Buổi nói chuyện của chương trình
Từ Cánh Đồng Mây với
Kiến Trúc Sư
TRẦN THANH VÂN www.ledinh.ca/Bai%20PV%20KTS%20Tran%20Thanh%20Van%202010.html Vài dữ kiện lịch sử nhân 1000 năm Thăng Long: Thăng Long đã trãi qua 12 lần đổi tên:
*
Lần thứ 1: năm 1010 được đặt tên là Thăng Long do Lý Thái Tổ (1).
*
Lần thứ 2 : năm 1014 đổi tên là Nam Kinh , cũng do Lý Thái Tổ(2).
*
Lần thứ 3 : từ năm 1279 đến 1284, đổi tên là Trung Kinh, do vua Trần Nhân Tông(3).
*
Lần thứ 4 : năm 1400 , đổi tên là Đông Đô dưới thời Hồ Quý Ly(4).
*
Lần thứ 5 : năm 1408, đổi tên là Đông Quan dưới thời giặc Minh xâm lược (còn gọi là Minh thuộc)(5).
*
Lần thứ 6: năm 1430 , đổi tên là Đông Kinh dưới thời Lê Thái Tổ(6)
*
Lần thứ 7 : năm 1466, đổi tên là Trung Đô, thời Lê Thánh Tông(7).
*
Lần thứ 8 : năm 1469 , đổi tên là Phụng Thiên, cũng do vua Lê Thánh Tông (8)
*
Lần thứ 9: từ năm 1740 – 1786, tên gọi Đông Đô, thời Lê Hy Tông (9)
*
Lần thứ 10 : sau năm 1789 đại phá quân xâm lược Thanh, đổi tên là Bắc Thành, do vua Quang Trung đổi tên (10).
*
Lần thứ 11 : năm 1805 lại đổi tên là Thăng Long (11), nhưng không phải là chữ (昇 龍) của Lý Thái Tổ mà lại là (昇 隆), với ý nghĩa là hưng thịnh, chữ (隆)
được lấy từ niên hiệu của Gia Long, đặt lên Thành Thăng Long như mang ý nghĩa khẳng định quyền làm chủ và uy quyền lên vùng Bắc Hà ngày trước.
*
Lần thứ 12: Năm 1831, đổi tên là Hà Nội, dưới thời vua Minh Mạng (12).
ĐẠI LỄ QUA ĐI, ĐỂ GÌ Ở LẠI?
KTS. Trần Thanh Vân
Khẩu hiệu “Vì 1000 năm Thăng Long”.
Mười năm qua, sau Lễ hội 990 năm Thăng Long - Hà Nội, tổ chức ở sân Hàng Đãy vào năm 2000, như một lần tập dượt cho Lễ hội ngàn năm, từ
đó bất cứ việc gì được nhắc đến tại Hà Nội, người ta đều nhắc tới cụm từ “Vì 1000 năm Thăng Long”. Điều đó quả không sai, mọi người con đất
Việt đều có quyền tự hào về một Đế đô nghìn tuổi của Tổ quốc mình. Trên thế giới ít có kinh đô có Lịch sử ngàn năm như vậy. Ngay đến Bắc Kinh cổ
kính là thế, cũng chỉ được tướng Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt chọn kinh đô của Nguyên Triều ở thế kỷ 13, lấy tên là Đại Đô. Nhưng sang thế kỷ thứ 14,
sau khi Chu Nguyên Chương đánh đuổi đựơc giặc Nguyên Mông, giành được độc lập và lập nên Minh Triều, thì ông vua Minh Thái Tổ này vẫn chọn
Nam Kinh là Kinh đô cũ của Nhà Tống để lập Kinh Đô cho mình và vẫn phá sạch mọi dấu tích của Nguyên Triều ở Đại Đô. Nơi đây chỉ thực sự được
chọn làm kinh đô sau khi Minh Thành Tổ đoạt được ngôi vua và đưa được Kiến trúc sư người Việt là Nguyễn An về thiết kế và xây dựng nên Cố Cung
hoành tráng để cả thế giới biết đến như ngày nay.
