|
Nha Ly
Sept 28, 2010 6:37:49 GMT 9
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 6:37:49 GMT 9
Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn [/b]? Vietsciences-Trần Viết Điền [/center] Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. Cuộc hôn phối có ý đồ, với đạo diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà với “vị thần nhân dựa cột chùa”, một người họ Lý đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp “ thần nhân”, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lý Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang trong thời kì phải mai danh ẩn tích. Sự kiện bà mẹ Lý Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi bé cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy và cuối cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé Lý Công Uẩn thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu. Còn giả thuyết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp-Siêu Loại, không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư, đứng vào hàng tam bảo, lại làm việc phạm giới luật. Cuộc “cách mạng lam”, chuyển giao quyền lực từ họ Lê, đã mất lòng dân, sang họ Lý, phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí thức tam giáo, nòng cốt là trí thức Phật giáo, cùng nhau giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, là kế thừa « tâm nguyện » trăm năm kể từ thời thuộc Đường, thế kỷ IX, ấy là « củng cố và phát triển miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn hưng đạo pháp » của thiền sư Định Không (730-808). 1/Lý Công Uẩn, người thỏa niềm khát vọng của dân tộc Việt vào cuối thế kỷ X : Nhà nước Văn Lang sụp đổ, dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương bắc. Dẫu vài lần dân tộc Việt quật khởi, tưởng chừng nối được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn hoá giáo dục, nên dân tộc Việt rất chậm phát triển vào thời Bắc thuộc. Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân. Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền Lê, với Lê Long Đỉnh, giết anh giành ngôi, làm việc lỗi đạo… Các triều vua Đinh Lê, bó hẹp trong vùng núi Ninh Bình, rất lợi thế về quân sự, có quân công trong lịch sử, nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát triển toàn diện ; thậm chí để lại những việc làm quá ư vô đạo! Thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn hoá Văn Lang, một trung tâm Phật Giáo Luy Lâu-Thuận Thành, phía đông sông Hồng, nam sông Đuống, đã phát triển bền vững…Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết đáp ứng lòng dân…Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. Lý Công Uẩn không phải là con thần cháu thánh của truyền thuyết, chẳng phải là thiên tử của vị ngọc hoàng mơ hồ nào đó của cổ tích …mà ngài là một vì vua đươc nhân dân “hoài thai” suốt một thời đau đáu cho tiền đồ dân tộc; được sự giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ của thế kỷ X. Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3 Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn như Phật giáo; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ chưa thịnh hành lắm, ít nhiều “đồng loã” với “Tống nho”, đạo của những kẻ xâm lược, bao giờ cũng chủ trương đưa An Nam vào quỹ đạo bình nam của Thiên triều phương bắc. Đại bộ phận dân chúng làm sao quên được cái ách đô hộ nghiệt ngã ấy và làm sao quên được đại quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, từng giày xéo nước Việt. Những làng xã thuộc lưu vực sông Hồng, đến thế kỉ X đã có rất nhiều chùa lớn, đã đào tạo nhiều thiền sư giỏi giáo lý nhà Phật mà cũng uyên thâm tứ thư ngũ kinh.Vậy đường hướng giáo dục lúc bấy giờ là chọn Phật giáo làm quốc giáo nhưng lồng ghép Nho Lão kiểu tam giáo đồng nguyên vậy. Lý Thái Tổ cùng vị cố vấn tuyệt vời Vạn Hạnh, đã có những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa đất nước Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền móng cho một thời LÝ -TRẦN độc lập tự chủ, được ngẫng cao đầu đối với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm. Tượng Thiền sư Vạn Hạnh ở núi Tiêu sơn. Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh Tống nho. Xây dựng mới là việc cần làm, đào tạo người mới cho công cuộc cải cách mới là khát khao của giới trí thức lãnh đạo lúc bấy giờ. Vùng Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư, chỉ thích hợp cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nhưng nó không thể là đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương nghiệp, không là nơi tụ hội những trí thức giỏi, nghĩa là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất nước . Vì thế cho nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La mà thôi.Thành Đại La đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong thuỷ, mà thành Đại La còn là trung tâm của một vùng văn hoá có bề dày. Dẫu thành Đại La một thời là An nam đô hộ phủ của những quan thứ sử nhưng nó còn là nơi hội tụ anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực, luôn âm thầm gìn giữ bản sắc dân tộc, lấy triết lý Phật giáo làm kim chỉ nam, lấy chùa chiền làm nơi tu học của mọi giới và tạo những ổ đề kháng chống lại những gì thuộc về ngoại lai, có nguy cơ làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt.Vì vậy khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư, để ra Đại La thành là một sự bùng vỡ ý thức “cách mạng”, đã nung nấu từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ đã ra đời, hợp lòng người (ý trời), hợp địa lợi ( vật lực tài lực sung mãn của châu thổ sông Hồng ) và đạt lẽ nhân hoà ( cư dân vùng nông nghiệp sông Hồng đã có trình độ văn hoá cao, khá thuần hậu với các minh triết Việt). Lý Công Uẩn đã xuất hiện đầy huyền thoại nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự thực về gốc gác của ngài cả ngàn năm sau vẫn là một dấu hỏi nhức nhối ! 2/ Một số vấn đề chưa giải quyết dứt điểm trong việc tìm kiếm tông tích của Lý Công Uẩn : Khi tìm tông tích của Lý Công Uẩn, giới nghiên cứu quan tâm các địa danh Đình Bảng, Dương Lôi, Hoa Lâm. Có thời các nhà nghiên cứu cho rằng Đình Bảng là quê nội và Dương Lôi là quê ngoại của Lý Công Uẩn, hai làng nội ngoại cách nhau bởi rừng Báng, có mộ thiên táng của bà Phạm Thị Ngà (thân mẫu của Lý Công Uẩn) và về sau trở thành vùng đất « Sơn lăng cấm địa »với lăng mộ của các vua triều Lý. Có nhà nghiên cứu cho rằng ở Đình Bảng có Đền Đô thờ 8 vua Lý và như thế cha ruột của Lý Công Uẩn là quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tất nhiên giới nghiên cứu đã bác bỏ hướng nghiên cứu này từ vài năm nay. Gần đây lại phát hiện ở đình Dương Lôi thờ 8 vua Lý làm thành hoàng, có đền thờ Lý Thánh mẫu (thờ Minh Đức Thái Hậu Phạm Thị Ngà), Chùa Cha Lư (tức chùa Minh Châu) thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Ngà nữa. Lý Công Uẩn chào đời trong một túp lều ở phía sau chùa Cha Lư (chùa Minh Châu). Một số nhà sử học lại tạm thời kết luận Dương Lôi là quê nội của Lý Công Uẩn, còn Hoa Lâm( Đông Anh) là quê ngoại.Tuy nhiên làng Dương Lôi hiện còn nhiều người họ Phạm, có mối quan hệ huyết thống với bà Phạm Thị Ngà, trong khi đó ở Hoa Lâm có nhiều người họ Nguyễn (gốc Lý), khiến nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn băn khoăn về nguyên quán Hoa Lâm của bà Phạm Thị Ngà. Nhà nghiên cứu Chu Minh Khôi viết : « Khi chúng tôi đề cập về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn Quyết, trưởng thôn Dương Lôi ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác với những người ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở Hoa Lâm lại có dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn thất nhà Lý, như vậy chưa đủ khẳng định Hoa Lâm là quê hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh đô Thăng Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông Đuống, nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây cung thất nghỉ ngơi, giải trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như vậy việc tại Hoa Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được. ».(Giác Ngộ online). Một số nhà sử học dựa vào hai chứng tích để minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ : Đoạn văn khắc chữ Hán trên bia Lý gia linh thạch (khắc vào năm 1793) "…Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu… » ở chùa Tiêu và đôi câu đối cổ: "Mạch tụ quân vương truyền thắng địa/Tích lưu Lý mẫu quán danh phương" bảo lưu ở đình thôn Thái Đường ở xã Mai Lâm. Tuy nhiên văn khắc này là do người đời sau khắc vào năm 1793 nên độ tin chưa cao. Cách đây vài năm, ở Hà Nội có tổ chức một hội thảo ngày 27/12/2008 nhằm trao đổi vấn đề tông tích của Lý Công Uẩn, nhưng cuộc hội thảo vẫn chưa khẳng định được gốc gác của Lý Công Uẩn. Điều nổi cộm là các thành viên hội thảo thấy rằng các học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn đặt vấn đề Lý Công Uẩn là con ruột của Lý Vạn Hạnh là không thuyết phục. Tuy nhiên công bằng mà nói, cũng qua sự tìm tòi tông tích của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp, Bắc Ninh của các nhà nghiên cứu và đã công bố tại hội thảo, càng ngày càng có thêm dữ kiện giúp các nhà nghiên cứu có hy vọng tìm được dòng dõi của Lý Công Uẩn. G.S Hoàng Xuân Chinh - Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nêu ý kiến :“Chưa thể khẳng định chắc chắn rằng, hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm là quê hương nhà Lý bởi chứng cứ đưa ra chưa thật đầy đủ, và không phải ngẫu nhiên, Đền Đô lại được xây dựng trên đất Đình Bảng. Tuy nhiên, ý kiến đưa ra tại cuộc tọa đàm này sẽ góp phần gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo”. PGS.TS Tống Trung Tín - Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam gợi ý: “Việc phát hiện lan can sấu đá là minh chứng cho việc tồn tại của công trình kiến trúc cung đình tại Hoa Lâm. Những di vật tìm thấy ở nơi đây cũng cho thấy, đây là nơi cư dân sinh sống liên tục từ thời Hán cho đến Tùy Đường kéo dài tới thời Lê. Riêng về vấn đề gốc tích quê hương nhà Lý cần phải đi sâu và nghiên cứu thêm nữa. Những hiện vật đang ẩn dưới lòng đất sẽ là nguồn tư liệu phong phú và thuyết phục cho những nhận định mới của sử học”. Xét về tình riêng thì vua Lý Thái Tổ cũng có nỗi niềm là con không có cha ruột một cách chính danh, nhưng xét về nghĩa chung của cộng đồng dân tộc Việt thì ngài là đứa con tuyệt vời của quảng đại quần chúng. Ngài được quần chúng có văn hoá thai nghén, đựơc tấm lòng nhất thống của nhân dân nuôi dưỡng và được lớp trí thức tam giáo tôn vinh. Chính Lý Công Uẩn đã ý thức đầy đủ điều ấy, và đã không phụ lòng quần chúng, không phụ lòng lớp trí thức mong mỏi nơi ngài. Khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn chưa vội truy phong cho ông bà nội. Việc này bị sử thần phê phán nhà vua làm không đúng điển lễ . Thực ra, vị cố vấn thông thái Vạn Hạnh thừa biết điều ấy, nhưng chưa truy phong ông bà nội của ngài là vì trước đó đã tạo huyền thoại Lý Công Uẩn là con thần. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giới nghiên cứu khó trả lời câu hỏi cha ông của Lý Công Uẩn là ai. Nhưng rồi Lý Công Uẩn cũng phải truy phong cha là Hiển Khánh Vương mà không là Hiển Khánh Đế (?). Dữ kiện này phản ánh một điều sâu kín của Lý triều : Lý Thái Tổ truy phong ngầm cho ông nội của ngài đến bậc đế chăng ? 3/ Phải chăng Lý Công Uẩn là cháu nội của sứ quân Lý Lãng Công của vùng Siêu Loại ? Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân, chúng tôi để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại , có trung tâm Phật giáo Thuận Thành- Luy Lâu; đó là sứ quân Lý Lãng Công, tức là Lý Khuê, một vị hùng trưởng của miền đất nằm hai bờ sông Đuống. Lý Khuê hay Lý Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại.Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh nhau với quân Đinh Bộ Lĩnh bị thua và tử trận ở làng Dương Xá.Theo thần tích đền thờ Lưu Cơ, còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Thôn Dương Đanh của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu ? Con cháu của Lý Khuê còn không ? Sứ quân Lý Khuê không có mối quan hệ với Phật tử nói chung và Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn Hạnh nói riêng của chùa Lục Tổ hay sao ? Ảnh chụp vệ tinh làng Dương Xá (có thôn Dương Đanh), nơi Lý Lãng Công đánh nhau với tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh và tử trận.
|
|
|
Nha Ly
Sept 28, 2010 6:46:14 GMT 9
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 6:46:14 GMT 9
Cơ sở của giả thuyết công tác: Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh… Sứ quân Lý Khuê đặt bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết vị sứ quân này được lực lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng hộ...Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật giáo lúc bấy giờ vậy. Gần đây trong bài « Đạo Phật và nền văn hóa Việt Nam », đăng ở ấn phẩm mùa Hạ của « Văn hóa Phật Giáo Việt Nam », hòa thượng Thích Minh Châu nhận định : ««Chư tăng là người hiểu biết trong xóm làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân kính trọng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đứng về phía những người yêu nước. Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng » (tr. 8). Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại, cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một Phật tử có uy vọng, và tất nhiên không thể không có liên hệ với chùa Tiêu. Qua Thiền uyển tập anh ngữ lục, được biết Thiền sư ĐỊNH KHÔNG (730-808) thời thuộc Đường, người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn của ngài được củng cố và phát triển, họ Lý của ngài sẽ làm vua, nước Việt độc lập và Phật pháp được chấn hưng. Khi sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng (785-805), đào được pháp khí cổ, sư giải đoán họ Lý về sau có người làm vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Tâm nguyện của thiền sư được ký gửi qua bài kệ: Pháp lại xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công. Dịch: Pháp khí hiện ra Khánh đồng mười tấm Họ Lý làm vua Công đầu Tam phẩm Trong bài kệ dự đoán, câu cuối “Tam phẩm thành công” được dịch “ Công đầu tam phẩm”phải chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi “ truyền thừa” cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu “Tam phẩm” là “ba đời họ Lý uy vọng” mời thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: “Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.”. Quả “dị nhân đến phá hoại mạch đất” là Cao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền “pháp ý” của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người hương Cổ Pháp) về những pháp thuật “tài bồi thiên đức” cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp... Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền “tâm nguyện” của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025) và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc “sứ mạng” mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là “ chiến lược trăm năm” được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một mắt xích trong “chiến lược trăm năm”, được thầy trò Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều hợp…Chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm khát vọng độc lập cho nước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập anh: "… Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp… Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ: Đại Sơn long đầu khởi Cù Vĩ ẩn Minh Châu Thập bát tử định thành Miên thụ hiện long hình Thỏ kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh" ( Nguyễn Minh Khôi, Đi tìm gốc tích vua Lý Thái Tổ, Giác Ngộ) Nguyễn Minh Khôi viết : « Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời từng dịch bài kệ như sau: "Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Ông Nguyễn Đình Phúc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hồng kể: Năm 1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, GS đã thốt lên: "Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh!". Sau đó, GS đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: "Đầu rồng hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu" » . Ảnh chụp vệ tinh núi Đại Sơn, ở bờ bắc sông Đuống, gần làng Dương Lôi, nơi khởi phát (long đầu khởi) của sứ quân Lý Lãng Công. Chúng tôi tiếp cận bài kệ của Truởng lão họ Đinh, hoàn toàn nhất trí với cách diễn giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng với hai câu đầu của bài kệ. Trên bình diện phong thủy, long mạch ở Cổ Pháp với đầu rồng là Đại Sơn, và đuôi rồng (rồng non, tức cù) ở chùa Minh Châu (Dương Lôi). Và đuôi rồng đã ứng phát cho Lý Công Uẩn, tức họ Lý đã trở thành đế vương với Lý Thái Tổ. Thế thì đầu rồng « Đại Sơn » ứng phát vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, bắt đầu được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa khóa để giải mã bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn ? Rõ ràng con cù (rồng non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời « tiềm long » ở Đình Bảng-Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…. Còn đầu rồng phải ứng phát một người họ Lý hương Cổ Pháp, đã khởi nghiệp ở Đại Sơn, thuộc Dương Lôi mà thôi. Ngọn núi Đại Sơn này có sông Đuống vờn mặt trước, nhìn về Dương Xá, Đại Từ…của vùng Thuận Thành-Luy Lâu, nơi hoạt động của sứ quân Lý Khuê, tức Lý Lãng Công vào những năm Bính Dần (966), Đinh Mão (967). Hiện nay tại thôn Dương Đanh, xã Dương Xá còn thờ Lý Lãng Công. Trong khoảng từ 936 đến 974 không có vị nào thuộc họ Lý của hương Diên Uẩn, ngoài Lý Khuê, đã khởi nghĩa !Vậy Lý Lãng Công là ứng với đầu rồng đã khởi, nhưng thất bại, và các con cháu của ngài phải ẩn tu hoặc mai danh ẩn tích, đổi họ Lý thành họ Nguyễn vào thời Đinh (968-991), thời Tiền Lê (991-1009). Chùa Cha Lư ( Minh Châu), nơi thờ Phật và bà Phạm Thị Ngà. Sau chùa là nơi chào đời của Lý Công Uẩn. Có khả năng trước đó chùa Cha Lư là nơi thờ những vị quan họ Lư của triều Đường, thường dâng sớ can ngăn vua Đường phát binh dẹp những cuộc nổi dậy của dân Giao Châu.Thế thì Lý Khuê phải là người con kiệt hiệt của dòng họ Lý của hương Cổ Pháp vậy. Cuộc nổi dậy của sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại, bờ nam sông Đuống không thể không có sự ủng hộ công khai hoặc bí mật của Lục Tổ Thiền Ông, thiền sư Vạn Hạnh cùng Phật tử của chùa Tiêu. Lý Khuê nổi dậy ứng với câu kệ « Đại Sơn long đầu khởi » của thiền sư Định Không. Và Lý Khuê khởi nghĩa được hai năm thì bị diệt, con cái phải đi trốn, mai danh ẩn tích, thậm chí phải sống trong rừng, trong hang đá, điều kiện sinh sống thiếu thốn. Hai câu cuối bài kệ của thiền sư Định Không, có màu dịch lý, trong đó chữ « nguyệt » tượng « âm », chữ « nhật » tượng « dương », âm là tối, chưa tốt, ẩn tàng ; còn dương là sáng, tốt đẹp, rực sáng. Lúc « nguyệt nội » thì hai sao xấu (kê, thử) và khi một sao tốt (thỏ) chiếu rọi, chuyển âm sang dương, tức « nhật xuất » thì thành công rực rỡ. Trong nhị thập bát tú thì sao MÃO NHỰT KÊ (GÀ) chỉ tốt cho nông nghiệp, còn giá thú, an táng, dựng nhà đều xấu. Nếu dựng nghiệp thì tai họa ập tới ngay những năm đầu tiên. Sao HƯ NHẤT THỬ (CHUỘT) cũng là một sao xấu, nếu tạo tác thì gặp tai ương, gia đình ly tán, cháu con trôi dạt tha phương. Hai sao trên thuộc loại HUNG TINH, còn một trong những CÁT TINH là sao PHÒNG NHỰT THỔ (THỎ). Sao này rất tốt cho tạo tác, giá thú, an táng, còn dựng nghiệp thì mọi sự đều tốt. Ảnh chụp vệ tinh vùng núi Tiêu Sơn, có chùa Ứng Thiên Tâm, nơi truyền thừa tâm nguyện của thiền sư Định Không, và nơi thiền sư Vạn Hạnh hoàn thành tâm nguyện ấy. Và khi Lý Khuê bị thất bại, nhóm Thiền Ông-Vạn Hạnh phải “cưu mang” đám con cháu của Lý Khuê, tạo điều kiện cho cha, bác, chú của Lý Công Uẩn mai danh ẩn tích (tiềm long) để tránh sự bố ráp gắt gao của triều Đinh và Tiền Lê. Vì tin vào câu “Cù vĩ ẩn Minh Châu” nên Vạn Hạnh đã tiến hành việc cưới bà Phạm Thị Ngà cho một người con trai của Lý Lãng công (tức Hiển Khánh vương). Vì tạo cho Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh, tránh sự truy bắt của triều Đinh, Tiền Lê nên Thiền Ông ẩn tích, Vạn Hạnh đã giấu tông tích của Lý Khuê và mối quan hệ cháu ông giữa Lý Công Uẩn với sứ quân họ Lý vậy. Sau khi sứ quân Lý Khuê bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại, dòng họ Lý của sứ quân Lý Khuê một số bị giết, nhưng số còn lại phải đi ẩn, ví dụ vào rừng sinh sống, vào tu ở các chùa trong núi sâu nhằm mai danh ẩn tích. Lý Vạn Hạnh mặc dầu họ Lý nhưng cũng có thời kỳ phải mang họ Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí từng chép: “Đời Lý :Nguyễn Vạn Hạnh : người huyện Đông Ngàn , lúc bé thông minh khác thường , rộng thông ba học phái; xuất gia thâm thuý về thiền học, nói ra phần nhiều là lời sấm. Lê Đại Hành thường triệu đến hỏi công việc. Lý Thái Tổ phong làm quốc sư.”(tập4, tr146). Ngay vua Lê Đại Hành cũng rất gờm con cháu họ Lý, có khi suýt bắt được Lý Công Uẩn để trừ hậu hoạ. Hơn ai hết, Lê Đại Hành thừa biết họ Lý đang được lòng dân , đa phần là phật tử. ĐNNTC chép : “Đền thần phụ quốc: ở xã Tam Tảo huyện Yên Phong . Xưa Lê Đại Hành đắp thành Hoa Lư, Lý Công Uẩn làm phu đắp, đến đêm Lê Đại Hành mộng thấy thần cho biết là có bậc quý nhân đương làm việc đắp thành ở đây. Thức dậy sai người đi tìm, thì Công Uẩn đã đi rồi. Khi Công Uẩn đi đến xã Tam Tảo, thấy hai vợ chồng già đang cày ruộng, bèn đem duyên do chuyện mình nói cho biết . Ông già liền bảo Công Uẩn lấy bùn trát khắp mình và cùng cày ruộng; sau đó ông già mang Công Uẩn về nhà, đào đất làm hầm cho ở và chứa nước ở trên hầm. Lê Đại Hành xem bói, thấy quẻ bói nói : “nước ở trên người”. Vì thế, Lê Đại Hành tưởng là Công Uẩn đã chết ở sông rồi. Đến khi Lý Công Uẩn được nhà Lê truyền ngôi, bèn phong ông già làm Phụ quốc đại vương và phong vợ ông làm vương phi, làm nhà cho ở phường Phượng Vũ. Sau khi ông già chết, người địa phương lập đền thờ ngay ở chỗ ông già ở”(tr108). Sự kiện này phản ánh một thực tại; rằng các vua Đinh, Lê vẫn gờm họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại và bản thân Lý Công Uẩn cũng biết vai trò, vị thế của mình trong xu thế mới. Sử liệu này cho thấy sự đùm bọc của nhân dân đối với Lý Công Uẩn, người đại diện cho niềm khát vọng của họ. Đinh Tiên Hoàng tiếp tục cử tướng Lưu Cơ giữ thành Đại La, sau khi dẹp loạn thập nhị sứ quân, là để khống chế các tộc họ có uy vọng ở miền Kinh Bắc, trong đó có họ Lý của Lý Khuê. Sự kiện “sét đánh cây gạo” không là biến cố ngẫu nhiên. Từ năm 936 cây gạo đã được Trưởng lão Đinh La Quí An trồng ở làng Dương Lôi. Nếu sét đánh cây gạo khoảng năm 1009 hay 1010 trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi khoảng trên dưới một năm thì không hợp lý. Thật vậy, cuộc vận động để đưa dòng dõi họ Lý lên ngôi phải được tiến hành cả trăm năm, nhưng từ năm 936 cây gạo được trồng, cho đến năm 1009 mới có vụ cây gạo ở Dương Lôi bị sét đánh và xuất hiện bài sấm ký thì thì không có chuyện Lý Công Uẩn bị Lê Đại Hành cho người tìm Lý Công Uẩn nói riêng và họ Lý nói chung để trừ hại. Có khả năng dư luận về bài sấm ký có thể xuất hiện sớm hơn nhiều so với năm Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau khi bị tử trận ở Dương Xá (tức ở làng Thổ Lỗi), thân nhân đã bí mật đưa hài cốt Lý Khuê về táng ở Mai Lâm, Đông Ngàn. Hiện nay ở Hoa Lâm (Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội) có mộ Hùng Công trong khu vực “Lý gia lăng”. Trong bài “Hoa lâm viên và những dấu ấn triều Lý” (web chudu 24) có đoạn: “Gia phả và nhà thờ họ Nguyễn gốc Lý tại thôn Du Nội còn ghi rõ. Mai Lâm ngày nay còn ghi nhận những địa danh như: đồng Bẫy Sập, mộ Hùng Công, miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh, cầu Giá Ngự… gắn với những sự kiện vui, buồn của thời Lý. Một ngàn năm qua đi mà những địa danh này vẫn còn đó, ghi lại dấu tích xa xưa ở một vùng quê.” Những địa danh lịch sử ở Hoa Lâm như mộ Hùng Công, miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh…không gợi mở về những ngày Lý Công Uẩn lên ngôi êm thắm mà như nhắc nhở về một vị hùng trưởng họ Lý khởi nghĩa và bị thất bại ! Mộ Hùng Công phải chăng là ngôi mộ bí mật của Lý Khuê ? Như thế thì mộ bà Lý triều quốc mẫu ở Hoa Lâm là mộ phu nhân của Lý Lãng Công ? Ảnh chụp vệ tinh khu vực có đền Lý Bát Đế (Đền Đô) và vùng « Sơn lăng cấm địa » ở Đình Bảng, Bắc Ninh. 4/ Hoa Lâm là một trong những vùng tụ cư của họ Lý bản địa vào thời Vãn Đường ? Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về tông tích cha mẹ của Lý Công Uẩn, các nhà sử học, các nhà nghiên cứu thường ít quan tâm nhân vật lịch sử của vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, quần tụ hai bờ sông Thiên Đức hay sông Đuống, đó là bà nội của Lý Công Uẩn. Đền thờ Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm Bà nội của Lý Công Uẩn cũng là một nhân vật lịch sử bí ẩn, bà chỉ xuất hiện trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, với dòng ghi chép ngắn ngủi : “Mậu Ngọ (Thuận Thiên) năm thứ 9 (1018), …. Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy”(s đ d.tr.245). Tại sao triều đình Lý Thái Tổ, có cố vấn Vạn Hạnh uyên thông tam giáo, để chậm trễ việc truy phong bà nội của Lý Công Uẩn ? Tại sao truy phong bà nội là hậu, có thụy hiệu mà không truy phong ông nội của Lý Công Uẩn? Việc truy phong bà nội nhưng gác lại ông nội chứng tỏ có điều uẩn khúc trong tôn tộc nhà Lý. Phải chăng, trong thời kỳ vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý vùng Cổ Pháp -Siêu Loại đã tạo những huyền thoại về một Lý Công Uẩn là con thần, nên triều đình nhà Lý, có quốc sư Vạn Hạnh, đã giấu tông tích thân phụ Hiển Khánh vương, giấu tông tích cha của Hiển Khánh Vương tức ông nội của Lý Công Uẩn ?. Phải chăng bà vợ của Lý Lãng Công chính là phu nhân Phạm Thị Tiên, từng trú ẩn ở Hoa Lâm. Bà Phạm Thị Tiên, sau khi chồng bị bại, đã mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm. Làng Dương Lôi có vọng tộc là Phạm tộc, còn hoa Lâm có vọng tộc là Lý tộc. Những ngày mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm, bà Phạm Thị Tiên thường vãn cảnh chùa Tiêu Sơn để liên lạc với con cháu đang trốn ở vùng Dương Lôi-Đình Bảng, rừng Báng, Tiêu Sơn. Bà đã bàn với hai người cháu tâm phúc, thiền sư Khánh Vạn( tức sư Vạn Hạnh) và Khánh Văn để lo cưới vợ cho một trong các con trai của bà. Vị này có thể ẩn cư ở chùa Tiêu Sơn hoặc rừng Báng Dương Lôi. Chính hai vị thiền sư Khánh Vạn và Khánh Văn nhân một chuyến về thuyết pháp ở Minh Châu, tìm được cô gái nghèo họ Phạm, tức Phạm Thị Ngà và thiền sư Vạn Hạnh đã tạo điều kiện cho cô Phạm Thị Ngà kết hôn với con trai của hai vợ chồng Lý Khuê , Phạm Thị Tiên trong bí mật. Bà Phạm Thị Ngà cũng có với cha của Lý Công Uẩn hai trai…Vì phải sống trong rừng, điều kiện quá khó khăn, bà Ngà phải nhờ sư Lý Khánh Văn nuôi Lý Công Uẩn khi ngài lên ba tuổi… Nghiên cứu bài viết của Nguyễn Minh Khôi trên báo Giác Ngộ thì thấy rằng hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm đều có đền thờ Phạm mẫu, nhưng tên gọi hai công trình kiến trúc khác nhau. Ở Dương Lôi goị là “đền thờ Lý Thánh Mẫu”, ở Hoa Lâm gọi là “đền thờ Lý triều quốc mẫu”. Tại đền thờ Lý triều quốc mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Tiên, còn tại đền thờ Lý triều thánh mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Ngà. Bà Phạm Thị Ngà rõ ràng theo truyền thuyết của làng Dương Lôi là mẹ đẻ của Lý Công Uẩn, nhận công việc thủ hộ ở chùa Thiên Tâm, thọ thai với “thần nhân dựa cột chùa” ( Hiển Khánh Vương), còn bà Lý triều quốc mẫu ỏ Hoa Lâm là tín nữ đến vãn cảnh chùa Thiên Tâm và cảm “thần hầu” trong hang đá, sinh ra vua Lý, chính là Hiển Khánh Vương (thân phụ của Lý Công Uẩn). PGS Trịnh Bỉnh Dy cho rằng chùa Tiêu vẫn còn tấm bia Lý gia linh thạch khắc vào năm 1793, có đoạn “Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu, bất giác hữu thần”. Như thế những tác giả của văn khăc trên bia “ Lý Gia linh thạch bi” ở chùa Thiên Tâm vào thời Tây Sơn, đã tưởng nhầm Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên, mẹ của Hiển Khánh Vương, có mộ ở Hoa Lâm với Lý Thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở Dương Lôi. Bà nội Phạm Thị Tiên, phu nhân của Lý Lãng Công, ẩn cư ở Hoa Lâm, có nhiều người gốc họ Lý, còn bà Phạm Thị Ngà ẩn cư ở rừng Báng của làng Dương Lôi, nguyên quán của mình. Nếu cả Dương Lôi và Hoa Lâm đều có mộ Phạm Thị , đều là mộ của bà Phạm Thị Ngà thì mộ của bà nội của Lý Công Uẩn ở đâu? Dẫu sao năm 1018, Lý Thái Tổ có truy phong bà nội làm hậu và dâng tên thụy; chỉ giấu hành tung của Lý Lãng Công. Và cũng tạo ra huyền thoại Lý quốc mẫu cũng gặp thần hầu và sinh ra Hiển Khánh Vương, như thế Lý Thái Tổ vẫn là con thần cháu thánh vậy. Với kiến giải này, hiểu được vì sao họ Lý lại tế lễ tiền nhân ở Thái Đường, Hoa Lâm, nơi có Lý gia lăng. Vậy lăng mộ của Lý thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở rừng Báng, còn lăng của Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm, cùng với mộ chồng là mộ Hùng Công, thuộc Lý gia lăng. Ở Dương Lôi có Thái miếu, còn ở Hoa lâm có Thái đường. Nếu thế thì Hoa Lâm có mộ ông bà nội của Lý Thái Tổ, cho nên ở Hoa Lâm được họ Lý quần tụ, thường xuyên tế lễ ở nhà Thái Đường, nên mới xảy ra vụ án Trần Thủ Độ diệt các tôn thất nhà Lý đang cúng tế ở Lý gia lăng, để lại địa danh đồng Bẫy Sập. Lăng mộ Lý Thái Tổ chắc chắn ở Sơn lăng cấm địa, cùng với lăng mộ các vua Lý khác. Nhưng tại sao dân Hoa Lâm vẫn còn ký ức về mộ vua Lý Thái Tổ trong khu Lý gia lăng? Thực ra khi vua Lý Thái Tổ truy phong bà nội Phạm Thị Tiên là hậu thì ngầm truy phong ồng nội Lý Khuê là đế, và mộ của Hùng Công trở thành “mộ vua Lý”. Do không biết “mộ vua Lý” là mộ vua Lý nào, dân sở tại cứ tưởng là mộ vua Lý Thái Tổ! Con cháu họ Lý đang hành lễ ở Bãi Sập thuộc khu vực Lý Gia Lăng ở Hoa Lâm, Đông Anh, Hà Nội. Tại di tích Hoa Lâm Viên ở xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, các nhà khoa học của đoàn khảo sát của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Viện Khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích và hiện vật thời Lý-Trần, đặc biệt là những hiện vật gốm tráng men cao cấp có niên đại thế kỷ VII-X và gạch "Giang Tây Quân" - loại gạch đã tìm thấy ở 2 kinh đô Hoa Lư và Thăng Long. Phát hiện này phần nào hé mở những thông tin về các công trình kiến trúc thời Lý-Trần tại Hoa Lâm Viên, một di chỉ nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Về những phát hiện này, chúng tôi quan tâm lan can sấu đá. Mô típ “rồng-sấu” này như là một gạch nối giữa motip rồng thời Ngô, Đinh với môtíp rồng thời Lý. Thật vậy rồng ở lan can này chưa hoàn chỉnh như con rồng thời Lý, nó còn mang dáng vẻ sấu ( hay cù) trên chuông đồng phát hiện ở thế kỷ IX, X của giới khảo cổ học. Chưa chắc cặp “rồng-sấu” phát hiện được là của một hành cung của vua Lý Thái Tổ cho xây dựng ở Hoa Lâm. (Nguồn: HNM ) Những di vật gốm tráng men cao cấp thuộc thế kỷ VII-X phát hiện ở Hoa Lâm, Đông Anh cùng với thư tịch cổ cho phép chúng tôi đặt giả thuyết vùng Hoa Lâm Đông Anh từng là nơi cư trú của dòng tộc họ Lý bản địa, có uy vọng, từng có mưu đồ cát cứ thời Vãn Đường, kéo dài trong các thế kỷ VII,VIII, IX, X. Thật vậy, Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: “ Đinh Hợi, (687), (Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4 ).Mùa thu, tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu,Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư Mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh đánh giết được Kiến.”(sđ d, tr.189).Giao Châu loạn, Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722. Giặc Côn Lôn-Chà Bà chiếm phủ Trấn Nam đô hộ ở La thành, kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình, quân cứu viện đánh tan quân giặc. Bá Nghi đắp lại La Thành năm 767. Rồi năm 791, Phùng Hưng vốn nhà hào phú, sức có thể vật hổ đánh trâu, dấy binh đánh Cao Chính Bình, chiếm phủ trị, tiếc thay sớm qua đời, con là Phùng An lên thay, tôn xưng cha là Bố Cái Đại Vương. Khoảng tháng 5, năm 791 nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị, cử Triệu Xương làm đô hộ, phủ dụ Phùng An, An đem quân hàng…Năm 819, Dương Thanh là một tù trưởng bản địa, từng được nhà Đường cử làm thứ sử Hoan Châu, khởi nghĩa nhân quan đô hộ Lý Tượng Cổ hà khắc, đánh phá phủ thành, giết Tượng Cổ. Nhà Đường sai Quế Trọng làm An Nam đô hộ, đánh Dương Thanh không được. Lý Nguyên Gia được cử làm đô hộ, đánh nhau với Dương Thanh cũng như dụ hàng cũng không xong. Lý Nguyên Gia tin phong thủy nên dời phủ thành. ĐVSKTT chép: “Giáp Thìn(824),(Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4).Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay.(Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi,có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ cao đến đây đóng đô dựng phủ…”(sdd tr.193)…Hậu bán thế kỷ IX, Giao Châu lại loạn vì giặc Nam Chiếu, Cao Biền đánh dẹp, lại đắp thành Đại La to rộng bề thế hơn…Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất, họ Khúc ở Giao Châu tự lập Tiết độ sứ. Vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh dẹp họ Khúc, lại cử Lý Tiến làm thứ sử. Bộ tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ ở Ái Châu đem quân đánh Tiến, chiếm được Đại La thành…Như thế thời Vãn Đường, các họ Lý, Phùng, Khúc, Dương có mưu đồ nổi dậy để tự chủ ở Giao Châu. Vậy ở bờ bắc sông Đuống có khả năng là vùng lập nghiệp của họ Lý, họ Khúc kế thế làm hùng trưởng.Như thế hành trạng của sư Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quý An cùng tâm nguyện của họ có thể hiểu được. Vậy thủ phủ của họ Lý là Hoa Lâm, gần ngã ba sông Hồng, sông Đuống… Những năm loạn lạc họ Lý cứ kinh dinh đất đai về phía đông, đông bắc phía bờ bắc sông Đuống, tạo nên hương Diên Uẩn ở bờ bắc sông Đuống. Những ngôi chùa cổ ở Kinh Bắc được dựng có họ Lý góp công sức như chùa Lục Tổ, chùa Cổ Pháp (chùa Dặn) ở Đình Bảng, chùa Cha Lư (chùa Minh Châu) ở Dương Lôi… Còn họ Dương có khả năng kinh dinh vùng đất thuộc hương Thổ Lỗi, nên về sau có làng Dương Xá. Có khả năng Lý Khuê, là một hùng trưởng ở Hoa Lâm, thời thập nhị sứ quân vượt sông Đuống, về phía nam chiếm Thổ Lỗi để đặt bản doanh vậy. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu Dương Lôi là quê nội thì ở Dương Lôi phải có nhà Thái Đường để họ Lý thường xuyên tế lễ tiên tổ họ Lý và cả ngàn năm sau con cháu họ Lý(đã đổi thành họ Nguyễn) phải tìm về. Đằng này con cháu họ Lý vẫn hằng coi Hoa Lâm là quê nội . Còn làng Dương Lôi, vẫn còn tộc họ Phạm, luôn truyền ức làng mình là quê ngoại và là nơi bà Phạm Thánh Mẫu sinh Lý Công Uẩn vào những ngày gian khổ. Điều thú vị là bà nội của Lý Công Uẩn cũng gốc họ Phạm Dương Lôi, lấy chồng là hùng trưởng Lý Khuê và làm dâu nhà họ Lý ở Hoa Lâm . 5/Thay lời kết: Khi đã lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã truy phong cha là Hiển Khánh vương và tôn tạo ngôi mộ của cha ở rừng Báng, không xa chùa Thiên Tâm và Dương Lôi, được dân gian gọi là mộ Hiển Khánh Vương. Lại truy phong mẹ là Minh Đức Thái Hậu và cũng xây lăng cho mẹ trong rừng Báng. Do chưa tiện truy phong ông nội Lý Lãng Công, một vị sứ quân đã tử trận, nhưng sau đó truy phong bà nội làm hậu, ban tên thụy để cúng tế; thế thì bí mật truy phong ông nội là hoàng đế vậy… Lý Công Uẩn bí mật dựng mộ phần của ông nội Lý Lãng Công ( mộ Hùng Công) và mộ của bà nội Phạm Thị Tiên (mộ Phạm quốc mẫu) ở Hoa Lâm. Rõ ràng Lý Công Uẩn có người anh được ban tước Vũ Uy Vương , có em là Dực Thánh Vương.Lại có một người chú ruột còn sống và được phong Vũ Đạo Vương, con ông chú là Trung Hiển lại giứ chức Thái úy Lý triều. Như thế Lý công Uẩn có một gia tộc đàng hoàng, nhưng do ông nội là sứ quân Lý Lãng Công, bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại và Triều Đinh, Tiền Lê tầm nã gắt gao con cháu Lý Lãng Công, gia đình của Lý Công Uẩn phải sống trong ly tán, bí mật. Nếu không có mối quan hệ huyết thống với sứ quân Lý Khuê thì bà con thân thuộc của thiền sư Vạn Hạnh chỉ cần đổi họ và sống bình thường, đằng này cha mẹ của Lý Công Uẩn phải kết hôn trong bí mật, sống trong rừng, chịu muôn vàn khó khăn và chết thảm ! Do cuộc vận động nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý hương Cổ Pháp đã tạo ra huyền thoại cha con Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh nên vẫn giữ bí mật mối quan hệ huyết tộc với Lý Khuê. Thôn Dương Đanh, làng Dương Xá được lệnh ngầm tế lễ sứ quân Lý Lãng Công và ở Thái Đường Hoa Lâm là nơi hiệp tế tiên tổ họ Lý, trong đó có ông nội Lý Khuê và bà nội Phạm Thị Tiên của Lý Thái Tổ. Từ giả thuyết công tác nêu trên, chúng tôi thử dựng một phổ hệ gia tộc Lý Công Uẩn và Quốc Sư Vạn Hạnh. Phả đồ giả thuyết về tông tích của Lý Công Uẩn, trong đó chọn thân phụ của Định Không thiền sư làm tổ họ Lý và phải chăng ngài tổ này là hậu duệ của Lý Tự Tiên, cùng khởi nghĩa với Đinh Kiến vào năm 687? Tạm xềp Định Không thuộc đời thứ nhất, ngang hàng ông cố của Lý Khuê. Có khả năng đệ tử Thông Thiện cũng thuộc họ Lý, ngang đời với ông nội của Lý Khuê. Đệ tử Đinh La Quí An của Thông Thiện, người trị phép thuật của Cao Biền và trồng cây gạo lịch sử ở Dương Lôi là ngang đời với cha của Lý Khuê và là hậu duệ của Đinh Kiến. Họ Khúc từng khởi nghĩa và tự chủ, có hậu duệ là Khúc Lãm, được Trưởng lão Đinh La Quí An nhắc đến trong lời trối… Chúng tôi đề xuất một giả thuyết công tác trong công cuộc tìm kiếm tông tích của nhà vua huyền thoại Lý Thái Tổ. Với tinh thần khoa học, chúng tôi dựa vào những bài kệ mang màu sắc sấm ký được chép trong Thiền Uyển tập anh ngữ lục, hoặc bài sấm ký xuất hiện trên cây gạo… để tìm sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn. Thiền sư Vạn Hạnh đã hoàn thành xuất sắc tâm nguyện của họ Lý nói riêng và của dân Việt nói chung. Dẫu là thiền sư ngài đã đạt vinh quang tột bực, cũng như người cháu, người con nuôi và người học trò xuất sắc Lý Công Uẩn. Tuy nhiên để đạt được sự vinh quang ấy thì tự đáy lòng thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ vẫn đau đáu một nỗi niềm không nguôi là Lý Công Uẩn là người « mất gốc » ! Vì lẽ đó, vị cố vấn Vạn Hạnh đã bàn với vua Lý Thái Tổ khi vừa lên ngôi đã phong tước vương cho chú, anh, em ; truy phong mẹ và cha…tức là biến huyền thoại người thần của Lý Công Uẩn thành bậc có cha là thần và mẹ là người thực của cõi nhân gian. Tuy nhiên sau 10 năm ở ngôi, nỗi đau ấy vẫn còn trong thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ, cho nên hai người quyết định truy phong bà nội của Lý Công Uẩn, ở Hoa Lâm, là hậu. Nhưng không truy phong ông nội, vẫn tạo ra huyền thoại bà nội « cảm thần hầu » trên tảng đá trong hang và sinh Hiển Khánh Vương. Chính ở chùa Tiêu Sơn, thiền sư Vạn Hạnh kể về các vị tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông với những bài kệ có sức dự đoán như thần là nhằm gửi lại hậu thế những chìa khóa để giải mã gốc gác người thực của Lý Công Uẩn. Do bối cảnh lịch sử đương thời, trước và sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn âm thầm giữ kín nỗi niềm bi kịch ấy, khiến hậu thế gặp nhiều khó khăn trong việc tìm gốc gác của Lý Thái Tổ. Khi nêu giả thuyết để góp phần tìm kiếm tông tích của vua Lý Thái Tổ, có thể phạm sai lầm, có gì sơ suất thì các nhà sử học và bà con họ Lý, họ Phạm góp ý cho chúng tôi trong tinh thần khoa học. 6-9--2010 Trần Viết Điền
|
|
|
Nha Ly
Sept 28, 2010 7:36:27 GMT 9
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 7:36:27 GMT 9
