|
Post by Huu Le on Sept 22, 2007 5:10:00 GMT 9
Tướng Dwight Eisenhower (1890-1969) Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ vi.wikipedia.org/wiki/Dwight_D._Eisenhower Ông Dwight D. Eisenhower là một vị tướng cao cấp và vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa Kỳ, là nhà lãnh đạo quân sự của các lực lượng Đồng Minh tại châu Âu trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Tướng Dwight Eisenhower đã là vị Tư Lệnh Tối Cao của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh (the Allied Expeditionary Foce), ông đã chỉ huy cuộc đổ bộ lên khu vực bờ biển Normandy thuộc nước Pháp, vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, nhờ vậy các đạo quân Đồng Minh đã đánh bại lực lượng Đức Quốc Xã, khiến cho Đức Quốc Xã phải đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945. Tướng Eisenhower từng có hơn 30 năm kinh nghiệm quân sự nhưng ông đã trải qua hơn 50 năm đầu không nổi tiếng. Ngay cả trong binh chủng Lục Quân, ông Eisenhower đã không được nhiều người biết tới, nhưng từ khi Thế Chiến Thứ Hai xẩy ra, ông Eisenhower đã lên chức với tốc độ khác thường: là một Trung Tá vào năm 1941, ông trở thành vị Đại Tướng 5 sao vào năm 1945. Vào năm 1950, Tổng Thống Harry Truman đã bổ nhiệm Tướng Dwight D. Eisenhower làm Tư Lệnh các Lực Lượng Bắc Đại Tây Dương (the North Atlantic Treaty Organization Forces) và như vậy, Tướng Eisenhower là nhà lãnh đạo một lực lượng quân sự nhiều quốc gia rất lớn trong thời bình. Tài năng của Tướng Eisenhower là khiến cho nhiều người với quá trình khác nhau, có thể cùng hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Như vậy, ông Eisenhower được kể là một nhà chiến thuật có tài và nhà quản trị hành chính khéo léo. Nhiều người trên thế giới đã yêu mến Tướng Eisenhower và thường gọi ông một cách thân mật là "Ike". Ông Eisenhower là một con người cao và nặng hơn trung bình không nhiều. Ông có chiếc đầu hói, cái trán rộng, miệng rộng và hay tươi cười, dễ dàng bộc lộ tình cảm chân thật và niềm nở. Ông Eisenhower là một nhân vật có đầu óc sắc bén, trật tự, nhưng ông không phải là một nhà trí thức cấp cao, không có cách nhìn sâu xa vào các công việc trọng đại nhưng vẫn có thể phân tích các vấn đề khó khăn và chọn ra cách giải quyết thích hợp. Khi được bầu làm Tổng Thống Hoa Kỳ vào năm 1952, Tướng Dwight Eisenhower đã chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên tuy nhiên, trong cả hai nhiệm kỳ từ năm 1953 tới năm 1961, Tổng Thống Eisenhower đã không tạo nên được các thành tích đáng kể về lập pháp lẫn ngoại giao, và nhiều người còn nhớ rằng đây là giai đoạn tương đối yên tĩnh của đất nước Hoa Kỳ. Nhiều người đã yêu mến ông Eisenhower vì các cách cư xử dễ dàng của ông, vì khả năng chịu lắng nghe và sự quan tâm của ông tới phúc lợi của các người khác, vì bản chất thành thực , lòng tử tế và rộng lượng của ông cùng với các cử chỉ bình dân. 1/ Thời Niên Thiếu. David Dwight Eisenhower, thường được gọi là Dwight David, chào đời vào ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại Denison, tiểu bang Texas. Cha mẹ là ông David Jacob Eisenhower và bà Ida Stover Eisenhower, là hai tín đồ thuần thành của một giáo phái đạo Tin Lành gọi tên là "The River Brethren". Hai ông bà David và Ida đã gặp nhau khi là sinh viên của Đại Học Lane, điều hành do Nhà Thờ United Brethren tại thành phố Lecompton, tiểu bang Kansas. Họ kết hôn vào năm 1885 và đã được người cha của ông David là một chủ trại giàu có, tặng cho $2,000 và một nông trại rộng 160 mẫu. Nhưng ông David không ưa thích cuộc sống buồn tẻ của nông trại, nên đã bán bất động sản để đầu tư vào một cửa hàng tại thị trấn Hope, trong tiểu bang Kansas. Sau 3 năm, công việc thương mại gặp thất bại, ông David phải di chuyển qua thị trấn Denison, tiểu bang Texas, để lại phía sau người vợ đang mang bầu và đứa con trai nhỏ. Ông David đã làm công nhân đường xe lửa với lương tháng $40 rồi qua năm 1889, đã đưa gia đình qua cùng sinh sống tại Denison. Cậu Dwight có 2 người anh lớn là Arthur (1886-1958) và Edgar (1899-1971) và 3 người em nhỏ, là Roy (1892-1942), Earl (1898-1968) và Milton (1899-1985). Còn một người em nữa qua đời khi còn nhỏ. Cha mẹ của cậu Dwight có nguồn gốc Đức và Thụy Sĩ, là những di dân tới tiểu bang Pennsylvania vào các năm 1700. Khi cậu Dwight còn nhỏ, gia đình Eisenhower di chuyển về thành phố Abilene, tiểu bang Kansas và cha của cậu làm việc trong một hãng sữa còn các con trai trồng rau và làm các công việc vặt để trợ giúp gia đình. Cậu Dwight được đi học và các bạn của cậu gọi cậu là "Ike Nhỏ" (Little Ike) để phân biệt với người anh Edgar, được gọi là "Ike Lớn" (Big Ike). Hai cậu Ike này đã khiến cho các bạn chú ý, nên trong cuốn Sổ Lưu Niệm cuối năm, người ta đã dự đoán rằng Edgar có thể trở nên Tổng Thống còn Dwight sẽ là một giáo sư Lịch Sử. Sau khi tốt nghiệp bậc trung học, Dwight làm việc toàn thời gian trong hãng sữa để lấy tiền giúp anh Edgar trả học phí năm thứ nhất đại học và cậu Dwight không có một hy vọng nào sẽ được học lên cao cho đến khi một người bạn khuyên cậu nên nạp đơn vào một trường quân sự bởi vì học viên không phải trả học phí tại nơi học này. Vì vậy, cậu Dwight đã được Thượng Nghị Sỹ Joseph Bristow của tiểu bang Kansas xin cho dự thi vào Hàn Lâm Viện Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Military Academy) tại West Point, thuộc tiểu bang New York. Trái với ý kiến của cha mẹ là chống chiến tranh, cậu Dwight đã chọn làm một quân nhân vì coi đây là một cơ hội để học hỏi và thực tập kỷ luật. Tại trường West Point, cậu Dwight đã tham gia vào đội bóng bầu dục nhưng vì bị thương nơi đầu gối, cậu đã phải rút lui. Vào năm 1915, cậu Dwight Eisenhower đã tốt nghiệp sỹ quan bộ binh, hạng 61 trên tổng số 164 sinh viên và Bộ Lục Quân đã bổ nhiệm cậu Thiếu Úy này về Fort Sam Houston, gần San Antonio. 2/ Thời Quân Nhân. Khi không mắc bận nhiệm vụ tại Fort Sam Houston, Dwight Eisenhower thường làm ông bầu cho vài đội banh. Cũng vào thời gian này, ông gặp cô Mamie Geneva Doud (1896-1979) là một du khách thuộc gia đình giàu có từ miền Denver thuộc tiểu bang Colorado. Eisenhower bắt đầu làm quen và dẫn cô Mamie tới các nơi họp bạn. Ngày 01 tháng 7 năm 1916, Dwight Eisenhower được thăng cấp Trung Úy, đồng thời cũng làm lễ thành hôn với cô Mamie tại thành phố Denver. Gia đình mới này đã có một con trai, đặt tên là Doud Dwight Eisenhower, nhưng đã qua đời khi lên 3 tuổi vì bệnh sốt ban đỏ. Người con trai thứ hai tên là John Sheldon Doud Eisenhower sinh năm 1922, sau này là một sĩ quan Lục Quân tốt nghiệp từ một Học Viện Quân Sự vào đúng ngày Tướng Dwight Eisenhower ra lệnh đổ bộ lên châu Âu. Về sau, ông John Sheldon Eisenhower làm Đại Sứ của Hoa Kỳ tại nước Đan Mạch và vào năm 1968, con trai của ông Sheldon tên là David đã kết hôn với cô Julie Nixon, con gái của Phó Tổng Thống Richard M. Nixon. Do ở trong quân ngũ, gia đình Eisenhower đã di chuyển tới nhiều nơi và vào năm 1917, trước khi Hoa Kỳ tham gia vào Thế Chiến Thứ Nhất, ông Dwight Eisenhower được thăng cấp Đại Úy. Ông đã muốn qua châu Âu chiến đấu nhưng vì là một huấn luyện viên giỏi, Quân Đội đã giữ ông lại để điều khiển các chương trình huấn luyện kỹ thuật chiến xa dành cho các sĩ quan Thiết Giáp và binh lính tại trại Colt, thuộc miền Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Đây là thời kỳ ông Dwight Eisenhower học hỏi được rất nhiều chiến thuật dùng chiến xa và cách thức chuyển hóa các dân sự thành những quân nhân tinh nhuệ. Ông Eisenhower đã được trao tặng Huy Chương Phục Vụ Đặc Sắc (a Distinguished Service Medal) nhưng ông vẫn không có đủ các kinh nghiệm chiến trường. Vào năm 1920, ông Dwight Eisenhower được thăng cấp Thiếu Tá rồi qua năm sau, tốt nghiệp trường Thiết Giáp tại Camp Mead, thuộc tiểu bang Maryland. Ông Eisenhower được thuyên chuyển tới Vùng Kênh Đào Panama, vào thời kỳ này còn thuộc quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Ông làm sĩ quan tham mưu cho Lữ Đoàn 20 Bộ Binh và tại Panama, ông đã gặp Thiếu Tướng Fox Conner, là nhân vật đã dạy cho ông rất nhiều về lịch sử quân sự, cũng như bàn thảo nhiều vấn đề quốc tế. Tướng Conner còn cho ông Eisenhower biết rằng một vị đại tá tên là George C. Marshall sẽ có thể điều khiển lực lượng quân sự Mỹ trong trận chiến tranh sắp tới, đây sẽ là một chiến cuộc có tính toán cầu và nhà chiến lược phải suy nghĩ tới toàn thể thế giới mà không phải chỉ nghĩ về một trận tuyến. Về sau này khi đã về hưu từ chức vụ Tổng Thống, ông Dwight Eisenhower còn nói: "Tướng Fox Conner là một người có khả năng nhất mà tôi đã từng quen biết". 3/ Lãnh các chức vụ tham mưu. Vào năm 1925, nhờ sự giúp đỡ của Tướng Conner, Đại Úy Eisenhower được theo học Trường Chỉ Huy và Tham Mưu (the Command and General Staff School) tại Leavenworth, Kansas. Ông đã học tập chăm chỉ nên đã đỗ đầu trong số 275 sĩ quan, đây là những quân nhân đã được huấn luyện kỹ càng về chiến thuật cùng các kỹ năng quân sự khác. Năm 1927, ông Eisenhower đã soạn thảo xong cuốn sách hướng dẫn các trận chiến tại châu Âu trong thời Thế Chiến Thứ Nhất, rồi qua năm sau, 1928, ông tốt nghiệp Học Viện Chiến Tranh (the Army War College) đặt tại Thủ Đô Washington D.C. Vào thời gian này, ông Dwight Eisenhower đã nổi tiếng là một sĩ quan tham mưu xuất sắc, rất tài giỏi về cách soạn thảo các báo cáo và kế hoạch. Ông Dwight Eisenhower phục vụ tại Văn Phòng của Thứ Trưởng Bộ Chiến Tranh từ năm 1929 tới năm 1933, đã thực hiện được một kế hoạch dài về cách động viên kỹ nghệ trong trường hợp có chiến tranh lớn xẩy ra. Vào năm 1933, Đại Úy Eisenhower là phụ tá cho Tham Mưu Trưởng của Tướng Douglas MacArthur và chính vị Tướng danh tiếng này cũng phải khen ngợi và lệ thuộc vào các tài năng quản trị và khả năng soạn thảo các tài liệu của ông Eisenhower. Khi trở nên cố vấn quân sự cho Chính Phủ Phi Luật Tân vào năm 1935, Tướng MacArthur đã yêu cầu Bộ Chiến Tranh cử Thiếu Tá Eisenhower làm sĩ quan phụ tá cao cấp cho mình, và ông Dwight Eisenhower đã trù liệu các kế hoạch phòng thủ cho nước Phi Luật Tân, cũng như soạn thảo ra chương trình thành lập một Học Viện Quân Sự cho chính quyền Phi mới giành được độc lập. Chính trong thời gian phục vụ tại Phi Luật Tân, Thiếu Tá Eisenhower đã học cách lái máy bay quân sự và bay một mình vào năm 1937, khi đó ông đã 47 tuổi. Vào đầu năm 1940, ông Dwight Eisenhower đã mang lon Trung Tá, trở nên sĩ quan tham mưu của Lữ Đoàn 15 Bộ Binh (the 15th Infantry Regiment) đóng tại Fort Ord, thuộc tiểu bang California, rồi qua tháng 3 năm 1940, Trung Tá Eisenhower là Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 3, đóng tại Fort Lewis, tiểu bang Washington. Qua năm 1941, ông Eisenhower mang lon Đại Tá và là Tham Mưu Trưởng của Tướng Walter Krueger, chỉ huy trưởng Lộ Quân thứ 3 (the 3rd Army) đóng tại Fort Sam Houston. Thế Chiến Thứ Hai đã bùng nổ vào năm 1939. Nước Đức, sau này có các nước Ý, Nhật và một số quốc gia thuộc khối Trục, đang đánh nhau với các nước Anh, Pháp và sau này là Liên Xô và Hoa Kỳ. Vào năm 1940, Hoa Kỳ bắt đầu xây dựng các lực lượng quân sự để phòng ngừa bị lôi kéo vào cuộc chiến. Năm 1941, Bộ Lục Quân đã chỉ thị Đại Tá Eisenhower trù liệu một cuộc tập trận dành cho Lộ Quân Thứ Ba tại tiểu bang Louisiana. Trong kỳ luyện tập này, Lộ Quân Thứ Ba đã đánh thắng được lực lượng giả địch, gồm cả sư đoàn xe tăng do một sĩ quan bạn chỉ huy, là ông George S. Patton, Jr. Đây là vị anh hùng trong Thế Chiến Thứ Hai vài năm sau. Đại Tá Eisenhower điều hành cuộc thao dượt lớn nhất trong thời bình, đã khiến cho các giới chức cao cấp bên ngoài Quân Đội phải chú ý và sau đó, ông Eisenhower được thăng cấp Chuẩn Tướng (brigadier general) vào tháng 9 năm 1941 và cũng được Tướng George S. Marshall chú ý đến. Vào thời gian này, Tướng Marshall đã thay thế Tướng MacArthur làm Tổng Tham Mưu Trưởng Lục Quân (Army chief of staff).
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 22, 2007 5:10:53 GMT 9
Tướng Marshall muốn loại bớt các nhân viên dư thừa và đang tìm kiếm các sĩ quan trẻ, nhiều hăng hái hơn, để gánh vác các công tác chiến tranh, vì thế vào ngày 14/12/1941, Tướng Marshall đã mời ông Eisenhower tới Thủ Đô Washington D.C. và đặt ông Eisenhower vào Phân Bộ Các Kế Hoạch Chiến Tranh (the War Plans Division), đặc biệt chịu trách niệm Vùng Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh này, Chuẩn Tướng Eisenhower đã phải làm việc 7 ngày 1 tuần lễ, mỗi ngày 14 giờ liên tục và đã khiến cho Tướng Marshall rất cảm phục. Tháng 2 năm 1942, Tướng Marshall thăng cấp cho ông Eisenhower lên Thiếu Tướng (major general), đứng đầu Phân Bộ Các Chiến Dịch (the Operations Division). Tới tháng 6 cùng năm, Tướng Marshall gắn thêm 1 ngôi sao cho ông Eisenhower rồi cử Trung Tướng Eisenhower tới London, nước Anh, để chỉ huy các lực lượng quân sự Hoa Kỳ đang hoạt động trên các chiến trường tại châu Âu. 4/ Chỉ huy các chiến trường tại châu Phi và nước Ý. Trong các tuần lễ đầu tiên tại London, Tướng Eisenhower đã tham dự các cuộc tranh luận về chiến lược rất lớn lao và quan trọng. Theo lời hướng dẫn của Tướng Marshall, Tướng Eisenhower đã thúc dục Bộ Tham Mưu Phối Hợp CCS (the Conbined Chiefs of Staff) gồm các tướng lãnh hàng đầu của nước Anh và nước Mỹ, nên trù liệu một chương trình đổ bộ lên nước Pháp vào năm 1943, hoặc nếu cần, một cuộc đổ bộ mạo hiểm vào năm 1942 nếu nước Nga bị loại ra khỏi vòng chiến. Nhưng người Anh vào thời bấy giờ lại muốn đổ bộ lên Bắc Phi, một công tác dễ dàng hơn nhưng không mang lại các kết quả đáng kể. Đã có nhiều bất đồng ý giữa các vị tư lệnh Anh và Mỹ về các chiến lược sắp đến trong khi đó Tổng Thống Franklin D. Roosevelt ngả về phía người Anh. Sau đó Bộ Tham Mưu Phối Hợp CCS đã chọn Tướng Eisenhower chỉ huy chiến dịch "Bó Đuốc" (Operation Torch), giao cho ông toàn quyền điều khiển các lực lượng hải, lục và không quân. Đây là đường lối chỉ huy thống nhất, có nhiều quyền hành hơn của Thống Chế Foch đã xử dụng năm 1918 trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Cuộc đổ bộ lên Bắc Phi bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 1942 và các lực lượng của Tướng Eisenhower đã lên bờ gần Casablanca. Tại nơi này, lực lượng của chính phủ Vichy thuộc Pháp đã chống cự. Tướng Eisenhower đã thương lượng với vị tư lệnh Pháp là Đô Đốc Jean Darlan, cho ông này quyền kiểm soát dân sự miền Bắc Phi để đổi lấy sự cộng tác của người Pháp chống lại quân Đức Quốc Xã. Vì Tướng Darlan trước kia đã chống Do Thái và đã cộng tác với quân Đức, nên cách dàn xếp kể trên đã bị phản đối dữ dội, nhưng Tướng Eisenhower đã qua khỏi cơn bão táp do nhấn mạnh rằng việc thương lượng chỉ có tính cách tạm thời và chuyên về mặt quân sự. Trên trận địa của châu Âu, Tướng Eisenhower cố gắng tiến quân về phía đông, tới tận xứ Tunisia trước khi quân Đức lập căn cứ tại nơi đây, nhưng cuộc hành quân kể trên đã gặp thất bại. Vào tháng 2 năm 1943, lực lượng Mỹ cũng bị tấn công bất ngờ trong trận Kasserine Pass. Tới tháng 5 năm 1943, tất cả quân đội Đức Quốc Xã tại châu Phi đầu hàng. Tới lúc này, ông Eisenhower được gắn thêm 1 ngôi sao nữa. Đây là cấp bậc cao nhất trong Lục Quân Hoa Kỳ vào thời kỳ đó. Đại Tướng 4 sao Dwight Eisenhower đã chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ và cả Lộ Quân thứ 8 (the British Eighth Army) của Tướng Montgomery, nước Anh. Công việc chỉ huy này rất khó khăn. Tướng Eisenhower phải vừa là một nhà ngoại giao, vừa là một người đặt kế hoạch khôn khéo, làm sao tạo nên được sự thống nhất trong số các tướng lãnh của nhiều quốc gia vì các viên tướng này đều ngang bướng và hay nói thẳng. Qua tháng 7 năm 1943, hầu như toàn thể bán đảo Ý đều được giải phóng bởi lực lượng Đồng Minh dù cho một số quân đội Đức Quốc Xã đã trốn thoát, trong khi đó, Tướng Eisenhower cũng chỉ huy các thương lượng kín đáo để nước Ý Phát Xít đầu hàng. Vào ngày 8/ 9/1943, lực lượng quân sự của Tướng Eisenhower đánh lên Salermo. Quân đội Đức chiếm đóng tại đây đã phòng thủ cẩn thận từ trước trong các miền núi đá, nên tiến bộ rất chậm chạp và trong khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn, Tướng Eisenhower được lệnh phải dời khỏi nước Ý, về London để chỉ huy các lực lượng sắp đổ bộ lên bờ biển của nước Pháp. 5/ Điều khiển cuộc đổ bộ lên đất Pháp. Vào năm 1943, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã thiết lập nên một bộ tham mưu phối hợp để dự trù việc đổ bộ lên châu Âu khi đó còn bị các lực lượng Đức Quốc Xã chiếm đóng. Hai nhân vật được đề nghị đứng ra tổ chức cuộc đổ bộ lớn lao này là Tướng Marshall và Tướng Eisenhower, nhưng Tổng Thống Franklin D. Roosevelt không muốn Tướng Marshall đi xa các công việc chính yếu tại Thủ Đô Washington D.C., vì vậy vào tháng 12 năm 1943, Tổng Thống Roosevelt đã bổ nhiệm Tướng Eisenhower làm chỉ huy tối cao của lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại châu Âu. Khi Đại Tướng Dwight Eisenhower lãnh nhiệm vụ tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh SHAEF (Supreme Headquarters, Allied Expeditionary Force), ông nhận thấy mình đang chỉ huy một lực lượng quân sự lớn nhất từ xưa tới nay và lực lượng Đồng Minh này đang trù tính một kế hoạch hành quân gọi là Chiến Dịch Overlord, vượt qua Biển Channel của nước Anh vào đầu tháng 6 để chiếm miền đất Normandy thuộc phía bắc của nước Pháp và đây sẽ là một cuộc tiến chiếm thủy vận lớn nhất trong lịch sử. Vào ngày đầu tiên của chiến dịch, hơn 156,000 người sẽ đánh vào bờ biển với 6,000 tầu thuyền yểm trợ dưới nước và trên không có hàng ngàn máy bay đủ loại tấn công quân Đức. Để tổ chức một lực lượng quân sự quá vĩ đại này, Tướng Eisenhower đã có một bộ tham mưu gồm 16,312 sĩ quan và hạ sĩ quan, sẽ phải phối hợp các lực lượng bộ binh và hải quân của Hoa Kỳ, của nước Anh và các nước Đồng Minh khác, làm sao cho tất cả cùng tiến tới như một sức mạnh vũ bão. Trong công tác trọng đại này, Tướng Eisenhower đã trông cậy phần lớn vào hai nhân vật: Tướng Marshall sẽ ủng hộ ông trong suốt chiến dịch và cung cấp mọi yểm trợ không giới hạn từ Thủ Đô Washington D.C., người thứ hai là vị tham mưu trưởng Walter Bedell Smith, còn trên mặt trận đã có Tướng Omar Bradley, một người bạn thân và cũng là sĩ quan tốt nghiệp từ Trường West Point, và Tướng George Patton. Đối với vị chỉ huy lực lượng của nước Anh, Tướng Eisenhower không hợp ý với Tướng Montgomery nhưng ông vẫn kính trọng khả năng của vị tướng Anh này. Chiến dịch đổ bộ Overlord đang được trù tính: sự thành công sẽ thùy thuộc tình trạng mặt biển yên tĩnh và mức thủy triều thấp để cho các con tầu đổ bộ lên bờ dễ dàng và nhanh chóng, trong khi bầu trời quang đãng cũng giúp cho các loại máy bay khu trục và ném bom có thể bảo vệ binh lính ở dưới đất. Cuộc đổ bộ được dự trù vào ngày 4 tháng 6 năm 1944 nhưng vào ngày mồng 3, thời tiết trở nên xấu đi, mặt biển nổi sóng lớn và nhiều mây dày đặc trên bầu trời. Gió thổi mạnh từng cơn như gào thét trong khi mưa nặng hạt quét các lớp nước liên tục. Một trận bão trên Biển Channel đã khiến cho phải hoãn lại kế hoạch đổ bộ. Chiều ngày mồng 4, nhân viên khí tượng tiên đoán rằng trận bão sẽ dịu đi vào sáng ngày mồng 6, bầu trời sẽ quang đãng trở lại. Nếu cuộc đổ bộ không bắt đầu vào ngày mồng 6 này, cần phải chờ đợi thêm 2 tuần lễ nữa mới có điều kiện nước thủy triều thấp. Tướng Eisenhower đã gặp phải một quyết định rất đau đầu. Ông có thể đưa hàng triệu mạng sống vào cơn rủi ro vì thời tiết, còn nếu hoãn cuộc đổ bộ, lực lượng quân sự của ông sẽ mất hẳn đi yếu tố bất ngờ, bởi vì địa điểm đổ bộ đã được trình bày cho hàng ngàn người biết và người Đức chắc chắn sẽ biết tin tức này để mà phản công. Tướng Eisenhower phải có quyết định cuối cùng. Ông tin tưởng ở nhân viên khí tượng, căn cứ vào một tháng theo dõi các lời tiên đoán. Ông hỏi ý kiến các vị chỉ huy mặt trận và ban tham mưu, rồi vào ngày mồng 5, Tướng Eisenhower ra lệnh: "Đồng Ý, Hãy Ra Đi" (OK, let's go). Sáng sớm ngày 6 tháng 6 năm 1944, một ngày đáng ghi nhớ và được gọi là Ngày D (D-Day), bầu trời quang đãng trở lại và sau một ngày tấn công ào ạt các lực lượng phòng thủ của Đức Quốc Xã, các binh lính Đồng Minh đã chiếm được một số vị trí then chốt trên bờ biển Normandy. Vào cuối tháng 7 năm 1944, khi các lực lượng Hoa Kỳ đã sẵn sàng tiến về phía thủ đô Paris của nước Pháp thì Tướng Eisenhower lại gặp phải một cuộc bất đồng ý kiến với Tướng Montgomery, chỉ huy trưởng của lực lượng Anh Quốc. Vị Tướng Anh này yêu cầu Tướng Eisenhower dành cho quân lực Anh hiện đang ở cánh bên trái, tất cả tiếp liệu còn lại, để ông ta có thể dẫn quân tiến về phía bắc của nước Đức, trong khi đó Tướng Eisenhower muốn rằng tất cả mọi lực lượng Đồng Minh đều tiến tới trên một trận tuyến rộng lớn với Tướng Bradley điều khiển binh lính ở bên phải. Tướng Montgomery lại cho rằng theo cách tiến quân này Tướng Eisenhower sẽ kéo dài cuộc chiến tranh trong khi đó, Tướng Eisenhower lại quan niệm rằng nếu ông để cho lực lượng Anh một mình tiến sâu vào trong nước Đức, lực lượng này có thể bị cô lập và bị đánh tan bởi quân Quốc Xã trong khi các lực lượng Đồng Minh lại không giữ vững được các hải cảng có nước sâu. Ngoài ra, Tướng Eisenhower nghĩ rằng cũng khó mà kìm giữ quân lực Hoa Kỳ, đặc biệt theo Tướng Patton, tiến chậm bớt khi đánh về phía thủ đô Paris. Trước mặt Thủ Tướng Churchill và Tướng Montgomery, Đại Tướng Eisenhower đã nhấn mạnh rằng cần phải duy trì một mặt trận trải dài theo bề rộng. Ông Eisenhower quả quyết về điều này, bởi vì ông đã tin tưởng vào sự yểm trợ hết lòng của Tướng Marshall ở thủ đô Washington D.C. Vào cuối mùa thu năm 1944, các lực lượng Đồng Minh cạn dần tiếp liệu, mặc dù họ có thể đẩy quân đội Đức Quốc Xã ra khỏi nước Pháp, nhưng họ chưa thể tiến sâu vào địa phận nước Đức. Vào tháng 12 năm 1944, quân Đức bắt đầu tổng phản công tại miền Ardennnes, và trong trận đánh Bulge (the Battle of the Bulge), quân lực của Tướng Eisenhower đã đập tan nát toàn bộ lực lượng quân Đức sau một trận giao chiến xuất sắc. Sau chiến thắng vẻ vang kể trên, Thủ Tướng Anh Churchill muốn rằng Tướng Eisenhower tiến quân về thủ đô Berlin và chiếm giữ thành phố này cho đến khi người Nga chịu nhượng bộ về nước Ba Lan và các điều kiện chính trị khác liên quan đến các vấn đề hậu chiến của các nước Đông Âu. Tướng Eisenhower lại nhấn mạnh rằng trước kia đã có các thỏa ước giữa các chính phủ Đồng Minh về việc phân chia nước Đức thành các vùng chiếm đóng và chia thành phố Berlin thành các khu vực kiểm soát trong đó có khu vực thuộc quyền của người Nga. Nếu bây giờ, quân lực Hoa Kỳ đánh chiếm thành phố Berlin, số thiệt hại có thể lên tới 100,000 lính Mỹ tử vong rồi sau đó vẫn phải trả lại khu vực đã ấn định cho quân đội Liên Xô. Ngoài ra, Tướng Eisenhower còn tin rằng không thể có số quân Đồng Minh đủ lớn để tiến vào thủ đô Berlin trước quân đội Liên Xô. Sau đó, Tướng Eisenhower đã phái quân lực Hoa Kỳ đánh xuống miền nam của nước Đức. Sự bất đồng ý kiến kể trên giữa các tướng lãnh Đồng Minh đã là một sự việc rất căng thẳng và hiện nay, người ta còn tranh luận về quyết định này của Tướng Eisenhower. 11 tháng sau ngày Đổ Bộ lên bờ biển Normandy, nước Đức Quốc Xã đã phải đầu hàng không điều kiện vào ngày 8 tháng 5 năm 1945. Ông Eisenhower nhận được một cấp bậc mới, là Đại Tướng 5 sao. Một cuộc tiếp rước tưng bừng đã chào đón ông tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1945. Đại Tướng Dwight Eisenhower đã đứng đầu các lực lượng Đồng Minh chiếm đóng nước Đức trong 6 tháng rồi trở về thủ đô Washington D.C. Ông đã theo dõi một chương trình giải ngũ quân đội Mỹ để các quân nhân trở về đời sống dân sự của thời bình nhưng ông cũng muốn việc giải giới này tiến hành chậm chạp để giữ cho quốc gia vững mạnh. Ông Eisenhower đề nghị động viên tất cả thanh niên 18 tuổi nhưng ý kiến này không được ủng hộ. Ông đã đọc nhiều bài diễn văn liên quan tới vấn đề quốc phòng và ngồi viết hồi ký. Tướng Eisenhower cũng muốn về hưu để sống một đời dân sự yên tĩnh nhưng đất nước Hoa Kỳ còn cần tới tài năng của ông, nên ông được đề nghị thay thế Tướng Marshall làm Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân Lực Hoa Kỳ. Ông muốn tất cả quân lực của Hoa Kỳ sẽ được thống nhất dưới một hệ thống chỉ huy nhưng các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự đã chống đối cách hợp nhất này. Năm 1947, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua một dự án dung hòa, chấp nhận sự việc chỉ có một bộ trưởng quốc phòng. Tướng Eisenhower về hưu khỏi Quân Đội vào năm 1948 và trở nên Viện Trưởng của Trường Đại Học Columbia tại thành phố New York. Ông dành thời giờ để viết một cuốn sách kể lại các kinh nghiệm trong thời chiến của ông, cuốn sách có tên là "Cuộc Thánh Chiến tại Châu Âu" (Crusade in Europe, 1948) và ông rất ngạc nhiên khi cuốn sách này trở thành tác phẩm bán chạy nhất (a best seller). Vào cuối thập niên 1940, phần lớn các quốc gia Đông Âu đều nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền Cộng Sản do Liên Xô lãnh đạo. Kết quả của sự việc này là các quốc gia cùng với Hoa Kỳ và Gia Nã Đại đã hợp tác với nhau vào năm 1949 để lập nên Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là NATO (the North Atlantic Treaty Organization). Năm 1950, Tổng Thống Harry S. Truman yêu cầu Tướng Eisenhower lãnh chức vụ chỉ huy tối cao các lực lượng NATO tại châu Âu và ông Eisenhower đã vui vẻ nhận nhiệm vụ tạo dựng một đạo quân quốc tế gồm các quân nhân thuộc nhiều quốc gia.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 22, 2007 5:11:31 GMT 9
6/ Trên đường tiến tới Tòa Nhà Trắng. Vào tháng 6 năm 1950, quân Bắc Triều Tiên được Liên Xô trang bị võ khí, đã vượt qua biên giới và xâm lăng Nam Triều Tiên. Tổng Thống Truman bèn gửi quân đội Mỹ qua Nam Triều Tiên, là một thành phần của lực lượng quân sự Liên Hiệp Quốc, để chống lại quân xâm lăng từ phía bắc. Sự việc quân đội Hoa Kỳ tham dự vào cuộc chiến đã được nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ Cộng Hòa ủng hộ. Nhưng các vị Cộng Hòa Bảo Thủ, được gọi là Nhóm Già Bảo Thủ (the Old Guard), đứng đầu do Thượng Nghị Sĩ Robert A. Taft, thuộc tiểu bang Ohio, lại muốn Hoa Kỳ rút lui khỏi cuộc chiến bởi vì khu vực này sớm trở thành một nơi bế tắc đẫm máu.
Như vậy vào thời bấy giờ, người dân và các vị dân cử Hoa Kỳ đã bị chia rẽ sâu xa vì vấn đề chiến tranh Triều Tiên. Tướng Eisenhower không đồng ý với Thượng Nghị Sĩ Taft và nhóm bảo thủ của ông này, bởi vì ông Eisenhower tin tưởng rằng Hoa Kỳ không thể sống trong hòa bình và tự do mà lại tránh né các vấn đề xẩy ra tại các nơi khác trên thế giới. Nhiều nhà lãnh đạo đảng Cộng Hòa thúc dục Tướng Eisenhower ra ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ vào năm 1952, lấy cớ rằng chỉ có ông Eisenhower mới có thể đoàn kết hai khối bảo thủ và cấp tiến, có thể giải quyết các vấn đề làm chia rẽ đất nước. Các người thuộc đảng Dân Chủ cũng muốn Tướng Eisenhower làm ứng viên Tổng Thống bởi vì danh tiếng của ông và cũng vì ông Eisenhower không dính mắc vào hoàn cảnh bất hòa của các đảng phái. Lúc đầu, Tướng Eisenhower đã từ chối đề nghị kể trên. Ông đã gửi một bức thư vào năm 1948 cho một tờ báo tại New Hampshire, xác nhận rằng các người lính chuyên nghiệp phải tránh việc mưu cầu các chức vụ cao trong chính quyền và ông cũng không muốn chống lại các đường lối của Tổng Thống Truman bởi vì chính ông là người đã phác thảo ra các chính sách phòng thủ.
Tuy nhiên, Tổng Thống Truman đã chọn việc không ra tái tranh cử, ngoài ra trên toàn quốc Hoa Kỳ đã có các hội gọi tên là Hội Ike (Ike Clubs) ủng hộ Tướng Eisenhower. Trước hoàn cảnh này, ông Eisenhower đã rút lui khỏi Quân Đội mà không hưởng quyền lợi vào tháng 6 năm 1952, chấp nhận làm ứng viên Tổng Thống cho đảng Cộng Hòa bởi vì ông cho rằng các chính sách của đảng Dân Chủ đề cao quyền lực của chính quyền trung ương.
Vào năm 1952, Thượng Nghị Sĩ Robert A. Taft là ứng viên dẫn đầu của đảng Cộng Hòa, nhưng tại Đại Hội Đảng tổ chức ở Chicago, ông Henry Cabot Lodge, Jr. và các đảng viên Cộng Hòa cấp tiến khác, đã giúp ông Eisenhower thắng trong lần bỏ phiếu thứ nhất. Sau đó, một thượng nghị sĩ trẻ tuổi thuộc tiểu bang California là ông Richard Nixon được chọn làm ứng viên Phó Tổng Thống. Phía đảng Dân Chủ, họ đã chọn ông Thống Đốc Adlai E. Stevenson thuộc tiểu bang Illinois, làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ John J. Sparkman, thuộc tiểu bang Alabama, làm ứng viên Phó Tổng Thống.
Cuộc tranh cử bắt đầu tiến hành chậm chạp. Ông Eisenhower đã dùng rất hữu hiệu một phương tiện truyền thông mới, là truyền hình, để biến các cuộc vận động tranh cử thành các đám rước lớn, rầm rộ. Tại các nơi, mọi người đã đón chào ông Eisenhower và ca tụng lòng ái quốc của ông, họ hy vọng nơi ông một chính quyền trong sạch và chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ông Eisenhower cũng lên tiếng chỉ trích cách giải quyết chiến tranh Triều Tiên của Tổng Thống Truman, ông hứa hẹn với cử tri: "Tôi sẽ đi Triều Tiên" để giúp vào công việc chấm dứt chiến tranh.
Sự liêm chính và tư cách của ông Eisenhower đã được dân chúng Hoa Kỳ vào thời kỳ đó đánh giá cao hơn là tầm vóc trí thức của ứng viên Stevenson. Kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1952 là ông Eisenhower đã thắng ông Stevenson dễ dàng, với 442/ 89 phiếu cử tri đoàn. Về phiếu phổ thông, tỉ lệ là 33,937,252 trên 27,314,992 hay thắng 55 % phiếu và sau kỳ bầu cử này, đảng Cộng Hòa đã kiểm soát được cả hai Viện thuộc Quốc Hội.
7/ Nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower (1953-1957). Ông Dwight D. Eisenhowr đắc cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ với cả hai ưu và khuyết điểm: ông có tài về cách quản trị hữu hiệu, hiểu rõ vấn đề đối ngoại nhưng thiếu kinh nghiệm khi phải đối phó với các vấn đề quốc nội. Ông Eisenhower đã chọn lựa những nhân vật có khả năng mà ông tin cậy, để ủy thác nhiều quyền hành, chọ họ chịu trách nhiệm từng khu vực của chính quyền. Ông Eisenhower tuyên bố: "Thật là sai lầm nếu cho rằng tất cả khôn ngoan đều thuộc về vị Tổng Thống, là tôi", và ông tin tưởng rằng nhiều vấn đề khó khăn nên được giải quyết tại các địa phương hơn là chờ quyết định của chính quyền liên bang.
Không lâu sau khi ông Eisenhower ngồi tại Tòa Nhà Trắng, Bộ Y Tế, Giáo Dục và An Sinh (the Department of Health, Education and Welfare) được thành lập, đứng đầu là bà Oveta Culp Hobby và sự bổ nhiệm này đã nâng tổng số nhân vật trong nội các lên 10 vị.
Các mục tiêu quốc nội đầu tiên của Thổng Thống Eisenhower là cân bằng ngân sách, giảm bớt thặng dư nông phẩm bằng cách hạ bớt phần yểm trợ giá, giảm bớt các chi phí của chính quyền trung ương, đặt ra chương trình lòng trung thành (the loyalty program) kiến cho bớt đi các cuộc điều tra về sự nghi ngờ cộng sản của Thượng Nghị Sĩ McCathy. Về đối ngoại, Tổng Thống Eisenhower nhấn mạnh tới sự hợp tác chặt chẽ với các quốc gia đồng minh.
Vào năm 1956, chính quyền trung ương đã đạt được một số thặng dư nhỏ, quân đội Hoa Kỳ được tổ chức lại với nhiều võ khí mới về nguyên tử. Quốc Hội cũng thông qua một số cải cách ngân sách, hệ thống thuế được xét lại, hệ thống an sinh xã hội được mở rộng và tiền lương tối thiểu được tăng lên là 1 mỹ kim 1 giờ.
Tổng Thống Eisenhower cũng chấp thuận nhiều công trình công cộng tốn kém nhiều tỉ mỹ kim, trong số này có Hải Lộ St. Lawrence (the St. Lawrence Seaway), bắt đầu khởi công vào năm 1954 và hoàn thành vào năm 1959. Hệ thống xa lộ liên bang (the interstate highway system) cũng được bắt đầu vào năm 1956 nhưng dự án về một đập nước trên giòng sông Colorado bị chỉ trích nhiều và đã bị bác bỏ.
Từ năm 1950, Thượng Nghị Sĩ Joseph R. McCathy, thuộc tiểu bang Wisconsin, đã đứng đầu một tiểu bang trong Quốc Hội Hoa Kỳ, để tìm kiếm các người cộng sản nằm vùng trong chính quyền. Ông McCathy đã tố cáo – không có bằng cớ – rằng có nhiều gián điệp cộng sản nằm trong Bộ Ngoại Giao và trong Quân Đội, và ông cũng muốn cấm đoán các sách mà ông cho rằng đã do các người cộng sản viết ra. Ông McCathy đề nghị loại bỏ một số sách nằm trong các thư viện của Bộ Ngoại Giao.
Vào tháng 6 năm 1953, trong một bài diễn văn đọc tại Đại Học Dartmouth, Tổng Thống Eisenhower đã khuyến cáo các thính giả trẻ "đừng theo các kẻ đốt sách" (Don't join the book burners) nhưng vì tư cách của vị Tổng Thống, ông Eisenhower không chỉ trích công khai ông McCathy. Các hành động thái quá của ông McCathy đã khiến cho Thượng Viện phải kiềm chế ông này, rồi vào tháng 12 năm 1954, đã lên án ông McCathy là có những hành vi không thích hợp với một vị thượng nghị sĩ. Do vậy, ảnh hưởng của ông McCathy dần dần suy giảm.
Một khó khăn khác gây ra do một vị trong Nhóm Già Bảo Thủ (the Old Guard) là Thượng Nghị Sĩ John W. Bricker, thuộc tiểu bang Ohio, đòi hỏi rằng các hiệp ước mà Tổng Thống ký kết phải có sự chấp thuận của Thượng Viện Hoa Kỳ. Tổng Thống Eisenhower đã phản đối mọi biện pháp làm giảm đi quyền hạn của một vị Tổng Thống khi thực hành các chính sách đối ngoại và kết quả là các vị Thượng Nghị Sĩ ủng hộ Tổng Thống Eisenhower đã phủ quyết đề nghị kể trên.
Vào nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Eisenhower, một cuộc suy thoái kinh tế nhẹ đã xẩy ra và nhiều người quy trách nhiệm này là do các chính sách tiền tệ của ông George M. Humphrey, vị Bộ Trưởng Ngân Khố theo Đảng Cộng Hòa. Đảng Cộng Hòa cũng mất phần kiểm soát hai Viện thuộc Quốc Hội vào cuộc bầu cử giữa khóa của năm 1954, và cho tới cuối nhiệm kỳ thứ nhất, Tổng Thống Eisenhower đã phải làm việc với một Quốc Hội kiểm soát do Đảng Dân Chủ, đây là tình trạng khó khăn khi cần có các chương trình được sự ủng hộ của Quốc Hội.
Vào tháng 12 năm 1952 khi tranh cử, ông Eisenhower có hứa hẹn với cử tri Hoa Kỳ rằng ông sẽ chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên rồi một tháng sau khi đắc cử, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã đến thăm chiến trường Triều Tiên, nhưng cuộc đình chiến đã không được thực hiện ngay sau đó mà phải chờ tới ngày 27/ 7/1953 mới có đình chiến thực sự. Sự việc này một phần do cái chết của Stalin và một phần cũng do phe Cộng Sản e ngại quân lực Hoa Kỳ sử dụng tới sức mạnh nguyên tử.
Cũng vào thời kỳ này, Tổng Thống Eisenhower đã dùng Cơ Quan Trung Tâm Tình Báo CIA (the Central Intelligence Agency) thực hiện các hoạt động ngầm chống lại các chính phủ được phe Cộng Sản yểm trợ và cơ quan kể trên vào giữa thập niên 1950, đã giúp công vào việc lật đổ các chính quyền tại Guatemala và Iran.
Trong bài diễn văn đọc tại Liên Hiệp Quốc vào tháng 12 năm 1953, Tổng Thống Eisenhower khuyên thế giới nên dùng sức mạnh nguyên tử vào mục đích hòa bình. Các đại biểu Liên Hiệp Quốc đã vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt với mức độ chưa từng thấy tại Sảnh Đường Liên Hiệp Quốc, rồi sau đó, Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế (the International Atomic Energy Agency) đã được phát triển theo đề nghị của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower.
