|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 8:13:00 GMT 9
Tướng lãnh Trung Quốc là mối đe dọa Tuesday, October 12, 2010 Ngô Nhân Dụng Trung Quốc đã chịu lùi một bước, trước mặt 10 bộ trưởng quốc phòng Asean và 6 nước khác ở Hà Nội. Robert Gates, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ nhắc lại những lời Ngoại Trưởng Hillary Clinton đã nói hồi Tháng Bẩy vừa qua, cũng tại thủ đô Việt Nam. Lần này ông Gates nói mạnh hơn, cứng rắn hơn. Hồi Tháng Bẩy, các viên chức chính phủ và báo nhà nước ở Trung Quốc phản đối mạnh mẽ những ý kiến của bà Clinton. Nhưng Trung Quốc phải đáp lễ một cách ôn hòa. Quan điểm của Mỹ được ông Gates nhắc lại rất rõ ràng: “Hoa Kỳ luôn luôn sử dụng quyền (tự do lưu thông đường biển) của mình và bảo vệ quyền của các nước khác được thông thương và hoạt động trong hải phận quốc tế. Ðiều đó không thay đổi, cũng như sẽ không thay đổi các cam kết của chúng tôi về những hoạt động chung với các đồng minh và những nước cộng tác.” Những lời này, tuy không nói đến tên Trung Quốc, nhưng phản bác tất cả những điều mà Bắc Kinh đã nêu lên để chỉ trích bà Clinton, khi họ nói Mỹ là người ngoại cuộc muốn xen vào chuyện nội bộ của Á Châu. Robert Gates đã phát biểu trước mặt bộ trưởng quốc phòng các nước Ðông Nam Á và các quốc gia khác gồm Nga, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Nam Hàn, và Lương Quang Liệt, bộ trưởng Quốc Phòng Trung Quốc. Ngay sau đó, Lương Quang Liệt đã ngỏ lời mời Gates sang thăm Bắc Kinh vào năm tới. Ðầu năm 2010, Bắc Kinh đã bãi bỏ một cuộc thăm viếng của Gates và ngưng mọi liên lạc về quốc phòng với Mỹ, để phản đối việc Mỹ bán hơn 6 tỷ đô la vũ khí tối tân cho Ðài Loan. Bắc Kinh đã chịu thua trong cuộc đấu ngoại giao này, vì họ nhìn thấy các nước Ðông Nam Á đang phản ứng bất lợi vì mối lo sợ về mối đe dọa của nước cộng sản Trung Hoa. Từ khi Ðặng Tiểu Bình quyết định cải tổ kinh tế năm 1978, ông vẫn chủ trương thân thiện với ngoại bang, đặc biệt là các nước Á Ðông. Trung Quốc đã thành công khi ký được hiệp ước thương mại tự do với khối ASEAN, nhận tiền đầu tư từ Ðài Loan, Nhật Bản và Nam Hàn. Năm nay, tất cả các nước Ðông Nam Á đã đổi thái độ khi Bắc Kinh tuyên bố Nam Hải thuộc loại “quyền lợi cốt lõi” của họ - ngang tầm quan trọng với Ðài Loan và Tây Tạng. Nghĩa là coi vùng biển Ðông của nước ta cũng thuộc lãnh thổ của họ, mặc dù có nhiều quốc gia khác còn đang tranh tụng về chủ quyền trên các hòn đảo. Trong vùng quần đảo Trường Sa, có 29 đảo do Việt Nam, 8 đảo do Phi Luật Tân và 3 đảo do Mã Lai Á chiếm, nhiều đảo đủ lớn có thể xây phi trường; và Ðài Loan chiếm đảo Itu Aba lớn nhất, mặc dù Trung Quốc chỉ chiếm đóng 9 hòn đảo nhỏ nhưng họ lại biểu diễn lực lượng hải quân rất xa với khả năng đe dọa đánh đuổi các nước khác. Lời tuyên bố về “hạch tâm quyền lợi” trên không những làm các nước Ðông Nam Á phải lo đề phòng mà cả Nhật Bản, Nam Hàn, Úc, Mỹ đều coi là một mối đe dọa đối với con đường biển quốc tế này. Chính vì vậy, khi chính quyền Barack Obama bắt đầu tỏ ý bảo vệ quyền thông thương này, các nước Ðông Á đều hoan nghênh. Trước thái độ và phản ứng của khối ASEAN, đáng lẽ chính phủ Trung Quốc phải trấn an, tỏ ra mềm dẻo hơn để trấn an họ; nhưng Bắc Kinh đã làm ngược lại. Một biến cố khiến tất cả khối Ðông Nam Á thêm lo sợ về thái độ hung hăng của Bắc Kinh, là phản ứng dữ dội của họ sau khi Nhật Bản bắt một thuyền trưởng Trung Hoa vì tầu của ông này đâm vào hai tầu tuần duyên của Nhật, trong vùng đảo Sensaku mà người Trung Hoa gọi là Ðiếu Ngư Ðài, ngày 7 Tháng Chín. Năm 1978, Ðặng Tiểu Bình đã nói: “Hy vọng thế hệ tương lai sẽ khôn ngoan hơn chúng tôi để giải quyết vấn đề này.” Thế hệ Ôn Gia Bảo cũng chưa biết giải quyết vấn đề đảo Ðiếu Ngư ra sao nhưng nhân cơ hội này chứng tỏ họ rất cứng rắn. Ðây là một hòn đảo Nhật chiếm của Trung Quốc năm 1895 cùng lúc chiếm Ðài Loan. Năm 1945, Mỹ đã chiếm đóng sau khi đánh bại Nhật. Mỹ trả lại cho Nhật cùng với Okinawa, thay vì trả cho Ðài Loan, cho nên sinh tranh chấp. Trung Quốc đã ngưng mọi tiếp xúc ngoại giao, bãi bỏ cấp visa cho 1,000 sinh viên Nhật thăm Hội Chợ Thượng Hải, không bán một số kim loại hiếm cần cho kỹ nghệ điện tử. Nhật Bản lo nhất là Bắc Kinh có thể nhân ngày kỷ niệm Sự Biến Lư Cầu Kiểu, 18 tháng 9 năm 1931, khi quân Nhật khiêu khích để tiến đánh chiếm Mãn Châu, thanh niên Trung Quốc sẽ biểu tình chống Nhật khơi lại mối hận thù! Sau khi Nhật Bản chịu nhường, trả tự do cho viên thuyền trưởng Trung Hoa, một hậu quả bất ngờ là cuộc tranh chấp tay ba ở đảo Sensaku trở thành rắc rối hơn. Chính phủ Mỹ bỗng phải xác nhận rằng hiệp ước an ninh Mỹ Nhật bao gồm cả hòn đảo này, một điều trước đây vẫn để cho mập mờ ai muốn hiểu sao cũng được. Một hậu quả khác là vì Trung Quốc ngưng bán một số nguyên liệu cho Nhật để làm áp lực trong vụ Ðiếu Ngư Ðài, các công ty Nhật Bản lo đi đặt mua ở nước khác. Các nước Ðông Á bỗng nhiên cảm thấy mối đe dọa của Trung Quốc tăng cường độ, hậu quả là họ sẽ phải thân thiết với Mỹ hơn! Có thể nói Bắc Kinh rất vụng về, dại dột trong vụ Sensaku, làm cho các nước Á Ðông lo ngại và đề phòng. Rồi sau đó, Bắc Kinh lại tỏ ra rất nhún nhường, hòa hoãn với Mỹ và trấn an các nước khác trong cuộc gặp gỡ tại Hà Nội vào ngày hôm qua; khi Tướng Lương Quang Liệt nói rõ chính sách quốc phòng của Trung Quốc chỉ có tính chất phòng thủ, họ không nhắm thách thức hoặc đe dọa ai, và muốn tăng cường niềm tin cẩn của các nước khác. Từ Ðiếu Ngư Ðài, tới hội nghị ASEAN, ta thấy chính sách ngoại giao của Trung Quốc có vẻ lúng túng, không nhất quán. Nhưng cũng có thể nhìn theo cách khác để thấy là thật ra không phải giới lãnh đạo Trung Quốc đã dại dột, vụng về. Một lý do gây ra tình trạng lúc cứng quá, lúc mềm quá trên đây là vì trong nội bộ đảng cộng sản Trung Quốc đang có những tranh chấp ngấm ngầm. Phe quân đội trong chính quyền cộng sản đang tìm cách lấn áp phe dân sự, ngay cả trong diễn trình quyết định các vấn đề ngoại giao. Chính giới lãnh đạo quân sự ở Trung Quốc đang muốn tạo ra mối đe dọa cho các nước chung quanh, tác động trên tinh thần ái quốc của người dân, để gia tăng uy quyền của họ trong nội bộ, so với phe dân sự. Ðây là một thủ đoạn để các tướng lãnh tăng thêm ảnh hưởng, chuẩn bị cho việc sắp xếp các vai trò chủ chốt trong đảng Cộng Sản trong kỳ đại hội đảng vào năm 2012 sắp tới. Trong thời gian gần đây, giới tướng lãnh Trung Quốc xuất hiện rất nhiều trên các diễn đàn quốc tế, được báo chí nhắc nhở đến luôn luôn; vì họ lúc nào cũng có luận điệu rất diều hâu, nhân danh “quyền lợi dân tộc.” Ngày 24 Tháng Chín vừa qua, tại một hội nghị ở Singapore, khi một cựu nhân viên ngoại giao Nhật, ông Hitoshi Tanaka báo tin chính phủ Nhật sắp trả tự do cho viên thuyền trưởng trong vụ Ðiếu Ngư Ðài, trong khi các người tham dự đều vỗ tay, thì một vị tướng Tầu bày tỏ một thái độ thù hằn và đe dọa, sau khi cựu Ngoại Trưởng Ðường Gia Toàn tỏ thái độ ôn hòa. Tướng Chu Thành Hổ (Zhu Chenghu) giám đốc Nghiên cứu Chiến lược thuộc Ðại học Quốc phòng ở Bắc Kinh, đã đứng lên cảnh cáo chính phủ Nhật rằng đừng tưởng chỉ tuyên bố như vậy là đủ để xây dựng mối bang giao tốt đẹp giữa hai nước. Hành động của Tướng Chu Thành Hồ làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng đó không phải là lần đầu tiên. Vào Tháng Năm vừa qua, khi tiếp đón một phái đoàn viên chức ngoại giao Mỹ, Phó Ðề Ðốc Quan Hữu Phi (Guan Youfei, người Trung Quốc gọi là thiếu tướng Hải Quân) đã lớn tiếng cảnh cáo nước Mỹ đang có hành động bá quyền và coi Trung Quốc là thù địch; câu nói của ông khiến các nhà ngoại giao Trung Quốc có mặt đều bối rối. Ông Quan Hữu Phi cũng có mặt trong phái đoàn Trung Quốc tại hội nghị tại Hà Nội tuần này. Vào Tháng Sáu, Tướng Chu Thành Hồ cùng tướng Mã Hiểu Thiên (Ma Xiaotian), phó tổng tham mưu quân đội Trung Quốc là những người đứng lên chỉ trích ông Robert Gates tại một hội nghị ở Singapore, về vụ Mỹ bán máy bay và hỏa tiễn cho Ðài Loan. Ông Chu Thành Hồ đã từng bị cấp trên phê bình nặng vào năm 2005, sau khi ông tuyên bố với nhà báo rằng bom nguyên tử của Trung Quốc có khả năng tiêu diệt hàng trăm thành phố ở Mỹ, nếu Mỹ can thiệp vào việc giải phóng Ðài Loan! Nhưng tới nay, ông vẫn tiếp tục xuất hiện trong các diễn đàn quốc tế, khiến các nhà ngoại giao dân sự Trung Quốc phải bối rối, không biết ai là người quyết định chính sách ngoại giao. Trên các diễn đàn quốc nội, các vị tướng lãnh Trung Quốc còn mạnh miệng hơn nữa. Tướng Trương Triệu Ngân (Zhang Zhaoyin), viết trong nhật báo Quân Ðội Nhân Dân là Trung Quốc phải từ bỏ chủ trương lỗi thời là xây dựng một quân lực cho thời bình. Ông nói, nhiệm vụ chủ yếu của quân đội là “chuẩn bị chiến tranh, chiến đấu và thắng trận.” Ông là phó tư lệnh khu quân sự Thành Ðô, tỉnh Tứ Xuyên. Trung Tướng Kim Nhất Nam (Jin Yinan), phó giám đốc Nghiên Cứu Chiến Lược trong Ðại Học Quốc Phòng đã nêu lên chủ trương là Trung Quốc phải là một quốc gia vĩ đại, và “khi một quốc gia và một dân tộc bước vào một giai đoạn khẩn trương, quân đội luôn luôn đóng vai trò chủ yếu” để đạt được mục tiêu của mình. Một giáo sư khác tại Ðại Học Quốc Phòng là Phó Ðề Ðốc Dương Nghị (Yang Yi), ông từng viết: “Một quân đội hùng mạnh là điều quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi quốc gia... Hải Quân Trung Quốc là lực lượng mạnh nhất để ngăn không cho các nước khác xâm phạm quyền lợi hàng hải của Trung Quốc.” Ông Dương Nghị cũng cảnh cáo các nước khác, không nêu rõ tên, là họ không nên lầm tưởng rằng Trung Quốc sẽ không dám dùng vũ lực chỉ vì muốn phát triển kinh tế một cách hòa bình. Ông nói hiểu lầm như vậy là rất nguy hiểm! Ông cũng từng nói Nhật Bản và Nga không có khả năng nhưng nước Mỹ là nước duy nhất đe dọa an ninh của Trung Quốc. Một luận điệu đáng sợ nhất của giới tướng lãnh Trung Quốc là quan niệm về “biên cương quyền lợi quốc gia” mà một nhà bình luận trên nhật báo Quân Ðội Nhân Dân ở Bắc Kinh nêu lên. Ông Hoàng Côn Luân (Huang Kunlun) đã viết rằng quyền lợi của Trung Quốc vượt ra ngoài lãnh thổ, hải phận của họ, mà phải bao gồm cả những vùng biển mà tầu thủy Trung Quốc lưu thông, cũng như trong không gian. “Với sứ mạng lịch sử của chúng ta, quân đội Trung Quốc không những phải bảo vệ lãnh thổ mà còn phải bảo vệ ‘biên cương quyền lợi’ của nước mình.” Nói như vậy là bành trướng nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của quân đội Trung Quốc lên gấp bội, không khác gì ông Robert Gates nói về nhiệm vụ của quân đội Mỹ! Chính quan niệm “biên cương quyền lợi” này đưa tới việc coi Biển Ðông của Việt Nam là vùng quyền lợi cốt lõi của người Trung Hoa. Với những vị tướng hay lớn tiếng như trên, giới quân sự Trung Hoa đang lấn quyền các người lãnh đạo dân sự. Không những họ thường xuất hiện trên hệ thống truyền thông của nhà nước, mà họ còn viết sách bán rất chạy, khi bàn về các vấn đề quyền lợi quốc gia! Hiện nay trong guồng máy quyền lực Trung Quốc, bộ phận nắm quyền rất lớn là Quân Ủy Trung Ương. Mà trong số 11 người thuộc hội đồng này chỉ có một người dân sự là Chủ Tịch Hồ Cẩm Ðào. Trong tuần này, ông Tập Cận Ðình sẽ được bầu làm phó chủ tịch quân ủy, để chuẩn bị cho ông thay thế Hồ Cẩm Ðào vào năm 2012. Giới lãnh đạo dân sự mải lo các vấn đề kinh tế, xã hội, cho nên không đủ thời giờ và mưu trí mà đặt giới quân nhân vào khuôn khổ, như giới tướng lãnh Mỹ vẫn phải nằm dưới sự chỉ huy của các nhà lãnh đạo chính trị dân sự. Cho nên, mối đe dọa lớn nhất đối với vùng Ðông Nam Á không phải là tất cả guồng máy chính trị của đảng cộng sản Trung Quốc mà chính là giới tướng lãnh của nước này. Theo nhật báo Wall Street, trong Tháng Chín năm 2010, chính các tướng lãnh Trung Quốc đã yêu cầu giới lãnh đạo phải điều động hải quân để đe dọa Nhật Bản trong vụ Ðiếu Ngư Ðài, và họ cũng đề nghị Bắc Kinh hãy đẩy đồng Yen của Nhật lên cao để ảnh hưởng trên việc xuất cảng của Nhật. Khi Bắc Kinh đứng ra mua mấy tỷ công trái của chính phủ Nhật, đồng Yen đã lên giá, sau đó bộ trưởng Tài Chánh Nhật phải chính chức đặt câu hỏi Trung Quốc có ý đồ gì khi đem đô la mua Yen, cho nước Nhật vay nợ một cách hào phóng như vậy? Lập tức, chính phủ Nhật đã in thêm đồng Yen để đi mua đô la Mỹ, giảm giá đồng tiền của họ xuống! Nếu các tướng lãnh gây được ảnh hưởng trên chính sách ngoại giao của Bắc Kinh, thì đó là một mốt đe dọa cho cả vùng Châu Á. Họ có thể thay đổi đường lối ngoại giao từ hòa hoãn sang gây hấn; đặc biệt là đối với một nước nhỏ lân bang như Việt Nam thì từ gây hấn có thể chuyển tới hành động xâm lăng!
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 9:34:45 GMT 9
Phỏng vấn Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Chủ tịch Hội Ðồng Ðại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCHWednesday, October 06, 2010
Chống cường quốc, cần có cường quốcÐinh Quang Anh Thái/Người Việt Hai ngày cuối tuần qua, Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa họp đại hội bất thường để sửa đổi Ðiều Lệ Hiện Hành và để bầu các chức vụ mới hoặc đang khiếm khuyết của tổ chức. Cựu Phó Ðề Ðốc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Hồ Văn Kỳ Thoại. (Hình: Tư liệu Người Việt) Kết quả đại hội, cựu phó đề đốc Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, ông Hồ Văn Kỳ Thoại, được tín nhiệm vào chức chủ tịch Hội Ðồng Ðại Diện, thay thế Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh xin từ nhiệm vì lý do sức khỏe. Nhân dịp này, ông Hồ Văn Kỳ Thoại dành cho Người Việt cuộc phỏng vấn sau đây. ÐQAThái (NV): Kính mừng ông trong trách vụ tân chủ tịch Hội Ðồng Ðại Diện của Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Trước hết, về cách xưng hô, báo Người Việt chúng tôi có thể nói chuyện và gọi ông là phó đề đốc được không? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Anh xưng hô như thế nào cũng được, tôi quan niệm cấp bực hay quân binh chủng chỉ để nhận diện chứ không tượng trưng uy quyền trong lúc này. NV: Tướng Nguyễn Khắc Bình phát biểu hôm đại hội của Tập Thể, rằng nỗ lực của Tập Thể là liên lạc và kết hợp để cùng xây dựng đất nước. Xin phó đề đốc cho biết, là đất nước nào? Những người đang cầm quyền tại Việt Nam hiện nay cũng kêu gọi người hải ngoại cùng góp phần xây dựng đất nước, nhưng theo quan điểm và dưới sự lãnh đạo của họ. Ông nghĩ sao? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Những mục tiêu của Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa mà Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình nói đã khá đầy đủ, tôi không có gì cần nói thêm. Về chữ “đất nước,” lẽ dĩ nhiên là đất nước Việt Nam, tuy nhiên ngày nào đất nước còn sống dưới chế độ độc tài thì Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thể hợp tác hoặc phục vụ dưới chế độ đó, vì tập thể chúng tôi yểm trợ đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của Việt Nam. NV: Ðại hội kỳ này là đại hội bất thường, và còn bất thường khi có sự xuất hiện của cựu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm; ông có thể giải thích cho biết hai điều “bất thường” này? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Bất thường thứ nhứt là để bầu cử tân chủ tịch thay thế Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh từ nhiệm vì lý do sức khỏe. Bất thường thứ hai là đại hội này có ý mời Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là vì ông là một cựu đại tướng, là một cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và cũng là một cựu tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để làm diễn giả chính của đại hội. Ðại Tướng Khiêm vui vẻ nhận lời vì ông cho đây là dịp ông gặp gỡ lại các chiến hữu mà ông đã từng gặp ở khắp các chiến trường trên đất nước và ông muốn ngỏ lời hỏi thăm các cô nhi quả phụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. NV: Ngay trước mắt, và với kinh nghiệm của người đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình cho việc bảo vệ tổ quốc, ông có nghĩ rằng Tổ quốc Việt Nam hiện nay đang lâm nguy hay không? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Từ cuối năm 2007, trong dịp ra mắt quyển sách “Can Trường Trong Chiến Bại,” tôi đã được nhiều đài truyền thanh và truyền hình hỏi câu tương tự, và tôi đã trả lời là tôi cho việc các hải đảo của Việt Nam bị cưỡng chiếm thì ít mà tôi lo ngại rất nhiều cho toàn thể lãnh thổ quê hương Việt Nam. NV: Nếu có người cộng sản công khai hoặc kín đáo liên lạc với ông và nhiều vị chỉ huy khác trong tập thể chiến sĩ để hỏi ý kiến về phương cách bảo vệ chủ quyền của lãnh thổ, trên đất liền và ngoài biển, trước sự bành trướng của Trung Cộng, thì bản thân ông sẽ trả lời ra sao? Và sẽ khuyên các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa trả lời như thế nào? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Nội quy của Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa không cho phép một cá nhân nào liên lạc công khai hay kín với chế độ hiện tại ở Việt Nam. NV: Câu hỏi cuối, thưa phó đề đốc, khi thấy Hoa Kỳ đang trợ giúp và huấn luyện một số quân nhân trong quân đội của Hà Nội ngày nay, ông có cảm nghĩ gì? Và nếu có cơ hội, liệu ông muốn nói hoặc có lời khuyên gì với các quân nhân này? Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Nếu Hoa Kỳ giúp đỡ Việt Nam về phương diện quân sự để chống ngoại xâm và bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ Việt Nam thì đó là một hành động rất đáng mừng vì nhiệm vụ của quân đội của một quốc gia là chống ngoại xâm. Mà nếu ngoại xâm xuất phát từ một cường quốc thì sự yểm trợ cần đến từ một cường quốc khác. Trách vụ khuyên nhủ những quân nhân hiện nay tại Việt Nam là trách vụ của nhà cầm quyền hiện nay. NV: Cám ơn phó đề đốc đã dành thì giờ trả lời báo Người Việt.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 5, 2010 8:22:12 GMT 9
Hồ Cẩm Đào 'giúp' Lưu Hiểu Ba đoạt giải Nobel Hòa bìnhVietsciences-Duy Ái * VOA Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã giúp cho nhà văn Lưu Hiểu Ba đoạt giải Nobel Hòa bình 2010! Ông Thiết Lưu, một ký giả lão thành nổi tiếng ở Trung Quốc, đã cho biết như thế trong lúc trình bày về việc ông ký tên vào một lá thư công khai để đòi hỏi chính phủ ở Bắc Kinh chấm dứt chế độ kiểm duyệt báo chí và tôn trọng quyền tự do ngôn luận và các quyền cơ bản khác của người dân. Mời quí vị theo dõi một số chi tiết về việc này trong tiết mục Nhìn Về Á Châu do Duy Ái phụ trách. Duy Ái - VOA | Washington D.C Thứ Năm, 14 tháng 10 2010 Ông Lưu Hiểu Ba đang thụ án tù 11 năm trong một nhà tù ở Trung Quốc Hình: AP Ông Lưu Hiểu Ba đang thụ án tù 11 năm trong một nhà tù ở Trung Quốc Hôm thứ Ba vừa qua, trong lúc nhiều người trên thế giới tiếp tục bàn tán về việc nhà văn Lưu Hiểu Ba đoạt giải Nobel Hòa bình, 23 nhân vật nổi tiếng trong giới trí thức và giới truyền thông Trung Quốc đã công bố một lá thư đòi chính phủ ở Bắc Kinh ngưng kiểm duyệt báo chí và tôn trọng quyền tự do ngôn luận của người dân. Bức thư gởi cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc nói rằng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do biểu tình – được qui định rõ trong điều 35 của Hiến pháp 1982, đã không ngớt bị chà đạp và điều này đã trở thành “một vụ tai tiếng trong lịch sử dân chủ thế giới.” Thư này còn than phiền rằng quyền tự do mà người dân Trung Quốc được hưởng hiện nay – hơn 60 năm sau khi “làm chủ đất nước”, còn thua xa các quyền mà người dân thuộc địa Hồng Kông được hưởng trước khi nước Anh giao hoàn phần đất này cho Trung Quốc. Nhà báo lão thành Thiết Lưu là một trong những người ký tên vào lá thư này. Ông cho biết như sau về tình hình của giới truyền thông Trung Quốc hiện nay. Ông Thiết Lưu nói: "Báo chí ở nước tôi từ trước tới nay không hề được khai phóng mà chỉ đóng vai trò 'cái miệng' của Đảng. Lẽ ra báo chí phải là 'cặp mắt' của nhân dân, nhưng bây giờ lại trở thành cái miệng của Đảng. Bởi vậy cho nên tường thuật của báo chí rất đỗi thiên lệch. Trong những năm gần đây báo chí còn xuống cấp tới độ chẳng những không xứng đáng là cái miệng của Đảng mà chỉ còn là người phát ngôn của những nhóm đặc quyền đặc lợi." Ông Thiết Lưu cho biết trong số 23 người ký tên vào lá thư công khai này có đến 60% là những người từng hoạt động trong ngành truyền thông báo chí và nắm giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng và Chính phủ, như ông Lý Nhuệ, cựu Phó Bộ trưởng Bộ tổ chức Trung ương và từng làm thư ký cho ông Mao Trạch Đông; ông Hồ Tích Vĩ, cựu chủ nhiệm của tờ Nhân dân Nhật báo; ông Vu Hữu, cựu tổng biên tập báo Nhân dân; và ông Lý Phổ, cựu Phó giám đốc Tân Hoa Xã. Ông Thiết Lưu nói thêm rằng 90% những người ký tên là đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc và nhiều người có tuổi đảng còn cao hơn tuổi đời của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Khi được hỏi về việc nhà văn Lưu Hiểu Ba vừa đoạt được giải Nobel Hòa bình 2010 trong lúc thọ án tù 11 năm vì tham gia soạn thảo Hiến Chương 08 để kêu gọi cải cách dân chủ, nhà báo Thiết Lưu cho biết rằng diễn tiến này đã nêu bật tệ nạn đàn áp tự do ngôn luận ở Trung Quốc. Ông Thiết Lưu nói: "Theo tôi thì vụ việc liên quan tới ông Lưu Hiểu Ba là một vấn đề về tự do ngôn luận. Có thể nói rằng giải Nobel Hòa bình của ông Lưu không phải là do Ủy ban Nobel trao tặng mà do chính ông Hồ Cẩm Đào trao tặng. Ông Lưu chỉ viết Hiến chương 08, hành sử quyền tự do ngôn luận của mình, mà lại bị tuyên án tù! Cớ sao chính phủ lại bỏ tù ông ấy? Chính phủ làm như vậy là tự hại lấy mình, vì rốt cuộc không phải là người khác muốn lật đổ chính phủ mà chính bản thân chính phủ tự chuốc lấy cái sự nhục nhã cho mình." Lá thư công khai đã mạnh mẽ chỉ trích Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà họ gọi là “hắc thủ” -- hay “thủ phạm giấu mặt”, của những hành vi đứng trên pháp luật để chà đạp quyền tư do báo chí. Thư này đặc biệt bày tỏ bất mãn trước sự kiện là những phát biểu hồi gần đây của Thủ tướng Ôn Gia Bảo về cải cách chính trị cũng bị “hắc thủ” kiểm duyệt và cắt xén. Nhà văn Thiết Lưu cho biết tính đến ngày thứ tư (13 tháng 10), lá thư đòi tự do ngôn luận đã được gần 470 người ký tên ủng hộ, mặc dù giới hữu trách Trung Quốc đã nhanh chóng ngăn chận việc phổ biến lá thư trên mạng internet. Ông Lý Đại Đồng, một nhà bình luận nổi tiếng của tờ Thanh niên Trung Quốc, cho biết rằng tuy ông chưa có cơ hội tham gia ký tên nhưng ông hoàn toàn ủng hộ những quan điểm của thư này. Ông Lý nói: "Lá thư hô hào này đã viết rất rõ ràng. Đó là cần phải thực thi những điều khoản trong hiến pháp. Không thể tiếp tục để cho hiến pháp của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa tiếp tục là một văn bản sáo rỗng. Đảng Cộng Sản Trung Quốc lên nắm chính quyền đã 60 năm rồi mà tới nay vẫn chưa thể hiện lời hứa với nhân dân về tự do báo chí, tự do ngôn luận!" Các nhà quan sát tình hình Trung Quốc cho biết chính phủ ở Bắc Kinh tiếp tục phong tỏa những tin tức liên quan tới việc nhà văn Lưu Hiểu Ba đoạt giải Nobel, ngoại trừ một số ít bài viết chỉ trích ủy ban Nobel và chính phủ Na Uy. Tiến Sĩ Trình Lập, một nhà nghiên cứu người Trung Quốc làm việc cho Viện Brookings ở Washington, cho rằng việc ông Lưu Hiểu Ba đoạt giải có thể mang lại một tác động tích cực cho những nỗ lực tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở Trung Quốc. Tiến Sĩ Trình Lập cho biết: "Người dân Trung Quốc thường đánh giá cao giải thưởng Nobel, bất kể là Nobel Hòa bình hay Nobel khoa học. Diễn tiến này chắc chắn là một yếu tố khiến cho người dân Trung Quốc, thậm chí cả những nhà lãnh đạo Trung Quốc, suy nghĩ lại vai trò của Trung Quốc trong thế giới ngày nay. Nghĩ về việc làm thế nào để gia nhập với thế giới thay vì tách khỏi sự phát triển toàn cầu." Trong khi đó, một nhà báo bất đồng chính kiến ở Trung Quốc, bà Đới Tình, cho biết rằng giải Nobel Hòa bình lọt vào tay ông Lưu Hiểu Ba làm cho giới tranh đấu dân chủ ở Trung Quốc cảm thấy phấn chấn. Bà cho biết như sau trong cuộc phỏng vấn mới đây dành cho đài VOA. Bà Ðới Tình nói: "Giải thưởng này không phải chỉ trao cho một mình ông ấy. Ủy ban Nobel ở Na Uy đã nói rất rõ. Họ nói ông Lưu Hiểu Ba là một biểu tượng. Điều này cũng có nghĩa là ở Trung Quốc có đến hàng ngàn hàng vạn người đã ra sức tranh đấu trong cương vị của mình. Tình cảnh của những người đó có thể còn khổ sở, còn nguy hiểm hơn tình cảnh của ông Lưu Hiểu Ba. Những việc mà họ làm còn gian khổ hơn nhiều. Nhưng mà chỉ cần một người được trao giải là đủ. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy ông Lưu Hiểu Ba được trao giải." Tường thuật hôm thứ Tư của hãng tin Bloomberg trích lời ông Hoàng Kinh, giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Quốc gia Singapore, nói rằng lá thư đòi tự do ngôn luận được công bố hai ngày trước phiên họp của ủy ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc phản ánh một cuộc tranh luận nội bộ về tương lai của kế hoạch cải cách chính trị. Ông Hoàng nói thêm rằng điều này cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy phe cải cách đang ở thế hạ phong sau khi ông Lưu Hiểu Ba đoạt được giải Nobel
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 7:50:06 GMT 9
Trung Quốc lại bị Triều Tiên chơi cho một cú! Trước chú em Triều Tiên ngang bướng xấu chơi, ông anh cả Trung Quốc đã nhiều lần gặp chuyện rắc rối khó xử, trong lần nã pháo vừa xảy ra, Trung Quốc lại bị chơi một cú.Mọi người đều biết, ngoại giao Triều Tiên xưa nay không bao giờ theo lý lẽ thông thuờng, một Triều Tiên nhỏ bé làm sao lại dám to gan đến như vậy? Đó là vì họ đã lôi thành công ông anh cả Trung Quốc lên ngồi cùng thuyền mình. Triều Tiên là sân sau của Trung Quốc. Trung Quốc không muốn sân sau của mình cháy lớn. Nhà họ Kim đã nhìn đúng điều đó cho nên đã ra sức buộc chặt mình vào với Trung Quốc, thỉnh thoảng lại giở trò lưu manh gây ra chuyện nọ chuyện kia, sự kiện đâm thuyền với Hàn quốc xảy ra chưa lâu, đã lại ngang nhiên nã pháo. Lần này lão Kim béo chơi trò “gậy ông đập lưng ông”, truớc tiên ra sức xích gần lại ông anh thể hiện “tình hữu nghị do máu tuơi kết thành” bao gồm hai lần hắn dẫn đoàn đại biểu cấp cao tới thăm Trung Quốc và mấy lần mời đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc tới thăm Triều Tiên. Người ta không thể không khâm phục tài trí chú em Triều Tiên vì không ai ngờ đó đều là những tính toán từ trước của lão Kim béo mà trong đó Trung Quốc chỉ là một quân cờ của hắn. Lão Kim béo bất chấp sự quan tâm chú ý của Trung Quốc và thế giới đối với nền hoà bình và an ninh của bán đảo Triều Tiên, bất chấp thể diện của anh cả Trung Quốc, ngang nhiên khiêu chiến quân sự với Hàn Quốc đã cho anh cả xơi một cái bạt tai thật kêu, mất hết thể diện trên thế giới. Ở đây không thể không nhắc lại trò lật lọng của Triều Tiên trên vấn đề hạt nhân, gồm cả việc lần này để lộ đã có 2000 máy ly tâm, Triều tiên bạt tai anh cả bên trái một cái rồi lại bên phải một cái mà anh cả vẫn phải nghe theo! Mọi người cần biết, hậu quả cuối cùng của việc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân sẽ là gì? Nếu Triều Tiên có vũ khí hạt nhân thì tất nhiên Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có lý do để phát triển vũ khí hạt nhân. Nhật Bản, Hàn Quốc sở dĩ chưa thể phát triển vũ khí hạt nhân là vì bị Mỹ kiềm chế đồng thời cung cấp sự bảo vệ. Một khi Triều Tiên hạt nhân hoá, Mỹ muốn khống chế cũng khó. Có ngưòi nói, chỉ cần một đêm là Nhật Bản có thể làm xong hàng ngàn quả bom hạt nhân mà Trung Quốc hiện nay mới có 50-60 quả, muốn thu hồi đảo Điếu Ngư (Senkaku) sẽ càng khó. Hơn nữa nhiều nước Đông Nam Á, thậm chí cả Đài Loan cũng bắt chước làm theo, như thế Trung Quốc sẽ lâm vào thế bị bao vây hạt nhân. Các nước Việt Nam, Philippine, Malaixia, Indonesia v.v. có còn coi Trung Quốc ra gì nữa không? Phiền phức của Trung Quốc tại Biển Đông càng lớn hơn… Càng nguy hiểm hơn là, xuất khẩu của Triều Tiên chủ yếu dựa vào vũ khí, việc Triều Tiên đã xuất tên lửa cho Iran.., giúp Iran, Myanma tự phát triển vũ khí hạt hạt nhân của mình đã không còn là điều bí mật… Nếu bọn khủng bố Bin Laden, Taliban.. có đựoc những cái đó từ Triều Tiên, rồi phong trào Tây Tạng độc lâp, Tân Cương độc lập cũng có thì sự tình sẽ ra sao? Chính vì vậy mà Trung Quốc ra sức chủ trưong phi hạt nhân bán đảo Triều Tiên. Thế nhưng xưa nay Triều Tiên không hề coi anh cả ra gì, muốn chơi trò gì thì chơi, mà với chú em Triều Tiên ngoan cố chơi xấu đó, ông anh cả lại thường không quyết đoán khiến mình càng ngày càng bị động khó xử. Vấn đề hạt nhân Triều Tiên đã liên quan tới lợi ích cốt lõi của Trung Quốc rồi, không thể để nguời túm mũi lôi đi, khi cần phải có biện pháp quả đoán của kẻ tráng sĩ dứt áo lên đường. P.N (lược thuật)
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 18, 2011 4:13:01 GMT 9
“TÚI KHÔN DÂN TỘC”
bác bỏ hoàn toàn Cương Lĩnh của Bộ Chính Trị.
