sách vở.
Để tỏ ra không kém cạnh chồng, mỗi ngày tôi cần một vài tiếng lướt nét cập nhật tin tức mới. Có như vậy thì tôi mới đủ kiến thức để tiếp chuyện với chồng. Hơn nữa, tôi có thể học hỏi ở anh rất nhiều chuyện lý thú.
Quay trở lại chuyện anh chàng ca sĩ thích cởi truồng thì Yukio bảo với tôi rằng khi anh chàng đứng múa giữa công viên có hai người bạn đi theo, một người phái Nam và một cô gái làm trong hộp đêm. Thế nhưng báo chí truyền hình không bao giờ nhắc đến tên tuổi hay hình ảnh gì của cô gái. Anh cho tôi một phút để suy nghĩ và phỏng đoán xem tại sao. Tôi bí rị với câu hỏi này, có thể nào vì anh ta quá nổi tiếng chăng (?)
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:55:55 GMT 9
Chưa Muộn Thanh Bình
LTS. Dưới đây là tâm sự của một cán binh cộng sản sau những năm tháng bị bộ chính trị Việt cộng lừa.
Nhớ những ngày Nam bộ kháng chiến gian khổ, những ngày lội bộ Trường Sơn trường kỳ đánh Mỹ sống chết chỉ trong gang tấc, rồi cảm giác được bù đắp không thể tả bởi niềm vui oà vỡ ngày toàn thắng 30.04 chấm dứt những ngày dài đời lính gian khổ, những ngày chia cắt hai nửa quê hương trong máu lửa chiến tranh.
Những ngày ấy tuy gian khổ không tả xiết nhưng đám chúng tôi không hề do dự, tiếc nuối hay bận tâm về sự chọn lựa của mình. ĐCS & CNCS là lý tưởng của tôi và đồng đội, đồng chí của tôi.
Ấy vậy mà những năm tháng sau khi hoà bình được vãn hồi vào 1975, ngày này qua tháng nọ tôi đau đớn nhận ra một sự thật phủ phàng từ trải nghiệm thực tế cuộc sống. Cả thế hệ của chúng tôi đã bị lừa dối về một thiên đường mù XHCN. Đau khổ nhất là khi tôi phải hàng ngày chứng kiến cảnh con cháu của tôi cũng đang bị dối gạt ngay trước mắt mình.
Tôi không bao giờ quên cái cảm giác lần đầu tiên đang từ mù bỗng được hoá sáng.
Tôi và nhóm bạn chiến đấu cũ của tôi đều mang cùng tâm trạng này. Chúng tôi là bộ ba coi nhau như anh em ruột thịt một nhà. Hầu như chuyện gì chúng tôi cũng đều san sẽ với nhau. Chúng tôi mừng cho sự giải thoát chính mình khỏi những ngày đầu óc đắm chìm trong tăm tối, u mê nhưng cũng bàng hoàng khi nhận ra sự thật quanh mình. Người tỉnh như chúng tôi hãy còn quá ít oi. Người mê ngủ mới chiếm đại đa số. Người ngay thẳng, lương thiện thì ít nhưng kẻ cơ hội, luồn cúi, tham lam, tư lợi thì quá nhiều. Không chức, không quyền, không cậy nhờ thân thế, không luồn cúi làm bậy thì nghèo như tôi là chắc. Hoà bình lâu lắm rồi mà nỗi đau vẫn còn đó.
Hoà bình đã ngần ấy năm mà lòng tôi và những bạn bè chung chí hướng thấy lòng đầy bất an. Dù chương trình “xoá đói, giảm nghèo” cuối cùng đã với tới đám dân nghèo chúng tôi nhờ sự ra tay của các quốc gia hảo tâm, gia đình tôi vẫn còn nằm trong cái số đông phải thắt lưng buộc bụng để vật lộn, xoay sở với miếng ăn hàng ngày nhưng lại phải dành dùm tối đa cho việc học hành ngày càng đắt đỏ của con. Nỗi cay đắng vì nghèo ấy vậy mà không ghê gớm bằng cái âm hưởng chết chóc của sự suy sụp niềm tin. Cái chủ nghĩa tôi từng tôn thờ, sùng bái, một dạ sống chết và các con tôi đang ra sức học tập, nhồi nhét mà không chút mảy may nghi vấn lại là sự ghẻ lạnh, xa lánh của cả nhân loại văn minh. Một chủ nghĩa chỉ có giá trị lý thuyết suông không hơn, không kém mà rất nhiều lãnh tụ thế giới cùng thời với Hồ Chí Minh đã nhận ra chân tướng và xa lánh. Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết, cái nôi CS lâu đời và hàng loạt các nước CS ở Đông Âu cùng sự biến tướng hình thái kinh tế phi XHCN của TQ, VN hiện nay là bằng chứng sống cho cái CNCS một thời là lẽ sống của tôi.
Tôi tự giận mình sao không có cái đầu và đôi mắt tỉnh táo sớm hơn. Tại sao người ta có thể mê muội lâu đến thế? Tại sao đến gần cuối đời tôi mới nhìn thấy ánh sáng chân lý? Tại sao lại là chúng tôi, là đất nước đã quá nhiều đau thương này? Rồi cũng cái “thằng tôi” trong tôi lại bảo với tôi. “Muộn còn hơn không. Đừng ngồi đó tự trách mình. Hãy làm những gì cần làm, những gì lương tâm mách bảo.” Thế là tôi và nhóm bạn của tôi đồng lòng với nhau ở khởi điểm vận động gia đình, bè bạn theo lời vẽ đường của “thằng tôi” lương tâm. Chúng tôi đã bắt đầu công tác “dân vận” của mình như thế đấy.
Tôi chọn vợ con mình làm đối tượng vận động đầu tiên. Bắt đầu “công tác tư tưởng” với vợ không đến nỗi quá khó khăn vì vợ tôi trạc tuổi với tôi và là chiến sĩ giao liên ngày trước. Nhưng với con gái và con trai đang trong độ tuổi trưởng thành của mình thì thật là điều không dễ chút nào.
Vơ chồng tôi có hai con. Một gái, một trai. Một đứa chuẩn bị thi ĐH, đứa còn lại cũng muốn theo chân chị gái của mình vài ba năm tới đây. Khi tôi mới bắt đầu cuộc “vận động tư tưởng ” đầu tiên là chúng đã tìm cách đứng dậy không muốn nghe tiếp. “Bố nói phản động rồi, không đúng đâu. Để hôm khác con sẽ giải thích cho bố nghe. Bài vở hơi nhiều nên để hôm khác nghe bố.” Lời con gái lễ phép thoái thác nhưng đầy tự tin “sẽ giải thích cho bố nghe” đã mở đường cho thằng em trai hùa theo “Sao hôm nay bố nói chuyện gì nghe phản động quá” và tìm cách rút lui theo chị.
Thế là tôi thất bại hoàn toàn sau trận mở màn. Tôi thấy vừa giận vừa thương con mình. Giận vì sức mạnh ghê gớm của tuyên truyền lâu gần 1/3 thế kỷ của đảng ta nếu tính cả ngoài bắc, trong nam. Thương là thương cho chúng cả tin, ngây thơ như tôi ngày trước. Thương cho đất nước này phải thua kém nhân loại văn minh vừa về tiềm lực kinh tế, vừa về trình độ dân trí mà không mấy ai hay. Nhưng cái đau bị tụt hậu về nhận thức, tầm nhìn là thứ đau da diết, dai dẳng hơn cả. Hai con tôi còn ngây thơ lại sáng dạ, thông minh nên chúng càng xứng đáng được sống trong một xã hội thật thà, lành mạnh, bình thường. Và còn bao nhiêu trẻ em VN khác cũng phải được hưởng cái điều tự nhiên như con em được lớn lên ở những đất nước bình thường khác nhờ không tin vào cái CNXH nguyên xi hay theo kiểu nửa nạc, nửa mỡ “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” hiện nay đang còn tiếp tục thao túng ở đất nước này. Dù biết đây là cuộc chiến đấu hoàn toàn bất cân xứng về thời gian tính, tôi vẫn tin vào chiến thắng của chân lý lẽ phải. Nhất định khó khăn tới đâu, tôi cũng sẽ không bỏ cuộc. Thế hệ con tôi phải là thế hệ nạn nhân cuối cùng của một thiên đường giả dối, vô vọng chỉ đẩy con người ngập sâu trong sa đoạ phẩm cách, đạo đức.
Tôi đem chuyện nhà mình ra kể cho những người bạn đồng hội, đồng thuyền với mình thì biết chuyện gia đình mình cũng là chuyện gia đình người.
“Thằng Khải đem kiến thức đã học ở trường ra để đấu lý với tớ, để chứng minh rằng tớ “phản động”. Vợ tớ thì nhìn tớ nghi ngờ.” Khôi, một đồng đội cũ giờ là thương binh, tâm tình.
Trung, thượng uý về hưu cũng góp tiếng. “Bé Thảo nhà mình cũng vậy. Những trang giấy trắng vô tội bị bôi bẩn như chúng mình ngày xưa cả thôi. Ngày xưa cậu và tớ cũng đều tin lời đảng gọi chứ có tin lời các ông bà cụ thân sinh khuyên đâu”.
“Giời giả báo chúng ta đây, những đứa con CS nhà nòi muốn thoát thân mà chưa thoát được vì cái nghiệp chướng mà chúng ta đã vướng vào. Tính từ lúc ĐCS lên ngôi từ 1932, tới nay đã thành 76 năm lão làng trong cái nghề nhồi sọ rồi còn gì. Chua lắm các ông ạ. Mình là cha mẹ chăm lo cho chúng cái ăn, cái mặc, học hành vậy mà chúng không tin không nghe, chỉ toàn tin lời Bác, Đảng. Cái xã hội XHCN quả là rối rắm, bất thường”. Mẫn không vợ không con, cũng bạn quen biết cùng thời lính, nay là nhân viên bảo vệ chua chát tiếp lời.
Cuối cùng, chúng tôi chỉ còn biết an ủi, khuyên nhủ nhau phải bền tâm, vững chí. “Ông nào bỏ cuộc giữa chừng là kẻ hèn nhát, “sẽ không lớn nổi thành người,” như lời Mẫn phán.
Nói lần đầu, lần hai, lần ba, lần 4,… chưa thuyết phục nhưng thất bại từ những lần đầu ấy cũng giúp tôi dần dà học đươc cách lập luận cho chặt chẽ và mạch lạc hơn. Tôi bỏ công tìm tòi, tham khảo rất nhiều sách vở, tài liệu về thuật hùng biện và hai hệ thống xã hội đối lập chính trên thế giới hiện nay. Tư bản và Cộng Sản. Vợ tôi thành ủng hộ viên đắc lực của tôi không lâu sau đó. Vơ chồng tôi đã ngồi lại với hai con không biết bao nhiêu lần sau những lần đầu “bại nhiều hơn thành”. Tôi đã phải nghĩ cách để giúp hai con vào cuộc một cách hăng hái và tự nguyện hơn. Chúng tôi cũng rút ra được kinh nghiệm. Khi tranh cãi mọi người phải tuân theo nguyên tắc chung: bình đẳng, dân chủ. Đưa ra dẫn chứng thực tế để chứng minh cơ sở lập luận là nguyên tắc hàng đầu của gia đình tôi khi thảo luận. Đó cũng là cách giúp chúng tôi biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến lẫn nhau. Dù ở cương vị người đi trước, vợ chồng tôi không bao giờ tìm cách lấn áp con trẻ để bắt chúng phải khuất phục mình. Chúng tôi hàn huyên, tranh luận ngay lúc đi biển, đi dạo, ở những quán nước kín đáo những khi cả nhà có dịp ra ngoài chung. Có những cuộc tranh cãi trong phòng ngủ của vợ chồng tôi hay tại phòng học cũng là phòng ngủ chung của hai con. Ban đầu người khơi mào chính là tôi. Về sau, có sự đổi ngôi. Hai con tôi lại là những kẻ hay chủ động “tấn công” trước. Có khi chúng tôi tranh luận mãi mê tới gần sáng mới thôi.
Khi con gái tôi được học bỗng đi học ngành Viễn Thông ở Úc năm sau thì lá thư đầu tiên gởi cho vợ chồng tôi từ nước Úc được bắt đầu bằng những lời “Bố mẹ vô cùng yêu quý của con. Cảm ơn mẹ lúc nào cũng là người mẹ hiền của con. Còn bố, người bố “phản động” mà giờ đây con càng thấy yêu quý và tự hào hơn. Những gì bố mẹ đã mở mắt cho con mới phản ảnh đúng về cái thế giới thật mà chúng ta đang sống. Nhờ có bố mẹ “phản động” mà con không bị thua kém bạn bè khắp nơi về nhận thức thời cuộc và thế giới. Con sẽ tiếp tục công việc của bố mẹ vì đó là cách duy nhất để cứu lấy mình và thế hệ con cái của con ra khỏi cái ý thức hệ tạo nên kẻ thù trong chính chúng ta. Nó làm cho chúng ta hiểu sai và ngộ nhận về thế giới chung quanh. Nó làm cho chúng ta không còn phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù. Nó cho phép sự độc tài quyền lực gây bất công xã hội. Nó cũng ngăn cản và kìm hãm nội lực phát triển của cá nhân và xã hội. Tất cả chúng ta; mỗi người, mỗi nhà cần có trách nhiệm lên tiếng và có những hành động thiết thực để kéo đất nước ra khỏi thảm họa của những áp chế tư tưởng bệnh hoạn, lỗi thời. Con muốn VN mình có được nền dân chủ và văn minh như xã hội mà con đang đến học. Bố mẹ hãy tiếp tục là những người đi đánh thức”. Con trai tôi, Vũ cũng nhận được bức thư này của chị mình cc cho nó qua email gởi cho chúng tôi cùng ngày. Tôi còn sung sướng hơn khi Vũ tiết lộ với tôi ngay sau khi đọc thư chị, “Con và mấy đứa bạn thân của con cũng đang làm như chị con đó bố ạ”.
Tôi đem bức thư con gái đọc cho đám bạn của mình nghe. Cả bọn đều hoan hỉ, lên tinh thần. Cũng kể từ ngày ấy, những lần tụ tập của tôi và nhóm bè bạn chiến đấu cũ không còn đầy ắp những lời than thân, trách phận đầy bi quan như xưa. Chúng tôi thấy mình trở nên có ích cho mọi người. Chúng tôi đã biết hành động. Và chúng tôi cũng đã làm được nhiều hơn là mình nghĩ.
Có những người gieo mầm mống bệnh hoạn, độc hại thì cũng phải có người lo ươm mầm giống mới khoẻ mạnh, hữu ích để cản phá sự lây lan của những mầm mống gieo rắc tai hoạ. Dù đây là cuộc chiến không cân sức và vô vàn khó khăn chống lại những tư duy lạc hậu, bảo thủ; kẻ thù số một của nhân loại văn minh đã hiện diện và ngự trị ở đất nước bất hạnh của chúng ta hơn nửa thế kỷ nhưng đó là cách duy nhất để chúng ta và con cái chúng ta được trở lại làm người đúng nghĩa.
Thanh Bình
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:57:29 GMT 9
Ánh nắng đổ vàng trên công viên trước cửa khu nhà tôi. Tokyo lộng lẫy như nàng tiên mùa xuân khoác trên mình bộ áo sặc sỡ. Mùa xuân đã về thật rồi! Nắng mới tràn đầy trên những cây đào đang e ấp khoe màu hồng phấn. Vợ chồng tôi lại hối hả đi về phía nhà ga, Hôm nay, anh theo vợ đi tìm cội nguồn trong ngày giỗ Quốc Tổ. Người Việt định cư ở Nhật chỉ có một con số khiêm nhường. Tuy vậy, hàng năm Hiệp Hội Người Việt ở đây cũng đều tổ chức cúng giỗ Vua Hùng, ghi ơn Quốc Tổ. Và để con cháu của ngài tụ hợp lại với nhau trong tình thân ái. Tụi tôi còn đang luẩn quẩn chuyển tàu trong nhà ga Otemachi thì nhận được điện thoại của anh Ngọc thông báo rằng chỉ còn 10 phút nữa là tới giờ khai mạc, nhắc tụi tôi hãy cố gắng tới cho kịp. Thực sự thì từ Otemachi tới Hội Quán YUAI nằm trong khu phố Shibakoen chỉ có 4 ga (chừng 8 phút), nhưng khi tụi tôi leo lên được tới lầu 9 của tòa nhà YUAI thì đã nghe tiếng ông Hội Trưởng Nguyễn Phương Khanh đang tố cáo giới chức cầm quyền cộng sản Việt Nam tham lam ăn hối lộ, đàn áp dân chủ, bắt bớ người dân đi khiếu kiện, cướp đất của nhà thờ để xây công viên (vụ Thái Hà). Nhân viên công quyền móc nối đi ăn cắp ở xứ người rồi chuyên chở về Việt Nam bán (qua vụ nhân viên hàng không Việt Nam bị cảnh sát Nhật bắt nhốt điều tra). Những lời phát biểu sau cùng, ông tỏ lời tri ân đến toàn thể quý khách đã bớt chút thời gian đến tham dự lễ hội ngày hôm nay, và ông cũng gửi lời cám ơn chính phủ Nhật Bản, cảm ơn các hội đoàn như Thập Tự Nhật Bản, Bản Bộ Tị Nạn và Hội Liên Đới (CSA) cùng toàn thể những nhà hảo tâm đã cưu mang người dân Việt Nam tị nạn cộng sản được sống bình an nơi đất nước giầu lòng nhân ái này. Những công ơn đó người Việt luôn khắc ghi trong lòng. Trong tinh thần nhớ về cuội nguồn, nhớ về công lao dựng nước giữ nước mở mang bờ cõi của tiền nhân. Ông Hội Trưởng Nguyễn Phương Khanh Tôi đứng ngoài nhìn vào hội trường, có khá nhiều gương mặt quen thuộc của những năm trước. Bà con ta ngồi theo hình chữ L, tất cả đều hướng mắt mắt lên khán đài nơi có đặt bàn thờ Quốc Tổ với hai con rồng uốn lượn. Ngay từ thủa còn thơ nằm trong lòng ông nội, tôi vẫn được nghe ông thủ thỉ kể chuyện ngày xửa ngày xưa, cái ngày mà bà Âu Cơ lấy Vua Lạc Long Quân và đẻ ra một cái bọc chứa trăm quả trứng, sau đó nở ra 100 người con. Bởi vì Lạc Long Quân là giống Rồng còn bà Âu Cơ thuộc giống Tiên nên họ chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con còn lại theo cha xuống biển và một năm gặp lại nhau ở sống Tương. Từ 100 người con đó, tộc Việt sinh sôi nảy nở cho đến tận ngày nay. Và tôi, một công dân nước Việt luôn tự hào mang trong mình dòng máu Tiên Rồng. Oki Akashi Sau diễn văn của ông Hội Trưởng Nguyễn Phương Khanh là lời phát biểu của ngài Oki Akashi, Hội Trưởng Hội Liên Đới Người Tị Nạn Đông Dương (CSA). Ông gửi lời chào quý khách tham dự và chúc cộng đồng người Việt tại Nhật luôn vững mạnh, đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Ông cũng nhắc nhở rằng vì ngày nay Nhật Bản không còn chương trình đón tiếp người tị nạn, nên người dân nào gặp khó khăn cần sự giúp đỡ thì liên lạc trực tiếp đến Hội Liên Đới. Ông còn tỏ lời cảm ơn cộng đồng người Việt đã ưu ái đón tiếp tiếp ông nồng nhiệt, ông muốn phát biểu nhiều hơn nữa nhưng không muốn dài dòng vì đoán chắc mọi người đều đói bụng, xin được chấm dứt để mọi người nhập tiệc trong tiếng vỗ tay vang dội. Ông Khanh giới thiệu một quý khách người Nhật khác, ngài Honma Dân Biểu đơn vị Shinagawa Tokyo nâng nhập tiệc. Ông Honma Cả hội trường lúc này như ong vỡ tổ, ồn nào náo nhiệt bất thường. Món ăn đã được bày biện sẵn ở trên bàn từ trước. Khi còn ngồi nghe quý khách phát biểu, bụng dạ tôi đánh trống thùng thùng, giờ nghe được ăn là nhào tới liền không cần khách sáo. Từ ngày quán Đồng Nai đóng cửa, vợ chồng tôi chưa ghé lại quán ăn Việt lần nào. Hình như cũng nhớ hương vị Việt, chồng tôi lăm lăm dĩa, đũa trên tay. Bà con nhập tiệc Cũng tương tự như những năm trước, các món ăn thuần túy của quê mình: chả giò, gỏi cuốn, bánh tét, chả lụa, gỏi đu đủ trộn tôm thịt... Đặc biệt lần này có thêm món mít non trộn nghêu do phu nhân của ông Hội Trưởng trổ tài. Ngay trên bàn, một nồi thịt bò la-gu bốc khói nghi ngút trông thật hấp dẫn. Lúc đầu tôi tưởng là cà ri Ấn Độ nấu theo kiểu Việt Nam nên giới thiệu với chồng mình, thật là tẽn tò. - Itadakimasu (xin mời nhập tiệc) Tôi gắp một ít gỏi đu đủ vào dĩa rồi ăn thử, chẳng biết tại mình lạt mồm lạt miệng hay là chị Ngọc bỏ bếp lâu ngày nên lục nghề mà món ruột ưa thích nhất của tôi nay cứ như ăn phải rác, chả ngon tí nào. Tôi lại đưa tay nhón một cái gỏi cuốn chấm nước sốt cho lên miệng. Wow! ngon tuyệt! Ai làm món nước chấm này quả là xuất sắc. Sau này hỏi thăm tôi mới biết cũng là do phu nhân của ông Hội Trưởng Hiệp Hội người Việt. Ông Khanh thật là có phước, phu nhân của ông vừa xinh đẹp, vừa đảm đang việc nhà lại giỏi giang việc nước. Hơn nữa, chị rất giỏi Nhật ngữ. Chồng tôi bảo chị Võ nói tiếng Nhật y hệt như sách vở, và mang chị ra làm gương để tôi noi theo cố mà học tiếng Nhật. Tôi cũng hiểu rằng sinh sống tại Nhật điều quan trọng đầu tiên là phải học ngôn ngữ xứ họ. Thế nhưng, cứ mỗi lần mở sách học tiếng Nhật là đầu óc tôi quay cuồng, mắt thì díp tịp lại buồn ngủ, nên 9 năm sống tại đây, vốn liếng tiếng Nhật của tôi chỉ có được mỗi câu "Oyasuminasai" (chúc ngủ ngon) Bà con ta coi chừng ai cũng ấm bụng thì tiết mục văn nghệ bắt đầu. Vì không có dàn nhạc đệm nên các ca sĩ miệt vườn tụi tôi hát bằng karaoke. Anh Nguyễn Hoàng mở đầu chương trình bằng ca khúc Chân Tình. Anh là một trong những giọng ca xuất sắc nhất của hiệp hội, phải mà anh còn trẻ một chút thì tôi đề nghị anh ghi danh tham dự thi giọng ca vàng của trung tâm ASIA hoặc Thúy Nga Paris tổ chức tuyển lựa ca sĩ hàng năm. Các ca sĩ hát bằng cả tấm lòng mà người hướng dẫn chương trình cũng dí dỏm không kém. Tôi tò tò theo sau hai cô ca sĩ nhí để xin được chụp một tấm hình. Hai cô bé thật dễ thương trong bộ áo dài truyền thống của dân Việt. Thế nhưng hai cô người mẫu đỏng đảnh này không chịu cho chụp hình, nên làm cho bà "nhiếp ảnh gia" này mệt đứt hơi! Chú Long, một người dân sống ở vùng Fujisawa lại gần tôi nói nhỏ: - Sanh lấy một đứa cho ổng đi, sao lại cứ đòi chụp hình con của người khác. - Dạ, già cả rồi chú ơi! Sanh đẻ gì nữa chớ! _________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:58:06 GMT 9
Cả hai chú cháu tôi lại phá ra cười. Tôi chỉ gặp chú vài lần mỗi khi có lễ lạt như vầy. Chú Long tính tình cởi mở, và có khiếu hài hước. Lần nào hiệp hội có kêu gọi bà con đi biểu tình, chú và mọi người trong gia đình đều tham gia nồng nhiệt. Tôi nhớ lần theo bà con đi biểu tình chống Trung Cộng cướp Hoàngsa, Trường Sa của Việt Nam ta. Chú cũng là một cái loa hô hào hăng say nhất. Lần đi cổ động ủng hộ cho Tây Tạng, chú cũng có mặt. Lần lên Nagano chống rước đuốc Olympic Bắc kinh, chú cũng không vắng mặt. Chú Long quê ở Cam ranh, có được 6 người con cả trai lẫn gái. Chú chỉ cho tôi từng người đâu là con trai, con gái, đâu là dâu, là rể cũng như những đứa cháu nội ngoại của mình đang chạy lăng xăng quanh quẩn nơi đây. Cuối cùng thì tôi cũng chụp được tấm ảnh hai cô ca sĩ nhí Chương trình văn nghệ được ngưng lại ít phút để dành cho trò chơi lô tô có thưởng. Phần thưởng là những món quà do Nike tài trợ, tuy không giá trị là bao nhưng đã góp phần tăng không khí hào hứng cho buổi tiệc. Tôi hy vọng những năm kế tiếp sẽ có thêm nhiều tài trợ từ các nhà hảo tâm khác để giúp cho ban tổ chức chuẩn bị chu đáo hơn, thu hút nhiều bà con người Việt mình tham dự hơn. Chồng tôi ghé tai vợ nhắc nhở rằng em có tặng sách cho ai thì tặng đi kẻo tiệc gần tàn rồi. Lúc này tôi mới sực nhớ ra là mình mang theo 5 cuốn sách để tặng cho vài người quen biết, nhưng vì ham vui quá mà quên biến luôn, nếu chồng không nhắc chắc có nước mang về nhà. Tôi kéo anh Ngô Diệp lại, ngỏ ý tặng cho anh. Thật sự tôi không quen biết nhiều nên chỉ ký tặng được 4 cuốn, còn dư một cuốn chưa biết tặng cho ai thì anh Diệp đề nghị rằng nên tặng cho độc giả của Hiệp Hội. Anh Diệp sẽ thông báo là chỉ còn một cuốn sách duy nhất, tác giả có nhã ý tặng quý khách nào là người chạy lên đầu tiên. Tôi đồng ý theo giải pháp anh đưa ra. Ba cuốn sách ký tặng lần lượt được trao cho từng người, chỉ còn cuốn của anh Âu Minh Dũng mà tìm mãi không thấy anh đâu, nên tôi để sang bên cạnh. Anh Diệp vừa thông báo xong thì nhiều người ào ào đổ lên sân khấu đòi nhận sách. Sách chỉ còn một cuốn mà số người quá đông nên anh Diệp lại đề nghị oẳn tù tì, người chiến thắng sau cùng sẽ là người nhận sách. Lúc đầu thì cả nhóm xúm lại oẳn tù tì, nhưng vì người ra cái búa, người ra cái kéo, người lại ra tờ giấy nên họ cãi nhau ì xèo vì ai cũng đòi mình là người chiến thắng. Sau cùng từng cặp chia ra và người chiến thắng lại đấu với nhau cho đến khi chỉ còn lại một người. Anh Hoàng là người đã dành được cuốn sách, anh nâng niu ôm ấp nó trong lòng làm tôi cảm thấy mát dạ. Đứa con tinh thần của tôi được nhiều người yêu quý, trân trọng làm tôi thật sự xúc động, không cất nên lời. Ông hội trưởng đề nghị tôi góp vui một bài hát, anh Ngọc ngồi kế bên cũng gật đầu đồng tình lại còn đề nghị tôi nên hát song ca. Tôi liền hỏi ngược lại: - Hát với ai? Hát chung với anh à ? - Không, anh có biết hát đâu, Hân hát với Hoàng đi. Tôi nhoẻn cười, ừ thì hát với ca sĩ Hoàng, và tôi kéo anh Hoàng lại đề nghị chọn bản nhạc. Anh Hoàng ngập ngừng mắt liếc sang bên phía tên Phát Xít choòng tôi đang ngồi kế đó, hỏi: - Tôi thì cũng muốn hát chung với chị lắm mà có phiền gì ảnh không chị? - Không sao, anh đừng có lo. Tụi tôi chọn bài hát tình tự quê hương và ngồi chờ tới lượt. Trong thời gian đó, anh Dũng đã quay trở lại hội quán đến tìm tôi nhận sách. Anh khăng khăng đòi trả tiền ủng hộ tác giả, chứ nhất định khoong chịu nhận không. Anh bảo rằng nhận chữ ký tặng của tác giả là đủ rồi. Tôi chẳng biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn chân thành. Tiếng loa phóng thanh vang lên:"xin mời anh chị nào đăng ký bài hát Rước Tình Về Với Quê Hương lên sân khấu" Nguyễn Hoàng, Mỹ Hân Hai ca sĩ miệt vườn tui tôi tự tin bước ra, gì chứ hát karaoke với tôi chỉ là chuyện nhỏ. Tiếng nhạc tình tự quê hương được dạo lên, tôi chăm chú nhìn vào màn ảnh ti vi rồi húych nhẹ anh Hoàng: - Anh hát trước đấy! Giọng nam trầm của anh bay bổng: Anh xin đưa em về Về quê hương ta đó Anh xin đưa em về Về quê hương tuyệt vời Đèn trăng treo tuốt trên cao Ánh sao như muôn ngọn nến Lập lòe đom đóm hoa đăng Hỡi em theo anh về nhà Tôi tiếp lời anh: Em theo anh đi về Về quê hương ta sống Em theo anh đi về Về quê hương mặn nồng Đồng xanh như gái chưa con Lúa non xôn xao chào đón Bầy chim nghệ sĩ khoe khoang Thấy em đua nhau hòa đàn Anh Hoàng tiếp giọng; Em thấy không em Em thấy không em Quê hương ta ơi Quê hương tuyệt vời! Quê hương tuyệt vời! Gió mát trăng thanh Ôi gió mát trăng thanh Ru tình ta như sóng Ru con tuyệt vời Tôi cũng lập lại điệp khúc này; Anh thấy không anh Anh thấy không anh Quê hương ta ơi Quê hương tuyệt vời! Quê hương tuyệt vời .... Hát đến đây lòng tôi se lại, đau nhói. Câu nói hồi nãy của chú Long lại vang vảng bên tai: - Cô có đọc tin tức trong nước không cô? - Dạ có chú. - Cô có biết tin gì mới không ? - Sáng nay cháu chưa đọc báo, có tin gì mới không chú ? - Cộng Sản nó bán hết nước rồi cô, Trường Sa, Hoàng Sa, đất ở biên giới phía Bắc rồi thì boxit ở Tây Nguyên nữa ... lần lượt tụi nó bán hết cô à. Dân Trung Cộng sang Việt nam như đi chợ, mình ở đây về còn khó hơn tụi nó. Tôi chỉ biết thở dài, báo chí trong nước cũng lên tiếng cảnh báo rằng các nhà thầu Trung Quốc khi trúng thầu tại Việt Nam thì họ mang theo cả ngàn công nhân của họ qua, nguyên vật liệu đều dùng hàng của họ. Tôi không hiểu nhà cầm quyền Việt Nam nghĩ gì và làm gì? Hay họ là người của Trung Cộng hết cả rồi. Quê hương của tôi đẹp như vậy, tuyệt vời như vậy chẳng lẽ sẽ bị Tàu hóa hết hay sao Bài hát kết thúc trong tiếng vỗ tay vang dội của bà con ta ủng hộ tinh thần. Tôi quay trở vào chỗ ngồi, chú Long lại cất tiếng hỏi: - Cô hát mà cô có biết tác giả của bài hát này không ? - Dạ, của Hoàng Thi Thơ phải không chú. Chú Long gật đầu, rồi hỏi tiếp: - Sách do cô viết thật hả ? Sao cô giỏi quá vậy! Nghe chú khen tặng tôi cũng chỉ biết cười và có nhã ý muốn tặng chú một cuốn. Chú vui vẻ ghi địa chỉ cho tôi rồi mời khi nào rảnh xuống nhà chú chơi biết. Một nhóm người Nhật vẫn còn đứng cạnh bàn ăn nhìn tôi rồi chỉ xuống cuốn sách cạnh đó ý hỏi có phải chính tôi là tác giả. Tôi cũng chỉ gật đầu cười, ngay lập tức các ông kéo lại xin được chụp hình kỷ niệm. Hỏi ra tôi được biết các ông là nhân viên của một anh trong ban tổ chức. Anh mở công ty về xây cất và là một gương mặt thành công của người Việt tị nạn trên đất Nhật. Anh có giọng hát nam trầm rất hay trong bản nhạc Cô Thắm về Làng. Bữa tiệc giao lưu kết thúc, bà con ta vẫn còn nấn ná chưa ai chịu về. Đây là lần đầu tiên vợ chồng tôi ở lại đến phút cuối, hiếm hoi lắm mới có một ngày vui như vầy. Thôi thì hẹn năm sau nhé! 31-3-2009 Lê Mỹ Hân
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 0:59:48 GMT 9
Trớ Trêu (Truyện tình cảm dị thường của Hướng Dương txđ)
Thật là một chuyện lạ lùng! Tôi đã gặp người đàn bà tên Nhung ấy trong một tình cờ, một sự xếp đặt của định mệnh, hay do một xui khiến kỳ bí nào đó, tôi chẳng biết. Tôi chỉ biết rằng sau đó tôi đã nhận thức ra rằng tôi không thể tiếp tục dan díu với nàng được. Hoàn cảnh trớ trêu đã làm cho tôi không thể chấp nhận nàng làm người tình của tôi. Tôi đã bị giằng co trước khi đi đến quyết định cuối cùng là phải bằng mọi cách xa nàng. Xa Hồng Nhung, tôi sẽ khổ sở một thời gian không ngắn, vì mối tình không nguôi của tôi đối với nàng thì ít, mà vì sự uất ức thì nhiều. Tôi uất ức vì số tôi đã đưa tôi đến một sự éo le, một trắc trở làm cho tôi không tiến bước được nữa. Tôi đã bị kẹt trong một trường hợp khó xử, một trường hợp mà có lẽ không ai muốn trên đời.Tiếp tục yêu nàng chỉ làm cho tôi thêm buồn khổ, làm cho tôi cảm thấy tội lỗi, đưa tôi vào một tâm trạng khó tả: tôi không sao còn hưởng được trọn vẹn cái thú của ái tình, của yêu đương. Ôm nàng trong lòng tôi vừa sung sướng, vừa cảm thấy áy náy khó chịu, như thể có sự ngăn trở, buộc tôi phải nghĩ ngợi. Tôi đã muốn trọn vẹn hưởng mà bị ngăn, tôi đã muốn hoàn toàn chiếm cứ mà bị cản.
