|
Post by NhiHa on May 12, 2010 6:26:29 GMT 9
Cần sa Là một trong những cây cỏ dùng làm thuốc giải trí gây ra nhiều tranh luận nhất kể từ trước tới nay. Trước và cho tới gần đây vẫn có những phong trào đòi hợp pháp hóa việc dùng cần sa ở Hoa Kỳ. Mới đây trong tờ báo y học của Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (JAMA), hai Bác Sĩ Lester Grinsthingy và James Bakalar, tác giả sách “Marijuana, The Forbidden Medicine” (Cần Sa, Một Vị Thuốc Bị Cấm Đoán) đã duyệt xét dược tính của cần sa và xin tái cứu xét việc kê toa cho hút cần sa (Marijuana as medicine, JAMA 273:185-186, 1995). Nghĩa là hút cần sa theo toa bác sĩ. Trước khi xem cần sa có phải thực sự là một vị thuốc hữu ích trong việc trị liệu hay không, chúng ta hãy liếc mắt nhìn qua vài khía cạnh khác của cần sa. Tại sao gọi là cần sa? Cần sa có thể do Phạn ngữ “ganja” mà ra, vì nguồn cội nguyên thủy của cần sa mọc ở vùng Caucasus, Ba Tư (Persia) và ở vùng đồi núi Bắc Ấn Độ. Sau đó cần sa lan tràn ra khắp nơi trên mặt trái đất. Trước đây người ta đã cho là cần sa ở vùng này mới thật sự là hảo hạng, vì khí hậu nóng giúp cho sự phát triển mạnh của hoạt chất cần sa (cây có nhiều nhựa). Ganja nghĩa là gì? Theo chúng tôi, ganja gần cận với Phạn ngữ gal-, Mông cổ gar, có nghĩa là tay (tổng quát số ít gar-un). Phạn ngữ garut, gal (danh từ) là wing (cánh; cánh của chim tương đương với tay của người) và theo g=h, gần cận với Phạn ngữ harana (hand; taking; seizing)… Ganja hàm nghĩa là tay, bàn tay. Được gọi như vậy vì lá cần sa xòe ra như bàn tay xòe ngón. Theo g=h, gan(ja)= han = hand. Theo chuyển hóa g=c (gà=cà, góc = corner) ta có ganja = canja = cần sa. Từ cần gần cận với chân (đọc thêm hơi vào) và cẳng. Chân cẳng là chuyển hóa lệch của tay vì tay, chân, cẳng, cánh, cành như nhau, tất cả Hán Việt đều gọi chung là chi. Việt ngữ “cần sa” cũng có thể là mấy chữ đầu của tên khoa học CANnabis SAtiva mà ra. Trường hợp này giống như người miền Trung Nam Việt Nam gọi quả trám là trái cà na là do lấy từ mấy chữ đầu của canarium (trám). Từ marijuana phổ thông ở Hoa Kỳ ngày nay có nghĩa là nàng Maria và chàng Juana (Juan). Có lẽ được gọi như thế vì người ta tin marijuana là một thứ thuốc làm cường dương, cường dục, giúp Chàng và Nàng yêu nhau thắm thiết. Nếu quý phái thì Mari và Juan là Cậu Ấm Cô Chiêu, trai anh hùng, gái thuyền quyên. Còn nếu là dân đứng đường đứng chợ thì Mari và Juan là trai giang hồ, gái tứ chiếng, Thằng Ngô Con Đĩ. Còn tên khoa học, có người giải thích sở dĩ cần sa được gọi cannabalis vì gần cận với từ cannibal, cannibalism, ăn thịt người, vì các tác giả Tây phương đã liên hệ việc một số thổ dân ghiền cần sa và có tục ăn thịt người. Tại Trung Đông, đọt cần sa dùng phơi khô hay trích lấy nhựa gọi là hashish. Kẻ “phi” hashish đâm ra lì lợm và có máu sát nhân, giết người không biết sợ. Hashish được dùng làm “thuốc liều” cho những kẻ giết người, binh lính. Hashishism cho ra từ assassin (ám sát, giết người). Người Trung Hoa gọi cần sa là đại ma. Vài hàng về thảo dược học Cần sa là cây mọc quanh năm, cao từ 4 đến 8 bộ hay cao hơn, thẳng đứng, chia nhánh, cọng có góc cạnh. Lá xen kẽ hay mọc đối tẻ ra như ngón tay, có từ 5 đến 7 “ngón” hình mũi mác có răng cưa. Hoa trổ ở nách. Quả hình trứng có một hạt. Ngày nay có loại cần sa lai giống không có hạt gọi là sinsemillas (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là không có hột), giống này chứa tới 13% hoạt chất (bình thường chỉ có từ 2 đến 6 %). Cây có lông tơ mịn khó thấy bằng mắt thường và sờ có cảm giác dinh dính. Cần sa đã được con người dùng từ thượng cổ. Cần sa được liệt kê trong danh sách dược thảo của Thần Nông (!) từ năm 2737 trước Tây Lịch. Người Scyth cổ thời đã dùng trong các tang lễ. Hột cần sa thấy trong các lọ chôn cất từ thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch. Các phần của cây đều được dùng trong Hoa y. Hột cần sa dùng như chất bổ dưỡng, điều kinh, nhuận trường, trị đau, lợi tiểu, trị sán lãi, sán gan, các chứng hậu sản, mửa bất trị và dùng ngoại khoa chữa lở loét, thương tích, và chốc đầu. Chữa đau bụng, ung thư, lở bao tử, trị bán đầu thống, đau dây thần kinh (neuralgia) và phong thấp (Crevost & Pételot 37: 1000). Hột còn làm thuốc chữa sa dạ con, trợ sinh và trị sốt (Foucaud A., 1953, Contribution à l’étude des plantes medicales du Nord-Vietnam, Trav. Lab. Mat. Méd. Pharm. Gal. Fac. Pharm. Paris 38 (1) p.36.) Tây phương từ lâu đã dùng làm thuốc trị mất ngủ, đau nhức và làm giảm bứt rứt. Trong U.S Dispensatory, 1918, cần sa được liệt kê như chất ma túy (narcotic) và thuốc chống co bóp (antispamodic). Cần sa dùng để an thần, chữa ý bệnh (hysteria), ưu uất, âu sầu và nhược thần kinh (neurasthenia). Tính chất chống đau và xoa dịu của nó giống như á phiện nhưng hơn á phiện ở chỗ là nó không gây ra táo bón và làm mất ngon miệng (người hút thuốc phiện còm nhom vì không thích ăn). Dùng như thuốc chống co bóp, trị đau rút trong việc chữa trị các chứng như đau nhức dây thần kinh, các chứng ho rụt cổ như ho gà, suyễn; phong đòn gánh, chứng sợ nước và các chứng đau do co rút. Mặc dầu cần sa đã được biết đến từ thời thượng cổ, nhưng mãi cho tới năm 1964, hoạt chất chính của cần sa là delta-9-tetrahydro-cannabinol (THC) mới được nhận diện và tổng hợp. Cần sa chứa tổng cộng 241 hóa chất. Trong đó có 61 chất giống THC gọi là cannabinoids. Cần sa, một tệ trạng xã hội Cần sa là một loại cấm dược được dùng nhiều nhất ở Hoa Kỳ, cao điểm là cuối thập niên 60 đầu 70, lúc chiến tranh Việt Mỹ cũng đang ở cao điểm. Cần sa có lẽ cũng đã “tham chiến” trong cuộc chiến này. Tổng Thống Clinton, bị một số người coi là kẻ “trốn lính”, cũng đã từng thú nhận là đã hút cần sa nhưng chỉ “hút” và “phà” khói ra chứ không hít vào phổi khi còn là sinh viên vào thuở đó. Lúc đó có tới 50 triệu người Mỹ hút cần sa ít nhất là một lần. Tỉ số cao nhất ở giới thành niên tuổi từ 18 đến 25, chiếm tới 21 triệu, kế tiếp là giới vị thành niên tuổi từ 12 đến 17, chiếm 7 triệu người. Lá cần sa được dùng làm cờ, phướn, vật biểu cho trào lưu “phản văn hóa” (counter culture), chống cưỡng bách (anti-authoritarianism) và chối bỏ vật chất, duy vật (materialism). Mặc dầu ngày nay con số đã giảm bớt nhưng giới học sinh trung học Mỹ một số lớn vẫn còn hút cần sa hàng ngày. Hút cần sa đã làm cho sự học hành bê bết. Số học sinh bỏ học ngang hay không vào đại học gấp đôi so với những sinh viên không dùng cần sa. Những học sinh ghiền cần sa thường ghiền nghiện các thứ khác nữa như uống bia, rượu. Năm 1982, số cần sa thu hoạch hàng năm ước tính là 10 tỉ Mỹ Kim. Theo đúng định nghĩa danh từ y học thì cần sa không phải thật sự là một chất ma túy “narcotic”, không phải là “chất sinh ra ảo giác” (hallucinogen). Cần sa không gây ra “ghiền nghiện” (addicting), cũng không gây ra ảo giác ngoại trừ khi dùng với một liều lượng thật cao. Tuy nhiên, những nghiên cứu khác chứng minh rõ rằng cần sa có tác dụng trong một tầm rộng lớn về tâm lý và sinh học, một số trong đó, ít nhất trong vài điều kiện làm tổn hại đến sức khỏe con người. Tác Dụng Dược Học Khi khám bệnh một người, bác sĩ khó có thể biết người đó ghiền cần sa hay không dù ngay cả trong trường hợp người đó đã dùng kinh niên. Những người dùng dài lâu từ 10 đến 30 năm thường chỉ có những triệu chứng khó chịu về đường ruột và xuống cân. Hoạt chất THC trong cần sa có những tác dụng như sau: - Tim mạch: Làm gia tăng mạch từ 30 đến 60%, làm tăng lưu lượng tim, nhưng ngược lại, làm giảm lưu thông máu ngoại biên (khiến tay chân lạnh, tê…). - Hô hấp: Làm giảm trao đổi không khí trong phổi tạm thời; dùng kinh niên cuống phổi bị co thắt gây khó thở; làm nở cuống phổi ngay khi mới hút (khiến người ghiền kinh niên thấy cần hút để có cảm giác dễ thở). - Máu: Dùng kinh niên đôi khi thấy suy giảm việc máu lấy oxygen. - Miễn nhiễm: Đôi khi thấy có sự kềm hãm hoạt động bạch huyết cầu đơn hạch T (T lymphocytes). - Nội tiết: Làm giảm lượng kích thích tố nam (testosterone) trong máu khi dùng lượng cao. - Mắt: Nở hay co con ngươi; giảm áp suất trong mắt. - Thân nhiệt: Đôi khi thấy giảm thân nhiệt. - Dinh dưỡng: Mới dùng tăng ngon miệng; lên ký vì ít hoạt động. - Thần kinh: Đôi khi thấy thay đổi não điện đồ EEG (Electroencephalogram); tăng hoạt động hệ thần kinh đối giao cảm và giảm hệ giao cảm. - Tâm thần: Chưa có sự đồng ý thống nhất nào rõ ràng về hậu quả của cần sa. Có khảo cứu cho rằng cần sa làm hư tổn nhiệm vụ tương đối của hai bán cầu não về nhận thức. Cần sa tinh tế hơn rượu, dùng lâu dài, óc sẽ khó tránh khỏi bị độc tính của cần sa. - Sự diễn đạt vận động và trí não: Khảo cứu cho thấy ở những người mới dùng hay dùng kinh niên dù với lượng nhỏ cũng có sự rối loạn về điều hợp vận động. Tùy theo lượng dùng, cơ thể mất quân bằng và sử dụng vụng về tay và bàn tay. Phản ứng với các kích thích âm thanh và ánh sáng trì trệ. Thời gian sinh học của người dùng cần sa rối loạn. Thời gian kéo lê thê. Nói chuyện không đâu vào đâu với những ngôn từ và ý tưởng trên trời dưới biển… Và còn nhiều thứ còn đang tranh cãi. Cần sa và tình dục Cần sa dù sao cũng được coi là chất hưng phấn (euphoriant drug). Freud đã nói: “Óc phục dịch cho tuyến sinh dục”. Y học ngày nay đã chứng minh lời nói này. Những cơ chế sinh hóa và sinh lý học của não “thảo chương” (program) các chức năng tình dục. Đồi hạ thalam trên não (hypothalamus) kiểm soát việc tiết ra các kích thích tố hướng động tuyến sinh dục gonodatrophins ở tuyến yên (pituitary gland) và các “trung tâm khoái lạc” (pleasure center) của bó giữa não trước (medial forebrain bundle). Các chất hưng phấn tâm động (psychoactive) tác dụng lên trên trung tâm khoái lạc. Từ cổ thời ở Ấn Độ và các quốc gia Hồi Giáo, như trên đã nói, đàn ông cho rằng cần sa làm gia tăng dũng tính, hùng tính (đó là lý do đàn bà ở các xứ này cấm không được dùng cần sa). Ngày nay những người dùng cần sa cho là cần sa làm tăng sự diễn xuất tình dục và khoái lạc. Điều này có thể giải thích, THC trong cần sa là một chất hưng phấn kích thích lên trung tâm khoái lạc trên óc (ở người thường trung tâm này cũng được kích thích khi làm tình). THC làm cho sự vận truyền cảm giác chậm lại khiến cho người dùng có cảm giác chủ quan là cực khoái được lâu dài. Tuy nhiên chưa có bằng chứng nào xác định điều này. THC không những chỉ tác dụng lên trung tâm khoái lạc mà còn tác dụng lên nhiều phần cảm giác khác của não tùy theo tâm thái của người dùng. Nếu lúc đó người dùng đang trong lúc lãng mạn, thanh thản trong một khung cảnh đầm ấm, thoải mái, thú vị, thì có thể sẽ thấy khoái cảm gia tăng, trái ngược lại, có thể sẽ cảm thấy nghi kỵ, lo âu và bất an. Tác dụng cường dương chỉ thấy khi dùng liều nhỏ. Với liều lớn, cần sa có tác dụng như rượu, vừa kích thích vừa hủy diệt: kích thích sự thèm muốn nhưng làm mất đi sự diễn xuất. Những người nghiền rượu và cần sa, nghĩ và nói rất nhiều mà làm chẳng tới bao nhiêu. Mặc dầu thỉnh thoảng dùng cần sa có thể làm gia tăng nhục cảm chút đỉnh, nhưng khi dùng đã thành thói quen rồi, nó sẽ đưa đến những hậu quả trầm trọng về chức năng hoạt động của cơ quan sinh dục nam cũng như nữ. - Tác dụng trên chức năng sinh dục nam: Các kết quả khảo nghiệm cho thấy dùng cần sa hàng ngày làm giảm lượng cũng như tính chất của tinh trùng. Điều này chứng minh những gì Galen từ thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch đã nói: “cần sa làm khô cạn tinh khí”. - Tác dụng trên chức năng sinh dục nữ: Như đã biết, điều hòa sự trưởng thành, rụng trứng và kinh kỳ là do đồi hạ thalam điều khiển, khiến tuyến yên tiết ra các kích thích tố gonadotrophins. Một lượng nhỏ THC cũng đã ảnh hưởng lên sự điều hòa sự tiết kích thích tố vừa kể. Kết quả của sự xáo trộn kích thích tố này đưa đến chứng kinh nguyệt bất thường và không rụng trứng. Ở chuột và khỉ, cần sa còn có tác dụng độc trên phôi thai làm thai nhi chết khi sinh ra. Với trẻ em bú sữa mẹ, cần sa có thể sang cơ thể trẻ qua sữa mẹ. Tóm lại, cần sa không thật sự là một chất cường dục. Hơn thế, nó còn gây những hậu quả tai hại. Nhất là ở giới trẻ tuổi dậy thì, cần sa có thể làm xáo trộn kích thích tố đang thời kỳ khởi sự hoạt động. Cần sa là một vị thuốc? Như đã nói, từ cổ thời, Đông Tây đã dùng cần sa làm vị thuốc. Vấn đề mới đây được nêu ra ở Hoa Kỳ là xin tái cứu xét để bác sĩ có thể viết toa cho dùng cần sa chữa bệnh. Năm 1970, Điều Lệ Về Chất Kiểm Soát Đồng Nhất (Uniform Controlled Substances Act) xếp cần sa vào Bảng I (Schedule I), coi cần sa là chất có tiềm năng cao gây ra lạm dụng, thiếu các chỉ thị y học khả dĩ chấp nhận được và coi như không an toàn. Năm 1972, Tổ Chức Quốc gia Cải cách Luật Cần sa (National Organization for the Reform of Marijuana Laws) đòi đổi qua bảng II, thay đổi này giúp bác sĩ viết toa hợp pháp. Năm 1988, Drug Enforcement Administration (DEA) cho rằng có thể dùng cần sa trong vài trường hợp đặc biệt dưới sự giám sát y học nhưng vận động đổi qua bảng II bị đánh bại vào năm 1989. Hiện nay có một thể dạng của THC bán theo toa để trị ói mửa và làm ngon miệng là chất dronabinol với nhãn hiệu Marinol (gồm có delta-9-THC trong dầu mè dưới dạng viên bọc). Sau đây là những tác dụng của Marinol: 1. Trị nôn mửa: Y giới ngày nay đã thừa nhận là cần sa làm giảm buồn nôn và ói mửa ở những người ung thư đang được chữa bằng hóa chất. Năm 1985, Cơ Quan Kiểm Thực Dược (FDA) đã chấp thuận cho dùng Marinol. Những người bệnh ung thư trị bằng hoá chất hay bị ói mửa; có người ói mửa đến độ gẫy xương sườn, rách thực quản và xuống cân nguy tới tính mạng (vì ung thư vốn đã làm mất cân). Hiện nay có những thứ thuốc trị ói mửa như prochlorperazine (Compazzine) tuy hữu ích nhưng không trăm phần trăm hiệu nghiệm. Hiệu nghiệm hơn, có thuốc ondansetron (Zofran), xuất hiện ngoài thị trường thời gian gần đây. Trong trường hợp các thuốc này vô hiệu quả, phải cần tới Marinol. Tuy nhiên nếu bệnh nhân ói mửa nặng, thuốc viên Marinol trở thành vô dụng. Bác sĩ nghĩ tới việc cho bệnh nhân hút cần sa. Qua đường phổi tránh khỏi bị ói mửa ra, lượng chất THC trong cần sa hít vào sẽ đáng tin cậy hơn. Năm 1990, Doblin và Kleiman so sánh việc hút cần sa và uống Marinol trị ói mửa. Hai phần ba bác sĩ tham dự báo cáo là hút cần sa có hiệu quả 50% trường hợp, trong khi chỉ có 56% bác sĩ báo cáo là có tác dụng giống như uống Marinol. 44% bác sĩ chuyên khoa về ung thư thú nhận rằng họ đã lén khuyên bệnh nhân của họ tìm đến cần sa để làm giảm bớt ói mửa. 2. Trị cao áp suất mắt hay cườm xanh (glaucoma): Glaucoma là chứng bệnh cao áp suất trong mắt mà có người đã dịch là cườm xanh. Người bị chứng cườm xanh lâu ngày tròng mắt cứng và có màu xanh lá non hình vòng (vì thế có tên là cườm xanh). Như trên đã biết, cần sa có tính chất làm giảm áp suất trong mắt. Thử cho người bệnh glaucoma hút cần sa thấy áp suất mắt giảm xuống kéo dài khoảng 4-5 giờ. Trong sách của Grinsthingy và Bakalar nêu ra là nếu bệnh nhân bị nặng và bị các phản ứng phụ của các thuốc hiện có để trị glaucoma, cần sa có thể là một giải pháp. Tuy nhiên tác dụng hạ áp suất mắt của cần sa còn cần nhiều khảo cứu và thời gian quan sát nữa. Mặt khác, ngày nay với phẫu thuật dùng tia Laser trị glaucoma sẽ không cần tới cần sa, một vị thuốc có nhiều độc hại. 3. Giúp ăn ngon miệng: Sách vở ghi nhận rằng những kẻ ghiền cần sa hay ăn vặt, nhấm nháp luôn mồm. Cần sa đã được ghi nhận là làm đói bụng và thèm ăn. Hiện nay có vài thứ thuốc trị bệnh được dùng “lệch lạc” đi để chữa chứng ăn mất ngon miệng như một vài thứ thuốc trị ưu uất, ví dụ amitryptyline (Elavil), làm cho lên cân. Tuy nhiên các loại thuốc này có những phản ứng phụ và chưa được chính thức khảo cứu đàng hoàng trong việc dùng chữa chứng xuống cân vì không ngon miệng. Trong những trường hợp bị gầy mòn như trong bệnh AIDS mà ở châu Phi dân dã gọi là chứng “sài mòn”(!) do mất ngon miệng không ăn được. Nhiều khảo cứu cho người bị AIDS hút cần sa. Bệnh nhân báo cáo là họ thấy đói và thèm ăn, ít ra cũng là về phương diện chủ quan. Những người bị ung thư đến giai đoạn chót cũng bị mất cân vì không còn muốn ăn nữa. Tuy nhiên còn cần phải nhiều khảo cứu nữa mới có thể rút tỉa ra được những kết quả khả dĩ có thể tin cậy được. 4. Làm dãn bắp thịt: Co rút bắt thịt vân và trơn tạo ra đau đớn như khi bị vọp bẻ, bị thương tổn tủy sống, đau bụng thường, đau bụng đẻ… Những thuốc chống co rút bắp thịt hiện có nhiều khi vô hiệu quả. Hai tác giả trên nêu ra việc sử dụng cần sa trong các trường hợp đau đớn do co rút bắp thịt quá độ. Năm 1990, các bác sĩ thần kinh Thụy-sĩ tường trình là THC làm giảm đáng kể sự co rút bắp thịt ở những người bị liệt bại. Ngoài những dược tính trên cần sa còn được đề nghị dùng trong các bệnh khác như multiple sclerosis, động kinh, bán đầu thống (migraine), đau nhức kinh niên… Dựa vào những dược tính trên hai tác giả Gristhingy và Bakalar xin tái cứu xét cần sa hầu các bác sĩ có thể kê toa hợp pháp. Dĩ nhiên đây là một vấn đề liên hệ tới đạo lý, xã hội, luật pháp…, còn nhiều điều phải xét tới và cân nhắc. Nhưng hiện nay nhiều nơi ở Hoa Kỳ, trong đó có California, đã hợp pháp hóa cần sa trong một vài lãnh vực y học. Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 7:57:32 GMT 9
Hút thuốc, nguyên nhân chủ yếu của các ca tử vong có thể tránh Vietsciences-June Simms - VOA 20/03/2010
Mới đây ông Barack Obama đã được khám sức khỏe định kỳ theo như quy định đối với người đang nắm chức vụ Tổng thống Mỹ. Các bác sĩ tường trình rằng tình trạng sức khỏe của ông Obama rất khả quan, và dựa trên kết quả, ông Obama sẽ tiếp tục duy trì tình trạng sức khỏe tốt trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Tuy nhiên, bác sĩ cũng đưa ra một số lời khuyên để Tổng thống Obama duy trì sức khỏe trong tình trạng tối ưu. Một trong những lời khuyên ấy là ông Obama nên tiếp tục cố gắng bỏ hẳn thói quen hút thuốc. Lời khuyên của các bác sĩ cho thấy Tổng thống Obama vẫn chưa bỏ được thuốc lá, như hơn 1 tỉ người trên thế giới hiện nay, bất chấp những khuyến cáo thường xuyên của các chuyên gia y tế về những liên hệ giữa thuốc lá với bệnh tật. Tạp chí Khoa Học và Đời Sống tuần này xin được dành để gửi đến quý vị bài tường trình của thông tín viên June Simms của VOA về đề tài này.
Mỗi năm có đến 5 triệu người chết vì hút thuốc lá. Các chuyên gia nói hút thuốc lá là nguyên nhân chủ yếu gây ra các ca tử vong có thể tránh được, và là nguyên nhân thứ nhì gây tử vong, sau ung thư.
Hút thuốc còn là nguyên nhân chính gây bệnh ung thư. Các chuyên gia nói có thể tránh 40% các ca ung thư, bằng cách tránh hút thuốc và sử dụng các sản phẩm thuốc lá khác.
Thuốc lá còn là nguyên nhân gây ra 42% các ca bệnh về đường hô hấp, kể cả bệnh suyễn, viêm cuống phổi và khí thũng. Hút thuốc còn là nguyên nhân gây một số bệnh tim, như nghẹt động mạch.
Giới nghiên cứu không ngừng đưa ra những chứng cớ vì sao những người hút thuốc nên bỏ thói quen này. Một cuộc nghiên cứu mới đây của Đại học California ở San Francisco kết luận rằng những người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao gấp hai lần, so với những người không hút thuốc. Alzheimer là một chứng bệnh làm suy yếu trí nhớ và khả năng suy luận.
Trong một cuộc nghiên cứu trước đó, 7000 người đã được quan sát trong thời gian trung bình 7 năm. Các đối tượng đều trong lứa tuổi từ 55 trở lên. Những người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh mất trí nhớ, cao hơn 50% so với những người chưa từng hút thuốc, hoặc đã bỏ thuốc.
Các cuộc nghiên cứu khác cũng đã liên kết thói quen hút thuốc với bệnh Amyotrophic Lateral Sclerosis, gọi tắt là ALS, một chứng bệnh nguy hiểm ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh và các cơ bắp. Hồi năm ngoái, một cuộc nghiên cứu trong tạp chí Thần kinh học cho thấy người hút thuốc có thể phát triển bệnh ALS, và đã có một số chứng cớ cho thấy thói quen này có thể là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh ALS.