Về đối ngoại, tuy Tổng Thống Eisenhower quy định các kế hoạch với nhiều hy vọng kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh, nhưng các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ hầu như do Ngoại Trưởng John Foster Dulles thi hành và ông Dulles thường có các lập trường và biện pháp cứng rắn với chế độ Cộng Sản.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 22, 2007 5:12:49 GMT 9
Tổng Thống Dwight Eisenhower cũng thành công trong việc khiến cho nước Áo thoát khỏi cảnh bị chiếm đóng sau Thế Chiến Thứ Hai bởi bốn cường quốc và nền độc lập của nước này được phục hồi vào năm 1955. Sau cái chết của Joseph Stalin vào tháng 3 năm 1953, các liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Liên Xô dần dần được cải thiện. Vào tháng 7 năm 1955, các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp, đã tới dự cuộc họp thượng đỉnh tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ, và trong dịp này, Tổng Thống Eisenhower đề nghị một cuộc thỏa thuận gọi là "mở rộng bầu trời" (Open Skies) theo đó Hoa Kỳ và Liên Xô cho phép các máy bay kiểm soát các căn cứ quân sự , nhưng Liên Xô đã từ chối đề nghị kể trên, rồi sau cuộc hội nghị các ngoại trưởng được thực hiện vào tháng 10 năm 1955, hai phe Hoa Kỳ và Liên Xô đã xa cách nhau hơn trong các vấn đề cụ thể, rồi thái độ thật thà của Tổng Thống Eisenhower trước các vấn đề đối ngoại đã khiến cho Liên Xô dần dần xâm nhập vào vùng Trung Đông. Không lâu sau đó, Liên Xô bắt đầu viện trợ quân sự cho xứ Ai Cập và quốc gia này đã gây chiến với nước Do Thái mà không tuyên chiến. Ai Cập cũng đòi hỏi Hoa Kỳ phải viện trợ cho họ để xây dựng một đập nước lớn tại Aswan trên giòng sông Nile và khi Hoa Kỳ từ chối, Ai Cập đã nhận viện trợ từ Liên Xô. Sau đó không lâu, Tổng Thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser đã quốc hữu hóa Kênh Đào Suez nên vào ngày 29/10/1956, ba nước Anh, Pháp và Do Thái đã tấn công Ai Cập để chiếm lại kênh đào này bởi vì đây là thủy lộ nối liền miền Địa Trung Hải với Hồng Hải và cũng là con đường vận chuyển dầu hỏa từ các miền Trung Đông. Trước sự việc này, chính quyền của Tổng Thống Eisenhower đã từ chối ủng hộ 3 nước đồng minh cũ kể trên và ra lệnh ngưng ngay các khoản tiền dự tính cho nước Anh vay, và tại Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ kêu gọi một cuộc ngưng bắn. Trong bài diễn văn tại nơi này, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã nói: "Không thể có luật pháp nếu duy trì một hành động quốc tế cho nước bạn, khác với cho kẻ thù". Vì vậy hai nước Anh và Pháp đã bất bình trước lời nói kể trên và khi quân đội Liên Hiệp Quốc tới Kênh Đào Suez, liên quân Anh Pháp đã dần dần rút lui và cuộc xâm lăng Ai Cập kể trên chấm dứt. Vào tháng 9 năm 1955, trong kỳ nghỉ hè trên rặng núi Rocky Mountains thuộc tiểu bang Colorado, Tổng Thống Dwight Eisenhower bị một cơn đau tim (a heart attack). Ông đã sớm bình phục nhưng vẫn phải nằm bệnh viện trong tháng 8, vào kỳ sinh nhật thứ 65, rồi qua tháng 12 thì ông trở lại Thủ Đô D.C. Vấn đề bị đau tim của ông Eisenhower đã gây ra các câu hỏi liệu Tổng Thống Eisenhower còn đủ sức khỏe để ra tranh cử nhiệm kỳ hai không? Vì không tìm ra người đủ kinh nghiệm để thay thế mình nên vào tháng 2 năm 1956, ông Eisenhower đã tuyên bố sẽ ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Ông bắt đầu vận động tranh cử nhưng vào tháng 6 năm đó, ông lại bị rối loạn đường ruột (an intestinal disorder = ileitis), cần phải giải phẫu. Tình trạng này khiến cho các bạn của ông và các người đối lập nghi ngờ ông có thể gánh vác các trọng trách? Vào cuộc bầu cử năm 1956, đảng Dân Chủ đã chọn ông Adlai Stevenson làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Estes Kefauver, thuộc tiểu bang Tennessee, làm ứng viên Phó. Ông Eisenhower chọn ông Richard M. Nixon, một thượng nghị sĩ thuộc tiểu bang California, đứng chung liên danh. Vào dịp này, đảng Dân Chủ đã không chỉ trích đích danh ông Eisenhower mà mô tả vị Tổng Thống đương nhiệm là một người vui vẻ, ngây thơ trước các vấn đề chính trị quốc tế, trong khi ông Richard Nixon bị coi là người theo chủ thuyết McCathy và có thể làm phục hồi cách săn lùng những kẻ bị nghi ngờ là cộng sản. Ông Eisenhower đã vận động tranh cử bằng hình ảnh của một nhân vật phục vụ không vì tư lợi và ông kêu gọi mọi người không thuộc đảng phái nào hãy ủng hộ ông. Cách giải quyết cuộc khủng hoảng tại Kênh Đào Suez của Tổng Thống Eisenhower và sự phục hồi sức khỏe của ông đã làm cho các cử tri Hoa Kỳ tin tưởng nơi ông nhiều hơn và họ đã bỏ phiếu để ông Eisenhower thắng lợi lớn hơn kỳ trước: ông Eisenhower đoạt được 41 tiểu bang và 457 phiếu cử tri đoàn trong khi ông Stevenson chỉ thắng tại 7 tiểu bang và thu được 73 phiếu cử tri đoàn. Về phiếu bầu phổ thông, ông Eisenhower dẫn trước với 35,589,477 phiếu so với 26,035,504 phiếu của ông Stevenson. Sau cuộc bầu cử này, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã được tín nhiệm vẻ vang nhưng đảng Cộng Hòa của ông lại thua sút, không thể kiểm soát được một trong hai Viện của Quốc Hội. 8/ Nhiệm kỳ thứ hai của Tổng Thống Dwight Eisenhower (1957- 1961). Trong thời gian phục vụ quân đội, Tướng Eisenhower đã phải đưa gia đình di chuyển qua nhiều nơi khác nhau nhưng khi đã đắc cử vào Tòa Nhà Trắng, giai đoạn 8 năm là thời gian dài nhất mà gia đình ông Eisenhower lưu ngụ tại một nơi. Vào năm 1950, ông Eisenhower mua một nông trại tại Gettysburg, thuộc tiểu bang Pennsylvania, đây là căn nhà sở hữu đầu tiên của gia đình ông. Ông Eisenhower có thú tiêu khiển là đánh golf. Những khách qua đường đôi khi trông thấy Tổng Thống Eisenhower đánh banh trong sân cỏ của Tòa Nhà Trắng. Ông cũng ưa thích nấu ăn và thường hay mời các bạn bè lại dùng thứ thịt nướng trên bếp than hồng ngoài trời. Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Eisenhower đã gặp vấn đề rắc rối là phạm vi nhân quyền. Ông vẫn mong muốn chấm dứt tình trạng kỳ thị màu da đối với các người Mỹ da đen nhưng ước mong sự chấm dứt này theo trật tự và thận trọng. Vào tháng 9 năm 1957, tại thành phố Little Rock thuộc tiểu bang Arkansas, Thống Đốc Orval E. Faubus đã coi thường lệnh của Tòa Án Liên Bang, đã dùng quân Cảnh Vệ Quốc Gia (the Arkansas National Guard) ngăn cản không cho phép các học sinh da đen vào học cùng trường với các học sinh da trắng. Vì vậy, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã phải ra lệnh đặt quân Cảnh Vệ Quốc Gia dưới quyền kiểm soát của Liên Bang và gửi Sư Đoàn Không Vận Lục Quân thứ 101 (the 101st Airborne Division) tới Little Rock để bắt nhà chức trách địa phương thi hành theo lệnh của Tòa Án và bảo vệ các học sinh da đen. Trong bài diễn văn đọc trên truyền hình, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã cắt nghĩa rằng ông đã hành động như vậy để phòng ngừa các rối loạn sẽ xẩy ra thêm. Vào ngày 4 tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã phóng đi vệ tinh nhân tạo Sputnik 1. Đây là vệ tinh đầu tiên được đặt vào quỹ đạo của trái đất. Tiếp theo, ngày 3 tháng 11 năm 1957, Liên Xô lại thành công khi đưa lên không gian vệ tinh Sputnik 2, nặng hơn vệ tinh trước, lại mang theo con chó Laika. Sự việc kể trên đã khiến cho Liên Xô thắng hơn Hoa Kỳ về mặt kỹ thuật và danh dự của người dân Hoa Kỳ đã bị tổn thương vì họ vẫn thường tự hào về phương diện khoa học. Người dân Hoa Kỳ còn e sợ rằng Liên Xô sẽ dùng các hỏa tiễn tầm xa, đủ mạnh, để bắn tới lục địa Bắc Mỹ. Để đối phó lại, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã phải ủng hộ hai đề án tốn kém, đó là chương trình bắt kịp Liên Xô về Kỹ Thuật Không Gian và chương trình thứ hai là chính quyền Liên Bang phải giúp các trường học phát triển giáo dục khoa học. Kết quả là vào ngày 31 tháng 1 năm 1958, vệ tinh đầu tiên của Hoa Kỳ Explorer I, đã bay vòng quanh trái đất và từ nay, bắt đầu một cuộc chạy đua trên không trung. Cũng vào đầu nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã gặp phải các khủng hoảng tại vùng Trung Đông và châu Á. Vào năm 1957, Tổng Thống Eisenhower đã đề nghị giúp đỡ tài chính và quân sự cho các nước Trung Đông nào chống lại phe Cộng Sản, và chính sách này được gọi là Chủ Thuyết Eisenhower (the Eisenhower Doctrine), đã được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận. Vào tháng 7 năm 1958, một cuộc cách mạng theo cánh tả (a left-wing revolution) đã xẩy ra tại Iraq, nên Tổng Thống Eisenhower đã phải gửi quân đội Mỹ tới nước Lebanon để bảo vệ chính phủ thân phương Tây của xứ sở này. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã khiến cho hòa bình được vãn hồi và bảo vệ được các quyền lợi dầu mỏ của Hoa Kỳ trong vùng Trung Đông. Quân đội Mỹ sau đó đã rút lui vào tháng 10 năm đó. Một rắc rối khác xẩy ra tại xứ Venezuela khi Phó Tổng Thống Richard Nixon thăm viếng thiện chí xứ này, tại Caracas. Ông Nixon đã bị đám đông dân chúng thù nghịch tấn công và suýt gặp nguy hiểm tới tính mạng. Qua tháng 8 năm 1958, tại châu Á, Trung Cộng bắt đầu pháo kích hai đảo Quế Môn (Quemoy) và Mã Tổ (Matsu) do quân đội Đài Loan chiếm đóng. Tổng Thống Eisenhower đã ra lệnh cho Hải Quân Hoa Kỳ hộ tống các đoàn tầu tiếp tế từ Đài Loan cho hai hòn đảo kể trên. Sự giúp đỡ trực tiếp này đã chấm dứt các đe dọa của Trung Cộng đối với Đài Loan. Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã cố gắng liên lạc thiện cảm với các nhà lãnh đạo Dân Chủ tại Quốc Hội và trong phần lớn sự việc, Tổng Thống đã thành công. Tuy nhiên, ông Eisenhower cũng gặp phải buồn phiền khi các nhà điều tra Hạ Viện khám phá ra rằng vị phụ tá chính của Tổng Thống là ông Sherman Adams đã nhận các quà tặng từ một thương gia bông vải của thành phố Boston, đồng thời cũng là một kẻ chạy chọt (a lobbyist). Kết quả sau cùng là ông Adams đã phải từ chức vào tháng 9. Trong hai năm 1958 và 1959, một cuộc suy thoái kinh tế đã xẩy ra: tỉ lệ thất nghiệp tăng lên tới 7.3 % vào tháng 7/1958 và mặc dù kinh tế có chiều hướng phục hồi vào mùa thu năm 1958 này, nhưng sự kiện kể trên đã khiến cho đảng Dân Chủ thắng lớn trong các cuộc bầu cử giữa khóa vào tháng 11 năm 1958. Sau khi Stalin qua đời, Thủ Tướng Liên Xô là ông Nikita Khrushchev đã đồng ý nối lại liên lạc ngoại giao với Hoa Kỳ. Ông Khrushchev đã viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1959. Đây là cuộc viếng thăm Hoa Kỳ đầu tiên của một nhân vật hàng đầu của Liên Xô. Thủ Tướng Khrushchev cũng hẹn gặp Tổng Thống Eisenhower tại cuộc họp thượng đỉnh tổ chức tại thành phố Paris vào năm sau, 1960, nhưng vào tháng 5 của năm này, trước khi Tổng Thống Eisenhower lên đường qua Paris, Liên Xô đã bắn rơi một phi cơ do thám U-2 của Hoa Kỳ vì phi cơ này có nhiệm vụ chụp hình các căn cứ quân sự của Liên Xô. Tại Paris, Thủ Tướng Khrushchev đòi hỏi Hoa Kỳ phải xin lỗi về sự việc kể trên. Khi Tổng Thống Eisenhower từ chối xin lỗi, ông Khrushchev đã bước ra khỏi phòng họp và rút lại lời mời Tổng Thống Hoa Kỳ qua thăm Liên Xô. Trong khi đó tại Quốc Hội, các đại biểu Dân Chủ đã chỉ trích Tổng Thống Eisenhower là làm nguy hiểm nền hòa bình vì các công tác do thám và phê phán chính quyền hiện tại là thua kém Liên Xô trong việc phát triển các hỏa tiễn và các vũ khí không gian. Các lời chỉ trích này có mục đích ảnh hưởng tới cuộc tranh cử vào cuối năm 1960. Vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của Tổng Thống Eisenhower, ông Fidel Castro trở nên nhà độc tài của xứ Cuba vào năm 1959 và biến đổi Cuba thành một nước cộng sản. Năm 1960, ông Castro đã quốc hữu hóa tất cả các công ty Hoa Kỳ tại Cuba, vì vậy vào ngày 3 tháng 1 năm 1961, Tổng Thống Eisenhower đã cắt đứt mọi liên lạc ngoại giao với xứ Cuba kể trên. Trước kia, vào năm 1951, Tu Chính Án thứ 22 đã trở thành một đạo luật, giới hạn mỗi Tổng Thống tối đa hai nhiệm kỳ và ông Dwight Eisenhower là vị Tổng Thống đầu tiên gặp giới hạn của Hiến Pháp kể trên. 9/ Hồi Hưu và cuộc Bầu Cử năm 1960. Khá lâu trước kỳ Đại Hội của đảng Cộng Hòa, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã đề nghị Phó Tổng Thống Richard M. Nixon là người sẽ kế vị của mình và ông Nixon đã nhận được các công tác thích ứng để quảng cáo danh tiếng, đồng thời các đại biểu Cộng Hòa cũng vui vẻ chấp nhận đề nghị này. Về phía đảng Dân Chủ, các đại biểu đã chọn ông John F. Kennedy, một vị Thượng Nghị Sĩ trẻ tuổi, theo đạo Cơ Đốc, với vẻ hấp dẫn và tài hùng biện, luôn nhắc tới công tác cập nhật hóa chủ thuyết "Thách Đố Mới" (the New Deal Doctrine). Kết quả của cuộc bầu cử năm 1960 là ông John F. Kennedy đã thắng cử. Ông Dwight Eisenhower ra khỏi Tòa Nhà Trắng vào tháng 1 năm 1961, trở về nghỉ hưu tại nông trại của ông ở Gettysburg và đôi khi tại vùng Palm Springs, thuộc tiểu bang California. Tại miền quê, ông Eisenhower nuôi gia súc, bắt đầu viết ba cuốn hồi ký và các hoạt động giải trí của ông gồm đánh golf, câu cá, săn bắn và vẽ tranh. Vào các năm đầu của thời kỳ về hưu, ông Dwight Eisenhower là một nhân vật mạnh khỏe và năng hoạt động. Tại thời gian này, Quốc Hội Hoa Kỳ đã phục hồi cấp bậc Đại Tướng 5 Sao của ông và nhiều trường Đại Học đã trao tặng ông các bằng cấp Danh Dự. Các Tổng Thống Kennedy và Johnson đã coi ông là một chính khách cao niên và hiểu biết, thường xin ông các lời khuyên khi gặp các vụ khủng hoảng quốc tế. Qua tháng 8 năm 1965, một trận đau tim nặng nề đã không cho phép ông Eisenhower tham dự vào các công việc công ích. Ông thường phải điều trị tại bệnh viên rồi cuối cùng qua đời tại Bệnh Viện Walter Reed, thuộc Thủ Đô D. C. vào ngày 28/ 3/ 1969 vì bị liệt tim (heart failure). Ông Dwight Eisenhower được chôn cất tại Abilene, tiểu bang Kansas. Theo cuộc thăm dò dân ý của Viện Gallup phổ biến vào tháng 12 năm 1968, danh tiếng của Tướng Dwight D. Eisenhower không bị suy giảm và ông vẫn đứng đầu danh sách các nhân vật được người dân Hoa Kỳ khâm phục trong các thập niên sau này./. Với Churchill (1944) Với Nixon
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2010 6:05:28 GMT 9
Dwight D. Eisenhower Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ Nhiệm kỳ 20 tháng 1, 1953 – 20 tháng 1, 1961 Tiền nhiệm Harry S. Truman Kế nhiệm John F. Kennedy Ngày sinh: 14 tháng 10, 1890 Nơi sinh Denison, Texas Ngày mất 28 tháng 3, 1969 Nơi mất Washington DC Phu nhân Mamie Doud Eisenhower Đảng Cộng hoà Chữ ký Dwight Eisenhower Signature.svg Dwight David "Ike" Eisenhower (14 tháng 10 năm 1890 – 28 tháng 3 năm 1969) là một vị tướng 5-sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944–45 từ mặt trận phía Tây. Năm 1951, ông trở thành tư lệnh tối cao đầu tiên của NATO. Eisenhower, tên khai sinh là David Dwight Eisenhower, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại số 208 Đường Day, khu đông thành phố Denison, tiểu bang Texas. Ông là con trai thứ ba trong gia đình có 7 anh em, có cha là David Jacob Eisenhower và mẹ Ida Elizabeth Stover, gốc Đức, Anh, và Thụy Sĩ. Ông được đặt tên là David Dwight và được mọi người gọi là Dwight; ông chọn giữ thứ tự tên gọi của mình là Dwight thay vì David khi đăng vào Học viện Quân sự Hoa Kỳ. Là một đảng viên Cộng hòa, Eisenhower bước vào cuộc đua tranh chức tổng thống năm 1952 đối đầu với chủ nghĩa cô lập của thượng nghị sĩ Robert A. Taft, và cái mà ông muốn đi đầu để đối phó là "chủ nghĩa cộng sản, Triều Tiên và tham nhũng". Ông thắng lớn, kết thúc hai thập niên kiểm soát Tòa Bạch Ốc của nhóm chính trị New Deal. Là tổng thống, Eisenhower đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân để buộc Trung Quốc đồng ý ngưng bắn trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Ông luôn gây sức ép với Liên Xô trong thời Chiến tranh lạnh, cho phép ưu tiên phát triển các loại vũ khí hạt nhân không tốn nhiều kinh phí và tài giảm các lực lượng khác để tiết kiệm tiền bạc. Ông đã phải chơi trò đuổi bắt trong cuộc chạy đua không gian sau khi Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik năm 1957. Về mặt trận trong nước, ông giúp loại Joe McCarthy khỏi quyền lực nhưng mặc khác bỏ đa số các vấn đề chính trị cho phó tổng thống của mình là Richard Nixon đối phó. Ông từ chối hủy bỏ chương trình New Deal nhưng thay vào đó lại mở rộng chương trình An sinh Xã hội và khởi sự Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Ông là tổng thống đầu tiên bị giới hạn nhiệm kỳ theo tu chính án 22, Hiến pháp Hoa Kỳ. Hai nhiệm kỳ của ông là thời bình yên và nói chung là thịnh vượng, trừ một lần kinh tế trì trệ trong năm 1958-59. Các sử gia thường xếp hạng Eisenhower trong số 10 tổng thống hàng đầu của Hoa Kỳ. Mục lục [ẩn] * 1 Thời thơ ấu và gia đình o 1.1 Giáo dục o 1.2 Nghiệp thể thao * 2 Khởi sự binh nghiệp o 2.1 Đệ nhất Thế chiến o 2.2 Sau Đệ nhất Thế chiến + 2.2.1 Thời gian khó khăn + 2.2.2 Làm việc dưới trướng Conner + 2.2.3 Làm việc dưới trướng Douglas MacAthur * 3 Đệ nhị Thế chiến * 4 Kết cuộc Đệ nhị Thế chiến o 4.1 Chiếm đóng nước Đức o 4.2 Tham mưu trưởng o 4.3 Đại học Columbia và NATO o 4.4 Bước vào chính trường * 5 Vai trò tổng thống 1953–1961 o 5.1 Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang o 5.2 Trung Đông + 5.2.1 Học thuyết Eisenhower o 5.3 Việt Nam o 5.4 Các vấn đề chủng tộc o 5.5 Bổ nhiệm quan chức tư pháp o 5.6 Các tiểu bang mới gia nhập liên bang o 5.7 Các vấn đề sức khỏe o 5.8 Mãn nhiệm tổng thống * 6 Sau khi mãn nhiệm tổng thống o 6.1 Qua đời và tang lễ o 6.2 Di sản * 7 Chỉ trích * 8 Tưởng niệm * 9 Huân chương và tưởng thưởng o 9.1 Tưởng thưởng Hoa Kỳ o 9.2 Tưởng thưởng quốc tế o 9.3 Vinh dự khác * 10 Chú thích * 11 Tài liệu tham khảo o 11.1 Binh nghiệp của Eisenhower o 11.2 Eisenhower khi là người thường o 11.3 Nguồn sơ cấp [sửa] Thời thơ ấu và gia đình Ngôi nhà gia đình của Eisenhower ở Abilene, Kansas Eisenhower cùng với vợ đứng trên bậc thềm của trường Đại học St. Mary ở thành phố San Antonio, Texas năm 1916 là nơi Eisenhower có thời gian làm huấn luyện viên môn bóng bầu dục. Eisenhower có tên khai sinh là David Dwight Eisenhower, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại số 208 Đường Day, khu đông thành phố Denison, Texas,[1] tổng thống đầu tiên sinh ra tại tiểu bang này. Ông là người con trai thứ ba trong số bãy anh em trai[2], có cha là David Jacob Eisenhower và mẹ Ida Elizabeth Stover, gốc Đức, Anh và Thụy Sĩ. Ngôi nhà nơi ông được sinh ra nay được dùng làm nhà lưu niệm lịch sử tiểu bang có tên gọi "Eisenhower Birthplace State Historic Site" do Ủy ban Lịch sử Texas điều hành hoạt động. Tên ông là David Dwight và mọi người thường gọi ông là Dwight. Ông chọn giữ thứ tự tên gọi của mình là Dwight thay vì là David khi ghi danh vào Học viện Quân sự West Point Hoa Kỳ.[3] Tổ tiên bên nội của Eisenhower có thể được truy tìm nguồn gốc đến Hans Nicolas Eisenhauer là người có họ Đức với nghĩa là "thợ làm đồ sắt".[4] Hans Eisenhauer và gia đình di cư từ Karlsbrunn (bây giờ là Saarland), Đức đến Lancaster, Pennsylvania năm 1741. Con cháu di chuyển về hướng tây. Gia đình của Eisenhower định cư tại Abilene, Kansas năm 1892. Cha của ông, David Eisenhower, là một kỹ sư có bằng đại học.[5] Do hoàn cảnh nghèo khó, ngay từ nhỏ cậu bé Eisenhower đã phải cùng với các anh em phụ giúp công việc gia đình, tỉ như tham gia trồng rau cải. Lớn lên ông lại phải ra ngoài làm tạp dịch để kiếm sống. Điều này đã hình thành thói quen cần kiệm và ham lao động của vị tướng tương lai.[6] Trong thời gian này có hai sự kiện ảnh hưởng rất lớn đến Eisenhower. Năm 10 tuổi, do tức giận vì không được đi chơi Giáng sinh với một số bạn lớn tuổi hơn, cậu bé Eisenhower đã đấm liên tục vào thân cây cho đến chảy máu tay. Lúc đó mẹ ông đã khuyên rằng: tức giận là vô ích, những người có khả năng khống chế tình cảm của mình còn vĩ đại hơn cả những người khống chế một thành phố. Lời khuyên này đã ảnh hưởng lớn đến tính cách của Eisenhower và giúp ông rất nhiều trong việc tạo lập mối quan hệ tốt với đồng sự và giữ một hình ảnh cá nhân tốt đẹp trong mắt mọi người. Việc thứ hai là khi Eisenhower bị thương ở đầu gối lúc 15 tuổi. Vết thương nhiễm trùng và thầy thuốc đề nghị phải cưa bỏ chân, tuy nhiên Eisenhower thà chết chứ không muốn làm một kẻ tàn phế. Điều kỳ diệu là vết thương của ông phục hồi nhanh chóng sau đó. Ý chí kiên cường và tinh thần dũng cảm của Eisenhower đã bắt đầu bộc lộ trong hoàn cảnh này.[6] Ông kết hôn với Mamie Geneva Doud (1896–1979), một cư dân của thành phố Boone, Iowa và là con gái của một đại phú thương tại thành Denver, Colorado, vào ngày 1 tháng 7 năm 1916. Chính nhờ cuộc hôn nhân tốt đẹp nên Dwight Eisenhower đã có một hậu phương vững chắc cho đời sống quân sự và chính trị của mình.[7] Hai người có hai người con trai: Doud Dwight và John Sheldon Doud. Doud Dwight sinh ngày 24 tháng 9 năm 1917, và chết vì bệnh sốt đỏ ngày 2 tháng 1 năm 1921 lúc 3 tuổi.[8] Con trai thứ hai của họ, John Sheldon Doud Eisenhower, sinh năm sau đó vào ngày 3 tháng 8 năm 1922; John phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ, về hưu với cấp bậc chuẩn tướng, trở thành nhà văn, và phục vụ trong vai trò đại sứ Mỹ tại Bỉ từ năm 1969 đến 1971. John tốt nghiệp West Point trùng hợp vào ngày D-Day 6 tháng 6 năm 1944 và kết hôn với Barbara Jean Thompson ngày 10 tháng 6 năm 1947. John và Barbara có bốn người con: Dwight David II "David", Barbara Ann, Susan Elaine và Mary Jean. David, tên được đặt cho Trại David, kết hôn với con gái của Tổng thống Richard Nixon là Julie năm 1968. [sửa] Giáo dục Dwight D. Eisenhower học Trung học Abilene ở thành phố Abilene, tiểu bang Kansas và tốt nghiệp năm 1909.[9] Trong trường học, Eisenhower yêu thích nhất là môn lịch sử. Ông rất thích đọc các truyện ký về các vị anh hùng, các danh nhân quân sự thuở xưa; hai người ông hâm mộ nhất là Thống soái Hannibal Barca và Tổng thống Hoa Kỳ George Washington. Khi trưởng thành, Eisenhower vẫn còn nhớ rõ các chiến dịch quân sự quan trọng trong lịch sử.[6] Bạn bè ông cho rằng Eisenhower sẽ trở thành giáo sư tại Đại học Yale. Tuy nhiên do gia cảnh khó khăn ông tạm nghỉ học để đi làm giúp người anh thứ hai có tiền học tiếp. Việc giúp đỡ lẫn nhau là một điểm đặc trung trong gia đình của Eisenhower và đã giúp ích rất nhiều cho ông sau này. Lúc đó ông làm trưởng toán đêm trong hãng làm bơ Belle Springs.[10] Sau khi làm việc hai năm để giúp anh của ông là Edgar học đại học, một người bạn đã hối thúc ông xin vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Eisenhower dễ dàng vượt qua kỳ thi tuyển vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Indianapolis. Tuy nhiên, do quá tuổi nên không được nhận vào trường và ông được Thượng nghị sĩ tiểu bang Kansas là Joseph L. Bristow giới thiệu vào Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point, New York năm 1911.[11] Những sự trắc trở trên con đường học vấn của Eisenhower vô hình trung đã đem lại cho nước Mỹ một danh tướng lục quân.[7] Eisenhower ghi danh vào Học viên Quân sự Hoa Kỳ tại West Point tháng 6 năm 1911. Cha mẹ của ông là những người chống chủ nghĩa quân phiệt đã phản đối ông vào học viện West Point vì họ là những người tài trợ giáo dục cho ông. Eisenhower là một vận động viên mạnh mẻ và có được những thành công nổi bật trong các cuộc tranh tài thể thao. Tại West Point, Eisenhower học lý luận quân sự cùng với các giáo trình chung khác của bậc Đại học. Ông yêu thích nhất môn Toán và môn Sử, đặc biệt ông bộc lộ đầu óc thông minh trong môn Toán khi có những bài giải còn hay hơn cả đáp án trong sách vở. Đồng thời ông cũng rất yêu thích thể dục: Eisenhower là một trung vệ lừng tiếng trong bóng bầu dục ở năm thứ hai Đại học, mặc dù sau đó ông bị chấn thương đầu gối và phải bỏ môn này - một trúc trắc khác trên con đường sự nghiệp của Eisenhower đã giúp cho nước Mỹ không bị mất đi một danh tướng lục quân. Tuy nhiên, ít nhất môn thể thao này đã giúp Eisenhower hình thành tinh thần làm việc tập thể - một điều cực kỳ quan trọng đối với binh nghiệp của ông về sau. Nhìn chung, "danh tiếng" của Eisenhower rất cao trong trường West Point thông qua thái độ nhiệt tình, khoan dung và thân thiện của ông. Nhưng cá tính cứng rắn của Eisenhower đã khiến thành tích học tập và hạnh kiểm của ông không tốt lắm: ông tốt nghiệp năm 1915[12] chỉ với hạng 61 trong số 168 học sinh.[7] Năm học 1915 được biết đến như là "năm học sao rơi xuống" vì 59 học viên lần lượt trở thành các sĩ quan cấp tướng. [sửa] Nghiệp thể thao Các thành viên của đội bóng bầu dục West Point năm 1912. Học viên Eisenhower đứng thứ hai từ bên trái; học viên Omar Bradley đứng thứ hai từ bên phải. Tại West Point, Eisenhower không thành công khi thử thời vận với môn bóng chày. Sau này ông có nói rằng "không thành công với môn bóng chày tại West Point là một trong số những thất vọng lớn của tôi, có lẽ là sự thất vọng lớn nhất."[13] Tuy nhiên, Eisenhower thành công với môn bóng bầu dục. Năm 1916, trong lúc đóng quân ở đồn Sam Houston, Eisenhower làm huấn luyện viên bóng bầu dục cho trường Đại học St. Louis, bây giờ là viện Đại học St. Mary.[14][15] Trong cuộc đời sau này Eisenhower rất mê say môn golf và gia nhập Câu lạc bộ Golf Quốc gia Augusta năm 1948 sau khi được câu lạc bộ này mời tham dự khi ông viếng thăm nơi này lần đầu tiên.[16] Ông chơi golf thường xuyên trong hai nhiệm kỳ tổng thống của mình, và cũng như sau khi về hưu. Ông có một sân chơi golf cơ bản được lập tại Trại David. [sửa] Khởi sự binh nghiệp Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoa Kỳ vào năm 1915, thiếu úy Eisenhower nhận công tác đầu tiên ở đồn Sam Houston, tiểu bang Texas[17]. Tại đây, ông dùng giờ rảnh chỉ vào hai việc: đi săn và làm huấn luyện viên môn bóng bầu dục. Ông phục vụ ngành bộ binh cho đến năm 1918 ở nhiều trại khác nhau trong tiểu bang Texas và Georgia. [sửa] Đệ nhất Thế chiến Ngày 6 tháng 4 năm 1917, Mỹ tuyên chiến với Đức. Lúc này Eisenhower đang làm nhiệm vụ tại binh đoàn số 57, một đơn vị sắp sửa vượt biển sang chiến đấu tại Âu châu. Eisenhower trở thành chỉ huy số 3 của binh chủng xe tăng mới thành lập và vươn lên cấp bậc tạm thời trong thời chiến là trung tá trong Lục quân Quốc gia. Điều này khiến ông hết sức phấn khởi, và ông đã dùng khả năng tổ chức của mình để giữ sĩ khí và tinh thần sẵn sàng chiến đấu của binh đoàn ở mức cao. Tuy nhiên, một lần nữa số phận đã khiến ông không được toại nguyện khi vào tháng 9 cùng năm Eisenhower bị phái đi làm sĩ quan huấn luyện tại một doanh trại huấn luyện dành cho các sĩ quan ở bang Georgia. Sau đó mấy tháng ông lại được điều đến một doanh trại huấn luyện khác. Việc không được tham chiến đã khiến Eisenhower tiếc nuối rất nhiều, nhưng một lần nữa, chính sự trớ trêu của số phận đã làm lợi cho ông: Eisenhower có thể tránh được mặc cảm bắn giết vô tình trong hồi ức và có một đầu óc tỉnh táo khi bước vào công tác lãnh đạo ở thế chiến thứ hai. Và nhiệm vụ đã khiến ông có cơ hội tham gia xây dựng và quản lý hàng nghìn binh sĩ, tham gia soạn thảo và giám sát kế hoạch huấn luyện; những kinh nghiệm tích lũy được trong thời gian này rất có lợi cho sự nghiệp của ông về sau.[18] Lại nói về những công tác của ông trong thời kỳ này: do tài tổ chức và khả năng nhận biết, tận dụng nhân tài cùng với thái độ quan tâm chăm sóc đối với các thuộc cấp, Eisenhower đã chiếm được cảm tình của các sĩ quan cấp trên lẫn cấp dưới. Một thời gian ngắn sau, ông được điều đi tổ chức đơn vị tăng thiết giáp đầu tiên của Hoa Kỳ. Đó là một công việc hoàn toàn mới mẻ trong tình hình ở Mỹ chưa có một chiếc xe tăng nào cũng như chưa có tài liệu hướng dẫn nào về huấn luyện binh sĩ xe tăng; tuy nhiên Eisenhower vẫn hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình. Vì vậy năm 1918 ông được thăng lên trung tá và nhận được một tấm huân chương. Ông được đánh giá là người khắc khổ, chịu khó, có khả năng dự kiến, tổ chức và huấn luyện sĩ quan. Đơn vị của ông cũng được khen tặng là một trong những đơn vị ưu tú nhất nước Mỹ.[18] [sửa] Sau Đệ nhất Thế chiến [sửa] Thời gian khó khăn Trong suốt chiến tranh, ông đào tạo các các binh sĩ xe tăng tại Pennsylvania và chưa từng tham gia chiến đấu. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ nhanh chóng tài giảm binh bị và quân hàm của Eisenhower cũng như nhiều quân nhân khác bị giảm xuống. Thế là cấp bậc tạm thời của Eisenhower bị quay trở về cấp bậc thường trực là đại úy (vài ngày sau đó được thăng lên thiếu tá) trước khi nhận nhiệm vụ tại Trại Meade, bang Maryland nơi ông ở đó cho đến năm 1922. Mặc dù quan chức thấp kém nhưng Eisenhower vẫn kiên trì bắt rễ vững chắc trong quân đội. Trong thời gian này ông cũng tích cực nghiên cứu các sách vở, tài liệu quân sự nói về lực lượng tăng thiết giáp. Sở thích của ông về chiến tranh xe tăng được củng cố trong những lần tiếp xúc nói chuyện với George S. Patton và các vị chỉ huy xe tăng cao cấp khác; tuy nhiên ý tưởng của họ về chiến tranh xe tăng không được các cấp chỉ huy cao cấp hơn khuyến khích.[19] Với con mắt nhìn xa trông rộng, ông đã đoán biết được xe tăng và máy bay sẽ là hai lực lượng quan trọng bậc nhất trong chiến tranh sau này. Chính vì vậy ông chủ trương vứt bỏ những loại xe tăng chậm chạm yếu kém, thay vào đó là các loại tăng mạnh, nhanh, hỏa lực tốt.[20] Tuy nhiên tư tưởng đúng đắn của Eisenhower đã bị viên tư lệnh bộ binh Hoa Kỳ lúc bấy giờ chỉ trích dữ dội, vì ông ta cho rằng thiết giáp là một vật tùy thuộc của bộ binh và không thể tùy tiện thay đổi. Một điều không may khác xảy ra với Eisenhower là người con trai đầu của ông, Doug Dwight bị bệnh sốt phát ban cướp đi sinh mạng vào năm 1921. Hai việc không may này khiến cho Eisenhower cảm thấy hết sức chán nản.[20] [sửa] Làm việc dưới trướng Conner Tuy nhiên vận rủi của Eisenhower không kéo dài lâu. Eisenhower trở thành sĩ quan hành chính cho tướng Fox Conner tại vùng kinh đào Panama nơi ông phục vụ đến năm 1924. Fox Conner là vị tướng có học thức vào hàng bậc nhất trong quân đội Hoa Kỳ và cũng là một trong những người mà Eishenhower cảm kích nhất. Chính Conner đã phát hiện ra tài năng của Eisenhower và dốc tâm bồi dưỡng cho ông. Conner cho rằng một cuộc chiến tranh lớn trong tương lai là điều không tránh khỏi, vì vậy ông cho rằng Eisenhower nên chuyên tâm tìm đọc thật nhiều sách vở quân sự. Đồng thời Conner khuyên Eisenhower nên tìm cách chen chân vào hàng ngũ nhân viên dưới quyền của George Catlett Marshall, lúc này đang là đại tá, vì ông thấy Marshall là người có đảm lược siêu việt. Những lời khuyên của Conner đã giúp ích rất nhiều cho Eisenhower sau này.[21] Dưới sự giám hộ của Conner, ông học lịch sử và học thuyết quân sự (gồm có cuốn sách Vom Kriege của Karl von Clausewitz). Sau này tư tưởng quân sự của ông mang nặng ảnh hưởng của Conner. Năm 1925–26, ông học Đại học Tư lệnh và Tham mưu ở Đồn Leavenworth, Kansas,[22] và rồi phục vụ trong vai trò tư lệnh một tiểu đoàn ở Đồn Benning, tiểu bang Georgia cho đến năm 1927. Năm 1925, Eisenhower được Conner tiến cử đi học tại Học viện chỉ huy và tham mưu Leavenworth - một trường quân sự có mức độ cạnh tranh rất lớn. Vì vậy Eisenhower đã ra sức chăm chỉ học hành và tốt nghiệp Thủ khoa. Sau đó, Conner lại tiến cử Eisenhower đi làm việc lâu dài ở Pháp. Ông bắt đầu biên soạn một tác phẩm bàn về việc Hoa Kỳ tham gia Thế chiến thứ nhất. Việc biên soạn này giúp Eisenhower hiểu rõ hơn và các chiến dịch quân sự lớn, đồng thời tạo cho ông một cơ hội tu nghiệp chuyên sâu tại Học viện Lục quân Washington.[21] [sửa] Làm việc dưới trướng Douglas MacAthur Trong suốt cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930, binh nghiệp của Eisenhower trong Lục quân thời bình dậm chân tại chổ; nhiều bạn đồng đội của ông phải giải ngũ để tìm việc có lương cao hơn. Ông được thuyên chuyển đến Ủy ban Tượng đài Chiến tranh Mỹ do tướng John J. Pershing điều hành, rồi học Đại học Chiến tranh Lục quân, sau đó phục vụ trong vai trò sĩ quan hành chính cho tướng George V. Mosely, vị trợ tá của Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ từ năm 1929 đến 1933. Năm 1930, Eisenhower khởi thảo một kế hoạch động viên cho thời chiến, kế hoạch này được Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ Douglas MacArthur đánh giá rất cao. Chính vì vậy năm 1932, MacArthur - lúc này là Tham mưu trưởng lục quân Mỹ - đã bổ nhiệm Eisenhower làm trợ tá trưởng quân sự cho mình. Eisenhower đã làm việc dưới trướng của MacArthur suốt 7 năm. Trong thời gian này, MacArthur nổi tiếng là một kẻ ngạo mạn và bướng bỉnh, nhưng Eisenhower xem thủ trưởng của mình như một "ông thánh" quả đoán, học cao hiểu rộng. Chính lập trường cứng rắn và tính kiên định của MacArthur đã ảnh hưởng sâu sắc đến Eisenhower. Eisenhower cũng học được nhiều kinh nghiệm đáng quý về quản lý hành chính cùng với nhiều bài học về cách làm việc quá khích của thượng cấp mình. Về phía MacArthur, ông rất quan tâm và trân trọng một sĩ quan tài năng như Eisenhower. Trong một báo cáo giám định MacArthur đã nhận xét Eisenhower là sĩ quan tốt nhất trong quân đội và sẽ là quân nhân có địa vị lãnh đạo trong cuộc chiến tranh tương lai.[23] Chính vì trân trọng tài hoa của Eisenhower, MacArthur đã nằng nặc kéo Eisenhower đi theo mình khi ông nhận lệnh bay sang Phillipines tổ chức lại quân đội vào năm 1936. Đôi khi người nói rằng chính nhờ sự điều động này mà nó đã mang lại cho ông sự chuẩn bị quí giá để giao tiếp với những cá nhân có cá tính đầy thử thách như Winston Churchill, George S. Patton và Bernard Law Montgomery trong suốt Đệ nhị Thế chiến. Eisenhower được thăng cấp thường trực lên trung tá vào năm 1936 sau 16 năm với cấp bậc thiếu tá. Ông cũng học bay mặc dù ông chưa bao giờ được xếp loại là một phi công quân sự. Ông thực hiện một chuyến bay một mình trên Philippines năm 1937. Tuy nhiên, bản thân Eisenhower lại cho rằng trong thời gian tại Phillipines ông chỉ được học lái máy bay, được thăng lên trung tá và có thêm một ít kinh nghiệm về việc tiết giảm dự chi của quốc gia. Thêm vào đó, trong thời gian này mối quan hệ giữa Eisenhower và thủ trưởng MacArthur bắt đầu chuyển biến xấu đi. Chính vì thế, vào tháng 9 năm 1939, đúng lúc Thế chiến thứ hai bùng nổ, Eisenhower rời Phillipines trở về nước Mỹ.[23] Sau khi về nước, Dwight D. Eisenhower giữ nhiều chức vụ tham mưu tại Washington, D.C., California và Texas. Ông được bổ nhiệm làm phó đoàn trưởng của đoàn bộ binh số 15 thuộc sư đoàn 3. Sau đó ông trở thành tham mưu trưởng của sư đoàn 3 đóng tại Lewisburg. Tháng 3 năm 1941 Eisenhower đươc thăng lên đại tá. Tháng 6 năm đó ông được bổ nhiệm là tham mưu trưởng tập đoàn quân số 3 do mọi người tán thưởng tầm nhìn xa, tư tưởng tiến bộ và sư túc trí đa mưu của ông. Trong chức vụ mới này ông đã lãnh đạo thành công một cuộc diễn tập lớn của quân đoàn số 2 và số 3 tại Lousiana. Thành tích này đã khiến ông được phong chuẩn tướng và lọt vào mắt xanh của đại tướng bốn sao George Marshall, lúc này đang là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ.[24] Ông được thăng cấp chuẩn tướng ngày 3 tháng 10 năm 1941.[25] Tuy khả năng hành chính của ông nổi bật nhưng trong đêm trước ngày Hoa Kỳ tham dự vào Đệ nhị Thế chiến ông vẫn chưa từng giữ một bộ tư lệnh tác chiến nào trên cấp tiểu đoàn và đừng nói chi đến việc được xem là một vị tư lệnh tiềm năng của các cuộc hành quân lớn. [sửa] Đệ nhị Thế chiến Eisenhower (ngồi giữa) với các sĩ quan Lục quân Hoa Kỳ năm 1945. Từ trái sang phải, hàng đầu gồm có Simpson, Patton, Spaatz, Eisenhower, Bradley, Hodges, và Gerow. Sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Eisenhower được phái đến làm việc ở bộ tổng tham mưu tại Washington nơi ông phục vụ cho đến tháng 6 năm 1942 với trách nhiệm lập kế hoạch tác chiến chính để đánh bại Đức và Nhật Bản. Ông được bổ nhiệm phó tư lệnh đặc trách phòng thủ Thái Bình Dương dưới quyền của tư lệnh Bộ tham mưu Hoạch định Tác chiến (war plans division) là tướng Leonard T. Gerow, và sau đó thay thế Gerow làm tư lệnh Bộ tham mưu Hoạch định Tác chiến. Sau đó ông được bổ nhiệm là trợ tá tham mưu trưởng đặc trách Bộ tham mưu Hành quân dưới quyền của Tham mưu trưởng George C. Marshall là người tìm kiếm tài năng và thăng chức đúng cách.[26] Năm 1942, Eisenhower được bổ nhiệm tướng tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu (European Theater of Operations) và đóng quân tại London.[27] Tháng 11, ông cũng được Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh mới bổ nhiệm làm tư lệnh tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh cho Mặt trận Hành quân Bắc Phi. Từ "viễn chinh" bị loại bỏ ngay sau khi ông được bổ nhiệm vì các lý do an ninh. Tháng 2 năm 1943, quyền tư lệnh của ông được nới rộng là tư lệnh Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh băng ngang qua vùng lòng chảo Địa Trung Hải bao gồm cả Lục quân 8 của Anh do tướng Bernard Law Montgomery chỉ huy. Lục quân 8 của Hoa Kỳ tiến qua sa mạc phía tây từ phía đông và sẳn sàng mở Chiến dịch Tunisia. Eisenhower lấy được ngôi sao thứ tư của mình (tức lên đại tướng) và bỏ quyền làm tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu để làm tư lệnh Mặt trận hành quân Bắc Phi. Sau khi các lực lượng phe Trục bị đánh bại tại Bắc Phi, Eisenhower giám sát chiến dịch xâm chiếm Sicily và đất liền Ý. Eisenhower nói chuyện với các binh sĩ Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù số 502 thuộc Sư đoàn Dù số 101 vào chiều ngày 5 tháng 6 năm 1944. Tháng 12 năm 1943, Roosevelt quyết định rằng Eisenhower--chớ không phải Marshall-- sẽ là Tư lệnh Tối cao Đồng minh châu Âu. Tháng 1 năm 1944, ông tiếp nhận lại chức tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu và tháng tiếp theo ông được chính thức giao trọng trách làm Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh, phục vụ một lúc hai chức vụ cho đến khi kết thúc các cuộc kình địch tại châu Âu vào tháng 5 năm 1945. Với hai chức vụ này, ông đảm trách việc lập kế hoạch và tiến hành cuộc tiến công đổ bộ trên duyên hải Normandy vào tháng 6 năm 1944 dưới mật danh Chiến dịch Overlord, giải phóng tây Âu và xâm chiếm Đức. Một tháng sau cuộc đổ bộ D-Day trên duyên hải Normandy ngày 6 tháng 6 năm 1944, cuộc xâm chiếm miền nam nước Pháp bắt đầu và quyền nắm các lực lượng tham chiến trong cuộc xâm chiếm miền nam được chuyển từ Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh sang Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh. Từ đó cho đến khi kết thúc chiến tranh tại châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945, Eisenhower với tư cách là Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh đã nắm trong tay bộ tư lệnh tối cao gồm tất cả các lực lượng tác chiến của đồng minh2, và với tư cách tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu, ông nắm quyền điều hành tất cả các lực lượng Mỹ trên Mặt trận phía Tây, nằm về phía bắc dãy Alps. Ngày 20 tháng 12 năm 1944, để công nhận chức vụ cao cấp của ông trong Bộ tư lệnh Đồng minh, ông được thăng chức thống tướng, tương đương với cấp bậc thống chế của phần lớn lục quân châu Âu. Trong chức vụ này và các chức vụ tư lệnh cao trước đây, Eisenhower đã chứng tỏ được tài năng lãnh đạo và ngoại giao rất lớn của mình. Mặc dù ông chưa từng ra chiến trường nhưng ông đã nhận được sự nể trọng của các vị tư lệnh ở tiền tuyến. Ông giao tiếp khéo léo với những thuộc cấp khó khăn như George S. Patton, và các đồng minh như Winston Churchill, Thống chế Bernard Montgomery và Đại tướng Charles de Gaulle. Ông có bất đồng cơ bản với Churchill và Montgomery về các vấn đề chiến lược nhưng những vấn đề này hiếm khi làm phương hại đến mối quan hệ của ông với họ. Ông đã thương thảo với Nguyên soái Zhukov của Liên Xô,[28] và vì thế chiếm được sự tin tưởng mà Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đặt vào ông. Đôi khi ông làm việc trực tiếp với Joseph Stalin. Chiến dịch Overlord chưa bao giờ được nghĩ chắc chắn là sẽ thành công. Sự nghiêm trọng xoay quanh toàn bộ quyết định trong đó có thời điểm và vị trí của cuộc đổ bộ trên Normandy có lẽ đã được tóm tắc trong một bài diễn văn thứ hai ngắn hơn mà Eisenhower đã viết sẳn trong trường hợp ông cần đến nó. Sau cuộc đổ bộ thành công trong ngày D-Day và đài BBC phát thanh bài diễn văn ngắn của Eisenhower có liên quan đến cuộc đổ bộ thì một bài diễn văn thứ hai không bao giờ được dùng đến đã được một trợ tá tìm thấy trong một túi áo. Nó được viết như sau:[29] Cuộc đổ bộ của chúng ta lên vùng Cherbourg-Havre đã thất bại để giành lấy một vị trí vững chắc vừa ý và tôi đã ra lệnh rút quân. Quyết định tấn công của tôi vào thời điểm và vị trí này là dựa vào những thông tin có sẳn tốt nhất. Các binh sĩ bộ binh, không quân và hải quân đã làm tốt trách nhiệm với lòng can đảm và tận tụy của mình như có thể. Nếu có gì đáng trách hay lổi lầm gì có liên quan đến cuộc tấn công này thì đó chính là do mình tôi.