Trên chuyến tàu hôm ấy, tôi thấy nàng ngồi với một người đàn ông quay lưng về phía tôi, tóc đã bạc phơ, chắc lớn tuổi hơn nàng nhiều, hai người ngồi ăn bữa điểm tâm bên khung cửa kính to nhìn ra biển cả mênh mông. Bầu trời xanh ngắt, biển cũng một màu xanh đậm, gió thổi khá mạnh nhưng chỉ đủ làm cho nước biển hơi gợn sóng, trông tựa như thể mặt hồ Michigan chứ không phải mặt biển trong Vịnh Alaska. Lúc đầu tôi không để ý đến nàng nhưng khi tình cờ tôi nhìn về phía khung cửa kính đó, tôi đã bắt gặp ánh mắt nàng hướng về phía tôi. Gặp ánh mắt tôi, nàng bỗng chớp mắt lia lịa, cúi mặt xuống đĩa thức ăn rồi nhoẻn miệng cười nhẹ, như thể nàng biết nàng bị tôi bắt gặp quả tang. Đôi má nàng ửng đỏ, đôi mắt đen láy và to, những làn mi dài cong vẫn còn di dộng. Tự nhiên tôi thấy như bị thu hút bởi người đàn bà không quen ấy. Hình như nàng biết tôi vẫn đang nhìn nên, trong mấy phút sau đó, nàng cứ cúi đầu cười mỉm, tay cầm chiếc nĩa mà không ăn.
Tôi bỗng nhận thức rằng người đàn bà đó lớn tuổi hơn tôi, tôi ngưng để ý đến nàng, và quay về với bửa ăn của mình. Chừng vài phút sau, như bị thôi thúc bởi sự tò mò, muốn biết xem nàng có còn tiếp tục nhìn tôi không, tôi bèn quay đầu về phía chiếc bàn nơi nàng ngồi, cách tôi chưa đầy năm sáu thước. Phòng ăn trên lầu 14 của con tàu bấy giờ đã chật ních những thực khách, không còn một chiếc bàn nào mà không có người ngồi. Chỉ mới có mấy phút trôi qua mà nay giữa tôi và nàng đã có những đầu người ngăn chặn lối nhìn. Tôi đã lại thấy nàng nghiêng đầu sang một bên để vừa nhai thức ăn vừa có thể hướng mắt nhìn về phía tôi. Rồi tôi nghĩ có lẽ nàng đang nhìn một cái gì sau lưng tôi, một bức tranh treo trên tường, một lọ hoa, hay một cái gì đó mà tôi không biết. Bởi vì tôi thấy chẳng có lý do gì mà nàng lại nhìn tôi cả. Tôi xoay lưng để tìm xem có cái gì có thể lôi cuốn sự chăm chú của nàng sau lưng tôi hay không nhưng chỉ thấy một bức tường trống trơn. Quay ánh mắt trở lại, tôi vẫn thấy đôi mắt đen láy đó nhìn tôi, đôi mắt mơ mộng, mở to nhưng phảng phất buồn. Nàng lại chớp chớp đôi làn mi cong, trước khi quay mặt đi nơi khác.
“Rõ ràng là người đàn bà đó nhìn mình”, tôi tự nghĩ, “chẳng hiểu vì sao nhưng đúng là thế! Hay là nàng đã lầm mình với một người nào đó mà nàng quen biết?” Tôi cố moi óc xem trong ký ức có hình ảnh nàng hay không nhưng vô ích. Chắc chắn là trong chuỗi những người đàn bà đã đi qua đời tôi, không có nàng. Vả lại tôi chưa bao giờ có ý nghĩ chọn một người tình lớn tuổi hơn mình, chứ đừng nói là làm. Có thể nàng đã gặp tôi ở đâu đó, một buổi tiếp tân, một đám cưới đám giỗ, một ngày hội, một buổi lễ chăng? Còn tôi, tuy cố nhớ lại nhưng cuối cùng cũng phải tự nhủ rằng tôi chưa hề gặp nàng bao giờ. Trí nhớ tôi còn tốt, tôi không thể sai, bởi vì tôi còn trẻ, ở cái tuổi năm mươi, những đứa bạn tôi vẫn thường đùa nói rằng tôi có trí nhớ của một chiếc máy điện toán, làm sao tôi có thể quên hay lầm lộn? Như vậy, tại sao lại có sự kiện lạ lùng này? Tại sao nàng lại cứ nhìn trộm tôi, để rồi khi bị bắt gặp thì lại ửng đỏ đôi má, mắt chớp chớp, cúi đầu nhoẻn miệng cười một mình như thể nàng đang thích thú được biết tôi cũng chú ý đến nàng? Bận tâm với những thắc mắc đó, tôi ăn cũng chẳng thấy ngon miệng. Tôi quyết định đứng lên đi lấy vài miếng trái cây ăn cho mát ruột, cho bớt bực bội, bởi vì tôi đang bị ám ảnh bởi cái nhìn của người đàn bà kỳ lạ kia.
Đến khi tôi trở lại bàn và nhìn qua bên kia thì nàng đã biến mất. Nàng đã ăn xong bữa điểm tâm, hay đã đợi lúc tôi vắng để đứng dậy ra đi? Nàng đã không muốn để tôi nghi ngờ điều gì hay sợ tôi quan tâm để ý đến nàng? Hay nàng sợ tôi sẽ tò mò tìm hiểu xem tại sao nàng lại cứ nhìn tôi như thế? Trong đầu tôi bao nhiêu câu hỏi quay cuồng làm tâm trí tôi rối lọan. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại phải để tâm đến một việc tầm thường như việc một người đàn bạ xa lạ nhìn mình? Nhưng tôi cứ bị ám ảnh bởi nụ cười bí hiểm của nàng. Trong tâm trí nàng đang có ý nghĩ gì lúc ấy? Tại sao khi biết tôi nhìn nàng thì nàng lại bẻn lẻn quay đầu đi rồi cười mỉm? Tại sao lại cười? Cái cười đó có ý nghĩa gì? Nàng không đẹp, tuy không xấu, hơi đẫy đà, tóc cắt ngắn, môi tô son đỏ trông cũng khêu gợi. Nàng bận một chiếc áo màu đen với những bông hoa hồng đỏ làm nổi bật làn da hồng hào và hàm răng đều đặn trắng muốt. Nhưng tôi thích nhất cặp mắt nàng, cặp mắt to mở rộng, tròn đen như hai hạt nhãn, với cái vẻ mơ mộng, đôi mắt quyến rũ hồn người nào nhìn chúng, đôi mắt xoi đáy tâm hồn nàng. Và tôi bỗng dưng cho rằng nàng đang có một chuyện buồn, vẻ mặt nàng, có lúc, rõ ràng phản ảnh điều đó, bởi cái nét u uẩn, hơi lạ thường, cái nhìn xa xăm tuy hướng về phía tôi. Tội tự hỏi, khi nhìn tôi nàng nghĩ gì? Chắc chắn trong đầu nàng hình ảnh tôi đã gợi lên môt cái gì đó, một hình bóng nào đó đã từng qua đời nàng. Nếu không thì nàng chẳng chăm chú nhìn tôi làm gì.
Cả ngày hôm đó và ngày hôm sau trong đầu tôi cứ lởn vởn hình bóng nàng. Tôi không sao xua đuổi hẳn khỏi tâm trí những thắc mắc, những suy nghĩ vẩn vơ cứ làm cho tôi điên đầu. Tôi muốn đi tìm nàng để hỏi cho ra nhẽ và nơi nào tôi cũng tưởng tượng ra bóng dáng nàng đâu đó gần tôi. Vào casino chơi chiếc máy kéo tiền xu cho khuây khỏa, tôi cũng thấy nàng ngồi chơi ngay bên kia, lưng quay sang tôi, cũng chiếc áo đen hoa đỏ, mái tóc cắt ngắn. Nhưng khi tôi hồi hộp đứng lên tới gần thì lại chỉ là một người đàn bà khác, cũng người Á Châu, cũng chạc tuổi nàng. Đi coi show, nhìn quanh quẩn chơi, tôi thấy nàng ngôi trên balcon nhìn xuống phía tôi chằm chặp. Rõ ràng là nàng, không thể là ai khác! Tôi vội rời ghế chạy lên, tim đập thình thịch, tôi bước men theo lối đi hẹp trước hàng ghế đầu, tay vịn chiếc lan can để mau tiến tới gần. Thì ra tôi đã lại trông gà hóa cuốc, đâu phải nàng đâu? Đi ngang qua hồ bơi, tôi thấy bóng nàng bơi lội bên bờ bên kia, người đàn ông tóc bạc tôi đã thấy ngồi bên nàng lúc ăn bữa điểm tâm đang đứng bên bờ hồ, tay vịn vào chiếc lan can, nơi có treo vắt ngang một chiếc khăn bông lau người mầu hồng. Tôi lẳng lặng tới gần mới thấy rằng đó là một người đàn ông Nhật hay Đại Hàn gì đó đang đứng nhìn cô vợ trẻ vẫy vùng trong bể bơi. Đi bộ quanh tầu tập thể dục, nơi lầu 7, với bao nhiêu người cùng đi xung quanh với tôi, đến vòng thứ năm, tôi thấy rõ ràng nàng mở cánh cửa ra vào ló đầu ra nhìn tôi rồi đóng ập lại, để rồi khi tôi chạy vội đến nơi thì bóng nàng đã biến mất. Bao nhiêu là sư lạ lùng, khó hiểu làm cho tôi phát tức điên lên.
Cứ như thế, sự ám ảnh gây ra những ảo thị quái gở, tôi cũng chẳng biết vì sao. Đâu đó đã có lần tôi đọc được câu chuyện nói về những luồng điện giữa hai con người thu hút nhau, một hình thức cảm tính khó giải thích bằng lý trí. Phải chăng tôi đã bị nàng thu hút tâm hồn? Phải chăng có một cái gì bí ẩn lôi kéo tôi theo nàng? Tôi không thể giải thích được cái gì đã thúc đẩy tôi phải quan tâm đến người đàn bà đó, một sự quan tâm vô lý đã gây khó chịu cho tôi, làm cho tôi chẳng còn bình tâm hưởng những phút nghỉ ngơi, chẳng còn thoải mái sống những giờ vui chơi trên con tàu du ngoạn nữa. Chán nản, tôi la cà những quán rượu, làm quen với những người cùng ngồi đó với tôi để nói chuyện tầm phào cho quên sầu. Tiếng kèn saxo của anh nhạc sĩ não nuột chơi nhưng bản nhạc tình bất hủ càng làm cho tôi buồn hơn. Nằm phơi nắng trên boong tầu ở tầng thứ 16, tôi cứ mong nàng bất chợt hiện ra, mỉm cười với tôi, đến ngồi bên tôi nói chuyện cho tôi hết băn khoăn, hết tức tối. Nhưng chẳng có chuyện đó, và những người đàn bà ở trần nằm phơi lưng dưới nắng cũng chẵng còn sức thu hút sự chú ý của tôi nữa. Thế mới ra chuyện.
Nhưng rồi đến chiều tối hôm sau đó, trong nhà hàng ở lầu 5, tôi đã bất ngờ được xếp ngồi cùng bàn với năm người khác, trong đó có Hồng Nhung và người chồng của nàng. Nói rằng đó là định mệnh, chắc không ai tin, nhưng tại sao lại có trùng hợp lạ lùng như thế xẩy ra? Nếu là một Hồng Nhung trẻ đẹp và chưa có chồng, tôi làm quen em được thì tôi đã coi đó là duyên số. Còn đàng này, Hồng Nhung có chồng, nàng không đẹp như mộng, nàng lại lớn tuổi hơn tôi, thì cái gì đưa tôi đến với nàng nếu không phải là định mệnh? Định mệnh, vì sau đó tôi đã để ý đến nàng, có cảm tình với nàng, để rồi cuối cùng chúng tôi yêu nhau.
Như thế tôi ngồi bên Hồng Nhung trước một bàn tròn lớn phủ khăn trải bàn trắng, có bình bông ở chính giữa, và bên nàng là Quân ông chồng già của nàng. Ba người kia là một cặp vợ chồng Tây già và một bà bạn, họ chẳng có gì hấp dẫn để cho chúng tôi chuyện trò, ngoài vài câu chào hỏi lịch sự lúc mới vào ngồi ở bàn. Hồng Nhung hình như tỏ ra thích thú khi thấy tôi đến ngồi cùng. Nàng nhoẻn miệng cười, nói một câu bằng tiếng Anh như nói với một người lạ, một người ngoại quốc, không phải là một người Việt như tôi:
Hello! My name is Hồng Nhung, I am Vietnamese, and here is my husband, Dr. Quan. We are from California. (Chào anh! Em là Hồng Nhung, em là người Việt và đây là chồng em, bác Sĩ Quân. Chúng em đến từ California)
Tôi tên Hoàng, tôi cũng đến từ Bắc Cali.
Tôi vừa nói vừa đưa tay bắt tay hai vợ chồng người bạn mới. Quân nắm nhẹ tay tôi, nói một câu ngắn “Chào anh, rất hân hạnh…” rồi thôi. Và suốt bữa cơm tối hôm đó anh ít khi mở miệng, chỉ để cho Hồng Nhung tiếp chuyện tôi mà thôi. Hồng Nhung thì, trái lại, rất vui, nàng không cần phải giữ ý tứ, không dè dặt, mặc dù ngồi bên chồng nàng. Sau đó tôi mới hiểu vì sao Quân đã để cho nàng được hoàn toàn tự do, muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói. Quân năm đó đã bẩy mươi mà sức khoẻ lại không tốt. Anh bị nhiều căn bệnh mãn tính, cộng thêm vào đó lại còn bị trầm cảm nặng. Tuy hồn nhiên, Hồng Nhung cũng không làm gì hay nói gì quá trớn. Nàng chỉ thể hiện tính tình cởi mở, vui vẻ, thân thiện mà thôi.
Anh Hoàng biết không, vừa thấy anh là Nhung biết anh là người Việt liền. Trên tầu có ít người Việt, nên Nhung có ý muốn làm quen với anh để nói chuyện, chứ ngồi không, buồn lắm!
Hơi ngạc nhiên, tôi hỏi nàng:
Làm sao Nhung biết Hoàng là người Việt? Không có bạn Việt thì Nhung làm quen với những người Mỹ, người Tây cũng nói chuyện được chứ có sao đâu?
Anh hỏi làm sao Nhung biết anh là người Việt hả? Bởi vì anh giống một người mà xưa kia lâu lắm rồi Nhung quen rất thân. Giống lắm cơ chứ không phải Nhung nói chơi đâu! Nhìn anh cả một phần quá khứ của Nhung hiện trở lại trong đầu Nhung đó! Nàng ngưng một lúc rồi nói tiếp:
Không phải Nhung không biết xã giao đâu, anh đừng tưởng lầm. Nhung cũng quen nhiều bạn người ngoại quốc lắm chứ! Nhưng nói chuyện với anh bằng tiếng Việt vẫn thích hơn. Vả lại như Nhung vừa nói, anh gợi lại nhiều hình ảnh xa xưa cho Nhung đó! Nhưng thôi, để khi nào hai đứa quen nhau thân hơn thì Nhung mới dám kể chuyện này cho anh nghe….
Bữa cơm tối hôm đó, ngồi bên nàng, tôi thấy vui vui, lòng tôi lâng lâng một cảm giác hạnh phúc. Có lẽ bởi vì tôi đang cô đơn, nay có người bạn giải khuây, và được nghe tâm tình? Tôi đã có linh tính ngay từ phút ban đầu khi nói chuyện với nàng rằng chúng tôi, Hồng Nhung và tôi, sẽ là đôi bạn, và mối liên lạc giữa chúng tôi có thể còn tiến xa hơn cả thế nữa. Những gì nàng kể cho tôi nghe, tôi rất thông cảm, và những e dè trước kia, do tuổi tác chênh lệch giữa hai đứa, cũng đã từ từ biến mất. Và chẳng bao lâu, nàng đã tỏ ra thân mật, nàng bắt đầu kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc đời nàng.
Do vậy tôi được biết nàng đã vượt biên lúc 16 tuổi, được một chiếc tàu Na Uy cứu ngoài biển Đông đưa sang sinh sống tại Oslo. Bên đó những mùa đông lạnh giá khủng khiếp kéo dài, thật ảm đạm, thật cô liêu, không hợp với tính năng động của nàng. Hồng Nhung không thích sự lạnh lẽo, trái lại nàng thích sinh hoạt, thích giao du, thích đi chơi đây đó, gặp bạn bè trò chuyện. Và trong nhiều năm dài sống ở một xứ có mùa đông kéo dài quá lâu, nàng mơ đến một ngày sáng trời nào đó nàng được sang tái định cư tại Cali, như bao nhiêu người quen mà nàng biết. Đến năm nàng 20 tuổi, năm ấy nàng đang học đại học, nàng xin được học bổng sang tu nghiệp một năm bên Mỹ. Nàng đã chọn USC để được đến Cali, nơi nàng vẫn từng mơ ước tới. Nhưng trong thâm tâm, Hồng Nhung không muốn chỉ sang Mỹ học, để xong lại trở về Na Uy. Vì thế nàng đã nghĩ rằng chỉ bằng cách lập gia đình với một người đang sinh sống bên đây nàng mới có thể di cư hẳn sang cái xứ mà nàng cho là thần tiên này được. Như thế suốt năm học nàng đã tìm cách thực hiện kế hoạch nàng có trong đầu. Nàng giao du với nhiều bạn trai, nhưng số nàng chưa tới, nàng không tìm được ai vừa ý cho nên sau khi xong khóa tu nghiệp Hồng Nhung phải trở lại Na Uy. Nàng nói cho tôi nghe nỗi buồn ghê gớm mà nàng đã phải trải qua bao lâu sau đó, buồn, nàng nói, không phải vì không được ở lại Mỹ mà là vì nàng đã nỗ lực hết sức để thực hiện kế hoạch trong đầu mà không thành công.
Anh biết không, Nhung là loại con gái muốn gì là phải làm cho kỳ được. Thất bại đối với Nhung rất khó chấp nhận. Vì vậy mà Nhung buồn lắm, buồn ơi là buồn…Nhưng thôi để tí nữa ăn cơm xong mình lên lầu trên ngồi, uống cà phê, em sẽ kể cho anh nghe. Nhung không muốn quấy rầy anh trong bữa ăn…
Sau bữa cơm, chúng tôi lên lầu trên tìm một quán rượu ngồi chơi, tôi nghe Hồng Nhung tâm sự, nàng kể nốt câu chuyện về những ngày xa xưa của nàng. Quân vịn cớ mệt tỏ ý muốn trở về phòng của mình nghỉ ngơi. Thấy Quân đòi đi mà để vợ ở lại ngồi chơi với tôi, tôi thấy áy náy nên liền nói:
Anh Quân, anh mệt thì để khi khác mình ngồi chơi với nhau… Chúng mình còn có thể gặp nhau dài dài mà anh. Còn tám ngày nữa tầu mới về đến bến…
Anh cứ tự nhiên đi. Tôi quen để Nhung tự do rồi. Chồng già vợ trẻ thì phải thế thôi… Tôi muốn Nhung được vui, nàng không phải theo tôi làm gì… Buộc nàng về phòng để đi ngủ sớm ư? Anh cứ ngồi chơi với Nhung, không có gì phải ái ngại cả. Tôi không sợ anh bắt cóc nàng đâu… Nói đến đây Quân cười nhẹ, nói với vợ:
Có anh Hoàng làm bạn, em chắc hết than buồn rồi phải không? Anh về phòng đọc sách một lúc rồi chờ em về đi ngủ nghe! Bonne soirée chérie! (Chúc em yêu một buổi tối vui vẻ).
Rồi quay sang tôi anh chìa tay ra bắt tay, miệng nói:
Anh Hoàng gắng entertain (mang vui lại cho) Nhung dùm nhe! Mai mình sẽ gặp lại trong bữa cơm tối được không! Nhung và tôi trông gặp lại anh đó.
Quân đi rồi, Nhung gọi một tách expresso còn tôi kêu một ly Cognac. Chúng tôi ngồi ở một góc tường, xa nơi có cây đàn piano, lúc đó một người đàn bà đang dạo bản Mélodie d’Amour . Hồng Nhung xoay người ngồi cho thoải mái trong chiếc ghế bành nệm nhung đỏ êm ái. Nàng nhìn tôi một chập, ánh mắt hóm hỉnh, rồi nói:
Anh Hoàng thấy Nhung thế nào? Liệu hai đứa mình có thể kết bạn với nhau được không?
Bị hỏi bất ngờ một câu khó trả lời, tôi hơi luống cuống chưa biết nói gì thì Nhung tiếp:
Nói cho anh vui, Nhung rất may gặp được anh trong chuyến đi này, chứ nếu không …. em sẽ cứ lủi thủi một mình, chán lắm. Có anh, hai đứa mình đi chơi với nhau. Anh chịu không?
Nhung có anh Quân bên cạnh mà! Đâu cần gì đến Hoàng?
Anh Quân chiều em nên đưa em đi chơi đây đó cho em đỡ buồn, chứ tự anh ấy, anh ấy đâu có muốn đi?
Sao lai không muốn đi? Ai chẳng thích đi du lịch?
Anh ấy kêu mệt mỏi lắm, chẳng còn muốn đi đâu hết! Nhưng em đòi thì anh ấy làm sao? Em còn trẻ, đâu có thể ru rú ở nhà với anh ấy mãi được? Mà đi một mình thì anh ấy không muốn…
Vợ chổng đi đâu thì phải có nhau chứ gì nữa…
Nhưng anh ấy kêu tuổi già hay mệt, cứ bỏ em lang thang trên tầu một mình. Em chẳng biết làm gì hơn là đi bơi, tập thể dục, đi xem show này nọ, nghe nhạc, nằm phơi nắng trên boong tau cả ngày, chán phèo! Đọc sách mãi cũng mỏi mắt, chẳng có ai để nói chuyện cả. Nay có anh, em mừng lắm. Mà anh có chịu đi chơi với em không?
Tôi thấy Hồng Nhung hơi ngổ. Ai đời đàn bà mà lại đi tấn công đàn ông như thế! Nhưng tôi thấy nàng cũng dễ thương, tôi thử nói lảng xem sao:
Đi chơi với Hoàng, Nhung không sợ mang tiếng à?
Với vẻ mặt ngây thơ nàng hỏi lại:
Mang tiếng gì cơ anh Hoàng?
Thì Nhung có chồng mà lại đi chơi với một người đàn ông khác!
Đâu có sao đâu anh? Mình là bạn mà! Mà anh chịu làm bạn với Nhung không mới được cơ chứ?
Nàng lại đưa tôi vào một thế kẹt nữa. Tôi thừa biết nàng muốn gì nhưng vẫn đùa dai:
Bạn thế nào được? Tôi là đàn ông mà! Nhung muốn tôi làm boyfriend của Nhung ấy à?
Ứ ư, anh Hoàng hỏi kỳ quá! Thì anh làm bạn với Nhung có sao đâu? Bạn thôi mà! Ờ mà quên hỏi anh câu này. Sao Nhung thấy anh đi có một mình vậy? Anh không có ai accompagner (đi cùng với) anh hả?
Tôi bèn nói dối:
Tôi đi với một người bạn cùng sở…
Nhung hoảng hốt cướp lời tôi:
Cô ta đâu anh? Sao em không thấy đi với anh?
Cô gì mà cô? Bạn đàn ông. Sao bạn là cứ phải khác phái?
Ủa, anh đi chơi với bạn đàn ông sao?
Tôi thấy vẻ mặt nghi ngại của nàng lộ rõ trên mặt. Tôi bèn nói nửa đùa nửa thật:
Thì hai đứa thường hay đi cruise với nhau lắm!
Hồng Nhung trố mắt nhìn tôi, nói trong tiếng thở dồn dập:
Bộ anh homo (đồng tình luyến ái) hả?
Tôi phì cười trả lời nàng:
Bộ cứ hai người đàn ông đi chơi với nhau là phải homo hay sao? Đi chơi chứ có ngủ với nhau đâu? Cabin tôi có hai giường mà! Không tin cho Nhung check đó!
Vừa nói xong câu này tôi thấy tôi đã nói hớ. Bởi vì Hồng Nhung chộp ngay cơ hội:
OK, anh cho Nhung đến xem phòng anh đi! Mình uống nốt rồi mình đi nghe anh?
Nhung dám đến phòng Hoàng ư?
Dám chứ sợ gì? Bộ anh tính ăn thịt em hả?
Ăn thịt thì không nhưng lỡ bỗng dưng Hoàng dở chứng…
Anh dở chứng thì anh làm gì Nhung?
Tôi thấy mình lại nói lỡ lời. Hình như bên nàng, lòng tôi xao xuyến sao đó, tôi không còn tự kiểm soát lời nói của mình nữa.