Hút thuốc cũng tăng nguy cơ phát triển bệnh thoái hóa thị giác liên hệ tới tuổi tác. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh mù nơi thành phần trên 50 tuổi.
Mới đây các nhà nghiên cứu thuộc Đại học California ở Los Angeles đã thực hiện một cuộc nghiên cứu để xác định xem hút thuốc có ảnh hưởng tới nguy cơ mắc chứng thoái hóa thị giác khi về già hay không.
Trong số gần 2000 phụ nữ được chọn làm đối tượng nghiên cứu, có 4% hút thuốc lá. Mỗi phụ nữ được chụp hình võng mạc mắt vào năm 78 tuổi. Các nhà nghiên cứu so sánh tấm ảnh này với ảnh chụp 5 năm sau, khi đối tượng lên 83 tuổi.
Kết quả được đăng trong Tạp chí Nhãn Khoa của Hoa Kỳ, cho thấy nơi các phụ nữ hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh thoái hóa thị giác cao hơn 11% so với các phụ nữ khác. Đối với phụ nữ trên 80, những người hút thuốc có nguy cơ phát triển bệnh thoái hóa thị giác cao gấp 5 lần rưỡi những người không hút thuốc.
Những người hút thuốc không chỉ làm hại sức khỏe của chính mình, mà còn phương hại đến sức khỏe của những người chung quanh. Tổ chức Y tế Thế giới nói ước lượng mỗi năm 600.000 người không hút thuốc tử vong vì hít phải khói thuốc một cách gián tiếp.
Liên đoàn Quốc tế Chống Ung Thư nói có khoảng 700 triệu trẻ em trên thế giới bị buộc phải hít thở trong một bầu không khí đầy khói thuốc lá. Những bà mẹ đang mang thai mà hút thuốc có nguy cơ cao sinh con thiếu ký. Và những đứa trẻ này khi lớn lên có thể bị ảnh hưởng tới sức khỏe.
Tổ chức Y tế Thế giới nói bất chấp những lời khuyến cáo, hiện vẫn còn 1 tỉ 300 triệu người hút thuốc mỗi ngày. Dự kiến con số này sẽ tăng lên khoảng 1 tỉ 700 triệu trước năm 2025. Tỷ lệ hút thuốc đã giảm tại Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng đang tăng tại những nơi khác.
Vẫn theo Tổ chức Y tế Thế giới, 84% những người hút thuốc cư ngụ tại các nước đang phát triển. Các nước vùng tây Thái Bình Dương có tỷ lệ hút thuốc cao nhất. 1 phần 3 tất cả những người hút thuốc trên thế giới sống tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Khu vực này có số đàn ông hút thuốc cao nhất thế giới, và cũng là nơi tỷ lệ phụ nữ và trẻ em hút thuốc tăng nhanh nhất. Hệ quả là trong khu vực này mỗi ngày, có hơn 3000 người chết vì các bệnh liên quan tới hút thuốc.
Các nhà khoa học đã phát hiện hơn 4000 chất hóa học trong khói thuốc lá, trong số này, có ít nhất 250 loại được coi là có hại cho sức khỏe con người, 50 chất có thể gây bệnh ung thư. Các hóa chất trong khói thuốc gồm cả arsenic, và khói thuốc còn chứa formaldehyde, một chất lỏng được sử dụng để ướp xác.
Nhưng độc hại nhất vẫn là nicotine, một chất độc tìm thấy trong lá thuốc lá. Nó tạo cảm giác sảng khoái và gây nghiện, làm những người nghiện rất khó bỏ thuốc. Các cuộc nghiên cứu cho thấy đặc tính gây nghiện của nicotine còn mạnh hơn cả rượu và cocaine. Các chuyên gia nói nếu sử dụng với số lượng lớn, nicotine có thể gây tử vong vì nó làm tê liệt các cơ bắp của hệ thống hô hấp.
Thế có cách nào hút thuốc mà không phương hại đến sức khỏe không? Dựa trên đa số các cuộc nghiên cứu về đề tài này, thì câu trả lời dứt khoát là Không. Hút thuốc, dù chỉ vài điếu mỗi ngày, vẫn nguy hiểm. Tuy nhiên phần lớn những ảnh hưởng tai hại của thuốc lá có thể được lật ngược, nếu ta ngưng hút thuốc. Chính vì lý do này mà các chuyên gia y tế khuyên mọi người nên bỏ hẳn thuốc lá.
Viện Nghiên cứu bệnh Ung thư Hoa Kỳ nói áp huyết sẽ trở lại bình thường 20 phút sau khi một người hút điếu thuốc cuối cùng. Mức carbon monoxide, thán khí, trong máu trở lại bình thường sau 8 tiếng đồng hồ. Nguy cơ lên cơn đau tim giảm bớt sau 1 ngày. Và sau một năm không hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh tim đối với một người từng hút thuốc lá thấp hơn 50% so với những người tiếp tục hút thuốc.
Có một số sản phẩm trên thị trường có thể giúp một số người bớt lệ thuộc vào thuốc lá. Chantix và Zyban là hai loại thuốc đã chứng tỏ có hiệu quả trong việc giúp những người nghiện bỏ thuốc lá. Hai loại thuốc này không chứa chất nicotine. Chantix tác động đến những protein tiếp nhận nicotine trong não bộ để giảm thiểu cơn nghiền. Còn thuốc Zyban thì tăng lượng dopamine trong não bộ. Dopamine là một chất hóa học gây cảm giác sảng khoái.
Một số người đã bỏ thuốc khuyên những người muốn bỏ thuốc hãy tránh xa rượu và thuốc lá, vì hai món này thường đi đôi với nhau, và hãy lánh xa những người bạn còn hút thuốc. Hãy đi bộ khi lên cơn thèm thuốc lá. Bỏ thuốc lá không dễ, nhưng bác sĩ khuyên bệnh nhân rằng bỏ thuốc là một cách để dành lại quyền kiểm soát sức khỏe và cuộc sống của chính mình.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 6:08:03 GMT 9
Ginkgo: một cây hóa thạch sống Vietsciences- Võ Quang Yến Bản thể cây phải chăng một cội Tự mình chia chẻ làm thành đôi Hay cây là hai tự tìm chọn Để mọi người xem như một thôi.dịch ý thơ Johann Wolfgang von Goethe (1815)Sam là một động vật sống cách đây 500 triệu năm, trong rất lâu chỉ được biết dưới hình thức hóa thạch, phải đợi đến đầu thế kỷ 17 mới bắt gặp dưới biển. Sự tích cây ginkgo cũng ly kỳ không kém : vết ấn lá cây đã được tìm ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ thứ hai, nghĩa là trước cả những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có nhiều loài ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa chất, tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột cây, chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm) : Ginkgo adiantoides và Ginkgo gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm, ginkgo không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất tích nó. Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy khác là cây hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những quả xem như là cổ nhất, làm dây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng vạn loài cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã được tìm ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy núi miền trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã được dùng làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh nhưng phải đợị đến 1578 mới được Lý Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản thảo cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho một người khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi sĩ thì đua nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều đại Tống (960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu, những nơi có nhiều Phật tử và đồ đệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo giáo. Bên Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và được biết qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau, dùng nó trong giấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống lâu đời, không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt sau quả bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần thoại, hoang đường. Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm 1712. Ông viết : "Cây đạt kích thước một cây hồ đào : thân dài, thẳng, dày, nhiều nhánh ; vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già ; gỗ cây nhẹ, ít dày đặc, ít bền ; lõi mềm, xốp… Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuống dài bằng ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas : vỏ thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để úng thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng trướng do thức ăn gây ra : vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bữa ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng chúng…." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông. Cây ginkgo ở vườn Luxembourg tại Paris Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing, ta phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc (abricot d'argent). Người Nhật phiên âm gin kyo : có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông miền bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ nên xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng sử dụng nhiều danh từ khác : gingko, ginko, ginkgo, gingo hay ginkyo. Người Tàu còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá cây (đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda sinensis Lem.). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson 1866) được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng. Một tác giả Loudon kể chuyện năm 1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh) ; hôm sau, người làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền ; ông Pétigny không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40 êcu (tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu" (arbre aux quarante écus) . Tên nầy nay rất được thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt trước cây. Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì khi lá vàng rụng xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính chất giữa những cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng nó. Lúc đầu, người ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ, nhưng sau thấy cần phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta. Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae, bộ Ginkgoales. Hoa cây cái mùa xuân Hoa cây đực mùa xuân Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa trong trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy phấn hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái dài 1-2 cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang (microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái bì bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử (macrospore). Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một bì chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp ngoài nầy trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên cơ thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da. Vì những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải dùng găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi dùng. Bì nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị tiêu hủy và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài. Ngoài hạt, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp giâm cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây theo giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây cái để cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến mùa cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách nhau rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền với nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao 30-40 m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng già. Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc thân cây và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ cây, người ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi mạch (trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể (druse) mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ cây. Đây là những đặc tính khác của cây ginkgo. Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người ta có thể luộc, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo. Chỉ chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn nhiều hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự ngộ độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luột, hấp với trứng trong món chawan mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo, Pakgor,... Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da (28), thuốc rửa tóc, kích thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát trùng hay làm phân bón. Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp mùa thu, lá tự nó là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã ; hơn nữa nhờ tính chất diệt trùng, một phần nào nó bảo vệ sách ! Có lẽ bên Nhật hình dáng lá cây được thấy nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên bia mộ, huy hiệu các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố Tokyo từ năm 1989. Nó được dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ sumo. Trong các viện bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba bằng kim loại hình lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư trên ngực các cô, các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm trổ, chế tạo bàn và con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa miếu, thùng vận dụng rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái trong kỹ nghệ làm giấy. Trái và lá mùa thu Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây ginkgo. Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới, giúp tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại sức trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang qui tăng cường năng lực tính phái. Nó là thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, iả chảy, nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin nấu chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung thư, độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có tính chất ức chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay nhỏ đem sắc uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc bai guo ye được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản, những chứng thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết áp, bệnh lậu, bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được đem xông chữa tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được dùng làm thuốc cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động mạch ngoại biên gây ra tật đi khập khiễng cách quảng (claudication intermittente)(1,29). Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và làm chậm sự lão hóa võng mạc (10). Tác động lên sự lão suy của não, kích thích sự tổng hợp dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực nhận thức (22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái hóa (7) tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp ích cho những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng tình dục (27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ mãn kinh (17,33). Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá, tưởng có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những phần chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để kìm hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn loạn có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ kiêm nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành phần của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho sản xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó, hãng Beaufour ở Pháp và nhiều hảng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn với nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những tên Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị được ghi nhiều nhất trong các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24% glucoflavonoid (quercetin, kaempferol, isohamnetin,…) (32) và 5-7% terpenolacton (những ginkgolid, bilobalid) (14,30). Flavonoid là những chất chống oxy hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid là những chất ức chế sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B (16) trong toa thuốc BN-52021 (9). Được Furakawa chiết xuất năm 1932, phải đợi đến 1966 mới thấy Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid được Corey ở Viện Đại học Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để nghiên cứu các tính chất chống sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai năm sau đuợc thưởng giải Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có kê khai một bảng những hoạt chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa Kỳ in. Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy hóa (19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị liệu chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên nền tảng cơ chế bệnh lý gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh (6), những biến chứng sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí giác, vận động, trí nhớ, ngôn ngữ (22), những chứng ù tai, chóng mặt (2). Phần chiết với ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt động tiết acetylcholin phụ thuộc cơ chế chứng Alzheimer (5), bảo vệ màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và tổn thương sau chứng tăng thân nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì có tác dụng chống đầu độc tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng chống bệnh thiếu máu cục bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc, phần chiết chứa đựng isoginkgetin thi giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút, đồng thời làm tăng mùi hương (23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá (34). Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng chống viêm (13), giảm nhẹ bất an tâm thần (8,34), ngăn cản, kềm hãm, giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24). Trái cây ginkgo được dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid huyết, bệnh đái đường (36). Một văn bằng Nhật Bản đề nghị một thức uống hạ huyềt áp, điều hòa máu, tăng miễn dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim, mạch não (35), bổ sức gồm có ginkgo và nga truật Curcuma zedoaria (21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo. Năm 1997, số tiền bán phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá nầy được sản xuất trong một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở South-Caroline (Hoa Kỳ) của một công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây Trung Quốc đều có trồng ginkgo. Năm 1990, một đồn điền ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến 3000 ha. Khí hậu hai nơi gần giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người Tàu, đem qua máy móc gặt hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay : những cây trồng nầy không cao quá con người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại. Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân : Ông Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở Phân khoa Khoa học, Viện Đại học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật (archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động : ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898) : ở Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học, với những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông được tặng thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của ông được chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học, thành công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó ông từ chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành giáo sư ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng có bài nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù sao đã để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho cả một thế hệ thanh niên Nhật Bản. Nghiên cứu và Phát triển 3(62) (2007) 61-69 Tham khảo www.xs4all.nl/~kwanten, www.passeportsante.net/fr, www.biologie.uni-hamburg.de/b-online1- H. Letzel, W. Schoop, Gingko biloba extract EGB761 and pentoxifylline in intermittent claudication. Secondary analysis of the clinical effectiveness, VASA (4) 21 (1992) 403-10 2- C.B. Cano, A.J. Marco, B. Perez del Valle, P.F.J. Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on cocheleovestibulary pathology of vascular origin, A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos (6) 22 (1995) 619-29 3- M. Rosler, W. Retz, J. Thome, P. Riederer, Free radicals in Alzheimer’s dementia : currently available therapeutic strategies, J. Neu. Trans. Supp. 54 (1998) 211-9 4- A. Onen, E. Deveci, S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological assessement of the prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal ischemia-reperfusion injury, Acta Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999) 386-9 5- E.K. Perry, A.T. Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton, N.S.L. Perry, Medicinal plants and Alzheimer’s disease : from ethnobotany to phytotherapy, J. Pharmacy and Pharmacology (5) 51 (1999) 527-34 6- S. Kieszek, Trials and perspectives in pharmacotherapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska (3) 33 (1999) 331-40 7- A. Gajewski, S.A. Hensch, Ginkgo biloba and memory for a maze, Psychological Rep. (2) 84 (1999) 481-4 8- D. Pratico, N. Delanty, Oxidative injury in diseases of the central nervous system : focus on Alzheimer’s disease, Amer. J. Med. (7) 109 (2000) 577-85 9- J. Westman, K. Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat shock protein (HSP 72 kD) response, edema and cell changes following hyperthermic brain injury. An experimental study using immunohistochemistry in the rat, Amino acids (1) 19 (2000) 339-50 10- C.P. Juarez, J.C. Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli, J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna, Experimental retinopathy of prematury : angiostatic inhibition by nimodipine, Ginkgo biloba, and dipyridamole, and response to different growth factors, Eur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000) 51-9 11- M.S. Kobayashi, D. Han, L. Packer, Antioxidants and herbal extracts protect HT-4 neuronal cells against glutamate-induced cytotoxicity, Free Rad. Res. (2) 32 (2000) 115-24 12- H. Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of therapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska, (4) 34 (2000) 623-40 13- A. Wong, S. Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R. Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer, G. Munch, Anti-inflammatory antioxidants attenuate the expression of inducible nitric oxide synthase mediated by advanced glycation endproducts in murine microglia, Eur. J. Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7 14- K. Nakanishi, K. Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis of gingolide probes for neuromodulatory studies, Abs. Papers 223rd ACS Nat. Meet. Orlando, FL, US 7-11(2002) 15- J.H. Gertsch, T.B. Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo biloba for the prevention of severe acute mountain sickness (AMS) starting one day before rapid ascent, High Alt. Med. Biol. (1) 3 (2002) 29-37 16- F. Drago, M.L. Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks and bioavailability of a Ginkgo biloba extract, J. Ocular Pharmacological Therapeutics (2) 18 (2002) 197-202 17- H. Xu, D.S. Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M. Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R. Farnsworth, A.I. Constantinou, A preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga species and other botanicals used for women’health, Phytomedicine (8) 9 (2002) 757-62 18- B.J. Tesch, Herbs commonly used by women : an evidence-based review, Amer. J. Obstetrics and Gynecology 188 (5 Suppl) (2003) S44-55 19- O. Lopez, D. Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F. Bricaire, Could antioxidant supplementation reduce antiretroviral therapy-induced chronic stable hyperlactatemia ? , Biomedicine and Pharmacotherapy (3) 57 (2003) 113-6 20- M.M. Cals Grierson, A. Ormerod, Use with extracts vegetaux to improve the function barrier of the skin, Fr. Demande FR 2831443 (2003) 21- S. Toyota, Health beverage preparation from Curcuma rhizome juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr. 22- T. Morimasa, Gingko biloba extracts for treatment of complications after brain infarction, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003095966 (2003) 7 tr. 23- C.W. Cho, C.Y. Jung, A filtering material for cigarettes composed of ginkgo leaves starch, spices, and a zeolite, PCT Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr. 24- M.F. Beal, R.J. Ferrante, J. Ribert, Use of gingko biloba extracts to promote neuroprotection and reduce weight loss, PCT Int. Appl. WO 0347511 (2003) 25- K.H. Lee, S.I. Han, G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation of the herbal extract or the effects of hair-regrowth compared to 3% minoxidil ; elongation of anagen period on C3H mice, Yakhak Hoechi (1) 47 (2003) 14-9 26- B. Schmitt, T. Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L. Froelich, Combination therapy in Alzheimer’s disease : a rewiev of current evidence, CNS Drugs (13) 18 (2004) 827-44 27. D. Wheatley, Triple-blind, placebo-controlled trial of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d ue to antidepressant drugs, Hum. Psychopharmacology (8) 19 (2004) 545-8 28- E. Boelsma, R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van Nesselrooij, L. Roza, Evidence of the regulatory effect of Ginkgo biloba extract on skin blood flow and study of its effects on urinary metabolites in healthy humans, Planta Med.(11) 70 (2004) 1052-7 29. M.H. Pittler, E. Ernst, Complementary therapies for peripheral arterial disease : systematic review, Atherosclerosis (1) 181 (2005) 1-7 30- K. Nakanishi, Terpene trilactones from Gingko biloba : from ancient times tothe 21 st century, Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005) 4987-5000 31- J. Liang, Cigarette-like product containing leaves of Gingko biloba, Lycium chinense and Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559313 (2005) 8 tr. 32- G. Kostalova, D. Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth, M. Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor (Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23 33 S. Elsabagh, D.E. Hartley, S.E. File, Limited cognitive benefits in stage+2 postmenopausal women after 6 weeks of treatment with Ginkgo biloba, J. Psychophamacology. (2) 19 (2005) 173-81 34- M. Atmaca, E. Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O. Kirtas, The effect of extract of Ginkgo biloba addition to olanzapine on therapeutic effect and and antioxidant enzyme levels in patients with schizophrenia, Psychiatry and Clinical Neurosciences (6) 59 (2005) 652-6 35- X. Zhao, Vinegar manufactured from Gingko biloba and f*gopyrum tataricum, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1721521 (2006) 5 tr. 36- L. Weng, Method for producing pure Gingko biloba beverage, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1803032 (2006) 4 tr.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 28, 2010 2:57:11 GMT 9