Lý Công Uẩn Vietsciences- Trần Quốc Vượng Lý Công Uẩn (974-1028) Truyền thuyết Lý Công Uẩn Thiên Ðô chiếu: Thái tổ họ Lý tên Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh năm Giáp Tuất (974), định ngôi năm Canh Tuất (1010) và mất năm Mậu Thìn (1028). Lý Công Uẩn là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh. Cũng theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Công Uẩn nhà nghèo khó, đi làm ruộng thuê ở chùa Tiêu Sơn, huyện An Phong, phải lòng một tiểu nữ rồi nàng có mang. Nhà sư thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng mang nhau đi, đến chỗ rừng Báng, mỏi mệt ngồi nghỉ mát. Chồng khát nước, xuống chỗ giếng giữa rừng uống nước, chẳng may sẩy chân, chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến giếng xem thì đất đã đùn lấp giếng, khóc lóc một hồi, rồi vào ngủ nhờ ở chùa ứng Tâm gần đấy. Ông sư chùa Ứng Tâm, đêm hôm trước nằm mê thấy ông Long thần báo mộng rằng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng đế đến". Nhà sư tỉnh dậy, sai tiểu quét dọn sạch sẽ, chực đợi từ sáng đến chiều chỉ thấy một người đàn bà có mang xin ngủ nhờ. Được vài tháng, có một đêm thơm nức cả chùa, nhà sư trông ra tam quan, thấy sáng rực lên. Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm thì người đàn bà ấy đã sinh một đứa con trai, hai bàn tay có bốn chữ son: "Sơn hà xã tắc". Sau đó, trời bỗng nhiên nổi cơn mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay sau khi sinh con và chú bé ở lại với nhà sư. Khi 8, 9 tuổi chú bé được nhà sư cho theo học sư Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn. Công Uẩn lớn lên, khảng khái, chí lớn. Do có công, ông được làm quan thời vua Thiếu đế nhà Lê. Khi vua Thiếu Ðế bị giết, ông ôm thây vua khóc. Vua Ngọa triều khen là trung, cử ông làm Từ tướng quân chế chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ. Theo truyền thuyết, bấy giờ ở làng Cổ Pháp có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước lần vỏ ngoài, trong thân cây gạo có mấy câu sấm: Thụ căn điểu điểu Mộc biểu thanh thanh Hòa đao mộc lạc Thập bát tử thành (*) ... Vạn Hạnh xem câu sấm ấy, biết điềm nhà Lê đổ, nhà Lý sắp lên, bảo Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy lời phù sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai đương nổi nữa". Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, phải nhờ người đem giấu Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn. Khi vua Ngọa triều mất, vua kế tự còn nhỏ, ông cầm quân túc vệ trong chốn cung cấm. Có quan chi hậu là Đào Can Mộc mưu với các quan triều, lập ông lên ngôi Hoàng Đế. Ông lên ngôi, thấy kinh đô Hoa Lư hẹp, nên năm 1010 thay đổi đến Đại La thành. Nhân có điềm rồng vàng bay lên, mới đổi tên gọi là thành Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ). Ông ở ngôi vua 18 năm. Là người của một dòng họ lớn, lâu đời, có nhiều nhân vật tiếng tăm, cộng với khiếu thông minh bẩm sinh đã được nhập thân văn hóa ở một vùng đất văn minh, văn hiến, là con đẻ - con nuôi - con tinh thần của những vị cao tăng xuất sắc, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của trung tâm kinh tế - văn hóa Lục Tổ - Cổ Pháp thế kỷ 10. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh vùng đất quê ông và viết nên những trang sử oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vì ông sinh ra ở chùa ứng Tâm cho nên chùa ấy bây giờ có tên là chùa Dặn. Và ngôi huyệt chỗ giếng trong rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông giống như hoa sen nở tám cánh cho nên nhà Lý truyền ngôi được tám đời. Nơi ông sinh ra nay thuộc làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Giáo sư Trần quốc vượng
|
|
|
Nha Ly
Oct 13, 2010 4:45:59 GMT 9
Post by NhiHa on Oct 13, 2010 4:45:59 GMT 9
Tham vọng của Hoàng đế Suryavarman II Vietsciences- Trần Viết Điền Tham vọng của Hoàng đế Suryavarman II hoàn toàn bị chôn vùi tại Đại Việt năm 1150 Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng. Tượng Lý Thái Tổ (G.W) Tượng Lý Thái Tôn (G.W) Tượng Lý Thánh Tông (G.W) Tượng Lý Nhân Tông (G.W) Trong tâm cảm “Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long”, chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ “phá Tống bình Chiêm”, và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150. Trước khi đi vào giai đoạn lịch sử bi tráng của Đại Việt và đế quốc Chân Lạp thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và Suryavarman II trị vì, thiết tưởng điểm qua bối cảnh lịch sử chính trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông, Suryavarman II, Jaya Harivarman VI: Trước hết điểm qua thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc liên minh chống Đại Việt để thấy tư thế vững mạnh của Đại Việt lúc ấy : Bản đồ thế giới vào thế kỷ 12 (G.W) Đến năm Bính Thìn [1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông, kinh đô Khai Phong, đang phải đối phó với nước Kim, nước Liêu ở phía Bắc và nội bộ đang chia rẽ trầm trọng, nhưng vì nước Tống là một đại quốc, đang hận chưa lấy được Đại Việt mà còn bị Đại Việt đánh vào châu Ung, châu Khâm trước đó nên họ vẫn quyết tâm đánh chiếm Đại Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía tây nam Đại Việt, nhằm tiêu diệt Đại Việt đang tự cường và tự chủ. Tống Thần Tông (G.W) (vua nhà Tống, rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp, năm 1076, nhằm xâm chiếm và sát nhập Đại Việt vào đồ bản Trung Hoa) Còn nước Chiêm Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có thực tài nên vô hiệu hóa một chiến dịch quân sự của Đại Việt, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành năm 1075. Thánh địa Mỹ Sơn Lúc bấy giờ Chân Lạp với kinh đô Angkor đã trở thành đế quốc, nhiều lần định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân Lạp, ngự trị ở Angkor, mất vào năm 1050, thì 2 người con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm 1066 Harshavarman III có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công trọn vẹn. Một ngôi đền ở Angkor do Harshavarman III xây dựng(G.W) Tuy Tống- Chiêm- Chân Lạp liên minh đánh Đại Việt nhưng không chặt chẽ, chủ yếu vẫn là quân Tống tham chiến dưới sự chỉ huy của Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này xâm lược Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076] đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống phải đền tội hơn 1000 binh. Vua Lý Nhân Tông anh minh đã sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống. Với tổng chỉ huy tài ba Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt đã làm nên đại thắng ở đại phòng tuyến Như Nguyệt lẫy lừng trong lịch sử. Vua Lý Nhân Tông vẫn ngự ở kinh đô Thăng Long để đọc thư báo tiệp mỗi ngày. Tượng đài Lý Thường Kiệt (G.W) Trên đây, chỉ điểm lại vài nét của mốc son 1076, ghi dấu Đại Việt chiến thắng oanh liệt trong cuộc xâm lược của liên minh Tống, Chiêm, Chân Lạp, xin được chuyển qua nội dung chính của bài viết. Thế kỷ 11, 12 Chân Lạp đang trên đà mở mang lãnh thổ, chiếm nhiều đất đai của Chiêm Thành, Thái, Lào, Miến để phát triển thành đế quốc Chân Lạp. Vì các vua Chân Lạp từ 1000 đến 1128 phải giải quyết những bất ổn về nội trị, phải chống trả những cuộc xâm lược của Champa do Harivarman IV thân chinh. Và do những chiến công “phá Tống bình Chiêm” vang dội của Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu với Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012, 1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, do Harivarman IV của Champa gây ra, khi vua này thân chinh đánh phá Angkor vào 1080. Sau cái chết của Harshavarman III là thời kỳ trị vì của Jayavarman VI (1080 - 1107 ) và Dharanindravarman I (1107 – 1113), nói chung hai ông vua này không có gì nổi bật. Năm 113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn. Giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp không còn hòa hiếu như xưa, vì tham vọng quá lớn của Suryavarman II. Suryavarman II được khắc trên một phù điêu bằng đá ở Angkor Wat(G.W) Dưới triều đại của Suryavarman II, ở kinh đô Angkor, ngôi đền lớn nhất Angkor Wat được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm. Angkor Wat là nơi thờ thần Vishnu. Vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn (nay là miền Trung Thái Lan) bị Suryavarman II thôn tính. Một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Pagan (nay là Myanmar )cũng bị Suryavarman II xâm chiếm và nhập vào đồ bản của đế quốc Chân Lạp. Phía nam, Suryavarman II cũng lấn đến vương quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Tham marat của Thái Lan) thuộc khu vực bán đảo Malay. Về phía đông, nhiều vùng của Chiêm cũng bị sáp nhập vào đế quốc Chân Lạp. Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại Việt, đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị Suryavarman II thôn tính. Như thế thời Suryavarman II đế quốc Chân Lạp có lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện tích lãnh thổ Đại Việt. Cảnh Angkor Wat do Suryavarman II xây dựng 37 năm(G.W) Bản đồ đế quốc Chân Lạp vào thời Suryavarmann II(G.W) Vào năm 1080, sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV của Champa đã xua quân đánh đế quốc Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược. Ảnh chụp vệ tinh bình đồ kinh đô Angkor của đế quốc Chân Lạp(G.E) Phù điêu đá chạm nổi đoàn binh của vua Chân Lạp ra trận ở Angkor(G.W) Năm 1128, Suryavarman II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp năm Đinh Mùi[1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi trước linh cửu, chưa kịp táng tiên đế, chưa đầy hai tháng quốc tang thì Suryavarman II đã cử quân tướng 2 vạn sang xâm lược Đại Việt từ ngày 29 tháng giêng Mậu Thân [1128]. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mậu Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa xuân, tháng giêng…Ngày Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh.”. Quân Chân Lapl hơn hai vạn, của một đế quốc với lãnh thổ rộng gấp mười Đại Việt, với sự lãnh đạo của một hoàng đế kiệt hiệt như Suryavarman II, đã từng thôn tính nhiều vương quốc, thì đây là một cuộc xâm lược đích thực, không dừng lại ở mức cướp bóc! Vua Lý Nhân Tông đã tiên liệu khi để lại di chiếu, có đoạn dặn dò : “…Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ[12 tuổi], có nhiều đại độ, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế…”(sdd, tr 296). “Việc không ngờ” đâu chỉ “biến động giành ngôi của các thân vương” mà còn nạn ngoại xâm của các lân bang nữa. Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão, tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù 169 người. Tượng Lý Thần Tông(G.W) Bị thua đau vào cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế Suryavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc. Suryavarman II lại gửi hoàng đế Lý Thần Tông một phong quốc thư, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Vua Đại Việt không thèm trả lời. Bốn năm sau, Nhâm Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suryavarman II của Chân lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược. Năm Ất Mão [1135], Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ [1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suryavarman II, chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh phá châu Nghệ An. Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chỉ một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất “nước sông đỏ như máu”, nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan được quân giặc. Thế kỷ thứ 12, Champa vào thời vua Jaya Indravarman V [1086-1139]đã liên minh với Chân Lạp để gây chiến tranh chống lại với Ðại Việt. Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành công, Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp quay ra nghi ngờ vương quốc Champa, dưới triều vua Jaya Indravarman III [1139-1145], đang liên minh với Ðại Việt, quyết định tuyên chiến với Chiêm vào năm 1145. Quân đội viễn chinh của đế quốc Chân Lạp xâm lược Chiêm, chiếm thành Ðồ Bàn, vua Jaya Indravarman III mất tích, và Suryavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành. Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman VI [1139-1147], thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, quyết định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của đế quốc Chân Lạp. Vua Jaya Harivarman VI [1147-1163] kế tục nghiệp kháng chiến và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Chân Lạp. Sơ đồ đường rút lui khỏi Chiêm Thành và xâm lấn Đại Việt của đoàn quân do Suryavarman II chỉ huy năm 1150 Trong khoảng thời gian từ 1145 đến 1149, đế quốc Chân Lạp đã cai trị miền bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại Việt ở phía tây nam. Do Suryavarman II phải đối phó với cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành nên tạm hòa hoãn với Đại Việt. Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suryavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 115O.Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới…Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Canh Ngọ [1450], Đại Định năm thứ 11…Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ” (sđ d, tr 318). Vùng núi Vụ Quang, Hương Sơn, Hà Tĩnh là tử địa của tàn binh Chân Lạp do Suryavarman II chỉ huy năm 1150 Các nhà sử học khi nghiên cứu văn khắc trên bia đá ở Angkor Wat, thừa nhận Suryavarman II từng xâm lược Chiêm, Đại Việt trong khoảng từ 1145 đến 1150. Năm 1149 bị vua Chiêm anh hùng Jaya Harivarman IV từ phía nam đánh tới, dồn quân Chân Lạp lui dần về phía bắc. Có khả năng, vào năm 1150, cuộc tháo lui của quân Chân Lạp ở thế thua đối với quân quật khởi Chiêm Thành, lại trở thành chiến dịch xâm lược Đại Việt. Quân Chân Lạp lúc này vẫn còn do Suryavarman II chỉ huy, không những dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng huống “thiên không thời” (hạn hán kéo dài từ xuân đến thu), “địa chẳng lợi”(Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến, Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), “nhân không hòa”(cả người Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suryavarman II đã có một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tĩnh Hà Tĩnh. Có khả năng Suryavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn số ít nên tự tan vỡ. Angkor Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh do Suryavarman II khai sinh, nhưng cũng là nổi đau của linh hồn Suryavarman II đang vất vưỡng đâu đó trong mây núi Vụ Quang ; bởi không có một phiến đá nào ở Angkor Wat ghi lại ngày tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng. Tự hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những hậu duệ kiệt hiệt của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập tự chủ. Bầu trời đền Lý Bát Đế, trong ngày kỵ vua Lý Anh Tôn, các đám mây như rồng chầu về ngôi đền (G.W)
29- 9-2010 Trần Viết Điền
|
|
|
Nha Ly
Oct 29, 2010 15:45:33 GMT 9
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 15:45:33 GMT 9
Đôi điều về các thuyền nhân quí tộc tị nạn đời Lý Vũ Ngọc Tiến Cố Tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn là hậu duệ của Lý Dương Côn Lý Xương Căn là hậu duệ của Lý Long Tường di cư vào Nam Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy là hậu duệ của ai? Thời chống Mỹ, vào cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, quan hệ giữa hai Ông Ngô Đình Diệm và Lý Thừa Vãn khá thân thiết. Tháng 9/1957 ông Diệm đi thăm Đại Hàn dân quốc. Đáp lại, tháng 11/1958 ông Vãn đến thăm Việt Nam. Ngày 16/11/1958 trong buổi tiệc chiêu đãi tại dinh Gia Long, ông Vãn nói rằng tổ tiên ông xưa là người Việt. Báo chí Sài Gòn và phương Tây thời đó đưa tin ồn ã, khá giật gân về sự kiện này. Gần nửa thế kỷ qua đi, các nhà nghiên cứu lịch sử ở ta vô tình dửng dưng với nó. Phải đến năm 1995, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã cởi mở, ông Lý Xương Căn đem theo gia quyến về Đình Bảng dự lễ tổ, người ta mới đua nhau tìm hiểu, viết bài về hậu duệ các thuyền nhân quí tộc tị nạn đời Lý ở bán đảo Triều Tiên. Song các ý kiến còn nhiều mâu thuẫn bởi chưa đủ thông tin để so sánh, phản biện và quy nạp. Vô tình trong quá trình truy tìm cứ liệu lịch sử để viết bộ ba tiểu thuyết về cải cách xã hội trong lịch sử Việt Nam, tôi đã có cơ hội thu thập, đối chứng các nguồn và lọc ra thông tin khá tin cậy. Nó cho tôi biết hậu duệ của quí tộc họ Lý ở bán đảo Triều Tiên và họ Trần ở Hoa Nam - Trung Quốc. Ở đây chỉ khuôn gọn đôi điều về họ Lý, hy vọng góp vài lời gợi ý cho các sử gia tiếp tục nghiên cứu. Lý do của sự truy tìm Tiến tới lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long và để thiết thực giáo dục lịch sử cho thanh thiếu niên - nhi đồng NXB Kim Đồng đã lập tủ sách danh nhân trong lịch sử Việt Nam. Theo gợi ý của nhà sử học Dương Trung Quốc, tủ sách bước đầu giới thiệu 100 danh nhân từ thời Hai Bà Trưng đến thời hiện đại như học giả Đào Duy Anh, nhạc sỹ Văn Cao, Thượng tướng Trần Văn Trà... NXB đã mời khá đông các nhà văn thuộc nhiều thế hệ tham gia viết truyện cho tủ sách này. Mỗi nhà văn khi viết truyện có hướng tiếp cận lịch sử theo chiều cạnh khác nhau. Riêng tôi, khi được mời viết nghĩ rằng, Việt Nam vừa qua 17 năm cải cách và sẽ còn tiếp tục, còn trong quá khứ đã từng có 12 cuộc cải cách (2 cuộc do ngoại bang áp đặt, l0 cuộc do người Việt phát động). Ở góc độ tiếp cận các bài học cải cách xã hội trong lịch sử, tôi chọn ra ba danh nhân ít được nói đều có nhiều mâu thuẫn xã hội và bi kịch đời tư trong cải cách để dựng truyện. Đó là: Trần Thủ Độ (Khói mây Yên Tử - NXB Kim Đồng 4/2002), Đào Duy Từ (Quân sư Đào Duy Từ - NXB Kim Đồng 5/2002) và Khúc Hạo (Giao Châu tụ nghĩa - NXB Kim Đồng 9/2002). Thật ra, để hoàn thành bộ ba tiểu thuyết trên, tôi đã mất 6 năm truy tìm cứ liệu lịch sử. Nhờ công nghệ thông tin, tôi đã có cơ hội tiếp cận kho tư liệu ở nhiều quốc gia Đông - Tây. Qua đó, tôi đã biết được đôi điều về hậu duệ các thuyền nhân qúi tộc tị nạn đời Lý trên bán đảo Triều Tiên. Họ gồm cộng đồng cư dân hàng vạn người thuộc hai nhánh hậu duệ của Kiến Hải vương Lý Dương Côn (1150) và Kiến Bình vương Lý Long Tường (1226). Nhân chứng còn sống hiện ở Bắc Triều Tiên có thể nói chuyện qua email là bác sĩ Lý Chiếu Minh tại Hùng Xuyên (Hun Chon) và bà Lý Diệp Oanh ở Thuận Xuyên (Sun Chon); còn ở Hàn Quốc ngoài Lý Xương Căn, là giáo sư Lý Gia Trung dạy ở Đại học Sơ Un... Lý Thừa Vãn không phải hậu duệ của Lý Long Tường Nhiều học giả phương Tây chưa biết đến Lý Dương Côn, chỉ dựa vào lời Tổng thống Lý Thừa Vãn (16/11/1958) ở Sài Gòn rồi quy nạp ông là hậu duệ của Lý Long Tường. Một vài sử gia Việt Nam cũng theo đó bị ngộ nhận. Giáo sư Lý Gia Trung nhận mình là hậu duệ của Kiến Hải Vương Lý Dương Côn có cơ sở xác thực. Dòng họ này theo nghiên cứu của giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon - Hong - Ke) có bộ gia phả mang tên “Tinh thiện Lý thị tộc phả” được lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hàn Quốc. Ông tổ Lý Dương Côn (Lee - Yang - Kon) là thuyền nhân Việt Nam tị nạn đến bờ biển Đông Nam bán đảo Triều Tiên năm 1150. Đây là hậu quả cuộc tranh giành quyền lực đẫm máu trong nội bộ vương triều nhà Lý, sau khi Lý Nhân Tông chết. Việt sử ghi nhận ông vua anh hùng Lý Nhân Tông không có hoàng nam, đã nhận con của các vương hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng vào cung làm con nuôi. Sau khi ngài chết, con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoãn kế ngôi, lấy hiệu là Thần Tông. Gian thần Đỗ Anh Vũ nhờ có chị làm hoàng hậu triều vua Thần Tông, đã thâu tóm quyền lực, làm nghiêng ngửa triều chính. Thần Tông chết, chị em nhà họ Đỗ càng ngang ngược lộng hành, áp chế vua trẻ Anh Tông. Vì vậy khi Anh Tông chết, triều đình muốn suy tôn Kiến Hải Vương Lý Dương Côn lên ngôi, nhưng Đỗ Anh Vũ đã ép mọi người chấp nhận chú bé Long Trát 26 tháng tuổi làm vua, hiệu là Cao Tông, để y dễ bề thao túng. Mỗi khi thiết triều hai bà Thái hoàng Thái hậu họ Đỗ và Cảm thánh Thái hậu họ Lê buông rèm nhiếp chính, dung túng cho gian thần Đỗ Anh Vũ làm loạn kỷ cương phép nước. Sử gọi đó là “triều đình gà mái gáy”!... Sự bỉ ổi lên tới cùng mức khi Đỗ Anh Vũ thông dâm với Thái hậu họ Lê và giết chị là Thái hoàng Thái hậu họ Đỗ. Hắn cùng người tình âm mưu cướp ngôi của họ Lý nên đã giết hết tông tộc của các vương hầu: Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Quảng, Thành Hưng. Lý Dương Côn là con trai Thành Quảng hầu, đang giữ chức đô đốc thuỷ quân bèn đem gia quyến lên thuyền vượt biển đi tị nạn sang bán đảo Triều Tiên. Đến đời con ông là Lý Nghĩa Mẫn, dưới triều vua Nghi Tông (Ui - Jong), vì có công đánh giặc Khiết Đan, được phong chức Đô tướng biệt trưởng. Năm 1170, tướng Trịnh Trọng Phụ (Jeong Jung Bu) làm đảo chính, lập vua My Tông (My Jong), Nghĩa Mẫn đã giúp Trọng Phụ đánh dẹp các thế lực chống đối, được phong chức Thượng tướng quân (1174) rồi Tây Bắc bộ binh mã sứ (1178). Sau vụ phiến loạn của tướng Khánh Đại Thăng (1179 - 1182), vua My Tông đã phong ông làm Tể tướng suốt 14 năm (1183 - 1196). Năm 1196, một võ tướng là Thôi Chung Hiếu (Cho - Chung - Heon) nổi loạn, đã giết Nghĩa Mẫn và các con trai ông đều đang làm tướng là Lý Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang. Dòng họ Lý này ngỡ tuyệt tự, may còn sót lại người anh của Lý Nghĩa Mẫn trốn thoát. Kể từ đây, chi nhánh hậu duệ trong tộc phả “Lý tinh thiện” ngày một sa sút. Lần dò theo tộc phả này, đến đời Lý Thừa Vãn họ mạc tản mát khắp nơi và sống nghèo túng. Tuổi thơ ông Lý Thừa Vãn chịu nhiều cay đắng, tủi nhục nhưng ông vẫn kiên cường vươn lên. Lúc đầu, ông là chính khách học vấn uyên thâm, có tài năng quân sự và uy tín vượt trội. Lâu dần, cơ chế cực quyền và sự say khát quyền lực vô độ đã biến ông ta thành kẻ độc tài, bảo thủ, ngu muội. Số phận hai nhà ai quoc Ngô Đình Diệm và Lý Thừa Vãn có sự khác biệt. Ông Diệm bị lật đổ do chính sách thay doi của người Mỹ va cong sanVN. Ông Vãn bị lật đổ do xu thế phát triển ở Hàn Quốc đòi hỏi mở rộng dân chủ, cải cách chính sự, đã dấy lên làn sóng bạo loạn trong sinh viên, học sinh, trí thức trẻ. Phe cánh quân sự của Pắc Chung Hi đã lợi dụng cơ hội này làm cuộc đảo chính êm gọn, được lòng dân lúc đó. Lý Xương Căn là hậu duệ Lý Long Tường từ miền Bắc di cư vào Nam (Hàn Quốc) Vì Lý Xương Căn, hậu duệ Kiến Bình vương Lý Long Tường từ Hàn Quốc về Đình Bảng dự lễ tổ (1995) nên nhiều học giả ngộ nhận ông Lý Long Tường tị nạn ở miền Nam bán đảo Triều Tiên. Thật ra, hành trình tị nạn của ông năm 1226 khá phức tạp và gian nan hơn Kiến Hải vương Lý Dương Côn. Vua Lý Anh Tông có bảy người con là Long Xưởng, Long Minh, Long Đức, Long Hoà, Long Ích, Long Trát và Long Tường. Hoàng tử Long Trát được Đỗ Anh Vũ đưa lên ngôi lúc 26 tháng tuổi, hiệu là Cao Tông, sau truyền ngôi cho con là Long Sảm hiệu là Huệ Tông. Năm 1226 Trần Thủ Độ lừa giết chết 300 người hoàng tộc họ Lý trong ngày giỗ tổ Lý Công Uẩn ở Đông Ngàn. Vì sự kiện đẫm máu này Huệ Tông phát điên; còn Kiến Bình vương Lý Long Tường vội đem gia quyến và đội thuỷ quân Vân Đồn vượt biển đi tị nạn. Đoàn thuyền lớn này gồm vài ngàn người, lênh đênh trên biển gần một tháng thì gặp bão lớn, phải ghé vào đảo Đài Loan lúc đó hoang vu, thưa vắng người. Ở đó ít lâu, người chết vì đói hoặc say sóng, bệnh tật mất già nửa. Long Tường quyết định đi tiếp, nhưng con trai là Lý Long Hiền ốm nặng, cùng gia đình và 200 thuộc hạ ở lại đảo Đài Loan. Mùa thu năm 1226, sau 75 ngày vượt biển, Long Tường cập bến Phú Lương Giang, quận Khang Linh (Ong - Jin - Gun), tỉnh Hoàng Hải (Hwang - Hac), thuộc Đông Bắc bán đảo Triều Tiên. Toàn bộ đoàn thuyền còn hơn 1000 người sống sót đều lấy họ Lý để tỏ lòng trung thành với Lý Long Tường. Vì vậy hậu duệ của ông sau này ở miền Bắc rất đông đúc, ước đến mấy vạn người, chỉ một số ít di cư vào Nam sau các vụ biến loạn hoặc do chiến tranh. Tộc phả chép rằng vua Cao Tông (Ko Jong) của nước bản địa cho Lý Long Tường định cư ở đất Ung Tân. Ông bèn xây “Độc thư đường”, “Giảng võ đường” và soạn sách “Học vấn giảng hậu”. Đệ tử của ông học cả văn lẫn võ, đông tới hàng nghìn người. Tháng 7/1253 quân Mông Cổ vượt Hỗn Đồng Giang chiếm Tây Hải, đại phá An Giang Tây thành, uy hiếp kinh đô nước Triều Tiên. Lý Long Tường cùng các con cháu, đệ tử tham gia chống giặc. Ông trở thành quân sư cho Thái uý Vi Hiển Khoan, đánh giặc Mông Cổ nhiều trận oai hùng, hiển hách và đã hy sinh anh dũng. Các triều đại về sau đều suy tôn ông là công thần bậc nhất, lấy tên ngọn núi Hoa Sơn ở quê ông bên đất Việt đặt cho ngọn núi nơi ông cư ngụ ở Bắc Triều Tiên và phong ông là Hoa Sơn Đại tướng quân. Trên núi ấy, vua sai dựng bia đá ghi công lao của Lý Long Tường, đến nay vẫn còn giữ được. Tại quả đồi thuộc xã Đỗ Môn (To Mo Ki), cách núi Hoa Sơn 10km vẫn còn lăng mộ Lý Long Tường và con cháu đến đời thứ tư của ông. Trên Quảng Đại Sơn có “Vọng quốc đài” là nơi ông thường lên đó đăm đắm ngóng về cố quốc. Mỏm đá nơi bờ biển mà ngày đầu ông đặt chân đến Bắc Triều Tiên nay được gọi là “Việt Thanh Nham”... Căn cứ theo tộc phả họ Lý ở Hoa Sơn, lần theo dấu vết các nhánh họ di cư vào Nam, người ta được biết ông Lý Xương Căn là hậu duệ đời thứ 28 của Lý Long Tường di cư vào Nam (Hàn Quốc) đã qua 5 đời. Còn có một điều lý thú khác, một số học giả nước ngoài đang đặt giả thuyết, liệu Lý Đăng Huy, Tổng thống Đài Loan có phải là hậu duệ của Lý Long Hiền con trai ông Lý Long Tường để lại hoang đảo năm xưa hay không? Điều này thực khó xác định vì họ Lý ở Phúc Kiến di cư sang Đài Loan rất đông, có tới chục vạn người. Hà Nội, mùa thu 2002
Vũ Ngọc Tiến
|
|
|
Nha Ly
Jan 20, 2011 13:17:36 GMT 9
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 13:17:36 GMT 9
Lý Long Tường and the Other Mongol Invasion. “Part 2″Welcome to KoreaUpon their arrival, Prince Lý and his envoy received a warm welcomed by Kojong, the King of Korea’s Koryo (aka Goryeo) Dynasty. It seems that Lý Long Tường and his crew came to Korea at the right time, as they were handsomely accommodated by the people of Korea. Whether Kojong knew it or not, he had been waiting for Lý Long Tường to land on the shores of Korea for a long time. News of the prince’s arrival came to King Kojong in a dream, could it be fate that brought Prince Lý to the distant land of Korea? The Dream of King KojongLegends speak of how Kojong had foreseen the arrival of Lý Long Tường in a dream. Kojong dreamt of a majestic phoenix that flew all the way from the south to land on the shores of Korea. Prince Lý’s arrival was therefore perceived as this phoenix, a heavenly sign that was immediately accepted by Kojong and his people. Lý Long Tường was one of Đại Việt’s most talented generals, well versed in literature and the art of war. Recognizing his talents, the Koreans quickly promoted Lý to the position of general. For the rest of his days, Prince Lý Long Tường would be known as Lee of Hwasan, a bright and heroic figure of the Koryo nation. With news of the Mongols’ impeding conquests on Korea, Lee of Hwasan, his Lý compatriots, and the Korean nation, mobilized their forces. Ogodei and the First Mongol Invasion Korea’s relationship with the Mongols tend to fluctuate at various times. The Koryo Kingdom and the Mongol Empire may cooperate at one instant, and become hostile at another. It all depends on the circumstances, and this time it’s war. With the momentum of countless successful military campaigns across the lands of Eurasia, the Mongols now prepared to capture the Kingdom of Koryo. The earliest of the Mongol invasions on Koryo was ignited in 1231-32, under the orders of Ogodei Khan. Diplomacy between the two sides have failed, as a result the Mongol Empire prepared their assault against the Koryo Kingdom. Ogodei, the son of Genghis, would oversee this first invasion, as well as the defeat at the hands of Koryo and Lý Long Tường. Ogodei’s forces bombarded Koryo in all directions, through naval and conventional assaults. Though they initially succeeded in capturing some Korean territories, Prince Lý (aka Lee of Hwasan) mobilized his forces and confronted the Mongols at Hwang-hae. Lý’s forces successfully warded off the Mongol advances, thus preserving Koryo’s sovereignty for the time being. The Korean forces also showed tremendous resistance to the Mongol threat, neutralizing their efforts of capturing Koryo. 30 Years Later: The Final InvasionsAfter 30 years of intense fighting with the Mongol Empire, Koryo would finally see an end to the bloodshed. Nearly three decades have passed since Ogodei Khan kick-started the Mongol invasion of Korea, and neither side wanted to let up. The Mongols had captured many of Koryo’s territories, only to lose it in the distant future. Treaties and agreements have come and gone, always resulting in military clashes between the two sides. Lý Long Tường, now in his 70′s, has been fighting alongside the Korean forces. It has been three decades since the prince accepted the title Lee of Hwasan, helping the Koreans in their struggle to break from the Mongols’ grasp. After numerous battles, the Lee of Hwasan would engage in one final battle against the Mongols, playing a big role in their final defeat to the Kingdom of Koryo. The Defeat of Mongke Khan In the year of 1253, the Mongol army, under the fierce command of Mongke Khan, entered Koryo once again. As they tried to capture the province of Hwang-hae, the forces of Lý Long Tường was their to engage. After five months of armed combat, the forces of Lý Long Tường successfully eliminated the Mongol forces in that region, forcing them to surrender. This victory would be the beginning of the full Mongol withdrawal from Korea. Finally, after 30 years of excruciating resistance against the Mongol Empire, Koryo was finally free from their grasp. Political actions taken by the patriotic rulers of Korea resulted in the Mongols abandoning their ambitions of capturing the Koryo Kingdom, leaving the country in 1259. Lý Long Tường: The White Horse General The fighting spirit of the Koreans helped them defeat the Mongols in numerous battles. Numerously courageous warriors joined the fight to ultimately expel them from the country. Fighting alongside these Korean generals was Lý Long Tường, Prince of Đại Việt, and descendent of the royal Lý family. Prince Lý, along with the remnants of the Lý family, joined in the fight against the Mongols, playing a big role in their final defeat to the Kingdom of Koryo. Prince Ly was a valiant fighter and a fearless general who led a division of the Korean military. He arrived on the shores of Korea from Đại Việt in the 1220′s and will spend the rest of his life in Korea. The several thousand members of the Lý clan would stay there with him, becoming proud members of the Korean community. Besides the title Lee of Hwasan, Lý Long Tường was also known as the “White Horse General,” riding into battle on the back of a fierce white stallion. It is said that throughout his life in Korea, Prince Lý would sit on the peak of a mountain and look southward in reverence of his former home. Little did Prince Lý know that the land he looked back on so fondly would become a battleground for the Mongols’ next conquest. His successor, St. Trần Hưng Đạo of the Trần Dynasty, would achieve a feat similar to Lý Long Tường. Next time however, he would do so in a fashion even grander than the Lee of Hwasan himself.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:02:35 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:02:35 GMT 9
HOÀNG XUÂN-HÃN Lý Thường Kiệt LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ Phần I - Bại Chiêm Phá Tống CHƯƠNG NHẤT - GỐC TÍCH
1. Gốc tích 2. Vào cấm đình 3. Kinh phỏng Thanh Nghệ Chú thích
1. Gốc tích Lý Thường-Kiệt quê phường Thái-hòa, ở trong thành Thăng-long, phía hữu (VĐUL) nghĩa là phía tây (HVDĐ). Thái-hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía tây trong thành Thăng-long, bây giờ, ở phía nam đê Bách-thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa. Lý Thường-Kiệt có nhà ở gần núi ấy. Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS, có chỗ chép tên húy ông là Tuấn, và nói Thường-Kiệt chỉ là tự mà thôi. Nhữ Bá-Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.
Cha, tên An-Ngữ, sung chức Sùng-ban-lang-tướng (1) ở triều Lý. (VĐUL)
Mẹ, họ Hàn. Năm 20 tuổi sinh Thường-Kiệt. Ấy vào năm Thuận-thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái-Tổ. Sau lại sinh Lý Thường-Hiến, mà có chỗ cũng gọi là Thường-Hiển. (NBS)
Khoảng niên hiệu Thiên-thành, đời Lý Thái-Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng-châu, thuộc Thanh-hoá, bị bệnh rồi mất vào năm Tân-mùi (1031). Thường-Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. (NBS)
Chồng cô, là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời : " Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ (2), lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện ". Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
Thường-Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường-Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.
Đoạn trên này, chép theo bia NBS, là một bia mới dựng đời Tự-Đức. Chắc rằng Nhữ Bá-Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường-Kiệt kể trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý.
Từ lúc nhà Đinh mở nước, các vua đều lấy vũ công mà gây dựng cơ đồ. Đến Lý Công-Uẩn, xuất thân cũng là tay vũ tướng. Cho nên triều đình và xã hội bấy giờ chuộng vũ. Thanh niên thì lấy nghề làm tướng là vinh. Hễ mỗi khi có giặc dã nổi lên, tuy tại nơi rất xa lánh, vua cũng thân chinh, hoặc sai hoàng tử đi cầm quân. Lý Thường-Kiệt con một vũ tướng, được dạy nghề vũ, thích nghề vũ ; sự ấy là lẽ dĩ nhiên.
Còn về nho học, bấy giờ chưa thịnh. Phần vì óc thượng vũ, phần vì tục mộ Phật và dị đoan rất mạnh ở dân gian cũng như trong cung điện, cho nên nho học, từ đời Hán đưa vào, tuy bấy giờ vẫn được duy trì, nhưng phải đợi đến năm 1070 mới dựng Văn-miếu, và năm 1075 mới có khoa thi nho (3). Trước năm 1040, Lý Thường-Kiệt học sách nho, là một việc đáng được chú ý và ghi chép.
Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống táng. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. (NBS)
Lúc hết tang, nhờ phụ ấm, Thường-Kiệt được bổ chức Kỵ mã hiệu-úy, tức là một sĩ quan nhỏ về đội quân cưỡi ngựa.
2. Vào cấm đình Năm lên 23 tuổi, là năm Tân-tị (1041), niên hiệu Càn-phù hữu-đạo đời Lý Thái-Tông, ông được bổ vào ngạch thị vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng-môn chỉ-hậu. Chức này là một chức hoạn quan. Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm hoạn quan ? Về việc này có nhiều thuyết.
Bia LX, dựng đời Lý, chỉ nói tóm tắt rằng : " Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu vua Thái-Tông hoàng đế ". Hai chữ nhược quán nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS. Sách VĐUL, đời Trần, chép rằng : " Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng-môn chỉ-hậu ". Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm hoạn quan.
Nhưng bia NBS có kể lại rằng : " Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết : lúc vua Lý Thái-Tông đánh bắt được Nùng Trí-Cao rồi lại thả ra (1041), ông nhất thiết can ; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà, vua lại triệu vào hầu cận. " Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL ; rằng : Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ, cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.
Lý Thường-Kiệt đã tự yếm ; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng-khê-bút-đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt tha Nùng Trí-Cao là vào tháng 11 năm Tân-tị, 1041.Và cũng năm ấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.
Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, nhưng hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường-Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.
Ông vào cấm thát. " Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình " (Bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô-tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (VĐUL và bia NBS)
Năm Lý Thánh-Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng-hành-quân-hiệu-úy, tức là một chức vũ quan cao cấp. " Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm-hiệu-thái-bảo (Bia LX), tức là một chức tại triều rất cao (4).
3.- Kinh phỏng Thanh nghệ Sách VĐUL (NBS cũng chép) chép rằng : " gặp lúc trong nước, ở cõi tây nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh-phỏng-sứ vào thanh tra vùng Thanh-hoá, Nghệ-an, và trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều qui phục và được yên ổn ". Ấy là lần thứ nhất ông lập vũ công.
Về việc loạn này, trong sách TT không thấy chép. Duy chỉ sách VSL có biên rằng : " năm 1061, Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu (5) nổi loạn ". Ngũ-huyện-giang là tên một vùng thuộc lộ Thanh-hoá. Đời Tiền-Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc-giang-lộ, Đà-giang-lộ. Theo hai bia đời Lý, bia HN và mộ chí Lưu Khánh-Đàm (6), Ngũ-huyện-giang chắc ở Thanh-hoá, là sông Mã ngày nay. Vả TT chép đời Lê và Lý dân Lữ-long nổi loạn, tức là dân Mường vùng Cẩm-thủy ngày nay. YÙ chừng Lý Thường-Kiệt vào kinh phỏng Ái-châu là để dẹp loạn Mường và đúng năm 1061 ấy. Bấy giờ ông 43 tuổi.
CHÚ THÍCH (1) - Theo (ANCL), trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng-ban và Lang-tướng, nhưng sách ANCL chép hai tên ấy rời nhau. Sùng-ban lang-tướng là hàm lang-tướng thuộc ban Sùng-ban chăng ? ANCL có chép hàm Vũ-nội lang-tướng, thì chắc rằng hàm Sùng-ban lang-tướng có thật.1. (2) - Vệ Thanh là một danh đời Hán, bảy lần đánh Hung-nô. Hoắc Khứ tức là Hoắc Khứ-Bệnh, con em gái Vệ Thanh, cũng là một tướng tài đời nhà Hán, đánh Hung-nô nhiều lần.1.
(3) - Trước đó tuy chưa có đặt khoa cử, nhưng nho giả đã được trọng dụng. Trong việc bang giao với Tống phải cần đến nho thần biết ứng đối, biết làm thơ. Năm 1043 vua Lý Thái-Tông du ngoạn ở núi Vũ-ninh, có nho thần đi theo làm thơ (TT).1.
(4) - Sách VĐUL cũng chép như vậy. Kiểm-hiệu nguyên là một chức giám sát. Đến đời Tống, chỉ là một hàm, dùng để ban gia cho các quan vào hàng cao nhất. Những hàm ấy, ở đời Lý, kể từ cao xuống thấp, có : Thái-sư, Thái-úy, Thái-phó, Thái-bảo, Phụ-quốc, Thiếu-sư, Thiếu-uý, Thiếu-phó, Thiếu-bảo. (ANCL).2.
(5) - Sách VĐUL nói " Năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động ". Có lẽ muốn nói vùng thượng du Thanh Nghệ .3.
(6) - Bia HN chép : " vua Lê Đại-Hành đi tuần du Ngũ-huyện-giang, nhân tới thăm chùa Hương-nghiêm ". Chùa này ở huyện Đông-sơn, tỉnh Thanh-hoá (NV1).
(7) - Bia LKĐ chép : Lưu Khánh-Đàm người thôn Yên-lang, thuộc Ngũ-huyện-giang, quận Cửu-chân (NV1).3.
CHÚ Ý : Con số cuối mỗi chú thích là số mục của đoạn cần chú thích trong chương này. Ví dụ (5)...3. Nghĩa là chú thích (5) ở đoạn 3 trên.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:04:12 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:04:12 GMT 9
Lý Thường Kiệt LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ Phần I - Bại Chiêm Phá Tống CHƯƠNG II - ĐÁNH CHIÊM THÀNH
1. Duyên cớ 2. Sửa soạn 3. Xuất quân : trận Nhật-lệ 4. Trận Tu-mao 5. Bắt vua Chiêm 6. Khải Hoàn. Tha vua Chiêm 7. Kết quả Chú thích.
1. Duyên cớ Đầu đời Lý, Chiêm-thành là một nước phồn thịnh, địa giới từ vùng Bình-thuận đến vùng Quảng-bình ngày nay. Ở cực bắc có châu Bố-chánh, ở phía nam núi Hoành-sơn, giáp địa phận Hoan-châu thuộc nước ta. Vùng biên giới ấy không khi nào được yên hẳn. Châu Hoan và châu Ái bị quân Chiêm quấy nhiễu luôn. Các vua ta thường thường phải sai quân đi chinh phạt.