Chẳng làm gì cả, nhưng nguy hiểm lắm!
Tôi muốn nói thế để cho nàng sợ không đến xem phòng tôi vì tôi e bị lộ tẩy, tôi sợ nàng khám phá ra rằng tôi đã nói dối. Nhưng Hồng Nhung không phải là tay vừa:
Chẳng có gì là nguy hiểm cả. Mình ở trên một con tàu chứ có ở trong rừng trong rú đâu mà nguy hiểm? Thôi mình đi nghe anh.
Miễn cưỡng tôi phải đưa nàng về phòng tôi. Vừa mở cửa ra, nàng liền bước ngay vào miệng la toáng:
Anh nói dối Nhung rồi đó! Em biết ngay mà! Đâu có hai giường đâu? Chỉ có một king bed thôi mà! Anh ngủ với ai vậy? Tôi bèn ôn tồn giải thích:
Lúc nãy Nhung hỏi kỹ quá, anh cuống lên, anh nói đại. Anh đi có một mình thôi! Mà sao Nhung dữ quá vậy?
Thấy tôi lép vế, nàng xuống giọng nũng nịu:
Em có làm gì đâu mà anh nói em dữ? Em hiền như ma soeur ấy mà! Thôi, để hai đứa mình ra ngồi balcony ngắm trăng nhìn biển, và em sẽ kể nốt câu chuyện của em cho anh nghe.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:01:23 GMT 9
Chúng tôi ra ngồi trên hai chiếc ghế bành, nhìn quanh cảnh thần tiên của biển cả dưới ánh trăng, mặt nước óng ánh một mầu tím đen, những làn sóng nhấp nhô như nhẩy múa dưới bầu trời xanh có điểm những cụm mây bạc lơ lửng. Giá mà Hồng Nhung là người tình của tôi, giá mà tôi được ôm nàng trong vòng tay để được thêm cái cảm giác đê mê của tấm thân nàng bên tôi, ấm áp, hấp dẫn, lôi cuốn, kỳ diệu… Tôi đi vào một cuộc phiêu du của trí tưởng tượng, hít hà mùi nước hoa thoảng thoảng phát ra từ tấm thân nàng. Dường như Hồng Nhung đã đoán ra được những gì tôi nghĩ trong đầu, nàng tinh ranh nói:
Anh đang tơ tưởng đến cái gì mà trông thẫn thờ vậy? Thế anh có muốn nghe em kể tiếp chuyện em không đấy?
Nàng nhìn tôi dò xét. Tôi nói:
Thì anh đang chờ em nói mà.
Hồng Nhung kể cho tôi nghe về khoảng thời gian đó, sau khi nàng từ Mỹ trở lại Oslo. Nàng kiếm được việc làm tốt, thuê được một căn nhà xinh xắn để có một chỗ ở thoải mái, kết bạn được với một số người Việt, nâng đỡ nàng về mặt tinh thần. Nàng vẫn còn mơ kiếm được một người bạn trai ở Mỹ để lấy làm chồng. Tuy khó khăn vất vả nhưng rồi Hồng Nhung cũng được toại nguyện phần nào. Hai năm sau nàng làm quen được với một người đàn ông sống ở Nam Cali và lúc đầu hai người giao thiệp với nhau bằng thư từ qua lại.
Làm sao Hồng Nhung ở tuốt bên Oslo mà làm quen được ông đó vậy? Tình cờ Nhung đọc một tờ báo tiếng Việt ở Orange County và trong đó có mục tìm bạn tri âm. Nhung đang cô đơn lắm, bị depressed (xuống tinh thần) kinh khủng, chỉ muốn có người biên thư qua lại cho thấy ấm lòng. Nhung cũng chẳng mong gì qua được Mỹ nữa.
Thế Nhung có chọn được một người bạn tốt không?
Hồi đó Nhung mới 23 tuổi, chưa có kinh nghiệm về cuộc đời. Nhung còn ngây thơ lắm, anh biết không? May mà Nhung quen được một người đã đứng tuổi, anh ấy dẫn dắt, chỉ bảo Nhung nhiều điều… Anh ấy bao nhiêu tuổi?
Hơn Nhung hai mươi tuổi cơ! Nhung đã chọn như thế vì … Nhung thiếu tình thương của bố Nhung. Nhung thiếu một sự chăm sóc, hướng dẫn, thiếu một cái gương để noi theo… Nhưng trong cái may lại có cái không may… Không may là sao hả Nhung?
Anh ấy đã có gia đình… Nhưng Nhung cũng bất cần…
Chuyện giữa hai người kéo dài gần năm năm trời. Mới đầu chỉ là tình bạn qua những lá thư. Chẳng bao lâu sau, hai đứa đi đến chỗ thương yêu nhau, mới đầu yêu qua những cánh thư, sau đó qua sự gần gũi. Bởi vì Tuấn, tên người đàn ông đó, đã tìm được công việc làm cho nàng bên đây, và nàng đã xin được thông hành dài hạn để sang sinh sống bên cạnh người yêu.
Nhưng Nhung nói anh ta có gia đình mà?
Thì hai đứa sống lén lút với nhau. Anh ấy buồn về bà vợ nhiều lắm. Anh ấy và em mang lại nhiều an ủi cho nhau. Có anh ấy em thấy cuộc đời em thay đổi…
Nhung có yêu anh ta thật không?
Có chứ! Em yêu anh ấy cũng nhiều như anh ấy yêu em. Vả lại hai người cần nhau để cho cuộc sống có ý nghiã.
Nhưng dần dần, Nhung thấy vì chuyện hai người không đi đến đâu, người đàn ông đó không đành bỏ vợ để cưới nàng, nên nàng quyết định chia tay với anh ta. Những tháng sau cùng, cả hai người đều đau khổ vì mối tình tuyệt vọng. Kể đến đây, Hồng Nhung buồn ra mặt, hai khóe mắt nàng rươm rướm hai giọt lệ.
Thấy đã khuya mà tinh thần nàng lại đang bị giao động, tôi vội nói:
Thôi nghe chuyện Nhung kể đến đây là đủ rồi. Để hôm khác Nhung tâm sự tiếp được không? Trễ rồi, em phải về với anh Quân kẻo anh ấy mong.. OK em về, sáng mai gặp lại anh lúc Breakfast Buffet 8 giờ nhe! Good night anh nhe!
Rồi bất chợt, ngoài dự tính của tôi, đúng lúc chúng tôi đứng dậy, nàng nhón chân, bá cổ tôi xuống, hôn nhẹ tôi một cái, làm cho tôi bàng hoàng cả người. Tôi thoáng nghĩ, “Em này chịu chơi ta!” Hồng Nhung tự mở cửa phòng, bước ra, rồi biến mất nhanh chóng. Nàng đi vội vã như thể muốn trốn tránh tôi, như thể nếu nàng ở lại thêm dăm ba phút nữa thì nàng sẽ ngả vào lòng tôi để được tôi an ủi, rồi… chuyện gì cũng có thể xẫy ra. Hồng Nhung đang khao khát tình yêu, nàng đang đi tìm một sự phiêu lưu, một sự thỏa mãn, tôi thấy rõ điều đó. Bên tôi, nàng sẽ khó tự chủ. Trong đầu tôi, một ý nghĩ ngộ nghĩnh hiện lên, “Mới quen nhau đây mà đã thế, ngày mai ngày một sẽ ra sao?”
Như thế chúng tôi tiếp tục gặp nhau, trên boong tàu, trong phòng gym, nơi bể bơi, khi đi xem show, trong nhà ăn, khi ngồi nghe nhạc…Riết tôi đâm mê nàng, thiếu bóng nàng vài giờ là đã nhớ, đã muốn đi tìm. Còn nàng thì khỏi nói, nàng đã bị tôi “cảm hoá” từ lúc nào rồi, nàng cư xử như thể chúng tôi đã quen nhau từ bao năm tháng trước. Những người ngoài nhìn tưởng chúng tôi là một cặp tình nhân. Khi thấy tôi đưa máy hình chụp Hồng Nhung cười hồn nhiên sung sướng, mái tóc dài bay phất phới trước gió lạnh buốt, có người đã tự nguyện chụp dùm để tôi được đứng bên nàng dưới một vùng trời xanh ngắt, đàng sau là những dẫy núi cao phủ băng trên đỉnh, ghi lại những kỷ niện khó quên. Sau này nhìn những tấm hình đó, tôi không khỏi bùi ngùi, lòng tôi không khỏi se lại, tim tôi không khỏi đập nhanh hơn. Những kỷ niệm êm đềm đó mãi mãi sẽ đi vào tâm khảm tôi, như là những mũi dao gây ra những thương tích để đời…
Bỗng nhiên một đêm, một chuyện lạ lùng xẩy ra cho tôi mà tôi không thể nào giải thích bằng lý trí được, một chuyện cứ đeo đuổi, ám ảnh tâm trí tôi, làm cho tôi không còn bình tâm trong những ngày sau đó. Trong đêm hôm đó và cả đêm hôm sau, trong hai đêm liền, cùng một cơn ác mộng đã đến với tôi lúc tôi ngủ, làm cho tôi bàng hoàng tỉnh dạy. Tôi thường có những cơn ác mộng nhưng cái lạ lùng là tôi chưa có cùng một giấc mơ hãi hùng hai lần liền như thế bao giờ.
Tôi đã thấy tôi ngồi uống nước trong một quán bên đường, trời lúc đó vào xế chiều, nhiều người đi vội vã trên con đường hai bên lác đác những căn phố, giống như một con đường ở tỉnh nhỏ. Rồi chẳng hiểu sao, trời tối đi nhanh chóng, sau đó là một cơn mưa lớn như thể một cơn bảo, có sấm sét đùng đùng. Thế mà tôi vẫn cứ ngồi đó nhìn con đường chạy đi tuốt xa, dài hun hút hai bên có hai hàng cây cao, cành lá chao qua chao lại vì cơn gió mạnh thổi ào ào. Tôi nghe có tiếng gió rít lên, cộng với tiếng gầm thét của sấm sét. Thế rồi cơn mưa tạnh, rồi như thể một cơn sương mù đổ xuống hay là khói mây phủ tất cả quang cảnh trước mắt tôi để rồi từ từ hiện ra lúc ẩn lúc hiện hai bóng người dìu nhau đi tới. Tôi quá đỗi ngạc nhiên, óc tôi như tê đi, tôi chẳng còn hiểu gì được nữa, và cứ thế hai người chậm bước tiến tới gần, từng bước từng bước. Đến khi họ cách tôi chừng mươi thước thì tôi nhận được ra người đàn ông đó là ai. Đó chính là bố tôi, bố tôi ở cái tuổi trên bốn mươi của ông ngày đó, và người đàn bà là một cô gái trẻ đẹp, trông chừng chỉ hơn hai mươi tuổi. Tôi nhìn kỹ để cố nhận diện người con gái đó bởi vì tôi chưa thấy cô ta bao giờ cạnh bố tôi khi ông còn sinh thời. Hoạt cảnh đó cứ diễn ra trước mắt tôi không biết bao lâu, rồi bố tôi đang đi tự dưng quị xuống, người co quắp, hai tay ôm ngực, mặt nhăn nhó như thể ông đang đau đớn lắm. Tôi giật mình cố đứng dậy nhưng không sao đứng lên được, một sức mạnh kỳ bí như ấn cả thân người tôi xuống. Tim tôi đập mạnh, miệng tôi há hốc, tôi muống la lên, “Bố ơi! Bố làm sao vậy?” nhưng không có tiếng nào thoát ra được từ cổ họng. Tôi cảm thấy bất lực, khổ sở, đau đớn tận cùng. Tức tối, tôi cố vùng vẫy nhưng vô ích. Những bàn tay giữ chặt tôi lại như thể tay chân của bọn ma qủi đang đè tôi xuống, quắp chặt lấy tôi, níu tôi lại một chỗ. Thế rồi người con gái ngước lên nhìn tôi với ánh mắt van xin, như thể muốn cầu cứu tôi. Và khi đó thì tôi nhận ra nàng. Hồng Nhung! Nàng chính là Hồng Nhung. Có thể nàng trẻ hơn bây giờ nhiều nhưng rõ ràng tôi thấy khuôn mặt đó, đôi mắt đó, ánh nhìn đó, đôi môi mọng đó của nàng. Tôi không sao lầm được. Tôi không hiểu tại sao nàng lại đi bên bố tôi như thế, nhưng lúc đó, tôi không hề thắc mắc. Tôi chỉ coi đó là một sự thể bình thường, chuyện bố tôi đi bên cạnh nàng không có gì lạ hơn chuyện bố tôi đi bên một người đàn bà nào khác. Có thể vì lúc đó tôi còn đang lo lắng cho tình trạng nguy kịch của bố tôi, tôi đang nghĩ đến cái chết nó có thể đến với ông, ông có thể ra đi vĩnh viễn, tôi sẽ mất ông trong cuộc đời. Và quả nhiên chỉ sau một hai phút, tôi thấy ông ngã sang một bên, nằm cứng đơ dưới đất, hai tay ông vẫn ôm ngực, vẻ mặt ông vẫn nhăn nhó, đôi mắt mở trừng trừng nhìn lên trời. Tôi thét lên được một tiếng thất thanh, “Bố ơi! Đừng chết bố!” rồi vùng dậy. Và lần này tôi đã vùng được dậy. Tôi đã mở chừng đôi mắt, mồ hôi toát ra khỏi da thịt tôi làm ướt chiếc ắo thun tôi đang bận. Tôi cảm thấy bần thần vô kể, đầu óc mệt mỏi, tim đập mạnh liên hồi như muốn phá vỡ lồng ngực. Tôi đã tỉnh dậy. Tôi đã thoát khỏi một cơn ác mộng đầy kinh hoàng!
Lúc tôi gặp lại Hồng Nhung, vừa thấy vẻ mặt bơ phờ của tôi, nàng hỏi:
- Bộ đêm qua anh Hoàng không ngủ được hay sao?
Tôi bèn kể cho nàng nghe rằng đêm hôm trước tôi đã mơ thấy nàng đi với một người đàn ông lạ và chuyện người này ngã gục ra chết sau đó như thế nào. Nàng chỉ mỉm cười nói:
- Sao anh nhậy cảm quá vậy? Chỉ là một giấc mơ mà sao anh bị giao động đến thế?
Nàng không biết rằng tôi bị giao động mạnh là vì hình ảnh của bố tôi trong cơn ác mộng đó. Hình ảnh đó đã gợi lại trong tâm trí tôi nhiều kỷ niệm xa xôi, từ những ngày tôi mới trên dưới hai mươi, những ngày của một quá khứ với nhiều gay go, ảnh hưởng mạnh đến tôi cho đến mãi sau này. Tôi nhớ lại những ngày trước đó còn sống bên nhà với mẹ tôi và người em, những ngày chúng tôi bị bỏ lại bơ vơ, sống vất vưởng, như chờ chết, những ngày vô vọng, sau khi bố tôi vượt biên một mình ra đi. Nhưng rồi chúng tôi cũng còn may mắn vì bố tôi nghĩ lại và đã đón chúng tôi sang. Tôi đã lạy lục bố tôi để mẹ tôi được cùng đi, bởi vì khi đó em tôi và tôi chỉ còn có mẹ để bám víu vào, làm sao ra đi mà bỏ chiếc phao ở lại? Vì thương tôi quá đỗi, bố tôi đành chấp nhận, và chúng tôi đến Mỹ trong tinh thần hoang mang, riêng tôi lúc đó 16 tuổi, chưa đủ trí khôn để tự chủ tự lập. Nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đó, hai anh em chúng tôi đã tranh đấu và cũng đã thành công một cách không gì khó nhọc cho lắm.
Chỉ có mẹ tôi là buồn, vì bố tôi tuy không bỏ bê bà nhưng cũng không còn thắm thiết với bà như thời tôi còn bé, thời đó, chúng tôi sống yên bình cho đến ngày ngày Cộng Sản vào chiếm quê hương chúng tôi, để rồi đưa bố tôi đi đầy đọa trong ba bốn năm trời.
- Ơ, anh làm sao vậy? Em đang nói chuyện với anh mà?
Tiếng nói của Hồng Nhung làm cho tôi bừng tỉnh. Tôi ấp úng:
- Anh đâu có sao đâu? Anh chỉ hơi… buồn ngủ.
- Thôi mình đi ăn sáng một chút đi, rồi anh trở về phòng nghỉ. Em sẽ đợi anh đến trưa mình đi gym nhe!
- Thế anh Quân đâu?
- Anh ấy cũng hơi mệt nên làm biếng lên đây. Em sẽ mang đồ ăn sáng xuống phòng cho anh ấy!
Ngay đêm hôm sau vẫn cơn ác mộng đó lại hiện lên ám ảnh tâm trí tôi thêm một lần nữa. Sau đó, tôi nghĩ rằng có một sự huyền bí đang chi phối tâm trí tôi, đang muốn bắt tôi phải chú tâm đến một chuyện nào đó tôi chưa biết, làm cho tôi phải lo âu, phập phồng. Tại sao bố tôi lại hai lần về trong con mê như thế? Bao lâu nay ban ngày tôi có nghĩ đến ông bao giờ đâu để hình ảnh ông trở về với tôi ban đêm trong cơn mộng? Từ ngày ông chết, cũng đã cả chục năm nay, tôi không còn nhớ đến ông nữa, những hình ảnh của ông đã phai mờ trong tâm trí tôi, hay nói cách khác, tôi đã cho ông vào quên lãng. Thế mà bỗng nhiên ông đã trở lại ám ảnh tôi, không có lý do, không do tôi mời về. Tôi vẫn nghe nói, nếu đủ lực giao cảm người ta có thể mời một người chết vể từ cõi âm. Nhưng không. Tôi đã để cho ông yên nghỉ nơi thế giới vĩnh cửu từ bao lâu nay rồi cơ mà? Tôi đâu muốn khuấy động quá khứ lên làm gì? Tâm khảm con người cũng lạ. Những hình ảnh đang nằm yên trong đó có thể một lúc nào đó tự khơi dậy, tự hiện về trong tâm trí mình ban đêm? Đã nhiều lần tôi muốn đi mò tìm ý nghĩa của những giấc mơ, nhưng rồi lại thôi, chỉ vì tôi không có thời giờ, cuộc sống hàng ngày đã chiếm hết thời khoá biểu sinh hoạt của tôi mất rồi.
Nhưng những vương vấn trong đầu tôi cũng từ từ biến đi, tôi quên đi cơn ác mộng để sống thanh thản trở lại với những thú vui trên con tầu. Bên Hồng Nhung, tôi đã quên hết quá khứ để chỉ sống với hiện tại. Hồng Nhung vẫn còn cái nhí nhảnh của tuổi trẻ, một điều tôi thấy hơi lạ. Tôi không hiểu nó phản ảnh tính tình nàng hay chỉ là bề ngoài bởi vì đôi khi tôi thấy nàng khác thế, nàng có ánh mắt đăm chiêu, mơ mộng hay suy tư xa xăm. Hai biểu tượng của con người nàng? Hay đó là dấu hiệu của một con người đã bắt đầu nhận thức rằng mình sắp không còn tuổi xuân?
Những ngày sau đó, tôi ít thấy Quân trên boong tầu. Hình như anh thích sống khép kín trong căn phòng nhỏ ở từng 10 của hai người. Trong khi đó Nhung lại thích đi ra ngoài, thích đi dạo chơi khắp nơi, đi nghe nhạc, xem show, thích đi bơi, đi gym tập. Lối sống của Quân rõ ràng không thích hợp với nàng. Có lần tôi đã hỏi nàng:
- Anh Quân làm gì suốt ngày trong phòng vậy Nhung? Sao anh ấy không lên chơi với bọn mình?
- Anh Quân không thích những chỗ đông người. Tính anh ấy trầm tĩnh lắm. Anh ấy thích nghe nhạc cổ điển, đọc sách, hay ngồi một mình suy tư.
- Suy tư? Anh ấy suy tư về vấn đề gì?
- Về mọi chuyện trên đời. Anh ấy bị bệnh tim nên sức khỏe không được tốt. Lâu nay anh Quân bị depression (trầm cảm).
- Bị depression thì phải đi ra ngoài chơi cho bớt cô đơn chứ? Cứ ngồi như thế hại cho tinh thần lắm!
- Thì tối nay at dinner anh nói với anh ấy đi! Anh khuyên anh ấy hộ em đi.
Quả nhiên những ngày sau đó, Quân đã lên boong tàu ngồi chơi với chúng tôi. Anh không nói chuyện nhiều, không hay đi lang thang chỗ này chỗ nọ, nhưng cũng lên hóng mát, ngồi đọc sách, ngắm nhìn những kẻ qua lại. Những lúc Hồng Nhung xuống hồ bơi hay nằm phơi nắng, tôi đã có dịp nghe anh kể những mẩu chuyện về cuộc đời quân y sĩ của anh khi anh còn ở Việt Nam, những khó khăn anh đã gặp phải khi anh mới ra trường và phải đi những biệt khu xa xôi, rồi sau hai năm may mắn được thuyên chuyển về Đà Nẵng hay Qui Nhơn gì đó tôi không nhớ rõ, để có thể mở phòng mạch riêng kiếm thêm tiền, anh kể những kèn cựa giữa những đồng nghiệp, những sự lợi dụng của những cấp trên, những lần anh phải quay mặt đi để khỏi nhìn những cảnh chướng tai gai mắt, những trở ngại anh phải đối đối đầu… Khi kể những kỷ niệm đó, tôi thấy anh như sống lại thời xa xưa, giọng nói hùng hồn, đôi khi quyết liệt, chứng tỏ ngày đó anh cũng là một con người có nhiều nhiệt huyết chẳng thua gì tôi.
Bỗng nhiên một hôm tôi đang ngồi chờ Hồng Nhung và Quân ở bên ngoài hành lang của một quán rượu, nơi tôi vẫn thường ngồi chờ nàng đến, thì một chuyện không hay xẩy ra. Nó là dấu hiệu đen tối báo trước những sự việc bi thảm xẩy ra sau này mà tôi đã thấy trước do cảm tính. Tôi nhớ lúc đó đã về chiều, trời ngoài khoang tàu vẫn còn sáng, bởi vì vào mùa hạ thời tiết Alaska nói chung không những ấm áp, mà ngày lại còn dài hơn bình thường. Chiếc Công Chúa Hoàng Kim vẫn trôi nhanh trên biển cả, hướng về Tracy Arm. Hai bên con tàu là những dãy núi phù băng trắng xóa. Cả ngày hôm đó tôi đã đứng trên cầu tàu từng thứ 16 xem những tảng băng to lớn trôi suôi giòng trên mặt nước. Chưa bao giờ tôi thấy thiên nhiên hùng vĩ và tuyệt đẹp như vậy. Gần Tracy Arm gió thổi dữ dội và những cơn lốc xoáy vào lưng lạnh buốt không như những ngày trước đó khi còn ở Skagway hay Juneau. Đứng một mình, tôi đã cảm thấy lạc lõng cô đơn. Tôi thấy lâng lâng buồn vì không có Hồng Nhung bên mình, nàng đã ốm đau hay vì một lý do gì muốn trốn tránh tôi, tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi tự hiểu rằng tôi chẳng có lý do gì để mong mỏi, trông chờ. Giữa tôi và Hồng Nhung chưa có một gắn bó nào, hay nói cho rõ hơn tôi chưa thấy tim tôi rung động, tôi chưa thấy yêu nàng, chưa hẳn bị quyến rũ, mặc dù nàng cũng dễ thương và tỏ ra có cảm tình với tôi. Ấy thế mà sự hiện diện của nàng trong những ngày qua cũng đã có ảnh hưởng trên tâm trí tôi, làm cho lòng tôi bị nô lệ hiện tại. Vắng bóng Hồng Nhung tôi đã thấy nhơ nhớ, tôi đã cảm thấy như mình đang thiếu thốn một thứ gì. Phải chăng tôi đã quen với tiếng cười, ánh mắt, mùi nước hoa thơm của nàng, tôi cũng không biết nữa.
Tôi ngồi chờ nơi đó với hy vọng nàng sẽ xuống ăn cơm chiều cùng với tôi. Tiếng piano chơi những bản nhạc tình càng làm cho tôi cảm thấy tê tái trong lòng. Thế rồi tôi thấy nàng đi từ cuối hành lang, từ xa bước tới, hai tay ôm vai Quân như thể nàng đỡ cho anh đi. Tôi thấy Quân có vẻ mệt mỏi, chân bước từng bước, dáng người hơi khom xuống, và Hồng Nhung trìu mến dìu anh đi tới. Tôi hơi thót con tim, hình ảnh đó gợi lại trong đầu tôi giấc mơ kinh hoàng tôi đã thấy hai đêm hôm trước. Tại sao lại có sự trùng hợp lạ lùng như thế, tôi tự hỏi trong đầu. Tôi đang phân vân không biết có nên đứng lên chạy tới giúp Hồng Nhung dẫn Quân bước đi hay không. Tôi nhớ lại những lần tôi dìu bố tôi bước chầm chậm, vào những ngày cuối của cuộc đới ông, khi ông bị bệnh, không còn khả năng tự di chuyển một mình. Nhưng chưa kịp đứng lên, thì như thể tôi bị hoa mắt, tôi thấy Quân té gục xuống, hai tay ôm ngực một khoảnh khắc trước khi bổ nhoài ra nằm dài dưới sàn tầu. Nhiều người bu lại xung quanh, tôi nghe có tiếng kêu thất thanh, “Oh my god! Would someone call for an emergency rescue?” (Trời đất thánh địa ơi! Có ai gọi cứu cấp giùm không?) và rồi những người khác bước tới nhếch mắt nhìn cảnh nguy ngập đó rồi lại thản nhiên bước đi. Không hiểu cái gì giữ tôi lại nơi chiếc ghế bành một lúc lâu, trước khi tôi có thể uể oải đứng dạy bước tới.
- Anh Quân, anh có sao không? Có đau nhiều không? Thuốc đây, em cho anh ngậm nhe!
- Tiếng Hồng Nhung vẫn bình tĩnh, âu yếm nói với chồng như thể chẳng có chuyện gì nguy hiểm đang xẩy ra cả. Tôi thấy nàng mở một chiếc hộp bằng bạc nhỏ xíu, chỉ bằng ba đốt ngón tay, lấy ra một viên thuốc li ti, bỏ vào miệng chồng. Mắt Quân lúc đó nhắm nghiền, hai tay quờ quạng tìm bàn tay Hồng Nhung nắm cho yên lòng. Nàng đưa bàn tay nõn nà cho anh, những ngón tay hai người đan vào nhau, tình tứ.
Chừng một phút sau, tôi thấy Quân tỉnh lại, mắt mở ra, chớp chớp, rồi Hồng Nhung nói vẫn với cái giọng thật âu yếm.
- Để em đỡ anh dậy nhe! Anh thấy thế nào? Bớt mệt chưa anh?
Tôi đẩy những người đứng xung quanh để tới gần. Tôi đưa hai tay xốc nách Quân lên cho anh đứng dậy rồi dìu anh tới chiếc ghế bành nơi tôi ngồi lúc nãy. Hơi thở Quân giờ đã đều đặn, anh nói như vừa ngủ dậy, giọng nhừa nhựa, ngái ngủ:
- Tôi làm sao vậy? Có chuyện gì đã xẩy ra cho tôi vừa rồi?
Nhung nói:
- Anh không sao hết, mọi chuyện đã qua rồi. Anh hãy ngồi một lát cho tỉnh hẳn lại rồi mình đi ăn cơm.
Tôi thắc mắc:
- Anh ấy bị crise cardiaque (cơn đau tim) hả Nhung?
- Vâng, cứ lâu lâu lại bị. Em riết đã quen. Cứ cho anh ấy ngậm viên thuốc một lúc là hết….
Quay sang tôi Nhung hỏi, giọng tò mò châm trọc:
- Thế cả ngày nay anh đi săn các nàng phải không?
Rồi nàng cười cợt nói:
- Mà anh có nhớ đến em tí nào không vậy?
Tâm trí tôi lúc đó đục ngầu, tôi vừa thoát khỏi một cơn bàng hoàng nên chẳng buồn để ý đến những câu bông đùa của nàng. Đôi mắt tôi cứ dán vào Quân, tôi liên tưởng đến bố tôi, và trong tâm trí tôi lúc ấy có hình ảnh ông ngồi thở sau một cơn đau tim, cũng giống như Quân bây giờ.
- Anh làm thêm một ly cognac nữa không? Em kêu một cái martini cho em đây.
- Cho anh một cognac on the rock.
Tôi cần hai ba ly cognac để tỉnh táo trở lại, chứ một ly có thấm vào đâu?