*Bùi Tín
VOA Cập nhật Thứ Hai, 15 tháng 11 2010 RSS
Đây là một tin cực kỳ hệ trọng. Một tin động trời, có thể nói trời nghiêng đất ngả cho thế lực cường quyền. Sự kiện như thế này chưa từng có trong lịch sử 70 năm của đảng Cộng sản Việt Nam. Tác động của sự kiện này chưa thể lường hết được.
Ngày 7-10-2010 vừa qua tại Hà Nội hơn 20 trí thức hàng đầu của thủ đô, đều là đảng viên cộng sản kỳ cựu, hơn nữa đều là đảng viên cấp cao, do Bộ chính trị quản lý, đã tụ tập trong một cuộc hội thảo khoa học rất lý thú.
Danh nghĩa của cuộc họp là do Hội khoa học kinh tế Việt Nam và Trung tâm thông tin, dự báo kinh tế - xã hội quốc gia cùng phối hợp tổ chức, nhằm «góp ý cho các Dự thảo văn kiện Đại hội XI của đảng Cộng sản». Các dự thảo chính là Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương, Cương lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược kinh tế - xã hội 2010-2020, thường gọi tắt là Báo cáo chính trị, Cương lĩnh và Chiến lược, mà quan trọng nhất là Cương lĩnh.
Xin kể một vài tên tuổi và chức vụ của những người tham dự. Có Giáo sư Trần Phương, nguyên Ủy viên trung ương đảng, Phó thủ tướng ; ông Vũ Khoan, nguyên Bí thư Trung ương đảng, Phó thủ tướng; Phó giáo sư Trần Đình Thiên, hiện là Viện trưởng Viện kinh tế; Giáo sư Phan Văn Tiệm, nguyên thứ trưởng bộ Tài chính; ông Việt Phương, nguyên Cố vấn của Thủ tướng; Giáo sư Đào Xuân Sâm, dạy môn quản lý kinh tế tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc; bà Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn kinh tế của thủ tướng; bà Dương Thu Hương, nguyên phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Phó giáo sư Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế thế giới; ông Nguyễn Trung, từng là đại sứ ở Thái Lan; ông Vũ Quốc Tuấn, cố vấn chính trị - kinh tế của thủ tướng; Tiến sỹ Lê Đăng Doanh; Tiến sỹ Nguyễn Mại; Giáo sư Lê Du Phong; Giáo sư Nguyễn Đình Hương; Tiến sỹ Lưu Bích Hổ; Giáo sư Vũ Huy Từ; Giáo sư Đào Công Tiến…
Suốt 9 tiếng đồng hồ, hơn 20 vị phát biểu ngắn gọn, súc tích, mỗi lần chỉ 10 phút, được ghi âm và ghi vào biên bản, nhằm chuyển cho Ban dự thảo các văn kiện. Trưởng ban dự thảo mỗi văn kiện là Tổng bí thư hay một ủy viên Bộ chính trị, đều không có mặt...
Các vị trí thức đảng viên cấp cao trên đây có thể coi là một mảng tinh hoa của đảng cộng sản, được đảng tuyển lựa, học hành bài bản, nói chung giỏi ngoại ngữ Pháp, Anh, Nga, Trung Hoa … có kinh nghiệm cầm quyền. Họ có thái độ khoa học khách quan, vô tư, phần lớn đã nghỉ hưu, đang hoạt động tự do, có tư duy độc lập, nói chung không dính dáng với các nhóm thân hữu, cánh hẩu, các nhóm lợi ích riêng, tham nhũng, tệ hại trong nền kinh tế phe phái (crony economy) như các chuyên gia của Đại học Harvard Hoa Kỳ tại Việt Nam phát hiện và đặt tên.
Các nhân vật trên đây, theo tôi, có thể gọi là một «think tank» mới mẻ, một «túi khôn» đặc sắc, quý báu của dân tộc, vì rõ ràng qua từng lời phát biểu có trách nhiệm, họ tỏ ra gắn bó với nhân dân, với dân tộc, không theo đuôi, không sợ hãi, không ham danh vọng tiền tài, những điều cực kỳ quý hiếm khi toàn đảng sa sút, mất uy tín, khi xã hội băng hoại khủng khiếp do nạn độc đảng, độc đoán dai dẳng gây nên.
Họ đã nói, đã góp ý kiến những gì? Xin mời các bạn mở mạng Viet- Studies để đọc nguyên văn 9 trang biên bản ghi ý kiến từng người. Cực kỳ sinh động, lý thú, mở mang hiểu biết cho người đọc.
Tôi xin tóm lược trung thực gọn ghẽ như sau.
Một nét chung là cả hơn 20 vị đều tỏ ra có tư duy độc lập, suy nghĩ kỹ lưỡng bằng cái đầu tỉnh táo riêng của chính mình, nhưng lại đạt đến sự đồng thuận đến kỳ lạ. Mỗi vị phát biểu sau đều nói lên sự đồng ý sâu sắc với những ý kiến phát biểu trước, chỉ nói thêm những điều mới mẻ hay nhấn mạnh thêm, bổ sung thêm ý của người phát biểu trước. Không có ý nghĩ, quan điểm nào trái nhau giữa hơn 20 vị tham dự hội thảo.
Nét nổi bật thứ 2 là hầu hết những đường lối, chính sách then chốt, chủ yếu nhất trong Cương lĩnh và Chiến lược do Bộ chính trị hiện tại và Ban chấp hành trung ương đương nhiệm thông qua trong những kỳ họp 11 và 12 khóa X đều bị bác bỏ và phê phán rât thẳng thắn, đúng mức. Tất cả đều cho rằng đường lối «kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin» là sai lầm, giả dối, nguy hiểm vì Mác mắc nhiều sai lầm cơ bản (như cổ súy cực đoan đấu tranh giai cấp, căm thù quyền tư hữu, tiêu diệt sở hữu cá nhân, thổi phòng một cách cực đoan sở hữu nhà nước), do đó đã phá sản hoàn toàn ở Đông Âu, Liên Xô, và tàn phá nền kinh tế các nước XHCN, trong đó có Việt Nam.
Tất cả đều cho rằng đường lối «kiên định chủ nghĩa xã hội» cũng là sai lầm, giả dối vì chủ nghĩa xã hội hiện thực từng áp dụng ở hơn một chục nước (ở Việt Nam từ 1960 đến nay) đều thất bại, phá sản hiển nhiên. Còn chủ nghĩa xã hội trước mắt và tương lai, gắn liền với kinh tế thị trường, thì chưa ai hình dung ra sao, làm sao mà thực hiện được. Đây là một quan điểm ảo tưởng, viển vông, lừa dối, không khoa học.
Còn mục tiêu xây dựng một xã hội Dân chủ, Bình đẳng, Hiện đại, Văn minh chỉ là nói suông, là bánh vẽ, nhằm lừa dối nhân dân và tự lừa dối mình, vì kèm theo không có những biện pháp hiện thực để thực hiện. Đặc biệt khái niệm dân chủ - dân chủ trong xã hội và dân chủ trong đảng - là vấn đề then chốt nhất, cần thực hiện cụ thể rõ ràng thì lại không có biện pháp thiết thực.
Tất cả các vị tham gia hội thảo đều nhất trí cho rằng vấn đề chính trị lớn nhất, cơ bản và cấp bách nhất là đổi mới hệ thống chính trị, là thay đổi cơ chế lãnh đạo của đảng và nhà nước, vì tổ chức hệ thống cai trị, cầm quyền hiện nay quá cũ kỹ, không hợp lý, không hợp pháp, vai trò của Quốc hội được xác định trong Hiến pháp là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước nhưng thực tế lại không có thực quyền, việc gì cũng phải chờ quyết định của «Thường vụ Bộ chính trị», mà nhóm người này bao biện, ôm đồm, trình độ kém, không do dân cử, không có quyền gì theo Hiến pháp hay pháp luật.
Về kinh tế, có rất nhiều ý kiến mạnh bạo mới mẻ. Tất cả các vị đều cho rằng quan điểm coi hình thức «sở hữu quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế » là sai lầm lớn, nguy hiểm, tai hại, trái với quan điểm bình đẳng trước pháp luật giữa mọi hình thức sở hữu. Sự phá sản, lỗ nặng của biết bao tổng công ty, tập đoàn kinh tế quốc doanh chưa đủ để mở mắt những người viết dự thảo hay sao?
Việc các bộ từ bỏ vai trò đề ra và quản lý việc thực hiện chính sách, lại chỉ chăm lo làm cái việc điều hành các tổng công ty quốc doanh là một lệch lạc tệ hại nguy hiểm.
Việc hạn chế trên thực tế hoạt động kinh doanh của tư nhân, ngăn cản tư nhân lập những tổng công ty hùng mạnh cũng như vừa và nhỏ … như ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, v.v., là một sai lầm nghiêm trọng, coi nhẹ động lực kinh doanh tư nhân hợp pháp, kìm hãm động lực vô tận của nền kinh tế quốc dân.
Nhiều đại biểu vạch rõ các quan chức ở các bộ mê say tổ chức các công ty quốc doanh vì đó là «sân sau» làm ăn, lũng đoạn, thu lợi phi pháp, làm giàu bất chính của các quan chức đương quyền.
Có đại biểu nêu lên việc Chiến lược 10 năm đưa Việt Nam lên hàng ngũ một nước công nghiệp, với bình quân giá trị sản phẩm hàng năm là 3.000 đôla là một điều mỉa mai chua chát, vì Hungary từ năm 2009 đã đạt 15.000 đôla. Đã vậy không tìm ra chỗ nào ghi biện pháp cụ thể, bằng những bước đi nào, để hiện đại hóa nền công nghiệp nước ta.
Tất cả các vị đều cho rằng vấn đề nông dân đã bị bỏ qua một cách nguy hiểm vì nông dân vẫn chiếm gần 70 % số dân, quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất vẫn mù mờ - « sở hữu toàn dân» kỳ quặc, không giống nước nào, không quan tâm thực sư đến đại đa số dân cư, từng được hứa hẹn về liên minh công nông mà không có nội dung, biện pháp thực hiện.
Cuộc hội luận báo động về nạn tham nhũng bất trị, về đạo đức xã hội sa sút thê thảm, về nền giáo dục bế tắc mà Cương lĩnh và Chiến lược chỉ đưa ra vài khẩu hiệu cũ kỹ, không hiệu quả.
Tất cả đều phê phán các văn kiện dài lê thê mà rỗng, đặc biệt là xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, xa rời nhân dân, nhấn mạnh giai cấp mà coi nhẹ dân tộc.
Về đường lối đối ngoại, tất cà tham luận đều phê phán quan điểm đối với Trung Quốc không rõ ràng, như kiêng kỵ, ấp úng, e ngại, sợ sệt. Sao không đàng hoàng nói điều cần nói, cần bàn bạc trong đảng, trong xã hội, minh bạch công khai, đặc biệt là lúc này, khi có vấn đề biển Đông….
Sau khi phát biểu ngay thật góp ý xây dựng, trong thời gian cuối, các đại biểu cho rằng các văn kiện đều chứa quá nhiều sai lầm, mâu thuẫn, hầu hết sai lầm lệch lạc, thiếu sót là trong đường lối, chính sách, trong các quan điểm cơ bản. Coi như những cột cái của một ngôi nhà đều ọp ẹp, đổ gãy.
Mọi người cho rằng các văn kiện cần phải viết hẳn lại, không thể sửa chữa nhỏ, thêm bớt bộ phận.
Cũng có ý kiến trước khi chia tay là nếu không kịp viết lại thì thà rằng khất lại một thời gian, còn hơn là thông qua những dự thảo yếu ớt, giáo điều, sai lạc đầy rẫy như thế này.
Một đại biểu bi quan cho rằng lãnh đạo hiện nay không có khả năng lắng nghe và tiếp thu lẽ phải, trong khi các văn kiện đại hội XI là thụt lùi rõ ràng so với văn kiện các đại hội IX và X.
Cũng có một đại biểu trong giây phút cuối nghĩ ra một sáng kiến là chẳng lẽ khoanh tay để cho tình hình đất nước tiếp tục sa sút, suy đồi, bế tắc với vô vàn thảm họa to lớn hơn, toàn dân phải gánh chịu, nên chăng cần có một lá cờ, nghĩa là một lực lượng, một tổ chức trong sáng bảo vệ và quảng bá những chính kiến đúng đắn, xây dựng, được nghiền ngẫm kỹ, vừa được phát biểu trong cuộc hội thảo rất có giá trị này. Riêng ý này chưa được bàn thêm.
Mong rằng Bộ chính trị và Học viện chính trị - hành chính quốc gia gồm những cây bút tin cẩn của Bộ chính trị, phản biện được những phản biện của cuộc hội thảo này, có đủ lý lẽ để giữ nguyên các văn kiện mà Bộ chính trị vừa mời toàn dân góp ý, hạn cuối là ngày 30-11 năm nay.
Có mà đội đá vá trời! Tôi nghĩ thế.
Thật đại phước cho dân tộc và nhân dân ta, trong cơn nguy biến, vẫn còn một «túi khôn dân tộc» chất lượng cao đang dấn thân cho Đại nghĩa Dân tộc.Hy vọng còn nhiều «túi khôn» nữa.
Một Xã hội Dân sự có chất lượng ngày càng cao, số lượng ngày càng đông, mang nhiều màu sắc, đang vẫy gọi nhau, khoác vai nhau, đồng hành trên con đường cứu nước. Đẹp quá !
Bùi Tín
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 18, 2011 4:26:50 GMT 9
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI, GIẢI PHÓNG VĂN HỌC VÀ ĐẤT NƯỚC
(Tham Luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)
“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” K. Marx
Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!
Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.
Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”
Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.
Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.
Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.
Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.
Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.
Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.
Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
SỰ THẬT HAI
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!
Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…
Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.
Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Trần Mạnh Hảo
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 18, 2011 4:29:09 GMT 9
ĐẠI HỘI HAY LÀ MÀN ĐẠI ĐỒNG CA
Bùi Tín (VOA)
Đại hội XI đảng Cộng sản Việt Nam đã qua 3 ngày thảo luận các văn kiện. Thế là xong phần xác định Cương lĩnh, Chiến lược, đường lối, chính sách cho 5 đến 10 năm sau. Ngày 15-1 Đại hội bước sang phần nhân sự.
Điều gì nổi lên rõ nhất trong 3 ngày qua ? Đã có 24 bài tham luận được trịnh trọng đọc. Lần lượt là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Tổng Công đoàn, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Đoàn Thanh niên Cộng sản, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư, Bộ trưởng Văn hóa, Thứ trưởng bộ Ngoại giao. Về quốc phòng và an ninh, có tham luận của Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân, Bộ trưởng Công an…Thêm nữa là tham luận của các đảng bộ Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Sóc Trăng, Cao Bằng, Đác Lắc … Còn có tham luận của Chánh văn phòng Ủy ban phòng chống tham nhũng, đại diện Viện Khoa học và Công nghệ, đại diện Học viện Chính trị -Hành chính Quốc gia, phó Ban Tuyên giáo Trung ương, đại diện Ủy ban Khoa học xã hội, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương vả cuối cùng là đại diện Đảng bộ Kinh tế Doanh nghiệp Trung ương, khẳng định mạnh mẽ vai trò then chốt, chủ lực của các tập đoàn quốc doanh.
Hầu hết các tham luận đều mở đầu bằng câu: Chúng tôi nhất trí cao với các văn kiện đã được chuẩn bị rất công phu, đầy đủ.
Hoàn toàn không có không khí trao đổi, thảo luận, tranh luận trong suốt 3 ngày qua. Hoàn toàn càng không có không khí phản biện, cọ xát chính kiến đề đoàn chủ tịch nêu lên những ý kiến đối lập, khác biệt, nhằm hình thành đề tài tranh luận, để các đại biểu suy nghĩ, luận bàn sôi nổi, buộc trí não phải làm việc, và khi cần thì biểu quyết.
Trong 1377 đại biểu, không có một ai nêu lên một ý kiến cá nhân gì dù nhỏ nhất yêu cầu sửa đổi hoặc bổ sung vào các văn kiện dự thảo. Trong 3 ngày thảo luận văn kiện, chì có 24 đại biểu lên diễn đàn, toàn là nhân danh tổ chức, đoàn thể, cơ quan mình phụ trách, không một ai nêu lên ý kiến cá nhân của mình. Tính cách cá nhân hoàn toàn không hiện hữu trong hội trường. Thật kinh khủng, thật đáng sợ, thật dị thường.
Như vậy là hơn 1.300 đại biểu còn lại đến dự đại hội không cần mở mồm nói một câu nào, chỉ cần giơ tay biểu quyết, tán thành mọi thứ. Thật là xuôi chiều, ngoan ngoãn, dễ bảo, vâng lời triệt để. Họ là những robot hoàn hảo.
Đây là một Đại hội mẫu mực của nền dân chủ tập trung, nghĩa là dân chủ bị cắt xén, nền dân chủ stalinít, nền “đảng chủ”, “nền dân chủ của ông Vua tập thể có 15 đầu”, theo cách nói có hình ảnh của nguyên chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An mới đây.
Trong cả 24 bản tham luận, những sự kiện mà nhân dân bình thường hay nhắc đến nhất trong mấy tháng qua đều vắng bóng. Những danh từ như Vinashin, khu lọc dầu Dung Quất, khủng hoảng tranh chấp ở biển Đông, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên, tai họa bùn đỏ, các vụ tham nhũng lớn dây dưa PMU 18, PCI ở Nhật Bản, Securency ở Úc, Nexus Technologies ở Hoa Kỷ, vụ án Hà Giang, vụ bỏ tù những chiến sỹ dân chủ đấu tranh không bạo lực chống bành trướng, như cô Phạm Thanh Nghiên ngồi tọa kháng trong nhà trước biểu ngữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”… đều như là những từ phạm húy, không một đại biểu nào dám nói ra. Cứ như đó toàn là chuyện bịa.
Thế là thế nào ? Đâu là trách nhiệm phục vụ dân, bảo vệ đất nước của đảng cầm quyền? Đâu là những đại biểu ưu tú của đảng, được sàng lọc, lựa chọn kỹ từ cơ sở? Trí tuệ và tâm huyết của họ đâu rồi? Chỉ là con số không ư? Các đại biểu khi về sẻ báo cáo những gì về công việc mình làm tại Đại hội cho đảng bộ và nhân dân ?
Chẳng lẽ Đại hội XI còn kém xa không khí dân chủ của Quốc hội khóa mới rồi, dù cho mới chỉ là bước đầu chập chững của nền dân chủ nghị trường?
Đại hội đảng thời đổi mới mà sao lại cũ, xưa, đến thế. So với Đ5i hội VI, Đại hội XI lùi đến mấy chục bước. Cờ, hoa, pháo hoa cho Tết Tân Mão để “chào mừng kết quả tốt đẹp của Đại hội XI” cho dủ hoành tráng đến đâu cũng không thể xóa bỏ niềm cay đắng chua xót của những người am hiểu thời cuộc, đang theo dõi chặt chẽ diễn biến của đại hội XI.
Họ nhận ra Đại hội XI không hề là một cuộc họp bình thường, lành mạnh, khoa học, có thảo luận, tranh luận để tỉm ra lẽ phải, ra chân lý, mà chỉ là một dàn đồng ca, hợp xướng nhạt nhẽo, vụng về, thô kệch, đã già nua lại ấu trĩ, quay lưng với cuộc sống, với nhân dân, chỉ dẫn đến những tai họa và bất công chồng chất cho nhân dân và đất nước.
Blog Bùi Tín (VOA
BÀI VIII TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN Đỗ Trung Quân
1. Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm Các anh từ Bắc vào Nam Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc Các anh đến Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác Của xì ke, gái điếm, cao bồi Của tình dục, ăn chơi “Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô” Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc Ngòi bút các anh thay súng Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2. Tội nghiệp Sài Gòn quá thể Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý Có anh thợ điện ra đi không về Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa Đi từ tuổi hai mươi Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng Áo chùng đen đẫm máu Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo Những vị giáo sư trên bục giảng đường Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi - của chúng ta. Có tiếng cười Và tiếng khóc
3. Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
4. Và khi ấy Thì chính “các anh” Những người nhân danh Hà Nội Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới Chửi đã đời Chửi hả hê Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!! Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt Những bà mẹ làm ra hạt lúa Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch” Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân Các anh Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh, ti-vi, cassette, radio…
Bia ôm và gái Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại” Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời” Các anh cũng chạy đứt hơi Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào… Lại bắt đầu ghẻ lở?
5. Tội nghiệp em Tội nghiệp anh Tội nghiệp chúng ta những người thành phố Những ai ngổn ngang quá khứ của mình Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen” Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6. Xin ngả nón chào các ngài “Quan toà trong sạch” Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi Bình thản đổi thay lốt cũ Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn Hồn nhiên xanh muôn thưở Để yên cho xương rồng, gai góc Chân thật nở hoa
Này đây! Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa Nơi một góc (chỉ một góc thôi) Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ… Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế” Khi sống hả hê giữa một thiên đường Ai bây giờ Sẽ Tạ lỗi Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 18, 2011 4:38:05 GMT 9
Ðại hội ù lì trâng tráo Ngô Nhân Dụng
Ðại hội thứ 11 của Ðảng Cộng Sản Việt Nam có đặc tính nào nổi bật? Có thể gọi tên, đó là tính chất ù lì và trâng tráo. Ù lì vì 1,377 đại biểu nhất quyết sẽ giữ đảng ngồi tại chỗ trên đầu trên cổ dân Việt Nam, không có gì thay đổi cả mặc dù gần như toàn thể 88 triệu người Việt Nam đang khát khao muốn thay đổi, thay đổi toàn diện và càng nhanh càng tốt. Trâng tráo, bởi vì muốn ngồi lại để hưởng thụ các “quả thực của cách mạng,” tích lũy của cải làm giầu thì họ phải theo truyền thống “văn hóa mặt dầy” mà nói dối, hô to những khẩu hiệu huênh hoang, phải đánh lừa mình và lừa người một cách thản nhiên, không biết hổ thẹn. Thể hiện tính chất ù lì là chủ trương giữ vững độc quyền chính trị. Hai ngày trước đại hội, ông Trưởng Ban Tuyên Giáo Tô Huy Rứa đã dọa trước rằng: “Ðảng kiên quyết bác bỏ ‘nhu cầu đa nguyên’ về chính trị tại Việt Nam.” Một người có hy vọng sắp vào Bộ Chính Trị là ông Ðinh Thế Huynh, chủ tịch Hội Nhà Báo Việt Nam đã khẳng định: “Dứt khoát không đa nguyên đa đảng!” Ông Huynh giải thích rằng: “Chúng tôi đã từng thử nghiệm đa nguyên đa đảng thông qua cuộc tổng tuyển cử năm 46, với nhiều đảng tham gia Quốc Hội. Nhưng đến khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước tôi thì chỉ có Ðảng Cộng Sản cùng với nhân dân Việt Nam chiến đấu chống lại và giành thắng lợi trước thực dân Pháp. Và nay, Ðảng Cộng Sản Việt Nam vẫn đang tiếp tục lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.” Ðây là một lối xuyên tạc lịch sử trắng trợn, mà xưa nay đảng Cộng Sản vẫn trâng tráo thi triển. Năm 1945 chỉ có 5,000 đảng viên cộng sản, còn các đảng phái quốc gia đông hơn nhiều. Hồ Chí Minh đã phải mời các đảng quốc gia hợp tác vào chính phủ, mời cả ông Bảo Ðại làm cố vấn, để có bộ mặt đoàn kết. Hồ còn tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản nữa, nhưng ai cũng biết là bịp. Sau đó, Cộng Sản đã thỏa hiệp để có thời gian “hưu chiến” với Pháp, trong thời gian đó họ dùng toàn lực lượng tìm giết các người có khuynh hướng quốc gia, những người không theo đảng Cộng Sản do Stalin và Ðệ Tam Quốc Tế chỉ huy. Trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Cộng Sản Việt Nam đã hạ sát, thủ tiêu bao nhiêu người Việt yêu nước xuất sắc. Hãy nhớ tới Trương Tử Anh, Lý Ðông Á, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú Sổ. Một nhà văn yêu nước như Khái Hưng, đã từ giã cháu ở Hà Nội với câu, “Chú về quê đi kháng chiến,” nhưng cũng bị cộng sản thủ tiêu mất xác. Bao nhiêu các lãnh tụ đảng phái quốc gia phải trốn sang Tầu như Nhất Linh, Hoàng Ðạo, Nghiêm Kế Tổ, chỉ vì nếu ở lại trong nước sẽ bị ám sát như các nhân vật trên. Lịch sử sẽ ghi rõ năm 1946 đảng Cộng Sản Việt Nam đã cướp độc quyền chính trị theo đúng bài bản của Stalin. Năm 1953, Cộng Sản Việt Nam lại phát động Cải Cách Ruộng Ðất theo đường lối Mao Trạch Ðông, và một lần nữa, đi tìm giết hết những người bị nghi ngờ, hoặc bị vu cáo, là đảng viên Quốc Dân Ðảng! Vì đã nhắm mắt chạy theo một chủ nghĩa ngoại lai “đấu tranh giai cấp” để thực hiện “vô sản chuyên chính” cho nên đảng Cộng Sản tiêu diệt hết những người yêu nước không cùng ý kiến và có khả năng! Bây giờ ông Ðinh Thế Huynh lại nói rằng năm 1946 các đảng phái quốc gia biến đi mất để đảng Cộng sản một mình kháng chiến, đó là một lời trâng tráo xuyên tạc lịch sử. Nhưng trong số các nhân vật lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam ít có người trâng tráo bằng ông Nguyễn Tấn Dũng! Ngày hôm qua tạp chí trên mạng Ðàn Chim Việt đã trình bày cho bà con khắp thế giới một thủ đoạn tô điểm phấn son để tung hô ông Nguyễn Tấn Dũng, người đang ngồi chủ tọa đại hội Ðảng Cộng Sản. Màn kịch này xuất hiện ở Việt Nam với một bài báo ngày 11 tháng 1, 2011, trên tờ Pháp Luật Việt Nam, nhan đề “Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất sắc nhất Châu Á!” Báo Pháp Luật nói là họ viết tin này “theo báo Firmenpress” và rêu rao rằng đó là do báo chí Châu Âu đánh giá Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng! Nhưng đảng Cộng Sản quen đánh lừa dân Việt Nam lại không biết rằng ngày nay người Việt đã khôn hơn những năm 1946 nhiều rồi. Ông Nguyễn Tôn Hiệt, trên tờ Ðàn Chim Việt, đã đi tìm hiểu và khám phá ra mạng firmenpresse.de ở Ðức là một trang mạng chuyên đăng các bài tự quảng cáo (PR), dưới hình thức “Thông cáo cho báo chí” trong mọi lĩnh vực, từ thương mại, nghệ thuật, công nghệ, cho đến chính trị, do các khách hàng tự viết gửi đến. Ai muốn “lăng xê” món hàng nào, ca sĩ, tài tử nào, cứ việc đưa lên mạng này! Tìm trên trang firmenpresse.de, ông Nguyễn Tôn Hiệt cuối cùng thấy có tới hai cái “press release” quảng cáo cho Nguyễn Tấn Dũng do một khách hàng tên là “RES-Resources, Ecology, Services GmbH” gửi đăng trong hai ngày 10 và 12 tháng 1, 2011. Công ty này bản thân là một hãng chuyên về các dịch vụ chế biến rác rưởi và vệ sinh môi trường; tạm gọi là một Công ty Rác. Sau nhiều màn điều tra, Ðàn Chim Việt đã khám phá ra đây là một “vở kịch chuyền bóng” giữa công ty chế biến rác “RES-Resources,” với hai tờ báo của Việt Nam là VnExpress và Pháp Luật. Màn mở đầu là mạng VnExpress, từ ngày đầu năm 2011, viết bài tổng kết thời sự phong ông Dũng là Nhân Vật Năm 2010 của họ. Thế rồi, qua công ty Rác RES-Resources, Cộng sản đã biến tin đó thành một bài quảng cáo trên mạng firmenpresse.de vào ngày 10 tháng 1 năm 2011, trước khi đảng Cộng Sản khai mạc đại hội. Hôm sau, báo Pháp Luật lại dùng bài quảng cáo trên firmenpresse làm thành bản tin mới, tung ông Nguyễn Tấn Dũng lên cao hơn, nói các báo ở Âu Châu coi ông ta là vị thủ tướng “xuất sắc nhất Châu Á!” Một ngày sau, họ lại dựa trên bài của báo Pháp Luật này mà đưa qua RES-Resources cho thêm một bài quảng cáo nữa trên firmenpresse với nội dung “Ngôi sao chính trị mới ở Châu Á: Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng!” Các báo khác trong nước cứ theo firmenpresse mà đăng tin theo đuôi, nói trắng trơn rằng: “Các báo Châu Âu đánh giá Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất sắc nhất Châu Á!” Sau khi những màn tung bóng trên được xuất hiện làm quà cho đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam trong ngày khai mạc, 1,377 đại biểu thay mặt cho gần 3.7 triệu đảng viên cộng sản không biết đầu đuôi thế nào chắc sẽ “hồ hởi phấn khởi” tin tưởng vào ông Nguyễn Tấn Dũng, như một nhân vật nổi danh quốc tế, không kém gì ông Hồ Chí Minh! Như vậy thì không bầu ông ta làm tổng bí thư sẽ phí uổng một nhân tài quốc tế! Ít nhất, Nguyễn Tấn Dũng bây giờ còn giỏi hơn ông Hồ Chí Minh ngày xưa. Ông Dũng có thể thuê người dùng mạng lưới ngoại quốc mà dàn cảnh vở kịch “tự đánh bóng mình,” như đánh bóng chuyền. Chứ không như ông Hồ phải tự cặm cụi viết sách ca ngợi mình ký tên Trần Dân Tiên; chứ không phải là một cái tên Nga hay tên Ðức cho có vẻ quốc tế! Có thể nói, ông Dũng đã làm đúng theo chủ đề của Ðại Hội XI là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng!” Năng lực dối trá, nói láo một cách trâng tráo không hề đỏ mặt, đã được đưa lên ngang tầm thời đại! Một bằng chứng là trong ngày khai mạc đại hội, các đại biểu được nghe đọc “danh sách 103 đảng từ 69 nước và 14 tổ chức quốc tế” đã “gửi điện chúc mừng Ðại Hội XI của đảng Cộng Sản Việt Nam,” theo bản tin của hãng tin nhà nước. Sau khi biết chuyện về chiến dịch tung hô Nguyễn Tấn Dũng trên đây, người dân Việt Nam sẽ tự hỏi không biết có bao nhiêu điện văn chúc mừng đó ký tên là Trần Dân Tiên? Nhưng mối nghi hoặc đó cũng không ngăn cản được Nguyễn Tấn Dũng “thay mặt Ðoàn Chủ Tịch và toàn thể đại hội phát biểu ý kiến bày tỏ sự trân trọng và cảm ơn nồng nhiệt đối với tình cảm hữu nghị và hợp tác của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế!” Tự nhiên, các “bạn bè quốc tế” như công ty Rác RES-Resources thì lúc nào cũng nồng nhiệt ủng hộ và hợp tác với Nguyễn Tấn Dũng rồi! Bản tin báo nhà nước còn viết rằng: “Ðại hội coi đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ quốc tế của Ðảng ta; là sự ủng hộ, cổ vũ, động viên to lớn đối với công cuộc đổi mới của nhân dân Việt Nam do đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.” Ðiều đáng chú ý trong câu văn quảng cáo trên đây là họ không nói gì tới Chủ nghĩa Xã hội hay là Chủ nghĩa Cộng sản cả. Họ nói đến “sự ủng hộ, cổ vũ, động viên to lớn đối với công cuộc đổi mới...” Tức là họ coi như bỏ quên luôn cái tên của đảng họ! Mà trong thực chất, bây giờ những đại biểu ngồi trong đại hội này có còn ai là “chiến sĩ vô sản” nữa hay không? Nhưng chúng ta biết trong báo cáo chính trị, ông Nông Ðức Mạnh đã nhắc lại một cách long trọng là đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn “tiếp tục thực hiện chủ trương đảng viên làm kinh tế tư nhân;” và “kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào đảng.” Nhìn chung quanh đại hội, trong số 1,377 người ngồi đó có người nào không đang “kinh doanh” hay không? Trước khi đi dự đại hội này, có người nào còn đọc Tuyên ngôn Cộng sản của Karl Marx hay không? Cuối cùng thì đối với gần 1,400 con người này, mối quan tâm lớn nhất của họ là bảo toàn tài sản của gia đình họ và làm sao cho tiền bạc cứ càng ngày cang phong phú hơn! Anh có một triệu đô la nhìn thấy anh khác có 10 triệu thì sẽ phấn đấu để mình cũng có 10 triệu. Anh có 10 triệu sẽ nhìn tấm gương các đồng chí có 100 triệu, có một tỷ đô la để quyết tâm tiến tới trên con đường đổi mới! Nhưng muốn giữ được tài sản và bành trướng tài sản, thì điều kiện quan trọng nhất là phải bám lấy quyền lực. Mất quyền là mất tất cả. Ðó là tâm trạng của cả ngàn đại biểu đang ngồi nghe những bài diễn văn trống rỗng trong hội trường. Trong lúc đó, hơn 80 triệu người Việt Nam đang lo làm sao đối phó với lạm phát. Ông Nguyễn Bắc Son, phó trưởng ban Tuyên Giáo nói đến tiêu chuẩn chọn người vào Trung Ương Ðảng sắp tới: “có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có uy tín trong đảng, trong xã hội, có tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý vấn đề mới và vấn đề phức tạp nảy sinh; có khả năng đoàn kết, quy tụ, có phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...” Toàn những khẩu hiệu ròn rã ghi trong sách giáo khoa cho trẻ em học, nghe hay kinh khủng. Nhưng ông ta không nói gì đến khả năng kiềm chế lạm phát cả! Cũng không nói gì đến khả năng giảm bớt khiếm hụt thương mại mỗi năm 12 tỷ đô la cả. Cũng không nói đến khả năng làm sao quản lý các doanh nghiệp nhà nuớc cho chúng khỏi ăn mòn của cải do toàn dân tạo ra cả! Tóm lại, đảng nhất định ù lì, miễn sao tiếp tục hưởng thụ những “thành quả cách mạng” tính bằng đô la! Không biết người Việt Nam cứ tiếp tục coi những màn kịch này sẽ còn chịu đựng được bao lâu?