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2010 6:06:21 GMT 9
Kết cuộc Đệ nhị Thế chiến Eisenhower với cấp bậc thống tướng lục quân. Tư lệnh Tối cao, 5 tháng 6 năm 1945 tại Berlin: Bernard Montgomery, Dwight D. Eisenhower, Georgy Zhukov và Jean de Lattre de Tassigny. [sửa] Chiếm đóng nước Đức
Sau khi Đức đầu hàng vô điều kiện ngày 8 tháng 5 năm 1945, Eisenhower được bổ nhiệm là thống đốc quân sự vùng chiếm đóng của Hoa Kỳ tại Đức với căn cứ đặt tại Frankfurt am Main. Ông không có trách nhiệm đối với ba vùng chiếm đóng khác do Pháp, Anh và Liên Xô kiểm soát. Sau khi phát hiện các trại tử thần của phát xít Đức, ông ra lệnh cho đội quay phim ghi hình để thu thập bằng chứng diệt chủng để sử dụng trong các phiên tòa truy tố các tội phạm chiến tranh. Ông quyết định tái xếp loại tù binh chiến tranh Đức đang bị Hoa Kỳ giam giữ thành "các lực lượng địch bị giải giới". Vì sự tàn phá của nước Đức sau chiến tranh, ông phải đối phó với sự khan hiếm lương thực trầm trọng và một dòng người tỵ nạn khổng lồ bằng việc phân phát đồ tiếp liệu y tế và thực phẩm của Mỹ.[30] Hành động của ông phản ánh thái độ thay đổi của người Mỹ từ thái độ xem nhân dân Đức là những kẻ côn đồ thành những nạn nhân của chủ nghĩa phát xít trong lúc đó ra tay rất mạnh bạo để thanh trừng những người cựu phát xít.[31][32][33] Tháng 11 năm 1945 Eisenhower chấp thuận phân phát 1000 bản miễn phí sách của Henry Morgenthau, Jr. có tựa đề Germany is Our Problem (Nước Đức là vấn đề của chúng ta) để cổ vũ và mô tả chi tiết cho Kế hoạch Morgenthau đến các giới chức quân sự Mỹ tại nước Đức bị chiếm đóng.[34] Stephen Ambrose rút ra kết luận rằng mặc dù sau này Eisenhower tuyên bố rằng hành động này không phải là một sự tán thành kế hoạch Morgenthau nhưng việc Eisenhower chấp thuận kế hoạch và trước đó đã cho Morgenthau ít nhất một số ý tưởng của mình về cách nên xử sự thế nào với nước Đức.[35] Theo Vladimir Petrov, Eisenhower cũng nhập các giới chức ngân khố của Morgenthau vào trong lục quân chiếm đóng. Những giới chức này thường được gọi là "Morgenthau boys" (đám nhỏ của Morgenthau) vì sự nhiệt thành của họ trong việc diễn giải chỉ thị chiếm đóng JCS 1067 nghiêm ngặc như có thể.[36] Lệnh này bị bải bỏ vào tháng 7 năm 1947. Phó tướng và sau đó thay thế Eisenhower tại Đức là tướng Lucius D. Clay nhận xét; “không nghi ngờ rằng chỉ thị JCS 1067 đã dự tính cho "nền hòa bình Carthaginia" (có nghĩa giàn xếp hòa bình một cách vội vã và nhằm thuyết phục những người yếu thế của phe thất trận) mà đã chiếm hết các hoạt động của chúng tôi tại Đức trong suốt những tháng đầu chiếm đóng.”[37] Các lực lượng chiếm đóng của Hoa Kỳ và gia đình của họ được lệnh nghiêm ngặc là không được chia xẻ lương thực của họ với dân chúng Đức, lương thực còn dư "phải bị hủy bỏ hoặc là làm sao để khỏi ăn được".[38] Những nỗ lực của các cơ quan cứu trợ nhằm gởi lương thực đến Đức đều bị từ chối theo "đạo luật trao đổi với kẻ thù" nhưng vào tháng 1 năm 1946, sau khi được phép của Tổng thống Truman, Eisenhower cho phép hội hồng thập tự Thụy Điển gởi thực phẩm đến trẻ em Đức.[39] [sửa] Tham mưu trưởng
Tháng 11 năm 1945, Eisenhower trở về Washington để thay tướng Marshall làm Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Vai trò chính của ông là nhanh chóng tháo vở lệnh tổng động viên cho hàng triệu binh sĩ, một công việc chậm chạp vì thiếu tàu vận chuyển. Khi căng thẳng giữa Đông và Tây trên vấn đề nước Đức và Hy Lạp leo thang, Eisenhower tin tưởng mãnh liệt vào năm 1946 rằng Liên Xô không muốn chiến tranh và rằng các mối quan hệ thân thiện có thể được duy trì; ông mạnh mẽ ủng hộ Liên Hiệp Quốc mới. Tuy nhiên, để thảo ra chính sách có liên quan đến bom nguyên tử cũng như về phía Liên Xô, Tổng thống Truman lắng nghe Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và phớt lờ Eisenhower và toàn bộ Ngũ Giác Đài. Giữa năm 1947 Eisenhower quay hướng về chính sách kiềm chế để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô.[40] [sửa] Đại học Columbia và NATO
Năm 1948, Eisenhower trở thành Chủ tịch Đại học Columbia, một đại học tư tại New York; đấy không phải là một chức vụ hợp với ông.[41] Tháng 12 năm 1950, ông rời chức vụ trường đại học khi trở thành Tư lệnh Tối cao của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), và được giao Bộ tư lệnh các lực lượng NATO tại châu Âu. Eisenhower giải ngũ vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, và nhận lại chức vụ chủ tịch đại học mà ông tiếp tục giữ cho đến tháng 1 năm 1953.
Năm 1948 cũng là năm hồi ký của ông Crusade in Europe được phát hành.[42] Các nhà phê bình nhìn nhận rằng nó là một trong những hồi ký quân sự Hoa Kỳ hay nhất và nó cũng là một thành công lớn về tài chính. [sửa] Bước vào chính trường
Không lâu sau khi ông trở về năm 1952, một phong trào trong Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ có tên là "Draft Eisenhower" (tuyển mộ Eisenhower) đã thuyết phục ông tuyên bố ứng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1952 đối lại với chủ nghĩa không can thiệp của Thượng nghị sĩ Robert Taft (Eisenhower đã từng được cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa ve vãn vào năm 1948 nhưng ông từ chối ra tranh cử vào lúc đó). Eisenhower đánh bại Taft giành quyền đề cử của Đảng Cộng hòa cho cuộc tổng tuyển cử toàn quốc nhưng với một thỏa thuận rằng Thượng nghị sĩ Taft sẽ phải đứng ngoài những vấn đề ngoại vụ trong lúc Eisenhower theo đuổi một chính sách đối nội bảo thủ. Chiến dịch vận động tranh cử của Eisenhower nổi bật với khẩu hiệu đơn giản nhưng hửu hiệu là "I Like Ike" (có nghĩa "tôi thích Ike", Ike biệt danh ngắn gọn của ông) và là một chiến dịch lớn chống các chính sách của Chính phủ Truman liên quan đến "Triều Tiên, chủ nghĩa cộng sản và tham nhũng."[43] Tổng thống Truman, trước đây là 1 người bạn của Eisenhower, sẽ mãi không bao giờ tha thứ cho Eisenhower vì đã không lên tiếng chỉ trích Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy trong suốt cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1952.[43] Truman nói rằng ông trước đây đã từng nghĩ Eisenhower sẽ là một tổng thống vĩ đại nhưng "ông ấy đã phản bội gần như mọi thứ mà tôi nghĩ ông ấy từng tranh đấu cho."[43]
Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử, Eisenhower hứa tự mình đi Triều Tiên và kết thúc chiến tranh tại đó. Ông cũng hứa duy trì một sự ràng buộc mạnh mẽ của NATO chống lại chủ nghĩa cộng sản và một bộ máy hành chính cần kiệm không tham nhũng tại quốc nội. Ông và người phó đứng chung liên danh tranh cử là Richard Nixon (là người có con gái kết hôn với cháu nội của Eisenhower tên David) đã đánh bại liên danh tranh cử của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ là Adlai Stevenson và John Sparkman bằng một chiến thắng lớn lao. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ trở lại nắm Tòa Bạch Ốc sau 20 năm,[43] và Eisenhower trở thành vị tổng thống cuối cùng sinh trong thế kỷ 19. Eisenhower, lúc đó 62 tuổi, là người già nhất được bầu làm tổng thống kể từ khi James Buchanan được bầu năm 1856.[44] Eisenhower là vị tướng duy nhất phục vụ trong chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ trong thế kỷ 20, và là tổng thống gần đây nhất chưa từng giữ một chức vụ dân cử trước khi làm tổng thống. Các tổng thống khác của Hoa Kỳ chưa từng ra tranh cử một chức vụ dân cử nào trước khi làm tổng thống là Zachary Taylor, Ulysses S. Grant, William Howard Taft, và Herbert Hoover. [sửa] Vai trò tổng thống 1953–1961 Từ trái sang phải: Nina Kukharchuk, Mamie Eisenhower, Nikita Khrushchev và Dwight Eisenhower trong một buổi tiệc tối quốc gia năm 1959 Francisco Franco và Tổng thống Dwight D. Eisenhower tại Madrid năm 1959 Wernher von Braun trình bày tóm tắc cho Tổng thống Eisenhower trước một giàn tên lửa vũ trụ Saturn I tại buổi lễ khánh thành Trung tâm Phi hành Không gian Marshall ngày 8 tháng 9 năm 1960.
Suốt thời làm tổng thống, Eisenhower luôn rao giảng một học thuyết về chủ nghĩa bảo thủ năng động.[45] Ông tiếp tục tất cả các chương trình New Deal chính còn dở dang, đặc biệt là chương trình An sinh Xã hội. Ông mở những chương trình của nó và đưa chúng vào một cơ quan mới cấp nội các, đó là Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ trong khi đó nới rộng phúc lợi cho thêm 10 triệu công nhân. Nội các của ông gồm có một số giới chức hành chính công ty và một lãnh đạo công đoàn được một nhà báo đặt cho biệt danh là "8 triệu phú và một thợ ống nước."[46]
Eisenhower tái trúng cử tổng thống nhiệm kỳ hai năm 1956, giành 457 trong số 531 phiếu đại cử tri đoàn và 57,6% phiếu phổ thông. [sửa] Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang
Một trong những thành tựu dài hạn của Eisenhower là tiên phong cổ vũ và ký đạo luật ra lệnh xây dựng Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang năm 1956.[47] Ông biện minh kế hoạch này là thiết yếu đến an ninh của Hoa Kỳ trong thời Chiến tranh lạnh. Lúc đó người ta tin rằng các thành phố lớn của Hoa Kỳ có thể sẽ là các mục tiêu trong một cuộc chiến tranh có thể xảy ra trong tương lai, và vì vậy hệ thống xa lộ này được thiết kế để di tản họ và giúp quân đội tới được các thành phố.
Mục đích Eisenhower xây các xa lộ cải tiến này bị ảnh hưởng bởi những năm tháng ông phục vụ trong binh đoàn vận tải cơ giới liên lục địa của Lục quân Hoa Kỳ vào năm 1919. Lúc đó ông được điều động làm quan sát viên cho nhiệm vụ mà gồm có việc phái một đoàn xe của Lục quân Hoa Kỳ đi từ duyên hải bên này sang duyên hải phía bên kia nước Mỹ.[48][49] Kinh nghiệm sau đó của ông về hệ thống xa lộ autobahn của Đức trong thời Đệ nhị Thế chiến cũng đã thuyết phục ông về lợi ích của một hệ thống xa lộ liên tiểu bang. Nhận thấy khả năng cải thiện trong việc di chuyển đồ tiếp liệu xuyên suốt đất nước, ông nghĩ rằng một Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang tại Hoa Kỳ không chỉ có lợi cho các hoạt động quân sự mà còn là những nền tảng xây dựng cần cho sự phát triển kinh tế đất nước.[50] [sửa] Trung Đông
Ngay sau khi nhậm chức, chính phủ Eisenhower chấp thuận cho phép Cục tình báo trung ương Mỹ lật đổ chính phủ dân cử của Thủ tướng Mohammad Mosaddegh ở Iran. Cuộc đảo chính này được thực hiện xong vào ngày 19 tháng 8 năm 1953.[51] Ngày 15 tháng 12 năm 1954 Eisenhower ký một bản ghi nhớ trao tặng Huân chương An ninh Quốc gia cho nhân viên CIA là Kermit Roosevelt, đây là huân chương cao nhất của Hoa Kỳ dành cho các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực an ninh vì vai trò của ông trong cuộc đảo chính.[52] và đến ngày 24 tháng 3 năm 1955, Eisenhower trao cho Kermit Roosevelt, cháu nội của cố Tổng thống Theodore Roosevelt huân chương vừa nói trên trong một buổi lễ đặc biệt tại Tòa Bạch Ốc với sự hiện diện của cả hai anh em nhà Dulles (Allen Dulles là giám đốc CIA và John Foster Dulles là Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ vào lúc đó) và Đại sứ Hoa Kỳ tại Iran là Loy Henderson. [sửa] Học thuyết Eisenhower
Sau cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956, Hoa Kỳ trở thành quốc gia bảo vệ phần lớn những lợi ích của phương Tây tại Trung Đông. Kết quả là, Eisenhower công bố "Học thuyết Eisenhower" vào tháng 1 năm 1957. Để trả đũa Trung Đông, Hoa Kỳ sẽ "chuẩn bị sử dụng lực lượng vũ trang...để chống lại sự khiêu khích từ bất cứ quốc gia nào bị chủ nghĩa cộng sản quốc tế kiềm chế." Học thuyết Eisenhower năm 1957 tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ phân phối viện trợ quân sự và kinh tế và, nếu cần thiết, sẽ sử dụng lực lượng quân sự ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại Trung Đông. Eisenhower thấy khó khăn để thuyết phục các quốc gia Á Rập hàng đầu hay Israel tán thành mục đích hay sự hửu dụng của học thuyết này. Tuy nhiên, ông đã dùng học thuyết này năm 1957-58 bằng cách tung viện trợ kinh tế để củng cố mối quan hệ với Vương quốc Jordan, và bằng cách khuyến khích các quốc gia lân bang của Syria xem xét đến các hoạt động quân sự chống lại Syria. Hơn thế nữa, tháng 7 năm 1958, ông phái chừng dưới 15.000 Thủy quân lục chiến và binh sĩ khác đến Li Băng như một phần của Chiến dịch Blue Bat, một sứ mệnh gìn giữ hòa bình không tác chiến để củng cố chính phủ thân Tây phương và ngăn chặn một cuộc cách mạng cấp tiến không cho nó tràn ngập quốc gia Li Băng. Các binh sĩ này rời khỏi vào tháng 10 năm 1958. Học thuyết này bao gồm một sự ràng buộc lớn của Hoa Kỳ đối với nền an ninh và ổn định của Trung Đông và tỏ dấu hiệu một cấp bậc mới giải quyết vấn đề của Hoa Kỳ nhằm áp đặt ảnh hưởng của mình trong các vấn đề quốc tế. Qua việc công bố học thuyết này, Eisenhower đã làm tăng thêm viễn cảnh rằng Hoa Kỳ sẽ chiến đấu tại Trung Đông và chấp nhận những trách nhiệm trong vùng này mà Hoa Kỳ sẽ duy trì hàng thập niên sắp tới.[53] [sửa] Việt Nam
Người Pháp đã yêu cầu Eisenhower giúp đỡ tại Đông Dương thuộc Pháp để chống phe cộng sản được Trung Quốc tiếp tế trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Năm 1953, Eisenhower phái Trung tướng John W. "Iron Mike" O'Daniel đến Việt Nam để nguyên cứu tình hình và "đánh giá" các lực lượng Pháp ở đó.[54] Tham mưu trưởng Matthew Ridgway đã làm nản lòng Tổng thống bằng việc đệ trình lên ông một bản ước tính chi tiết về một lực lượng quân sự khổng lồ cần phải khai triển cho cuộc chiến. Tuy nhiên sau đó vào năm 1954, Eisenhower đã viện trợ kinh tế và quân sự cho quốc gia Việt Nam Cộng hòa mới thành lập.[55] Trong những năm theo sau đó, con số các cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam gia tăng vì miền Bắc Việt Nam tăng viện cho "cuộc nổi dậy" ở miền Nam và vì lo sợ rằng Nam Việt Nam sẽ bị sụp đổ.[55]
Khi Chiến tranh lạnh gia tăng, Bộ trưởng Ngoại giao của Eisenhower là John Foster Dulles tìm cách cô lập Liên bang Xô viết bằng cách xây dựng các nhóm đồng minh vùng gồm các quốc gia chống lại Liên Xô. Nỗ lực của ông đôi khi được gọi là "pacto-mania".[56] [sửa] Các vấn đề chủng tộc
Tháng 10 năm 1952, chính phủ Eisenhower tuyên bố kỳ thị chủng tộc là một vấn đề an ninh quốc gia, nghĩa là chủ nghĩa cộng sản khắp thế giới đang sử dụng nạn kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ làm một điểm tấn công tuyên truyền của họ.[57] Một ngày sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra quyết định của mình trong vụ án Brown đối đầu với Ban Giáo dục thành phố Topeka mà trong vụ án này các trường học tách ly chủng tộc (tách ly nhưng được đối xử công bằng) bị tuyên án là bất hợp hiến, Eisenhower bảo các viên chức Đặc khu Columbia biến thành phố Washington thành một kiểu mẫu cho toàn quốc noi gương bằng cách hội nhập tất cả các trẻ em da trắng và đen ở các trường công lập lại với nhau.[58][59] Ông trình lên Quốc hội Hoa Kỳ Đạo luật Nhân quyền 1957 và Đạo luật Nhân quyền 1960 và ký các đạo luật này thành luật. Mặc dù cả hai đạo luật này yếu kém hơn so với luật nhân quyền sau này nhưng chúng đã tạo ra những đạo luật nhân quyền nổi bật đầu tiên kể từ khi Đạo luật Nhân quyền 1875 được Tổng thống Ulysses S. Grant ký thành luật. Sự kiện "Little Rock Nine" năm 1957 (9 học sinh ở thành phố Little Rock) xảy ra khi tiểu bang Arkansas không tuân theo lệnh một tòa án liên bang hội nhập hòa đồng lại tất cả học sinh của tất cả các chủng tộc tại các trường học. Theo lệnh hành pháp 10730, Eisenhower đặt Vệ binh Quốc gia của tiểu bang Arkansas dưới quyền kiểm soát của liên bang và đưa binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đến để hộ tống 9 học sinh da đen vào trường Trung học Little Rock, một trường công lập toàn da trắng. Việc hội nhập hòa đồng chủng tộc được thực hiện nhưng không phải là không có bạo động. Eisenhower và Thống đốc tiểu bang Arkansas Orval Faubus đã lâm vào những trận tranh cãi dữ dội. [sửa] Bổ nhiệm quan chức tư pháp
Eisenhower đã bổ nhiệm các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sau đây:
* Earl Warren, 1953 (thẩm phán trưởng) * John Marshall Harlan II, 1954 * William J. Brennan, 1956 * Charles Evans Whittaker, 1957 * Potter Stewart, 1958
Ngoài ra năm thẩm phán Tối cao Pháp viện, Eisenhower đã bổ nhiệm 45 thẩm phán cho các Tòa án Thượng thẩm Hoa Kỳ và 129 thẩm phán cho các toàn án khu vực của Hoa kỳ. [sửa] Các tiểu bang mới gia nhập liên bang
* Alaska – ngày 3 tháng 1 năm 1959 tiểu bang thứ 49 * Hawaii – ngày 21 tháng 8 năm 1959 tiểu bang thứ 50
[sửa] Các vấn đề sức khỏe
Có lẽ Eisenhower là tổng thống đầu tiên cho phép công bố các vấn đề sức khỏe cá nhân của tổng thống khi đang tại chức.[60] Tháng 9 năm 1955, trong lúc đi nghĩ ở Colorado, ông bị lên cơn đau tim trầm trọng mà cần phải nằm bệnh viện vài tuần. Ông được bác sĩ giải phẩu tim mạch nổi tiếng quốc gia là Paul Dudley White điều trị và thường xuyên được vị bác sĩ này thông báo tiến triển sức khỏe của ông đến giới báo chí. Vì cơn đau tim này mà cơ thể Eisenhower phát triển chứng phình mạch tâm thất trái mà dần dần là nguồn gốc của lần đột quy tháng 11 năm 1957. Tổng thống cũng bị mắc chứng bệnh viêm ruột cần giải phẩu vào tháng 6 năm 1956. May thay, ba năm cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, sức khỏe của Eisenhower tương đối là tốt. Tuy nhiên, sau này khi rời Tòa Bạch Ốc, ông bị thêm một vài lần nhồi máu cơ tim và sau cùng thân thể bị liệt vì chúng.[61] [sửa] Mãn nhiệm tổng thống Eisenhower với Tổng thống Kennedy tại khu nghĩ ngơi dành cho tổng thống năm 1962 Hình chính thức của Dwight D. Eisenhower do Tòa Bạch Ốc chụp.
Năm 1961, Eisenhower trở thành vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên "bị bắt buộc theo hiến pháp" rời khỏi chức tổng thống khi đã phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ mà tu chính án 22, Hiến pháp Hoa Kỳ cho phép. Tu chính án này được thông qua năm 1951 trong nhiệm kỳ của Tổng thống Harry S. Truman nhưng qui định của tu chính án không ảnh hưởng đối với Truman.
Eisenhower cũng là tổng thống mãn nhiệm đầu tiên được bảo vệ theo Đạo luật Cựu Tổng thống; hai cựu tổng thống Hoa Kỳ còn sống vào lúc đó là Herbert Hoover và Harry S. Truman rời nhiệm sở trước khi đạo luật này được thông qua. Chiếu theo đạo luật này, Eisenhower được hưởng lương hưu bổng suốt đời, có một ban nhân viên do chính phủ cung cấp và được sở mật vụ Hoa Kỳ bảo vệ.[62]
Trong cuộc bầu cử tổng thống để chọn người kế vị ông, Eisenhower ủng hộ phó tổng thống của mình là đảng viên Cộng hòa Richard Nixon đối đầu với đảng viên Dân chủ John F. Kennedy. Ông hết mực ủng hộ Nixon và nói với bạn bè rằng: "tôi sẽ làm gần như mọi cách để tránh đưa cái ghế của tôi và quốc gia này cho Kennedy."[43] Tuy nhiên, ông chỉ tham gia vận động cho Nixon trong những ngày cuối cùng của chiến dịch vận động tranh cử và thậm chí ông đã làm một số điều bất lợi cho Nixon. Thí dụ, khi được phóng viên báo chí hỏi vào lúc cuối cuộc họp báo được truyền hình là ông hãy nêu ra một trong các ý tưởng về chính sách của Nixon mà ông đã chấp nhận thì ông cười đùa như sau: "Nếu ông cho phép tôi một tuần thì tôi có lẽ sẽ nghĩ ra một." Chiến dịch vận động tranh cử của Kennedy đã sử dụng câu nói này để chống lại cuộc vận động tranh cử của Nixon. Nixon thua khích khao trước Kennedy. Eisenhower, người già nhất được bầu làm tổng thống (và là tổng thống già nhất) trong lịch vào lúc đó, như thế đã trao quyền lực cho tổng thống đắc cử trẻ nhất.[43]
Ngày 17 tháng 1 năm 1961, Eisenhower đọc bài diễn văn cuối cùng được truyền hình trên toàn quốc từ văn phòng bầu dục.[63] Trong bài diễn văn từ biệt, Eisenhower nêu lên vấn đề Chiến tranh lạnh và vai trò của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Ông diễn tả Chiến tranh lạnh qua lời nói như sau: "Chúng ta đối diện một hệ tư tưởng thù địch, toàn cầu trong phạm vi, vô thần trong bản chất, tàn bạo trong chủ tâm và xảo quyệt trong phương sách..." và cảnh báo về cái mà ông thấy như là những đề nghị chi tiêu không chính đáng của chính phủ và ông tiếp tục với một lời cảnh báo khác là "chúng ta phải phòng ngừa chống lại việc mua ảnh hưởng không chính đáng, cho dù được tìm đến hay không được tìm đến, bởi cái mối liên hệ phức tạp giữa quân sự và công nghiệp quân sự... Tiềm năng trổi dậy tai hại của thứ quyền lực không đúng chổ vẫn tồn tại và sẽ dai dẳng... Chỉ có sự cảnh giác và hiểu biết của công chúng mới có thể bắt buộc được một sự hài hoà thích hợp của bộ máy quân sự và công nghiệp quốc phòng khổng lồ theo phương thức và mục tiêu hòa bình của chúng ta để nền tự do và an ninh của chúng ta có thể phồn thịnh cùng với nhau."
Vì vấn đề pháp lý liên quan đến việc giữ một cấp bậc quân sự trong lúc tại chức với một chức vụ dân sự, Eisenhower đã phải từ chức thống tướng lục quân trước khi nhận chức Tổng thống Hoa Kỳ. Sau khi mãn nhiệm tổng thống, sự ủy nhiệm quân sự của ông trên danh sách hồi hưu được tái phục hồi và Eisenhower được ủy nhiệm trở lại là một vị tướng 5-sao trong Lục quân Hoa Kỳ.[64][65] [sửa] Sau khi mãn nhiệm tổng thống
Eisenhower trở về sống cuộc đời hồi hưu nơi ông và Mamie đã từng sống trong khoảng thời gian dài sau chiến tranh. Đó là một nông trại nằm gần cạnh bãi chiến trường Gettysburg, Pennsylvania. Năm 1967, gia đình Eisenhower quyên tặng nông trại này cho Sở Công viên Quốc gia Hoa Kỳ và từ năm 1980 nó được mở cửa cho công chúng với tên gọi Khu Lịch sử Quốc gia Eisenhower.[66] Lúc hồi hưu, ông không hoàn toàn rút khỏi cuộc đời chính trị; ông đã diễn thuyết tại Hội nghị Quốc gia Đảng Cộng hòa năm 1964 và xuất hiện cùng với Barry Goldwater trong chương trình quảng cáo thương mại tranh cử của đảng Cộng hòa từ Gettysburg.[67] [sửa] Qua đời và tang lễ Tang lễ Eisenhower
Eisenhower qua đời vì bị suy tim ứ huyết ngày 28 tháng 3 năm 1969 tại Bệnh viện Lục quân Walter Reed ở Washington D.C. Ngày hôm sau, xác của ông được đưa đến khu cầu nguyện Bethlehem của Nhà thờ Quốc gia Washington và được đặt ở đó trong 28 tiếng đồng hồ. Ngày 30 tháng 3, xác của ông được đưa đến Tòa Quốc hội Hoa Kỳ và được đặt yên tại mái vòm chính của tòa nhà. Ngày 31 tháng 3, xác của Eisenhower được đưa trở về Nhà thờ Quốc gia Washington nơi tiến hành lễ tang cho ông. Chiều hôm đó, xác ông được đặt lên một chuyến xe lửa trên đường đến thành phố Abilene, Kansas. Xác ông đến đó ngày 2 tháng 4 và được mai táng vào cuối ngày hôm đó trong một nhà thờ nhỏ trên khu đất Thư viện Tổng thống Eisenhower. Eisenhower được chôn gần bên người con trai của ông mất lúc 3 tuổi vào năm 1921, và sau này vợ ông là Mamie cũng được chôn cất gần ông vào năm 1979.[68]
Nixon nói về cái chết của Eisenhower như sau: "Có những người được xem là vĩ đại vì họ chỉ huy những quân đội vĩ đại hay họ lãnh đạo những quốc gia hùng mạnh. Trong 8 năm bây giờ, Dwight Eisenhower không có chỉ huy một quân đội nào và cũng không có lãnh đạo một quốc gia nào; tuy nhiên trong những ngày cuối cùng, ông vẫn là một người được kính trọng và ngưởng mộ nhất trên thế giới, thật sự là đệ nhất công dân thế giới."[69] [sửa] Di sản
Sau khi Eisenhower rời chức vụ tổng thống, thanh danh của ông xuống thấp và người ta nhận thấy ở ông, một vị tổng thống "không có làm gì cả". Một phần là vì sự tương phản giữa Eisenhower và người kế nhiệm trẻ tích cực hoạt động là John F. Kennedy. Mặc dù việc sử dụng (chưa từng có trước đây) các binh sĩ Lục quân để cưởng bách lệnh liên bang bãi bỏ việc tách ly chủng tộc tại trường Trung học Central ở Little Rock, Eisenhower bị chỉ trích vì do dự không ủng hộ phong trào nhân quyền đến cấp độ mà những nhà hoạt động nhân quyền khác mong muốn. Eisenhower cũng bị chỉ trích vì việc xử lý sự kiện U-2 năm 1960 (U-2 bị bắc rơi trên bầu trời Liên Xô) và bị mất mặt với quốc tế,[70][71] việc Liên bang Xô viết dẫn đầu thấy rõ trong cuộc chạy đua không gian, và ông không chống đối chủ nghĩa McCarthy một cách công khai. Đặc biệt, Eisenhower bị chỉ trích vì không bênh vực được cho George Marshall trong những cuộc tấn công từ phía Joseph McCarthy mặc dù cá nhân ông phản đối những tuyên bố và chiến thuật của McCarthy.[72] Những khiếm khuyết này được đưa ra để chống ông trong thời khí thế của chủ nghĩa tự do lên cao trong thập niên 1960 và thập niên 1970. Tuy nhiên từ đó, thanh danh của Eisenhower lên cao trở lại. Trong những cuộc thăm dò vừa qua của các sử gia, Eisenhower thường được xếp hạng trong số 10 vị tổng thống hàng đầu của Hoa Kỳ từ xưa đến nay.
Mặc dù chủ nghĩa bảo thủ đang lên cao trào trong thập niên 1950 và Eisenhower chia xẻ cái cảm giác này nhưng chính phủ của ông đã thực hiện một vai trò rất ôn hòa trong việc làm thay đổi bức tranh chính trị.
Eisenhower là tổng thống đầu tiên thuê mướn một "Tham mưu trưởng Tòa Bạch Ốc" (từ tiếng Anh "Chief of Staff" thường được gọi trong tiếng Việt là "trưởng hay chánh văn phòng Tòa Bạch Ốc") hay "người gác cổng" – một ý nghĩ mà ông đã mượn từ Lục quân Hoa Kỳ là chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Sau này tất cả các tổng thống Hoa Kỳ từ sau thời Tổng thống Lyndon Johnson đều bắt chước theo. Jimmy Carter ban đầu có ý định không dùng đến một "tham mưu trưởng" nhưng cuối cùng phải từ bỏ ý nghĩ đó và thuê mướn một người.[73]
Dwight D. Eisenhower thành lập tổ chức "People to People International" năm 1956, dựa theo niềm tin của ông là sự tiếp xúc giữa các công dân với nhau sẽ thúc đẩy tiếp xúc văn hóa và hòa bình thế giới. Chương trình này gồm có một bộ phận thành phần đại sứ sinh viên mà sẽ gởi thanh niên Mỹ trong những chuyến đi học tập đến các quốc gia khác.[74]
Eisenhower là tổng thống đầu tiên xuất hiện trên truyền hình màu. Ông được thu hình khi nói chuyện tại buổi lễ ra mắt phòng thu mới của đài truyền hình WRC-TV tại Washington, D.C., vào ngày 22 tháng 5 năm 1958. Băng thu hình được cất giữ và được tin là băng thu hình màu xưa nhất còn tồn tại.[1] [sửa] Chỉ trích
Trong cuốn sách Other Losses xuất bản năm 1989, nhà văn Canada James Bacque gây tranh cãi khi cho rằng Eisenhower đã có chủ tâm tạo ra cái chết của 790.000 tù nhân người Đức trong các trại tập trung vì bệnh, đói, và rét từ 1944 đến 1949. Trong các trại tương tự ở Pháp, khoảng thêm 250.000 người được cho rằng đã vùi xác trong các trại. Ủy ban Hồng Thập tự Quốc tế bị từ chối cho vào các trại, Thụy Sĩ bị tước địa vị là quốc gia có "quyền bảo vệ tù nhân" và các tù binh chiến tranh bị tái xếp loại thành "các lực lượng thù địch bị giải giới" để khỏi được công nhận là tù binh chiến tranh theo Công ước Geneva. Bacque cho rằng vụ giết người tập thể vừa nói ở trên là kết quả trực tiếp đến từ các chính sách của đồng minh phương Tây cùng với Liên Xô cai trị nước Đức bị chia cắt từ tháng 5 năm 1945 cho đến năm 1949. Nhà văn này đổ tội lỗi lên tướng Dwight D. Eisenhower khi cho rằng người Đức bị giữ cho chết đói cho dù có đủ thực phẩm trên thế giới để tránh sự khan hiếm thực phẩm đến mức độ chết người tại Đức năm 1945–1946.[75]
Năm 1990, các sử gia được mời gồm có Stephen Ambrose và Günter Bischof tập hợp tại Trung tâm Hoa Kỳ học Eisenhower[76] của Đại học New Orleans tham gia hội nghị hàm lâm để nghiên cứu về những lời cáo buộc mà Bacque đã đưa ra. Hội nghị kết luận rằng có sự ngược đải tù binh Đức năm 1945 nhưng đấy không phải là do kết quả từ bất cứ lệnh nào của Eisenhower. Các chứng cứ mà Bacque thu thập được bị cho là lạc văn mạch và quá hời hợt bất cẩn. Năm 1992, một cuốn sách với kết quả của cuộc hội nghị đã được Ambrose và Bischof biên tập và xuất bản.[77] [sửa] Tưởng niệm Tượng đồng Eisenhower đứng trong vòm chính của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Ông được mô tả đang mặc "áo quân phục kiểu Ike".[78] Đài tưởng niệm Eisenhower ở West Point
Hình của Eisenhower có trên đồng đô la kim loại phát hành năm 1971 đến 1978.[79] Gần 700 triệu tiền kim loại mạ đồng-nickel được đúc để lưu hành, và con số nhỏ hơn không lưu hành được phát hành cho các nhà sưu tầm.[79] Ông tái xuất hiện trên đồng đô la tưởng niệm bằng bạc được phát hành năm 1990, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông. Đồng bạc này có hai hình ảnh của ông trong hai vai trò, người lính và chính khách.[79] Mặt trái mô tả ngôi nhà của ông tại Gettysburg.[79] Trong chương trình phát hành tiền kim loại $1 kỷ niệm các tổng thống, Eisenhower sẽ có mặt trên một loại tiền kim loại màu vàng mệnh giá $1 vào năm 2015.[80]
Ông được tưởng nhớ vì vai trò của ông trong Đệ nhị Thế chiến, việc xây dựng Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang và kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. USS Dwight D. Eisenhower là siêu hàng không mẫu hạm thứ hai thuộc lớp Nimitz được đặt tên để vinh danh ông.
Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang được chính thức gọi tên là Hệ thống Xa lộ Quốc phòng và Liên tiểu bang Quốc gia Dwight D. Eisenhower để vinh danh ông. Một số xa lộ cũng được đặt tên ông trong đó có Xa lộ Tốc hành Eisenhower (Xa lộ Liên tiểu bang 290) gần Chicago và Đường hầm Eisenhower trên Xa lộ Liên tiểu bang 70 nằm ở phía tây Denver.
Đầu máy xe lửa hơi nước Vương quốc Anh lớp A4 số 4496 (đổi số thành 60008) Golden Shuttle được đặt tên lại là Dwight D. Eisenhower năm 1946. Nó được bảo tồn tại Bảo tàng Đường sắt Quốc gia ở Green Bay, Wisconsin.
Đại học Eisenhower là một trường đại học nhỏ dạy mỹ thuật tự do ở Seneca Falls, New York năm 1965 có các lớp học bắt đầu năm 1968. Nhiều vấn đề tài chính đã buộc trường nằm dưới quyền điều hành của Viện Kỹ thuật Rochester năm 1979. Lớp học cuối cùng của trường tốt nghiệp vào năm 1983.
Eisenhower Hall là tòa nhà hoạt động của học viên tại West Point, được xây xong năm 1974.[81] In 1983, the Eisenhower Monument was unveiled at West Point.
Trung tâm Y tế Eisenhower ở Rancho Mirage, California được đặt tên ông năm 1971.
Trung tâm Y tế Lục quân Dwight D. Eisenhower nằm ở đồn Gordon gần thành phố Augusta, Georgia được đặt tên ông để vinh danh ông.[82]
Tháng 2 năm 1971, Trường Dwight D. Eisenhower thuộc xã Freehold, New Jersey được chính thức mở cửa.[83]
Năm 1983, Viện Eisenhower được thành lập ở Washington, D.C. trong vai trò một viện chính sách nhằm giới thiệu rộng rải những di sản lãnh đạo và tài trí của Eisenhower.
Năm 1989, Đại sứ Hoa Kỳ Charles Price và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher khánh thành tượng đồng Eisenhower tại Quãng trường Grosvenor, London. Bức tượng được đặt phía trước Đại sứ quán Hoa Kỳ và phía bên kia là cựu trung tâm bộ tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh trong thời Đệ nhị Thế chiến nơi mà Eisenhower có các văn phòng trong đó thời chiến tranh.[84]
Năm 1999, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập Ủy ban Tượng đài Dwight D. Eisenhower để xây dựng một đài tưởng niệm quốc gia tại Washington, D.C. Năm 2009, ủy ban chọn kiến trúc sư Frank Gehry thiết kế đài tưởng niệm.[85][86] The memorial will stand near the National Mall on Maryland Avenue, SW across the street from the National Air and Space Museum.[87]
Ngày 7 tháng 5 năm 2002, Cựu Tòa Văn phòng Hành chánh được chính thức đặt tên mới là Tòa Văn phòng Hành chánh Eisenhower. Tòa nhà này là một phần của Khu phức hợp Tòa Bạch Ốc, ở phía tây của cánh Tây (West Wing) Tòa Bạch Ốc. Hiện tại nó có một số văn phòng hành chánh trong đó có văn phòng của phó Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân hay phu quân của mình.[88]
Một công viên quận tại East Meadow, New York (Long Island) được đặt tên ông để vinh danh ông.[89] Ngoài ra, Công viên Tiểu bang Eisenhower trên Hồ Texoma gần nơi ông sinh ra trong thành phố Denison được đặt tên ông; nơi ông được sinh ra hiện nay đang được tiểu bang Texas quản lý như Khu Lịch sử Tiểu bang Nơi sinh của Eisenhower.
Nhiều trường trung học công lập tại Hoa Kỳ được đặt tên Eisenhower.
Có một ngọn núi tên Eisenhower trong dãy núi Tổng thống thuộc nhóm núi White ở tiểu bang New Hampshire.
Một cây nhô ra phía trên lỗ số 17, là lỗ luôn tạo rắc rối cho ông tại Câu lạc bộ Golf Quốc gia Augusta nơi ông là thành viên, được đặt tên "Cây Eisenhower" để vinh danh ông.
Câu lạc bộ Golf Eisenhower ở Học viện Không quân Hoa Kỳ, một sân golf 36-lỗ được xếp hạng 1 trong số các sân của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, được đặt tên Eisenhower để vinh danh ông.