Sả Và Ung Thư
Dược Sĩ Trần Việt Hưng trich tu website ThuVienVietNam Gần đây trên một số báo điện tử có phổ biến bài viết "Uống nước cây sả tươi làm cho tế bào ung thư tự tiêu", bài này đã được chuyển đi nhanh chóng, chúng tôi cũng nhận được bài này từ 5-6 diễn đàn khác nhau và mới nhất là trên Diễn Đàn Dược Khoa. DS Phan Chi người gửi bài lên D Đ DK có ghi thêm: "Trong bún bò Huế có rất nhiều sả tươi như vậy mỗi ngày ăn một tô bún bò Huế là ta đã uống thuốc trị bịnh ung thư rồi.." Lời khuyên của DS Phan Chi thật chí lý: ăn bún bò Huế vừa ngon, vừa bổ dưỡng nên các bệnh nhân đang bị ung thư nếu ăn ngon miệng và ăn được thì càng nên ăn, nhưng những người khỏe mạnh bình thường chưa bị ung thư thì cũng chỉ nên ăn bún bò Huế vừa đủ thôi để tránh tăng cholesterol và triglycerides! (Xin đọc bài (Nhìn bún bò Huế qua khia cạnh dinh dưỡng). Trở lại bài báo đang được phổ biến: "Tác dụng trị ung thư của dầu sá được dựa trên một bài nghiên cứu đăng trên Planta Medica số 71, tháng 5 năm 2005 trang 584-588 của nhóm nghiên cứu tại ĐH Ben Gurion, Do Thái ghi nhận là Citral, một hoạt chất trong dầu sả (Cympopogon citratus), khi thử trong ống nghiệm có tác dụng tạo ra tiến trình apoptosis (tế bào được mã hóa để tự hủy diệt) trong các tế bào ung thư. Citral khởi động Caspase-3 trong một số dòng tế bào ung thư gan. Liều citral được dùng là 44 muM, tương đương với 1 gram sả tươi. Hoạt tính citral (22.25 microM) được so sánh với hoạt tính tạo apoptosis của chất staurosporine (0.7 microM) dùng làm chuẩn. Đọc kỹ bài báo hơn nữa thì việc khuyến khích uống nước sả chỉ áp dụng cho các bệnh nhân đã bị ung thư và đang được chữa trị bằng các phương pháp xạ trị, hoá chất trị liệu và uống thêm nước sả như một thứ nước giải khát bổ xung. Bài này xin chỉ giới hạn trong vấn đề "Sả và ung thứ" vì thật ra sả còn có nhiều tác dụng sinh học khác và trước khi bàn về hoạt tính trị ung thư của sả, chúng tôi xin tóm lược vài điểm chính về Sả. Chi thực vật Cymbopogon (Lemongrass) gồm khoảng 55 loài, có nguồn gốc tại những vùng khi hậu ấm áp, nhiệt đới Á châu và Úc châu. Theo phân loại của Âu-Mỹ thì Cymbopogon được chia thành 2 nhóm: East Indian Lemongrass, tiêu biểu là C. flexuosus, gốc từ Ấn Độ, Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan và West Indian, Lemongrass tiêu biểu là C. citratus gốc tại Mã Lai. Tên tại Việt Nam của vài loài sả: Cymbopogon citratus= Sả chanh Cymbopogon flexuosus= Sả dịu Cymbopogon martinii = Sả hoa hồng, sả hồng Cymbopogon winterianus = Sả Java, sả đỏ, sả xòe Cymbopogon nardus = Sả Sri Lanca Thành phần hóa học: Thành phần hóa học trong tinh dầu của các loài sả có những khác biệt đáng kể: Sả chanh Cymbopogon citratus tươi chứa khoảng 0.4 % tinh dầu dể bay hơi. Tinh dầu chứa 65 đến 85 % citral (là một hỗn hợp gồm 2 monoterpene loại aldehyde đồng phân geranial và neral). Citral được dùng làm chất tạo hương vị bổ túc cho tinh dầu chanh và được dùng trong kỹ nghệ hương liệu, nước hoa do ở mùi thơm chanh. Trong tinh dầu còn có các hợp chất khác như myrcene (12- 25%), các diterpenes, methylheptenone, citronellol, linalol, farnesol, các alcohols, aldehydes, linalool, terpineol và khoảng trên 12 hợp chất tạo hương khác. Thành phần tinh dầu trong sả chanh có thể thay đổi tùy địa phương nơi trồng sả: - Sả chanh trồng tại Philippines có chứa thêm alpha và beta-pinene, limonene, phellandrene. - Sả chanh tại Bangladesh lại có anisaldehyde,cinnamal dehyde, catechol và hydroquinones. Sả dịu Cymbopogon flexuosus chứa khoảng 0.4% và một số chủng trồng cho tinh dầu chứa đến 85% citral..., mặt khác cũng có những chủng chứa nhiều geraniol (50%) và methyl eugenol. Đặc biệt hơn nữa còn có những chủng trồng không chứa citral nhưng lại chứa đến 30% borneol. Các loại sả khác chứa trong tinh dầu những thành phần khác biệt như: C. jwarancusa có 70 % piperitone; C. distans có 40% piperitone; C.matrinii có geraniol và geraniol acetate. (Ngoài tinh dầu, C.citratus còn chứa luteolins, homo-orientin, chlorogenic acid, caffeic acid, P-coumaric axid, fructose, sucrose, octacosanol, flavonoids và nhiều chất khác). Sả và ung thư: Ngoài kết quả nghiên cứu đăng trên Planta Medica của nhóm nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu và Phát Triển Hazeva thuộc Viện Nghiên Cứu về Sa Mạc Jacob Blaustein, Viện ĐH Ben Gurion kể trên đưa ra vai trò của Citral như một chất gây khởi phát cho hoạt động của Caspase-3 nơi một số dòng tế bào ung thư, còn có một số những nghiên cứu khác về khả năng của các hoạt chất khác như limonene và geraniol trong tinh dầu sả trong vấn đề ngừa và trị ung thư. Nên chú ý là các nghiên cứu đều chỉ ở giai đoạn sơ khởi, nghĩa là dùng hoạt chất rồi cho thử nghiệm trên các tế bào ung thư cô lập, và thử trong ống nghiệm.. Tinh dầu trich từ lá sả C. citratus và citral có hoạt tính diệt được tế bào ung thư máu loại P338 (của chuột) (Current Sciences Số 73-1997) Nước chiết từ cây sả có khả năng chống biến chủng (antimutagenic) nơi một số chủng tế bào S. typhimurium (Mutation Research Số 341-1994) Nước chiết từ sả ức chế được sự tạo DNA nơi một số giòng tế bào ung thư ruột (chuột) (Carcinogenesis Số 18-1997) Tinh dầu sả loại C. flexuosus, có hoạt tinh diệt bào khi thử trên 2 giòng tế bào ung thư (người) cho thấy có tác động trên các tế bào ung thư Ehrlich và Sarcoma-180 (Chemistry and Biology Interaction Số 179-2009). Tinh dầu sả loại C. flexuosus và hoạt chất chính: sesquiterpene isointermedeol có khả năng gây khởi động hiệu ứng apoptosis nơi tế bảo ung thư máu HL-60.(Chemistry and Biology Interaction Số 17-2008. Hoạt tính của các monoterpenes: Trong tinh dầu sả còn có limonene và geraniol là hai trong những monoterpenes đã được nghiên cứu nhiều về các hoạt tính trị ung thư (monoterpene khác cũng được nghiên cứu là perillyl alcohol, trong cơ thể, khoảng 40 % limonene được chuyển biến thành perillyl alcohol). Có khoảng 15 nghiên cứu in vitro ghi nhận là monoterpenes có khả năng ức chế sự tăng trưởng của một số dòng tế bào ung thư. Liều tối thiểu để có hoạt tính thay đổi khá rộng tùy loại monoterpene trong các nghiên cứu, có thể từ 50 đến 5000 microM, trung bình là trong khoảng 160 đến 1300 microM. Các nồng độ này được xem là tương đối cao khi so sánh với nồng độ của các chất tự nhiên được thử nghiệm khác (Leukemia Số 13/1999); Cancer Research Số 59-1999; Nutrition Cancer Số 32-1998). Có ít nhất là 7 cuộc nghiên cứu về tác động chống ung thư của monoterpenes, thử nghiệm trên thú vật. Các nghiên cứu này cho thấy monoterpene khi dùng dưới dạng thuốc uống có khả năng tạo sự teo biến của nhiều loại bướu ung thư, có những trường hợp có sự teo biến hoàn toàn (100 %) (Cancer Chemotherapy and Pharmacology Số 34-1994; Journal of The National Cancer Institute Số 76-1986) Có 2 nghiên cứu Giai đoạn I nơi người đã được thực hiện, nhưng mục tiêu chính là nhằm xác định các thông số dược-động học và liều cao nhất được xem là an toàn khi thử nơi bệnh nhân ung thư, nhưng không xác định về mức độ hữu hiệu (Clinical Cancer Research Số 4-1998). Ngoài ra cũng còn có một số nghiên cứu ghi nhận khà năng 'ngừa ung thứ nơi thú vật của các monoterpenes (Breast Cancer Research and Treatment Số 46-1997) Tác dụng của monoterpene: Các monoterpenes limonene, geraniol và perillyl alcohol có khả năng làm giảm sự tăng trưởng và sinh sản của nhiều loại tế bào ung thư khi thử cả "in vitro" lẫn "in vivo", tuy nhiên cơ chế hoạt động chưa được xác định rõ ràng và được giả thiết là do: Ức chế sự tổng hợp isoprene (nếu các proteins từ các tế bào sinh ung thư không qua giai đoạn isoprenyl hóa, thì chúng sẽ không gây ung thư cho tế bào) Khởi phát sự tái phân cắt tế bào (cell redifferentiation) Khởi phát hiệu ứng apoptosis Cải thiện sự khởi phát ức chế các chất tăng trưởng như TGF-beta. Ngăn chặn sự ức chế miễn nhiễm để tạo tế bào ung thư. * Limonene Tác động chống ung thư của limonene và các monoterpenes khác đã được nghiên cứu rất nhiều tại ĐH Wisconsin với các kết quả ghi nhận là limonene có các hoạt tính chống ung thư đáng kể khi thử trên các loài gậm nhấm khác nhau về các loại ung thư bao tử, phổi, da, và gan: liều limonene cho uống chiếm 10 % tổng số lương thực cho ăn (khoảng 7.5 g/kg) mỗi ngày trong 3 tuần lễ tạo sự thoái bộ (regression) của các bướu ung thư trong 85 % số chuột bị gây ung thư vú. Liều tối thiểu phải chiếm 7.5 % tổng lượng thực phẩm hàng ngày mới đủ tạo ra hiệu ứng (khoảng 5.6 g/kg). Hiệu ứng chống ung thư nơi chuột được ghi nhận khi quan sát các loại khối u nhỏ và cả những khối u đã phát triển, đồng thời các đa số khối u đều thoái bộ hoàn toàn. Sự thoái bộ được giữ nguyên nếu tiếp tục cho dùng limonene và limonene không gây ra những phản ứng độc hại dù dùng lâu dài(Cancer Research Số 15-1992). Liều áp dụng cho người, khi tính từ liều 5.6g/kg mỗi ngày nơi chuột, được xem là khoảng 91 gram/ngày Nếu thử tính lượng sả tươi cần thiết để có được 91 gram limonene sẽ thấy như sau: Sả tươi các loại C. citratus và C.flexuosus chứa trung bình 0.5 % tinh dầu, nghĩa là 1 kg sả sẽ cho 5 gram tinh dầu. Tinh dầu sả có thể chứa đến 60% monoterpenes, như vậy 1 kg sả có thể chứa khoảng 3 gram monoterpene. Muốn có 90 gram monoterpene sẽ phải dùng đến 30 kg sả tươi/ngày! (Tinh dầu cam chứa nhiều limonene hơn là tinh dầu sả) Khi dùng các liều thấp hơn (dưới 1 % của tổng lượng thực phẩm), limenene có khả năng ngăn ngừa sự phát triển ung thư vú gây ra do một số hóa chất độc hại khi thử trên chuột. Hoạt tính này được giải thich là do limonene và các monoterpene giúp giải độc, tạo biến dưỡng các chất độc nơi gan (Proceedings of the American Association for Cancer Research Số 34-1993) * Monoterpenes khác: Do ở liều sử dụng limonene tương đối cao, nên một số các monoterpene khác đã được nghiên cứu: Perillyl Alcohol: là một hóa chất thông dụng trong kỹ nghệ hương liệu. Perillyl alcohol, một chất liên hệ với limonene, có tiềm năng tạo sự thoài bộ của bướu ung thư mạnh hơn limonene từ 5 đến 10 lần khi thữ nghiệm trên ung thư vú ở chuột (Cancer Chemotherapy and Pharmacology Số 34-1994) Trong cơ thể cả hai chất limonene và perillyl alcohol đều được biến dưỡng thành những chuyển hóa terpene có những hoạt tinh sinh học. Một trong những chuyển hóa chất này: perillic acid có lẽ là chất chinh chịu trách nhiệm diệt bướu ung thư. Một giờ sau khi cho chuột dùng limonene, 80 % limonene được chuyển biến thành perillic acid và dihydroperillic acid. Nơi người, 40 % limonene được chuyển thành perillic acid. Khi dùng ở liều cao (từ 2 đến 2.5 % tổng lượng thực phẩm) perillyl alcohol tạo được sự thoái hóa của 85 % bướu u nhỏ và 75% bướu đã phát triển ung thư vú nơi chuột bị tạo ung thư. Đa số các sự thoái hóa được xem là hoàn toàn. Tuy liều cao 2 % không gây phản ứng phụ độc hại nhưng liều 2.5 % tạo sự mất cân nơi chuột thử nghiệm, và liều 3 % gây một số tử vong (Liều tương đương nơi người, khi dùng 2 % là 24 gram/ngày). Liều tối thiểu để có hoạt tính trị ung thư được xác định là 1 %, hay 750 mg/kg, tương đương với 12 gram/ ngày khi áp dụng cho người. Perillyl alcohol không gây ảnh hưởng trên sự bội sinh tế bào nhưng tạo hiệu ứng apoptosis rất mạnh (Cancer Research Số 55-1995), và hiệu ứng apoptosis chỉ xẩy ra nơi một số tế bào chuyên biệt. Một nghiên cứu ghi nhận perillyl alcohol chỉ tạo apoptosis nơi các tế bào ung thư tụy tạng và không gây hiệu ứng nơi các tế bào tụy tạng lành mạnh (Carcinogenesis Số 18-1997). Khi cho dùng liều 1.5 g/kg mỗi ngày, perillyl alcohol làm giảm sự tăng trưởng của bướu ung thư tụy tạng nơi chuột bọ thử nghiệm đến trên 50 % (Cancer Letter Số 96-1995). Liều tương đương nếu áp dụng cho người là khoảng 21 gram/ ngày. Geraniol: Chất monoterpene geraniol có phần hữu hiệu hơn perillyl alcohol trong việc điều trị các khối u 'đã cố định'. Trong một nghiên cứu, liều tối đa geraniol để tạo tác dụng diệt u bướu nơi chuột thử nghiệm, được xác định là 740 mg/kg (trong khi liều Perillyl alcohol là 750 mg) (FASEB, Meetings Abstract Số 7-1993). Ngay khi dùng ở liều thấp hơn 360 mg/kg, geraniol hiệu nghiệm trong việc làm giảm bớt số lượng tê bào ung thư gan ghep chuyển nơi chuột (liều áp dụng cho người sẽ khoảng 5.8 gram/ ngày). Liều geraniol cho uống 250mg/kg tạo giảm tăng trưởng nơi các tế bào ung thư máu (leukemia) và melanoma chuyển ghép nơi chuột (Liều áp dụng cho người sẽ là 2.4 gram/ ngày) (Cancer Research Số 51-1991). Kết luận: Qua những dữ kiện xuất phát từ các nghiên cứu khoa học kể trên, chúng ta có thể kết luận rất thực tế là bài báo phổ biến trên các trang mạng về "Uống nước cây sả làm cho tế bào ung thư tự tiêu" chỉ là một bài báo quảng cáo cho một số thành quả về việc phát triển trồng trọt tại những vùng sa mạc ở Do Thái. Về việc nước cây sả, bài báo cũng ghi khá rõ là áp dụng cho những bệnh nhân đang bị ung thư và đang được chữa trị bằng các phương pháp y khoa chính thống như xạ trị, hóa tri..., được cho uống thêm nước sả. Tuy nhiên với liều lượng ghi trên báo là uống ngày 8 lần mỗi lần nước của 1g sả tươi theo chúng tôi thì quá ít để có được hoạt tính thật sự trong việc điều trị nhưng vô hại. Và các bệnh nhân đang bị ung thự cứ việc thử uống thêm nước sả thay nước trà trong khi đang được điều trị? Tài liệu sử dụng: The Review of Natural Products 5th Ed (Facts & Comparison) Monoterpenes in Cancer Prevention and Therapy (Townsend Letter for Doctors and Patients August 2001) Apoptosis: The Life and Death of Cells ( Christopher Potten) Natural Compounds in Cancer Therapy (John Boik)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 28, 2010 3:00:12 GMT 9
Trái Hồng và tannintg:B.S LLTran @ ThuVienVietNam Tuần này Dế Mèn nhận được một bài về trái hồng, hết cam rồi đến hồng, không biết bài kế tiếp sẽ là trái gì, tốt hay xấu và sẽ được khen chê, dọa dẫm hay cổ võ theo tiêu chuẩn nào? Bài viết dưới đây biểu bà con đừng ăn hồng vì loại trái cây này có đủ thứ "không nên" và có thể gây bệnh tùm lum tà la. Chê bai kịch liệt vậy mà người viết lại quên cho người đọc biết là ông/bà ấy dựa trên tài liệu nào mà nói khơi khơi như thế? Thoạt tiên Dế Mèn đánh bài lờ không ừ hử chi ráo nhưng cứ bị thúc dục hỏi tới ý kiến ý cò ra sao và bạn ta cũng không cho trốn tránh với lời "không ý kiến". Lờ không được nên đành mầy mò đi tìm tài liệu và rinh về Thư Viện Toàn Cầu giúp vui với bạn đọc. Tóm tắt như thế này: Trái hồng hay persimmon gốc gác từ Á Châu và có nhiều giống cây, từ Nhật đến Hoa Lục. Trái hồng là một thứ thực phẩm đem tiến vua ngày trước, nghĩa là ngon và hiếm nên con trời được “ăn trước” vì ổng “ngồi trên” (ngai). Nhiều tài liệu từ phân khoa Canh Nông của các đại học Hoa Kỳ viết về giống cây, phân chất ... nên Dế Mèn cũng không dài dòng về các chi tiết ấy. Nói chung, hồng khi còn xanh (dù vỏ đã trổ màu cam vàng ối) thường có vị chát. Cắn vào trái hồng còn xanh là chát ngầm, miệng ta như khô ráo không còn chút nước miếng. Vị chát đến từ chất tannin (tannic acid) trong vỏ và phần thịt bên ngoài. Trái hồng khi chín tới thì ngọt đậm và không còn chát nữa, diễn nôm na là mức tannin đã gần hết hẳn. Tannin là gì (mà bài viết kia ỉ ôi quá xá)? Tannin là tên gọi của nhóm hóa chất "polyphenol", nhiều phenol họp lại, có mặt trong nhiều chủng cây cỏ. Tác động của tannin tùy theo loại và phân lượng, tannin có tính chống oxy hóa (antioxidant), kết nối với kim loại (metal ion chelator) và kết nối với nhiều loại chất đạm (protein precipitating). Tannin dùng để "thuộc" da thú làm vật dụng. Tannin dĩ nhiên không chỉ có mặt trong trái hồng mà còn hiện diện trong nhiều thứ cây cỏ hoa trái khác như hạt lựu, các loại dâu, lá trà, và nhất là trong rượu vang. Nhờ tannin mà ta có vị chát trong rượu nên rượu vang còn được gọi rượu chát! Trở lại với trái hồng, như đã tóm tắt, khi trái còn xanh, lượng tannin cao nên có vị chát. Ta không mấy khi chọn trái xanh để ăn mà chỉ ăn trái ngọt nên lượng tannin không còn là điều đáng kể. Trái cây là trái cây bất kể trái hồng hay trái cam, ăn lúc no thì không còn ngon như lúc đói, nhưng lượng sinh tố, khoáng chất, đường ... trong các thực phẩm này thì cũng vẫn như nhau. Lượng đường trong trái chín muồi thường cao hơn trái còn xanh, chuối, xoài hay hồng chi cũng vậy. Người bị tiểu đường cần cẩn thận với trái cây có vị ngọt, không riêng chi trái hồng. Trong tự điển Y học Âu Mỹ không có bệnh "sạn dạ dày" ("gastric stone"), chỉ có một vài trường hợp được mô tả trong sách Bệnh Lý Học là các "khối" thức ăn không được tiêu hóa hoàn toàn, chữ "bezoar" được dùng để chỉ các "khối thức ăn" không tiêu nằm tại dạ dày. Đây không phải là "sạn" theo định nghĩa y học. Dế Mèn tìm thấy 2 bài tường trình từ tạp chí Japanese Journal of Gastroenterology mô tả khối thức ăn không tiêu này, một ca do hồng và một ca do trà xanh, cả hai người bệnh đều đã bị giải phẫu dạ dày trước đó. Không có ca nào về khối thức ăn không tiêu trong dạ dày trên tạp chí Y Học Âu Mỹ. Cũng chưa có tài liệu nào nói về việc ăn trái hồng thì mất khoáng chất (?) hay sâu răng (?). Tóm lại, bạn thích ăn hồng thì cứ ăn. Khi cần kiêng khem vì bị bệnh tật như tiểu đường, hậu giải phẫu dạ dày .. thì cần cẩn thận trong việc ăn uống, lựa chọn kỹ lưỡng mọi loại thực phẩm không riêng chi trái hồng. Rõ ràng hơn, bài viết dưới đây không có căn bản Y học. Thường chúng ta thích ăn trái tươi, trái hồng ngon ngọt và có vài chất bổ thật, nhưng phải chú ý những điều sau đây: 1.- Không nên ăn khi bụng đói. Lý do là nó có chất "tannin" (hoặc có thể gọi là "mủ", một chất trong vỏ trái cây) và chất "pectin" (hóa chất trong trái cây), hai chất này tác hợp với axít dạ dầy (gastric acid) sẽ kết hợp lại rồi tạo ra những cục (lumps) lớn nhỏ, cuối cùng được gọi là "sạn trái hồng trong dạ dầy" (gastric persimmon stone). Khó mà tống xuất tự nhiên sạn này và phải đi giải phẫu. Triệu chứng sẽ là đau bụng, ói và có thể ói ra máu, và có thể có các triệu chứng khó chịu khác. 2.- Không nên ăn luôn vỏ vì lớp vỏ trái này quy tụ rất nhiều "tannin" (mủ), gây tác hại nói trên. 3.- Không ăn tráng miệng trái hồng (dessert) sau khi ăn cua, tôm, cá hoặc thực phẩm có high protein. Theo Đông y, trái Hồng và cua (hải sản) thuộc Hàn (âm khí, "lạnh bụng"). 4.- Tiểu đường, phải tránh ăn trái hồng. Độ đường trái này cao 10.8% mà là loại đường "ăn hại" (surcose, fructose, glucose, tuy rằng Glucose (đường) vẫn rất cần thiết cho tế bào), sẽ bị tăng đường trong máu (Hyperglycemia). 5.- Chất tannin (tannic acid) của trái hồng khi gặp và hợp chung với Calcium, Zinc, Magnesium và vài khoáng chât khác, nó sẽ trở thành một hợp chất (compound) mà cơ thể ta không tiêu hóa được. Không tiêu hóa các khoáng chất thì cơ thể bị thiếu khoáng chất. Chung quy là không nên ăn quá 200 grams trái hồng mỗi ngày. 6.- Nhớ đánh răng súc miệng sau khi ăn hồng. Lý do cũng là "tannic acid" nơi các mảnh hồng nhỏ còn kẹt lại giữa kẽ răng sẽ làm sâu răng (tooth decay). Nhiều nhà bạn VN vườn sau thích có một cây hồng dòn, nhớ phổ biến tin này cho nhau.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 28, 2010 3:03:20 GMT 9
Chuyện thật và giả về trái camTg:B.S LLTran @ ThuVienVietNam Theo tài liệu của bộ Canh Nông Hoa Kỳ và phân khoa Canh Nông, Đại Học Purdue: Cam là một loại trái cây chứa nhiều sinh tố C, folacin, calcium, potassium, thiamin, niacin và magnesium. Tại Hoa kỳ, người ta uống nước cam nhiều hơn là ăn trái dù khi ăn trái cam, cơ thể thu nhận 140% lượng sinh tố C cần thiết hàng ngày và cả chất xơ. Vỏ cam (peel) được dùng để chế biến nước hoa và xà bông. Khoảng 90%-95% vỏ cam là limonene, chất này là độc tố diệt côn trùng như ruồi, rận và kiến lửa. Vỏ cam còn được dùng để chế biến hóa chất xúc rửa máy móc, keo sát trùng xoa tay. Hóa chất terpene trong vỏ cam được ly trích để dùng chế tạo resin và chế tạo loại sơn đặc biệt để sơn tàu thủy. Hạt cam chứa dầu dùng để chế biến thức ăn, cooking oil, xà bông và plastic, vỏ hạt cam dùng trong việc chế biến phân bón. Thủa trước, thập niên 50, cam được dùng như một dược chất, chứa glucoside, hesperidin, rutin, và các bioflavonoids, để chữa trị chứng mao mạch dễ vỡ (capillary fragility) gây xuất huyết bầm tím (hemorrhage) và các chứng bệnh khác. Ngày nay, các cách dùng kể trên hoàn toàn ngưng hẳn, cộng đồng Y học không nhìn nhận việc trị liệu này. Tóm lại, cam là món trái cây chứa nhiều sinh tố C và chất xơ nếu ăn nguyên trái. Vỏ và hạt dùng làm hương liệu, nguyên liệu chế biến xà bông, hóa chất xúc rửa máy móc và chế tạo sơn. Cam không có dược tính nào được chứng minh là hữu dụng, dứt khoát là như thế. Bài viết dưới đây được truyền tay qua điện thư, không rõ xuất xứ và tác giả, là câu chuyện không được kiểm chứng. Cả 7 điều rao truyền, chỉ có mỗi việc dùng vỏ cam làm hương liệu là khả tín. Công dụng kỳ diệu của quả cam - Không chỉ bổ dưỡng, cam còn có nhiều công dụng kỳ diệu khác nếu biết sử dụng nó đúng cách và đúng mục đích. 1. Tăng cường thể lực: Nước cam pha muối Uống nước cam bỏ thêm chút muối sau khi luyện tập ra nhiều mồ hôi là cách để lấy lại thể lực nhanh chóng. Bởi lượng đường fructoza và 85% lượng nước có trong cam sẽ nhanh chóng được cơ thể hấp thụ, có tác dụng giải khát và bồi bổ thể lực. Lưu ý: Ngay sau khi ép lấy nước hoặc đã gọt vỏ nên uống hoặc ăn ngay, tránh lượng vitamin C sẽ bị bay mất khi phản ứng với oxy ngoài môi trường. Thời gian sau chế biến không nên quá 30 phút. 2. Tẩy trang, làm sạch da: Nước cam ép Cách làm: Dùng khăn sạch thấm và thoa trực tiếp nước ép cam lên mặt khoảng 5-10 phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Công dụng: Cách làm này vừa có tác dụng tẩy trang hiệu quả, vừa “đánh bật” lượng dầu, vi khuẩn, vết bẩn trên da, làm sạch da từ bên ngoài và bên trong. Ngay cả đối với da mẫn cảm, dùng cam làm mặt nạ để tẩy trang và làm sạch mặt vẫn có thể an tâm. Lưu ý: Ngay sau khi thoa nước ép lên mặt, không nên đi ra nắng, tránh phản ứng với các tia tử ngoại làm mất tác dụng. 3. Làm săn chắc da mặt: Mặt nạ từ hạt (hột) cam Cách làm: Hạt cam phơi khô rồi xay thành bột mịn. Hòa tan hỗn hợp gồm bột đã xay nhuyễn và nước cất (hoặc nước tinh khiết), sau đó đắp hỗn hợp này lên mặt khoảng 5-10 phút. Rửa lại mặt bằng nước sạch. Mỗi tuần đắp mặt nạ 1-2 lần. Công dụng: Nâng cao sức đề kháng cho các mao mạch trên da, giúp da thêm săn chắc, khỏe mạnh. Lưu ý: Đối với làn da nhạy cảm, nên thử bôi hỗn hợp trên vùng tai trước khi bôi lên mặt để quan sát phản ứng. Nếu thấy bị dị ứng hoặc ngứa ngáy, không nên sử dụng. 4. Trị bệnh phong thấp: Bột hạt cam Cách làm: Cho hạt cam vào nồi rang khô. Tránh rang ở nhiệt độ quá cao gây cháy đen hạt rồi xay nhuyễn thành bột. Hòa vào nước lọc, mỗi lần từ 3-5g, uống sau bữa ăn. Kiên trì sử dụng lâu dài có tác dụng trị phong thấp hiệu quả. 5. Tăng cường hệ miễn dịch: Sa-lát cam Khi làm sa-lát, cho thêm một vài múi cam sẽ có tác dụng bổ sung chất dinh dưỡng, tăng cường hệ miễn dịch, giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe, nhanh lành vết thương. Đặc biệt là bổ sung chất xơ, có lợi cho tiêu hóa. Lưu ý: Những người hút thuốc nên ăn nhiều cam, những bệnh nhân mắc viêm ruột, viêm túi mật nên thận trọng khi ăn cam. 6. Tẩy da chết, tăng độ láng mịn cho da: Mát-xa bằng vỏ cam Cách làm: Cắt vỏ cam thành những miếng mỏng, nhỏ. Sau đó cho vào tấm vải mỏng, lăn đều trên tay, đầu gối, những vùng da sần sùi, thiếu độ láng mịn. Công dụng: Tinh dầu trong vỏ cam làm da thêm mềm mại. Những vùng da sần sùi “vỏ quýt” sẽ nhanh chóng được cải thiện, lấy lại độ căng bóng do da hấp thụ được lượng tinh dầu trong vỏ cam. Vỏ cam chứa nhiều flavonoid và vitamin C, những chất này sẽ kích thích quá trình trao đổi chất trên da, nâng cao sức đề kháng cho các nang lông, có tác dụng tẩy da chết hiệu quả. 7. Giúp ngủ ngon giấc, đuổi muỗi: Hương thơm vỏ cam tươi Cách làm: Vỏ cam phơi khô, sau đó cho vào túi thơm, treo trong phòng ngủ, nhà bếp hoặc tủ quần áo. Công dụng: Cách làm này không những kích thích ngủ ngon giấc, mà còn có tác dụng đuổi muỗi, làm sạch không khí.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2010 7:53:40 GMT 9
Từ Gai Ma (Gai Dầu) đến Cần Sa: Thuốc hay Ma Túy?