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 5:00:55 GMT 9
Huớng Đi Của Người Việt Nam Quốc Gia Chống Cộng
Phụng Hồng Có vài điểm căn bản của vấn đề cần minh xác ngay để khỏi gây ngộ nhận: bài này không có tham vọng đưa ra một giả thuyết gì mới lạ. Lại cũng không có cuồng vọng nhằm đả kích ai. Mà người viết chỉ xin được nói lên một sự thật – một sự thật quá đau lòng – một cảm nghĩ của một cựu sĩ quan cao cấp QLVNCH nạn nhân của Đệ Nhị Cộng Hòa, một cựu tù cải tạo đã dại dột “đem theo một tháng tiền ăn” chui đầu vào "lò luộc người", một thuyền nhân không đội trời chung với cộng sản Hà Nội (CSHN) với tinh thần xây dựng và nhằm mục đích thống nhất tư tưởng và chủ trương của cộng đồng người Việt ở hải ngoại hầu tạo thành một sức mạnh tập trung. “Trung ngôn” bao giờ cũng ‘nghịch nhĩ” (lời thật trái tai). Nhưng tôi lại nghĩ rằng trong cái “đại đồng” bao giờ cũng có cái “tiểu dị” (giống nhau cái lớn, khác nhau cái nhỏ). Trong tinh thần đó, khi bàn đến một vấn đề trọng đại như "Tương Lai Việt Nam" ắt sẽ có nhiều ý kiến trái ngược tùy theo nhãn quan mỗi người nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác nhau. Vả chăng, nhiều lúc “bên này dãy núi Pyréneés thì sự thật" nhưng "phía bên kia dãy núi lại là sai lầm". Vậy làm thế nào để cùng nhau kết hợp trong một quan điểm chung? Và quan điểm chung đó là gì? Xin thưa ngay: đó là cuộc cách mạng toàn diện lật đổ chế độ CSHN và xây dựng một nước Việt Nam mới theo nguyện vọng của đa số toàn dân Việt Nam tự do. Vấn đề mới nghe qua tưởng dễ nhưng sự thật lại không giản dị như thế. Thực vậy, vấn đề đã trở nên quá phức tạp kể từ khi TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát trong ngày đảo chánh (chứ không phải cách mạng) 1.11.1963 và khi đoàn xe tăng PT 54 của CSHN rầm rộ nghiến trên đường Hồng Thập Tự Sài Gòn trưa ngày 30-4-1975. Những tướng tá đã chủ mưu giết TT Diệm càng ngày càng lộ rõ nguyên hình bản chất văn dốt vũ dát, bất tài vô tướng của một tập đoàn lừa thầy phản bạn, trah giành chức tước lợi lộc, địa vị cao sang. Ví dụ như một tên lính lệ vô học mà lại cho đeo lon thiếu tướng rồi phong cho chức “Phó Thủ Tướng Đặc Trách Văn Hóa” thì thử hỏi miền Nam không sớm mất vào tay CSHN sao được? Rồi một loạt tự thăng cấp lạm phát cho nhau để chia chác ngối thứ đến nỗi tướng CSHN Nguyễn Chí Thanh đã phải "hồ hởi phấn khởi” la to giữa buổi họp quân ủy đảng rằng: “Diệm chết rồi, các anh xem, chúng nó sẽ tranh giành miếng ăn rồi xâu xé nhau, ta lại càng đánh thắng dễ” (tên này sau chết vì bom B52 trên đường mòn Hồ Chí Minh). Bại tướng Trần Văn Đôn đã tiết lộ trong hồi ký (lại hồi ký, chán quá) Việt Nam Nhân Chứng lời tướng Nguyễn Khánh nói với bà Trần Trung Dung (cháu TT Diệm): "Tôi sẽ trả thù cho ông Cụ" (nguyên nhân của cuộc chỉnh lý 31.1.1964), lời tướng Trần Thiện Khiêm: "Ông Đôn chơi tôi nên tôi chơi lại". Chỉ xét sơ qua vài sự kiện đó thôi cũng đủ thấy mặt trái chánh tình thời đó, một thời mà đã có nhiều lúc hỗn loạn vô chính phủ hầu như tuyệt vọng mới thấy rõ những nguyên nhân nội tại đưa đến ngày quốc nhục 30-4. Miền Nam mất vào tay CSHN là lẽ đương nhiên. Nó cũng không khác gì mấy so với những ngày cuối cùng của Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa lục địa vậy. Và khi CSHN vào miền Nam, chúng ta đã thấy gì? CSHN đã tức tốc áp đặt ngay 3 hệ thống cai trị cổ hủ của đảng CS: 1. Tăng cường quân đội, công an để đề phòng phá hoại. 2. Thiết lập rất nhiều “trại cải tạo” để tập trung quân đội, công chức VNCH cũ để tránh hậu họa. Đây là một loại nhà tù, lò luộc người trá hình để che mặt quốc tế. 3. Dần dà, bọn chóp bu CSHN đã ngang nhiên thi hành cứng rắn cái gọi là "Lý thuyết Hồ Chí Minh” để áp dụng cho bộ máy cai trị miền Nam. Vậy, “lý thuyết Hồ Chí Minh” là gì? Trên bản tin này, ông Nhị Lang đã từng giải thích ở mục "Lập Trường" như sau: "Người ta không quên chính tên giặc cướp họ Hồ nay đã dày công học hỏi cái khoa giết người đoạt của do Lenin viết ra để bổ túc lý thuyết Mác Xít khi hắn chót nhận thấy Mác Xít chỉ có thể đánh lừa được thiên hạ buổi đầu thôi, chứ không củng cố nỗi chính quyền một khi dân chúng đã tỉnh ngộ. Người ta không quên chính tên phản quốc họHồ đã đem áp dụng tất cả những điều sở học tại Mạc Tư Khoa bằng mọi thủ đoạn lừa gạt dối trá. Bằng cuộc xâm lăng miền nam qua lá bài “Mặt Trận Giaỉ Phóng” ... Dân Việt Nam đã viết sẵn một bản án cho tên Hồ Chí Minh ngay khi hắn mới xuất đầu lộ diện." (VL số 25, 03/92). Kết quả ra sao? Sự thật rất hiển nhiên: sau 20 năm thống trị miền Bắc, rồi 17 năm “xiết họng” miền Nam, cái lý thuyết dã man kia, con đẻ của những tên đồ tể điện Cẩm Linh mà những thằng cán bộ thường huênh hoang là "siêu việt" đả dẫn dắt toàn dân của cái gọi là "cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đi đến tình trang nghèo nàn, đói khổ nhất thế giới, cho đến nỗi, tên Nguyễn Cơ Thạch lúc còn làm ngoại trưởng khi đến Nữu Ước đã thú nhận: “Chủ nghĩa cộng sản đã biến Việt Nam thành một "trại tế bần khổng lồ". Như vậy thì "đỉnh cao trí tuệ” để ở đâu? CSHN rất khác xa cộng sản Trung Quốc, Bắc hàn và Cuba vì những tên chóp bu là những tên giáo điều ngoan cố cứ khư khư ôm chặt "lý thuyết" của tên Việt gian bán nước Hồ Chí Minh mặc dầu đã lỗi thời. Chúng không bao giờ từ bỏ chủ thuyết cộng sản mặc dầu quan thầy chúng đã sụp đổ. Chúng luôn luôn gây chiến tranh lạnh để dễ dàng thôn tính rồi xích hóa những nước lân bang. Không bao giờ có chuyện hòa bình với CSHN. Những người tị nạn cộng sản hãy can đảm đứng lên nhìn lại quá khứ đi! Phải thực tế đi! Kinh nghiệm xương máu đau thương của lịch sử trong 40 năm trở lại đây đã quá đủ để chứng minh điều đó. Cộng sản Việt Nam đã đem lại cho người quốc gia những gì? Hiệp định Genève 1954 đã cho chúng nó một nửa phần quê hương yêu dấu mà vẫn chưa đủ! Mộng xâm lăng của chúng vẫn như lòng tham không đáy để rồi đưa đến Hà Nội Ba Lê 1973 ký chưa ráo mực thì chúng đã nuốt gọn miền Nam 1975. Đấy, "hòa hợp hòa giải" với CSHN là như thế đó! Khi viết bộ trường thiên hồi ký tù đày "The Gulag Archipelago", dày trên 2000 trang, nhà văn vượt tuyến Nga Aleksandr I. Solzhenitsyn, người đã được giải Hòa Bình Nobel đã nói một câu rất chí lý: "Muốn chiến thắng cộng sản phải dùng vũ lực". Một dịp khác, ông đã viết khi còn ở trong tù: "Chỉ những người ăn cùng chén bát với chúng ta mới hiểu rõ chúng ta thôi". Vậy những ai từng có kinh nghiệm xương máu với CSHN hãy mạnh dạn đứng lên nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử một lần cuối cùng. Vì đây là dịp thuận tiện đang trông chờ quý vị. Những người hô hào "hòa hợp hòa giải" chính là những người không hiểu tí ti gì về cộng sản cả, nếu không muốn nói là những "cò mồi" của CSHN. Đây là một sự thật hiển nhiên. Xin hãy bình tĩnh suy gẫm lại nhất là những ai bị bỏ rơi ở tòa đại sứ Mỹ Sài Gòn chiều 29.4.75 rồi phải nuốt hờn, "đem theo một tháng tiền ăn” lên Đàn ông Bosco! Và đừng vội ngoan cố cho là tôi có ý "chụp mũ" ai. Trước đây và mãi đến bây giờ người ta vẫn nhai lại điệp khúc hòa giải với thằng Việt cộng, trong lúc chính chúng nó lại không bao giờ đếm xỉa đến chuyện hợp tác với người quốc gia. Có người lại kêu gọi "khoan dung nhân hòa" (hay khoan nhân dung hòa thì cũng thế) với CSHN trong lúc chúng vẫn bạc đãi người quốc gia và những ai đi ngược lại hoặc chống đối “Lý thuyết Hồ Chí Minh” nó đã lạc hậu cũ rích mà chúng vẫn suy tôn là thần tượng! Chúng đã đối xử những tù nhân cải tạo ra sao? Đời sống của "thiên đường cộng sản" ra sao? Này anh kia! Hỡi anh thắt cà vatï, mặc đồ lớn kia ơi! Anh đã từng lớn tiếng kêu gào thảm thiết thành lập "chính phủ hòa hợp, hòa giải có CSHN và GPMN? (sic) tham dự ư?" Anh đã sống bao nhiêu ngày trong trại tù cộng sản? Anh đã ăn gián, cóc, nhái ở Suối máu chưa? Anh có bao giờ thò hai bàn tay thư sinh xuống hầm cầu tiêu "2 ngăn” để vốc cức chưa? Tết Mậu Thân anh ở đâu? Anh có nghe chuyện hi hữu Huế thất thủ 25 ngày thì có một ông thiếu tá ANQĐ ở Đà Bẵng về Huế thăm mẹ đau nặng rồi bị kẹt lại trong đêm giao thừa phải leo trốn trên trần nhà và nhịn đái, nhịn ỉa 20 ngày để thoát chết chưa? Anh nhịn đái được mấy ngày? Hãy thành thật trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho anh nghe những gì mà CSHN đã "hòa bình sống chung" với thân nhân anh sau ngày quốc hận. Anh có từng nghe 29 năm về trước, chuyện kể một vị bác sĩ quân y ở Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng đã đòi đập vỡ mặt tên dân biểu Khiếu Thiện Kế tại Bộ Tư Lệnh QĐI chỉ vì tên này đã cổ võ giải pháp "ngưng bắn da beo?" Hòa hợp hòa giải mà để cho những thằng CSHN, những đứa đã từng bỏ tù cha tôi chặt đầu chú tôi, bắn giết đồng đội tôi để nhởn nhơ trên đường phố Sài Gòn cùng với con cháu tôi thì tôi không thể chấp nhận được! Hòa hợp hòa giải mà để cho những thằng cán bộ nón cối từng đày đọa tù nhân VNCH, hành hạ người "cải tạo" vào cùng ngồi một bàn tiệc thì tôi không thể chấp nhận được! Hòa hợp hòa giải mà để cho những thằng bộ đội từng pháo kích đêm giao thưà Tết Mậu Thân rồi chôn sống tập thể hơn 4000 quân cán chính ở Huế thảnh thơi cùng ở một khu phố với tôi thì tôi không thể chấp nhận được. Mùa hè đỏ lửa 1972 còn đó. Dấu tích đoàn xe tăng PT76 vượt sông Bến Hải đánh chiếm Cổ Thành Quảng Trị, ngang nhiên xé bỏ hiệp định Genève cón đó. Hình ảnh những người dân vô tội giành nhau bước lên trực thăng di tản chiều 29.4.75 còn đó. Ai đã gây ra thảm cảnh đau lòng đó? Những thằng tội lỗi tày trời đó không thể nào cùng đứng mặc niệm với chúng ta trước bàn thờ Quốc Tổ Hùng Vương được! Cũng như những tên văn nô bồi bút Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Mạnh Hảo, từng viết văn mạt sát tập thể QLVNCH, những tên thợ viết nằm vùng Vũ Hạnh, Sơn Nam, v.v... không thể có chỗ đứng trong hàng ngũ chúng ta được. Chúng nó phải bị tiêu diệt! Lòng dân tộc chỉ có thể dung thân những người quốc gia chân chính mà thôi. Hòa hợp với bọn người "miệng nói hòa bình tay rình đánh trộm" thì thà rằng hòa hợp chung sống với dã thú chim muông như người rừng Tarzan còn hơnn bởi lẽ dã thú chim muông còn có nghĩa. Còn bọn cộng sản vô thần, với chủ nghĩa "tam vô, nhị các" thì không bao giờ thùy chung cả! này anh bạn kia ơi! Ngày Dương Văn Minh, tổng thống 4 giờ đầu hàng, anh ở đâu? Khi lá cờ đỏ sao vàng và xanh đỏ bay trong thành phố Sài Gòn, anh có tức tưởi không? Hay anh lại “cảm động đến ứa lệ” và "cảm thấy mình tội lỗi" vì đã chưa chào nó, như một tên bồi bút nọ mất hết cả liêm sĩ của một sĩ quan QLVNCH cũ đã trơ trẽn viết trong bản "tự khai" tự nguyện thú tội cùng với một tên dân biểu của một đảng từng từ xưng là "cách mạng?" Có bao giờ anh thấy (hoặc chỉ nghe kể lại thôi?) tên Phạm Văn Đồng mời tù nhân cải tạo uống nước trà như chúng thường rêu rao không? Và khi LS Trần Văn Tuyên chết trong tù, thằng Lê Đức Thọ có đến đọc điếu văn không? Như vậy, thì thử hỏi làm sao mà hòa hợp hòa giải với CSHN được? Vấn đề không đơn giản như mọi người “lạc quan tếu” lầm tưởng đâu! Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là một “đội quân vệ binh đỏ” đang còn sờ sờ ra đó. Ngày nào mà đội quân này, với bọn công an áo vàng thành phố, với những sư đoàn nón cối tai bèo còn võ trang hỏa tiễn, xe tăng, súng đạn đủ cỡ thì đừng hòng nói chuyện sống chung với CSHN. Cộng sản mà như cộng sản Việt Nam khác xa cộng sản Nga va Đông Âu. Và cũng đừng so sánh cho rằng hễ Nga sụp đổ và Đông Âu không còn thì thế nào CSHN cũng sụp đổ trong gang tấc. Bởi vì vấn đề còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố ngoại lai mà ta không thể chủ quan coi thường. Thí dụ như vấn đề cấm vận. Ví dụ như vấn đề du lịch của đa số người Việt tị nạn ở hải ngoại ... Tuy nhiên, tin mới nhất đã hé lộ cho ta nhiều hi vọng rất đáng quan tâm. Về điểm này, VL số 27 (05/92) nhận định “Tất cả trí thông mình của bọn Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt đều dồn vào cuộc vận động thiết lập bang giao với Hoa Kỳ để may ra có điều kiện sống sót. Nhưng chúng đã thất bại. Hoàn toàn thất bại. Người Mỹ không mù quáng và không nhẹ dạ như chúng đã lầm tưởng. Chính quyền Bush đã bốc sẵn một "là số" cho tập đoàn CSVN. Cựu tổng thống Nixon đã không nén nỗi sự căm hờn mà nói thẳng ra rằng "Cả một đế quốc vĩ đại như Nga Sô mà còn sụp đổ tan tành, thì tại sao Hoa Kỳ lại làm cái việc vớt vát một tấm gỗ mục Mác-Xít đang trôi nổi trên mặt biển Thái Bình Dương?" Xem như vậy, thiết tưởng vấn đề “chính phủ chuyển tiếp” với Hội Đồng Hòa Giải hòa Hợp Dân Tộc không nên đặt ra trong lúc này. Chẳng những đã không tưởng mà còn gây thêm thắc mắc và hoài nghi trong giới cộng đồng tị nạn cộng sản. Mọi đòi hỏi yêu cầu ngụy quyền Hà Nội phải như thế này, phải làm như thế kia chỉ gây thêm trò cười cho chúng và để lộ nhựơc điểm của ta. Ngược lại tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải có những kế hoạch, chính sách, giải pháp cứng rắn thực tế hơn. Một trong những đường lối chánh đáng đó là bằng mọi giá phải lật đổ hoàn toàn chế độ CSHN hiện hữu. Nhưng làm thế nào để lật đổ? Và lật đổ dưới hình thức nào? Tình thế hiện nay trong cộng đồng chúng ta ở hải ngoại với những hội đoàn chính đảng (thì cứ hẵng tạm gọi như thế) đang mọc lên như nấm, tình hình thế giới đã đủ chín mùi cho chúng ta tính đến chuyện lật đổ CSHN bằng bạo lực được chưa? Lẽ cố nhiên chúng ta đừng quên nước bạn đồng minh, trong đó Hoa Kỳ là nòng cốt đang có những tính toán gì đối với CSHN. Người tai mắt sẽ không thể không theo rõi sát sự việc này. Quý vị lãnh đạo tinh thần, quý vị lãnh đạo các hội đoàn chống cộng, quý vị chủ tịch các liên minh chống cộng chắc cũng đang có những chương trình đấu tranh toàn diện cùng với những giai đoạn hoạt động phát thảo cẩn mật, tinh vi. Chúng tôi mong mỏi quý vị lên tiếng để khỏi mang tiếng “khoanh tay chờ đợi, ngồi chờ sung rụng, trong khi đảng cộng sản Việt Nam mặc dù sa cơ mạt vận vẫn cố nổ lực để duy trì ảnh hưởng của họ". Quý vị là người đủ thẩm quyền trả lời. Chúng tôi đang chờ đợi thái độ của quý vụ. 65 triệu người dân quốc nội vô tội đang ngóng chờ thái độ và hành động của chúng ta trước khi đồng loạt đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản Việt Nam! Quốc nội đang chờ quốc ngoại dấn thân! Giai đoạn đã đến hồi quyết liệt, xin đừng nuôi ảo vọng, ngớ ngẩn đặt vấn đề không thực tế, chỉ có lợi cho địch thủ, ví dụ như: * - Dân chủ đa nguyên, * - Hòa hợp hòa giải, * - Giao lưu văn hóa, * - Cổ võ bãi bỏ lệnh cấm vận, * - Xum xoe tô son trát phấn cò mồi ... Bọn CSHN đang hấp hối, rẫy chết. Tòa nhà "Đảng cộng sản quang vinh” đã mục nát từ gốc. Vậy chỉ có một con đường duy nhất: hãy cùng nhau nhất quyết xô ngã tòa nhà phản dân tộc đó. Phụng Hồng
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 7:24:08 GMT 9
CON CÁ RÔ GỖ
Đỗ Thái Nhiên Có thể nói được rằng thời gian sống xa Việt Nam là quãng đời thường xuyên thương nhớ quê nhà. Tâm tình thương nhớ kia trở nên tha thiết bội phần mỗi độ Xuân về, Tết đến. Nói đến Xuân và Tết, không người Việt Nam nào không cảm thấy lòng mình xao xuyến khi chạnh nghĩ tới bức tranh: "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh." Điều đáng quan tâm nhất là trước ngưỡng cửa của năm mới, năm Quý Mùi 2003, bên cạnh những thịt mỡ, dưa hành, những bánh chưng xanh, người Việt hải ngoại còn bắt gặp thấp thoáng đâu đó bóng dáng con cá rô gỗ. Câu chuyện "Ngày Tết và Con Cá Rô Gỗ" xin được trình bày như sau: Trong suốt năm 2002, tại hải ngoại, có đôi ba lần một vài cá nhân và/hoặc đoàn thể đã đứng lên kêu gọi CSVN hãy hủy bỏ điều 04 trong văn kiện mang tên là Hiến Pháp 1992. Những kêu gọi đó có phần làm cho dư luận xôn xao. Những xôn xao đó mãi cho đến buổi hoàng hôn của năm cũ vẫn còn là đề tài tạo ra sự quan tâm trong suy nghĩ của mỗi chúng ta về tương lai Việt Nam. Bài viết này có chủ ý phân tích và bình luận về ý nghĩa và hậu quả của sự việc huỷ bỏ điều 04 "Hiến Pháp 1992". Câu chuyện hủy bỏ điều 04 hiến pháp là câu chuyện tư tưởng. Kỹ thuật diễn đạt tư tưởng đòi hỏi người diễn đạt phải trình bày sự việc trên ba bình diện: bản thể, nhận thức và phương pháp. Chúng ta hãy áp dụng các chuẩn mực: bản thể, nhận thức và phương pháp vào việc xác định vị trí của điều 04 trong hiến pháp 1992 của CSVN. Hiến pháp này gồm "Lời nói đầu" và 12 chương. _ Bản thể luận của Hiến Pháp CS: Lời nói đầu của Hiến Pháp chính là bản thể của Hiến Pháp. Lời nói đầu cho rằng: "Trải qua mấy nghìn năm lịch sử" CSVN là chế độ đã khai sanh ra nước Việt Nam độc lập và rằng đảng CSVN nắm quyền lãnh đạo Việt Nam trên nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý". Quyến lãnh đạo này được hiểu là độc quyền và vô thời hạn "dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx Lenine và tư tưởng Hồ Chí Minh". Về mặt pháp lý, "lời nói đầu" có chủ ý "hiến pháp hóa" quyền lãnh đạo của đảng CSVN. _ Nhận thức luận của Hiến Pháp CS: nói đến nhận thức tức là nói đến các mối liên hệ. Từ Chương I đến hết Chương IV là phần nhận thức luận của Hiến Pháp CS. Phần này xác định mọi mối liên hệ đa phương giữa đảng CS, nhà nước CS và người dân, giữa người dân và người dân. Những mối liên hệ này trải rộng trên các địa bàn kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, luật pháp. Nổi bật nhất trong phần nhận thức luận là điều 04, Chương I. Điều này xác định: liên hệ giữa đảng CSVN và nhà nước CS là liên hệ giữa lãnh đạo và thuộc viên. Liên hệ giữa đảng CSVN và xã hội VN là liên hệ thống trị và bị trị. Nếu "Lời nói đầu" của Hiến Pháp CS đã tuyên xưng quyền lãnh đạo của đảng CSVN thông qua con đường bản thể của chế độ, thì điều 04 của Hiến Pháp 92 lại tôn xưng quyền lãnh đạo kia thông qua con đường liên hệ giữa đảng CSVN và quần chúng Việt Nam. Nói cách khác, "Lời nói đầu" và điều 04 tuy hai mà một. Một ở đây là ý chí tôn vinh quyền lãnh đạo độc quyền và toàn trị của CSVN. _ Phương pháp luận của Hiến Pháp CS: nhằm biến quyền lãnh đạo độc quyền và toàn trị của CSVN ("Lời nói đầu" và điều 04) thành hành động cụ thể, Hiến Pháp CS đã tạo ra các chương từ V đến XII. Đây là các chương nói về sự hình thành và vận hành của Quốc Hội CS, nhà nước CS, chính phủ CS cùng những cơ quan đặc biệt khác: Hội Đồng Nhân Dân, tòa án Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân... Sau khi khảo sát Hiến Pháp CSVN, chúng ta nhận biết ngay rằng đòi hỏi hủy bỏ điều 04 Hiến Pháp CS đã phạm phải bảy sai lầm như sau: _ Sai lầm 1: hủy bỏ điều 04 nhưng giữ nguyên "Lời mở đầu" là một việc làm hoàn toàn bất hợp lý và vô ích. "Lời nói đầu" của Hiến Pháp 1992 đã làm cho quyền lãnh đạo của đảng CSVN có tính hiến định. Điều 04 chương I chỉ là sự lập lại "lời nói đầu". Tại sao chỉ đòi hỏi hủy bỏ điều 04 nhưng lại không đề cập đến lời nói đầu? _ Sai lầm 2: Giả sử CSVN chấp nhận hủy bỏ "Lời nói đầu" lẫn điều 04 Hiến Pháp thì tình hình chính trị Việt Nam sẽ biến chuyển như thế nào?Thưa rằng chẳng có biến chuyển nào cả! Độc tài vẫn tiếp tục độc tài. Lời nói đầu và điều 04 chẳng qua chỉ là một phần của bản thể và nhận thức (Tri), phần phương pháp luận (Hành) vẫn giữ nguyên. Trong trường hợp này chế độ CSVN sẽ trở thành chế độ hành động độc tài nhưng không tuyên xưng độc tài. Không nói chuyên chế nhưng làm chuyên chế. Đời sống của người dân vẫn bị khóa kín trong nghèo đói. Nghèo đói cơm áo lẫn tự do dân chủ. _ Sai lầm 3: Hiến pháp của CSVN được xây dựng trên nền tảng lý luận Marx Lenine.Vì vậy, mỗi chữ, mỗi câu của toàn bản Hiến Pháp đều có chủ ý phát triển và bảo vệ chế độ độc tài toàn trị. Tất cả những điều khoản trong hiến pháp 92 liên hệ chằng chịt với nhau. Hiến pháp CS chẳng khác nào một bức tranh puzzle. Bức tranh này được ghép bởi hàng trăm, hàng ngàn mẫu bìa cứng cắt nhỏ. Lời nói đầu và điều 04 Hiến pháp CS nhiều lắm chỉ là hai miếng bìa cứng trong bức tranh puzzle có tên gọi "bức tranh độc tài CS". Loại bỏ hai miếng bìa cứng vừa kể, "bức tranh độc tài CS" không hề bị biến hình. _ Sai lầm 4: CSVN vừa sợ quần chúng lật đổ, vừa sợ quần chúng bất hợp tác. Vở tuồng đòi hỏi hủy bỏ điều 04 Hiến pháp phần nào tạo ra trong dư luận một ảo tưởng rằng nhà cầm quyềợn CSVN và quần chúng VN đã bắt đầu có những đối thoại về hiến pháp VN và rằng chế độ CSVN đã hé mở cánh cửa tự do ngôn luận tại VN. Ảo tưởng này là yếu tố thuận lợi giúp CSVN thuyết phục các nhà đầu tư ngoại quốc hãy trở lại VN. _ Sai lầm 5: Đất nước là của chung toàn dân. Toàn dân phải là chủ nhân ông duy nhất và tối cao của đất nước. Đó là công lý hiển nhiên và hằng cửu. Sự thể này dẫn đến nguyên tắc rằng: quốc hội chỉ có tính chính thống chừng nào quốc hội do toàn dân bầu ra. Dưới chế độ CS bầu cử chỉ có nghĩa là đảng chọn ứng cử viên, dân bầu, công an kềm kẹp. Do đó quốc hội CS rõ ràng là quốc hội giả mạo. Quốc hội giả mạo kia sản sinh ra Hiến Pháp 1992. Hiến pháp này đích thực là hiến pháp giả mạo.Đòi hỏi hủy bỏ điều 04 Hiến Pháp tức là mặc nhiên nhìn nhận giá trị pháp lý của Hiến Pháp 992, đồng thời "biếu không" cho quốc hội giả mạo của CS tính chính thống chính tri. Sự thể này hoàn toàn đi ngược lại quyền lợi của quốc gia dân tộc. _ Sai lầm 6: từ sau khi hệ thống CS thế giới tan vỡ (1989), CSVN rất cần thời giờ để thích nghi hóa với hoàn cảnh mới. Trong hoàn cảnh mới, CSVN phải thay đổi phương pháp bóc lột. Trước kia họ bóc lột người dân trong thị trường quốc doanh, ngày nay họ bóc lột người dân trong kinh tế thị trường. Làm thế nào vừa bóc lột, vừa bịt miệng, khóa tay người dân? Đòi hỏi hủy bỏ điều 04 Hiến pháp làÔ con đường tốt đẹp nhất giúp CS có thêm thời gian tiếp tục xây dựng, củng cố và bảo vệ bạo quyền. Bây giờ chúng ta hãy trở về với câu chuyện Con Cá Rô Gỗ. Ngày xưa, có một người đàn ông rất nghèo khổ. Nghèo khổ đến độ ông ta không có món ăn nào để ăn cơm. Ông bèn tạc một con cá rô bằng gỗ và treo nó lên tường. Cứ mỗi lần đưa cơm vào miệng ông nhà nghèo lại nhìn con cá rô gỗ để có cảm tưởng là mình được ăn cơm với cá _ Sai Lầm 7: Quốc tịch là thân trạng của mỗi cá nhân công dân. Quốc tịch là mối liên hệ pháp lý giữa công dân và quốc gia. Công dân là công dân của quốc gia chứ không là công dân của nhà cầm quyền. Thế nhưng, chế độ CSVN đã gian trá đồng hoá nhà cầm quyềnCS với quốc gia VN. Sự đồng hoá này được CSVN thưc hiện bằng nhóm chữ "Tổ Quốc Xã Hôị Chủ Nghiã". Tị nạn chính trị có nghiã là từ chôí làm công dân của cái gọi là "Tổ quốc xã hội chủ nghiã VN" Điều 53 ,chương 05, hiến pháp CS 1992 qui định: Công dân có quyền "tham gia Thaỏ luận" (vơí nhà nươc CSVN ) về "các vấn đề chung cho cả nứơc." Đòi hoỉ hủy bỏ diêù 04 Hiến pháp tức là mặc nhiên chấp hành điêù 53 vưà kẽ. Sự thể naỳ dẫn đến hệ quã rằng ngươì tị nạn chính trị nào đòi hỏi hủy bỏ điều 04 hiến pháp tức là đương sự đã mặc nhiên từ bỏ tư cách tị nạn chính trị của mình để đổi lấy thân phận công dân của "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa VN" Con cá rô gỗ đánh lừa khẩu vị của người nghèo đói thực phẩm. Đòi hỏi hủy bỏ điều 04 Hiến pháp đánh lừa ước mơ của người khao khát tự do dân chủ. "Đánh lừa" là điểm hội ngộ giữa con cá rô gỗ và đòi hỏi huỷ bỏ điều 04 của hiến pháp. Năm mới chúng ta hãy chúc lành cho người thiếu ăn bằng cách lấy thức ăn thật thay thế con cá rô gỗ. Năm mới chúng ta hãy chúc lành cho người dân bị trị, cho chính chúng ta, bằng cách lấy cuộc vận động mới thay thế cho đòi hỏi hủy bỏ điều 04 hiến pháp. Cuộc vận động mới đó đốc thúc chúng ta hãy cùng với toàn dân nỗ lực: _ Lật đổ chế độ CSVN _ Bầu cử quốc hội lập hiến mới. _ Hình thành hiến pháp mới. _ Xây dựng chế độ dân chủ mới. Dưới ánh sáng nồng ấm của văn minh Dân Chủ Nhân Quyền, chúng ta sẽ cùng nhau gợi nhớ lại đám mây mù " Con Cá Rô Gỗ" và "đòi hỏi hủy bỏ điều 04 hiến pháp". Gợi nhớ như vậy để chúng ta rộng lượng cười xòa với nhau, để cảm thấy thương mến nhau hơn, đoàn kết với nhau thực sự. Sau cùng, gợi nhớ như vậy để chúng ta cùng nhau ý thức rằng: trải qua bao thăng trầm của lịch sử, con cháu Tiên Rồng vẫn thân mến qyây quần dưới một mái nhà./. Đỗ Thái Nhiên
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 12:40:02 GMT 9
Bình Mới Rượu Cũ
Phạm Trần