Lỗ thứ 18 ở Câu lạc bộ Cherry Hills Country gần thành phố Denver được đặt tên ông. Eisenhower là một thành viên lâu năm của câu lạc bộ này, một trong những sân golf mà ông thích.[90]
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2010 6:06:50 GMT 9
Huân chương và tưởng thưởng [sửa] Tưởng thưởng Hoa Kỳ Tem phát hành bở Bưu điện Hoa Kỳ năm 1969 để tưởng nhớ Dwight D. Eisenhower Tiền kim loại mệnh giá 1 đô la được Sở Đúc tiền Hoa Kỳ phát hành từ 1971 đến 1978 để tưởng niệm Eisenhower Eisenhower nhận Giải thưởng Công dân Thế giới của hội Civitan International năm 1966 Theo thứ tự cao thấp * Distinguished Service Medal ribbon.svg Huân chương Phục vụ Xuất sắc Lục quân có bốn chùm lá sồi * Navy Distinguished Service ribbon.svg Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân * Legion of Merit ribbon.svg Huân chương Chiến công * Mexican Border Service Medal ribbon.svg Huân chương Phục vụ Biên giới Mexico * World War I Victory Medal ribbon.svg Huân chương Chiến thắng Đệ nhất Thế chiến * American Defense Service ribbon.svg Huân chương Phục vụ Quốc phòng Mỹ * European-African-Middle Eastern Campaign ribbon.svg Huân chương Chiến dịch châu Âu-châu Phi-Trung Đông với bốn ngôi sao phục vụ màu đồng và một ngôi sao bạc * World War II Victory Medal ribbon.svg Huân chương Chiến thắng Đệ nhị Thế chiến * Army of Occupation ribbon.svg Huân chương Lục quân Chiếm đóng * National Defense Service Medal ribbon.svg Huân chương Phục vụ Quốc phòng Quốc gia (2 lần) [sửa] Tưởng thưởng quốc tế Danh sách các huân chương và tưởng thưởng do các quốc gia khác trao tặng.[91] * Anh:Huân chương Bath, Đại Thập tự Hiệp sĩ (Knight Grand Cross) * Anh: Ngôi sao châu Phi với các mẫu hình số "8" và "1". * Argentine: Huân chương Người giải phóng San Martin, Đại Thập tự * Bỉ: Huân chương Léopold * Bỉ: Thập tự Chiến tranh (Croix de Guerre/Belgisch Oorlogskruis) * Brasil Huân chương Chiến dịch * Brasil: Huân chương Chiến tranh * Brasil: Huân chương Chiến công, Đại Thập tự * Brasil: Huân chương Công trạng Hàng không, Đại Thập tự * Brasil: Huân chương Quốc gia Nam Thập tự (National Order of the Southern Cross) * Chile: Huân chương Chiến công hạng nhất * Trung Quốc: Huân chương Yun Hui * Trung Quốc: Huân chương Yun Fei * Khối Thịnh vượng chung: Huân chương Chiến công * Tiệp Khắc: Huân chương Sư tử trắng * Tiệp khắc: Ngôi sao vàng Chiến thắng * Đan Mạch: Huân chương Voi * Ecuador: Ngôi sao Abdon Calderon * Ai Cập: Huân chương Ismal * Ethiopia: Huân chương Solomon * Pháp: Thập tự Chiến tranh * Pháp: Bắc đẩu bội tinh, Đại Thập tự.[92] * Pháp: Huân chương Giải phóng * Pháp: Huân chương Quân sự * Hy Lạp: Huân chương George I * Guatemala Thập tự Chiến công, hạng nhất * Haiti: Huân chương Vinh dự và Chiến công, Đại Thập tự * Ý: Huân chương Quân sự, Đại Thập tự Hiệp sĩ * Ý: Huân chương Malta * Luxembourg Huân chương Chiến công * Luxembourg: Thập tự Chiến tranh * Mexico: Huân chương Đại bàng Aztec, hạng nhất * Mexico: Huân chương Công trạng Dân sự * Mexico: Huân chương Chiến công * Morocco: Huân chương Ouissam Alaouite * Hà Lan: Huân chương Sư tử Hà lan, Đại Thập tự Hiệp sĩ * Na Uy: Huân chương St. Olav * Pakistan: Huân chương Pakistan, hạng nhất * Panama: Huân chương Vasco Nunez de Balboa, Đại Thập tự * Panama: Huân chương Manuel Amador Guerrero * Philippines: Ngôi sao Phục vụ Xuất sắc * Philippines: Huân chương Vinh dự, Tổng tư lệnh * Philippines: Huân chương Sikatuna, hạng nhất * Ba Lan: Thập tự Grunwald, hạng nhất * Ba Lan: Huân chương Polonia Restituta * Ba Lan: Virtuti Militari * Liên Xô: Huân chương Suvorov * Liên Xô: Huân chương Chiến thắng * Tunisia Huân chương Nichan Iftikhar. [sửa] Vinh dự khác * Năm 1966, Eisenhower là người thứ hai được vinh dự nhận giải công dân thế giới của hội Civitan International.[93] * Tên của Eisenhower được đặt cho một số con đường tại các thành phố trên thế giới trong đó có Paris, France. * Tháng 12 năm 1999, Eisenhower được ghi tên trong danh sách những người được ngưởng mộ nhiều nhất trong thế kỷ 20 của Gallup. * Năm 2009, Eisenhower được ghi tên trong Đại sảnh Danh vọng Golf Thế giới cho thể loại "thành tựu trọn đời" vì những cống hiến của ông cho môn thể thao này.[94] [sửa] Chú thích 1. ^ “Dwight and Mamie Eisenhower”. Eisenhower Presidential Center. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 2. ^ “Biography of Dwight D. Eisenhower”. whitehouse.gov. The White House. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008. 3. ^ Eisenhower, David (tháng May năm 2007). “World War II and Its Meaning for Americans”. www.pfri.org. Foreign Policy Research Institute. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008. 4. ^ “EISENHOWER – Name Meaning & Origin”. The New York Times Company. genealogy.about.com. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008. 5. ^ Ambrose 1983, tr. 13–14 6. ^ a b c Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 266-268 7. ^ a b c Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 268-270 8. ^ Berger-Knorr, Lawrence. The Pennsylvania Relations of Dwight D. Eisenhower. tr. 8. 9. ^ “Public School Products”, Time, 14 tháng 9 năm 1959. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008. 10. ^ “Eisenhower: Soldier of Peace”, TIME, 4 tháng 4 năm 1969. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 11. ^ “Biography: Dwight David Eisenhower”. Eisenhower Foundation. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 12. ^ “Dwight David Eisenhower”. Internet Public Library. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 13. ^ “President Dwight D. Eisenhower Baseball Related Quotations”. Baseball Almanac. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 14. ^ “Eisenhower BOQ 1915”. Fort Sam Houston. Truy cập 24 tháng 5 năm 2008. 15. ^ “Lt Eisenhower and Football Team”. Fort Sam Houston. Truy cập 24 tháng 5 năm 2008. 16. ^ The Making of the Masters: Clifford Roberts, Augusta National, and Golf's Most Prestigious Tournament, by David Owen, Simon and Schuster, 1999, ISBN 0-684-85729-4 17. ^ Biography: Dwight David Eisenhower 18. ^ a b Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 270-271 19. ^ Sixsmith 1973, tr. 6 20. ^ a b Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 271-272 21. ^ a b Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 272-273 22. ^ Bender, Mark C. (1990). “Watershed at Leavenworth”. U.S. Army Command and General Staff College. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008. 23. ^ a b Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 273-274 24. ^ Cố Vân Thâm, 10 Đại Tướng soái thế giới, trang 274 25. ^ “The Eisenhowers: The General”. Dwightdeisenhower.com. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010. 26. ^ Stephen E. Ambrose, Eisenhower: Soldier, General of the Army, President-Elect, 1890–1952 (1983) 27. ^ Eisenhower lived in 'Telegraph Cottage', Warren Road, Coombe, Kingston Upon Thames from 1942 to 1944. A plaque commemorating this, placed there in 1995 by the Royal Borough of Kingston Upon Thames, can be seen at the north end of Warren Road. 28. ^ Memoir of Eisenhower's translator for the Potsdam Conference meetings with Zhukov Paul P. Roudakoff, “Ike and Zhukov”, Collier's Magazine, 22 tháng 7 năm 1955. 29. ^ Wilmont, The Longest Day 30. ^ Harold Zink, The United States in Germany, 1944-1955 (1957) 31. ^ Petra Goedde, "From villains to victims: Fraternization and the Feminization of Germany, 1945-1947," Diplomatic History, Winter 1999, Vol. 23 Issue 1, pp1-19 32. ^ James F. Tent, Mission on the Rhine: Reeducation and Denazification in American-Occupied Germany (1982). 33. ^ Ambrose, Eisenhower (1983) pp 421-25 34. ^ Ambrose, Stephen (1983). Eisenhower: Soldier, General of the Army, President-Elect (1893–1952). New York: Simon & Schuster. tr. 422. 35. ^ Ambrose, Stephen (1983). Eisenhower: Soldier, General of the Army, President-Elect (1893–1952). New York: Simon & Schuster. tr. 422. 36. ^ Petrov, Vladimir (1967). Money and conquest; allied occupation currencies in World War II.. Baltimore: Johns Hopkins University Press. 228–229. 37. ^ Lucius D. Clay, Decision in Germany, Westport, CT, 1950, p. 19 38. ^ Eugene Davidson The Death and Life of Germany p.85 University of Missouri Press, 1999 ISBN 0826212492 39. ^ Eugene Davidson The Death and Life of Germany p.136 University of Missouri Press, 1999 ISBN 0826212492 40. ^ Ambrose, Eisenhower (1983) pp 432, 441, 443, 446, 450, 452 41. ^ Ambrose, Eisenhower (1983), ch. 24 42. ^ Crusade in Europe, Doubleday; 1st edition (1948), 559 pages, ISBN 1-125-30091-4 43. ^ a b c d e f Gibbs, Nancy. “When New President Meets Old, It's Not Always Pretty”, 'TIME', November 10, 2008. 44. ^ Frum, David (2000). How We Got Here: The '70s. New York, New York: Basic Books. tr. 7. ISBN 0465041957. 45. ^ The Eleanor Roosevelt Papers."Dwight Eisenhower." Teaching Eleanor Roosevelt, ed. by Allida Black, June Hopkins, et. al. (Hyde Park, New York: Eleanor Roosevelt National Historic Site, 2003). www.nps.gov/archive/elro/glossary/eisenhower-dwight.htm [Accessed July 21, 2009]. 46. ^ “The Flavor of the New”, Time, 24 tháng 1 năm 1969. Truy cập 28 tháng 5 năm 2008. 47. ^ “The cracks are showing”, The Economist, 26 tháng 6 năm 2008. Truy cập 23 tháng 10 năm 2008. 48. ^ “The Last Week – The Road to War”. USS Washington (BB-56). Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 49. ^ “About the Author”. USS Washington (BB-56). Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 50. ^ ““Interstate Highway System””. Eisenhower Presidential Center. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 51. ^ Eisenhower gave verbal approval to Secretary of State John Foster Dulles and to Director of Central Intelligence Allen Dulles to proceed with the coup; Ambrose, Eisenhower, vol.2, The President p. 111; Ambrose, Eisenhower: Soldier and President(New York: Simon and Schuster, 1990), p. 333. 52. ^ Prados, John, Presidents' Secret Wars: CIA and Pentagon Covert Operations from World War II Through the Persian Gulf. Chicago, IL: William Morrow, 1986. pp 91-98 53. ^ Peter L. Hahn, "Securing the Middle East: The Eisenhower Doctrine of 1957," Presidential Studies Quarterly, March 2006, Vol. 36 Issue 1, pp 38-47 54. ^ James Dunnigan and Albert Nofi, Dirty Little Secrets of the Vietnam War. St. Martins Press, 1999. ISBN 0-312-19857-4. p 85. 55. ^ a b James Dunnigan and Albert Nofi, Dirty Little Secrets of the Vietnam War. p 257. 56. ^ Cornelia Navari, Internationalism and the State in the Twentieth Century. Routledge, 2000. ISBN 978-0415097475. p. 316. 57. ^ Mary L. Dudziak, Cold War Civil Rights: Race and the Image of American Democracy (2002) 58. ^ Eisenhower 1963, tr. 230 59. ^ Parmet 1972, tr. 438–439 60. ^ Ferrell RH: Ill-Advised: Presidential Health & Public Trust, University of Missouri Press, Columbia, MO, 1992; pp. 53–150. 61. ^ “President Dwight Eisenhower: Health & Medical History”. doctorzebra.com. Truy cập 13 tháng 8 năm 2009. 62. ^ “Former Presidents Act”. National Archives and Records Administration. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 63. ^ “Dwight D. Eisenhower Farewell Address”. USA Presidents. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 64. ^ Eisenhower Archives. Post Presidential Years. Quote: "President Kennedy reactivated his commission as a five star general in the United States Army. With the exception of George Washington, Eisenhower is the only United States President with military service to reenter the Armed Forces after leaving the office of President." 65. ^ “John F. Kennedy Presidential Library & Museum, A Chronology from The New York Times, March 1961” (23 tháng 3 năm 1961). Truy cập 30 tháng 5 năm 2009. 66. ^ “Eisenhower National Historic Site (U.S. National Park Service)”. Nps.gov (23 tháng 3 năm 2010). Truy cập 3 tháng 5 năm 2010. 67. ^ “Johnson vs. Goldwater”. The Living Room Candidate. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 68. ^ “Dwight D. Eisenhower”. Eisenhower Presidential Center. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 69. ^ “"1969 Year in Review”. Upi.com (25 tháng 10 năm 2005). Truy cập 3 tháng 5 năm 2010. 70. ^ Frum, David (2000). How We Got Here: The '70s. New York, New York: Basic Books. tr. 27. ISBN 0465041957. 71. ^ Walsh, Kenneth T.. “Presidential Lies and Deceptions”, ''US News and World Report, 6 tháng 6 năm 2008. 72. ^ “Presidential Politics”. Public Broadcasting Service. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 73. ^ White House Chief of Staff: History: The position, which is filled at the discretion of the president, was first established by President Dwight D. Eisenhower. Presidents John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson and, for a time, Jimmy Carter opted not to have a chief of staff 74. ^ “Our Heritage”. peopletopeople.com. People to People. Truy cập September 29, 2009. 75. ^ Bacque, James. Other Losses, Toronto, Canada : Stoddart, 1989. ISBN 0773722696. Controversial book on the treatment of WWII prisoners. 76. ^ The Eisenhower Center for American Studies, University of New Orleans, Louisiana, USA. 77. ^ Ambrose, Stephen E.; Bischof, Günter, (editors), Eisenhower and the German POWs : facts against falsehood, Eisenhower Center studies on war and peace, Baton Rouge : Louisiana State University Press, 1992. 78. ^ “Dwight D. Eisenhower”. www.aoc.gov. Architect of the Capitol. Truy cập November 29, 2008. 79. ^ a b c d Yeoman, R.S. (2007). Kenneth Bressett. ed. 2008 Guide Book of United States Coins (ấn bản 61st). Atlanta: Whitman Publishing. 218, 294. ISBN 0794822673. 80. ^ “Presidential Dollar Coin Release Schedule”. United States Mint. Truy cập 24 tháng 5 năm 2008. 81. ^ Agnew, James B. (1979). Eggnog Riot. San Rafael, CA: Presidio Press. p. 197. 82. ^ “History of Eisenhower Army Medical Center”. Dwight D. Eisenhower Army Medical Center. Bản chính lưu trữ 3 tháng 2 năm 2007. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 83. ^ “Eisenhower Middle School History”. Freehold Township Elementary and Middle Schools. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 84. ^ “Statue of President Eisenhower in Grosvenor Square”. www.usembassy.org.uk. US Embassy. Truy cập March 2, 2009. 85. ^ “Frank Gehry to design Eisenhower Memorial”. bizjournals.com. American City Business Journals (April 1, 2009). Truy cập 3 tháng 4 năm 2009. 86. ^ Trescott, Jacqueline (2 tháng 4 năm 2009). “Architect Gehry Gets Design Gig For Ike Memorial”. The Washington Post. The Washington Post Company. 87. ^ Plumb, Tiereny (22 tháng 1 năm 2010). “Gilbane to manage design and construction of Eisenhower Memorial”. Washington Business Journal. American City Business Journals, Inc. 88. ^ “The White House. Eisenhower Executive Office Building. ''Construction Chronology & Historical Events for the Eisenhower Executive Office Building''”. Whitehouse.gov. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010. 89. ^ “Eisenhower Park”. Nassau County, New York. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 90. ^ The World Atlas of Golf, second edition, 1988, Mitchell and Beazely publishers, London. 91. ^ “Eisenhower Decorations and Awards”. Eisenhower Presidential Center. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 92. ^ Eisenhower, John S. D.. Allies. 93. ^ Armbrester, Margaret E. (1992). The Civitan Story. Birmingham, AL: Ebsco Media. tr. 97. 94. ^ “President Eisenhower named to World Golf Hall of Fame”. Pgatour.com. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010. [sửa] Tài liệu tham khảo Dự án liên quan Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: Dwight D. Eisenhower [sửa] Binh nghiệp của Eisenhower * Ambrose, Stephen E. Eisenhower: Soldier, General of the Army, President-Elect, 1890–1952 (1983);' * Ambrose, Stephen E. The Victors: Eisenhower and his Boys: The Men of World War II, New York : Simon & Schuster, 1998. ISBN 0-684-85628-X * Eisenhower, David. Eisenhower at War 1943–1945 (1986), New York : Random House. ISBN 978-0394412375. A detailed study by his grandson. * Irish, Kerry E. "Apt Pupil: Dwight Eisenhower and the 1930 Industrial Mobilization Plan", The Journal of Military History 70.1 (2006) 31–61 online in Project Muse. * Pogue, Forrest C. The Supreme Command, Washington, D.C. : Office of the Chief of Military History, Dept. of the Army, 1954. The official Army history of SHAEF. * Weigley, Russell. Eisenhower's Lieutenants. Indiana University Press, 1981. Ike's dealings with his key generals in WW2 * Cố Vân Thâm (chủ biên); Dịch giả: Phong Đảo (2003). Thập đại tùng thư: 10 Đại Tướng soái thế giới. TPHCM: NXB Văn hóa Thông tin. [sửa] Eisenhower khi là người thường * Albertson, Dean, ed. Eisenhower as President (1963). * Alexander, Charles C. Holding the Line: The Eisenhower Era, 1952–1961 (1975). * Ambrose, Stephen E. Eisenhower: Soldier, General of the Army, President-Elect, 1890–1952 (1983); Eisenhower. The President (1984); one volume edition titled Eisenhower: Soldier and President (2003). Standard biography. * Bowie, Robert R. and Richard H. Immerman; Waging Peace: How Eisenhower Shaped an Enduring Cold War Strategy, Oxford University Press, 1998. * Burk, Robert. "Eisenhower Revisionism Revisited: Reflections on Eisenhower Scholarship," Historian, Spring 1988, Vol. 50 Issue 2, pp 196–209 * Damms, Richard V. The Eisenhower Presidency, 1953–1961 (2002). * David Paul T. (ed.), Presidential Nominating Politics in 1952. 5 vols., Johns Hopkins Press, 1954. * Divine, Robert A. Eisenhower and the Cold War (1981). * Greenstein, Fred I. The Hidden-Hand Presidency: Eisenhower as Leader (1991). * Harris, Douglas B. "Dwight Eisenhower and the New Deal: The Politics of Preemption" Presidential Studies Quarterly, Vol. 27, 1997. * Harris, Seymour E. The Economics of the Political Parties, with Special Attention to Presidents Eisenhower and Kennedy (1962). * Krieg, Joann P. ed. Dwight D. Eisenhower, Soldier, President, Statesman (1987). 24 essays by scholars. * McAuliffe, Mary S. "Eisenhower, the President", Journal of American History 68 (1981), pp. 625–632. * Medhurst, Martin J. Dwight D. Eisenhower: Strategic Communicator Greenwood Press, 1993. * Pach, Chester J. and Elmo Richardson. Presidency of Dwight D. Eisenhower (1991). Standard scholarly survey. [sửa] Nguồn sơ cấp * Boyle, Peter G., ed. The Churchill-Eisenhower Correspondence, 1953–1955 University of North Carolina Press, 1990. * Eisenhower, Dwight D. Crusade in Europe (1948), his war memoirs. * Eisenhower, Dwight D. The White House Years: Waging Peace 1956–1961, Doubleday and Co., 1965. * Eisenhower Papers 21 volume scholarly edition; complete for 1940–1961. * Summersby, Kay. Eisenhower was my boss (1948) New York: Prentice Hall; (1949) Dell paperback.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:55:00 GMT 9
Bùi Văn Phú Tổng thống Barack Obama? Tháng Mười Một 1982 tôi tham gia bầu cử Mỹ lần đầu tiên. Năm đó không có bầu tổng thống, nhưng ở bang California có bầu chọn thống đốc. Cuộc tranh cử diễn ra gay go và sôi động giữa Thị trưởng Los Angeles là Tom Bradley, người da đen và Bộ trưởng Tư pháp Tiểu bang George Deukmejian, người da trắng mà ảnh hưởng cuả nó có thể lây lan qua kết quả bầu cử tổng thống kì này, gọi là “Bradley Effect” - Hiệu ứng Bradley - tức là ảnh hưởng bởi mầu da.
1. Kinh tế và bầu cử tổng thống
Hai năm trước đó tôi có cơ hội quan sát cử tri Mỹ bầu tổng thống.
Năm 1980, qua bốn năm dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Jimmy Carter hình ảnh nước Mỹ trên bàn cờ quốc tế chỉ như con hổ giấy. Sau Nam Việt Nam, phe mác-xít còn lên nắm quyền tại nhiều nơi khác như Angola, Nicaragua và Afghanistan. Để phản đối Liên Xô xâm lăng Afghanistan, Tổng thống Carter kêu gọi tẩy chay Olympic Moskva 1980. Cũng trong bốn năm dưới thời Carter, Lực lượng Cách mạng Hồi giáo Iran đã tấn công sứ quán Mỹ, bắt 52 nhân viên sứ quán làm con tin, đẩy Hoa Kỳ vào tình trạng khủng hoảng kéo dài. Tổng thống Carter đã ra lệnh giải cứu bằng quân sự nhưng thất bại.
Lúc đó nội tình nước Mỹ còn bị thiếu xăng dầu. Có một thời gian người dân đã phải xếp hàng đổ xăng theo ngày chẵn lẻ dựa trên bảng số xe. Kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, lãi suất tín dụng tăng cao. Người dân phải thắt lưng buộc bụng.
Trong cuộc bầu cử tháng 11.1980 Đảng Cộng hoà tiến cử Ronald Reagan, cựu tài tử, cựu thống đốc bang California và là người có khuynh hướng bảo thủ, chống cộng. Có dư luận e ngại nếu Reagan lên làm tổng thống, Hoa Kỳ sẽ can thiệp quân sự ở nước ngoài nhiều hơn và có thể xảy ra chiến tranh nguyên tử.
Các thăm dò dư luận trước bầu cử cho thấy hai ứng viên Jimmy Carter và Ronald Reagan được cử tri ủng hộ ngang nhau. Nhưng kết quả thật ngạc nhiên. Mới hơn 5 giờ chiều ngày bầu cử ở California, trong khi phòng phiếu còn mở cửa đến 8 giờ tối, các đài truyền hình đã đưa tin Reagan thắng lớn dựa vào kết quả thăm dò những người đã đi bỏ phiếu. Sau khi đếm phiếu, Ronald Reagan đại thắng với 44 triệu phiếu bầu và 489 phiếu cử tri đoàn, Jimmy Carter chỉ được 35.5 triệu và 49 phiếu cử tri đoàn.
Kinh tế suy thoái và yếu đối ngoại là lí do để cử tri Mỹ không tín nhiệm Tổng thống Jimmy Carter thêm một nhiệm kì nữa.
Năm 1992 có cuộc chạy đua giữa Tổng thống đương nhiệm George H.W. Bush (cha) và Thống đốc Bill Clinton. Trong hai năm đầu của nhiệm kì, uy tín Bush lên cao với quyết định đem quân Mỹ qua giải phóng Kuwait khỏi chiếm đóng của Iraq. Cuộc điều binh lớn nhất của quân đội Mỹ kể từ sau cuộc chiến Việt Nam đã đạt được mục tiêu: đánh đuổi quân Iraq và giải phóng Kuwait trong vài ngày.
Nhưng hơn một năm sau đó hào quang chiến thắng quân sự gắn liền với Bush đã biến mất khi kinh tế Mỹ trở nên trì trệ. Tháng 11 năm 1992, 45 triệu cử tri Mỹ đã chọn Clinton, so với 39 triệu chọn Bush.
2. Quan tâm của cử tri năm 2008
Một phụ nữ vận động cho Obama-Biden trên phố San Francisco (ảnh Bùi Văn Phú) Năm nay bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra khi Hoa Kỳ đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế và yếu đối ngoại. Hình ảnh nước Mỹ trên chính trường quốc tế lúc này không lấy gì được đẹp, nhất là sau khi Tổng thống George W. Bush (Con) ra lệnh đem quân vào Iraq lật đổ chế độ Saddam Hussein năm 2003 và chiếm đóng đất nước này từ đó đến nay.
Nhưng hiện thời quan tâm hàng đầu của cử tri là khủng hoảng kinh tế và tín dụng kéo dài đã một năm qua mà chưa thấy ánh sáng hy vọng. Hai Thượng nghị sĩ John McCain và Barack Obama đang chạy nước rút xem ai sẽ tới đích Bạch Cung trong cuộc vận động mang nhiều tính lịch sử này.
Phần lớn cư dân San Francisco ủng hộ Đảng Dân chủ nhưng cũng có người ủng hộ McCain-Palin (ảnh Bùi Văn Phú) Nước Mỹ cần có hướng đi mới. Câu nói này chính ra phải phát ra từ miệng ứng viên Dân chủ Barack Obama, nhưng đó lại là phát biểu của ứng viên Cộng hoà John McCain trong phần kết thúc cuộc tranh luận sau cùng trên truyền hình vào tối ngày 15/10 vừa qua.
Theo các thăm dò dư luận gần nhất, ba phần tư dân tin rằng Hoa Kỳ đang đi trật hướng. Đảng Cộng hoà đã trật đường mà ứng viên McCain lại tuyên bố cần hướng đi mới thì khó tin được. Cử tri Mỹ đã ra dấu họ muốn thay đổi thực sự và đa số ủng hộ ứng viên Dân chủ Barack Obama. Các tiên đoán đưa ra là Obama sẽ thắng với ít nhất 300 trong tổng số 538 phiếu cử tri đoàn.
3. Yếu tố mầu da
Nhưng giới theo dõi thời cuộc cũng e ngại yếu tố mầu da có thể làm đảo ngược kết quả, mà trong quá khứ được gọi là “Bradley Effect” - Hiệu ứng Bradley - tức là ảnh hưởng vì mầu da của ứng viên.
Năm 1982, trong cuộc tranh chức thống đốc bang California có thị trưởng Tom Bradley là một ứng viên da đen sáng giá. Ông đã được bầu làm Thị trưởng Los Angeles hai nhiệm kì. Những thăm dò dư luận trước và cả trong ngày bầu cử đều tiên đoán Bradley thắng. Kết quả ông thua ứng viên George Deukmejian khoảng 100 nghìn trong tổng số 7.5 triệu phiếu bầu.
Phân tích và đối chiếu các thăm dò, một bài học được rút ra là đã có nhiều cử tri nói một đàng làm một nẻo, từ trước ngày bỏ phiếu và ngay cả trong “Exit poll”, là thăm dò thực hiện với những cử tri vừa rời điạ điểm bỏ phiếu, nên truyền thông đã có những tiên đoán sai lạc.
Trong kì bầu cử tổng thống năm 1980 cũng có những tiên đoán không chính xác. Các thăm dò dư luận trước ngày bầu cử cho thấy Carter và Reagan ngang nhau. Nhưng kết quả sau cùng là một chiến thắng đất lở của Reagan. Các phân tích đưa ra hai lí do cho những sai lầm này. Thứ nhất, có đông cử tri quyết định vào phút chót. Hai là có những người được thăm dò không thích giới truyền thông nên đã không trung thực trong câu trả lời.
4. Độ chính xác của thăm dò ý kiến
Nếu cử tri không có những thay đổi vào phút chót, Barack Obama sẽ trở thành tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Tôi có kinh nghiệm nhiều năm dạy môn xác suất thống kê và đã chú ý đến những thăm dò bầu cử ở Mỹ gần ba mươi năm qua nên tin vào sự chính xác ở mức 95% của những kết quả tiên đoán. Những thăm dò liên quan đến vật thể qua cách chọn lựa ngẫu nhiên các tập hợp mẫu sao cho phản ánh tổng thể thì kết quả rất chính xác.
Nhưng với cử tri, nhất là trong cuộc bầu cử mang tính lịch sử năm nay vì có ứng viên da đen thì tâm lí thay đổi từng ngày trong cách suy nghĩ và lựa chọn. Tuy nhiên những tổ chức thăm dò đã quan tâm đến mầu da và có những câu hỏi để kết quả phản ánh đúng dư luận quần chúng.
Khảo sát kết quả thăm dò dư luận toàn quốc và tại từng bang vài ngày trước bầu cử của Newsweek, CNN, New York Times và usaelectionpolls.com, tôi tin Barack Obama sẽ trở thành tổng thống Hoa Kỳ, với độ ngờ chỉ 5%.
Nếu kết quả bầu chọn ngày 4 tháng 11 trái ngược với những thăm dò dư luận, một bài học lại có thể rút ra là “Hiệu ứng Bradley” đã ảnh hưởng đến kết quả như trong kì bầu thống đốc California năm 1982. Nghĩa là: cử tri Mỹ khi bầu chọn, mầu da là một yếu tố. Họ không nói thật khi được hỏi ý kiến mà thôi.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:56:19 GMT 9
Phạm Phú Đức Barack Obama sẽ chuyển hoá Trong khi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng chỉ còn vỏn vẹn 2 tuần nữa là kết thúc, hầu hết kết quả của các cuộc thăm dò dư luận quần chúng Hoa Kỳ đều thống nhất rằng thượng nghị sĩ Barrack Obama luôn dẫn đầu thượng nghị sĩ John McCain (có lúc 5 đến 10 phần trăm, có khi 10 đến 14, tuỳ mỗi tổ chức thực hiện và tuỳ thời điểm mà kết quả khác nhau). Sau bốn lần tranh luận, ba dành cho ứng viên Tổng thống và một dành cho ứng viên phó Tổng thống, McCain không những không quay ngược được tình thế trong lần cuối mà còn bị thua đậm hơn. [1] Cho nên, trừ khi có chuyện phi thường xảy ra, xác xuất liên danh Obama - Biden sẽ vào Nhà Trắng vào đầu năm 2009 là điều khó có thể bị đảo ngược bởi liên danh McCain - Palin. Nhìn thoáng qua trên phương diện báo chí và dư luận quần chúng Hoa Kỳ lẫn quốc tế, Obama đã vượt McCain khá xa. Theo tổng kết của tạp chí thương mại The Editor and Publisher [2] thì sau khi hai nhật báo lớn hàng đầu của Mỹ The Washington Post and The Los Angeles Times chính thức trình bày quan điểm ủng hộ Obama có đến 51 tờ báo lớn ủng hộ Obama trong khi chỉ có 16 ủng hộ McCain; đây là lần đầu tiên tờ The Chicago Tribune, kể từ khi thành lập năm 1847 đến nay, đứng ra ủng hộ một ứng viên Đảng Dân chủ. Ngoài ra, Obama là người có khả năng thu hút các đám đông lớn kỷ lục trong và ngoài Hoa Kỳ. Thí dụ, vào thứ bảy 18/10 vừa qua, có hơn 100.000 người tại thành phố St Louis, tiểu bang Missouri, nơi từng ủng hộ Đảng Cộng hoà và Tổng thống George W Bush hai kỳ bầu cử trước đây, và hơn 75.000 người tại Kansas City đến nghe Obama diễn thuyết. [3] Đây là những đám đông lớn nhất tại Hoa Kỳ trong kỳ bầu cử này, chỉ sau con số 200.000 người tại Berlin (Đức quốc) đến nghe Obama diễn thuyết vào tháng 7 năm nay. Theo thống kê mới nhất, khoảng 2/3 dân Úc sẽ ủng hộ Obama trong khi chỉ có 1/3 ủng hộ McCain, và trung bình thì trên thế giới, số lượng ủng hộ Obama cao gấp 4 lần McCain. [4] Ngoài Hoa Kỳ, các tạp chí uy tín như The Economist của Anh hay nhật báo hàng đầu của Úc The Age, [5] và còn rất nhiều cơ quan truyền thông ngôn luận trên khắp thế giới, đặc biệt tại châu Âu, đã chính thức hoặc bán chính thức bày tỏ sự ủng hộ dành cho Obama. Nếu công dân Mỹ hồi hộp mong chờ kết quả bầu cử kỳ này bao nhiêu thì, ở một khía cạnh nào đó, người dân ở khắp nơi trên thế giới cũng nóng lòng không kém cho một kết quả, theo Obama hay McCain. Thật vậy, tình hình chính trị, kinh tế cũng như chính sách ngoại giao, thương mại và an ninh quốc phòng của Hoa Kỳ mang tầm ảnh hưởng quốc tế kể từ đầu thế kỷ 20, đặc biệt từ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, cho nên từ Hà Nội đến Bắc Kinh, từ Paris đến London, v.v… đều mong muốn ứng cử viên với các chính sách thuận lợi cho mình đắc cử (hay bất lợi… hơn khỏi đắc cử), dù đó là vì lý do kinh tế, chính trị, an ninh hay các vấn đề môi trường, ngoại viện v.v… Do đó các cuộc tranh luận chính trị để phân định ứng viên Tổng thống nào là người thông minh và nhạy bén, bản lãnh và điềm đạm, tầm nhìn và hùng biện v.v… đã được khắp nơi theo dõi một cách kỹ lưỡng. Quan sát bốn cuộc tranh luận vừa qua, thì đúng như tạp chí The Economist nhận định, cuộc tranh luận lần ba ngày 15/10 thu hút hơn nhiều so với hai lần đầu khá buồn ngủ: lần này hai ứng viên bàn những vấn đề có chất lượng, trao đổi những cú đòn sắt bén, và phần lớn không lặp đi lặp lại những điểm đã nói. [6] McCain, vì là người bị bỏ đằng sau vào thời điểm đó và vì đây cơ hội tốt nhất cuối cùng để thuyết phục những thành phần đang phân vân, lưỡng lự thay đổi quan điểm, đã tận dụng thời cơ để tấn công tới tấp vào Obama. Chẳng hạn, McCain luôn tìm cách quy cho Obama các điều như sau: một, Obama chủ trương tăng thuế, trong khi McCain tin rằng tăng thuế trong nền kinh tế khó khăn hiện nay không những không cần thiết mà còn gây thêm khó khăn cho mọi người; hai, Obama nghĩ rằng chính quyền là lời giải cho những vấn đề của Mỹ hiện nay, trong khi McCain luôn đề cao vai trò và khả năng của người dân để cùng giải quyết. Cũng vì thế nên McCain cho rằng lời giải của Obama là rất tốn kém vì phải luôn chi tiền, vân vân. Trong khi đó, mặc dầu bị McCain tấn công liên tục, Obama luôn giữ thái độ bình tĩnh và không hề bối rối. Khi bị quy oan một cách quá đáng, Obama chỉ mỉm cười, nhưng chính vì phong cách điềm đạm như thế nên Obama chiếm được cảm tình của khán thính giả và duy trì thế thượng phong. Chiến lược của Obama, trong ba lần tranh luận, cũng như trong hầu hết các chiến thuật tấn công McCain, là quy McCain liên hệ mật thiết với Tổng thống George W Bush, đặc biệt về chính sách kinh tế. Cũng cần nhớ là một năm về trước, điểm khác biệt lớn giữa McCain và Obama chủ yếu là về vấn đề Iraq; còn các vấn đề khác như môi trường, năng lượng, ngoại giao v.v… tuy khác nhau rõ rệt nhưng không nổi bật bằng. Quan điểm của Obama là nếu được đắc cử Tổng thống sẽ rút quân khỏi Iraq trong một thời gian ngắn nhất định, và cần phải tăng quân viện cho chiến trường Afghanistan, nơi Obama khẳng định là tiền đồn của quân khủng bố Al-Qaeda gây ra biến cố 11/9. Trong khi đó, McCain quả quyết là dù mất bao lâu đi nữa Hoa Kỳ cũng sẽ phải chiến đấu ở Iraq và trở về với chiến thắng chứ không thể chiến bại. Nhưng thế trận đã đổi hướng đáng kể kể từ khi khủng hoảng thị trường tài chánh Hoa Kỳ rồi lan rộng sang tầm quốc tế vào những tuần qua, và nay thì vấn đề Iraq không còn là mối bận tâm lớn của người Mỹ. Cơ hội có một không hai đã đến, cho nên Obama và Đảng Dân chủ tập trung tấn công McCain và Đảng Cộng hoà bằng cách thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ rằng thêm một nhiệm kỳ McCain chính là sự kéo dài của triều đại Bush thêm bốn năm nữa, mà đó là biểu tượng của sự thất bại về kinh tế và ngoại giao. Và chiến thuật này dường như rất hiệu quả. Chính vì thế, trong cuộc tranh luận lần ba, McCain đã bực mình cãi chính rằng Obama đã không công bằng khi giả bộ như không có sự khác biệt nào giữa ông và Tổng thống Bush. McCain nói: “Tôi không phải là Tổng thống Bush. Còn nếu như ông (Obama) muốn tranh cử với Tổng thống Bush thì nên ra cách đây 4 năm”. Tóm lại, trước làn sóng bất mãn và phẫn uất của người Mỹ đối với nền kinh tế Hoa Kỳ đang bước vào tình trạng suy thoái và chưa thật sự bước ra khỏi sự khủng hoảng thị trường tài chánh quốc tế, Obama khôn khéo lợi dụng mọi cơ hội để mang đề tài kinh tế ra nói và luôn tìm cách ám chỉ sự liên hệ mật thiết giữa McCain và chính phủ Bush. [7] Dù có tài giỏi cách mấy thì McCain cũng khó thoát được những ảnh hưởng dây chuyền chính trị như thế này. Nhìn chung, có rất nhiều điều rất đáng học và đáng bàn về cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ trọng đại lần này. Riêng tôi cảm nhận rằng theo dõi cuộc đua vào Nhà trắng từ phương xa cũng có nhiều cái hay lẫn dở. Dở, là vì nếu chỉ theo dõi các cuộc vận động và tranh luận qua các cơ quan truyền thông trong và ngoài Hoa Kỳ, đặc biệt đối với trường hợp của tôi là từ Úc, thì tất nhiên luôn có những giới hạn của nó, về số lượng lẫn chất lượng. Hơn nữa, khi đứng từ phương xa thì luôn có những vấn đề hay tình tiết mà khó thấy hay nghe nếu ở gần. Tuy nhiên, cũng chính trong cái dở như thế thì lại có cái hay. Đó là vì không là công dân Mỹ nên không nhất thiết phải có thái độ, đặc biệt là thái độ chọn lựa bằng lá phiếu, vì thế cho nên không bị lôi kéo. Hơn nữa, tôi lại có cơ hội nhìn sự kiện ở mức độ tương đối khách quan hơn. Với cái nhìn như thế, tôi xin được bàn về ba vấn đề: một, là về các cuộc vận động tranh cử tiêu cực; hai, là về tính trung thành đối với đảng; và ba, là về một phong cách lãnh đạo Hoa Kỳ cần phải được sự yểm trợ của quốc tế. Về vấn đề thứ nhất, giống như mọi cuộc tranh cử chính trị ở mọi nơi, các hình thức vận động tranh cử đều không miễn nhiễm tính tiêu cực; nghĩa là luôn có các trò chơi xấu, ít hay nhiều. Vì bên nào cũng chủ quan cho mình là xứng đáng hơn đối thủ của mình do đó một mặt đề cao các sở trường của mình, mặt khác, hạ thấp đối thủ cũng như tấn công vào các sở đoản của đối thủ. Ở các xã hội dân chủ văn minh thì các trò chơi xấu có thể nói tương đối ít hơn nhiều so với các nơi chuyên dùng các thủ đoạn chính trị, kể cả thủ tiêu và đàn áp phía đối lập một cách tàn bạo, chẳng hạn như tại Zimbabwe và nhiều nơi khác. Nhưng trong thể chế dân chủ lâu đời, nơi người dân đủ hiểu biết để đóng vai trò quyết định và trọng tài thật sự (nghĩa là không dễ gì qua mặt họ bằng những cáo buộc, chụp mũ rẻ tiền), và nơi mà các cơ quan truyền thông đóng vai trò thông tin độc lập đúng đắn, thì chơi xấu sẽ bị phản tác dụng hay phỏng tay. Trong kỳ bầu cử này, các quảng cáo chính trị đối với cả hai bên trên đài truyền hình Mỹ cũng mang nhiều thông điệp tiêu cực và những cáo buộc hàm hồ. Vì thế nên trong cuộc tranh luận lần ba, người điều hợp chương trình ông Bob Schieffer (thuộc CBS News) đã đặt thẳng câu hỏi với hai ứng viên Obama và McCain về (tư cách) lãnh đạo: với thượng nghị sĩ Obama, Schieffer hỏi tại sao chiến dịch vận động lại dùng những từ như thất thường, láo, giận dữ v.v… để ám chỉ thượng nghị sĩ McCain; và tương tự với thượng nghị sĩ McCain, thì tại sao các quảng cáo lại dùng những từ như bất kính, nguy hiểm, đáng hổ thẹn cũng như “giao du với mấy tên khủng bố” (từ miệng Sarah Palin, nguyên văn “palled around with terrorists”) v.v… để ám chỉ thượng nghị sĩ Obama? Schieffer hỏi Obama và McCain: “Tối nay mỗi người có sẳn sàng ngồi xuống bàn này để nói thẳng vào mặt nhau về những gì chiến dịch của mình và nhân sự trong chiến dịch của mình đã nói về nhau không?” [8] Tôi cho rằng đây là câu hỏi rất thích đáng, rất thẳng thắn và cũng rất cần thiết mà trước mặt nhau, và nhất là trước mặt hàng trăm triệu người theo dõi trên khắp thế giới, thì nếu còn liêm sĩ và tư cách, phải có những lý do chính đáng lắm mới trả lời một cách thoả đáng. McCain là người trả lời trước. Ông đã nói vòng vo, và đó là điều dễ hiểu, bởi câu hỏi quá thẳng mà trả lời thật thì không xong, trả lời giả cũng … không xong, trong khi khán thính giả đang nghe là những cử toạ rất hiểu biết và trình độ. Ông xác nhận đây là một chiến dịch rất gay go. Rồi ông cho rằng vì không tranh luận tại nhiều nơi theo kiểu Townhall mà ông có đề nghị, vừa thân mật vừa chi tiết, nên có những đáng tiếc xảy ra. Rồi ông trưng bằng chứng về dân biểu John Lewis vu khống ông và Palin có liên hệ đến chương lịch sử tồi tệ nhất của Hoa Kỳ, nhưng thượng nghị sĩ Obama lại không bác bỏ những lời đó, và điều đó làm ông đau lòng. Trong khi đó, McCain cho rằng khi có bất cứ một lời quá đáng nào từ phía Cộng hoà thì ông luôn bác bỏ nó. Ngoài ra, McCain nói: “Thượng nghị sĩ Obama đã chi tiền cho các quảng cáo tiêu cực hơn bất cứ cuộc vận động chính trị nào trong lịch sử Hoa Kỳ, và tôi có thể chứng minh điều đó”. Obama phản bác lại lập luận của McCain. Trước hết, Obama khẳng định rằng qua cuộc thăm dò dư luận trên chính hệ thống truyền hình CBS News thì kết quả xác định là hai phần ba người Mỹ nghĩ thượng nghị sĩ McCain thực hiện cách vận động tiêu cực trong khi chỉ có một phần ba nghĩ như thế đối với chiến dịch của ông. Obama cũng bác bỏ ý kiến về Townhall vì dù với lý do gì đi nữa thì nó không biện minh được những hình thức tiêu cực đã xảy ra. Đặc biệt Obama đã chiếm được ưu thế bằng cách: một, cho rằng người dân Mỹ ít quan tâm đến những cảm xúc bị tổn thương của chúng ta (tức của Obama và McCain) mà chỉ muốn nghe những gì ảnh hưởng sâu sắc đối với họ; hai, khẳng định nếu ông có bị tấn công thì cũng chẳng sao, nhưng điều mà người dân Mỹ không thể chịu nỗi là thêm 4 năm nữa với chính sách kinh tế tồi bại và dường như không có gì thay đổi cả. Tất nhiên sau đó là tranh cãi qua lại mà mỗi người đều