Dược Sĩ Trần Việt Hưng@ThuVienToanCau 2010 Tin bầu cử tháng 11- 2010: California: Cử tri tiểu bang California ngày 2 tháng 11 năm 2010 đã bỏ phiếu bác bỏ Dự Luật số 19 nhằm ' ..cho phép những người trên 21 tuổi có thể sở hữu một số lượng cần sa không quá một ounce, được phép tiêu thụ cần sa tại một nơi không phải là công cộng, miễn là không có sự hiện diện của trẻ em, và có thể trồng cần sa tại những khoảnh đất tư hữu. Dự Luật cũng cho Chinh quyền địa phương được cấp giấy phép trồng cần sa trong mục đích thương mại, bán và sử dụng cần sa tại những cơ sở được cấp giấy phép'.. Những người đưa ra Dự Luật này cho rằng Dự Luật sẽ có thể thu thêm tiền cho ngân sách đang thiếu hụt của California; giúp làm giảm tình trạng bạo động do ma túy từ Mexico vì giá cần sa sẽ tụt mạnh và các vụ bị bắt do vi phạm luật về cần sa sẽ giảm nhiều. Chánh phủ Liên Bang trước đó cho biết sẽ tiếp tục áp dụng luật pháp coi cần sa như một chất ma túy bị cấm dù cho Dự Luật 19 được bỏ phiếu thuận. Kết quả ghi nhận Dự Luật này bị đánh bại bằng 56 % chống đối với 44 % thuận. Oregon: Cử tri Oregon cũng bỏ phiếu không chấp thuận các đề nghị ghi trong Dự Luật 74 với 58 % chống, đối với 42 % thuận. Dự Luật đề nghị cho phép bổ xung một số điều lệ hiên hành tại Oregon về sử dụng cần sa: Hiện nay Oregon cho phép một số người hội đủ một số điều kiện được 'ghi danh' để trở thành 'người được phép trồng cần sa dùng cho y học'; không cho phép buôn bán cần sa cho những người có 'thẻ dùng cần sa', giới hạn người 'có phép' trồng ở mức 6 cây trưởng thành và 24 ounces (mỗi người). Dự Luật 74 dự trù cho mở một hệ thống cung cấp rộng rải hơn gồm các chẩn y viện và các nhà trồng với số lượng cần sa cao hơn: 24 cây/ 96 ounces cần sa và một số điều khoản khác. Cần sa, hiện nay tại Hoa Kỳ, vẫn là một loại cây được xếp vào loại ma túy bất hợp pháp không được phép trồng, sở hữu và sử dụng. (Ngoại trừ tại một số tiểu bang cho phép dùng trong mục đích y học với số lượng rất hạn chế). Các tranh cãi về dược tính của Cầnsa và về tác dụng gây nghiện của cây đã kéo dài từ trên 40 năm và vẫn còn đang tiếp tục. Hàng ngàn nghiên cứu, thử nghiệm đã được thực hiện trên toàn thế giới nhưng vẫn chưa được các chuyên viên y tế và luật pháp đồng thuận..Cơ quan điều hành ma túy tại Hoa Kỳ ( US Drug Enforcement Administration= DEA) xem 'Cần sa như một chất gây nghiện tạo những hậu quả nguy hại về sức khỏe cho người sử dụng', đồng thời kết luận 'nhiều vấn đề, nguy hại cho người sử dụng, ngắn hạn và lâu dài đã được ghi nhận với những bằng chứng rõ rệt'. Trong khi đó National Organization for the Reform of Marijuana Laws (NORML) lại đưa ra những nhận định cho rằng 'So với rượu và thuốc lá, cần sa ít nguy hại hơn rất nhiều' và 'cần sa, dù dùng quá liều, không gây độc hại và từ vong'..(?) Những thống kê chính thức của Tổ Chức Y Tế Thế Giới ghi nhận: Cần sa là một loại 'thuốc' 'dùng cho 'vui' (recreational) phổ biến nhiều trên thế giơi chỉ kém rượu, cà phê và thuốc lá. Riêng tại Hoa Kỳ, có đến trên 100 triệu người đã thử cần sa và trong năm 2009, có lẽ đã có 25 triệu người dùng cần sa . Danh pháp: Một số khá nhiều tên đã được dùng để gọi cho cây. Đồng thời cũng có những tên 'riêng' để gọi những từng phần của cây, và chất ly trích từ cây: Anasha và Kif (chất nhựa và đỉnh đọt hoa trộn lẫn với lá); Banji, Hemp, Cannabis, Shesba, Dimba. Dagga, Suma, Vingory và Machona (toàn cây); Bhang, Sawi (lá cây trưởng thành phơi khô) Charas (nhựa); Ganga (đỉnh hoa); Hashish, Marijuana= Marihuana (lá và đỉnh hoa). Tại Việt Nam, cây được gọi dưới những tên như Gai mèo, Gai dầu, Đại Ma, Gai xanh. Pháp: Chanvre indien, Canebier. Chi thực vật Cannabis = Gai ma gồm ba loài chính Cannabis sativa, Cannabis indica và Cannabis ruderalis. Cannabis đã được sử dụng từ lâu trong công nghiệp, lấy hạt làm thực phẩm, ép hạt lấy dầu, làm thuốc trị bệnh và làm..chất ma túy. Bài này sẽ lần lượt trình bày những sự kiện về các phương thức sử dụng Cannabis bao gồm một số vấn đề liên hệ đến những luật lệ hiện hành về Marijuana tại Hoa Kỳ. Đặc tính thực vật học: Cần sa được sử dụng trên thế giới từ thời 'Đồ đá', những dấu vết cũa sợi cần sa đã được tìm thấy trên các đồ gốm tại Trung Hoa và Đài Loan có niên đại từ 7000 năm trước. Sử gia người Hy lạp Herodotus đã ghi chép là cư dân tại Scythia đã hít hơi khói từ cần sa trong một số nghi lễ tôn giáo. Trong thời Trung Cổ cần sa được dùng làm thực phẩm trong một số món ăn tại Đức và Ý. Cần sa được trồng tại Âu châu để lấy sợi, làm thừng trên thuyền bè. Người Tây Ban Nha đã đưa cần sa đến Tân Thế Giới và trồng tại Chile từ 1545 và cây cần sa đã xuất hiện tại Hoa Kỳ vào khoảng 1607 tại Richmond, Virginia. Về phương diện thực vật học, chi Cannabis trước đây được xếp vào họ thực vật Urticacaea (họ gai) sau đó vào họ Moraceae (dâu tằm) nhưng hiện nay vảo họ Cannabaceae (họ này còn có cây Hương bia=Houblon). Các nhà thực vật phân loại Cannabis theo nhiều tiêu chuẩn, nhưng hiện nay tạm chia thành các nhóm: Cây trồng riêng cho mục đích thu hoạch sợi và lấy hạt, được mô tả là loại gây độc nghiền nhẹ, không chứa ma túy, hay loại lấy sợi. Cây trồng để làm thuốc, chứa lượng ma túy cao. Cây phát triển trong hoang dại. Năm 1976, nhà thực vật Canada Ernest Small và Nhà phân loại Mỹ Arthur Cronquist, dựa theo các yếu tố di truyền, nhiễm sắc... đưa ra bảng đề nghị là chỉ có một loài Cannabis với 2 loài phụ: C. sativa L. subsp. sativa C. sativa L. subsp. Indica Và theo 2 ông trong 2 loài-phụ còn có: C. sativa L. subsp. sativa var. spontanea là loài mọc hoang, ít độc chất. C. sativa L. subsp. indica var. kafiristanica là loải hoang chứa lượng ma túy cao. Theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ: các giáo sư William Emboden, Loran Anderson và Richard Schultes, có thể chia chi Cannabis thành 3 loài: C. sativa: thân cao, phân nhánh, lá nhỏ hẹp C. indica: thấp hơn, mọc dạng hình nón, lá phụ rộng hơn C. ruderalis: lùn, không có cành và mọc hoang trong vùng Trung Á. Cannabis sativa: Cây thuộc loại thảo, mọc thẳng đứng, có thể cao 1-2m. Thân vuông có rãnh dọc, phủ lông mềm. Lá mọc so le, có cuống và có lá kèm; mép lá có khia răng, đầu nhọn; lá phía dưới xẻ sâu đến gần sát cuống thành 5 đến 9 thùy ; lá nơi phần ngọn có 3 thùy nhỏ hoặc nguyên. Hoa đơn tính, mọc khác gốc, không có cánh hoa; lá bắc nhỏ và dài. Hoa đực mọc nơi kẽ lá hay đầu cành, thành chùy ngắn, buông thõng xuống, có 5 lá đài màu vàng nhạt, 5 nhị đực đối diện với lá đài. Hoa cái mọc đơn độc nơi kẽ lá bắc, có đài hợp thành một mo hình chai, ôm lấy bầu thượng, hình cầu. Quả thuộc loại bế quả, hình trứng dẹt, màu xám nhạt, có mũi nhọn ở đầu, không tự mở nhưng tách làm đôi do áp suất. Hạt nhỏ chứa nhiều dầu. Cây trổ hoa trong tháng 10. Đa số các nhà thực vật phân chia các cây Cannabis sativa thành 3 nhóm: Cannabis sativa var. vulgaris = Gai mèo (cần sa) cho sợi, thường trồng tại những vùng ôn đới để lây sợi, hạt để ép dầu. Cannabis sativa var. indica = Cần sa Ấn Độ trồng tại những vùng nhiệt đới. Cannabis sativa var. chinensis = Cần sa Tàu, mọc và trồng tại Nam Trung Hoa, Bắc Việt Nam (vùng thượng du Bắc Việt như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái..) (Cần sa Ấn Độ và cần sa Tàu cung cấp các ma túy Haschich và Marijuana. Theo giới 'nghiền' thì Haschich là ngọn hoa, có nhiều nhựa, dùng dưới dạng hít, nhai và uống; còn Marijuana là ngọn có hoa và lá dùng dưới dạng hút) Thành phần hóa học: Trên 420 hợp chất khác nhau đã được ly trích từ Cannabis và được thông báo trên các tạp chí khoa học như: Nhóm hợp chất gọi chung dưới tên Cannabinoids, trong đó chất chính là delta-9-tetrahydrocannabinol (THC), cannabidinol. Tỷ lệ THC thay đổi tùy theo thành phần của cây: cao hơn ở nhánh non, hoa, và lá; chồi, hạt và rễ thấp hơn. Hàm lượng THC cũng thay đổi tùy nơi cây được trồng và thu hoạch: Cây tại Kansas chứa khoảng 0.1 %, trong khi đó tại Jamaica hay Việt Nam cao đến 4%. Các alkaloids loại spermidin như cannabisativin, anhydro-can nabisativin. Các hợp chất có cấu trúc steroids. Tinh dầu dễ bay hơi trong đó có beta-caryophylen, humulen, alpha pinene, beta-pinene, limonen, myrcene. Trong hạt: các hợp chất mới ly trích được như Feruloyl tyramine (hợp chất loại amide); p-coumaroyltyramine. Hạt chứa khoảng 30 % dầu béo, 19 % chất đạm, đường hữu cơ như pentosan, dextrin, enzymes như emulsin, lipase. Trong quả: có thêm 3 lignan amides loại bis-phenylpropane (Phytochemistry Số 38-1995) Cần sa trong Y- Dược Cần sa đã được sử dụng làm thuốc từ hàng ngàn năm trước. Cây đã được mô tả trong Thần Nông Bản Thảo (5000 năm trước đây), và sau đó trong các sách thuốc cổ Hy Lạp, La Mã. Dược học cổ truyền Trung Hoa dùng cần sa (hỏa ma) để trị sốt rét, táo bón, đau nhức khớp xương, gút và bệnh phụ khoa. Các y sĩ Hy Lạp như Dioscorides, Galien dùng nước ép từ hạt để làm thuốc trị đau. Cho đến thập niên 60 của thế kỷ 20, Âu châu và Hoa Kỳ tiếp tục dùng cần sa làm thuốc để trị sưng, ho, chuột rút bắp thịt, mất ngủ, phong thấp, gút. Tại Hoa Kỳ có nhiều đặc chế trong thành phần có chứa cần sa. Cho đến 1941 cây còn được xem là vị thuốc chính thức ghi trong trong Chế Dược Thư (USP) và trong National Formulary (NF). Hoạt tinh sinh học và vấn đề sử dụng cần sa trong Y học: Các đặc tính dược học của toàn cây cần sa (Marjuana) cũng như của từng thành phần của cây hay của những hoạt chất đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng và rất chi tiết. THC có lẽ là chất quan trọng nhất để tạo ra các đặc tính dược học; Cannabinol có lẽ giúp gia tăng các hoạt tính về tâm thần. Cannabinol là sản phẩm từ sự phân hủy của THC và không có ở cây tươi. Tác động của Marijuana phát khởi ngay sau khi hít khói hoặc nhai, ăn cây. Khi hít, THC được hấp thu rất nhanh: mức sinh-khả dụng (bioavailability) lên đến gần 18% và có thể cao hơn nơi những người dùng cần sa liên tục. THC được phân bố rất nhanh trong cơ thể, nhất là tại các mô tế bào có nhiều lipid. Sau khi chích qua tĩnh mạch, khoảng 80-90% THC sẽ bị loại theo đường tiểu, và phần còn lại sẽ theo phân (nhờ mật) để bị tống xuất ra ngoài cơ thể. Các chất biến dưỡng từ THC vẫn có thể tìm thấy trong nước tiểu 10 ngày sau khi chỉ dùng cần sa một lần, và có thể đến 20 ngày nếu dùng liên tục. (Các hoạt động về tâm thần thường phục hồi và trở về trạng thái bình thường khoảng 3 giờ sau khi hút một lượng cao cần sa qua ống điếu, ống vố hay qua máy phun hơi. Tuy nhiên thời gian này có thể kéo dài hơn khi uống hoặc nhai lá và một số các 'dư vị' cảm xúc vẫn có thể còn lại sau 1, 2 ngày). Tác dụng chống nôn mửa: Chưa có những báo cáo về tác dụng chống nôn mửa của cần sa trên thú vật. Trong khi đó tác dụng chống nôn của THC đã được thử nghiệm lâm sàng nơi người với những kết quả rõ rệt. THC, dùng dưới dạng viên nang có hiệu ứng chống nôn tương đương với prochlorperazine, nhưng lại có nhiều phản ứng phụ trên hệ Thần kinh trung ương hơn. THC hữu hiệu hơn nơi những bệnh nhân đã 'lờn' các thuốc chống nôn khác và đặc biệt là rât tốt khi dùng cho các bệnh nhân ung thư cần đến liều cao methotrexate, BCNU (carmustine) và xạ trị. Chỉ có 9 trường hợp bị phản ứng nặng khi dùng THC nơi 1565 bệnh nhân. Tác dụng trên hệ tim-mạch: Nhai và hít hơi cần sa thường đưa đến tình trạng tim đập nhanh hơn, tuy nhiên nơi những người trẻ tuổi, không ghi nhận được các thay đổi về Điện Tâm Đồ (ECG). Tuy cần sa gây ra tăng huyết áp, nhưng không có bằng chứng về tác hại lâu dài trên hệ tim-mạch. Tác dụng trên phổi: Các phản ứng khó chịu do cần sa gây ra cho cuống phổi và phổi đã được ghi nhận khá đầy đủ nơi những người hút cần sa. Tuy hút cần sa ngắn hạn gây ra sự tăng độ giãn nở của phổi, và giảm sự co thắt cuống phổi nơi người bệnh suyễn nhưng hút cần sa lâu dài lại gây ra những rối loạn về chức năng phổi. Dùng cần sa thường xuyên có thể đưa đến các bệnh nghẽn phổi như sơ tế bào gian bào phổi. Trong một thử nghiệm so sánh các tác động phụ do hút thuốc lá với hút cần sa cho thấy chỉ hút một điều cần sa đã đủ tạo ra những giảm sút trong các chức năng sinh hoạt bằng hút đến 16 điếu thuốc lá (American Review of Respiratory Diseases Số 7-1978). Một nghiên cứu mới hơn, đánh giá tác hại của khói thuốc lá và khói cần sa cho thấy các chất độc hại tế bào ở trong khói cần sa có thể không gây tác hại cho những người hit phải khói (Pharmacology and Biochemistry Behavior Số 40-1991). Các loại cần sa khác nhau có thể chứa trong khói những lượng hydrocarbon đa vòng khác nhau, lượng này cao hơn đến 50% so với số lượng hydrocarbon trong khói thuốc lá. Nồng độ cao này thường được cho là có liên hệ đến bệnh ung thư phổi. Lá cần sa thường bị nhiễm các bào tử của nấm mốc: trong một thử nghiệm có đến 11 trong 12 mẫu thử bị nhiễm, bào tử nấm loại aspergillus này có thể theo khói để vào phổi người hút gây ra tình trạng phổi mẫn cảm với nấm mốc (New England Journal of Medicine Số 304-1981). Cần sa và ung thư: Khi thoa trên da chuột các hạt ngưng tụ từ khói cần sa, gây ra sự bội sinh tế bào nơi hạch mỡ. Trong một thử nghiệm khác, nhựa từ thuốc lá thoa trên da chuột gây ung thư mạnh hơn là nhựa cần sa. Sinh thiết tế bào cuống phổi nơi những người hút thuốc lá và những người hút cần sa đều cho thấy những thay đổi có thể đưa đến ung thư (JAMA Số 246-1981). Tác động vào Trung Tâm Thần Kinh: Cần sa gây những rối loạn về thời gian phản ứng, về sự phối hợp giữa các hoạt động cơ học và cảm xúc về thị giác. Cần sa có thể gây các phản ứng hoảng loạn, phản ứng hồi tưởng bất chợt (flashbacks) và nhiều rối loạn tâm thần xúc động. Trẻ em và người vị thành niên thường bị phản ứng mạnh hơn. Những sự sai biến về khái niệm thời gian, trong thị giác (thấy những hình ảnh biến dạng kỳ lạ) , thính giác (nghe thấy những tiếng động bất thường) có thể xẩy ra nơi người dùng cần sa. Do khả năng có thể làm cho người dùng dễ đi đến lạm dụng nên Bộ Y Tế Hoa Kỳ đã xếp cần sa vào loại Ma túy Bảng I. Người dùng cần sa thường có khuynh hướng chọn các loại chứa nồng độ cao THC (1.95%).. Tác động trên hệ nội tiêt: Phụ nữ dùng cần sa lâu dài có thể bị rối loạn về kinh nguyệt, kể cả những chu kỳ không có rụng trứng. Sự hư hại cho bào thai có thể xẩy ra nơi thú vật thử nghiệm và nơi người. THC có thể ảnh hưởng trên sự bài tiết kích thích tố gonadotropins nơi tuyến thùy. Nơi chuột đã bị cắt buồng trứng, chích THC ở liều thấp gây ức chế sự tiết kich thich tố thúc hoàng-thể (luteinizing hormone) đến 68%. Nơi phái đực, các kết quả về tác động hạ testosterone không đồng thuận: tuy có những báo cáo ghi nhận số đếm tinh trùng bị giảm hạ, cấu trúc tinh trùng thay đổi và độ di động của tinh trùng chậm đi. Tác động trên thị giác: Dùng cần sa có thể bị gia tăng sự co mạch nơi võng mạc. Cần sa và THC có khả năng làm giảm hạ áp xuât nội nhãn nơi bệnh nhân bị cườm (glaucoma). Tuy có một số nghiên cứu ghi nhận sự hữu hiệu thật sự của thuốc nhưng chưa biết được là phương pháp trị liệu bằng cần sa có thể bảo tồn được chức năng của thị giác không (Journal of Pharmacy and Pharmacology Số 40-1988). Sự giảm áp suất nội nhãn (IOP) tuy xẩy ra nơi người bệnh sau khi hút cần sa, nhưng hoạt tính này không kéo dài, đồng thời cũng có những nghi ngại về sự kiện giảm lưu lượng của máu đi về các thần kinh thị giác. Cần sa được xem là tác động trên IOP bằng cách gắn vào các thụ thể loại CB receptors nơi mắt. Cần sa để trị đau: Cần sa cho thấy có thể hữu dụng để giúp giảm đau, để trị một số bệnh về thần kinh như kinh phong, rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder), hội chứng Tourette. Cần sa giúp thữ giãn bắp thịt trong trường hợp bệnh Multiple Sclerosis (MS).. Các thuốc đặc chế hợp pháp từ cần sa: Tuy cần sa và những chế phẩm phát xuất từ cần sa được xếp vào Bảng I, nhưng có một số đặc chế được phép lưu hành tại Hoa Kỳ và Canada: Dronabinol (Marinol) Đây là dạng thuốc tổng hợp từ delta-9-THC, được FDA chấp thuận vào 1985 và lưu hành trên thị trường dươi dạng thuốc viên nang mềm chứa 2.5 hoặc 10 mg hoạt chất. Liều thông thường là uống 2.5 mg ngày 2 lần trước ăn trưa và ăn tối. Liều tối đa có thể tăng đến 20 mg/ngày. Thuốc được dùng để trị buồn nôn, ói mửa khi trị ung thư bằng hóa chất liệu pháp và giúp tạo cảm giác thèm ăn nơi người bệnh HIV. Hoạt chất được hòa tan trong dầu mè nên không thể dùng để hút. Marinol được xếp vào Bảng III. Nabilone (Cesamet) Thuốc tổng hợp, nhằm thay thế cho nhóm Cannabinoids, do Công ty Eli Lilly phát triển và được FDA chấp thuận vào năm 2006. Nabilone cũng được dùng để trị buồn nôn vá ói mửa cho bệnh nhân ung thư khi trị bằng hóa chất liệu pháp, liều thường dùng là 1-2mg, ngày 2 lần. Khi so sánh với các thuốc chống nôn thông thường như metoclopramide, prochlorperazine..., các thuốc cannabinoids cho thấy có hoạt tính tương đương, người bệnh dễ chấp nhận và đặc biệt là rất hữu hiệu khi dùng cho trẻ em, và ít xẩy ra phản ứng phụ. Nabilone đang được nghiên cứu, vào giai đoạn 2, để dùng làm thuốc hạ nhãn áp và thuốc an thần. Delta-9-THC/Cannabinol (Sativex): Đây là đặc chế được chấp thuận tại Canada để trị các trường hợp đau nhức thần kinh ngoại vi trong các bệnh MS (Multiple Sclerosis) và đau nơi người ung thư. Thuốc đang được thử nghiệm tại Hoa Kỳ để tri đau cho người ung thư.. Sativex được trích từ một 'chủng trồng=cultivar' Cannabis riêng biệt và là một hổn hợp gồm delta-9-THC và Cannabinol và đặc biệt nhất là thuốc ở dạng 'thuốc xịt=spray'. Cần sa trong Y dược cổ truyền Đông Phương: Dược học cổ truyền Trung Hoa đã sử dụng hạt cần sa làm thuốc từ hàng ngàn năm trước. Vị thuốc hay Hỏa Ma Nhân, Đại Ma Nhân đã được ghi chép trong Thần Nông Bản Thảo kinh. Dược học Kampo (Nhật) gọi vị thuốc là mashinin. Hỏa ma nhân được xem là có vị ngọt, tinh bình, có tác dụng nhuận táo, hoạt trường, thông tiện; tác động vào các kinh mạch thuộc Tỳ, Vị và Đại tràng. Dưỡng và Nhuận tràng: dùng trị các chứng táo bón nơi người cao niên, táo bón sau cơn bệnh kéo dài, sau khi sinh nở; thường được phối hợp cùng Đương quy, Sinh điạ hoàng để trị táo bón do khô tân dịch, và do 'Huyết' suy. Dưỡng 'Âm', bổ Âm dùng trong trường hợp Âm suy gây táo bón; dùng phối hợp với Bạch thược, Táo nhân. Thanh 'Nhiệt' giúp lành vết lở dùng làm thuốc trợ giúp điều trị các vết lở bên trong miệng do 'Hõa vượng tại Vị', phối hợp vơi Kim ngân hoa, Cam thảo.. Liều thường dùng: từ 9-18 gram Tại Ấn Độ, có 3 chế phẩm từ Cannabis: Bhang là bột tán từ toàn cây đã phơi khô, khi dùng được uống với nước hay sữa; Ganja gồm các cành có hoa của cây cái, thường cuốn thành điếu để hút, để nhai; Charas là nhựa cây để hút hoặc nhai. Dược học cổ truyền Ấn Độ (Ayurveda) cũng dùng cần sa để trị bệnh: Toàn cây được dùng để kiện vị, chống co giật, giảm đau, trị kinh phong. Lá trị no hơi đầy bụng, trị bệnh ngoài da. Cần sa và vấn đề luật pháp Tạp chí US Pharmcist, số tháng 10 năm 2010, trong bài Medical Marijuana đã tóm lược tình trạng luật pháp của cần sa tại Hoa Kỳ Theo' US Pharmacist' thì sau đây là những diễn biến chinh: Điều