- Hay là em kêu cho anh hai ly đi. Cám ơn Nhung nhe.
bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:02:10 GMT 9
Những ngày sau đó mọi chuyện lại trở lại bình thường. Hồng Nhung ngày càng quấn quít tôi, nàng hay đến cabin tôi để nằm dài trên chiếc giường nệm, mắt nhắm nghiền, mơ mộng. Tôi có thể đoán chừng nàng đang mơ mộng điều gì nhưng không nói ra thôi. Nàng thường bận những chiếc váy xòe rộng vải mỏng, hở vai hở ngực và khi nằm đôi khi, vô tình hay cố ý, nàng phô bầy một phần cơ thể nàng, cặp đùi trắng muốt hay bộ ngực căng phồng, úp úp mở mở, hấp dẫn , như thể để khêu gợi, để mời mọc tôi. Nhìn Hồng Nhung nhắm mắt như thế, tôi biết nàng mong chờ tôi tiến tới, tôi cũng muốn ôm tấm thân nóng bỏng đầy nhựa sống đó vào lòng, muốn bóc nàng ra như người ta lột một quả chuối, muốn nghe hơi thở dồn dập của người đàn bà khao khát yêu đương đó, nghe nàng rên rỉ bên tai. Tôi liên tưởng đến những năm tháng thèm muốn, chờ đợi, mong mỏi của Hồng Nhung khi nằm bên Quân, tôi liên tưởng đến sự khao khát được yêu của nàng, và tôi có thể thông cảm được với nàng. Nhưng không hiểu có một cái gì cứ vướng víu trong đầu tôi, một sự ngăn chặn, như một con đê mỏng manh cố ngăn làn nước cuồng loạn đang muốn phá vỡ, muốn đập tan những nỗ lực chống chọi cuối cùng. Và từ ý nghĩ đó, tôi biết một lần nào đó, tôi sẽ hết tự chủ, tôi sẽ thả lỏng cho những thèm muốn đang dâng lên trong tôi, tôi sẽ chiếm cứ nàng, chiếm cứ tấm thân ngọc ngà ấy, và tôi sẽ coi Hồng Nhung như là một chiến lợi phẩm mà tôi mang thêm về cho riêng tôi. Bởi tôi biết chính tôi, tôi biết sự hèn yếu của bản thân trước những cám dỗ nàng đang phơi bầy ra trước mắt. Tôi biết rồi tôi sẽ không thể nhịn, tôi như con chó sói đói bị cột, tới một lúc nào đó, sẽ vuột khỏi và nhẩy tới chộp ngoặm con cừu non đang phây phây đứng ăn cỏ trước mắt nó.
Và như thế chuyện gì phải đến đã đến. Nó đến để kết thúc chuyến đi chơi Alaska của tôi, nó đến để đưa tôi đến đường cùng, để buộc tôi phải chấm dứt sự liên lạc với Hồng Nhung ngay khi tôi bắt đầu thấy yêu nàng, thấy cần có nàng bên tôi. Đúng vào lúc tôi bắt đầu thấy niềm vui trong cuộc đời, thấy có em bên mình là hạnh phúc thì chuyện không chờ sà tới làm cho tôi cụt hứng, làm cho tôi hết còn muốn tiến tới.
Ngày hôm đó là ngày chót trong chuyến hải hành này của con tầu Công Chúa Hoàng Kim. Chúng tôi đã đến Ketchikan vào buổi sáng và suốt ngày hôm đó Hồng Nhung cùng tôi đi lang thang qua những khu phố của cái tỉnh lỵ nhỏ bé này. Nàng đã la cà trong các tiệm bán kim hoàn tìm mua nữ trang, và cứ mỗi lần hỏi tôi:
- Anh thấy Nhung đeo chiếc nhẫn này có được không?
Tôi nào có biết thế nào là đẹp, đành ù ù cạc cạc trả lời:
- Không biết Nhung thấy sao chứ Nhung đã chọn thì anh thấy đẹp. Mà sao cái gì Nhung đeo trên ngón tay anh cũng đẹp hết trơn…
- Anh này sao khéo nịnh đầm. Với những bà, những cô khác anh cũng nói vậy hay sao? Chắc các bà các cô đi với anh thích anh lắm phải không? Mà anh có nhiều người tình không vậy?
- Ai biết đâu, anh thấy đẹp thì khen đẹp. Không lẽ nói ngược lại ý mình? Nhưng em hỏi anh có nhiều người yêu anh không vậy?
Tôi bèn nói bâng quơ:
- Ở đâu ra mà nhiều? Bộ dễ có người yêu mình lắm hả?
- Dễ chứ! Anh đẹp trai, tuấn tú, thông minh, ai mà chẳng mê?
- Có ai mê anh đâu?
- Thì có em nè!
Những câu nói của Hồng Nhung cho tôi hiểu rằng nàng đã mê tôi. Mà nàng có biết gì về tôi đâu ngoài cái vỏ bề ngoài? Tôi có cảm giác rằng nàng bị tôi thu hút chỉ vì một hình ảnh nào đó xa xưa, có thể là của một nguời tình mà nàng đã phải xa ngoài ý muốn, vì một mối tình dang dở khi còn con gái, hay ít ra là khi còn trẻ. Những hình ảnh đẹp của thời vàng son thường khó quên, những mối tình lãng mạn thường sống dai dẳng trong đầu óc con người. Bởi vì làm sao một người đàn bà có thể mê người đàn ông nhanh chónh như vậy được. Hồng Nhung đã tìm hiểu được gì về tôi để mà thích tôi? Có tôi biết nhiều về nàng thì có, nhưng tôi lại không bị coup de foudre (sét ái tình). Điều này cũng dễ hiểu, nàng không xinh như mộng không trẻ để có thể hấp dẫn tôi ngày từ phút đầu. Vả lại tôi cũng ít tin ở chuyện vừa thấy nhau là mê liền. Trường hợp của Hồng Nhung có một điều gì bí hiểm lôi cuốn tôi về với nàng. Và chính nàng đã cho tôi biết điều ấy ngay sau đó.
Ketchikan chẳng có chỗ nào thơ mộng để đi chơi thêm nên chúng tôi về trở lại con tàu vào khoảng giữa trưa, sau khi Hồng Nhung đã kiếm mua được chiếc nhẫn hột xoàn nàng ưa thích. Thay vì trở lên phòng mình với Quân, nàng đòi “ngồi chơi xem biển với nhau” trong ca bin của tôi. Nàng nói:
- Anh Quân giờ này đang nghỉ trưa. Em biết tính anh ấy không thích em làm rộn anh ấy đâu. Để em lên phòng anh ngồi chơi một lúc rồi tối lên đón anh ấy xuống ăn dinner.
Thế rồi, vừa vào đến trong cabin tôi, nàng nhìn tôi tình tứ nói trong hơi thở:
- Em đi tắm chút xíu. Nước nóng sẽ làm cho em khỏe lại. Đi bên anh mà sao em vẫn thấy mệt quá chừng! Vả lại sáng nay vội đi sớm, em đã được tắm đâu?
Thấy tôi không nói gì, nàng thêm:
- Được không anh? Anh cho em dùng phòng tắm của anh không?
Tôi đành ậm ừ cho qua chuyện. Tôi nửa không muốn bị đưa vào một tình trạng khó sử, nửa muốn được tiến tới, được ôm ấp tấm thân ấy vào lòng, được say sưa hôn hít Hồng Nhung, được xem phản ứng của nàng, được thấy nàng lúc sung sướng, lúc nàng say mê đi sâu vào con đường cao vút của ái ân.
- Ừ thì Hồng Nhung đi tắm đi!
Thế là nàng cởi tung quần áo ngoài liệng lên giường, rồi bước gần đến tôi, nàng xoay lưng lại nói:
- Anh gỡ dùm Nhung cái nút gài soutien đi!
Chưa bao giờ tôi thấy tim tôi đập nhanh như lúc ấy. Tay run run, tôi cởi chiếc soutien cho nàng và khi vừa xong, Hồng Nhung quay phắt lại nhìn tôi, rồi lim dim đôi mắt, nàng chờ đợi tôi ôm nàng….
Trên chiếc giường, sau đó, sau khi cả hai đứa đã quần quật, nàng thủ thỉ với tôi những lời nói làm cho tôi bàng hoàng:
- Anh có nhớ em nói với anh em bị anh hút hồn là tại sao không?
- Hình như em kể anh nghe rằng anh giống ai đó, phải không?
Vâng. Đúng thế! Nhìn anh, em nhớ lại người em yêu lần đầu trong đời. Em đã phải xa anh ấy vì hoàn cảnh, vì anh ấy có vợ, có con… Anh ấy không thể bỏ vợ con để theo em. Mà em thấy rằng anh ấy có muốn cả hai người cùng một lúc cũng không được….
Hồng Nhung nhìn sâu vào mắt tôi, nàng ôm tôi sát vào người nàng, như muốn nhập vào tôi, hay muốn biến hai đứa thành một. Nàng khẽ nói:
- Anh có muốn nghe em kể chuyện này nữa không vậy?
- Có chứ! Anh đang nghe đây…
- Tên Tuấn của anh ấy chỉ là tên anh ấy đặt cho mình để liên lạc với em. Sau này em biết tên thật của anh ấy, nhưng em vẫn cứ kêu anh ấy là Tuấn…
- Tại sao vậy?
- Tại vì cái tên Tuấn là của riêng em, em chỉ thương anh ấy với cái tên đó. Tên kia, cái tên thật của anh ấy, thuộc về bao nhiêu người khác mất rồi…
Tôi tò mò hỏi:
- Thế cái tên thật đó là gì?
- Tên thật của anh ấy, cái tên em không bao giờ dùng, là Quang, Trần Xuân Quang.
Nghe đến cái tên này tôi bỗng giật mình! Tự nhiên tim tôi đập loạn xạ, một cảm giác khó thở như đè lên ngực tôi. Tôi thấy ơn ớn lạnh nơi cột xương sống và như muốn buồn nôn. Tôi hốt hoảng hỏi:
-Em nói cái gì? Trần xuân Quang? Có phải ông ấy là một nhà văn không em?
- Ơ, sao anh biết? Mà sao tự dưng mặt mày anh xanh lét vậy?
- Không hiểu làm sao tự dưng anh thấy hơi choáng váng, hơi khó chịu trong người.
Anh buồn cười không? Mới đây anh còn khoẻ như văm ấy mà… Chút xíu là hết mà, em khỏi thắc mắc làm gì. Anh hay bị như vầy…Nhưng có phải ông ấy là nhà văn phải không? Đúng rồi! Anh cũng biết ông ta hả? Ông ta là một nhà văn khá nổi tiếng. Sao tôi cũng biết ông ta? Tôi không biết ông ta thì ai biết ông ta? Chẳng ai biết ông ta bằng tôi. Bởi vì ông ta là bố tôi, bố đẻ ra tôi, người đã mấy đêm vừa qua hiện về báo mộng cho tôi biết trước chuyện này. Tôi chẳng hiểu tại sao? Ông muốn ngăn cản tôi yêu Hồng Nhung? Ông muốn chỉ một mình ông được thương nàng thôi ư? Thật là một chuyện kỳ lạ, vì trước đây tôi đâu có biết người yêu của bố tôi là ai? Tôi chỉ biết hồi đó, khi tôi mới chừng 16 tuổi, mẹ tôi than phiền với tôi rằng “Bố mày bỏ tao đi theo một con đĩ nào khác rồi!” Những ngày đó tôi cũng chẳng biết phải nói sao. Sống với mẹ tôi, bố tôi luôn luôn bất mãn, nhất là kể từ sau ngày chúng tôi đoàn tụ gia đình. Ông đã thường bỏ nhà ra đi, có khi cả tháng trời. Có điều ông không bao giờ bỏ đói mẹ tôi và hai anh em tôi cả. Nhưng khốn nạn cho ông là ở chỗ ông càng đi theo người khác thì mẹ tôi càng chửi ông, đòi đuổi ông đi. Và càng bị chửi và đuổi đi thì bố tôi lại càng bỏ đi. Thật là một cái vòng luẩn quẩn. Cho đến ngày ông sắp chết, ông không còn đi đâu được nữa, thì ông mới về nhà, về nhà để chịu càng thêm những lời đay nghiến của mẹ tôi, về nhà để đền tội, về để chết bên tôi. Thật là khốn nạn cho cái thân ông và cả thân tôi nữa!
Kìa, em hỏi anh có biết ông ấy không mà? Tất nhiên là anh biết. Ai mà không đọc những chuyện tình của ông ấy? Bộ anh cũng đọc sao? Tôi đành nói dối:
Không, mẹ anh đọc. Mẹ anh mua những cuốn truyện đó về, anh chỉ thấy tên ông ta trên những cuốn sách đó mà thôi. Tôi đã không muốn cho nàng biết rằng nàng đã là người tình của cả bố tôi và tôi. Có thể đối với nàng điều này cũng chẳng có gì là quan trọng vì giữa tôi với nàng đâu có liên hệ máu mủ gì đâu. Nhưng tôi cứ áy náy khó chịu thì làm sao đây? Vả lại hình ảnh bố tôi cứ chập chờn trong tâm trí tôi lúc tôi làm tình với nàng thì làm sao tôi khỏi khó chịu, làm sao tôi có thể hưởng lạc một cách thoải mái? Hồng Nhung là một người tình tuyệt diệu, mất nàng tôi sẽ tiếc vô cùng, nhưng biết làm sao khác?
Mai tàu về bến Seattle rồi. Em sẽ nhớ anh đến chết mất thôi! Chúng mình phải làm sao bi giờ? Làm sao là làm sao? Thì em hỏi làm sao để hai đứa mình còn gặp lại nhau? Bộ anh không muốn gặp lại em nữa hay sao? Muốn gặp Hồng Nhung nữa? Một phần tôi muốn giữ nàng mãi mãi bên tôi, một phần khác thúc dục tôi từ giã nàng. Cái thần thể nóng hổi này, cái thân thể chất chứa yêu đương đã làm cho tôi mê mệt, đã làm cho tôi không còn bao giờ quên được những giây phút hạnh phúc bên em. Nhưng còn sự ám ảnh đè nặng trên tâm trí kia, làm sao tôi coi thường, làm sao tôi bỏ qua?
Chắc thôi em à. Gặp nhau làm gì nữa em? Em còn anh Quân, em đâu có libre (tự do)? Tôi thấy đôi mắt nhung của nàng tối xầm xuống, tôi thấy nàng chớp chớp hàng mi cong, tôi biết nàng buồn, tôi biết rồi nàng sẽ khổ sở vì nhớ tôi. Mà tôi cũng sẽ khổ sở vì nhớ nàng. Nhưng rồi với thời gian, cái gì cũng trôi qua đi….
Nhưng lâu lâu anh cho em biên thư cho anh nhe. Và anh cũng sẽ trả lời thư em nhe! Trong khi chờ đợi ngày em libre…. Tội không muốn nàng nuôi một tí hy vọng mảnh mai nào. Tôi không muốn kéo dài cái mối tình tréo cẵng ngỗng này, tôi phải tìm cách thoái thác:
Thôi em à, làm như vậy chỉ thêm buồn, thêm nhớ nhau. Nhớ em anh làm sao sống nổi? Tôi đang vô ý thức nói lên một phần cái tâm trạng của tôi vào lúc đó. Tôi sẽ nhớ nàng, tôi sẽ làm sao sống nổi? Nhưng liền sau đó tôi nghĩ lại, “ Bố tôi sẽ là người giúp tôi vượt qua được cái khó khăn này.”
Một năm sau, tôi nhận được tin Quân mất đột ngột, sau một cơn đau tim. Anh đã lặng lẽ ra đi trong một giấc ngủ ban đêm, ra đi một cách ngon lành, không cần có ai ở bên cạnh, không cần ai biết, ra đi một mình tìm một thế giới khác, thế giới của yên bình, của hạnh phúc vô bờ bến. Và sau đó chừng ba tháng một lời nhắn ngắn gọn của Hồng Nhung bay đến tôi làm tôi chới với thêm một lần nữa:
“ Anh Quân đã chết rồi. Giờ em đã libre. Em đang ở London. Anh sang với em đi.”
Từ Paris tôi vội vã lấy chuyến Eurostar đi tìm Hồng Nhung. Tôi đi tìm hình bóng của những ngày hạnh phúc trước đây. Tôi đi tìm tấm thân nóng bỏng của Hồng Nhung, tôi đi tìm đôi mắt người yêu, đôi mắt to đen láy như hai hột nhãn, đôi mi cong chớp chớp, tôi đi tìm cái miệng cười chúm chím, nét mặt đêu đểu, đã hấp dẫn tôi. Tôi đi tìm quá khứ.
Rồi trên chuyến xe lửa ngầm, nửa đường tới Richmond, tôi đã đột nhiên quay trở lại. Tôi đã lấy chuyến Eurostar kế tiếp để về lại Paris.
Hướng Dương txđ 15 tháng 7 năm 2009
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:04:04 GMT 9
Chào Thủ Tướng! Tôi đến ga Cầu Mới (Shimbashi) trễ mất 20 phút theo lời hẹn từ trước. Địa điểm tập kết của nhóm người Việt không còn ai, chỉ trơ trơ cái tàu hoả cũ, đen ngòm trong ánh nắng chói chang trên sân ga lúc nào cũng tấp nập người qua lại. Tôi đành phải rút điện thoại ra gọi cho anh Ngọc hỏi thăm đường sá, cốt ý để có người nào đó quay lại đón mình chứ Shimbashi rộng lớn như vầy làm sao tôi tự mình tìm đường tới đó được. Phía bên kia, tiếng anh Ngọc trả lời dè dè, tôi nghe bập bõm câu được câu mất, nhưng đại khái hiểu rằng anh muốn tôi tới bằng taxi thay vì cho người quay lại đón (đi bộ hơi xa). Thôi cũng được, tốn tiền một chút nhưng đỡ phải lội bộ rạc cẳng. Giời ơi, yêu nước sao mà khổ thế này! Cuối cùng tôi cũng đến được nơi mình cần đến. Công viên Hibiya rực rỡ với cả rừng hoa đua nhau khoe sắc trong những ngày cuối Xuân, nhưng hôm nay nó có vẻ lộng lẫy hơn nhờ thêm cờ vàng ba sọc đỏ tung bay phất phới ngay trước cổng. Đồng bào người Việt của tôi đã chỉnh tề hàng ngũ, cờ quạt, biểu ngữ dàn hàng chào đón Thủ Tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng âm thầm qua thăm Nhật. Hai tuần trước đây, lúc nhận được điện thoại của anh Hay thông báo ngày 21-5 Nguyễn Tấn Dũng qua Nhật Bản, anh nhắc tôi chuẩn bị tinh thần hôm đó sẽ gặp lại (địa điểm và giờ giấc thông báo sau). Thoạt đầu nghe tin đó, tôi hơi ngỡ ngàng bởi vì chỉ cách đây đúng một tháng, Tổng bí thư Nông Nông Đức Mạnh vừa qua thăm Nhật Bản. Tình hình kinh tế Việt Nam coi bộ bi đát lắm rồi hay sao mà hết Mạnh lại Dũng lần lượt kéo nhau qua đây chầu trực. Vài ngày trước, anh ngọc gọi điện thoại thông báo điểm gặp mặt tại Shimbashi vào lúc 10 giờ sáng ngày 21-5. Giờ thì tôi đang đứng trước cổng công viên Hibiya, bên cạnh tôi là bà con đồng hương người Việt đang giương cao biểu ngữ cùng cờ vàng ba sọc đỏ tung bay lồng lộng trong gió. Tôi quay qua người đứng kế mình, khẽ hỏi: - Nguyễn Tấn Dũng tới chưa anh? - Hắn ở trỏng chứ đâu! Anh đưa tay chỉ qua bên đường, nơi có toà nhà màu đen to lớn sừng sững trước mặt. Tôi nhìn theo ngờ ngợ và nhận ra nó chính là Imperial Hotel (khách sạn Hoàng Đế) mà tôi từng đến đây ăn cơm nhiều lần. Nếu biết trước thì tôi đã đến thẳng chỗ này, đâu cần phải vòng vèo rồi tốn thêm tiền taxi cho uổng phí. Imperial hotel trước đây là khách sạn hàng đầu tại Nhật chuyên đón tiếp những nhân vật nổi tiếng trên thế giới, họ là những người trong hoàng tộc, những vị nguyên thủ quốc gia, những ông chính khách tai to mặt lớn cho đến tầng lớp thương gia, ngôi sao điện ảnh, ca sĩ lừng danh và ngay cả những người lắm tiền nhiều bạc, một khi viếng thăm Tokyo đều muốn được đến ngụ tại khách sạn này. Hiện nay đã có nhiều thay đổi vì các tập đoàn tư bản ngoại quốc nhẩy vào khai thác thị trường Nhật Bản, hàng loạt khách sạn năm sao mọc lên như nấm mùa mưa, và khách của Imperial Hotel đã bị mất đi khá nhiều. Tôi hồi tưởng lại lần đầu tiên bước vào khách sạn này. Wow! nó quả thật là vĩ đại, những cái cầu thang trải thảm đỏ uốn cong, những ánh đèn vàng trong tòa nhà tỏa ra một mầu quyến rũ huyền ảo, những bức tranh trang trí trên tường cũng toát lên vẻ sang trọng quý phái của một khách sạn bậc nhất Tokyo. Để so sánh ra thì mấy cái khách sạn như Sofitel, Hyat, Newword... ở Sài Gòn chỉ mới bằng một phần trong tòa nhà này mà thôi, thua xa về nhiều mặt, mặc dù Imperial Hotel đã có mặt ở đây từ hơn trăm năm rồi. Tôi chợt nhớ ra rằng khách sạn này có rất nhiều cửa, bà con mình đứng ở đây lỡ phái đoàn Cộng Sản đi ngõ khác thì coi như công cốc. Tôi quay lại nhìn đoàn biểu tình, lần này đông hơn lần trước và có mặt cả vợ chồng ông Hội Trưởng Hiệp Hội Người Việt. Lảng vàng quanh đây có vài cảnh sát viên Nhật (kể cả anh chàng bị ném chai nước vào bụng hồi năm ngoái trên Nagano). Theo tôi biết thì lần này Nguyễn Tấn Dũng qua đây tham dự diễn đàn kinh tế Á Châu do nhật báo Kinh Tế Nhật Bản Nihon Keizai shinbun (Nikie) tổ chức hàng năm. Vì chỉ là khách mời của một tờ báo nên ông Dũng không được tiếp đón như một vị quốc khách, cũng không có các cơ quan truyền thông nào ở Nhật nhắc đến ngoại trừ tờ Nikei. Tối qua tôi đã truy cập vào trang mạng của tờ báo này để tìm thêm thông tin. Vì không có tiếng Anh nên phải nhờ đến sự hỗ trợ của chồng. Trong danh sách khách mời tham dự ngoài Thủ Tướng Việt Nam và Bộ Trưởng giao thông vận tải Hồ Nghĩa Dũng còn có Thủ Tướng của Lào, cựu Thủ Tướng Mã Lai và một số giám đốc viện nghiên cứu kinh tế các nước khác. Riêng Nhật Bản chỉ gửi Phó Thống Đốc Ngân Hàng đến tham dự. Đa phần là mấy ông CEO (giám đốc điều hành) các công ty của Nhật đến tham dự mong tìm kiếm cơ hội đầu tư lẫn nhau. Theo tiểu sử của từng vị khách được cập nhật trên tờ báo thì Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng là dân miền Trung Việt Nam, từng du học tại Đông Đức. Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng sinh năm 1949 tại tỉnh Cà Mau, có bằng cử nhân Luật. Yukio đọc đến đây, quay qua hỏi tôi: - Miền Nam thời đó có trường đại học Luật không em? Có mấy trường? - Dĩ nhiên là có, nhưng mấy trường thì em không biết vì không sống thời đó. - Người ta nhìn vào cái tiểu sử) của ông này là biết không trung thực, ngay cả tên trường lẫn niên học không thấy đề cập đến, ai kiểm chứng được? Cộng sản có khác, cái gì cũng ngụy tạo. - Theo em biết thì năm 12 tuổi, ông Dũng vào rừng theo Cộng sản.Trong chiến tranh, ông ta chỉ là y tá miệt vườn. Sau chiến tranh chuyển qua làm công an, rồi thì nhẩy qua lãnh vực chính trị, từng giữ chức Thống Đốc Ngân Hàng Việt Nam, Phó Thủ Tướng và bây giờ là Thủ Tướng. Yukio tiếp lời: - Năm 1981 ông Dũng theo học một khóa gì đó về Hồ Chí Minh, có trường đó không? - Cái này thì có, trường đảng Nguyễn Ái Quốc. Cán bộ cao cấp nào của Cộng Sản mà thoát khỏi cái trường này. - Thủ Tướng của Lào coi có vẻ ngon lành hơn, từng du học tại một trường đại học danh tiếng của Liên Xô cũ. Trường này được ví như Haward của Mỹ đấy! Yukio còn đọc thêm tiểu sử của một vài người khác nữa, anh quay sang tôi giải thích: - Diễn đàn này đối với tụi anh thì chỉ như rác rưởi, không có nghĩa gì hết ! Thấy tôi trố mắt nhìn chồng, anh lại tiếp tục giải thích: - Họ đâu có đủ thông tin để thuyết phục người nghe. Em không thấy là anh đã bỏ không đặt mua tờ báo này nữa hay sao? Thôi, em đừng quan tâm tới nó nữa. Đó không phải là công việc của em. Tôi nhìn chồng tủm tỉm cười. Anh ta lên tiếng hỏi: - Em cười cái gì? - Thủ Tướng Dũng trông cũng được đấy chứ, chắc chắn là hơn hẳn anh rồi! - Tào lao! - Thật mà, anh xem đi, không phải ông ta là vị Thủ Tướng Việt Nam điển trai nhất từ trước đến nay hay sao? Giá mà ông ta cũng có cái đầu cởi mở giống như anh thì tốt cho Việt Nam quá! Ừ mà em thấy anh cũng có tài hùng biện, sao anh không nhảy qua lãnh vực chính trị? Biết đâu chừng anh sẽ là Thủ Tướng. - Này, tránh ra chỗ khác cho tôi làm việc. Thực ra thì Nhật Bản có quá nhiều người tài giỏi hơn chồng của em. - Nhưng nếu anh mà là Thủ Tướng Nhật, em đương nhiên sẽ là Đệ Nhất Phu Nhân. Wow! đã à nha. Tôi bật cười thành tiếng và bước lại bộ ghế salon ngồi phịch xuống. Từ ngày tôi biết chuyện đến nay, Việt Nam CS đã trải qua mấy đời Thủ Tướng. Ông Phạm Văn Đồng là người giữ chức vụ này tới 37 năm (1955-1987)nhưng được coi là không có thực quyền. Ông cũng chính là vị Thủ Tướng đặt bút ký vào công hàm nhượng biển Đông cho Trung Cộng, một vết nhơ không gì tẩy xóa được trong trang sử Việt Nam. Nhắc đến Phạm Văn Đồng chợt làm tôi nhớ lại thời còn bao cấp. Cái thời đói triền miên ấy, ông là niềm hy vọng của những người dân nghèo quê tôi. Ngày ấy nhà nước không có gạo bán cho dân nên thay thế bằng bobo, ngô, sắn, và cả bột mì mốc. Cái thứ bột mì vón cục vón hòn đó mang về nhà phải bóp nó ra và dần lấy phần bột, sâu bọ còn lại thì vứt bỏ. Vì không có bột nở, các chị tôi nhào bột với nước, viên lại thành từng nắm đem luộc chín và chia cho mỗi đứa được một cục, vừa ăn vừa mếu máo khóc. Bởi vậy mỗi lần loa phóng thanh của huyện đưa tin tức nói rằng Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cắp cặp đi nước ngoài là đám con nít tụi tôi nhẩy cẫng lên vui mừng. Ông Đồng mà đi công cán ngoại quốc thì khi trở về thế nào nhà nước cũng có gạo tấm Ấn Độ bán cho dân chúng. Thứ gạo tấm này mà độn với ngô non thì còn ngon hơn cả cao lương mỹ vị, bởi vậy ông chẳng phải là niềm hy vọng của tụi tôi hay sao. Người kế vị Phạm Văn Đồng là ông Phạm Hùng (1912– 1988) Ông tên thật là Phạm Văn Thiện, sinh tại làng Long Hồ, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Ông tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, và có một quá trình hoạt động cách mạng lâu dài cho tới khi leo lên chức Thủ Tướng vào tháng 6 năm 1987. Tháng 3 năm 1988 ông đột ngột qua đời vì bạo bệnh. Từ ngày tôi còn sống ở Việt Nam tôi đã nghe người ta đồn rằng ông bị thủ tiêu. Đến lúc qua Nhật, một số tin tức tiết lộ rằng ông chết vì "thượng mã phong". Quả là tôi cũng không biết đâu là sự thực. Sau khi Phạm Hùng qua đời, Võ Văn Kiệt được thay thế giữ chức quyền Thủ Tướng (Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng) trong ba tháng. Vị Thủ Tướng tiếp theo là ông Đỗ Mười. Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống sinh ngày 2 tháng 2 năm 1917 tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình trung nông, và tham gia cách mạng từ năm 1936. Ông Đỗ Mười có một tiểu sử rất buồn cười, ông xuất thân từ cái nghề hoạn lợn (thiến heo), học hành chẳng đến đâu thế mà ông đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền CSVN, Thủ Tướng rồi Tổng Bí Thư ĐCSVN. Theo cuốn "Đêm Giữa Ban Ngày" nhà văn Vũ Thư Hiên tiết lộ ông Đỗ Mười từng bị bệnh điên, từng leo lên cây múa hát nhảy nhót. Tôi tin ông Mười có thời bị điên thật vì con trai của ông cũng bị bệnh điên giống y như ông (tức là tồng ngồng nhẩy múa hát hò trong ngôi biệt thự luôn im ỉm khóa cổng ở quận III Sài Gòn). Ông Đỗ Mười được cho là nhà "kiến thiết vĩ đại" đã phá nát nền công nghiệp trẻ của miền Nam sau khi lọt vào tay Cộng Sản trong công cuộc cải cách công thương nghiệp. Năm 1991, Ông Đỗ Mười thôi giữ chức Thủ Tướng leo tuốt luốt lên cao hơn nữa là giữ chức vụ Tổng Bí Thư Đảng CSVN. Thay thế ông chức vụ cũ của ông là Thủ Tướng Võ Văn Kiệt (1922-2008). Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Cửu Long (nay là tỉnh Vĩnh Long), miền Nam Việt Nam. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986. Năm 1997, ông về Hưu và sống tại Sài Gòn. Cuối đời mình ông đã viết rất nhiều kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước về những vấn đề như đóng góp với Đại hội X, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về thành phố dọc sông Hồng, việc xây nhà Quốc hội... Những ý kiến của ông được trình bày thẳng thắn và chứa tâm huyết lớn với nước với dân. Ông Võ Văn Kiệt qua đời ngày 11 tháng 6 năm 2008 tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Theo Reuters, ông qua đời do tuổi cao và bị viêm phổi cấp tính, còn theo AP thì ông qua đời do gặp tai biến mạch máu não. Cái chết của ông cũng có nhiều bí ẩn và cũng có nhiều đồn đại cho rằng ông bị thủ tiêu. Sau khi ông Kiệt giã từ chính trường, người kế vị ông là Phan Văn Khải. Ông Khải sinh ngày 25/12/1933 tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Sài Gòn. Ông tham gia cách mạng từ năm 1947. Năm 1954 , ông tập kết ra Bắc, làm công tác cải cách, học ngoại ngữ và sau đó được đi du học bên Liên Xô (có bằng tiến sĩ kinh tế) Ông giữ chức vụ Thủ Tướng 2 nhiệm kỳ, từ năm 1997 đến năm 2006. Đương kim Thủ Tướng Nguyến Tấn Dũng người mà tôi cho rằng có bộ dạng sáng sủa nhất trong đám lãnh đạo cao cấp ở Việt Nam. Và cũng là người ít học nhất, chỉ đứng trên ông Đỗ Mười chút ít, không xuất thân từ anh hoạn lợn mà đường đường là y tá miệt vườn. Có lẽ mặc cảm với học vấn của mình nên phang bừa vào lý lịch "cử nhân Luật" nhưng không hành nghề luật sư. Vậy mà có thời ông Dũng giữ chức Thống đốc Ngân Hàng Việt Nam. Theo ông Hoàng Dũng, Cán Bộ văn phòng Trung Ương tiết lộ ngày 09/10/2006 thì: "Ông ta (Nguyễn Tấn Dũng) chỉ là một cán bộ tầm trung bình, không có chuyên môn nghiệp vụ (thật ra được đào tạo làm y tá quân đội), trình độ văn hoá thấp, chưa được đào tạo cơ bản chính quy, không có thành tích đặc biệt, không có năng khiếu gì xuất chúng, thế nhưng lại có quá trình thăng tiến nhanh vượt bậc. Sau này, trong những lần làm việc với Nguyễn Tấn Dũng tôi lại càng thấy rõ những điều đó hơn và càng thất vọng rất nhiều. Quả ông ta là một người năng lực rất kém. Về hình thức bề ngoài, từ trước đến nay ít có lãnh đạo Việt nam nào có được dáng dấp và khuôn mặt sáng láng như Ba Dũng, cái hình thức đó rất dễ làm cho những ai không biết tưởng rằng đó là một người rất thông minh, nhanh nhẹn. Thật ra tương phản với hình thức sáng láng đó là một não trạng rất tối tăm, dốt nát. Hồi mới về Trung ương có những lần nghe ông phát biểu mà mọi người đều không hiểu ông định diễn đạt điều gì, rất lủng củng, tối nghĩa, lại lúng túng, cụt lủn. Nhiều lần tham dự những cuộc họp do Ba Dũng chủ trì, tôi thấy ông ta không dám phát biểu gì, chỉ ngồi nghe các cơ quan cấp dưới phát biểu sau đó ông ta cũng chẳng dám có ý kiến kết luận gì cả." Mèn ơi! Trình độ nhiêu đó mà giữ nhiều chức vụ cao cấp hàng đầu trong chính phủ thì chắc chỉ CS Việt Nam ta mới có. 30 năm về trước, lúc miền Nam rơi vào tay CS thì người dân miền Nam cũng ào ào đổ ra biển bơi đi tìm Tự Do. Và kết quả là có gần cả triệu nạn nhân bỏ mình trên biển. Nếu ngày nay, cả nước nghe lời ông Thủ Tướng cùng nhau bơi ra biển lớn thì chắc sẽ chết ráo vì chỉ cần bơi ra vùng "nhạy cảm" là sẽ bị "tàu lạ" đâm lòi ruột. Mặt trời đã đứng bóng, ánh nắng gắt gao phủ xuống công viên Hibiya. Bà con ta vẫn nhẫn nại giương cờ giương biểu ngữ, miệng cười nói rổn rả. Bên kia đường, một chiếc xe bus dừng lại phía trước khách sạn, đoàn khách trên xe lũ lượt kéo nhau vào khách sạn. Bên này, mấy người đàn ông xì xào: - Chắc phe thân Cộng sản đến nghe họp báo. Tôi cười tủm tỉm, đây là khách sạn hạng năm sao, mỗi ngày du khách kéo đến cả đoàn, cả đoàn... cứ gì là đến nghe ông Dũng diễn thuyết. Cũng bên đường, một thanh niên mặc bộ vést màu đen luôn hướng ống kính về phía đoàn biểu tình để quay phim. Tôi buột miệng thốt lên: - Quay thì quay vậy chứ có dám đưa lên báo chí hay truyền hình đâu. Bố chúng nó chết đi sống lại cũng không dám dưa hình ảnh cờ vàng này lên tivi. Tiếng ồn ào lại rộ lên: - Nguyễn Tấn Dũng ra kìa! Chị Hà nhấc vội loa hô to lời đả đảo đảng cs bán nước, đả đảo Nguyễn Tấn Dũng. Bà con ta tiếp lời chị hô vang "đả đảo, đả đảo". Đoàn biểu tình vẫn kiên nhẫn giương cờ giương biểu ngữ chờ phái đoàn CS quay trở lại khách sạn. Vì là giờ cơm trưa nên nhân viên từ các tòa nhà đổ xô qua công viên Hibiya nghỉ ngơi, nhiều người dán mắt đọc những tấm biểu ngữ mà bà con ta cố tình giương thật cao. Mấy bác thay nhau đi phát các tờ bướm tố cáo tội ác Cộng Sản. Theo tin tức từ cảnh sát thì khoảng 1:15 chiều Nguyễn Tấn Dũng sẽ trở về khách sạn. Đoàn biểu tình lại xôn xao cờ quạt biểu ngữ tiến ra ngã ba đường trận đón đầu đoàn xe. Thế nhưng, 1:40 mà chẳng thấy đoàn xe CS đâu cả, thì ra họ tránh đi ngả khác và về khách sạn từ lâu, đúng như gì tôi dự đoán từ trước rằng khách sạn này có lắm cửa. Hẹn bạn dịp khác nhé. 21/5/2009 Lê Mỹ Hân
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:05:06 GMT 9
Chúng Ta Đã Tránh Được ĐỆ TAM THẾ CHIẾN (Bài phỏng vấn cựu TBT Gorbatchev do Isabelle Lasserre, Caroline de Malet và Philippe Gélie Fifaor của Le Figaro thực hiện tại Gènève 12/10/2009) Hồng Lĩnh, Lê Mỹ Hân (lược dịch)
Gorbatchev vị Tổng Thống cuối cùng của Liên Bang Xô Viết nói về biến cố đã dẫn tới việc sụp đổ bức tường Bá Linh và sự tan vỡ của khối cộng sản. Đồng thời nêu suy nghĩ của mình về về Obama, Medvedev và Poutine.