Tại Thủ đô của chúng ta, khẩu hiệu “Vì 1000 năm Thăng Long” đã xướng lên trong suốt 10 năm, nhưng do thiếu sự chỉ đạo xuyên suốt, nội
dung thêm bớt và thay đổi tùy tiện, thậm chí nhân sự ban chỉ đạo lễ hội cũng thay đổi nhiều lần và sự hiểu biết về Lịch sử Thăng Long của họ rất hạn chế,
tình trạng “Tân quan tân chính sách” khiến cho nhiều nội dung rất quan trọng đưa ra từ ban đầu đã phải gác lại, nhiều nội dung mới nẩy sinh và
không thực sự có ý nghĩa lại trở thành mục tiêu chính, rồi nhiều nghìn tỷ đồng đã chi ra một cách phung phí, nhưng chỉ được thực hiện lấy lệ, gây nên
nhiều tốn kém công sức và tiền của.
Hôm nay lễ hội đã qua, cờ đã hạ, hoa đã héo, phông màn trang trí đã rách, khách khứa đã ra về… và mọi người mệt mỏi nhìn xem Thủ đô ngàn
tuổi còn lại những gì cho thế hệ mai sau? Vì trách nhiệm với hậu duệ 1000 năm tới, chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận để kịp chỉnh sửa ngay những hậu quả
khi chưa quá muộn và bổ sung ngay những thiếu sót khi còn bổ sung được. Hôm nay phải là một cái mốc để chúng ta bước sang năm thứ 1001 Kinh đô Văn
hiến của đất nước gần 100 triệu dân. Nỗi bất an trong lòng người lúc này là Thiên Long còn bị giam hãm.
Thiên Long ở đâu?
Cách đây 5 tháng rưỡi, một Pháp đàn Phong Thủy có giá trị Tâm Linh hiếm thấy đã diễn ra từ 12 giờ đêm Mười Tư đến rạng sáng Ngày Rằm
tháng ba năm Canh Dần do nhà ngoại cảm Phan Oanh (*) chủ trì cuộc lễ tại Đền Kim Ngưu thuộc Bán Đảo Tây Hồ phường Quảng An quận Tây Hồ Hà
Nội (Tọa độ 21 độ, 3’ 30’’ độ Vĩ Bắc và 105 độ 49’ 10’’ độ Kinh Đông) Đêm đó trăng sáng nhưng vẫn còn sương lạnh, do một sự thôi thúc từ nơi xa,
chiếc du thuyền của đoàn lễ gần 100 người đi băng băng trên Hồ Tây, rồi cập Bến Đạo Làng Xuân, ngoài tầm bẻ lái của người điều khiển du thuyền.
Được biết, nơi này 1000 năm trước thuyền Rồng của Vua Lý Thái Tổ đã đi từ sông Hồng vào sông Tô Lịch. qua cửa Hồ Khẩu vào Hồ Tây thì đỗ lại và
tại đó nhà vua nhìn thấy Thiên Long lao vút lên, nhờ đó nhà vua mới khẳng định việc dời Đô và đặt tên là Kinh đô Thăng Long.
Có đúng vậy không? Không sách vở nào ghi lại đầy đủ, nhưng sự tích có thật có hư thì rất nhiều. Ví dụ như giấc mơ hãi hùng của Mã Viện bên Hồ
Tây sau khi đánh bại hai Bà Trưng cách đây gần 2000 năm. Ví dụ như chuyện quan Đô hộ sứ kiêm nhà Phong thủy Cao Biền đã phát hiện ra linh
huyệt nên đã gọi nơi này là “Não thủy” và đã rắp tâm chống lại vua Đường để lập ra một vương quốc riêng cho mình ở thế kỷ thứ 9. Ví dụ như cơn lốc
Hồ Tây bất chợt xẩy đến chiều ngày 11/9/1955, cướp đi 4 mạng người của Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ Trung Quốc khi họ có âm mưu chui xuống
đáy hồ để phá linh huyệt này. Ví dụ như do kém hiểu biết và hám lợi nên người ta rắp tâm xây dựng một dự án Thủy cung Thăng Long năm 1998 ở
đây để kinh doanh thiếu lành mạnh, khiến cho kẻ vào tù, người mất chức. Cho dù thật hư ra sao thì Hồ Đầm Trị linh thiêng và giải đất kẹp giữa hai bờ
nước hôm nay vẫn đang chờ đón Người chủ đích thực trở về. Giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ có sóng nước Hồ Tây phù họa với lời
cầu nguyện thành kính. Chư Tiên, Chư Phật, Chư Thánh, Chư Thần đều được mời về. Thăng Long Tứ Trấn có Tứ Bất Tử và các anh hùng tiên liệt
đều đã xuất hiện. Nhưng sao không thấy Thiền sư Vạn Hạnh? Tại sao cuộc chuẩn bị bận rộn suốt 10 năm, không có công trình nào nhắc đến Thiền sư Vạn Hạnh?