tìm cách trưng bằng chứng và lý cớ khác nhau, và đương nhiên không ai chịu nhường ai. Tuy vậy, cái khôn ngoan và nhạy bén của Obama là ở chỗ ông không bị sa lầy và lôi cuốn vào trận địa mà chưa chắc gì thuyết phục hay chiếm được cảm tình người nghe. Ngược lại, ông luôn tìm cách mở lối để vượt qua những đôi co như thế và khéo léo mang đề tài kinh tế trở lại để tấn công McCain. Tuy tranh luận với McCain, Obama không nhắm đến chuyện ăn thua với McCain mà chủ yếu nhằm thuyết phục khán thính giả. Obama kết luận: “Điều quan trọng ở đây là, mặc dầu người Mỹ trở nên rất hoài nghi về chính trị, bởi vì tất cả những gì họ thấy là ăn thua đủ với nhau (tit-for-tat) và lập đi lập lại (back and forth). Và điều họ muốn là khả năng tập trung (giải quyết) những thử thách thật là to lớn mà chúng ta đang đối diện”. Rõ ràng, về tài hùng biện và nhạy bén, Obama chứng tỏ ông trên tay McCain. Ngay cả khi McCain mang sự quan hệ trước đây của Obama, đặc biệt với một người từng là khủng bố như Bill Ayers hay tổ chức ACORN thì Obama đã điềm tỉnh trả lời một cách thoả đáng, hơn nữa, quay ngược thế thủ thành thế thắng, làm cho McCain trở nên hơi nhỏ nhen khi mang đề tài đó ra nói. Về vấn đề thứ hai, nói đến hoạt động chính trị là nói đến quyền lực và sự trung thành đối với đảng hay phe cánh hay một thiểu số đang nắm quyền lực trong tay. [9] Do đó, một nhà khoa học chính trị hay một lý thuyết gia chính trị có thể tương đối đứng độc lập, nhưng một nhà hoạt động chính trị thì không thể. Họ phải chịu lắm ảnh hưởng từ nhiều khuynh hướng và nhân vật khác nhau, nhất là đối với đảng họ tham gia. Do đó, trong nền dân chủ nơi người dân mới thật sự nắm quyền quyết định số mệnh của các chính trị gia, chứ không phải đảng như trong các chính thể độc tài, thì thế đu dây hay cân bằng giữa đảng và quần chúng là một nghệ thuật quan yếu đối với các chính trị gia lão luyện. Họ cần phải chứng tỏ, một mặt, là một đảng viên trung thành và, mặt khác, là người có tư duy độc lập, không phải đảng nói gì cũng nghe (bởi nếu đảng nói gì cũng nghe thì chỗ đứng của người dân ở đâu!). Vào lúc mà kinh tế đi xuống, an ninh bất ổn, người dân bất mãn muốn thay đổi nguyên trạng, nghĩa là khi họ không mấy thiện cảm với đảng cầm quyền lúc đó và muốn thay đổi một đảng mới lên nắm quyền, thì đối với một ứng viên của đảng đang cầm quyền, muốn lật ngược ván cờ quả là gian nan. Nó đòi hỏi một người có bản lãnh cao, thành tích lớn và có khả năng thuyết phục người dân tin tưởng và tín nhiệm mình. Hơn nữa, cũng phải can đảm phê bình đảng, một số chính sách của đảng, hay một số nhân vật gạo cội trong đảng, khi cần. Thượng nghị sĩ McCain là người ở trong trường hợp này, cho nên đang lao đao vất vả thuyết phục người dân Hoa Kỳ tín nhiệm ông. McCain thừa biết sự ủng hộ của người Mỹ dành cho Tổng thống Bush, cũng như dành cho đảng Cộng Hoà, đã xuống rất thấp qua cuộc chiến Iraq, và thê thảm hơn nữa qua cuộc khủng hoảng thị trường tài chánh vừa rồi. Cũng vì thế nên một trong những điểm then chốt ông muốn nhắn gửi đến cử tri qua cả ba cuộc tranh luận rằng ông và thống đốc Palin đều là những người cải cách (reformer), cho nên luôn quan tâm làm sao có thể canh tân cho tốt hơn. Như thế cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng làm việc với nhân sự từ các đảng khác (Dân chủ), tức phải cố gắng thoả hiệp, cộng tác để đi đến một kết quả chung có lợi cho các bên. Và như thế thì McCain cũng hàm ý rằng ông là người phóng khoáng, thông thoáng, không bảo thủ, không giáo điều, không cứng ngắt ý thức hệ và cũng không dễ bảo “tuyệt đối trung thành với đảng”. Vì vậy, trong cuộc tranh luận lần đầu, McCain nói rằng ông không phải là người được ưa chuộng gì đối với chính phủ hiện nay hay với Đảng Cộng hoà. Ông khẳng định đã từng phản đối lại cách chi tiêu của Tổng thống (Bush), cũng như phản đối các chính sách về thay đổi khí hậu, về sự ngược đãi đối với tù nhân chính trị tại Guantanamo Bay, hay về cách thi hành chiến tranh Iraq. [10] Ông tự hào là người có tư duy độc lập và là một nhà hoạt động tự do (maverick) ở thượng viện. Trong cuộc tranh luận lần hai, [11] McCain đã nhiều lần nhấn mạnh yếu tố tin tưởng, tín nhiệm (trust), và khẳng định rằng người Mỹ có thể tin ông qua những thành tích mà ông đã đạt được, nhất là tinh thần không phe phái (tức lưỡng đảng) cũng như khả năng, kinh nghiệm và quan điểm của ông về vấn đề kinh tế, năng lượng - dầu hoả, môi trường v.v... Trong cuộc tranh luận lần ba, vì Obama luôn mang đề tài kinh tế ra thách thức McCain, đối chiếu những lần bầu bán ở thượng viện về chính sách kinh tế của Tổng thống Bush trước đây, cụ thể là McCain đã tán thành 4 trên 5 ngân sách này, nên McCain cũng “tố” lại rằng chính Obama đã bầu cho ngân sách hai năm qua mà trong đó tổng chi đã nhiều hơn 24 tỷ đô la ngân sách chính phủ Bush đề nạp. Sau đó McCain khẳng định ông là người chống lại chi tiêu (thái quá), chống lại các quyền lợi đặc biệt, luôn tranh đấu để cải tổ, và thách thức Obama kể ra được một lần mà Obama đã chống lại lãnh đạo đảng của mình trên một vấn đề lớn. Tuy Obama có kể ra được vài điều nhưng so với McCain thì hiển nhiên không có gì nổi bật lắm. Nói chung, về mặt có gan, có chí, dám nói và dám làm thì McCain đúng là một người khó ai sánh kịp. Bằng chứng về đức tính này của ông thì quá rõ ràng, kể cả thời gian ông bị giam trong tù cộng sản Việt Nam. Tóm lại, về khía cạnh này, McCain chứng tỏ là người có khả năng hơn Obama. Về vấn đề thứ ba, mặc dầu cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ lần này mang tính cách quan yếu đối với các vấn đề quốc nội, nghĩa là ưu tiên vẫn là phải vực dậy nền kinh tế, ổn định thị trường tài chánh, thay đổi chính sách về năng lượng, môi trường, giáo dục, y tế v.v…, nhưng vấn đề đối ngoại cũng vô cùng quan trọng để xây dựng lại uy tín và tư thế của Hoa Kỳ trên thế giới. Trong hai nhiệm kỳ Tổng thống vừa qua, chủ trương đơn phương hành động (unilateralism) của Tổng thống Bush, đặc biệt qua cuộc chiến Iraq, đã gây lắm thiệt hại đối với các định chế quốc tế và cho uy tín của Hoa Kỳ, mặc dầu nó đã giúp cho người dân Iraq cơ hội để chấm dứt độc tài và xây dựng dân chủ. Cũng xin nhắc lại là kể từ đầu thập niên 1940 cho đến thời chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh (đặc biệt từ Châu Âu) sáng lập các định chế quốc tế, từ Liên hiệp Quốc đến Ngân hàng Thế giới (World Bank) đến Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đến Liên minh Bắc đại Tây dương (NATO) v.v… Các định chế này đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát huy tự do, dân chủ và nhân quyền, mở rộng nền kinh tế thị trường cũng như kiết thiết xây dựng lại các quốc gia đã suy sụp sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Sau khi Liên Xô sụp đổ và chiến tranh lạnh chấm dứt, các định chế này vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng để duy trì hoà bình, ổn định và phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, nhu cầu cần thiết mà ai cũng thấy là phải cải tổ cho phù hợp với tình thế ngày nay. Nói cách khác, kiến trúc của các định chế này có thể thích hợp vào thời chiến tranh lạnh, nhưng giờ đây thế giới đã thay đổi rất nhiều. Cho dù nó có bó buộc các hành động của Hoa Kỳ thì không phải vì thế mà coi thường nó, bởi thái độ này dễ dẫn đến một tiền lệ nguy hiểm, bất chấp luật pháp quốc tế từ các nước khác. Vì thế, dù gì đi nữa cũng phải nỗ lực duy trì tính cách cộng tác ở tầm quốc tế bởi rất nhiều các thử thách của nhân loại hiện nay, từ môi trường sống đến năng lượng đến các vấn đề tự do dân chủ và nhân quyền đều cần tính hợp tác xuyên quốc gia. Thế nhưng, một chính phủ Mỹ, dù mục tiêu có đúng mấy đi nữa, nhưng coi thường Liên Hiệp Quốc và đơn phương hành động, thì rất nhiều người, không riêng gì Châu Âu, không chịu thái độ như thế. Nhiều người quan niệm rằng dù có mục tiêu đúng, nhưng cách làm không đúng, thì vẫn không chính đáng và, hơn nữa, có thể đưa đến những tiền lệ không tốt về sau. Cũng vì một số chính sách và hành động đơn phương từ chính phủ Bush trong những năm qua nên quan hệ giữa Hoa Kỳ và Châu Âu, vốn là đồng minh thân thiết thời chiến tranh lạnh, đã trở nên lạnh nhạt hơn và tệ hại hơn dưới thời Tổng thống Bush. Nhà khoa học chính trị Robert Kagan đã viết bài “Sức mạnh và sức yếu” (power and weakness) [12] để biện luận quan điểm khác biệt về quyền lực và chính sách ngoại giao của hai bên bờ Đại Tây dương, và ví von rằng “Người Mỹ là từ sao Hoả, người Âu Châu là từ sao Kim” (Americans Are From Mars, Europeans From Venus). Thế nhưng những nhận định như thế cũng chỉ gây thêm tranh luận một thời, bởi khi thượng nghị sĩ Obama viếng thăm châu Âu thì được đón chào một cách rất đặc biệt. Tại Berlin, như đã nói trên, có hơn 200,000 người đến nghe Obama diễn thuyết. Điều này cho thấy người Âu Châu không có lý do gì để thù ghét hay ác cảm đối với người Mỹ, ngược lại vẫn còn mang ơn Hoa Kỳ đã có công lớn trong chiến lược ngăn chặn và bảo vệ an ninh trước sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản thời Sô Viết. Tất nhiên, rõ ràng thượng nghị sĩ McCain không là Tổng thống Bush. Nhưng ông có nhiều quan điểm mà người Mỹ cũng như đa số dân Châu Âu cảm thấy ít nhiều liên hệ đến hai nhiệm kỳ qua: một phần vì chính McCain bỏ phiếu chấp thuận đánh Iraq, hơn nữa giữ vững lập trường duy trì quân đội ở đó cho đến khi ổn định (tuy đây là một quan điểm đứng đắn); phần khác, ông cũng là đảng viên Đảng Cộng hoà, được xem là bảo thủ hơn Đảng Dân chủ, và có một số quan điểm tương đồng với chính phủ Hoa Kỳ hiện tại. Do đó, mặc dầu về mặc ngoại giao và an ninh quốc phòng, thượng nghị sĩ McCain được xem là người có kinh nghiệm và khả năng hơn thượng nghị sĩ Obama, đặc biệt là 21 năm kinh nghiệm ở thượng viện trong khi Obama chỉ có 4 năm, thế nhưng quan điểm về chính sách ngoại giao của Obama mang tính cách đa phương (multilateralism), nên được nhiệt liệt tán thành ở ngoài nước Mỹ. Nghĩa là, theo ngôn ngữ chính trị, Obama là người theo trường phái chủ nghĩa quốc tế phóng khoáng (liberal internationalism), khác hẳn với chủ nghĩa hiện thực chính trị (political realism) hay chủ nghĩa tân bảo thủ (neo-conservative) mà Tổng thống Bush là một hiện thân. Chủ nghĩa quốc tế phóng khoáng đề cao sự hợp tác xuyên quốc gia, nhấn mạnh tính tương quan quyền lợi, và duy trì và phát huy các định chế quốc tế (như UN và WTO), luật pháp quốc tế v.v… Cũng vì thế nên không có gì ngạc nhiên khi tỷ lệ người ở ngoài Mỹ ủng hộ thượng nghị sĩ Obama gấp bốn lần thượng nghị sĩ McCain, như đề cập ở trên. Vài điều kết luận Cuộc đua vào Nhà trắng kỳ này mang nhiều tính lịch sử. Thứ nhất, nếu liên danh McCain - Palin đắc cử thì sẽ có người phụ nữ đầu tiên làm phó Tổng thống, và nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra cho McCain thì không chừng Hoa Kỳ sẽ có vị nữ tổng tư lệnh đầu tiên. Thứ hai, giữa Đảng Dân chủ với nhau, nếu thượng nghị sĩ Obama có thua hay thắng thượng nghị sĩ (Hillary) Clinton đi nữa thì, hoặc một người phụ nữ đầu tiên làm ứng viên Tổng thống và có khả năng làm nữ Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ kể từ ngày thành lập đến nay nếu thắng McCain; hoặc là người da đen gốc Phi châu (chứ không phải con cháu của người da đen nô lệ như tuyệt đại đa số dân Mỹ gốc Phi châu khác tại Hoa Kỳ) đầu tiên làm Tổng thống Hoa Kỳ. Rõ ràng đây là bước ngoặc lịch sử lớn của Hoa Kỳ, điều mà chỉ cách đây bốn thập niên vẫn chỉ là một giấc mơ không tưởng, lúc mà vấn đề phân biệt chủng tộc vẫn còn bao trùm xã hội. Vậy mà cũng thế hệ đó, thế hệ thanh niên của thời 1960, cùng thời với thượng nghị sĩ McCain, và cũng có người từng chiến đấu bên cạnh McCain thời chiến tranh Việt Nam, giờ đây muốn một khuôn mặt mới, một làn gió mới tại Washington DC. Ngay cả đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng hoà và là cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Bush, Colin Powell, trên chương trình NBC “Meet the Press” đã tuyên bố rằng thượng nghị sĩ Obama đã hội đủ tiêu chuẩn để trở thành vị tổng tư lệnh bởi vì có khả năng động viên người Mỹ ở mọi lứa tuổi, sắc tộc và sắc thái chính trị. [13] Powell đã bày tỏ sự lo ngại đối với Đảng Cộng hoà đã rẽ hướng quá nhiều sang phía hữu, trong khi đó Powell cho rằng Obama lại vượt qua thử thách trong nhiều tuần qua để biểu lộ phong cách của một Tổng thống: “Ông ấy (Obama) chứng tỏ một sự chín chắn, một sự hiếu kỳ rất trí thức, một chiều sâu kiến thức và một phương pháp nhìn vào các vấn đề (kinh tế) như thế này, và đã chọn người phó Tổng thống (Joseph Biden) mà tôi nghĩ là sẵn sàng để trở thành Tổng thống trong ngày đầu”. Ngoài ra, bản lãnh chính trị, tài năng hùng biện cũng như phong cách của Obama cũng được thể hiện một cách đầy ấn tượng qua các kỳ tranh luận. Obama lắng nghe một cách lễ phép, tương kính khi đối thủ mình phát biểu, và cho dầu có vài điểm tranh luận của Obama không ấn tượng hay có thể hơi yếu ớt, nhưng tác phong (body language) của Obama, theo The Economist, là không thể chê vào đâu được. Tất nhiên, trong chính trị chuyện gì cũng có thể xảy ra, và không có gì chắc chắn hoàn toàn cả. Thăm dò dư luận không phải là khoa học hoàn toàn, theo ý nghĩa là lúc nào cũng đúng, mà thỉnh thoảng cũng có sai, kể cả cái gọi là hiệu ứng Bradley (Bradley effect). Nếu chuyện này xảy ra thì điều giải thích hợp lý nhất là người Mỹ vẫn còn kỳ thị người da đen. Dù sao từ đây đến ngày bầu cử 4/11, là người kiên cường như McCain thì không dễ gì bỏ cuộc. Chẳng hạn, mới đây McCain còn quy chụp chính sách của Obama có xu hướng “chủ nghĩa xã hội”. [14] Khi bị hỏi vặn có nghĩ Obama là người theo chủ nghĩa xã hội (socialist) không thì McCain nhún vai trả lời: “Tôi không biết”. Nhưng một phát ngôn viên của McCain bảo rằng phân chia của cải tức là chủ nghĩa xã hội (spreading the wealth around is socialism), mặc dầu trên thực tế Obama chỉ dự định tăng thuế đối với các nguồn thu nhập cao hơn 250,000 Mỹ kim. Nhưng một chính sách thuế khoá như vậy cùng lắm chỉ theo chủ trương phúc lợi xã hội (social welfare), chứ hoàn toàn không theo chủ trương phân chia tài sản “đồng đều” gì hết, và nói chung thì khác xa một loại xã hội chủ nghĩa mà người Việt Nam không may nếm thử. Và mới đây nhất, thượng nghị sĩ McCain cảnh báo người Mỹ rằng ông đã từng sống trong thời bom đạn, thời nguyên tử, nên ở trong tư thế sẵn sàng để lãnh đạo Hoa Kỳ, không cần thời gian để thử nghiệm nữa (ý ám chỉ thượng nghị sĩ Obama thiếu kinh nghiệm đó, nên Obama sẽ thất bại khi gặp những thử thách to lớn như thế). [15] Tuy nhiên, cách so sánh như thế thiếu tính thuyết phục, bởi thế giới ngày nay đã khác rất nhiều so với thời chiến tranh lạnh. Riêng quan điểm cá nhân tôi, khi quan sát thượng nghị sĩ Obama trải qua 18 tháng không ngừng nghỉ vừa qua để tranh đua với bao nhiêu đối thủ thượng thặng cho thấy một sự quyết tâm cao độ, một sự tự tin vững chắc, và một niềm tin sắt đá vào tương lai mà ông tin có thể đóng vai trò quan trọng trong đó. Thành thật mà nói lúc đầu tôi không phải là người ủng hộ thượng nghị sĩ Obama. Một trong những nguyên do chính yếu là vì chủ trương ban đầu của ông là rút quân khỏi Iraq trong một thời gian biểu nhất định (như từ 1-2 năm) một cách vô điều kiện, nghĩa là không cần biết tình hình an ninh tại Iraq ra sao. Tôi thấy đây là một quan điểm vừa thiếu đúng đắn vừa vô trách nhiệm. Tôi tự hỏi chẳng lẽ Hoa Kỳ không học được bài học gì hết sao khi đã tháo chạy như thế sau Hiệp định Paris (1973), để lại một đồng minh trong tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, không biết làm sao xoay xở khi quân đội miền Bắc đang cùng khắp miền Nam Việt Nam, để rồi sau đó đưa đến thảm nạn thuyền nhân, tù cải tạo và bao nhiêu thứ khác. Nhưng gần đây, dù sao đi nữa, thượng nghị sĩ Obama cũng đã thay đổi ít nhiều quan điểm, và bắt đầu nhìn nhận các vấn đề trong giải pháp mình đưa ra. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, một Tổng thống Hoa Kỳ như Obama tôi tin là sẽ mang lại một luồng gió mới, một phong cách mới, một niềm tin mới cho người Mỹ lẫn thế giới rằng Hoa Kỳ luôn thay đổi không ngừng, phần lớn cho tốt hơn, cho cơ hội bình đẳng hơn, vì thế bất cứ ai có năng lực và bản lãnh, dù nguồn gốc đến từ đâu, đều có thể đứng ra đảm nhiệm vai trò quan trọng hàng đầu của quốc gia này. Ở trên bình diện đó, tôi cũng tin rằng chính Obama cũng sẽ góp phần xây dựng lại uy tín và tư thế của Hoa Kỳ trên thế giới cũng như góp phần cải tổ các định chế quốc tế và củng cố quan hệ ngoại giao ở khắp nơi, đặc biệt giúp cho các nước chậm tiến ở Phi Châu được phát triển một cách bền vững hơn. Tóm lại, thượng nghị sĩ Obama là người phải có tài năng đặc biệt lắm, nếu không làm sao có thể có những nhân vật gạo cội như cựu Tổng thống Bill Clinton hay chính phu nhân thượng nghị sĩ Hillary Clinton trước đây từng tranh cử gắt gao với ông mà bây giờ đang ráo riết vận động cho ông. Nếu không đặc biệt thì làm sao vừa được Đảng Dân chủ tín nhiệm làm ứng viên Tổng thống, vừa chiếm được cảm tình của đa số giới trí thức và được đa số dân chúng ủng hộ (theo tỷ lệ 53-39 hoặc 52-38). Nếu không đặc biệt thì làm sao cựu ngoại trưởng thuộc Đảng Cộng hoà Colin Powell lại dám “xé rào” hay nói theo một loại ngôn ngữ là “phản đảng” để công khai ủng hộ một ứng viên thuộc đảng đối lập với mình. Nói như Powell thì thượng nghị sĩ Barack Obama quả là một nhân vật chuyển hoá (transformational figure). Và nếu thắng cử, việc Tổng thống Obama sẽ làm được gì cho Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung lại là một chuyện khác, bởi nó còn tuỳ thuộc rất nhiều vào lắm yếu tố phức tạp chằng chịt ảnh hưởng lên nhau. Dù sao, nếu thượng nghị sĩ Obama được người dân Hoa Kỳ tín nhiệm kỳ này, vết nhơ của chế độ nô lệ trong lịch sử Hoa Kỳ phần nào đã được phai nhoà, tuy sự bất công và những hệ lụy của nó sẽ cần một thời gian dài mới phần nào được san bằng. Ngày 4/11 tới đây, người Mỹ chắc sẽ chính thức lật sang một trang sử mới với nhiều hứa hẹn cho một tương lai hy vọng cho chính mình và thế giới. Melbourne, 22/10/2008 © 2008 talawas [1]Trước cuộc tranh luận lần thứ ba vào tối thứ tư 15/10, cũng là lần cuối, Obama đã dẫn đầu McCain khoảng 10 điểm (tức phần trăm chỉ số thăm dò dư luận toàn quốc Hoa Kỳ). Sau tranh luận, khoảng cách điểm ủng hộ dành cho Obama so với McCain tăng lên gần 14 điểm, theo thăm dò của CBS and nhật báo the New York Times. Nhìn lại cuộc tranh luận lần thứ nhất thì khoảng cách giữa Obama và McCain không bao nhiêu, chênh lệch vài ba điểm, và sau kỳ hai thì tăng lên vài điểm nữa. Hiện tại Obama đang dẫn đầu McCain trung bình trên 10 điểm, tuỳ theo mỗi cơ quan thăm dò dư luận mà số điểm khác nhau.. Xin đọc the Economist, “In poll position”, Oct 17th 2008, www.economist.com/world/unitedstates/displayStory.cfm?story_id=12448053&source=features_box2. [2]Theo thông tấn xã AFP. Bản tin này được đăng trên báo The Age, “US newspapers endorse Obama for president”, October 18, 2008, www.theage.com.au/world/us-election-2008/us-newspapers-endorse-obama-for-president-20081018-53gc.html?page=-1. [3]Theo thông tấn xã AFP. Bản tin này được đăng trên báo The Age, “Obama tells 175,000 supporters: change is coming”, October 19, 2008, www.theage.com.au/world/obama-tells-175000-supporters-change-is-coming-20081019-53v8.html?page=-1. [4]AFP, “Two-thirds of Aussies want President Obama: poll”, October 22, 2008, www.abc.net.au/news/stories/2008/10/22/2398181.htm. [5]Đọc kỹ các bài bình luận và quan điểm của The Economist và The Age thì sẽ nhìn ra được quan điểm của các tờ báo này dành cho Barack Obama. Thí dụ, xin đọc The Age, “Tense times in Tennessee as the campaign hots up”, October 9, 2008, www.theage.com.au/opinion/editorial/tense-times-in-tennessee-as-the-campaign-hots-up-20081008-4ws4.html?page=-1. [6]The Economist, “The last word”, Oct 16th 2008, www.economist.com/displaystory.cfm?source=most_commented&story_id=12414271&CFID=27265383&CFTOKEN=78810173. [7]CNN, “McCain, Obama go head to head in last debate”, October 15, 2008, edition.cnn.com/2008/POLITICS/10/15/debate.transcript/index.html. [8]Bản ghi từ cuộc tranh luận thứ ba giữa TNS Obama và TNS McCain (trên CNN và nhiều cơ quan truyền thông khác). CNN, “McCain, Obama go head to head in last debate”, October 15, 2008, edition.cnn.com/2008/POLITICS/10/15/debate.transcript/index.html. [9]Ở đây, chúng ta có thể thấy rằng trong trường hợp Việt Nam, vì chỉ có một Đảng (Cộng sản Việt Nam), mà Đảng lại tự ban cho mình quyền lãnh đạo tối cao của nhà nước, của dân tộc, cho nên khi có một ai đó từ bỏ Đảng, đi tố cáo những sai lầm của Đảng, thì bị cho là phản Đảng, và rồi cũng bị ghép luôn tội phản bội dân tộc, tổ quốc v.v… Trong khi đó, nếu có đa nguyên đa đảng, và khi tất cả các đảng đều hoạt động vì dân, vì nước, thì một khi có ai đó đi vạch trần những điều sai trái trong đảng thì không có đảng nào lại dám hàm hồ bảo rằng người đó đã phản bội dân tộc, tổ quốc gì cả. Cho nên độc đảng nó nguy hiểm và tai hại như thế đó. [10]CNN, “Transcript of presidential debate”, September 26, 2008, edition.cnn.com/2008/POLITICS/09/26/debate.mississippi.transcript/index.html. [11]CNN, “Transcript of second McCain, Obama debate”, October 07, 2008, edition.cnn.com/2008/POLITICS/10/07/presidential.debate.transcript/index.html. [12]Robert Kagan, “Power and weakness”, Policy Review, No. 133, June 2002 [13]The Age, “Obama wins Colin Powell's endorsement”, October 20, 2008, www.theage.com.au/world/us-election-2008/obama-wins-colin-powells-endorsement-20081020-544k.html?page=-1. [14]CNN, “McCain, Palin hint that Obama's policies are 'socialist'", October 18, 2008, edition.cnn.com/2008/POLITICS/10/18/campaign.wrap/index.html. [15]The Age, “McCain raises spectre of nuclear war”, October 22, 2008, www.theage.com.au/world/us-election-2008/mccain-raises-spectre-of-nuclear-war-20081022-55qi.html.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:02:43 GMT 9
Bùi Văn Phú Xanh vỏ đỏ lòng Đọc tựa bài chắc bạn đọc nghĩ đến chuyện cơm áo quốc gia, hồn ma cộng sản. Nhưng xin thưa là không phải vậy. Trong lòng người dân Mỹ ngày nay không còn có chuyện cộng sản, quốc gia đâu. Mấy tuần trước tôi nhận được hai lá thư, gửi qua đường bưu điện, của hai ứng viên Tổng thống Hoa Kỳ là Thượng nghị sĩ John McCain và Thượng nghị sĩ Barack Obama. Xin trích dịch những đoạn quan trọng về chính sách. 1. Thư Thượng nghị sĩ Barack Obama, ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ. Khẩu hiệu: Change we can believe in – Thay đổi chúng ta có thể tin vào. Giống như một số ít nhân vật trong lịch sử Hoa Kỳ, Linh mục Joseph Lowery biết cần làm gì để thay đổi một quốc gia. Ông đã từng đứng bên cạnh Tiến sĩ King trong những ngày đầu của cuộc tranh đấu dân quyền. Từ toà giảng trong giáo đường ra đến đường phố, ông đã thách thức người dân Mỹ hãy làm trọn lời hứa nguyên thủy của đất nước này về bình đẳng, công lý cho tất cả mọi người… Đó cũng là lí do tôi ra tranh cử Tổng thống và hi vọng ông cũng sẽ đồng ý tham gia cuộc vận động này hôm nay. Bởi vì ông chia sẻ điều tôi tin, là để đối đầu với những thử thách của đất nước, thay đổi các đảng phái thì chưa đủ, chúng ta cần có cái gì mới hơn. Chúng ta cần lật qua một trang sử mới. Những thay đổi chủ yếu - như một tinh thần mới chúng ta cần có, một tinh thần trách nhiệm và ngay thẳng, nghiêm chỉnh và hy sinh – bắt đầu với ông. Nó khởi đi bằng hàng triệu người dân ở California và trên toàn quốc cùng chung lòng đòi hỏi những điều tốt hơn… Tôi sẽ không bao giờ quên được lí do đã cho tôi cơ hội vô cùng trọng đại để ứng cử Tổng thống Hoa Kỳ, là vì có vài người nào đó, ở đâu đó đã bênh vực tôi khi mà làm điều đó là một sự nguy hiểm. Bênh vực tôi trong lúc khó khăn. Ủng hộ tôi khi mà việc đó bị coi như không mang tính quảng đại quần chúng. Nhưng vì có một số người đã ủng hộ, kéo thêm những người khác. Rồi con số từ vài nghìn người lên vài triệu người đã đứng lên. Đứng lên với lòng can đảm, với mục đích rõ ràng, bằng cách này họ đã làm thay đổi thế giới. Hôm nay, chúng ta phải đứng dậy và nói lớn là chúng ta không chấp nhận những gì mà kẻ đa nghi đã nói là chúng ta phải chấp nhận. Trong cuộc bầu cử này, chúng ta đang vươn tới những gì chúng ta biết là có thể làm được - một dân tộc hàn gắn, một thế giới được chỉnh sửa và lấy lại niềm tin của quốc gia Hoa Kỳ. Vì thế khi có những người khác muốn làm nản lòng và chia rẽ chúng ta – theo lối phân chia chủng tộc, sắc dân, vùng miền hay mức sống – chúng ta có thể để cho họ làm những điều đó. Chúng ta có thể chấp nhận một chính sách đẻ ra những chia rẽ, xung đột và đầy nghi ngờ như thế. Đó là một lựa chọn. Hay là một chọn lựa khác là trong thời điểm này, trong kì bầu cử này, chúng ta cùng đến với nhau và đồng thanh lên tiếng: “Không phải lúc này.” Thời điểm này chúng ta muốn nói đến việc làm thế nào những hàng người trong phòng cấp cứu đủ mọi mầu da: da trắng, da đen, người nói tiếng Tây Ban Nha là những người không có bảo hiểm y tế; không có quyền lực để vượt qua được những nhóm vận động hành lang ở Washington. Nhưng ai sẽ là người có thể giúp những bệnh nhân này nếu chúng ta cùng làm việc đó. Thời điểm này chúng ta muốn nói đến những nhà máy xay lúa đã đóng cửa, nơi một thời đã đem đến cuộc sống no đủ cho đàn ông, phụ nữ đủ mọi sắc dân, và những căn nhà đang rao bán đã một thời do những người Mỹ thuộc đủ mọi niềm tin làm chủ, ở mọi miền và từ mọi ngõ ngách của đời sống. Thời điểm này chúng ta muốn nói lên một sự thực, là vấn đề có thực không phải một ai đó trông không giống bạn có thể lấy mất đi công việc của bạn, mà các công ti nơi bạn làm việc đã chuyển ra nước ngoài chỉ vì muốn kiếm lời nhiều hơn. Thời điểm này chúng ta muốn nói đến những người đàn ông, những phụ nữ thuộc đủ mầu da, tôn giáo đang cùng nhau phục vụ đất nước, chiến đấu bên nhau, cùng đổ máu dưới ngọn cờ đáng kính. Chúng ta muốn bàn đến việc đưa họ trở về từ một cuộc chiến mà đáng lẽ đã không bao giờ được cho phép và đã không bao giờ được để cho xảy ra. Chúng ta sẽ chứng tỏ tinh thần yêu nước bằng cách chăm lo cho những cựu chiến binh, gia đình họ và cho họ hưởng những quyền lợi đáng được hưởng… 2. Thư Thượng nghị sĩ John McCain, ứng viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà. Khẩu hiệu: Leadership we can believe in – Lãnh đạo chúng ta có thể tin vào. Chọn lựa mà nước Mỹ sẽ phải quyết định vào tháng Mười Một thì rất rõ ràng. Đó sẽ là chọn lựa giữa một chính quyền cấp tiến nhất trong lịch sử cận đại hay một Tổng thống sẽ duy trì những lí tưởng bảo thủ lâu đời với một chính quyền thu gọn, quốc phòng mạnh và nhiều tự do cá nhân. Ông biết quan điểm của tôi như thế nào – đó là những gì đã ghi trong hồ sơ thành tích phục vụ của tôi. Từ ngày vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ năm tôi 17 tuổi, đến những năm ở Việt Nam và trong thời gian tôi làm dân cử đại diện cho cư dân bang Arizona tại Hạ viện và Thượng viện Hoa Kỳ, tôi đã may mắn có cơ hội phục vụ. Đây thật là một vinh dự cho tôi được phục vụ tổ quốc và lí tưởng cao cả - là sự tự do - gần như cả đời tôi… Ngay bây giờ tôi đang tham gia vào một cuộc chiến quan trọng nhất đời. Nếu tôi đã học được điều gì trong những tháng qua khi đi vận động và lắng nghe tiếng nói người dân của quốc gia vĩ đại của chúng ta, đó là: Chiến thắng chỉ đến khi chúng ta cùng đoàn kết bên những lí tưởng cốt lõi về tự do cá nhân, chính quyền thu gọn và lòng can đảm hi sinh để bảo vệ tổ quốc là điều mà tôi tin, cũng như ông và hầu hết dân Mỹ đều tin như thế… Từ trước đến giờ tôi đã nói rằng tôi không tranh cử để chỉ làm Tổng thống, mà là để thực hiện những gì tôi tin. Tôi tranh cử để gìn giữ nước Mỹ được an toàn, thịnh vượng và đáng hãnh diện. Tôi tranh cử để tái lập niềm tin của người dân Mỹ vào chính phủ. Tôi tranh cử để con cháu chúng ta sẽ có những cơ hội tốt đẹp hơn là những gì chúng ta đã được hưởng. Tôi tranh cử để mỗi người dân của đất nước này, hôm nay cùng những thế hệ mai sau, sẽ biết được niềm hãnh diện đáng quí nhất và gia tài của đời tôi là: hãnh diện được làm công dân Hoa Kỳ… Chưa bao giờ, trong khoảng thời gian còn nhớ được, đã có sự khác biệt sâu xa trong hướng đi mà những ứng viên muốn đưa nước Mỹ tiến đến. Đảng của Thượng nghị sĩ Clinton và Obama sẽ đầu hàng Al Qaida ở Iraq và rút quân dựa theo một thời biểu tùy tiện. Chủ trương của tôi là phải thắng cuộc chiến. Ở Iraq, quyền lợi an ninh quốc gia và những lí tưởng quốc gia là một. Iraq là nơi thử thách của một thế hệ, của Hoa Kỳ, về vai trò của chúng ta trên thế giới. Sự chuyển mình của Iraq và một nền dân chủ trong an ninh là một thúc đẩy cho sự tự do trong toàn vùng Trung Đông và là lời kêu gọi của thời đại chúng ta. Chúng ta cần phải làm, có thể làm được và sẽ thành công. Đảng của Thượng nghị sĩ Clinton và Obama muốn gia tăng guồng máy hành chính liên bang. Tôi thì muốn cắt giảm. Chi tiêu vô trách nhiệm ở Washington bằng tiền thuế của bạn là một sỉ nhục quốc gia. Tôi sẽ tiếp tục cuộc chiến đang diễn ra để chấm dứt tình trạng chi tiêu phí phạm bằng cách phủ quyết mọi đạo luật ngân sách có những đặc lợi đi kèm, sử dụng quyền phủ quyết từng mục chi và loại bỏ những khoản chi đặc biệt lan tràn đã dẫn đến nạn tham nhũng và thiếu trách nhiệm tài chánh. Tôi sẽ không cho phép gia tăng những đặc quyền, đặc lợi đang làm khánh kiệt chúng ta. Trái lại, tôi dự định sẽ cải tổ những chương trình này để chính phủ không còn thói quen hứa với dân những điều không thể làm được. Đảng của Thượng nghị sĩ Clinton và Obama sẽ tăng thuế của chúng ta. Tôi muốn cắt giảm thuế. Theo quan điểm của tôi, chính sách thuế cần đơn giản, công bình và thấp xuống đến mức có thể. Tôi sẽ làm việc để thu hồi lại đạo luật “Chọn lựa khác cho chính sách thuế tối thiểu” (Alternative Minimum Tax) mà 25 triệu gia đình trung lưu sẽ phải trả; cắt giảm vĩnh viễn thuế thu nhập và thuế đầu tư; soạn thảo luật tăng thuế với điều khoản khó hơn là nếu quốc hội muốn tăng thuế thì phải có đa số 3 phần 5. Đảng của Thượng nghị sĩ Clinton và Obama sẽ đưa ra chính sách giải quyết bảo hiểm y tế làm nặng gánh chính phủ. Cách giải quyết của tôi là cung cấp cho các gia đình với bảo hiểm y tế chất lượng bằng cách gắn nó vào với sức cạnh tranh của thị trường, trong khi cho người dân được tự do tối đa trong việc chọn lựa chương trình bảo hiểm y tế thích hợp. Tôi tin rằng việc chính phủ can dự vào không phải là đáp án cho vấn đề giá bảo hiểm y tế tăng. Chính việc chính phủ can dự vào mới là vấn đề. Một Tổng thống của Đảng Dân chủ sẽ bổ nhiệm những thẩm phán liên bang có ý đồ thay đổi chính trị, những thẩm phán sẽ tự họ viết nên những chính sách quốc gia hay có những ý đồ chính trị. Tôi sẽ bổ nhiệm những thẩm phán với thành tích được chúng ta tin tưởng và có kiến thức trọn vẹn về tầm quan trọng của việc sử dụng hệ thống tư pháp để giải thích Hiến pháp Hoa Kỳ và những luật lệ đã được viết ra - chứ không phải để viết ra những luật mới – và là những người chúng ta có thể tin được là sẽ tôn trọng giá trị của dân là những quyền, luật lệ và tài sản mà họ đã tuyên thệ bảo vệ. Đây là một vài sự khác biệt sẽ quyết định cuộc bầu cử này. Đó là những khác biệt quan trọng, và tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ những giá trị bảo thủ và tiếp tục hết lòng làm việc để truyền đạt những lí tưởng và tầm nhìn cho tương lai Hoa Kỳ - một cách trong sáng và thực tâm. 3. Đảng, đoàn ở Mỹ Các ứng viên Tổng thống gửi thư cho tôi, chẳng phải tôi là một VIP (Very Important Person, một nhân vật quan trọng) mà chỉ là một cử tri trong số trăm triệu cử tri Mỹ đang phân vân không biết sẽ bầu chọn ai làm người lãnh đạo vào tháng Mười Một sắp tới. Khi những lá thư này đến tay tôi, nhiều triệu người Mỹ khác cũng nhận được vì đây là một cách vận động trong mùa bầu cử. Ngoài những tâm tình, những chính sách phác hoạ, những lá thư này còn mời gọi đóng góp tài chánh cho quĩ tranh cử của mỗi ứng viên, từ vài đô-la cho đến tối đa là 2.300 đô-la mà một cá nhân có thể đóng góp cho một ứng viên Tổng thống. Trong sinh hoạt chính trị ở Hoa Kỳ không chỉ có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà. Đó là hai chính đảng. Ngoài ra còn nhiều đảng khác đăng kí hoạt động và có đưa người ra ứng cử là American Independent Party, Green Party, Libertarian Party và Peace and Freedom Party. Việc gia nhập một đảng hay rút lui, đổi đảng ở Mỹ thật dễ, không cần phải có sự giới thiệu, không cần có thời gian làm đối tượng. Chỉ cần ghé ngang qua những cơ quan nhà nước như sở lưu thông hay bưu điện lấy tờ đơn ghi danh tham gia bầu cử, rồi muốn vào đảng hay đổi đảng chỉ cần điền vào chỗ thích hợp, gửi đi. Thế là xong. Tháng trước là thành viên Đảng Cộng hoà, vài tháng sau thành Dân chủ, ít lâu sau lại theo Đảng Xanh thì cũng chẳng sao, tự mình chọn lựa, chẳng ai biết, chẳng phải tham gia hội họp, chẳng phải đóng tiền đảng viên. Chán không muốn vào đảng nào thì điền ô “Decline to State” (DTS, có nghĩa là từ chối không nêu đảng). Mấy chục năm trước, phải là thành viên của một đảng thì cử tri mới được đề cử ứng viên đảng đó tranh cử trong các cuộc bầu cử sơ bộ. Ngày nay tại nhiều bang, Đảng Dân chủ đã cho phép cử tri không theo đảng nào được quyền bầu cho ứng viên dân chủ, trong khi Đảng Cộng hoà vẫn còn giới hạn cho đảng viên của mình. Trong lịch sử sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ, có cố Tổng thống Ronald Reagan đã đổi đảng từ Dân chủ sang Cộng hoà, có đại sứ Mỹ ở Liên hiệp quốc là bà Jeanne Kirkpatrick cũng đổi đảng như Tổng thống Reagan. Gần đây có Thượng nghị sĩ Jim Webb từ bang Virginia, trước kia là người của Đảng Cộng hoà, khi ra ứng cử thì là đảng viên Dân chủ. Bang Connecticut có Thượng nghị sĩ Joe Lieberman làm phó cho ứng viên Tổng thống Al Gore trong kì bầu cử năm 2000, sau đó không được cử tri Đảng Dân chủ đề cử tái ứng cử thượng viện nên ông đã đổi sang tư cách một ứng viên nghị sĩ độc lập và tái đắc cử. 4. Xanh hay đỏ Năm nay, trong thời gian tranh cử sơ bộ của Đảng Dân chủ đã có hai ứng viên sáng giá là Thượng nghị sĩ Hillary Clinton và Thượng nghị sĩ Barack Obama đánh nhau tơi bời trong nhiều tháng. Thượng nghị sĩ Obama đến nay coi như sẽ được Đảng Dân chủ chính thức tiến cử vào cuối tháng này. Khi Thượng nghị sĩ Barack Obama, người da đen, đạt được số phiếu đại biểu nhiều hơn nữ nghị sĩ Hillary Clinton, đã có những cử tri trung thành với bà cho biết là họ sẽ nhảy thuyền, qua ủng hộ ứng viên đảng đối lập là Thượng nghị sĩ John McCain. Cách đây ít lâu, một đại biểu của Thượng nghị sĩ Clinton đã nói với truyền thông là nếu Đảng Dân chủ chọn Thượng nghị sĩ Obama, bà ta sẽ bỏ phiếu cho ứng viên John McCain. Tức thì ban lãnh đạo Đảng Dân chủ đã rút lại vai trò đại biểu của bà. Hiện nay, theo kết quả của nhiều cuộc thăm dò dư luận quần chúng thì ứng viên Dân chủ Barack Obama hơn điểm ứng viên Cộng hoà John McCain. Nếu với đà này, ứng viên Obama sẽ tiến thẳng đến Bạch Cung vào tháng 11 tới đây. Nhưng giới quan sát cũng lo ngại tình trạng xanh vỏ đỏ lòng của cử tri. Đảng Dân chủ Mỹ chọn con lừa làm biểu tượng, trong khi Cộng hoà chọn con voi. Về mầu sắc, mầu đỏ tượng trưng cho Cộng hoà, mầu xanh (như mầu trong cờ Mỹ) là mầu Dân chủ. Trong ngày bầu cử, cử tri sẽ tự do lựa chọn theo ý nguyện của mình. Mọi chuyện có thể đổi trắng, hay thay đen trong phòng bỏ phiếu. Cộng hoà bầu cho Dân chủ là đỏ vỏ xanh lòng, còn Dân chủ mà bỏ phiếu cho Cộng hoà thì đúng là xanh vỏ đỏ lòng. Chuyện đó chẳng có liên quan gì đến quốc gia hay cộng sản mà là quyền tự do chọn người lãnh đạo cho mình. Một quyền bình đẳng giữa tất cả mọi người, từ Tổng thống xuống đến người dân thường vì mỗi người chỉ có một lá phiếu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 4:24:33 GMT 9
Ngày tổng thống Kennedy bị ám sátTổng thống Kennedy đã tới Texas tháng 11 năm 1963 nhằm để thúc đẩy quỹ cho đảng Dân chủ trong việc tranh cử tổng thống, tìm kiếm các lá phiếu cho lần tái ứng cử và để giảng hòa các xung đột chính trị nội địa ở đây. Trong khi Texas không phải là một nơi thân thiện với tổng thống lúc bấy giờ và vấn đề an ninh ở đây cũng vô cùng nhạy cảm.
Theo kế hoạch, Kennedy sẽ đi xe limo mui trần từ phi trường Love Field qua Dallas để đến Dallas Trade Mart đọc một bài diễn văn. Tổng thống và đệ nhất phu nhân ngồi ở hàng cuối cùng.
Vào khoảng 11h30 trưa ngày 22/11/1963, khi Tổng thống đang di chuyển giữa đường Houston và đường Elm, một vài tiếng súng nổ nhằm vào xe của Kennedy. Tổng thống bị thương ở lưng (nơi giáp với cổ) và ở phía sau đầu, bên phải. Vết thương thứ hai là vết thương chết người (do các bác sỹ xét nghiệm tử thi kết luận).
Sau khi viên đạn chết người được bắn ra, đặc viên mật vụ Clinton J. Hill lập tức rời chiếc xe chạy sau và nhảy lên cốp sau của xe tổng thống và chiếc xe tăng tốc hướng tới bệnh viện Parkland, nơi ông được đưa vào phòng cấp cứu số 1. Nhưng chưa đầy 2 giờ sau, ông được tuyên bố qua đời.
Lee Harvey Oswald, nghi phạm số 1, đã bị bắt không lâu sau vụ ám sát sau khi hắn giết một cảnh sát. Oswald từ chối lời buộc tội ám sát tổng thống. Oswald bị Jack Ruby bắn chết 2 ngày sau đó.
Phó tổng thống đương nhiệm Lyndon B. Johnson cũng bị nhiều người nghi ngờ sau cái chết của Kennedy bởi có lẽ là người đạt được nhiều quyền lợi nhất từ cái chết của ông này.
Theo Hiến pháp nước Mỹ, ông sẽ là người đảm nhiệm chức vụ Tổng thống sau khi Kennedy qua đời.
Ngoài ra, chính ông cũng đã nói khi nhậm chức Phó tổng thống là "Trong 4 tổng thống thì 1 bị ám sát, có thể tôi sẽ gặp may mắn?" Thái độ của Johnson khi nhậm chức Tổng thống trên Air Force One ngay sau khi Kennedy qua đời cùng với Nhật ký Nhà trắng của Lady Bird - vợ của Johnson - cũng đáng bàn cãi.
Hơn nữa, quan hệ giữa Kennedy và Johnson cũng không hề tốt đẹp gì trong nhiệm kỳ của Kennedy. Thực tế thì Kennedy có ý định bãi nhiệm ông này. Một số người khi viết tiểu sử cho Johnson tin rằng ông này có máu cầu tiến trong chính trị và ham muốn quyền lực.