LE FIGARO: Cách đây 20 năm, lúc ông đang nắm quyền tại Liên Xô thì sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ. Như vậy, ông thấy nó xảy ra và sự kiện đó có làm kinh ngạc ông không?
Mikhaïl GORBATCHEV: Sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ khó mà gây kinh ngạc cho tôi vì nó chính là kết qủa của một tiến trình lâu dài. Tôi nằm trong bộ máy chính quyền từ lâu nên tôi biết rất rõ tình hình. Khi tôi trở thành lãnh đạo Liên Xô, ước vọng của tôi là xem Âu-Châu như một căn nhà chung. Trong một dịp viếng thăm nước Pháp, chính tôi đã đề nghị cùng nhau vun đắp căn nhà chung này.
Về vấn đề thống nhất nước Đức, tại sao không? Vì trước đó đã có nhiều thay đổi ở Liên Bang Xô Viết, Trung Âu cũng như Đông Âu trong việc bang giao với các quốc gia Tây phương. Và đặc biệt là Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ (một nước không mấy thân thiện với chúng tôi). Lúc tôi lên nắm chính quyền, Liên Xô đã không có bang giao với Mỹ từ 6 năm qua. Vài năm sau đó, chúng tôi đã nối lại liên lạc và chính sự thay đổi này đã dẫn đến việc thống nhất nước Đức.
Năm 1989, tôi đến thăm Bá Linh vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập nước Cộng Hòa Đông Đức. Tôi rất cảm động trước những gì tôi chứng kiến. Tôi nói chuyện khá lâu với Chủ Tịch Erich Honecker , thật sự ông ta đã làm tôi ngạc nhiên. Tôi có cảm nghĩ rằng hình như ông Honecker không hiểu cái gì đang xảy ra trước mắt. Hoặc là ông ta không chịu chấp cũng như thảo luận về vấn đề thống nhất nước Đức. Có một cuộc duyệt binh to lớn, gồm đại diện của 28 khu vực trên toàn cõi Đông Đức. Thanh niên tham gia diễn hành hô to các khẩu hiệu chứng tỏ quốc gia đang trong tình trạng bất ổn và sẽ có những thay đối lớn gần kề. Thủ tuớng Ba Lan Mieczyslaw Rakowski xích lại gần tôi và hỏi nhỏ xem tôi có biết tiếng Đức không? Tôi trả lời rằng đủ để hiểu ý nghĩa của các khẩu hiệu. Ngay sau đó, ông Mieczyslaw Rakowski nói với tôi «Thế là xong!". Tôi đáp "vâng».
LE FIGARO: Nghe ông nói thì hình như chính ông đã hoạch định sự kiện ấy?
Mikhaïl GORBATCHEV: Không, tôi không hoạch định nó. Hơn nữa, sau khi nói chuyện với thủ tướng Helmut Kohl (trong chuyến viếng thăm Đông Đức tháng 6/1989). Một ký giả hỏi tôi có đề cập đến vấn đề thống nhất nước Đức hay không? Tôi trả lời là có. Tôi cho rằng vấn đề chia cắt nước Đức sau Thế Chiến Thứ Hai là một di sản của lịch sử, nhưng chính lịch sử phải nói cái gì sẽ xảy ra. Hình như câu trả lời của tôi không làm thỏa mãn anh ký giả. Anh ta chất vấn tôi là khi nào sẽ có thống nhất. Tôi trả lời rằng vấn đề này có lẽ sẽ đuợc giải quyết vào thế kỷ XXI, và lịch sử sẽ định đoạt nó. Qúy vị phải thấy đó là quan điểm của tôi vài tháng trước khi bức tuờng Bá Linh sụp đổ. Và sau này một chuỗi thay đổi tại Liên Xô, Trung-Âu và Đông-Âu «cách mạng nhung», mối quan hệ mới với Hoa Kỳ, giải trừ quân bị. Tất cả các yếu tố ấy đã kéo theo một vòng xoắn sự kiện. Dầu cho Đông Đức vẫn còn là một hòn đảo trong cái đại dương đang cuồn cuộn thay đổi.
LE FIGARO: Ông có bị cám dỗ dùng sức mạnh quân sự để chận đứng sự thay đổi tại Đông âu không?
Mikhaïl GORBATCHEV: Như quý vị đã biết, người tiền nhiệm của tôi, ông Konstantin Tchernenko qua đời vào năm 1985, lãnh tụ của các quốc gia thuộc khối phòng thủ Varsovie tới phúng điếu tại Moscou. Họ đã được mới tới họp mặt tại văn phòng của tôi. Chính tôi đã ngỏ lời cám ơn họ và nói rằng "chúng tôi sẽ không hành động gì để làm rối ren hơn mối thân tình của chúng tôi với quý quốc». Chúng tôi tôn trọng những cam kết của mình đối với quý quốc, nhưng chính các ông phải chịu trách nhiệm về về chính sách của các ông, của quý quốc. Và chúng tôi chịu trách nhiệm về chính sách của chúng tôi, của xứ sở chúng tôi. Vào năm 1985, chính tôi đã hứa với họ là (Liên Xô) sẽ không can thiệp vào chuyện nội bộ của họ, và chúng tôi đã giữ lời hứa. Nếu chúng tôi ra tay can thiệp, thì tôi cam đoan rằng tôi đã không có mặt ở đây để tiếp chuyện với các ông ngày hôm nay.
LE FIGARO: Cái gì đã có thể xảy ra theo ý ông?
Mikhaïl GORBATCHEV: Rất có thể chiến tranh thế giới thứ ba sẽ bùng nổ. Lúc đó Âu-Châu đã có đầy đủ vũ khí hạch nhân, và có khoảng hai triệu quân ở cả hai phía của bức màn sắt. Quý vị thử tưởng tượng xem cái gì xảy ra nếu chúng ta sử dụng vũ lực?
LE FIGARO: Vào thời điểm ấy, đâu là viễn ảnh của ông cho tương lai của Liên Xô?
Mikhaïl GORBATCHEV: Điều cần làm ngay là phải thay đổi về dân chủ, phải mở cửa, cải tổ Liên Bang, cải cách kinh tế, trả lại quyền tự do đi lại cho người dân, trả lại quyền tự do ngôn luận và đưa tôn giáo vào đời sống thường nhật của người dân. Lúc ấy, tôi đã không ngần ngại, tôi biết đó là con đường phải theo. Và tôi tin rằng chúng tôi có thể kéo dài Liên Bang Xô Viết như cũ. Nhưng, sau tuyển cử tự do năm 1989, một số người bảo thủ trong hàng ngũ của đảng CS đã phản ứng dữ dội chống đối sự cải cách. Lúc đó, Đảng CS bị phân hóa mạnh, 84% đại biểu là đảng viên, nhưng thành bảo thủ của đảng CS Liên Bang Xô Viết bị thất cử. Tôi có mọi lý do để tin rằng chiến lược cải tổ (Perestroïka) được sự ủng hộ của đa số. Tuy nhiên, thành phần bảo thủ của đảng đã nhiều lần tìm cách lật đổ tôi, buộc tôi phải từ chức vào các dịp đại hội của trung ương đảng. Những kẻ phản đối cải tổ không có khả năng chống lại chúng tôi trên mặt pháp lý. Vì lý do ấy mà họ tổ chức cuộc đảo chánh vào năm 1991. Chúng tôi đã đánh giá quá thấp họ, đáng lý chúng tôi phải hành xử cứng rắn hơn để ngăn cản sự việc ấy.Tôi nghĩ rằng những người ủng hộ cải cách (kể cả tôi) đã quá tự tin và chúng tôi tin là mình đi đúng hướng. Vào thời điểm ấy, chúng tôi đã soạn thảo một chương trình để tu bổ tình trạng kinh tế tại Liên Bang Xô Viết. Chương trình này được tất cả các nước Cộng Hoà ủng hộ, kể cả các nước Cộng Hòa thuộc vùng Baltic. Vào đầu tháng Tám, chúng tôi đã soạn thảo một thỏa uớc mới cho Liên Bang. Vào tháng mười một 1991, chúng tôi dự định tổ chức một đại hội để cải tổ Đảng. Chúng tôi nghĩ rằng trong tình thế này, bất cứ ai tổ chức đảo chánh thì thật là vô trách nhiệm! Thế nhưng họ đã làm, và một số những người tổ chức đảo chánh lại chính là người thân cận quanh tôi, tôi bị cô lập hoàn toàn.
LE FIGARO: Hôm nay ông nghĩ gì về sự nuối tiếc quyền lực của Liên Bang Xô Viết cũ được biểu lộ trong giới lãnh đạo và quần chúng Nga?
Mikhaïl GORBATCHEV: Tôi biết rõ tình thế, và tôi nghĩ rằng không nên phóng đại khuynh hướng ấy. Trong một cuộc thăm dò được thực hiện nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm cải tổ "perestroïka" (2005 ). 55% số người được thăm dò đã trả lời rằng việc cải tổ là rất cần thiết (và họ thuộc thiểu số mười năm trước đó 1995). Hai phần ba dân Nga ủng hộ tuyển cử tự do, kinh tế thị trường, tự do đi lại.
LE FIGARO: Đồng ý, nhưng hiện nay ông Staline được lòng dân hơn trong quá khứ?
Mikhaïl GORBATCHEV: Tôi không nghĩ thế, sự thật là có một số người đi biểu tình với chân dung Satline. Và điều đó chứng tỏ rằng Nga chưa thành công hoàn toàn trong tiến trình cải tổ. Chuyện như thế này chúng tôi đã biết, nhưng dù sao thì cũng không có vấn đề quay lại quá khứ. Người ta chỉ tiến lên chứ không thể đi lùi. Cái đó sẽ không xảy ra.
LE FIGARO: Ông đánh giá thế nào về chính sách của bộ song mã Medvedev-Poutine? Hai người ấy đang dẫn dắt Nga đúng hướng không?
Mikhaïl GORBATCHEV: Nhiệm kỳ đầu của Vladimir Poutine xem ra khá thuận chiều. Ông ta đã chận đứng tiến trình thái hóa của Nga, và ổn định được tình thế. Nhờ vậy, ông ta sẽ sẽ có chỗ đứng trong lịch sử. Nhưng tôi không thấy sự cố gắng canh tân đất nước thực sự, đó là bài toán căn bản. Các điều kiện rất thuận lợi, nhờ giá dầu tăng. Nhưng tôi tự hỏi việc họ dùng hàng triệu Đô La tiền bán dầu lửa. Và tôi tin là số tiền ấy đã cho phép phe cánh của bộ song mã mua lầu đài Chams-Élysées và phần còn lại của nước Pháp. (Chỉ là đùa thôi) nhưng tôi nghĩ rằng một phần lớn số tiền ấy quá lãng phí và không được dùng vào công cuộc canh tân đất nước. Bộ song mã bộ Medvedev-Poutine có lẽ phải hành động sớm hơn để khắc phục tình trạng kinh tế, và dân chủ hóa nước Nga. Một mặt hai ông dập tắt đám cháy, mặt kia hai ông lại châm ngòi cho đám cháy khác.
LE FIGARO: Theo ý ông, vấn đề chính là gì? chính trị, kinh tế, hay tham nhũng?
Mikhaïl GORBATCHEV: Hiện nay, cái nhu cầu mà quốc gia cần là cần phát triển một hệ thống mới, một kiểu mẫu mới. Và để xây dựng nó, cần phải dẹp cho xong vấn nạn tham nhũng. Tôi đồng ý là tình hình hiện nay chưa đến nỗi tệ, nhưng nếu không làm sớm thì... thời gian sẽ trả lời.
LE FIGARO: Ông có nghĩ rằng Medvedev và Poutine sẽ đón nhận bàn tay do Barack Obama đưa ra không?
Mikhaïl GORBATCHEV: Barack Obama chính là thời cơ thích nghi trong bang giao Nga-Mỹ. Ông ta là một con người nghiêm túc, ông ta hiểu tình hình khủng hoảng trên thế giơi, ông ta tranh đấu để giải giới hạch nhân và ông đã thẩm định vấn đề môi trường. Đó là một đối tác tốt cho các vị lãnh đạo của chúng tôi, vì đó chính là cái mà họ muốn. Tôi rất có thiện cảm với Tổng Thống Mỹ. Và tôi tin chắc là Nga muốn nắm lấy cơ hội này. Nhưng không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày mai.
LE FIGARO: Ông đã nhận giải thưởng Nobel hòa bình năm 1990. Ông có nghĩ là giải thưởng vừa được trao tặng cho Barack Obama là xứng đáng hay còn quá sớm?
Mikhaïl GORBATCHEV: Tôi đã viết thư chúc mừng ông ta. Tôi bảo đó là một lựa chọn tốt, và tôi đồng cảm với tầm nhìn của ông ta về một thế giới mới. Ông ta cương quyết, có uy tín quốc tế và có tài diễn thuyết để bắt tay vào việc. Tôi chúc ông ta thành công!
LE FIGARO: Hai mươi năm về trước, chính ông đã ra lệnh rút binh sĩ Nga ra khỏi Á Phú Hãn. Giờ đây ông sẽ có lời khuyên gì khi Tổng Thống Barack Obama sắp sửa quyết định có hay không việc gửi thêm viện binh Mỹ tới chố ấy.
Mikhaïl GORBATCHEV: Chúng tôi đã trải qua giai đoạn tương tự như Obma đang gặp phải tại Á Phú Hãn. Chính chúng tôi đã san bằng chiến lược, chiến thuật của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng mục tiêu tối hậu của người Mỹ phải là rút lui binh sĩ khỏi nơi đấy. Nhưng tôi không khuyến cáo ông ta điều gì. Theo tôi, có lẽ không ai nên đặt chân đến chố ấy.
Trong lúc chúng tôi rút lui khỏi Á Phú Hãn, người Mỹ đã kết hợp với người Hồi (Pakistanais) để tạo ra các phần tử Talibans, tuy người Mỹ đã xác nhận với chúng tôi là muốn một đất nước «tự do và ổn định, thân thiện với hai quốc gia chúng tôi. Ngày nay, người Mỹ đang gặt hái kết qủa của việc ấy. Phần khác, tôi nhìn nhận là cần hành động chống các ổ khủng bố.
LE FIGARO: Ông đứng đầu tổ chức Thánh Gía Xanh (Green Cross), một tổ chức phi chính phủ(NGO) có mục đích bảo vệ môi trường. Ông còn giữ niềm tin của mình không, trước hội nghị quốc tế được dự tính vào tháng Mười Hai tại Copenhague về sự hâm nóng bầu khí quyển?
Mikhaïl GORBATCHEV: Tôi tin rằng đó là một giai đoạn chính trong hướng đi đúng. Mọi công việc đều được chuẩn bị chu đáo, nhưng vấn đề môi trường đang bóp ngẹt chúng ta. Chúng ta cần phải hành động để tránh một thảm họa. Nhiệt độ trung bình của địa cầu không đuợc tăng quá 0.2%, dầu cho mục tiêu ấy khó đạt được. Nên mọi quốc gia cần phải quyết định hành động ngay từ bây giờ.
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:06:08 GMT 9
Người Tình
Tan giờ làm, Hằng lao vội ra nhà ga, chỉ cần chậm chân vài giây thôi thì coi như toi nửa ngày công cho một cuộc taxi về nhà (đó chỉ là tính 2 ga chót cho một chặng đường xe điện dài tới 28 ga, chứ nếu tính tiền taxi từ quán ăn về đến nhà thì đúng bằng 2 ngày làm công của Hằng). Ở Nhật Bản cái gì cũng mắc mỏ, nhưng riêng tiền phí taxi là mắc nhất, cao gấp 30 lần so với phí đi bằng xe điện hay xe bus. Bởi vậy, mỗi lần rời quán là Hằng chạy như ma đuổi, mặc dù nhà ga nằm kế bên chừng 3, 4 phút là tới.
- Hằng… Hằng!
Nghe tiếng gọi mình, Hằng ngoái cổ lại. Quy đang hớt hải đuổi theo sau lưng cô. Hằng vừa bước vừa chỉ vào đồng hồ đeo trên cánh tay, nói với lại:
- Em không còn thời gian nữa, chuyến tầu chót gần kề rồi.
- Còn mà, Quy giơ xâu chìa khoá lên, lúc lắc.
Hằng dừng hẳn lại, thở phì phò. Lúc này Quy đã tiến sát gần cô. Hằng trách khéo:
- Anh đi xe sao không nhắn tin cho em biết trước.
– Anh có nhắn cho em đó chứ.
– Nhắn hồi nào, chỉ thấy anh ghi đợi em gần quán cơm bò thôi. Tuy nói vậy nhưng Hằng móc điện thoại ra xem lại tin nhắn.
- À đây rồi! Xin lỗi anh, em bận quá không có thời giờ xem tin nhắn của anh. Nếu biết anh đón em bằng xe nhà thì đâu cần chạy như ma đuổi thế này.
Hằng cười thật tươi, nắm tay Quy đi ngược lại hướng nhà ga. Lúc này cô mới để ý Quy chỉ mặc duy nhất chiếc áo sơ mi mỏng tang.
– Trời lạnh thế này, sao anh ăn bận phong phanh vậy?
- Anh ngồi trong xe chờ em nên không lạnh, thấy em quẹo qua nhà ga nên anh phải chạy vội theo.
- Anh ăn cơm chưa?
Quy gật đầu.
- Em đói quá! Hồi chiều có mang theo cơm mà không kịp ăn, lại để quên trên chỗ làm mất rồi.
Nghe Hằng nói vậy, Quy kéo cô rẽ vào cửa hàng 7/11 ngay gần đó. Hằng chọn một phần cơm, một chai nước trà nóng. Quy trả tiền, và cả hai cùng bước ra khỏi cửa tiến về chiếc xe màu xám bạc đang đậu cách đó không xa.
Hằng mở cửa xe định bước vào, cô bỗng khựng lại vì ngay ghế ngồi một bông hoa hồng được bọc giấy kiếng rất đẹp đặt trên hộp quà vuông vức. Quy nhìn cô mỉm cười:
- Chúc mừng sinh nhật em!
Hằng lặng người đi, ừ phải rồi, hôm nay đúng là ngày sinh nhật của mình. Nhưng đã từ lâu rồi cô không còn để ý đến ngày sinh nhật làm gì nữa. Sống ở cái thành phố đắt đỏ nhất thế giới này, việc kiếm đủ sống đã là chật vật mà cô còn đèo bồng thêm cả gia đình bên Việt Nam, nên lúc nào cũng thiếu trước hụt sau, làm gì còn thời gian để ý đến ngày sinh nhật nữa. Hằng ngước nhìn Quy, mắt rưng rưng, cô thật sự cảm động vì lâu quá rồi chẳng có ai quan tâm tới mình như anh.
- Cảm ơn anh!
Quy nhấc hộp quà và bông hoa lên để Hằng có chỗ ngồi. Đón nhận lại từ tay anh, cô ngập ngừng:
- Em có thể mở nó ra chứ ?
- Dĩ nhiên, nó thuộc về em mà.
Hằng nhẹ nhàng tháo sợi dây ruy băng màu hồng buộc trên hộp quà, xé tung mảnh giấy bọc bên ngoài. Hộp nhung màu đỏ sậm hiện ra trước mắt, cô mở nó ra, một sợi giây chuyền bằng vàng 18k mỏng manh lồng bên trong cái mặt hình trái tim. Hằng thốt lên:
- Ôi đẹp quá! Cảm ơn anh.
Cô nhào qua, vịn lấy cổ chàng hôn tới tấp. Quy ngượng ngùng đẩy cô ra, khẽ nói:
- Em, người ta nhìn mình kìa!
Hằng phá ra cười:
- Anh cũng biết mắc cỡ hả?
Tuy nói vậy, cô cũng buông Quy ra, ngả người trên ghế mở nắp chai nước trà tu một hơi. Không nhìn Quy, cô nói:
いただきます (câu mời trước bữa ăn của người Nhật)
Cô bóc vỏ nắm cơm cho lên miệng, nhai ngon lành. Quy khởi động máy xe và từ từ nhấn ga cho xe lăn bánh chạy ra xa lộ. Hằng ăn xong nắm cơm, lôi hộp mỹ phẩm ra ngó lại dung nhan mình. Cô phủ thêm một lớp phấn trên gương mặt bóng nhẫy dầu nhờn, vẽ lại cặp chân mày bị lem khúc đuôi, thoa son lên đôi môi khô ran vì thời tiết lạnh. Quy nhìn cô mỉm cười, hỏi:
- Em dự tính đi đâu nữa mà trang điểm?
- Về nhà chứ đi đâu, nhưng em muốn đẹp hơn khi ở bên anh.
Hằng đưa bàn tay ra để nắm lấy tay Quy. Kể từ khi quen biết nhau đến nay, Hằng vẫn thích được nắm tay anh dung dăng bước trên đường phố. Bên anh, cô dường như được sống lại tuổi đôi mươi, cái tuổi chớm yêu đương luôn nhìn đời bằng một màu hồng em dịu.
Quy kéo tay người tình về gần phía mình, đưa lên môi hôn nhẹ. Hằng nhìn sang phía anh, mỉm cười mãn nguyện. Quy vẫn chăm chú nhìn về phía trước, anh cất tiếng hỏi cô:
- Mấy giờ rồi em?
Hằng liếc đồng hồ, trả lời:
- 11 giờ 55 phút. Có chuyện gì không anh?
- Không có gì, chỉ là ít phút nữa thì tháp Tokyo sẽ tắt điện.
Đúng là Tháp Tokyo hiện ra sừng sững phía trước mặt, toàn thân tỏa ra một mầu vàng rực của hàng ngàn bóng đèn điện. Tokyo về đêm quả là đẹp! Hiếm lắm Hằng mới có dịp chiêm ngưỡng thành phố về đêm thế này, thường ngày cô đi làm bằng xe điện ngầm dưới lòng đất.
- 1, 2, 3… bòm!
Tháp biến mất vào trong lòng thành phố rực rỡ ánh đèn màu. Như thường lệ, tháp được thắp đèn vào 7 tối và tắt đèn vào đúng 12 giờ khuya.
Quy tắp xe vào trạm nghỉ chân đầu tiên trên xa lộ. Xung quanh, có khá nhiều xe đã đậu từ trước. Hằng nhìn quanh quẩn, thắc mắc:
- Bữa nay là ngày gì mà sao tụi híp pi này luẩn quẩn ở đây nhiều vậy?
Quy nhún vai lắc đầu. Anh tháo sợi dây an toàn, kéo Hằng về gần phía mình nhìn cô trìu mến. Hằng ngước nhìn anh, mỉm cười. Quy vòng tay ôm chặt lấy cô và đặt lên môi cô nụ hôn ngọt ngào. Hằng rùng mình như có một luồng điện chạy ngang, khép hờ đôi mắt. Quy thì thầm bên tai cô:
- Anh nhớ nhiều lắm, em biết không?
Hằng không trả lời, chỉ gật đầu. Từ ngày quen anh đến nay, cô chưa bao giờ cất lời yêu anh, mặc dù cô vẫn thèm được ở bên anh, thèm được uống những giọt mật ngọt ngào từ nụ hôn của anh, thèm được anh vuốt ve, thì thầm những lời yêu thương nồng cháy. Bên anh, cô mới khám phá ra ham muốn của thể xác mà cô dường như quên bẵng đi bấy lâu nay.