Ngay cả vườn hoa mang tên Vạn hạnh đã được xác định, đất có rồi, kinh phí có rồi mà hôm nay vẫn chỉ là bãi đất hoang? Không có Thiền sư Vạn Hạnh thì sao có nổi Thăng Long? (**).
Trong tiếng rì rầm của sóng nước Hồ Tây, giọng quở trách nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc. Các ngài trách rằng: “Ngày lễ Tổ phụ, mà đưa hương
hoa ra vườn hoa để lễ, rồi đưa ma khách vào nhà là cớ làm sao?” Rồi các ngài căn vặn: “Đón Thiên Long nhưng sao Thiên Long vẫn bị giam hãm?
Bởi vậy vận nước đến mà chưa phát được” Rồi các ngài hẹn cho 3 năm để bổ cứu.
Bổ cứu cái gì?
Hãy thả cho Rồng bay lên.
Năm 1802 Vua Gia Long lên ngôi, lập kinh đô ở Phú Xuân Huế. Theo tư liệu của Bảo tàng quân sự nước Pháp (***) thì Vua Gia Long với sự trợ
giúp của người Pháp, đã phá sạch mọi dấu tích huy hoàng của Kinh thành Thăng Long suốt ba triều đại Lý - Trần – Lê. Năm 1803 Hoàng thành Thăng
Long bị phá. Năm 1805 xây thành Voban kiểu Pháp là loại thành lũy để phòng thủ quân sự. Năm 1831 Vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội để một
lần nữa hạ thấp tính uy nghiêm của Kinh thành Thăng Long xưa. Không những thế, các Vua đầu triều Nguyễn tuy còn bị sức ép của Triều đình Nhà
Thanh, sau mỗi lần buộc phải xây dựng cung điện để làm lễ lên ngôi tại khu Hoàng thành cũ, họ không muốn để những cung điện lại cho Hà Nội mà họ
giỡ bỏ các cung điện đó rồi mang đến lắp dựng cho thành Nam Định hoặc thành Sơn Tây. Sau khi Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tiếp đến Tổng đốc
Hoàng Diệu thất thủ tuẫn tiết, Hà Thành hoàn toàn rơi vào tay người Pháp năm 1882, người Pháp phá nốt những gì còn lại của Hà Nội và mở hai trục
đường theo hướng Bắc Nam xuyên qua Hoàng Thành ngày nay có tên là đường Hoàng Diệu và đường Nguyễn Tri Phương. Thành Thăng Long xưa
không còn gì giá trị ngoài hai đôi Rồng Lý bước lên Điện Kính Thiên để nhắc hậu thế nơi đây từng có mấy trăm năm vàng son.
Việc đập phá Hoàng thành, việc đổi tên Hà Nội, rồi việc lấp sông Tô Lịch để xây thành phố Hà Nội… là những hành động tàn nhẫn trói con Rồng
Thăng Long lại. Nỗi đau đớn đó khắc sâu trong ý thức của nhân dân và sĩ phu Bắc Kỳ, khiến cho họ sống kìm nén hơn,
cam chịu hơn và đôi lúc cũng trở nên hèn hơn.
Đến nay, kỷ niệm 1000 rồi, tên Thăng Long vẫnchưa hồi phục và cho dù UNESCO đã công nhận Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long là Di sản Văn hóa Thế giới. Nhưng trên ô đất nhỏ khu trung tâm Hoàng Thành, nền lâu đài thành quách còn đó, những con Rồng đá khắc
chạm tinh vi từ thời xây Điện Càn Nguyên của Vua Lý còn đó, cây cao thâm u còn đó, hình ảnh, tư liệu, bản vẽ vẫn còn khá đủ, nhưng tại sao nơi đây chỉ
có những ngôi nhà của trại lính Pháp, không một công trình nào được phục chế sau ngần ấy năm chuẩn bị Đại Lễ? kể cả nhà Thái miếu?