luật nguyên thủy về ma túy, áp dụng tại Hoa Kỳ the Harrison Narcotics Tax Act năm 1914 về buôn bán và nhập cảng các chất ma túy, đã không bao gồm cần sa. Giới truyền thông Hoa Kỳ trong các năm 1920s đã loan tin nhiều về vấn đề gia tăng sử dụng cần sa làm thuốc tạo 'cảm giác, vui chơi' đồng thời kèm theo những vụ bạo động, tội ác do giới nghiền cần sa gây ra và sau đó đến cuối thập niên 1930s thì hầu như tại tất cả các tiểu bang đều áp dụng các luật lệ đặt việc buôn bán và sở hữu cần sa ra 'ngoài vòng pháp luật' Các cố gắng của chính phủ Liên Bang để cấm đoán cần sa đã được Harry J Anslinger, Giám đốc Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs khởi xướng. Ông điều trần trước Quốc Hội là cần sa gây nghiện, đưa đến việc phạm tội ác bạo hành, thoái biến tâm thần và những người trẻ tuổi dễ mắc vào vòng nghiện ngập cần sa hơn là nghiện các loại ma túy khác. Năm 1937, điều luật Liên Bang Marihuana Tax Act được ban hành đặt việc sử dụng cần sa (ngoài mục đích y học) ra ngoài vòng pháp luật. Điều luật này có mục đích chính là để giới hạn việc trồng cần sa và đánh thuế vào mọi dịch vụ buôn bán cần sa.Và để được phép dùng cần sa trị bệnh, Luật này cũng đặt ra những điều khoản bắt buộc các y sỉ cho toa và dược sĩ cấp thuốc phải ghi danh và trả thuế. Các điều khoản khó khăn này đã khiến việc biên toa cần sa trở thành nhiêu khê đến mức hầu như không ai muốn làm. Luật còn miễn trừ, không áp dụng cho các thành phần của cây như chồi trưởng thành, sợi cây, dầu ép từ hạt, hạt được vô sinh hóa, khử trùng. Sau đó, cần sa được xếp bao gồm trong các loại ma túy trong Comprehensive Drug Abuse Prevention and Control Act of 1970 (Controlled Substances Act=CSA), và được xếp vào Bảng I. (Điều luật không phân biệt loại cần sa , gồm chung mọi loại kể cả loại dùng lấy sợi trong công nghiệp). Thuốc xếp trong bảng này được xem là dễ bị lạm dụng, thiếu những bằng chứng hữu dụng trong y học tại Mỹ, và chưa có đủ bằng chứng cho việc an toàn trong trị liệu. Quyết định này cho thấy: đối với Quốc hội Hoa Kỳ việc dùng cần sa trị bệnh không có căn bản y học. Quốc hội cũng xếp cần sa vào một bảng 'tạm', 'treo' để chờ thêm các nghiên cứu do một Ủy ban Quốc gia. Ủy ban này sau đó đề nghị..'bỏ cần sa' ra ngoài bảng nhưng TT Nixon không đồng ý và cho đến nay cần sa vẫn ở trong Bảng I. Năm 1972, một bản thỉnh nguyện đã được đệ nạp với Cơ quan Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs (tiền thân của DEA) xin xếp cần sa vào Bảng II để các bác sĩ có thể ghi toa; nhưng một loạt các cuộc đối đầu về luật pháp đã diễn ra sau đó cho đến khi Tòa Kháng cáo US (US Court of Appeal, DC Circuit), năm 1994 phán quyết 'giữ nguyên' quyết định của DEA: cần sa tiếp tục ở lại trong Bảng I. Năm 1976, một bệnh nhân, Ông Robert Randall nộp một đơn thỉnh nguyện đến FDA và sau đó đã thành công trong một vụ kiện Chính quyền cho ông dùng cần sa để trị bệnh glaucoma, viện dẫn lý do nhu cầu y học. Sau vụ kiện này, chính phủ Hoa Kỳ cho thành lập Chương trình Compassionate Investigational New Drug (IND). Chương trình cho phép các bác sĩ ghi toa cần sa cho các bệnh nhân ghi danh vào các chương trình liên bang, tuân theo một số biện pháp gắt gao về khoa học, và cần sa sẽ được trực tiếp cung cấp từ một 'nguồn liên bang' để tránh việc người bệnh tự trồng lấy. Nguồn cần sa duy nhất này là cây trồng tại nông trại của National Institute on Drug Abuse (NIDA), tại trường Dược ĐH Mississippi: cần sa được gửi về North Carolina, để được cuốn thành thuốc hút chứa lượng theo tiêu chuẩn (thị trường..đen) là 2% và hiện nay là 3.5 %. Tuy nhiên thời gian để một bệnh nhân được chấp thuận vào chương trình kéo dài từ 4 đến 8 tháng, gây nản lòng nên ít bệnh nhân chịu ghi danh. Để ứng phó với những khó khăn trên, 31 tiểu bang tại Hoa Kỳ, từ 1982, đã tự đặt những chương trình riêng: 21 tiểu bang có những chương trình Nghiên cứu về tính cách trị bệnh của cần sa (therapeutic research programs= TRP), dựa theo chương trình liên bang, đặt ra các thử nghiệm lâm sàng để xác định nhu cầu ghi danh bệnh nhân và bệnh nhân co thể nhận cần sa từ các bác sĩ có ghi tên tham gia vào chương trình; thuốc vẫn từ NIDA gửi đến, và các tiêu chuẩn xét nhập tương đối ít giới hạn hơn. Tuy nhiên vì các thủ tục thành lập các TRP rất gắt gao và do Liên Bang giám sát nên chỉ có 8 trong số 22 chương trình của các tiểu bang hoạt động được New Mexico, tiểu bang đầu tiên tổ chức TPR vào 1978 đã gặp trở ngại khi FDA đòi hỏi phải có sự so sánh với placebo khi cho phát cần sa cho bệnh nhân. Các chương trình cấp tiểu bang: Chương trình IND bị đình chỉ vào năm 1992 và các nguồn cung cấp cần sa 'hợp pháp' không còn nữa. Do đo nhiều tiểu bang đã tự tìm phương thức giải quyết. Cho đến 2010: 14 tiểu bang đã có những điều luật cho phép bệnh nhân dùng và sỡ hữu cần sa cho nhu cầu trị bệnh cá nhân vơi sự đồng ý của BS trị bệnh, và đa số cho phép người bệnh hay người săn sóc cho bệnh nhân được phép tự trồng cần sa dùng trị bệnh. 14 tiểu bang này gồm Alaska, California, Colorado, Hawaii Maine, Michigan, Montana, Nevada, New Jersey, New Mexico, Oregon, Rhode Island, Vermont và Washington. Tiểu bang thứ 15, Maryland tuy bảo vệ người bệnh sở hữu (nhưng không được tự trồng) cần sa không bị xử tù nhưng vẫn có thể bị phạt. Có thêm 8 tiểu bang có luật cho phép người bệnh sở hữu cần sa theo toa BS, nhưng vì không có nguồn cung cấp cần sa hợp pháp nên các điều luật tại các tiểu bang này chỉ có tính cách tượng trưng. Tại 4 tiểu bang khác, cần sa được xếp vào một bảng để BS có thể ghi toa theo luật tiểu bang, nhưng cũng chỉ có tinh cách tượng trưng vì luật liên bang vẫn cấm ghi toa cần sa. Tổng cộng có 3 tiểu bang và District of Columbia công nhận giá trị trị bệnh của cần sa nhưng việc công nhận đâu có phải là cho phép người bệnh sử dụng? Các điều khoản trong các đạo luật cho phép dùng cần sa tại từng tiểu bang cũng không đồng nhất, ngay cả các bệnh được phép chữa bằng cần sa cũng khác nhau: tất cả mọi tiểu bang đều cho phép người HIV/AIDS, người ung thư... sử dụng cần sa, tất cả ngoại trừ một tiểu bang cho phép dùng cần sa để trị glaucoma, và chỉ California cho dùng cần sa để trị đau đầu loại migraine, và chỉ Michigan cho phép dùng trị ALS. Trong số 14 tiểu bang có 11 tiểu bang có chương trình ghi danh/ thẻ nhận dạng, nhưng tiêu chuẩn thay đổi tùy nơi. Đa số các tiểu bang giúp bảo vệ người ghi danh khỏi bị bắt hay truy tố. Số lượng được phép sở hữu cũng thay đổi: từ 1 oz và không quá 3 cây ở Nevada và Alaska đến 24 oz và 15 cây ở Washington. California phân biệt rõ ràng giữa người sử dụng có giấy phép và người không có giấy phép. Người có ghi danh có thể sở hữu đến 8 oz và 6 cây trưởng thành hay 12 cây non; trong khi đó người không ghi danh ký chỉ được phép có một số lượng vừa đủ cho nhu cầu điều trị'.. Trường hợp California: California là tiểu bang đầu tiên đã hợp thưc hóa việc dùng cần sa trong mục đich trị bệnh, sau khi thông qua Đạo luật Compassionate Use Act vào năm 1996. Mục đích của đạo luật được ghi là:' Để giúp cư dân California có quyền có và sự dụng cần sa trong các mục đich trị bệnh khi việc sử dụng được xem là chính đáng và được bác sĩ điều trị xác nhận là cần thiết cho bệnh nhân trong các trường hợp bệnh như ung thư, ăn mât ngon, AIDS, đau nhức kinh niên, co thắt bắp thịt, glaucoma, sưng xương khớp, đau đầu loại migraine..' Đạo luật Califormia được xem là tương đối 'thoải mái' cho phép dùng cần sa để trị liệu nhiều loại bệnh và không đòi hỏi các bằng chứng về sự hữu hiệu của cần sa trong các bệnh liệt kê. Đạo luật còn có một số điểm cần ghi nhận như: sau khi được bác sĩ (MD hay DO hành nghề trong tiểu bang) khuyến cáo nên dùng cần sa, bệnh nhân cần nộp đơn xin cấp một thẻ căn cước dùng cần sa để chữa bệnh (Medical Marijuana Identification Card), cho phép sở hữu, trồng, chuyên chở và sử dụng cần sa để trị bệnh. Tuy chương trình cấp ID không có tính cách bắt buộc nhưng cho đến 2010 đã có trên 40 ngàn thẻ được cấp phát. Trước khi cho người bệnh dùng cần sa, BS (MD hay DO) cần phải khám bệnh và ghi kết quả chẩn đoán, xác nhận bệnh trạng phải cần đến cần sa khi trị liệu. Người dùng cần sa phải là cư dân California và người bệnh có thể nộp đơn ghi danh cho 'người chăm sóc trực tiếp cho mình'. Người này có thể là người lo cho bệnh nhân về ăn, ở, sức khỏe, an ninh và có thể là một cá nhân độc lập, hay nhân viên của một nhà thương, y viện hay tổ chức cung cấp dịch vụ y tế tại gia. Việc 'hợp pháp hoá' sử dụng cần sa đã tạo ra một công việc liên hệ. Sự xuất hiện của các phòng cấp thuốc (Dispensaries) bán cần sa công khai cho công chúng, tại một số phòng còn có sẵn BS để giúp bệnh nhân xin cấp ID. Hiện nay quanh vùng Los Angeles có đến trên 1000 Dispensaries, có nơi còn tập trung nhiều hơn là hệ thống cà phê Starbucks.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2010 7:54:47 GMT 9
Trường hợp Oregon: Tại Oregon, việc cho phép người bệnh tự trồng cần sa, tuy giới hạn từ 3-5 cây nhưng cũng gây ra một số vấn đế pháp lý đi kèm theo. Một cư dân Oregon đã tự thiết lập một hệ thống phòng vệ bao gồm, hầm chông, bẫy sụp, rào điện..để bảo vệ các cây của ông ta, nhiều lần bị kẻ gian lấy trộm mà cảnh sát không can thiệp. Cảnh sát tuy than phiền nhưng không thể bắt buộc tay trồng cần sa này tháo bỏ hệ thống phòng vệ. Các vấn đề luật pháp tiếp diễn: Trong khi các tiểu bang tiếp tục đưa ra những sắc luật để giúp người bệnh sở hữu cần sa theo nhu cầu điều trị thì trên thực tế các sắc luật này đều có những điểm trái ngược với luật liên bang về Ma Túy (Luật LB giữ nguyên cần sa trong Bảng I). Các nghịch điểm này đã đưa đến nhiều vụ kiện cáo và quan trọng nhất là một phán quyết của Tối Cao Pháp Viện vào năm 2005. Năm 2002, các nhân viên của Cơ quan DEA (Drug Enforcement Agency) và nhân viên công lực địa phương đã 'đột kích' vào tư gia của bà Angel Raich tại California, tịch thu và phá hủy các cây cần sa bà trồng theo điều luật California's Compassionate Use Act cho phép. Bà và một số người khác đã kiện chính phủ để ngăn việc thi hành luật của CSA, viện dẫn nhiều điều khoản về Hiến Pháp và nguyên tắc nhu cầu trị bệnh. Bà Raisch đang bị bướu trong óc (không thể dùng phẫu thuật để mổ), kinh phong, hội chứng mất cân và cho biết bà dùng thuốc dưới sự giám sát của BS. BS của bà chứng thực là bệnh không thể chữa khỏi bằng các phương pháp y khoa 'chinh thống' và nếu không dùng cần sa, bà không chịu nổi sự đau và có thể chết. Tuy bị thất kiện ở các tòa sơ thẩm, nhưng Tòa Kháng Án (US Court of Appeal) đã phán quyết là luật Liên Bang về điều hành thương mãi không được áp dụng trên việc cho phép dùng cần sa để trị bệnh trong luật tiểu bang và ghi thêm vụ kiện cho thấy có sự khác biệt giữa buôn bán ma túy và việc cho phép dùng cần sa trong mục đích trị liệu. Tuy nhiên Tối Cao Pháp Viện HK đã 'đảo ngược' phán quyết này theo tỷ lệ 6-3 cho rằng CSA có quyền thực thi luật pháp Liên bang dù áp dụng luật vào một trường hợp 'có những sự kiện rắc rối' như vụ án này. Với phán quyết này Tối Cao Pháp Viện hầu như đã 'vô hiệu hóa' mọi luật lệ tiểu bang về sử dụng cần sa. Tháng 10 năm 2009, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đã công bố một văn kiện nhằm ' làm rõ hơn và hướng dẫn cho các công tố viên Liên bang tại những tiểu bang có những điều luật cho phép sử dụng Cần sa để trị bệnh'. Văn kiện nhấn mạnh việc truy tố buôn bán ma túy trái phép, trong đó có cần sa, vẫn là trọng điểm của Bộ, nhưng văn kiện cũng cho biết là việc ưu tiên không nhằm vào những người'thật sự, rỏ rệt' theo đúng các luật lệ tiểu bang cho phép dùng cần sa. Các điều khoản hướng dẫn này không nhằm đưa ra các luận cứ dùng chống đỡ cho các vụ vi phạm luật pháp liên bang nhưng giúp các công tố viên trong việc điều tra và truy tố những vi phạm liên hệ. Trên thực tế Bộ Tư Pháp HK đã cho thấy sẽ không thi hành luật liên bang trong các trường hợp luật tiểu bang về cần sa có khả năng bảo vệ cho bệnh nhân chống lại các nguy cơ bị truy tố.
Cần sa, cây công nghiệp: Cây cần sa được nhiều quốc gia trên thế giới trồng trong những đồn điền để dùng trong công nghiệp chế tạo nhiều vật dụng trong đời sống hàng ngày như vải, sợi, giấy... Cây được gọi là Hemp. Chủng cannabis được trồng trong công nghiệp là Cannabis sativa var. Sativa có đặc tính là tỷ lệ hoạt chất THC thường dưới 0.3 % trong khi đó các chủng cần sa, loại ma túy có thể chứa từ 6 đến 20 % THC. Cannabis sativa var. indica không cung cấp sợi đạt đủ tiêu chuẩn công nghiệp. Hiện nay trên 30 quốc gia đang trồng và sản xuất cần sa chuyên dùng trong công nghiệp trong đó có Úc, Áo, Canada, Trung Hoa, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. Từ những năm 1950 đến 1980, liên bang Soviet là nơi sản xuất nhiều cần sa công nghiệp nhất trên thế giới với khoảng trên 3000 cây số vuông, tập trung trung vùng Ukraine, Kursk và vùng biên giới với Ba Lan. Cũng từ 1931, Trung tâm Nghiên cứu về các chủng cần sa, cải thiện phẩm chất sợi và năng suất cây trồng, tỷ lệ THC trong cây, quan trọng nhất của thế gìới là Hemp Breeding Department của Institute of Bast Crops tại Ukraine. Pháp là quốc gia sản xuất cần sa quan trọng nhất tại Âu châu với khoảng 8000 hecta nuôi trồng (Canada trồng 9725 hecta, năm 2004), Anh và Đức khai thác trở lại vào 1990. Lịch sử Hoa Kỳ có một số liên hệ 'đang ghi lại' với cần sa: Năm 1619, thuộc địa Jamestown tại Virginia thông qua điều luật đầu tiên về Hemp tại Tân Thế giới: Sẽ vi phạm luật nếu không trồng hemp lấy sợi làm buồm, dây thừng, vải may quần áo và những đồ vật gia dụng khác. Năm 1645 người Puritans đưa hemp đến New England, kéo ra sợi và dệt thành vải. Năm 1776. Thomas Jefferson một nhà trồng hemp, đã phác thảo Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ trên giấy nháp làm bằng hemp. George Washington cũng trồng hemp và Ben Franklin là chủ nhân của một nhà máy xay chế tạo bột giấy từ hemp. Từ 1890, công nghiệp hemp bị cạnh tranh mạnh do việc phát triển các loại máy thu hoạch bông gòn, làm hạ giá nhân công; đồng thời các sợi thiên nhiên khác được nhập vào Hoa Kỳ. Năm 1937 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Marihuana Tax Act, điều luật trên thực tế đã dẹp bỏ việc trồng cần sa công nghiệp tại Hoa Kỳ. Năm 1941, công ty Ford Motor đã đưa ra quan niệm mới về một loại xe làm bằng plastic, 70% từ sợi do hemp cung cấp và 30% từ các chất nhựa kết dính. Năm 1942, các sự vận chuyển tơ sợi từ Phillippines về Hoa Kỳ bị gián đoạn do Thế Chiến II. Bộ Canh Nông HK đã phải ký hợp đồng với War Hemp Industries Inc. để sản xuất sợi và hạt hemp cho nhu cầu chiến tranh. Từ 1945, các giao thương toàn cầu được tái lập đưa đến tơ sợi nhập vào Mỹ dễ dàng nên việc trồng hemp suy giảm. Năm 1957, các nông trại Wisconsin thu hoạch mùa hemp cuối cùng trồng tại Hoa Kỳ. Mãi đến 50 năm sau, phong trào trồng cần sa công nghiệp tại Hoa Kỳ mới bắt đầu khởi phát trở lại. Một số tiểu bang đã có những luật cho phép trồng cần sa công nghiệp. North Dakota là tiểu bang đầu tiên ban hành luật lệ và các thủ tục cấp giấy phép trồng, tuy nhiên vẩn chưa được sự đồng ý của DEA và chờ phán quyết của Tòa Án Liên Bang. Oregon có luật về trồng cần sa công nghiệp từ tháng 8 năm 2009. Ứng dụng của cần sa trong công nghiệp: Trong công nghiệp, cần sa được sử dụng khá rộng rãi, nhất là trong việc chế tạo những sợi giây để cột, buộc với những độ căng thay đổi, sợi để dệt thành vải may quần áo. Tuy có thể dùng hoàn toàn 100 % sợi từ cần sa, nhưng trong kỹ nghệ may mặc thường có sự pha trộn với các sợi hữu cơ khác như sợi gai, bông gòn hay tơ lụa. Vải để may thường pha trộn theo tỷ lệ 55% sợi cần sa với 45% sợi từ bông gòn. Sợi tách từ thân cần sa được xem là phần có giá trị nhất của cây. Sợi thường được gọi là bast và đây là phần sợi mọc ở lớp ngoài của thân gỗ bên trong cọng thân cần sa, và ngay bên dưới lớp vỏ. Các sợi bast đã tạo độ bền dẻo của thân cần sa. Sợi này có thể dài từ 0.9 đến 4.5 m dọc suốt chiều dài cũa thân. Tùy theo kỹ thuật tách sợi, sợi thiên nhiên có thể có màu trắng kem, nâu, xám nhạt và xanh lục..Tuy việc sử dụng sợi từ cần sa đã giảm rất nhiều từ 2 thế kỷ gần đây do các cuộc cách mạng kỹ thuật, nhưng sợi hemp vẫn được xem là bền chắc hơn sợi bông gòn và cây hemp trồng, phát triển nhanh hơn, cung cấp hơn 10 % sợi so với trồng bông gòn khi trồng trên cùng một khu đất. Vải dệt từ sợi hemp được dùng làm buồm cho tàu bè. Sợi hemp kết thành giây thừng, giây cột, dệt bao bố. Công nghiệp giấy dùng cần sa làm bột giấy. Người Trung Hoa có lẽ đã dùng cần sa làm giấy từ thời Đông Hán. Hiện nay sợi hemp được pha trộn với nhiều loại sợi khác để làm bột giấy. Sản lượng bột giấy từ hemp còn tương đối thấp: khoảng 120 ngàn tấn trong năm 1991 và chỉ chiếm 0.05 % tổng sản lượng bột giấy sản xuất hàng năm, và gíá thành phẩm lại cao hơn bột từ gỗ đến 6 lần, chưa kể những vấn đề trang bị nhỏ và lỗi thời, thu hoạch và tồn trữ còn nhiều trở ngại. Trong công nghiệp vật liệu xây cất: sợi cần sa được dùng để giúp tăng sự bền chắc cho khối bêtông, và làm cấu tử trong nhiều hợp chất loại 'composite'. Dầu ép từ hạt được dùng để bôi trơn máy móc và trong các kỹ nghệ sơn, sơn bóng. Cần sa dùng làm thực phẩm Hạt cần sa chứa đầy đủ mọi loại acid amin thiết yếu và những acid béo căn bản, cần thiết để giúp duy trì sức khỏe. Có thể ăn hạt sống, hay tán thành bột, để hạt mọc mầm (như giá đậu), làm sữa như kiểu sữa đậu nành, pha thành trà và làm bánh. Trên thị trường có nhiều sản phẩm từ cần sa, dưới nhiều dạng từ cereals đến bánh kẹp waffles đông lạnh, đậu hũ bằng hemp. Tại các quốc gia trong khối Liên Hiệp Anh, Bộ Môi Sinh và Canh Nông (Depatment for Environment, Food and Rural Affairs = DEFRA) đã xem hemp như một cây hoàn toàn không thuộc loại cây thực phẩm, và cấp giấp phép cho trồng trong mục đích nêu trên. Tại Bắc Mỹ, hạt cần sa thực phẩm được bán tại các cửa hàng 'thực phẩm' và qua cách gửi (mail order). Vài số liệu về dinh dưỡng: 100 gram hạt hemp (cả vỏ) chứa: - Calories 567 - Chất đạm 30.6 g - Carbohydrates 10.9 g - Chất béo tổng cộng 47.2 g - bão hòa 5.2 g - chưa bão hòa đơn 5.8 g (monounsaturated) - chưa bão hòa đa 36.2 (polyunsaturated) - Vitamins - A (Beta-carotene) 4 IU - B1 (Thiamine) 1 mg - B2 (Riboflavine) 1 mg - E 9 IU - Các khoáng chất: - Sodium 9 mg - Sắt 4.7 mg - Calcium 74 mg Tính theo trọng lượng thì trong hạt hemp có từ 30-35 % dầu béo, đây là một loại dầu béo ăn được chứa đến 80% acid béo căn bản EFA (Essential Fatty Acid) như linoleic acid, Omega-6 (LA, 55%), alpha-linoleic acid, Omega-3 (ALA 22%) và còn có gamma-linoleic acid, Omega-6 (GLA 1-4%)..Tỷ lệ giữa linoleic acid và alpha-linoleic acid trong dầu hạt hemp khá lý tưởng: chỉ cần dùng 1 thìa canh=15ml là đã đủ lượng EFA cần thiết cho mỗi ngày. Hạt hemp, cả vỏ chứa khoảng 25 % chất đạm, thuộc loại dễ tiêu hóa, trong đó 1/3 là edestin và 2/3 là albumin. Thành phần acid amin được xem là rất tuơng tư như các protein từ thịt, trứng và đậu nành.