Quy vẫn siết chặt người tình trong tay, hôn tới tấp như chưa từng được hôn cô lần nào. Bàn tay Quy tham lam luồn dưới lần áo lót, bầu ngực của Hằng căng ra, phập phồng trong tay anh, toàn thân cô nóng hổi, hơi thở dồn dập hơn. Quy biết, Hằng cũng đang thèm khát như mình. Anh lại siết cô mạnh hơn, thốt lên:
- 欲しな! (thèm quá!)
Hằng phì cười, hỏi:
- 何欲しい (anh thèm cái gì nào?)
- すべてが欲しい (tất cả)
Hằng đẩy Quy ra, đưa bàn tay vuốt nhẹ lên má anh. Với cô, anh đúng là một mẫu người đàn ông lý tưởng mà cô hằng mong muốn nếu như… anh còn độc thân. Hằng lại thở hắt ra khi nghĩ đến điều này, định mệnh thật trớ trêu khi những người đàn ông lọt vào mắt cô thì lại gặp nhiều vấn đề rắc rồi, hoặc là họ đã có gia đình. Quy cũng không ngoại lệ, anh chẳng những đã có vợ mà còn đẻ tới 5 đứa con, lít nhít cách nhau vài tuổi.
Nghĩ đến vợ con anh, tự nhiên cô mất hết cả hứng, cứ như vừa bị ai đó tạt vào mình một thùng nước lạnh. Cô buông hẳn Quy ra và ngả người trên ghế nhìn về phía trước mặt.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:07:07 GMT 9
Hồi mới quen Quy, nghe anh bảo có năm đứa con thì Hằng cho là anh xạo, thời này ai mà dám đẻ nhiều. Đến khi Quy móc trong bóp tấm hình chụp chung với năm con ra làm bằng chứng thì chính cô phải lắc đầu lè lưỡi: “Người đâu mà ham đẻ!”. Hằng rất ghét những gã đàn ông nào có vợ rồi mà còn theo tán tỉnh cô. Thế nhưng “ghét của nào trời trao của đó” nên bây giờ mới lâm vào tình huống này. Thực ra, Hằng không ghen với vợ con Quy, nhưng lại tủi thân khi mỗi lần nghĩ đến. Đã nhiều lần Hằng muốn chấm dứt mối tình này nhưng… rốt cuộc thì cô vẫn cứ ở bên anh như bây giờ.
Đôi khi, cô tự hỏi rằng có thật là mình yêu Quy không, hay chỉ vì Quy giống Tú quá, Quy đối xử với cô chu đáo quá (?) Thật sự cô vẫn chưa tìm được câu trả lời cho chính mình.
Lần đầu tiên nhìn thấy Quy, Hằng tròn xoe mắt kinh ngạc tưởng người chết đội mồ trở về. Chỉ đến lúc Quy cất tiếng hỏi thì cô mới nhận ra rằng anh không phải là Tú. Hằng lẩm bẩm một mình sao trên đời này người lại giống người đến như vậy!
Hằng nhắm mắt lại, hai giọt lệ từ từ lăn dài trên má. Tú như đang đứng trước mặt cô và ký ức cũ bỗng tràn về như nước lũ.
Ngày ấy, cái ngày mà Hằng còn là hoa khôi của khu phố. Trước hẻm nhà cô tối nào cũng lảng vảng vài anh tới trồng cây si, đôi khi họ tấn công lẫn nhau, tung chưởng cứ như phim Tàu chỉ vì anh nào cũng muốn chiếm được trái tim người đẹp. Hằng vẫn bình thản, lạnh lùng chẳng hề tỏ thái độ, bởi vì cô biết Tú đã nằm trọn trong trái tim mình.
Tú và Hằng học chung một trường từ thời còn trung học. Nhà Tú ở ngay đối diện hẻm nhà cô, căn nhà bốn tầng lầu bề thế nằm ngay mặt tiền đường buôn bán hàng điện tử lúc nào cũng tấp nập khách ra vào. Bố Tú làm quan to, mẹ giỏi giang buôn bán nên anh có một cuộc sống sang giàu khác hẳn gia cảnh nhà Hằng. Tú lại là con trai độc nhất trong 3 chị em nên hầu như Tú có tất cả những gì mình muốn.
Hằng thì khác, căn nhà lụp xụp nằm tuốt luốt trong hẻm cụt trông thật tiều tụy. Bố Hằng đạp xích lô, còn mẹ thì có gánh bún mắm bán ngay đầu hẻm. Từ nhỏ, cô vẫn thường thức khuya dạy sớm đỡ đần mẹ. Hằng là chị hai trong nhà nên ngoài giờ đi học thì việc lớn việc nhỏ ở nhà một tay cô cáng đáng hết. Tuy nhà nghèo ít có thời gian học hành nhưng trời lại ban cho cô một trí thông minh hiếm có, Hằng luôn luôn là học sinh giỏi của trường và cô từng đoạt giải nhì Văn toàn quốc.
Tú hơn Hằng hai tuổi, học trên cô hai lớp. Tú bắt đầu để ý đến cô bé lớp 10A5 có mái tóc mây dài óng mượt và gương mặt đẹp não nùng. Một lần, Tú băng qua đường gọi tô bún mắm giùm mẹ, anh phát hiện cô bé là con gái bà bán bún mắm. Từ đó, Tú hay đến gánh bún của mẹ con Hằng ăn sáng. Tú không dám bắt chuyện nhưng thường lén lút nhìn Hằng. Đôi lúc, trạm ánh mắt của Tú, cô ngượng ngùng quay đi nhưng trong lòng dậy lên một cảm xúc khó tả. Thời gian cứ như vậy trôi đi, mãi đến khi Hằng được tuyển thẳng vào trường đại học Sư Phạm, Tú mới dám ngỏ lời yêu Hằng.
Tình yêu của hai đứa đẹp như nụ hồng vừa chớm nở, Hằng sung sướng ngất ngây trong men tình đầu đời. Bao nhiêu ước mơ, bao viễn ảnh về một tương lai tươi sáng đang chờ đón cô giáo tương lai. Hằng dấu biệt chuyện tình của mình, nhưng rồi vẫn bị mẹ phát hiện. Một buổi tối mẹ gọi con gái vào tâm sự:
- Con yêu Tú phải không?
Hằng ngập ngừng. Mẹ tiếp lời:
- Nhà mình không xứng với người ta đâu, mẹ chỉ sợ con khổ. Thôi kiếm cái chỗ nào môn đăng hộ đối con à, nhà mình nghèo lắm!
Hằng im lặng, điều mẹ nhắc nhở cô đã từng nghĩ đến. Và chính bản thân Tú cũng lo sợ bị gia đình ngăn cản, nên mỗi lần hẹn hò thì Hằng phải đi bộ ra tuốt ngoài ngã tư chờ anh đến đón. Hai năm trời thầm lén yêu nhau, cô giữ kín mối tình cả với gia đình mình, cả với bạn bè thế mà vẫn không qua mắt được mẹ.
Năm Hằng tốt nghiệp đại học thì biến cô ập đến gia đình, Ba cô bị tai nạn chết trong một lần đạp xe rước khách. Cô đau lòng nhìn mẹ quằn quại bên xác ba, nhìn lũ em thơ ngây đầu chít khăn xô trắng toát, nhìn lại gia cảnh rách nát tả tơi nhà mình mà bất lực, không biết làm gì để giúp mẹ và các em thoát khỏi cảnh túng bấn này.
Nỗi đau mất ba chưa nguôi ngoai thì một hôm Hằng được mẹ của Tú mời đến nhà nói chuyện. Lần đầu tiên Hằng rụt rè bước chân đến căn nhà bề thế. Linh cảm cho cô biết chuyện chẳng hay sẽ xảy ra. Cho dù hai đứa kín đáo đến mấy thì vẫn bị mẹ Tú phát hiện.
Mẹ Tú trong bộ đồ sang trọng người đeo đầy nữ trang mắc tiền, ngồi vắt chân chữ ngũ trên bộ ghế salon, ngoắc tay mời Hằng ngồi. Chẳng nói chẳng rằng, bà thẩy trước mặt Hằng một bao thơ dầy cộp. Hằng ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra, thì bằng giọng Bắc kỳ the thé, bá rít trong kẽ răng:
- Tiền đấy, tất cả là của chị nếu…
Bà ngưng lại chiếu ánh mắt sắc lẹm nhìn về phía Hằng:
- Nếu chị chịu buông tha thằng Tú nhà tôi ra.
Hằng ngập ngừng:
- Nhưng…
- Chẳng có nhưng gì hết, chị tự nhìn lại bản thân mình đi, chị đâu có xứng với con trai tôi.
Hằng không dám nhìn thẳng vào mặt mẹ Tú. Cô cúi gằm xuống, hai bàn tay thừa thãi mân mê vạt áo. Yêu Tú, cô cũng từng băn khoăn trong lòng vì hoàn cảnh gia đình nhà mình, nhưng Tú cứ gạt băng đi khi mỗi lần cô đề cập đến.
- Thằng Tú nhà tôi là con vàng con ngọc. Tôi không muốn mất mặt khi làm xui với bà bán bún mắm đầu đường. Chị hiểu cho hoàn cảnh nhà tôi?
Hằng vẫn im lặng. Thật sự, cô không biết phải nói gì. Mẹ Tú lại tấn công:
- Thôi, coi như tôi xin chị vậy. Mọi việc là do chị quyết định. Một là chị cầm số tiền này về lo cho gia đình nếu không nghe tôi thì đừng có trách.
Hằng đứng bật dậy, nước mắt trào ra , bao uất ức khiến cô nghẹn ngào không thốt nên lời. Cô vụt bỏ chạy.
Tối hôm đó Hằng không ngủ được, cô lặng lẽ ngồi bên bàn thờ ba. Ba đột ngột mất đi trút thêm gánh nặng gia đình lên vai mẹ. Cô lại chưa kiếm được việc làm. Mẹ yếu đuối quá! Thương mẹ quá! Tối nào mẹ cũng khóc rấm dứt cả đêm, mắt mẹ thâm quầng, tóc bạc phếch. Hằng không muốn xa mẹ, xa các em, và nhất là phải xa Tú. Nhưng chẳng còn lựa chọn nào nữa, lời chì chiết hồi chiều của mẹ Tú cứ vang vảng bên tai cô. Nếu Hằng quyết định theo Tú thì cũng chẳng hạnh phúc gì khi có một bà mẹ chồng như vậy. Hơn thế nữa cô không giúp gì được gia đình mình. Hằng cắn chặt môi để khỏi bật khóc, cô yêu Tú, yêu bằng cả tấm lòng mình chứ không phải vì anh đẹp trai, con nhà giàu. Nghĩ đến lúc phải xa nhau lòng Hằng tan nát, nhưng chuyện đã đến nước này rồi thì Hằng phải quyết định thôi.
Hằng tránh gặp mặt Tú, và bắt đầu tiến hành theo kế hoạch sắp đặt của bà Lâm, bạn học cũ của mẹ.
Bà Lâm định cư tại Nhật, vừa mới trở về Việt Nam và có ghé qua nhà thăm mẹ Hằng. Nhìn gia cảnh của bạn, bà không cầm lòng nổi nên đã bàn với mẹ lo cho Hằng qua Nhật với bà. Bà Lâm lập gia đình hơi trễ nên con bà còn nhỏ quá, bà đành phải tìm cách đưa Hằng qua theo diện con rơi. Mọi thủ tục giấy tờ bà lo lót hết, Hằng nghiễm nhiên trở thành con gái bà, từ cô gái 22 tuổi được đổi lại còn có 17 tuổi. Cũng may là Hằng không già trước tuổi, và mấy ông Nhật hôm phỏng vấn quá dễ dãi.
Sáu tháng sau, Hằng có mặt ở Tokyo, choáng ngợp vì cái vẻ đẹp của một thành phố hiện đại. Hằng chỉ nghỉ ngơi được 3 ngày, bà Lâm xin cho Hằng một chân thợ trong nhà máy sản xuất xe hơi.
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:07:44 GMT 9
Hội Ngộ
Tôi ngồi đợi Thắng ngay tiền sảnh của khách sạn Hyatt. Thắng hẹn 8:30 tối, nhưng đã 9 giờ mà chưa thấy mặt mũi nó đâu. Tôi không tỏ ra sốt ruột như chồng mình bởi vì tụi tôi đều cùng một giuộc (xài giờ dây thung).
Tokyo mùa cúm heo nên du khách cũng ít hẳn. Cả khu tiền sảnh to như cái đình chùa mà vắng ngắt vắng teo, bar, nhà hàng lạnh tanh với tiếng nhạc buồn hiu hắt.
Ngoại trừ vợ chồng tôi còn có thêm hai mẹ con nhà mẹ Sẩm (chắc là dân Hồng Kông vì tôi nghe tụi nó xì xồ tiếng Quảng Đông). Những chùm đèn vàng lung linh quyến rũ, những bức tranh mắc tiền treo trên tường, cộng thêm vài cái cột nhà to bằng mấy vòng tay của tôi, vẫn không làm cho Hyaat sống động hơn.
Nghe Phát Xít cằn nhằn bên tai rằng có đúng là bạn em ở khách sạn này không? Rằng khu này có tới hai khách sạn Hyaat lận. Tôi đâm ra bối rối, nên bước lại bàn điện thoại gọi lên phòng tìm Thắng cho chắc ăn. Thế nhưng, nhân viên khách sạn đòi hỏi tôi phải trình báo họ tên người muốn gặp. Sau khi đánh vần từng chữ cho cô nhân viên, cô trả lời rằng số phòng tôi yêu cầu không phải họ tên nhu tôi vừa đọc. Với khách sạn như Hyaat, tên của khách trú ngụ không được tiết lộ cho người ngoài biết bao giờ. Tôi đành trở lại ghế ngồi chờ. Phát Xít được thể chất vấn vợ rằng chắc em quên mất tên của bạn, hay à bạn em đã đổi tên khác.
Với Thắng, làm sao tôi quên được tên nó, cái tên độc nhất vô nhị Hạ Quyết Thắng, đã Quyết Thắng mà bị Hạ thì chỉ có nước thua. Bố mẹ thằng này đặt tên con thật là "phản động"!
Xứ Mộc Châu quê tôi có thói quen kỳ cục, chẳng ai gọi nhau theo tên cúng cơm, mà cứ đè tên bố mẹ của người đó đệm vào đằng sau nếu còn độc thân, còn Khi đã lập gia đình thì lôi cả tên vợ chồng ra gọi. Chẳng hạn như Thắng con ông Tịch thì tụi tôi gọi nó là Thắng Tịch, Hằng con ông Mão thì sẽ thành Hằng Mão, Hiền Phi, Hiển Hoạch... hay như bà chị kế tôi (con mẹ đang còn ngồi tù mút chỉ cà tha) cũng được ưu ái đệm thêm tên bố tôi đằng sau. Một lần, anh bạn là dân Hà Nội gặp chị lên tiếng tránh móc: "Em chơi xấu nhé, lấy chồng mà chẳng báo tin cho bạn bè biết để cùng uống rượu mừng". Chị tôi mắt tròn xoe ngạc nhiên hỏi lại: "Ô hay, em lấy chồng hồi nào? Ai bảo với anh như vậy?" Anh ta hồn nhiên đáp: "Thì thằng XX không phải là chồng em đó sao?" Nghe xong, chị tôi cười toáng lên: "Thằng XX là tên bố em đấy!"
Thắng là bạn học cùng lớp của tôi từ thời phổ thông. Nói chính xác hơn thì là bạn từ thủa còn ở truồng tắm suối, nhưng nhánh suối nhà nó khác nhánh suối nhà tôi nên tôi thề hai đứa chưa hề tắm chung hồi nào!
Tôi rời quê ra đi đến nay tính vừa tròn 23 năm 4 tháng. Cả một quãng thời gian dài dằng dặc như vậy mà tôi chỉ gặp lại Thắng được dăm ba lần, lần cuối cùng cũng vào tầm này năm 2006 tại Hà Nội.
Thật sự thì mục đích của chuyến đi Hà Nội năm đó không phải để gặp Thắng mà chính là thăm Hồng, cô bạn thời ấu thơ đang nằm chờ chết tại bệnh viện Việt Nhật (Bạch Mai cũ). Hồng mắc chứng bệnh nan y mà nhiều bệnh viện đã bó tay đầu hàng. Trong một lần điện thoại, nàng hứa rằng sẽ cố sống để chờ đợi tôi về gặp mặt lần cuối. Câu nói của bạn làm tôi đau xé lòng, dù xa xôi ngàn dặm, dù bận rộn cách mấy thì tôi cũng ráng bay về thăm nó lần cuối.
Yukio chúi đầu vào cuốn sách đang cầm trên tay. Anh lúc nào cũng vậy, tranh thủ mọi lúc để học bài. Tôi là dân làm biếng có hạng, cứ nói đến học thì mắt díp lại buồn ngủ, nên chàng thường ghẹo vợ rằng DNA nhà em có cái mả lười học.
Tôi ngồi dựa lưng vào chiếc ghế bành, mắt hướng ra cửa chính ngóng Thắng về, nhưng đầu óc trôi tuột về những ngày còn ở Hà Nội hồi mùa hè năm 2006.
Sau một tuần ở Sài Gòn, tối ngày 4/7/2006 tôi tiễn chồng ra phi trường Tân Sơn Nhất về lại Tokyo. Trưa ngày hôm sau (5/7), tôi đáp máy bay ra Vinh, từ Vinh lấy taxi đi Thanh Hóa. Ngày 6/7 ghé thăm bà chị đang ở tù, và cùng ngày hôm đó, tôi chạy thẳng một mạch về Hà Nội.
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:08:28 GMT 9
Tôi về đến Thủ Đô khoảng 4 giờ chiều, trời vẫn còn nắng gắt, cái nắng phả xuống mặt đường làm hắc ín như tan ra bốc lên khét lẹt. Tôi đứng ngay Ngã Tư Vọng, đợi người nhà đến đón mà mồ hôi túa ra như tắm. Cái nóng hầm hập, oi ả muốn vắt kiệt sức lực của tôi. Khí hậu Hà Nội thật kinh khủng! nóng và khó chịu hơn cả Sài Gòn.
Từ Ngã Tư Sở về nhà bác tôi khá gần, vòng vèo vài con phố là đến. Chị Hạnh quẹo chiếc xe honda sang phố Bạch Mai, vượt cả Chợ Mơ lên gần cổng phụ trường đại học Bách Khoa thì giảm tốc độ rẽ vào con hẻm Ngõ Mai Hương cũ.
- Sao bà ra đây làm gì cho nắng nôi vậy?
Tiếng chị Hạnh làm tôi giật mình ngó qua. Dì tôi thật! Dì ra tận ngoài ngõ ngóng cháu, bà đứng ngay lề đường, nheo cặp mắt mí xệ hẳn xuống như đang tìm kiếm tôi. Đằng nào thì con cháu gái Việt kìu Nhật cũng sẽ về đến tận nhà, nhưng bà lại muốn là người đầu tiên nhìn thấy cái Hân nhà mình thay đổi như thế nào sau 2 năm 8 tháng biệt tăm tich.
Tôi nhẩy xuống từ đằng sau chiếc xe honda của chị Hạnh, nhào ra ôm chầm lấy dì. Càng về già, dì lại càng giống mẹ tôi như lột.
- Khoẻ không cháu? Mày đi đâu là cứ đi biền biệt, chẳng thư từ, điện thoại hỏi thăm dì lấy một câu. Hồi năm ngoái dì bị bệnh tưởng là chết rồi đấy chứ!
- Thì bây giờ dì vẫn còn sống nhăn đó thôi! Thế dì xuống đây hồi nào?
- Từ hôm qua, em nó đèo dì xuống chứ có đi xe ca (xe đò) được đâu. Dạo này dì cứ leo lên xe ca là máu tuột xuống nhanh như xe đạp đứt phanh (thắng) đấy cháu ạ!
Tôi nhe răng ra cười. Dì tôi lúc nào chả vậy, không gặp thì thôi, hễ gặp là than cứ như cháy nhà. Lần này ra Bắc, tôi không dự định lên Mộc Châu nên trước khi mua vé máy bay, tôi gọi điện thoại mời dì về Hà Nội để dì cháu gặp mặt.
Dì tôi hôm nay diện cái váy đầm, tóc uốn rõ cao, nhuộm vàng hoe như mấy bà già Nhật Bổn. Tôi nhìn dì phì cả cười. Ui dào! Sống ở rừng rú mà dì tôi cũng biết chạy theo thời trang ra phết! Thế nhưng, cái đầu nhuộm vàng hoe như lông bò chẳng làm dì đẹp thêm tí nào, có khi lại bị hàng xóm dị nghị.
Tôi khoác vai dì thong thả đi bộ vào nhà.
Trong nhà, bác dâu đang ngồi trên nền gạch bông trông thằng cu tí, thằng bé chừng 8, 9 tháng tuổi cứ chồm lên tuột khỏi tay bà, nhổm mông bò vào gầm giường quậy phá. Bác dâu nay già, mái tóc bác trắng như cước. Càng ngày bác càng mập ra và cái bụng như thùng nước lèo khiến bác lặc lè khó điều khiển nổi thằng nhóc.
Lúc mới về hưu, bác chiếm một khoảnh nhỏ ngay đầu ngõ làm chỗ bán cháo sườn (một loại cháo dành cho con nít được nấu bằng bột gạo quậy chung với nước lèo hầm sườn heo như thể bánh đúc). Thế nhưng, ít khi nào con nít ăn mà thực khách của bác toàn là người nhớn ngồi húp xì xụp. Bác không chỉ bán cháo sườn, thỉnh thoảng bác lại đổi món, khi bún riêu, lúc phở gà, có ngày thì bán bún mọc. Nay bác không còn kham nổi việc buôn bán nên cái sạp hàng đã cho người khác mượn từ hai năm nay.
Thằng bé trong tay bác dâu là con của chị Hạnh, chị là con gái Út bác tôi. Năm 2003, lúc tôi về Hà Nội chị vẫn còn độc thân mặc dù chị xinh gái nhất xóm. Chị mới kết hôn và lòi ra thằng cú tí này.
Bác trai tôi mất đã vài năm nay, mộ phần vẫn còn nằm trên Bát Bạt (Bát Bạt ở đâu tôi cũng chẳng biết luôn). Cuối năm nay, gia đình dự tính bốc mộ bác về để chung với mộ phần của dòng tộc họ Lê nhà tôi ở Thanh Hóa.
Sau bữa cơm chiều, tôi rủ dì vào bệnh viện Bạch Mai thăm Hồng. Dì tỏ vẻ ngạc nhiên vì sống ngay Mộc Châu mà dì không hề biết bạn tôi bị bệnh nặng.
Dì cháu tôi lụi hụi đến bệnh viện vào quãng bảy rưỡi chiều. Vì là mùa hè nên trời vẫn còn sáng quắc như ban ngày. Bệnh viện Bạch Mai rộng lớn với những tòa nhà cao tầng đan xen nhau như mắc cửi. Tôi cầm tờ giấy ghi số phòng, số dãy nhà nơi Hồng nằm mà đi tới đi lui, hỏi hết người này đến kẻ nọ mới mò lên được phòng nó nằm trên lầu 6.
Căn phòng khá rộng, la liệt bệnh nhân, trên giường cũng có mà dười sàn nhà cũng có. Vì số bệnh nhân nhập viện quá nhiều, nên bệnh viện sắp 2 người một giường. Cộng thêm số người nhà theo chăm sóc nên toàn căn phòng mùi người nhiều hơn mùi thuốc.
Điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả là Hồng chẳng có vẻ gì của người bệnh sắp lìa cõi trần. Trông nó khoẻ mạnh như con trâu nước. Tôi ví nó như vậy vì Hồng đen thui, bóng lưỡng lại nặng tới 62 ký lô. Tôi nắm cánh tay bạn, cánh tay chắc nịch như của anh lực điền nào đó chứ không phải của mụ đờn bà tay yếu chân mềm.
Hồng mừng rỡ ôm chầm lấy tôi, miệng líu lô:
- Ôi Hân, đúng là mày rồi! Gặp được mày, có chết tao cũng yên lòng nhắm mắt.
Tôi cười khanh khách:
- Trông béo khoẻ thế này chết sao được mà lo quýnh lên! Còn phải sống thêm vài chục năm nữa.
- Không đâu, đi lúc nào chẳng hay mày ạ.
Tôi cứ tưởng rằng người bệnh sắp chết phải nằm liệt một chỗ, bước không nổi, người thì ốm o gầy mòn. Đâu phải như Hồng thế này! Vừa béo khỏe, lại còn hót như sáo sậu, miệng tía lia.
Hồng kéo chiếc ghế nhỏ mời dì tôi ngồi, đây là chiếc ghế duy nhất có được trong phòng. Hồng và tôi ngồi ké bên mép giường, nơi người bệnh đồng giường với nàng đang nằm sốt li bì trên đó. Tôi ngó quanh phòng, nhìn cảnh bê tha nhếch nhác của bệnh viện không khỏi chạnh lòng thương cảm cho bạn. Không bệnh như tôi vào đây còn ngột ngạt muốn bệnh theo, huống chi những người đang mang bệnh phải điều trị trong hoàn cảnh này.
- Bệnh tình đến đâu rồi? Đã có phương án điều trị nào chưa?
Tôi ái ngại hỏi bạn. Hồng lắc đầu cười nhạt, trả lời:
- Chưa ra ngô ra khoai gì hết, đến bệnh viện nào cũng bị đè ra làm xét nghiệm, thử tới thử lui mà có tìm ra nguyên nhân nào đâu.
- Bệnh viện Việt Pháp của bạn cũng bó tay à?
- Qua bên đó nằm hết mười ngày, mỗi ngày 2 triệu đồng. Sau đó họ yêu cầu đóng trước tám chục triệu để làm xét nghiệm, nhưng tìm ra bệnh thì họ không chắc chắn. Tao chạy mất dép luôn!
- Thì trước đó tao đã khuyên rồi, qua đó cho chúng chém đẹp! Bác sĩ phần lớn là người Việt cả, nếu có bác sĩ Pháp thì cũng toàn thứ í ẹ chứ giỏi họ đã ở lại Pháp kiếm tiền, mắc mớ qua đây làm gì. Đó là bệnh viện của nhà giàu, hiểu chưa em?
- Nghe mày nói cũng có lý, nên tao bỏ bên đó chuyển qua đây cho đỡ tốn kém.
Tôi nhìn Hồng, nhìn đống chai nước ngọt xếp đầy trên chiếc bàn, hỏi:
- Một ngày vô mấy xị mày?
Hồng nhìn tôi ngơ ngác chả hiểu con bạn hỏi gì. Tôi bật cười:
- Tức là một ngày phải truyền bao nhiên lần đường?
- Liên tục, lúc nào thấy tao ngáp ngáp là phải truyền ngay không thôi rơi vào trạng thái hôn mê liền.
Hồng chỉ tay vào đống chai nước ngọt, nói:
- Hàng dự trữ kìa! Lúc nào thấy mệt là phải uống liền 1 chai chờ có ai truyền đường cho mình. Bởi vậy thân nhân luôn luôn bên cạnh, nhất là gần sáng để thức canh chừng, lơ là một cái là đi lúc nào không hay.
- Bệnh tật khổ nhỉ, khổ mình đã đành mà còn khổ lây cho cả nhà.
Hồng thở dài, tay đan vào nhau, bẻ cái rộp:
- Bên này giới thiệu qua bên bệnh viện Việt Đức. Xét nghiệm, chụp hình đủ cả, thứ hai tuần sau tao mổ.
Hồng im lặng, di bàn chân xuống sàn nhà. Tôi ôm vai bạn.
- Lẽ ra mổ tuần này, nhưng tao xin để sang tuần sau vì tao muốn gặp mày trước.
Hồng ngước lên nhìn tôi, ánh mắt ngấn lệ. Lòng tôi chùng xuống:
- Suy nghĩ kỹ chưa?
- Kỹ lắm rồi, đằng nào cũng chết mày ạ. Cuộc giải phẫu này như ngàn cân treo trên sợi tóc, tao đành phó số mạng mình cho mấy ông bác sĩ... may ra thì sống Hân à.
Không khí nặng nề bao trùm lên căn phòng vốn đã ngột ngạt. Tôi đưa tay vén mấy sợi tóc mai lòa xòa trên gương mặt Hồng, định nói với bạn vài câu an ủi, nhưng cổ họng nghẹn lại không thốt nên lời. Tôi biết căn bệnh tụy tạng mà Hồng mắc phải thuộc loại hiếm trên thế giới. Sau khi hỏi ý kiến của bác sĩ Trần Lý Lê, chị Khuyên nên đưa bạn tôi qua Hà Lan chữa bệnh vì bên đó họ đang thử nghiệm điều trị loại bệnh này (chị sẽ viết thư giới thiệu). Ngay cả nền y học Hoa Kỳ tân tiến nhất thế giới còn bó tay thì bạn tôi làm sao qua khỏi được. Chính bác sĩ Lê đã thu thập tin tức về căn bệnh tụy tạng và dịch ra tiếng Việt để giúp tụi tôi hiểu rõ nó hơn. Nhưng việc đưa Hồng qua Hà Lan chữa bệnh là cả một vấn đề nan giải. Thú thật, chúng tôi không đủ tài chánh. Xin chân thành cảm ơn sự tận tụy của bác sĩ Trần Lý Lê.
- Mày ngồi lại gần đây cô xem cho mày một quẻ.
Tiếng dì tôi đã phá đi bầu không khí nặng nề bao trùm lên căn phòng. Dì rút trong bóp ra bộ bài tây, xào bài vài cái. Tôi huých nhẹ Hồng:
- Ra "thầy bói" xem cho một quẻ kìa!