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng vừa quyết định phân công tác cho 4 Ủy viên Bộ Chính trị nắm giữ các chức vụ quan trọng của Ban Bí thư để ngăn chận tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “trên bảo dưới không nghe”, “suy thóai tư tưởng”, “mất phẩm chất” và bảo đảm “an ninh nội bộ”. Theo quyết định do Thông Tấn Xã Việt Nam phổ biến ngày 9-2 (2011) thì: - Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Công an, được giao phụ trách công tác nội chính. - Tô Huy Rứa, rời chức Trưởng ban Tuyên giáo chuyên lo công tác tư tưởng và tuyên truyền sang làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương thay Hồ Đức Việt, Khóa X không được tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương XI. - Ngô Văn Dụ, Chánh Văn phòng Trung ương làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương thay Nguyễn Văn Chi nghỉ hưu. - Đinh Thế Huynh, lần đầu tiên được vào Bộ Chính trị đã thay Tô Huy Rứa làm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. NHỮNG LÝ DO SAU LƯNG Nhưng tại sao lại có chuyện phải cử một Bộ trưởng Công an trông coi vấn đề nội chính, một nhiệm vụ chưa bao giờ được công khai ? Vấn đề là từ vài năm nay, dù đã cố gắng tối đa, Công an vẫn không sao ngăn chận hay dẹp tan được những Trí thức và thành phần trẻ trong nước đưa ra những tư tưởng “nghịch nhĩ” với đảng. Bằng chứng như trường hợp Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ, Luật sư Lê Thị Công Nhân, Bác sỹ Phạm Hồng Sơn và Linh mục Nguyễn Văn Lý, dù vẫn đang bị giam, được tạm tha hay đã được thả rồi mà vẫn không ngừng lên tiếng, viết bài chống chủ trương kìm kẹp tư tưởng, đóng cửa dân chủ và khóa miệng tự do của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngòai ra cũng còn phải kể đến hàng hà sa số những phát biểu và bài viết khác của nhiều Trí thức trong và ngòai nước đang quây quần quanh diễn đàn Bauxite Việt Nam chống chính sách của đảng. Bộ Công an cũng không ngăn cấm nổi các Nhà báo tự do trong nước đã sử dụng mạng lưới điện tóan tòan cầu (internet) như một sân khấu để viết bài đối lập công khai với đảng và nhà nước. Ngòai ra, quyết định chỉ định Lê Hồng Anh trông coi công tác nội chính cũng liên quan đến những bất ổn, tuy chưa đến mức “sống còn” đối với đảng, nhưng cũng đã khiến đảng “chột dạ”. Bằng chứng, trong Báo cáo Chính trị trước Đại hội đảng XI, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng Khóa X đã nói : “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước.” Mạnh còn báo động rằng : “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục.” Đối với Tô Huy Rứa, công tác Tổ chức Trung ương tiếp tục sẽ là một gánh nặng cho đảng CSVN, bởi vì sau 5 năm phục vụ của Hồ Đức Việt và trước Việt là Trần Đình Hoan, vấn đề chạy chức, chạy quyền, tranh dành quyền lợi, đưa con ông cháu cha vào những chỗ ngồi mát ăn bát vàng, trên bảo dưới không nghe, hành dân, học gian lấy bằng thật, lãng phí của công, suy đồi đạo đức, ăn đất, ăn gỗ rừng nhà nước cấm khai thác, bảo kê cho con buôn khai thác khóang sản, buôn lậu vượt biên giới và tham nhũng từ đầu xuống chân vẫn lan tràn trong tòan hệ thống. Do đó, khi Rứa nhận nhiệm vụ mới, Tác gỉa Quốc Thái đã viết trên báo VietNamNet ng ày 8-2 (2011) rằng: “Xưa nay, bên cạnh “tứ trụ” (Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng) , có lẽ Trưởng Ban Tổ chức Trung ương là một trong những vị trí được đảng viên và người dân quan tâm nhất. Dân quan tâm, bởi đó là người đứng đầu một trong ba trụ cột để Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình: định ra đường lối, tổ chức cán bộ và kiểm tra giám sát. Người ta càng quan tâm hơn bởi thời gian qua ai cũng thấy rõ yếu kém về tổ chức, cán bộ đang là nỗi lo thường trực, thậm chí đe dọa đến sự tồn vong của Đảng.” Như chính những người tiền nhiệm của ông, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Phước Thọ và Nguyễn Văn An thừa nhận: công tác cán bộ hiện nay chưa thể trở thành động lực, mà ngược lại, là rào cản cho sự phát triển. Việc đổi mới công tác cán bộ vẫn chưa theo kịp với đổi mới kinh tế và phát triển của xã hội. Đến mức nhiều nhà lãnh đạo lão thành, mới đây khi góp ý cho Đảng đã tha thiết đề nghị chọn vấn đề tổ chức và cán bộ làm khâu đột phá cho Đại hội XI mà đòi hỏi trước hết là một sự thay đổi lớn về nhận thức và tư duy chọn người. Làm thế nào để tinh hoa của dân tộc trở thành những nhà lãnh đạo các cấp của Đảng? Làm thế nào để xóa bỏ nạn chạy chức, chạy quyền đang bị nhân dân ca thán, một nỗi “nhức lòng” mà nhiều nhà lãnh đạo của Đảng đã thừa nhận, nhưng vẫn chưa thể tìm ra phương thuốc đặc trị? Làm thế nào để những người có năng lực, có chính kiến, dám nói, dám chịu trách nhiệm, thậm chí có thể cá tính “nói lời khó nghe” nhưng chính trực và nặng lòng với dân tộc có chỗ đứng trong hệ thống cơ quan công quyền và có điều kiện phát huy cao nhất khả năng của mình? Làm thế nào để xóa bỏ cách làm cán bộ thiếu công khai, minh bạch, thiếu tiêu chuẩn hóa rõ ràng - những yếu kém đã được chính những nhà lãnh đạo từng làm công tác cán bộ chỉ ra? Những điều ấy không chỉ là kỳ vọng của nhân dân, mà còn là đòi hỏi đã đến mức bức xúc, chín muồi của cuộc sống đang đặt ra đối với Đảng.” Như vậy khi trao cho Tô Huy Rứa nhiệm vụ qúa lớn này, liệu Nguyễn Phú Trọng có nghĩ rằng 5 năm nữa những thất bại của Hồ Đức Việt và Trần Đình Hoan sẽ được xóa hết , hay những vi khuẩn xấu xa trong máu đảng sẽ sinh sôi nẩy nở lớn hơn gấp ngàn lần ? Bởi vì trước khi lên chức Tổng Bí Thư, Trọng đã từng đứng đầu ngành Tư tưởng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và Chủ tịch Quốc hội, vậy chẳng lẽ Trọng không biết những căn bệnh trầm kha trong đảng hiện nay từ đâu mà có ? Trường hợp của Ngô Văn Dụ cũng không mấy sáng sủa vì người tiền nhiệm của Dụ là Nguyễn Văn Chi cũng đã không kiểm tra nổi tình trạng tham nhũng, lãng phí, trao tiền cho nhau dưới gầm bàn của cán bộ, đảng viên từ mấy chục năm qua. Bằng chứng nhãn tiền như vụ làm ăn thua lỗ tới 86.000 tỷ đồng của Tổng công ty Tầu thủy Việt Nam (Vinashin) mà Ban Kiểm tra cũng phải bó tay đầu hàng, dù đã thanh tra nhiều lần có sai phạm nhưng báo cáo chẳng ai chịu xử lý, chỉ thấy Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng nói khơi khơi chịu trách nhiệm bằng nước bọt ! Đấy là chưa kể hàng trăm vụ làm ăn thua lỗ, nợ nần chống chất khác của các Doanh nghiệp nhà nước từ năm này qua năm khác mà không thấy có cán bộ trách nhiệm nào bị trừng phạt. Có nhiều Công ty thiếu nợ lại tụ lại với nhau thành Tổng Công ty để bám trụ lấy tiến của dân kinh doanh cốt được tiếp tục ăn lương, đầu cơ dự án. Lại còn chuyện kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên cấp lãnh đạo và những người ra ứng cử mới khôi hài. Lệnh của đảng bắt khai từ khóa đảng VIII mà nay đã là Khóa XI mà có ai được biết các hồ sơ khai báo thật, gỉa ra sao; có bao nhiêu người khai và hồ sơ cất đâu rồi ? Chính Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng khoá VIII đã thành thật bảo rằng vấn đế xác định tài sản rất khó vì người phải khai không bao giờ giữ hết mà đã phân tán cho con cháu, dòng họ nên không thể nào biết được. Nhưng quyền hạn của Ban Kiểm tra Trung ương thì rất nhiều như được : “ - Kiểm tra đảng viên ở bất cứ cương vị nào khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. - Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng. - Giám sát Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương (kể cả Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư), cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và về đạo đức, lối sống theo quy định Ban Chấp hành Trung ương.” Tất cả những việc được làm của Ủy ban Kiểm tra đếu có liên quan đến con người của đảng viên như lối sống, thi hành nhiệm vụ, tôn trọng luật pháp và điều lệ đảng, trong đó có những điều khỏan bắt buộc cán bộ, đảng viên phải: cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư như đảng vẫn tuyên truyền đó là lời dạy của Hồ Chí Minh. Nhưng nếu làm đúng, sống đúng với tiêu chuẩn gương mẫu của một đảng vẫn tự khoe là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc” thì làm sao m à tham nhũng c ó thể leo lên đầu đảng mà ngồi vuốt râu ? Như vậy thì có người dân nào dám hỏi đảng: Tại sao một cán bộ tép riu mà có nhà lầu, xe hơi và có tiền gửi con ra nước ngòai học ? Sau cùng là chức Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương của Đinh Thế Huynh, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân dân. Huynh năm nay (2011) được 58 tuổi, quên người Nam Định, đương kim Chủ tịch Hội Nhà báo của đảng vì tất cả trên 600 cơ quan ngôn luận đều do đảng lập ra và chi tiền hoạt động để tuyên truyền. Trước khi được bầu vào Bộ Chính trị khóa XI, Huynh đã có lời tuyên bố để đời đáng xấu hổ khi nói với Báo chí tại Hà Nội ngày 10-1-2011 rằng: “Ở Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên, đa đảng và dứt khoát không đa nguyên đa đảng. Bởi một lẽ đơn giản, chúng tôi đã từng thử nghiệm đa nguyên đa đảng thông qua cuộc tổng tuyển cử năm 46, với nhiều đảng tham gia Quốc hội. Nhưng đến khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước tôi thì chỉ có Đảng Cộng sản cùng với nhân dân Việt Nam chiến đấu chống lại và giành thắng lợi trước thực dân Pháp. Và nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đang tiếp tục lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây là lời nói xuyên tạc lịch sử nhằm bôi nhọ các đảng phái Quốc gia tham gia chính phủ liên hiệp năm 1946 với Hồ Chí Minh. Ai cũng biết chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã phản bội sự đóng góp xương máu của những người Việt không Cộng sản để chiếm quyền và cướp công cách mạng của tòan dân trong cu ộc Cách mạng tháng 8 năm 1945. Do đó, việc Đinh Thế Huynh được cho nắm cơ quan tuyên truyền và tư tưởng trong đảng chỉ có nghĩa đảng đang lúng túng về vấn đề làm sao không để cho báo chí và hệ thống tuyên truyền không bị chệch hướng và giữ được đảng viên. Đinh Thế Huynh còn là người kiên quyết chống việc cho tư nhân ra báo. Tóm tắt thì tuy có những người mới giữ nhiệm vụ mới nhưng những bức xúc và lực cản thì vẫn còn nguyên đó giống như chiếc bình mới chứa rượu cũ. -/- Phạm Trần (02/011)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 12:42:04 GMT 9
Ai Cập Và Dân Chủ: TT Bush Có Viễn Kiến?
Vũ Linh Nếu Ai Cập, Yemen, và Jordan rơi vào tay Hồi giáo quá khích thì sẽ là một đại họa... Thời sự quốc tế đã tràn ngập tin tức biến động tại các nước Trung Đông và Phi Châu, từ Tunisia đến Ai Cập, qua Yemen, Algeria, Jordan và Sudan, phiá nam sa mạc Sahara của Phi Châu luôn. Tại những nơi này, bất ngờ dân chúng nổi lên chống đối chính quyền và đòi tự do dân chủ. Tại Tunisia, tổng thống bị lật đổ sau khi cầm quyền một cách tuyệt đối, phải trốn chạy ra khỏi nước. Tại Ai Cập, hàng trăm ngàn người xuống đường liên tục đòi TT Mubarak từ chức, bất kể sự đàn áp mạnh mẽ của cảnh sát, đã khiến cả trăm người chết, hàng ngàn người bị thương, và hàng ngàn người khác bị bắt. Tại Yemen, dân chúng cũng ào ạt xuống đường chống đối chính quyền và cho đến nay, vẫn bị đàn áp mạnh. Cả ba ông tổng thống Tunisia, Ai Cập, và Yemen đều là những con khủng long đã nắm quyền một cách tuyệt đối từ trên dưới ba thập niên. Các quan sát viên nhận định dường như đang có một cơn cuồng phong dân chủ thổi vào vùng này. Không ai biết được đây có phải là những ngày đầu của một phong trào quy mô sẽ dấy lên và thay đổi toàn diện bàn cờ chính trị trong vùng hay không. Có nhiều người lạc quan còn nghĩ tới cơn cuồng phong dân chủ của cuối thập niên 80 đã quét sách chủ nghĩa cộng sản tại Âu Châu. Tuy chưa ai biết chuyện gì sẽ xẩy ra trong lâu dài, nhưng ở đây, ta cũng nên nhìn lại quá khứ. Năm 2005, TT Bush tái đắc cử, nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai. Năm đó là năm quân đội Mỹ còn đang bù đầu với hai cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu tại Afghanistan và Iraq. Đặc biệt cuộc chiến tại Iraq đang bị chỉ trích mạnh. Chẳng những quân đội Mỹ gặp khó khăn lớn khi thanh toán dư đảng của Saddam Hussein, đối phó với cuộc chiến nội bộ giữa các phe nhóm sắc tộc và giáo phái, mà hơn thế nữa, lại hoàn toàn thất bại không tìm thấy vũ khí giết người tập thể gì hết. Và quân đội Mỹ cũng có triển vọng sẽ ở lại hai xứ này rất lâu, để tái tạo và củng cố hòa bình, cũng như để dựng nước. Trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai, ông nhấn mạnh nước Mỹ đang trực diện với cuộc chiến khủng bố của khối Hồi Giáo quá khích. Những biện pháp quân sự và an ninh chống khủng bố trong nước, hay cùng với các đồng minh trên thế giới chỉ là tìm cách giải quyết cái “diện” của nạn khủng bố, mà không nhắm vào cái “điểm”. Cái điểm chính là thể chế chính trị tại Trung Đông và trong các nước Hồi Giáo. Tại đây, đã không có dân chủ, người dân không có tiếng nói trong khi phải sống cơ cực trong cảnh nghèo nàn và chậm tiến cùng với những bất công xã hội thật lớn. Tình trạng đó tạo ra những dồn ép, bất mãn, chống các chế độ cầm quyền trong vùng, nhưng cũng chống luôn cả Mỹ và các nước Tây Phương đồng minh của Mỹ, bị coi như là đã hậu thuẫn các chính quyền độc đoán trong vùng. Từ đó đưa đến 9/11 và nạn khủng bố toàn cầu. Muốn giải trừ nạn khủng bố thì phải trực diện với nguyên nhân xâu xa này, và tìm cách giải quyết. Và cách giải quyết mà tổng thống tái cử Bush đưa ra trong bài diễn văn nhậm chức là xây dựng dân chủ trong các nước Trung Đông. Một khi có dân chủ, dân chúng được thoả mãn, thì bất mãn, chống đối sẽ chấm dứt, và nạn khủng bố toàn cầu sẽ tự nó bị đào thải vì không còn hậu thuẫn, không còn lý do tồn tại. Sứ mạng của quân đội Mỹ tại Afghanistan và Iraq chẳng những là tái tạo và bảo vệ hòa bình, mà còn là xây dựng dân chủ, làm gương hay làm đầu cầu dân chủ, cho tất cả các nước trong vùng. Nếu nước Mỹ thành công, mang lại dân chủ -tức là cho người dân có tiếng nói- tại hai xứ này, thì chắc chắc là dân chúng cũng như các chính quyền trong vùng sẽ nhìn vào đó mà suy gẫm. Nhiều người khi đó đã cho rằng chủ thuyết mới này của TT Bush có tính cách ngụy biện nhằm biện minh cho cuộc chiến tại Iraq, hoàn toàn không thực tế vì dân Hồi giáo không có truyền thống dân chủ. Bây giờ nhìn lại những biến chuyển tại Tunisia, Ai Cập và Yemen, người ta không khỏi thắc mắc. Hình như dân Ả Rập Hồi giáo cũng có những ước vọng về tự do dân chủ. Biết đâu TT Bush quả thực là người đã có viễn kiến, nhìn thấy rõ giải pháp trường kỳ cho nạn khủng bố? Và giải pháp đó đang thực sự xẩy ra? Dù sao thì các biến cố này, nhất là cuộc khủng hoảng tại Ai Cập, đã đặt chính quyền Obama vào một thế bí, chẳng biết phải làm gì. Tiến thoái lưỡng nan. TT Obama và truyền thông cấp tiến phe ta dĩ nhiên không dám nhắc đến chủ thuyết Bush. Ứng viên Obama, rồi sau đó, tổng thống Obama, là người chỉ trích cuộc chiến tại Iraq mạnh nhất. Ông không tin vào chuyện vết dầu loang dân chủ, và chủ trương rút quân Mỹ về càng sớm càng tốt. Bây giờ làm sao ông có thể nói “Bush có lý, tôi sai”? Một lý do nữa khiến cho ban đầu ông thấy khó ủng hộ dân nổi dậy vì chưa rõ phe nhóm nào đang điều khiển cuộc nổi dậy và có cơ lên nắm quyền tại Ai Cập. Hiện nay, tổ chức đối lập lớn nhất tại Ai Cập, cũng là tổ chức có nhiều hy vọng nắm quyền nếu TT Mubarak bị lật đổ, là tổ chức Hồi giáo Muslim Brotherhood, cực đoan, hoàn toàn không thân thiện với Mỹ, chủ trương tiêu diệt Do Thái. Trong khi đó TT Mubarak lại là đồng minh quan trọng nhất của Mỹ trong khối Ả Rập và Hồi giáo, mỗi năm nhận được hàng trăm tỷ viện trợ của Mỹ để tiếp tay chống khủng bố, và nhất là duy trì hoà bình với Do Thái, bảo đảm ổn định trong vùng. Từ đây đưa đến phản ứng đầu tiên của chính quyền Obama, qua lời tuyên bố của PTT Biden. Ông nói rõ ràng “TT Mubarak không phải là nhà độc tài”. Ông Biden luôn luôn vẫn là một Biden nói năng lung tung không khác gì ông tướng râu kẽm của ta ngày xưa: 30 năm nắm quyền, cấm chỉ mọi đối lập, mà lại không phải là độc tài. Ông Biden cũng phán quyết thêm TT Mubarak không cần từ chức. Tiếng nói của phó tổng thống Mỹ quan trọng hay tiếng nói của hàng triệu dân Ai Cập quan trọng? Thái độ này dĩ nhiên làm quần chúng đang nổi dậy càng thêm bất mãn với Mỹ, và càng tăng thêm uy tín của nhóm Hồi giáo quá khích Muslim Brotherhood, tức là tăng triển vọng nắm quyền của khối này. Trước sự lớn mạnh của phong trào nổi dậy, chính quyền Obama phải điều chỉnh thái độ, một cách mập mờ: kêu gọi cải cách và một sự chuyển tiếp trong trật tự (orderly transition), nhưng lại phủ nhận chủ trương thay đổi chế độ (regime change). Không ai hiểu nghĩa là gì. Đến khi TT Mubarak hứa sẽ không ra tranh cử Tháng Chín tới, thì TT Obama lại thay đổi lập trường, kêu gọi bắt đầu tiến trình chuyển tiếp ngay từ bây giờ. Người ta có cảm tưởng chính quyền Obama đúng là không biết phản ứng như thế nào, chỉ chạy theo biến cố từng ngày. Trong cuộc chính biến trước đây tại Tunisia, chỗ đứng của Mỹ dễ dàng hơn. Ông tổng thống trị vì ba chục năm tại đây là đồng minh quan trọng của Pháp, ít quan hệ với Mỹ. Cuộc nổi dậy cũng thành công mau lẹ khi ông tổng thống nhanh chân trốn ra khỏi nước khi vừa có biến động. Tình hình tại Ai Cập rắc rối hơn nhiều vì tổng thống, đối ngoại là đồng minh tích cực đáng tin tưởng của Mỹ, đối nội lại là bàn tay sắt, chẳng những nắm quyền tuyệt đối từ hơn ba chục năm lại còn đang chuẩn bị cho ông con lên kế vị, theo gương Bắc Hàn nữa. Mỹ ủng hộ chuyện này thì thật là tréo cẳng ngỗng với truyền thống dân chủ Mỹ. Nhưng nếu nhanh chóng phản bội đồng minh từ mấy chục năm qua để ủng hộ phe nổi dậy Hồi giáo cực đoan, có thể là thù địch với Mỹ, thì cũng thật khó. Nếu “không may” nhóm quá khích Muslim Brotherhood lật đổ được TT Mubarak thì Ai Cập có thể sẽ trở thành một Iran thứ hai, và Mỹ sẽ trở thành kẻ thù của chính quyền mới. Có lẽ chỉ còn một giải pháp cho TT Obama là… câu giờ. Trì hoãn xem bên nào thắng thế, đồng thời hy vọng trong phe nổi dậy sẽ nổi lên một lãnh tụ tương đối ôn hòa. Hiện nay, ông Mohammed ElBaradei, trước đây là Tổng Giám Đốc Cơ Quan Năng Lực Nguyên Tử Quốc Tế (International Atomic Energy Agency), đã từng lãnh giải Nobel Hoà Bình (thường dành cho các người có khuynh hướng cấp tiến hay thiên tả), có vẻ đã nổi lên như là người lãnh đạo, nhưng không ai biết thực quyền của ông này tới đâu. Ông là người sống ở ngoại quốc, chưa bao giờ chống TT Mubarak đòi dân chủ gì hết, mới chỉ bay về nước sau khi cuộc nổi loạn đã xẩy ra rồi, theo kiểu lợi dụng thời cơ, chứ không phải là lãnh tụ thật sự từ đầu. Vấn đề nữa là ông này cũng chẳng thân thiện gì với Mỹ, trước đây đã cản chuyện Mỹ muốn kiểm soát mạnh hơn chương trình nguyên tử Iran và không hề kết án hành động quá khích của lực lượng Hamas trên dải Gaza. Điều phiền toái cho TT Obama là thái độ câu giờ, lưỡng lự nước đôi cuối cùng chẳng thỏa mãn bên nào hết, và bên nào thắng thì cũng không cám ơn Obama. Chẳng những TT Obama đang mắt kẹt khúc xương Ai Cập, mà ngay cả tại Yemen và Jordan nữa. Yemen là nước Hồi giáo sào huyệt của rất nhiều lãnh tụ khủng bố. Ông tổng thống ở đây là đồng minh quan trọng trong cuộc chiến. Gần đây các tài liệu do WikiLeaks tiết lộ trên báo chí cho thấy ông tổng thống đã thoả thuận ngầm với Mỹ, cho phép máy bay không người lái của Mỹ bắn giết các sào huyệt khủng bố dưới danh nghĩa là máy bay của Yemen đánh. Trong khi đó, Jordan là một vương quốc có truyền thống thân thiện với Mỹ từ trước đến giờ, với cái giá cụ thể là cả tỷ Mỹ kim viện trợ mỗi năm. Cũng là một đồng minh tích cực giúp đỡ duy trì hòa bình tại Trung Đông và tiếp tay chống khủng bố toàn cầu. Tuy Quốc vương Jordan không mạnh tay như TT Ai Cập, nhưng không ai có thể nói Jordan là một xứ có tự do dân chủ hết. Vua Jordan đã mau mắn giải tán nội các, nhưng vấn đề là dân chúng chống chế độ quân chủ độc đoán chứ đâu có chống nội các. Cái rắc rối trong chủ thuyết của TT Bush không phải là dân Hồi giáo trong vùng không có truyền thống dân chủ, mà chính là ở điểm nếu có dân chủ thì các nhóm ít thân thiện với Mỹ sẽ khai thác, lợi dụng mức dân trí thấp và ảnh hưởng của các nhóm Hồi giáo quá khích, nhẩy lên nắm quyền, để rồi áp dụng những chính sách không thân thiện với Mỹ. Đây không phải là chuyện không thể xẩy ra. Trái lại, đã xẩy ra rồi. Tại Palestine, dưới áp lực của Mỹ, chính quyền Palestine đã phải tổ chức bầu cử trong dân chủ. Kết quả là nhóm quá khích Hamas chiếm quyền tại vùng Gaza, gây bối rối và khó khăn vô tận cho chính quyền Palestine và Mỹ. Nếu Ai Cập, Yemen, và Jordan rơi vào tay các nhóm Hồi giáo quá khích thì sẽ là một đại họa cho Mỹ, cho hoà bình trong vùng, cho sự sinh tồn của Do Thái cũng như sự tồn tại của các chế độ vương quốc vùng Vịnh như Ả Rập Saudi và Liên Hiệp Các Vương Quốc Ả Rập, và cho cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Đó là chưa nói đến chuyện kinh tế. Vùng Trung Đông này sản xuất đâu gần hai phần ba dầu hỏa trên thế giới, trong khi 40% dầu di chuyển qua kinh đào Suez của Ai Cập. Không những Mỹ và Âu Châu lo ngại, mà ngay Nhật, Tàu, và cả vùng Đông Nam Á cũng đang hồi hộp vì lệ thuộc vào dầu hỏa Trung Đông. Sẽ không phải chuyện lạ nếu giá dầu xăng thế giới vọt lên gấp đôi (8 đô một ga-lông xăng tại Mỹ?). Trong tuần qua, khi tin khủng hoảng Ai Cập bùng nổ, chỉ số chứng khoán Dow Jones rớt ngay gần hai trăm điểm. Biến động tại Trung Đông là thử thách lớn nhất về đối ngoại của chính quyền Obama. Ta hãy xem ông đối phó như thế nào. Nếu ông để mất Ai Cập thì đảng Dân Chủ có dịp chứng minh một lần nữa là các tổng thống từ đảng này chỉ mang lại đại họa cho chính sách đối ngoại của Mỹ: TT Truman để mất Trung Hoa, TT Johnson để mất Việt Nam, TT Carter để mất Iran, và TT Obama để mất Ai Cập – hay mất cả Trung Đông? - (06-02-11)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 6:01:03 GMT 9
Ăn cướp cơm chimẢnh minh họa Năm 1965 ở thế kỷ trước, tại trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc, một vị Giáo sư hỏi một học viên câu hỏi rất hay: - Trong lĩnh vực khoa học và đời sống người ta dùng thuyết tương đối của Anh-Xtanh. Vậy lòng tin của anh vào Đảng thì tương đối hay tuyệt đối? Anh học viên trả lời rất thông minh: - Thưa Giáo sư! Lòng tin của em vào Đảng là tuyệt đối ạ! Điều đó nói lên một chân lý: Đảng CSVN là tuyệt đối vĩ đại, tuyệt đối đúng, tuyệt đối trí tuệ, tuyệt đối đạo đức, tuyệt đối văn minh. Vì lẽ đó, lòng tin vào Đảng cũng phải tuyệt đối. Không một công dân nào phải bận tâm về Tự do – Dân chủ – Nhân quyền. Nếu công dân nào cố tình bàn luận đến những khái niệm nhạy cảm này là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên trong Xã hội Việt Nam hiện nay, có nhhững vấn đề xảy ra lại được đúc kết vào một câu tục ngữ từ ngàn xưa: “ăn cướp cơm chim”. Cơm chim là phần ít ỏi dành cho chim. Ăn cướp cả phần thu nhập nhỏ nhoi của người lao động khốn khổ, già nua, tuổi tác, thấp cổ bé họng . . . là nhẫn tâm vô nhân đạo. Ý nghĩa câu tục ngữ này là như vậy! Cái QĐ – 176/HĐBT ngày 09 – 10 – 1989 là QĐ đánh lừa người lao động, sa thải 85,5 vạn người có công được thưởng Huân chương, Huy chương, chiếm đoạt 5.7000 tỷ tiền BH của họ, đẩy họ ra ngoài lề Xã hội khi toàn bộ trí tuệ và sức lực đã cuồng nhiệt hiến dâng cho Tổ Quốc. Họ kiên trì kiến nghị với Bộ lao động, Quốc hội, Đảng, Nhà nước và Chính phủ từ 20 năm nay để đòi lại “phần cơm chim” của họ. Kiến nghị của họ là chính đáng nên được một số tờ báo đưa lên công luận, một số cán bộ TƯ đồng tình và nhiều Đại biểu Quốc hội phát biểu tại nhiều kỳ họp QH . . . Thế mà tại kỳ họp thứ IV, QH khoá XII, Bộ trưởng Bộ lao động Nguyễn Thị Kim Ngân đã phủ nhận tất cả . . . Rồi thay mặt Bộ chính trị, QH, Nhà nước và Chính phủ độc quyền ra công bố trên báo Lao động ngày 27-3-2009 là: “Không giải quyết lại chính sách 176” Tại sao lại phải giải quyết lại? Tại sao không giải quyết lại được? Những người “Lao động dôi dư” nghỉ theo QĐ – 176 mỗi năm chỉ được trợ cấp một tháng lương cơ bản. Thế là hết! Trong khi đó những “Người lao động dôi dư” nghỉ theo NĐ 41/CP ngày 11-4-2002 mỗi người được trợ cấp hàng trăm triệu rồi khi đủ tuổi lại được cấp sổ hưu. Phải chăng đây là “Sự công bằng” của Nhà nước Việt Nam mà các vị Lãnh đạo luôn luôn nhắc nhở dân phải nhớ: - Nhà nước của dân do dân, vì dân - Xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong khi đó Bộ lao động đã nhận được 4 tỷ đô- la của các tổ chức phi Chính phủ tài trợ để giải quyết “tình trạng lao động dôi dư”. Bộ lao động đã bán sổ hưu cho người có tiền làm thiệt hại quỹ hưu đến 30% (Báo Đại đoàn kết năm 1997). Bộ lao động còn nhận được một khoản ngân sách rất lớn là 32.000 tỷ đồng để dạy nghề cho nông dân. Giả sử có 32.000 tỷ nông dân đi học nghề thì chi phí cho một học viên 1 tỷ đồng để được bằng “Kỹ sư nghề”. Điều này không bao giờ có. Báo Nông thôn ngày nay số ra ngày 29 -10 -2010 đã hỏi: “Dạy nghề cho ai?” Chi ngân sách như vậy là không hợp lý như Vinashine. Phải nói rằng QĐ 176 đã “ăn cướp cơm chim” của 85,5 vạn người lao động. Vợ tôi sau 23 năm công tác cũng bị “ăn cướp cơm chim” như thế. Ở các nước dân chủ phương tây, công dân đến tuổi 60 – mặc dù không có công với Nhà nước vẫn được Nhà nước trợ cấp cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Vậy chế độ nào ưu việt hơn chế độ nào? Tôi là một giáo viên nghèo nghỉ chế độ mất sức lao động từ năm 1984 phải đi làm thuê cho Ngoại thương Hà Nội. Năm 1987 một cơ quan Nhà nước chiếm đoạt của tôi 36,8 M3 gỗ thông Liên Xô mà tôi nhận về làm gia công. Tôi có đơn khởi kiện, công an tỉnh Hải Dương đã điều tra, xác minh cơ quan ấy đã bán 36,8M3 gỗ thông Liên Xô của tôi cho 7 cơ sở để có tiền kinh doanh. Sở thương mại tỉnh HảI Dương đã lập biên bản. QH đã can thiệp từ năm 1996 yêu cầu bồi thường cho tôi 67 triệu. Thế mà toà án các cấp vẫn xử oan cho tôi, yêu cầu cơ quan ấy chỉ bồi thường cho tôi có 8 triệu. Tôi không nhận bản án phi pháp này và kiên trì kháng án 20 năm nay. Tôi phải bán 1/3 DT đất ở, đi vay lãi để mua vật tư trả cho Ngoại thương Hà Nội. Thật là “Quýt làm cam chịu”. Bất lương quá! Chỉ có Nhà nước XHCN Việt Nam mới có một nền tư pháp như vậy. Bà Ngô Bá Thành đã nói rất chua chát “Nước ta có một rừng luật, nhưng khi thực thi người ta lại dùng luật rừng”. Cuộc đời của chúng tôi tham gia Cách mạng lại bị hai lần “ ăn cướp cơm chim”, hỏi làm gì có “quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc” như tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch? Nay chúng tôi đã vào cái tuổi “ Xưa nay hiếm”, tôi viết bài báo này cùng với tập báo của tôi để trình lên Đảng và QH bênh vực quyền lợi chính đáng và hợp pháp cho chúng tôi, yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải bồi thường mọi thiệt hại cho chúng tôi. Đây là pháp lý, đạo lý và quyền con người. Chẳng lẽ những người lao động đi theo Đảng lai bị Đảng bỏ rơi như ông Bùi Huy Phùng ở Hiệp Lực – Ninh Giang – Hải Dương đi thoát ly năm 20 tuổi + 40 năm công tác + 20 năm bị sa thải = 80 tuổi. Hỏi ông này có nhân quyền không? 85,5 vạn người lao động và tôi cũng bị mất nhân quyền như thế. Nếu cho phép tôi được tự do phát hành tập báo của tôi rộng rãi khắp trong Nước và thế giới, chắc chắn rằng tôi sẽ tìm được tiếng nói trí tuệ, lương tri, nhân hậu, nhân nghĩa, nhân quyền . . . Hải Dương, ngày 20 tháng 11 năm 2010 Công dân: Phạm Tuấn Xa địa chỉ 31/207 Trương Mỹ Phạm Ngũ Lão – TP Hải Dương DĐ: 01644996929
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 24, 2011 9:47:09 GMT 9