Thiếu kinh phí ư? Thiếu thời gian ư? Hay là thiếu tấm lòng?
Đêm ngày 1/9/ năm Canh Dần, ban quản lý Hoàng thành bố trí cho đoàn lễ của Nhà ngoại cảm Phan Oanh vào Trung tâm Hoàng thành để lập
Đàn tế Đức Vua Lý Thái Tổ trong căn lán tạm, dựng vội trên nền Điện Kính Thiên bằng vật liệu rẻ tiền do một công ty tư nhân cung tiến. Được biết, theo
lời giới thiệu của nhân viên quản lý ở đây, thì vào dịp xá tội vong nhân Rằm tháng Bảy, tại khu lán tạm này đã được đặt bài vị và lập Đàn tế rất nhiều
vong hồn thuộc 10 quốc gia khác nhau có sự chứng kiến của sứ quán nước họ. Họ đã đến đây, họ đã thiệt mạng dù bằng bất cứ lý do gì thì vong hồn
của họ vẫn đang vất vưởng ở đâu đó và cần được siêu thoát. Trong căn lán tạm này có một ban thờ, là nơi thờ Đức Vua Tổ của Kinh Đô Thăng Long
cùng chung với các vong hồn binh lính của ngoại bang???
Thờ cúng không phải là chuyện đùa của con trẻ. Tùy vị trí, tùy điều kiện, tùy phong tục tập quán của mỗi nơi. Tôn trọng người đã khuất, người
ta có thể lập bàn thờ, có thể không, nhưng bôi bác, phỉ báng và vô lễ với Tổ tiên như ở đây là không được phép.
Tại sao tên KINH ĐÔ THĂNG LONG bị lãng quên, chốn linh thiêng của HOÀNG THÀNH THĂNG LONG không được tôn trọng.
Vị Thái sư giúp nhà vua tìm ra thế RỒNG CUỘN HỔ CHẦU không được tôn vinh.
Có thể yên lòng chăng?
---------------------
Ghi chú
* Bà Phan Thị Oanh, tuổi Mậu Tý người làng Xuân Đỉnh. Nguyên là nhà giáo dậy môn Triết học. Sau một lần lâm bệnh cách đây 27 năm, bà xuất
hiện khả năng NHÌN TAI TRÁI CỦA AI, ĐỌC ĐƯỢC ĐỜI NGƯỜI ĐÓ. Bà từng hỏi một anh Công an:
“Tại sao chụp ảnh CMTND phải chụp tai trái?”
Anh Công an trả lời:
“Đó là quy định, tôi không biết”
Bà giải thích:
“Tai trái là cuốn sách nói về cuộc đời của con người. Nhìn tai trái của ai, có thể biết cuộc đời người đó”.
Bà không phải thầy bói. Nghe lời bà khuyên thì phải tự suy ngẫm để tìm ra câu trả lời.
** Ngày 10/10/2009 Vietnamnet đã đăng bài “Một Việt kiều muốn hiến tặng thành phố Hà Nội vườn hoa triệu đô” Thư đề nghị gửi đến lãnh
đạo Hà Nội một năm rồi, Hà Nội không trả lời đề nghị đó. Khu đất định làm vườn hoa hiện vẫn là bãi đất hoang bên Hồ Tây.
*** Ngày24/9/2010, ông Oliver Tessier, nghiên cứu viên của Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội dựa trên tư liệu còn lưu trữ trong các bảo tàng
quân sự của Pháp, đã báo cáo tại Trung tâm văn hóa Pháp 24 Tràng TiềnHà Nội đề tài “Từ chuyển đổi đến phá hủy Thành Hà Nội thế kỷ XIX,
những thách thức và quy hoạch không gian đô thị”.
****************************************************
KTS Trần Thanh VânTrung Quốc hôm nay? Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Quốc đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.
Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.
Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.
Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
PHẦN II
TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi.
Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).
* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).
Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
Địa mạch Việt Nam : Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu
Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam , thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á
Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?
Địa mạch Việt Nam : Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
Đông dân là một sức mạnh
Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng.
Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?