Tài liệu sử dụng: Medical Marijuana: Therapeutic Uses and Legal Status (US Pharmacist October 2010) The Review of Natural Products (Facts and Comparisons) PDR for Herbal Medicines. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập 1 (Viện Dược liệu) Oriental Materia Medica (Hong-Yen Hsu) Medicinal Plants of India (S.K Jain)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:15:28 GMT 9
Nghiên cứu về y thuật của Lãn Ông Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ » Tiểu sử Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác Mục Lục Phần 1: QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA LÃN ÔNG ĐỐI CHIẾU VỚI TÂY Y A. Quan niệm về thận của Đông y qua các thời đại B. Sinh lý học và bệnh lý học về Mệnh môn C. Quan niệm về Thận của Lãn Ông đối chiếu với Tây y Kết luận Toát yếu / summary Phần 2: TRỊ LIỆU PHÁP CỦA LÃN ÔNG SO SÁNH VỚI TRỊ LIỆU PHÁP CỦA ÍT NHIỀU DANH Y TRUNG HOA A. Trị liệu pháp của ít nhiều danh y Trung Hoa B. Trị liệu pháp của Lãn Ông Kết luận Phần 1 Quan niệm về Thận của Lãn Ông đối chiếu với Tây y [1] Quan niệm về Thận của Lãn Ông có thể nói được là hết sức độc đáo. Quan niệm này đã được trình bày cặn kẽ trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi và trình bày sơ lược trong quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ. Cũng như Triệu Dưỡng Quì, tác giả bộ Y Quán, và Phùng Triệu Trương (Phùng thị, khoảng 1702), tác giả bộ Phùng Thị Cẩm Nang, Hải Thượng Lãn Ông không lấy Tâm làm trọng, mà lại lấy Thận làm trọng.[2] Lãn Ông chủ trương: «Trời đất bên ngoài có Thái Cực thì thân thể con người bên trong có thận.» [3] Chữ Thận đây không thể hiểu theo nghĩa thông thường như là một bộ phận bài tiết nước tiểu, mà phải hiểu như là một hệ thống gồm: - Thận: cơ quan bài tiết nước tiểu. - Mệnh môn: Một hạch nội tiết (glande endocrine), nói theo từ ngữ y học hiện nay. Hình trích từ quyển Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne của P.Huard và Maurice, tr.295, hình D A. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA ĐÔNG Y QUA CÁC THỜI ĐẠI Để vấn đề được sáng tỏ, trước hết thiết tưởng nên trình bày sơ lược về quan niệm Thận theo Đông y qua các thời đại. 1. Trước tiên Biển Thước (Tần, Việt Nhân, khoảng 225 tcn), tác giả Nạn Kinh, cho rằng: Thận có hai trái, tả và hữu, y như trời đất có Âm Dương. Trái bên tả là Thận; trái bên phải là Mệnh môn.[4] Sau này, Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 cn) và nhiều danh y Trung Hoa cũng đã theo thuyết này. 2. Trương Giới Tân tức Cảnh Nhạc (1563-1640) cho rằng: - Mệnh môn ở chính giữa (Dương). - Hai quả thận ở hai bên (Âm). Tất cả hợp lại thành quẻ Khảm, cũng có một hào Dương và hai hào Âm. Quẻ Khảm và quả thận 3. Lãn Ông, theo Triệu Dưỡng Quì và Phùng thị, dựa vào quẻ Khảm và vào Thái Cực đồ, đã cho rằng Thận trong người chính là Thái Cực. Theo Lãn Ông, Thận gồm có: - Hai quả Thận ở hai bên tả hửu, tức là hai nửa vành lớn của Thái Cực. - Mệnh môn ở chính giữa, chủ về nam tinh nữ huyết, tức là chủ về sinh dục. - Vòng tròn trắng bên phải gọi là Chân hỏa hay Tướng hỏa. - Vòng tròn đen bên trái gọi là Chân thủy. Hai vòng đen trắng: Chân thủy, Chân hỏa tướng ứng với hai chấm nhỏ trắng đen mà ta thấy trong hình Thái Cực. Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi, Lãn Ông đã vẽ hai hình để suy diễn Thái Cực ra Thận và các bộ phận. Trong hệ thống Thận nói trên, đối với Lãn Ông, thì chỉ có Mệnh môn, Chân thủy, và Chân hỏa là quan trọng nhất. Quyển Huyền Tẫn Phát Vi và quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của Lãn Ông nguyên bàn về Chân hỏa, Chân thủy, các chứng bệnh do chúng phát sinh cũng như cách trị liệu. B. SINH LÝ HỌC VÀ BỆNH LÝ HỌC VỀ MỆNH MÔN Như đã nói, Mệnh môn gồm có ba phần: - Mệnh môn ở chính giữa, chủ trị Nam tính, Nữ huyết, tức là có ảnh hưởng nhiều đến cơ quan sinh dục.[5] - Chân hỏa hay Tướng hỏa, thuộc Dương, chủ trì về sinh dục của con người. - Chân thủy, thuộc Âm, điều khiển sự chuyển hóa về huyết dịch trong người. Chân thủy, Chân hỏa trong con người cần phải hòa hợp, cộng tác với nhau thì cơ thể mới được khoẻ mạnh, nếu như một bên mà thiên thắng, thì cơ thể sẽ mất thế quân bình và sẽ sinh bệnh tật. Một thầy thuốc giỏi chính là người biết điều hòa Âm Dương để gây lại được thế quân bình đã mất.[6] Vì Chân hỏa, Chân thủy quan hệ bậc nhất như vậy, nên chúng ta sẽ khảo sát chúng một cách tường tận hơn. 1. Chân hỏa (Tướng hỏa, Long hỏa): le Principe thermique [7] Chân hỏa góp phần rất lớn vào công cuộc biến dưỡng nơi con người (métabolisme). - Nó chủ trì mọi sinh hóa. - Nó giúp cho tì vị hoạt động hẳn hoi, giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng. - Nó giúp cho phổi được hoạt động hữu hiệu. - Giúp khí huyết vận chuyển điều hòa. - Nó giúp cho da thịt được săn khít. - Nó giúp cho thần trí được minh mẫn. a. Hỏa thịnh Nếu hỏa thịnh (Dương thịnh), con người sẽ khoẻ mạnh, thịt xương rắn chắc. b. Hỏa kháng (hỏa thái quá) Nếu hỏa thái quá (kháng Dương), sự sinh hóa sẽ bị kích thích quá mức, và con người sẽ táo khát, cơ thể sẽ mất nước. Đó là trường hợp «thượng nhiệt, hạ táo» mà Lãn Ông đề cập đến trong Châu Ngọc Cách Ngôn (q.thượng, tr.3a). c. Hỏa hư Nếu hỏa hư, các hiện tượng sinh hóa sẽ bị đình trệ , con người sẽ trở nên yếu đuối, xanh xao, lông tóc sẽ dễ rụng, tì vị sẽ làm việc kém đi, sự tiêu hóa sẽ trở nên chậm chạp và con người sẽ bị sình hơi, trướng bụng, ăn uống khó tiêu, hay bị ẩu tả. Mặt khác, da cũng không được săn khít, khiến các khổng (sphincters) không được bền chặt, cho nên hay bị nôn mửa, đi xông, di tinh, ra mồ hôi trộm, v.v. Hỏa hư cũng có thể làm cho con người trở nên bì quyện, hôn trầm. Hỏa hư, Dương hư còn gây ra chứng «phù hỏa». Phù hỏa là hỏa bốc lên đầu, tan ra bì phu, trong khi đó thì chân tay lạnh, tạng phủ lạnh. Lãn Ông gọi thế là triệu chứng «thượng nhiệt, hạ hàn» (xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.1, tr.2a). 2. Chân thủy (le Principe aqueux) Chân thủy chủ trì các sự vận chuyển tân dịch, huyết dịch trong người, làm cho cơ thể trở nên nhuần đượm, triển dương, lông tóc óng ả mầu mỡ. a. Thủy quá thịnh Thủy quá thịnh sẽ làm cho huyết dịch trong người trở nên úng trệ (stase, infiltration d’eau, rétention d’eau, aumentation du volume sanguin), phù thũng (oedème). b. Thủy hư Nếu thủy hư, âm hư, huyết dịch trong người sẽ bị giảm thiểu (hémoconcentration, réduction des liquides extra-cellulaires), chẳng những thế, các tân dịch (sécrétions) trong người cũng giảm đi. 3. Phương pháp trị liệu Phương pháp trị liệu ở đây là phải điều hòa Âm Dương. a. Bổ thủy Nếu hỏa thịnh, thủy hư, sẽ bổ thủy. Bổ thủy để chế Dương quang (bổ thủy dĩ chế Dương quang). b. Bổ hỏa Nếu thủy thịnh, hỏa hư, sẽ bổ hỏa. Bổ hỏa để dẫn hỏa qui nguyên, bổ hỏa để tiêu trừ sự u ám, khuất lấp của Âm (dẫn hỏa dĩ phản nguyên; bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế). Bổ hỏa bằng bài bát vị ; bổ thủy bằng bài lục vị. c. Bát vị Bài bát vị do Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) sáng chế ra để chữa cho Hán Vũ Đế. Bài bát vị gồm 8 vị như sau: * Bổ Âm (-) = 1. Đơn bì, 2. Phục linh, 3. Trạch tả. * Bổ Dương (+) = 4. Quế, 5. Phụ. * Bổ Âm (-) = 6. Thục địa, 7. Hoài sơn, 8. Sơn thù.[8] d. Lục vị Tiền Ất (thế kỷ XI, khoảng 1093) chuyên trị về nhi khoa đã bỏ hai vị Quế và Phụ trong bài bát vị nói trên mà chế thành bài lục vị. Thoạt tiên Tiền Ất dùng bài lục vị để bồi bổ cho trẻ con mau lên cân, chóng lớn. Sau này các danh y mới dùng lục vị để bổ thủy. Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi ta thấy Lãn Ông chỉ dùng có hai bài bát vị và lục vị nói trên với những biến đổi gia giảm mà chữa được vô số kỳ bệnh, quái bệnh. Tóm lại, đối với Lãn Ông: - Thận là Thái Cực. - Mệnh môn là Thái Cực. - Thái Cực có Âm Dương. - Mệnh môn có Chân thủy, Chân hỏa. - Thái Cực, Âm Dương có quan trọng thế nào đối với vũ trụ thì Thận, Mệnh môn, Chân thủy, Chân hỏa cũng quan hệ đến sức khỏe con người như vậy. Chữa bệnh mà chữa được tới căn bản, mà biết tài bồi căn bản thì lo chi bệnh không lành, người không khoẻ. C. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA LÃN ÔNG ĐỐI CHIẾU VỚI TÂY Y Quan niệm của Lãn Ông về Thận có rất nhiều điểm tương tự với những khái niệm mới mẽ nhất về Tuyến thượng thận (glandes surrénales; capsules surrénales; surrénales; adrenal glands) của Tây y. 1. Sự phân chia Mệnh môn của Lãn Ông ăn khớp với sự phân chia vỏ thượng thận (cortex surrénal; adrenal cortex) của sinh lý học hiện đại. * Lãn Ông chủ trương: - Chân hỏa chủ trì về sinh khí, sinh lực trong con người. - Chân thủy chủ trì huyết dịch trong người. - Mệnh môn chủ trì về sinh dục. * Khoa sinh lý học ngày nay chủ trương: Vỏ thượng thận gồm 3 phần: - Vùng chùm (Zone fasciculée du cortex surrénal) tiết ra những chất glucocorticoðdes (như Hydrocortisone hay composé F. cortisone) ảnh hưởng rất sâu xa đến sự biến dưỡng (métabolisme) của chất đạm, chất thịt (matière protidique), chất đường (matière glucidique) và chất mỡ (matière lipidique) trong cơ thể và như vậy ảnh hưởng đến sinh lực trong người. - Vùng võng đới (Zone réticulée du cortex surrénal) tiết ra những chất Minéralocorticoides (như Aldostérone, Désoxycorticostérone) ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch của các chất điện giải (électrolytes) như Na (Sodium), K (Potassium), và Cl (Chlore); và như vậy, ảnh hưởng lớn đến số lượng tân dịch, huyết dịch trong người (métabolisme hydrique). - Vùng đới cầu (Zone glomérulaire du cortex surrénal) tiết ra những kích thích tố sinh dục (như Hormone androgène, Hormone oestrogène, progestrérone, v.v.) nhưng với số lượng rát ít, sánh với dịch hoàn (testicules) và buồng trứng (ovaires). 2. Các bệnh trạng mà Lãn Ông mô tả về Mệnh môn cũng tương tự như những bệnh trạng mà Tây y hiện nay mô tả về vỏ thượng thận. a. Lãn Ông cho rằng nếu hỏa hư thủy thịnh, huyết dịch trong người sẽ ứ đọng, con người có thể sinh đàm suyễn, hay phình nước. Nếu ta cho bệnh nhân dùng nhiều chất Désoxycorticostérone (thủy thịnh), ta cũng thấy những triệu chứng như trên (oedème, alcalose avec respiration superficielle). b. Lãn Ông cho rằng nếu Tướng hỏa mà hư, con người có thể trở nên hôn trầm bì quyện, ăn uống khó tiêu; dễ ẩu, dễ tả; hoặc bị di tinh (spermatorrhée), bất lực (impuissance); thịt nhão, hay mệt, hay đau bụng, đau người vì khí huyết chuyển vận không được điều hòa. Nếu Chân thủy hư, con người sẽ ngày một trở nên khô kiệt (dessication progressive) hoặc mắc phải những chứng huyết khô (hémoconcentration), gầy rạc (maigreur, cachexie). Trong bệnh Addison (bệnh lao tuyến thượng thận), các vùng thượng thận đều bị thương tổn, ta thấy: + Những triệu chứng Âm hư như: - Sự biến loạn trong sự chuyển dịch của nước và máu (pertubations du métabolisme de l’eau, hémoconcentration). - Gầy rạc (cachexie progressive). + Những triệu chứng Dương hư như: - Mệt mỏi (asthénie). - Ẩu (=nôn mửa), tả (vomissement et diarrhée). - Người lạnh (hypothermie). - Bất lực (impuissance), vô tự (=vô sinh, stérilité). - Đau bụng. - Ngất (lypothymie), hôn mê (coma), xỉu (collapsus). c. Lãn Ông cho rằng có nhiều bệnh trạng sinh ra là do sự mất quân bình của thủy hỏa. Gần đây giáo sư Seylie cũng chủ trương rằng trước sự tấn công đa diện (situations stressantes) của tà khí, thất tình, tai nạn, vi trùng, độc tố, nhiều khi con người phản ứng lại một cách bừa bãi, không thích nghi; chính vì thế mà cơ thể bị giao động thác loạn, chấn kích nên sinh bệnh. Những bệnh chứng do sự giao động, chấn kích, thác loạn ấy, truy nguyên là do não thùy (hypophyse) bị kích thích nên đã phát tiết ra những kích thích tố như hormone corticotrope (ACTH), hormone somatotrope (STH). Những kích thích tố này sẽ kích thích những vùng của vỏ thượng thận (cortex surrénal) làm cho nó tấy lên (hypertrophie) và tiết ra những chất glucocorticoðdes, ảnh hưởng đến sự biến dưỡng (métabolisme) và minéralocorticoðdes ảnh hưởng đến tân dịch (sécrétion), huyết dịch (sang et liquides extracellulaires). Như vậy các bệnh do sự phản ứng bừa bãi (syndrome de mal-adaptation, syndrome d’adaptation) sinh ra cũng là do sự mất quân bình giữa thủy (hormones minéralocorticodes) hỏa (hormones glucocorticodes). d. Lãn Ông chủ trương rằng: Trẻ con thời «thuần Dương vô Âm» nên sự biến dưỡng rất dễ bị kích động, huyết dịch rất dễ bị suy vi, vì thế chỉ được dùng lục vị (cf. Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.38). Những người lớn thì hai khí Âm Dương quân bình hơn. Còn những người già thì Âm Dương nhị khí đều suy. Giáo sư Seylie cũng viết: «Trẻ con phản ứng mạnh, nên mau bệnh cũng như mau lành. Người lớn phản ứng ít hơn nên quen với các sự kích động của ngoại cảnh. Còn những người già thì yếu ớt đối với bệnh tật và các sự chấn kích của cuộc đời, vì thế nên dễ chết.» [9] KẾT LUẬN Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài coi Thái Cực trong thân người là Thận và Mệnh môn, vì Thái Cực phải là toàn thể con người, không phải là cái trứng nguyên thủy khi thụ tinh và bắt đầu phân hóa. Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài cho rằng Mệnh môn đã có trước tất cả các tạng phủ, vì theo khoa phôi thai học (embryologie) ngày nay, thực tế không phải như vậy.[10] Nhưng ta không thể không bái phục ngài, vì ngài đã đi từ Thái Cực, từ quẻ Khảm mà suy ra được Mệnh môn cùng với Chân thủy, Chân hỏa, và áp dụng Dịch lý để suy diễn ra các trạng thái Âm Dương suy thịnh trong con người. Tây y đã dùng khoa giải phẫu, dùng kính hiển vi, dùng các phương pháp khoa học mà khám phá ra được vỏ thượng thận (cortex surrénal) và các công năng của nó. Nhưng khi ta đối chiếu lại kết quả của hai đàng cũ mới, thì thấy đôi bên cũng không mấy khác nhau. Đó chẳng phải là điều đáng làm cho chúng ta bỡ ngỡ hay sao? Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng Lãn Ông và Phùng thị đã bàn về Mệnh môn, đã chữa về thủy hỏa từ thế kỷ XVIII. Ấy là ta chưa muốn nói rằng quan niệm về Mệnh môn đã manh nha từ thời Biển Thước (225 tcn), các phương dược để trị thủy hỏa đã có từ thời Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) và Tiến Ất (thế kỷ 11). Ngược lại, tất cả những khám phá về «Tuyến thượng thận» chỉ có từ thế kỷ XIX đến nay. Các bài bát vị, lục vị đã có từ thời Trọng Cảnh (thế kỷ II tcn) và Tiền Ất (thế kỷ XI cn), còn các chất ACTH, STH, Cortisone, Hydrocortisone, và Désoxycorticostérone mới được tinh chế khoảng chứng mấy chục năm nay. Thiết tưởng những bài thuốc hay như bát vị, lục vị, những bài thuốc tỏ ra hiệu nghiệm từ nhiều thế kỷ qua rất đáng được chúng ta quan tâm mà khảo sát lại. Giáo sư Huard cho rằng khi so sánh Mệnh môn của Lãn Ông với các Tuyến thượng thận của Tây y, tôi đã có hảo ý muốn bắc một nhịp cầu giữa Đông y và Tây y.[11] Tôi xét mình chưa xứng đáng với lời khen tặng đó. SUMMARY THE «KIDNEYS» IN ORIENTAL MEDICINE by NGUYEN VAN THO According to Oriental medicine, the «kidneys» are not only the two pea-shaped organs of modern anatomy. With this word, one must conceive a complicated system, including the genito-urinary tract and the endocrine glands, the adrenal cortex in particular. The author, analysing two volumes of Lan Ong’s encyclopedia, suggests that the right kidney, known in traditional medicine as the «Gate of Life» with its three elements (thermal, aqueous, and sexual) might be likened to the three historical zones of the cortex, namely the zona glomerulosa, the zona fasciculata, and the zona reticularis. (Phuong Dong, November 1972, No 17)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:19:55 GMT 9
Phần 2 Trị liệu pháp của Lãn Ông so sánh với trị liệu pháp của ít nhiều danh y Trung Hoa [12] Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này. A. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA ÍT NHIỀU DANH Y TRUNG HOA 1. Trước hết, tưởng cũng nên nhắc lại rằng Đông y đã được xây nền đắp tảng trên bộ Nội Kinh. Nội Kinh gồm hai quyển: - Tố Vấn gồm 81 chương. - Linh Khu gồm 81 chương, nói về châm cứu. Tuy sách như là thuật lại lời đàm thoại giữa Hoàng Đế (2696-2598 tcn) với Kỳ Bá, nhưng có lẽ sách chỉ được viết ra khoảng 1000 năm trước công nguyên. Có người lại cho rằng bộ Nội Kinh được viết khoảng thế kỷ 4 tcn.[13] Bộ Nội Kinh cho chúng ta các khái niệm về cơ thể học, bệnh lý học, và trị liệu pháp (thérapeutique). Về phương diện bệnh lý học (pathogénie) chẳng hạn, Nội Kinh đã chia nguyên nhân sinh bệnh thành hai loại: a. Ngoại cảm, do lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. b. Nội thương, do sự thương tổn của khí huyết, tạng phủ, Âm Dương, gây ra bởi: - Thương thực. - Lao lực. - Sắc dục. - Thất tình (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng).[14] Tuy nhiên Nội Kinh không đưa ra một phương thuốc nào nhất định và chỉ chuyên chú về châm cứu. 2. Đời nhà Chu, ta còn thấy hai triết thuyết về bệnh lý: - Triết thuyết thứ nhất cho rằng bệnh tật sinh ra là do nhị khí Âm Dương trong người không được điều hòa. - Triết thuyết thứ hai cho rằng bệnh tật sinh ra do ngũ hành trong người không được quân bình. Tuy nhiên, trước đời nhà Hán (thế kỷ 2 tcn) thì phương pháp trị liệu nằm gọn trong các khoa: - Châm (acupuncture). - Cứu (moxa). - Án ma (kinésithérapie, massage). 3. Mãi đến đời Hán, Trương Trọng Cảnh (đỗ tiến sĩ năm 163 đời Hán Linh Đế) mới mở một tân kỷ nguyên cho nền y học Trung Hoa. Ông khảo sát các bệnh theo bệnh trạng (manifestations cliniques) tìm căn do bệnh tật, định phương pháp trị liệu bằng thuốc men. Ông viết hai quyển về y học là: - Thương Hàn luận. - Kim quỹ. Trương Trọng Cảnh chủ trương rằng tà khí xâm nhập vào cơ thể con người do 6 Kinh từ ngoài vào trong (từ biểu vào lý) theo thứ tự sau đây: (1) Thái Dương kinh (Thủ thái dương, Tiểu tràng kinh, Túc thái dương, Bàng quang kinh) (2) Dương Minh kinh (Thủ dương minh, Đại tràng kinh, Túc dương minh, Vị kinh) (3) Thiếu Dương kinh (Thủ thiếu dương, Tam tiêu kinh, Túc thiếu dương, Đởm kinh) (4) Thái Âm kinh (Thủ thái âm, Phế kinh, Túc thái âm, Tì kinh) (5) Thiếu Âm kinh (Thủ thiếu âm, Tâm kinh, Túc thiếu âm, Thận kinh) (6) Quyết Âm kinh (Thủ quyết âm, Tâm bào lạc kinh, Túc quyết âm, Can kinh) Tổng quát mà nói: * Bệnh ở kinh Dương, thuộc Dương, Biểu (ngoài), Nhiệt và Thực, cho nên có thể dùng những thuốc: - Công, như phát hãn (làm cho ra mồ hôi) hoặc bằng bài Ma hoàng thang[15] hoặc Quế chi thang[16] (bệnh ở Thái Dương kinh). - Hạ (cho đi xông) bằng bài Thừa khí thang[17] (bệnh ở Dương minh kinh). - Hoặc Hòa hoãn bằng bài Tiển sài hồ thang[18] (bệnh ở Thiếu Dương kinh). * Bệnh ở các kinh Âm thuộc Âm, Lý (bên trong), Hàn và Hư, vì thế phải dùng thuốc Ôn bổ như: - Tứ nghịch thang (tăng sức nóng)(bệnh ở Thiếu Âm kinh).[19] - Lý trung thang (bệnh ở Thái Âm kinh).[20] - Đương qui tứ nghịch thang (bệnh ở Quyết Âm kinh).[21] Trương Trọng Cảnh được coi là một vị thánh y của Trung Quốc. Ông đã để lại 113 phương (ordonnances magistrales) và 397 y án (schémas de traitement). Trần Tu Viên (khoảng 1803), trong thiên Cổ kim y luận, cho rằng Trương Trọng Cảnh đã biết mọi phương pháp chữa bệnh: - Công (médication agressive) - Bổ (médication tonique) - Ôn (médication réchauffante) - Lương (médication rafraîchissante) Lại biết: - Tiên công hậu bổ. - Tiên bổ hậu công. - Hàn nhiệt kiêm thi. - Công bổ tịnh dụng, v.v. Mọi lương y sau này chỉ khai thác được một khía cạnh nào đó của Trương Trọng Cảnh mà thôi. 4. Sau Trương Trọng Cảnh, bẵng đi một thời gian khá lâu, không ai đưa ra được một chủ xướng gì mới mẻ. Mãi đến đời nhà Kim, Nguyên (1206-1368) mới thấy có những danh y xuất hiện, đưa ra những chủ xướng mới mẻ. Đời Kim Nguyên có 4 danh y mà đời sau gọi là Kim Nguyên tứ đại gia [22] hay «Trương, Lưu, Lý, Chu, tứ tử». Đó là: - Lưu Hoàn Tố, t71c Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260). - Trương Tông Chính, tức Trương Tử Hòa (1155-1260) - Lý Cảo, tức Lý Đông Viên (1179-1251) - Chu Chấn Hanh, tức Chu Đơn Khê (1281-1358)[23] a. Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260). Lưu Hoàn Tố chủ trương rằng các bệnh sinh ra trong người vì Nhiệt thịnh. Vì thế ông chủ trương dùng các vị thuốc hàn lương. Ngoài ra ông cũng dùng các loại thuốc: - Thổ (vomitifs) - Hạ (laxatifs ou purgatifs) - Hãn (diaphorétiques) Lưu Thủ Chân còn chủ trương rằng Âm Dương, Ngũ hành , Ngũ vận là nguyên nhân sinh ra bệnh tật. Sau này Trương Giới Tân (1563-1640) đã đả kích Lưu Thủ Chân và cho rằng các môn thuốc hàn lương của ông chỉ có ích cho những người Trung Hoa ở phương Bắc, khoẻ mạnh, chứ không thích hợp những người Trung Hoa ở phương Nam, yếu hơn.