Ngay sau khi Đinh Tiên-Hoàng mới nhất thống sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ-Lĩnh đã diệt mười hai sứ quân, mà trong số ấy có Ngô Nhật-Khánh. Nhật-Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gả cho con giai mình là Liễn, và gả con gái mình cho Nhật-Khánh. Tuy nhiên, Nhật-Khánh vẫn oán ; bèn chạy vào Chiêm-thành. Cuối năm Kỷ-mão (979), Nhật-Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về đánh kinh đô Hoa-lư. Chẳng may, khi vào cửa bể Đại-ác và Tiểu-khang (thuộc hải phận Ninh-bình Nam-định ngày nay. Đại-ác nay là Đại-an, tức là cửa Đáy, Tiểu-khang thuộc huyện Yên-mô), thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật-Khánh cũng bị chết. (TT)
Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, sai sứ sang giao hiếu với Chiêm-thành (982). Hai sứ là Từ Mục và Ngô Tử-Canh đều bị Chiêm giữ lại. Vua Lê mang quân vào đánh, phá thành trì, hủy tông miếu, giết chúa và bắt vô số dân đưa về. (TT)
Đó là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm-thành, vì đó, phải kinh sợ, nhún nhường. Có lúc vua Lê không chịu nhận sứ Chiêm, chúa Chiêm phải sai cháu là Chế Cai sang cống để tạ tội (994). Tuy vậy, năm 997 Chiêm lại ngấp nghé ở biên thùy. (TT)
Sau khi Lý Công-Uẩn lên ngôi, Chiêm-thành chịu cống. Năm 1011, có cống sư tử (có lẽ là tên cá sấu, xem II/4), nhưng năm 1020, vua Lý Thái-Tổ đã phải sai con là Khai-thiên-vương và tướng Đào Thạc phụ vào đánh đất Bố-chánh. (TT)
Chiêm-thành qua một hồi nội loạn ; các con cháu hoàng tộc tranh ngôi nhau. Cho nên nam thùy ta cũng được tạm yên. Thỉnh thoảng phái nào thua lại còn đem đồ đảng sang nước ta xin phụ, nhu con vua Chiêm sang năm 1039, và năm 1040 dân Bố-chánh kéo nhau hàng trăm tới ở nước ta. (TS 489)
Trong khoảng 16 năm, Chiêm-thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè năm 1043, lại còn tới quấy ở ven bể. Vì thế, năm 1044, vua Lý Thái-Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5000 nguời, và chém giết đến ba vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo vào kinh đô, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều. (TT)
Sau cuộc đại bại này, Chiêm-thành rất kính nể ta ; và theo lệ cống hiến đều đều. Lúc hiến voi trắng, lúc hiến tê trắng, lúc sang mừng vua Thánh-Tông mới lên ngôi. Sách TT và nhất là sách VSL chép rất rõ ràng (1).
Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL), Chiêm-thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách TT có chép rằng " năm 1068, Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới ". Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm-thành cống vua ta, và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm-thành tuyệt giao với ta (2). Những chứng ấy, sau sẽ rõ.
Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng : " kịp đến khi nước Phật-thệ (tức là Chiêm-thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh ". Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng : " Chiêm-thành đã lâu không tới cống, tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về " (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065-1069) Chiêm-thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.
Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.
Một mặt, Lý Thánh-Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại-Việt (1054), tôn các vua trước là Thái-Tổ, Thái-Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm-thành thần phục Tống.
Một mặt, Chiêm-thành trước bị Lý Thái-Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm-thành lẩn lút sang thần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng-Hựu thứ 7 (1035), Quảng-tây an-vũ-sứ tâu rằng : " Chiêm-thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao-chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm-thành soạn sửa quân bị đe åchống Giao-chỉ " (TS 489)
Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi Chế-Củ, (TT) hay là Đệ-Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng " vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cri Rudravarmandra, theo Le Royaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyện tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng-châu ".
Xem thế thì ta cũng không lấy gì làm lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh-Tông nhân đó đánh Chiêm-thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm-thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh-Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.
2. Sửa soạn Đối với một cuộc hành binh vĩ đại như cuộc này, sử ta chép rất sơ lược. Hình như đời Lê Thánh-Tông, đoạn sử này, của Lê Văn-Hưu để lại, đã bị thiếu sót, hay là Ngô Sĩ-Liên biên Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư tự ý ước lược đi ? Sách TT chỉ nói qua một vài câu, không ghi chi tiết gì cả. May còn có sách Việt-sử-lược từ đời Trần y nguyên còn lại, chép khá rõ ràng. Theo TT, quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.
Theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ 2) và Ngô Thì-Sĩ (SK3), khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân ; tên riêng là thắng quân hoặc cấm quân. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ, Cấm-vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gồm 200 người. Cả thẩy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc vua đi đâu xa, thì đi theo. Theo lệ nhà Lê, cấm quân đều có khắc ba chữ Thiên-tử-binh trên trán. Năm 1028, đời Lý Thái-Tông, có 10 quân cấm vệ, đặt tên là Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long, Bổng-nhật, Đằng-hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đời Lý Thánh-Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm-vệ bấy giờ gồm có 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau (1059) : Ngự-long, Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiếp ; Mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu.
Vì lần này, vua Thánh-Tông thân chinh, nên 3.200 cấm binh này chắc ở trong số 5 vạn nói trên.
Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ỏ nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. " Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi lại trở về cầy ruộng " (SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông. Chắc trong số 5 vạn quân kia, sương quân chiếm phần lớn.
Số 5 vạn chép ở TT có thật hay không ? Nước ta dân số bấy giờ bao nhiêu, không thể biết được. Nhưng theo sự ta có thể chống lại 10 vạn quân Tống mấy năm về sau, thì chắc ta có hơn 5 vạn quân. Và phép kiểm điểm dân đinh bấy giờ rất ngặt, cách nuôi lính bấy giờ rất kiệm. Dân không trốn được, nuôi lính không tốn ; cho nên cất một đạo quân năm vạn chắc là dễ dàng (3).
Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm-thành gặp trở ngại. Theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao-chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS 489). Cho nên cuộc hành quân này chắc chắn chỉ dùng đường thủy. Mà thủy quân ta, từ trận Bạch-đằng đời Ngô Quyền, đã lập được nhiều chiến công.
Bắt đầu từ tháng năm năm trước, Mậu-thìn (1068), vua Lý sai sửa chữa và đóng thêm chiến hạm (VSL).
Tục ta đời xưa rất tin về điềm lành dư, nhận đó là ý trời tỏ cho biết trước sự thắng lợi hay thất bại của một việc mình dự bị làm ; hay nó tỏ ý trời muốn xui hay ngăn mình làm một việc gì. Nhất về đời Lý, óc dị đoan lại càng mạnh. Sử gia để ý đến tất cả những sự vụn vặt, nhưng khác thường. Sử nhà Lý trong VSL, sách khôngbị đời Lê sửa bỏ bằng cách nho hoá theo Khổng-giáo, còn chép rất nhiều những việc như voi trắng, sẻ trắng, rùa sáu chân, cau chín buồng. Chuyện rồng hiện thì nhiều lắm. Không biết bấy giờ có con vật gì (kỳ đà chăng ?) người ta cho là rồng, mà sử chép rồng hiện khắp nơi.
Tháng tám năm Mậu-thìn (1068), long chu (thuyền vua), đậu ở bến, vô cố dời đi ba thước (VSL). Đó là điềm vua sắp đi đánh xa, và là điềm hay. Tháng chín, rồng vàng hiện ở hai chiếc thuyền bể lớn là Vĩnh-xuân và Thanh-lãn. (VSL)
3. Xuất quân. Trận Nhật-lệ Cuối năm Mậu-thìn (1068), thủy quân đã dự bị sẵn sàng. Đợi ra giêng, thuận gió bắc, sẽ xuất quân. Đến tháng hè, thuận gió nồm, quân sẽ trở về. Vua thân chinh sẽ chừng trong năm tháng. Ngày Mậu-tuất tháng hai năm Kỷ-dậu là ngày dương lịch 24 tháng hai 1069 (4) vua Lý Thánh-Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm-thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường-Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường-Hiến đi theo ; Hiến được trao chức tán kỵ vũ uý (bia NBS).
Số quân năm vạn kia chắc hoàn toàn đi đường thủy. Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái-Tông đánh Chiêm-thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiến thuyền. Vậy, chuyến này chắc cũng có số thuyền ấy.
Từ đời Lý Thái-Tông, có đặt lệ tuyên thệ. Mỗi đầu năm, hay mỗi lúc có việc quan hệ, các triều thần hội lại, hoặc ở đền thờ vọng thần Đồng-cổ, hoặc ở sân Long-trì, rồi cùng phát lời thề : " Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết " (3) Lần này, vua sắp đi vắng kinh đô lâu. Sự biến rất có thể xẩy ra trong nước. Kẻ có lòng tranh ngôi, sẽ có cơ hội rất thuận tiện. Vì vậy, ngày Đinh-mùi (DL 5-3) quần thần phải hội tại Long-trì để tuyên thệ.
Ba ngày sau, ngày Canh-tuất (DL 8-3 VSL chép Canh-dần, chắc lầm), vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền bính lại cho Ỷ-Lan nguyên phi (TT) và thái sư Lý Đạo-Thành (6).
Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị-hà), qua Lý-nhân-hành-cung (vùng Nam-xương), rẽ xuống phía Nam, rồi ra cửa Đại-an. Cửa Đại-an nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần-liêu, huyện Đại-an, tỉnh Nam-định. Cửa ấy hồi cận đại cũng có tên cửa Liêu-hải. Từ Lý về trước, cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam (7).
Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà-tĩnh. Bờ Nam cửa có núi, nay còn tên núi Nam-giới. từ Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng ở vùng nam nước ta, trước các cửa nước Chiêm-thành. Có lẽ tên Nam-giới (bờ cõi phía Nam) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này can hệ, vì lẽ, lúc bấy giờ quân Chiêm thường vào nước ta bằng chỗ đó, và từ Nghệ-an đi vào có con sông nhỏ dọc theo phía núi Hồng-lĩnh rồi ra cửa ấy. Đời sau lúc Lê Thánh-Tông đi đánh Chiêm-thành cũng qua sông ấy (8). Có lẽ Lý Thánh-Tông cũng dùng đường này. Thật ra thuyền thường đi khoảng này, dài chừng 50 cây số, chỉ mất một ngày. Nhưng sông hẹp, chiến thuyền lớn, đi chậm hơn. Vả chắc quân có đóng nghỉ lại Nghệ-an. Sách VSL chép : " lúc tới Nghệ-an, rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng, " một thuyền riêng của Lý Thánh-Tông. Ngày Canh-thân (DL 18-3), tới Nam-giới, " rồng " lại hiện ở thuyền ấy.
Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di-luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố-chánh hay cửa Gianh. Hai cửa này không quan hệ lắm về việc phòng thủ.
Địa thế nuớc Chiêm-thành rất đặc biệt : một giải đất hẹp và dài, chẹt giữa bể đại dương và núi cao ngất. Phía bắc, có núi Hoành-sơn và sông Bố-chánh (sông Gianh) ngăn cản đường từ Giao-chỉ vào. Giải đất hẹp ấy lại bị nhiều dãy núi chắn ngang đến bờ bể. Ngoài núi Hoành-sơn ở cực bắc, có núi Hải-vân ở phía nam Thuận-hoá, núi Thạch-tân ở phía nam Quảng-ngãi, núi Đại-lãnh ở phía nam Phù-yên. Các dãy núi " xương sườn " ấy ngăn thành mấy cánh đồng : Bình-Trị-Huế, Nam-Ngãi, Bình-Phú, Khánh-Thuận. Dân Chàm chỉ ở các đồng bằng ấy, và hình như giao thông với nhau chỉ toàn đường bể. Đường Thiên-lý bấy giờ chưa có. Vì thế, vua Chiêm chỉ để ít quân phòng thủ ở Bố-chánh, và thủy quân tập trung ở cửa Nhật-lệ. Đại quân đóng giữ Kinh-đô và cánh đồng Bình-định ngày nay.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Sách VSL chép việc ấy, không nói gì thêm. Nhưng thấy sau này, quân ta tiến xuống miền nam không bị ai ngăn cản, thì ta đoán rằng thủy quân Chiêm bị tan vỡ ở đây.
Quân ta không đổ bộ ở Nhật-lệ, vì mục đích vua Lý là phá Kinh-thành và bắt chúa. Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại-tràng-sa (9). Ấy vào ngày Kỷ-tị tháng hai (DL 27-3).
Ngày hôm sau (C.Ng, DL 28-3), thuyền đến cửa Tư-dung. Cửa này nay gọi là Tư-hiền. Xưa cửa rất sâu (ĐNNTC), thông với phá Hà-trung (Cầu Hải ở địa đồ Đông-Dương), và là cửa vào các phá và sông thuộc xứ Ô Lý (Thuận-hoá), vì bấy giờ chưa có cửa Thuận-an. Phá Hà-trung sâu và kín (10)
Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư-dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh-Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.
Thuyền đi được ba ngày, có " rồng " hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh-thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa çri Bonei (Sơ-li-po-nai) nhằm vào ngày Bính-tý (11) đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ-li-po-nai ở đâu ? Maspéro Le Royaume du champa) diễn ra çri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng hán tự đọc theo tiếng ta là Thi-lị-bì-nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui-nhân tên xưa là Thi-nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắclà phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi-lị-bì-nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi-lị-bì-nại thành ra cửa Thi-nại. Và tính ngày đường thì từ Tư-dung đi sáu ngày đến Qui-nhân là phải. Từ Thăng-long đến çri Bonei, đã đi hết 26 ngày (12).
VSL chép rằng lúc ngự thuyền tới đó, có hai con chim cùng bay theo, trông như muốn dẫn đường. Những điềm dọc đường đều là điềm tốt.
4. Trận Tu-mao Thành Phật-thệ, kinh đô Chiêm-thành đời bấy giờ, ở vào địa phận tỉnh Bình-định ngày nay. Tên Chàm là Vijaya ; sau có tên Chà-bàn ta thường chép lầm ra Đồ-bàn (13). Vijaya ở phía bắc thành Bình-định bây giờ, bên nam sông Khu-cương hay Hà-giao (Bản đồ họa-đồ-vụ Đông-dương), ở chính giữa một cánh đồng phì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 30 cây số. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉ miền Đông là trực tiếp với nước, tại vũng Nước-mặn (vịnh Qui-nhân ngày nay).Vũng chạy dài từ bắc chí nam dài 20 cây số và thông với bể bằng cửa Thi-nại, hẹp và sâu. Muốn tới thành Vijaya, chỉ có do phía đông là dễ dàng. Sông Khu-cương chảy vào vũng Nước-mặn, góc cực bắc. Nhưng sông cạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế mỗi lúc quân ta tới đánh Vijaya, đều đưa thuyền vào cửa Thi-nại rồi đổ bộ ở ven bờ vũng Nước-mặn. VSL chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu-mao, thấy tướng Chàm là Bố-bì-đà-la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố-bì-đà-la. " Quân Chàm chết nhiều không kể xiết ". Sông Tu-mao nói trên đây là sông nào ? Theo địa thế mà đoán, ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam-huyện, mà sách ĐKĐD gọi là sông Tân-an. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ-bàn ; sông này ở trước nhất. Theo bia NBS, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường-Kiệt và Thường-Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang, chém được ba vạn người. Có lẽ đó cũng là trận sông Tu-mao, mà công trong trận đầu tiên này thật về Thường-Kiệt.
Trong Ức-trai dư-địa-chí, có kể chuyện rằng : " Lý Thường-Kiệt kéo đại quân tới sông Phan-định. Sông Phan-định tiếp với phủ Hoài-nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình-định từ Quảng-ngãi đến sông Khu-cương). Sông có nhiều sư tử (tức là cá sấu). " Sư tử " khuất phục được các thú khác ; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan-định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ " sư tử ", quân không qua sông dễ dàng được ". Theo đó, sông Phan-định có thể cũng là sông Tu-mao (14).
Qua khỏi sông Tu-mao, còn phải vượt hai sông khác mới tới Vijaya.
Nghe tin quân mình thua ở sông Tu-mao, Rudravarman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng-la, (có lẽ trên sông Thạch-yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL)
Vua Lý Thánh-Tông vào thành. Nhưng vua Chiêm đã trốn thoát.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:06:56 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:06:56 GMT 9
5. Bắt vua Chiêm Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổi đến biên giới nước Chân-Lạp (VSL). Bấy giờ Chiêm-thành gồm có vùng Phan-rang, Phan-thiết ngày nay. Phan-rang, tên Chàm là Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêm đã chạy đến đó. Chân-lạp vốn là một cừu quốc với Chiêm (LNĐV). Vua Chiêm không giám chạy qua đó ; cùng thế phải ra đầu hàng. " Lý Thường-Kiệt bắt được Đệ-Củ ở biên giới Chân-Lạp " (VSL) và cầm tù cả thảy 5 vạn quân (NBS). Cuộc đuổi bắt vua Chiêm kéo dài ngót một tháng, từ đầu tháng ba đến tháng tư.
Thế là Chiêm-thành bị đại bại. Tuy Lý Thánh-Tông tự cầm quân, nhưng công chiến thắng hoàn toàn về Lý Thường-Kiệt, từ trận đầu đến trận cuối. Việc hành quân kể lại trên đây, phần lớn lấy ở sách VSL. Còn sách chính sử ta là Đại-Việt sử ký toàn thư thì không những không chép những chi tiết trên, mà lại chép chuyện hoàn toàn khác. Sách ấy nói rằng : " Vua đánh Chiêm lâu không thắng, bèn quay trở về. Về tới châu Cư-liên, nghe nói ở trong nước, bà Nguyên-phi (Ỷ-Lan) coi nội trị giỏi, khiến dân tâm hoà hiệp, cõi nước yên lặng. Vua tự than rằng : " Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, há lại vụng về sao ? " Rồi vua quay trở lại đánh ; bèn thắng ". Trong đoạn trên, có hai việc : một là thất lợi đầu tiên của quân ta, hai là vua Lý Thánh-Tông rút quân về rồi trở lại.
Về việc đầu, hình như có sự thiệt. Hoặc đó là vì tướng Chiêm, Bố-bì-đà-la, cản quân ta trên sông Tu-mao, hoặc là vì sông nhiều cá sấu mà quân ta không giám qua. Lẽ hợp hơn cả là vì vua Chiêm trốn thoát, chạy xa vào miền nam hiểm trở, quân ta khó lòng đuổi kịp và bắt được ; vua ta cho là chưa đạt được chủ đích. Rồi sử gia cho là " đánh lâu không thắng ". Còn việc thứ hai cũng có thể xẩy ra. Nhưng không rõ châu Cư-liên ở đâu, thuộc nước ta hay nước Chiêm ? Và nếu vua Lý có trở về thật, thì chắc về đường thủy. Sử nói vua về đến châu Cư-liên, ấy muốn nói về đến hải phận châu ấy. Hiểu như thế, ta có thể nghĩ rằng hoặc giả sau khi lấy được Vijaya, vua Lý Thánh-Tông sai Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi thấy chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước nhà, dân sự không yên, nên đưa một phần quân về trước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên-phi trị dân yên ổn, vua lại trở lại, đợi bắt được vua Chiêm. Nếu sự có thật, thì ta không hiểu vì lẽ gì VSL, là sách chép kỹ về việc đánh Chiêm-thành lần này lại không chép chuyện ấy.
6. Khải hoàn. Tha vua Chiêm Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan " vua thân hành múa khiên và đánh cầu (15) trước bệ ". (VSL) Vua lại sai kiểm số tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thẩy có hơn 2 560 khu. Đều sai đốt hết. (VSL)
Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí-tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư-minh (16). VSL chép rằng đêm ấy " rồng " hiện ở ngự thuyền. Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ-tị tháng sáu (có lẽ là Kỷ-hợi, DL 25-6), quân vượt bể, " rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng ". Ngày Mậu-thân (DL 4-7) qua các núi Lỗi-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố-chánh (Cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đá bị vỡ. (17)
Ngày Tân-dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng-long, dừng thuyền ở bến Triều-đông, trên sông Lô (Nhị-hà).
Cuộc rước vua về cung rất là long trọng. VSL còn ghi những chi tiết nhắc cho ta biết sự huy hoàng xán lạn của cuộc tiếp rước một vị vua viễn chinh khải hoàn. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cỡi ngựa. Dắt vua Chiêm-thành theo sau. Vua Chiêm-thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giây vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ-đô dắt đi. Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau.
Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái-miếu (VSL).
Cuối năm, sai Quách Sĩ-An và Đào Tông-Nguyên sang sứ Tống, để báo tin thắng trận. Lời biểu có câu : " Nước Chiêm-thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về ". Vua Tống tuy không bằng lòng, nhưng cũng phải nhận sự Chiêm-thành là một phiên quốc của ta. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ-An chức lục trạch và phó sứ Tông-Nguyên chức nội điện sùng ban. (TS 488)
Thế là vua Lý Thánh-Tông đã thỏa lòng tự lập : sau khi xưng Đế, lập được vũ công xứng đáng với danh hiệu ấy. Vua bèn đổi niên hiệu Thiên-huống báu-tượng (trời cho voi quí) ra Thần-vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.
Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh thuộc Chiêm-thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng-bình và phía bắc Quảng-trị (18).
Rudravarman III được tha về nước.
Vua Lý bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường-Kiệt chức tước sau này : Phụ-quốc Thái phó, dao-thụ Nam-bình tiết-độ-sứ, Phụ-quốc thượng-tướng-quân, Thượng-trụ-quốc, Khai-quốc-công, Thiên-tử nghĩa nam (bia NBS và VĐUL). Chức thái phó là thứ ba trong hàng tể chấp (I, cth 4) ; Tiết độ sứ là thứ hai trong hàng tướng ; tước là Thượng-trụ-quốc Khai-quốc-công. Đặc biệt là vua nhận ông làm con nuôi, tức là vào hàng vương ; và tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam-bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.
Chẳng bao lâu vua lại trao ông chức Thái-úy, Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự (19) là chức thứ hai trong triều. Ông giúp vua trông nom quốc chính. " Dân sự vì đó được nhờ ". (bia LX)
Đứng đầu triều có Thái sư Lý Đạo-Thành, đã giữ chức ấy từ năm Thánh-Tông lên ngôi (1054). Đạo-Thành và Thường-Kiệt giúp vua trong hai năm. Trong nước rất được yên ổn. Mùa hè năm Canh-tuất (1070) gặp trời đại hạn, lấy lúa, tiền, vải ở kho phát chẩn cho dân nghèo. Về hình luật, định số tiền cho tội nhân có thể nạp để chuộc tội (năm Tân-hợi 1071). Về tạo tác, mùa xuân năm Canh-tuất (1070), dựng điện Tử-thần. Về tôn giáo và giáo dục, bấy giờ là lúc Nho-giáo được chính thức tôn sùng : tháng tám năm ấy, vua sai dựng Văn-miếu, tô tượng Khổng-tử. Chu-công và Tứ-phối, vẽ tượng 72 hiền để thờ trong miếu ; lại cho Hoàng Thái-tử tới đó học tập (TT). Có lẽ, ấy cũng có ảnh hưởng ít nhiều của sự Thường-Kiệt khi bé có đọc sách nho.
Tuy vậy, Phật-giáo cũng không bị sao lãng. Tháng chín năm ấy, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phật (20) cao một trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên-du (Phật-tích, Bắc-ninh ngày nay).
Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm-thành, thì kính sợ và thần phục, năm Tân-hợi (1071), sư Chiêm tới cống (TT).
7. Kết quả Về việc đánh Chiêm-thành, bia chùa Linh-xứng chỉ chép rằng : " Kịp đến lúc Phật-thệ (21) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ sang đánh. Ông có tài thao lược hơn người đời, vào trong cung giúp vua lo toan mưu kế, đặt binh luật để đi đánh dẹp. Hoàn-vương (tức vua Chiêm) bỏ thành chạy trốn, nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém. Ông bèn bắt lấy, rồi đem quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và ban trật cho ông ". Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý Thường-Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái. Ông đã có công lấy thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba châu phía nam dãy Hoành-sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt-Nam, Lý Thường-Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại-Hành, Lý Thái-Tông cũng có đánh Chiêm-thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới mở mang bờ cõi. (22)
CHÚ THÍCH(1) - Chiêm-thành tới cống những năm : 1057, 1059, 1060, 1063 (VSL).1. (2) - TT chép : năm ấy, châu Chân-đằng hiến hai voi trắng ; cho nên vua đổi niên hiệu ra Thiên-huống-báu-tượng, nghĩa là trời cho voi quí. TT lại chép thêm : " Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới ". VSL cũng chép rằng : " Tháng giêng châu Chân-đằng hiến hai voi trắng. Châu Kỷ-lang (chắc là Quang-lang, VSL lầm chữ quang là sáng ra chữ kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến hai voi trắng. Tháng hai, huyện Đô-lạp hiến voi trắng và công trắng ". Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm-thành hiến voi trắng năm ấy. 1.
(3) - LNĐĐ, quyển 2, chép rõ về binh chế đời Lý, như sau. Binh lính một tháng đi phen một kỳ. Lúc rỗi thì cầy cấy để tự cấp. Mỗi năm, ngày mồng 7 tháng giêng, mỗi tên lính được phát 300 đồng tiền và một tấm vải quyến. Mỗi tháng, mỗi người lính được cấp 10 bó lúa. Ngày đầu năm lại phát cơm nếp và cá mắm để khao quân.
Trong sách SK, Ngô Thi-Sĩ cũng chép tương tự như trên.
ANCL chép : quân số không định trước.Tuyển dân tráng mà dùng. Lúc vội thì ra lính, lúc rỗi thì về cày ruộng.
Về việc tuyển binh, đời Lý kiểm điểm rất cẩn thận. Phan Huy-Chú trong LTHC viết : Dân-đinh lên 18 tuổi, phải đăng tên vào sổ. Sổ đóng bìa vàng. Cho nên hạng đinh này gọi là hoàng-nam. Đinh trên 20 tuổi gọi là đại-nam. Các đại nam đều có thể sung vào lính. Các nhà quan chức chỉ có quyền nuôi một đại nam mà thôi để hầu hạ. Mỗi quan có ba người bảo lĩnh ; nếu ai dấu đại nam, thì cả bốn người đều phải tội. 2.
(4) - TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra : Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu. VSL chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi ra ngày dương lịch mà thôi (Xem phép đổi trong báo Khoa-học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy.3.
(5) - Lời thề : Vi tử bất hiếu, vi thần bất trung, thần minh cực chi (TT 2 15a). 3.
(6) - Lý Đạo-Thành làm Thái-sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên-phi coi chính quyền. Nguyên-phi tức là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu Thượng-Dương. Vả sau khi Thánh-Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương-hậu. Vua Tự-Đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ỷ-Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh-Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo-Thành đã cử Dương-hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh-Tông giao quyền cho Ỷ-Lan trong lúc đi đánh Chiêm-thành, không phải là vô lý. 3.
(7) - Tuy các sách không chép rõ đoạn đường này, nhưng đó là đường Thái-Tông theo 25 năm về trước, và sau này cũng thường theo. Cửa Đại-an trước có tên là Đại-ác hay Đại-á. Lúc Thái-Tông qua đó, bể không sóng, cho nên mới đổi tên Đại-ác ra Đại-an (TT). Nay huyện sở tại còn tên Đại-an. 3.
(8) - Xem thơ Lê Thánh-Tông trong Thiên-nam dư-hạ-tập. Đoạn sông này có tên Sông Nghèn. 3.
(9) - Theo Lê Quí-Đôn trong sách Phủ-biên tạp-lục : từ cửa Nhật-lệ đến cửa Minh-linh (cửa Tùng) có bãi Đại-tràng-sa ; từ cửa Việt đến cửa Tư-dung (Tư-hiền ngày nay) có bãi Tiểu-tràng-sa. Bấy giờ cửa Thuận-an chưa có. 3.
(10) - Cửa Tư-dung hẹp và sâu, là một cửa rất can hệ trong sự hàng hải ngày xưa. Trong các đời Lý, Trần, Lê, mỗi lúc thủy quân xuống đánh Chiêm-thành, đều nghỉ ở đó. Chữ Dung húy đời Mạc, đã bị đổi ra chữ Khách, tự dạng gần nhau. Vào khỏi cửa, có một vũng rất lớn, nay gọi là phá Hà-trung, thông với sông Hương, và phá Tam-giang. 3.
(11) - VSL chép B. Ng. Nhưng tháng ba năm K.Zu không có ngày ấy. Chữ Ngọ và chữ Tý gần giống nhau ; vả tháng ba lại có ngày B. Ty, mà ngày B. Ty nầy lại cách ngày tới cửa Tư-dung (C.Ng) sáu ngày. Vậy theo lịch, cũng như theo hành trình, ta có thể chữa chữ Ngọ ra chữ Tý một cách hợp lý. 3.
(12) - Nay còn một vài sách chép nhật trình đi từ Thăng-long đến các cửa bể miền nam. Góp nhặt lại, ta có thể kê ra như sau :
Từ Thăng-long đến cửa Đại-an : 1 ngày (Lý Thái-Tông đánh Chiêm, TT).
Từ cửa Đại-an đến cửa Hội ở Nghệ-an : 3 ngày (Lê Cảnh-Hưng. PBTL)
Từ cửa Hội đến Nam-giới (cửa Sót) : 1 ngày nếu đi đường bể (PBTL)
Từ cửa Sót đến cửa Nhật-lệ : 3 ngày (PBTL)
Từ cửa Nhật-lệ đến cửa Tư-dung : 3 ngày. (PBTL. Sách này chỉ chép hải trình đến cửa Châu-ổ, chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng-nam và Quảng-nghĩa).
Từ cửa Tư-dung đến cửa Châu-ổ : 4 ngày.
Từ cửa Châu-ổ đến cửa Nước-mặn (cửa Thị-nại) : 3 ngày. (Theo sách Càn-khôn Nhất-lãm của Phạm Đình-Hổ chép hải trình năm M. Tu, 1778, của quan đốc thị Nguyễn Thưởng). Cộng hai đoạn sau, để so sánh với hải trình đời Lý Thánh-Tông, ta thấy : từ cửa Tư-dung đến cửa Thi-nại mất 7 ngày.
Hải trình trên chỉ hợp với khi thuận gió, thuyền đi ban ngày theo ven bể mà thôi.
Sách Thiên-nam Tứ chí lộ-đồ, đời Lê, chép rằng : thuyền vượt qua bể, đi cả đêm ngày, nếu thuận gió bắc (mùa đông và mùa xuân), thì hành trình như sau : từ cửa Lạc (phía bắc cửa Đại-an, đi nửa ngày đến Biện-sơn (một đảo gần chỗ giáp giới Thanh và Nghệ, rồi đi nửa ngày đến cửa Hội-thống (cửa Hội ở Nghệ-an) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Bố-chánh (sông Gianh) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Tư-khách (Tư-dung, phía nam Thuận-hoá) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Đại-chiêm (phía đông thành Quảng-nam) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Ô-lộ ( ?) ; rồi đến cửa Phố-đại ( ?) thuộc Chiêm.
So sánh hành trình này với hành trình Lý Thánh-Tông, ta thấy rằng Lý Thánh-Tông đã đi theo ven bể. Dọc đường chắc có dừng nghỉ nhiều.
Sách TS (quyển 489) nói : thuyền thuận gió, đi từ Chiêm-thành đến Giao-châu mất 2 ngày. Chắc là nói đi từ hải phận Chiêrm đến cửa cực nam của Giao-chỉ, tức là cửa Nam-giới. 3.
(13) - Dấu tích thành Vijaya, nay còn, và chắc chắn là nhận được.
Ấy là thành Trà-bàn trong sử chiến tranh giữa hai họ Nguyễn : Thuận-hoá và Tây-sơn. Trà-bàn là kinh đô của vua Thái-Đức, tức Nguyễn Nhạc. Võ Tánh tự thiêu trong thành. Nay có mộ và đền trong thành.
Sách TNTCĐ có vẽ bản đồ thành, và chú thích : " Xã Phú-đa xưa có thành xây bằng gạch, tên là Trà-bàn (Sách ta đều chép lầm ra Đồ-bàn, vì hai chữ Trà là chè và Đồ là một thứ rau đắng rất giống nhau). Thành vuông, mỗi bề dài một dặm. Có bốn cửa. Trong có điện, có tháp. Nay điện đã bị đổ. Tháp còn 12 toà. Tục gọi là tháp Con Gái hay tháp Cánh-tiên. " Trên đây là tả thành Trà-bàn đời cuối Lê.
Sách HVDĐC chép : " Thành Trà-bàn ở trên sông Phú-gia-đa. Hai tên Phú-đa và Phú-gia-đa chắc là một. Có lẽ là tên Chàm phiên âm ra Phú-gia-đa. Sau rút ngắn tên mà gọi tên làng. Bản đồ trong TNDĐC vẽ sông ấy chảy qua phía bắc thành.
Sách ĐNNTC chép : " Thành Trà-bàn ở chỗ giáp giới hai huyện Tuy-viễn và Phù-cát. Chu vi dài hơn 60 dặm. Trước là kinh thành của chúa Chàm. Nguyễn Nhạc chiếm và lấy đá ong xây thành. Trong thành có tháp xưa, có tượng nghê đá, voi đá ; đều là của người Chàm xưa. Sau đại binh thu phục, đổi tên ra thành Bình-định, và đặt tỉnh lị ở đấy. Sau (1808) dời tỉnh lị đến chỗ ngày nay. "
Ngày nay, cách phía bắc thành Bình-định 10 cây số, trên đường thiên lý, còn di tích một thành cổ ở địa phận ba làng An-nghĩa, Nam-an và Thuận-chánh. Thành đất, bọc bằng đá ong. Hình chữ nhật, các mặt gióng đúng hướng. Mặt Đông và Tây rộng 1.400 mét, mặt Nam và Bắc rộng 1.100 mét. Phía bắc thành có sông Khu-cương Đường quan lộ xiên qua góc đông bắc thành. Trong thành còn nhiều cồn đất, hình như ngày xưa có những lâu đài hay tháp dựng trên. Thành nay đã đổ hết. Trong thành là ruộng. Còn vết một đường đi ttừ cửa đông sang cửa tây. Chính giữa, còn có một tháp lớn, tức là tháp Con-gái, hay là tháp Cánh-tiên, đã nói trên. Ở phần phía tây thành có mộ và đền thờ Võ Tánh. Trong thành còn có nhiều đá chạm, như hai con sư tử (nghê) trước mộ Võ Tánh, hai con voi đá lớn ở trong vườn đền. (Phỏng theo Parmentier ; inventaire descriptif des Monuments Čams de l'Annam). Xung quanh thành đá ấy còn nhiều tháp. Các tạo tác ấy chắc là thuộc thành Vijaya. Thành chu vi hơn 60 dặm, nói trong ĐNNTC, chắc là một thứ la thành, bọc chung quanh các tháp nói trên. Thành vuông mỗi bề một dặm nói trong TNTCĐ là thành đá ở trong. 4.
(14) - Sách ƯTDĐC chép thêm rằng : " Lý Thường-Kiệt phong cho ba đoàn sư tử ấy chức Hiệu-thuận tam thần-bá. Ngày tuyên sắc, sư tử nổi lên mặt sông để nghe. Nhờ đó, quân ta qua sông không bị trở ngại ".
Ở Phan Rang (tên Chàm là Panduranga), có sông tên là Kron-Biyuh nghĩa là sông Cá-sấu (theo Cabaton). Chắc rằng xưa sông này có nhiều cá sấu hơn các sông khác. Hoặc giả, sông Phan-định của ƯTDĐC là sông này. Nếu thật vậy, thì sự Lý Thường-Kiệt bị cá sấu trở ngại là vào lúc ông đuổi vua Chàm tới biên giới Chân-lạp. 4.
(15) - Múa khiên và đánh cầu là hai quân lễ để ăn mừng trong các hội lớn. Môn múa khiên có lẽ đời sau còn hình dung trong các bài " đi võ ". Còn môn đánh cầu là thế nào ?
Chữ hán chép " kích cầu ". Cầu là một đồ chơi làm bằng da, hình tròn, trong nén đầy lông. Nói tóm lại, tức là quả bóng ngày nay, nhưng ruột đặc và đầy lông để cho nhẹ. Tuy về đời sau, như đời Lê có chuyện một viên quan " đá cầu chúc thọ " chúa Trịnh ; nhưng trò chơi này là lấy chân đá cái cầu làm bằng một vật có chắp đuôi, như cầu trẻ con chơi ngày nay bằng đồng tiền có đuôi giấy.
Môn đánh cầu trong quân khác hẳn thế. Đó là trò chơi mà Âu Mỹ gọi là Polo. Ở Ấn-độ cũng có từ đời xưa.
Tống-sử, (Q. 121, Lễ chi, chép Đả cầu) còn chép rõ cách thức chơi của nhà vua. Sân chơi là sân chính điện, dưới thềm ngai vua, ở phía Nam ngai. Hai bên tả hữu (đông và tây) dựng hai cửa bằng gỗ, gọi là cầu môn cao hơn một trượng, trên chạm rồng, dưới đặt tòa sen bằng đá dùng vải vóc trải trên. Chỉ có các bực vương và dại thần được dự chơi ở trước bệ ; họ chia ra làm hai phe. Ở hai cầu môn có treo cờ nhật và nguyệt, dưới cờ đặt nhạc. Hai phe mặc áo vóc, mầu khác nhau : bên tả (đông) mầu vàng, bên hữu mầu tía. Trước thềm cũng bày hai giá cờ ; hễ bên nào được, thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ.
Lúc bắt đầu đánh, sở tầu ngựa vua đem ngựa và yên cương ra. Vua lên ngựa. Ban nhạc gẩy khúc Lương-châu. Vua gọi từng người lần lượt lên ngựa. Đuôi ngựa gióc thắt theo mầu phe vàng hay tía. Các quan bắt đầu sắp hàng phía tây ; vua đứng ở góc tây nam.
Quan nội thị mở một hộp vàng, lấy quả cầu sơn đỏ, ném xuống trước điện, viên thông-sự-xá-nhân tâu : " phe vua đánh vào cửa đông ". Vua tiến ngựa đánh. Nhạc nổi. Lúc cầu vào cửa, thì cờ phất, chiêng rền, trống dóng. Vua quay ngựa trở về chỗ. Các quan chúc mừng, rồi vua ban rượu. Xong vua lại lên ngựa, lại đánh. Bấy giờ mới sai các quan ruổi ngựa tranh cầu. Trống đánh rậy. Khi cầu gần tới cửa, trống giục càng mau. Lúc cầu qua cửa thì trống dóng ba hồi. Rút cờ để sẵn bên cửa phe được, rồi cắm vào giá phe mình để trước bệ. Như thế gọi là được một thẻ. Khi nào vua được thẻ, thì nhạc đánh nhẹ bớt, để các quan hô " Vạn tuế " ; khi nào một quan được thẻ, thì hô " hảo ". Kẻ được thẻ, xuống ngựa để tạ. Xong ba thẻ, vua lại mời các quan uống. Mỗi phe có 24 cờ. Có lẽ bên nào được 24 thẻ trước thì được.
Trên đây là cuộc đánh cầu bằng ngựa. Cũng có lúc đánh cầu không cỡi ngựa.
Tuy TS không nói rõ, nhưng ta cũng hiểu rằng, người ngồi trên ngựa, cầm cương một tay ; tay kia cầm cái trượng dài, mà đưa đẩy quả cầu, hoặc đánh mạnh vào cầu để chuyền cho kẻ đồng phe, hay để cho vào cửa. Hình dạng cái trượng ấy chắc như còn thấy ở bảo tàng Đà Nẵng. Bức chạm nổi ấy gồm hai người Chàm cỡi ngựa, tay phải cầm cương tay trái cầm trượng dài mà đầu cuối cong và bẹt. Ngựa đeo đạc, mang yên, đuôi gióc như trong TS tả. Bức chạm này rất linh động, người sau vừa đánh vào cầu, người trước kéo gò ngựa quay đầu lại rồi vắt tay ra sau mà chặn cầu. Dáng điệu ngựa và người làm ta tưởng tượng như còn thấy cuộc đánh cầu của vua Lý Thánh-Tông còn diễn trước mắt ta. Biết đâu trong cuộc đánh cầu này, vua Lý lại không bắt các quan Chàm bị cầm tù ra đánh làm trò vui ? Nếu có vậy thì bức chạm này lại nhắc được một hình ảnh của sự huy hoàng của tiệc mừng thắng trận (xem ảnh ngoài bìa).
Trò chơi ấy ở triều Lý có. TT chép : " Năm B. Ng (1126), mồng một tháng hai, vua Lý Nhân-Tông tới điện Thiên-an xem các vương hầu chạy theo cầu mà đánh (ở đây TT chép : xúc cầu, xúc là chạy theo, xúc cầu nghĩa là chạy theo cầu mà đánh). Năm C. Tu (1139) tháng chạp, vua Lý Thần-Tông đánh cầu (chép Kích-cầu) ở sân Long-trì ; vua bảo sứ Chiêm vào xem. " 6.
(16) - Cửa Tư-minh có phải là cửa Tư-dung không ? Trong sử đời Lý, sách VSL có chép Tư-minh hai lần : lần này (Thánh-Tông trở về) và lần trước, khi Lý Thái-Tông đi đánh Chiêm-thành (1044). Nay so với TT, thấy cũng chép viêïc Thái-Tông, TT có nói : " Vua tới cửa Tư-khách, cá trắng nhảy vào thuyền ", mà VSL lại chép : " Vua tới cửa Tư-minh, cá trắng nhảy vào thuyền ". Vậy Tu-minh tức là Tư-khách hay Tư-dung. Nhưng không hiểu vì cớ gì, mà lúc Thánh-Tông đi, và lúc về, cách nhau có bốn tháng mà VSL lại gọi, một chỗ đất, bằng hai tên khác nhau : Tư-dung và Tư-minh ? 6.
(17) - Sách Ô-châu cận-lục (đời Mạc) chép tên núi Lỗi-lôi. Núi ở châu Bố-chánh, gần cửa bể Di-luân (cửa Ròn). Núi Hoành-sơn chạy ra bể đến đó là hết.
Sách VSL chép : ở gần cửa Bố-chánh, tức là cửa sông Gianh. Cửa Gianh và cửa Ròn cũng cách nhau không bao nhiêu. Huống chi sông Gianh là sông lớn, cho nên VSL chép như vậy. 6.
(18) - Theo HVDĐC, và các sách địa chí khác : Các châu ấy chiếm địa phận theo như sau. 1/ Địa-lý : đời Lý đổi ra Lâm-bình. Trần đổi ra Tân-bình. Lê Trung-hưng đổi ra Tiên-bình. Nay thuộc Quảng-bình, gồm các huyện Lệ-thủy, Phong-phú, Phong-lộc. 2/ Ma-linh : Lý đổi ra Minh-linh. Minh đổi ra Nam-linh. Lê lập lại Minh-linh. Nay thuộc Quảng-trị, gồm hai huyện Minh-linh và Do-linh. 3/ Bố-chánh : Minh đổi ra Trấn-bình. Lê đổi lại Bố-chánh. Nay thuộc Quảng-bình, gồm các Bình-chánh, Bố-trạch và Tuyên-chánh. 6.
(19) - Vũ chức đời Lý có : Đô-nguyên-soái, Tiết-độ-sứ, Đại-tướng-quân, Phó-nguyên-soái, Phó-tiết-độ, Phó-tướng-quân. Nội-điện chỉ-huy-sứ, Chiêu-thảo-sứ, Thiên-tướng, Thần-tướng. Sáu chức đầu, chọn kẻ tông-thất bổ nhậm. (ANCL).
Sách LNĐ chép : " binh quan, thì đứng đầu có Khu-mật-sứ, Kim-ngô Thái-úy đô-lĩnh-binh. " Đại loại các chức cũng theo Đường-chế. 3.
(20) - Nay ở trước cửa chùa làng Bạch-á, huyện Nga-sơn, còn có một tấm bia lớn, rộng 1,2m và cao 1,67m. Trên khắc chữ Phật rất lớn. Chung quanh chạm rồng và hoa cỏ rất tỉ mỉ và đẹp. Bia không còn chữ gì khác nữa, ngoài bi ngạch " TRÙNG TU DIÊN LINH CHÂN BÁO TỰ BI ". Lê Quí-Đôn có nói đó là bia khắc chữ Phật của Lý Thánh-Tông viết. Tuy theo cách chạm trổ, thì biết là bia rất xưa, có lẽ đời Lý, nhưng không biết Lê Quí-Đôn có l ầm bia này với bia chùa Tiên-du chăng ?
