|
Post by NhiHa on Oct 19, 2010 9:47:12 GMT 9
Tưởng niệm đầy xúc động về nhà văn quá cố Xuân VũSunday, March 21, 2004 Nguyên Huy Trước một cử tọa trên 100 người mà phần lớn là bà con đồng hương Bến Tre, Bác sĩ Bùi Thị Mỹ Phương, ái nữ của nhà văn Xuân Vũ, đã không ngăn được những dòng lệ nhớ thương người cha đã quá cố khi lên cảm tạ mọi người đã đến tham dự lễ Tưởng Niệm này. Buổi lễ đã được đồng nghiệp, đồng hương của nhà văn Xuân Vũ trong Xuân Vũ Foundation đứng ra tổ chức vào lúc 5.30 chiều thứ bảy vừa qua tại phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt với khoảng gần hai trăm người đến tham dự vào giờ phút đầu tiên. Phát biểu trong buổi lễ Tưởng Niệm này, đa số người tham dự xin lên bày tỏ cảm nghĩ về nhà văn Xuân Vũ đều tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa. Ðặc biệt, với những đồng hương Bến Tre của nhà văn quá cố Xuân Vũ, hết thảy đều lấy làm vinh dự vì quê hương mình đã có một nhân tài, từng đóng góp cả cuộc đời mình trong công cuộc giành Tự Do, Ðộc Lập cho tổ quốc kể cả về những ngày tháng thanh xuân cũng như trí tuệ về sau này. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm trong dịp này đã trình bày một bài nhận định giá trị về nhà văn Xuân Vũ. Giáo sư Liêm đã nhìn nhà văn Xuân Vũ trên khía cạnh nhân bản. Giáo sư kết luận trong bài nói chuyện khá dài của ông sau khi phân tích nhiều truyện ngắn, truyện dài của nhà văn Xuân Vũ. Giáo sư nói: “Con người không phải là con vật, con người không thể được dùng làm phương tiện để biện minh cho bất cứ một cứu cánh nào. Con người là một thực thể có tri thức, có tình cảm, có hoạt động, có nhu cầu, có ước vọng, có giá trị của con người. Ðừng chà đạp lên nhân phẩm, đừng tước đoạt nhân quyền, hãy trả lại cho con người giá trị thật sự của con người. Ðó là thông điệp của Xuân Vũ qua bộ hồi ký của ông. Và qua thông điệp này ông thật là một nhà văn lớn không những cho người dân Nam Bộ mà cho cả người dân Việt, hay đúng ra không phải riêng cho người VN mà cho con Người nói chung viết bằng một chữ N hoa.” Nhiều trí thức nhân sĩ trong cộng đồng cũng đã lên Tưởng Niệm trước bàn thờ nhà văn quá cố Xuân Vũ đồng thời cũng bày tỏ những cảm nghĩ của mình về Xuân Vũ. Như Giáo sư Nguyễn Phước Sang cho biết anh chị em trong Phật Giáo Hòa Hảo đã tính đến chuyện làm một bức tượng Xuân Vũ, dù lớn hay nhỏ để nhớ đến công lao tâm trí cũng như cuộc đời của Xuân Vũ để cho những thế hệ mai sau suy ngẫm. Giáo sư Nguyễn Phước Sang cũng cho rằng chúng ta nên đề nghị Xuân Vũ lên Ủy Ban xét duyệt Giải Nobel văn chương. Chiến sĩ Võ Ðại Tôn cũng lên trình bày những kỷ niệm thiết tha với nhà văn Xuân Vũ khi ông phục vụ ở Nha Công tác Bộ Chiêu hồi. Nhà văn Xuân Vũ khi ấy mới bỏ hàng ngũ Cộng Sản, và ông đã mang tâm huyết của mình viết nên cuốn hồi ký “Ðường Ði Không Ðến” và đã được trao Giải I Văn Chương của VNCH. Chiến sĩ Võ Ðại Tôn nhấn mạnh: “Cuốn hồi ký ấy chính là máu, là xương thịt của nhà văn Xuân Vũ”. Nguyễn Chí Thiện , nhà thơ từng viết lên những