[24] b. Trương Tòng Chính, tự Tử Hòa (1155-1260). Trương Tử Hòa chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do tà khí bên ngoài đột nhập vào cơ thể, nên cần phải trừ khử bằng các thuốc công, hạ (médication diaphorétique, émétissantes, purgatives, laxatives). Ông đặc biệt ưa dùng thuốc hạ (purgatifs). c. Lý Cảo, tự Đông Chi, hiệu Đông Viên (1179-1251) Lý Đông Viên cho rằng các bệnh sinh ra là do sự mất quân bình giữa Tì (-) và Vị (+); Vì thế, ông chuyên môn bổ Tì. Chính ông đã sáng chế bài Bổ trung ích khí thang. d. Chu Đơn Khê, tự Ngạn Tu, hiệu Chấn Hanh (1281-1358) Chu Đơn Khê chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do ăn uống thiếu chất bổ dưỡng. Ông lại cho rằng trong người Âm thường bất túc, Dương thường hữu dư. Vì thế ông chuyên bổ Âm. 5. Đến đời Minh (1368-1644), ta lại thấy y học chia ra thành nhiều phái: a. Công hạ phái. Phái này chủ trương như Trương Tử Hòa xưa rằng nên dùng các loại thuốc công, hạ. b. Dưỡng Âm phái. Phái này theo chủ thuyết của Chu Đơn Khê, dùng các thuốc bổ âm. c. Ôn bổ phái. Phái này do các lý thuyết gia sau đây lãnh đạo: - Tiết Dĩ, tự Lập Trai (khoảng 1500-1560) - Trương Giới Tân, tự Huệ Khanh, hiệu Cảnh Nhạc (1563-1640) Ôn bổ phái chủ trương: Dương khí trong người chính là sinh khí, khó được và dễ mất, vì thế phải dùng thuốc ôn bổ để dưỡng Dương kh, chứ không được dùng những thuốc hàn, lương. Tóm lại ta thấy các danh y Trung Hoa: a. Người thì lưu tâm đến tà khí và chỉ chuyên dùng thuốc công, hạ để trừ khử. b. Người thì lưu tâm đến cơ thể con người, và cho rằng các bệnh sinh ra là do Âm Dương nhị khí không điều hòa, hoặc Tì, Vị mất quân bình cho nên: - Hoặc chủ trương bổ Âm (bổ thận thủy, bổ huyết) - Hoặc chủ trương bổ Dương (bổ thận hỏa, bổ khí) - Hoặc chủ trương bổ Tì. Vì thế đã có nhiều người tóm tắt trị liệu pháp của Trung Hoa bằng bốn chữ Công, Lương, Ôn, Bổ. B. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA LÃN ÔNG Những nguyên tắc trị liệu của Lãn Ông hết sức sáng suốt và vững vàng. Trong quyển Y hải cầu nguyên nơi chương Hư Thực, ông viết đại khái như sau: «Các bệnh nội thương càng ngày càng tăng, vì phong hóa suy đồi, tiết khí trở nên ô trọc hơn. Con người bị ảnh hưởng ngoại cảnh, càng ngày càng trở nên yếu đuối. «Vì thế thời cổ người ta dùng các bài thuốc công phạt như Ma hoàng, Thừa khí. «Thời trung cổ, người ta đổi phương lược, và dùng những thuốc vừa bổ vừa tả như Sâm tô thang, Nhân sâm bại độc tán. «Sau này, Lý Đông Viên lại sáng chế ra các bài: - Bổ trung ích khí - Nhân sâm dưỡng vinh thang, chỉ gồm toàn vị bổ. «Các cách trị liệu ấy, theo đà thời gian, đều có kết quả, chứng tỏ rằng cơ thể con người ngày một suy yếu hơn. «Cho nên ngày nay những thuốc công, hạ ít được dùng, trái lại, các thuốc ôn bổ ngày một được dùng nhiều hơn.» [25] Tuy nhiên các bệnh do ngoại thương, ngoại cảm. các bệnh thực chứng không phải là không có. Như vậy phải có những tiêu chuẩn chính xác để phân biệt thực chứng do ngoại cảm với hư chứng do nội thương, để mà tùy nghi tả (trong trường hợp thực chứng) hay bổ (trong trường hợp hư chứng). Lãn Ông cho ba tiêu chuẩn sau đây: + Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao. + Xem mạch mạnh yếu ra sao. + Xem bệnh diễn biến ra sao. 1. Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao. Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn như sau: «Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» (Xem hình sắc để nhận biết người yếu hay người mạnh, để xác định là hư chứng hay thực chứng mà trị.) Ông bình tiếp: «Những người bẩm thụ phong hậu, tuổi trẻ, sức mạnh, khí huyết đầy đủ, xương thịt cân xứng, nếu lỡ có đau yếu thì nên lấy thực chứng mà trị. «Những người bẩm thụ sơ bạc, tuổi già sức yếu, người mắc bệnh nặng, người đau yếu lâu ngày hay đàn bà sản hậu và người tuổi đã nhiều mà còn đẻ, nếu bị cảm thương, trước sau nhất thiết cứ theo hư chứng mà trị. «Sách Nội Kinh viết rằng: ‘Việc trị liệu, trước nên xét về nguyên khí làm chủ đã, rồi sau mới tìm đến bệnh tật, ý nghĩa ấy thật sâu xa’.»[26] 2. Xem mạch mạnh yếu ra sao. Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn: «Sát mạch dĩ hữu lực vô lực, minh ư khả bổ khả tả chi cơ.» (Xét mạch để nhận biết hữu lực, vô lực mà quyết định là nên bổ hay nên tả cho rõ.) Ông bình tiếp: «Trong sách Mạch yếu quyết của Dụ Gia Ngôn nói rằng không cần phải hỏi là mạch phù hay trầm, mạch đại hay tiểu ở bộ nào, chỉ thấy cứ trọng án đến tận xương mà còn thấy hữu lực, hữu thần, là «thực»; nếu vô lực, vô thần, là «hư». «Ta mới xem qua câu sách ấy, tưởng nói như vậy thì sơ lược, thiển cận quá; nhưng từng thí nghiệm mỗi khi xét mạch, mà có sự nghi ngờ là hư hay thực, rồi chiêm nghiệm lời dạy trên, thì thực chả sai một mảy may. Lời dạy của bậc Tiền triết thực là đúng.» [27] Ta có thể dịch hai câu: «Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» và «Sát mạch dĩ hữu lực vô lực, minh ư khả bổ khả tả chi cơ.» thành mấy câu lục bát như sau: «Xem người mạnh yếu ra sao, Bệnh hư, bệnh thực lẽ nào chẳng phân. Mạch tùy mạnh yếu chuyển vần, Tức thì tả bổ sẽ lần ra ngay.» 3. Xem bệnh diễn biến ra sao. a. Những thực bệnh do ngoại cảm, thường bạo phát, nhưng bạo biến. b. Những «hư chứng» do nội thương, thường phát hiện một cách chậm chạp, nhưng lại dai dẳng, khó hết. c. Những bệnh mới mắc hoặc do ngoại cảm, hoặc do nội thương. d. Những bệnh kinh niên chắc chắn là do nội thương.[28] Khi đã định được là hư chứng rồi, thì Lãn Ông lại nhận định thêm như sau: * Bệnh nhẹ mới mắc là do: - Khí hư, chữa bằng bài Tứ quân.[29] - Hoặc huyết hư, chữa bằng bài Tứ vật.[30] * Bệnh mắc đã lâu ngày, hoặc là kỳ bệnh, quái bệnh, là do: - Hỏa hư, sẽ chữa bằng Bát vị.[31] - Thủy hư, sẽ chữa bằng Lục vị.[32] Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn: «Phàm những bệnh đã thuộc hư chứng (khí huyết đều suy yếu), mà những chứng bệnh lặt vặt ở ngoài nó nhiều như ong vỡ tổ (ví dụ: nào là ho, đau đầu, chóng mặt, nào là đau lưng mỏi gối, nào là đau bụng đau răng, ôi đủ thứ). Nhưng nhất thiết không tìm tòi quanh quẩn chi li, mà thấy đâu trị đó, chẳng hạn thấy đau đầu thì trị đau đầu; thấy đau chân thì trị đau chân, v.v. Chỉ cần tìm căn bản mà trị, hễ cái cây mà vun đắp được thì cành lá tốt tươi; hễ cái bệnh gốc mà trị được, thì các bệnh ngọn tự nhiên hết. «Sách Nội Kinh rằng: ‘Trị kỳ nhất, tắc bách bệnh tiêu; trị kỳ dư tắc đầu tự loạn.’(trị mỗi bệnh gốc thì trăm bệnh khác tiêu; nếu trị bệnh dư thừa, thì đầu mối rối beng). Cho nên những hư chứng vừa vừa thì trách cứ vào khí huyết hữu hình ở hậu thiên mà trị; những chứng đã hư nhiều, thì tìm vào thủy hỏa vô hình ở tiên thiên mà trị. «Sách Nội Kinh rằng: ‘Tiểu bệnh tất do khí huyết chi sở thương, đại bệnh tất cầu thủy hỏa chi vi hại.’ (những bệnh nhỏ hẳn do khí huyết làm đau, những bệnh lớn hẳn do thủy hỏa làm hại.) Như vậy trị bệnh nhỏ mà bỏ khí huyết không trị; trị bệnh lớn mà bỏ thủy hỏa không trị, lại đi tìm những bệnh lặt vặt mà trị, thật là kẻ leo lên cây mà kiếm cá, làm sao có cá được?» [33] Ngoài ra, ta cũng thấy rằng Lãn Ông chủ trương cần phải lưu tâm đến sự suy yếu dần dà của cơ thể con người theo đà thời gian; đến những điều kiện địa dư, hoàn cảnh xã hội, những sự khác biệt về sự phản ứng của mỗi một người và vì thế không được nhắm mắt dùng những phương thuốc cho bệnh nhân mọi loại, bất phân khoẻ yếu, mà cần phải biết biến chế gia giảm.[34] Lãn Ông ưa dùng hai phương thuốc Bát vị và Lục vị và đã dùng hai phương ấy để chữa nhiều bệnh khác nhau. Sở dĩ được như vậy vì Lãn Ông đã biết chế biến, gia giảm, làm cho hai phương thuốc ấy trở nên biến hóa, linh động vô cùng. Nói thế tức là Lãn Ông đã không dùng thuốc một cách trần trần cố định, mà biết tùy nghi biến chế để cho thuốc xứng với bệnh, thuốc xứng với người. Phùng thị gọi thế là hoạt pháp.[35] KẾT LUẬN Sánh trị liệu pháp của Lãn Ông với trị liệu pháp của các danh y Trung Hoa ta thấy Lãn Ông đã lãnh hội được chỗ vi diệu của y lý Trung Hoa, nên đã có những chủ xướng hết sức độc đáo, những sáng kiến riêng tư, không chịu lệ thuộc vào những khuôn khổ cố định của tiền nhân. Như thế mới gọi là biết làm thuốc. Cuối cùng xin mạn phép kết bài này bằng một câu Nội Kinh: «Tri yếu giả, nhất ngôn nhi chung; bất tri yếu giả, lưu tán vô cùng.» Dịch: Biết thời một chữ là xong, Không rành yếu chỉ, lung tung tán loàn.[36]
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:20:22 GMT 9
CHÚ THÍCH [1] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số 17, tháng 11-1972, chủ đề Y Lý Đông Phương. - Bài này phỏng theo chương Étude critique du livre «Les Secrets des Reins révélés» trong Les Secrets des Reins révélés, luận án y khoa của tác giả, đệ trình tại Y Khoa Đại Học Đường Hà Nội, tháng 12-1952. Luận án này đã được giải thưởng luận án năm ấy, và đã được giáo sư Pierre Huard toát lược và phê bình trong quyển Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955, tr.180-181) và đề cập đến nhiều lần trong các sách khác như: Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trimestre 1953, tr.224), và P.Huard et Wong Ming, La Médicine chinoise au cours des siècles, Les Éditions Roger Dacosta Paris, 1959, tr.113. Gần đây, BS Hồ Chung Tú, trong quyển luận án của ông, nhan đề là Tư Tưởng và Sự Nghiệp của Lãn Ông (15-8-1971) cũng đã trích dịch đoạn dài để cho vào luận án của ông, từ tr.76 đến tr.101. [2] Phùng thị Cẩm Nang, q. 1, tr.47: Bình Triệu thị Y Quán thuyết. [3] Lãn Ông, Huyền Tẫn Phát Vi, tr.3-9. [4] Xem Phùng thị Cẩm Nang, mộc bản, q.2, tr.3b. Hải Thượng Lãn Ông, Huyền Tẫn Phát Vi, tr.5b. [5] Xem Huyền Tẫn Phát Vi, tr.5b và 6a. [6] Vô Dương tắc Âm vô dĩ sinh, vô Âm tắc Dương vô dĩ hóa (Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.15a) - Bổ thủy chế Dương quang, bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế… [7] Những chữ Principe thermique và Principe aqueux là do tôi sáng tạo khi làm luận án để dịch những chữ Chân hỏa, Chân thủy. [8] Cách xếp 8 vị trên theo hình quẻ Khảm đã được thấy trong P.Huard và Wong Ming, Bibliographie de la Médicine chinoise (B.S.E.I., N.S., Tome XXXI, No3, 1956, tr.2). Ta cũng có thể phân chia như sau: (1) Bổ hỏa: Quế, Phụ. (2) Bổ thủy: Thục địa, Sơn thù. (3) Bổ tì: Hoài sơn, Phục linh. (4) Thanh nhiệt: Đơn bì. (5) Tả: Trạch tả. [9] Xem Nguyễn Văn Thọ, Les Secrets des Reins rélévés, luận án, tr.125. - Guyton, Textbook of Medical Physiology, Saunders, 1963, chương 74, từ tr. 99 trở đi. [10] Xem Bradley M. Patten, Human Embryology, 1948, tr.74. [11] «Corrigé par une longue pratique médicale, la thèse de Lãn Ông, brillamment exposé par M. Thọ, retient l’attention, même lorsqu’il assimile les 3 éléments de la «Porte de Vie» (thermique, aqueux, et sexuel) aux 3 zones historiques (fasciculée, réticulée et glomérulée) de la surrénale et lorsqu’il établit une comparaison avec le syndrome d’adaptation de Seylie. Elle joue sur la pathogénie chinoise des maladies attribuées soit à des influences externes, soit à des perturbation internes. Bien que nous soyons là en présence d’une extrapolation de la pensée sino-vietnamienne, on doit savoir gré à l’auteur de son énorme effort et de son désir louable de jeter des ponts entre la médicine extrême-orientale et de la médicine extrême-occidentale.» Pierre Huard, Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955, tr.181) [12] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số 18, tháng 12-1972, chủ dề Y Lý Đông Phương. [13] P.Huard và Wong Ming, Bibliographie de la Médicine chinoise (B.S.E.I. N.S., Tome XXXI, No3, 3e trim. 1956. Bị chú: Trong bài này xin miễn bàn về những vấn đề thông thường như: Hư thực, Hàn nhiệt, Biểu lý, Thủy hỏa, v.v. cũng như không bàn về các phương pháp trị liệu khái quát như: bổ (toniques), hãn (diaphorétiques), hạ (laxatfs, purgatifs), hòa giải (régulateurs), thanh (dépuratifs, refraichissants), ôn (réchauffants), thấm (diurétiques), thổ (vomitifs), tiêu (dissolvants), cố sáp (astringents), trấn (tranquillisants), v.v. [14] Bách bệnh lập danh tuy phiền, nhiên bất việt Âm Dương, ngũ hành sinh khắc, lục dâm, thất tình, ngũ hỏa dữ ẩm thực, lao quyện tương hiệp truyền biến nhi dĩ. Kinh sở vị: Tri kỳ yếu giả nhất ngôn nhi chung; bất tri kỳ yếu, lưu tán vô cùng giả thử nhĩ. Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.34a. … Như vậy thất tình đây không phải «Ai, cụ, hỉ, nộ, ái, ố, dục» như ta thường hiểu. Xem Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.33b và xem P.Huard et M. Durand, Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trim.1953, tr.47) [15] Ma hoàng thang: trị thương hàn. Thái dương chứng, tà còn ở ngoài, phát nóng, nhức đầu, mình mẩy thắt lưng và khớp xương đau; cổ cứng, sợ gió, sợ lạnh, không mồ hôi, khò khè, mạch khẩn. Ma hoàng (3 lượng), Quế chi (2 lượng), Hạnh nhân (20 hạt), Chích cam thảo (1 lượng). (Các bài thuốc và lời bình rút trong: Phạm Văn Điều, Đông Y Dược Học Khóa Toát Yếu) [16] Quế chi thang: Trị Thái dương, trúng phong, Dương phù Âm nhược, phát nóng, nhức đầu, ghét gió, ghét lạnh, nhảy mũi, oẹ khan. Quế chi, Thược dược, Sinh khương (mỗi thứ 3 lượng); Chích cam thảo (2 lượng); Đại táo (12 trái). Uống nóng sau đó ăn cháo nóng, ra mồ hôi thì thôi; chưa ra mồ hôi thì cho uống thêm. [17] Thừa khí thang (thuốc xổ): Trị bệnh thương hàn, Dương minh chứng, bao tử đầy, táo bón, phát nóng, nói sảng, mồ hôi râm rấp, no đầy, buứt rứt. -- Có 2 bài: Đại thừa khí và Tiểu thừa khí. Đại thừa khí: Đại hoàng tẩm rượu (5 chỉ), Mang tiêu (4 chỉ), Hậu phác (3 chỉ), Chỉ thiệt (3 chỉ). Nấu Hậu phác và Chỉ thiệt trước, sau cho Đại hoàng; khi rót xuống trộn mang tiêu. Tiểu thừa khí: Chỉ có Đại hoàng, Chỉ thiệt, Hậu phác. [18] Tiển sài hồ thang: Có tính hoãn trị rét mới phát, hoặc thương hàn, ... kinh, Thiếu Dương. Sài hồ (8 chỉ), …Nhân sâm, Cam thảo, Hoàng Cầm, mỗi … thêm gừng táo. (các chỗ … là bị mất chữ trong bản photo) [19] Tứ nghịch thang: trị thương hàn thuộc tam âm, mình đau, bụng đau, đại tiện nguyên đồ ăn, ghét lạnh, không nóng, […] lạnh ngắt, hoặc không ghét lạnh mà bứt rứt, trong lạnh ngoài nóng, hoặc ói mửa, cổ đau, mạch trầm, vi tế, sắp tuyệt. - Phụ tử sống (1 củ), Càn khương (1 […] ), Chích cam thảo (2 lượng). Nấu cho uống. (ghi chú: các chỗ […] là bị mất chữ trong bản in) [20] Lý trung thang: Trị thương hàn, Thái âm, tiêu chảy, không khát, […] đau bụng, mạch trầm, không sức, chân tay móp, co quắp, tức ngực, nghẹn, ói ra […] - Bạch truật (sao với đất vách cũ) (2 […] ), Nhân sâm, Càn khương (sao vàng), Cho mỗi vị 1 lượng, tán nhuyễn, cho uống tiếp 4 chỉ. [21] Đương qui tứ nghịch thang: Trị thương hàn Quyết Âm, chân tay lạnh, mạch nhỏ, sắp tuyệt.- Đương qui ( […] ), Bạch thược, Tế tân mỗi vị 3 lượng, Cam thảo, Thông thảo mỗi vị 2 lượng, Táo (25 trái). Nấu cho uống nhiều […] nhiều thang. Bị chú: Dĩ nhiên, đây chúng ta chỉ […] sơ lược một vài phương thang của Trọng Cảnh. Thực ra ông có hơn 100 thang. Đọc thêm: Trần Tu Viên, Thương […] phương thang ca quyết. Đỗ Đình Tuân, Đông Y lược khảo […] (chương Lục kinh chính bệnh, tr. […] ). Phạm văn Điều, Đông y dược học khảo yếu, các tr. 252, 254, 262, 279. (ghi chú: các chỗ […] là bị mất chữ trong bản in) [22] P. Huard, Bibliographie de la Médicine chinoise, p.186. No 50. [23] Ibid. pp.199-200 [24] P. Huard et Wong, Bio-Bibliographie de la Médicine chinoise, p.191. [25] Xem Y hải cầu nguyên, chương Hư Thực, tr.36. [26] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.thượng, tr.6b, 7a. Trích: bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.24. [27] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.thượng, tr.6a và 7b. Xem bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.24. [28] Xem Y hải cầu nguyên, chương Âm Dương, tr.8 và chương Tri Tắc, tr.22. [29] Tứ quân thang: Nhân sâm, Bạch truật (mỗi thứ 2 chỉ), Bạch linh (3 chỉ), Cam thảo (2 chỉ). [30] Tứ vật thang: Thục địa (2 chỉ), Đương qui, Bạch thược (mỗi thứ 1 chỉ), Xuyên khung (1 chỉ). [31] Bát vị: Quế, Phụ, Đơn bì, Hoài sơn, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả, Thục địa. [32] Lục vị: Bài Bát vị bỏ Quế, Phụ. [33] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.hạ, tr.22b. Xem bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.57. [34] Chính vì thế mà Lãn Ông không dùng Ma hoàng thang và Quế chi thang của Trọng Cảnh. Xem P.Huard et M. Durand, Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne, p.225. [35] Nại hà cận y xả chí linh chí biến chi lý, nhi chấp bất linh bất biến chi thành phương. Thị dĩ Tố vấn vô phương , Nạn Kinh vô phương; phi vô phương dã; vi phương hoạt pháp dã. Hán thế tài hữu phương ư phỏng dã. Phùng thị Cẩm Nang, q.1, tr.43b [36] Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.34a. Bị Chú: Bài này hầu hết được trích ra từ chương Parallèle entre Lãn Ông et les auteurs chinoises từ tr.103 đến 109 trong luận án Y khoa bác sĩ của tác giả, nhan đề là Les Secrets des Reins révélés, luận án y khoa của tác giả, đệ trình tại Y Khoa Đại Học Đường Hà Nội, tháng 12-1952. Luận án này đã được giáo sư Pierre Huard nhiều lần đề cập tới cũng như toát lược và phê bình. Xin đọc: - Pierre Huard et M.Durand, La Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trimestre 1953, tr.224-240) - Pierre Huard, Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 27, 2013 5:59:55 GMT 9
Phong thủy và sức khỏe
BS Phan Xuân Trung
Khi nói đến phong thủy, nhiều người, trong đó có tôi, thường nghĩ đến điều huyền bí, khó hiểu. Search tìm bằng google, tôi chỉ tìm thấy được một mớ hỗn độn những ngôn ngữ cổ xưa không tài nào nhớ nổi.
Tuy nhiên, tra từ nguyên Hán Việt thì Phong nghĩa là gió, là khí, Thủy nghĩa là nước. Mà 2 yếu tố này hẳn là có liên quan đến sự sống, nghĩa là liên quan đến sức khỏe con người.
I. Phong:
Theo nguyên nghĩa phong là gió, là sự chuyển động của không khí. Không khí liên quan đến hô hấp. Không có không khí con người ta chết sau vài phút.
Không khí và cơ thể:
Không khí chứa khoảng 25% Oxy và khoảng 75% Ni tơ, còn lại là hơi nước, khí carbonic và vài thứ linh tinh khác. Trong quá trình trao đổi khí tại phổi, hồng cầu hấp thu oxy trở thành máu đỏ tươi. Hemoglobin trong hồng cầu mang Oxy theo động mạch đến mô, tế bào cơ thể để thực hiện quá trình hô hấp tế bào, đốt cháy vài hoạt chất để tạo thành năng lượng cho cơ thể. Quá trình đốt cháy đó sản sinh khí CO2, được Hemoglobin hấp thu, khiến máu trở nên đỏ thẩm hay gọi là máu đen, theo tĩnh mạch, đến phổi để thải ra ngoài. Nếu không có oxy thì các tế bào không có chuyển hóa chất và cơ thể bị chết. Như vậy, cơ thể muốn tồn tại được thì phải hít thở không khí có đủ oxy. Trong cấp cứu, bác sĩ gắn vào mũi bệnh nhân một cái ống xì khí oxy để bảo đảm cơ thể có đủ oxy cung cấp nhiên liệu cho cơ thể hoạt động.
CO2 là thán khí, bị cơ thể loại ra trong quá trình hô hấp. Nếu người ta ở chung đông đúc trong một không gian hẹp, Oxy bị hấp thu dần, Carbonic tăng dần vào người ta cảm thấy ngộp thở, bức bối. Tế bào não là nơi nhạy cảm nhất với nồng độ Oxy trong máu, sẽ bị tê liệt hoạt động, và vì vậy, người bị nghẹt/ngộp thở sẽ mất ý thức (xỉu, bất tỉnh). Nhu cầu oxy của não cao nhất so với các loại mô tế bào khác trong cơ thể. Vì vậy thiếu oxy đến 1 lúc nào đó sẽ dẫn đến chết não. Nếu các cơ quan nội tạng khác chưa kịp "chết" thì người ta sống đời sống thực vật, mất ý thức. Vì tầm quan trọng đó mà người ta cần phải đo độ bão hòa của Oxy và nồng độ CO2 trong máu để can thiệp sao cho cơ thể luôn luôn được cung cấp đủ oxy.
Người mắc bệnh phổi mãn tính bị mắc chứng COPD, lồng ngực dãn rộng, lượng khí trao đổi giữa trong và ngoài phổi không đủ như người bình thường, thở ra không hết khí cặn, hít vào không đủ khí tươi. Khí cặn CO2 thập thò trong lồng phổi, nồng độ ngày càng tăng cao, nồng độ O2 hạ thấp, hồng cầu không thu đủ OXY, không đỏ thắm nên mặt mũi xanh xanh tái tái.
Người bị lao phổi nặng, dù có được điều trị, phổi bị xơ xẹp, mất bớt chức năng trao đổi khí nên không cảm thấy khỏe mạnh.
Người bị tràn dịch màng phổi hay tràn khí màng phổi cảm thấy khó thở, thở không hết, hít không sâu được vì phổi bị hạn chế, không dãn ra được hết để thu đủ không khí cần thiết. Cần phải hút dịch hoặc hút không khí trong màng phổi cho phổi dãn nở đủ thì mới khỏe.