(21) - Phật-thệ là tên Chiêm-thành, Hoàn-vương là tên Chiêm-thành mà người đời Đường đặt ra khoảng năm 756-757 (Tân Đường-thư và LNĐĐ). Các tên chỉ nước này là : Lâm-ấp, Phật-thệ, Hoàn-vương, Chiêm-thành. Ở nước ta còn có tên Lồi (như nói thành Lồi, chúa Lồi) và tên Chàm. 7.
(22) - Trong lúc Lý Thánh-Tông vượt bể, hình như có gặp sóng gió to. Sách VĐUL có chép chuyện thần Hậu-thổ địa-kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau. Khi Lý Thánh-Tông đến cửa bể Hoàn ( ?), thình lình bảo to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quần lục, nói với vua : " Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ ". Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ Sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu-thổ phu-nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió lại nổi lên. Sư Huệ Sinh xin đem tượng về kinh. Sóng gió bèn êm. Về đến kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên-lãng.
Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như : vị sư Huệ Sinh, thì các bản sao viết Huệ-lâm-sinh hay là Huệ-lâm. Sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ Sinh họ Lâm, chắc là vị ấy. Nhưng Huệ Sinh mất năm 1064, trước năm Thánh-Tông đánh Chiêm-thành. 7.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:08:04 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:08:04 GMT 9
Phần I - Bại Chiêm Phá Tống CHƯƠNG III - CẦM QUYỀN BÍNH
1. Văn võ phân tranh 2. Liên kết nhân tâm Chú thích
1. Văn võ phân tranh Tháng giêng năm Nhâm-tý, Thần-vũ thứ tư, vua Lý Thánh-tông mất. Ấy vào ngày Canh-dần (DL 1-2-1072), thọ 50 tuổi. Hoàng thái tử Càn-đức lên ngôi ; Tức là Lý Nhân-tông. Càn-đức là con Ỷ-lan nguyên phi. Sinh năm Bính-ngọ vào tháng giêng (1066). Bấy giờ mới bảy tuổi. Quyền bính ở trong tay Lý Đạo-Thành và Hoàng thái hậu Thượng-Dương họ Dương.
Mẹ Càn-đức, tuy được phong làm Hoàng thái phi, nhưng không được tham dự chính quyền. Thái phi nguyên là Ỷ-lan phu nhân, một cô gái nhà quê. Nhân khi vua Thánh-tông hiếm con, đi cầu tự ở chùa làng Siêu-loại, gặp Ỷ-lan trong vườn dâu ; vua để ý tới, đem về cung (1). Vì sau sinh con trai, nên được tôn làm nguyên phi. Khi Thánh-tông vắng mặt ở kinh (1069), Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh-tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghi rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng : tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng là để đề phòng sự cướp quyền.
Phe Thượng-Dương thái hậu được Lý Đạo-Thành ủng hộ, nên Thái hậu được cầm quyền và Lý Đạo-Thành làm phụ chánh. (TT và VSL)
Lý Đạo-Thành là một bậc lão thần. Vua Thánh-tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học ; ông theo lẽ thường, tôn Thượng-Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ-lan thái phi. Là một văn quan, mộ nho, mộ phật, chắc ông chuộng hoà bình, trái với Lý Thường-Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi).
Thường-Kiệt vẫn giữ chức thái uý, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo-Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.
VSL chép rằng : " ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, (TT chép năm ấy là năm Thái-ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần-vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân-tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường-Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật-Thành làm binh bộ thị lang ". Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật-Thành chắc là Đạo-Thành. Chữ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng hay đổi (XV/1).
Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân-tông lên ngôi, phe Thường-Kiệt đắc thắng. Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị lang.
Đó là kết quả của sự Nguyên-thái-phi vận động ở trong. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng năm sau, có cuộc Thái-phi ép Thái-hậu tự tử, để giành lấy chính quyền.
TT và VSL đều chép rằng : Thái-phi tính hay ghen, thấy mình là sinh mẫu mà không được dự chính, bèn nói với vua rằng : " Mẹ già đã khó nhọc nuôi nấng con, mới có ngày nay. Bây giờ được phú quí, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào ? " Vua bèn giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng-dương (cung riêng của Thái-hậu), rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh-tông. (VSL chép 72 người, TT chép 76. Tục truyền cũng 72, và nói vì vậy, sau này Ỷ-Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội).
Còn Lý Đạo-Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu, ra coi châu Nghệ-an (TT). Đạo-Thành ra đó lập viện Địa-tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh-tông để thờ. Lý Thường-Kiệt chuyên cầm quyền bính cùng Thái-phi, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh-nhân Hoàng thái hậu. (TT)
Tuy các sử không đâu chép, nhưng trong việc khuynh đảo Thượng-dương thái hậu, chắc Thường-Kiệt có một phần trách nhiệm. Sử chỉ đổ lỗi cho Ỷ-Lan xui con, và cho Nhân-tông, vì nhỏ tuổi, nghe lời mẹ. Nhưng thật ra, vua mới tám tuổi ; Thượng-dương lại cầm quyền. Nếu không có một đại thần, cầm quân đội trong tay, giúp, thì làm sao ép được Thái-hậu tự tử ? Còn Lý Đạo-Thành, theo như lời bàn của Ngô Sĩ-Liên (TT), chắc đã phản kháng việc ấy, nên mới bị biếm ra Nghệ-an, và mới ôm hận, mang theo thần vị vua Thánh-tông để thờ. Đạo-Thành làm thế để tỏ lòng uất ức.
Một sự đáng làm ta chú ý đến, là trong TT không hề nói đến Thường-Kiệt trong khoảng đầu đời Nhân-tông. Nhưng nhiều sách khác của người Tống nói rõ địa vị của ông ; và, như ta đã thấy trên, VSL, là sách viết tự đời Trần, và chưa từng bị sửa chữa lại, cũng nói rõ ông được làm thủ tướng. Chính bia LX cũng nói rõ rằng : " Lúc đầu thời Thái-ninh, vua ta nay là Minh-hiếu Hoàng-đế, cầm vận nước lên ngôi. Vì ông (Thường-Kiệt) có tài, văn ngang Y-Doãn, vũ sánh Hoắc-Quang, nên vua giao coi việc dại chính và phó xã tắc cho ông " (2). VĐUL cũng nói : " Lúc Nhân-tông lên ngôi, trao cho ông chức Phụ-quốc thái úy ", ấy cũng hợp với VSL. Các sách Tống nói rõ ràng hơn. Sách MKBĐ (Quyển 2) rằng : " Nhật-tôn (Thánh-tông) mất. Càn-đức lên, lấy hoạn quan Lý Thượng-Cát và mẹ Lê thị Yến-loan thái phi cùng coi việc nước ".Người Tống chép theo âm, nhưng ta cũng nhận thấy tên Lý Thường-Kiệt và Ỷ-lan thái hậu. Sách LNĐĐ cũng nói : " Nhật-tôn mất, con là Càn-đức lên, tự gọi là Minh-vương. Quyền về tay bầy tôi. Đại thần Thượng-Cát cầm đầu ". Sách TB (279/11a) cũng chép tên Lý Thượng-Cát ấy. Cho đến bia NBS, của Nhữ Bá-Sĩ dựng đời Tự-đức, mà cũng chép : " Lúc Nhân-tông lên ngôi, Lý Thượng-Cát dự chính ". NBS tưởng Thượng-Cát và Thường-Kiệt là hai người.
Những chứng cớ trên làm ta không thể nghi ngờ rằng, hoặc trước, hoặc sau khi Thượng-dương Thái-hậu mất, Thường-Kiệt cầm hết quyền bính trong tay : văn và vũ. Vả, vì đó, Thường-Kiệt đã a phụ Ỷ-lan trong việc tranh giành ngôi thứ với Hoàng Thái-hậu, và trong việc bức tử 72 nhân mạng.
Đó là một vết đen trong sử xán lạn của Lý Thường-Kiệt. Nhưng ông là võ tướng ; trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận đánh Tống, ông còn hi sinh biết bao là nhân mạng nữa, gấp trăm ngàn lần sự bức sát này.
Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-lan, và có lẽ cho ông, ta nhận đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ-lan mất (1117), có ba thị nữ chết theo, (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân-tông mất (1127) cũng có cung nữ lên đàn lửa để chết theo vua. (TT)
Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường-Kiệt cầm quyền tể tướng. Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn-Hưu, hay Ngô Sĩ-Liên viết sử, Khổng học đã thịnh, kẻ học giả đã dùng sử học làm một khoa luân lý ; cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường-Kiệt là một hoạn thần, mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính . Có lẽ Lý Thường-Kiệt cũng bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự ấy trong sử cũ mà không chép lại.
2. Liên kết nhân tâm Vua gia phong cho ông chức Đôn-quốc thái-úy, Đại-tướng-quân, Đại-tư-đồ và ban cho hiệu Thượng-phụ-công. Thế là ông coi việc văn, việc vũ, và kiêm cả chức cấm quan. " Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn " (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073). Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng chiến tranh. Năm sau (Giáp dần 1074) Chiêm-thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.
Có lẽ, vì thế, Lý Thường-Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng-dương thái hậu. Năm ấy (Giáp-dần 1074), mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ-an trở về, giữ chức Thái-phó, bình-chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thuờng-Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường-Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân.
Lý Đạo-Thànhlà một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ-an chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều.
Bấy giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh. Tân và cựu, không phải chỉ trong phương pháp (VI/3), nhưng ở cả cá nhân. Phái tân có thủ lĩnh Vương An-Thạch ; trong phái ấy, người đều còn trẻ. Phái cựu gồm hầu hết các lão thần. Thấy Vương An-Thạch và đồng phái đều còn ít tuổi mà lên cầm quyền, phái cũ không bằng lòng, cho nên sự xung đột về chủ nghĩa lại tăng kịch liệt.
Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50, thêm là một hoạn quan. Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường-Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo-Thành trở về dự chính, và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế. (TT)
Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, để chiêu dụ hiền tài. Từ trước, tuy có lập Văn-miếu (1071), tuy có dùng nho quan, nhưng chưa hề có mở khoa thi để khuyến khích và tuyển nhân tài. Năm Ất-mão (1075), vào tháng hai, vua hạ chiếu tuyển các nhà minh-kinh bác- học, chọn kẻ hiểu sách Kinh, học rộng, và mở khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Lê Văn-Thịnh đậu khoa ấy, và được vào dạy vua Nhân-tông bấy giờ lên 10 tuổi. Trong các việc này, chắc Lý Đạo-Thành có ảnh hưởng lớn. Thế cũng đủ tỏ rằng hai nhà họ Lý kia đã thành thật đồng tâm cộng sự. Nhờ sự hoà hảo trong triều, mà sau này, tuy Tống tìm phương chia rẽ các đại thần để dễ bại quân ta, nhưng Tống sẽ hoàn toàn thất bại.
Ta sẽ thấy vũ công của Lý Thường-Kiệt trong năm sắp tới rất to. Mà xem việc trên đây, ta cũng thấy về chính trị, ông cũng là tay rất giỏi.
CHÚ THÍCH (1) Làng là bởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương không phải là một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung-quốc chia ra từng quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thành hương. Hương chia thành đình. Đình chia thành lý. Tuy đời sau có đổi chế độ ít nhiều. Nhung hương vẫn là phần của huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũng bị chia ra châu hay huyện. Vậy chế độ hương có từ đời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn đời sau. Về chuyện Ỷ-lan, xem lời dẫn tường tận ở sách Chuyên Ỷ-lan, (nhà xuất bản Sông Nhị).1.
(2) Y-doãn làm quan đời Thương. Trước ở ẩn, vua Thang ba lần đến mời, mới chịu ra. Ông có công giúp vua Thang đánh vua Hạ Kiệt. Sau vua Thang mất, có phó thác cháu là Thái-Giáp cho ông. Thái-Giáp còn trẻ, tính hư. Y-doãn truất đi, bèn hối quá.
Hoắc-Quang, tướng đời Hán, là em Hoắc Khứ-Bệnh (I, Cth 2). Quang giúp vua Hán Vũ-đế rất có công. Vua mất, giao cho ông phò vua Chiêu-đế. Quyền hoàn toàn trong tay ông. Chiêu-đế chết, ông lập Xương ấp-vương tên Hạ. Vì Hạ dâm loạn, ông lại bỏ đi, lập vua Tuyên-đế. Nói tóm lại Y-doãn và Hoắc-quan là hai bầy tôi, được vua phó thác hoàng tử còn bé. Tuy cầm hết quyền bính trong tay, hai người đều trung thành với chúa, và không nhân cơ hội đoạt ngôi vua. Lời bia so sách Lý Thường-Kiệt với Y-doãn, Hoắc-quang, đủ tỏ rằng Lý Thường-Kiệt đã làm tể tướng cầm hết quyền trong nước, trong khi Lý Nhân-tông còn nhỏ.
Bia BA có câu :"Vua nhỏ có thể phó thác cho ông." Đó là thêm một chứng nữa rằng Thường-Kiệt được sung chức phụ chính.1.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:09:24 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:09:24 GMT 9
CHƯƠNG IV : CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ
1. Cương-vực Đại-Việt 2. Dân vùng biên giới 3. Họ Nùng và châu Quảng-nguyên 4. Phủ-dụ 5. Chinh phạt Chú thích
1. Cương-vực Đại-Việt Đời Lý ở nước ta là đồng thời với nhà Tống bên Trung-quốc. Nhân bên Trung-quốc, có cuộc phân tranh đời Ngũ-đại, cho nên ở miền Nam, dân Giao-chỉ đã có cơ tự lập. Từ khi Khúc Thừa-Mỹ (919), Ngô-Quyền (939) chiếm cứ được đất, đánh lui quân Nam-Hán, thì trung nguyên xứ Bắc-kỳ bây giờ, đã do tay người Giao-chỉ tự quản trị. Nhưng công ấy không bởi một người, cho nên quyền chưa được tập trung. Kịp khi Ngô Xương-Văn mất, các tướng tá tranh giành nhau. Nhưng sự tranh giành ấy cũng không ra ngoài trung nguyên.
Đến khi nhà Đinh nhất thống sơn hà (968), thì bên bắc, nhà Tống cũng vừa mới lâïp (963). Hai nước còn bận việc trị an những nơi gần căn cứ mình, cho nên chưa nghĩ đến việc biên thùy. Nhưng khi nghe tướng Tống đã vượt xuống Lĩnh-nam, vào vùng Lưỡng-Quảng (970), thì Đinh liền sai sứ sang Tống xin giao hiếu (973, TB 14/6a), và Tống cũng nhận cho ta tự trị và phong cho Đinh Bộ-Lĩnh làm An-nam quận-vương.
Tiếng rằng tự trị, thật ra thì Tống chẳng có quyền thực tế gì ở nước ta. Chỉ có điều là ta thỉnh thoảng phải sang cống phương vật và chịu Tống phong cho chức tước theo lệ chư hầu.
Sở dĩ Tống chưa muốn chiếm lại nước ta như đời Đường là vì còn bận việc nơi khác (VI/1). Cuối đời Đinh, cha con vua Đinh bị nạn (979), tướng là Lê Hoàn có ý chiếm ngôi. Tống, bấy giờ trong nước đã gần yên, nhân cơ hội định chiếm lại Giao-chỉ. Lấy cớ đánh Hoàn, Tống sai quân sang xâm lấn nước ta. Đó là mở cuộc bang giao khó khăn ở hai nước (980). Nhờ Hoàn đánh bại thủy quân Tống ở sông Bạch-đằng, giết đại tướng Hầu Nhân-Bảo ở Chi-lăng (giáp giới Bắc-giang và Lạng-sơn) và phá tan lục quân của Thẩm Khâm-Tộ ở Tây-Kết (tháng ba năm Tân-tị 981), nước ta tránh khỏi ách Tống. Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).
Phía bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá quân Chiêm. Nước ta nhờ đó thành có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị không quá vùng trung nguyên (1). Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường thông lộ lớn, từ châu Vĩnh-an ở vùng Hải-ninh, Mông-cái, đến Khâm-châu (Kintcheou) và từ huyện Quang-lang, là Ôn-châu, ở phía nam Lạng-sơn, đến Ung-châu (Nanning), thì hai nước kiểm soát cẩn thận (2). Biên thần Tống thường thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu (vùng Bắc-bình và Mãn-châu), Hạ (vùng Thiểm-tây), cho nên chưa muốn gây hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ (3). Đến lúc Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta (1006). Nhưng vua Chân-tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng :"Hoàn đã trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao-chỉ hiểm trở, thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích" (4) (TS.488 và TB 63/8b)
Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công-Uẩn nối nhà Lê. Tính rộng rãi của Tống Chân-tông đã tỏ rõ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công-Uẩn tranh ngôi Lê :"Lê Hoàn bất nghĩa mà được nước. Lý Công-Uẩn bắt chước, rất là đáng ghét; Nhưng man tục như thế, không nên trách." (TS 488)
Từ lúc Lý lập nước (1009), ngoài việc các vương toan cướp ngôi Thái-tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý đến việc biên cương phương nam và phương bắc.
Về phương nam, biên giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành-sơn ngăn đôi hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy. Gần biên giới chung, dân ta và dân Chàm sống trên h ai đồng bằng châu Hoan và Bố-chánh cách nhau xa, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau, trừ phi những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.
Còn về phương bắc, ngoài hai dân tộc Hoa và Việt, có nhiều dân tộc khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán�), chiếm miền rừng núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn : triền sông Lô (Nhị-hà) ở ta và triền sông Uất (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao-bằng bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, thì đến vùng Đông-khê, không khác lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ-cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây-bình, Lộc-châu và huyện Thanh-Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta còn ăn vào tỉnh Quảng-đông đến gần vịnh châu Khâm (5). Còn về phía tây Cao-bằng, dân Man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo-lạc và miền Yên-bái ngày nay.
Biên-hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau :
Đất KHÂM-CHÂU giáp với châu Vĩnh-an (tên cũ là Triều-dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải-ninh, Mông-cái bây giờ.
Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau bằng một con sông nhỏ, là sông Kỳ-cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại : Thiên-long, Cổ-vạn, Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ung-châu.
Trại THIÊN-LONG giáp giới Khâm-châu, và có lẽvới phần tây châu Vĩnh-an. Trại CỔ-VẠN gồm đất TƯ-LĂNG và giáp châu Tô-mậu ở nước ta.
Trại VĨNH-BÌNH gồm phần đất các châu TƯ-MINH, BẰNG-TƯỜNG, một phần TƯ-LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô-bì (Kỳ-cùng thuộc Lạng-sơn). Đất gần sông có châu TÂY-BÌNH (vùng Đồng-đăng và phố Lạng-sơn) và châu Lộc (vùng Lộc-bình ngày nay). Trại Vĩnh-bình tiếp đất với các châu sau này ở nước ta : Tô-mậu (vùng Na-dương, Đình-lập, An-châu), huyện Quang-lang (vùng Ôn-châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu Văn-uyên và châu Văn-quang, tức Phố Bình-gia trong địa đồ Đông-dương). Huyện Quang-lang và châu Văn thuộc châu Lạng.
Trại THÁI-BÌNH, địa phận rộng, gồm có đất châu An-bình, châu Đống (Thượng-đống và Hạ-đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất-nguyên, châu Môn (Đông-khê), châu Tư-lang (Thượng và Hạ-lang) và châu Quảng-nguyên (Quảng-uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân-tông, châu Thất-nguyên (Thất-khê ngày nay) tuy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh thoảng cũng còn theo Tống (VII/3).
Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang. Những động giáp châu Quảng-nguyên ở đất ta là Hạ-lôi, Ôn-nhuận (bay giờ là Hồ-nhuận).
Nhìn biên giới Tống-Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư biên giới Trung-Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.
Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung-châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung-châu là cái cớ quan trọng trong việc biên dân thuộc ta hay quấy Ung-châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào thành Ung-châu của Lý Thường-Kiệt sau này.
2. Dân vùng biên-giới Hai bên biên giới, từ Bảo-lạc đến châu Vĩnh-an, giáp Khâm-châu, sinh tụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng không phải Trung-hoa. Cả hai nước Tầu và ta đều gọi chúng bằng tên chung : Man-dân. Thật ra, Man-dân gồm nhiều giống khác nhau, có lẽ từ đời Tống, Lý, đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy bằng họ.
Ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như-tích và châu Vĩnh-an. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu-mục ở Vĩnh-an.
Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư-lăng, Lộc-châu, Tây-bình ở Tống và châu Tô-mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi và ba họ khác, Nùng, Hoàng, Chu, là bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân khê động vùng Tả-giang và Hữu-giang.
Tả-giang và Hữu-giang là hai nguồn sông Tây-giang ở Lưỡng-Quảng. Hữu-giang phát nguyên từ Vân-nam, chảy xuống qua Quảng-tây, theo hướng đông nam. Tả-giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao-bằng và Vân-nam, chảy qua Cao-bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng-tây và hợp với Hữu-giang ở phía tây thành Ung-châu. Sông Ô-bì (Kỳ-cùng) là một nhánh của Tả-giang.
Các họ Nùng, Hoàng, Chu, vân vân, ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn ở bốn châu : An-bình, Vũ-lặc, Tư-lãng, Thất-nguyên thuộc Tả-giang và ở Quảng-nguyên, tức là trên đất Cao-bằng và đất phía đông biên giới Cao-bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu-giang, nhất là ở bốn châu An-đức, Qui-lạc, Lộ-thành, Điền-châu, tức là phía bắc và tây bắc biên giới Cao-bằng. (LNĐĐ và QHNHC)
Sự phân biệt bằng địa điểm như thếkhông tuyệt đối đúng. Thật ra, các họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đặc-ma (thuộc Vân-nam), và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng-nguyên.
Hai đạo Tả và Hữu-giang gồm từ 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung-châu, là Từ Thân-Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.
Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế-châu, hay là coi Ung-châu, đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động, gần các đồn binh Tống, theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ nộp cống ít nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên ngày nay) Vũ-lặc, (ở Cao-bằng) Quảng-nguyên, đều nộp cống cho vua Lý.
Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa. Lý kiểm soát vùng tây Tả-giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung-châu. Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy (9). Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng bất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này qua đất khác. Vì thế, cuơng giới ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan tâm mở cõi về vùng ấy.
Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quí hồ dân khê động không quấy rối vùng đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân khê động với Hán-dân. Đối với Tả, Hữu-giang và nước ta, Tống đã đặt năm trại thuộc Ung-châu : Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long, và hai trại thuộc Khâm-châu : Như-tích và Để-trạo.
Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành , hoặc tự triều đình Lý xui giục.
Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng-châu.
Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.
Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc-giang ngày nay và phía nam ải Chi-lăng (6). Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh-bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm thuộc huyện Quang-lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất hiểm : ải Quyết-lý kề phía bắc Ôn-châu ngày nay và ải Giáp-khẩu, tức Chi-lăng ở phía nam Ôn-châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải ấy sẽ có công dụng rất lớn.
3. Họ Nùng và châu Quảng-nguyên Quảng-nguyên là địa phận Cao-bằng bây giờ. Nay châu Quảng-uyên là tên cũ đổi ra (theo ĐNNTC, cuối đời Hồng-đức đổi; nhưng có lẽ đời Mạc tránh tên húy Mạc Phúc-Nguyên). Tuy châu ở cách xa Thăng-long, ít ruộng, rừng núi hầu khắp, nhiều thú dữ, khí độc, nhưng sản vàng bạc. Vùng Ngân-sơn (nghĩa là núi bạc), NNNTC), xưa có lò vàng bạc. Phía tây, thông với vùng Tuyên-quang, Hà-giang ngày nay; chính đó có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc (nhất là vùng Tụ-long, bị mất vào Trung-quốc từ hồi thuộc Pháp, nay ở vào hơn 20 cây số trong tỉnh Quảng-tây về phía tây bắc Hà-giang). Vùng này có giống Nùng (lấy họ Nùng), là một dân tộc đông và mạnh, ở rải rác từ Hữu-giang và Tả-giang thuộc Quảng-tây cho đến châu Quảng-nguyên. Trước khi Tống lập quốc, họ Nùng đã mạnh. Có Nùng Dân-Phú được vua Nam-Hán phong làm thủ lĩnh mười châu ở Quảng-nguyên. Sau khi Tống Thái-tông lên ngôi, Dân-Phú lại xin qui phụ (977) và được phong chức kiểm-hiệu tư-không. (TB 18/4a và TS 495)
Đầu đời Lý, có Nùng Tồn-Phúc (theo TT, còn TS chép Toàn-Phúc) quê ở động Tượng-cần, châu Thạch-an thuộc Cao-bằng bây giờ (CM), làm thủ lĩnh châu Thảng-do (có lẽ ở miền Trung-thảng thuộc Cao-bằng). Tồn-Phúc giết em là Tồn-Lộc thủ lĩnh châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên bây giờ, CM) và em vợ là Đương-Đạo thủ lĩnh châu Vũ-lặc (ở Cao-bằng), thuộc Tả-giang (TS 495 và TTh 13). Tồn-Phúc nhờ các lò vàng, trở nên giàu có, chiêu tập dân các động chung quanh: tụ xưng đế, và không chịu cống vua Lý. Y bèn dời nhà ra chỗ đất gọi là nước Trường-sinh, xây thành, luyện binh; quyết chí độc lập. Theo ĐNNTC, thành Na-lữ, phía tây thành Cao-bằng, chính là kinh thành của họ Nùng ngày xưa. Có lẽ kinh đô nước Trường-sinh là ở đó.
Tháng hai năm Mậu-dần (1038), Lý Thái-tông tự cầm quân tới đánh, bắt được Tồn-Phúc và con cả là Trí-Thông; vợ là Ả-Nùng và con thứ là Trí-Cao chạy thoát qua động Lôi-hỏa. Trí-Cao bấy giờ mới 14 tuổi (theo Tiêu-Chú, lời dẫn của Tư Mã-Quang trong sách TTh 13)
Năm Tân-tị (1041), Ả-Nùng và Trí-Cao trở về chiếm lại châu Thảng-do, rồi đổi ra nước Đại-lịch. Lý Thái-tông sai quân đánh, bắt được Trí-Cao; nhưng thương tình cha và anh đã bị giết, cho nên tha cho về, và cấp thêm đâÙt ở vùng châu Tư-lang (TT). Theo một thoại, Lý Thường-Kiệt (23 tuổi) cố can vua đừng tha vì sợ có hậu hoạn. Nhưng vua không nghe. (I/2)
Rồi hai năm sau (1043) vua lại sai sứ đến tận nơi phong hàm thái-bảo. (TT) Thế mà năm Mậu-tý (1048), Trí-Cao lại làm phản. Tiêu-chú (TTh 13) nói Trí-Cao thông với người xung quanh vua Lý, định cướp nước (có lẽ cướp vùng Quảng-nguyên). Vua sai tướng đánh. Trí-Cao thua chạy sang đất Tống; cướp châu An-đức ở phía bắc vùng Bảo-lạc ngày nay. Trí-Cao lại lập nước, đặt tên Nam-thiên-quốc, lấy hiệu Cảnh-thụy, và xin phục dịch Tống (TB, TT, TTh, TS). Nhưng Tống sợ mất lòng vua Lý, nên khước từ. Trí-Cao chạy tới Văn-thôn thuộc Hữu-giang (TT 13), ở đó do thám tình hình Ung-châu. Bấy giờ có Ky-Mân làm quan Tống bị biếm, phải đi tuần thú ở Ung. Mân muốn lập công, bèn đưa quân đi tuần sâu vào man địa gần nơi Trí-Cao đóng. Bị Trí-Cao bắt, Mân nói dối rằng được triều mệnh sai tới chiêu dụ. Trí-Cao mừng, sai bộ hạ đi theo Mân về Ung, dâng biểu cầu phong. Lại dâng vật báu : ngà voi, vàng, bạc. Vua Tống lại từ khước, viện lẽ Trí-Cao thuộc nước ta.
Trí-Cao rất tức giận. Trong bị ta đánh, ngoài bị Tống từ. Mới định tâm nổi loạn. Lại có tiến sĩ Hoàng Sư-Mật thường qua lại Quảng-nguyên buôn vàng, trở nên quen thuộc. Sư-Mật vốn người Quảng-châu. Y tỏ bày tình hình trong hạt mình cho Trí-Cao nghe và nhận làm mưu chủ. Sauk khi kết đảng với bộ hạ của viên coi châu Ung, Trí-Cao ngầm đốt sào huyệt mình, rồi hội quân mà nói rằng : "Của cải chúng ta, tích trữ cả đời, nay bị thiên tai, đã hoá ra tro. Chúng ta không còn kế gì sinh sống nữa. Chỉ có cách đánh lấy Ung-châu để tự lập". Quân chúng đều nghe theo. (TS 495)
Tháng tư năm Hoàng-hữu thứ tư (Nhâm-thìn, 1052), Trí-Cao đem 5000 quân, dọc sông Hữu-giang mà xuống miền đông, lấy trại Hoành-sơn (Điền-châu bây giờ) vào tháng tư; rồi xuôi sông Uất, xuống đánh thành Ung. Vì có nội công, Ung mất ngày mồng một tháng năm (A-Tị, DL 31-5-1052, TB 172/12a).
Trí-Cao đặt quốc hiệu Đại-nam Tự xưng Nhân-huệ hoàng đế, cải nguyên Khải-lịch, rồi dọc theo sông Tầm, xuống sông Tây mà tiến tới Quảng-châu. Các châu lị không có thành trì; quân Tống lại hèn nhát. Còn quân Cao-Trí là quân vong mạng, cho nên đến đâu được đó. Các châu dọc sông đều lần lượt mất. Trong khoảng mười ngày, Trí-Cao phá các châu Hoành (9-5), Quí (12-5), Củng (16-5, nay là Bình-nam), Tầm, Đằng (17-5), Ngô (17-5, nay là Thương-ngô), Phong (17-5), Khang (18-5, nay là Đức-khánh), Đoan (19-5, nay là Triệu-khánh). Vừa trong hai tuần, mà từ Ung-châu, quân Cao-Trí đã đến Quảng-châu (22-5). Quân và tướng Tống đều sợ hãi. May có Vương-Hãn đóng thành chống lại. Trí-Cao đánh suốt ngày đêm, trong 57 ngày, không hạ được (TS 495); bèn rút quân lui. Ấy là ngày 18 tháng bảy (N. Tu, DL 16-8-1052; TB 173/1b).
Trong các trận, Trí-Cao giết hơn 3000 tướng tá Tống, bắt hàng vạn người. Qua đâu đốt phá đó. Vua Tống rất lo. Bèn sai các quan sở tại là bọn nho thần Dư Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miễn ra dẹp, nhưng không ngăn nổi thế giặc.
Vua Lý Thái-tông rất quan tâm đến việc Trí-Cao đánh bại Tống. Thấy quân Tống bị đại bại, biết binh lực Tống ở miền nam rất kém, vua muốn nhân cơ hội, thử thách. Bèn xin đem hai vạn quân đi đường bể tới Khâm-châu tiếp viện (TT). Vua Tống chưa giám bằng lòng. Dư Tĩnh nói rằng :"Trí-Cao là nghịch thần của Giao-chỉ. Ta nên nhận lời cho Giao-chỉ xuất quân; chớ trái ý tốt của nó". Rồi nhiều lần, Tĩnh dâng sớ về bàn. Cuối, Tĩnh tâu :"Ung-châu và Giao-chỉ tiếp đất. Nay nếu ta không nhận lời, Giao-chỉ giận, sẽ giúp Trí-Cao". Vua Tống bèn ưng thuận cho phép Tĩnh tự liệu. (ĐĐSL 75)
Nhưng ngày Canh-ngọ tháng 9 (DL 23-10), tướng Tống là Địch Thanh được chuẩn lời tình nguyện đi đánh Trí-Cao (TB 173/11b). Địch Thanh là một vũ tướng có nhiều mưu kế. Thanh sợ trúng mưu ta, nên tâu cùng vua Tống rằng :"Mượn binh ngài dẹp giặc trong, không lợi cho ta đâu. Chỉ vì một Trí-Cao mà sức Lưỡng-châu không chống chế nổi, đến phải mượn quân ngoài; thì hoặc giả quân ấy nhân đó làm loạn, ta lấy gì để ngăn ?". Vua Tống bèn hạ chiếu ngăn không cho quân Lý vào cõi; (Đ. Vi tháng giêng năm Quí-tị, DL 28-1-1053; TB 174/1a)
Sau khi rút khỏi Quảng-châu, Trí-Cao tới dánh Hạ-châu, nhưng cũng không phá được, bèn rút về phía tây. Dọc đường, Trí-Cao đánh bại nhiều tướng Tống, rồi kéo đánh Tân-châu. Dư Tĩnh bỏ chạy về Ung. Lần lượt Tân (DL 30-10-1052) và Ung (DL 6-11-1052) đều mất. Tĩnh sai tướng Trần Thự đem một vạn quân đón giặc. Thự chù chừ, nên bị thua to ở trạm Kim-thành, trên đường Tân tới Ung. Ấy là ngày mồng một tháng chạp (N. Ta; DL 24-12-1052; TB 173/18a).
Tháng giêng năm Quí-tị (1053), Địch Thanh đến Tân-châu, hội chư tướng. Vì các tướng đều có ý khinh Thanh, nên Thanh ra lệnh chém Trần Thự. Ai nay đều khiếp. Trước đó, Thanh cầm quân ở vùng Diên-Phu chống Hạ (vùng Thiểm-tây). Thanh đem nhiều quân kỵ ở vùng ấy theo xuống. Có kẻ bảo Trí-Cao phải chặn ải Côn-lôn, trong núi trên đường Tân-Ung, đừng để Thanh xuống đồng bằng, vì ở đồng bằng dùng kỵ binh rất lợi. Nhưng Địch Thanh muốn hành quân gấp, nên không đợi lương thực tới, ra lệnh biện tại chỗ lương thực ăn mười ngày. Trí-Cao tưởng là Thanh còn đóng quân lại nghỉ, nên không nghe lời bày mưu; lại còn nhân ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) trương đèn đặt hội. Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn-lôn, thẳng tới thành Ung. Đang đêm, Địch Thanh mặc áo thường, lẩn vào tiền quân mà vượt ải. (TB 174/2b)
Trí-Cao được tin báo, lật đật đem quân chặn lại. Hai quân gặp nhau ở phố Qui-nhân. Ấy là ngày 17 tháng giêng (M.Ng, DL 8-2-1053). Thanh cho bộ binh ra trước, dấu kỵ binh ở sau. Còn Trí-Cao thì, trái lại, cho quân kiêu dũng cầm trường thương ra trước, để quân hèn ốm ở sau. Lúc giáp trận, quân tiền phong Tống thua. Nhưng Thanh nghiêm hiệu lệnh; các tướng sĩ không dám lùi. Rồi Thanh trèo lên cồn cao, cầm cờ ngũ sắc, ra hiệu cho kỵ binh hai cánh đổ ra, đánh vào sau quân kiêu dũng của Trí-Cao. Quân tả tiến sang hữu, quân hữu tiến sang tả. Rồi tả lại về tả, hữu lại về hữu (TS, TB), cắt quân địch làm hai đoạn. Quân Trí-Cao tan vỡ, chết mất hơn ba nghìn.
Trí-Cao rút quân về thành. Đang đêm, đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền-châu, nhưng không kịp nữa. (TTh)
Trí-Cao đem tàn quân về đóng ở trại Đặc-ma (phủ Quảng-nam, miền đông Vân-nam) đồ tâm trở lại Ung-châu. Một mặt, Trí-Cao kết thân với thủ lĩnh trại ấy là Nùng Hạ-Thành để mua ngựa và mộ quân, vì Đặc-ma là nơi sản xuất rất nhiều ngựa tốt. Một mặt sai Lương Châu tới nước ta xin quân giúp. (VSL)
Ý chừng vua Lý Thái-tông cũng muốn tiếp tục thử thách sức Tống, và muốn trả thù sự vua Tống đã không giữ lời hứa cho quân mình tới Khâm-châu (TT). Bèn sai viên chỉ huy Vũ Nhĩ đem quân đi giúp (VSL và TT). Nhưng sau khi thấy Trí-Cao đã thua và thế Địch Thanh mạnh, Lý lại thôi không phái quân đi nữa.
Hai năm sau, Dư Tĩnh cho quân vào Đặc-ma, bắt được mẹ, em và con Trí-Cao. Còn Trí-Cao, thì chạy vào nước Đại-lý (thuộc Vân-nam ngày nay, phía tây Côn-minh); rồi chết ở đó.
4. Phủ-dụ Trên đây lược kể lại chuyện Nùng Trí-Cao. Ta thấy rõ rằng hồi bấy giờ, biên giới miền bắc nước ta thật là chưa định, mà Tống cũng thường bỏ không phòng bị. Vua Lý, trái lại rất có chủ kiến muốn nhân sự bất định ấy mà bành trướng lãnh thổ về phía Bắc. Muốn vậy, hoặc chỉ cần phủ dụ man dân, hoặc uy hiếp chúng để chúng theo mình; vì hễ chúng theo tức thì lãnh thổ chúng cũng sáp nhập về mình. Đến lúc người Tống biết ra, thì thường đã chậm rồi. Nếu không muốn sinh sự, Tống ắt phải nhận. Nói tóm lại, đối với man dân ở bắc thùy, Lý đã dùng chính sách chiêu dụ hoặc uy hiếp để đi đến chính sách "làm trước cãi sau" đối với Tống. Mà thật vậy, khác những triều khác, các vua Lý đã không chia rẽ hoa, di, và đã lợi dụng sự hôn nhân để kết thúc các dân tộc biên thùy. Các sách sử VSL và TT còn chép nhiều việc vua gả công chúa cho châu mục, nghĩa là người miền núi cầm đầu một châu.
Trong các châu ở biên giới, Lạng-châu là quan trọng hơn cả, vì ở gần kinh kỳ, vừa ở trên đường bộ từ Tống sang ta. Lạng-châu tức là nay thuộc vùng Bắc-giang và phần nam Lạng-sơn. Lạng-châu có động Giáp, rất to; chúa động thuộc họ Giáp , sau đổi ra họ Thân, đã nhiều đời làm phò mã. Động Giáp ở phía nam ải Chi-lăng (6). Sách MKBD chép rõ rằng :"Giáp động là một bộ lạc lớn. Chủ động tên Giáp Thừa-Quí, lấy con Lý Công-Uẩn rồi đổi ra họ Thân. Con Thừa-Quí là Thiệu-thái lại lấy con gái Đức-chính (Thái-tông). Con Thiệu-thái là Cảnh-long lại lấy con Nhật-tôn (Thánh-tông)"
Tống sử cũng chép Giáp Thừa-Quí lấy con gái Lý Công-Uẩn (TS 488). Xem như vậy, đủ biết họ Giáp này đã có thanh thế từ trước. Chắc từ đời Lê, đã mạnh, mới có sự Lý Thái-tổ kén phò mã trong họ như vậy. Có lẽ muốn xóa vết tích man động nên đã đổi họ ra Thân.
Con Thừa-Quí là Thiệu-Thái, nối cha làm châu mục Lạng-châu. Năm Kỷ-tị (1029), vua Lý Thái-tông gả công chúa Bình-dương cho Thân Thiệu-Thái (TT và VSL).
Con Thiệu-Thái và công chúa Bình-dương là Thân Cảnh-Nguyên (VSL 1059), hay Đạo-Nguyên (VSL 1066), hay Cảnh-Long ( MKBD 2), hay Cảnh-Phúc (TB 279/11a), cũng được kén lấy công chúa Thiên-thành năm Bính-ngọ, 1066, đời Lý Thánh-tông.
Nhờ vậy họ Thân đã rất trung thành với nhà Lý, và là một phên giậu rất kiên cố ở trên đường sang Tống. Trong những cuộc dụng binh đối Tống, họ Thân sẽ có công nhiều.
Năm Bính-tý (1036), vua Thái-tông lại gả công chúa Kim-thành (theo TT; VSL chép Khánh-thành) cho châu mục Phong-châu (vùng Sơn-tây, Phú-thọ bây giờ) tên là Lê Thuận-tông, và công chúa Trường-Ninh cho châu mục Thượng-oai (có lẽ vùng Hòa-bình ngày nay) là Hà Thiện-Lãm.
Vua Thái-tông lại chọn con gái Đào Đại-Di ở châu Chân-đăng (vùng Hưng-hóa) đưa về cung làm hoàng phi (1033, TT). Vua Thánh-tông gả con nuôi là công chúa Ngọc-Kiều (7) cho châu mục Chân-đăng họ Lê (TUTA và TT).
Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua.
Cho đến Nùng Trí-Cao, tuy cha con đã phản lại ta, mà vua Thánh-tông không những tha cho, lại còn hậu đãi nữa (8).
5. Chinh phạt Tuy vậy, ở vùng thượng du, uy quyền trung ương có khi bị các tù trưởng khinh miệt. Hoặc chúng không nạp thuế, hoặc chúng tự lập một nước nhỏ, hoặc chúng theo lời dụ dỗ của quan Tống, mà bỏ ta theo Tống. Các vua quan triều Lý, tuy chịu ảnh hưởng đạo Phật, thường tỏ thái độ khoan hồng; nhưng về chính trị , họ rất tin rằng muốn ràng buộc các phiên thần, phải dùng cả uy lẫn đức. Xem như việc đời Lý Thái-tông, khi Chiêm-thành không tới cống, vua hỏi quần thần :"Tiên đế mất đã mười sáu năm, mà không có một sứ Chiêm-thành nào tới cả, vì sao vậy ? Ấy vì Trẫm không gia uy đức sao, hay vì nó cậy có sông núi hiêm trở ?" Các quan trả lời :"Chúng tôi cho rằng tuy Bệ-hạ có gia đức, nhưng uy chưa trương rộng. Ấy vì cớ đó. Từ khi Bệ-hạ lên ngôi, nó trái mệnh không tới chầu. Tuy Bệ-hạ thi bố đức huệ để tỏ lòng yêu, nhưng chưa từng trương vũ uy mà đánh nó. Không phải làm như vậy mà kẻ ở xa sợ". (TT)
Cũng vì lẽ ấy, mỗi khi có biên biến, các vua thường sai đại tướng, hoặc các hoàng tử đánh dẹp. Nhiều lần vua tự thân chinh (9). Chuyện họ Nùng vừa kể trên là một bằng chứng. Vùng thường hay có biến nhiều nhất là vùng Tuyên-quang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Cao-bằng ngày nay. Nhưng các châu ở vùng Đà-giang và Thao-giang cũng có lần phải dẹp.
Với hai chính sách đức và uy, nhà Lý đã kết thúc được dân vùng bắc thùy. Nhờ vậy, cương vực được mở mang dần dần sang địa phận Tả và Hữu-giang; và lúc Tống định tiêu diệt nước ta, quân các phiên trấn đã giúp ta được phần lớn.