Gadhafi và gia đìnhRyan Charkow, CBC News - DCVOnline lược dịch Moammar Gadhafi Moammar Gadhafi sinh ngày 7 tháng 6 năm 1942 là con của một gia đình Bedouin.Thời thiếu niên, ông đã tham gia hoạt động chính trị, biểu tình chống-Israel trong cuộc Khủng hoảng ở kinh đào Suez. Ước mơ quyền lực bắt đầu khi Gadhafi đang theo học đại học quân sự ở Hy Lạp (Greece), tại đó ông đã bắt đầu lập kế hoạch để lật đổ chế độ quân chủ Libya, triều Vua Idris I. Ngày 1 Tháng 9 năm 1969, trong khi Idris ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), Gadhafi đã dẫn đầu một nhóm sĩ quan nhỏ làm một cuộc đảo chính không đổ máu và lật đổ nhà vua, thành lập nước Cộng hòa Ả Rập Libya và tự phong là người Lãnh tụ và Chỉ đạo của cuộc Cách mạng. “Lãnh tụ của Cách mạng, Chủ tịch Liên hiệp châu Phi, Vua của các vua Phi châu” - Lanh tu vo cung kinh men, nha cach menh Hoi giao khong met moi : Moammar Gadhafi Nguồn: Canadian Press -------------------------------------------------------------------------------- Là người hâm mộ “người hùng cách mạng Cuba” Che Guevara, Gadhafi viện trợ cho những đồng chí chia sẻ khuynh hướng chống đế quốc và chống phương Tây. Với tiềm năn dầu hỏa Gadhafi đã tài trợ cho nhiều cuộc đảo chính ở châu Phi, kể cả những cuộc đảo chánh của Uganda do Idi Amin dẫn đầu và Charles Taylor trong cuộc đảo chánh ở Liberia. Từ ý tưởng ở cuốn sách Hồng của Mao Trạch Đông, Gadhafi xuất bản Sách Xanh vào năm 1975, nêu rõ các nguyên lý của hệ tư tưởng chính trị mà Gadhafi gọi là Chủ nghĩa Xã hội Hồi giáo. Trong suốt hai mươi năm 1970 và 1980, tên Ghadafi đã trở thành đồng nghĩa với chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Ông là một người ủng hộ tài chính lớn của Phong trào Tháng Chín Đen (chịu trách nhiệm về các vụ tấn công tại Thế vận hội Munich năm 1972 và bỉ ổi nhận trách nhiệm về vụ đánh bom vũ trường Berlin 1986), các vụ đánh bom máy bay Pan Am ởLockerbie, Scotland năm 1988, và một máy bay của Pháp năm 1989 ở Niger. Ghadafi từ chối dẫn độ hai công dân Libya đã tham gia vào vụ đánh bom Lockerbie sang Mỹ và Anh dẫn đến lệnh trừng phạt kinh tế nghiêm trọng đối với Libya. Năm 2003, Gadhafi đã bước đi một bước quan trọng để cải thiện mối quan hệ của mình với phương Tây, bằng cách đồng ý bồi thường nạn nhân của các cuộc khủng bố do Libya tài trợ và cho phép các nhà điều tra của Liên Hiệp Quốc vào Libya để kiểm tra và dỡ bỏ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Kể từ đó, Gadhafi đã có thêm những nỗ lực để cải thiện hình ảnh của mình ở phương Tây, kể cả việc đón tiếp cựu Thủ tướng Anh, Tony Blair và cựu Ngoại trưởng Mỹ, Condoleezza Rice. Trong chuyến viếng thăm đầu tiên tại Hoa Kỳ, Gadhafi đã đọc bài phát biểu dài 90 phút (trong khi nghi thức ngoại giao chỉ cho 15 phút) trước Đại hội đồng LHQ vào tháng 9 năm 2009. Ghadafi, tuy nhiên, luôn duy trì một lập trường nghiêm ngặt đối với những người mà ông cho là “kẻ thù” của cách mạng và chủ trương tiêu diệt họ. Gadhafi được bầu làm Chủ tịch Liên minh châu Phi trong năm 2009 và đã cam kết làm việc để đi đến việc hình thành một Liên Bang Châu Phi. Ông cũng sử dụng tài sản dầu hỏa to lớn của Libya để gửi viện trợ cho nước bị tàn phá vì nạn đói và nội chiến, có cả Sudan, Ethiopia và Somalia. Seif al-Islam Gadhafi Seif al-Islam Gadhafi sinh ngày 25 Tháng Sáu năm 1972 tại Tripoli và là con trai thứ hai của Moammar Gadhafi. Dong chi "Seif Al-Islam Gadhaf" lam viec toi an tam Nguồn: REUTERS -------------------------------------------------------------------------------- Trong năm 1997, trong khi theo học MBA tại một trường đại học ở Vienna, ông thành lập Quỹ quốc tế Gadhafi cho các Hội Từ thiện (GIFCA). GIFCA đã được tham gia vào các cuộc đàm phán trao đổi con tin liên quan đến các chiến binh Hồi giáo và ngụ ý để thúc đẩy các giá trị của cải cách dân chủ. Tổ chức phi chính này cũng tham gia với Hiệp hội Quốc gia Libya chống ma túy, mà Seif là Chủ tịch. Seif tốt nghiệp tiến sĩ vào năm 2008 tại Trường Kinh tế London. Ông đã tham gia vào chính trị Libya trong một thời gian và được nhiều người coi là tiếng nói của cải cách bên cạnh cha mình. Trong khi theo học tại London vào năm 2003, ông được cho là đã tiếp cận MI6 để cảnh báo họ về vũ khí hủy diệt hàng loạt của Gadhafi, dẫn đến các cuộc thảo luận để phá bỏ. Ông đã đòi được được bồi thường từ Ý, nước thực dân cũ của Libya, cũng như giúp đỡ các nạn nhân của cả hai cuộc không kích do Libya tài trợ. Seif al-Islam Gadhafi, tuy nhiên, cũng biện hộ cho sự vô tội của 7 người Libya bị kết án trong từng vụ khủng bố và đã tham gia vào cuộc đàm phán dẫn đến việc phóng thích Abdelbaset al-Megrahi, người đã bị kết án trong vụ tấn công Lockerbie, vào năm 2009. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2004 với tờ Globe and Mail, Seif yêu cầu chính phủ Canada ngỏ lời xin lỗi vì đã tham gia lệnh trừng phạt kinh tế đối với Libya trong quá khứ và đã từ chối cấp visa cho Seif du học tại Canada vào năm 1997. Những người con khác Moammar Gadhafi hiện đang sống với người vợ thứ hai Safia Farkash và có tám con, bảy người trong số đó là con với Farkash. Con trai lớn, Muhammad al-Gadhafi, là người đứng đầu Ủy ban Olympic Libya. Con trai thứ ba, Saadi Gadhafi, đứng đầu Liên đoàn bóng đá Libya. Dong chi vi dai "Mutassim Gadhafi" và Hillary Clinton Nguồn: bollyn.com -------------------------------------------------------------------------------- Mutassim Gadhafi, con trai thứ tư của ông, hiện đang Cố vấn An ninh Quốc gia Libya. Ông đã đến thăm Washington vào năm 2009 để hội kiến với Ngoại trưởng Hillary Clinton, đại diện cho cuộc họp cấp cao ngoại giao giữa hai nước kể từ khi quan hệ của họ đã được đổi mới trong những năm trước. Mutassim cũng bị cáo buộc bởi một số được liên quan đến cái chết trong một nhà tù Libya của Ibn Al Sheikh Al Libi, một cựu tù nhân của CIA, khi bị tra tấn thú nhận đã tham gia trong dự án vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq. Hannibal Gadhafi đã là đề tài trên khắp báo giới Châu Âu vì những hành vi thất thường và bạo lực. Ông tấn công ba cảnh sát Ý với một bình chữa cháy năm 2001, ông đã bị bắt giữ năm 2004 sau khi bị chận lại vì lái chiếc Porsche quá vận tốc trong khi say rượu và đi ngược hướng trên đại lộ Champs Elysees tại Paris; trong năm 2005, ông lãnh án bốn tháng tù treo vì hành hung người bạn gái, bây giờ vợ của ông, Aline Skaf. Hannibal và vợ đã bị bắt giữ tại Geneva năm 2008 vì hành hung hai nhân viên của họ. Sự việc này đã khởi đầu một loạt các biện pháp Libya tẩy chay Thụy Sĩ tại, kể cả việc gọi về nước các nhà ngoại giao của họ từ Bern và việc buộc các văn phòng công ty Thụy Sĩ đanmg hoạt động ở Libya phải đóng cửa. Nhung nguoi me vi dai cua dat nuoc Libya anh hung , Ayesha al-Gadhafi Nguồn: .allvoices.com -------------------------------------------------------------------------------- Con gái duy nhất của Moammar Gadhafi, Ayesha al-Gadhafi, là một luật sư trong năm 2004 đã gia nhập đội ngũ biện hộ cho Saddam Hussein. Ayesha cũng tham gia vào việc bảo vệ của nhà báo Muntadhar al-Zaidi, sau khi ông ném giày của mình vào Tổng thống George W. Bush trong một cuộc họp báo tại Baghdad. Con gái nuôi của Gadhafi, Hanna, đã bị giết trong chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ của Libya vào năm 1986
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 3:32:04 GMT 9
Trung Quốc và Đông Nam Á
Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA ...Bắc Kinh muốn biến cả khu vực Đông Nam Á thành vùng ‘trái độn quân sự’...Từ ba tháng nay, Trung Quốc đã gây ra nhiều vụ đụng độ liên tiếp trên vùng biển Đông Nam Á khiến nhiều nhà quan sát quốc tế nói đến sự bành trướng của Trung Quốc vào một khu vực có nhiều mối lợi kinh tế. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về hồ sơ này qua phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa. Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, vì những biến động vừa qua trên vùng biển Đông Nam Á, chúng tôi xin đề nghị là kỳ này ta sẽ tìm hiểu về mục tiêu bành trướng của Trung Quốc trong khu vực. Đó là kinh tế vì tài nguyên ở nơi đó hay còn là những gì khác? Như mọi khi, xin ông trình bày cho bối cảnh của hồ sơ rất phức tạp này. Nguyễn Xuân Nghĩa: - Về bối cảnh thì ta nên ngó qua cuốn lịch và tấm bản đồ để xác định thời gian và không gian trước khi tìm hiểu. Nhưng trước hết, tôi xin đề nghị với người Việt ta là khỏi dùng từ "Trung" để nói về xứ này mà nên dùng từ "Hoa" xưa nay vẫn thông dụng, như "Hoa kiều", "Hoa quân nhập Việt" hay "Tân Hoa xã". Chỉ dân Trung Quốc mới dùng từ "Trung" do hàm ý họ là trung tâm của thiên hạ, mà chẳng hiểu sao ngày nay Hà Nội lại dùng chữ đó! - Về cuốn lịch thì từ khi nhà Hán tiêu vong thời Tam Quốc, xứ này có lịch sử quãng 1.800 năm mà phân nửa là nội chiến và loạn lạc. Và gần 600 năm bị các dị tộc như Liêu, Mông, Mãn, đô hộ, hoặc bị Nhật xâm lăng, bị Tây phương xâu xé. Giai đoạn 150 năm suy bại gần đây - là thế kỷ 19 và 20 - khiến dân tộc này có mặc cảm nặng. Ngày nay lãnh đạo của họ khai thác tâm lý đó và giãi bày sự thể như một dân tộc nạn nhân phải giành lại sự vinh quang chính đáng của lịch sử. - Tấm lịch lầm than đó còn khiến ta nên lạnh lùng nghĩ là trong thế kỷ 21 này chưa chắc Trung Quốc đã thống nhất như hiện nay! Lãnh đạo của họ cũng ý thức như vậy nên rất sợ cái lẽ hợp tan đã từng thấy trong lịch sử. Vì vậy, tánh khoa trương về chủ nghĩa Đại Hán ưu việt và nỗi lo bị phân hoá thành nhiều mảnh đã thấy trong quá khứ là hai động lực đang chi phối cách xử trí của họ. Trong khi ấy, việc sinh hoạt hòa đồng với thể giới là mới chỉ có từ ba chục năm nên chưa là ý thức phổ biến trong một xã hội chưa chấp nhận tinh thần tự do, cởi mở và không ai được có độc quyền chân lý. Vũ Hoàng: Đó là về cuốn lịch, là yếu tố lịch sử có ảnh hưởng đến tâm lý của giới lãnh đạo và cả quần chúng. Còn về tấm bản đồ như ông nói, mình có thể nhìn ra những gì? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Về tấm bản đồ thì lãnh đạo đời nay dựa vào bản đồ nhà Đại Thanh thời cực thịnh để nói về lãnh thổ và các vùng phiên trấn ngoại vi của họ, lại còn nhập nhằng kể thêm kết quả chinh phục thời Nguyên Mông. Thực tế thì lãnh thổ của Trung Quốc không rộng lớn như vậy, nhất là không xuống tới vùng biển Đông Nam Á. - Về miền Đông, ta không quên là hơn trăm năm, từ thế kỷ 13 qua 14, biển Đông của họ là nơi hải tặc hoành hành. Họ gọi là "Nụy khấu", giặc lùn từ Nhật mà cũng là cướp biển người Hoa, nhân vật Từ Hải là một thí dụ. Thế rồi vì kinh tế lụn bại sau 20 năm xâm chiếm Đại Việt - từ 1407 đến 1427 - lại bị Hung Nô uy hiếp và các nho thần hủ lậu can gián, nhà Minh Tuyên Đức ra lệnh "Hải cấm" là cấm thuyền bè buôn bán ngoài biển sau khi Tam bảo Thái giám là Đô đốc Trịnh Hoà tạ thế năm 1433. Đến đời Minh Long Khánh, là Mục Tông, vào năm 1567, mới thu hồi lệnh đó. Qua đời Thanh, chính sách bế quan tỏa cảng ấy lại được áp dụng nữa. - Tức là mấy trăm năm liền, Trung Quốc bỏ ngỏ Đông Nam Á, là nơi thương nhân quốc tế tấp nập buôn bán với Đàng Trong của các Chúa Nguyễn. Đấy là lý do khiến Nhật chứ không phải Trung Quốc đã góp phần lập ra trung tâm Hội An của nước ta. Sau đấy, người Hoa có đến vùng đất này như tại nhiều xứ khác trong khu vực, nhưng là di dân tỵ nạn mà thôi. Vì vậy, khi Bắc Kinh đòi chủ quyền trên các quần đảo Đông Nam Á là họ nhập nhằng với lịch sử! - Qua thế kỷ 20, chiếm xong Hoa lục năm 1949 Mao Trạch Đông mới ngó xuống Đông Nam Á, mà để gieo rắc hạt nhân cộng sản tại Lào, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippines nên gây phản ứng chống cộng và bài Hoa dữ dội tại các xứ này. Việt Nam là ngoại lệ, lại còn hãnh diện về sự yểm trợ đó cho nhu cầu cách mạng vô sản cho đến năm 1979 mới hiểu ra, tôi e chừng là vẫn chưa hiểu ra! Khi Trung Quốc bắt đầu cải cách thì Bắc Kinh mới thay đổi dần cách tiếp cận với Đông Nam Á, bằng những bước rất nhẹ. Vũ Hoàng: Sau bối cảnh địa dư và lịch sử, ta đi vào mục tiêu của Trung Quốc tại Đông Nam Á. Họ muốn những gì mà đưa ra một bản đồ về vùng đặc quyền kinh tế bao trùm lên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Thưa ông, có phải là trữ lượng dầu thô và khí đốt rất dồi dào ở bên dưới hay không? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa rằng năng lượng là một nhu cầu khi họ cần nhiên liệu cho công nghiệp và đánh giá trữ lượng dầu thô trong vùng biển quốc tế này là từ 28 tỷ đến 213 tỷ thùng. Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ ước đoán trữ lượng khí đốt là 27 ngàn tỳ thước khối. Nhưng vấn đề nào chỉ có vậy khi mà Trung Quốc không giải quyết nhu cầu kinh tế của họ qua giao thương bình thường và ôn hòa như các xứ khác? Chẳng lẽ cứ thấy nơi nào có tài nguyên thì lại nhận là của mình? Tôi thiển nghĩ Bắc Kinh nhắm vào nhiều mục tiêu một lúc, mà người ta có thể hiểu ra nếu kết hợp chuyện lịch sử ngày xưa và kinh tế ngày nay của họ. - Lãnh đạo Trung Quốc sợ nội loạn và ngoại xâm nên lãnh đạo mọi thời đều nhắm vào ba mục tiêu chiến lược là 1) bảo đảm sự cai trị thống nhất của Hán tộc bên trong lãnh thổ, 2) kiểm soát được vùng trái độn quân sự ở vòng ngoài và 3) bảo vệ được sự an toàn của khu vực duyên hải. Từ 1979 trở đi, khi mở cửa trao đổi để công nghiệp hóa xứ sở bằng kinh tế thì lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc cần nguyên nhiên vật liệu và nông sản và thị trường xuất cảng ở bên ngoài. Đấy là lúc mà họ ý thức được một sự thật khác: Trung Quốc bát ngát và cao ngạo như vậy chỉ là xứ đói ăn và khát dầu. Phản ứng tự vệ dễ hiểu khiến họ muốn kiểm soát tất cả và bằng mọi cách. Vũ Hoàng: Như ông phân tích thì Trung Quốc có những mục tiêu đa diện vì bao gồm cả kinh tế, chính trị lẫn an ninh chiến lược, mà an ninh mới là then chốt, có phải không? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như thế và lãnh đạo của họ hiểu chữ an ninh trong thế động, tức là phải biến hóa, và "toàn phương vị", tức là mở ra cả bốn phương! - Họ đòi chủ quyền kinh tế trên vùng biển Đông Nam Á để chiếm tài nguyên và kiểm soát nguồn cung cấp cho 80% lượng dầu nhập khẩu qua eo biển Malacca. Lên lãnh đạo năm 2003, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói đến "Nan đề Malacca" vì yết hầu này mà bị khóa là xứ sở bị thiếu dầu! - Yêu cầu an ninh toàn phương vị khiến Trung Quốc không chỉ đòi khống chế Đông hải của Việt Nam mà còn khai triển giải pháp đầu tư kinh tế và quân sự vào Đông Dương, Miến Điện, Pakistan hầu kiểm soát tình hình từ biển Thái bình qua Ấn Độ dương, từ Vịnh Bengal tới Biển Á Rập qua Trung Đông, Phi Châu và Âu Châu. Việc họ lạm thác sông Mekong và mở đường thông thương từ các tỉnh bị khóa trong lục địa ra tới biển ở chung quanh Việt Nam cũng nằm trong hướng đó. Cho nên kinh tế là mục tiêu mà cũng là phương tiện, y như ngoại giao hay chính trị vậy. Vũ Hoàng: Nếu hiểu như vậy thì mục tiêu không chỉ là năng lượng hay tài nguyên ngoài Đông hải. Nhưng Bắc Kinh tiến hành những việc đó như thế nào trước cộng đồng thế giới và khu vực? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Khu vực này có 10 hội viên của Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN, gồm năm xứ trong lục địa là Việt Nam, Lào, Cambốt, Miến Điện và Thái Lan và năm xứ hải đảo là Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei và Singapore. - Vì địa dư và lịch sử, họ chi phối mỗi xứ một cách, nhưng trên đại thể, hiệp hội chỉ là câu lạc bộ kinh tế có mục tiêu hợp tác ngoại thương và Trung Quốc triệt để khai thác việc đó từ năm 1993 trở đi. Thế giới lạc quan với thị trường một tỷ 600 triệu dân Hoa lục và ASEAN với Hiệp định Tự do Thương mại áp dụng từ đầu năm ngoái và đưa ra nhiều thống kê ngoạn mục về đầu tư và hợp tác. Nhưng dưới con mắt Bắc Kinh, có lẽ các nước ASEAN hành xử như nước Tề lý tài trước cường Tần trong thời Chiến Quốc, nên bị dính mồi kinh tế! Vấn đề nó không chỉ là kinh tế. - Từ nguyên thủy, Bắc Kinh có nhu cầu họ coi là sinh tử về chính trị là thôn tính được Đài Loan thì mới thật sự thống nhất đất nước vì lẽ chính danh. Họ gọi đó là "hạch tâm nghĩa lợi" hay "quyền lợi cốt lõi". Chưa làm được việc ấy sau khi đã thu hồi Hong Kong và Ma Cao thì họ phải cô lập Đài Loan với Đông Nam Á và trấn an khu vực này rằng đây là chuyện nội bộ, chứ Trung Quốc rất hiếu hòa. Nhưng đấy là chuyện xưa. Từ năm 2003, ý niệm "quyền lợi cốt lõi" xuất hiện thường xuyên và mở rộng hơn, từ Tân Cương, Tây Tạng qua tới Đông hải. Vũ Hoàng: Thưa ông, hiểu như vậy thì kinh tế chỉ là miếng mồi, thế lưỡi câu giấu kín bên trong là gì? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thực tế thì Bắc Kinh muốn biến cả khu vực Đông Nam Á thành vùng "trái độn quân sự" theo khái niệm truyền thống của họ. Đó là "quyền lợi cốt lõi" được hiện đại hóa theo ý tích cực và triệt để. - Về chính trị, họ tiến hành qua ba ngả là: dùng ngoại giao trấn an các nước về thiện chí gọi là "quật khởi hòa bình" và dàn xếp mâu thuẫn bằng thương thảo; hai là dùng giao thương kéo Đông Nam Á vào quỹ đạo của họ; và thứ ba, khai thác mọi định chế hay diễn đàn trong khu vực để có cơ hội đối thoại tập thể nhưng tranh thủ từng nước qua mua chuộc theo lối bẻ đũa từng chiếc. - Kín đáo bên dưới là nỗ lực tuyên truyền, kiều vận và thậm chí khuynh đảo qua việc đưa người vào đầu tư, cấp học bổng và lập ra các đền thờ Khổng tử hay hội Khổng học. Dùng Khổng tử phát huy đức sáng của Hán tộc cũng là cách tuyên truyền khá công hiệu! Nhưng đấy chỉ là khía cạnh rơi rớt lại từ chủ trương của Đặng Tiểu Bình là dùng quyền lực âm nhu mà khỏi gây hãi sợ gọi là "đạo quang dương hối" - che giấu sức mạnh và bày tỏ thiện chí. Vũ Hoàng: Hình như những động thái vừa qua của họ lại ra khỏi phương thức âm nhu hay ôn hòa như ông vừa trình bày. Tại sao lại như thế? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nếu chỉ nhìn qua số liệu giao dịch kinh tế giữa Trung Quốc và Hiệp hội ASEAN, ta chưa thấy hết sự công hiệu của lối tranh thủ ôn nhu này. Thực ra, các nước nơi đây cần thấy rằng Bắc Kinh tuyệt đối tránh đưa vụ tranh chấp chủ quyền ra thảo luận trên diễn đàn quốc tế đa phương trong khi ráo riết viện trợ hay đầu tư vào từng nước theo những điều kiện dễ dãi mà chả gây chuyện phiền hà gì về nhân quyền hay môi sinh. Và lãnh đạo Bắc Kinh giải thích với thần dân u mê của họ rằng đây là hình thức "triều cống" mới mà ta sẽ có dịp tìm hiểu sau. Họ tìm chư hầu hay thân chủ qua ngả song phương và quả là liên kết được với một số quốc gia thiếu dân chủ vì dân chúng không được có tiếng nói. - Bây giờ, khi ngầm tranh thủ từng quốc gia trong Hiệp hội thì Bắc Kinh lại dở đòn uy hiếp, có thể là do sức ép của quân đội và các thành phần cực hữu Maoist khi họ tác động vào Đại hội 18 của năm tới. Cũng có thể là do nhiều khó khăn chồng chất bên trong mà Bắc Kinh gây sóng gió bên ngoài để khai thác tự ái dân tộc hầu giải tỏa những bất mãn của quần chúng. - Khi ấy, các nước có thể chọn giải pháp thỏa hiệp, thì lãnh đạo sẽ có lợi do sự mua chuộc của Bắc Kinh. Hoặc nếu muốn bảo vệ chủ quyền và độc lập thì gặp rủi ro xung đột. Nhìn ngược lại thì đây là cơ hội cho ASEAN thức tỉnh và phát huy tiếng nói thống nhất của cả tập thể 10 nước để nêu vấn đề với Trung Quốc. Khi ấy, vấn đề không còn là của từng hội viên mà là thách đố chung và cũng trở thành vấn đề của cả thế giới, trên một khu vực chiến lược của kinh tế toàn cầu vì chi phối đến 40% lượng hàng hóa giao dịch của nhân loại. - Để kết luận thì do nhu cầu an ninh chủ quan, Bắc Kinh muốn xây dựng sức mạnh quân sự nhằm kiểm soát vùng biển cận duyên, là biển xanh lục, và tiến tới vị trí một đại cường hải dương có khả năng can thiệp viễn duyên, là biển xanh dương. Đấy là bài toán của thế giới, cũng gay go như khi xứ này bị nội loạn và lại tan rã, cho đến ngày họ chấp nhận dân chủ và thể chế liên bang. Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 2, 2011 11:30:59 GMT 9
Vì Sao Ông Dũng Phải Nhắc Đến Việt-Nam Cộng-Hòa 11/30/2011 Tác giả : Tâm Việt Vì sao ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ-tướng CSVN, thứ Sáu vừa rồi, 25 tháng 11, đã phải nhắc đến ba lần đích-danh "chính-phủ Việt-nam Cộng-hoà" khi trả lời hai đại-biểu Quốc-hội ở Hà-nội về vấn-đề chủ-quyền của VN trên biển Đông? Làm việc này, có người cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng đã tiến bộ rất lớn so với 3,6 triệu người đồng-đảng của ông trong hơn 36 năm qua kể từ khi CS miền Bắc cưỡng-chiếm xong miền Nam vào tháng 4/1975. Để hiểu vấn-đề, ta nên nhớ lại là khi CS mới vào Sài-gòn, họ hoàn-toàn phủ-nhận chính-quyền miền Nam và gọi đó là "nguỵ-quân, nguỵ-quyền." Cho đến khi Nguyễn Văn Linh quyết-định về chính-sách Đổi Mới (1986) thì mới có quyết-định tránh dùng hai chữ "nguỵ-quân, nguỵ-quyền" mặc dầu thỉnh thoảng rơi rớt, các sách báo Hà-nội và các cơ-quan tuyên-truyền của Hà-nội vẫn vô tình hay cố ý dùng hai chữ miệt-thị này. Nhưng ngày nào Hà-nội còn không công-nhận chỗ đứng chính-danh của chính-quyền miền Nam, một quốc gia được 60 quốc gia khác trên thế-giới công-nhận trong một thời-gian dài (từ 1948 đến 1975), thì ngày đó Hà-nội không giẫy được ra cái nghịch-lý này: Một là Phạm Văn Đồng, bằng công-hàm ngày 14/9/1958, đã (a) hoặc là "bán da gấu" cho Chu Ân-lai khi công-nhận định-nghĩa chủ-quyền của Trung-Cộng 10 ngày trước đó, nghĩa là bán một vật mà không thuộc quyền sở-hữu của Hà-nội lúc bấy giờ; (b) hoặc là đã trắng trợn dối trá, không nói sự thật, tóm lại là đã "bất tín" đối với Bắc-kinh khi biết rõ là mình viết một tờ giấy lộn. Cả hai thái-độ đều không thể chấp nhận được trong đời sống quốc-tế và cũng chính vì thế mà Bắc-kinh đã nắm đầu được Hà-nội từ bấy lâu nay vào trong một cái vòng kim-cô không thể gỡ ra nổi. (Cũng chính vì thế mà ông Lưu Văn Lợi, khi đã bỏ thời giờ ra viết nguyên một cuốn sách về chuyện này, vẫn không gỡ tội được cho ông Phạm Văn Đồng, và chúng ta cũng phải hiểu là cho ông Hồ Chí Minh bởi không thể nào ông Phạm Văn Đồng có thể tự ý mà viết được cái công-hàm "đưa đầu vào thòng lọng" kia.) Nhưng khi công-nhận một sự thật hiển-nhiên như ông Nguyễn Tấn Dũng vừa làm hôm thứ Sáu vừa qua thì mọi sự sáng tỏ. Tuy lời phát biểu long trọng của ông trước Quốc-hội CS ở Ba Đình là một đòn trời giáng vào một vị tiền-nhiệm của ông, nó ít nhất gỡ được VN ra khỏi cái vòng kim-cô mà bấy lâu nay ông và các "đồng-chí" của ông không cục cựa ra khỏi được! Nó cũng ít nhiều chứng tỏ là ông có bản-lĩnh hơn các cấp lãnh-đạo đồng-đảng của ông (dù cũng như nhiều phát biểu của ông trước đây, nó cũng tỏ ra ông có thể là một con người bất nhất--tựa như lời tuyên-bố của ông chống tham-nhũng khi ông mới ngồi vào ghế thủ-tướng). Bất nhất nhưng biết sửa cái sai trước đây thì vẫn là một thái-độ can đảm, can đảm hơn 3,6 triệu con cừu trong đảng của ông! Cái được Cái được thứ nhất là ông chứng tỏ ông cao hơn các đồng-uỷ-viên Chính-trị-bộ của ông một cái đầu. Song cái đó chỉ là một cái được cá-nhân, nó chưa ý nghĩa gì lắm khi, như ông Bùi Tín đã có hơn một dịp nhắc, cả cái Bộ Chính-trị ở Hà-nội là một đám người lùn! Cái được hơn là qua lời phát biểu của ông, ông đã trả lại được danh-dự cho một chế-độ tưởng đã chết. Không những chế-độ đó đã không chết, nó còn đang cần phải dựng lại để đem chính-nghĩa về cho Việt-nam, để đảm bảo sự liên-tục chủ-quyền lịch-sử của VN từ thế-kỷ thứ XVII (dưới thời các chúa Nguyễn, như chính ông Dũng cũng đã xác-nhận) qua thời thuộc Pháp sang đến thời Quốc gia VN của ông Bảo Đại (Hội-nghị San Francisco năm 1951), thời Đệ nhất Cộng-hoà của ông Ngô Đình Diệm và thời Đệ nhị Cộng-hoà kế-thừa đất nước từ chính-phủ Ngô Đình Diệm. Có thế tháng 1/1974, Hải-quân VNCH mới dám chống trả (anh-dũng) tàu xâm-lăng của Trung-Cộng vào Hoàng-sa và có thế ta mới tin tưởng đủ ở chính-nghĩa của ta để xin đưa vấn-đề ra Liên-hiệp-quốc. Xin nhắc lại ngay lời của ông Dũng ở đây: "Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, chính quyền VNCH đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp." Nói như ông Dũng tuy là gan cùng mình song chính thật cũng là chỉ đi theo dân mà thôi. Bởi chính người dân thường ở ngay Hà-nội, qua nhiều chủ-nhật trong tháng 6 tháng 7 năm nay, đã trưng tên và cả hình ảnh của các chiến-sĩ Hải-quân VNCH chết trong trận hải-chiến Hoàng-sa vào tháng 1/1974 để gọi họ là anh-hùng. Tóm lại, nói như ông Dũng chẳng qua chỉ là đi theo người dân để mua lại, vớt vát chút niềm tin mà người dân đã mất từ lâu vào đảng CS của ông! Vì sao? Thiết tưởng trả lời câu hỏi này cũng không khó. Ông Nguyễn Tấn Dũng có thể mù mờ nhiều chuyện (như chuyện bauxit, chuyện PMU 18, chuyện Vinashin...) song ông chắc chắn là một con người chính-trị, nhìn ra được những nguy-cơ sắp đổ vào đầu chế-độ của ông--và thế cũng có nghĩa là vào đầu ông. Một, chuyện Mùa Xuân Ả-rập đã từ tháng 2 năm nay đánh sập các chế-độ chuyên-quyền--tưởng vững như bàn thạch--ở Tunisie, Ai-cập, Lybia, sắp tới là Yemen (ông Saleh đã bằng lòng từ chức), và có lẽ không bao lâu nữa sẽ đến lượt Syria của ông Bashar al Assad (Liên-đoàn Ả-rập cấm vận chế-độ của ông, Thổ-nhĩ-kỳ kêu gọi ông từ chức). Hai, Miến-điện đã ngưng dự-án đập Myitsore do Trung-Cộng tài-trợ, thả trên 300 tù-nhân chính-trị, sửa cả hiến-pháp để cho bà Aung San Suu Kyi có thể ra tranh cử trở lại mặc dù bà đã là một "tù-nhân" chính-trị trong hơn 20 năm. Dựa vào những bước đầu ý nghĩa này, bà Ngoại-trưởng Hoa-kỳ Hilary Clinton sắp sang Miến-điện gặp cả phe chính-quyền lẫn linh-hồn của phe đối-lập là bà Suu Kyi. Ba, tình-hình kinh tế VN hôm nay vô cùng bi đát, đầu tư ngoại-quốc cạn dần, thị-trường chứng-khoán thì coi như không có, lạm-phát ở mức trên 20 phần trăm (và cao hơn nhiều nữa trong nhiều mặt nhu-yếu-phẩm), hệ-thống ngân-hàng phải tái-cơ-cấu vì có nguy-cơ sụp đổ ngày một ngày hai và chính-quyền đang chuẩn-bị cho một đợt ăn cắp vàng và đô-la của dân... nghĩa là tuyệt vọng! Trong khi đó thì Trung-Cộng đang ép cho đến tắc thở! Chưa đủ Trong thế này, ông Dũng đang tìm cách gỡ bí. (Ta không nên tin những nguồn tin cho rằng giữa các ông Dũng và ông Sang, ông Trọng đang có những chia rẽ trầm trọng!) Song cũng phải nói ngay là một lời tuyên-bố như của ông hôm rồi vẫn chưa đủ--dù như sự tương-đối yên lặng của Bắc-kinh trước lời tuyên-bố đó cũng chứng tỏ là nước bước mới của ông đang có hiệu-ứng, làm cho Trung-Cộng khá lúng túng, chưa biết trả lời làm sao. Điều cần làm hơn nữa là để có hậu-thuẫn từ người dân, ông và những "đồng-chí" của ông cần bắt chước Miến-điện để mà nới lỏng dần chế-độ, đưa 90 triệu dân sớm đến một chế-độ dân-chủ thực-sự, có nhân-quyền, có tự do báo chí và ngôn-luận, có tự do hội họp và quyền thành-lập hội-đoàn, đoàn-thể, công-đoàn để có thể đi đến một chế-độ dân-cử đích-thực trong đó người dân, trong vài ba năm, có thể có được những cuộc bầu cử lương thiện nhằm chọn những đại diện xứng đáng cho 90 triệu dân--đưa đất nước vào một con đường xán lạn.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 6:06:05 GMT 9
Trung Quốc Và Những Cam Kết Với WTO 12/14/2011 Tác giả : Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA ...TQ đã lên bậc thang cao hơn về kỹ thuật để vượt qua Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan mà trực tiếp cạnh tranh với Hoa Kỳ...