Không phải riêng Hồng và tôi mà hầu như cô nào cô nấy nghe đến coi bói là xúm đông xúm đỏ vào liền. Chẳng mấy chốc, từ người bệnh đến người lành đều tụ lại, nhao nhao lên cô ơi xem cho tôi một quẻ, bà ơi xem giúp tôi một quẻ. Dì tôi phải phân trần:
- Các bà, các cô thông cảm. Tối rồi nên xem không linh, tôi chỉ xem cho cháu này một quẻ thôi.
_________________ bom11
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:09:31 GMT 9
Thấy gương mặt thất vọng của bà con, tôi lên tiếng:
- Dì xem giúp được cho ai thì xem làm phước đi mà.
Dì không thèm trả lời, đưa cặp mắt mí xệ liếc xéo tôi một cái. Tôi im bặt nhìn qua chỗ khác cười một mình. Tôi biết nếu xem "chùa" thì bà dì sẽ không phí thời gian của mình. Gớm, cái cô cháu gái sao lại giống hệt bà dì "thương tiền như thể thương thân" thế này! Nếu biết như vầy tôi chả rủ dì đi chung cho nhiều người buồn lòng.
Dì tôi có biệt tài coi bói, với ai thì không biết chứ riêng tôi (trước đây tuy không tin lắm) nhưng cứ ngẫm những gì bà đoán trước vận mệnh của tôi thì quả là đúng đến 90%. Dì là thầy bói khá nổi tiếng ở xứ Mộc, và sống còn đến ngày nay cũng nhờ nghề này.
Hồng lóng ngóng xào bài, nhìn cái bộ dạng vụng về của bạn tôi biết cô nàng chắc không phải là dân chuyên đi xem bói như tôi, gì chứ xào bài và xoè bài thì tôi nhuyễn nhừ như dân chia bài ở sòng bạc.
Sau khi xào chín cái, Hồng đặt bộ bài xuống bàn, kinh làm hai. Dì tôi nhanh nhẹn bốc bài lên, chia thành mấy tụ rồi phán một câu chắc nịch:
- Số cháu chưa chết đâu! Tin cô đi mà, rồi sẽ tai qua nạn khỏi.
Tôi thở phào, thôi thì cứ tạm tin vào bà dì rằng số Hồng không đến nỗi yểu mạng. Tò mò tôi lại lên tiếng:
- Tiện thể dì xem luôn cho cháu một quẻ.
- Mày thì về nhà, mai dì xem cho, tối rồi quẻ bài không thiêng.
- Thế đặt tiền tổ ra thì có thiêng không hả dì?
Có lẽ do bực bội vì cái tính ưa móc họng của cô cháu gái, dì nổi cọc với tôi:
- Mày chỉ được tào lao là giỏi. Coi chừng trời vật đấy cháu ạ!
Tôi lại toe toét cười. Hồng được "thầy bói" phán cho một quẻ tốt, lấy lại tinh thần nhanh chóng, tán chuyện như hươu. Cô nàng nhắc lại chuyện thời xửa thời xưa, cái thời mà tụi tôi còn bé tí teo từng đàn từng lũ kéo nhau ra suối bơi lội bì bõm. Cô nàng nhắc tới Hiền và bỗng nhiên cả hai đứa đều im bặt. Những người xung quanh đã tản ra, vì không thuyết phục được bà "thầy bói" xem cho một quẻ. Tôi gõ tay vào thành giường bằng sắt, đăm chiêu. Thực ra, tôi dự định lần này sẽ mướn một chiếc xe cùng Hồng lên trại tù thăm Hiền một chuyến. Từ năm 1989 đến nay tôi chưa gặp lại Hiền, nhưng thấy bạn ở tình trạng này tôi đâm lo sợ chẳng may dọc đường nó trở bệnh nặng thì phải soay sở làm sao. Đang lưỡng lự thì Hồng lên tiếng:
- Việc đi thăm cái Hiền chắc không được rồi.
- Sao vậy?
- Mấy hôm nay tao liên lạc với Hiền mà không được, hình như nó chuyển trại thì phải.
- Thật sự thì tao cũng ái ngại quá, trên đường đi lỡ mày có chuyện gì thì thú thật, tao chỉ bê nổi một đùi của mày thôi đấy!
Cả hai cùng cười. Chuyện trò cũng khá lâu, dì tôi bắt đầu ngồi ngủ gật nên tôi hẹn Hồng mai gặp lại. Hai dì cháu cùng đi về. Ra đến cửa, Hồng kéo tôi lại, dúi vào tay cuộn tiền, nói:
- Đây là 500 nghìn tao gửi cho chị Phương mày, thêm 2 trăm nghìn mẹ chồng chị ấy gửi nữa.
Tôi trả lại số tiền của Hồng đưa, nói:
- Biết tấm lòng của mày là được rồi, đang bệnh hoạn, giữ lấy mà tiêu xài.
- Không, không... cái nào ra cái nấy, mày giúp tao còn gấp mấy chục lần mà. Tao không nhận lại đâu.
Sợ bạn buồn nên tôi đành cầm lấy nhét vào trong túi quần. Hai dì cháu từ giã Hồng ra về. Tôi nằm trằn trọc khó ngủ, nóng quá! Hà nội nóng kinh khủng! Cái nóng hầm hập, ngột ngạt lại nằm trên chiếc giường đơn không nệm nên toàn thân đau rêm.
Dì tôi hình như cũng không ngủ được, tôi nghe bà trở mình liên tục, và đặc biệt tiếng "khủng long thời tiền sử" không còn ngân nga như mọi ngày. Biết vậy, nhưng tôi lại không gợi chuyện để hai dì cháu thủ thỉ cho đỡ buồn trong đêm khuya vắng.
Tôi nằm nghiêng nhìn sang hướng bàn thờ, trên đó ảnh bà ngoại và bác cả mờ mờ ảo ảo dưới ngọn đèn nhỏ thắp sáng cả ngày lẫn đêm. Bà ngoại mất lúc tôi mới chín tuổi nên hình ảnh của bà không còn rõ nét trong tôi. Bác cả qua đời cách đây vài năm, thời gian đó tôi đã định cư bên Nhật. Tôi nhớ lần cuối gặp bác là vào năm 2000. Bác cả bị bệnh bại liệt nằm một chỗ, người gầy đét như que củi, râu ria xồm xoàm không cắt tỉa. Bác nằm trong căn phòng thoang thoảng mùi xú uế của chính mình thải ra. Thấy tôi về thăm bác mừng lắm, ngoài cái tình bác cháu ruột thịt lâu ngày không gặp mặt, bác còn được ăn thỏa thích những món bác thèm. Thời gian trôi qua nhanh thật, mới ngày nào đó thôi mà giờ này bác đã nằm yên dưới lòng đất lạnh. Tôi thầm cầu nguyện bác cho vong linh bác được ngậm cười nơi chín suối.
Mang tiếng về Việt Nam nghỉ ngơi nhưng lần nào cũng bận tối mắt tối mũi, di chuyển liên tục khiến tôi mệt đứ đừ. Tôi cố chợp mắt một lát vì ngày mai sẽ có biết bao nhiêu việc phải làm. Theo như dự định thì sáng mai, chị Hạnh sẽ qua đây sớm để chở tôi lên quảng trường Ba Đình thăm lăng ông Hồ. Lúc chiều mở miệng nói ra điều này bị cả nhà ồ lên cười chế nhạo rằng tôi là đồ dở hơi, bao nhiêu năm sống ở miền Bắc không đi thăm, bây giờ qua Nhật định cư rồi, mò về lại đòi đi viếng lăng ông Hồ rõ đúng là đồ gàn dở! Tôi cười trả lời rằng tò mò đi cho biết.
Thực sự, những ngày còn sống ở Việt Nam thì hình ảnh ông Hồ vẫn luôn là thần tượng trong lòng tôi. Kể thì cũng đúng thôi vì từ ngày còn nhỏ, sách vở, báo đài lúc nào chả ra rả ca ngợi ông, đưa ông lên tuốt tận mây xanh. Cuộc đời và sự nghiệp của ông hóa thành huyền thoại "cha già dân tộc", ngay cả viên gạch hồng ông dùng để sưởi ấm vào mùa đông giá lạnh ở xứ ngượi, cũng được khai thác triệt để và đưa hẳn vào chương trình giáo dục cho tụi học sinh chúng tôi song va học tập theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Để rồi khi theo chồng qua định cư tại Nhật Bản, tôi khám phá ra một luồng thông tin mới trái ngược hoàn toàn những gì sách vở báo chí trong nước viết về ông Hồ. Tôi đâm ra tò mò và thu thập rất nhiều tin tuc viết về ông Hồ.
Trên các diễn đàn báo điện tử của người Việt Hải ngoại, đề tài về ông Hồ được khai thác triệt để. Kẻ bênh thì ít, người chê thì nhiều. Từ khi tôi biết các diễn đàn đến nay thì ông Hồ là người bị bàn dân thiên hạ nguyền rủa nhiều nhất, có thể nói là mỗi ngày. Người ta gọi ông là đồ tể, mang cái chủ nghĩa quái thai cộng sản về hại dân hại nước. Họ kể tội ông nhiều đến nỗi tôi đọc không hết và nẩy ra ý định lần này về Hà nội sẽ quyết tâm viếng lăng ông một lần xem sao. Kệ, bất kể là xác thật hay bằng sáp như nhiều nguồn tin đưa lên.
Chỉ mới vài ngày trước còn ở Sài Gòn, lần viếng thăm cô em gái mới ở cữ, thấy thằng cháu đang học lớp một mon men lại gần bác. Mẹ nó bật cười bảo với tôi:
- Nghe tin chị sắp ra Hà Nội, cu cậu mon men tới nịnh kìa!
Nghe vậy, tôi kéo thằng nhỏ vào lòng, xoa lên đầu cháu hỏi:
- Minh thích đi Hà Nội lắm hả?
Cu cậu ỏn ẻn cười, không trả lời. Mẹ nó lại oang oang:
- Bữa nọ đi học về thủ thỉ với em là mai mốt Minh lớn, Minh đi làm để dành tiền Minh ra Hà nội Minh viếng lăng Bác Hồ.
Cả tôi và nó phá ra cười.
- Thì nó học ở trong trường chứ đâu. Ngày xưa tụi mình cũng thế! Có đứa nào mà không yêu kính bác Hồ.
Chuyện của thằng cháu càng làm tôi quyết chi vào lăng viếng bác.
Quảng trường Ba Đình tôi cũng đã đến vài lần khi còn ở ngoài bắc. Những lần theo mẹ về Hà Nội chơi, được chính bác cả đèo xe đạp ra quảng trường Ba Đình hóng gió. Chỉ được hóng gió thôi chứ không đủ tiêu chuẩn vào lăng viếng bác. Tôi đứng ngay bờ cỏ nhìn về hướng lăng ông Hồ thấp thoáng sau rặng tre xanh mượt. Tôi còn nhớ bài hát về tâm tình của một người miền Nam ra thăm lăng bác:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Giông tố mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
... Mai về miền Nam thương trào nước mắt Mai về miền Nam nhớ Bác không nguôi Muốn làm con chim ra hót quanh lăng Muốn làm bông hoa hương tỏa đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Bài hát này tôi cũng thuộc lòng và lâu lâu lại cất tiếng nghêu ngao cho dù bây giờ thần tượng của tôi rớt cái bịch, và chẳng còn yêu kính ông Hồ nữa.
Gần về sáng cái nóng như dịu hẳn đi và tôi ngủ thiếp lúc nào chẳng hay.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:10:15 GMT 9
Tiếng lục đục bên ngoài sân khiến tôi tỉnh giấc, nhưng không thức dậy liền vì vẫn mang thói quen nằm nướng. Tôi nghe bác dâu và dì nói chuyện qua lại với nhau rổn rảng. Bỗng nhiên chuông điện thoại đổ dồn làm tôi giật cả mình. Theo quán tình, tôi nhổm dậy vớ lấy nó bấm nút nghe. Chưa kịp a lô thì tiếng chị Hạnh ong ỏng:
- Hân ơi, chị xin lỗi, sáng nay chị không lên đón em đi thăm lăng bác Hồ được. Gia đình bên anh có đám tang, chị và anh đang trên đường qua đó. Xin lỗi em nhé, chiều gặp lại.
Nói một hơi chẳng cần nghe tôi trả lời, chị Hạnh cúp máy cái cụp. Tôi chưng hửng một lát, nhưng rồi cũng phải thông cảm cho bà chị đang làm dâu nhà người ta. Tôi vươn vai ngáp ngắn ngáp dài: "điệu này chắc không có thời gian nữa rồi. Chiều nay, ngày mai đều bận cả mà tối mai thì phải bay vào Sài Gòn. Đúng là người tính không bằng trời tính! Mình chẳng có duyên với cái thây ma ông Hồ". Thế rồi, tôi đi ra ngoài bể nước làm vệ sinh buổi sáng.
Quay trở vào trong nhà, tôi rủ bác dâu và dì đi ăn điểm tâm, thế nhưng bác dâu đã dùng bữa sáng rồi, nên chỉ có dì, tôi và thằng "công tử" túc tắc đi bộ ra ngoài đầu ngõ.
Ba dì cháu đi thẳng qua bên kia cổng phụ trường đại học Bách Khoa, chọn quán phở ngay góc hẻm bên phía tay trái. Hà Nội hay bất cứ đâu trong các đô thị ở Việt Nam, bà con ta cũng đều tận dụng mọi ngõ hẻm để buôn bán kiếm sống. Quán phở này cũng chọn đầu ngõ làm nơi buôn bán. Quán chỉ đặt vài bàn, dăm bảy cái ghế đẩu thấp tè, và bên dưới chân thì ôi thôi giấy lau miệng vứt lổn ngổn. Hà Nội, Sài Gòn hay ở đâu cũng vậy, người ta vẫn còn thói quen xả rác bừa bãi chẳng có ý thức chút nào. Tôi đã quen với nếp sống văn minh ở Tokyo, nên giờ nhìn cảnh này thật khó chịu!
Ba dì cháu kêu 3 tô phở tái, hương vị phở thơm ngào ngạt lan tỏa quanh đây. Hà Nội vốn nổi tiếng nấu phở rất ngon! Tô nào tô nấy trước khi chan nước lèo đều rắc thêm nửa thìa cà phê mì chính (bột ngọt), ăn ngọt lên tận óc. Phở Hà Nội không có giá sống, cũng không tương đen tương đỏ như ở Sài Gòn. Và phong cách buôn bán của dân Hà Nội vẫn như cái thời bao cấp, thô lỗ chẳng thay đổi chút nào.
Quán phở chỉ có hai vợ chồng, chị vợ ngồi làm hàng, còn anh chồng chạy tới chạy lui lo phục vụ khách. Mặt mày cả hai vợ chồng nhăn nhó đến khó chịu. Tôi ăn tô phở mất cả ngon.
Sau khi trả tiền, ba dì cháu lại băng qua con lộ về nhà.
- Cô ơi, vào ăn hàng đi cô! Cô mới về hả? Từ ngày ông mất, lâu lắm mới thấy cô về chơi.
Dì tôi dừng lại lưỡng lự. Tiếng chị chủ gánh hàng chua loét:
- Có bánh trôi ngon lắm cô ạ. Cô với em ngồi xuống đi.
Sau lời mời mọc của chị, dì nhìn tôi dò ý. Thực lòng, tôi chả muốn ăn chè vào buổi sáng như thế này, nhưng vì nể quá nên xà xuống hàng chè của chị ta luôn. Chị nhanh tay múc hai dĩabánh trôi, dưới lên trên mấy cục bột trắng phau vài thìa nước đường nấu với gừng, nhìn coi cũng hấp dẫn. Mồm miệng chị liến thoắng:
- Em đây là con gái của cô à?
Dì tôi trả lời:
- Không phải, nó là cháu gọi cô bằng dì. Mẹ nó là chị thứ hai trong gia đình.
- Thế em này với chị Hạnh vai vế ra sao hả cô?
- Nó vai em của cái Hạnh.
- Nhìn cũng có nét giống chị Hạnh cô nhỉ.
Tôi nghe chị ta nói vậy trong lòng cũng khoái khoái vì chị Hạnh vốn xinh gái nổi tiếng phố Bạch Mai, chỉ cần bằng một góc của chị là tôi đã sướng mê lên rồi.
Ăn xong dĩa chè, tôi quay qua nói với dì:
- Dì cứ ngồi đây chơi hoặc về nhà trước đi nhé, cháu qua cửa hàng Internet đọc thư một chút rồi về sau.
Dì tôi gật đầu và tôi đứng dậy, tiến về cửa hàng internet ngay gần đó.
Cửa hàng bé tẹo, chỉ để vừa 4 cái máy điện toán hạng xoàng. Ba cậu nhóc đang bắn súng đì đùng, may mắn còn dư một cái nên tôi không cần ngồi chờ tới lượt.
Tôi mở hộp thư yahoo, điền tên và mật mã và ngồi chờ.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:11:11 GMT 9
Tôi mở hộp thư yahoo, điền tên và mật mã rồi ngồi chờ. Chẳng mất bao lâu, hộp thư của tôi xuất hiện với một lô tiêu đề mới. Thế nhưng toàn là thư rác, xóa mỏi cả tay, mờ con mắt mới lòi ra được hai lá thư đáng đọc. Một của chồng và một của thầy Năm Di Cư (một hội viên trong Thư viện toàn cầu thân quen từ vài năm qua). Tôi mở thư của chồng ra đọc trước, anh viết vỏn vẹn có vài chữ cọc lốc rằng anh đã về tới Nhật bình an và đi làm như thường lệ. Tôi không trả lời anh ngay, định bụng chút về nhà gọi điện thoại cho gọn. Tôi không muốn viết thư cho chồng bằng cái mớ tiếng Anh ba rọi mà còn phải mở từ điển ra tra từ. Tôi trở lại hộp thư và tìm đọc tin nhắn của thầy Năm Di Cư.
Thầy Năm Di Cư ghi danh trong Thư Viện Toàn Cầu với cái tên 5374, thầy lại là dân di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954 bằng "tầu há mồm". Hơn thế nữa, trước khi xung lính quốc gia thầy cũng làm nghề giáo nên tụi tôi gọi luôn bằng thầy Năm Di Cư. Thầy có vẻ bằng lòng với cái tên này nên không thấy phản đối gì.
Thư của thầy cũng chỉ vài dòng hỏi thăm sức khoẻ. Đặc biệt, thầy nhờ nếu có rảnh chạy lại số nhà 92 Quán Thánh chụp vài tấm hình gửi qua cho thầy ngắm, vì từ ngày biền biệt bỏ Hà Nội ra đi đến nay, thầy không một lần trở về, thầy muốn biết căn nhà thời thơ ấu bây giờ ra sao. Tôi đọc thư của thầy, trong lòng cũng sốn sang đôi chút. Hình như càng về tuổi xế chiều con người lại càng muốn tìm về cuội nguồn hơn. Người ta bảo "cóc chết 3 năm quay đầu về núi" là vậy!
- A... địt mẹ...! thì ra chúng mày ở đây.
Tôi giật mình quay đầu lại, một đám nhóc tì con cháu bác Hồ ùa vào tiệm, mồm miệng chúng liến thoắng mà câu nào câu nầy "địt, đéo" văng ra ầm ầm.
Trước đây, tôi không lạ lẫm gì với cái kiểu ăn nói thiếu văn hóa của người miền Bắc. Thú thật, bản thân tôi cũng chẳng kém cạnh gì, gặp lúc nổi cơn tam bành tôi tuôn ra còn khiếp đảm hơn khiến tụi nhỏ trong nhà lấm lét sợ hãi. Tuy tôi có tật nóng lên ưa chửi bậy, nhưng tụi nhóc trong nhà không đứa nào bắt chước mình ngoại trừ thằng cu Dừa con bà chị thứ Tư. Thằng này biết chửi thề từ khi còn học mẫu giáo. Lúc nào nổi cọc, ảnh cũng văng "đù má" như người lớn nên bị tôi quạt cho một trận:
- Trời ơi! mới bi nhiêu mà đã biết chửi thề rồi. Mẹ gang cái họng lại bây giờ! Con nít mà hỗn hào nào. Ai dạy con vậy?
Thằng bé xanh mặt khép nép đứng nhìn bà "già gân" nổi giận. Tôi trợn mắt quạt thêm:
- Thế đến trường học có dám "đù má" cô giáo không?
Thằng bé lập bập ngọng líu lô thanh minh:
- Hông hông... con hông có "đù má" cô giáo đâu, con chỉ "đù má" các bạn thôi.
- Ôi trời đất ơi! Giỏi quá mà! Từ nay mà mẹ còn nghe tiếng con chửi thề nữa thì chết với mẹ. Có nhìn thấy gì kia không?
Tôi chỉ vào cây roi mây dùng để trị tội mấy đứa nhỏ hư đốn. Cu cậu lấm lét líu ríu
- Dạ, con xin lỗi mẹ, từ nay con không dám chửi thề nữa.
Nhưng nó chỉ hứa lúc đó, sau này ảnh vẫn cứ văng ra đều đều.
Với tôi chỉ là lúc nổi cơn thịnh nộ thì mới sử dụng chứ "nó" không dính ở cửa miệng như tụi nhóc này.
Lâu ngày sống bên Nhật ít tiếp xúc với người Việt nên hầu như tôi quên hẳn việc chủi thề. Giờ nghe lại thấy chướng tai quá nên tôi trả tiền rồi đi về nhà.
Tôi vừa ló mặt vào nhà đã đụng ngay bà dì ngồi đó từ lúc nào. Thấy tôi, dì hỏi liền:
- Ơ... sao bảo cháu đi quán internet gì kia mà, về sớm thế !
- Dạ, ngồi có một lát mà con cháu bác Hồ nhà dì, tụi nó chửi bậy quá! Nghe rác tai nên cháu về nhà cho rồi.
- Ờ, chẳng phải riêng con nít mà người lớn cũng thế! Thời nay sao họ ăn nói lại thiếu văn hóa đến thế!
Tôi nhe răng ra cười.
- Thì có văn hóa đâu mà thiếu hả dì?
Bác dâu lụi cụi dọn dẹp trong góc nhà, đủng đỉnh nhả từng chữ:
- Có ông khách nọ đi tìm nhà ông chủ tịch phường. Ông ấy gặp một nhóm trẻ con đá bóng ngay đầu ngõ treo tấm bảng "Khu Phố Văn Hóa" liền cất tiếng hỏi thăm: "Các cháu cho chú hỏi nhà ông chủ tịch phường ở đâu?" Mấy thằng bé trợn mắt đứng nhìn, một thằng cọc cằn trả lời: "đéo biết!". Thằng khác tiếp lời: "biết cũng đéo chỉ". Lò dò một hồi, ông khách cũng tìm được nhà ông chủ tịch, rồi than vãn: " Trẻ con ở đây láo quá anh ạ. Tôi hỏi thăm nhà anh mà chúng nó bảo "đéo biết" "biết cũng đéo chỉ". Ông chủ tịch phường thở dài buồn rầu buông tiếng nói nghe não ruột: "Khổ lắm anh ạ! Tụi tôi cũng nhắc nhở các cháu mỗi ngày mà chúng nó "đéo nghe" biết làm thế nào bây giờ?"
Cả nhà ồ lên cười, những chuyện về Hà Nội kiểu này, kể mãi cũng không hết. Nói đến Hà Nội làm tôi phì cười nhớ lại bài viết "Một Lần Đến Thủ Đô" của anh nhà văn trẻ Vương Văn Quang mà tôi đã đọc cách đây vài năm. Quang mở đầu rất nhẹ nhàng với câu:
"Chẳng thơm cũng thể hoa nhài... "
Những người không sinh sống tại Hà thành như tôi, chỉ biết Hà Nội qua những câu văn, tiếng hát thì cái cảnh như: "Ôi những cây bàng lá đỏ, ôi Hồ Gươm, Tháp Rùa, ôi Hồ Tây lộng gió, ôi hoa sữa đường Nguyễn Du bên hồ Thiền Quang thơ mộng... Ôi! Ôi ! Ôi … Chưa kể các món ăn. Người Hà Nội sành ẩm thực lắm, nào phở, nào bún ốc, nào chả cá Lã Vọng..., nghĩ tới tôi cứ tứa hết nước dãi." Quả thật đúng ý chang như những gì tôi tưởng tượng.
Những lần theo mẹ về Hà Nội, được bác cả dẫn ra ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ. Lúc đi qua bờ hồ Hoàn Kiếm, con "Mán" như tôi cứ trố mắt nhìn cảnh người Hà Nội họ "yêu" nhau trên ghế đá. Từng cặp, từng đôi... chiếm hết cả các dãy ghế quanh bờ hồ. Nhiều cặp đến muộn, hết chỗ họ trải tấm nilon hay tờ báo ra bờ cỏ ngồi luôn xuống đó. Họ ôm nhau, họ hôn nhau tự nhiên cứ như chốn không người. Bác cả tôi đe nẹt:
- Kệ người ta, đừng có nhìn, chúng đánh cho đấy !
Bác kéo tôi đi, nhưng mặc kệ, tôi vẫn cố ngoái cổ lại xem. Nhìn lạ mắt cứ như phim ảnh, dân miền núi như tôi chả thấy cảnh này bao giờ.
Có một đoạn Vương Văn Quang viết:
"Sáng hôm sau, hai người bạn và tôi tranh thủ đoàn chưa có kế hoạch tập luyện bèn rủ nhau đi chơi ngay. Ra khỏi nhà khách một quãng, thấy mấy thanh niên ngồi túm tụm, mỗi người trên một chiếc xe máy, đồ chừng họ là xe ôm, nhưng không dám chắc lắm, bởi xe họ mới và là loại khá xịn. Chúng tôi tiến lại gần, còn đang phân vân thì một người trong bọn họ nhìn chúng tôi quát to: “Thích soi à?” Chúng tôi chưa kịp hiểu gì thì một người khác lại quát: “Cụp mẹ mày pha xuống!” rồi một người khác:“Bố mút mẹ mày pha ra bây giờ!” Chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, nhưng thấy họ có vẻ hung dữ nên chúng tôi vội lảng ra xa. May quá có một chiếc tắc xi đi ngang, chúng tôi leo lên tắc xi và đi vào khu trung tâm. Ngồi trên xe, tôi đem câu chuyện trên kể với anh lái tắc-xi và được anh cho biết “soi” tức là nhìn, “pha” là mắt. Ðại ý là mấy thanh niên vừa rồi bảo chúng tôi không được nhìn và phải cụp mắt xuống."
Cái vụ này thì tôi rành "sáu câu". Chẳng phải riêng ở Hà Nội mà bất cứ đâu ngoài miền Bắc thì cũng đều có hiện tượng này. Chỉ ngay xóm nhà tôi thôi, anh em thằng Chiến Sáu (Chiến con bà Sáu) học cùng lớp với tôi. Anh em nhà này nổi tiếng "du côn" nhất huyện. Hình như không thích làm gì nên hay lên ngồi đồng trên đầu con dốc 75 ngó thiên hạ đi ngang. Hễ nhìn ai ăn bận khó coi hay lấc xấc là túm lấy cho ăn vài cái bạt tai, mặc dù người qua đường chẳng hề có tư thù gì tới anh em nhà nó. Hỏi thì nó bảo "Nhìn ngứa mắt, đánh cho bõ ghét".
Phải công nhận là Vương Văn Quang kể chuyện rất có duyên. Tôi đọc cười từ đầu chí cuối, cười nhém rách cả mép (mép là khoé miệng, đừng ai nghĩ bậy). Hầu như tôi đón đọc tất cả những gì Quang viết, dạo sau này ít đọc hơn vì Quang viết bạo quá. Tôi chẳng phải tay vừa nhưng cũng ngượng ngùng khi đọc những câu quá "tục tằn" trong bài của cậu ta.
Đang nhắm mắt cười ngoác miệng thì người tôi rung mạnh như bị điện giật, rồi tiếp theo là tiếng chuông điện thoại đổ dồn. Tôi thò tay vào túi quần móc nó ra trả lời người gọi cho mình.
- A lô, Hân nghe đây.
- Đây rồi !
Nghe câu này, tôi biết ngay là Thắng. Thằng này vô duyên, nên cách gọi điện thoại của nó cũng vô duyên theo. Thường khi gọi điện thoại cho ai, người lịch sự nên nói rằng xin lỗi cho tôi gặp người này người kia, hoặc a lô đi. Còn ông "mãnh" bạn tôi thì cứ thốt lên một câu "đây rồi" nghe bực cả mình!
- Mày về đây hồi nào?
- Khoảng 4 giờ chiều hôm qua.
- 2 giờ chiều nay mình gặp nhau nhé, cứ đợi tao ở ngay cổng bệnh viện Bạch Mai.
- Ừ, tao đứng bên trong bệnh viện nhé, đứng ngoài cổng để nắng thiêu cháy tao à.
Tiếng Thắng cười khùng khục bên kia đầu dây, giọng ồ ồ vừa cười vừa nói:
- Mày đen sẵn rồi, đen thêm một tí có chết ai đâu.
- Lầm rồi em, chị mày bây giờ trắng như bông bưởi.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:12:04 GMT 9
Tôi lại nghe giọng cười khả ố của Thắng:
- "Bồ hóng" như mày mà đòi trắng như bông bưởi. Thôi đi mẹ, đừng có phét lác cho con nhờ tí!
Bên này tôi cũng cất tiếng cười ha hả:
- Vậy nhé, đúng 2 giờ nghe ông kễnh.
Tôi nghe tiếng Thắng "ừ" rồi thì tắt máy và đặt nó lên chiếc bàn trà nhỏ. Quay sang dì, tôi hỏi:
- À dì, bây giờ đang còn sớm, xem cho cháu một quẻ đi!
- Ừ, xem thì xem. Cháu dọn cho dì cái bàn này.