CHÚ THÍCH (1) Lê-Hoàn chia đất cho các con cai trị như sau : 1/ Khai-minh-vương LONG ĐĨNH coi Đằng-châu (vùng Kim-động). 2/ Ngự-man-vương LONG ĐINH coi Phong-châu (vùng Sơn-tây, Phú-thọ). 3/ Ngự-bắc-vương LONG Cân coi Phù-lan (vùng Văn-lâm, Mỹ-hào). 4/ Định-phiên-vương LONG TÚNG coi Ngũ-huyện-giang (Thanh-hóa). 5/ Tư-doanh-thành phó-vương LONG TƯƠNG coi Đỗ-động (vùng Thanh-oai, Thượng-phúc). 6/ Trung-quốc-vương LONG CÁNH coi Mạt-tiên (Tiên-lữ). 7/ Nam-quốc-vương LONG MANG coi Vũ-long (Thanh-hoá). 8/ Hành-quân-vương LONG ĐẾ coi Cổ-lãm (Quế-dương, Đông-ngạn). 9/ Phù-đái-vương (?) coi Phù-đái (vùng Vĩnh-bảo,Vĩnh-lại) Trên đây, phần lớn theo CM mà nhận định, trừ Ngũ-huyện-giang mà CM cho là sông Cà-lồ ngày nay. Xét các đất trên ta thấy các vương chỉ cai quản vùng đồng bằng mà thôi. Có lẽ các vùng khác có tù trưởng coi, nhưng các sách không thấy nói.1. (2) Sách sử ta chép sơ lược đến nỗi bây giờ ta không biết hết tên các thành phần nước ta đời Lý. Sách LNĐĐ (Tống) chép : Giao-chỉ chia làm 4 phủ, 13 châu, 3 trại. Phủ có Đô-hộ, Đại-thông, Thanh-hóa, Phú-lương. Châu có Vĩnh-an, Vĩnh-thái, Vạn-xuân, Phong-đạo, Thái-bình, Thanh-hóa, Nghệ-an, Già-phong, Trà-lô, Yên-phong, Tô-châu, Mậu-châu (sách TB chép châu Tô-mậu), Lạng-châu. Trại có Hòa-ninh, Đại-bàn, Tân-yên. Đại để thì Thanh-hóa, Gìa-phong, Ngệ-an,Vĩnh-an đều kề bể. Mà Vĩnh-an giáp Khâm-châu, Trà-lô giáp Chiêm-thành, Tô-châu, Mộ-châu giáp Ung-châu. Phía đông Giao-chỉ có sông nhỏ, vượt qua đến Khâm, Liêm. Phía tây có lục lộ đi nước Mán-áo-trắng (Thái, Sơn-la, Lai-châu). Lục-lộ đi về nam đến Chiêm-thành, đi về bắc đến Ung-châu.
Tuy LNĐĐ chép sơ sài, và chưa chắc đã đúng hết, nhưng những tài liệu ấy cũng khiến ta biết ít nhiều về sự phân hạt ở nước ta hồi Lý.1.
(3) Năm 995, viên coi trấn Như-hồng, phía tây Khâm-châu, là Trương Quan, tâu với vua Tống rằng : Giao-chỉ cướp châu Như-hồng và biên giới Ung-châu. Y lại nói Lê Hoàn đã bị họ Đinh đuổi ra ở ngoài hải đảo và đã chết rồi. Vua Tống sai xét lại, thấy lời tâu ấy sai; bèn đem giả cho ta những dân đã trốn sang đất Tống (TS 488).1.
(4) Ngày mồng 1 tháng 3 năm Q. Ma (1003), viên coi Khâm-châu nói có bọn Hoàng Khánh-Tập đem hơn 450 người vào xin phụ. Hoàng Khánh-Tập là một viên chức ở Vĩnh-an. Vua Tống bảo ủy dụ chúng và bảo chúng trở về nước (TB 54/7a). Viên chuyển- vận-sứ Quảng-tây tuân mệnh, bảo Hoàng Khánh-Tập trở về Vĩnh-an (TB 54/15b). Năm sau, Lê Hoàn sai con là Minh-Đề vào nước Tống cống. Minh-Đề chưa về, Lê Hoàn đã mất (1005). Các con tranh giành ngôi thứ. Trong nước loạn. Minh-Đề phải lưu lại ở Quảng-châu (TB 62/7b).
Vua Tống giao cho viên coi Quảng-châu là Lăng Sách, và viên an-phủ-sứ dọc bể là Thiệu Dục xét về việc Giao-chỉ. Tháng 6 năm B. Ng (1006), Lăng Sách tâu :"Các con Lê Hoàn tranh nhau ngôi. Đều nhóm đồ đảng ở các trại. Việc công bỏ bễ, dân tình lo sợ. Tụi Hoàng Khánh-Tập, Hoàng Tú-Man với hơn nghìn người không chịu theo, nên bị đe dọa. Chúng đưa thân thuộc chạy tới Liêm-châu, xin tính việc đem binh mã đánh Giao-chỉ. Tụi Khánh-Tập tình nguyện đi tiên phong. Chắc thế nào cũng lấy được. Chúng tôi đã hội bàn. Nếu triều đình nhận lời xin, chỉ đem quân ở đạo chúng tôi và thêm vài ba nghìn quân vùng Kinh-hồ (Hồ-nam), theo hai đường thủy bộ cùng tiến. Lập tức bình định được". Vua nói :"Lê Hoàn tiếp tục cống hiến, lại từng sai con sang chầu. Khiến cho góc bể miền Nam yên ổn, chưa hề trái đạo làm tôi. Nay nghe Hoàn chết. Chưa điếu-tuất nó mà đã nhân tang nó để vội đánh. Kẻ vương giả há lại làm việc ấy ư ?". Vua Tống ban chiếu :"Sai Lăng Sách an ủi tụi Khánh-Tập, cấp cho ăn mặc, cho ruộng, ban chức một cách ưu hậu." Thiệu Dục vâng chiếu, viết thư cho Giao-chỉ, dụ rằng :"Nếu anh em còn giết hại lẫn nhau, quân nhà vua sẽ trị tội; thì họ Lê không còn dòng giống nữa đâu", Lê Minh-Hộ sợ, lập tức tôn Lê Long-Đĩnh làm chúa. Rồi, vua Tống sai Dục lấy lễ vật trước định cho Lê Hoàn, đem cho Long-Đĩnh. Nhưng Dục tâu :"Vỗ về dân ngoài, cốt nêu lòng thành tín của nó. Chi bằng đợi Long-Đĩnh tới cống rồi sẽ phong tước, để hậu đãi nó". Vua Tống khen là phải. (TB 63/8b) 1.
(5) Nay ở gần phía đông thành Lạng-sơn có trang Bình-tây (ĐKĐD), có lẽ là Tây-bình mà đổi ra.Vả theo TS quyển 488, châu Tây-bình có huyện Như-ngao. Nay còn làng Như-ngao ở phía tây Lộc-bình. Suy đó mà đoán, Tây-bình là vùng gồm tỉnh lị Lạng-sơn và Lộc-châu là vùng gồm Lộc-bình ngày nay.
Lại theo Quảng-đông-chí, ở biên giới Khâm-Việt có sông tên An-nam. Xét bản đồ, thấy sông ấy nay ở địa phận Khâm-châu. Vả trong sách địa chí ta, Bạch-long-vĩ thuộc nước ta. Nay thuộc Trung-quốc. Sử lại ghi rằng đời Mạc, Mạc Đăng-Dung đem các động Tư-lẫm, Cổ-sum, Liễu-cát, La-phù, Kim-lặc, thuộc hai đô (như tổng) Như-tích và Chiêm-lãng, hiến cho vua Minh. Sách Khâm-châu-chí chép rõ ràng hơn : mấy châu ấy đời Tống là đất riêng của họ Hoàng coi; gần như độc lập, tuy rằng vua Tống ban chức trại chúa. Đầu đời Minh, Trung-quốc thu ấn của các trại chúa. Rồi chỉ coi các đất ấy như những động, và cho họ Hoàng làm động trưởng. Đời Minh Tuyên-đức, tức là lúc Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, các động ấy về Lê. Đến đời Minh Gia-Tĩnh, Mạc Đăng-Dung đem biếu vua Minh để cầu phong.1.
(6) Các sách TS và TB chép nhiều lần họ Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh-bình ở Tống. Vậy động Giáp, tức là quê họ Thân không xa biên giới Vĩnh-bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu mục Lạng-sơn (VSL : Thân Thiệu-Thái làm châu mục Lạng-châu năm 1060). Động Giáp thuộc Lạng-châu. Lạng-châu gồm tỉnh Bắc-giang (Phủ-lạng-thương ngày nay) và phần nam tỉnh Lạng-sơn. Động Giáp ở về phần nào ?
Sách VSL có chép : năm 1059, vua Lý Thánh-tông đi săn vùng sông Nam-bình, thuộc Lạng-châu; nhân đó tới chơi nhà phò mã Thân Cảnh-Nguyên. Ta biết rằng Cảnh-Nguyên là con Thiệu-Thái và công chúa Bình-dương, lấy công chúa Thiên-thành năm 1066 (VSL). Vả lại, nhờ chuyện Trương Hống, Trương Hát chép ở sách VĐUL, ta cũng biết rằng sông Nam-bình là sông Thương ngày nay (xem phụ lục ở cuối). Với những điều tham khảo trên, ta thấy rằng : năm 1059, Lý Thánh-tông đi săn ở vùng Bắc-giang, gần sông Thương, và nhân đó vua tới nhà Thân Cảnh-Nguyên ở động Giáp. Ta có thể kết luận rằng động Giáp không xa sông Thương lắm, và chắc ở trong hạt tỉnh Bắc-giang ngày nay. Vả ở phía bắc ải Chi-lăng, có huyện Quang-lang, đất đai rất hiểm trở, và ít ruộng đất cày cấy được; một cự tộc như họ Thân chắc cai quản địa hạt giàu có hơn.
Ngày nay, trong vùng Lạng-giang, còn có nhiều làng có tên Kép, như phố Kép trên đường xe lửa Phủ-lạng-thương đi Lạng-sơn là một. Kép chắc bởi chữ Giáp mà ra và đó là những làng họ Giáp ở ngày xưa. Theo TB, ta có thể đoán (XI/1) rằng ải Chi-lăng có tên là Giáp-khẩu. Tuy chữ giáp đây là gần nhau, khác chữ giáp là họ Giáp, nhưng ta cũng có thể ngờ rằng động Giáp ở kề phía nam ải ấy.
Về đời sau, còn có họ Giáp, như Giáp Hải đậu trạng nguyên đời Mạc. Họ Giáp này người huyện Phượng-nhãn, cũng ở Bắc-giang. Cho đến các họ Thân hiển đạt đời Lê Thánh-tông (Thân Nhân-Trung cũng vậy).
Phụ-lục. - VĐUL chép chuyện Trương Hống và Trương Hát hiện lên giúp vua Ngô Nam-Tấn. "Hai thần hội quân ở cửa Phù-lan (Lục-đầu). Anh (Hống) đóng binh trên sông Vũ-bình, kéo tới sông Như-nguyệt, rồi lên nguồn sông Phú-lương (mấy khúc sông Cầu). Em (Hát) đóng binh ở sông Lạng, kéo vào sông Nam-bình�"
Nay Hát có đền thờ ở "cửa sông Như-nguyệt" tại làng Như-nguyệt ở nam ngạn sông Cầu; và Hống có đền thờ ở "cửa sông Nam-bình", ở làng Phượng-nhãn ở bắc ngạn sông Thương. 2 và 4.
(7) Ngày nay ở làng Hương-nộn, kề tỉnh lị Hưng-hóa, còn có một chùa bên cạnh đền thờ "Lê phu-nhân". Trước đền có tấm bia rất cũ, dựng đời nhà Lý, vì còn chữ niên hiệu Chính-long-bảo-ứng, là khoảng 1163-1174 đời Lý Anh-tông. (theo Hưng-hóa phong-thổ-phú của Vũ Phạm-Hàm) sách TUTA (59b) và TT (3/16a) chép : Ngọc-Kiều hóa chồng, bèn đi tu. Vua ban hiệu ni sư, và mất năm 1113, chắc Lê phu-nhân" này là công chúa Ngọc-Kiều ấy, tuy rằng cũng có thể là công chúa Kim-thành vợ Lê Thuận-Tông, người Phong-châu. 4.
(8) Năm 1041, Lý Thái-tông tha cho Nùng Trí-Cao và ban cho các động Lôi-hỏa, Bình, Bà, Tần và châu Tư-lang. Năm 1043, vua Lý sai Ngụy Trưng đến tận Quảng-nguyên ban cho Trí-Cao ấn thái bảo. Đời sau, sử gia không hiểu thâm ý vua Lý Thái-tông. Lê Văn-Hưu cho rằng vua nhu nhược, bị đạp Phật mê hoặc, cho nên "thiên về việc nhỏ mà quên nghĩa lớn của nước" (TT 2/33a). 4.
(9) Sau đây, kê những việc dẹp loạn can hệ trong đời Lý Thái-tổ, Thái-tông và Thánh-tông :
Năm 1013, Lý Thái-tổ thân chinh giặc Hạc-xác (Vân-nam) ở Kim-hoa và Vĩ-long (huyện Kim-anh và châu Chiêm-hóa ngày nay).
Năm 1014, Dực-thánh-vương đánh Dương Trường-Huệ cũng ở vùng ấy.
Năm 1015, Dực-thánh-vương và Vũ-đức-vương đánh Hà Trắc-Tuân ở các châu Đô-kim (Huyện Hàm-yên), Vĩ-long (châu Chiêm-hóa), Thường-tân (?), Bình-nguyên (châu Vĩ-xuyên), thuộc vùng Tuyên-quang, Hà-giang bây giờ.
Năm 1022, Dực-thánh-vương đánh Đại-quang-lịch, đốt kho tàng ở trại Như-hồng (khoảng giữa Mông-cái và Khâm-châu).
Năm 1024, Thái-tử (sau là Lý Thái-tông) đánh châu Phong-tuân (?) và Khai-quốc-vương đánh châu Đô-kim (xem trên, 1015)
Năm 1029, Thái-tử (sau là Lý Thánh-tông) đánh châu Thất-nguyên (châu Thất-khê), Đông-chinh-vương đánh châu Văn (châu Văn-uyên, Văn-quan vùng tây nam Lạng-sơn).
Năm 1033, Lý Thái-tông thân chinh châu Định-nguyên (có lẽ vùng Yên-bái) rồi thân chinh châu Trễ-nguyên (?)
Năm 1036, Khai-hoàng-vương đánh dẹp các châu Đô-kim, Thường-tân, Bình-nguyên (xem trên 1015), Quảng-nguyên (Cao-bằng), Lạng (nam Lạng-sơn và bắc Bắc-giang), Tô-mậu (phía đông Bắc-giang), vì dân các châu này đánh Tống. Về việc này, chắc là chính vua Lý sai các châu ấy đánh Tống. Vì Tống trách, nên giả vờ sai quân dẹp.
Cũng năm ấy, Thái-tông thân chinh Lâm-lây (vùng Hưng-hóa, Thanh-sơn).
Năm 1039, Thái-tông thân chinh Nùng Tồn-Phúc ở Quảng-nguyên (Cao-bằng).
Năm 1041, vua sai tướng đánh Nùng Cao-Trí cũng ở đó.
Năm 1042, Khai-hoàng-vương đánh châu Văn (xem 1029)
Năm 1048, Vũ-uy-hầu và Quách Thịnh-Di đánh Nùng Trí-Cao ở Quảng-nguyên (Cao-bằng).
Năm 1061, Thánh-tông thân chinh động Sa-đảng (?)
Năm 1064, Thánh-tông thân chinh động Ma-sa (Đà-bắc, Hòa-bình).
Năm 1065, Thánh-tông thân chinh châu Mường-quán (Sơn-la). 2 và 5.
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:10:48 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:10:48 GMT 9
CHƯƠNG V : BANG GIAO LÝ TỐNG
1. Giao-thông 2. Giao-dịch 3. Tu-cống 4. Biên-sự buổi đầu 5. Can-thiệp trực-tiếp 6. Việc động Tư-lẫm 7. Việc châu Tây-bình. Thân Thiệu-Thái 8. Việc động Lôi-hỏa. Nùng Tôn-Đán 9. Kết-luận Chú thích
1. Giao-thông Giao-chỉ tiếp đất với Tống, dọc theo biên thùy đầy núi rừng hiểm trở. Đường giao thông bằng bộ khó khăn. Đường bể dễ dàng hơn nhiều, vì các cửa bể Khâm, Liêm cách biên giới chung chỉ một vài ngày. Vả từ cửa sông Bạch-đằng đến châu Vĩnh-an giáp hải phận Khâm-châu, có rất nhiều đảo (ở vùng Hạ-long và vịnh Đàm-hà ngày nay). Những đảo lớn, như đảo Cát-bà, Vân-hải, Kế-bào (tên ở địa đồ Đông-dương ngày nay) và vô số đảo nhỏ ngăn một giải nước khá yên lặng trước bờ bể; người ta và Trung-hoa vẫn coi giải nước ấy là một con sông, nối Bạch-đằng với Khâm-châu (Thủy-kinh chú). Sách TB (288/13b) có nói đến sông Đông-kênh (kênh ở phía đông), có lẽ chỉ giải nước này (XI/5). Theo sách LNĐĐ đời Tống, đường thủy từ Khâm-châu vào nước ta như sau : từ Khâm-châu, thuyền đi hướng tây-nam, một ngày đến châu Vĩnh-an; theo trại Đại-bàn (đảo Kế-bào ngày nay) thuộc Ngọc-sơn tới Vĩnh-thái, Vạn-xuân (vùng Vạn-kiếp, sông Lục-đầu), liền tới Thăng-long, thuyền đi mất năm ngày.
Còn đường bộ từ Ung-châu tới Thăng-long, thì đường tiện nhất là đường ngày nay còn dùng : đường qua Ninh-minh, Bằng-tường, Lạng-sơn, Bắc-giang và Bắc-ninh (tên ngày nay). Theo LNĐĐ, đời Tống, đường ấy từ trại Vĩnh-bình thẳng xuống phía nam, vào huyện Quang-lang thuộc Giao-chỉ. Đường qua hai con sông nhỏ Ô-bì và Đào-hoa, đến sông Nam-định, tức là sông Phú-lương. Theo địa thế thì ba sông ấy tức là sông Kỳ-cùng, sông Thương và sông Cầu ngày nay (1). Đường đi bốn ngày đến Thăng-long. Đó là đường Quách-Quì đem quân Tống xâm ta.
Ở phía tây đường chính lộ ấy, còn có hai đường. Một đường từ trại Thái-bình vào, qua sông La thuộc động Đan-đặc thì tới Lạng-châu. Đường ấy đi mất sáu ngày mới tới Thăng-long. Một đường từ trại Ôn-nhuận thuộc đạo Hữu-giang vào địa phận Cao-bằng ngày nay. Tức là đường Cao-bằng, Bắc-cạn, Thái-nguyên. LNĐĐ chỉ nói rằng đường ấy quanh co, chứ không nói đi mất mấy ngày. Nhưng theo lời Triệu Tiết (TB 279/21b), từ Cao-bằng đến Thăng-long có mười hai trạm, tức là đi mất mười hai ngày.
Các đường giao thông này từ đời Đường đã từng dùng. Đến đời Tống, đã có lúc sao lục lại. Năm 1046, khu-mật-viện kiểm các đường thủy lục dùng từ đời Đường vào Giao-chỉ. Cả thảy có mười sáu chỗ. (TB 158). Mười sáu chỗ ấy gồm phần lớn những ải khó đi. Chỉ có bốn đường kể trên là quan hệ. Từ năm 1006, Thiệu Dục sau khi đi sứ Giao-chỉ về đã hiến các bản đồ vẽ bốn đường thủy lục từ Ung vào Giao-chỉ (ĐĐSL 112 và TB 63). Chắc là bốn đường kể trên. (2)
2. Giao-dịch Ngoài sự bang giao chính thức bằng các sứ bộ, hai nước Tống Lý có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy. Trên những chỗ đường thông lộ lớn, qua biên giới, sự buôn bán khá thịnh, và có tổ chức. Tống, cũng như Lý, sợ người ngoài giả mạo vào buôn bán để do thám. Cho nên lúc thường, tuy cho đi lại thông thương, nhưng chỉ được tụ họp tại một nơi nhất định, gọi là bạc-dịch-trưởng (chợ quốc tế).
Một nơi quan trọng thuộc trại Vĩnh-bình. Sách LNĐĐ chép :"trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng một sông con mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh-bình cai quản. Người Giao-chỉ đem các vật quí (vì đường bộ khó chở) như các thứ hương, ngà, sừng tê, vàng, bạc, tiền, đến đổi lấy các thứ vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp". Có lẽ trạm này là chợ Kỳ-lừa ngày nay.
Trên biên giới Sác-nam-giang (thuộc trại Cổ-vạn) và châu Tô-mậu, cũng có một "bạc-dịch-trường" nhỏ. Thường, thổ dân hai bên tới buôn bán ở đó.
Một "bạc-dịch-trường" quan trọng khác ở trại Hoành-sơn, vì đó là chỗ tụ tập các nhà buôn ở xa đến, từ Quảng-nguyên (Cao-bằng) và từ các đạo Đặc-ma, nước Đại-lý (Vân-nam). Châu Quảng-nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng, chu-sa, diêm-tiêu. Ấy là những hóa vật rất được chuộng. Các nhà lái buôn lớn, quê ở Quảng-châu, cũng tới đó cất hàng Quảng-nguyên. (Xem chuyện Nùng Trí-Cao, IV/3).
Bạc-dịnh-trường lớn nhất gần biên thùy ta là ở Khâm-châu. Trường ấy ở ngoài thành, tại trạm Giang-đông. Người nước ta đi thuyền đến đó buôn bán. Lái buôn hạng nhỏ có các phường chài, đem cá, sò đến đổi lấy vải; có hàng xén tới mua giấy bút, gạo vải. Sự buôn nhỏ ấy, hằng ngày vẫn có, không cần xin phép riêng.
Đến như việc buôn to, thì phải có viên coi châu Vĩnh-an ở nước ta thông điệp cho viên coi Khâm-châu trước, rồi kẻ phú thương mới được đem hàng hóa vào. Cũng có lúc, chính phủ ta sai sứ tới Khâm-châu buôn bán. Các hàng của ta có : vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về mặt Tống, các đại thương ở vùng Thục (Tứ-xuyên) một năm tới một lần, đem gấm Thục tới đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi có hàng nghìn quan tiền.
Trên đây chép theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ) là người đã chứng kiến những sự giao dịch ấy (Sách chép xong năm 1188). Khứ-Phi còn nói rõ cách buôn bán bấy giờ, chẳng khác ngày nay bao nhiêu. Hai bên đem hàng mà cả cùng nhau. Hồi lâu mới định giá. Lúc định giá rồi, thì không được thương nghị với ai nữa. Đó là một lệ ai cũng theo. Lời Khứ-Phi nói :"giá người mà cả đầu đã định, thì trời đất cũng không bằng", nghĩa là ai trả cao bao nhiêu, cũng không được bán; vì lúc ngả giá, phải nhờ quan cân hương và giao gấm. Hình như các hàng ấy phải để sẵn ở công sở. Quan thuế đánh hàng Tống mà thôi, cứ một quan tiền thu ba mươi đồng.
Lúc hai nhà buôn gặp nhau, mời nhau uống rượu làm vui; lâu rồi mới nói đến buôn bán. Trong lúc mà cả, những tùy tùng trả thêm dần dần đến lúc giá gần bằng nhau, rồi đến ngang nhau. Người Tống thường găng giá. Họ sai người nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để cấp; rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta mỏi mệt, phải bán rẻ. LNĐĐ chép tiếp : "Nhưng phú thương kia (Việt) ngoan cố, nó không nhúc nhích, cầm vững giá lâu, làm cho ta khốn đốn".
Theo Khứ-Phi, người Giao vốn thực thà. Chắc vì vậy, người Tống cân hàng một cách gian trá, tuy rằng Khứ-Phi chép trái lại. Cho nên Lý đã ba lần sai sứ sang Khâm-châu để thử lại cân. Vì hay bị lừa, nên người nước ta cũng trở nên dối trá. Khứ-Phi nói tiếp : "Gần đây, người Vĩnh-an rất gian giả. Vì nhà buôn ta (Tống) bán cho chúng thuốc giả, chúng đúc lẫn đồng vào vàng bạc; hương thì tẩm muối cho nó chìm (để giả trầm hương) hoặc đổ chì vào những lổ hổng trong hương. Nhà buôn ta đều bị lừa".
Nói tóm lại, đời Tống Lý, hai nước giao dịch nhiều; không những chỉ giữa dân biên thùy mà thôi, mà cả đến những cự phú từ phương xa cũng dự. Hàng hoá như ngà, hương, đạt tới miền kinh đô và Thục; và hàng tơ, vải, gấm, giấy của Tống được dùng ở xứ ta.
Chắc từ đời bắc thuộc đến Đinh, Lê, sự buôn bán ở biên thùy đã có rồi. Sử chép rằng : năm 1009 Lê Chí-Trung (Ngọa-triều) xin buôn bán với Ung-châu (TB 72/19b). Lại chép : năm 1012, Lý Công-Uẩn xin cho thuyền tới Ung-châu buôn bán. Vua Tống Chân-Tông chỉ bằng lòng, theo lệ cũ, cho tới buôn bán ở Quảng-châu và ở trại Như-Hồng (Khâm-châu) mà thôi.
Sự giao dịch với Tống có lợi nhiều cho nước ta, về nhu cầu của dân cũng như về quốc dụng. Vả đó cũng tiện cho việc do thám tình hình trong nước Tống. Sau này quan Tống cấm ta sang buôn bán, và vì đó ít nhiều mà đã có cuộc Lý Tống chiến tranh.
Còn ở nước ta, ngoài những trạm biên thùy như trạm Nghi-hòa ở huyện Quang-lang đã nói trên, có một trường bạc-dịch lớn lập ở Vân-đồn. Đảo Vân-đồn ở trong nhóm đảo mà bản đồ Đông-dương đề : đảo "De la Table". Ấy là đảo lớn ở ngoài hết nhóm ấy. Hình dài, hướng đông bắc tây nam. Phía nam đảo ấy có một đảo nhỏ ngăn thành một lối vào, gọi là cửa Vân-đồn. Đời xưa, đó là một căn cứ hải quân quan trọng, và cũng là một hải cảng duy nhất mở cho thuyền ngoại quốc đến buôn bán. Sách TT chép rằng : năm Kỷ-tị 1149, có thuyền ba ngoại quốc Qua-oa (Java), Lô-lạc (?) và Tiêm-la tới Hải-đông (miền Quảng-yên) xin ở lại buôn bán. Vua Lý Anh-tông bèn lập những trang ở trên các đảo, đặt tên là Vân-đồn, để mua bán châu, báu, hàng hóa và dâng phương vật".
Tuy năm 1149 mới đặt lệ, nhưng trước đó đã có ngoại quốc đến buôn bán rồi. Có lẽ Vân-đồn là nơi thuyền từng ghé mà LNĐĐ đã gọi là Đồn-sơn. Ngày nay, một nhà khảo cổ Nhật-bản có tìm thấy ở đó nhiều tiền đời Tống và các mảnh sứ đời Tống. Xem vậy thì các thuyền Tống cũng từng ghé buôn ở đó. (Sách An-nam mậu-dịch-cảng Vân-đồn).
Địa vị Vân-đồn rất lợi. Người ngoại quốc ở trên đảo ấy không thể thám thính trong nước ta một cách dễ dàng. Mà ở đó bể lặng, nước sâu, thông với Khâm, Liêm, Quảng ở Tống, và với các nước miền đông và nam, rất tiện.
3. Tu-cống Từ khi quân Tống bị thất bại bởi tay Lê-Hoàn, nước ta được nhận là phiên quốc. Lại nhờ các vua Tống trước đời Thần-tông khá hiền từ nhu nhược, cho nên dẫu trong nước ta có lúc biến, mà quân Tống cũng không lợi dụng thời cơ. Từ lúc Lý lên ngôi, ta cố giữ lễ phiên thần để kết tình hòa hảo. Hơn hết các triều đại khác, đời Lý đã luôn luôn sai phái bộ đi cống. Không quản đường sá khó khăn, nhiều lần ta đem cả đàn voi, tê, đến tận kinh đô Tống, gần Khai-phong, ở sát sông Hoàng-hà. Mỗi lúc ở triều Tống có việc vua thăng hà hay đăng cực, ta có sứ sang điếu hay sang mừng. Mỗi lúc ở triều ta có việc tang hay hỉ, cũng có sứ ta sang Tống báo tin, hay cầu phong. Mỗi lúc được phong, vua ta lại sai sứ sang tạ ơn.
Ngoài sự bang giao theo điển nghi một phiên thần đối với nước thiên tử, vua Lý thường sai sứ sang xin kinh Phật. Bấy giờ đạo Phật rất thịnh ở nước ta, mà các tàng viện, tự quán, chắc vì loạn lạc, không còn đủ kinh dùng. Sự đồng tông giáo là một cớ đểâ gây tình hòa hảo.
Sau đây, sẽ kê các phái bộ cống sứ của triều Lý sang Tống, trước khi có việc Lý Tống chiến tranh. Bản kê lập theo TT, VSL, TB và TS. Khi nào sử ta và sử Tàu chép tên và năm hơi khác nhau, tôi theo sử ta. (Một phái bộ thường gồm hai sứ : tên đầu là chánh, tên sau là phó).
|
|
|
Nha Ly
Feb 3, 2013 9:12:48 GMT 9
Post by nguyendonganh on Feb 3, 2013 9:12:48 GMT 9
Xét qua bản thống kê trên, ta thấy trong khoảng 63 năm, các vua Lý đã sai hơn 23 bộ sang cống vua Tống. Mỗi lúc sứ ta tới, vua Tống rất ưu đãi, ban chức tước cho sứ, và nhân đó gia phong cho vua Lý, từ tước quận vương đến tước vương, và tăng lệ thực-ấp và mỹ tự công thần. (3) Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường Khâm-châu, hoặc bằng đường Vĩnh-bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường Vĩnh-bình. Quan Tống, Chu Khứ-Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về việc cống. Trước lúc sứ ta tới biên giới, có phái bộ tới trước xin phép cho sứ tới kinh (ở gần Khai-phong ngày nay). Phải có trả lời của triều đình Tống ưng thuận mới được đi. Mỗi phái bộ ta gồm có đến năm mươi người, có lúc đến trăm người. Nhưng số người được đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận. Ngoài các tê, tượng, những cống vật thường rất quí. Sau lúc Tống đã phải dời kinh xuống phía nam, vua Lý vẫn cống hiến rất hậu. Năm 1156, Lý Quốc đem cống đồ kim khí nặng hơn 1200 cân, nạm châu báu nặng phần nửa. Lại thêm hạt trân châu đựng trong bình vàng (3 hạt lớn như quả cà, 6 hạt lớn như hạt mít và 50 hạt lớn như hạt táo). Lại thêm 1000 cân hương trầm, 50 đôi lông thúy, 850 tấm đoạn mầu vàng thắm, hoa rồng cuốn, 6 ngựa vua cỡi đủ cả yên cương, 8 ngựa thường, 5 voi. Phái bộ gồm 100 người. (LNĐĐ 2) Xem đó biết đời Lý, nước ta giàu biết là bao nhiêu. Những lần khác, tuy cống lễ không hậu như trên, nhưng các đồ vàng, bạc, ngà và hương trầm, cũng trị giá đến vài ba vạn quan. Muốn biết giá trị một lễ như vậy, ta có thể so sánh với tiền ban cho các nhân viên phái bộ dọc đường, mỗi ngày 10 đồng tiền ngoài gạo ! Sứ bộ được ưu đãi dọc đường và lúc tới kinh, vua Tống ân cần phủ dụ. Sứ thần được chọn trong các hàng quan cao cấp biết ứng đối, biết làm thơ. Khứ-Phi còn ghi một câu thơ của Lý Bang-Chính. Sau khi vua Tống đổi tên nước Giao-chỉ ra nước An-nam (1164), Bang-Chính về; dọc đường có đề thơ ở một bưu-đình. Trong thơ có câu "Thử khứ ưu thành tứ quốc-danh" (Đi lần này thành công lớn là được ban tên nước). Đáp lễ lại, vua Tống ít sai sứ đến Thăng-long. Chỉ lúc ở nước ta, có quốc tang và tự quân lên ngôi, vua Tống thường sai một viên quan ở Quảng-tây tới điếu-ai và phong vua mới : như năm 1029, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Vương Duy-Chính (TS và TB 107) tới tế Lý Thái-tổ và phong Lý Đức-Chính (Thái-tông); năm 1055, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Khang-Vệ (TB 231) tới điếu Lý Thánh-tông và phong Lý Càn-Đức (Nhân-tông). 4. Biên-sự buổi đầu Tuy giữ đạo phiên-thần tu-cống, nhưng các vua Lý gìn giữ cẩn thận bắc thùy. Mỗi lúc các biên-lại Tống dụ thổ dân, lấn đất đai, vua Lý liền phản kháng. Khi thì sai quan sang biện bác, khi thì sai tướng sang chống cự. Có lúc tướng ta giết quan Tống, đốt đồn trại Tống, mà chung qui, Tống cũng phải làm ngơ. Sau này, ta sẽ kể những chuyện lớn đã xảy ra trên biên thùy, trong 40 năm đầu triều Lý, nó tỏ rõ những mối bất hòa giữa Lý và Tống,và nó chứng tỏ rõ tính cách hoạt động của chính sách bắc thùy của các vua Lý. Năm 1022, đời Lý Thái-tổ, các dân Đại-nguyên-lịch thuộc Khâm-châu, và châu Như-hồng tới quấy trấn Triều-dương (Hải-ninh, Quảng-yên). Vua sai Dực-thánh-vương đi đánh. Vương đem quân vào sâu trong đất Khâm-châu, đốt phá trại Như-hồng, rồi mới trở về (TT). Trại Như-hồng ở liền phía đông biên giới ta, và bên cạnh có động Như-tích. Ngày nay dộng Như-tích còn ở khoảng giữa Tonghing (Đông-hưng) và Kintcheou (Khâm-châu). Năm1028, có việc gì bất bình ở biên giới, phò mã Thân Thừa-Quí đem quân vào đất Tống. Trại chúa châu Thất-nguyên (Thất-khê) Lý-Tự bị chết. Thừa Quí bắt dân Tống đem về. Viên coi Ung-châu bàn hòa. Lý Thái-tổ ưng thuận. (TB 106) Năm 1034, đời Lý Thái-tông, có dân ta là bọn Trần Công-Vĩnh đưa hơn 600 người vào theo Tống. Thái-tông sai hơn 1000 quân tới biên giới đuổi bắt. Vua Tống Nhân-tông sợ sinh sự, hạ chiếu trả bọn đào vong ấy cho ta, nhưng dặn đừng giết chúng. (TS 488 và TB 114/16b) Hai năm sau (1036), lại xẩy ra một việc lôi thôi rất lớn. Số là dân ở các châu giáp đất Tống như Lạng, Môn, Tô-mậu, Quảng-nguyên, động Đại-phát, huyện Đan-ba (TS 488), và các châu Đô-kim,Thường-tân, Bình-nguyên (TT) đều nổi lên đánh Tống, quấy các châu Tư-lăng, Tây-bình,Thạch-tây thuộc Ung-châu. Chúng cướp dân gian, gia súc và đốt nhà cửa, rồi rút lui (TS 488 và 495). Cầm đầu là họ Thân ở động Giáp. Dân động ấy kéo cướp châu Tư-lăng và động Bằng-tường, và giết tướng coi trấn Đăng-uyển (TB 118/4b theo Thực-lục). Về việc này, vua Tống cũng chỉ bàn hòa. Hai bên cho rằng duyên cớ bởi man dân có đứa sinh sự mà thôi. Thật ra đó là triệu chứng cuộc họ Nùng nổi loạn sau này. Năm 1050, viên coi Ung-châu lại dụ hơn 3000 dân cùng các tù trưởng Vi Thiệu-Tự, Vi Thiệu-Khâm ở châu Tô-mậu. Lý Thái-tông đòi lại, vua Tống liền trả và dặn ta phải ước-thúc biên-dân, kẻo chúng xâm phạm nhau. (TS 488) Sau cuộc loạn Nùng Trí-Cao (1052-1053), Tống mới quan tâm đến biên-cảnh phía nam; cắt quan canh phòng cẩn mật, và có ý dòm ngó nước ta. Vì vậy, sự xích mích ở biên giới càng sinh nhiều và mạnh. 5. Can-thiệp trực-tiếp Chính sách bắc thùy triều Lý trong 40 năm bắt đầu có kết quả. Tuy Tống vẫn coi châu Quảng-nguyên, như thuộc châu Ung của mình, nhưng thật đã hoàn toàn theo vua Lý. (TS 495) Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú cũng phải tâu về triều rằng :"Giao-chỉ tuy có triều cống, thật thì ngầm ngấm họa tâm, thường dùng cách tâm-thực mà lấn vương thổ. Ví dụ, về đời Thiên-thành (1023-1031), quan ta là Trịnh Thiên-Ích có trách Giao-chỉ tự tiện thu thuế ở động Vân-hà (vậy khi ấy Vân-hà thuộc Tống, có lẽ ở vùng Lạng-sơn, hoặc là sau đổi ra Vân-mịch, tức phố Van-mit trên địa đồ Đông-dương); thế mà nay động Vân-hà đã ở sâu vào đất Giao-chỉ vài trăm dặm. Ấy thật vì, năm này qua năm khác, nó lấn dần cho đến ngày nay..." (TS 334 và TB 150/15b) Tiêu Chú là một viên biên-quan đời Tống, am hiểu tình hình nước ta vào bực nhất. Chú là một nhà nho học có tiếng, xuất thân tiến sĩ, mà lại rất thích việc binh. Coi huyện Phiên-ngu (Quảng-châu ngày nay) lúc Trí-Cao tới đánh. Trong lúc các quan to đều hoang mang sơ hãi, Chú đã lập kế hoạch du kích quân Nùng. Chú lại vào các man động kết thúc dân chúng. Sau khi Trí-Cao thua chạy về đạo Đặc-ma, Chú đã thân hành đem quân đến nơi do thám và bắt được mẹ và con Trí-Cao. Chú lại sai người vào tận nước Đại-lý tìm Trí-Cao nữa. (TS 334) Đối với Giao-chỉ, không những mục đích Chú lấy lợi thu phục lại Quảng-nguyên (TS 334 và TB 150), mà Chú còn tham vọng đánh lấy đất Lý nữa. Nối lời tâu trên, Chú nói :"Tôi nay đã rõ chỗ quan yếu, thấu chỗ lợi hại. Nếu không đánh bây giờ mà lấy Giao-chỉ đi, thì sau sẽ có điều lo cho Trung-quốc". Lời tâu ấy thật là xác đáng và tiên tri. Từ năm Trí-Cao bị thua (1053), Tiêu Chú được coi Ung-châu, tức là chỗ cuống họng vào đất nước ta. Một mặt, Chú xin về triều để bày tỏ phương lược; một mặt, ngầm thi hành ý định; lấy lợi nhử dân Quảng-nguyên, bảo ngầm chúng soạn binh giáp, trữ lương tiền, tuyển lính mán, dạy cỡi ngựa, bắn cung; dung nạp dư đảng của Nùng Trí-Cao và chiêu tập các du sĩ. (TS 334 và TB 150) Nhưng những quan trên Chú, như Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, coi giữ Quảng-tây, cho Chú hay sinh chuyện, nên thường gạt bỏ lời trình của Chú. Với chính sách mưu chiến của Tiêu Chú, sự xích mích giữa Tống và Lý ngày càng nhiều. Cho nên những biên sự, ngày trước chỉ vì biên lại gây nên, sắp trở thành việc xung đột lớn giữa hai nước. 6. Việc động Tư-lẫm Lý Thánh-tông biết rõ ý định của Chú, đã phản ứng lại một cách mạnh bạo hơn. Nhiều việc bất hòa xẩy ra ở vùng biên thùy, có tính cách quyết liệt hơn trước. Sau đây sẽ kể vài ba. Năm 1057, sứ ta là Mai Nguyên-Thanh (VSL) đem hai "kỳ lân" qua Quảng-châu, định cống vua Tống. Nói đến kỳ lân, đời xưa ở Á-đông, là một việc rất quan hệ. Người Trung-quốc tin rằng chỉ khi có thánh nhân ra đời và gặp vận thì kỳ lân mới hiện. Đến như Khổng-tử ra đời không gặp vận, kỳ lân có hiện cũng chỉ là kỳ lân què ! Vì lẽ ấy, các quan Tống cãi nhau sôi nổi về việc kỳ lân của Giao-chỉ cống. Sách TB còn chép rõ hình dáng con vật ấy :"Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng; hay ăn cỏ, quả, dưa. Cho ăn thì phải lấy gậy đánh nó mới ăn". Ta đoán đó là con tê giác. Nhưng triều đình Tống bàn cãi nhau mãi. Sau Tư Mã-Quang phải nói nửa chừng rằng :"Giả sử đó là kỳ lân thật, thì hiện không gặp thời là điềm dở; mà nếu đó không phải là lân mà ta nhận, thì các nước phương xa sẽ cười ta" (TT và TTh). Vua Tống bèn bảo gọi vật ấy là "thú lạ" mà thôi (TB 187) và để lại Quảng-châu. Chắc rằng việc Tống từ khước "kỳ lân" này không làm cho vua Lý hài lòng. Vả Tiêu Chú đem quân đi tuần các khê động gần biên giới ta, có ý đe dọa. Vua Tống phải hạ chiếu răn cấm (tháng 7 năm M.Tu 1058). Lý Sư-Trung, làm đề điểm hình ngục Quảng-tây cũng lo toan chỉnh đốn hành chính, binh lương và giao thông ở miền Ung-châu. Sư-Trung nói :"Vùng Lĩnh-nam không tiện phái lính thú đến đó. Xin mộ thổ đinh, nhà nào bốn năm đinh thì chọn một, mà cắt phiên nhau, tới lúc ngoài mùa làm ruộng, họp lại tập tành". Trong vùng Quảng-tây mộ được hơn bốn vạn người. Sư-Trung lại cho thông thương buôn bán, lập lại các chợ Ung-châu, đào sâu kênh Linh-cừ nối Hồ-nam với Quảng-tây. Được những tin ấy, tháng hai năm sau (K.Zu 1059, theo TS và TB 188; TT chép tháng ba) vua Lý Thánh-tông sai quân đóng miền đông bắc, từ châu Vĩnh-an vào địa phận Khâm-châu, và từ châu Tô-mậu vào trại Cổ-vạn (TB 188/4b và 190/1a). Sử ta chỉ nói qua rằng : " Ta diễu quân rồi rút về. Làm thế vì người Tống tráo trở " (TT). Các sách Tống chép rõ quân ta đánh Cổ-vạn, giết viên quản-câu Lý Duy-Tân (TB 190/1a), và đánh động Tư-lẫm ở phía tây thành Khâm-châu. (TB 188/4b) Ngày G.Tu, Tiêu Chú trình :"Giao-chỉ cướp các động Tư-lẫm, Cổ-vạn, Chiêm-lãng, bắt dân và gia súc mười bảy thôn, nhiều không kể xiết. Tôi muốn hạ lệnh cho Quảng-châu giữ sứ giả Giao-chỉ, không cho nó đem tiến thú lạ, đợi đòi chúng trả người và vật bị cướp đã. Nếu chúng không nghe, tôi muốn lập tức đưa quân đánh sâu vào đất chúng." Vua Tống sai Tiêu Cố, Tống Hàm và Lý Sư-Trung, là ba quan coi lộ Quảng-tây, cùng Tiêu Chú xét việc mà xử trí (TB 189/5b). Tháng 9 năm ấy, Sư-Trung tâu :"Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú muốn đánh Giao-chỉ. Sợ người nước ấy nghe mà không yên. Xin cấm Chú không được sinh biên sự". Vua Tống nghe lời tâu, nên chuyện ta đánh Tư-lẫm không thành chuyện to. 7. Việc châu Tây-bình. Thân Thiệu-Thái Trong lúc ấy, lại xẩy ra một việc khác ở châu Tây-bình, giáp Lạng-châu. Nguyên có dân ta chạy trốn đến đó. Viên coi quân ở đó, là Vi Huệ-Chính, dấu đi. Vua Lý Thánh-tông sai quân vào đòi lại. Quân ta do châu mục Lạng-châu phò mã Thân Thiệu-Thái, dẫn từ động Giáp kéo vào huyện Như-ngao, thuộc châu Tây-bình (TS). Vua Tống hạ lệnh cho Ung-châu đem quân dẹp (TB 191/16a). Viên đô giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đem quân cự lại. Quân ta rút lui. Sĩ-Nghiêu đem quân vượt biên giới động Giáp, bị quân ta đánh, giết và bắt được nhiều tên. Việc này xẩy ra năm 1059, có lẽ đồng thời với việc Tư-lẫm nói trên. Sang năm sau (1060, TB 192/16a) Thân Thiệu-Thái lại kéo quân vào đánh, giết Tống Sĩ-Nghiêu và vài tướng nhỏ : Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật (TB 194/10a). Việc tâu về triều, vua Tống hạ chiếu sai Tiêu Cố đem quân tới Ung-châu, hợp cùng Tống Hàm, Lý Sư-Trung ngăn đánh. Quân Thiệu-Thái đã qua châu Tây-bình và đánh vào trại Vĩnh-bình (TB 192/2b); làm chấn động cả Ung-châu (theo lời Dư Tĩnh). Ti chuyển vận Quảng-tây xin đem các quân lộ Kinh-Hồ-bắc, chừng 3000 tên, giỏi nghề thương và mộc, đến đánh. Vua Tống lại bảo phải kiểm điểm quân mà thay kẻ già yếu; ý chừng muốn đánh to. Quân ta vẫn tiến, bắt chỉ huy sứ Dương Lữ-Tài (VSL, còn TT chép Dương Bảo-Tài), dân đinh và gia súc nhiều vô kể. Viên coi Quế-châu là Tiêu Cố, và viên coi Ung-châu, là Tiêu Chú, đều bị cách chức, vì đình thần kết tội "đã không xét công việc các biên lại, để chúng gây sự, làm hại cho quan quân." (Tháng 11, TB 192/12b) Tháng chạp năm ấy (1060) quân Lý cũng chưa lui. Lại thêm quân vùng châu Tô-mậu cũng kéo vào Ung-châu họp cùng quân động Giáp. (TB 192/17b, 18b) Tống liền sai viên lại bộ thị lang Dư Tĩnh làm an phủ-sứ, xuống họp cùng Lý Sư-Trung mà bàn việc đánh dẹp. (TS 320) Dư Tĩnh muốn xui Chiêm-thành họp sức, rồi đem quân Quảng-nam-tây-lộ tấn công (TS 488). Nhưng có lẽ chưa thi hành được. Sử ta chép : Dư Tĩnh đánh không được, bèn dùng phép ôn hoà mà điều đình. (TT) Một mặt, Lý Sư-Trung tâu về triều kể tội Tiêu Chú đã hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng riêng cho mình, để đến nổi mất lòng dân. Một mặt, Dư Tĩnh nhận rằng lỗi bởi các viên coi biên trại tham công, sinh sự, và hẹn với quan ta họp nhau để thương nghị. Trong Tống-sử (TS 320 và ĐĐSL 75) nói Dư Tĩnh đến nơi, gọi viên dụng sự Giao-chỉ, Phi Gia-Hữu, mà trách hỏi. Nhưng theo lời Dư Tĩnh tâu vua Tống, thì chính Tĩnh đã dùng chước bàn hoà trước. (TB 193/7a) Vua Lý Thánh-tông sai Phi Gia-Hữu (TS và TT; còn VSL chép lầm ra họ Bùi) tới thương nghị. Tĩnh yêu cầu trả lại Dương Lữ-Tài và dân đinh mà Thân Thiệu-Thái đã bắt. Gia-Hữu cũng bàn hòa, và trả lời :"Việc này xẩy ra là vì dân gần biên giới cướp nhau, rồi vô ý phạm đến quan quân. Tôi sẽ đòi chúng để tra hỏi, và sẽ trừng trị. Còn những kẻ chúng bắt, tôi sẽ trả lại" (TS). Sách ĐĐSL quyển 75 chép Gia Hữu nói :"Tội chúng đáng chết, tôi xin về bắt những đứa thủ phạm đến nộp". Được lời, Tĩnh rất mừng, bèn hậu tạ Gia-Hữu (TS). Sử ta nói Dư Tĩnh hối lộ Gia-Hữu rất nhiều để xin lại tướng Lữ-Tài. Cuối cùng, vua Lý không bằng lòng trả (TT, VSL). Nhưng cũng bắt năm người giải tới biên giới Khâm-châu mà chém. (ĐĐSL 75) 8. Việc động Lôi-hỏa. Nùng Tông-Đán Sau khi Nùng Trí-Cao bị bại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tôn-Đán là kiệt hiệu hơn cả. Tông-Đán coi vùng động Lôi-hỏa về phía tây bắc Cao-bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa-động), Tông-Đán tụ họp con là Nhật-Tân và dư đảng của Nùng Trí-Cao, căn cứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vua Lý, Tông-Đán vẫn được coi như là phiên thần nối dòng Trí-Cao. Trong đời Lý Thánh-tông, vào năm 1057, Tông-Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung-châu. Tiêu Chú, coi Ung-châu, muốn đưa quân động-đinh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu Cố, coi Quế-châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Vương Hãn cũng bàn rằng :"Tông-Đán giữ vùng núi rậm, nếu nó đặt phục binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc dã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên hoạn mà thôi". Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi-hỏa; sai người triệu con Tông-Đán là Nhật-Tân mà khuyên rằng :"Cha mày, trong thì bị Giao-chỉ thù, ngoài thì bị cácquan biên thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi". Sách TB (185/8b) chép luôn :"Sau đó, hai cha con Tông-Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên." Tông-Đán được ban chức trung-vũ tướng-quân, Nhật-Tân chức tam-ban tá-chức và được coi châu Ôn-nhuận (TB ở đây chép Ôn-mẫn, vì tự dạng hai chữ, nhuận, mẫn, gần nhau). Tuy sách Thần-tông Thực-lục cho công chiêu dụ Tông-Đán là của Vương Hãn, nhưng Tống-sử và mộ-chí Tiêu Cố (do Vương An-Thạch viết) thì nói đó là công của Tiêu Cố. Tuy vậy, Tông-Đán vẫn không theo Tống. Cho nên, năm 1060, lúc quân ta do Thân Thiệu-Thái lĩnh, kéo vào châu Tây-bình đánh quân Tống, Vương Hãn bấy giờ coi Đàm-châu, lại khuyên nên dè Nùng Tông-Đán và nên chiêu dụ nó. (TB 192/12b) Năm 1062, Tông-Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi-hỏa và Kế-thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc-châu. Tống nhận đất, bổ Tông-Đán coi châu Thuận-an (là vùng Lôi-hỏa, Kế-thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật-Tân coi việc thuế ở Ung-châu. (TS 495) Như vậy, cha con Tông-Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi thuộc ta. Cho nên chúng không lấy làm yên tâm, vì sợ vua Lý Thánh-tông đánh. Vả chăng động Lôi-hỏa bên cạnh Quảng-nguyên, mà bấy giờ Lưu Kỷ quản. Lưu Kỷ cũng làmột tướng kiệt-hiệt, lại làm chức quan sát cho vua Lý. Tông-Đán lại càng lo. "Năm Trị-bình (1064), Tông-Đán có sự hiềm khích với Lý Nhật-Tôn (Thánh-tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng đe dọa. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn biết vâïy, sai người đến dụ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình vào nội địa, và được ban chức hữu-thiên-ngưu-vệ-tướng-quân". (TS 495) Sự phản bội của tụi Nùng Tông-Đán lần này làm Lý mất một vùng đất khá lớn ở phía tây bắc châu Quảng-nguyên. Những tên đất mà Tông-Đán nộp Tống, mỗi sách chép một khác: vả trong một sách, cũng mỗi nơi chép một khác. Nhưng có lẽ đất ấy gồm nhiều động. Vả lúc nhận đất rồi, Tống lại đặt tên mới. Những động hay châu ấy có thể tóm tắt như sau; động Lôi-hỏa (hay Hỏa), động Kế-thành, châu Ôn-nhuận. Có lẽ các đất này thành châu Thuận-an. Về sau, lúc vua Lý xin Tống trả đất đã bị thổ tù nộp Tống, lại nói đến các động Vật-ác, mà TB (349/7b) nói là Tông-Đán đã nộp và Tống đổi ra làm châu Thuận-an. Vua Lý Thánh-tông sai sứ sang đòi đất và dân (TS 488). Sứ giả là Lê Thuận-Tông (TS 332), nguyên châu mục Phong-châu, được kén phò mã đời Lý Thái-tông (1036, IV/4) lấy công chúa Kim-Thành. Sứ tới Quế-châu, gặp Lục Sằn. Tỏ thái độ quả quyết, Thuận-Tông đòi Sằn trả Tông-Đán và các động. Lục Sằn cũng là một viên xuất thân tiến sĩ như Tiêu Chú, và cũng am hiểu việc biên giới giữa Tống và ta. Trước đó Sằn coi Quí-châu, đã tình nguyện xin tới Quế, vì nhận thấy rằng Ung chỉ cách Quế có 18 trạm, mà vũ bị ở đó không sẵn sàng. Vua Tống bằng lòng. Tống-sử (TS 332) chép nối :"Từ khi giặc Nùng yên, người Giao-chỉ càng kiêu căng, các thú thần thường chịu nhịn cho qua. Sằn tới Ung, họp động trưởng ở bốn mươi lăm động thuộc Tả và Hữu-giang, biên tên được năm vạn thổ đinh, đặt các tướng lại, cấp cho ấn. Thanh thế Tống nổi lại trong vùng khê-động. Sứ Giao là Lê Thuận-Tông tới, kiêu ngạo như cũ. Sằn nhún nhường mời tới, giảng dụ phải kính lẽ phải, làm sứ phải sợ mà trở về". Sự thật thì Sằn tâu về triều việc sứ ta tới. Vua Tống Anh-tông mới lên ngôi, hỏi ý kiến các đình thần. Tể tướng Hàn Kỳ bàn rằng :"Xứ Giao-châu, rừng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được, chỉ nên vỗ về chúng mà thôi" (TS và TB 203/12a). Vua Tống Anh-tông bèn trả hai châu (Lôi-hỏa và Ôn-nhuận ?) lại cho vua Lý. (TS 332) Nhưng cha con Tống-Đán vẫn theo Tống. Mười lăm năm sau (1073), viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Ôn Cảo xin gia hàm cho chúng. Tống Thần-tông ban cho hàm cung-bị-khố phó-sứ. Tông-Đán được làm đô-giám Quế-châu. (TB 244/3b) Về đại thể, Tống Lý vẫ giao hiếu cùng nhau. Lý vẫn cống hiến, Tống vẫn gia phong. Sứ Lý sang mừng Anh-tông lên ngôi (1064). Anh-tông sai sứ đem các di vật của Tống Nhân-tông sang tặng vua Lý, và gia phong chức đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. (TS hình-pháp chí). Trong mười năm liền, không hề xẩy ra biên sự. 9. Kết luận Ở triều Tống, trong đời Chân-tông, Nhân-tông, và Anh-tông, có nhiều người chủ việc đánh ta. Nhưng bấy giờ, vua Tống thích hòa bình, các đại thần đều là người nho học, không ham gây họa chiến tranh. Vả việc bắc thùy Tống cũng đã khó khăn lắm. Cho nên, với việc quân Tống bị nhục bởi tay Thân Thiệu-Thái mà Tống cũng không gây sự; và đến việc Nùng Tông-Đán, Tống cũng không làm già. Sau đó ta lấn dần đất Tống. Năm 1074 Thẩm Khỉ tâu rằng năm trước ta đã chiếm mất châu Thất-nguyên. (VI/7) Tuy nhiên, phái chủ chiến vẫn không thôi. Năm 1064, khi sứ ta tới kinh đô Tống, có nội thị là Lý Kế-Hòa đe dọa sứ ta rằng :"Lúc Thân Thiệu-Thái vào cướp Quảng-nam Tây-lộ, ta đã nhiều lần xin đánh xứ ngươi. Nhưng triều đình cho rằng Thiệu-Thái là đứa ngông cuồng. Vả nước ngươi đã sai sứ tạ tội. Cho nên triều đình chưa cất quân mà thôi". (TS 488) Những người chủ chiến ấy sắp có cơ hội sau này. Chính là sau lúc Tống Thần-tông lên ngôi (1067), và Vương An-Thạnh được chấp chính (1069). CHÚ THÍCH (1) Về sông Phú-lương, sẽ có nhiều chứng cớ ở chương X. Về sông Đào-hoa, có những chứng sau này : Trong sứ bộ vua Thanh phái sang nước ta năm N.Tu 1682, có một người quản gia tên Lư Anh-Nhân để lại mười bài thơ tả cảnh từ Lạng-sơn đến Thăng-long. Bài tả sông Thương có những câu (Theo sách Nhâm-tuất Thanh-sứ) : "Xôn xao ngựa vá qua sông Thương, Áp nước hoa đào ánh bóng gương." Thơ vịnh sông Thương của Nhan Nhữ-Tu, sứ Thanh làm năm Tân-tị (1761) cũng có câu :"Nhị hoa nở rực đỏ như son"(Kiến-văn-tiểu-lục của Lê Quí-Đôn). Chắc rằng từ xưa, ở bờ sông Thương có nhiều hoa đào, cho nên đã gọi tên sông là Đào-hoa. Sử ta đời Lý chép tên Sông Nam-bình (IV/cth 6). 1 . (2) Đời Minh, các đường từ Trung-quốc vào nước ta còn được ghi một cách rõ ràng. Đại loại cũng có bốn đường nói trong LNĐĐ, nhưng còn thêm đường qua Lộc-bình, đường qua Tuyên-quang, đường theo sông Thao. Các đường ấy có thể chia ra ba loại : từ Quảng-tây, từ Quảng-đông, và từ Vân-nam. A) Từ QUẢNG-TÂY có 3 lối, đều đi đến phía bắc sông Thị-cầu : a/ Từ BẰNG-TƯỜNG khởi hành qua cửa Nam-quan, 1 ngày đến trạm Pha-lũy (Đồng-đăng); qua châu Văn-uyên và phía bắc châu Thoát-lang, 1 ngày đến Lạng-sơn-vệ; 1 ngày đến hẻm ở phía bắc Ôn-châu (đèo Kháo-mẹ và Kháo-con, tức là ải Quyết-lý); nửa ngày đến Quỉ-môn-quan (bầu Chi-lăng, tức là ải Giáp-khẩu); 1 ngày đến thôn Tán-lệ (Tiên-lệ) ở phía nam Ôn-châu; 1 ngày đến huyện Bảo-lộc; nửa ngày đến sông Xương-giang (sông Thương); 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị-cầu (sông Cầu). Cộng 7 ngày. b/ Từ TƯ MINH khởi hành qua núi Ma-thiên 1 ngày đến châu Tư-lăng; qua ải Biện-cường châu Lộc-bình (có thể đi về tây đến Lạng-sơn), 1 ngày đến sông Xa-lý (sông Lục-nam); 1 ngày rưỡi đến châu An-bạc (An-châu); 1 ngày rưỡi đến động Hao-quân; 1 ngày đến huyện Phượng-nhãn; 1 ngày đến huyện Bảo-lộc; qua đò Xương-giang 1 ngày đến phủ Lạng-giang; 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị-cầu. Cộng 9 ngày. c/ Từ LONG-CHÂU khởi hành 1 ngày đến ải Bình-nhí; 1 ngày đến châu Thất-nguyên; 2 ngày qua xã Bình-gia. Từ đây có thể đi hai ngả : 1°/ đến châu Văn-lan (Văn-quan) ; theo đường núi phía bắc châu Hữu-lũng, ra đồng bằng cách Quỉ-môn-quan 40 dặm, 1 ngày đến thượng lưu sông Thương, qua sông rồi theo nam ngạn đến đồng bằng huyện Yên-thế; nửa ngày đến huyện Yên-dũng, 1 ngày đến giữa huyện Yên-việt, ở bắc ngạn sông Thị-cầu. 2°/ đến phía tây xã Bình-gia, 1 ngày rưỡi đến đường núi châu Vũ-nhai; 2 ngày đến đất bằng huyện Tư-nông, 1 ngày rưỡi đến phía bắc huyện Yên-việt, và bắc ngạn thượng lưu sông Thị-cầu. Cả bốn đường trên đều đến Thị-cầu. Từ đó đi Giao-châu (Thăng-long) mất 1 ngày, phải qua phủ Từ-sơn, huyện Đông-ngạn, huyện Gia-lâm, sông Phú-lương (muốn nói sông Nhị-hà). B) Từ VÂN-NAM có hai lối, một lối dọc sông Lô, một lối dọc sông Thao. a/ Từ MÔNG-TỰ qua thác Liên-hoa, Thạch-lung-quan, động Trình-lan đến hữu ngạn nguồn sông Thao, 4 ngày đến châu Thủy-vĩ; 8 ngày đến châu Văn-bàn; 5 ngày đến huyện Trấn-yên; 5 ngày đến huyện Hạ-hoa; 3 ngày đến huyện Thanh-ba; 3 ngày đến phủ Lâm-thao; 3 ngày đến huyện Sơn-vi;2 ngày đến phủ Hưng-hóa, 1 ngày đến ngã ba miếu Bạch-hạc; 4 ngày đến huyện Bạch-hạc, qua sông và đến Giao-châu. b/ Từ ải HÀ-DƯƠNG (Hà-giang) khởi hành 10 ngày đến Bình-nguyên; 5 ngày đến huyện Phúc-yên (Hàm-yên); 1 ngày đến phủ Tuyên-quang; 2 ngày đến phủ Đoan-hùng; 5 ngày đến ngã ba Bạch-hạc. C) Từ QUẢNG-ĐÔNG thuyền khởi hành từ núi Ô-lôi, theo bờ bể, đi 1 ngày đến núi Bạch-long-vĩ thuộc châu Vĩnh-an; 2 ngày đến cửa Ngọc-sơn; 1 ngày đến châu Vạn-ninh; 1 ngày đến Miếu-sơn, 1 ngày đến tuần-ti Đồn-tốt; 2 ngày đến phủ Hải-đông; 2 ngày đến xã Kinh-thục; 1 ngày đến cửa Bạch-đằng, tuần Thiên-lâu. Vào nội địa có thể qua những cửa Bạch-đằng, An-dương, Đồ-sơn, Đa-ngư, hay Thái-bình. Cái lối vào, kê như sau : a) Cửa Bạch-đằng, huyện Thủy-đường (Thủy-nguyên), huyện Đông-triều, phủ Hải-dương, huyện Chí-linh, sông Hoàng-kênh, sông Bình-than, phía bắc Nam-sách, phía bắc Thượng-hồng, Giao-châu. b) Cửa An-dương (Cửa Cấm), huyện An-dương, phủ Kinh-môn, sông Hoàng-kênh, sông Bình-than, phía bắc Nam-sách, phía bắc Thương-hồng, Giao-châu. c) Cửa Đồ-sơn, Cổ-trai, phía bắc huyện Nghi-dương, phía bắc huyện An-lão, huyện Bình-hà, phía nam huyện Nam-sách, phía nam Thượng-hồng, Giao-châu. d) Cửa Đa-ngư (cửa Văn-úc), huyện An-lão, huyện Tân-minh (Tiên-lãng), sông Sóc-hồng thuộc huyện Tứ-kỳ, Hàm-tử-quan thuộc Khoái-châu, Giao-châu. e) Cửa Thái-bình, phủ Thái-bình, phủ Tân-hưng (Tiên-hưng), phủ Khoái-châu, sông Phú-lương (muốn nói sông Nhị-hà trước thành Thăng-long). Tài liệu trên chắc về đời Mạc, vì cớ các tỉnh đều gọi là phủ, và nói đến làng Cổ-trai, tức là quê họ Mạc, mà Mạc đã tôn thành một kinh đô. Tuy đời Mạc cách đời Lý hơn bốn trăm năm, các đường thông lộ Trung Việt qua bể và qua rừng núi chắc không thay đổi. Trước khi có những máy móc và tổ chức vĩ đại, thì các đường sá, nhất là qua những vùng khó khăn, chỉ theo đường thuộc, nghĩa là đường mòn đã có người dùng trước. Cho nên ta có thể tin rằng đời Tống Lý, đường qua lại giữa hai nước cũng như trên, chỉ có những đường Vân-nam thì Lý chưa dùng mà thôi. Còn như những tên đất thì tự nhiên phần nhiều đổi khác. (3) Các vua Lý chịu Tống phong, thường theo lệ sau : Sau khi vua cha mất, Thái-tử lên ngôi vua và tự xưng hoàng đế. Nhưng đối với Tống chỉ nói là quyền tri lưu hậu, nghĩa là tạm coi những việc dở dang. Rồi sai sứ sang Tống báo tin : gọi là cáo-ai. Tống sai sứ (viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây sang làm hai việc : điếu-tặng nghĩa là điếu vua mất và tặng tước cao nhất, THỊ-TRUNG NAM-VIỆT-VƯƠNG; và tấn phong cho vua mới. Bắt đầu, chỉ phong chức KIỂM-HIỆU THÁI-ÚY, tước GIAO-CHỈ QUẬN-VƯƠNG. (Chức tước hoàn toàn là : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quân-vương) Sau phong thêm mỹ-tự công-thần, nghĩa là ban cho những chữ tán tụng những đức tính tốt trong khi giúp vua vì Thiên-tử. Những mỹ-tự ấy gồm hai chữ liền. Ban nhiều cặp chữ như vậy bao nhiêu là hậu đãi bấy nhiêu : ví dụ như dực-đái, bảo-tiết, thủ-chính công-thần. Lại phong THỰC-ẤP bao nhiêu hộ, nghĩa là cho ăn lộc của bao nhiêu họ phải nộp. Nhưng đó chỉ là hư hàm. Cho nên, còn ban THẬT PHONG hay THẬT THỰC-ẤP bao nhiêu hộ. Mỗi lúc sứ ta sang Tống, hay ở Tống có việc khánh-hỉ gì, thì vua Tống gia phong cho vua Lý, gia phong hoặcbằng thêm mỹ tự, hoặc thêm thực-ấp. Còn gia phong chức tước thì thường theo thứ tự sau : ĐỒNG BÌNH-CHƯƠNG-SỰ, nghĩa là cùng bàn việc nước. ĐỒNG TRUNG-THƯ MÔN-HẠ BÌNH-CHƯƠNG-SỰ (Trung-thư là một ti thảo các chiếu-chỉ cho vua; môn-hạ bình-chương-sự là bàn việc nước với vua). KHAI PHỦ NGHỊ ĐỒNG TAM-TI (được quyền mở phủ ở riêng, cùng tam-ti tức là ti-chánh bàn việc nước). KIỂM-HIỆU THÁI-SƯ NAM-BÌNH-VƯƠNG Tước Nam-bình-vương là tột bậc khi vua Lý còn sống. Nếu muốn gia phong, vua Tống chỉ ban thêm mỹ tự hay là thực ấp. Chỉ sau khi mất, mới tặng chức tước cao nhất; THỊ-TRUNG NAM-VIỆT-VƯƠNG. Thứ tự trên này phần lớn đúng như vậy, và tuần tự theo. Nhưng cũng có đời vua Tống phong vượt thứ tự. Cũng có lúc bắt đầu chỉ cho chức THÁI-PHÓ, nhỏ hơn Thái-úy, như đời Lý Thái-tổ. Ấy vì bấy giờ, Lý mới cướp ngôi Lê. Riêng từng triều đại một, sử ta không chép sự phong và gia phong tường tận; vì vua ta không lấy sự được phong làm hân hạnh, nhưng phải nhận, để ngoại giao với Tống cho yên ổn mà thôi. Còn Tống sử (Lễ-chí, Giao-chỉ truyện) chép rất rõ ràng. Ví dụ : LÝ THÁI-TỔ 1010.- Kiểm-hiệu thái-phó, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, quan-sát-sứ, xử-tri-sứ, An-nam đô-hộ, Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ-quốc Giao-chỉ Quận-vương, thực-ấp tam thiên (3 000) hộ, thật phong nhất thiên (1 000) hộ, suy-thành thuận-hoa công-thần. 1010.- thêm : Đồng binh-chương-sự, thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ. 1012.- thêm : Khai phủ nghị đồng tam-ti, thực ấp 700 hộ, thật phong 300 hộ, dực-đái công-thần. 1014.- thêm : Bảo-tiết thủ-chính công-thần, thủ ấp 1 000 hộ, thập phong 400 hộ. 1017.- tiến : Nam-bình-vương; thêm : thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ. 1018.- thêm : Kiểm-hiệu thái-úy, thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ. 1022.- thêm : Kiểm-hiệu thái-sư. 1028.- tặng : Thị-trung Nam-việt-vương. LÝ THÁi-TÔNG 1028.- tự xưng : quyền tri lưu-hậu-sự. 1028.- ban : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quận-vương. 1032.- thêm : Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. 1034.- thêm : Kiểm-hiệu thái-sư. 1038.- tiến : Nam-bình-vương. 1055.- tặng : Thị-trung Nam-việt-vương. LÝ THÁNH-TÔNG 1055.- ban : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quận-vương. 1064.- gia : Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. 1068.- tiến : Nam-bình-vương. 1072.- tặng (?) TS không chép, nhưng chắc là Thị-trung Nam-việt-vương. 3.
|
|
|
Nha Ly
Aug 3, 2013 7:59:57 GMT 9
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 7:59:57 GMT 9
Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn 2. Họ Trần qua họ Trình Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400). Nguyên Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng (trị vì 124-1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sự Trần Thủ Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông. Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền sư Huê. Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái.” Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời: “Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi.” Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huệ Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận. (1) Trần Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ở các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn. Gần cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt. (2) Đặc biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại đất tổ. (3) Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác? Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước? Để quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5) Sau khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433). Lê Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao chiến đấu của chính ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với ho. Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho ghi chép công trạng của những người đã theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng “…cho quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm lắm.” (6) Việc làm nầy của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công thần đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay. Nạn nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng “nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui sung sướng được,” nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng. “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng,” khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm mình qua đời (7). Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời. Sau Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (tri. vì 1443-1459). Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử sách đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu. Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ “Trần” đều phải đổi chép thành chữ “Trình.” (8) Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây) để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ. Dầu sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người họ Trần giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có nhân vật nào họ Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu chính trị nước ta.
3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà Mạc. Nhà Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây: Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527). Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà Minh (1540). Trước hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó. Thứ đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc? Câu trả lời rất rõ ràng là các sử quan nhà Lê trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu của mình nên lên án tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình. Nhưng “ở đời muôn sự của chung,” một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bị lên án như các sách vở trước đây đã làm. Việc đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi tội ho. Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9) Năm 1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì 1533-1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc. Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng nầy, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541. Cuối cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sậm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân. Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh họ theo. Trong khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540. Vì quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung: “…Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lần than khốn khổ…” (11) Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc. Điểm quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc. Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhaụ Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh.(12) Không những chỉ một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữạ Trước đây, những họ nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu phiền cho con cháu họ nhà nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình. Qua ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. 4. Một họ lớn không thay đổi Theo Thế phả, “Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu của ngài không được rõ, ngài xem là thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Phúc.” (13) Nguyễn Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách là Đỗ Thích, và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê Hoàn có ý làm phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng bị Lê Hoàn bắt giết. Theo sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị cao trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ “Phúc” vào thế kỷ 16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ “Phúc”. Có người đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: “Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ ‘Phúc’ đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc.” Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14) Dù có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng không ai có thể phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc như Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn (?-1229), Nguyễn Kim (1468-1545), Nguyễn Hoàng (1525-1613), Nguyễn Phúc Tần ( 1620-1687, cầm quyền 1648-1687)… Thời điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc lên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Maụ Các vua Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ(15) như các triều đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) còn làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân định thứ bậc các hệ phái từ con cháu của Gia Long trở xuống Năm 1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn, vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học… chẳng những ở trong nước mà cả trên thế giới. ——————————————————— Chú thích: 1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tt. 448-449. 2. Cương mục, bản dịch, tr. 456. 3. Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125, tháng 1-1995, tr. 17. 4. Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh nhân Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh bạ điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần 50%. 5. Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ tông (trị vì 1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. (Cương mục, bản dịch tt 803-804). 6. Cương mục, bản dịch tt. 864-865. 7. Cương mục, bản dịch tr. 880. 8. Cương mục, bản dịch tr. 1013. 9. Cương mục, bản dịch tr. 1327. 10. Cương mục, bản dịch tt. 1418-1419. 11. Cương mục, bản dịch tr. 1411. 12. Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng trị sư. Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả. 13. Thế phả, tr. 21. 14. Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ “Phúc” còn được đọc là “Phước.” 15. Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi thành Hội đồng Nguyễn Phúc tôc. Vua Minh Mạng cho đổi họ người chăm ( Chiêm Thành ) thành các họ của Tàu như Hán, Đổng, Quảng, Ngụy, Sầm, Trà, ….
|
|
|
Nha Ly
Mar 25, 2015 6:47:31 GMT 9
Post by Vĩnh Long on Mar 25, 2015 6:47:31 GMT 9
Lê Thánh Tông: Lê Tư Thành 24/03/201500 Nguyễn Lộc Yên VUA LÊ THÁNH TÔNG: LÊ TƯ THÀNH (1442 - 1497)
Lê Tư Thành lên ngôi năm 1460 (18 tuổi), đế hiệu Lê Thánh Tông. Vua là một minh quân, thương dân và luôn lo chủ quyền đất nước. Vua nói: “Một thước núi, một tấc sông của ta, có lẽ nào tự nhiên vứt bỏ đi được, nếu người nào dám đem một tấc đất của Lê Thái Tổ làm mồi cho giặc, người đó sẽ bị trừng phạt nặng”. Nên biên giới phía bắc (Tàu), nam (Chiêm Thành) luôn được phòng ngự rất nghiêm ngặt. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), vua cho vẽ lại bản đồ nước ta, đổi tên 12 đạo, ra làm 12 Thừa Tuyên. Mỗi Thừa Tuyên có số phủ huyện như sau:
1- Thanh Hóa, có 12 phủ, 16 huyện, 4 châu.
2- Nghệ An, có 8 phủ, 18 huyện, 2 châu.
3- Thuận Hóa, có 2 phủ, 7 huyện, 4 châu.
4- Nam Sách đổi ra Hải Dương, có 4 phủ, 18 huyện.
5- Thiên Trường đổi ra Sơn Nam, có 14 phủ, 42 huyện.
6- Quốc Oai đổi ra Sơn Tây, có 6 phủ, 24 huyện.
7- Bắc Giang đổi ra Kinh Bắc, có 4 phủ, 19 huyện.
8- An Bang, có 1 phủ, 3 huyện, 4 châu.
9- Thái Nguyên đổi ra Ninh Sóc, có 3 phủ, 8 huyện, 7 châu.
10- Lạng Sơn, có 1 huyện, 7 châu.
11- Hưng Hóa, có 3 phủ, 4 huyện, 17 châu.
12- Trung Đô đổi là phủ Phụng Thiên, có 2 huyện.
Năm 1471, vua Chiêm Thành là Trà Toàn, đem quân đánh phá Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông thân chinh, tiến quân đánh tới Đồ Bàn, bắt được Trà Toàn. Tướng Chiêm là Bồ Trì chạy đến đất Phan Lung, sai sứ nạp cống và xưng thần. Thánh Tông chấp thuận và muốn làm cho nước Chiêm Thành yếu đi, nên đem chia thành 3 tiểu quốc: Chiêm Thành, Nam Hoa (nay Phú Yên) và Phan Lung (nay Phan Rang). Còn đất Đồ Bàn, Đại Chiêm và Cổ Luỹ, vua lấy để lập thêm đạo Quảng Nam, gồm có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai trị.
Khi đạo quân nhà vua đuổi quân Chiêm đến Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, Phú Yên), Ngài cho khắc bia vào hòn đá to vuông vức trên đỉnh núi cao 706m: “Dĩ nam Chiêm Thành, dĩ bắc Đại Việt” để phân định lãnh thổ Việt-Chiêm, đứng xa vài trăm dặm đều trông thấy Đá Bia rõ ràng. Nhớ công đức của Lê Thánh Tông, dân Phú Yên đã lập đền thờ Ngài ở thôn Long Uyên thuộc huyện Tuy An, Phú Yên với câu đối:
“Giang san khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự, Trở đậu hình hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao.”
Nghĩa: Khai sáng sông núi, bô lão thiết tha thời Hồng Đức, Cung kính dâng hương, đất linh huyền diệu Đá Bia cao.
Xã hội Việt Nam vào thời Lê Thánh Tông, nhờ phép quân điền, mọi người dân dù là cùng dân đều có ruộng đất để sinh sống. Công nghệ trong nước phát đạt, nghề khắc gỗ in sách rất thịnh hành nên việc truyền bá tư tưởng học thuật được dễ dàng.
Bộ Quốc triều hình luật thời Lê Thánh Tông gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành cho quốc gia có Pháp quyền căn bản. Luật Hồng Đức là một trong những bộ luật ra đời sớm trên thế giới. Bộ luật Hồng Đức dù thời phong kiến nhưng thể theo truyền thống nhân nghĩa của Đại Việt và lấy dân làm gốc. Bộ luật Hồng Đức đã được lưu truyền đến ngày nay, gồm 13 chương với nội dung căn bản là:
- Kỷ cương, phép nước giữ gìn nghiêm minh, trừ tham nhũng.
- Phát triển nông nghiệp, nông nghiệp là nền tảng kinh tế.
- Khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp.
- Bảo vệ sinh mạng và tài sản của dân, chống lạm quyền.
- Bảo vệ quyền lợi phụ nữ.
- Gìn giữ và khuyến khích thuần phong mỹ tục.
- Phòng thủ cương thổ, không để ngoại bang xâm bờ cõi.
Vua bảo: “Pháp luật là phép tắc chung của quốc gia, trẫm và các quan phải tuân theo, để làm gương cho bá tánh”.
Năm 1479, vua cho hoàn thành bản đồ Đại Việt đầu tiên và Đại Việt sử ký toàn thư. Thời Lê Thánh Tông, khuyến khích việc học tập, thi cử, nên có nhiều vị Tiến sĩ và Trạng nguyên đã đỗ đạt và có danh tiếng hiển hách như: Sử gia Ngô Sĩ Liên, nhà toán học Trạng lường Lương Thế Vinh là tác giả Đại thành toán pháp... Vua lập ra lệ xướng danh các Tiến sĩ và lệ vinh quy, sau khi được đỗ đạt để gây tinh thần hiếu học.
Vua lập ra hội Tao Đàn “Tao Đàn thập nhị bát tú”, vua là “Tao đàn Đô nguyên soái” với 28 vị Đại thần, trong ấy có: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận... Vua cho ấn hành Thiên nam thi tập, trong đó có thơ của Nguyễn Trãi. Vua minh oan cho Nguyễn Trãi về vụ án Lệ chi viên.
Chuyện kể rằng: Khi Lê Thánh Tông đi tuần thú đến Nam Xương, thuộc tỉnh Hà Nam, thấy có miếu thờ Võ thị, cho gọi dân làng đến hỏi thăm, thì biết một sự oan ức vô cùng oái oăm. Võ Thị Thiết có chồng là Trương Sinh, khi bà có mang thì Trương đi lính thú ở xa. Bà sinh một trai đặt tên là Đản, Đản hỏi mẹ, cha của con đâu? Cha Đản đi lính thú ở xa, bà phải chỉ cái bóng của mình là cha của Đản. Sau đấy, Trương về nhà, Đản không chịu gọi cha, mà nói rằng: “Cha Đản tối mới đến, mẹ Đản đi đâu cha Đản theo đấy, ngồi cùng ngồi, nằm cùng nằm”. Trương cả ghen, mắng nhiếc vợ. Võ thị phân trần mãi, nhưng Trương cũng không tin, nằn nặc rằng vợ ngoại tình và đuổi đi. Võ thị không thể biện bạch được nỗi oan, đến Hoàng Giang trầm mình xuống sông quyên sinh. Lê Thánh Tông cảm khái gọi là “Tiết phụ Nam Xương” và làm một bài thơ điếu:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương Miếu ai, như miếu vợ chàng Trương Ngọn đèn dù tắt, đừng nghe trẻ Sông nước chi cho lụy đến nàng Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt Giải oan chăng lọ mấy đàng tràng Qua đây mới biết nguồn cơn ấy Khá trách chàng Trương khéo phụ phàng!
Bài thơ này đã khắc vào bia năm 1471, nay vẫn còn ở thôn Vũ Điện, xã Tân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Một truyền thuyết khác: Tại Thăng Long có ngôi chùa Ngọc Hồ (dựng thời nhà Lý) sau đổi thành chùa Tiên Phúc. Một hôm Lê Thánh Tông đi thăm Quốc Tử Giám xong lại viếng chùa, vừa vào cổng thì thấy một cô gái mặc áo nâu sồng, nhưng rất diễm lệ, vua lại chăm chú nhìn cô, cô gái thấy vậy ngâm:
Nơi đây mến cảnh mến người Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng trần
Ý thơ rõ ràng, cô đang nương nhờ cửa Phật, nhưng lòng còn lưu luyến hồng trần. Khi vua lên đến gác chùa, liền hỏi: “Nghe nàng ngâm thơ thanh thoát, có thể xứng hoạ với trẫm, để kỷ niệm cuộc tao phùng này chăng?”. Cô gái mỉm cười: “Xin bệ hạ lấy hai câu thơ vừa rồi làm đề”. Vua ứng khẩu:
1- Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười
2- Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người!
3- Chày kình mấy khắc tan niềm tục
4- Hồn bướm ba canh lẫn sự đời
5- Bể thẳm muôn tầm mong tát cạn
6- Sông ân ngàn trượng dễ khơi vơi
7- Nào nào cực lạc là đâu tá?!
8- Cực lạc là đây chín rõ mười
Cô gái mỉm cười: “Thơ Bệ hạ lời phong phú, sâu sắc, nhưng tiện thiếp xin phép đổi vài chữ: Hai câu 3 và 4 phải vươn lên cõi Phật, cõi Tiên huyền bí sẽ thâm thuý hơn”:
- Câu 3 xin đổi là: Gió xuân đưa kệ tan niềm tục
- Câu 4 xin đổi là: Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.
Và hai câu luận (5, 6), chữ “Bể thẳm, Sông ân” xin đổi lại là “Bể khổ, Nguồn ân”. Vua ngẫm nghĩ, rồi ân cần: “Văn thơ của nàng cực kỳ phong phú, mời nàng lên kiệu về cung, nếu nàng nương náu nơi cửa thiền mãi, thì đất nước bị thiệt thòi đấy!” Nàng lên kiệu, khi về đến cửa Đại Hưng. Vén rèm mời nàng xuống kiệu thì không thấy đâu nữa! Vua đang tiếc rẻ, một vị quan đến bẩm: “Chúc mừng bệ hạ đã gặp tiên”. Vua cho xây “Lầu Vọng Tiên” để ghi nhớ sự gặp gỡ Tiên.
Vua để lại nhiều tác phẩm giá trị: Hồng Đức thiện chính thư, Xuân Vân thi tập, Lê Thánh Tông thi tập...
Sử gia Trần Trọng Kim viết: “Vua Lê Thánh Tông, ngài là một đấng anh quân, những việc văn trị và võ công ở nước Nam ta, không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức”.
Cảm mộ: Lê Thánh Tông
Lỗi lạc minh quân Lê Thánh Tông Văn thơ, thao lược miệt mài thông! Rạch ròi, Hồng Đức ban công lý Thánh thót, Tao Đàn thắm núi sông Trường trại sửa sang, đồ sộ thấy Nước non gìn giữ, thiết tha trông Chan hòa thánh đức, dân yên ổn Danh tiếng lẫy lừng khắp Á Đông!.
Nguyễn Lộc Yên ********************************************** Mối Tình «Ong Vua Thơ Nôm» Lê Thánh Tông Và Trường Lạc Hoàng Hậu 24/03/2015 TS Phạm Trọng Chánh
Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục quyển II. tr 232 có chép chuyện vua Lê Thánh Tông và Trường Lạc Hoàng Hậu, một chuyện tình tuyệt đẹp, giữa vị vua anh minh tài năng xuất chúng hàng đầu lịch sử Việt Nam, và cũng là vua thơ Nôm. Trường Lạc Hoàng Hậu là con gái Nguyễn Trãi. Hai cuộc đời gian nan thời thơ ấu và gặp nhau trong một tình huống lạ lùng. Thuở nhỏ mẹ con vua Lê Thánh Tông, bà Ngô Thị Ngọc Dao bị hoàng phi Nguyễn Ngọc Anh ghen ghét vu hãm buộc tội đòi cho voi dày, được Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bênh vực che chỡ. Về sau Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị vu cáo là giết vua bị tru di tam tộc, con trai 49 người bị chém, con gái bị sung vào làm nô tì. Nguyễn Thị Lộ, 52 tuổi, quan Lễ Nghi Học Sĩ thầy dạy của Thái từ Nguyên Long ( vua Lê Thái Tôn) từ năm 7 tuổi, đã dạy dỗ một cậu bé ngỗ nghịch, các quan khác không ai dạy được, thành vị vua anh minh sáng suốt như vua Thuấn (theo sử gia Vũ Quỳnh) thế mà bị vu cáo nhơ bẩn ngủ với học trò mình mới mười tám tuổi, nên vua bị «thượng mã phong», bà bị trấn nước dìm cũi xuống sông và « hóa thành con rắn». Có người con gái của Nguyễn Trãi, con một thứ thiếp, mới lên ba, tên Nguyễn thị Hằng, được một vị quan nuôi dưỡng, bị sung vào đội nữ nhạc, tư sắc tuyệt đẹp tuổi 17, 18 mà không biết nói. Khi vua Lê Thánh Tông lên làm vua, nên chỉ ngồi gõ phách. Khi vào tiệc yến hầu, vị tân vương vừa bước lên ngự toạ. Người con gái bỗng cầm phách hát. Vua liền hỏi chuyện, thu nạp vào hậu cung, sách lập làm Trường Lạc Hoàng Hậu.
Một chuyện tình tuyệt đẹp, đáng viết thành truyện phim, thành kịch bản sân khấu, thành tiểu thuyết. Danh dự của Nguyễn thị Lộ, và Nguyễn Trãi đã được vua Lê Thánh Tông thanh minh, rửa sạch từ lâu, thế mà nước ta người đời cứ lãi nhãi những chuyện vu cáo độc ác, những chuyện vô căn cứ ?
Chuyện Vua Lê Thánh Tông, Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục, chép như sau:
«Đức Quang Thục Hoàng Thái Hậu Tiền triều (Ngô Thị Ngọc Dao) thuở còn hàn vi, ngụ tại phía tây nam nhà Quốc Tử Giám. Nơi đây, nước hồ bao bọc chung quanh nhà, các thầy tướng số đều cho là có vượng khí của Thiên Tử. Vì có họ hàng với các phi tần trong cung, bà thường đi lại chơi trong cung điện. Vua Thái Tông (1434 – 1442) trông thấy yêu thương, khi về có mang. Đến kỳ năm giường cữ, bà sinh được một con trai (Tư Thành), thiên tư tuyệt lạ. Thuở nhỏ, theo mẹ ở lẩn quẩn trong đám thường dân, nhưng được nổi tiếng về văn học. Vua Thái Tông nghe tin liền với đến, phong cho tước vương.
Sau nhân khi Lạng Sơn Lệ Đức Hầu (Nghi Dân) bị phế, các đại thần liền đón rước vị vương này, lập nên làm vua tức là vua Thánh Tông (1460-1497). Vua thường đến thăm chỗ ngôi nhà cũ của Thái hậu, rồi cho xây điện Hy Văn, và dựng xây ngôi chùa Dục Khánh ở bên cạnh.