Mười năm sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều nhưng vẫn duy trì những chính sách kinh tế có tính chất biệt đãi và đi ngược những cam kết khi xin gia nhập. Cũng nhân dịp kỷ niệm này, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cam kết tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc sẽ cởi mở kinh tế hơn và nhập khẩu nhiều hơn nữa để tái lập quân bình giao dịch toàn cầu. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về hồ sơ đó qua phần trao đổi sau đây cùng chuyên gia tư vấn Nguyễn Xuân Nghĩa của đài Á châu Tự do.Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đúng 10 năm trước, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và trở thành nền kinh tế dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nhưng cũng bị nhiều thành viên của tổ chức này than phiền là không tôn trọng những cam kết giải tỏa kinh tế theo đúng với quy định. Từ phía Hoa Kỳ, Văn phòng Đại diện Thương mại của Phủ Tổng thống còn có một báo cáo phê phán Trung Quốc là gia tăng mức độ can thiệp vào kinh tế qua các chính sách công nghiệp có nội dung lệch lạc về thương mại để bảo vệ khu vực doanh nghiệp nhà nước của mình. Chúng tôi xin đề nghị là ta cùng mở hồ sơ WTO của Trung Quốc và như thông lệ xin ông trình bày bối cảnh của hồ sơ cực kỳ phức tạp này. Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đây là một câu chuyện xa xưa mà ta nên đặt trong khung cảnh của quốc tế lẫn của Trung Quốc từ mấy chục năm trước thì mới có thể hiểu ra nhiều khúc mắc. - Sau Thế chiến II, các quốc gia theo kinh tế thị trường đã nỗ lực hội nhập việc mua bán trong khuôn khổ tự do với rất ít rào cản vì tin rằng và đã thấy là tự do giao thương có góp phần phát triển kinh tế của mọi thành viên. Đó là nguyên ủy của tổ chức thương mại tự do gọi tắt là GATT, General Agreement on Tariffs and Trade. Khi đó, Trung Quốc vẫn còn theo đuổi chính sách tập trung quản lý và liên tục bị khủng hoảng vì sự hoang tưởng sắt máu và tốn kém của Mao Trạch Đông. Họ chỉ khởi sự cải cách từ đầu năm 1979 trở đi. - Năm 1987, Trung Quốc thay thế Trung Hoa Dân Quốc của Đài Loan, vốn là một sáng lập viên của tổ chức GATT này, và bắt đầu thương thuyết với các thành viên về điều kiện giao dịch tự do. Đầu năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thành hình để thay thế cơ chế GATT và Trung Quốc tiếp tục thương thuyết, theo quy tắc chung là phải được từng thành viên đồng ý. Nhưng ta không quên rằng Trung Quốc cũng vừa trải qua vụ khủng hoảng có nguyên nhân kinh tế khiến mấy ngàn người dân bị tàn sát tại Quảng trường Thiên an môn vào năm 1989. Họ xin gia nhập theo thế thủ vì muốn có lợi về kinh tế mà không bị những biến động về chính trị. Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế theo xu hướng tự do, đoạt được ưu thế của Đài Loan trong một cơ chế quốc tế và muốn có được mối lợi kinh tế mà vẫn tránh những rủi ro về chính trị. Họ thương thuyết thế nào trong giai đoạn xin gia nhập đó? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Không chính thức nói ra, duy có một lần là khi đàm phán với Mexico, lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn viện dẫn hoàn cảnh gọi là "đang phát triển" của mình để xin được một số điều kiện đặc miễn, tức là sẽ chỉ giải toả từng bước. Nghệ thuật đàm phán truyền thống của Trung Quốc là đổ lỗi cho ai khác về tình trạng chậm tiến của họ và khai thác mặc cảm phạm tội của các nước Tây phương. Khi ấy, các thành viên WTO cũng đồng ý nhưng với điều kiện là sẽ phải rà soát việc Bắc Kinh tuân thủ những cam kết của mình. Vũ Hoàng: Trong số các thành viên đó thì có Hoa Kỳ. Lập trường của Mỹ khi đó ra sao? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hoa Kỳ kết giao với Trung Quốc từ năm 1972, bang giao từ năm 1979 và thực tế là trục xuất Đài Loan ra khỏi các cơ chế quốc tế như Liên hiệp quốc hay GATT cho Trung Quốc vào thay thế. Hoa Kỳ khi đó muốn tạo điều kiện cho Trung Quốc chuyển hoá theo chế độ tự do và trở thành đối tác biết điều và có trách nhiệm trên diễn đàn quốc tế. Đó là chủ trương của cả hai đảng theo nhau lãnh đạo nước Mỹ. Nhưng muốn gia nhập tổ chức GATT hay WTO thì Bắc Kinh còn phải đạt thỏa thuận với từng thành viên khác. - Sau 15 năm thương thuyết, khi Bắc Kinh cam kết tuân thủ mọi đòi hỏi của WTO thì Hoa Kỳ mở nốt cánh cửa còn lại, đó là quyết định của Chính quyền George W. Bush ngày 27 tháng 12, năm 2001, chính thức công nhận quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc, thời ấy gọi theo tên mới là quy chế "Thương mại Bình thường và Thường trực" PNTR. Vì vậy, dù người ta ghi ngày 11 Tháng 12 là ngày Trung Quốc chính thức là hội viên thứ 143 của WTO, sự thật thì quy chế gọi là PNTR này mới là then chốt, cũng tương tự như cho Việt Nam vào năm 2007 vậy. Vũ Hoàng: Thế còn báo cáo hôm 12 vừa qua của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ về việc Trung Quốc tuân thủ những cam kết với Tổ chức WTO, thưa ông, báo cáo đó là gì? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Ta bước qua phần bối cảnh chính trị của nước Mỹ là một xứ dân chủ. - Vào giai đoạn thương thảo quan trọng nhất với Bắc Kinh, thời Tổng thống Bill Clinton, Quốc hội Mỹ có theo dõi kỹ và tỏ vẻ hoài nghi nên chỉ đồng ý phê chuẩn các quyết định của Hành pháp với điều kiện lập ra cơ chế thẩm xét mối quan hệ với Bắc Kinh. Đó là Hội đồng Duyệt xét Quan hệ Mỹ-Hoa về An ninh và Kinh tế, một bộ phận tư vấn cho Lập pháp cân nhắc lợi hại trong bang giao với Trung Quốc. Đó là thế thủ của phía Hoa Kỳ, hơi khác với quan điểm chủ đạo của lãnh đạo Hành pháp thời ấy là đổi thay về kinh tế có thể dẫn đến đổi thay về chính trị - mà Trung Quốc gọi là "diễn biến hoà bình"! - Hội đồng gọi tắt là USCC này thường xuyên rà soát và khuyến cáo Quốc hội về mọi động thái của Bắc Kinh, kể cả chủ trương hay dụng ý về chính sách an ninh hay kinh tế. Hôm 16 Tháng 11 vừa qua, Hội đồng công bố phúc trình thường niên cho năm 2011 với khuyến cáo rất nặng là phải yêu cầu Hội đồng An ninh Quốc gia bên Hành pháp duyệt lại đối sách với Trung Quốc. Bản báo cáo hơn 400 trang này có rất nhiều chi tiết đáng chú ý về hồ sơ kinh tế. - Phần mình, Hành pháp Mỹ có cơ chế đại diện cả nước để tiến hành đàm phán hay tranh tụng về thương mại, đó là Văn phòng Đại diện Thương mại do một viên chức có vị trí Đại sứ đảm nhận và tham dự Hội đồng Nội các. Đại diện Thương mại Mỹ có nhiệm vụ rà soát và tham khảo ý kiến của mọi thành phần liên hệ, kể cả các doanh nghiệp, để hàng năm báo cáo về giao thương với Trung Quốc sau khi xứ này gia nhập Tổ chức WTO. Hôm 12 vừa qua, Văn phòng này đã có báo cáo thứ 10, kể từ năm 2001, về việc Trung Quốc tuân thủ thế nào các cam kết với WTO hay với Hoa Kỳ. Báo cáo hơn trăm trang này cũng có những phê phán khá nghiêm khắc. - Nhân đây, tôi xin nói rằng ta phải tìm hiểu về bối cảnh và thấy ra là phía Hoa Kỳ thường xuyên bạch hóa mọi thông tin hay quyết định liên hệ đến việc buôn bán với các nước để dân chúng hoặc bất cứ ai quan tâm đều có thề theo dõi và thấy ra từng điểm lợi hại hầu có thế ứng phó hay tác động. Việt Nam nên có loại cơ chế thông tin tương tự, nhất là khi liên hệ đến một quốc gia láng giềng có ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế và an ninh của mình như Trung Quốc. Vũ Hoàng: Sau phần bối cảnh ly kỳ này, chúng ta bước qua nội dung của sự thẩm xét sau khi Trung Quốc tham dự WTO. Thưa ông, 10 năm sau, Trung Quốc đã có nền kinh tế lớn thứ nhì sau Hoa Kỳ và trở thành nước xuất khẩu số một, với khối dự trữ ngoại tệ lớn nhất, trị giá vượt quá 3.200 tỷ đô la. Vậy mà các nước vẫn cho là xứ này không tuân thủ các cam kết trong khuôn khổ WTO. Phải chăng đó là nội dung chính của hai bản báo cáo mà ông vừa nhắc tới? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa là không riêng gì Hoa Kỳ mà nhiều xứ khác kể cả khối Âu châu cũng than phiền về chế độ thực tế là bảo hộ mậu dịch của Trung Quốc nhằm trục lợi mà vẫn giành ưu thế cho thành phần kinh tế nhà nước, theo kiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước. - Phía Mỹ thì nêu rõ một số trường hợp thể và trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn của Mỹ, với nhu cầu gia tăng xuất khẩu và giảm thiểu thất nghiệp, những phê phán này tất nhiên gây phản ứng mạnh. Thật ra Bắc Kinh cũng thấy khó tiếp tục như vậy vì sẽ bị động loạn từ những mất cân đối ở bên trong, như diễn đàn của chúng ta đã nói tới vào cuối tháng 11 vừa qua. - Đi vào nội dung chi tiết, ta thấy ra một số vấn đề nổi bật: Thứ nhất, sau năm năm gia nhập, từ năm 2006 Trung Quốc đã là thành viên trọn vẹn và kỳ cựu chứ hết là tân tòng trong cơ chế giao thương tự do của thế giới. Vậy mà dù có tuân thủ một số cam kết và giải toả luật lệ kiểm soát mậu dịch để bung ra rất mạnh. xứ này vẫn lại lập ra những rào cản khác. - Thứ hai và đáng chú ý hơn cả, Trung Quốc đã thành thế lực cạnh tranh đáng ngại trong một lĩnh vực then chốt. Đó là sản xuất và bán ra các mặt hàng công nghiệp có trình độ công nghệ cao, như thiết bị gia dụng, máy điện toán. Xứ này không chỉ cạnh tranh với Mỹ trên các thị trường khác của thế giới mà còn xâm nhập mạnh vào thị trường Hoa Kỳ và vượt xa doanh nghiệp Mỹ. Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến một chi tiết lạ. Người ta thường nghĩ rằng Trung Quốc còn là một xứ nghèo có lực lượng lao động rất lớn và còn rẻ nên chiếm ưu thế cạnh tranh nhờ sản xuất ra các mặt hàng rẻ tiền có trình độ công nghệ thấp. Làm sao họ lại cạnh tranh và vuợt qua nước Mỹ về loại hàng công nghệ cao cấp được? Nguyễn Xuân Nghĩa. - Đấy là một khía cạnh đặc biệt mà Việt Nam nên theo dõi vì Trung Quốc đã lên bậc thang cao hơn về kỹ thuật để vượt qua Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan mà trực tiếp cạnh tranh với Hoa Kỳ. - Thí dụ như tính đến tháng Tám vừa qua, trong một năm họ bán vào Mỹ hơn 80 tỷ đô la các mặt hàng cao cấp này mà chỉ mua lại có hơn 13 tỷ, tức là đạt xuất siêu gần 68 tỷ với Mỹ trong lĩnh vực tưởng là sở trường của Hoa Kỳ. Chúng ta đều nghe nói đến việc Trung Quốc đạt xuất siêu hơn 280 tỷ đô la với Hoa Kỳ và chiếm hơn phân nửa số nhập siêu của Mỹ với cả thế giới, nhưng một phần tư của số xuất siêu này lại từ các thiết bị có công nghệ cao của họ! Cũng thế, chúng ta nghe nói nhiều đến việc Trung Quốc không tuân thủ những cam kết về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà mặc nhiên trục lợi nhờ sao chép phi pháp sản phẩm trí tuệ của xứ khác và thực tế làm doanh nghiệp Mỹ bị thất thu tức là bị lỗ gần 50 tỷ đô la. Sự thật còn nghiêm trọng hơn vậy. - Lý do ở đây, được phía Mỹ nhấn mạnh, là Trung Quốc còn có chủ đích can thiệp vào thị trường qua cái gọi là "chính sách công nghiệp" nhằm chọn ra các khu vực ưu đãi hệ thống doanh nghiệp nhà nước của họ khỏi bị các nước khác cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc. Bên trong chính sách công nghiệp hoá có chọn lọc và kỳ thị đó còn có một mục tiêu và ẩn ý đáng ngại. Đó là đòi hỏi giới đầu tư nước ngoài phải chuyển giao công nghệ, tức là cung cấp những bí quyết về kỹ thuật cho doanh nghiệp Trung Quốc có thể thu hẹp mức tụt hậu của họ và cạnh tranh thắng lợi với thiên hạ. Hồ sơ gây nhiều tranh tụng không chỉ là quyền sở hữu trí tuệ và nạn ăn cắp mà còn là việc định chế hóa sự thụ đắc bất chính những kiến thức về công nghệ tiên tiến. Bất chính vì đi ngược quy định của Tổ chức WTO khi đặt ra tiêu chuẩn gạn lọc và kỳ thị đầu tư nước ngoài. Vũ Hoàng: Qua phần trình bày của ông thì thính giả hiểu ra mối quan hệ giữa hai mảng hồ sơ lớn là việc bảo vệ tác quyền và chủ trương can thiệp vào kinh tế qua các chính sách công nghiệp với nội dung bảo vệ doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, quả là Trung Quốc đã có lợi lớn nhờ tham gia vào Tổ chức WTO. Nhưng thưa ông vì sao mà nhân dịp kỷ niệm 10 năm của biến cố này, ngày Chủ Nhật 11 vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào lại tuyên bố là Trung Quốc sẽ nới lỏng kiểm soát để nhập khẩu nhiều hơn hầu góp phần tại lập quân bình toàn cầu? Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng đấy là chuyện "bắt không được tha làm phúc"! - Trung Quốc có thể làm điều bất chính với thiên hạ và phủ nhận những cam kết cũ mà vẫn cho là chính đáng vì bảo vệ quyền lợi của mình. Đó là quan niệm về danh dự với màu sắc Trung Hoa, ta nôm na gọi là bá đạo. Nhưng chính là chiến lược can thiệp có chọn lọc qua chính sách công nghiệp và xuất khẩu bằng mọi giá, kể cả qua lũng đoạn ngoại hối và bảo hộ mậu dịch lại gây ra những hậu quả thất quân bình về kinh tế và bất công bất ổn về xã hội. - Được nâng đỡ và bảo vệ, doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc trở thành trung tâm đầu cơ thổi lên bong bóng, ngân hàng của nhà nước bị mất nợ, các địa phương vay mượn lung tung, tư doanh của họ bị phá sản và dân chúng bị lạm phát, bị cướp đất, v.v... Hậu quả của sự tinh ma đó với bên ngoài là nguy cơ động loạn bên trong nên Bắc Kinh mới phải cải cách và trình bày như thiện chí của một xứ văn minh. Chúng ta sẽ còn cơ hội trở lại hồ sơ cực kỳ rắc rối này. Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn hôm nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2012 10:43:47 GMT 9
Chiến lược mới của Hoa Kỳ trên thế giới 06/01/2012 Hoài Mỹ/Viễn Đông Hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis (CVN 74) trong eo biển Hormuz ngày 12-11-2011. Trong khi Hoa Kỳ xuống thang ở Iraq và Afghanistan thì việc gia tăng đầu tư cho hải quân và không quân sẽ là những mục tiêu sắp tới trong ngân sách quốc phòng - ảnh: Kenneth Abbate/US Navy.WASHINGTON - “Việc quốc phòng của chúng ta sẽ được giảm thiểu, nhưng thế giới cần biết rằng Hoa Kỳ vẫn duy trì vị thế quân sự thượng thặng của mình với những lực lượng vận chuyển rất nhanh chóng, uyển chuyển và luôn luôn sẵn sàng để đối diện với tất cả mọi hình thức đe dọa”. Trên đây là lời xác quyết của Tổng Thống Barack Obama khi ông trình bầy chiến lược mới ở Pentagon (Ngũ Giác Đài) cách nay hai ngày. Theo một nhân vật cao cấp, chính phủ Hoa Kỳ mong ước một chiến lược quân sự có tính cách “thực tế hơn”. Nguồn này nhấn mạnh: “Như chúng ta đã thấy ở Libya. Bạn không nhất thiết cần phải có các lực lượng thường xuyên ở trên bộ”. Chiến lược quân sự này đã được “giới thiệu” hôm Thứ Năm trước vài tuần lễ bản dự thảo ngân sách quốc phòng dành cho năm tới sẽ được “trình diện”. Mặc dù chiến lược này sẽ không bao hàm những con số ngân khoản rõ rệt hay những con số minh bạch của việc cắt giảm trong các lực lượng quân sự, nhưng chắc chắn là việc quốc phòng sẽ ghi dấu thời điểm mà siêu cường quốc này phải thu bớt sự lạm chi của ngân sách. Theo các cộng sự viên của Tổng Thống Barack Obama, những ngân sách quân sự cũng sẽ gia tăng nhưng ít hơn so với trước kia. Đầu tư vào phi cơ và tầu chiến Thực tế mà nhận xét, quân đội Hoa Kỳ đã có sự thuận lợi trong suốt các cuộc chiến lâu dài ở Afghanistan và Iraq. Nay các lực lượng quân sự được rút về nước; từ đây quân đội sẽ thu nhỏ lại. Và như vậy là tiền bạc sẽ được dùng để đầu tư vào không lực và hải quân. Theo các nguồn ở bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, người Mỹ mong ước có thể ngăn chận được Iran trong trường hợp nước Hồi Giáo này tìm cách gây trở ngại cho việc chuyên chở dầu ở Vịnh Ba Tư (Persian Gulf). Đồng thời Hoa Kỳ cũng sẽ chận đứng tham vọng bá quyền của Trung Cộng ở Biển Đông. Ông Loren Thompson thuộc viện Lesington Institute, nhân vật có mối quan hệ chặt chẽ với ngành kỹ nghệ quân sự, đã phát biểu: “Xem ra chiến lược của ông Obama chính yếu là tập trung vào việc kìm giữ Iran và Trung Cộng. Việc sắp đặt các lực lượng và bán vũ khí cho các quốc gia chung quanh Vịnh Ba Tư và ở mạn Tây Thái Bình Dương vì thế sẽ là trọng tâm của chiến lược”. Những nhà khảo cứu khác cho rằng Hoa Kỳ cũng mong muốn sử dụng bớt đi các tài nguyên ở Trung Đông để có thể biểu dương ở Á Châu. Đồng thời Âu Châu, Phi Châu và Châu Mỹ Latin cũng sẽ ít được chú ý hơn. Quân số đóng ở các căn cứ tại Âu Châu có thể sẽ được gảm bớt mạnh mẽ. Ít chiến tranh hơn Theo các nhân vật cao cấp, Hoa Kỳ sẽ xuống thang chủ thuyết là đất nước có thể cùng lúc chiến đấu - và thắng - hai cuộc chiến tranh lớn lao. Thay vào đó mục đích sẽ là chiến đấu và thắng mỗi lần một cuộc chiến tranh lớn lao, trong khi một mối đe dọa khác sẽ chỉ được ngăn ngừa hoặc phong tỏa mà thôi. Thế nhưng có thể vấn đề sẽ khó khăn để Tổng Thống Barack Obama “bán” được tân chiến lược này trong một năm tranh cử. Những “con chim diều hâu” trong nhóm đại biểu Cộng Hòa đã chuẩn bị để tấn công ông hầu chứng minh là ông “yếu” trong chính sách an ninh. Các nhà phân tích quả quyết là ở nơi những thành phần chống Hoa Kỳ, tân chiến lược này cũng có thể được hiểu là một dấu hiệu của sự suy yếu. Dave Deptula, Trung Tướng Không Quân hồi hưu, đã bầy tỏ trên trang mạng điện tử của National Public Radio: “Rời bỏ chiến lược này để có thể chiến đấu cùng lúc hai cuộc chiến tranh địa phương vốn là một công thức của đại họa. Việc làm tiên quyết nhằm kích động lòng khao khát mạo hiểm nơi các đối phương là thúc đẩy họ muốn lạm dụng mỗi một dấu hiệu của sự yếu đuối trong ý chí nỗ lực của người Mỹ”. Nói cách khác rõ hơn, đó là gây cho các đối phương ngộ nhận về mỗi dấu hiệu “yếu đuối” của Hoa Kỳ để họ dấn thân vào sự liều lĩnh. Ông Dave Deptula là một trong số những người đã cho rằng chiến lược mới này được đưa đẩy bởi những “máy nghiền con số” (tức những người chủ trương giảm thiểu sự lạm chi ngân sách) trong văn phòng ngân sách của chính phủ. Sự cắt giảm có tính cách phẫu thuật Thế nhưng Tòa Bạch Ốc nói là những việc cắt giảm ngân sách này sẽ không vượt quá các chủ đích quân sự quan trọng. Phát ngôn viên Jay Carney trình bầy: “Tổng Thống đã xác định minh bạch trước các cộng sự viên của ông rằng chúng ta phải cứu xét kỹ lưỡng mọi chi phí của việc quốc phòng nhằm bảo đảm là những sự cắt giảm ấy được thực hiện như thể phẫu thuật, và những mục tiêu tiên quyết phải được chu toàn”. Theo thông tấn xã AFP, bên cạnh những ưu tiên quân sự khó khăn, Pentagon cũng phải khó khăn với những chi phí không ngừng gia tăng dành cho lương bổng và trợ cấp của quân nhân tại ngũ và cựu quân nhân. Những chi phí như vậy ước lượng chiếm khoảng 181 tỉ Mỹ kim trong tổng số 700 tỉ của ngân sách hàng năm. AFP viết là dự thảo ngân sách sắp tới sẽ phải tiết kiệm bằng cách lưu lại trễ hơn nhiều chương trình vũ khí, trong số này có loại chiến đấu cơ hiện đại F35. Hoa Kỳ cắt bớt “sao” và “đường sọc” Như trên đã nói, bởi vì chiến tranh Iraq chấm dứt và các lực lượng khác cũng đang trên đường từ Afghnistan trở về nước, quân đội Hoa Kỳ đã khởi sự “tiết kiệm được ngân sách để đầu tư vào không lực và hải quân” hoặc vào các mục tiêu khác bằng một trong những phương cách là giảm bớt nhiều tướng lãnh và đô đốc hải quân. Cuối năm vừa qua, Bộ Quốc Phòng Pentagon cho biết họ đã giảm bớt 27 tướng (đeo lon với những ngôi sao) và đô đốc hải quân (lon với những đường sọc) kể từ tháng 3 năm ngoái. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ cắt giảm số sĩ quan thượng thặng như vậy kể từ khi cuộc Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, khi sự sụp đổ của khối Cộng Sản Sô Viết đưa tới việc xuống thang trong những hàng ngũ quân sự. Việc cắt giảm số tướng lãnh và đô đốc nay là một khâu trong một chương trình lớn lao nhằm làm “gầy ốm bớt” giới thượng tầng trong lục quân, hải quân và không lực với 10 phần trăm trong suốt 5 năm. Đội ngũ sĩ quan trong các ngành chiến đấu này bởi vậy được điều chỉnh giảm bớt kích thước như thể thời Hoa Kỳ không có chiến tranh, nghĩa là trước cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Ảnh hưởng tượng trưng: Các phát ngôn viên quân sự trình bầy rằng những sự thay đổi kể trên sẽ tiết kiệm chỉ được một số tiền giới hạn mà thôi; tuy nhiên, chúng quan trọng bởi vì chúng biểu tượng cho một thời điểm mà quốc phòng Hoa Kỳ nói tổng quát phải thích ứng với những giai đoạn chật hẹp. Chính phủ Obama sẽ tiết kiệm được 450 tỉ Mỹ kim trong ngân sách quốc phòng trong một giai đoạn 10 năm. Việc cắt giảm thêm 500 tỉ Mỹ kim nữa có thể được thực hiện nếu Quốc Hội bất khả đồng thuận một kế hoạch nhằm giới hạn sự lạm chi trong năm tới. Sự cắt giảm mới: Phó Đề Đốc William Gortney, Tham Mưu Trưởng trong Pentagon, cho biết rằng “cũng cần thiết trong việc giảm bớt hàng ngũ tướng lãnh và đô đốc để làm cho quân đội mềm dẻo hơn: Nếu 10 năm chiến tranh đã dậy chúng ta điều gì, hẳn đó là sự “tối thiểu là phải nhanh hơn”. Được biết, Phó Đề Đốc William Gortney đã được đề cử chức vị phụ tá cho Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert Gates thời đó, đặc trách việc lượng định con số sĩ quan chỉ huy. Thời hạn: Mùa Xuân năm ngoái, cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Gates đã chấp thuận kế hoạch giảm bớt con số tướng lãnh và đô đốc từ 952 xuống 850 - và ông đã ấn định một thời hạn là 5 năm để thực hiện hoàn tất việc giảm bớt này. Thêm vào đó 23 công việc trong cấp bậc “sao” cũng sẽ được giảm bớt. Việc này có nghĩa là nhiều tướng lãnh (đeo lon) 3 sao từ nay về sau sẽ bị “mất” một sao. Phó Đề Đốc Gortney còn tiết lộ là quân đội lần đầu tiên đã hủy bỏ 27 chức vụ chỉ huy; trong số này đa phần là những vị trí then chốt trong cuộc chiến tranh ở Iraq. Việc này có nghĩa là Pentagon đã thực hiện được hơn một phần tư (1/4) của công việc vốn dự định sẽ cắt giảm 102 chức vụ chóp đỉnh. “Hiện tượng sao rơi”: Để viện lý cho việc hủy bỏ các công việc của các tướng lãnh, cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert Gates thời đó nói rằng quân đội qua bao năm đã tự nguyện một “hiện tượng sao rơi” bằng cách thiết lập quá mức những công việc ở cấp thượng đỉnh. Chẳng hạn tổng số tướng lãnh 4 sao và đô đốc hiện nay cũng giống hệt như năm 1971, trong khi đó chiến tranh Việt Nam hoành hành. Con số của các lực lượng chiến đấu đem so sánh thì cũng được giảm bớt phân nửa vào cùng thời điểm (1971). Ngũ Giác Đài Các ngành vũ khí khác nhau dĩ nhiên cũng chịu ảnh hưởng lây, do đó cũng đang chờ đợi “được” thu nhỏ lại vì sự cắt giảm ngân sách vào giai đoạn chiến tranh Iraq chấm dứt và việc rút quân khỏi Afghanistan. Theo George Little, Tùy Viên Báo Chí của Pentagon, đương kim Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng Leon Panetta đã ủng hộ “kế hoạch cắt giảm” của cựu Tổng Trưởng Robert Gates. Ông Little nhấn mạnh bổ túc: “Ông Panetta sẽ đi theo kế hoạch này bằng cách làm sao để giới chỉ huy tuyệt luân này vẫn còn là một nhãn hiệu của các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ”. Nhiều đại biểu trong Quốc Hội vốn qua bao năm nay vẫn công kích tình trạng gia tăng các chức vụ thượng đỉnh (của quân đội), nay ca ngợi nồng nhiệt Pentagon về kế hoạch cắt giảm nhân số chỉ huy thượng thặng này. – (HM) Hoài Mỹ
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 26, 2012 2:45:16 GMT 9
Chuyến nghỉ lễ 4 triệu tai tiếng của gia đình Tổng Thống Obama
Vietsciences- Trịnh Thanh Thủy Bản tin “Chuyến nghỉ 4 triệu đô” của gia đình tổng thống Obama, do báo Hawaii Reporter loan đi đã làm chấn động dư luận Hoa Kỳ. Tiếng lòng người dân Mỹ còn ngao ngán vì cuối năm kinh tế chưa phục hồi, tỷ lệ thất nghiệp không giảm, giờ lại bắt đầu căng cứng như sơi dây đàn lên hết cỡ rồi dần chuyển sang sự phẫn nộ. Chuyến nghỉ lễ hàng năm của gia đình vị nguyên thủ quốc gia này bị chỉ trích nặng nề vì phí tổn cao nhất so với chi phí của các vị nguyên thủ từ xưa tới nay. Trước đó ông Obama dự định cả gia đình sẽ nghỉ hè tại Camp David, tiểu bang Maryland nhưng đệ nhất phu nhân lại không chịu. Bà nói không muốn các con thất vọng và quyết định bay trước qua Hawaii bằng phi cơ quân sự. Tổng thống sẽ bay đến sau vì phải chờ quốc hội thông qua sắc luật cắt giảm thuế. Tổng mức chi phí cho chuyến đi là hơn 4 triệu USD, gồm 2 chuyến bay riêng rẽ. Chuyên cơ Air Force One của TT mỗi giờ bay tốn $181,757.00 để giữ an ninh tối đa cho một chuyến bay. Vì vậy khoản chi cho ông bay khứ hồi 9 tiếng từ Washington tới Hawaii mất hơn 3,2 triệu đô. Ngoài ra còn chi phí xe Limousine, trực thăng, cho đội ngũ đông đảo nhân viên phục vụ, lực lượng bảo vệ và nhiều khoản “phụ cấp ngoài giờ” dành cho họ. Ngoài chi phí khu khách sạn bãi tắm riêng cho gia đình TT, giá $3,5 ngàn một ngày, Nhà Trắng phải còn phải thuê 7 ngôi nhà đầy đủ tiện nghi hiện đại cho đội ngũ “ăn theo” gồm mật vụ, lực lượng hải quân Navy Seal và tuần duyên. Khoản chi phí này không nhỏ hơn $21,600. một căn. Phải chăng chuyến đi nghỉ lễ Giáng sinh của gia đình TT là quá hoang phí? Bốn người mà sử dụng 2 chuyên cơ từ Washington đi Hawaii, thật không thể tưởng tượng nổi trong tình hình kinh tế đất nước hiện nay. Những bản tin đăng trên mạng, chỗ nào cũng có phản hồi của người dân, cứ trung bình 100 phản hồi thì hết 98 là phản đối còn khoảng 2 người ủng hộ mà thôi. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của người dân Mỹ để biết họ nghĩ gì về chuyến nghỉ lễ nhiều tai tiếng này. Đây là những ý kiến trên mạng Mail online:
- Sao ông ta không nghỉ lễ ở Camp David? Tổng thống Bush nghỉ ở trang trại của ông ta ở Crawford, Texas, nơi đó không có nhà hàng sang trọng, không có tôm hùm, trứng cá Caviar. Người dân chúng ta không phải trả tiền cho khách sạn, cho thực phẩm, cho những chi phí vô lý như vậy.
- Mỗi vị tổng thống có ý thích riêng, tại bà Michelle thích ở Hawaii vì đó là quê của họ. Tổng thống có đề nghị ở Camp David nhưng bà muốn chiều lòng các con.
- Bà ta làm như thể một bà hoàng, một Diva. Một vị nguyên thủ quốc gia như Obama mà không thuyết phục được vợ thì nói còn ai nghe? Làm sao làm nhân vật số một của một nước được. Chẳng lẽ đàn ông kiếm tiên để đàn bà xài à? Nhưng tiền này là tiền đóng thuế của người dân.
- Tôi quá thất vọng vì mọi người đọc bản tin này với một thái độ phẫn uất như vậy, nguồn tin này từ National Enquire là tờ báo lá cải. Tổng thống nào cũng có quyền nghỉ phép theo ý thích riêng của họ, kệ họ đi, họ cũng có đời sống riêng chứ.
- Đừng giỡn chơi chứ bạn, sau khi huỷ hoại kinh tế Hoa Kỳ, nhân 3 số nợ quốc gia, quăng 1 ngàn tỷ đô vào gói kích cầu bị thất bại, và gần nhân đôi tỷ lệ thất nghiệp, Obama còn tuyên bố trong chương trình “60 Minutes” của đài truyền hình CBS tuần qua rằng, ông ta là vị tổng thống thứ tư giỏi nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ. Không thể tin được. Trong vòng 3 năm gần 4 ngàn tỷ cộng vào số nợ quốc gia. Nghe như một chuyện đùa !!! Ai có thể bầu cho ông ta nữa?