Cho đến giờ vẫn còn có rất nhiều giả thuyết còn tồn tại xung quanh việc chỉ ra kẻ thực sự đã ám sát Tổng thống Kennedy nhưng chưa giải thuyết nào trong đó được chứng minh.- Sau khi né tránh sự chú ý của dư luận trong nhiều thập niên, những mật vụ từng được chỉ định bảo vệ Tổng thống John F. Kennedy bắt đầu tiết lộ những câu chuyện của họ về ngày ông bị ám sát 47 năm trước. Sau khi những viên đạn đầu tiên được bắn ra trúng người Tổng thống, cựu mật vụ Clint Hill, cho biết: "Tôi thấy ông ôm lấy cổ họng và tì tay vào ngực. Vì vậy, tôi nhảy ra khỏi xe và bắt đầu chạy". Ông Hill là người đầu tiên chạy về phía chiếc limo chở Tổng thống Kennedy trong đoạn video quay lại vào thời điểm ông bị ám sát bởi một người nước ngoài có tên là Abraham Zapruder. Hill nhảy lên phía sau xe Tổng thống trong nỗ lực tuyệt vọng để bảo vệ ông. "Ngay trước khi tôi chạm tới chiếc xe, viên đạn thứ 3 đã găm trúng đầu ông ấy - ông Hill nói - đã quá muộn". Kennedy trên chiếc xe Kennedy trên chiếc xe trước thời điểm ông bị bắn không lâu Đệ nhất phu nhân Jackie Kennedy bắt đầu leo ra phần thùng sau xe, nhưng Hill đã giúp và quay trở lại chỗ ngồi của mình, cố gắng lấy thân mình che chắn cho họ khỏi những viên đạn tiếp theo, trong khi chiếc xe tăng tốc hướng tới bệnh viện. Lúc đó, Tổng thống nằm trong vòng tay Đệ nhất phu nhân và Hill đã nghe thấy bà thốt lên: "Ôi, John, họ đã làm gì với anh thế này?" Còn đối với Hill, cảm giác lúc đó là một cảm giác khủng khiếp nhất mà cho tới giờ ông vẫn không thể quên được. Đó là cảm giác tuyệt vọng khi ông không thể can thiệp cứu Tổng thống kịp thời và họ giống như những người thất bại trước kẻ ám sát. Những bí mật trên được tiết lộ trong cuốn sách mô tả chi tiết về thời điểm Tổng thống Kennedy bị ám sát có tựa đề "The Kennedy Detail", được viết bởi phóng viên Lisa McCubbin qua lời kể của cựu điệp vụ Jerry Blaine và nhiều cựu mật vụ khác từng bảo vệ Tổng thống Kennedy. Cựu mật vụ Hill cũng là một trong số đó và đặc biệt hơn, ông chính là nhân vật chính xuất hiện trong đoạn video và những bức ảnh còn được lưu trữ đến tận ngày nay. Tổng thống Kennedy đã tới Texas tháng 11 năm 1963 nhằm để thúc đẩy quỹ cho đảng Dân chủ trong việc tranh cử tổng thống, tìm kiếm các lá phiếu cho lần tái ứng cử và để giảng hòa các xung đột chính trị nội địa ở đây. Trong khi Texas không phải là một nơi thân thiện với tổng thống lúc bấy giờ và vấn đề an ninh ở đây cũng vô cùng nhạy cảm. Theo kế hoạch, Kennedy sẽ đi xe limo mui trần từ phi trường Love Field qua Dallas để đến Dallas Trade Mart đọc một bài diễn văn. Tổng thống và đệ nhất phu nhân ngồi ở hàng cuối cùng. Vào khoảng 11h30 trưa ngày 22/11/1963, khi Tổng thống đang di chuyển giữa đường Houston và đường Elm, một vài tiếng súng nổ nhằm vào xe của Kennedy. Tổng thống bị thương ở lưng (nơi giáp với cổ) và ở phía sau đầu, bên phải. Vết thương thứ hai là vết thương chết người (do các bác sỹ xét nghiệm tử thi kết luận). Sau khi viên đạn chết người được bắn ra, đặc viên mật vụ Clinton J. Hill lập tức rời chiếc xe chạy sau và nhảy lên cốp sau của xe tổng thống và chiếc xe tăng tốc hướng tới bệnh viện Parkland, nơi ông được đưa vào phòng cấp cứu số 1. Nhưng chưa đầy 2 giờ sau, ông được tuyên bố qua đời. Lee Harvey Oswald, nghi phạm số 1, đã bị bắt không lâu sau vụ ám sát sau khi hắn giết một cảnh sát. Oswald từ chối lời buộc tội ám sát tổng thống. Oswald bị Jack Ruby bắn chết 2 ngày sau đó. Phó tổng thống đương nhiệm Lyndon B. Johnson cũng bị nhiều người nghi ngờ sau cái chết của Kennedy bởi có lẽ là người đạt được nhiều quyền lợi nhất từ cái chết của ông này. Theo Hiến pháp nước Mỹ, ông sẽ là người đảm nhiệm chức vụ Tổng thống sau khi Kennedy qua đời. Ngoài ra, chính ông cũng đã nói khi nhậm chức Phó tổng thống là "Trong 4 tổng thống thì 1 bị ám sát, có thể tôi sẽ gặp may mắn?" Thái độ của Johnson khi nhậm chức Tổng thống trên Air Force One ngay sau khi Kennedy qua đời cùng với Nhật ký Nhà trắng của Lady Bird - vợ của Johnson - cũng đáng bàn cãi. Hơn nữa, quan hệ giữa Kennedy và Johnson cũng không hề tốt đẹp gì trong nhiệm kỳ của Kennedy. Thực tế thì Kennedy có ý định bãi nhiệm ông này. Một số người khi viết tiểu sử cho Johnson tin rằng ông này có máu cầu tiến trong chính trị và ham muốn quyền lực. Cho đến giờ vẫn còn có rất nhiều giả thuyết còn tồn tại xung quanh việc chỉ ra kẻ thực sự đã ám sát Tổng thống Kennedy nhưng chưa giải thuyết nào trong đó được chứng minh. Cả Blaine lẫn Hill vẫn còn bị đè nặng trong lòng bởi việc đã không thể bảo vệ được Tổng thống an toàn trong ngày hôm đó tại Dallas, Texas. Ông Hill sau này đã được nhận huân chương cho sự dũng cảm vì liều mình bảo vệ gia đình Tổng thống, nhưng trong thâm tâm ông luôn có cảm giác tội lỗi rằng đã không kịp thời đến được chỗ chiếc limo để có thể hứng đạn cho Tổng thống. Vì vậy, nhiều năm ông đã sống ẩn mình dưới tầng hầm tại nhà riêng, đắm chìm trong rượu và thuốc lá. "Tôi cảm thấy rằng đã có thể làm được điều đó. Tôi có thể di chuyển nhanh hơn, phản ứng nhanh hơn và có thể đã làm được tất cả những điều khác biệt trên thế giới". Ông Hill gặp phải ác mộng trong nhiều năm, một dạng chấn thương tâm lý khá phổ biến. và phải mất thêm nhiều năm, ông mới có thể dần dần hồi phục lại được. Theo tiết lộ của Blaine, chỉ vài ngày trước vụ ám sát, Kennedy đã cười cợt về kế hoạch bảo vệ ông ở cự ly gần. Khi di chuyển bằng xe ở Tampa, Floria, ông còn yêu cầu các mật vụ không được có mặt trên xe của ông. Tuy nhiên, Hill và Blaine cũng bác bỏ quan điểm cho rằng đặc viên mật vụ George Hickey đã sơ ý cướp cò súng sau xe của Kennedy khiến ông này tử vong , trong khi Oswald chỉ làm ông bị thương bằng những phát đạn đầu tiên. Giả thuyết về sai lầm của đặc vụ này vốn là một trong số các giả thuyết vẫn tồn tại xung quanh cái chết bí ẩn của Kennedy. Theo giải thích của Hill thì ông là người gần đoàn xe của Tổng thống nhất nên đã nghe và chứng kiến sự việc khá rõ ràng. Khi nói về sự thấy bại của nhóm mật vụ bảo vệ Tổng thống, ông Hill cũng nhắc tới yếu tố ngoại cảnh: "Chúng tôi đã bắt đầu đi vào đường cao tốc, và đó là nơi bạn có thể di chuyển với tốc độ lên đến 60 và 70 dặm/giờ. Vì vậy, chúng tôi không thể có bất kỳ một điệp vụ nào dọc hai bên đường" - ông nói. Một số các điệp vụ sau khi xem cuốn sách của trên cũng đã đưa ra nhận định cho rằng Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát tổng thống, có lẽ không có đồng bọn mà chỉ hành động một mình. "Không có câu hỏi trong tâm trí của tôi về một người đàn ông khác cũng là sát thủ" - Hill nói. "Tôi đã có mặt ở đó. Tôi biết những gì đã xảy ra" Còn ông Blaine đã kể lại tình tiết cũng có thể được coi là cơ sở giúp loại bỏ được nghi vấn cho rằng Phó Tổng thống Lyndon B. Johnsoncho là người có liên quan tới cái chết của Kennedy. Ngay trong ngày Tổng thống Kennedy bị ám sát, phó Tổng thống Lyndon Johnson đã tuyên thệ nhậm chức trên chiếc Air Force One. Sau đó vài giờ, ông Johnson cũng đã suýt bị bắn, và Blaine nhận lệnh bảo vệ nhà của ông, dù đã trải qua chuyến đi 40 giờ không ngủ trở về Washington. Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức trên Air Force One không lâu sau cái chết của Kennedy Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức trên Air Force One không lâu sau cái chết của Kennedy"Đó là khoảng 2h15 giờ sáng tại khách sạn The Elms (ở Kansas), nơi ông Johnson nghỉ ngơi trước khi tuyên thệ nhậm chức. Có một người đã bất ngờ tiếp cận ông ấy " - Blaine nói. Ông đã giơ súng lên và đưa tay vào cò súng, quan sát Johnson rẽ. "Mặt ông ta trắng bệch, ông ta quay lại, bước đi, và tôi cũng chưa bao giờ nghe nói hay gặp lại người đó nữa" - Blaine nói.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 4:35:30 GMT 9
Tiết lộ về kẻ từng ám sát hụt Tổng thống KennedyGần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Tổng thống Kennedy bị ám sát, vụ việc vẫn tiếp tục gây xôn xao dư luận Mỹ và thế giới.Tháng 11 nam 2010, nước Mỹ kỷ niệm 50 năm ngày John F.Kennedy đắc cử tổng thống thứ 35 (8/11/1960) và 47 năm ngày ông bị ám sát (22/11/1963). Trong những tuần sắp tới, hình ảnh ông Kennedy và gia đình sẽ lại tràn ngập báo chí Mỹ và sẽ lại có những bài viết hồi tưởng về ông cũng như về vụ ám sát chấn động thế giới ở Dallas năm nào. Chắc chắn, dư luận Mỹ sẽ không thể không nhắc đến Lee Harvey Oswald, kẻ cho đến nay bị coi là thủ phạm một trong những vụ việc không bao giờ phai mờ trong lịch sử. Nhưng có một người mà ít ai từng nghe nói đến: người suýt nữa có thể thay đổi lịch sử Mỹ trước cả Oswald. Tên ông ta là Richard Pavlick và đây là người đầu tiên bị bắt vì âm mưu ám sát ông Kennedy chỉ một tháng sau khi ông vừa đắc cử. Nghi phạm 73 tuổi Ngày 16/12/1960, một bản tin của AP phát đi từ West Palm Beach, bang Florida cho biết một nhân viên bưu chính về hưu “bị tống giam với cáo buộc âm mưu sát hại Tổng thống đắc cử Kennedy”. Bản tin viết: “Cơ quan mật vụ đã buộc tội Richard Pavlick, 73 tuổi, âm mưu đánh bom tự sát nhằm vào ông Kennedy”. Pavlick bị bắt tại Palm Beach ngày 15/12/1960 cùng chiếc xe hơi chứa đầy thuốc nổ. Khi đó, ông Kennedy cùng phu nhân Jacqueline, con gái Caroline, và con trai John Jr. đang ở ngôi biệt thự của gia đình ở Palm Beach, chuẩn bị cho việc nhậm chức vào đầu năm sau. Theo đài CNN ngày 24/10/2010, do Pavlick không ra tay vào ngày ông ta bị bắt nên câu chuyện không trở thành tin tức gây chú ý ở Mỹ. Thông báo về vụ bắt giữ Pavlick trùng với vụ 2 máy bay đụng nhau trên bầu trời thành phố New York, làm thiệt mạng 134 người. Đây mới là thông tin chiếm trang nhất của các tờ báo và đứng đầu trong các bản tin phát thanh và truyền hình khi đó. Thật ra, vụ việc nghiêm trọng hơn bề ngoài nhiều và hầu hết giới truyền thông khi đó không biết rằng Pavlick đã tiến sát đến việc sát hại ông Kennedy như thế nào. Câu chuyện hoàn chỉnh về âm mưu đầu tiên nhằm vào ông Kennedy chỉ được làm rõ trong những ngày sau đó. Pavlick, cư dân của bang New Hampshire, sống cô đơn trong tâm trạng bất mãn chính quyền và xã hội. Ông dành phần lớn thời gian viết thư sinh sự với các nhân vật công quyền và báo chí Mỹ. Theo Time, “một ngày trong tháng trước (tháng 11/1960 - NV), Richard Pavlick quyết định làm một cái gì đó gây chấn động và ông ta quyết định sát hại tổng thống đắc cử. Ông ta mua 10 khối thuốc nổ, một số dây mồi nổ và dây điện và bắt đầu theo dõi ông Kennedy. Ông ta dò xét cẩn thận căn biệt thự ở Hyannis Port, khảo sát căn nhà ở Georgetown và đến Palm Beach”. Time dẫn lời Pavlick: “Tiền của gia đình Kennedy đã mua Nhà Trắng cho ông ta. Tôi muốn dạy cho nước Mỹ biết rằng chức tổng thống không phải để bán”. Thế nhưng vẫn còn một thông tin không được công bố khi đó và sau này do một quan chức cao cấp của mật vụ Mỹ tiết lộ: Ngày 11/12/1960, tức 4 ngày trước khi bị bắt, Pavlick lái xe đến nhà Kennedy trên đại lộ North Ocean ở Palm Beach. Ông ta cầm một công tắc nối với những khối thuốc nổ “đủ làm nổ tung một quả núi nhỏ”. Kế hoạch của Pavlick là đợi chiếc Limousine của Tổng thống đắc cử Kennedy rời nhà đi lễ, đâm vào xe của ông và kích hoạt thuốc nổ đã được chuẩn bị sẵn. Điều gì đã ngăn chặn Pavlick? Ông Kennedy khi đó không rời nhà một mình. Cùng đi với ông có bà Jacqueline, Caroline và John Jr., Pavlick sau đó khai với các nhà điều tra rằng ông không muốn làm hại bà Jacqueline và bọn trẻ. Ông ta chỉ muốn giết ông Kennedy. Theo báo New Statement, khi đề ra kế hoạch đánh bom tự sát, Pavlick đã không tính đến vợ con của ông Kennedy. Thế nên khi thấy có phụ nữ và trẻ con trong xe, Pavlick hoãn thực thi kế hoạch, chờ hết cơ hội này đến cơ hội khác. Ông ta quay trở lại đại lộ North Ocean nhiều lần. Tổng cộng, Pavlick đã đậu xe trên con đường này trong 5 ngày. “Điều này nói lên tất cả những gì bạn cần biết về hiệu quả của đội mật vụ được cho là đang bảo vệ JFK (chữ viết tắt tên ông Kennedy)”, cây bút Philip Kerr của báo New Statement viết hồi năm 2000. Joseph Adams Milteer (hướng mũi tên) xuất hiện ngay thời điểm Tổng thống Kennedy bị bắn Ảnh: Theintelligence.deCNN cho biết trong những ngày Pavlick chờ đợi cơ hội ra tay ở Palm Beach, một trưởng bưu cục ở New Hampshire, bực mình với những tấm bưu thiếp kích động mà Pavlick gửi cho chính quyền, đã báo động cho cơ quan mật vụ về ông ta. Từ biển số xe của Pavlick, nhà chức trách phát hiện ông ta đang ở Palm Beach và bắt giữ ông. “Tôi đã có ý tưởng điên rồ là muốn ngăn ông Kennedy trở thành tổng thống”, Pavlick nói với các nhà báo tại nhà tù nơi ông ta bị giam giữ. Pavlick sau đó bị đưa vào một bệnh viện tâm thần tại Springfield, bang Missouri. Sau nhiều lần chuyển viện, Pavlick được thả vào năm 1966 và qua đời vào năm 1975. Cho đến nay, không có hình ảnh nào được lưu giữ về con người suýt gây chấn động hồi năm 1960. Vài năm sau khi âm mưu của Pavlick bị phanh phui, nhà báo Robin Erb đã viết trên tờ The Blade: “Nếu Pavlick thành công, vụ ám sát (Tổng thống Kennedy) của Oswald và việc nghi can này bị Jack Ruby sát hại sau đó sẽ không bao giờ xảy ra. Nếu ông Kennedy bị giết, ông Lyndon B.Johnson sẽ nhậm chức tổng thống vào tháng 1.1961. Ông ấy sẽ xử lý ra sao với chiến tranh Việt Nam, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và phong trào dân quyền ở miền nam nước Mỹ?”. Nghi vấn mới Pavlick đã không “làm nên lịch sử” nhưng có thật Oswald đã ra tay với vị tổng thống thứ 35 của Mỹ theo kết luận của Ủy ban Warren hồi năm 1964 hay không? Hồi tháng 8.2010, Don Adams, một nhân viên về hưu của Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) ở Summit County, bang Ohio, nói với đài Fox News rằng Oswald không phải là thủ phạm. Adams khẳng định ông có bằng chứng để chứng minh tuyên bố của mình. Theo Fox News, Adams lưu giữ hàng ngàn báo cáo và hồ sơ của Cơ quan Lưu trữ quốc gia. Tên ông xuất hiện trong nhiều văn bản, nhưng ông cho biết còn nhiều báo cáo khác đã bị chỉnh sửa hoặc thất lạc. Cựu binh lục quân Adams gia nhập FBI sau khi phục vụ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ông được huấn luyện ở Washington DC và Quantico, bang Virginia rồi được điều đến văn phòng của FBI ở Thomasville, bang Georgia. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của Adams là điều tra một phần tử cực hữu có liên hệ với tổ chức phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan (KKK) tên là Joseph Adams Milteer. Kẻ này là đối tượng mà Adams cho là “một trong những tên bạo lực nhất nước”. Trong quá trình theo dõi, Adams phát hiện Milteer đứng trong đoàn người ở Dallas ngay thời điểm Tổng thống Kenndy bị bắn. Sau đó, đặc vụ này tiếp tục theo dõi nghi phạm nhưng cuộc điều tra bất ngờ bị bãi bỏ. Vài năm sau, trong khi tìm kiếm tài liệu lưu trữ, Adams biết được Milteer đã dọa giết Tổng thống Kennedy vào ngày 9.11.1963, chỉ vài tuần trước vụ ám sát và rằng các nhân viên FBI đã nói dối về hành tung của Milteer sau khi biết về lời đe dọa của y. Ông Adams có một đoạn băng trong đó Milteer xác nhận với một tay trong của FBI rằng kế hoạch giết tổng thống bằng súng trường từ một cao ốc văn phòng “đang được chuẩn bị”. Ông cũng lưu một hồ sơ trong đó Milteer khẳng định sau vụ ám sát rằng y không hề nói đùa. Adams đặt nghi vấn tại sao Milteer có thể tự do đến Dallas và còn xuất hiện trong tấm ảnh gần xe Limousine của Tổng thống Kennedy trước khi ông bị bắn chết và tại sao nó không được đề cập trong báo cáo của Ủy ban Warren. Adams khẳng định có tới 11 phát đạn được bắn ra chứ không phải 3 phát như báo cáo điều tra. Khi ông báo chuyện này với cấp trên, ông nhận được cảnh báo: “Hãy cẩn thận với những gì mình nói”. Ngoài ra, Adams cho hay nhiều nhân chứng nói họ thấy Oswald đang ngồi ăn khi vụ ám sát xảy ra. Khi Adams đề cập vấn đề này, ông một lần nữa bị “bịt miệng”. Hiện, người đàn ông 80 tuổi đang tiến hành đưa tất cả hồ sơ và tài liệu có được vào một cuốn sách và sẽ sản xuất một bộ phim tài liệu để nói lên sự thật về vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Mục đích của ông là muốn Chính phủ Mỹ thành lập một ủy ban khác để điều tra lại cái chết của vị tổng thống thứ 35. (Theo TNO) Edward Moore Kennedy, Thượng nghị sĩ (TNS) đảng Dân chủ, bang Massachusetts - một trong 4 anh em dòng họ Kennedy nổi tiếng - đã qua đời ở tuổi 77 vì bệnh ung thư não. Edward Kennedy được mệnh danh là Teddy, là người đàn ông nếm đủ cả mùi vị "thành công" và "cay đắng" của cuộc đời.Edward Kennedy là người duy nhất trong 4 anh em Kennedy được hưởng cái chết "già". Các anh em nhà Kennedy đều là những người có ảnh hưởng lớn đến nền chính trị Hoa Kỳ trong thập niên 60. Joseph Kennedy, người anh cả, là một phi công, đã tử nạn máy bay trong Đệ nhị Thế chiến, lúc chỉ mới 29 tuổi. 2 người anh khác, cố TT John F. Kennedy bị ám sát năm 1963 và TNS Robert F. Kennedy bị bắn chết trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1968. Với dáng dấp rất dễ nhận ra: Mái tóc bạc trắng, gương mặt to, hồng hào và giọng nói sang sảng, mang đậm chất Ailen, Edward Kennedy trở thành trung tâm khơi mào lên hầu hết những vấn đề nổi cộm của quốc gia trong nhiều thập niên: Từ cải cách hệ thống y tế, giáo dục, quyền con người đến việc phản đối chính quyền Bush đóng quân tại Iraq. John McCain, TNS đảng Cộng hòa, gọi Edward Kennedy là người làm việc hiệu quả nhất trong Thượng viện. John McCain bảo: "Nếu ai đó muốn có kết quả tốt cho một công việc nào đó, hãy tìm đến Teddy". Chính John McCain phong cho TNS Edward Kennedy là "sư vương" của Thượng viện. Năm 2006, tạp chí Time đã bầu chọn ông là một trong mười TNS tốt nhất nước Mỹ. Một cuộc thăm dò năm 2009 của tạp chí The Hill cho thấy, các TNS của Đảng Cộng hòa đều đồng ý rằng Kennedy là người dễ làm việc nhất trong số các TNS đảng Dân chủ. Ngay trong nội bộ đảng Dân chủ, Edward Kennedy cũng được mệnh danh là "người chủ trương cải cách". 46 năm phục vụ ở Thượng viện, TNS Edward Kennedy đã để lại dấu ấn trong các cuộc cải cách lớn trong chính phủ như cuộc vận động cải cách giáo dục cùng với TT George W Bush, hay cùng với TNS đảng Cộng hòa, John McCain thực hiện cải cách luật di trú. TNS Edward Kennedy đóng vai trò lớn trong các cuộc cải cách của chính phủ Mỹ. (ảnh: NYTimes) Khi nhắc đến vấn đề cải cách hệ thống y tế Hoa Kỳ, cũng không thể không nhắc đến tên ông. Ông Kennedy không giấu diếm: "Đó chính là động lực của cuộc đời tôi". Nhiều người cho rằng việc cuộc vật lộn với căn bệnh ung thư xương của Edward Kennedy, Jr., con trai trưởng của ông vào năm 1973 là căn nguyên của sự tận tụy không biết mệt mỏi này. "Tôi đã được chữa bệnh bằng những thứ thuốc tốt nhất, nhưng tôi cũng chứng kiến sự thất vọng của những bệnh nhân và bác sĩ khi họ đối mặt với những lỗ hổng trong hệ thống y tế làm ảnh hưởng đến hàng triệu người Mỹ", TNS Edward Kennedy viết trên tạp chí Boston Globe vào tháng 5/2009. TT Mỹ Barack Obama tuyên bố: "Edward Kennedy là người dấy lên nguồn cảm hứng của anh em dòng họ Kennedy, để trở thành một TNS vĩ đại nhất của nước Mỹ". Edward Kennedy chính là người đề cử ông Obama, đại diện đảng Dân chủ, ra tranh cử tổng thống vào tháng 2/2008. Bi kịch của dòng họ Kennedy Sau cái chết của TNS Robert Kennedy vào năm 1968, dân Mỹ đặt kỳ vọng vào người em út, người con trai cuối cùng của dòng họ Kennedy, sẽ bước vào Nhà Trắng. Trớ trêu thay, vào đêm 18/7 năm 1969, Edward Kennedy tham dự buổi tiệc tại đảo Chapaquidthingy với một số nhân viên đã từng cộng tác trong chiến dịch tranh cử tổng thống của anh trai Robert Kennedy. Tàn tiệc, cô gái 28 tuổi, Mary Jo Kopechne đã xin "quá giang" xe của ông. Lúc đi ngang qua cầu d**e, ông đã lạc tay lái, đâm vào hàng rào và lao xuống sông. Ông may mắn thoát nạn, nhưng cô Mary đã chết ngay trong xe. Edward Kennedy hoảng sợ, rời bỏ hiện trường và quyết định không báo cảnh sát. Chiếc Oldsmobile Delmont 88 sản xuất năm 1967 của Edward Kennedy tại hiện trường vụ tai nạn "Chapaquidthingy". (ảnh: NYTimes)Ngày 25/7/1969, ông bị tuyên án 2 tháng tù treo. Tai nạn "Chapaquidthingy" đã hạ uy tín của ông vì giới truyền thông đua nhau thêu dệt những tình tiết ly kỳ về tai nạn này. Bi kịch cứ đeo đẳng những người trong dòng họ Kennedy. Chứng ung thư xương đã lấy đi một chân của người con trai trưởng của ông. Năm 1980, sau bao nhiêu thăng trầm trong cuộc đời chính trị, Edward Kennedy một lần nữa, được đề cử tranh cử tổng thống Mỹ cùng với đối thủ cùng đảng Dân chủ, Jimmy Carter. Tuy nhiên, báo chí vẫn chưa bỏ qua tai nạn "Chapaquidthingy" và tai hại hơn, trong bài phỏng vấn với đài CBS News, Edward Kennedy đã đánh mất ưu thế khi trả lời "ấm ớ" câu hỏi "Tại sao ông muốn trở thành TT Mỹ?". Sau đó, năm 1981, ông phải đối mặt với cuộc chia tay "bể dâu" với người vợ Joan Kennedy, mắc chứng nghiện rượu. Rồi 2 đứa cháu gái của Edward Kennedy chết trẻ - một người chết vì sử dụng ma túy quá liều, một chết trong 1 tai nạn máy bay. TNS Edward Kennedy từ bỏ con đường vào Nhà Trắng. Báo chí nước ngoài nhận xét về TNS Edward KennedyTrong ngoại giao, Edward Kennedy là một người bạn tốt, một đối thủ khó chiều chuộng; Trong cuộc đời, ông là người có niềm tin mãnh liệt, nhưng cũng chịu quá nhiều cay đắng và sầu muộn. Đó là tính cách của anh em dòng họ Kennedy. (Washington Post) TNS Edward Kennedy là một con thoi, là cầu nối của đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, được dân Mỹ kính trọng. (BBC World) Kennedy ra đi, TT Obama mất đi một người ủng hộ quan trọng trong chiến dịch cải cách y tế, đặc biệt, trong những tình huống cần sự thương thuyết với phe đối lập. Edward Kennedy, trở thành một biểu tượng của tính thực dụng nhưng hiệu quả của người Mỹ. (Washington Times) Edward Kennedy là nhân chứng cho sự nổi tiếng và bi kịch của dòng họ Kennedy. Ông chống chọi với "lời nguyền" của dòng họ và sắc sảo trong phụng vụ đất nước. (Politico)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 5, 2011 13:01:31 GMT 9
Roosevelt được chọn là tổng thống tốt nhất lịch sử MỹCác học giả Anh vừa tổ chức cuộc xếp hạng đầu tiên về 40 đời tổng thống Mỹ, trong đó vị trí số một thuộc về nhà lãnh đạo gắn liền với Thế chiến II Franklin D Roosevelt, còn cựu tổng thống Bush con nằm ở nhóm cuối bảng. Ảnh: BBC Top 3 (ảnh lớn): Roosevelt, Lincoln, Washington. Năm vị trí tiếp theo (ảnh nhỏ): Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Harry Truman và Ronald Reagan. Ảnh: BBC Những bình chọn và đánh giá về các đời tổng thống Mỹ được khởi đầu từ năm 1960 với cuốn sách Presidential Power của chuyên gia nghiên cứu chính trị Mỹ Richard Neustadt. Trong công trình này ông giải thích: "Tại nước Mỹ chúng tôi ưa thích được "xếp hạng' một tổng thống. Chúng tôi đánh giá ông là 'yếu' hay 'mạnh'". Nửa thế kỷ kể từ đó, việc đánh giá các tổng thống Mỹ một cách có hệ thống đã trở thành công việc quen thuộc của các học giả Mỹ. Cùng khoảng thời gian này, nghiên cứu về lịch sử và chính trị Mỹ cũng phát triển nhanh chóng trong các đại học tại Anh. Tuy nhiên, theo BBC đây là lần đầu tiên có một cuộc xếp hạng các đời tổng thống Mỹ do các học giả Anh thực hiện. Cuộc bình chọn xếp hạng mang tính học thuật này được Trung tâm Tổng thống Mỹ thuộc Học viện Hoa Kỳ học nằm trong hệ thống Đại học London tiến hành trước khi diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2010. Tổng cộng có 47 học giả Anh chuyên nghiên cứu về lịch sử và chính trị Mỹ tham gia thực hiện cuộc xếp hạng. Các học giả Anh được yêu cầu xếp hạng năng lực của tất cả các tổng thống Mỹ từ năm 1789 đến 2009 (ngoại trừ William Henry Harrison và James Garfield vì họ đã qua đời ngay sau khi nhậm chức không lâu) theo 5 tiêu chí: Xây dựng chương trình hành động, năng lực lãnh đạo trong nước, chính sách đối ngoại, sự trong sạch của chính quyền và ý nghĩa lịch sử về di dản của họ. Top 5 tổng thống Mỹ 1. Franklin Delano Roosevelt (1933-1945) 2. Abraham Lincoln (1861-1865) 3. George Washington (1789-1797) 4. Thomas Jefferson (1801-1809) 5. Theodore Roosevelt (1901-1909) Nhóm 5 tổng thống cuối bảng 36. Andrew Johnson (1865-1869) 37. John Tyler (1841-1845) 38. Warren Harding (1921-1923) 39. Franklin Pierce (1853-1857) 40. James Buchanan (1857-1861) Những học giả tham gia xếp hạng đã chấm điểm các đời tổng thống Mỹ theo từng tiêu chí với thang điểm từ 1 (không hiệu quả) đến 10 (rất hiệu quả). Kết quả sau đó được tính trên tổng số điểm mà mỗi tổng thống nhận được để đưa ra danh sách cuối cùng. Theo đó, Tổng thống Franklin D Roosevelt (1933-1945) được xếp vị trí số một chung cả danh sách. Ngoài ra ông còn dẫn đầu về 3 tiêu chí là xây dựng chương trình hành động, năng lực lãnh đạo trong nước và chính sách đối ngoại. Tổng thống có công giải phóng chế độ nô lệ Abraham Lincoln (1861-1865) giữ vị trí thứ hai, đồng thời dẫn đầu tiêu chí ý nghĩa lịch sử về di sản. Vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Mỹ George Washington (1789-1797) đứng thứ ba và dẫn đầu về tiêu chí sự trong sạch của chính quyền. Hầu hết các tổng thống Mỹ trong Top 15 đều thuộc thế hệ "người xưa", chỉ có một tổng thống trong nhóm cầm quyền từ 1977 đến 2009 là Ronald Reagan (1981-1989) có tên trong nhóm này với vị trí thứ 8. Trái lại, 5 tổng thống cầm quyền giai đoạn đầu của lịch sử nước Mỹ từ 1789 đến 1825 đều xếp ở vị trí cao như George Washington và Thomas Jefferson (trong Top 5) và John Adams, James Monroe và James Madison (trong Top 15). Đương kim Tổng thống Barack Obama không nằm trong danh sách xếp hạng của các học giả Ảnh, nhưng ước tính cho thấy ông có thể lọt vào Top 10 nếu được chấm. Ông được đánh giá cao chủ yếu vì tầm quan trọng mang tính biểu tượng của việc đây là tổng thống da màu đầu tiên tại Mỹ. Còn người tiền nhiệm của ông là George W Bush (2001-2009) đứng ở vị trí thứ 31, thuộc nhóm 10 tổng thống cuối danh sách, do những di sản tiêu cực về cuộc chiến Iraq và việc ông bị đánh giá là "hống hách". Vị trí những tổng thống Mỹ gần đây 8. Ronald Reagan (1981-1989) 18. Jimmy Carter (1977-1981) 19. Bill Clinton (1993-2001) 22. George H W Bush (1989-1993) 23. Richard Nixon (1969-1974) 24. Gerald Ford (1974-1977) 31. George W Bush (2001-2009) Các cuộc xếp hạng tổng thống của học giả Mỹ thường đặt Abraham Lincoln đứng vị trí số một vì thành tựu lịch sử của ông trong cuộc nội chiến, đặc biệt là việc chấm dứt chế độ nô lệ. Họ cũng thường xếp George Washington đứng ở vị trí thứ hai vì vai trò lịch sử của ông trong việc khai lập quyền lực của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, cuộc bình chọn của các học giả Anh đã cho thấy quan điểm khác đến từ xứ sở sương mù. Họ chọn Franklin D Roosevelt đứng vị trí số một vì đánh giá cao những thách thức lớn mà ông phải đối mặt khi làm tổng thống trong cả thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như sự tự tin và năng lực lãnh đạo của ông trong hai cuộc khủng hoảng lịch sử này. Ý nghĩa lịch sử của di sản chính trị mà ông để lại cho nước Mỹ cũng được đánh giá cao. Ngoài những cái tên trong Top 3, sự khác biệt trong đánh giá của các học giả Mỹ và Anh còn thể hiện qua cách xếp hạng một số tổng thống nổi tiếng khác. Những cuộc bình chọn gần đây tại Mỹ thường xếp John F Kennedy (1961-1963) ở vị trí thứ 6, nhưng ông chỉ đứng ở vị trí thứ 15 trong cuộc xếp hạng tại Anh. Các học giả xứ sương mù tỏ ra không hài lòng với Kennedy vì khoảng trống giữa khả năng hùng biện với những thành tựu cụ thể khi làm tổng thống của ông. Đình Nguyễn ****************
Reagan, Tung Hoành Từ Hollywood Tới Washington Đúng 1:09 giờ California chiều thứ bảy 5 tháng 6, 2004 vừa qua cựu tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã trút hơi thở cuối cùng sau 9 năm rưỡi trời đấu tranh với bệnh lẫn của người già (Alzheimer). Trước khi linh cữu được chuyển từ California lên thủ đô Washington ngày 9 tháng 6 để chuẩn bị cho lễ quốc táng ngày 11 tháng 6, tại đất nhà Cali đã có hàng trăm ngàn người đến tiễn ông về nơi vĩnh cửu. Một người phải đợi 8 tiếng mới được nghiêng mình trước linh cữu của ông đã chia sẻ cảm tưởng với giới truyền thông như sau: "Tổng thống Reagan đã tận tâm phục vụ đất nước 8 năm, thì tôi đợi 8 tiếng để tiễn ông ra đi cũng là hợp lý." Câu nói này tóm gọn niềm kính trọng, nỗi tiếc thương mà dân chúng Hoa Kỳ dành cho vị tổng thống được gọi là "có một không hai". Mà nếu xét về tuổi tác thì quả ông Reagan có một không hai. Ở Hoa Kỳ tuổi chính thức về hưu là 66 (tức 65 tuổi tây). Khi đắc cử tổng thống lần thứ nhất năm 1980 ông đã quá tuổi về hưu bốn năm, là một kỷ lục mới của Hoa Kỳ. Bốn năm sau, tức năm 1984, ông lại phá kỷ lục này của chính mình bằng cách thắng nhiệm kỳ hai. Rời chức tháng 1 năm 1989 ở tuổi 78, ta có thể tin cái kỷ lục "tổng thống già gân" của ông Reagan sẽ đứng vững mấy mươi năm trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, nếu không lâu hơn nữa. Trước khi nhảy vào chính trị ông Reagan là một tài tử điện ảnh, nhưng chính ông đã tự nhìn nhận mình chỉ là một tài tử hạng B "thỉnh thoảng đóng phim hạng A". Yếu tố nào đã khiến anh tài tử hạng B này trở thành thống đốc tiểu bang lớn nhất nước Mỹ là California hai nhiệm kỳ (từ 1967 đến 1974) và rồi ở tuổi đáng lẽ phải về hưu lại được bầu làm tổng thống toàn thể nước Mỹ cũng hai nhiệm kỳ (từ 1981 đến 1988)" Ta hãy xem thử lá số Tử Vi của ông Reagan xem có manh mối gì không. Lá số nhiều may mắn! Rất may cho giới nghiên cứu số mệnh, năm tháng ngày giờ sinh của ông Ronald Reagan rất minh bạch. Một tài liệu là tuần báo Time số ngày 4 tháng 2 năm 2002, trang 4, trong đó cô con gái của ông Reagan tiết lộ "cha tôi được sinh ra ở nhà lúc 4:16 giờ sáng ngày 6 tháng 2 năm 1911". Nhà đây là Tampico, tiểu bang Illinois, tây kinh tuyến 89 độ 47 phút. Vì giờ sinh cách giờ tiêu chuẩn GMT 6 tiếng, điều chỉnh lại là 4:15 giờ sáng (chỉ đổi 1 phút). Tính ra âm lịch địa phương là giờ Dần ngày 8 tháng giêng năm Tân Hợi. Mệnh ông Reagan cư Tý có Đồng Âm Đào Không có Hồng Việt Tả Xương Khúc hội họp; thân cư quan Cơ Lương ngộ phụ Triệt có Tả Hữu Xương Kình Đà hội họp; mặc dù không phải là hạ cách vẫn thật khó kết luận là đặc sắc nếu xem theo cách cũ. Nhưng thêm các sao tự Hóa vào thì tình hình tức khắc rõ rệt, vì ta sẽ thấy sao hóa trùng trùng xuất hiện ở hết cả 6 cường cung. Theo thứ tự: Mệnh tự Khoa tự Kỵ, phúc Lộc tự Lộc tự Quyền, quan tự Lộc, di tự Khoa, tài Kỵ tự Khoa, thê tự Khoa. Tài tình hơn nữa là hai Kỵ lại cùng cung với hóa Khoa nên bị hóa giải. Hóa Khoa có danh "đệ nhất giải thần" đại biểu may mắn, hóa Lộc là cơ hội trời cho; có bốn Khoa ba Lộc nên đặc điểm của lá số này là may mắn lạ thường. Giấc mộng tuổi thơ Theo các tài liệu chính thức thì cha mẹ ông Ronald Reagan là một cặp di dân người Ái Nhĩ Lan. Người cha, John Reagan, là một ông thợ đóng giày có tật chè chén say sưa làm vợ con khổ sở không ít. Thật ứng hợp với cung phụ mẫu, bởi cung này có Tham Riêu, thêm Bệnh Phù Không Kiếp. Theo khoa tâm lý học, các trẻ em bị người lớn hành hạ thường nhìn đời bằng đôi mắt bi quan và dễ phát triển tâm lý "hận đời đen bạc" khi trưởng thành. Thật may cho cậu Ronald, bà Nelle mẹ của cậu là một người sùng đạo, dịu dàng chịu đựng bao dung. Nhờ ảnh hưởng của bà mà cậu không căm hận cha mình. Bà Nelle lại trọng nghệ thuật, luôn luôn khuyến khích con tham gia các bộ môn văn nghệ trình diễn, nên nhờ bà mà cậu Ronald đã có dịp diễn xuất từ khi còn nhỏ. Càng may cho cậu, lần diễn xuất đầu tiên cậu được khán giả nồng nhiệt hoan hô. Ấn tượng tốt đẹp này khiến cậu có ý theo đuổi con đường nghệ thuật trình diễn, và trở thành cái nhân đưa cậu đến Hollywood sau này. Thái Âm vốn biểu tượng mẹ. Thái Âm đắc địa thêm Xương Khúc Lưu Niên Văn Tinh cư mệnh nên cậu Ronald chịu ảnh hưởng nhiều của mẹ là hợp lý. Bàn rộng thêm nữa thì đời cậu Ronald dễ bị chi phối mạnh mẽ bởi những phụ nữ có tâm lý hoặc khả năng bảo bọc. Có lẽ vì thế mà ngoài việc phát triển tính "yêu đời yêu người" nhờ ảnh hưởng của mẹ, mỗi khi ở nhà có chuyện không vui cậu lại tìm sự bình an bằng cách chạy sang nhà "cô Emma", một người đàn bà hàng xóm lớn tuổi không con rất quý mến cậu. Nơi đây, như cậu kể lại sau này, "trong khủng cảnh bình lặng, giữa những hình tượng cổ quái và những kệ sách thoảng một mùi hương kỳ lạ" cậu say sưa đọc các tiểu thuyết thám hiểm không gian của tác giả Edgar Rice Burrough và mơ là vị anh hùng cứu loài người khỏi họa diệt vong. Chắc chính cậu cũng chẳng thể ngờ sau này cậu sẽ thành tổng thống Hoa Kỳ, rồi ký thỏa ước giảm vũ khí nguyên tử và tăng xác xuất sống còn của nhân loại. Tây tiến về California Tuổi thanh niên của cậu Ronald tương đối suông sẻ. Nhờ chơi thể thao cậu được học bổng nửa học phí, nửa còn lại và tiền ăn ở cậu hoàn toàn tự túc bằng cách tìm việc làm ngoài giờ học. Ra trường năm 1932 là lúc mà cuộc khủng hoảng kinh tế đang phủ trùm toàn thể nước Mỹ, với hai mảnh bằng về kinh tế học và xã hôäi học rất khó kiếm việc cậu lại được việc làm ít giờ mà trả khá tiền là tường thuật thể thao cuối tuần cho WOC, một đài radio địa phương ở Davenport, Iowa. Hai năm sau, tức 1934, cậu tiến lên một bước là chuyển về đài WHO thuộc hệ thống NBC ở De Moines. Thời ấy chưa có trực tiếp truyền thanh nên cậu phụ trách tái tạo lại các trận đấu dã cầu (baseball) và banh cà na (football) từ các tin tức nhận được qua điện tín và phát thanh ngay cho giới hâm mộ thể thao. Nhìn lại lá số, thời gian này nằm trong đại hạn 15-24 tuổi, nhằm cung Hợi có Thiên Phủ là tài tinh, lại đắc vị trí Thái Tuế nên dễ thành tựu. Chỉ có điểm đáng tiếc là cung thê của đại hạn có Liêm Phá gặp Hình Riêu Không Kiếp và đủ cặp Quan Phúc, tình cảm khó được toại lòng. Truyện kể rằng cậu Ronald có mối tình đầu từ thời trung học với cô bạn học Margaret Cleaver. Hai người thề non hẹn biển và cậu đã tặng cô một kỷ vật cộng với chiếc nhẫn đính hôn. Hai vật này đột ngột bị gửi trả lại cậu bằng đường bưu điện khi cô Margaret quyết định bỏ cậu để lấy một nhân viên ngoại vụ. Biến cố này để lại cho cậu một vết thương lòng đau xót; nhưng lại khiến cậu có thêm lý do tìm tương lai ở một phương trời xa lạ. Phương trời ấy là đất hứa California. Năm 1937, cậu Ronald thuyết phục được cấp trên trong đài radio cho cậu về California săn tin các cuộc tập luyện mùa xuân của đội dã cầu Chicago Cubs. Khi đến Cali, một người bạn cũ giới thiệu cậu đến "thử vai" ở Hollywood. Vừa thấy cậu người phụ trách tìm tài tử mừng quá nhận ngay. Thế là chỉ trong nháy mắt cậu đổi từ phóng viên tường thuật thể thao thành tài tử Hollywood. Sở dĩ thuận lợi như thế vì đại hạn 25-34 (ứng với các năm 1935-44) có Kình Dương nhập miếu độc thủ, thêm Tả Hữu tự Khoa Hồng Hỉ Khôi Việt và ba Lộc một Quyền một Khoa hội họp. Kình Dương là "hung tinh đắc địa phát dã như lôi" nên tiếp theo đó là một chuỗi diễn biến thuận lợi: Lấy nữ tài tử đẹp và nổi tiếng Jane Wyman năm 1940, sinh con gái đầu lòng Maureen năm 1941, đạt cao điểm diễn xuất với phim King's Row năm 1942. Chuyển mình thoát xác Nhưng rồi Nhật ném bom Trân Châu Cảng, Mỹ nhảy vào thế chiến thứ hai, và tài tử Reagan phải đăng ký đi lính. Khi ông được giải ngũ năm 1945, lá số đã chuyển sang đại hạn 35-44 (tức thời gian 1945-54). Hãng phim cho ông lương khá cao so với thời tiền chiến có lẽ vì hạn có Lộc Tồn, nhưng phải chăng vì Liêm Phá hãm cư Dậu thêm Hình Riêu Không Kiếp mà những phim thời hậu chiến của ông đều thất bại trên mặt nghệ thuật. Điểm oái oăm là cùng lúc vợ ông bà Jane Wyman lại thành công hơn trước. Có lẽ vì sự khác biệt này mà hai người ly dị nhau năm 1949, cũng chính là năm bà Wyman được trao giải Oscar. Hạn kế tiếp 45-54 (ứng với thời gian 1955-64) có Đà hãm địa độc thủ ở Thân con đường diễn xuất vẫn tuột dốc không phanh. Năm 1964, trong phim "The Killers" ông Reagan thủ vai một đàn anh găng tơ. Vì đây là vai "ác" đầu tiên trong cuộc đời điện ảnh của ông, giới theo dõi điện ảnh cho rằng nó là một dấu hiệu, cho thấy ông sắp sửa bị Hollywood đào thải. Họ đoán đúng, nhưng chỉ phân nửa, vì phim "The Killers" đúng là một dấu hiệu, nhưng chẳng phải là dấu hiệu của sự đào thải, mà là dấu hiệu của một sự chuyển mình thoát xác. Vì cũng năm 1964 sẽ có một biến cố lớn. Biến cố ấy sẽ thay đổi cuộc đời của ông Reagan và ảnh hưởng vận mạng của cả thế giới sau này. (còn một kỳ)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 12, 2012 8:17:39 GMT 9
Tử Vi Và Thế Cuộc: Ronald Reagan Một Thuở Tung Hoành
Tác giả : Đằng Sơn (tiếp theo và hết) Hai mươi năm bộc phát Tháng 10 năm 1964, thấy ông Barry Goldwater (Cộng Hòa) tiếp tục thua xa tổng thống Lyndon Johnson (Dân Chủ) trong mọi cuộc thăm dò dân ý, đảng Cộng Hòa vội vàng phổ biến rộng rãi một chương trình quảng cáo, trong đó tài tử Ronald Reagan kêu gọi dân Mỹ chọn ông Goldwater. Nhờ bài diễn văn này mà đảng Cộng Hòa thu được 8 triệu Mỹ kim tiền ủng hộ tranh cử, là kỷ lục của thời ấy. Kết quả ông Goldwater vẫn thua to, nhưng ông Reagan đột ngột trở thành một tên tuổi được giới theo dõi chính trị của toàn quốc chú ý. Năm 1964 vẫn còn trong đại hạn Đà hãm địa độc thủ nên tiếng chưa thành miếng; nhưng chẳng phải đợi lâu vì năm 1965 đột nhiên một nhóm triệu phú tự tìm đến đề nghị ông Reagan ra tranh cử thống đốc California và hứa tận lực ủng hộ tài chánh giúp ông thắng cử. Cơ hội ngàn năm một thuở này dễ gì có được, vậy mà ông Reagan lại từ chối, bảo rằng nghề của ông là tài tử, và ông không có ý đổi nghề. Đám triệu phú phải khổ công thuyết phục, cuối cùng ông mới chịu. Chuyện đám triệu phú phải ra công nài nỉ ông Reagan mới chịu tranh cử thống đốc California đã khó tin, nhưng chưa khó tin bằng chuyện ông thắng cử; vì ông chẳng có kinh nghiệm chính trị gì cả. Trước tiên ông phải hạ một đối thủ dạn dày kinh nghiệm là cựu tỉnh trưởng San Francisco George Christopher trong cuộc bầu cử nội bộ của đảng Cộng Hòa. Giả như thắng -và rất khó thắng- ông sẽ phải đụng độ thống đốc hai nhiệm kỳ Pat Brown, một đối thủ nặng ký với thành tích là đã oanh liệt hạ ông tổng thống tương lai Nixon trong cuộc bầu cử năm 1962. Rút ngắn câu chuyện, ông Reagan hạ ông Christopher, rồi hạ ông Brown dễ dàng như lấy đồ trong túi! Khỏi cần nói, chiến thắng quá dễ dàng này khiến mọi người cùng sửng sốt, kể cả những người đã đặt hết niềm tin nơi ông. Ông Reagan nhậm chức thống đốc năm 1967 nhằm lúc phong trào hippy lũng loạn đại học Berkeley. Những sinh viên cực đoan liên miên bãi khóa đòi hỏi đủ chuyện. Xui thay cho họ năm này tiểu hạn của ông vào cung Dậu có Liêm Phá Hình Không Kiếp. Chẳng ngần ngại dùng biện pháp mạnh, ông hạ lệnh cho vệ binh quốc gia đến nơi dùng võ lực vãn hồi trật tự, bất chấp lời cảnh cáo rằng như vậy có thể gây ra cảnh đổ máu. Nhờ quyết định cứng rắn này, vấn đề Berkeley được giải quyết, uy tín của ông Reagan càng tăng cao và ông thắng nhiệm kỳ 2 năm 1970 một cách dễ dàng. Năm 1974 nhờ một chuỗi diễn biến không tiền khoáng hậu, ông Gerald Ford trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Lúc ấy đang làm thống đốc năm cuối cùng nhiệm kỳ 2 ở California, ông Reagan hai lần được mời làm tổng trưởng đều từ chối. Lý do dễ hiểu, vì bấy giờ ông đã tính chuyện tranh chức tổng thống! Năm 1976 ông thua đương kim tổng thống Ford đau đớn khi tranh chức đại diện đảng để ra đối đầu với Jimmy Carter. Nhưng sau bước vấp ngã này ông sẽ hạ ông Carter một cách dễ dàng năm 1980 và ông Mondale dễ dàng hơn nữa năm 1984 để trở thành một trong những vị tổng thống được dân chúng yêu thương nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Thảm hại nhất là ông Mondale, các cơ quan truyền thông địa phương phải kêu gọi cử tri "đừng để người con yêu của chúng ta hoàn toàn mất thể diện"; nhờ đó ông mới được dân chúng đất nhà là tiểu bang Minnesota ra sức dồn phiếu cho để thắng suýt soát. Dĩ nhiên 49 tiểu bang còn lại đều lọt vào tay ông Reagan. Quan vận đến nơi, phát như sấm sét Tính từ lúc đám triệu phú thuyết phục ông Reagan ra tranh cử thống đốc California năm 1965 đến lúc ông thắng tổng thống nhiệm kỳ 2 năm 1984, thời gian kéo dài đúng 20 năm. Lý do gì mà trong hai mươi năm này ông bộc phát dữ dội như thế" Để trả lời chúng ta thử nhìn lại lá số của ông. Có thể gượng nói rằng hạn 1965-74 tốt đẹp vì vào vị Bạch Hổ đúng vòng Thái Tuế, lại đắc Thanh Long thành cách "Long Hổ tương phùng"; nhưng lập luận này lung lay vì hạn 1975-84 vào vị Long Đức của vòng Thái Tuế chỉ tốt cho việc tu tâm dưỡng tính mà bất lợi cho việc đấu tranh, tại sao vẫn phát" Có thể thấy rằng việc luận đại hạn chẳng thể nào chỉ dựa vào vòng Thái Tuế. Vậy đáp án ở đâu" Xin thưa, đây là một trường hợp hiếm hoi mà lý ngũ hành chiếm vị trí trung tâm trong bài toán tử vi. Ông Reagan bản mệnh kim, có cách cục nguyên thủy tốt đẹp, nên khi đại vận chuyển đến phương Nam, tức các cung Tỵ Ngọ Mùi, là đắc cách "vượng kim nhập hỏa hương", và vì hỏa là hành quan của mệnh kim nên công danh sự nghiệp đột phát. Hạn 1965-74 hết sức đặc biệt vì có Hỏa Tinh độc thủ ở Mùi. Hỏa Tinh dĩ nhiên thuộc Hỏa nên hoàn toàn ứng hợp với quan vận, chính là "hung tinh đắc thế phát dã như lôi", cung Mùi lại được cách "Phủ Tướng triều viên" là có quý nhân phù trợ, thành ra chẳng cần mưu sự mà vẫn được người bày cỗ cho ăn, thành đạt to tát hơn xa bao kẻ tài ba, thức đêm toan tính. Hạn 1975-84 được Ngọ là chính phương của hỏa, được cặp trung thiên đế tinh Âm Dương hội họp nên dễ mưu chuyện lớn, nhưng nòng cốt hỏa gồm các sao Song Hao Khôi Việt không phải là hung tinh nên phát triển không đột ngột như hạn trước, và có bước vấp ngã là thua ông Ford năm 1976 khi đại tiểu hạn trùng phùng như đã nói trên. Bù lại, cung quan của đại hạn này ở Tuất được đủ cặp Tả Hữu, cả hai lại cùng tự hóa Khoa, đúng là cách làm ít hưởng nhiều nhờ công lao hãn mã của những người phù tá. Triệt phùng Quan Phúc, xấu tốt chất chồng Đại hạn 75-84 tuổi ứng với thời gian 1985-94 vào Tỵ vẫn là phương nam thuộc hỏa, có Tử Sát Binh Hình Tướng Ấn là thượng cách cho kẻ nắm quyền uy. Nhưng đế tinh Tử Vi vốn rất kỵ Triệt; cung gặp chính Triệt lại thêm Quan Phúc ở vị Tuế Phá xung vòng Thái Tuế thì rất khó vẹn toàn; bởi vậy hạn này chứa đủ hai mặt cực đoan tốt xấu. Mặt tốt là thành công rực rỡ trong việc hóa giải cuộc "chiến tranh lạnh" với khối Sô Viết. Họp thượng đỉnh lần đầu với tổng bí thư Liên Sô Gorbachev năm 1985, ký hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạch nhân tầm trung năm 1987, giảm mối nguy diệt chủng cho toàn thể nhân loại. Năm 1987, trong một cuộc họp thượng đỉnh với Gorbachev, khi đến cổng Brandenburg ở bức tường ô nhục Bá Linh ông Reagan dõng dạc bảo đối phương: "Ông Gorbachev, hãy mở cái cổng này ra, hãy phá bức tường này xuống!" Câu nói đầy thách thức này bị nhiều chuyên gia chính trị lúc ấy chê trách là "phản ngoại giao". Nhưng như chúng ta đều biết, chỉ hai năm sau bức tường Bá Linh bị phá tan trong khi trận cuồng phong dân chủ 1989 xô ngã các chính phủ cộng sản Đông Âu như các con bài domino. Cuộc đổi thay vĩ đại này khiến lời tuyên bố "phản ngoại giao" ngày xưa của ông Reagan trở thành lời tiên tri lưu danh hậu thế. Mặt xấu là vụ án "Iran contra" bùng nổ năm 1986. Người viết sẽ không đi vào chi tiết, chỉ ghi nhận rằng có lúc các chuyên gia chính trị tưởng vụ này sẽ làm ông Reagan bay chức tổng thống. Mãi đến năm 1988 là năm cuối cùng đương nhiệm tổng thống, nhờ đề đốc Poindexter đứng ra nhận hoàn toàn trách nhiệm, ông Reagan mới thoát. The Great Communicator! Điểm lạ lùng là mặc dầu bị vết nhơ "Iran contra" ám ảnh 3 năm sau cùng, khi ông Reagan từ giã tòa bạch ốc, nhường quyền lại cho tân tổng thống George