câu thơ máu lửa vạch trần tội ác chế độ Cộng Sản, trong dịp này cũng bầy tỏ rằng: “Nhà văn Xuân Vũ đã không thua gì với những nhà văn lớn của Tây Phương cũng như Solzhenitsyn trong thế giới Cộng Sản. Chỉ vì đất nước VN nhỏ bé và dân tộc chúng ta bị những đế quốc chôn vùi nên tiếng nói của những nhà văn như Xuân Vũ không cất cao trước thế giới được. Ông đã có những nhận xét về Cộng Sản rất chính xác, có thể coi như giáo trình cho con em để các thế hệ này hiểu thế nào là Cộng Sản.” Và những giờ phút tiếp sau đó, rất nhiều người đã xin lên phát biểu. Ðại diện của nhà xuất bản Thằng Mõ ở San Jose, thường in những tác phẩm của Xuân Vũ sau này, cho biết còn giũ 6 tác phẩm của ông và hứa sẽ tiếp tục in ra và mọi khoản thu trong việc bán sách sẽ chuyển hết vào quỹ của Xuân Vũ Foundation mà không nhận một thù lao nào. Buổi lễ tưởng niệm nhà văn Xuân Vũ do một nhóm đồng hương đồng nghiệp với nhà văn đã đạt được kết quả tốt đẹp. Tốt đẹp đây không phải chỉ dựa trên sự thành công về tổ chức mà đã làm sống lại tinh thần của một nhà văn chứng nhân của một giai đoạn trong lịch sử khổ đau của dân tộc VN. (N.H.)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:08:12 GMT 9
ĐỌC “NHẬT KÝ AN LỘC” CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN QUÝ
Đặng Trần Huân Nhật Ký An Lộc của bác sĩ Nguyễn Văn Quý mới ra mắt thật sự là một cuốn nhật ký vì được viết từ 30 năm trước, ngay chính những ngày tác giả có mặt trong thời gian tử chiến 1972 ở Bình Long.
Nguyễn Văn Quý cho biết ông chỉ có ý định viết cho mẹ, các em ông và nếu có con để chúng biết về những gian khổ của ông tại Bình Long trong thời gian chiến cuộc đỏ lửa 1972 trên chiến trường Nam Việt Nam (trang 342). Nhật Ký An Lộc tuy không ghi từng ngày, tháng nhưng đầy đủ diễn tiến ba tháng tỉnh lỵ An Lộc bị bao vây, bị cô lập nhưng đã cầm cự quyết liệt và cuối cùng chiến thắng.
Nếu cuốn sách chỉ thuần túy là một cuốn nhật ký về đời riêng của mình từ lúc ấu thơ cho tới hiện tại thì cũng chả có gì đáng nói vì một bác sĩ tuy là một khuôn mặt cộng đồng nhưng Nguyễn Văn Quý không phải là một danh ca hay một siêu sao điện ảnh có đời tư sôi nổi, có những cuộc tình bốc cháy mà mà những người ái mộ tò mò muốn biết.Mở trang đầu Nhật Ký An Lộc ta có thể tưởng như đang đi vào cuộc đời tác giả từ thuở ấu thơ. Nhưng phần này chi vỏn vẻn có vài dòng mà thôi. Sau đó nội dung sách cuốn hút ta từ khi lúc sinh viên Nguyễn Văn Quý tuy đã tốt nghiệp bác sĩ và đủ điều kiện nhưng không xin miễn dịch mà xin nhập ngũ Khóa 10 Y Sĩ Trưng Tập. Ông nhận công tác tại bệnh viện tiểu khu Bình Long ở tỉnh lỵ An Lộc ngày 13. 4. 