Khi trước Thái Hậu có mang, chiêm bao đến chỗ Thượng Đế, thấy Thượng Đế sai một vị Tiên Đồng giáng lâm vào làm vua nước Nam, và cho một người Ngọc Nữ theo xuống để sánh đôi. Tiên Đồng do dự, không vâng chỉ ngay. Thượng đế giận, ném viên ngọc khuê làm sây sát ở trán. Tiên Đồng dập đầu lạy tạ, và xin ban cho một người giúp việc. Thượng Đế trỏ một viên trong các quan, cho đi theo giúp việc. Viên ấy cúi đầu lạy xin cố từ. Ngài đập vai không cho. Lúc tỉnh giấc thì sinh ra vua Thánh Tông, vết ngọc khuê trên trán hãy còn rõ rệt.
Khi đã lên ngôi đại bảo, vua tôn bà mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu và thường cho dò tìm người trong chiêm bao. Chưa gặp, lòng vẫn không vui.
Khoảng đầu niên hiệu Thái Hoà (1443 -1453) (Triều vua Lê Nhân Tôn). Tế Văn Hầu Nguyễn Trãi phải tội, có người con gái bị bắt vào quan, sung vào hàng nữ nhạc. Người con gái ấy tư sắc tuyệt đẹp, tuổi đã 17, 18 mà không biết nói. Đến nay theo đồng bạn vào cung hầu yến, vì câm nên chỉ ngồi gõ phách. Khi vua bước lên Ngự tọa, Người con gái bỗng cầm phách hát:
«Hẹn nhau từ thuở thiên đình, Lòng nào nỡ phụ tâm tình thế ru.»
Tiếng hát du dương, dư âm dường quấn quanh trên rường, như khúc hát Quân Thiên, điệu hát trên Đế Đình. Vua lấy làm lạ hỏi, thì người con gái nói năng giống hệt người Ngọc Nữ trên chỗ Thượng Đế. Vua liền thu nạp vào hậu cung, sách lập làm Trường Lạc Hoàng Hậu.
Khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận (1463) thứ tư ngày truyền lô thi Đình. Trạng Nguyên Lương Thế Vinh bái yết, hai vai hơi lệch không được ngay ngắn. Vua kinh dị sai vào bái yết Hoàng Thái Hậu. Thái Hậu nhìn ra hình mạo Lương đúng người trong mộng trên Đế Đình khi trước. Hai Cung Thái Hậu và Vua đều rất vui vẻ. Vua bèn trao cho Lương chức Hàn Lâm thị Độc, dự vào hàng 28 ngôi sao trên Tao Đàn. Những thơ văn xướng họa có ghi chép trong các Thiên Nam dư hạ và bức đồ Bình Nam Chỉ Chưởng.
Chùa Dục Khánh sau lầm là chùa Hoa Văn. Điện ở phía tả thờ Thần Khâm đức Quang Thục Hoàng Thái Hậu. Khoảng năm Dương Đức, đời Trung Hưng (1672 -1673). Tây cung Hoàng Thái Hậu chữa lại chùa Khán Sơn, phía hữu chính điện thờ ngự dung đức Thần Tông Uyên Hoàng Đế. Từ hồi thay đồi triều vua trở về sau, chùa Khán Sơn đổ nát, Ngự dung thiên đến chùa Dục Khánh, nay ở gian hữu tiền đường.»
Theo Tự Điển Danh nhân Việt Nam của Nguyễn Q Thắng: Vua Lê Thánh Tông (1442-1797), là vị vua thứ tư nhà Hậu Lê, tên Lê Tư Thành, còn có tên húy khác là Hạo. Con vua Lê Thái Tông và bà Ngô thị Ngọc Dao. Lúc trước được phong Bình Nguyên Vương, sau đổi là Gia Vương. Đến khi Lê Nghi Dân bị truất phế (1458) ông được Nguyễn Xí cùng các đại thần đưa lên ngôi năm 1460 lúc 18 tuổi.
Là vị vua thông minh sáng suốt, thông hiểu nhiều môn học thuật. Triều đại thịnh vượng, hoàn thành những cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa. Bộ Luật Hồng Đức, chiến thắng Chiêm Thành là những thành tựu sáng chói và hiển hách trong lịch sử. Về văn học nhà vua lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, gồm 28 vị Đại Thần đứng đầu, mà ngài là Tao Đàn Nguyên Soái.. Nhà Vua còn ký tên là Thiên Nam Động Chủ hay Đạo Am chủ nhân trong nhiều tác phẩm khắc trên bia đá khắp nước.
Nhà vua làm thơ khá nhiều, cùng bạn tao đàn xướng họa và lưu lại nhiều tác phẩm: Thiên Nam Dư hạ tập –Lê Thánh Tông thi tập - Hồng Đức Quốc Âm thi tập -Xuân Vân thi tập -Cổ tân bách vịnh -Quỳnh Uyển cửu ca –Minh lương cẩm tú –Văn minh cổ súy –Châu cơ thăng thương –Sĩ hoạn châm qui -Hồng Đức thiện chính thư. Là những tác phẩm sáng giá trong kho tàng văn học dân tộc.
Thời đại Vua Lê Thánh Tông là một thời đại thịnh trị, một vị vua văn võ song toàn.
Vua Lê Thánh Tông, là Vua thơ Nôm, địa vị ấy không ai có thể tranh cải được. Vua trên thực tế, và vua trong thành tựu sáng tác văn học, nhưng từ đầu thế kỷ 20, nhiều tác phẩm của nhà vua được gán cho Hồ Xuân Hương, có tác phẩm bị sửa đổi một vài chữ. Hồ Xuân Hương đã được Lê Tâm, Xuân Diệu gán cho cái tên Bà Chúa thơ Nôm. Ngày nay sách vở bia đá rõ ràng làm bằng cớ, của vua Lê Thánh Tôn phải trả lại cho nhà vua và nhất là phải trả lại cho nhà vua cái danh « Ông Vua thơ Nôm».
Hồ Xuân Hương không là vua, chúa của ai cả, nếu tác phẩm vua Lê Thánh Tông lẫn lộn trong di cảo do con cháu Tử Minh sưu tập tại làng Nghi Tàm, chỉ vì đó là những bài thơ Hồ Xuân Hương yêu thích. Hồ Xuân Hương chỉ là học trò học làm thơ với thơ vua Lê. Những điều lâu nay ta vinh danh cho Hồ Xuân Hương, nay phải vinh danh vua Lê Thánh Tông, Hồ Xuân Hương không hề đạo văn, và chỉ có đời sau gán ghép sai lầm.
Bài thơ CHỢ TRỜI được khắc vào đá núi Thầy, Sài Sơn dưới có ghi rõ: «Đề năm Hồng Đức thứ bảy »(1476) tác giả là Thiên Nam Động Chủ, tức Vua Lê Thánh Tông.
CHỢ TRỜI
Bầu trời thú lạ cũng nhiều nơi, Chẳng thú đâu hơn thú Chợ Trời. Sáng sớm mưa tan, trưa nắng đứng, Chiều hôm mây họp, tối trăng chơi. Hàng bày hoa quả tư mùa sẳn, Chợ góp giang sơn một thú vui. Bán lợi mua danh nào những kẻ, Lại đây mặc cả một đôi lời.
Bài thơ đã tạc vào đá, không thể nhầm lẫn, không thể sửa chữa vài chữ, rồi bảo đó là thơ Hồ Xuân Hương hay hơn thơ vua Lê Thánh Tông, lý luận đó của Xuân Diệu trong bài Bà Chúa Thơ Nôm trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, nxb Văn Học Hà Nội 1982, không thể chấp nhận được. Việc đạo văn đó không có cơ sở, và chỉ làm rối loạn thêm các tác phẩm văn học.
Trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập có bài Đánh Đu
ĐÁNH ĐU
Bốn cột lang nha ngắm để trồng, Ả thì đánh cái ả còn ngong. Tế hậu thổ lom khom cật, Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng. Tám bức quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tất xuân dường ấy, Nhổ cọc đem về, để lỗ không.
Bài Thích Câu chép trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập. Bài này có 4 câu được lập lại trong bài Đền Khán Xuân gán cho Hồ Xuân Hương.
THÍCH CÂU
Đến đây mến cảnh mến thầy, Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người. Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười, Tuy vui đạo Phật chửa khuây người. Chầy kình mấy khắc tan niềm tục, Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời. Bể thảm muôn tầm mong tát cạn, Sông ân nghìn trượng dễ khơi vơi. Nào là cực lạc nào đâu tá. Cực lạc là đây hẳn tỏ mười.
Ngoài ra hai bài thơ nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông: bài Thằng Bù nhìn, và Vịnh kẻ ăn mày cũng đã được gán cho Hồ Xuân Hương trong các văn bản in năm 1908. Hai bài thơ này có văn bản trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập cũng phải trả về cho vua Lê Thánh Tông.
Trên vách đá núi Truyền Đăng còn gọi là núi Bài Thơ Vịnh Hạ Long có khắc bài thơ Vua Lê Thánh Tông. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong bài Hồ Xuân Hương và Vịnh Hạ Long viết: Lời dẫn và lời thơ như sau:
“Mùa xuân năm Quang Thuận thứ 9 (1468) tháng 2, ta thân đem đại quân ra duyệt trên sông Bạch Đằng. Ngày ấy gió đều cảnh đẹp; bể không nổi sóng. Ta bèn dong thuyền qua bể Hoàng Hải, đi tuần An Bang. Dừng chân dưới núi Truyền Đăng. Mài đá khắc một thơ Đường luật. Thơ rằng: Trăm sông chầu về đầm lớn và bể rộng; Núi bày ngan ngác như con cờ trên mặt biển biếc liền với chân trời. Lòng hăng hái mới cảm muốn thân hành tuần du; Sai tay thân tín ban lệnh truyền uy quyền đến phương xa. Nay quân hùng hổ bọc quanh như các sao vầy quanh Bắc cực (sao Bắc Đẩu). Xứ Hải Đông này được lửa binh dừng tắt và khói lang bặt dấu (khói bằng phân chồn bốc cao thẳng đứng để báo tín hiệu khi chiến tranh). Núi sông trường cửu của trời Nam sờ sờ đó, Nầy là năm nên tu chính việc văn và thu xếp việc vũ. Thiên Nam Động Chủ đề (Dịch theo Hán văn trong tập Thiên tải Nhàm đàm của Đàm Nghĩa Am 1810).
Trăm sông chầu xuống bể đầm Đông, Ngan ngác đảo xanh trời bể lồng. Hăng hái tuần du lòng cảm thú, Để trao biên trấn lệnh quyền công. Quân hổ, lính chầu quanh Bắc Đẩu, Binh lửa, khói lang tắt Hải Đông. Còn mãi trời Nam sông núi đó, Năm chỉnh việc văn, duyệt võ công.
Nhất Uyên dịch thơ.
Trong Lịch Triều Hiến chương mục Đư địa chí của Phan Huy Chú có chép bài An Bang phong thổ:
“Đất Yên Quảng thì bể và núi nhiều, ruộng nương ít.Nghề buôn bán kiếm lời thì đua nhau, nghề cày cấy nuôi tằm thì lơ thơ. Thuế má đối với các trấn khác thì không đồng đều. Vua Lê Thánh Tông cò bài thơ Phong Thổ An Bang như sau: Trên bể những núi cao như cây ngọc dựng lên, Bày ngan ngác như sao, như con cờ, những ngọn màu xanh lởm chởm. Cá và muối là vật thường như đất, dân đua làm nghề trục lợi. Về lúa thóc thì không ruộng, thuế ma thu được ít. Sóng xông vào vách núi bắn tung lên, Thuyền len theo vách đá theo kẽ hở mà đi qua. Dân biên thùy bấy lâu vui hưởng thái bình và văn hóa. Hơn bốn mươi năm nay không biết việc binh đao.
PHONG THỔ AN BANG
Trên bể núi non như ngọc xanh, Như cờ, sao giữa nước mênh mông. Vật thường cá muối, dân tranh lợi, Ít ruộng ít đồng, thuế thóc không. Chân núi sóng xô tung bọt trắng. Thuyền qua vách núi lách xuyên dòng. Biên thùy dân hưởng thời bình thái. Hơn bốn mươi năm chẳng việc binh.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
PHONG THỔ AN BANG
Hải thượng cao phong quần ngọc lập, Tinh la kỳ bố thùy tranh vanh. Ngư diêm như thổ dân xa lợi, Hòa đạo vô điền thuế bạc chinh. Ba hướng sơn bình đê xứ dũng, Chu xuyên thạch bích kích trung hành. Biên manh cửu lạc thừa bình hóa; Tứ thập dư niên bất thức binh.
Hồng Đức Quốc Âm thi tập có chép bài thơ nôm Sông Bạch Đằng của Vua Lê Thánh Tông:
SÔNG BẠCH ĐẰNG
Lẻo đẻo duềnh xanh nước tựa dầu, Trăm ngòi nghìn lạch chảy về chầu. Rửa không thảy thảy thằng Ngô rái. Dã mọi lâng lâng khách Việt hầu. Nọ đỉnh Yên Kỳ dành rạch đó, Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu? Bốn phương phẳng lặng kình bằng thốc; Thong thả dầu ta bỏ lưới câu.
.
Chú thích: Bài thơ có nhiều từ cổ
Duềnh: mặt nước chảy, thường trỏ sông. Không: hết nhẳn. Rái: là sợ thành ngữ xưa: khôn cho người ta rái. Hầu: ý là phục. Yên kỳ: Núi Yên Tử tục truyền đời Hán có Yên Kỳ Sinh đến đó tu tiên đắc đạo. Ô Mã: Ô Ma Nhi (Omar), danh tướng có đạo Hồi của nhà Nguyên Mông bị quân Trần bắt rồi tha, nhưng khi đưa về đục đắm thuyền ở sông Bạch Đằng.Kình bằng thốc: tăm cá kình im bặt, không giặc giả. Dàu ta: mặc ta, tha hồ ta.
Trong Thiên Tải Nhàm đàm. Vua Lê Thánh Tông có bài: tả cánh núi Vịnh Hạ Long, hình như một vị tăng ngồi tham thiền.
VỊNH NÚI THẦY TIÊU
Truyền rằng Cửa Lục có Thầy Tiêu, Ngồi tựa Câu loan nghe mối kêu. Chuông kệch phó cho thằng nộm đóng, Đèn tàn để mặc cái Dơi khêu. Phẳng da trời sương lạt móc, Dò dốn bể sóng in rêu. Dù ai mà hỏi bao nhiêu tuổi, Non nước bao nhiêu tuổi bấy nhiêu.
Chú thích: Câu loan:lan can. Mối: rắn mối, thứ tắc kè đây trỏ núi Đầu Mối. Chuông Kệch: chuông rất lớn chỉ Đảo Chuông. Thằng Nộm hình nhân giả người tên đảo Đóng. Đèn: trỏ núi Truyền Đăng. Khêu: đầy bấc lên cho ngọn đèn tỏ trở lại.
Hồng Đức Quốc Âm thi tập có chép bài
NÚI CHIẾC ĐŨA
Cắm chặt Nam minh nẻo thủa xưa, Đời Nghiêu nước cả ngập hay chưa. Triều lên rửa sạch tanh tao hết, Nguồn xuống điều hòa mặn ngọt ưa. Xóc xương kình tăm chẳng động, Dò lòng bể sóng khôn lừa. Trời còn dành để An Nam mượn, Vạch chước Bình Ngô mãi mới vừa.
Chú thích: Bài thơ có những từ liên quan đến chiếc đũa, đến sự ăn: cắm, tanh tao, mặn ngọt, xóc xương, dò lòng, vạch.
Vua Lê Thánh Tông qua động Hồ Công ở núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Động phía trước hướng về sông Mã, trong động có hai tượng đá, tục truyền xưa kia có một ông già và một tiểu đồng đi hái thuốc ngồi nghỉ ở đó rồi tự nhiên biến mất. Người ta cho là hậu thân Hồ Công và Phí Tràng Phòng người đời Tây Hán, nên tạc tượng thờ. Vua Lê Thánh Tông cho động ấy là động thứ nhất trong 36 động nước Nam.
ĐỀ ĐỘNG HỒ CÔNG
Thần bào quỷ tạc núi muôn trùng; Cửa động thênh thang vũ trụ thông. Cuộc thế công danh như ảo mộng; Bầu tiên nhật nguyệt thú vui cùng. Hạt châu rơi hóa rồng đen lượn; Giọt ngọc tuôn trời suối nước trong. Muốn cỡi gió lồng lên đỉnh núi; Trông vời mây nước vút tầng không.
Nhất Uyên dịch
.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
HỒ CÔNG ĐỘNG CẢM ĐỀ
Thần chùy quỷ tạc vạn trùng san, Hư thất cao song vũ trụ khoan. Thế thượng công danh đô thị mộng, Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn. Hoa dương long hóa huyền châu trụy, Bích lạc tuyền lưu bạch ngọc hàn. Ngã dục thặng phong lăng tuyệt lĩnh, Vọng cùng vân hải hữu vô gian.
Paris 23-3-2015
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V.
Tài Liệu Tham khào:
Dương Quảng Hàm Việt Nam văn học sử yếu. Sống Mới. HK 1979.
Phạm Đình Hổ, Nguyễn Kính. Tang Thương Ngẫu lục. BQGGD. Sài Gon 1970.
Hoàng Xuân Hãn. Hồ Xuân Hương và Vịnh Hạ Long. Tạp chí Khoa Học Xã Hội số 2-1983. Paris.
Nguyễn Q Thắng Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam.
Lã Nhâm Thìn. Thơ Nôm Đường luật nxb Giáo Dục. Hànội 1998.
|
|
|
Nha Ly
May 25, 2015 10:19:53 GMT 9
Post by Can Tho on May 25, 2015 10:19:53 GMT 9
Ði Tìm Con Cháu Thuyền Nhân 849 Năm Trước : Nguyên Tổ Hai Giòng Họ Lý Tại Ðại Hàn Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sĩ
Tác giả chân thành cảm tạ Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm viện Pháp-quốc hải ngoại, đã giúp đỡ rất nhiều khi viết bài này.
Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống Ngô-đình Diệm công du Ðại-hàn (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Ðại-hàn dân quốc là Lý Thừa Vãn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. Còn chính quyền thì gần như không để ý đến chi tiết lịch sử này. Bấy giờ, đệ nhất Cộng-hòa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Ðại-hàn tìm hiểu xem họ Lý từ Việt Nam, đã di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ? Thời gian này tôi mới 19 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho-giáo, nên đã chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Ðại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lý tại Nam-hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng: “Tổng-thống Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-bình vương Lý Long Tường. Kiến Bình vương là con thứ 6 của vua Lý Anh-tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn”. Ánh sáng đã mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Ðại-Việt sử ký toàn thư (ÐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KÐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến Bình vương Lý Long Tường cả. Tò mò chưa được thỏa mãn, nhưng tôi đành bỏ qua, vì bấy giờ tôi phải dồn hết tâm tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô tình tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng: “Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tôn nhà Trần. Biết mình là con thứ sáu vua Lý Anh-tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau gì cũng bị Trần Thủ Ðộ hãm hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly”. Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Ðại-hàn tìm hiểu chi tiết này. Thế nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đã có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài chánh. Ngặt vì nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, tìm hiểu về nguồn gốc họ Lý tại đây. Mãi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao. Phái đoàn này có bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lý Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi: - Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à? - Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy? - Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ? - Vậy cô đọc kinh gì ? - Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2) Nghe cô nói, tôi rùng mình. Song thấy cô xinh đẹp, tôi đùa: “Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lý Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Ðoan Nghi…”. Diệp Oanh cắt lời: “Sang đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lý”. À! Vạn lý tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rõ Diệp Oanh là con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, tôi đùa thêm: “Biết đâu cô không là công chúa Ðoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thai? Có lẽ chúng mình nên đi tiếp con đường tổ tiên mình đã đi”. Diệp Oanh vã tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, vì bấy giờ bà vợ tôi còn sống, còn quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong phòng the. Thế rồi chúng tôi nhận họ. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như bóng với hình. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới thời Lý, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-cao. Bấy giờ là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-cao khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên tòa đại sứ Bắc-cao ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày. Tới Bắc-cao, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho văn phòng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi thú thật là đi tìm một số tài liệu lịch sử. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu y khoa, cơ quan trao đổi y học dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận tình. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin vạn vạn lần cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp. Tại Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lý tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải dùng tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Ðại-hàn. Các chi họ Lý xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn. Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Hòa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suýt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lý Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nhìn trần nhà cười đầy vẻ hãnh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt, tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số… Trong phòng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, thì phòng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, thì cả phòng hội đều khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên. Hầu hết những chi họ Lý đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi câu đối: Thập-bát anh hùng giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh. (Mười tám anh hùng đều như Phù-đổng thiên vương. Ba nghìn nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương). Tôi phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lý Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 nghìn nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang Ðại-Việt, phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống nhập vào phòng đai phòng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 nghìn nữ kiệt đều tuẫn quốc. Hầu hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lý. Nhưng các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lý… đều hài lòng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này. Mãi đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị tịch thu. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa miền Bắc Việt-Nam đã ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và bảo quản rất kỹ. Bác-sĩ Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của giòng họ Lý. Thực là kỳ điệu, dưới chế độ Cộng-sản cực đoan, chủ trương hủy diệt tất cả những gì là văn minh của tổ tiên, để chỉ còn biết đến Mác, Lê, biết đến cha già dân tộc Kim Nhật Thành. Thế nhưng giòng họ Lý vẫn giữ gìn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến-bình vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lý làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến Bình vương Lý Long Tường. Tôi cũng được lên Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nhìn về quê hương. Sau đó, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để tìm hiểu thêm về giòng họ Lý. Tiếc rằng khi Lý Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, vì vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Giòng họ Lý sống tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá nghìn người. Họ cũng giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ tiên mình. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về việc ra đi của Kiến Bình vương, gia phả nói rằng họ Lý bị Trần Thủ Ðộ cướp ngôi, Lý Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lý Chiêu Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lý Huệ-tông! (3) Họ Lý, hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lý Tinh-thiện Thế nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lý Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người Việt, nhưng không thuộc giòng dõi Kiến Bình vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải vương Lý Dương Côn, đã đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một. Quý độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng hoàng, đờ đẫn cả người ra. Vì trong khi nghiên cứu về triều Lý, tôi biết một huyền sử vắn tắt như sau : “Vua Lý Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Ðinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi. Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán, tức vua Lý Thần-tông. Khi Lý Thần-tông băng, Thái-tử Thiên-tộ còn bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong giòng họ Lý diễn ra, sau vợ của vua Lý Thần-tông nhờ có tình nhân là Ðỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với tình nhân Ðỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lý Dương Côn đang là đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi đâu (1150)”. Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai giòng họ Lý, gốc là thuyền nhân Ðại-Việt. Tôi ghi chú tất cả những gì mà giòng họ Lý của Kiến Hải vương cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn còn có thêm tài liệu. Cuối năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đã phát hiện một giòng họ Lý thứ nhì, tại Ðại-hàn, được gọi là Lý Tinh-thiện. Giòng họ này, chính là giòng họ Lý, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đã có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lý Gia Trung. Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của giòng họ này mang tên Tinh-thiện Lý thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, thì ông tổ của giòng họ Lý Tinh-thiện là Lý Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Ðại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12: “Lý Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Ðức, được Tống triều phong tước Nam-bình vương”. Tra trong sử Việt, thì vua Càn Ðức chính là tên của vua Lý Nhân-tông. Vua Lý Nhân-tông là con của vua Lý Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh lịch sự Việt-Nam. Theo ÐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ thì: “Niên hiệu Hội-tường Ðại-khánh thứ 8 (DL.1117, Ðinh Dậu)… …Tìm con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: “Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử”. Vậy thì Lý Dương Côn là con nuôi của vua Lý Nhân-tông, chứ không phải con đẻ. Con nuôi thứ ba, thì là con của Thành Quảng hầu tên Lý Dương Côn, tước phong Kiến Hải vương. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lý thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố: Hậu đuệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lý Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng. Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-đan tức Ðại-liêu, nên các võ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một võ phái, đảo chính vua Nghị-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các võ phái, võ tướng nổi lên chống đối. Lý Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậy. Ông được thăng chức Trung-lang tướng, Tướng-quân, Ðại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây Bắc bộ binh mã sứ (1178). Năm 1179, một võ quan khác là Khánh Ðại Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy giờ Lý Nghĩa Mẫn giữ chức Hình-bộ thượng thư (1181). Vì ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu. Sau khi Khánh Ðại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lý Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức Tể-tướng trong 14 năm (1183-1196). Năm 1196, một phe võ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lý Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lý Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lý Hiền Bật. Giòng họ Lý Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, giòng họ này còn kế tục là nhờ người anh Lý Nghĩa Mẫn và các con không bị hại. Phối hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Giòng họ Lý tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Ðông Nam Ðại-hàn ngày nay là con của hoàng tử Lý Dương Côn thuộc triều Lý, Việt-Nam (1010-1225). Lý Dương Côn bỏ quê hương ra đi vì sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 thì Bắc Tống bị diệt. Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn: Một là, vua Lý Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm 1116, vậy thì Lý Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lý Dương Côn rời Ðại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lý Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức Biệt-trưởng. Ðây là điều vô lý. Bởi năm đó chính Lý Dương Côn có còn tại thế thì ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đã có cháu 6 đời? Tôi thì tôi cho rằng Lý Nghĩa Mẫn là con Lý Dương Côn. Còn hậu duệ đời thứ sáu là kể từ vua Lý Thái-tổ: 1. Lý Thái-tổ. 2. Lý Thái-tông. 3. Lý Thánh-tông. 4. Lý Nhân-tông. 5. Kiến Hải vương Lý Dương Côn. 6. Lý Nghĩa Mẫn. Hai là, trong gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng, Lý Dương Côn rời quê hương ra đi vì quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng vì sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lý Dương Côn, ông đã bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. Vì hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Ðại-Việt còn một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng gì tơí Ðại-Việt khiến Lý Dương Côn phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Ðại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Ðông, Quảng Tây! (xin đọc Anh-hùng Ðông-A dựng cờ Bình-Mông hồi 4 và hồi 16-17-18). Lần lại trang sử Ðại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua. Theo Hội-điển sự lệ triều Lý thì những chức như: Thái-úy, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Ðại Ðô-đốc Thủy quân, luôn trao cho các hoàng đệ. Vì vậy trong 5 con nuôi của vua Lý Nhân-tông, thì Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, còn 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng (1138), Thái-tử Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lý Dương Côn lên ngôi vua, vì ông là người thông minh, tài trí, đang là Ðại Ðô-đốc, ở tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đã dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được tình nhân Ðỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hộ. Thiên-tộ lên ngôi vua, sau là vua Anh-tông. Dĩ nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi còn bế ngửa, thì mẹ là Cảm Thánh thái hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Ðỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lý Dương Côn đóng quân ở Ðồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-ly. Dù Lý Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lý Dương Côn hay là cháu 6 đời vua Lý Thái-tổ, thì ta vẫn kết luận rằng : Năm 1150, Kiến Hải vương Lý Dương Côn, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc đã cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Ðời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lý Nghĩa Mẫn, đóng một vai trò trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Giòng họ Lý này, nay vẫn còn truyền tử lưu tôn tại Ðại-hàn. Giòng thứ nhì, hậu duệ của Kiến-bình vương Lý Long Tường, còn gọi là Lý Hoa-sơn Giòng họ Lý thứ nhì tới Ðại-hàn sau giòng họ Lý Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, con thứ 7 của vua Lý Anh-tông. Mà tôi đã trình bầy ở trên. Theo Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh-thủy, huyện Chiêu-dương, tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lý. Có đoạn nói về các con vua Lý Anh-tông, nguyên văn như sau : Vua có bẩy hoàng tử. Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Ðược phong tước Hiển Trung vương, lập làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Ðỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi. Hoàng-tử thứ nhì Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (DL.1175.). Thọ 24 tuổi. Hoàng-tử thứ ba Long Ðức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1153, Quý-Dậu) ra. Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi. Hoàng-tử thứ tư Long Hòa do Quý-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Ðặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175) thọ 24 tuổi. Hoàng-tử thứ năm Long Ích, do Ðức-phi Ðỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Ðinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi. Hoàng-tử thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Ðỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nhì được truyền ngôi. Băng niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi. Hoàng-tử thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Ðức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức tước phong như sau : Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất. So sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác nhau. Tộc phả Kiến Bình thì chép Kiến Bình vương là con thứ sáu vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩy. Vì sao ? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. Vì vậy Kiến Bình vương là con thứ 7. Phả Kiến Bình thì chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lý Anh tông, Long Xưởng bị giang xuống làm con út, thì Long Tường trở thành con thứ sáu. Hồi đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Ðại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu. Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị bão phải ẩn ở Ðài-loan. Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lý Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại Ðài-loan. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðài-loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ tìm hiểu sau. Tôi đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lý Thừa Vãn của Ðại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng thống Lý Ðăng Huy của Ðài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Long Hiền hay không, thì tôi không dám quyết, bởi Lý là giòng họ chiếm đa số ở Trung-quốc. Cả ba bộ sử ÐVSKTT, VSL, KÐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đã trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đã chín tuổi? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính? Cái khúc mắc này tôi đã giải thích rất chi tiết, rất rõ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông. Trong bài ngắn này không thể giải thích hết. Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lý Hoa-sơn: Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Ðộ hãm hại, vì vị thế trọng yếu của mình: – Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huệ-tông. – Thân vương duy nhất nắm quyền hành. – Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc. Vương âm thầm cùng Bình Hải công Lý Quang Bật từ căn cứ Ðồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu Ðình-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Ðồn-sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 nghìn người, xuống hạm đội ra đi. Việc Kiến Bình vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng? Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, thì gặp bão. Hạm đội phải ngừng lại một đảo (Ðài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong các con của vương là Thế-tử Lý Ðăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, thì táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng. Kỳ diệu thay, đêm hôm trước, vua Cao-tông (Kojong) mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó tìm kiếm, thì gặp hạm đội của Kiến-bình vương. Kiến-bình vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-tông và các đại thần Cao-ly. Triều đình Cao-tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang). Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Ông mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh pháp, võ thuật. Ông soạn sách Học vấn giảng hậu. Vì học trò đông, ông cho xây Ðộc-thư đường, Giảng võ đường. Ðệ tử của ông lúc nào cũng trên nghìn người. Tháng 7 năm Quý-sửu (1253) đời vua Cao-tông thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Ðại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận. Thấy tình hình Cao-ly nguy ngập, Kiến Bình vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Ðại-Việt. Ðích thân vương cỡi bạch mã chỉ huy cuộc giữ thành: Ðắp thành cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảo. Ông đem tất cả binh pháp Ðại-Việt trong những lần đánh Tống, bình Chiêm ra giúp Cao-ly. Ðánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đình khen ngợi Lý Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương ông là Hoa-sơn; phong cho ông làm Hoa-sơn tướng quân. Cho đổi tên ngọn núi nơi ông cư ngụ là Hoa-sơn. (4). Nhà vua sai dựng bia ghi công ông trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc. Trong dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lý cho phép được mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong, đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút lòng của người sau, tế người trước: Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh, Thất đại bôn Bắc Cao, Bình Mông danh vạn đại, Tử tôn giai phong hầu. Học phong nhân bất cập. Vọng quốc hồn phiêu phiêu, Kim tải quá bát bách, Hà thời quy cố hương? (Ngài là người họ Lý, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lý Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên 8 trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương ?). Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn 10 cây số về phía Tây còn lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nhìn về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt. Trên Hoa-sơn còn rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay vì chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mã. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lý Long Tường. Cho đến nay, giòng họ Lý Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn 200 hộ, với trên dưới 600 người. Tại Bắc-hàn thì đông lắm, không thống kê được. Lý tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đình có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng viên Tổng thống họ Lý suýt trúng cử. Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi ký, thì Kiến Bình vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt. Không thấy nói tơí Lý Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại Ðài-loan. Lý Cán Ðại lĩnh Ðề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lý Huyền Lương, Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lý Long Tiền Giám- tu quốc sử. Ngày nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường khắp lãnh thổ Ðại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ. Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, vì muốn ghi lại triều Lý trải 9 đời vua, kể cả Lý Chiêu-hoàng. (4) Năm 1995, con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Ðình-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến Bình vương Lý Long Tường đã thỏa nguyện: Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ. Lời quê gửi tới người Việt hải ngoại Hiện nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc biển, mọi chân trời. Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao, Canada, Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Irak, Gabon… Nhìn vào tấm gương của hai giòng họ Lý tại Ðại-hàn. Dù con cháu quý vị không còn nói được tiếng Việt. Dù con cháu quý vị đã kết hôn với người địa phương. Nhưng quý vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng là người Việt, lấy chủ đạo là con Rồng cháu Tiên. Xin qúy vị khẩn chép lại: 1. Nguồn gốc giòng họ mình từ làng nào, xã nào, tỉnh nào. Hoặc liên lạc với họ hàng trong nước để xin bản sao gia phả. 2. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời, thì ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha. 3. Rời Việt-Nam ra đi vì lý do gì? Bắt đầu đến đâu? Lập nghiệp ra sao? 4. Mỗi năm vào dịp tết, quý vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe. 5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất tổ, thăm mồ mả tiền nhân. Khi về già, các vị sai chép ra thành nhiều bản, cho mỗi con một bản. Vài lời thô thiển. Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quý vị, bây giờ là thường, nhưng sau đây trăm năm, nghìn năm, sự ghi chép của quý vị sẽ trở thành quý báu vô cùng. Mong lắm thay! Cầu xin như vậy đấy. Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
(Những tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều.) Chu Thich:
(1) Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Ðình Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà người ưu ái vì lòng yêu nước, tin tưởng vì lòng trung thành là Dương Văn Minh. Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân lệnh Hoa-kỳ, giết chúa. (2) Chế độ Cộng-sản cực đoan của Bắc-cao là một chế độ suy tôn lãnh tụ vào bậc nhất thế giới, bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch. (3) Sau đó tôi đã giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ. (4) Tôi tra trong địa lý thời Lý, trên lãnh thổ Ðại Việt không có ngọn núi nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lý chăng ? (5) Chín đời vua triều Lý là : 1. Thái-tổ Lý Công Uẩn. 2. Thái-tông Lý Ðức Chính. 3. Thánh-tông Lý Nhật Tông 4. Nhân-tông Lý Càn Ðức. 5. Thần-tông Lý Dương Hoán . 6. Anh-tông Lý Thiên Tộ. 7. Cao-tông Lý Long Trát. 8. Huệ-tông Lý Long Sảm. 9. Chiêu-hoàng Lý Phật Kim (6) Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là Ngột-lương Hợp-thai (Uriyang- qadai) đem quân đánh Ðại Việt, cũng bị tuyệt đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông hồi 50.
|
|
|
Nha Ly
Jun 3, 2015 5:11:53 GMT 9
Post by Can Tho on Jun 3, 2015 5:11:53 GMT 9
Họ Nguyễn gốc Lý và dấu ấn trong lịch sử Nguyễn Hoạt
Năm 2010 Hà nội đã long trọng cử hành đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tên gọi cũ của Hà nội.Tên Thăng Long do vua Lý Thái Tổ đặt ra năm 1010. Báo chí đăng rầm rộ sự kiện con cháu vua Lý Thái Tổ từ Hàn quốc trở về dâng hương ở Đền Đô là nơi thờ phụng các vua nhà Lý. Nhưng ở Vân-Điềm Bắc Ninh còn có những hậu duệ nhà Lý phải mang họ Nguyễn trong hoàn cảnh thay đổi triều đại Lý Trần. Sự sinh hoạt của họ Nguyễn gốc Lý này đã đề lại nhiều dấu ấn trong lịch sử nước ta. Lý Thái Tổ là người dựng ra nhà Lý , huý là Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ông sinh năm Giáp Tuất (974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn,làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Khi Lê Long Ðĩnh mất, Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kế tự Long Ðĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn chỉ huy quân túc vệ trong cung cấm. Bây giờ lòng người đã oán giận nhà Lê nên Ðào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế. Vua Thái Tổ thấy Hoa Lư hẹp nên bèn dời đô về Ðại La năm Thuận Thiên nguyên niên (1010) Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên liền đổi Ðại La thành Thăng Long thành (tức Hà Nội bây giờ), đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ Thiên Ðức. Vua Thái Tổ chỉnh đốn việc cai trị, chia nước làm 24 lộ, hội Hoan Châu và Ái Châu là trại.
Vua Lý Thái Tổ trị vì 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.
Ngôi huyệt chỗ giếng nước ở rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông giống như hoa sen nở 8 cánh nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời.
Nhà Lý trị vì được 215 năm (1010 - 1225), qua 9 đời vua, bao gồm :
- Lý Thái Tổ (1010-1028) - Lý Thái Tông (1028-1054) - Lý Thánh Tông (1054-1072) - Lý Nhân Tông (1072-1127) - Lý Thần Tông (1128-1138) - Lý Anh Tông (1138-1175) - Lý Cao Tông (1176-1210) - Lý Huệ Tông (1211-1224). - Lý Chiêu Hoàng (1225) [2] Nhà Lý suy tàn từ thời vua Lý Cao Tông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét vua Cao Tông chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy. Năm 1209, có loạn Quách Bốc ,Thái tử Sảm chạy đến nương nhờ họ Trần ở Haỉ Ấp, nhờ sức họ Trần mang quân về đánh dẹp Quách Bốc. Từ đó họ Trần nắm giữ binh quyền. Năm 1210, vua Cao Tông chết, thái tử Sảm lên thay, tức là Lý Huệ Tông. Triều chính hoàn toàn trong tay họ Trần.
Nhiều thế lực nổi dậy khắp nơi. Nhà Trần chiếm cứ vùng hạ lưu sông Hồng, Nguyễn Nộn chiếm cứ vùng Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ vùng Hồng Châu và Lý Quang Bật là một hoàng thân nhà Lý cũng trở thành một lực lượng chống đối.
Lợi dụng lòng mê tín của dân gian và nói là nhà Trần thay nhà Lý theo thiên mệnh, Trần Thủ Ðộ sai người đặt ra bài sấm, trong có câu :
Trời Đông A soi đến bực hè, Ba con đóm nọ lập loè làm chi
Ba con đóm nọ là ba lực lượng kể trên và họ Đông A là họ Trần theo cách ghép chữ ngày xưa, bực hè ám chỉ thái miếu nhà Lý.[1]
Các lực lượng đánh lẫn nhau và đều lấy danh nghĩa là phò trợ nhà Lý.Khi các lực lượng của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn không còn nữa thì Lý Quang Bật cũng bị tiêu diệt.
Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224), tức là Lý Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ lên quyền binh ở cả Trần Thủ Ðộ. [2]
Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400). Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ đã thực hiện ba biện pháp nhằm tiêu diệt họ Lý:
- Thứ nhất, buộc con cháu nhà Lý đổi qua họ Nguyễn.
- Thứ hai, đày con cháu nhà Lý lên vùng biên ải phía Bắc.
- Thứ ba, tàn sát con cháu nhà Lý.
Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông .Ngày 10 tháng 8 năm Bính Tuất (1226) Thái sư Trần Thủ Độ ép lý Huệ Tôn phải tự vẫn ở chùa Chân Giáo (quận Ba Đình, Hà Nội). và sau đó chủ trương của Trần Thủ Độ là phải tiêu diệt tận gốc dòng họ Lý để tập hợp nhân tâm hướng vào triều đại nhà Trần, nên ông đã sát hại 70 tôn thất nhà Lý khi họ đang làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường (Hoa Lâm).
Đại Việt sử ký toàn thư: Nhà Trần [3] ghi lại sự kiện này như sau :
Đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù trưởng người Man. Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], Vì Nguyên tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý... Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết. Tuy nhiên có thể có nhiều người trốn thoát và đổi các họ khác chứ chưa chắc đã là họ Nguyễn.
Thái Đường ngày nay là đất xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Từ Hà Nội, qua cầu Đuống, sang Đông Anh, quãng 500 mét, đến dốc Vân, phía bên tay trái chính là vùng đất Hoa Lâm Viên xưa.
Nơi diễn ra cuộc thảm sát được xác định là chỗ ngoài đê làng Mai Lâm ấy là một gò cao .Sau Cách mạng Tháng Tám thì cây đã bị chặt trụi. Năm 1957 vỡ đê Mai Lâm, khu gò đã trở nên bình địa truyền gọi là Bãi Sập, nay chỉ còn lại trong trí nhớ của nhiều bậc cao niên, nói nó là vùng đất nằm giữa vị trí các thôn Đông Trù, Thái Đường (Thái Bình).
Sau cuộc thảm sát này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và người nào còn sống sót trong nước mang họ Lý phải cải đổi ra thành họ Nguyễn sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt. (theo VNSL).
Vì sự ngược đãi của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lý, nhiều người đã bỏ trốn, trong đó có Lý Long Tường. Ông ra đi không phải để cầu viện hay tìm cách khôi phục nhà Lý, mà nhằm mục đích bảo toàn sinh mạng để lo việc thờ cúng tổ tiên. [4]
Lý Long Tường là con thứ bẩy của vua Lý Anh Tông , em của vua Lý Cao Tông . là chú của vua Lý Huệ Tông , tước Kiến Bình Vương. Ông làm đô đốc hải quân. Sau khi nhà Lý mất ngôi, biết không thể tránh khỏi những cuộc tàn sát, năm 1226, ông đã đem gia quyến và các đồ thờ cúng, áo long bào, vương miện và thương phương bảo kiếm từ đời vua Lý Thái Tổ, cùng với sáu ngàn quân, xuất phát từ cảng Vân Đồn đi tị nạn sang nước Hàn Quốc, ban đầu mang theo tên Hoa Lâm, sau đổi sang tên Hoa Sơn cho hợp cảnh ngộ. Hiện nay, những người hậu duệ nhà Lý đang cố truy tìm văn bản Hoa Lâm Lý thị tộc phả-mà tương truyền tài liệu này được Lý Long- Tường đem theo trong khi buộc phải xuất dương.
Trong dòng họ có Tổng thống Lý Thừa Văn-vị Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc. Trong chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 6-11-1958 ông đã nói: "Tổ tiên tôi là người Việt Nam đấy". Câu nói này hồi đó được báo chí Sài Gòn đăng tải rầm rộ trên trang nhất. Ông là cháu đời thứ 25 của Lý Long Tường.
Con cháu họ Lý Hoa Sơn ở Hàn Quốc hiện có tới 4.000 người.
Một số người trong gia tộc họ Lý buộc phải đổi sang họ khác nhằm trốn sự truy lùng của nhà Trần.[5]
- Họ Bàng (Đôn Thư, Bình Lục, Hà Nam)
Con cháu Lý Hùng Tích (hoàng tử thứ ba của vua Lý Nhân Tông) đã về sống ở làng Đôn Thư (Bình Lục, Hà Nam) và đổi từ họ Nguyễn Xuân sang họ Bàng.
Nhà thơ Bảng Bá Lân và em là Bảng Sĩ Nguyên là con cháu dòng nẩy.
-Họ Lê ở Sơn Nam Hạ (Diên Hà-Thái Bình) cải từ họ Lý sang họ Lê ,có hai cha con nổi tiếng là Tiến sĩ Lê Trọng Thứ và Bảng nhãn Lê Quý Đôn là con rể của họ.
- Họ Nguyễn ở làng Mọc (Hạ Đình – Hà Nội) nổi tiếng có giáo sư sử học Nguyễn Thiệu Lâu (1917-1967).