Dì đưa tay chỉ cái bàn trà mà tôi vừa đặt điện thoại hồi nãy. Tôi nhìn quanh quẩn rồi cất tiếng:
- Thôi, mình coi tạm trên giường cho gọn. Bàn chứa nhiều đồ quá cháu chả biết để ở đâu bây giờ.
Tôi trải tờ báo vớ được dưới gầm bàn xuống giường. Dì xào xào bộ bài vừa lấy ra từ giỏ sách rồi đưa sang cho tôi. Theo đúng thủ tục, tôi chẻ bài trước khi xào 9 cái (nam 7, nữ 9), kinh đôi rồi nói:
- Để cháu "thỉnh" cho dì bộ bài nilon xem cho sướng! Bộ bài bằng giấy này mau cũ lắm.
- Ừ, dì tìm mà chẳng biết ở đâu có.
Dì tôi lấy hai phần bài lên nhập thành một rồi trải đều lên mặt tờ báo. Ngón tay trỏ chỉ lên từng con bài, miệng lẩm nhẩm như tụng kinh, rồi bà ngước cặp mắt mí xệ lên nheo nheo nhìn cô cháu gái đáng há hốc mồm chờ thấy bói phán:
- Sao quẻ bài, dì thấy mày đang xui lắm!
Dì tôi ngừng lại bấm đột trên những đầu ngón tay, tiếp tục:
- Cháu phải về Sài Gòn trước ngày 15, không có là nằm chết gí ở đây luôn đấy !
Dì lại đếm quẻ bài, lẩm nhẩm những gì tôi không nghe rõ. Miệng bà xít xoa liên tục cứ y như mấy bà "lên đồng"
- Trong vài năm tới cháu còn lình xình lắm, tài lộc chả thấy đâu mà còn bệnh hoạn liên miên.
Tôi buông tiếng thở dài. Gớm đời! Xem bói cái kiểu này sao mà chán! Mũi tôi bắt đầu xụt xịt, cổ họng hơi đau và nước mắt sống tự nhiên ứa ra nơi khoé mắt. Tình trạng này lại bị cảm lạnh nữa rồi! Đúng là vài năm nay tôi không được khoẻ, mỗi lần bị ho thường kéo dài vài tháng mới dứt, có đợt cả nữa năm. Còn tiền bạc thì nợ như "Chúa Chổm". Thật sự tôi không dự định về Việt Nam năm nay, nhưng lại chẳng đành lòng để Hồng chờ đợi, nên dù tài chánh eo hẹp tôi cũng cố thu xếp bay về thăm bạn.
- Này! Cháu đang suy nghĩ gì đấy? Xem bói thì phải tập trung chứ cứ như người mất hồn thế kia làm sao quẻ bài linh cho được.
Tôi bừng tỉnh và mủm mỉm cười. Bỗng nhiên điện thoại lại reng inh ỏi. Tôi xoay người lại vớ lấy nó và bấm nút nghe. Tiếng Thắng khàn khàn bên kia đầu dây:
- Đây rồi!
Lại cái câu "đây rồi" phải nó ngồi bên cạnh là tôi sẽ vả một cái vào miệng cho chừa cái tật "đây rồi"
- Gì nữa Thắng?
- Mày goi nhắn tụi thằng Hưng, cái Hoài đi nhé.
- Tao có số điện thoại của tụi nó đâu.
- Để tao cho.
- Thôi thì mày gọi tụi nó luôn đi!
- Ừ thế thì để tao nhắc tụi nó vậy.
Thắng cúp máy, nhưng chỉ vài giây sau điện thoại của tôi lại réo om xòm. Chẳng cần nhìn coi ai gọi, tôi nói một lèo:
- Còn gì nữa thì nói luôn đi ông mãnh, người ta đang xem bói mất hết cả hứng!
- Ơ Hân ơi! Anh Tấn đây mà.
- Ồ anh Tấn à, xin lỗi em tưởng thằng bạn cùng lớp. Anh đang ở đâu? Chừng nào về lại Sài Gòn?
- 4 giờ chiều nay anh bay, em đang ở đâu để anh ghé lại thăm một chút.
Tôi đọc địa chỉ cho anh xong, cúp máy. Vụ coi bói cũng dẹp luôn, chuẩn bị đón khách. Anh Tấn, người vừa chia tay tôi chiều hôm qua tại Ngã Tư Vọng là dân vùng Triệu Sơn, Thanh Hoá. Tuy anh rời quê từ thời trai trẻ nhưng vẫn còn giữ giọng nói địa phương đặc sệt. Tôi cũng chỉ mới gặp mặt anh cách đây vài ngày tại Sài Gòn do Hạnh em gái tôi giới thiệu. Hạnh nhờ anh đi cùng tôi ra Thanh Hóa thăm chị Phương (vì anh Tấn có vài người bạn học cùng lớp làm quản giáo tại trại tù chị tôi đang thụ án) nên cô nàng gởi gắm mọi chuyện cho anh Tấn lo giùm, tôi chỉ đi ăn theo lấy có.
Anh Tấn là cựu chiến binh thời "chống Mỹ xâm lược". Anh có mặt ngay từ những ngày đầu tiên quân Cộng sản Bắc Việt tiến vào "giải phóng" Sài Gòn. Ở lứa tuổi như anh ngoài miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nếu không là con ông cháu cha thì sau khi học hết cấp ba, hầu như thanh niên trai tráng bắt buộc phải đi bộ đội, hoặc vào ngành công an cả lũ. Anh chọn con đường binh nghiệp và giải ngũ cách đây vài năm. Vợ anh là bác sĩ quân y, học cùng một khóa với vợ ông phó Thủ Tướng kiêm bộ trưởng bộ giáo dục Nguyễn Thiện Nhân. Sau khi anh Nhân ra nhậm chức bộ trưởng thì chị Nhân cũng ăn theo chồng được đưa lên làm Viện trưởng bệnh viện Thống Nhất (Nếu tôi nhớ không lầm thì bệnh viện này ngày xưa có tên là bệnh viện Vì Dân, do bà Thiệu sáng lập). Theo như lời anh Tấn thì chị Nhân ngày xưa là hoa khôi của trường quân y, chắc có vậy mới lọt vào mắt xanh của anh Nhân. Tôi chưa thấy mặt chị Nhân lần nào nhưng nghe em tôi kể rằng một lần chị Nhân đến tiệm nó cắt tóc, chị bảo nó chọn kiểu nào cho hợp với gương mặt chị chứ để mấy đứa đến nhà kiếm anh Nhân, gặp chị lại hỏi: "Bác ơi anh Nhân có nhà không ạ?" làm tôi phì cười nhém rách cả mép.
Gia đình anh Tấn có 4 anh em, sau anh còn có anh Tạ, chị Yến và cậu Cân. Tôi nghe xong liền bảo với anh:
- Sao hồi trước, anh không động viên bà cụ ráng lòi thêm cái Lạng nữa cho đủ bộ tấn, tạ, yến, cân, lạng.
Anh Tấn cười, mắng tôi:
- Cái con ni cũng lẻo mép gớm bay!
Tụi tui xúm vào khai thác anh triệt để, nào là chị có xinh gái không, rồi làm cách nào mà anh "cưa" đổ chị? Khi còn trong quân đội anh ở đơn vị nào? Bộ binh, phòng không hay bộ đội đặc công, quân báo....? Nói chung cái gì tụi tôi cũng bắt anh khai ra.
Anh Tấn có bề ngoài rất nam tính, cao 1 mét 8, nặng 75 kg. Lúc còn trong quân ngũ anh làm bên quân nhu, tiền bạc rủng rỉnh nên chuyện tán đổ bác sĩ quân y thì cũng chẳng có gì khó khăn đối với anh. Sau ngày giải ngũ về hội nhập với đời sống bình thường, anh lao vào thương trường kiếm ăn. Anh Tấn đã mở riêng cho mình một công ty chuyên về xây dựng, và anh làm giám đốc. Thời buổi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên anh cũng phải xoay theo đủ chiều để kiếm ăn. Vì nể cái Hạnh nhà tôi mà cũng một phần là vì dân đồng hương đồng khói. Anh Tấn giao phó công việc cho nhân viên dưới quyền, bỏ mấy ngày công đi cùng tôi ra Thanh Hóa lo cho bà chị còn vướng vòng lao lý. Mấy đứa nhân viên biết chuyện chọc ghẹo anh: "Chà! Giám đốc sắp sửa đi Hà Nội với Việt kiều Nhật có khác, mặt mày cứ tươi như hoa"
Đúng 11:30 trưa ngày 5-7, anh em tôi đáp chuyến bay của Việt Nam Airline từ Sài Gòn ra Vinh. Từ Vinh, tụi tôi thuê taxi chạy một lèo về thành phố Thanh Hóa. Anh Tấn quả là người nhanh nhẹn tháo vát, mồm miệng như tép nhảy. Chỉ một giờ bay ngắn ngủi mà anh đã làm quen được với hai mẹ con người khách đồng hành trên chuyến bay. Anh rủ mẹ con bà cùng thuê chung một chuyến xe về Thanh Hóa, để chia bớt một phần tiền phí giùm tôi.
Xe dừng lại trước cửa nhà người cô của anh ở ngay thành phố Thanh Hóa, anh em tôi chia tay 2 mẹ con người khách đồng hành. Anh Tấn nghỉ lại nhà bà cô và tối anh sẽ chạy về Triệu Sơn thăm mẹ. Còn phần tôi thì gọi điện thoại cho người nhà qua đón về bên ấy. Tôi dự định chỉ ngủ lại Thanh Hóa có đêm nay, sáng mai đi thăm chị Phương và chiều thì chạy thẳng luôn một mạch ra Hà Nội. Thời gian quá hạn hẹp nên khi về tới nhà ông anh họ ở gần ga Thanh Hóa, tôi nhờ thằng cháu chở về làng Voi thăm mộ bác mình vừa mới mất chưa tròn trăm ngày.
Mới 4 giờ chiều nên đường sá vẫn còn nắng gắt. Cô cháu tụi tôi tắp vào cái chợ lề đường mua ít trái cây. Chị dâu đã căn dặn kỹ càng rằng tôi không được ra mộ thăm bác, chỉ đến thắp hương khấn bác trong bàn thờ ở nhà. Chị bảo rằng bác mới xuống âm phủ còn bị diêm vương tra khảo, rồi chị còn giải thích một lô những gì tôi nghe lùng bùng lỗ tai... chị còn hăm dọa lỡ hạp với tuổi bác coi chừng tôi bị bác bắt theo. Tôi không tin lắm nhưng cũng hơi sờ sợ.
Đường sá dạo này đã được nâng cấp khang trang hơn ngày xưa. Cái cầu khỉ dẫn qua con sông trước mặt nhà bác mà ngày xưa mỗi lần về quê tôi phải bò qua, thì nay đã được thay thế bằng cái cầu xây vững trắc. Thằng cháu chở tôi chạy vèo vèo qua sông khoong cần giảm tốc độ, nó luồn lách trên con đường làng và dừng xe lại ngay trước cửa nhà bác tôi.
Vẫn là căn nhà cũ kỹ được xây từ năm đói kém Ất Dậu (1945), cột kèo bằng gỗ lim đen bóng lộn. Bà nội tôi ngày xưa là con gái của một gia đình địa chủ trong vùng, nhưng vì xấu gái quá nên bị gả cho anh ta1 điền trong nhà. Bà nội được gia đình xây cho căn nhà này làm của hồi môn. Vì vậy, dù là năm đói kém mất mùa nhưng căn nhà vẫn được dựng lên và nó còn tồn tại đến tận ngày hôm nay, mặc dù bây giờ trông nó nhỏ bé và tiều tụy.
Căn nhà vắng lặng, bác dâu đang ngồi bên hè trái ăn cơm nguội, chén cơm và cái đầu cá kho trên tay bác, nhìn sao mà thấy tội! Thấy tụi tôi lại gần, bác ngước cặp mắt vẩn đục lên nhìn. Tôi cất tiếng:
- Bác biết cháu là ai không?
Bác im lặng nhìn tôi chằm chằm, tôi biết bác đáng cố nhớ ra "con ni là con nhà mô" (con này là con cái nhà ai).
Gió từ ngoài sông thổi vào làm mấy tàn dừa khô kêu xào xạc. Ánh nắng đang tắt dần cuối sân. Bác dâu nay đã già, lại buồn vì bác trai vừa qua đời nên vườn tược hầu như bác không đụng tới, cỏ mọc um tùm che khuất luôn cả cái giếng nước ngày xưa tôi từng khó nhọc mới kéo lên được một gầu nước.
- Bay là con chú Út phải không?
Tôi vỗ tay khen:
- Bác có trí nhớ giỏi quá!
Tôi ngồi xuống bên cạnh bác, cái mùi khăm khẳm của cá khô xộc vào mũi.
- Sao bác ăn cơm khô khan thế này? Phải chịu khó nấu miếng canh mà húp chứ.
- Bác có một thân một mình, ăn bi nhiêu. Từ ngày bác bay mất.
Nói đến đây, mủi lòng nhớ chồng, mắt bác đỏ hoe, xụt xịt. Tôi ôm lấy vai bác, an ủi:
- Đời người, ai cũng phải chết. Đằng nào thì bác con cũng mất rồi, bác phải giữ gìn sức khoẻ.
- Bố bay có khoẻ không?
- Dạ, bố cháu vẫn khoẻ, nhưng nay thấy ông cụ cũng hom hem lắm rồi.
Tôi vểnh tai lắng nghe như có tiếng người nói từ xa vọng lại. Thằng cháu hiểu ý nên mách tôi:
- Tiếng đọc kinh từ bàn thờ ông nội cháu đấy.
Bây giờ tôi mới đứng dậy, xách bịch trái cây ra giếng nước để rửa. Cái giếng đã được đậy điệm cẩn thận vì thời nay đã có nước không tên từ cái vòi gần đó. Tôi lặng lẽ bước vào trong nhà, bàn thờ bác khói nhang nghi ngút. Ngay trên bàn cái máy catset đang được mở để đọc kinh tụng người chết. Tấm ảnh bác tôi trang trọng để bên trên. Bác và bố tôi giống nhau như lột, từ cái tướng cao lòng khòng đến lỗ tai đầy mụn trứng cá, và ngay cả giọng nói. Mới ba năm về trước, lúc tôi ghé đây thăm bác. Bác ngồi trên chiếc ghế này quạt phành phạch đuổi ruồi, còn nhắc nhở tôi: "Bay lấy chồng Nhựt, quân phát xít ấy hắn ác lắm, cẩn thận nghe cháu". Bác còn trách tôi ít khi nào biên thư về thăm bác. Phải thú thật là tôi chẳng bao giờ viết thư cho bác hay cho người thân quen. Tôi rất ngại phải viết thư vì không biết sẽ viết gì trong đó. Bên nội nhà tôi có bao nhiều người, tôi cũng chưa gặp mặt hết. Tôi vẫn quý bên ngoại hơn, vì bên ngoại gần gũi hơn. Bố tôi thì khác, ông quý bên nội hơn tất cả, thậm trí coi trọng bên nội nhà ông hơn cả con cái do mình đẻ ra. Bác tôi bị bệnh, con chị họ tôi ốm đau mà gọi điện thoại báo tin cho ông biết thì dù ngoài Bắc xa xôi ông vẫn mua vé xe lửa về ngay thăm anh mình. Còn tụi tôi có vô nhà thương năm năm bữa nửa tháng thì ông coi như chuyện không có gì.
|
|
|
Post by Can Tho on May 9, 2010 1:13:05 GMT 9
Ông bà nội tôi sinh được 6 người con, đồng đều ba trai, ba gái. Các bác đã lần lượt qua đời, chỉ còn lại một mình bố tôi nên đương nhiên ông trở thành "lão làng" có uy quyền nhất của gia tộc bên nội.
Tôi lặng lẽ ngước nhìn di ảnh bác mình, người bác ruột thịt mà trong đời tôi chỉ gặp mặt được vài lần đếm chưa đầy đầu ngón tay.
Vào năm 1973, lúc đó tôi khoảng 6 tuổi và mẹ đang mang bầu thằng Út, thì một bức điện khẩn cấp được gửi lên Mộc Châu cho bố tôi báo tin rằng :"ông mất, em về gấp". Thời đó chiến tranh đang diễn ra khốc liệt, đường sá đi lại khó khăn và bị kiểm soát ngặt nghèo. Hơn nữa việc mua được vé xe là cả một vấn đề, ngoài giấy giới thiệu của cơ quan còn cần phải quen thân với người làm ở bến xe nữa. Vậy mà không hiểu sao bố tôi xoay xở kiếm đủ vé xe để đưa cả nhà về quê làm đám tang cho ông nội. Gia đình tôi đã phải mất hết hai ngày vượt qua một chặng đường dài đầy nguy hiểm từ Mộc Châu về Thanh Hóa. Thế nhưng, khi bước đến đầu ngõ thì chính ông nội lại là người chạy ào ra đón con trai và các cháu. Cả nhà ngẩn tò te mất giây lát rồi cười ầm lên khi ông nội vẫn mạnh khoẻ. Thì ra ông nội nhớ bố tôi quá nên lệnh cho bác đánh điện giả kêu bố tôi về gấp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp bác Thẩm.
Lần thứ hai là vào mùa hè năm học lớp 10 (1983). Tôi được anh con trai thứ hai của bác sinh sống ở thị xã Sơn La cho theo về quê thăm gia đình.
Đến mãi đầu năm 1886, sau biến cố mẹ mất, bố quyết định đưa tôi vào Nam. Trước khi lên tàu vào Sài Gòn, bố con tôi ghé về Thanh Hóa thăm gia đình bên nội. Đó là lần thứ ba tôi được gặp bác.
Lần thứ tư chỉ cách đây vài năm (2003), tôi về Mộc Châu nhân dịp trường học kỷ niệm 40 năm thành lập, tiện ghé qua Thanh Hóa thăm chị Phương đang ở tù. Nên tôi tranh thủ chạy về làng Ngòn thăm bác. Và lần này là lần thứ năm thì bác đã ra người thiên cổ.
Theo lời chị dâu dặn, tôi mở bóp rút tờ tiền đặt lên chiếc dĩa trống trên bàn thờ để cúng bác. Phong tục cúng người chết ở miền quê ngoài Bắc cũng có nhiều điều khác lạ. Cúng người chết bằng tiền "già Hồ" chứ không phải tiền âm phủ, thôi thì chị dặn sao tôi làm theo vậy.
Tôi thắp bảy cây hương rồi cắm lên cái lư bằng đồng cũng đang nghi ngút khói. Mùi hương trầm tỏa ra dày đặc gian phòng. Tôi chấp tay nguyện cầu vong linh bác về phù hộ độ trì cho mọi người được mạnh khoẻ, có của ăn của để một chút, chứ cái nghèo đói cơ hàn cứ bám riết lấy gia tộc bên nội từ hơn nửa thế kỷ nay rồi, chẳng ai ngóc đầu lên được.
Bỗng nhiên ngọn lửa bùng cháy, chỉ trong chốc lát toàn bộ chân hương bị thiêu rụi. Di ảnh bác tôi sáng bừng lên, chắc ở nơi nào đó bên kia thế giới, bác thấu lời nguyện cầu của cô cháu gái bé bỏng dạo nào, tôi hy vọng là vậy.
Tôi liếc nhìn gian phòng một lượt, chính nơi đây hồi 62 năm về trước, bố tôi bị chị vợ (thời tảo hôn) nửa đêm nửa hôm lôi dậy đánh cho một trận đòn quắn đít vì cái tội móc trộm tiền trong ruột tượng quấn quanh bụng chị. Cũng chính chỗ này là gian "động phòng hoa chúc" của bố mẹ tôi. Bây giờ căn nhà chỉ còn lại một mình bác dâu. Các anh, chị con bác đã đã ra riêng cả, nên bác dâu cho sửa chữa lại căn nhà và chọn gian này làm bàn thờ cúng bác trai.
Một lần nữa, tôi chấp tay khấn bác và bước ra ngoài hiên, đến ngồi bên cạnh bác dâu.
Bác vẫn ngồi bất động một chỗ, chén cơm chứa cái đầu cá khô vẫn cầm trên tay, nước mắt trào ra từ hai hốc mắt sâu hoắm, già nua nhăn nheo chằng chịt. Tôi nhìn bác, câm lặng. Tôi thương bác cũng như thương cảm cho thân phận những người phụ nữ Việt Nam, những người mà tôi đã từng quen biết, từng gặp mặt, từng chia xẻ những nỗi cay đắng nhọc nhằn trong đời họ. Bác về làm dâu bên nhà nội tôi từ bao giờ tôi cũng chẳng biết. Hai bác có với nhau sáu mặt con (bốn trai, hai gái). Thế nhưng, bác trai tôi dường như chưa hài lòng nên vẫn léng phéng bên ngoài với một phụ nữ khác và có thêm một anh con trai. Có một thời gian bác qua sống hẳn bên nhà vợ nhỏ, bỏ bà lớn lại bơ vơ. Chỉ đến khi gần đất xa trời, bác mới trở về nhà cho vợ lớn chăm sóc.
Tôi nắm chặt bàn tay bác dâu. Nhìn bác, nước mắt tôi trào ra khi nhớ đến mẹ mình. Mẹ tôi tuy không phải chịu cảnh vợ lớn, vợ bé như bác nhưng cả đời cứ phải lầm lũi nuôi con một mình. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay mẹ tôi vẫn cô độc không có người thân nào bên cạnh.
- Cô ơi, trễ rồi đấy.
Tiếng nhắc khéo của thằng cháu khiến tôi quay về hiện tại. Tôi ôm chặt lấy bác dâu mình, thủ thỉ:
- Cháu để tiền cúng trên bàn thờ. Tí nữa bác nhớ cất đi không có đứa nào tham bắt gặp nó lấy trộm mất bác nhé.
Bác không trả lời nhưng khẽ gật đầu. Tôi lại tiếp tục:
- Bác phải ăn uống bồi bổ vào, bác gầy quá! Thèm ăn gì thì bác cứ mua mà ăn, đừng có tiết kiệm nữa.
Tôi đứng lên nhìn toàn bộ khu nhà một lượt, mảnh đất này từng là nơi chôn nhau cắt rốn của bố tôi. Tôi tự hỏi chẳng biết rồi mình còn có dịp trở lại đây nữa hay không (?) Bố tôi đã quyết định sau này ông mất sẽ chôn cất ông ở Bến Tre, bên phần đất nhà vợ kế. Mộ phần của mẹ tôi cũng được ông đem vào để ở đó từ mấy năm qua. Chị Phương thì giỏi lắm vài năm nữa cũng mãn hạn tù. Việc trở lại nơi đây chắc còn lâu lắm.
Bác dâu cũng đứng dậy tiễn tôi về. Tôi quay lại ôm chặt lấy bác, có thể lần này là lần cuối, nghẹn ngào:
- Thôi, cháu đi đây.
Và tôi leo vội lên đằng sau xe cho thằng cháu vù đi, kẻo đứng quyến luyến một hồi thì tôi sẽ òa lên khóc mất. Nó luồn lách trên con đường làng và hỏi tôi:
- Cô muốn thăm nhà bác cả cháu trước hay nhà bác Tro?
- Nhà ai tiện đường thì tấp vào cũng được.
- Vậy mình đến nhà bác cả, nhà bác ngay chỗ này.
Chiếc xe dừng lại ngay trong sân nhà, một đàn chó lao ra sủa ong ỏng. Tôi sợ điếng hồn, có lẽ tôi bị chó dữ ám ảnh từ thủa nhỏ nên cứ nghe tiếng chó sủa là người run lên bần bật. Chị dâu cả bước ra sua chó. Các cháu đi làm chưa về, còn anh cả thì đang còn rong ruổi mãi tận miền Nam. Anh vào Sài Gòn dự đám cưới của cô cháu gái, và còn ghé xuống Bến Tre thăm chú thím ( tức bố tôi) nên chưa về. Nhà chỉ có mình chị dâu cả nên tôi ghé vào thăm hỏi chị ít phút rồi hai cô cháu lại lên đường tạt qua thăm chị Tro. Trời đã bắt đầu sập tối, con đường làng tối thui. Thằng cháu chạy theo quán tính dưới bòng đèn xe của chính mình đưa tôi đến một căn nhà khác, nhà của chị Tro.
Chị Tro là con gái thứ ba của bác tôi. Hồi còn nhỏ tôi được gặp chị hai lần. Giờ đây, thú thật tôi đã quên mất gương mặt chị tròn méo ra sao(?)
Cô cháu tôi đến nhà thì chị Tro vẫn còn ở ngoài đồng chưa về, chỉ có hai đứa nhỏ tha thẩn chơi ngoài đầu ngõ. Thấy thằng em con cậu đi chung với một bà lạ mặt, hai đứa cứ trố mắt lên nhìn. Tôi túm lấy đứa lớn nhất kêu nó ra đồng gọi mẹ về.
Tôi leo lên bậc tam cấp để bước vào nhà. Ở cái làng này, nhà nào nhà nấy làm nền móng cao chót vót (chắc là để chống lụt). Cô cháu tôi vào gian phòng khách ngồi chờ. Gian phòng trông nghèo nàn chả có gì ngoài một bộ bàn ghế bằng gỗ mộc và cái tủ thờ tổ tiên cũ sì. Anh Tro vẫn đang còn ở Sài Gòn chưa về, cũng như anh Cả, anh Tro vào trong đó gả chồng cho cô con gái đầu lòng. Tôi có dịp nói chuyện với anh cách đây vài bữa (hôm đưa dâu sang nhà trai), và đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp mặt ông anh rể của mình.
Anh chị sinh được 4 đứa con, 2 đứa lớn đều vô Sài Gòn sinh sống nên thi thoảng về Việt Nam thăm gia đình tôi đều gặp mặt chúng nó. Chị và 2 đứa nhỏ này không vào dự lễ cưới nên tiện việc về quê, tôi ghé thăm chị một lát.
Tôi ngồi chờ độ mười phút thì một thiếu phụ mảnh mai đầu tóc rối bù, quần xắn lên tận bẹn, chân cẳng dính đầy sình tiến về cái giếng nước gần gian nhà bếp. Chị vục nước dưới giếng xối ào ào để gột rửa sình bùn còn vướng đầy trên hai bắp chân. Tôi nhìn sao xót xa quá ! Đến giờ này mà chị tôi, người phụ nữ miền quê chân chất hàng ngày vẫn phải bán lưng cho trời bán mặt cho đất, làm lụng vất vả để kiếm kế sinh nhai. Anh Tro có nghề đục đá (tức là loại đá hoa cương dùng để làm bếp hay tô tường nhà). Anh lên tuốt miền ngược để kiếm ăn, nhưng coi bộ cái nghề của anh không thịnh hành cho người dân miền núi nên lỗ lã, nợ nần chồng chất. Chị Tro chẳng biết gì ngoài chăn trâu, làm ruộng. Bởi vậy, tuy siêng năng cần cù nhưng anh chị vẫn không kiếm đủ miếng ăn nuôi gia đình. Con bé lớn được dì Út đưa vào Sài Gòn nuôi giúp, Con bé em cũng tiếp bước chân chị theo sau.
Chị Do vén lại mái tóc bới lên cho gọn ghẽ, đồng thời chị buông hai ống quần nãy giờ vẫn xắn lên tận bẹn xuống và bước lên trên nhà. Nhìn thấy tôi, chị hỏi liền:
- Dì ra hồi mô? Đám cưới trong nớ ra răng? (dì ra hồi nào? Đán cưới trong đó ra sao?)
Tôi trố mắt nhìn chị, không trả lời câu hỏi nhưng miệng thì thốt lên:
- Ơ... sao chị giống bố em thế!
Chị Do cười, hai hàm răng trắng đều như hai hàng bắp, đó là điểm nổi bật nhất trên gương mặt chị. Còn lại thì ôi thôi xấu chi mà xấu. Cũng may đứa con gái lớn giống hệt bố, nên mới xinh đẹp hơn người.
Năm 2002, một lần tôi về thăm gia đình. Chị Út Giang đưa con bé lớn (Lụa) lên nhà chào tôi. Lần đầu tiên nhìn thấy cháu, tôi giật thột cả mình, thốt lên:
Ơ! Bên Nội nhà mình lọt đâu ra con bé xinh quá vậy ta !
Lụa cười bẽn lẽn lộ chiếc răng khểnh làm tăng thêm vẻ đẹp dịu dàng thuần Á Đông của cô bé. Với gương mặt mộc không trang điểm mà tôi thấy còn mát mắt hơn cả mấy cô hoa hậu mặt chét đầy son phấn trên các tờ tạp chí hay trên vô tuyến truyền hình. Tôi ngắm nhìn con bé một lượt, nó đúng là hình ảnh của tôi hồi 17 năm về trước. Cái ngày mới mất mẹ theo chân bố vào Sài Gòn ở đợ cho bà dì. Giống như Lụa bây giờ, chân cẳng đang còn dính đầy phèn chua, phải gột rửa vài năm mới hết.
Những ngày sau đó, tôi luôn bị nhan sắc con bé ám ảnh. Vũ khí lợi hại nhất của người phụ nữ là nhan sắc, nó cũng chính là chìa khóa để mở cửa cho các cô gái xinh đẹp từ nghèo hèn bước lên địa vị cao sang. Tôi không hy vọng cháu mình trở thành bà này bà nọ, nhưng mong rằng nó kiếm được anh chồng đàng hoàng để an nhàn tấm thân, chứ đừng giống như mẹ lội sình làm ruộng, hay như bố phải đập đá chan chát tối ngày. Thời buổi "mèo mả gà đồng" nhan nhản như giặc Nguyên, kiếm được một tấm chồng tử tế, nói thật, khó cứ như mò kim đáy bể.
Một tuần lễ sau, tôi cho gọi Lụa lên nhà bàn chuyện
|
|