Bush Sr. để trở lại đời sống dân sự đầu năm 1989, niềm tin yêu mà quần chúng dành cho ông chẳng hề giảm sút. Người ta bảo sở dĩ thế là vì ông là "the Great Communicator" có biệt tài đánh động trái tim quần chúng khiến người ta không thể nào không thương ông được. Vì yêu thương ông nên người ta "chín bỏ làm mười", chỉ để ý đến ưu điểm và chẳng buồn chê trách khuyết điểm của ông. Cứ xem chuyện gia đình của ông là đủ rõ. Ông xiển dương "giá trị gia đình", nhưng chính ông là vị tổng thống đầu tiên -và đến khi bài này được viết vẫn là vị tổng thống duy nhất- của Hoa Kỳ đã ly dị vợ. Con cái cũng chẳng thân thiết gì với ông, và hay than phiền rằng ông chẳng có thời giờ cho họ. Nhưng nếu theo dõi các phương tiện truyền thông, ta chỉ nghe nói đến mối tình lãng mạn thi vị như tiểu thuyết giữa ông và bà vợ thứ hai, thấy những tấm hình đầy tình yêu thương mà ông chụp chung với con cái ở một thời xưa cũ. Lý thú làm sao, ngay cả cái số "nói hay trời thưởng" này cũng có thể thấy qua lá số của ông. Sao Khoa quá nhiều bảo sao chẳng được đời ưu đãi, hai Kỵ bị Khoa trấn ngay hông thì muốn ghét cũng chẳng được, lục cát Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt tam minh Đào Hồng Hỉ đều tụ ở sáu cường cung, thiên di lại thêm Cự Lộc Quyền Quang Quý hội, Khốc Hư giáp; thảo nào mỗi lời nói ra đều được người chờ đón hoan hô. Giả như ngược lại bị Hình Riêu Không Kiếp đóng ở cường cung thì cũng những lời nói ấy e sẽ bị người nghe lấy sợi tóc chẻ làm tư tìm phương phỉ báng. Thế mới biết dẫu có tài là quý, nhưng "hay không bằng hên" nên có tài vẫn phải thêm số tốt nữa mới được. Lưu danh hậu thế Đại hạn cuối cùng 85-94 tuổi (ứng với thời gian 1995-2004) vào cung Thìn, tức quan lộc nguyên thủy, có Cơ Lương Đế Vượng Tả Hữu Thai Cáo Xương một Lộc bốn Khoa hai Kỵ và đủ bộ tam minh Đào Hồng Hỉ hội họp. Với người tuổi trẻ chính là hạn vẫy vùng đắc chí, nhưng ở tuổi gần đất xa trời thì chính cung Đế Vượng Hồng Loan, hội Đào Hỉ thật khó mà qua khỏi. Nhưng tại sao ông Reagan lây lất "sống như đã chết", đến năm cuối cùng của đại hạn mới ra đi" Phải chăng vì cung Thìn là nhuận thổ (đất ướt) có thể sinh bản mệnh kim nên ông không chết ngay được" Cũng hợp lý, nhưng người viết không cho rằng đó là nguyên nhân chính. Một đặc điểm trong đời chính trị của ông Reagan là ông luôn luôn ở đúng chỗ đúng lúc nên được hưởng hết mọi ánh hào quang rực rỡ. Cứ nhìn lại các thành tích của ông thì rõ. Thái độ cương quyết của ông đối với Liên Sô dĩ nhiên là can đảm, nhưng ông nắm quyền đúng lúc anh khổng lồ Sô Viết với đôi chân bằng đất sét sắp ngã sụm nên được coi là tác nhân chính trong việc làm sụp đổ Sô Viết và khối cộng Đông Âu. Cái nhìn lạc quan của ông về tương lai nước Mỹ dĩ nhiên là hợp thời; nhưng vì tổng thống Carter trước ông đã sai lầm đẩy nước Mỹ đầy sức sống xuống tận cùng vực thẳm của bi quan nên ông được coi là tác nhân kéo nước Mỹ lên trở lại vị trí hùng cường. Khi ông Reagan trút hơi thở sau cùng, ở Âu Châu là đêm khuya 5 tháng 6, 2004; đúng ngay lúc nhiều lãnh tụ thế giới tụ tập ở Pháp để chuẩn bị lễ kỷ niệm 60 năm ngày quân đội đồng minh đổ bộ ở bãi biển Normandie giải phóng nước Pháp (6 tháng 6, 1944). Sự trùng hợp khít khao này khiến người ta không muốn cũng phải nhớ lại bài diễn văn bất hủ khiến bao người rơi lệ mà ông đã đọc ở Normandie 20 năm trước khi ông còn là tổng thống Mỹ. Thì ra ngay khi chết, trời vẫn cho ông Reagan cái may mắn là người đúng lúc. Nhờ vậy, sự ra đi của ông thay vì chỉ là một biến cố ở Hoa Kỳ đã nghiễm nhiên hóa thành một biến cố của toàn thế giới. Suốt tuần lễ sau khi ông Reagan chết nước Mỹ như lắng đọng, cờ treo nửa cột. Thứ sáu 11 tháng 6 tức ngày chôn cất ông được tuyên bố là ngày "toàn quốc khóc thương", các cơ quan chính phủ và thị trường hôái đoái đóng cửa. Hôm ấy, sau lễ quốc táng ở Washington với đầy đủ các nhân vật trọng yếu của toàn thế giới, chiếc quan tài chứa di thể ông Reagan được bay trở lại California, và rồi y như đoạn kết bi hùng của một cuốn phim Hollywood, người ta hạ ông xuống lòng đất lạnh ngay lúc mặt trời chìm xuống phương tây. Những tia nắng quái hoàng hôn như muốn nhắc lại một đoạn trong bức thư ông Reagan viết tháng 11, 1994 để loan báo mình bị bệnh Alzheimer: "Giờ đây tôi bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến buổi hoàng hôn của đời tôi, nhưng tôi biết rằng nước Mỹ luôn luôn có một bình minh rực sáng"* Cuối cùng cuộc hành trình của ông Reagan đã chấm dứt, và ông đã đến nơi. Nhưng nếu quả đúng là định mệnh đã an bài cho một người luôn luôn đúng thời đúng chỗ, có lẽ ông sẽ không biến mất trong bóng tối theo sau buổi hoàng hôn của cuộc đời 93 năm, mà sẽ sống mãi như một trong những biểu tượng quan trọng nhất của chính trị thế giới trong thế kỷ 20./ Ngày 18 tháng 6, 2004 Đằng Sơn * Nguyên văn lời dịch của học giả Nguyễn Ngọc Bích Phụ lục: Yếu tố Quan Phúc trong lá số của cố tổng thống Reagan Như đã nhấn mạnh nhiều lần trong loạt bài Tử Vi và thế cuộc, theo cách xem của người viết Quan Phúc ở đâu là thử thách đã an bài ở đó, tùy cái nhân gieo mà quả ngọt đắng khác nhau. Lá số nguyên thủy của ông Reagan có Quan ở tử tức, Phúc ở Nô. Hãy nói về Quan ở tử tức trước, vì có vài dữ kiện tương ứng với Quan Phúc ít được giới truyền thông phổ biến. Ông Reagan và người vợ đầu mất một cô con gái là Christine, ngoài ra hai người nhận một cậu con nuôi là Michael. Ngoại trừ cô con gái đầu lòng là Maureen (chết năm 2001), những người con khác đều than phiền là có một khoảng cách giữa họ và ông Reagan. Mãi đến khi ông bị bệnh Alzheimer rồi khoảng cách này mới được các người con tự nguyện thu ngắn lại rồi bỏ hẳn. Những sự kiện này ứng với Hình Quan Phúc ở Tử Tức. Điểm đáng chú ý là ông Reagan chưa từng lên tiếng trách lại con cái mình; thế là ông đã vô tình hoặc cố ý hành xử đúng một đòi hỏi của Quan Phúc. Phải chăng vì vậy mà khi ông bị bệnh nan y, trời cho ông sống lây lất kéo dài để con cái có thời giờ đổi thay quan điểm, cho tình cha con được trở thành sâu đậm trước khi ông từ giã cõi đời. Bấy nhiêu đã đủ cho tử tức, nay luận sang Nô Bộc. Năm 1976 đại tiểu hạn trùng phùng ở Ngọ, nên đại hạn nô bộc và tiểu hạn nô bộc cũng trùng phùng có Thiên Phúc xung chiếu. Ông Reagan thua tổng thống Ford đau đớn trong cuộc bầu cử nội bộ đảng Cộng Hòa. Theo nguồn tin thông thạo thời ấy thì một nhân vật có thế lực của đảng (tạm gọi là ông A.) hứa ủng hộ ông Reagan rồi lại xoay sang ủng hộ ông Ford, nên ông Reagan thay vì thắng suýt soát thành thua đau đớn. Chuyện kể rằng sau khi mọi sự đã ngã ngũ, ông A. tìm đến gõ cửa phòng khách sạn của ông bà Reagan, vừa khóc nức nở rằng "Thống đốc ơi. Tôi đã phạm lỗi lầm lớn nhất của đời tôi nên đến đây để nghe ông trách mắng". Bà Nancy, vợ ông Reagan, giận quá ngoảnh mặt đi không nói lời nào cả. Nhưng ông Reagan thì rất bình tĩnh. Ông ôn tồn vỗ về ông A. rồi nói nửa đùa nửa thật rằng: "Không sao cả. Miễn là lần sau anh chịu đoái công chuộc tội!" Khi nói những lời này ông Reagan đã 66 tuổi ta, làm gì có "lần sau"; nhưng nghe thế ông A biết là mình đã được ông Reagan tha tội phản bội. Ai ngờ lại có "lần sau" thật. Đoạn kết của câu chuyện kể rằng nhờ cảm cái khí lượng quân tử của ông Reagan mà ông A. là một trong những người đắc lực nhất của phe Reagan trong cuộc bầu cử 1980. Vì mọi phản ứng của giới lãnh đạo được đồn xa rất lẹ ở nước mà giới truyền thông quá tự do và đói tin như nước Mỹ, giả như ông Reagan không dằn nổi đau đớn nóng giận, hạ nhục ông A trong năm 1976 thì rất có thể nhiều người theo ông đã chém vè bỏ cuộc -như trường hợp ông Howard Dean đầu năm 2004- và nước Mỹ đã chẳng có hai nhiệm kỳ của tổng thống Reagan. Còn một sự kiện đáng chú ý nữa là năm 1981 ông Reagan bị gã khùng John Hinckley mưu sát một cách lãng xẹt (để làm nổi với nữ tài tử Jodie Foster mà hắn chưa từng gặp bao giờ). Nhìn lại tiểu hạn năm này thiên di có Thiên Phúc trấn giữ cùng Tuế Phá Tử Sát Tướng Ấn Mã ngộ chính Triệt, hội họp có Quan Hình Riêu Không Kiếp. Tật ách thì đại hạn có Vũ Tham Hình Riêu Không Kiếp, tiểu hạn vô chính diệu có Song Hao Khôi Việt Kình Linh; thật không hiền lành một chút nào. Nếu ông Reagan trúng đạn tử nạn chẳng thể nói là không đúng số. Thực tế là ông trúng đạn, nhưng may mắn làm sao viên đạn cách tim vài centimét, nên ông thoát chết một cách ly kỳ. Sự bình tĩnh hiếm có của ông sau khi thọ nạn đã thành giai thoại của làng báo. Sau khi tỉnh dậy trong phòng cấp cứu, chuẩn bị mổ ông còn tỉnh bơ giỡn đùa với các bác sĩ "Tôi hy vọng quý vị đều là người của đảng Cộng Hòa". Sau khi hồi phục, một lần nữa tỏ khí độ quân tử ông ngỏ ý muốn gặp mặt kẻ đã bắn ông, hy vọng cuộc gặp gỡ này giúp hắn giảm bệnh tâm lý. Vì các chuyên gia tâm lý sợ cuộc gặp gỡ này gây áp phê ngược khiến Hinckley khùng thêm, ông mới đành bỏ ý định. Tóm lược lại; ông Reagan thua đau đớn năm 1976, thắng dễ dàng năm 1980, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc trong cuộc mưu sát năm 1981, rồi thắng dễ dàng lần nữa năm 1984. Vì tất cả những dữ kiện này đều ở trong đại hạn 1975-84 có Phúc xung chiếu nô bộc, và hai lần bị thử thách ông đều dung thứ cho kẻ đã gây hại cho mình, ta có thêm bằng cớ để tin rằng Quan Phúc quả là hai dấu hiệu đánh dấu hai phương mà trời muốn thử thách con người.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 25, 2012 0:54:03 GMT 9
TT Obama: Ông Là Ai?07/24/2012 Tác giả : Vũ Linh ...Ông khẳng định là Tin lành, nhưng gần một nửa dân Mỹ vẫn cho rằng ông là Hồi giáo... Năm 2004, ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ, Al Gore, ra tranh cử với chiến lược huy động khối thiểu số da màu, lao động, di dân, người nghèo. Một chiến lược mà người Mỹ gọi là “populist”, mang nặng mùi mỵ dân. Ông tìm được một chính khách da đen trẻ, có nhiều tương lai, để đọc bài diễn văn chính trong đại hội đảng Dân Chủ. Đó là nghị sĩ tiểu bang Illinois, Barack Obama, một chính khách cả thế giới chưa bao giờ nghe tên, ngoại trừ một khu vực dân da màu phiá nam Chicago. Nghị sĩ Obama đọc một bài diễn văn có thể nói là “tạo thời thế”. Cả trăm triệu dân Mỹ bị hút hồn bởi bài diễn văn thật ý nghiã, đáp ứng những ước vọng sâu xa nhất của dân Mỹ. Ông tuyên bố đại ý “không có một Hoa Kỳ bảo thủ hay một Hoa Kỳ cấp tiến, không có một Hoa Kỳ đỏ (Cộng Hòa) hay một Hoa Kỳ xanh (Dân Chủ), mà chỉ có một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ”. Không ai để ý đến tính mâu thuẫn: một bài diễn văn kêu gọi đoàn kết toàn dân trong đại hội đảng tổ chức để tấn phong ứng viên chống một đảng khác, giữa một rừng diễn văn sỉ vả đảng đối nghịch. Quan trọng hơn cả là cách đọc diễn văn cực hùng hồn của ông. Người ta nói ông Obama đã nghiên cứu và học cách đọc từ các mục sư da đen nổi tiếng hùng biện như Martin Luther King và Jesse Jackson, rồi sau này Jeremiah Wright. Lúc trầm lúc bổng, khi nhanh khi chậm, lập đi lập lại những câu chủ chốt, dùng những danh từ và hình ảnh dao to búa lớn nhiều khi chẳng ai hiểu là gì, … Từ một chính khách hoàn toàn vô danh, tên tuổi Barack Obama nổi lên như cồn. Trở thành ngôi sao sáng nhất đảng Dân Chủ. Được mời đi đọc diễn văn trên khắp nước. Năm 2006, lợi dụng cơ hội ngàn vàng, nghị sĩ Obama quyết định ra tranh cử thượng nghị sĩ liên bang. Ông dễ dàng đắc cử cuộc bầu sơ bộ Dân Chủ, rồi hạ luôn ứng viên Cộng Hoà trong một địa bàn mà cử tri da đen chiếm hơn hai phần ba dân số, trở thành một trong hai thượng nghị sĩ liên bang đại diện cho tiểu bang Illinois. Ngồi chưa nóng ghế, thượng nghị sĩ Obama đã nhẩy ra tranh cử tổng thống chưa đầy hai năm sau. Đối thủ của ông trong nội bộ đảng đều là các chính khách nặng ký: TNS John Edwards (cựu ứng viên phó của John Kerry năm 2004 chống Bush), TNS Joe Biden (bây giờ là phó tổng thống), một lô nhân vật kỳ cựu nữa, và nhất là cựu đệ nhất phu nhân, Hillary Clinton. Không ai nghĩ ông Obama có một mảy mai hy vọng nào. Chỉ là một loại ngựa non háo thắng hay ếch ngồi đáy giếng, không biết trời cao đất rộng. Nhưng con ếch đó đã chứng minh tất cả mọi người đều sai lầm hết. TNS Obama trở thành tổng thống thứ 44 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Leo lên ngôi vị tột đỉnh với vỏn vẹn hai năm trên sân khấu chính trị. Hoàn toàn nhờ tài đọc diễn văn, không hơn không kém. Chỉ vạch rõ yếu điểm lớn nhất của thể chế dân chủ Mỹ: bầu người lãnh đạo dựa trên khả năng mồm mép trong khi chẳng ai biết người đó là ai, dù đất nước đang trực diện khủng hoảng kinh tế lớn nhất thế kỷ. Tốc độ leo thang của TT Obama nhanh đến mức chẳng ai kịp nhìn ra quá khứ của ông, để rồi chẳng ai biết rõ ông là ai. Người ta chỉ say sưa với chủ trương “ba phải” đại đoàn kết mà chẳng hiểu ông có quan điểm chính trị như thế nào, có khả năng gì, và sẽ làm gì để thực hiện đại đoàn kết và thay đổi Hoa Thịnh Đốn. Năm 2008, chẳng ai biết Barack Obama là ai, nhưng lạ lùng thay, đến 2012, sau khi đã làm tổng thống ba năm rưỡi, ông vẫn là câu hỏi vĩ đại. Trên giấy tờ, ông sanh tại Hạ Uy Di, nhưng gần một phần ba dân Mỹ vẫn cho rằng ông sanh tại Kenya. Ông là nửa trắng nửa đen, nhưng luôn luôn tự nhận, suy nghĩ và hành động, cũng như được coi như là da đen không có một chút trắng nào. Ông khẳng định là Tin lành, nhưng gần một nửa dân Mỹ vẫn cho rằng ông là Hồi giáo. Đối nội, ông chỉ trích TT Bush vô trách nhiệm vì mắc nợ quá mức, nhưng chính ông tăng công nợ gấp ba lần TT Bush. Ông đả kích bảo hiểm y tế toàn dân của bà Hillary là thiên tả trước khi ban hành bảo hiểm y tế toàn dân còn thiên tả hơn nữa. Ông đòi tăng thuế nhà giàu nhưng lại gia hạn luật giảm thuế của TT Bush. Ông tranh cử với khẩu hiệu đại đoàn kết toàn dân nhưng mau mắn trở thành tổng thống tạo phân hoá nhất lịch sử Mỹ. Ông bác bỏ những chỉ trích ông theo chủ nghiã xã hội nhưng lại dùng bạn bè và chuyên gia cực tả và cộng sản làm cố vấn hay phụ tá. Ông ủng hộ nhóm Occupy Wall Street trong khi nhận bạc triệu của tài phiệt Wall Sreet. Đối ngoại, ông chỉ trích TT Bush là cao bồi coi thường đồng minh nhưng cuối cùng quan hệ Mỹ với các đồng minh truyền thống như Anh, Pháp, Đức, Nhật, lạnh như băng đá Alaska. TT Obama chống chiến tranh Iraq, nhưng lại đôn quân vào Afghanistan. Ông tố giác TT Bush vi phạm công pháp quốc tế khi đánh Saddam Hussein, nhưng chính ông lại ra lệnh tham chiến tại Libya, giết TT Khadafi, mà không cần xin phép quốc hội nhân danh “nhân đạo”, nhưng nhắm mắt trước cảnh cả chục ngàn dân Syria bị thảm sát. Ông kêu gọi một chính sách hoà hoãn, tôn trọng khối Hồi giáo, nhưng tăng gấp mười những tấn công của máy bay không người lái giết khủng bố trên lãnh thổ các nước độc lập như Pakistan, Yemen, giết Bin Laden trên đất Pakistan rồi thông báo cho TT Pakistan sau khi CNN đã phổ biến tin cho cả thế giới. Quan hệ với đồng minh chiến lược Pakistan không khác nào quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Những mâu thuẫn này chỉ khiến thiên hạ ngày càng mù mờ về con người của TT Obama. Ông là Mỹ thật hay Kenya, Tin lành hay Hồi giáo, diều hâu hay bồ câu, ôn hòa hay cấp tiến, bạn dân nghèo hay bạn tài phiệt? Chưa ai có câu trả lời rõ rệt. Cuộc tranh cử năm nay đáng lẽ phải làm sáng tỏ vấn đề khi TT Obama có trách nhiệm báo cáo thành quả cho cử tri, nhưng thực tế, thiên hạ chỉ thấy ông chú tâm đánh đối thủ và lại hứa hẹn tiếp tục. Với hơn ba tháng trước ngày bầu lại, ta hãy thử xét lại vấn đề. CON NGƯỜI TT OBAMA Trước hết, phải nói ngay vấn đề nơi sanh của ông thật ra không có nghiã lý gì nữa. Hiến Pháp Mỹ đòi hỏi phải sanh tại Mỹ mới được ứng cử tổng thống. Chuyện này quan trọng khi ông Obama còn đang tranh cử, chứ bây giờ thì gạo đã thành cơm từ lâu rồi. Bây giờ có khám phá ra ông sanh tại Kenya thì cũng không tòa nào dám phán ông Obama là tổng thống bất hợp pháp, không ai dám nghĩ đến chuyện truất nhiệm ông vì sẽ chỉ tạo ra đại loạn với tất cả dân da màu xuống đường đốt phá chống lại cái mà họ sẽ gọi là âm mưu kỳ thị da đen của Mỹ trắng. Hàng triệu dân cấp tiến sẽ đồng ý. Nước Mỹ sẽ đi vào đại loạn. Tranh cãi về vấn đề tôn giáo của ông cũng sẽ chẳng đi đến đâu. TT Obama sẽ vẫn tiếp tục khẳng định mình là Tin Lành, nhưng quá khứ ông vẫn còn quá nhiều liên hệ với Hồi giáo, để rồi vấn đề sẽ còn được tranh cãi suốt lịch sử Mỹ. ĐỐI NGOẠI Cả hai cuốn sách Obamas Wars của nhà báo kỳ cựu Bob Woodward (người khui ra vụ Watergate khiến TT Nixon mất chức), và The Obamians của nhà báo James Mann đều ghi nhận TT Obama không bao giờ lấy quyết định trong các buổi họp nội các, chỉ ghi nhận ý kiến, đặt câu hỏi, rồi cho biết sẽ suy nghĩ và quyết định sau. Sau đó, ông gặp nhóm phụ tá thân tín, thảo luận lại, rồi mới lấy quyết định. Ê-kíp đối ngoại của TT Obama thực sự là một nhóm thanh niên cấp tiến trẻ, khoảng tuổi ba mươi, với những tên lạ hoắc đối với quần chúng, như Denis McDonough (lo về an ninh), Michael McFaul (Nga và Đông Âu), Stuart Levey (Iran và Bắc Hàn), Greg Craig (người xúi TT Obama ký sắc lệnh đóng cửa trại tù Guantanamo), Mark Lippert (trung úy hải quân, thành viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia!), Samantha Power (nhân quyền), Suzan Rice (Liên Hiệp Quốc), Valerie Jarrett (cố vấn đặc biệt). Đây là những người không bao nhiêu kinh nghiệm, không quyền hành, không thông qua quốc hội, nhưng có tiếng nói lớn bên cạnh tổng thống. Nói trắng ra, nội các với ngoại trưởng Hillary, bộ trưởng quốc phòng Robert Gates, bộ trưởng Y Tế Kathleen Sebelius, bộ trưởng An Ninh Janet Napolitano, … chỉ là mặt nổi với những người có kinh nghiệm và uy tín để trấn an dư luận trong và ngoài nước. Ê-kíp nổi này có khuynh hướng thực tiễn (realist) so với ê-kíp phụ tá đặc biệt trong hậu trường có khuynh hướng lý tưởng hơn (idealist), chủ trương Mỹ cần coi trọng những vấn đề nhân đạo, nhân quyền hơn và can thiệp khi cần thiết. Sự hiện diện của hai ê-kíp đối nghịch này thỉnh thoảng đưa đến những quyết định tréo cẳng ngỗng mà mọi người đều thấy rõ. Chẳng hạn như TT Obama chỉ trích TT Bush đánh Iraq mà lại quyết định đánh Libya vì áp lực mạnh của các bà Samantha Power và Suzan Rice trong khi bộ trưởng Quốc Phòng Gates chống và ngoại trưởng Hillary dè dặt. Các bà Power và Rice nhìn chính sách đối ngoại của Mỹ với con mắt cấp tiến lý tưởng: Mỹ cần phải “thế thiên hành đạo” vì lý do nhân đạo, trong khi phe thực tiễn lo sợ Mỹ lại dính dáng vào một cuộc chiến với một xứ Hồi giáo nữa. Rõ ràng là nhóm phụ tá cấp tiến gần gũi với TT Obama có tiếng nói mạnh trong chính sách đối ngoại của tổng thống mặc dù thỉnh thoảng, chủ trương can thiệp cũng gặp những giới hạn thực tiễn như khi Mỹ bó tay nhìn các cuộc đàn áp đối lập tàn bạo nhất tại Syria, và múa võ mồm trước lưỡi bò Trung Cộng. IRAQ VÀ AFGHANISTAN Quan điểm rõ ràng duy nhất của TT Obama khi còn tranh cử là bài diển văn chống chiến tranh Iraq mà ông đã đọc năm 2002 trong một lần vận động tranh cử tại Chicago, trước khi TT Bush đánh Iraq, và lời hứa rẽ rút quân càng sớm càng tốt khỏi Iraq. Ông biết quan điểm này gây thắc mắc trong giới lãnh đạo quân sự, và cũng ý thức sẽ tạo thêm mâu thuẫn và ưu tư trong hàng ngũ tướng lãnh nếu ông từ chối yêu cầu đôn quân tại Afghanistan của tướng Petraeus, người hùng Iraq và Afghanistan, nên đành chấp nhận đôn quân tại đây. TT Obama chỉ trích TT Bush vi phạm nhân quyền khi bắt nhốt và tra tấn khủng bố mà không đưa ra tòa. Nhưng ông lại gia tăng các cuộc đột kích máy bay không người lái, vừa kín đáo vừa tiện lợi hơn, giết luôn cho tiện, kể cả khủng bố có quốc tịch Mỹ. Tránh được những sai lầm của TT Bush khi bắt nhốt rồi tra tấn tù khủng bố. Ông ý thức được yếu điểm lớn của đảng Dân Chủ, mang tiếng là đảng bồ câu, rất yếu trong vấn đề an ninh, quốc phòng. Trong thời điểm hậu 9/11, ông sẽ không có hy vọng thắng được đảng Cộng Hoà. Do đó ông lựa cuộc chiến Afghanistan và chống Al Qaeda để khoác chiếc áo diều hâu để “cân bằng” quan điểm, vớt điểm với khối độc lập và bảo thủ. Nhìn cho kỹ, TT Obama vẫn là người thiên về “chủ hòa” trong truyền thống của đảng Dân Chủ. Các quyết định “diều hâu” của ông trong cuộc chiến chống khủng bố, Afghanistan, và Libya, chỉ là những bình phong cần thiết để làm mờ bớt hình ảnh bồ câu quá yếu của đảng Dân Chủ. Mấy ông Na Uy đã nhìn thấu bình phong đó nên mới tặng Nobel Hoà Bình cho TT Obama, một phần để hậu thuẫn TT Obama, phần khác để trói tay ông khiến ông khó thay đổi lập trường. ĐỐI NỘI Một đạo diễn Hồ Ly Vọng gốc Tiệp Khắc, Milos Fordman viết trên New York Times, biện hộ TT Obama không theo chủ nghiã xã hội (socialist) như nhiều người chỉ trích. Ông mô tả cuộc sống hãi hùng trong chế độ CS Tiệp như ba giờ sáng bị công an gõ cửa mang đi biệt tăm luôn, và nhiều chuyện kinh hãi khác để xác nhận TT Obama không phải là theo XHCN. Lập luận cực kỳ ngớ ngẩn này được đăng trên New York Times chỉ làm mất thêm uy tín của tờ báo phe ta này thôi. Ông đạo diễn xi-nê-ma này không có một chút ý thức chính trị, đã lẫn lộn tư tưởng xã hội với chế độ CS kiểu Xít-ta-lin. Không ai nói Obama là Xít-ta-lin hết. TT Obama dù muốn cũng không có cách nào ra lệnh FBI nửa đêm gõ cửa bắt công dân Mỹ đi thủ tiêu. Khối bảo thủ chỉ đả kích TT Obama có tư tưởng thiên tả ở điểm muốn xây dựng một Nhà Nước vú em vĩ đại, tung ra đủ loại thuế để lấy tiền chi trả cho guồng máy thư lại khổng lồ với hàng vạn công chức áp đặt hàng trăm ngàn thủ tục luật lệ mà vẫn vô hiệu, chủ trương mua phiếu cử tri bằng đủ loại trợ cấp, ủng hộ yêu sách của nghiệp đoàn để lấy hậu thuẫn chính trị của họ. Đây là mô thức chính trị của các đảng dân chủ xã hội Âu Châu. Điển hình là tân TT Francois Hollande của Pháp, vừa đắc cử đã mau mắn ra luật tăng thuế tối đa lên 75% lợi tức. Lời tuyên bố mới nhất của TT Obama, khẳng định sự thành công của các doanh gia là do công sức và giúp đỡ của Nhà Nước phản ánh rõ rệt vai trò Nhà Nước vú em trong triết lý kinh bang tế thế của ông. Ở đây, người ta thấy TT Obama là người rõ rệt thiên tả theo mô thức Âu Châu. Bộ luật rườm rà gần 3.000 trang cải tổ y tế với Nhà Nước áp đặt bảo hiểm y tế cho toàn dân bất chấp ảnh hưởng trên ngân sách, chi phí y tế chung, suy xụp kinh tế và thất nghiệp, chỉ là một bằng chứng điển hình của mô thức xã hội này. Giống như chính sách đối ngoại, các chính sách đối nội của TT Obama cũng được ra đời và thực hiện theo kiểu “song hành”, qua một nội các nổi nhưng không có thực quyền, và một ban tham mưu trong hậu trường với các phụ tá, được gọi là Sa Hoàng (csar), phần lớn là thành phần trẻ cấp tiến, có khi cực đoan như ông Van Jones lo về năng lượng sạch trước đây là đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ.´´´ Nói tóm lại, bỏ qua các vấn đề cá nhân của ông, bất chấp những lời hô hào không có đỏ hay xanh, TT Obama hiển nhiên là một chính khách trong thâm tâm có tư tưởng bồ câu, thiên tả nhất trong các tổng thống trong lịch sử cận đại Mỹ. Ông dựng lên một nội các nổi gồm những người có tên tuổi, kinh nghiệm, có tiếng ôn hoà, chủ trương thực tiễn. Nhưng lại đặt niềm tin và lấy quyết định theo nhóm phụ tá và cố vấn trẻ, ít kinh nghiệm và cấp tiến cực đoan hơn. Nhưng cuối cùng thì ông vẫn là chính trị gia thuần túy, sẵn sàng làm mọi chuyện, nói mọi điều, hứa mọi thứ cần thiết để đạt thắng lợi cá nhân. Câu nói của TT Obama với TT Medvedev nói lên hết: ông đừng làm khó tôi bây giờ, đợi bầu cử xong tôi sẽ dễ nói chuyện hơn. (22-7-12) Vũ Linh
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 13, 2014 5:06:25 GMT 9
Tổng thống Mỹ tệ hại nhất từ Thế Chiến Thứ Hai (VienDongDaily.Com - 06/07/2014) Tiểu Thư
Thứ Tư vừa qua, Tổng Thống Barack Obama nhận thêm một danh hiệu mới nhưng không danh dự gì mấy: tổng thống Mỹ tệ nhất từ Thế Chiến Thứ 2. Đây là kết luận của một cuộc thăm dò từ Đại học Quinnipiac, tiểu bang Conneticut, một trường tư có cấp cao học xếp hạng nhất trong danh sách những trường cùng loại ở miền Bắc Mỹ trong việc cải thiện chương trình và môi trường học đường vào năm 2013 theo tờ U.S. News & World Report.
Cuộc thăm dò của Quinnipiac diễn ra từ ngày 24 đến 30 tháng 6, bao gồm 1,446 cử tri có ghi danh toàn quốc, do những người thăm dò nói chuyện trực tiếp với cử tri bằng điện thoại và cellphone. Ngoài câu hỏi quanh việc xếp hạng Obama trong danh sách tổng thống tệ và giỏi nhất của Mỹ sau Thế Chiến Thứ 2, cuộc thăm dò còn đi vào chi tiết về sự hài lòng hoặc không hài lòng của cử tri đối với tổng thống đương nhiệm, và những câu trả lời cũng không khích lệ là mấy.
Có 40% tán thành cách Obama thực hành nhiệm vụ tổng thống, trong khi 53% không tán thành, tỷ lệ tán thành cao hơn con số 38% vào tháng 12 năm ngoái nhưng thua rất xa 59% vào tháng 6 năm 2009, chưa nói đến tỷ lệ tán thành 82% khi Obama mới nhậm chức đầu năm 2009.
Có rất nhiều thứ khác nhau góp phần “dìm” con số tán thành này xuống. Thành công của Obamacare khá giới hạn, và trong bước đầu của một chính sách mới, không đủ thuyết phục với những người chống đối và thậm chí với những người ủng hộ: chính trị gia đảng Dân Chủ, động cơ chính thúc đẩy Obamacare thành luật, hết sức né tránh vấn đề này, nếu không tỏ ý nghi ngại sự đúng đắn và tiến triển tương lai của nó. Ngoài ra, kinh tế hồi phục chậm chạp trong suốt thời kỳ Obama làm tổng thống cho đến nay, cộng thêm tình hình rối ren ở Iraq và Afghanistan, Ukraine, Ai Cập, vụ tòa đại sứ Mỹ bị tấn công ở Lybia… khiến dân chúng không thể đặt lòng tin vào người đang ngồi ở chức vị cao nhất nước.
Sự giằng co xảy ra nhiều lần giữa Tổng Thống Obama và Quốc Hội, chính xác là Hạ viện nơi đảng Cộng Hòa nắm đa số cũng làm người dân chán ngán. Tuy những thành viên Quốc Hội thuộc đảng Cộng Hòa bị chỉ trích nhiều hơn, người ta không thể không nghĩ rằng tổng thống phải có tài thương thảo đủ để guồng máy dân chủ ở Mỹ không ngắc ngứ và bất lực nhiều như thế trong nhiệm kỳ của ông Obama.
Chưa hết, vấn nạn trẻ con ào ào vượt biên giới phía Nam đến Mỹ càng đổ dầu vào ngọn lửa oán trách Obama. Đảng Cộng Hòa tuyên bố ngay rằng làn sóng trẻ con nhập cư lậu này chính là hậu quả của một chương trình Tổng Thống Obama đề ra vào năm 2012 theo một điều khoản của một đạo luật nhập cư đã có trong quốc hội rất lâu mà chưa thông qua được. Theo chương trình “Hoãn Hành động cho người nhập cư từ lúc nhỏ,” những người nhập cư lậu từ nhỏ ít nhất 15 tuổi nhưng không quá 30 vào năm 2012 và đến Mỹ đã ít nhất 5 năm có quyền xin giấy phép hành nghề hai năm và có thể xin gia hạn sau đó.
Cái lợi và hại của chương trình này vẫn còn trong vòng bàn cãi, và làn sóng trẻ em vượt biên hiện nay có phải thực sự bắt nguồn từ chương trình này hay không cũng không rõ ràng, tuy nhiên, sự kiện Tổng Thống Obama đã dùng quyền tổng thống của mình để tự xướng tự phê một chương trình có lợi cho dân nhập cư lậu trong đúng năm tái cử rõ ràng là một hành động mị dân Nam Mỹ hòng kiếm thêm phiếu của nhóm này và làm tăng bất mãn của những người không chống cải tổ di dân nhưng muốn cải tổ ấy phải đi kèm những biện pháp bảo vệ biên giới hiệu quả hơn.
Ngày thứ Năm, ngay trước Lễ Độc Lập, tin kinh tế cho biết tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong tháng 6 giảm lần nữa xuống 6.1%, mức thấp nhất từ tháng 9 năm 2008. Không biết nếu cuộc thăm dò của Quinnipiac được thực hiện trễ hơn một tuần thì xếp hạng của ông Obama có khá lên được chút nào hay không.
Dù sao đi nữa, những dữ kiện chính về sự ủng hộ dành cho ông Obama chưa thay đổi: người trẻ tuổi (dưới 50), thuộc đảng Dân Chủ và phụ nữ ủng hộ ông nhiều hơn. Còn về vị trí chót bét trong số những tổng thống Mỹ từ Thế Chiến Thứ 2? Trước đây ngôi vị này là của George W. Bush, người tiền nhiệm của ông Obama. Thêm 6 năm nữa, có thể ông Obama sẽ có dịp trao giải này lại cho người kế nhiệm ông cũng chưa biết chừng. (tt)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 23, 2018 12:32:40 GMT 9
Góc độ kinh tế của chiến lược an ninh Mỹ - thế đứng của Việt Nam Vũ Quang Việt 23 December 2017 Tổng thống Trump vừa công bố chiến lược an ninh quốc gia với mục đích củng cố vai trò của Mỹ trên thế giới. Nhưng nó thất bại vì không giúp gì trong việc củng cố lòng tin của đồng minh, tuy rằng một phần nào đó giúp củng cố an ninh nước Mỹ và hiểu hơn về những bước Trump có thể làm. Chiến lược này được Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia tướng McMaster soạn thảo trình Quốc hội. Bản báo cáo có nhắc đến cam kết về vai trò của Mỹ trong khối đồng minh NATO, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ đồng minh theo điều số 5, qui định rằng cuộc tấn công bất cứ quốc gia nào trong khối là cuộc tấn công cả khối và mọi nước phải phản ứng, không cần bàn luận thêm. Trump đã không nói tới điều khoản 5 ngay tại diễn văn đọc tại cuộc họp chính thức của NATO năm 2017 và chỉ khẳng định sau đó ở Poland sau phản ứng của các nước NATO khác. Tuy vậy, trong bài diễn văn của Trump khi công bố chiến lược an ninh quốc gia, Trump lại không đả động gì đến luận điểm trên mà chỉ nhận mạnh đến chiêu bài “Nước Mỹ trên Hết” (America First). Vậy chiến lược an ninh vừa công bố khác với luận điểm lợi ích của nước Mỹ là trên hết ở chỗ nào? Và hướng chiến lược an ninh của Trump là gì? Chiến lược an ninh theo Trump Hướng chính là Trump muốn kết hợp các biện pháp kinh tế với an ninh quốc phòng trên 4 nét chiến lược lớn: (1) Hạn chế hay đóng cửa biên giới với người nhập cư nhằm vào cái gọi là bảo vệ an ninh cho dân Mỹ Luận điểm này chủ yếu là làm hài lòng thiểu số ủng hộ Trump, cũng có lý một tý nhưng thực tế có thể phản bác lại cái lý trên. Thứ nhất, Trump không thấy rằng đám người khủng bố không nhất thiết là từ nước ngoài vào Mỹ, mà từ ngay trong lòng Mỹ. Những vụ khủng bố vừa qua chứng minh cho việc này. Thứ hai, nước Mỹ phát triển mạnh hơn nước khác cũng và vì lao động nhập cư, đặc biệt lao động tay chân trong nông nghiệp từ Mexico và lao động trí óc từ nhiều nước mà Mỹ không phải mất công đào luyện. Nhập cư làm tăng lực lượng lao động khi lực lượng này đang tăng chậm lại tại Mỹ vì dân số sinh đẻ (mức tăng lao động hàng năm sẽ giảm dần từ 0,5% xuống 0,2%). (2) Tăng mức sống và sự giàu mạnh của Mỹ Điều này thì nói dễ hơn làm, vì tăng mức sống sẽ phải dựa chủ yếu vào tăng năng suất lao động. Số lượng lao động dư thừa không còn và tốc độ tăng lực lượng lao động Mỹ đang giảm mạnh. Giảm thuế cho doanh nghiệp và người giàu với hy vọng là họ sẽ tăng đầu tư. Dù hy vọng này có vẻ hợp lý nhưng rất nhiều nhà kinh tế cho rằng độ đáp ứng về đầu tư do cắt thuế là thấp và cần thời gian dài (từ 3-5 năm) mới tạo kết quả và qua đó mới đẩy mạnh được mức tăng GDP. Rất nhiều nhà kinh tế kể cả bản thân tác giả cho rằng về dài lâu Mỹ chỉ có thể đạt được mức tăng GDP bình quân năm cao nhất là 3% do dự đoán (của Cục Thống kê Lao động) là lao động sẽ chỉ tăng hàng năm khoảng 0,5% từ nay đến 2025 và sau đó sẽ giảm xuống 0,2%, còn năng suất lao động thì cả Cục Thống kê Lao động và Cục Dữ trữ LB (Ngân hàng TW) đều cho rằng khó có thể hơn 2,5%, vì ảnh hưởng của công nghệ thông tin thời năm 2000 đã cạn kiệt. Như thế, rõ ràng là dù tăng trưởng ở mức cao nhất 3% hay thậm chí 4% cũng không thể thu thêm thuế để bù đắp thiếu hụt ngân sách Liên bang do cắt thuế suất, đưa đến giảm thu 1.500 tỷ trong 10 năm tới. Mà thiếu hụt hiện nay, khi chưa cắt thuế, đã ở mức 544 tỷ năm 2016. Thiếu hụt ở mức 4% GDP như thế sẽ tạo ra mất ổn định, nhà nước phải tăng nợ, cạnh tranh vốn với khu vực tư nhân. Hình 1. Cán cân ngoại thương Mỹ bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ 1960-2017 ( Tỷ US) Nguồn: US Bureau of Economic Analysis Lợi thế của Mỹ, mà gần như không nước nào có được, là có thể “xuất cảng” nợ chính phủ cho nước ngoài vì đồng Mỹ được tín nhiệm và sử dụng rộng rãi. Vào cuối năm 2017, nợ của chính phủ Liên bang lên tới trên 14 ngàn tỷ (80% GDP), trong đó 6,3 ngàn tỷ, hay 44,0%, là do nước ngoài nắm, nhiều nhất là TQ và sau đó là Nhật 1,1 ngàn tỷ, mỗi nước giữ hơn 1 ngàn tỷ. Vì là phương tiện trao đổi được tín nhiệm cao, Mỹ cũng có thể in tiền trả nợ mà không làm suy yếu giá trị đồng đô la, mà ngược lại giá đồng đô la tăng trong 10 năm qua (Hình 2). Đây cũng chính là điều TQ mong muốn, đang cố tập trung các nền kinh tế khác quanh mình để có thể in tiền trả nợ như Mỹ. Hình 2. Chỉ số giá trị đồng USD so với các đồng khác (1970-2017) Tuy thế, mặt trái của đồng đô la mạnh là nó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Mỹ, sản xuất hàng hóa được chuyển dần ra nước ngoài. Giai cấp trung lưu nhỏ dần. Thu nhập cũng giảm do đó mới tạo ra hiện tượng Trump. Thời kỳ 1970-2013, năng suất lao động tăng gấp 2,4 lần nhưng lương chỉ tăng 9% (Hình 3). Điều này có nghĩa là năng suất đó chỉ góp phần vào tăng lợi nhuận là chính. Giảm thuế cho người giàu lại càng làm hố ngăn cách sâu thêm. Hình 3. Chỉ số tăng năng suất lao động và tăng lương giờ lao động Thuế suất giảm nhưng không thể tăng GDP ở mức có thể tăng số thuế thu được, nên ước đoán của Uỷ ban lưỡng viện độc lập cho rằng số thu sẽ giảm 1.500 tỷ trong 10 năm tới. Vậy thì để giảm thiếu hụt ngân sách, thì phải giảm chi. Mà chi nhiều nhất là cho người nghèo, người khuyết tật, chi bảo hiểm xã hội cho người về hưu. Như thế thành phần này, thuộc đa số dân, sắp tới sẽ phải chịu hy sinh, nếu Đảng Cộng hòa và Trump thực hiện được việc cắt giảm. Thực tế chính trị cho thấy, lấy mồi giảm thuế để mua chuộc thì dễ hơn là cắt giảm quyền lợi. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ để cạnh tranh với các nước khác có thuế thấp hơn là đúng đắ. Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao các nước lại chạy đua xuống đáy như vậy. Thuế thu được quá thấp thì mọi chương trình xã hội giáo dục phải cắt giảm. Có thể gọi là văn minh khi một số người rất giầu còn đa số thuộc phận bèo bọt, không thể tìm ra việc làm? Có thể lúc nào đó cần có một hiệp định quốc tế, quyết định thuế suất tối thiểu. (3) và (4). Chiến lược tăng cường sức mạnh quân sự và chiến lược tăng cường ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới Chiến lược tăng cường sức mạnh quân sự (3) và ảnh hưởng (4) của Mỹ đang bị thách thức nghiêm trọng. Sức mạnh quân sự tất nhiên không thể đạt đỉnh điểm nếu Mỹ đứng một mình. Chính sách Nước Mỹ trên hết của Trump hiện nay thực chất là làm suy yếu chiến lược tăng cường sức mạnh quân sự và ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới. Về mặt kinh tế, Mỹ rút vào cố thủ, chủ trương song phương, phê phán và áp lực Mexico, Việt Nam vì thấy cán cân thanh toán quá nghiêng về mấy nước này, nhưng lại có vẻ sợ TQ khi thực tế thiếu hụt là chủ yếu với TQ, chiếm tới gần một nửa thiếu hụt (Bảng 1). Bảng 1. Cán cân thương mại của Mỹ với các nước trên thế giới, 2016 Tỷ US % Cán cân thương mại -750 100,0 China -347 46,3 Nhật -70 9,4 Mexico -69 9,2 Germany -65 8,7 Vietnam* -32 4,3 Nam Hàn -28 3,7 * Thặng dư quá mức của VN thật ra là nhận vơ, bởi vì nếu thực hiện thống kê theo đúng tiêu chuẩn của LHQ thì xuất khẩu của Samsung, của Intel, Nike, v.v. thực chất là xuất khẩu của Nam Hàn, Mỹ, v.v. và không được ghi là của VN. Đây là hàng thuộc sở hữu của nước ngoài do họ định giá và gửi tới khách hàng của họ ở nước khác, họ chỉ trả phí gia công cho VN. Như thế có thể VN chỉ xuất 5-10% phí gia công trên tổng số 41 tỷ US hàng điện thoại di động của Hàn Quốc xuất khẩu từ VN. Với Mexico và Canada, Mỹ đòi thương thuyết lại Hiệp định Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA). Với thế giới nói chung, Mỹ qua mặt Hiệp ước thương mại quốc tế (WTO), đòi thương thuyết lại với tư cách song phương nhưng chắc chắn không ai chịu. Nếu muốn khác thì Mỹ phải tự rút khỏi WTO để thương thuyết lại với từng nước. Việc Trump đòi hỏi cân bằng thương mại với từng nước thì có nghĩa là nguyên tắc sản xuất để trao đổi những gì có ưu thế sẽ không còn. Thí dụ có 3 anh, mỗi anh ưu thế một cái, thì a có thể có thiếu hụt (deficit) với b, b thiếu hụt với c và c lại thiếu hụt với a nhưng mỗi anh có thể cân bằng nếu tính toàn diện. Đây là nguyên tắc thụt lùi, phi kinh tế. Trước đây, Trump muốn bắt tay với Nga để giải quyết hòa bình khu vực Trung Đông, nhưng bây giờ qua bản báo cáo chiến lược, Trump lại chỉ đích danh Nga và TQ là hai quyền lực đối địch (rival powers), đối thủ chiến lược (strategic competitor) hay quyền lực muốn thay đổi trật tự hiện tại (revisionist powers) của Mỹ. Xin miễn bàn về Nga, vì Mỹ không có các phương tiện kinh tế để gây áp lực với Nga với lý do đơn giản là Nga không có quan hệ đáng kể với kinh tế Mỹ và ngay cả khối Liên Hiệp Châu Âu. Cũng xin miễn bàn nhiều về Bắc Hàn, vì đe dọa bằng biện pháp quân sự chỉ là võ mồm. Việc Bắc Hàn phát triển võ khí nguyên tử nhằm tự vệ theo chiến lược “Chí Phèo” (tôi chết thì anh cũng chết) và hy vọng sẽ bị lôi ra khỏi tình trạng bị cô lập toàn diện. Mỹ chỉ có hai chọn lựa. Một là tiếp tục cô lập Bắc Hàn và năn nỉ Bắc Kinh cắt cung ứng xăng dầu, chỉ tạo thêm “uy tín” cho Bắc Kinh, bởi vì không lẽ đẩy dân Bắc Hàn về thời đồ đá không điện nước, còn họ Kim thì sẵn sàng làm điều này và dùng xăng dầu còn lại cho chương trình hoả tiễn. Hai là bỏ cấm vận Bắc Hàn như việc Obama bỏ cấm vận Cuba và để cho họ tự diễn biến. Hãy thử xem đối sách với Trung Quốc. Đối sách với Trung Quốc Góc độ kinh tế của chiến lược an ninh Mỹ - thế đứng của Việt Nam Về quân sự, chính sách tầm thực của TQ là nhằm chiếm dần, xây dựng dần hệ thống tiền đồn ở Biển Đông là nhằm vào một lúc nào đó thực hiện việc kiểm soát toàn diện khu vực biển. Cho đến nay, việc cho chiến hạm lâu lâu chạy vào vòng 20 dặm mấy hòn đảo mà TQ kiểm soát. Thế thôi. Nếu TQ đem chiến hạm ra đuổi có lẽ Trump sẽ lặng lẽ ra lệnh rút thay vì đứng lại đối đầu. Về mặt quân sự, Mỹ gần như không có biện pháp gì ngoại trừ sẵn sàng đi vào chiến tranh mà Mỹ và chính dân Mỹ cũng không muốn. Cho nên Trump hay nước Mỹ chỉ có thể xây dựng liên minh, hay đồng minh để sửa soạn cho việc trả đũa về mặt kinh tế nếu thấy cần. Và mục đích là nhằm bảo vệ hòa bình ở Biển Đông mà Tòa án Quốc tế đã bác bỏ quyền yêu sách chủ quyền ở đá ngầm, tuyên bố không có đảo mà chỉ có đá, tức là hạn chế tối đa địa điểm có thể tranh chấp ở Biển Đông. Và như thế gần như toàn bộ Biển Đông là biển khơi, không thuộc bất cứ nước nào. Đây chính là cơ sở pháp lý để tập hợp lực lượng nhằm kêu gọi TQ hợp tác và ngăn cản khả năng có thể đưa đến chiến tranh. Kinh tế TQ đã được hưởng rất nhiều ơn mưa móc của Mỹ và phương tây khi họ mở cửa cho TQ. Vì thế rõ ràng là hiện nay và sắp tới, TQ vẫn phải dựa vào thị trường và công nghệ phương Tây, đặc biệt là Mỹ, và phải trả giá rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với Mỹ, nếu bị cấm vận. Theo tính toán của tôi, nếu có cấm vận, GDP Trung Quốc sẽ giảm 19% trong khi đó Mỹ sẽ giảm 2%. TQ hiện nay một mặt xây dựng căn cứ quân sự ở Biển Đông, một mặt kiếm cách quây quần các nước, đặc biệt ở châu Á, xoay quanh trục TQ, với chương trình cho vay nợ và chi trả thương mại bằng đồng TQ, lập thị trường buôn bán hợp đồng nguyên liệu bằng đồng TQ, đầu tư trực tiếp và thu mua nhằm sở hữu các doanh nghiệp các nước chung quanh, cổ vũ cho việc xóa bỏ dần biên giới quốc gia trong thương mại, tất cả là nhằm biến các nước quanh vùng thành một phần của kinh tế TQ. Vì vậy một chiến lược đối đầu nếu cần thiết là phải kết hợp giữa quân sự và kinh tế. Rất tiếc là vì chính sách “nước Mỹ trên hết” Trump đã rút khỏi Hiệp định TPP mà Obama xây dựng nhằm tạo thiết chế kết dính 11 nước quan trọng như Úc, Canada, Nhật, Việt Nam, Mã Lai, Singapore v.v. với nhau. Đối với Việt Nam, tình hình trên đòi hỏi sự độc lập không chỉ chính trị, quân sự mà cả kinh tế. Việc để TQ hay bất cứ nước nào mua và kiểm soát doanh nghiệp quan trọng có tầm ảnh hưởng đến an ninh quốc là điều không thể chấp nhận trong cục diện trước mắt và sau này. Trong khu vực Đông Nam Á, từ Indonesia, Thái Lan, Phi, Singapore không nước nào cho phép tư nhân nước ngoài làm chủ đất đai. Ý kiến trên thì rất nhiều người Việt kể cả báo chí và quan chức có hiểu lầm. Cho đến nay không có hiệp định nào về việc tự do mua bán doanh nghiệp. Bán hay không là quyền của quốc gia. Hiệp định WTO chỉ liên quan đến buôn bán hàng hóa và dịch vụ, và không liên quan đến cả FDI. Các hiệp định song phương có thể có các điều kiện nhất định về đầu tư trực tiếp thôi (FDI), nhưng không có tự do toàn diện. Chính sách kinh tế cơ bản của VN là dựa vào phát triển doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân trong nước gần như dậm chân tại chỗ (coi bảng 2). Tư nhân hóa DNNN phải ưu tiên dành quyền sở hữu cho tư nhân Việt Nam. Bảng 2. Tỷ lệ trên GDP (trừ thuế) 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Kinh tế nhà nước 33,6 32,8 32,6 32,3 31,9 31,9 DN tư nhân trong nước 7,9 8,3 8,9 8,7 8,7 8,8 DN tư nhân nước ngoài 17,3 17,7 17,8 19,3 19,9 20,1 Cũng chính vì thế mà ngay cả Trump cũng đặt vấn đề bảo vệ công nghệ kể cả ngăn cản TQ mua công ty hay công nghệ của Mỹ. Với TQ, Trump chủ trương rất đúng ở hai phương diện: Ngăn chận việc TQ đánh cắp bản quyền phát minh và công nghệ. Ngăn chận việc TQ mua cổ phiếu công ty ở mức 51% để hoàn toàn làm chủ công ty Mỹ có công nghệ cao và có tầm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thí dụ như công ty Boeing, GE, hay công ty dầu hỏa lớn. Trên hai phương diện trên, từ lâu Mỹ đã cơ chế kiểm soát việc nước ngoài mua công ty Mỹ. Uỷ ban Đầu tư nước ngoài của Mỹ (CFIUS) thuộc Bộ Tài chính được thiết lập theo luật đã có từ 1950 và sửa đổi năm 2007 hoàn toàn có quyền duyệt chặn đứng bất cứ việc mua kiểm soát công ty được coi là quan trọng với an ninh nước Mỹ. Và tất nhiên Tổng thống cũng có quyền này. Đối tác muốn mua quyền kiểm soát phải nộp đơn xin phép. Quyền kiểm soát của nước ngoài được định nghĩa là một cá nhân nước ngoài sở hữu 25 % cổ phiếu, mà không có công dân nào có tỷ lệ sở hữu bằng hoặc cao hơn, hoặc 1 hay nhiều người nước ngoài nắm trên 50% sở hữu. Nguồn: Bài tác giả gửi Diễn Đàn. Một phiên bản ngắn hơn đã đăng trên TBKTSG. Vũ Quang Việt
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 6, 2018 5:37:39 GMT 9
CHÍNH TRỊ VÀ ... SEX
Nếu có một du khách nào mới lần đầu tiên tới thăm cái xứ Cờ Hoa lúc này, vị khách đó chắc sẽ dừng một khắc, chụp vài ba bức hình cho có, rồi xách dép chạy bạt mạng về xứ ngay. Nhất là nếu đi du lịch với bầu đoàn thê tử, có con vị thành niên, chạy càng nhanh. Lý do? Vị du khách này nghĩ lại, chưa thấy mình đã đi đến cái xứ nào loạn luân như cái xứ Mỹ này hết. Mở TV bất cứ đài nào, mua bất cứ báo nào, toàn thấy nói chuyện hết ông này sách nhiễu tình dục đến ông kia lem nhem sàm sở. Dĩ nhiên không kể các ông ôm hôn nhau hay mấy bà nắm tay làm đám cưới. Hay chuyện ông râu xồm đòi vào cầu tiêu nữ, hay cô chân dài đòi vào cầu tiêu nam. Làm như thể cả nước này toàn là bị bệnh hoạn, ám ảnh, dồn nén vì chuyện sex nên thành điên khùng hết rồi. Chuyện sex, tiền và quyền hành –nhất là quyền chính trị- là ‘ba cái lăng nhăng’ nắm tay nhau đồng hành dĩ nhiên đã có từ thời ông Bành Tổ, không có gì mới lạ, chỉ là thời đó chưa có báo hay TV hay facebook nên ít ai biết. Ai cũng hiểu đó là trong cái bản chất ‘thú tính’ của con người, càng đi xâu vào lịch sử sơ khai, càng gần với cái thú tính đó. Dễ hiểu thôi. Thế nhưng, ta đang ở xứ Cờ Hoa mà. Chẳng phải đây là cái xứ văn minh tiến bộ nhất nhân loại sao? Sao cái ‘thú tính’ đó lại có vẻ như nổi đình nổi đám, bộc phát mạnh hơn cả thế giới? Mà lại trong thiên niên kỷ mới, khi thiên hạ đã biết ăn ở phải phép với nhau từ mấy ngàn năm rồi.