- Họ Nguyễn ở Đông Sơn (Thanh Hóa) là dòng dõi Đông Chinh Vương (Lực) và Dực Thánh Vương. Đời nhà họ Lê, có tướng quân Nguyễn Chích (1382-1448) hậu duệ đời thứ 12 của Lý Thái Tổ, là nhân vật thứ 2 , sau Lê Lợi của nghĩa quân Lam Sơn . Con cháu hiện nay có 2 chi họ Nguyễn Đình …và Nguyễn Thìn …ở xã Đông Hòa, huyên Đông Sơn , tỉnh Thanh Hóa .
-Họ Nguyễn ở Vân-Điềm (Bắc-Ninh)
Trần Thủ Độ đầy những tôn thất nhà Lý bắt đổi ra họ Nguyễn,lên chỗ giáp biên giới Trung Hoa,cho ở tụ vào hai làng Bằng Hà và Ba Điểm.Cả hai làng này đều phản lại triều đình khi quân Mông Cổ xâm chiếm Việt Nam.
Sau khi thắng được giặc Nguyên, vua nhà Trần cấm dân hai làng này không được thi cử hay làm quan và phải đồ làm lính.
Những quân-dân thì được thứ tội cả, duy có hai làng Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo giặc, cả làng phải đồ làm binh-lính, không khi nào được làm quan. (VNSL Trần Trọng Kim)
Tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác? Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. Phải chăng Trần Thủ- Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước?
Trong sách Ngược đường trường thi của nhà văn chuyên tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1939, có kể về quá trình rời bỏ Du Lâm và trở về Du Lâm của hậu duệ nhà Lý sau hơn 550 năm. Sau thảm họa kinh hoàng bảy mươi người tôn thất nhà Lý bị chôn vùi vào năm 1232, một số người đã phải chạy lên biên giới lánh nạn và đổi thành họ Nguyễn, nhờ vậy đã tránh được tai vạ. Trong gia phả những người gốc Lý vẫn không bao giờ quên chua chữ gốc Lý bên cạnh tên họ Nguyễn.
Khi nhà Trần mất, nhiều gia đình họ Lý đã bị đổi thành họ Nguyễn tìm cách về xuôi. Làng Bằng Hà thì không biết ra sao, còn làng Ba Điểm thì thiên về nam, định cư ở đồng làng Hương Mạc, Kim- Thiều lập thành họ Nguyễn ở làng đó. Hương Mạc là một vùng văn học nổi tiếng mà họ Đàm ở đây là nổi bật nhất, Vùng nầy còn gọi là Xóm Kẻ Đóm.Sau thành làng ,lấy tên chữ là Vân Điềm,nhưng tên nôm Kẻ Đóm kia vẫn còn.
Người đầu tiên về làng Vân- Điềm là cụ Nguyễn Thiện Tính . Cụ Thiện- Tính làm thuê cho một người cũng họ Nguyễn trong làng.
Hơn một trăm năm sau ( khoảng 1400), sống qua mấy đời làm ruộng ở Kẻ Đóm, nhà họ Nguyễn gốc Lý này biến thành dân quê với lời trối từ đời này sang đời kia :
" Họ ta là một cành vua Lý.Nhà Trần bắt ta đổi họ NGUYỄN,nhưng chúng ta phaỉ nhớ rằng ta vốn là dòng doỉ Lý bát đế.Tổ ta ,cụ trung liệt Lý Quang- Bật là con thứ sáu Nghĩa Nam Vương Lý Hưng- Tích là con thứ ba của Lý Thánh- Tông Hoàng đế vì chống laị họ TRẦN mà thiệt mạng.Ngày kia,trời tưạ, ta phaỉ trừ noì giống quân phường chài Haỉ Ấp" ( họ Trần ).
Câu này như văn khấn chữ nho tối nghiã, mất đi một ý nghiã cuả mệnh lệnh lúc đầu.
Cứ như thế truyền được bẩy đời.Rồi đến đời thứ tám là Nguyễn Bồn. Ông Bồn là con một,cha Bồn cũng là con một.đến Bồn cũng lại là con một nốt.
Con Bồn đi học và cháu Bồn là Nguyễn Thực học giỏi, làm con rể Tiến sĩ Thượng thư triều Mạc là Đàm Cư và là học trò của Tiến sĩ họ Nguyễn người làng Kim- Thiều cũng là một đại thần của nhà Mạc. Nguyễn Thực không ứng thí với nhà Mạc và đỗ Đình nguyên Hoàng giáp năm 1595,đời vua Lê Trung Tông. Ông làm đến chức tể tướng.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập 4, trang 259 chép về Nguyễn Thực: Người xã Vân Điềm - huyện Đông Ngàn, đỗ Đình nguyên Tiến sĩ khoa Ất Mùi ( 1595) đời Quang Hưng. Năm 1606 ( niên hiệu Hoàng Định thứ 7) sung sứ bổ sang nước Minh. Khi về làm tới chức Thiếu phó, tước Lan Quận công, tham dự chính sự trong Triều, góp nhiều mưu mô kế hoạch, sau thăng Thượng thư bộ Hộ, rồi trí sĩ, được thăng Thái Tể. Trải làm quan ba triều Vua, mà gia đình thanh bạch; có phong độ người đời xưa. Đời Lê lấy tước vị là Thượng thư quốc lão, về hưu bắt đầu từ Nguyễn Thực. Sau này con cháu kế tiếp đỗ khoa giáp, là một họ lớn đất Bắc Giang.
Sách Lịch triều Hiến chương loại chí (t1, tr.219) chép "ông là người thuần hậu trong sạch, cẩn thận, không lập sản nghiệp, làm quan trải qua những bước vinh hiển trọng yếu mà vẫn thanh bạch, có phong độ như bậc danh thần ngày xưa".
Tác phẩm của Ông còn lại có 16 bài thơ cận thể (văn) chép trong " Toàn Việt thi lục",( Lược truyện các tác gia Việt Nam tập I).
Con ông là tiến sĩ Nguyễn Nghi (1619), làm quan đến Lại bộ Thượng thư đồng triều với ông và được sử sách cũ ca ngợi : " Hai cha con đồng thời làm Thượng thư, được phong tước Quận công, đứng đầu các quan, thực là hiếm có".
Vua Lê Thần-Tôn thường khen Làng Vân-Điềm có hai quan Thượng Thư,từ xưa chỉ có một bầy tôi như vậy thôi.
Cháu của Nguyễn Thực là Nguyễn Yến, là võ tướng, tước Hoằng quận công đã từng đi đánh nhà Mạc ở Cao-Bẳng làm đến Thượng tướng quân. Con của ông cũng là võ tướng, được phong tước Ninh quận công.
Con cháu họ Nguyễn gốc Lý làng Vân Điềm bắt đầu nảy nở anh tài với các tiến sĩ. Hai cháu nội Nguyễn Nghi là Nguyễn Khuê và Nguyễn Sĩ đậu tiến sỹ, cùng về làng vinh quy bái tổ năm 1670.
Con Nguyễn Khuê là Nguyễn Thẩm nối đường vinh hiển của cha 36 năm sau đó (1706). Một người cháu của Nguyễn Thẩm (con của em hàng chú ruột) là Nguyễn Thưởng đỗ năm 1754, cùng với Tiến sĩ Nguyễn Lân của dòng họ Nguyễn khác (đỗ năm 1712) làm cho Vân Điềm - Kẻ Đóm trở thành làng khoa bảng có tiếng ở đất Đông Ngàn.
Họ Nguyễn gốc Lý làng Vân Điềm có đến 4 người đi sứ sang Trung Quốc là Nguyễn Thực, Nguyễn Nghi, Nguyễn Sĩ và Nguyễn Thưởng.
Ngoài 7 tiến sĩ, họ này còn có 18 hương cống thời Lê và 1 cử nhân thời Nguyễn.
Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Đường là Nho sinh trúng thức, làm Hiến sát sứ, đã từng ngồi chung với chúa Nam Đoan Vương Trịnh Khải đánh trận Ngũ Long. Khi quân vỡ, ông bị lạc chúa và đi ở ẩn, ông đã tìm về sinh sống tại quê cha đất tổ ở Du Lâm.
Con trai của Nguyễn Đường là Nguyễn Án (1770-1815) là danh nhân văn hóa đất Thăng Long, có cuốn sách Tang thương ngẫu lục viết chung với Phạm Đình Hổ. Ông sống vào thời cuối nhà Lê và ở ẩn ở Hà-nội, không ra thi với nhà Tây sơn.
Trong Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (1968) có ghi về Nguyễn Án ( 1770 – 1815 ): tự Kính phủ , hiệu Ngu Hồ người làng Du lâm, huyện Đông Ngàn ( nay là phủ Từ sơn, Bắc ninh ) Ông thông minh và ham học, xem rộng sách . Năm Gia long thứ 4 (1805 ) ông được vời ra làm quan bổ tri huyện huyện Phù dung ( nay là Phù cử Hƣng yên ), nhân có việc riêng từ quan về . Năm thứ 6 ( 1808) , lại đƣợc bổ tri huyện Tiên minh ( nay là Tiên lãng , Kiến an ) , sau phải bệnh mất ở chổ làm quan . Ông có một tập thơ chữ nho nhan là Phong lâm minh lại thi tập .
Năm Gia Long thứ 7 (1808) nhà Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên ở Bắc Thành, ông đỗ Hương Cống cử nhân và làm tri huyện Tiên Minh (Yên Lãng, Kiến An).
Gia đình họ ở Nguyễn gốc Lý được kể là một trong 54 gia đình xuất sằc về học vấn trong suốt thời kỳ nhà Lê trung hưng 1427-1802 . [6].
Cháu nội của Nguyễn Án là Nguyễn Tư Giản, đỗ hoàng giáp Tiến sĩ năm 21 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại hơn 40 năm dưới triều đình nhà Nguyễn.
Ông và các nhân sĩ thức thời như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện dâng lên vua Tự Đức chương trình canh tân đất nước, mở mang bang giao với phương Tây.
Ông còn là nhà thơ nổi tiếng để lại nhiều tác phẩm giá trị. Trong 2 năm đi sứ nhà Thanh (1868-1869), Nguyễn Tư Giản đã có 3 tác phẩm với hàng trăm bài thơ tặng và đối đáp với danh sĩ Trung Hoa và các sứ thần Triều Tiên. Tài ngoại giao văn chương của ông được triều đình nhà Thanh mến mộ, tặng ông một bức vẽ truyền thần, một bộ đồ thờ cúng hiện còn lưu giữ ở nhà thờ Nguyễn Tư tại TP.Hồ Chí Minh.
Mùa hạ năm Quý Dậu (1873), triều đình Huế cử một phái bộ sang Pháp để điều đình chuộc lại Nam Kỳ. Nguyễn Tư Giản được cử làm Chánh sứ, nhưng ông dâng lấy lý do bệnh tật sức yếu, xin thoái thác,sách Đại Nam thực lục (đệ tứ kỷ, quyển 19) có ghi: Quan đê chính là Nguyễn Tư Giản dâng sớ nói thiết tha rằng không nên hoà với Tây Dương.
Con Nguyễn Tư Giản là Nguyễn Kham cũng đậu Tiến sĩ, làm Án sát Bình-Định, tham biện nội các.
Em họ của Nguyễn Tư Giản là Nguyễn Văn Huyền, cử nhân làm đến bố chánh tỉnh Bình-Định.
Con của Nguyễn Tư Giản là thầy giáo Nguyễn Tiếu Lệ trở thành quân sư của Đề Thám ở Yên-Thế.
Ông Nguyễn Triệu Luật một cháu nội của Nguyễn Tư Giản là nhà văn chuyên viết lịch sử, tiểu thuyết, tên tuổi được khẳng định trong Từ điển văn hóa Việt Nam và Lược truyện các tác gia Việt Nam. Ông có tham gia vào Việt Nam Quốc Dân đảng, chống Pháp, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo.
Năm 2012, tại Thư viện Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức Hội thảo mang tên "Nguyễn Triệu Luật - con người và tác phẩm" ,nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh (1903 - 2013) của nhà văn,. Đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, gia đình và bạn đọc yêu văn chương của Nguyễn Triệu Luật đã tới dự. Nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội và ông Nguyễn Triệu Căn, con trai nhà văn Nguyễn Triệu Luật chủ trì hội thảo.
Cháu họ Nguyễn Tư Giản là Nguyễn Cẩn đậu Cử nhân năm 1879 , làm Tuần phủ Quảng Yên và làm đến Hiệp biện học sỹ triều vua Tự Đức.
Nguyễn Ước-Lễ là con của Nguyễn Cẩn,tốt nghiệp trường cao-đẳng pháp-chính Hà-Nội làm đến Bố Chánh,tỉnh trưởng tỉnh Sơn Tây.Thẩm Phán toà án hành chánh Sài gòn đời vua Bảo Đại.
Ông Nguyễn Dĩnh Nhiếp là cháu năm đời của Nguyễn Án tham gia phong trào Đông-Du của Phan Bội Châu, sang Nhật là thư ký của hoàng thân Cường Để.
Ông Nguyễn Tăng - Nguyên, là anh họ ông Nhiếp, đã từng làm bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Ông là một nhân sĩ trong nhóm Caravelle đã từng lên tiếng chống đối chế độ nhà Ngô .
Ngày nay, truyền thống hiếu học và khoa bảng của cha ông vẫn được con cháu làng Vân Điềm phát huy. Hiện làng có khoảng 120 người tốt nghiệp đại học, 7 người được nhận học vị tiến sĩ, nhiều thạc sĩ.
Nhà văn Nguyễn Triệu Căn và gia đình họa sĩ Nguyễn Thủy Tuân, Nguyễn Thủy Liên là những nhân vật có tiếng ở Hà-Nội.
Con cháu họ Nguyễn vẫn có nhiều người đã đạt được học vị cao nhất của ngành đại học Âu Mỹ như tiến sỹ Nguyễn Hòa Hợp ở Úc, Nguyễn Thiện Pháp ở Pháp ...
Tại Việt Nam còn khoảng 700 người họ Nguyễn gốc Lý, bà Nguyễn Hạc Đạm- Thư - hậu duệ đời thứ 32 ở Mai- Lâm cho biết: Tính đến thời điểm hiện tại (tháng 12/2009), số hậu duệ nhà Lý ở thôn Du Lâm (tức Hoa Lâm) có 19 hộ gia đình, với tổng cộng 78 người.
Ông Nguyễn Quốc- Hưng, tộc trưởng họ Nguyễn (gốc Lý) ở xã Mai- Lâm cho biết là hiện tại, số hậu duệ nhà Lý đã kiểm đếm được khoảng hơn 3.000 người, chủ yếu đang sinh sống tại Mỹ và Hàn Quốc. [7]
Về họ ngoại của họ này, có những người nổi tiếng như Bảng nhãn Lê Quý Đôn, bộ trưởng Nguyễn Xiễn, ông là cử nhân toán đầu tiên ở Việt Nam.
Hiện nay, ở Hà Nội, Đà Nẵng, Huế và TP Hồ chí Minh có đường mang tên Nguyễn Tư Giản, tên Nguyễn Triệu Luật được đặt cho một đường ở quận Bình-Tân, và Nguyễn Án ở Quận năm TP Hồ chí Minh.
Ngày 18-1-1993, Bộ VH-TT đã ra quyết định xếp hạng di tích nhà thờ tiến sĩ Nguyễn Thực ở Vân Điềm.
Mộ cụ Nguyễn Thực được nhà nước xếp hạng di tích quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1]- Nguyễn Triệu Luật, Ngược đường trường thi, Sài Gòn 1939
[2]-Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược
[3]- Đại Việt sử ký toàn thư, NXB VHTT, 2004.
[4]- Trần Đại-Sỹ- Nguyên tổ hai giòng họ Lý tại Đại-hàn [5]- Nguyễn Khôỉ- Cổ Pháp ký sự
[6]-Đàm Văn Chí -Lịch sử văn hoả Việt Nam, NXB trẻ, 1992
[7]- Chu Minh Khôi- Đi tìm gốc tích vua Lý Thái Tổ - kỳ 3-Giác Ngộ-web, 29/03/2010
Nguyễn Hoạt
|
|
|
Nha Ly
Nov 4, 2015 7:30:23 GMT 9
Post by Can Tho on Nov 4, 2015 7:30:23 GMT 9
VIỆT - HÀN: ĐÃ CÓ 5 CUỘC THĂM VÀ NHẬN HỌ HÀNG Ở VIỆT NAMLâm Khang Do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy, sắp đặt, giữa Việt Nam và Cao Ly xưa (nay là Hàn Quốc và Triều Tiên) đã có một mối liên hệ rất đặc biệt. Đó là quan hệ thiên di và huyết thống. Chỉ kể từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, xác nhận đã có 5 cuộc người Hàn Quốc về Việt Nam nhận họ hàng hoặc tìm hiểu về lai lịch và huyết thống: 1- Hậu duệ của Lý Dương Côn (người Việt sang Cao Ly, trước Lý Long Tường 100 năm) về Sài Gòn, để tìm lại họ hàng. 2- Cách đây khoảng hai chục năm, Ông Lý Xương Căn và các hậu duệ của Hoàng thúc Lý Long Tường đời Lý đã về Đình Bảng - Kinh Bắc (Bắc Ninh) để nhận lại họ hàng. Hai bên đã nhận nhau là họ hàng. 3- Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, vào năm 1959, Tổng thống Hàn Quốc là Lý Thừa Vãnđã về Sài Gòn để tìm lại họ hàng. 4- Con cháu của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi tại Hàn Quốc cũng đã tìm về Việt Nam (cả ở Miền Nam trước 1975 và cả ở Miền Bắc sau 1975) để tìm lại họ hàng, dòng tộc. Theo truyền thuyết: Mạc Đĩnh Chi đi sứ Trung Quốc, gặp gỡ với sứ thần Cao Ly tại Trung Quốc. Sau khi xướng họa văn thơ, hai bên tương đắc vô cùng. Sứ thần Cao Ly (cũng là một Trạng nguyên) mời Mạc Đĩnh Chi sang thăm Cao Ly và gả cô cháu gái xinh đẹp cho Mạc Đĩnh Chi. Mạc Đĩnh Chi ở lại Cao Ly 6 tháng và có sinh với người thiếp này một người con trai. Mười năm sau, Mạc Đĩnh Chi lại được cử đi sứ Trung Quốc, gặp lại Sứ thần Cao Ly. Mạc Đĩnh Chi được sứ thần Cao Ly mời thăm lại Cao Ly. Ông gặp lại người thiếp yêu, lúc đó đã lập bàn thờ Mạc Đĩnh Chi, trong mừng tủi. Hai ông bà lại sinh thêm một đứa con. Lần này Mạc Đĩnh Chi lưu lại Cao Ly 1 năm. 5- Tháng 5 /2015: Ngài Ban Kimoon thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Sài Sơn. Ngài dâng hương, xem gia phả và để lại lưu bút. Câu chuyện này làm chấn động dư luận và các nhà nghiên cứu đang quan tâm theo dõi. ***************************************** Các dòng họ Việt trên nước Hàn(Tựa đề của bàn viết ngắn hơn trên Chuyển Hoá là Người Việt trên nước Hàn) Ông Ban Ki-moon xem cuốn sách Lịch triều hiến chương loại chí trước ban thờ trong nhà thờ dòng họ Phan Huy – Ảnh: đại diện dòng họ Phan ở Sài Sơn cung cấp (Thanh Niên online) Sau họ Lý, chạy loạn sang Hàn Quốc từ tk XII (Lý Dương Côn, em Lý Thần Tôn tức Lý Dương Hoán ) và tk XIII ( Lý Long Tường, chú vua Lý Huệ Tông ), còn có họ Mạc để lại giọt máu Việt trên đất Hàn. Cả hai họ Lý và Mạc đều nẩy nở phồn thịnh trên đất Áp Lục, cả Việt lẫn Hàn đều nằm ở thế hợp tung trong nền văn minh cầm đũa hữu lễ, vì thế cho đến nay, Hàn Việt đều tương quan trong cả thời chiến lẫn thời bình, chính Bạch Mã tướng quân Lý Long Tường đã đánh thắng Mông Cổ cho vua Hàn (1253) tại Hoa Sơn, trước cả Trần Hưng Đạo tới 5 năm! và thập niên 1960-70, Sư đoàn Đại Hàn lấy tên Bạch Mã tham chiến ở Việt Nam là có ý ấy! Gần đây, tháng 5-2015, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon (Phan Cơ Môn [Văn]) tới tận nhà thờ họ Phan Huy-chi Sài Sơn, Hà Tây, thắp hương nhận gốc mình thuộc dòng Phan Huy Chú, Sài Sơn, Sơn Tây (Hà tây), tính ra đã 7 đời an cư trên đất Hàn. Như vậy trên đất Hàn hiện có 3 dòng họ gốc Việt là họ Lý, họ Mạc và họ Phan Huy. Khi sang sứ Tầu, sứ giả Việt và Hàn thường trao đổi thơ văn qua chữ Nho, nay còn khá nhiều tài liệu, như Phùng Khắc Khoan, đi sứ 1597, Lê quí Đôn đi sứ 1760 (ghi lại chuyến đi trong Bắc Sứ thông lục- sách Quần thư khảo biện của Lê Quý Đôn được sứ thần Triều Tiên tán thưởng và đề tựa), Phan Huy Ích, Phan Huy Chú đi sứ 2 lần 1825 và 1831 đời vua Minh Mạng, Nguyễn Tư Giản (sứ cuối triều Nguyễn 1868). Từ Bắc Kinh sang Triều Tiên không xa, có thể các đoàn đi sứ đã sang thăm Triều Tiên, có thể nhân viên tuỳ tùng tuỳ duyên lưu lại lập nghiệp-như một vị nào thuộc họ Phan Huy chăng? ĐÔI NÉT VỀ HỌ PHAN HUY Được đọc qua Gia phả họ Phan Huy và tra cứu trên các mạng, vài chi tiết đáng ghi lại như sau: 1-Theo Gia Phả họ Phan Huy, viết năm 1962, thì tổ đời thứ 7 là Phan Huy Cẩn 1722- 1789.từ Hà Tĩnh đổi ra Sài Sơn, Sơn Tây, 2-Ðời 8 là Phan Huy Ích 1750- 1822, học trò Ngô Thời Sĩ, được thầy gả cho con gái là Ngô thị Thục, bà này là em Ngô Thời Nhiệm. 3-Ðời 9, con trai thứ 3 của Phan Huy Ích, là Phan Huy Chú 1782- 1840, chỉ đậu Tú Tài, tự khảo cứu, tác giả Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. 4-Con gái Phan Huy Vịnh (1800-1870) là Phan thị Chú (1830- 1888) lấy Tiến sĩ Nguyễn Thượng Phiêu, sinh ra Nguyễn Thượng Hiền (con trai thứ hai). Dòng họ Phan Huy gốc từ họ Nguyễn Huy-Nguyên một bà thiếp của Nguyễn Huy Tựu là Phan thị Trừu, có chuyện trong gia đình, nên bà lấy họ mình đặt cho con trai. BS Phan Huy Quát 1908-1979 là con trưởng của TS Phan Huy Tùng 1878–, đậu đầu Y Khoa Bác sĩ tại Hà Nội- Từng làm Chủ tịch Tổng hội SV Hà Nội, Đổng Lý văn phòng cho Thủ tướng Trần Trọng Kim 1945- mất trong lao tù CS 1979 (web. của Lãng Nhân viết rất cảm động về PH Quát, một người bạn và bệnh nhân của Bs Quát). Các dòng họ Phan ở VN bây giờ nhận viễn tổ là một vị tướng từ đời Hùng Vương, quán Hà Đông. CÓ HAI CHI HỌ LÝ Ở NƯỚC HÀN Theo tài liệu của Sở Cuồng Lê Dư trên số Xuân 1942 Tri Tân (sang Hàn quốc 1914) và của Trần Văn Giáp, thuộc Viện Khảo Cổ Hà Nội, năm 1959, thì có 2 vị dòng dõi nhà Lý chạy sang nước Hàn: 1- Lý Dương Côn, em vua Lý Thần Tôn 1128 -1138 (tức Lý Dương Hoán), tước Kiến Hải Vương, chức Đại Đô Đốc Thủy Quân, chạy sang Hàn quốc để “tránh quốc loạn“, không nói rõ loạn gì và tại sao lại chạy mãi sang Hàn Quốc, chỉ biết Lý Tinh Thiện hiện đại là dòng dõi chi này. Có tài liệu ghi Kiến hải Vương Lý Dương Côn là con nuôi Lý Nhân Tông, khi Lý Thần Tôn băng hà, hoàng thái tử mới lên 2 (sau là Lý Anh Tông), nên triều thần muốn đưa Lý Dương Côn, 22 tuổi, lên ngôi, nhưng việc không thành nên Lý Dương Côn phải bỏ trốn sang Hàn năm 1150, thuyền táp vào Nam Triều Tiên, vùng Pusan. Đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn làm tới chức Tể Tướng triều Uijong suốt 14 năm. 2- Lý Long Tường, tước Kiến Bình Vương, con thứ 7 của Lý Anh Tông ( 1138-1175) và hoàng phi Lê Mỹ Nga, chú vua Lý Huệ Tông (1211 – 1224), con vua Lý Anh Tông (1138- 1175) em vua Lý Cao Tông (1176- 1210), lúc ấy đang giữ chức Đại Đô Đốc Thủy quân, cùng với Lý Quang Bật mang đồ thờ cúng chạy ra biển Đông (Đồ Sơn), trốn khỏi bàn tay Trần Thủ Độ, trên ba con thuyền. Một thuyền bị bão dạt vào đảo Đài Loan, hoàng tử Lý Đăng Hiển và vợ con ở lại đây, thuyền của Lý Long Tường đến được Bắc Triều Tiên, cửa Phú Lương Giang, tỉnh Hoàng Hải ngày nay, vào năm 1226. Lý Long Tường khi ấy ở khoảng tuổi 50, ông ra đi với tâm nguyện noi gương Vi Tử đời Ân (khi nhà Ân mất thì Vi Tử chạy sang nhà Chu để giữ việc cúng tế gia tiên theo sử Tầu), vì thế ông lấy hiệu là Vi Tử Động và có ghi trên bia Thụ Hàng Môn Ký Tích ở Bồn Tân, Hàn quốc, tâm nguyện đó. Tương truyền vua Hàn quốc là Cao Tông nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, đậu bên bờ sông Tây Hải, khi cho người tìm kiếm thì thấy thuyền của Lý Long Tường và tùy tùng đang dạt vào bờ, vua Hàn nhớ lại giấc mơ cho là việc kỳ diệu nên đối xử với họ Lý rất tử tế. Hai mươi bảy năm sau, 1253, quân Mông Cổ do Đường Cơ chỉ huy xâm lăng Hàn quốc. Lý Long Tường năm ấy đã vào khoảng 78 tuổi, cưỡi ngựa trắng đôn đốc dân chúng trong vùng chống trả quân Mông Cổ suốt 5 tháng. Quân Mông thấy khó thắng bèn lập kế khuân 5 hòm vàng lớn tới dâng Bạch Mã Tướng quân Lý Long Tường. Lý Long Tường biết là mưu kế nên cho khoét lỗ, đổ nước sôi vào hòm, quả nhiên sát thủ Mông nấp kín trong hòm bị phát giác và chịu chết. Sau khi thủy binh của đô đốc Katan Khan bị hỏa công phá tan, bộ binh của Đường Cơ mất tinh thần, bị quân Hoa Sơn bản địa họ Lý nòi Việt tiêu diệt chỉ còn lại vài tên chạy về Mãn Châu. Sau chiến công ấy, vua Hàn cả mừng, phong Lý Long Tường làm Tướng quân, đổi Trấn Sơn nơi họ Lý trú ngụ thành Hoa Sơn (bởi thế có tên Hoa Sơn Tướng quân ), lại lấy 30 mươi dặm vuông, nhân khẩu 20 hộ cho họ Lý làm Thái ấp. Nơi quân Mông Cổ đầu hàng được gọi là Thụ Hàng Môn, lại cho lập bia để ghi công Lý Long Tường, di tích nay hãy còn. Khi Lý Long Tường mất, mộ táng cách Thụ Hàng Môn (ở Bồn tân ) 10 dặm, tại chân núi Di Ất, gần Bàn Môn Điếm bây giờ. Trong thời gian ở Hoa Sơn, Lý Long Tường lập làng Giao Chỉ, làng Nhật Nam, lại hay lên đỉnh núi ngồi vọng về phương Nam mà khóc, nơi ấy gọi là Vọng quốc đàn! Mỏm đá họ Lý đặt chân lên đất Hàn vẫn còn gọi là Việt Thanh Nham. Về sau dòng họ Lý ở Hoa Sơn chia làm hai chi, từ Bình Nhưỡng (cố đô) ở Bắc Hàn, rời về Hán Thành Seoul là đô mới của nước Hàn ở phía Nam, có tộc phả dày 400 trang ghi rõ chi tiết. Hâu duệ họ Lý này hiện có trên 200 hộ, hơn 600 người, cháu đời thứ 26 là Lý Xương Căn đã về lễ tổ tại Đình Bảng lần đầu tiên vào năm Tuất 18-5-1994 (xin ghi chú Lý Công Uẩn sinh năm Tuất). Bắc Hàn còn 1500 hộ dòng họ Lý. Cựu TT Lý Thừa Vãn là dòng thứ 25, Lý Khánh Huân (cha của Lý Xương Căn) đã sang VN trước 1975. Tại nước Hàn, nhiều sách truyện về Hoa Sơn Tướng quân được truyền tụng, tập Hoa Sơn Quân bản truyện còn ghi sự tích cây hạnh lớn do Lý Long Tường trồng trên nền nhà Văn Nhã Đài là nơi Lý Long Tường từng ngồi dạy học, vì thế Lý Long Tường còn có tên là Hạnh Đàn Công tử. Như vậy đủ thấy Lý Long Tường cũng như nhiều danh nhân khác đời Lý Trần, có đủ tài kiêm văn võ, theo đúng truyền thống Đại Việt mà đời sau, từ đời Lê trở đi, để mất, đổi từ Văn ôn võ luyện sang tiên học lễ, hậu học văn, biến kẻ sĩ thành ra “trói gà không chặt”, hư danh khoa bảng, thật đáng tiếc. * Ở Việt Nam hiện nay, dân chúng vùng Cổ Pháp (Đình Bảng là tên mới từ đời Trần) vẫn làm lễ hội rất lớn tại đền Đô (tức đền Lý Bát Đế thờ 8 vị vua Lý), họ truyền tụng câu : “Đền Đô đến hẹn lại lên”. Hẹn gì ở ngôi đền đất Kinh Bắc, cố đô tinh thần hương quán nhà Lý và của nền quân chủ nhân quốc văn hiến Việt Nam? Lại lên và bao giờ lên? câu sấm hay đồng dao này xuất hiện từ bao giờ và do ai đặt ra, không mấy ai biết rõ, nhưng chắc rằng có mang mầu sắc huyền nhiệm nên cả dân chúng lẫn giới truyền thông đều tin rằng có gì thiêng liêng trùm lên dòng sử Việt nhất là từ khi con cháu họ Lý từ Hàn Quốc trở về giỗ tổ sau gần 1000 năm tính từ năm 1010 khai triều thịnh đức nhà Lý. Sấm Trạng Trình cũng có câu : Lý đi rồi Lý lại về …Ngẫm về sau nhà Lý xưa nên Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn… Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, một nghìn năm sau, khoảng 2010, nền vương đạo nhân quốc Lạc Việt sẽ lại phục hoạt sau 500 năm long mạch đất Giao Chỉ bị Cao Biền trấn yểm. CHUYỆN TRẠNG MẠC ĐĨNH CHI VÀ NGƯỜI VỢ NƯỚC HÀN. Sử sách ghi việc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tầu có chi tiết Trạng nước Hàn mời Trạng nước Việt sang chơi Hàn Quốc và lại tìm một giai nhân nước Hàn cho làm thiếp Trạng Mạc. Chi tiết này được tìm thấy qua bài “Ông Trạng Mạc Đĩnh Chi ở Cao Ly ” của Sơn Sa Lê Khắc Hòa đăng trên An Nam Tạp Chí số 4, tháng 8 năm 1926. Bài này được in lại trong tập sách Người Việt Nam Ở Triều Tiên, xuất bản năm 1997 tại Hà Nội. Theo Tác giả Lê Khắc Hòa thì ông gặp một người Cao Ly dòng dõi Mạc Đĩnh Chi năm 1925 trên chuyến xe đò đi Khoái Châu (Hưng Yên), hai bên bút đàm (chắc bằng chữ Nho) và người Cao Ly kể lại rằng cả hai Trạng Hàn và Việt đều được vua Nguyên phong chức Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Mạc Đĩnh Chi có nhận lời mời của Trạng nước Hàn sang chơi Hàn Quốc 4 tháng, Trạng Cao Ly đã làm mối một người cháu gái trong họ làm thiếp Trạng Mạc. Người thiếp ấy theo Trạng Mạc về Tầu, 5 năm sau mới trở về Cao Ly, dắt theo 2 đứa bé, một trai, một gái. Bà thiếp ấy kể lại rằng Trạng Mạc khi từ biệt về Đại Việt có dặn dò bà nuôi con nên người vì không biết có ngày nào được gập lại nhau! Nào ngờ 10 năm sau, bà đang ngồi khâu vá thì Trạng Mạc bất ngờ đến (đi sứ lần thứ hai?), bà xúc cảm quá ngất đi ! Lần này Trạng Mạc lưu lại nước Hàn 6 tháng và khi rời Hàn thì bà thiếp lại có mang được 3 tháng. Trong 6 tháng lưu lại nước Hàn với vợ con, Mạc Đĩnh Chi đi thăm khắp nước và có làm tập thơ truyền thế, hiện nay còn nhiều người Hàn truyền tụng. Khi Trạng Mạc vĩnh biệt quê hương thứ hai này, bà thiếp làm bàn thờ sống ngày đêm hương hoa vừa tỏ lòng nhớ nhung vừa tỏ lòng kính trọng, đúng đạo thờ chồng của cổ nhân ! Khi bà sinh ra người con trai út thì bày sôi gà làm lễ trước bàn thờ sống của ông bố xa xăm ngàn dặm! Được một tuổi cậu bé út họ Mạc bị bệnh sốt rét mê man bất tỉnh, hai ba ngày không ăn uống, thuốc thang vô ích… bà thiếp lo quá mới làm lễ cầu nguyện trước bàn thờ chồng, cầu mãi tới nửa đêm thì đứa bé tự nhiên trút cơn sốt, sáng ngày sau tỉnh táo khỏe lại. Từ đấy tiếng đồn Trạng Mạc linh ứng lan truyền khắp làng xóm, châu huyện, rồi lan ra cả nước. Nhiều người Hàn đến xin duệ hiệu ông Trạng Mạc về thờ… in hệt như ta thờ đức Thánh Quân, linh ứng hiển thánh kỳ diệu. Bà thiếp thường ở với người con trai út, sau bà vào chùa tu, thọ tới 93 tuổi. Dòng dõi Mạc Đĩnh Chi ở Hàn Quốc rất đa đinh, con trai cả sinh 12 con, con trai út đậu Cử Nhân, sinh 4 con, ngành thứ nẩy nở nhiều nhân tài, đời thứ 8 sinh ra một đại thi sĩ làm bài phú Con Rùa nổi tiếng, ví Cao Ly tuy tiến chậm nhưng tiến chắc, vua Tầu hậu thưởng 100 tấm lụa, mời sang Tầu làm quan, nhưng ông từ chối ! Người bút đàm với tác giả họ Lê, thuộc ngành cả, đa đinh nhưng không hiển đạt bằng ngành thứ. Riêng đền thờ Mạc Đĩnh Chi, nằm trên đường đi tới Chí Linh (ngã rẽ từ đường Hải Phòng lên Côn Sơn) nay chỉ còn di tích tấm bia đá, sau đền có ao nước lấp loáng ánh nắng, chúng tôi chưa tìm ra ngôi mộ khỉ là mả tổ đại phát của họ Mạc chắc cũng không xa đền thờ bao nhiêu. Đặc biệt trong đền thờ có tấm bảng dâng cúng của con cháu họ Mạc tại Nghệ Tĩnh, hỏi ra mới biết họ Mạc sau này tản mát, có nhóm chạy lên Cao Bằng và thượng du Bắc Việt, đổi họ ra họ Mao… hoặc nhiều họ khác như họ Phạm ở Nam Định, có chi chạy vào Thuận Hóa (một cô công chúa họ Mạc lấy chúa Sãi), có chi cùng với họ hàng đại thần nhà Mạc là Nguyễn Quyện… chạy vào Nghệ Tĩnh, chính dòng họ Nguyễn Du thuộc nhóm họ Nguyễn Quyện từ Thăng Long chạy vào (bố Nguyễn Quyện là Trạng Nguyên Nguyễn Thiến triều Mạc lại là dòng dõi Nguyễn Trãi, viễn tổ là Đại công thần Nguyễn Bặc đời Đinh Tiên Hoàng )… Gần đây người ta tìm ra cả thanh long đao của Mạc Đăng Dung ở Nam Định và đất phát tích của họ Mạc nằm ngay ở Khê Chanh, Quảng Yên. Các cuộc di cư trên đất Việt qua các thời đại tranh bá đồ vương cho thấy loạn lạc chiến tranh là động cơ chính chuyển hóa xã hội. Điểm cần điều chỉnh lại sử sách cũ là triều đại chính trên đất Việt từ 1527 tới 1592, suốt 65 năm, từ Bắc tới Thuận Hóa, là nhà Mạc. Lê Trịnh trung hưng vào năm 1543 chỉ quanh quẩn ở góc Thanh Hóa- Lào (có lẽ cũng không hơn đất Cao Bằng của nhà Mạc sau này khi mất Thăng Long, từ 1592 tới 1667, qua 4 đời vua, 75 năm). Cho Lê Trịnh lúc đó là Nam triều ngang với nhà Mạc ở thủ đô Thăng Long thì không hợp lý. Đất Cao Bằng thời xưa không thuộc hẳn Việt Nam, có thể là vùng thuộc quyền Trung Quốc, nên nhà Mạc chạy lên đấy, an toàn đựơc 75 năm, và sau này thời Tây Sơn lên, nhóm theo Lê Chiêu Thống cũng lẩn trốn nơi đây. Hạ Long Lê Văn Vịnh (Viết 1995-Cập nhật 10-2015)
|
|
|
Nha Ly
May 14, 2020 4:44:27 GMT 9
Post by Can Tho on May 14, 2020 4:44:27 GMT 9
Cuộc đời bi kịch của nữ Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam: Lý Chiêu hoàng 22/04/2020 www.yan.vn/cuoc-doi-bi-kich-cua-nu-hoang-de-dau-tien-cua-viet-nam-ly-chieu-hoang-227075.htmlĐược biết đến là nữ Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên cuộc đời Lý Chiêu Hoàng trải qua nhiều sóng gió, bi kịch kể cả sau khi từ biệt cõi đời. Nhìn lại cuộc đời Lý Chiêu Hoàng, bà bị ép giáng chức Hoàng hậu, nhiều lần xuống tóc đi tu, rồi kể cả khi xuất gia vẫn bị chồng cũ gả cho bầy tôi.
Chưa hết, cho đến lúc đã chết đi, người phụ nữ này vẫn bị mang tiếng là có tội với dòng họ Lý nên không được thờ chung với nơi thờ cúng tổ tiên.Nữ Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam: Lý Chiêu hoàng có cuộc đời đầy sóng gió. (Ảnh: Việt Sử Giai Thoại) Nữ Hoàng đế đầu tiên, lên ngôi lúc 7 tuổi
Thời nhà Lý được Thái tổ Lý Công Uẩn sáng lập từ năm 1009, tuy nhiên, trải qua nhiều thời kỳ hưng thịnh, đến thời vua Huệ Tông, quá trình thịnh trị đã không còn. Vua Lý Huệ Tông thời gian cuối đời chỉ ăn chơi, rượu chè nên dường như mọi quyền lực nằm trong tay Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ.
Bà là vị nữ Hoàng đế duy nhất, lên ngôi khi 7 tuổi. (Ảnh minh họa: Việt Sử Giai Thoại)
Sau đó, Lý Huệ Tông bị ép nhường ngôi cho con gái mới lên, chính là Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi. Chính sự kiện này đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Lý Chiêu Hoàng cũng như bắt đầu cho triều đại nhà Trần.
Theo như Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng.
Tháng 11 năm 1225, bà bị ép xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cũng kể từ đây, “cuộc hôn nhân chính trị” khiến triều đại nhà Lý rơi vào tay nhà Trần, Lý Chiêu Hoàng trở thành Hoàng hậu trẻ tuổi nhất lịch sử.
Chuỗi những bất hạnh của vị nữ Hoàng đế đầu tiên
Thời gian 10 năm chung sống với Trần Cảnh trôi qua êm ấm, hạnh phúc. Tuy nhiên, năm 1233, bà sinh ra Thái tử, nhưng đứa con lại chết ngay sau khi sinh không lâu. Đến năm 1237, so lo sợ huyết thống Hoàng gia bị đứt đoạn, Thuận Thiên công chúa được lập lên làm Hoàng hậu, còn Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Công chúa.
Đau khổ, buồn bã, Chiêu Thánh quyết định xuất giá đi tu. Thế nhưng đây chưa phải là nơi giúp bà giải thoát những bi kịch cuộc đời, đúng hơn, biến cố lớn xảy ra tại chính nơi này.
Bà được người đời đánh giá là vị Hoàng đế bất hạnh với nhiều bi kịch. (Ảnh minh họa: Nghiên cứu Lịch sử)
Năm 1258, Lê Phụ Trần vì có công cứu vua thoát chết nên để thưởng cho người này, Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh) đã giả Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần. Nhiều ghi chép sau này đã chê trách việc vua Trần Thái Tông mang vợ cũ gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi.
20 năm chung sống với Lê Phụ Trần, bà sinh được hai người con. Tuy nhiên, đến năm 1277, khi nghe tin chồng cũ là Thượng hoàng Thái Tông qua đời, sự dày vò của quá khứ khiến Chiêu Thánh mang tâm bệnh và tìm đến sự giải thoát bằng cách trẫm mình xuống nước ở độ tuổi 61.
Hiện nay đền thờ của bà hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. (Nguồn ảnh: Zing)
Mang nhiều bất hạnh từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi, thế nhưng bi kịch vẫn chưa buông tha Lý Chiêu Hoàng. Sau khi từ biệt cõi đời, bà được táng tại bìa rừng Báng, phía Tây Thọ Lăng Thiên Đức. Sở dĩ Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ, khi để mất nhà Lý.
Những bi kịch của vị nữ Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đến nay vẫn là những câu chuyện kéo dài. Thế nhưng, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ thấy những sóng gió, bất hạnh mà bà đã phải trải qua.
Các vị vua triều Lý
Lý Chiêu Hoàng với gần nửa năm ngồi trên ngôi vương cũng chính là vị Hoàng đế cuối cùng của Triều Lý. Tính từ đời vua đầu tiên, triều Lý có tất cả 9 vị Hoàng đế:
1. Lý Thái Tổ (1010 – 1028). Tên húy là Lý Công Uẩn
2. Lý Thái Tông (1028 – 1054). Tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính
3. Lý Thánh Tông (1054 – 1072). Tên húy là Nhật Tôn
4. Lý Nhân Tông (1072 – 1127). Tên húy là Càn Đức
5. Lý Thần Tông (1127 – 1138). Tên húy là Dương Hoán
6. Lý Anh Tông (1138 – 1175). Tên húy là Thiên Tộ
7. Lý Cao Tông (1175 – 1210). Tên húy là Long Trát
8. Lý Huệ Tông (1210 – 1224). Tên húy là Hạo Sảm
9. Lý Chiêu Hoàng (1224 – 1225). Tên húy là Phật Kim
|
|