Người bị hen suyễn, hít vào dễ, thở ra khó, phải rặn, nghe tiếng khó khè. Cơ chế là do viêm và dị ứng gây hẹp phế quản.
Cơ thể muốn khỏe mạnh, về mặt trao đổi khí, cần phải có không khí sạch và bộ máy hô hấp lành lặn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có được 2 yếu tố này.
Không khí sạch là một điều kiện khó đạt ở thành phố, như Sài gòn hay Hà Nội. Lượng xe cộ dày đặc đã sản sinh ra khí CO2 nhiều đến mức đậm đặc. Xăng dầu bị đốt cháy, thải CO2 ra môi trường. Những ống pô xe hơi và xe máy ngày nay không thấy khói nhưng phụt ra toàn khí thải. Khí thải đó có phần lớn là CO2, benzen, chì, mụi than và xăng dư Những chiếc xe xả nhiều khói thì có nhiều mụi than và xăng dư do không đốt hết. Hàng triệu chiếc máy nổ động cơ phun xả thán khí ra môi trường. Những chiếc xe nối đuôi chen chúc nhau, người đi sau hít khí thải của xe người đi trước. Xe càng lớn phân khối thì khí thải càng nhiều. Người giàu có phải mua cho được xe hơi, một mình một xe, tham gia thải khí vào môi trường một cách tích cực.
Người ta hiện nay nói đến hiệu ứng nhà kính làm cho trái đất nóng dần lên, nhiệt độ trái đất tăng thêm vài độ làm tan băng ở 2 cực trái đất, nước biển dâng cao, triều cường làm ngập thành phố. Triều cường mang nước cống thải đậm đặc vi trùng lên đường phố gây bao loại bệnh da liễu, hô hấp. Ban đêm khi thành phố Sài gòn bắt đầu chìm vào giấc ngủ, từ phía Nhà Bè người ta thấy cột khói nhà máy như con trăn khổng lồ nằm vắt ngang bầu trời đêm thành phố. Ban ngày cột khói đó biến mất như chẳng có điều gì xảy ra.
Xem ra đi xe đạp là biện pháp tích cực để bảo vệ môi trường sống. Thế nhưng Bộ Giao Thông Vận Tải ra lệnh cấm xe ba bánh, xe tự chế là những chiếc xe thân thiện môi trường để thay thế vào đó các chiếc xe kéo của Trung Quốc chạy bằng xăng dầu tham gia làm ô nhiễm môi trường.
Trong không khí đô thị, ngoài thán khí CO2, người ta còn hít phải vô khối bụi bặm từ việc đào đường, xây lô cốt… Người ta cũng thân tặng cho nhau xác một con chuột chết bằng cách quăng ra đường cho xe cộ qua lại cán dẹp. Thân xác cát bụi của con chuột không trở về với cát bụi mà vào cư ngụ trong mũi, trong phổi của người đi đường. Bệnh viêm xoang, viêm họng, viêm kết mạc mắt, hen suyễn ngày càng nhiều. Người ta cũng tặng cho nhau những bãi đờm mới khạc ra và phun vào lề đường. Vi trùng lao theo đó mà phân phối cho dân cư và góp công duy trì nước Việt Nam trên bản đồ lao thế giới.
Dân thành thị ra đường đeo khẩu trang kín mít mặt mũi. Điều này giúp người ta có cảm giác yên tâm rằng mình “đã được bảo vệ”. Thực chất thì các hạt lơ lửng và thán khí không hề bị khẩu trang ngăn chặn. Chúng vẫn vô tư theo dòng không khí đi ra đi vào lỗ mũi như chỗ không … bảo vệ. Bụi xi măng và đất đá chính là thủ phạm gây bệnh bụi phổi cho công nhân làm đá, thợ hồ và cả những ông chủ lò gạch. Điều đáng sợ là bệnh bụi phổi làm cho người ta suy tàn mà không có phương pháp chữa trị.
Trong những này rét đậm rét hại ở miền Bắc vào mùa đông, nhiều người đã “chết tươi” vì đốt lò sưởi trong nhà đóng kín cửa. Không phải CO2 (khí Carbonic) mà chính là CO (oxyd carbon) đã giết chết người trong nhà. Khí CO được sinh ra do sự đốt cháy không hoàn toàn nhiên liệu, có đặc điểm là bám vào Hemoglobin trong hồng cầu rất chặt khiến cho Hồng Cầu mất chức năng hấp thụ O2. Vì vậy, dù nạn nhân có được cấp cứu, cho thở oxy thì vẫn không hiệu quả. Khí CO không chỉ sinh ra từ bếp lò than củi mà còn sinh ra từ máy phát điện chạy dầu. Ở Hà Nội đã có trường hợp cả gia đình chết ngạt vì chạy máy phát điện trong nhà đóng kín cửa.
Khói thuốc lá:
Môi trường không khí bên ngoài chưa đủ ô nhiễm, những người đàn ông còn tạo thêm ô nhiễm cho mình và cho người khác bằng những điếu thuốc lá. Khói thuốc là ngoài chất nicotin tạo khoái cảm cho người hút, còn chứa nhiều CO, CO2, mụi than, hắc ín (nhựa đường)... Dãi khói nhỏ mơ màng vậy nhưng làm đen hàm răng người ghiền thuốc. Hàm răng dù được chải, đánh bằng kem mỗi ngày vẫn không thể không đen vì bám hắc ín. Bên trong sâu hơn nữa của đường thở là khí quản, phế quản và phế nang cũng bị tổn thương ghê gớm.
Nhằm chống lại các chất lạ từ khói thuốc lá, các tế bào có lông mao và các tế bào tiết nhầy hoạt động liên tục. Chất nhày được tiết ra để bám bắt lấy khói bụi, hình thành cục đàm nhớt, được tế bào lông chuyển lùa lên họng và sau đó được ho tống ra ngoài. Thế nhưng lượng khói hút vào quá lớn so với cơ chế bảo vệ tự nhiên của phổi. Những tế bào lông nhung đẹp như cỏ sân vận động mới trồng nay trở nên xơ xác, ngập trong chất nhày và mất chức năng lùa đẩy đàm nhớt. Các phế nang bị dãn rộng và chứa đầy khí cặn. Lồng ngực người bệnh trở nên bọng rỗng như cái thùng, người ta gọi là lồng ngực hình thùng. Bệnh viêm phế quản mãn tính khiến cho bệnh nhân ho khạc suốt đêm. Có câu chuyện tiếu lâm nói rằng hút thuốc rất có lợi, ăn trộm không dám vào nhà vì bệnh nhân ngồi ho suốt đêm. Chứng Tắc nghẽn phế quản mãn tính (COPD) khiến cho người bệnh sống dở chết dở vì thiếu oxy. Các thông tin báo chí và các bác sĩ thường lấy bệnh ung thư phổi ra nói với người hút thuốc, nhưng hình như “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.
Việc hút thuốc lá gây phiền phức cho người xung quanh. Tại nhiều nước hút thuốc ở nơi công cộng bị phạt rất nặng. Trước đây, tại các nơi như sân bay, nhà hàng, bệnh viện… có một phòng riêng dành cho dân ghiền thuốc lá. Ngày nay các buồng hút thuốc lá như vậy cũng bị dẹp hẳn mà thay vào đó là bản hiệu cấm hút thuốc lá hay “bệnh viện không thuốc lá”. Nhiều người nghiện thuốc lá bị người khác nhìn với ánh mắt kinh tởm.
Ngày nay hầu hết thuốc lá có đầu lọc để ngăn chặn nicotin, nhưng hầu như tác hại của nó không giảm là mấy. Những ông Tây ghiền thuốc lá nếu đến Việt Nam sẽ dập đầu bái phục trước ống điếu thuốc lào của ta. Các bác nghiện thuốc lào ngồi quán trà vỉa hè, nhồi 1 cục thuốc vào ổ, đốt thuốc và hít khói thật sâu. Tiếng nước lọc xọc, khói bay mù mịt, cảm giác lâng lâng … thật là mê ly, hấp dẫn! Khi kéo một hơi thuốc lào, khói thuốc đi vào tận cùng từng phế nang của phổi. Phế nang lấp đầy khói thuốc như thể khói pháo đêm giao thừa. Trả giá cho những cơn đê mê khói thuốc đó là cái ngực hình thùng, những trận ho đàm không dứt, những cơn khò khè khó thở khi về già. Còn gì tệ hơn khi mà ngay cả việc thở ta cũng không làm được!
Không khí và kiến trúc nhà cửa:
Không khí trong lành thì cơ thể mới khỏe mạnh. Nhà cửa thoáng mát nhờ có không khí ra vào. Gió vào cửa này sẽ thoát ra cửa kia. Nhà ít cửa, không khí không vào, gây không khí tù đọng, ứ trệ nhiều mầm bệnh, nấm mốc, vi trùng lao, virus… Hơi khí từ các cống rãnh, nhà vệ sinh không thoát ra ngoài hoặc không có "con thỏ" giữ lại sẽ vào nhà gây ô nhiễm. Các nhà vệ sinh cần có ống thông thoát hơi hầm cầu, cần gắn quạt hút hơi để giữ phòng vệ sinh luôn luôn có không khí sạch. Ở thành phố phần nhiều nhà hình ống, bốn bề gần như bít kín. Các kiến trúc sư khuyên nên có giếng trời cho không khí lưu thông.
Ở những miền có 4 mùa rõ rệt, không khí mang nhiệt độ bên ngoài vào. Trời nóng cần mở cửa cho gió lùa, mùa lạnh cần đóng kín cửa tránh lạnh.
Nơi làm việc văn phòng cần mát mẻ, thường gắn máy lạnh. Ngoài nhiệt độ thấp làm mát, gây tươi tỉnh đầu óc, người ta còn quan tâm đến các gốc tự do lơ lửng trong không khí. Các gốc tự do hay ion này có tác dụng gây lão hóa cơ thể. Các nhà sản xuất máy lạnh còn cho thêm tính năng lọc không khí, diệt trừ gốc tự do.
Những căn phòng tù đọng ẩm thấp có mùi hôi, người ta dùng chai xịt phòng có mùi thơm để lấn át mùi ẩm mốc. Tuy nhiên nước xịt phòng không phải là chất khử mùi, loại bỏ tạp chất độc hại đang có, mà chỉ có giá trị che giấu bớt mùi hôi sẵn có mà thôi. Một số loại thuốc xịt muỗi, kiến, gián có mùi thơm như mùi chanh, mùi táo... rất hấp dẫn nhưng không phải là không độc hại. Thuốc xịt có mùi thơm vẫn đầy độc hại như các thuốc xịt có mùi hôi. Những chai thuốc có mùi hôi làm người ta nín thở, không dám hít vào, tránh xa chỗ xịt thuốc. Như vậy loại có mùi hôi giúp người ta tự bảo vệ mình, đi xa khỏi vùng độc hại.
Không khí và bệnh truyền nhiễm:
Nhiều dịch bệnh lây qua đường không khí: cúm, sởi, lao, ho gà… Gần đây người ta nói nhiều đến H5N1, hay bệnh cúm gà. Đúng ra phải gọi là cúm chim vì tất cả các loại chim chóc, gia cầm đều có khả năng nhiễm bệnh chứ không phải chỉ có gà mới bị.
Khi mắc bệnh cúm, bệnh nhân hắt hơi và các virus trong nước mũi được phát tán ra ngoài. Những con virus nhỏ bé lơ lửng trong không khí chờ dịp chui vào phổi người khác, gây bệnh. Những hạt lơ lửng trong không khí có nhiều kích thước to nhỏ khác nhau. Những hạt to bị lông mũi và chất nhày mũi bắt dính lại từ vùng khoang mũi. Những hạt lơ lng nh li ti thì tiếp tục vượt qua khoang mũi, vào phổi gây bệnh.
Các loại bệnh do virus gây ra thường tự khỏi sau 7 ngày, nhưng lây lan thành dịch. Vào mùa dịch, ngành y tế thường báo động cho người ta tự bảo vệ mình bằng cách đeo khẩu trang, tập thể dục để tăng sức đề kháng, tránh tụ tập thành đám đông.
Vi trùng lao lây lan qua không khí. Vi trùng lao dễ bị tiêu diệt dưới ánh nắng, nên việc tắm nắng cũng có giá trị ngăn ngừa bệnh lao.
Vệ sinh đô thị:
Mặc dù là dân thành phố lịch sự, văn minh, nhưng chúng ta thỉnh thoảng vẫn đi ngang qua một khu phố có con đường vắng nồng nặc mùi nước tiểu và mùi phân người. Những ông nhậu hè phố thường trút bầu tâm sự vào tường nhà người khác một cách vô tư. Những người vô gia cư, những chị bán hàng rong khi đau bụng mắc cầu, không biết phải nhờ nhà ai, đành phải tương ra lề đường, gốc cây. Sau đó ruồi nhặng và nắng gió có nhiệm vụ phân phối vào hơi thở những người xung quanh. Trong mớ chất thải đó có nhiều trứng lãi, sẵn sàng đáp vào hàng bún ven đường để giúp những chú lãi thực hiện hành trình chu du của mình.
Ở nước ngoài, nhà vệ sinh được đặt ở khắp nơi, rất dễ tìm khi cần đến. Trong nhà vệ sinh có đủ nước và giấy lau tay dùng 1 lần bỏ. Có như vậy thì chất thải mới được quản lý, thu gom. Còn không như vậy thì “đêm đêm ngửi mùi hương, mùi toa lét nhà nàng…”
Thói quen ăn uống ngoài đường của bà con đã thành truyền thống, khó bỏ. Việc kinh doanh ăn uống lề đường cũng thuận tiện nhiều bề: không cần thuê mặt bằng, không cần dọn rửa, dễ tiếp cận khách hàng, tận dụng ánh sáng trời thay cho đèn đuốc… Những gánh hàng rong đó bày biện đồ ăn dễ bắt mắt và cũng dễ bắt … bụi. Một cơn gió thổi qua, một chiếc xe vù ngang, một nhát chổi quét đường … tất cả đều là phương cách gởi gắm những hạt bụi mà thành phần là phân chó, phân mèo, xác chuột chết… bay vào tô bún bò ngon tuyệt.
Sài gòn mùa nóng, đất đường khô khan, mặt đường bụi bặm. Những người quét đường vung từng nhát chổi gom đi rác rến, lá vàng. Những nhát chổi đó làm khuấy đảo đất bụi vào không khí. Để bảo vệ không khí đô thị, vài năm gần đây, người ta thấy xe xịt đường chạy vòng vèo khắp thành phố, xịt nước xuống mặt đường, nói là để rửa đường. Nhìn kỹ thì xe đó chẳng có tác dụng rửa đường gì hết vì lượng nước phun ra chỉ đủ ướt mặt đường chứ không nhiều đủ để trôi đi bụi đất. Xe đi qua, để lại mặt đường nhớp nháp và vài cuộc trợt ngã xe máy. Nửa giờ sau thì mặt đường lại trở về như trước đó.
Ở Anh Quốc, những chiếc xe quét đường vừa quét vừa hút bụi. Chồi quét đường là một chổi xoay tròn, xe chạy đến đâu chổi quét và hút đến đó. Xe đi qua, đường sạch trơn. Đường sạch thì không khí đô thị cũng sạch, sức khỏe người dân đô thị cũng được bảo vệ.
II. Thủy.
Thủy, từ Hán Việt, là nước.
Nước chiếm ¾ bề mặt trái đất và cũng chiếm ¾ trọng lượng cơ thể. Người tuyệt thực có thể nhịn ăn nhiều ngày chứ không thể “tuyệt ẩm”. Có thể nhịn đói chứ khó có thể nhịn khát. Hầu hết nước trong cơ thể tồn tại trong tế bào, dịch gian bào, số còn lại tồn tại trong máu lưu thông, khoảng 4 lít.
Trong tất cả các trường hợp cấp cứu, nhập viện việc đầu tiên là cắm cho bệnh nhân một chai dịch để bảo đảm cho hệ thống tuần hoàn được duy trì ổn định. Các bệnh tiêu chảy cấp, bệnh tả gây mất nước, bệnh nhân dễ dàng tử vong do trụy tuần hoàn. Tai nạn thương tích làm mất máu nhiều cũng gây tử vong. Người lao động ngoài nắng, mất nước do bốc hơi và mất điện giải sẽ bị ngất xỉu.
Hệ tiết niệu và các tuyến mồ hôi có vai trò cân bằng lượng nước cơ thể. Khi uống nhiều thì sẽ đi tiểu nhiều để giữ cho lượng nước trong cơ thể luôn luôn ổn định. Những quán bia đông đắt khách thường trang bị một cái toa lét bự để phục vụ khách.
Nước đi vào cơ thể người ta không chỉ qua nước uống. Trong đồ ăn hàng ngày như cơm, cháo, trái cây, rau cải… cũng hàm chứa một lượng nước đáng kể. Nước đi ra khỏi cơ thể không chỉ qua đường tiểu mà còn qua hơi thở, mồ hôi, phân.
Nước trong cơ thể có các chất hòa tan tạo áp lực thẩm thấu. Nồng độ muối trong cơ thể là 0,9%, nghĩa là 1 lít huyết thanh có chứa 0,9 g muối. Nước cất tinh khiết có chứa 0,9% muối được gọi là nước muối sinh lý. Khi áp suất thẩm thấu bị mất cân đối thì sẽ gây ra nhiều phiền phức. Áp suất thẩm thấu trong máu thấp sẽ đẩy nước vào mô gian kẽ, gây phù thủng. Áp suất thẩm thấu tăng cao thì hút nước từ mô gian kẻ và tế bào vào lòng mạch gây chứng tăng huyết áp. Bác sĩ khuyên bệnh nhân cao huyết áp không nên ăn nhiều muối và cho bệnh nhân uống thuốc lợi tiểu để giảm áp lực hệ tuần hoàn. Có khá nhiều bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn. Các bệnh đó đều nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Nước đối với cơ thể cực kỳ quan trọng. Muốn cơ thể khỏe mạnh phải sử dung đầy đủ nước sạch. Các đô thị đông đúc thường tập trung xung quanh sông ngòi. Các nhà thiên văn, nghiên cứu vũ trụ thường cố gắng tìm dấu vết của nước trên các hành tinh. Họ xem đó như là điểm khởi đầu của các điều kiện tồn tại sự sống.
Sự sống cơ thể cần đến nước thì sự sống xã hội cũng cần đến nước. Có vô số sinh hoạt xã hội xảy ra cần đến nguồn nước như nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất… Trời hạn hán sẽ làm điêu đứng xã hội. Nhà nông phải làm thủy lợi, dẫn thủy nhập điền để điều tiết canh nông. Mỗi thành phố lớn nhỏ đều cần đến nhà máy lọc nước để cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư.
Nước cũng mang tai họa đến cho con người. Lũ lụt thiên tai xảy ra cướp đi sinh mạng con người trong quá trình hoành hành của nó. Đồng bằng sông Cửu Long hàng năm đều phải đối phó với lũ lụt. Trẻ em rơi xuống nước chết là chuyện bình thường ở vùng sông nước. Sau những cơn lũ lụt, dịch bệnh thường xảy ra, nhất là dịch tả. Vi trùng tả theo nước lũ tràn vào nước sinh hoạt. Người dân uống nước nhiễm bẩn và mắc bệnh. Vùng đồng bằng Nam Bộ nhiều sông nước. Người dân có thói quen đi vệ sinh xuống sông. Và chính những con sông này cung cấp nước ăn uống, sinh hoạt cho bà con. Nước ô nhiễm nhưng không được nấu chín trước khi uống, mầm bệnh theo nước vào cơ thể. Ngoài các bệnh đường ruột như tiểu chảy cấp, thương hàn, kiết lỵ, còn các loại bệnh nguy hiểm khác như áp xe gan do a míp. Nước tù đọng làm chỗ sinh sản cho muỗi mòng, gây sốt xuất huyết, sốt rét…
Ở miền Bắc không có nhiều sông ngòi như miền Nam. Miền Bắc có ao hồ chứa nước tù đọng. Dân miền Bắc sử dụng ao hồ cho tất cả các sinh hoạt hàng ngày của mình: nấu ăn, rửa bát, giặt đồ, tắm rửa và … đi vệ sinh. Các vụ dịch “tiêu chảy cấp nguy hiểm do vi khuẩn tả” (thực chất là bệnh tả) vừa qua đã lột tả được hoàn cảnh mất vệ sinh khủng khiếp của nhân dân theo tập quán ao tù, nước đọng. Khi đó người ta thấy bộc lộ vấn đề trách nhiệm của chính quyền chăm lo cho người dân ở những điều kiện căn bản là quá kém cỏi. Người ta dùng nước cống để rửa rau. Người mắc bệnh tả đi tiêu vào lòng hồ Linh Quang, người bán rau ở chợ cạnh đó dùng nước hồ tưới cho rau khỏi héo… Sống ngay lòng thủ đô, bên cạnh con sông Hồng quanh năm đầy nước, nhưng người dân thủ đô cũng không có đủ nước sạch để dùng. Quan chức y tế thì không thấy trách nhiệm của mình mà lại còn đòi "xử lý hình sự" bệnh nhân mắc bệnh tả (!)
Gần đây, báo chí còn loan tin người dân đồng bằng sông Cửu Long thiếu nước sạch, phải đi mua từng thùng nước ngọt với giá trên trời.
Nhà máy Vedan xả chất thải xuống sông Thị Vãi, gây ô nhiễm môi trường nước. Đến Hà Bá cũng phải nhập viện săn sóc đặc biệt. Cá tôm sò ốc không sống nỗi, thủy vi sinh cũng chết theo. Người nông dân không quá đáng khi đòi Vedan bồi thường hàng trăm tỷ đồng. Vedan chỉ là một nhà máy đại diện cho những nhà máy khác, vì lợi ích của mình mà không ngại đưa chất thải nguy hại ra môi trường sống bên ngoài. Những cơ sở thuốc nhuộm, trang trại chăng nuôi heo được xây dựng ngay sát sông rạch để dễ bề tương xuống chất thải ghê gớm. Các con kênh rạch trong TP HCM không có con nào trong xanh cá lội mà hình ảnh chung là một dòng “nước” đen kịch, đặc sệt, hôi hám.
Việc đầu độc môi trường nước không chỉ do các nhà máy sản xuất mà đến từ sinh hoạt hàng ngày của dân chúng. Ti vi quảng cáo hàng ngày các loại dầu gội, xà bông, bột giặt… Những thứ hàng hóa đó mang hình ảnh của văn minh, lịch sự vì mang lại sự thơm tho, sạch sẽ, tươi mát cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, càng sử dụng hàng hóa tẩy rửa bao nhiêu thì môi trường nước càng hứng chịu bấy nhiêu. Xà bông, dầu gội không có màu đen như chất thải thuốc nhuộm, nhưng đó cũng chính là chất gây hại cho môi trường. Không cá tôm, thủy sinh nào có thể chịu đựng được xà bông, thuốc tẩy.
Tại Malaysia, nơi có sòng bạc nổi tiếng Genting, trong các khách sạn, người ta dán các mẫu tin như là: “Chúng tôi có rất ít nước sạch, xin vui lòng dùng nước một cách tiết kiệm”. Tại Thái Lan, trong phòng tắm khách sạn, người ta dán thông báo: “Khăn còn sạch xin để trên kệ. Chỉ những khăn nào thật sự cần giặt, quý khách bỏ xuống sàn nhà để chúng tôi phục vụ. Nhằm giảm bớt việc giặt giũ không cần thiết gây lãng phí nước sạch và gây ô nhiễm môi trường do chất tẩy rửa”.
Dân số tăng nhanh, tài nguyên có hạn, quản lý nhà nước kém cỏi… Nhiều đô thị mọc lên từ ruộng lúa, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa có, dân tự khoan giếng để sinh hoạt. Nguồn nước ngầm không phải là vô hạn và có khả năng bị ô nhiễm. Nhiều nơi khoan nước máy cạnh nghĩa địa, hàm lượng ni tơ rất cao. Tháng 3/2009, báo điện tử loan tin ngay cả nước máy đã được xử lý, đưa vào hệ thống sinh hoạt trong thành phố cũng bị nhiễm ni tơ nặng nề. Người thành thị dù có biết là nước ô nhiễm cũng nhắm mắt mà dùng.
Sống ở nông thôn thì bắt ấm nước lên bếp, nấu sôi là có thể dùng được. Người ở thành thị thì bận rộn quá, luôn tìm giải pháp nào nhanh gọn lẹ nhất để giải quyết mọi vấn đề. Ngay cả nước uống thì cũng mua nước đóng thùng về uống, tin chắc rằng đó là nước sạch, tuyệt đối vệ sinh, khỏi lo “tiêu chảy cấp nguy hiểm có nguyên nhân từ vi khuẩn tả”. Thế nhưng mấy này cuối tháng 3, người ta phát hiện các thùng nước “tinh khiết” kia có chứa vi trùng sinh mủ! Kiểm tra tới tới nữa thì thấy thiên hạ dùng nước phông tên tra vào thùng và bán ra ngoài gọi là nước tinh khiết!
Hồi tôi còn nhỏ, đi học tại một ngôi trường nghèo ở quận 4, tôi thấy có vòi nước công cộng xả nước rất mạnh. Dân lao động nghèo không có nước máy đn nhà, ra đó xài chung vòi nước công cộng cho việc tắm giặt, nấu ăn. Bây giờ tôi không hề thấy ở đâu có vòi nước máy như vậy.
|
|