Chuyện cũ thật, nhưng đã qua chương mới. Cái chương mới này bắt đầu cách đây vài tháng. Một ông đại tỷ phú, chuyên sản xuất những phim vĩ đại, nổi tiếng nhất, Harvey Weinstein, bất ngờ bị một cô chuẩn tài tử nhí đáng tuổi cháu ngoại, không biết vì bực tức thật sự hay vì muốn nổi đình đám kiếm job đóng phim, tự nhiên tố ông Weinstein là sách nhiễu tình dục, sàm sở gì đó. Chuyện quá thường tình trong cái thế giới phim ảnh trong đó đã có cả triệu phim với những màn ôm ấp hôn hít hay xa hơn nữa, giữa những tài tử làm những chuyện này như thiên hạ bắt tay nhau nói hello, chẳng mang một ý nghiã gì, chẳng ai thắc mắc. Họ ‘ngủ thật’ với nhau khi không đóng phim cũng là chuyện bình thường bất kể vợ chồng hay không, nói chi đến chuyện sàm sở vớ vẩn. Báo chí đăng cho có vì tiếng tăm của ông Weinstein. Ai cũng nghĩ, ngày mai trời lại sáng, thiên hạ lại bù đầu đi cầy, báo chí lại trở về với thú đánh Trump. Thiên hạ sẽ quên hết chuyện ông Weinstein để rồi ông này lại đi bù khú với em chân dài khác. Thế nhưng kịch bản bình thường này đã bị thay đổi hoàn toàn. Câu chuyện ông Weinstein bất ngờ giống như đập nước bị lủng một lỗ quá lớn, bất thình lình cả cái đập nước bị phá tan. Tiếp theo cái cô chuẩn tài tử đó, hơn 40 tài tử khác, chuẩn có mà thành danh như Angelina Jolie cũng có, cả lão bà Jane Fonda luôn. Họ ào ào nhẩy ra tố giác Weinstein đã lạm dụng họ, nhiều người thú nhận sự nghiệp điện ảnh huy hoàng của họ đã khởi đầu từ việc phải miễn cưỡng cho ông Weinstein ‘đóng tuồng’ trong những màn không có trong kịch bản cách đây mấy chục năm. Thiên hạ đang ngỡ ngàng thì nổ bùng ra chuyện anh tài tử Kevin Spacey, một tài tử hạng ‘siêu sao’ đóng vai một tổng thống trong loạt phim TV, House of Cards. Chuyện khác người là anh này bị một ‘ông’ tài tử tuổi xồn xồn, tố là cách đây đâu hai ba chục năm, khi anh mới vào nghề, bị anh Spacey rờ mò mà không dám hó hé. Anh Spacey mau mắn nhận tội, rồi thú nhận anh là dân đồng tính bí mật. Hàng loạt tài tử, đạo diễn, nhà sản xuất gạo cội nổi danh lần lượt bị tố. Người thì mau mắn nhận tội, người thì thề thốt trong trắng hơn ma sơ. Ta thấy không thiếu những tên tuổi uy tín, lừng danh như người hùng Rambo Sylvester Stallone; Oliver Stone, nhà đạo diễn cực tả chuyên làm phim bôi bác chiến tranh VN. Thậm chí đến bà ca sĩ diva nổi tiếng Mariah Carey cũng bị anh cận vệ tố là bà đã … chộp anh ta! Không, quý vị không đọc lộn đâu: một anh la ó bị một chị chộp! Thế rồi chuyện phải đến đã đến. Câu chuyện sách nhiễu tình dục lan qua chính trị. Bước đầu lan nhè nhẹ qua cụ ông Bush cha vì tội thích vỗ đít mấy bà vì … vừa tầm tay khi đang ngồi xe lăn. Nhưng nạn nhân thật sự đầu tiên là ông quan tòa Roy Moore, ứng viên thượng nghị sĩ Alabama của CH trong cuộc bầu cử đặc biệt tìm người thay thế bộ trưởng Tư Pháp Jeff Sessions. Ông già gần tuổi cổ lai hy bị nửa tá bà xồn xồn tố khi các bà ấy còn ở tuổi vị thành niên, đã bị ông Moore sàm sở, có người còn bị hãm nữa. Dĩ nhiên, món quà trời cho. Phe DC, với sự hăng say tiếp tay của TTDC, nhẩy vào, khai thác triệt để, không phải để mang lại công lý cho mấy bà nạn nhân, mà chỉ nhằm mục đích chiếm cái ghế nghị sĩ của Alabama. Ông Moore đang ở trong tư thế nằm nhà ngủ cũng thắng cử, bất thình lình thấy tỷ lệ hậu thuẫn của mình rớt như sung rụng, bảo đảm sẽ thảm bại không còn manh giáp. Đảng CH xanh mặt. Thế đa số có hai phiếu tại Thượng Viện lung lay mạnh sau khi hai nghị sĩ CH đã tuyên bố không ra tranh cử lại, bây giờ lại mất cái ghế chắc ăn nhất, không run thì khi nào mới run. Thế đa số của cả đảng CH quan trọng gấp vạn lần mấy cái chuyện sex lẩm cẩm này, nhất là chẳng có ai đưa ra được bất cứ bằng chứng cụ thể nào. DC chiếm đa số trong Hạ Viện và Thượng Viện thì chuyện đàn hặc Trump không còn viễn vông nữa. TT Trump, trước đây ủng hộ ông đối thủ của ông Moore trong lúc tranh cử sơ bộ trong nội bộ CH, nhưng ông này thua, TT Trump đành phải ủng hộ ông Moore. Trong khi ông Moore bị nước ngập tới cổ thì bất thình lình, hai thượng nghị sĩ tên tuổi của DC bị hàng loạt mấy bà tố đã từng sàm sở. TNS Al Franken bị một nữ ký giả tung hình ông đang giơ hai tay ra chộp ngực bà khi bà đang ngủ ngồi trên máy bay. TNS John Conyers thì bị hàng loạt phụ tá của chính ông tố ông đã sách nhiễu họ đủ kiểu, kể cả đi họp với nhân viên nữ mà chỉ mặc có quần lót. Riêng về ông Conyers thì lòi ra một chuyện khiến cả quốc hội bối rối chứ chẳng phải riêng ông. Ông Conyers đã có lần lấy tiền từ một quỹ bí mật của quốc hội để bịt miệng một nạn nhân. Bây giờ thiên hạ mới biết quốc hội có quỹ riêng –tức là tiền thuế của dân đấy- để kín đáo bịt miệng những xì-căng-đan của các dân biểu và nghị sĩ, bất kể CH hay DC. Trên mặt chính trị thì đánh nhau không nương tay, nhưng về chuyện xì-căng-đan thì họ bảo vệ nhau rất kỹ. Tự nhiên hàng loạt chính khách tên tuổi nhất bị tố sàm sở cả đám. Trong khi cả đảng DC luống cuống thì bất ngờ có một bà nhà báo hăng tiết, nhẩy ra đóng vai Lê Lai cứu chúa. Bà lên báo công khai viết “Đúng là hai ông Franken và Conyers đã sách nhiễu phụ nữ, nhưng vì hai ông thuộc đảng DC nên không sao, không cần từ chức, vì đảng DC nói chung bênh vực nữ quyền, nên phụ nữ chúng tôi cần phiếu của hai ông này. Chuyện sàm sở là chuyện cá nhân, chúng tôi không quan tâm”. Đây cũng là lý luận của các phụ nữ bênh TT Clinton năm xưa. Ít ra thì bà này cũng đã có can đảm nói thật về tính phe đảng của bà. Nôm na ra, có nghĩa là theo bà nhà báo này thì CH không được phép sàm sở nhưng DC thì ô-kê. Ai dám nói báo chí không phe đảng? Lạ lùng thay, đảng DC và TTDC bất ngờ chuyển hướng, xúm lại đánh hai ông đồng chí Franken và Conyers của họ. Lôi cả TT Clinton ra đánh luôn. Nhiều tiếng nói lớn trong đảng DC quay lại tố TT Clinton và phán quyết đáng lẽ ông ta phải từ chức ngay khi đó rồi. Bà Hillary dĩ nhiên, vội nhẩy ra bênh chồng. Bà bào chữa mấy vụ sách nhiễu của ông Moore là cưỡng ép nạn nhân, không chấp nhận được, trong khi vụ cô Monica là chuyện hai người trưởng thành đồng thuận, không đáng tội. Thưa bà, trước hết cô Monica là cô nhóc chỉ hơn con gái bà có vài tuổi, gặp ông tổng thống quyền uy 50 tuổi, làm sao đặt lên bàn cân ngang nhau được. Thứ nhì, thế còn các bà Paula Jones, Gennifer Flowers, Juanita Broaddrick,... thưa TT Clinton thì sao? Có sự thỏa thuận gì không? Thứ ba, các ông chồng đi ăn vụng, nếu có sự đồng thuận của vợ bé thì ô-kê sao, thưa bà Hillary? Bà ra tranh cử năm 2020 với chủ trương này, tôi bảo đảm bà sẽ được phiếu của 90% nam cử tri. Tại sao phe ta lại trở mặt như vậy? Vì hai lý do: - Họ tính dựa vào cái tiếng đảng sạch sẽ không chấp nhận sách nhiễu phụ nữ làm chủ điểm cho cuộc vận động bầu quốc hội năm tới. - Họ cũng tính muốn bứng TT Trump về tội sách nhiễu tình dục trước đây thì sẽ phải thí các ông Franken, Conyers và Clinton trước để có chính danh khi đòi đàn hặc Trump. Chuyện đàn hặc Trump vẫn chỉ là chuyện vớ vẩn. Những cái gọi là “bê bối” của TT Trump đã được dân Mỹ biết rõ từ trước ngày bầu cử, và họ vẫn bầu cho ông, thì làm sao còn lý do để bứng ông sau khi ông đã đắc cử? Chưa kể phe DC hô hào truất phế Trump cũng bị vấn nạn há miệng mắc quai khi họ đã nhắm cả hai mắt, bảo vệ TT Clinton bất kể cái áo đầm dính đầy… bằng chứng cụ thể. Chuyện dùng sách nhiễu tình dục làm chủ điểm tranh cử bị mất giá trị sau khi ông Moore thua, vì chứng tỏ phe CH cũng không chấp nhận sách nhiễu tình dục. Với sự thất cử của ông Moore, nhiều chuyên gia tiên đoán cuộc bầu cử giữa mùa năm tới, sẽ có rất nhiều phụ nữ ra tranh cử và đắc cử. Năm 2018 sẽ là năm phụ nữ lật đổ chế độ phụ hệ ở Mỹ. Một bà đang ứng cử chức dân biểu trong đảng DC, nhanh trí đã tung ngay ra một khẩu hiệu tranh cử mới: “Bạn có muốn tránh, không thấy người mà bạn bầu làm đại diện khoe ‘của quý’ bất tử không? Vậy thì hãy bầu cho những người không có ‘của quý’!” (bà này công khai dùng danh từ ‘thingy’, quý độc giả có quyền tra từ điển). Trong tình trạng chính khách cả hai đảng đều bối rối đó thì TTDC lên mặt kẻ cả, giảng dạy luân lý giáo khoa thư cho cả nước, nhất là cho các chính khách cả hai đảng. Các cụ ta có câu “thiên bất dung gian” không thể nào sai vào đâu được. Bom nguyên tử của Cậu Ấm Ủn chưa thấy đâu, nhưng bom nguyên tử sách nhiễu tình dục nổ lớn ngay trong khối TTDC hết sức ‘đạo đức’. Bắt đầu bằng ông Mark Halperin. Một cây bút uy tín lừng danh chuyên viết sách nổi tiếng về các cuộc bầu cử tổng thống gần đây. Có tánh đặc biệt, gặp bà nào cũng bắt phải ‘chộp’ ông ta. Nhẩy qua Matt Lauer. Anh này là nhà báo hàng đầu của NBC, là đài được coi như cơ quan ngôn luận của TT Obama trước đây. Anh chuyên môn phỏng vấn các chính khách lớn nhất thế giới như tổng thống, vua chúa, thủ tướng, đã từng phỏng vấn TT Obama, ngoại trưởng Hillary Clinton, TT Trump,… Mỗi năm lãnh có 20 triệu đô thôi. Anh này có nhiều chuyện vui. Bàn làm việc của anh có nút bấm bí mật, khóa cửa phòng không ai mở được, trong hay ngoài. Ngăn kéo bàn làm việc thì cả lô ... ‘đồ giả’ để tặng quý bà có nhu cầu ‘tự xử’. Chỉ mới là những người đầu tiên. Cho đến khi bài này được viết thì đã có sơ khởi gần 60 nhà báo tên tuổi và quan chức lớn của các đài NBC, CBS, ABC, CNN, các báo Vox, Rolling Stone, New York Times, Washington Post, New Republic,… Toàn là các cơ quan cấp tiến nặng ký của TTDC phe ta, thuộc đảng DC gần hết. xxx
Có phải nước Mỹ tự nhiên đổ đốn không? Thưa không. Hầu hết các vụ sàm sở đều xẩy ra cách đây vài ba chục năm. Chẳng qua chỉ là chuyện thay đổi suy tư. Ngày xưa, những chuyện như vỗ má, vỗ đít, hôn ẩu thường được coi như cử chỉ thân thiện, hay tệ lắm, là chuyện diễu dở nham nhở của phái nam, không ai khiếu nại cho dù những việc này khiến phụ nữ khó chịu, bực mình. Bây giờ, vụ ông Weinstein đã là giọt nước làm tràn ly, dẫn đến một cuộc cách mạng văn hoá, thực sự giải thoát phụ nữ Mỹ ra khỏi một thứ luật không thành văn là các ông có thế, có quyền, hay có tiền đều là những người có thể vung tay múa chân môt cách vô tộ vạ, nhất là đối với những phụ nữ trong cô thế như trẻ tuổi, có vị thế xã hội thấp hơn,… Vụ Weinstein đã khai sinh ra phong trào #MeToo của những phụ nữ nạn nhân của sách nhiễu, nhẩy ra tố khổ các ông hàng loạt. Họ tự chế ra mốt mặc quần áo màu đen, và thiên hạ đã thấy tại đại hội điện ảnh Golden Globes mới đây, tất cả các tài tử đã mặc quần áo đen để bày tỏ việc ủng hộ những nạn nhân sách nhiễu tình dục. Cuộc cách mạng này sẽ có hậu quả đổi đời mà cho đến nay, ít người thấy được sẽ đi xa đến đâu. Một diễn biến kẻ này hoan nghênh hết mình, miễn sao nó đừng biến thành một công cụ đấm đá chính trị, sẽ mất hết ý nghiã, mà lại gây thiệt hại nhiều hơn cho phụ nữ. Cũng phải cẩn thận không đi quá xa, đến độ bây giờ mấy ông gặp mấy bà cũng không dám bắt tay nữa, thì sẽ trở thành lố bịch. Quý anh thanh niên đi tán đào, hay tìm vợ, mà bị trói tay, phải học thuộc lòng năm trang luật lệ, thủ tục cư xử ‘phải đạo’ với phụ nữ để bảo đảm mình tôn trọng đối tượng, thì sẽ có hy vọng độc thân lâu dài. Bà tài tử Pháp Catherine Deneuve, đã lên tiếng chỉ trích phong trào #MeToo mà bà cho là đã đi quá xa, biến tất cả nam giới thành nạn nhân trong khi không thiếu gì phụ nữ vui vẻ chấp nhận việc được các ông ‘chú ý’ tới. Nghĩ cho cùng, các cụ ta đã nhìn thấy vấn đề từ lâu lắm rồi, nên mới khuyên nhủ con cháu… “nam nữ thọ thọ bất thân” cho chắc ăn. Bởi vậy mới nói xứ ta đã có tới 5.000 năm văn hiến, hơn xa xứ Cờ Hoa mới có 250 năm.
Vũ Linh
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 16, 2023 19:41:02 GMT 9
John F. Kennedy, nghi án thế kỷĐinh Yên Thảo Lễ Tạ Ơn 1963 là một mùa lễ ảm đạm của nước Mỹ khi người dân Hoa Kỳ và thế giới tự do vẫn còn trong những cảm xúc bàng hoàng, đau đớn và phẫn nộ khi John F. Kennedy, vị Tổng Thống trẻ tuổi tài ba, được dân chúng mến mộ, bất ngờ bị ám sát vào ngày Thứ Sáu 22 tháng 11. Để nhìn lại một trong những vị tổng thống xuất chúng cùng dòng họ Kennedy nổi tiếng nước Mỹ, xin mời cùng đọc lại câu chuyện và sự kiện lịch sử này. 1. Dòng họ Kennedy, khởi nghiệp, hào quang và bi kịch: a. Cuộc di dân đến vùng đất hứa: Trở ngược cùng lịch sử về dòng họ này, có lẽ phải kể đến ông cố của Tổng Thống Kennedy là Patrick Kennedy, một di dân gốc Ái Nhĩ Lan, người đặt chân đến Mỹ để lập nghiệp năm 1849, cách đây đúng 170 năm. Mua và phát triển thương mại qua các tiệm bán lẻ, tiệm rượu tại Boston, Massachusetts, Patrick Kennedy được coi là một di dân gốc Ái Nhĩ Lan thành công nhất, khi không chỉ thành đạt trong buôn bán, mà còn lót những viên gạch kế tiếp cho sự thành công của con cháu sau này. Có lẽ một lời nguyền độc như người ta thường nhắc về dòng họ này đã đeo đuổi gia tộc Kennedy ngay từ thời nàỵ. Năm 1858, Patrick Joseph Kennedy, tức ông nội Kennedy, vừa chào đời, thì chỉ 10 tháng sau ông đã bị mất cha. Cha ông qua đời trong một cơn dịch tả tại Boston lúc chỉ mới 35 tuổi, cũng cùng với căn bịnh mà trước đó một con trai ông cũng đã chết khi còn nhỏ. Còn lại là người con trai duy nhất trong gia đình, ông nội Kennedy là người đầu tiên được cho ăn học một cách chính thức. Ở độ tuổi 30, ông nội Kennedy đã trở thành một thương gia tên tuổi và thành đạt, khi làm chủ một công ty nhập cảng và phân phối rượu tại Boston. Sự thành công, cũng như uy tín và tên tuổi trong thương mại, đã dẫn ông nội Kennedy đi vào con đường chính trị, khi trở thành Dân biểu tiểu bang Massachusetts trong hơn 10 năm trời cũng như trở thành thủ lĩnh của cộng đồng di dân Ái Nhĩ Lan. Mất đi năm 1929, ông để lại cho cha Kennedy một gia sản to lớn cùng những mối quan hệ chính trường đã bắt đầu khá rõ nét cho dòng họ nàỵ b. Joseph Kennedy, quyền lực và tham vọng: Là cha của một Tổng Thống, hai Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ và một Đại Sứ Hoa Kỳ cùng nhiều cháu nội, ngoại nổi tiếng, Joseph Patrick "Joe" Kennedy, Sr. là con người đầy quyền lực và tham vọng, cũng như người đã trực tiếp chuẩn bị và trải thảm cho các con mình tạo nên một "Ðế chế Kennedy". Ði theo con đường của cha mình, ông Joseph Kennedy là một thương gia và trở thành chính trị gia dưới thời Tổng Thống Franklin D. Roosevelt. Với sự giàu sang, uy tín chính trị, sau khi tốt nghiệp đại học Harvard, Joseph Kennedy đi theo con đường tài chính và đầu tư chứng khoán cùng bất động sản và tạo được thành công rất lớn. Cả về tiền bạc và địa vị. Ở tuổi 25, ông trở thành vị chủ tịch trẻ nhất nước Mỹ khi được bầu vào chức vụ Chủ tịch ngân hàng Columbia Trust Bank, nơi cha ông có một phần hùn lớn. Ðây là thời gian, qua mối giao dịch thương mại, ông tạo được sự liên hệ với Franklin Delano Roosevelt, người trở thành tổng thống về sau. Năm 1919, ông bắt đầu nhảy vào thị trường chứng khoán và nhanh chóng trở thành một triệu phú nhờ vào sự tăng giá của cổ phiếu của những năm thập niên 20. May mắn hay nắm bắt được tình thế, không những thoát được sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, mà đó còn là cơ hội để ông gia tăng sản nghiệp lên hàng vài chục lần sau cuộc khủng hoảng này, để tiếp tục đầu tư vào việc sản xuất phim ảnh, nhập cảng rượu và đầu tư bất động sản. Theo bảng sắp hạng đầu tiên của tạp chí Fortune năm 1957, ông là một trong những người giàu nhất nước Mỹ thời bấy giờ. Con đường chính trị mang tính quốc gia của Joseph Kennedy bắt đầu từ năm 1932, khi ông hậu thuẫn tài chính cho chiến dịch tranh cử tổng thống của TT Franklin D. Roosevelt. Lúc này, ông đã là một trong những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong đảng Dân Chủ. Sau khi TT Roosevelt đắc cử, Joseph Kennedy được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy Ban Giao Dịch Chứng khoán Hoa kỳ SEC, dù ông mong muốn một chức vụ trong tân nội các như Bộ trưởng Ngân Khố. Năm 1936, ông được TT Roosevelt bổ nhiệm làm Tổng trưởng Hải đội Thương thuyền HK, với nhiệm vụ tái thiết và thay thế toàn bộ các thương thuyền dùng trong vận chuyển xuất nhập cảng của nước Mỹ cho đến khi ông sang Anh nhận chức vụ Ðại sứ Hoa Kỳ tại đây. Lúc này, ông và bà Rose Fitzgerald, con gái thị trưởng Boston, đã có với nhau chín người con, bốn trai năm gái. Như những phụ nữ khác, bà Rose mong muốn được nhìn thấy một gia đình hạnh phúc và thành đạt, trong khi ông Joseph đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng: con cái ông sẽ là những nhân vật chính trường hay tổng thống, thậm chí chính ông trở thành tổng thống. Trong vai trò đại sứ Hoa Kỳ, ông đã từng gặp Hitler khi thủ lãnh quốc xã này đã bắt đầu chứng tỏ tham vọng của mình, bất chấp sự chấp thuận của Bộ Ngoại giao HK, để tìm một sự "thông hiểu giữa nước Mỹ và nước Ðức". Thái độ nhập nhằng, thiếu rõ ràng về Hitler và Quốc xã, cũng như chống lại sự tiếp ứng cho đồng minh Anh quốc ngay đầu Ðệ Nhị Thế Chiến của ông đã làm Bộ Ngoại Giao và TT Roosevelt thất vọng, hay đúng hơn là giận dữ. Những ưu ái cuối cùng từ chính phủ HK là cho phép ông được cho "tự xử", nộp đơn từ chức. Ðiều này cũng đồng nghĩa với giấc mơ trở thành tổng thống của ông tan thành mây khói, cũng như đó là một vụ “tự sát chính trị”. Ông bị loại khỏi "cuộc chiến" và cả Ðệ Nhị Thế Chiến theo đúng nghĩa của nó. c. Anh em nhà Kennedy và lời nguyền ứng mộng: Chấm dứt sự nghiệp chính trị của riêng mình, Joseph dành hết sức lực cho giấc mơ biến con cái trở thành tổng thống, một giấc mơ và kỷ luật ông đặt vào các con trai từ nhỏ. Dù mỗi người con đều được có sẵn quỹ một triệu đô la sẵn sàng một khi trưởng thành, số tiền rất lớn thời bấy giờ nhưng các anh em nhà Kennedy cũng chỉ được phát một số tiền nhỏ mỗi tuần, và cho cắt cỏ hay bỏ báo để kiếm thêm tiền, nhằm tạo cho các con tính trách nhiệm và tinh thần tự lập. Nghiêm khắc, như TNS Edward đã từng kể lại rằng, ông cũng bị cha phát đít bằng móc áo lúc nhỏ, nhưng ngay từ bé cho đến khi trưởng thành, các anh em ông được tranh luận thoải mái với cha về các đề tài quốc gia và chính trường thế giới tại mỗi bữa cơm tối của gia đình. Ông tạo những mối quan hệ, những quyền lực ngấm ngầm, lót đường cho con cái. Con cái học được những truyền thống và các giá trị hun đúc trong gia đình ngay từ nhỏ. Dù người cha đặt tham vọng lên con cái, ông lại hướng họ về những giá trị phục vụ và hữu dụng cho xã hội. Ba giá trị căn bản mà dòng họ Kennedy đã dạy cho con cháu họ là, hãy làm điều gì đó ý nghĩa trong đời sống của mình, hãy tạo dựng được gì đó cho riêng mình và hãy làm được gì đó cho người khác. Họ không phải lo chuyện mưu sinh vì đã có sẵn những quỹ tài chính được sẵn sàng cho mình và gia đình khi trưởng thành để dành hết khả năng và đời sống cho việc phụng sự. Bằng con đường chính trị hay xã hội. Joseph Kennedy đặt kỳ vọng người con trai cả, sẽ trở thành một tổng thống trong tương lai. Joseph Patrick Kennedy Jr., một luật sư Harvard đẹp trai, một đại biểu đảng Dân chủ và là một sĩ quan ưu tú và can đảm của không quân Hoa Kỳ. Và được hậu thuẫn cả về tài chính và quyền lực chính trị. Quá đủ để thực hiện giấc mơ tổng thống của cha mình. Rất tiếc trong một phi vụ ném bom tình nguyện vào tháng 8 năm 1944, khi Ðệ Nhị Thế Chiến hầu như gần chấm dứt, anh tử nạn mất xác ở độ tuổi 29, tạo nỗi bàng hoàng cho cha mình và cả dòng họ Kennedy. Người con trai thứ hai trong gia đình, John Fitzgerald Kennedy hay tổng thống JFK, cũng đầy đủ những phẩm chất như anh trai, thậm chí trội bật hơn, được trở thành niềm kỳ vọng mới của cha mình. Cũng tốt nghiệp ưu hạng đại học Harvard và hoạt động chính trị và xã hội ngay từ thời sinh viên, đăng lính làm sĩ quan chỉ huy trong Ðệ Nhị Thế Chiến. Và hơn nữa, ông có sức quyến rũ đám đông để thắng cử, trở thành tổng thống thứ 35 của Hiệp chủng quốc HK vào năm 1961, biến giấc mơ của cha ông thành sự thực. Ðây là thời gian ánh hào quang rực sáng với gia đình Kennedy, khi JFK trở thành tổng thống, người con trai thứ bảy là Robert F. Kennedy (RFK) trong gia đình nắm giữ chức vụ Bộ trưởng Tư Pháp và người trai út, TNS Edward Kennedy trở thành Thượng nghị sĩ trẻ tuổi nhất nước mỹ lúc bấy giờ. Nhưng chưa đầy ba năm sau, viên đạn của một sát thủ tại Dallas đã kết thúc cuộc đời vị tổng thống tài hoa của nước Mỹ, ngay tuổi 46 đầy sung mãn của cuộc đời. Phát súng như xé tan lồng ngực người cha lần thứ hai. Chính trị như một đặc tính tự nhiên của gia đình Kennedy lúc này. Dù ông Joseph có còn đủ can đảm để kỳ vọng thêm lần thứ ba về người con trai thứ ba của ông trở thành tổng thống hay không, thì việc này cũng xảy ra với Bộ trưởng Tư pháp và TNS Robert F. Kennedy về sau. Robert Kennedy là một "quân sư", một cố vấn đắc lực trong việc giúp anh trai chiến thắng trong chiến dịch tranh cử và khi trở thành TT. Không chỉ là một bộ óc chiến lược, một chính trị gia sắc bén, Robert Kennedy có một tâm hồn đa cảm, đầy nghệ sĩ tính. Ông làm thơ, thích triết học và trích dẫn Shakespeare trong diễn văn. Những đoạn phim tài liệu chiếu lại, khi ông lên nói chuyện về anh trai tại đại hội Ðảng Dân Chủ năm 1964, các đại biểu đã ôm mặt khóc nức nở suốt nhiều phút đồng hồ. Tháng 6 năm 1968, trong chiến dịch tranh cử tổng thống như một ngôi sao sáng của đảng Dân Chủ, một viên đạn oan nghiệt khác lại kết thúc cuộc đời người con trai thứ ba của ông Joseph Kennedy ở tuổi 42. Chỉ còn con trai út Edward Kennedy. Sinh năm 1932, Edward Moor "Ted" Kennedy là con út trong gia đình, cách xa người anh cả Joseph đến 17 tuổi. Những bi kịch trong gia đình, đã tạo nên nhiều thay đổi trong đại gia đình Kennedy và đặt lên vai ông một trách nhiệm nặng nề, thay đổi con người phóng túng của Edward trở thành một thượng nghị sĩ nhiều ảnh hưởng trên chính trường Hoa Kỳ. Tính từ cuộc đắc cử vào Thượng viện năm 1962 cho đến khi qua đời hồi năm 2009, TNS Edward Kennedy, người được mệnh danh là “con sư tử của Thượng viện” (The Lion of the Senate) đã phục vụ liên tiếp 47 năm, với tổng cộng 9 lần đắc cử. Trước khi mất, ông là TNS có thâm niên hàng thứ hai tại Thượng viện và là TNS thâm niên hàng thứ ba trong lịch sử HK. Bỏ ý định tranh cử TT năm 1972 vì tai tiếng trong vụ tai nạn gây chết người Chappaquidthingy năm 1969, đến năm 1980 ông lại ra tranh cử tổng thống, nhưng thua ở vòng sơ bộ trước đương kim tổng thống cũng thuộc đảng Dân chủ là tổng thống Jimmy Carter. Nên tính chung, sự nghiệp của TNS Edward đã gắn liền chỉ với Thượng viện Hoa Kỳ và được Time bình chọn là một trong những nhà lập pháp tài ba nhất Hoa Kỳ. 2. Cuộc ám sát Kennedy tại Dallas Mùa thu năm 1963, chiến dịch vận động tái tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Kennedy đã bắt đầu. Đó là một nhiệm kỳ đầy trọng trách quốc gia nặng nề và sóng gió của người tổng thống trẻ tuổi bắt đầu nắm quyền ở độ tuổi ngoài 40 cùng các cố vấn, ban tham mưu còn trẻ hơn nữa. Từ các cuộc đối đầu trong cuộc Chiến Tranh Lạnh cùng Liên Bang Xô-Viết và khối cộng sản, sự thất bại quanh cuộc đổ bộ vào Cuba trong chiến dịch Vịnh Con Heo, nguy cơ xảy ra cuộc chiến tranh hạch tâm qua vụ Xô-Viết đặt hỏa tiễn hạch tâm tại Cuba nhắm thẳng vào Hoa Kỳ, giai đoạn đầu sự leo thang của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam, cho đến kế hoạch chinh phục vũ trụ, phong trào dân quyền tại Hoa Kỳ… Việc điều hành quốc gia của TT Kennedy và nội các vẫn tiếp tục nhận được tín nhiệm cao của người dân Hoa Kỳ, cơ hội tái đắc cử nhiệm kỳ hai của ông được xem là rất nhiều khả năng. Bên cạnh đó, hình ảnh một Tổng Thống đời thứ 35 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đẹp trai, tài hoa, tràn đầy sinh lực, có tài hùng biện với các bài diễn văn cuốn hút về giáo dục, an ninh quốc gia và cơ hội mang lại hòa bình thế giới, đã tạo ra sự nồng nhiệt, mến mộ với nhiều cử tri, dù rằng những điều này ít nhiều cũng tạo ra những dư luận về sự phóng túng trong đời sống tình cảm của ông. Ban tham mưu và các cố vấn chính trị của Kennedy nhận định rằng để tái đắc cử, họ cần nhận được sự ủng hộ của khối cử tri tại Florida và Texas, hai tiểu bang mà Kennedy thắng tại Texas và thua tại Florida trong kỳ bầu cử 1960. Đến cuối tháng 9 năm 1963, Kennedy cùng ban tranh cử thực hiện cuộc vận động qua chín tiểu bang miền Tây chỉ trong vòng một tuần lễ, và chương trình vận động tại Texas được cố vấn đặc biệt của Kennedy là Kenneth O’Donnell sắp đặt cho hai ngày định mệnh của tháng 11 năm 1963, đi qua năm thành phố chính của Texas. Mục đích đến Texas của Kennedy không chỉ nhằm vận động tái tranh cử tổng thống, mà còn dàn xếp những mối bất hòa giữa vài lãnh tụ đảng Dân Chủ Texas có thể làm ảnh hưởng đến cuộc tái tranh cử của ông, cũng như xoa dịu những phản đối của vài nhóm cực đoan tại Dallas từng biểu tình và tấn công Đại Sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc trước đó. Thành phố đầu tiên của Texas mà phái đoàn Tổng Thống dừng chân là San Antonio, theo sau là Houston. Các thước phim tài liệu cho thấy người dân các thành phố đứng đầy hai bên đường nồng nhiệt chào đón đoàn công xa Tổng Thống, và sự kích động càng tăng cao khi cuối bài diễn văn trước các tổ chức gốc Mỹ La Tinh tại tiệc chiêu đãi, TT Kennedy đã mời chính Đệ Nhất Phu Nhân Jacqueline Kennedy lần đầu cùng tháp tùng trong chuyến vận động từ sau khi người con trai vừa sinh đã bị chết , thông dịch qua tiếng Tây Ban Nha. Từ Houston, phái đoàn bay về Forth Worth, nơi TT Kennedy ngụ tại khách sạn Texas Hotel, tham dự buổi chiêu đãi của Hiệp Hội Thương Mại sáng hôm sau. Sáng Thứ Sáu, trời mưa nhẹ vẫn không ngăn được đám đông hàng ngàn người đã túc trực phía trước khách sạn, chờ một cơ hội được tận mắt thấy Tổng Thống. Không choàng áo mưa, Kennedy phát biểu ngắn gọn sự cảm kích với người dân Fort Worth chào mừng ông, cũng như tái khẳng định về sự lớn mạnh của Hoa Kỳ về quốc phòng và chương trình không gian, sự tiếp tục phát triển kinh tế Hoa Kỳ để trở thành cường quốc “second to none”- có một không hai. Ông đã đi ra tận hàng rào cảnh sát để bắt tay cùng rừng người mừng vui, phấn khích, đang hò reo, chảy nước mắt vì cơ hội gặp Tổng Thống. Rời khách sạn, phái đoàn Kennedy được đoàn công xa hộ tống đến căn cứ không quân Carswell để lên Air Force One bay đến phi trường Love Field, chỉ cách 13 phút đồng hồ. Tại đây, cả ông cùng Đệ Nhất Phu Nhân Jacqueline lại một lần nữa bắt tay với đám đông đón chào, làm trễ thêm lịch trình của toán cận vệ đã sắp đặt. Theo chương trình, đoàn hộ tống công xa Tổng Thống sẽ đi vòng qua khu vực downtown Dallas cho hàng trăm ngàn người dân Dallas có thể đứng hai bên đường chào đón và nhìn tận mặt vợ chồng Tổng Thống. Lộ trình 10 dặm được thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Dallas, trước khi dừng chân cho buổi tiếp tân tại Trade Market, tức Dallas Market Center trên xa lộ 35 hiện nay. Theo chương trình, theo sau chuyến thăm Dallas, chiều Thứ Sáu cùng ngày, Kennedy sẽ bay về Austin tham dự một dạ tiệc gây quỹ và ngụ qua đêm tại một trang trại, trước khi về lại Washington chuẩn bị cho lễ Tạ Ơn. Phi trường Love Field. Trưa 22 tháng 11 năm 1963. Trời đã quang đãng, chiếc limousine mui trần hiệu Lincoln Continental mang mật danh SS-100-X, chở TT Kennedy và Đệ Nhất Phu Nhân đã gỡ mui kiếng chống đạn để ông có thể đứng lên vẫy chào người dân. Trên hàng ghế đầu ngoài tài xế, là một cận vệ đặc biệt của TT Kennedy. Hàng ghế giữa là vợ chồng Thống Đốc Texas John Connally và băng ghế cuối cùng là TT Kennedy cùng phu nhân. Theo sau xe TT là các công xa chở các cận vệ, vợ chồng Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson, Thượng Nghị sĩ Ralph Yarborough cùng các phụ tá, cố vấn đặc biệt, thư ký báo chí của Tổng Thống, các đại diện báo chí, thông tấn. 12:29 PM, đoàn xe Tổng Thống đi vào khu Dealey Plaza trên đường Houston Street, nơi Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát TT Kennedy đã đặt súng sẵn từ tầng sáu tòa building Texas School Book Depository, nơi chứa sách cho các trường học Dallas và nay là bảo tàng viện tưởng niệm TT Kennedy tại Dallas. Chỉ hơn một phút sau, khi không còn năm phút nữa sẽ kết thúc cuộc diễn hành của đoàn công xa, ba phát đạn oan nghiệp đã kết thúc cuộc đời một Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và đưa lịch sử của nước Mỹ cùng thế giới đi qua một khúc rẽ mới. Nó cũng gây nên sự bàng hoàng, thương tiếc cho hàng triệu người dân Mỹ và thế giới tự do, cùng những bí ẩn đàng sau vụ án kéo dài hơn nửa thế kỷ qua. Theo báo cáo của Ủy Ban Warren (Warren Commission), một hội đồng điều tra vụ ám sát TT Kennedy do TT Johnson chỉ định, phát đạn đầu bắn ra khi Kennedy vừa đưa tay phải vẫy chào đám đông. Viên đạn xuyên qua lưng, trổ qua cuống họng Kennedy và trúng vào Thống Đốc Connally. Một trong hai viên thứ hai và thứ ba gần như bắn liên tiếp, đã trúng đầu Kennedy. Mọi việc chỉ xảy ra trong vài giây đồng hồ, các thước phim tài liệu cho thấy Đệ Nhất Phu Nhân chồm người leo lên cốp sau xe, trong khi một trong những cận vệ Tổng Thống đã nhảy vọt từ chiếc xe ngay sau, leo lên đẩy Jacqueline vào lại băng ghế và che đạn cho Tổng Thống cùng Đệ Nhất Phu Nhân, trước khi chiếc limousine cùng cảnh sát hú còi, chạy hết tốc lực về bịnh viện Parkland Memorial Hospital. 12:38 PM, chiếc limousine đến Parkland, nhưng có lẽ Kennedy hoặc đã chết trên đường đến bịnh viện, hoặc đã vô phương cứu chữa khi về đến bịnh viện. Đúng 1 PM. giờ Dallas, các bác sĩ chính thức tuyên bố Tổng Thống Kennedy đã qua đời sau khi được một Linh mục làm phép. 1.33 PM, thư ký báo chí Bạch Ốc sau khi xin ý kiến Phó TT Johnson, người vừa đương nhiên trở thành Tổng Thống HK, đã họp báo tại ngay bịnh viện để thông báo cho nước Mỹ và toàn thế giới tin chính thức TT Kennedy qua đời sau vụ ám sát vừa xảy ra tại Dallas, Texas. Thay vì thi thể Kennedy phải giữ lại Parkland để khám nghiệm tử thi theo luật Texas, các nhân viên cận vệ của TT Kennedy đã theo lịnh cố vấn O’Donnell đang còn trong cơn xúc động và giận dữ tột độ về cái chết của Kennedy, chĩa súng, dồn các cảnh sát Dallas và bác sĩ vào chân tường để mang xác TT Kennedy ra chuyên cơ Air Force One, di chuyển về Washington DC. 2.38 PM, trước khi phi cơ cất cánh, Phó TT Johnson chính thức tuyên thệ trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ ngay trong khoang máy bay, đứng bên cạnh ông có Đệ Nhất Phu Nhân Jacqueline Kennedy. Thống Đốc Connally bị vết thương nguy hiểm, phải qua hai cuộc giải phẫu cấp thời nhưng may mắn còn sống sót sau vụ ám sát. Vụ ám sát TT Kennedy là nghi án kéo dài hơn nửa thế kỷ với hàng ngàn cuốn sách, nghiên cứu, lý thuyết âm mưu được đặt ra, để chỉ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra rằng: liệu đã có một âm mưu và các tổ chức, hay quốc gia nào đã đứng sau vụ án này hay chỉ duy nhất Lee Harvey Oswald, người đàn ông 24 tuổi đã thực hiện vụ ám sát? Không có câu trả lời từ Lee Harvey Oswald vì hai ngày sau, anh ta bị một người đàn ông bắn chết khi đang được chuẩn bị di lý về nhà tù Dallas, ngay trước mặt đông đảo cảnh sát, giới phóng viên báo chí và đang được trực tiếp truyền hình. (còn tiếp) Đinh Yên Thảo Ảnh: Đoàn công xa TT Kennedy tại Dallas Phần 1: www.facebook.com/groups/395853348109312/permalink/1082327456128561/
|
|