- “Đừng hỏi quốc gia này phải làm gì cho bạn mà tự hỏi bạn đã làm gì cho quốc gia của bạn chưa?” Tại sao không thử hỏi Obama đừng đi nghỉ ở Hawaii mà đi ở Camp Davis, rồi đem 4 triệu ấy cho những gia đình nghèo không nhà. Mua thực phẩm, quần áo cho trẻ con, người thiếu thốn. Thay vì tiêu pha phung phí, vợ chồng ông ta đứng ở quầy phát thực phẩm cho người không nhà vào ngày Giáng Sinh, có phải đẹp hơn không? Tại sao tôi phải làm lụng cực khổ, không dám ăn tiêu, đóng thuế cho họ dùng tiền một cách hoang phí như vậy. Nhìn đi Obama đã làm gì cho nước Mỹ?
- Con số 4 triệu này gần 100 lần nhân lên số lương của một thường dân kiếm được trung bình trong một năm($41,673) . Đó là tổng số chi phí của chỉ 4 người trong một lần nghỉ phép, được báo chí truyền thông Mỹ tảng lờ, không nhắc đến. Thử hỏi cựu Tổng thống Bush làm thế, chắc sẽ bị thiêu sống trên những trang báo của New York Times và cuối cùng bị kết tội bởi các hệ thống truyền thông.
- Nên nhớ rằng theo luật lương một Tổng thống là $400,000 một năm, chưa kể chi phí tiêu xài $50,000 và tiền du lịch không tính thuế $100,000 và $19,000 cho khoản tiêu khiển. Gia đình ông ta còn được ăn miễn phí, ở nhà không trả tiền, hưởng không chi phí sức khoẻ y tế và nhiều quyền lợi khác. Vậy là ăn cướp cạn đồng tiền xương máu của dân. Tôi sẽ không bầu cho họ năm tới, họ phải ra đi.
- Trời ơi, chúng tôi mất nhà, mất việc và đói khát trong khi họ ăn chơi xa hoa !!!
- Bọn thức giả không bao giờ tiết lộ bao nhiêu tiền chúng đã ăn cướp từ những công nhân như chúng ta. Giống như Marie Antoinette đắm mình trong xa xỉ thì dân chết đói.
- Tôi đã sai lầm khi ủng hộ ông ta, cả họ nữa, bọn rác rưởi trong đám thức giả Washington dùng tiền thuế dân một cách sai lầm. Họ không xứng đáng đại diện cho chúng ta vì họ không phải là chúng ta. Họ đâu từng phải nuôi một nách 5 người với số tiền 500 đồng một tuần như chúng ta. Một buổi ăn trưa của họ có thể trên 500 đô.
- Tôi ngạc nhiên tại sao Fox News lại không đưa những tin thế này
- Fox đã bị đánh đít và giờ ngoan ngoãn như một con cừu non.
Đây là những ý kiến trên Message Board của mạng truyền hình abc.
- Tại sao bà Michelle không đợi ông Obama, bà ta tiêu hoang $100,000 tiền thuế của dân cho chuyến bay chở riêng bà? Chính Obama rêu rao chính phủ phải tiết kiệm, chỉ là những lời lừa dối, xảo trá. Thật là cái tát đau điếng vào mặt dân Mỹ
- Người đại diện cho dân này không thông qua được đạo luật gia hạn tiền thất nghiệp, thuế lợi tức vậy mà họ đi du lịch được. Thật họ đã làm dân Mỹ thất vọng.
- Có thể những vị nguyên thủ trước và gia đình cũng tiêu pha nhưng thời buổi này đã khác. Chúng ta phải đối đầu với nợ nần. Nhớ lại thời TT Carter, thật bất hạnh cho ông ta, ông và phu nhân là những người khiêm nhường. Bà Carter đã tái chế lại cái váy sa xanh để mặc trong ngày tuyên thệ nhậm chức. Và theo lệnh chính ông, chính phủ đã bán đấu giá chiếc thuyền buồm của TT ($270,000) như một biểu tượng cho sự cắt giảm chi tiêu ngân sách chính phủ liên bang. Ông còn lấy ít ngày nghỉ hơn chỉ có 79 ngày tại nhà riêng ở Georgia.
- Thật là buồn khi tôi thấy mọi người giận dữ, chửi rủa, thậm chí còn văng tục. Tôi thấy chả có gì đáng ngạc nhiên, tôi biết tất cả các TT và gia đình họ cùng người làm, đi du lịch tới nhiều nơi trong nước và cả thế giới. Họ tiêu biết bao là tiền của dân, có gì lạ đâu. Chuyện thường ngày ở huyện !!!
Và cuối cùng Fox News cũng đăng tải bản tin này ngày 23 tháng 12 năm 2011. Đây là những ý kiến trên mạng này.
- Họ tốn tiền trang hoàng 37 cây Giáng sinh ở White House trong khi Obama đi nghỉ lễ ở Hawaii!!!
- Thật đau lòng, tôi không có lấy được một kỳ nghỉ lễ trị giá $40.
- Họ làm tôi liên tưởng tới sự tham nhũng, họ tiêu tiền không tiếc tay, vì có phải tiền của họ đâu.
- Tôi nghĩ còn nhiều hơn là $4 triệu vì họ không bao giờ tiết lộ bao nhiêu đã chi cho vấn đề an ninh và phái đoàn hầu cận, con số có thể tới $8 triệu.
- Obama không phải là người thế đâu, ông đã chiến đấu gian khổ cho chúng ta. Ông ta không giống bọn nhà giàu. Nhưng tôi quên là ông ta đã dùng tiền thuế của chúng ta, điều này thì không được.
- Đây là thí dụ điển hình tại sao nước Mỹ đang sa địa ngục. Đây có phải cái gì được gọi là lãnh đạo?
- Thật không có gì đáng ngạc nhiên về thói quen tiêu tiền của bà Michelle trong 3 năm vừa qua. Sự thật được tiết lộ này của National Enquirer còn thật hơn tất cả tin của CBS, NBC, ABC, MSLSD nữa.
Và còn rất nhiều những ý kiến trên các trang mạng khác nhau nhưng nội dung gần giống nhau. Tôi chỉ trích dịch những ý kiến điển hình. Phần lớn đều tỏ ý phẫn nộ và giận dữ, khinh ghét cũng như bất bình về chuyến nghỉ lễ tốn kém này.
Có thể Tổng Thống Obama sẽ phải đối đầu với làn sóng cử tri chống đối trong những ngày sắp tới. Con đường trở thành một vị nguyên thủ đã khó, làm một vị lãnh đạo tài ba và lỗi lạc còn khó hơn. Quả thật con đường làm dâu trăm họ này thật cam go phải không các bạn?
Trịnh Thanh Thủy Tài liệu tham khảo -Mail online www.dailymail.co.uk/news/article-2077625/Michelle-Obama-insisted-4m-getaway-Hawaii-husband-wanted-local-holiday.html?ITO=1490-Mạng abc/The view theview.abc.go.com/forum/why-cant-michelle-obama-wait?page=6-Mạng Fox News/Fox Nation nation.foxnews.com/president-obama/2011/12/23/obama-jet-4m-hawaiian-vacation******************* Tổng thống Obama đọc diễn văn liên bang Tuesday, January 24, 2012 9:24:30 PM Cộng Hòa phản ứng: Obama làm kinh tế đi xuống WASHINGTON, DC (AP) - “Tổng Thống Barack Obama là người theo 'chủ nghĩa cực đoan' trong chính sách 'bẻ tay' và chống tăng trưởng kinh tế, cũng như tìm cách chia rẽ dân Mỹ, chứ không đoàn kết họ.” Ðó là phát biểu của thống đốc tiểu bang Indiana, ông Mitch Daniels, đại diện đảng Cộng Hòa đáp lại bài diễn văn liên bang do người đứng đầu khối hành pháp Hoa Kỳ, thuộc đảng Dân Chủ, đọc trước lưỡng viện Quốc Hội tối Thứ Ba. (Hình: AP Photo/Saul Loeb, Pool) Tám tháng sau khi quyết định không ra tranh cử tổng thống, Thống Ðốc Mitch Daniels dùng bài diễn văn được truyền hình toàn quốc đả kích ông Obama và đưa ra hình ảnh đảng Cộng Hòa là những người nhiệt thành, sẵn sàng “cởi trói” để nền kinh tế Hoa Kỳ vươn lên. Vị thống đốc tiểu bang Indiana đặc biệt nhắm ngay vào đề nghị tăng thuế người giàu của ông Obama. Ông Daniels cũng bác bỏ chỉ trích của ông Obama rằng người giàu không chia sẻ gánh nặng quốc gia một cách công bằng. Ông Daniels và những người thuộc đảng Cộng Hòa hy vọng sự chỉ trích thẳng thừng này sẽ chuyển hướng sự chú ý của công chúng đối với chủ đề của ông Obama về sự công bằng, bao gồm bảo vệ giới trung lưu và bảo đảm người giàu phải đóng thuế như người nghèo. “Không có gì tệ hại hơn những cố gắng của ông Obama khi tìm cách chia rẽ chúng ta, khi thiên vị một số người Mỹ và trừng phạt một số người khác,” Thống Ðốc Daniels nói. “Cũng giống như những lần trước, người Mỹ chúng ta đang sống trong nguy hiểm.” Các nhà lãnh đạo Cộng Hòa cũng nhắm vào đề nghị tăng thuế của ông Obama, trong đó bảo đảm những người kiếm được bạc triệu phải đóng thuế ít nhất 30%. Thượng Nghị Sĩ Mitch McConnell (Cộng Hòa-Kentucky), thủ lãnh khối thiểu số tại Thượng Viện, gọi bài diễn văn của ông Obama là “diễn văn vận động tranh cử, làm hài lòng cử tri cấp tiến của ông.” Ông McConnell cũng cảnh báo rằng ông Obama đừng nên để “những viên thuốc độc, như tăng thuế đối với người tạo ra việc làm” ảnh hưởng công việc của mình. “Cho dù tổng thống có biện luận như thế nào về sự công bằng, trên thực tế, đề nghị tăng thuế của ông sẽ ảnh hưởng xấu đối với doanh nghiệp nhỏ,” Thượng Nghị Sĩ Orrin Hatch (Cộng Hòa-Utah) nói. Ông là thành viên cao cấp nhất của đảng Cộng Hòa trong Ủy Ban Tài Chánh Thượng Viện. Nội dung bài diễn văn của Thống Ðốc Daniels được coi là lạ lùng, vì ông nổi tiếng là một người luôn đoàn kết mọi người và được tôn trọng, ngược hẳn với sự trái ngược giữa hai ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa, Mitt Romney và Newt Gingrich. Ông Daniels, từng là giám đốc ngân sách đầu tiên dưới thời Tổng Thống George W. Bush và hiện là thống đốc hai nhiệm kỳ ở Indiana, luôn chống lại lãng phí ngân sách làm thâm thủng ngân sách, mặc dù một số người cho rằng ông làm việc trong thời kỳ nước Mỹ đang có thặng dư bị trở thành thiếu hụt ngân sách. “Khi Tổng Thống Obama nói rằng kinh tế nước Mỹ ngày càng tệ hại, ông phải biết trong suy nghĩ của ông là điều này không đúng sự thật,” ông Daniels nói. Ông nói thêm rằng mặc dù ông Obama không gây ra tình trạng kinh tế tồi tệ này, nhưng ông “được bầu lên với lời hứa sẽ giải quyết khó khăn kinh tế nước Mỹ, và ông không dám nói là trong ba năm qua đã làm tình trạng kinh tế ngày càng tệ hơn.” Bài diễn văn của Tổng Thống Obama kéo dài 65 phút, trong khi bài diễn văn của ông Daniels dài 20 phút. (Ð.D.)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 2, 2012 11:06:27 GMT 9
Nhiều Công Ty Quốc Tế Đưa Thiền Vào Sở Làm
Cách nay không lâu, một Tổng Giám Đốc mở ra việc thực tập thiền trong văn phòng có thể bị cho là kỳ dị, và một quản trị khuyến khích nhân viên luyện tâm để tỉnh giác hơn trong việc làm thì bị nghi ngờ.
Nhưng điều đó đã thay đổi. Hàng loạt sách được phát hành trong năm nay khuyến khích thiền để tỉnh giác như là một trợ lực đối với việc làm quyết định và lãnh đạo.
Nhiều quản trị đang khuyến khích các kỹ thuật tự giác để giúp những nhân viên của mình cắt giảm căng thẳng và cải thiện cảm thông. Và nhiều giám đốc đang tìm đến thiền để giúp họ giữ bình lặng trên lửa đốt.
Mùa thu vừa rồi, Kira Leskew đã la ó trên điện thoại với một nhà cung cấp vì đã không giao hàng cho khách hàng cần thiết.
Chủ công ty Amberwood Doors Inc. tại Toronto, Canada, nhớ lại rằng, "Tôi bỏ điện thoại xuống, rất giận nên tôi đã không còn muốn nói chuyện với bất cứ ai."
Bà ấy đã vào xe và thử tập thiền mà và đã có nghiên cứu. Bà giải thích, "Dùng hít thở để lắng dịu xuống, tôi đã thấy thanh thản."
Trong vòng 30 phút, bà ấy trở lại văn phòng "Với sự minh mẫn trong cảm giác. Tôi sẵn sàng gọi cho khách hàng, từ sự bình lặng, và ứng phó bất cứ điều gì mà họ phản ứng với lòng từ bi và lịch sự."
Khi bà ấy tình nguyện dạy thiền chánh niệm cho các nhân viên của bà, 8 trong số 10 người đã đồng ý. Chỉ sau 4 khóa 1 tiếng đồng hồ kéo dài 2 tuần, bà cho biết đã thấy sự gia tăng trong công việc làm đồng lòng, quý trọng và ủng hộ nhau.
Lợi lạc của thiền trong công việc đang gia tăng như một phần chú trọng của các công ty làm tốt chỗ làm việc, và dân đến việc tạo ra phòng và lớp thực tập thiền choh nhân viên tại nhiều công ty như Apple, Google, và AOL Time Warner.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 24, 2013 5:04:36 GMT 9
Nỗi buồn 30/4 và những nghĩ suy
Tôi không hứng thú lắm khi viết về ngày 30/4 vì đã nhiều năm nay, năm nào cũng viết, nhưng những bài viết thường chỉ mang đến cho tôi những nỗi buồn hơn là những ký ức khó quên. Cái buổi hôm ấy, lúc mọi người trong nhà tù Hoả Lò khấp khởi vui mừng “chiến thắng” khi được giám thị thông báo, thì tôi đau xót, im lặng và hụt hẫng. Tôi vẫn hy vọng sau khi ra tù, sẽ tìm cách trốn vào Nam để sống. Với cái lý lịch ở tù, sự tồn tại vươn lên của tôi trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) chắc chắn sẽ vô cùng nan giải. Tôi đã từng kín đáo hỏi thăm, tìm hiểu cách “chạy” vào Nam từ một người bạn tù. Khó khăn nhất là đoạn từ sông Bến Hải vào đến sông Hàn, Đà nẵng. Còn qua được sông Hàn thì mọi việc êm xuôi. Lúc này tôi vẫn hy vọng bộ đội miền Bắc không tiến được vào sâu hơn nữa. Tôi không nghĩ đến một cái “chiến thắng” nhanh chóng như vậy! Thật chua xót. Tôi từng là anh chàng học sinh, biết được đi nước ngoài du học nhưng vẫn rủ đám bạn bè trong lớp lấy máu viết thư xin đi bộ đội. Ra chiến trường, dù có chết, với chúng tôi thật vô cùng ý nghĩa. Tôi đã tận mắt trông thấy và tham gia cứu thương trong những trận dội bom của máy bay Mỹ xuống làng mạc miền Bắc làm chết nhiều người. Chỉ với lòng căm thù đế quốc Mỹ. Sôi sục ý chí trả nợ nước thù nhà. Nhưng rồi dần dà tôi đã hiểu. Đây là chiến tranh. Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tắm máu, huynh đệ tương tàn, cho việc nhuộm đỏ toàn đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), một cuộc chiến ý thức hệ, rõ ràng và nhất quán. Mỹ và miền Nam đã phải nỗ lực ngăn chặn và bảo vệ tự do. Năm 1954, Việt Nam chia hai. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) là một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, là quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Miền Nam sẽ thanh bình, phát triển và đi lên nếu như miền Bắc không gây chiến và phá rối. Người ta có thể thống nhất đất nước bằng nhiều cách, không cần đổ máu, không cần đến “bạo lực cách mạng”, mà nước Đức là một ví dụ. Nhưng để đánh chiếm miền Nam, miền Bắc có thể “đốt cả dãy Trường Sơn”, dồn cả dân tộc vào máu lửa, quyết tâm trở thành “tiền đồn” của cả phe XHCN. Hồ Chí Minh từng nói: “Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt Nam luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại, và coi Liên Xô là Tổ quốc Cách Mạng, Tổ quốc thứ hai của mình”- (1959, HCM toàn tập, tập 11, trang 166). Còn Lê Duẩn, trả lời phỏng vấn BBC Việt Ngữ, Nguyễn Mạnh Cầm, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã nói: “Chính sách này dựa trên nền tảng “một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!“. Vâng, hầu như tất cả mọi phương tiện cho cuộc chiến, sản xuất, cũng như mọi nhu yếu phẩm cho đời sống, từ hạt gạo đến cây kim, sợ chỉ, đều do Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống cộng sản đổ tiền vào cung cấp. Nhưng vì “tất cả cho chiến trường”, dân miền Bắc đã phải cam chịu cuộc sống đói nghèo, thiếu thốn, dồn hết tinh thần và vật chất cho công cuộc “giải phóng miền Nam”. Và miền Bắc đã “giải phóng” miền Nam. Ngày 30/4/1975. Trong bài “Phản nhân văn“, nói về cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của nhà báo Huy Đức, tờ Công an Nhân dân (CAND) viết: “Đáng kinh ngạc nhất là Huy Đức “nhai lại” ý kiến sai trái, xạo xược của Dương Thu Hương. Trước khi sang châu Âu sống lưu vong, bà ta phun ra hàng loạt phát ngôn điên loạn, trong mớ hổ lốn, hồ đồ đó, có đoạn nói rằng, ngày mới đặt chân đến Sài Gòn, bà ta đã choáng ngợp trước cuộc sống tiện nghi ở miền Nam, khác rất xa với cuộc sống khó khăn ở miền Bắc: “Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại…”. Giờ đây, Huy Đức lại bắt câu đó với hàm ý khen miền Nam nhiều hàng hóa và đời sống sung túc hơn miền Bắc, tự do dân chủ hơn miền Bắc nên đã “giải phóng” ngược lại miền Bắc! Về đoạn này, trên mạng có bài viết ký tên “nhà văn Đông La” phân tích: “Cái nền văn minh mà Huy Đức thấy qua “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette” rồi “rạp chiếu bóng, nhạc viện và sân khấu ca nhạc”… đều có từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở Việt Nam kèm theo 58.000 nhân mạng nữa để rồi mất trắng trở về…”. Không chỉ nhà văn Dương Thu Hương khóc mà sau ngày “giải phóng”, nhiều người khác đã vỡ mộng! Phải có tấm lòng thật nhân văn mới hiểu rằng, tiếng khóc của Dương Thu Hương là thành thật và là sự cảnh báo. Những thứ mà họ “giải phóng” và huỷ hoại thì chính họ chứ không ai khác lại đã quay lại một thập niên sau đó. 925 tỷ USD đã Mỹ chi cho cuộc chiến ở Việt Nam. Vâng, nhưng thử hỏi bao nhiêu tỷ USD mà Liên Xô, Trung Quốc và phe XHCN đã rót cho miền Bắc kèm theo hàng triệu nhân mạng cũng ra đi không trở về? Người miền Nam không chỉ có “những chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng choé”… Việt Nam Cộng hoà (VNCH), trong 20 năm, tuy chưa có một nền dân chủ hoàn toàn, phải đối mặt với tình trạng chiến tranh, nhưng đã có một nền kinh tế đa dạng, một xã hội văn minh, một nền giáo dục kỷ cương đáng tự hào, một tập quán sinh hoạt công cộng lịch lãm và tiến bộ. Những người gắn bó với VNCH có lý do chính đáng để tiếc nuối. Những thứ này sau 1975 đã dần dần bị băng hoại. Còn “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette”, tất tật mọi thứ của miền Nam sau ngày 30/04/1975, muốn hay không muốn, chúng vẫn trùng trùng nối nhau ra Bắc. Tôi vẫn nhớ cuối năm 1975, hình ảnh ở khu tập thể quân đội số 3B đường Ông Ích Khiêm, Hà Nội. Cứ tối đến, hàng xóm quây quần, xúm xít ngồi xem phim qua chiếc Motorola của gia đình mang từ trong Nam ra. Máy truyền hình ở miền Bắc lúc đó là cả nột tài sản lớn. Bài báo CAND viết tiếp: “Cũng cần phải nhắc lại rằng: từ số tiền khổng lồ đó, Mỹ đã đổi ra 7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin; 7,85 triệu tấn bom đạn để rải xuống Việt Nam, giết chết khoảng 4 triệu người, gây thương tật cho hàng triệu người khác, nhất là những đứa trẻ nạn nhân của chất độc da cam/dioxin; tàn phá hàng ngàn thành phố, thị xã, làng mạc, trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo… Thế nhưng Huy Đức, Dương Thu Hương và một vài “nhà dân chủ” mới được “bơm”, cố tình không hiểu điều đó, họ tôn thờ tiện nghi vật chất hơn phẩm giá và lòng tự trọng của một dân tộc, sùng bái “bơ”, “sữa”… hơn xương máu của những người con dân đất Việt đã ngã xuống để có độc lập, tự do hôm nay!”. Tôi không nghĩ rằng, “số tiền khổng lồ đó, Mỹ đổi ra 7, 85 triệu tấn bom đạn, để giết chết khoảng 4 triệu người và thương tật cho hàng triệu người khác”. Cái chết của khoảng 4 triệu người và thương tật của hàng triệu người khác có sự can dự của cả hàng triệu tấn đạn dược của Liên Xô, Trung Quốc. Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968, những cuộc pháo kích, đánh mìn, nổ bom vào các chợ, trường học, rạp hát… Cuối cùng, đây là con số của cả cuộc chiến. Chiến tranh, bên nào cũng đều phải sử dụng đến súng đạn. Còn “7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin” diệt cỏ, phát quang của Mỹ không nhắm vào dân thường mà nhắm vào nơi ẩn trú của Việt Cộng. Có thể nó để lại di hại cho môi trường nhưng không quá bị thổi phồng như bộ máy tuyên truyền của cộng sản. Tôi đã vào sống trong Nam và đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy màu xanh cây lá. Những đám rừng bị chất độc da cam xa lắc lơ đâu đó tôi không có cơ hội nhìn thấy. Còn nạn phá rừng giờ đây khủng khiếp hơn nhiều. Bọn cơ hội bắt tay với các quan chức cộng sản phá rừng, lấy gỗ làm giàu, mà Trầm Bê hay Cường Đô La là những ví dụ. Thực phẩm độc hại mà dân Việt dùng hôm nay, chủ yếu từ Trung Quốc, công khai huỷ diệt nòi giống Việt, làm cho bệnh ung thư của Việt Nam ở vị trí cao nhất thế giới và mỗi năm chết khoảng 75 ngàn người, man rợ và bi thảm hơn nhiều. Người ta cứ thích nhớ mãi cái đã qua đi gần 40 năm mà cho phép mình “quên” hiện tại trước mặt! Sùng bái “bơ”, “sữa” không ai hơn những quan chức cộng sản, những “đại gia” đỏ phè phỡn với ô tô siêu sang trọng, nhà lầu, người hầu kẻ hạ, con cái đi du học nước ngoài. XHCN không thấy đâu, nhưng tư bản chủ nghĩa ngấm sâu vào từng sinh hoạt nhỏ nhất của giới chức có quyền, của những ông “vua tập thể” trong triều đại phong kiến-cộng sản quái thai này. Tôi quen thân với ông Nguyễn Lương Thuật, một cựu sĩ quan hải quân VNCH, cư ngụ ở Seattle, tiểu bang Washington. Chiều 29/4/1975 ông chỉ huy một chiến hạm và đã tiếp nhận hàng trăm người leo lên tàu di tản khỏi Sài Gòn., Ông đã đứng ngẩn ngơ nhìn con tàu xa dần bến bờ quê hương và thầm nghĩ, thôi, dù sao cũng đã chấm dứt một cuộc chiến, những người cộng sản đã thắng, đất nước thống nhất, mong rằng họ sẽ đưa đất nước phát triển, bình yên và dân chúng được hạnh phúc. Ông đã chết năm 2007 vì ung thư và mang theo giấc mơ vô cùng vị tha của mình xuống mồ. Máu xương của những người con đất Việt đã ngã xuống, nước nhà thống nhất, độc lập, nhưng hoàn toàn không có tự do. Người Việt phải bỏ nước ra đi, tha phương cầu thực, sự chia rẽ vẫn nhức nhối. Đất nước nằm trong tay một tập đoàn bao gồm các băng nhóm trục lợi. Quyền tự do của công dân bị bóp nghẹt và đàn áp. Không có bầu cử tự do, không có báo chí tự do, cả một hệ thống chính trị là một nhà tù vĩ đại giam cầm, khống chế dân tộc. Những người đã từng dấn thân, bị tù đày cho chính thể hôm nay đã phải thất vọng. Có lẽ câu nói của ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, mang tính đại diện nhất: “Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay“. Cầm quyền 38 năm, và còn tiếp tục 39, rồi 40 năm và có thể sẽ lâu hơn, ĐCSVN đã chứng tỏ là một tập đoàn phản động, phản bội, chạy theo đồng tiền bất chấp lợi ích và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Nhân dân, những người đã bỏ xương máu để có nhà nước hôm nay, trở thành kẻ nô lệ, bị lừa gạt và sống trong sợ hãi của sự đàn áp, bị u mê bởi những trò mị dân “mua thần bán thánh”, hoặc bị lên đồng điên khùng bằng những chất kích hoạt khác. Đất nước là tổng thể của một bức tranh ô hợp, lạc loạn, kẻ có địa vị giàu có cứ tiếp tục giàu có thêm, kẻ bần cùng vật lộn với miếng ăn hàng ngày, phó mặc sự đời, kỷ cương phép nước và các giá trị đạo đức của xã hội đảo lộn. 38 năm “giải phóng” thực sự trở thành 38 năm kinh hoàng của thời kỳ phong kiến-tư bản man sơ, hoang dã với mỹ từ “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Vâng, chỉ mới “định hướng” thôi, còn tiến về đâu không biết. 38 năm đi hoài, đi loanh quanh, đi mãi về một nơi mà chẳng bao giờ biết nó là cái gì cả, có tồn tại hay không. 2013 Lê Diễn Đức
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 7:58:15 GMT 9
Free or Dead - Vận động cuộc thi đua "TÌM KIẾM KẺ THÙ"
Hôm nọ nghe đài cảnh báo "Thế lực thù địch", hôm kia đọc trên báo thấy nguy cơ "Diễn biến hòa bình"...
Tự hỏi: - Kẻ thù của đất nước Việt Nam ơi, ngươi là ai? Ngươi trốn ở nơi nào?
Cày tung ký ức lịch sử lên xem.
Chúng tôi chọn Microsoft để giúp đỡ Việt Nam chúng tôi sau này đạt tới những đỉnh cao về công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, Việt Nam đạt được những thành tựu đỉnh cao là có công của Microsoft và có công của ông Bill Gates. Nói tóm lại, chúng ta gặp nhau trong thời gian rất ngắn ngủi, nhưng cuộc gặp này có ý nghĩa lịch sử trong việc phát triển công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm của Việt Nam chúng tôi. Để bảo đảm phần này, tôi muốn có một đề nghị với ông Bill Gates: Tới thời điểm này là thời điểm tốt nhất để ông tới thăm Việt Nam, cũng như chúng tôi hiện nay là thời điểm tốt nhất đi thăm Hoa Kỳ. Ông đi thăm để ông nghiên cứu, để củng cố quyết tâm, cam kết của tập đoàn Microsoft đối với Việt Nam chúng tôi. Ông đi thăm Việt Nam, chúng tôi cũng có yêu cầu thứ hai là ông và gia đình ông làm từ thiện nổi tiếng trên thế giới, nên cũng mong rằng ông đi để ông thấy chúng tôi cũng là một đất nước đáng cho ông giúp đỡ từ thiện.
» Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại trụ sở tập đoàn Microsoft năm 2005 Kẻ thù gần đây nhất là "đế quốc Mỹ" - đã ký hiệp định Paris rút quân về nước hồi 1973. Mà kể từ sau Chiến Tranh Lạnh, sự sụp đổ dây chuyền của Liên bang CHXHCN Xô Viết và các nước Đông Âu như trút khỏi vai Chú Sam cái gánh nặng nghìn cân - mà chú ấy luôn xem là mối hiểm họa hàng đầu: Làn Sóng Đỏ. Đâu cần giữ đầu cầu Nam Việt Nam ở Đông Dương nữa? Đâu cần lo sợ sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng Sản, khi dân chúng các nước ấy cứ nườm nượp chạy trốn sang các nước Tư Bản bằng đủ mọi cách: tị nạn, du học, di dân hợp pháp và cả bất hợp pháp...
Hoa Kỳ bây giờ cũng là một trong những đối tác chiến lược trên trường quốc tế, và quan trọng nhất - đó là nơi quy tụ các "Việt Kiều Yêu Nước" và "Khúc Ruột Ngàn Dặm" nhiều nhất trên quả địa cầu này. Nước Mỹ giờ đây khó có thể xem là kẻ thù của Việt Nam được!
Kẻ thù xa hơn một chút là "phát xít Nhật". Đã qua lâu rồi cái thời hạm đội xứ sở Mặt Trời tung hoành trên Thái Bình Dương. Sau Thế Chiến II, Nhật Bản đã vươn lên vị trí siêu cường về kinh tế - và là nước cung cấp nguồn vốn hỗ trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Làm sao gán cho họ mấy từ "thế lực thù địch" đây!
Xa hơn tí nữa là "thực dân Pháp". Những tiếng đại bác ở cửa biển Đà Nẵng - mở màn cho "100 năm đô hộ giặc Tây" - đã trở thành tiếng vọng của quá khứ từ hơn thế kỷ nay rồi. Cộng Hòa Pháp giờ đây có thể coi là bạn bè thân mến nhất của Việt Nam ở bên trời Âu. Đừng nói họ đang thực thi "diễn biến hòa bình", nghe chối tai khó chịu lắm.
Trở lại kẻ thù nghìn năm của dân tộc đến từ phương Bắc. Có thể dùng cụm từ "kẻ thù truyền kiếp" cũng không hề quá đáng. Hận thù trong quá khứ làm sao gác lại khi tội ác vẫn đang tiếp diễn ở hiện tại và kéo dài đến tương lai?
Cả 3 nước "đế quốc - thực dân - phát xít" đều không lấy của Việt Nam một tấc đất, một thước biển nào cả. Thế mà, người "anh em đồng chí" cùng "tinh thần quốc tế vô sản cao cả" lại nuốt chửng của ta cái quần đảo Hoàng Sa. Lại còn lăm le dùng bản đồ "lưỡi bò" muốn nuốt tiếp Trường Sa nữa chứ. Cứ vài tháng lại nghe ngư dân Việt Nam bị tàu chiến của họ bắt giam, ngược đãi, rồi đòi tiền chuộc này nọ...
Oái ăm một điều là chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước đã dán lên trán những tên cướp biển thời hiện đại ấy 16 chữ vàng + 4 tốt rồi!
Thế cho nên chớ dại mà gọi "bành trướng Bắc Kinh" hay "bá quyền Trung Quốc" nhé! Chỉ mới treo mấy cái bảng "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam" hoặc chỉ mặc chiếc áo thun có in "Người Việt Yêu Nước" hay "Giữ Màu Xanh và An Ninh cho Việt Nam" là xộ khám!
Theo chủ trương đường lối thì Trung Quốc cũng không phải là kẻ thù rồi!
Thế thì kẻ thù là ai? Chúng nó đang lẩn tránh nơi đâu?
Có tiếng ậm ừ rằng:
- Là bọn vượt biên phản động đang lưu vong ở nước ngoài đấy!
- Ủa, sao bắt họ đóng nhiều vai thế? Rồi ai sẽ làm "Việt kiều yêu nước" và "Khúc ruột ngàn dặm" đây?
Mà nghĩ cũng lạ, có cái "kẻ thù" quái đản thế không biết. Đất nước được "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" không hưởng lại liều mình vượt biên chạy trốn - bị chửi phản quốc trối chết. Đến khi ổn định trên xứ người rồi thì dành dụm gửi tiền về, thế là được vinh danh "yêu nước" và "khúc ruột". Đến một lúc sực tỉnh mới la lên:
- Bà con ở trong nước phải coi làm sao chứ để quan chức tham nhũng, hối lộ, lộng quyền, ăn trên đầu trên cổ của dân mãi đâu có được. Phải đòi quyền dân chủ chứ độc tài độc đảng hoài làm sao mà khá nổi?
Thế là lại được chụp mũ "phản động", rồi thì "lợi dụng Dân chủ Nhân quyền"!? "Kẻ thù" gì lạ thế?
Nói chung là vẫn loay hoay chưa tìm ra được kẻ thù đích thực của dân tộc ta!
Phải tìm cho ra, nhất định phải tìm cho được. Cho dù có phải cày nát cái mạng lưới toàn cầu này, dù có phải xới tung cả vùng đất đỏ Tây Nguyên hay tát cạn cả Biển Đông - cũng quyết tìm cho được kẻ thù của dân tộc Việt Nam !!!
Trong quá trình tìm kiếm chưa ra, xin tạm thời nhắm mắt lại, lẩm bẩm 4 chữ "thế lực thù địch" 4 lần rồi hé mắt ra thử xem. Nếu vẫn chưa thấy kẻ thù thì tiếp tục lẩm nhẩm 4 chữ "diễn biến hòa bình" thêm 4 lần nữa. Nhưng bây giờ đừng hé mắt ra, mà hãy tưởng tượng rằng đâu đấy trước mặt ta là kẻ thù nguy hiểm nhất, hung hãn nhất, tàn bạo nhất, xảo quyệt nhất, lì lợm nhất và ...bí ẩn nhất!
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 8:01:44 GMT 9
Nghĩa Nhân - Gã khổng lồ xấu xí
Loài người đang chịu sự chia rẽ nghiêm trọng, vì quyền lợi cục bộ vùng và lãnh thổ. Điển hình là các cuộc chiến tranh triền miên không dứt giữa các nước với nhau. Có cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố, có cuộc chiến tranh nhân danh vì lý tuởng và vì ý thức hệ. Có cả những cuộc chiến tranh không tiếng súng, trên mặt trận ngoại giao và kinh tế, nhưng không kém phần khốc liệt. Tựu trung lại, vấn đề cốt lõi của các cuộc xung đột trên thế giới đều bắt nguồn từ xung đột quyền lợi quốc gia.
Chủ nghĩa tiêu dùng được cổ xúy thái quá là tiền đề dẫn đến khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đây là nền tảng của sự đổ vỡ khơi nguồn các cuộc chiến tranh tài nguyên trong tương lai. Sự đổ vỡ này như những quả bom nổ chậm. Thay vì được tháo ngòi nổ thì lại đuợc tiếp thêm lửa bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan nước lớn.
Hiện nay nước sở hữu nhiều quả bom loại này nhất trên thế giới là Trung Quốc (TQ).
TQ là nước lớn duy nhất trên thế giới không có đường biên giới thân thiện và hòa bình với bất kỳ nuớc nào xung quanh nó. Nếu không muốn nói là người TQ không hề thân thiện và thậm chí họ cũng chẳng hề muốn có người bạn thân nào cả. Đối với người TQ, quan hệ đối tác bạn bè chỉ đơn thuần là kinh tế hay mở rộng tầm ảnh hưởng là chủ yếu.
Khi TQ trở thành nước giàu thì bản thân người dân nước họ đã trở thành những kẻ ngạo mạn. Lịch sử hình thành nhà nước TQ dựa trên tinh thần Đại Hán và nếu nhìn thấu đáo vấn đề ta có thể thấy tính Phát Xít khá lộ liễu. Đơn cử khi Mỹ tấn công Nam Tư, họ thả bom nhầm vào sứ quán TQ ở nước này thì ngay lập tức người dân TQ ở Bắc Kinh có hành động trả đủa là đánh đập công dân Hoa Kỳ ngay trên nhà mình.
Sự lớn mạnh của người TQ đã làm các nước làng giềng hết sức quan ngại. Chỉ trừ phi các nước trong khu vực dám đặt các câu hỏi thẳng thừng về các tham vong không cùng của họ và đâu là cơ sở cho các đòi hỏi vô lý này tồn tại?
Điển hình là gần đây TQ cho vẽ đường lưỡi bò liếm phần lớn khu vực Biển Đông. Tuyên bố là chủ quyền của Trung quốc. Chúng trải dài từ vịnh bắc bộ đến giáp cả vùng biển của Malaysia. Câu hỏi được đặt ra đâu là cơ sở pháp lý cho những đòi hỏi vô cớ như vậy từ nhà cầm quyền bành trướng TQ?
Tại sao các nước có quyền lợi liên quan như VN,.. không đặt câu hỏi thẳng thừng với TQ về đường lưỡi bò khốn kiếp này. Người TQ có xứng đáng là ông lớn đáng tin cậy không khi mà gần đây kỷ niệm ngày lập quốc bằng cuộc diễu võ giương oai mang tính hù dọa khu vực và thế giới. Mặc cho TQ trấn an cộng đồng thế giới rằng họ phát triển vũ khí và quân sự để phòng vệ là chính.
Vũ khí nằm trong tay những cái đầu nóng và tham lam thì khó có thể mà nói chuyện hòa bình. Gần đây những gì phản ánh trên tờ hoàn cầu của TQ càng khẳng định nhận định trên là đúng ?
Lịch sử cũng đã cho thấy TQ không phải là dân tộc yêu chuộng hòa bình như người TQ thương ra rả tự khoe, TQ là quốc gia hiếu chiến khi họ trở nên hùng mạnh. Các cuộc chiến tranh xâm lược VN trong quá khứ đã chứng minh điều đó. Chỉ có duy nhất trong thời kỳ Mãn thanh suy yếu và bị đô hộ của nước Anh là TQ không xâm lược nước khác mà thôi.
Sau khi giành độc lập và phát triển đất nước theo đường lối CNXH, người TQ đã bắt đầu manh nha cho các cuộc chiến thôn tính và tranh chấp lãnh thổ mang tính khu vực ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể là chiến tranh biên giới với Liên Xô XHCN anh em, sau đó là cuộc chiến với vùng đất Tạng Nam giáp với Ấn độ, và gần hơn nữa là thôn tính Hoàng Sa dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn. Trước mũi người anh em môi hở răng lạnh năm 74. Sở dĩ vào thời điểm đó TQ dám tấn công Hoàng Sa là vì họ đã bắt tay với Mỹ, và dĩ nhiên lúc đó Mỹ cam kết sẽ không nhúng tay vào can thiệp nếu như TQ xâm lược lãnh thổ do Việt Nam Cộng Hòa quản Lý.
Mỹ đã phạm phải sai lầm chiến lược quá lớn khi thỏa hiệp với Bắc Kinh, một nhà cầm quyền có quá nhiều tham vọng về sở hữu tài nguyên phát triển đất nước. Nay nếu chính quyền của ông Obama tiếp tục thỏa hiệp với Hồ Cẩm Đào sẽ là một thảm họa cho cả vùng ĐNA, thậm chí cho cả khu vực châu á thái bình dương. Không phải vô cớ mà ông thủ tướng Ấn Độ lo lắng khi các thỏa thuận giữa hai cường quốc này ký kết?
Khi chiến tranh biên giới Việt Trung nổ ra năm 1979, càng cho thấy TQ là quốc gia hiếu chiến như thế nào. TQ muôn sử dụng cuộc chiến này như là sự tập dược cho các mưu đồ tham vọng bành trướng bá quyền trong tương lai. Thật vậy mưu đồ chiến lược trong cuộc chiến này khà rõ. Khi tiến hành chiến tranh với VN họ đã sử dụng chiến dịch biển người, nhưng nhanh chóng thất bại do VN tiến hành biện pháp vườn không nhà trống, đồng thời với khả năng hậu cần phục vụ cho đội quân xâm lược kém nên chiến lược quân sự này nhanh chóng phá sản. buộc TQ phải vội vã chấm dứt sớm cuộc chiến trước khi nó có thể thành công như mong đợi?
Sau thất bại này TQ không còn hào hứng với chiến lược chiến tranh sử dụng biển người mà thay vào đó là hiện đại hóa quân đội. Quân đội được trang bị hiện đại hơn và cơ động hơn từ hải quân cho đến không quân... Để chứng minh tính hiệu quả cho học thuyết quân sự mới của mình thì không đâu bằng là đem áp dụng nó vào VN?
Bằng chứng là vào thập niên 80 của thế kỷ trước TQ tiến hành đánh chiếm trường sa, thực tế cho thấy họ chiếm ưu thế một cách tuyệt đối về khả năng phòng ngự cũng như tác chiến trên biển so với một đội quân có thừa ý chí nhưng trang bị kém cùng với những cái đầu lãnh đạo khiếp nhược trước một TQ hùng cường? Đó chỉ mới là mảng bề nỗi bên ngoài của TQ. Trung quốc là quốc gia nằm ở thượng nguồn sông Mekong, nhưng cùng với nó một nhà nước quân sự độc tài của tướng Than shue Miến điện hoàn toàn phụ thuộc vào Trung quốc, lại không nằm trong ủy ban sông Mêkong. Vì vậy mà những hành xử gần đây cho thấy TQ hầu như bất chấp dư luận và cộng đồng quốc tế trong việc khai thác và sử dụng lợi ích từ sông Lan Thương (một nhánh trên thượng nguồn sông Mekong). Điển hình TQ cho xây hàng loạt các con đập trên thượng nguồn con sông này. Đặc biệt là đập Tiểu Loan cực kỳ lớn, đứng thứ hai sau đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử. Người ta được biết khi con đập này hoàn thành sẽ tạo ra một hồ chứa nước nhân tạo cần 10 năm để tích đầy nước?
Đây sẽ là một thảm họa thật sự cho vựa lúa ĐBSCL khi kịch bản về con đập này đưa vào sử dụng. Trong dân gian Việt Nam có câu ca dao rất hay ví von về hiện tương này. "Thượng điền tích nước, hạ điền khang". Khi hạ điền, vựa lúa ĐBSCL cạn kiệt nguồn nước tưới tiêu, không những ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho cả VN mà còn ảnh hưởng chung cho an ninh lương thực thế giới? Khi mà hàng năm 80% sản lượng lúa được dùng để xuất khẩu khoảng 6, 7 triệu tấn.
Hành vi xấu của người TQ không chỉ ảnh hưởng đến người VN nói riêng mà còn ảnh hưởng đến các nước nhập khẩu gạo từ VN nói chung.
Không những từ chính sách ích kỷ về việc sử dụng nguồn nước tại quốc gia mình không thôi, TQ con dùng chính sách đồng tiền mạnh như là chủ nghĩa thực dân siêu mới để tác động, gây ảnh hưởng khiến các quốc gia ở vùng trung và giáp hạ lưu xây dựng các chính sách về các đập thủy điện trên sông Mekong sẽ còn ảnh hưởng nghiêm trọng hơn nữa đến sự tồn vong của vựa lúa này trong tương lai không xa. Nếu như chúng ta không hành động cấp bách và khẩn thiết ngay từ bây giờ?
Xã hội loài người rồi sẽ phải đối mặt với cuộc chiến về nguồn nước tàn bạo và khốc liệt hơn đệ nhị thế chiến gấp nhiều lần?
Asean là một tập hợp lõng lẻo, thiếu dân chủ, chia rẽ vì quyền và lợi ích khác nhau. Asean sẽ chẳng bao giờ là đại diện đủ mạnh để nói lên tiếng nói của mình với gã khổng lồ thích dùng cơ bắp và hay bắt nạt kẻ yếu?
Nếu như tổ chức này muốn tồn tại mà không liên kết với ai?
Phải quyết liệt, chuyện chẳng đặng đừng Các cơ quan hữu quan của Việt Nam tiếp tục lên tiếng phản đối, có phản ứng quyết liệt để phía Trung Quốc chấm dứt tình trạng này". Đó là đòi hỏi của nhân dân ta, những người đã từng biết cái giá phải trả cho độc lập và tự do.
Và độc lập tự do không thể chỉ là một khẩu hiệu động viên mà còn là quyền của người dân được sống, được làm việc để có hạnh phúc cho mình và gia đình mình, là quyền làm chủ của từng con người trên đất nước của mình.
Ấy thế mà họ đang hành nghề trên biển thì bị tàu lạ bắt giữ, đánh đập rồi đòi tiền chuộc thì còn đâu đạo lý? Ai đang là bọn cướp biển?
Kể cũng lạ, đường đường là quân đội của một nước đông dân nhất trên trái đất đang nuôi ước vọng siêu cường, xây cả "vạn lý trường thành mới dưới mặt đất" để cất giữ vũ khí hạt nhân, sao có thể làm ngơ cho binh lính được vũ trang tận răng bắt giữ tàu cá của ngư dân đang hành nghề hợp pháp trên vùng biển của họ?! Nào chỉ có bắt giữ suông, mà bắt giữ để đòi tiền chuộc.
Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi có 6 tàu cá bị tàu Ngư Chính của Trung Quốc bắt giữ để rồi đòi tiền chuộc trên 1 tỷ đồng!
Xin chỉ dẫn ra đây 2 trường hợp của hai người vợ khốn khổ: Bà Phạm Thị Lâm ở thôn 4, Tam Hải - Núi Thành, Quảng Nam đã rụng rời chân tay khi nhìn tờ giấy viết toàn bằng chữ lạ hoắc mà người ta nói với bà rằng nó đến từ Hải Nam, nơi đang cầm giữ mạng sống của chồng bà với số tiền chuộc họ đòi là 130 triệu đồng! Chị Nguyễn Thị Hoa, ở khối 4 thị trấn Núi Thành còn khốn khổ hơn. Chồng chị, bị tàu lạ bắt dạo tháng 3/2007 và đòi chuộc 160 triệu đồng. Chị phải bán ngôi nhà đang ở mới có đủ số tiền ấy!
Theo thống kê của Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng Quảng Ngãi, từ đầu năm đến nay, phía Trung Quốc đã bắt giữ 17 tàu cá với khoảng 210 ngư dân huyện đảo Lý Sơn và xã Bình Châu, huyện Bình Sơn trong lúc hành nghề và trú bão trên vùng biển Hoàng Sa. Trước áp lực của công luận, họ phải thả 13 tàu cá cùng 210 ngư dân về Quảng Ngãi nhưng vẫn còn 4 tàu cùng nhiều trang thiết bị, ngư cụ, thủy sản bị tạm giữ ở Hoàng Sa, ước tổng giá trị gần 8 tỷ đồng.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 8:07:17 GMT 9
Roberto Tofani - Chiến tranh Tâm lý trên biển Đông
Nguồn: The Asia Times
Diên Vỹ chuyển ngữ
10.04.2013
"Bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.
- Binh pháp - Tôn Tử.
Tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Việt Nam đang bước vào một lĩnh vực mới đầy nguy hiểm: chiến tranh tâm lý. Những khiêu khích ăn miếng trả miếng, bao gồm việc điều động các tàu hải giám đến những vùng đang bị tranh chấp trên biển Đông và quyết định in khu vực tranh chấp trên bản đồ hộ chiếu của Bắc Kinh đã tăng cao trong những tháng qua, tạo thêm những yếu tố bất ổn mới trong một tình hình vốn đã nhạy cảm.
Trong khi cả hai phía đều liên tục tuyên bố rằng họ đều mong muốn đạt được một giải pháp hoà bình qua thương lượng, bao gồm cả một tuyên bố chung đưa ra vào năm 2011, nhưng hiện tại hầu như không có đối thoại nào giữa hai chính phủ. Bắc Kinh và Hà Nội hiện phải đối phó với tinh thần dân tộc ngày càng tăng trong dân chúng, bao gồm những vụ biểu tình chống Trung Quốc lẻ tẻ ở Việt Nam và những luận điệu chống Việt Nam của dân Trung Quốc đang lan tràn trên các trang blog cá nhân và Facebook bàn về tranh chấp biển Đông.
Thay vì đối thoại, dường như Trung Quốc và Việt Nam lại tăng cường tham gia vào một trò chơi chiến tranh tâm lý đầy gai góc, với mục đích rõ ràng là nhằm giảm thiểu khả năng đối phương tiến hành những hoạt động quân sự trong khu vực bị tranh chấp. Trong khi phản ứng của Việt Nam trước những hoạt động của Trung Quốc có vẻ như tự vệ hơn tấn công, hành động của Trung Quốc rõ ràng là nhắm vào việc ngăn cản và làm nhụt tinh thần quân đội và binh chủng hải quân Việt Nam nhỏ hơn và trang bị tương đối nghèo nàn hơn.
Khi lệnh cấm đánh bắt cá thường niên ở phía bắc biển Đông do Trung Quốc áp đặt được dỡ bỏ vào tháng Tám năm ngoái, đã có hơn 14 nghìn tàu đánh cá có giấy phép từ Quảng Đông và 9 nghìn tàu khác chở 35 nghìn ngư dân Trung Quốc từ đảo Hải Nam tràn ngập khu vực biển đang bị tranh chấp. Các quan chức Việt Nam lúc ấy cho biết rằng mục đích phía sau của việc huy động một lượng lớn tàu thuyền có tổ chức này là "không phải để đánh cá".
Trong báo cáo tên "Khuấy động biển Đông II: Phản ứng Khu vực" của tổ chức International Crisis Group ở Brussels nói rằng việc huy động một lượng lớn tàu thuyền đánh cá "cũng là cách viện cớ để tăng cường việc kiểm soát dân sự trên biển Đông và khuyến khích tinh thần dân tộc".
Vào cuối tháng Giêng, Việt Nam đã phản ứng bằng việc thiết lập một uỷ ban bảo vệ vùng biển mà họ tuyên bố chủ quyền trên biển Đông. Theo một sắc lệnh hành chính được hợp pháp hoá, thành viên của cơ quan "Kiểm Ngư Việt Nam" sẽ có quyền xử phạt các tổ chức hoặc cá nhân hoạt động đánh bắt cá trong và ngoài nước nào trong vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Theo sắc lệnh trên, cơ quan giám sát này cũng sẽ đảm nhận việc quản lý và ngăn ngừa tai nạn cũng như các nhiệm vụ tìm kiếm cứu hộ. Uỷ ban này được thành lập sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển vào năm ngoái. Trung Quốc đã cực lực phản đối với lý do là dự luật mới này vi phạm chủ quyền lãnh thổ của họ. Đài truyền hình nhà nước CCTV có bình luận tương tự rằng việc thành lập uỷ ban giám sát mới này đã vi phạm "chủ quyền và quyền lợi biển" của Trung Quốc.
Trong một phản ứng mang tính ăn miếng trả miếng, vào đầu tháng Ba các quan chức Trung Quốc đã thông báo kế hoạch thành lập một ngôi làng mới trên đảo Vành Khăn (Mischief Reef), một đảo san hô lớn trên quần đảo Trường Sa. Ngày 7 tháng Ba, Hà Nội tái xác nhận tuyên bố chủ quyền của mình trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khiến cho Trung Quốc lần đầu tiên đã huy động một đơn vị hải giám có trang bị trực thăng để tiến hành các chuyến tuần tiểu và quan sát gần những hòn đảo đang tranh chấp.
Ngày 10 tháng Ba, ba chuyến tàu Hải giám Trung Quốc đã trống giong cờ mở xuất hành từ thành phố Tam Sa vừa được thành lập ở đảo Hải Nam. Ba ngày sau, Tân Hoa Xã tường thuật rằng hai chiếc tàu đánh cá có giấy phép từ Việt Nam đã bị một trong các tàu Hải giám đuổi ra khỏi hải phận Trung Quốc. Bản báo cáo nói rằng các tàu Việt bị tình nghi là đã đánh cá bất hợp pháp trong vùng biển Trung Quốc.
Yếu thế
Hà Nội đã không chính thức đưa ra một tuyên bố nào để phản ứng lại sự kiện trên, đặc biệt là khi nó xảy ra đúng vào dịp Việt Nam kỷ niệm cuộc hải chiến 1988 trên quần đảo Trường Sa, khi Trung Quốc đã đánh bật lực lượng Việt Nam, giết chết 64 binh sĩ. Giới truyền thông nhà nước Việt Nam đã tường thuật rộng rãi dịp kỷ niệm này và tiếp tục nhấn mạnh rằng đảo Gạc Ma trong cùng quần đảo này đã bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp - một quan điểm cùng được chia sẻ bởi những người tham gia biểu tình chống Trung Quốc tháng trước ở Hà Nội.
Vài hôm sau, vào ngày 25 tháng Ba, Hà Nội đã mạnh mẽ phản đối việc một tàu Trung Quốc bắn pháo hiệu vào tàu đánh cá Việt Nam trong quần đảo Hoàng Sa. Các quan chức Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh phải điều tra và có hành động trừng phạt thủ phạm về việc mà Hà Nội xem là hành động"sai trái và vô nhân đạo". Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã trả lời rằng hành động này là "cần thiết và hợp pháp" vì nó xảy ra trong khu vực mà Bắc Kinh xem là lãnh thổ Trung Quốc.
Về mặt quân sự, Trung Quốc có khả năng để giữ một vị thế cứng rắn như thế. Theo số liệu chính thức, ngân sách quân sự 91,5 tỉ Mỹ kim của Trung Quốc lớn gấp 40 lần ngân sách 2,6 tỉ của Việt Nam. Bắc Kinh còn thống lĩnh cả lĩnh vực kinh tế, trong khi tỉ lệ nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc tăng từ 9 tỉ Mỹ kim vào năm 2007 lên đến 16,4 tỉ vào năm 2012.
Một số nhà phân tích cho rằng giai đoạn tới trong chiến dịch chiến tranh tâm lý của Trung Quốc có thể là việc áp đặt những cấm vận thương mại với Việt Nam, tương tư như việc cấm xuất khẩu quặng đất quí vào Nhật Bản vào năm 2010 và lệnh cấm nhập khẩu chuối từ Philippines vào năm ngoái. Cả Nhật và Phi đều dính líu đến những tranh chấp hàng hải với Trung Quốc. Tuy nhiên những chiến thuật này có thể tạo ra nguy cơ phá huỷ quan hệ ngoại giao dài hai thập niên qua nhằm xây dựng niềm tin và quan hệ kinh tế với Đông nam Á .
Để bảo vệ vị trí của mình, Việt Nam liên tục viện dẫn luật quốc tế và "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" không bắt buộc mà Trung Quốc và ASEAN đạt được. Trong khi Trung Quốc tái xác định cam kết của mình đối với bản tuyên bố vào đầu tháng này tại Hội nghị Quan chức Cao cấp ASEAN-Trung Quốc tại Bắc Kinh, phía sau họ lại có những hoạt động nhằm ngăn cản các quốc gia ASEAN có thái độ chung đối với các tranh chấp.
Thái độ lấp lửng của Bắc Kinh, bao gồm việc có bao nhiêu hòn đảo nằm trong đường lưỡi bò chín gạch kéo dài trên biển Đông mà họ tuyên bố chủ quyền, đã góp phần vào cuộc chiến tranh tâm lý với Việt Nam. "Những cường quốc lớn có lợi thế trong việc giữ tính mơ hồ về chiến lược," Huang Jing, giám đốc Trung tâm châu Á và Toàn cầu hoá tại Đại học Quốc gia Singapore nói. Ông nhận xét rằng Trung Quốc đã học phương pháp chiến lược mơ hồ mà Hoa Kỳ thường xuyên sử dụng trong quan hệ đối ngoại.
Tình hình càng thêm phức tạp qua việc Trung Quốc chuyển giao quyền lãnh đạo từ Hồ Cẩm Đào sang Tập Cận Bình. Theo học giả Jing, dưới quyền của Tập, biển Đông không thể đơn giản được xem như là một vấn đề quốc tế mà còn là vấn đề đối nội. "Quan điểm quần chúng có ảnh hưởng đến quyết định chính sách. Các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc không có lựa chọn nào khác - họ phải đóng vai cứng rắn trong vấn đề biển Đông." ông Jing nói.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 8:09:22 GMT 9
Ngô Minh - Năm lần "phá" Chủ Nghĩa Xã Hội để tồn tại
Không ai biết Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một hình thái xã hội như thế nào. Nó có trong trí tưởng của ai đó hay có ở hành tinh khác. Chỉ nghe thầy giáo chính trị giảng đi giảng lại trong lớp học từ bé lớp một cho đến sinh viên đại học, rằng: Nước ta đang xây dựng CNXH, giai đọn đầu của Chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa xã hội là sung sướng gấp vạn lần, dân chủ, tự do gấp vạn lần chủ nghĩa tư bản. Nhưng thực tế ở nước ta (và nhiều nước CNXH “anh em” khác như Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba, các nước Đông Âu, Liên Xô (cũ) 80 năm qua, càng xây dựng CNXH thì cuộc sống càng đi xuống, bị kềm nén không có tự do báo chí, không có tự do lập hội, thiếu dân chủ v.v... Chỉ đi xe chục tiếng sang Thái Lan, thấy đời sống nước họ, tự do dân chủ nước họ mà thèm. Đó là chưa nối đến Hà Lan,Thụy Sĩ, Thuỵ Điển, Đan Mạch… cuộc sống của họ là thiên đường thực sự. Ở xứ ta, chỉ có giai cấp lãnh đạo Đảng, Chính quyền là ngày càng giàu sang và quyền lực. Các nước Đông Âu và Liên Xô đã làm một cuộc “cách mạng mềm” lật đổ CNXH để xây dựng cuộc sống mới. Bốn trăm triệu người ở Liên Xô và Đông Âu được giải phóng, vô cùng hoan hỷ. Nước ta từ năm 1954 ở miền Bắc và từ sau năm 1975 trên cả nước, ai cũng nhận thấy càng xây dựng CNXH thì dân càng đói kém, cuộc sống càng bị o ép khổ cực. Đến bây giờ nước ta vẫn được xếp hạng một trong những nước nghèo nhất thế giới. Nhưng nhân dân ta đã có những cuộc vượt phá chiếc “vòng kim cô” CNXH để mưu sinh và tôn tại rất ngoạn mục:
1. Cuộc “lãn công” vĩ đại dưới thời Hợp tác xã
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ở miền Bắc tiến hành Hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo tiểu thủ công nghiệp. Hợp tác xã là Chủ nghĩa xã hội. Lúc đầu bà con háo hức lắm. Nhưng rồi tham nhũng nảy nòi, được thể chế CNXH khuyến khích: Một người làm việc bằng hai / Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe/ Một người làm việc bằng ba / Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân… Đưa ruộng cha ông để lại vào hợp tác rồi, người nông dân không còn ruộng đất canh tác nữa, phải đi làm đồng theo kẻng. Ruộng chung như cha chung không ai khóc, nắng lên khỏi ngọn sào mới lục tục ra đồng, chưa xong đường cày đã giải lao, chiều mặt trời còn con sào đã về. Nên cuối vụ chia công điểm, mỗi công được 2 lạng thóc. Dại gì mà làm cho thằng khác ăn. Thế là đói. Cả xã hội nông thôn lãm công. Người gần rừng thì đi đào củ mài. Người không có rừng thì đào cua bắt ốc ra chợ đổi gạo. Nên cả miền Bắc nông dân lãn công.
Lãn công đến độ, bờ xôi ruộng mật cũng chẳng ai ngó ngàng đến. Thấy cảnh dân đói quá, các nhà quản lý buộc phải “phá lệ XHCN”, chia “Đất phần trăm” cho nông dân. Đất phần trăm là đất được xác định 5% quỹ đất của địa phương chia cho các hộ gia đình để sản xuất rau màu,cấy lúa. Những người sinh từ 1962 trở về trước được chia 2 thước ta tức là 48m2/người và được toàn quyền sử dụng. Trên mảnh đất phần trăm đó, các hộ nông dân đã trong khoai cấy lúa nuôi sống gia đình mình, không cần đến thu nhập của HTX. Đất phần trăm tư nhân ấy là cú “phá CNXH” đầu tiên của nông dân Việt Nam.
2. Khoán hộ Kim Ngọc – cú đấm vào mặt CNXH
Có đất phần trăm rồi vẫn nhiều hộ đói, vần tiếc ngẩn ngơ hàng triệu hecta đất màu mỡ vào HTX không mang lại thu nhập, bà con ở Vĩnh Phú, theo anh Kim Ngọc nghĩ ra cách khoán hộ, để có người chịu trách nhiệm hiệu quả trên tầng thước đất. Khoán Kim Ngọc ra đời. Tổng bí thư đảng kêu lên: ”Khoán hộ là phá CNXH”. Thế là Kim Ngọc bị kiểm điểm. Phá CNXH cũng không chết bằng đói. Thế là phong trào khoán hộ phát triển rầm rộ ở nhiều tỉnh như Hải Phòng, Hải Hưng… Cuối cùng thì Bộ Chính trị buộc phải “phá CNXH” ra nghị quyết “Khoán 10”. Khoán Kim Ngọc như một nắm đấm đấm vỡ mặt Chủ nghĩa xã hội ảo tưởng.
3. CNXH: PHÂN NHƯ CỨT, CỨT GÌ CŨNG PHÂN
CNXH được định nghĩ là “nền kinh tế Kế hoạch hóa từ sản xuất đến tiêu dùng”. Nên kế hoạch sản xuất hàng hóa hàng năm giao cho các nhà máy, xí nghiệp. Sản xuất được bao nhiêu nộp cho nhà nước để nhà nước phân phối theo kế hoạch. Nhưng sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu ngày càng cao. Nên tất cả các nước đều phải áp dụng chế độ tem phiếu một cách triệt để. Chỉ có lãnh đạo cao cấp là được mua theo nhu cầu, toàn hàng tốt ở của hàng Tông Đản, còn cán bộ, công hnân viên đều có đủ loại tem phiếu, từ mớ củi, bìa đậu phụ, bó rau… đến mét vải màn cho phụ nữ vệ sinh, đều có tem phiếu hoặc sổ mưa hàng. Bắt cởi trần phải cởi trần / Cho may ô mới được phần may ô. Cung cấp thành nếp sống. Lãnh đạo đẩng tuyên bố: “Kế hoạch hoá tiêu dùng chính là bản chất của CNXH”. Buổi sáng nọ, ở công Sở Thương Mại tỉnh nọ có câu đối: Phân thì như cứt. Cứt gì cũng phân. Nhưng đến khi Bộ trưởng thương mại Trần Phương vạch kế hoạch bỏ tem phiếu, TBT kêu lên: ”Làm thế thì phá CNXH còn gì?”. Nhưng dân tộc ta đã “phá CNXH”, từ bỏ được chế độ tem phiếu để tồn tại. Từ bỏ cảnh cung cấp bao năm trời làm đau khổ chị em: Hôm nay mồng tám tháng ba / Chị em phụ nữ đi ra đi vào / Hai tay hai củ xu hào/ Miệng luôn lẩm bẩm: Nên xào hay kho?
4. TỰ CHỦ TÀI CHÍNH – CUỘC PHÁ CNXH NGOẠN MỤC
Sau năm 1975, Bộ Chính trị đảng chỉ đạo tức tốc “cải tạo công thương nghiệp miền Nam, đánh bại bọn tư bản, nếu không thì không thể xây dựng CNXH được”. Thế là đua nhau đập phá, cải tạo. Các nhà máy, xí nghiệp hiện đại đang vận hành êm ru bỗng chốc tiêu điều. Nguyên liệu không có để sản xuất, công nhân không có việc làm, không lương. Nhiều giám đốc tư bản rãy chết bị thay bằng “giám đốc học Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc ra”. Cái trường ấy cũng lạ, ai tốt nghiệp trường đó có thể ra làm bất cứ việc gì, từ bí thư, chủ tịch, đến giám đốc nhà máy dệt, giám đốc công ty điện tử êm ro. Không cần sản xuất hàng hóa nhiều, chỉ cần suốt ngày phê bình tự phê bình, đấu tranh giai cấp. Thế là cả một nền kinh tế miền Nam không lồ chỉ vài năm sau thành kiệt quệ. Đói đầu gối phải bò. Anh em công nhân đề xuất chủ trương “tự hạch toán”, “tự chủ tài chính”, “kế hoạch ba”, “xuất khẩu để lấy ngoại tệ mua vật tư nguyên liệu”… TBT đảng hét: ”Bọn bây phá chủ nghĩa xã hội à!”. không phá thì chết đối cả nút. Thế là cuộc “phá” CNXH lần thư tư diễn ra không thể đảo ngược.
5. CNXH LÀ KHÔNG ĐƯỢC CÓ NHÀ 2 TẦNG TRỞ LÊN
Qua 4 lần “phá CNXH”, đời sống của nhân dân khá lên đôi chút. Có người buôn bán có tiền làm nhà lầu vài ba tầng. Thế mà một lãnh đạo đảng hét lên: ”Giàu như rứa là trái với bản chất chủ nghĩa xã hội”. Thế khoảng tháng 3 năm 1983, chỉ thị Z30 một chỉ thị miệng ra đời, nhằm tịch thu nhà, tài sản của những gia đình có nhà hai tầng trở lên tại các thành phố. Chỉ thị mật, không rõ của Ban Bí thư hay của Chính phủ ra lệnh, không có người ký, không có văn bản, không dựa trên bất kỳ một điều khoản pháp luật hiện hành, chỉ truyền miệng qua hệ thông Công an. Thế mà ở Hà Nội đã tịch thu 105 nhà, không cần tòa án và cũng không có bất cứ một bằng chứng nào để có thể khẳng định đó là tài sản bất minh. Có một gia đình bị tịch thu, cả nhà đội khăn tang, bị đẩy lên xe, khóc sướt mướt. May mà có một số người đã phá cái lệnh CNXH đó. Nguyễn Văn An bí thư Hà Nam Ninh đã đốt danh sách (khoảng 100 quyết định) do công an tỉnh lập để tiến hành tịch thu, đã được đóng dấu ngay trước đêm định thực hiện trong danh sách 200 gia đình xếp theo ABC . Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh cũng không tuân lệnh “bảo vệ CNXH” ấy.
Đấy, CNXH là rứa đó, nhân dân ta đã bao nhiêu năm điêu đứng, lầm than vì nó, đã 5 lần vùng lên “phá CNXH”, cố thoát ra khỏi cái ách đó, mà không thể thoát được. CNXH lại biến thành cái đuôi đằng sau cái khái niệm: Kinh tế thị trường định hướng XHCN, pháp chế XHCN v.v... với kinh tế nhà nước là chủ đạo. Thế là tha hồ cho bọn tham lam hốt tiền ngân sách. Các tập đoán nhà nước đã thất thoát hơn triệu tỷ đồng, bọn bán biệt tự Hà Nội trốn thuế 1.400 tỷ đồng, những Vinashine, Vinaline… mọc lên như nấm. Bây giờ thì CNXH đã lộ nguyên hình là một hình thái xã hội tham nhũng, ăn cắp. Ăn đất, ăn biển, ăn rừng, ăn dự án, ăn chức, ăn quyền… ăn cả học vị và học hàm giáo sư, tiến sĩ. ĂN CẮP CẢ XƯƠNG MÁU ĐỒNG ĐỘI ĐỂ CÓ DANH HIỆU ANH HÙNG. Đau đớn thay! Nhưng nhân dân Việt Nam vốn thông minh và dũng cảm, nhất định sẽ tìm cách để vứt bỏ chiếc vòng kim cô CNXN vô lý đang thít chặt quanh đầu mình …
|
|