71 và đúng ngày đó một năm sau Việt cộng tấn công Bình Long mà ông cho là với ông đó là một trùng hợp lạ lùng. Nhật Ký An Lộc được viết với giọng văn rất thành thực, chân tình và nội dung bao chùm nhiều chi tiết khi anh hùng, khi bi thảm, đau thương trong mặt trận An Lộc mà trước nay chưa nghe ai kể. Trong vòng vây, bác sĩ Quý tậân tình cứu chữa các chiến hữu với những điều kiện ngặt nghèo về phương tiện, có lúc ông đã phải dùng dây ny lông cột miệng bao cát để làm chỉ may vết thương sau giải phẫu và đại úy Nghi là người đầu tiên chịu sự thí nghiệm này, rồi tới các trường hợp sau nữa đều an toàn (tr. 288). Những đoạn mô tả sự tận tâm của người y tá Biệt Động Quân với đồng đội thương binh từ đơn vị xa tới (tr.115), điều ki?n làm việc trong bệnh viện khi không đèn, không điện thoại là những cảnh rất xúc động. Hãy nghe ông kể về một trường hợp thương tâm trong hàng trăm tường hợp: Một người lính mặt mũi đầy cát bụi tới kéo áo tôi lại gần một chiếc cáng. Anh ta có vẻ xúc động lắm, nước mắt quanh tròng. - Bác sĩ cứu giùm thiếu úy đại đội trưởng của em... Tụi nó còn nằm như rạ ngoài kia. Tôi quỳ xuống bên băng ca. Một người nằm thiêm thiếp, mặt mũi tái xanh chắc chắn bị kích xúc rất nặng. Tôi thấy hai cẳng chân bị thương nát tới đầu gối. Vết thương đầy bùn đất. Cẳng chân trái chỉ còn là một đống thịt xương vụn nát dính vào đầu gối bằng mấy sợi gân trắng hếu. Nhìn nét mặt người thương binh thấy hơi quen quen. Tôi ngó xuống bảng tên: UY. Tôi ngửng phắt lên nắm vai anh lính: - Có phải thiếu úy đại đội trưởng 212 không? - Dạ phải. Thôi rồi, tôi thấy lạnh buốt trong lòng. Một niềm thương cảm xót xa làm tôi thấy cay ở mắt. Tháng trước gặp Uy lần đầu tiên, ăn nhậu với Uy. Uy nói tôi và Uy có họ với nhau. Uy là em họ tôi ... Trong bữa tiệc tôi không tiện hỏi kỹ. Tôi nghĩ bao giờ về Sài Gòn hỏi lại người nhà cho chắc chắn (tr. 141, 143) Thế rồi dù tận tình cứu chữa tác giả cũng đành phải cắt một phầân ba trên cẳng ngừơi em họ gặp lại ở chiến trường. Trong hoàn cảnh bề bộn với những ca mổ, vị bác sĩ tuy mang trách nhiệm nặng nề nhưng có lúc lo sợ như ai, một tình cảm của thất tình. Và hãy nghe tác giả dí dỏm nói tới cái sợ của người nữõ tù binh cộng sản về đạn của đồng chí của cô: Những hôm bị pháo kích tôi đi ngang qua phòng cô ta thấy cô ta mặt mũi xanh rờn vì sợ, chui xuống gầm giường bệnh, một cánh tay vẫn bị khóa chặt vào thành giường, khiến mọi cử động của cô rất khó khăn. Tôi nghĩ bụng thì ra cô cũng sợ pháo của các đồng chí của cô (tr.157). Trước ngày An Lộc bị bao vây, Ban An Ninh tỉnh giải tới bệnh việân tiểu khu hai tù binh bị thương có một nữ tuổi trạc 20. Tác giả đã mổ cho họ,ï săn sóc họ như người dân không phân biệt bạn, thù. Sau khi mổ họ được đưa ra phòng hậu giải phẫu. Người nữ tù binh tỏ vẻ hoài nghi những người bắt giữ mình nhưng dần dần rồi hiểu và khi giải trở lại an ninh tỉnh cô đươc gỡ còng và đi lại tự do như mọi người thì cô vui vẻ trở lại. Trong những trường hợp khác bộ đội Việt cộng bị còng nhưng chắc là các cấp chỉ huy của họ nói là "tự nguyện". Một hôm lợi dụng pháo kích lắng dịu, bác sĩ Quý và bác sĩ Diệm đi lên hướng Lộc Ninh quan sát chiến trường. Sau khi đi qua một dẫy mộ của chiến sĩ Biệt Cách Dù, ông chú ý tới những xác xe tăng địch gần đó. Tôi chợt thấy một xe tăng tương đối còn mới dù đã qua gần một tháng trời mưa nắng... Tôi nhảy xuống xe, tiến về chiếc xe tăng. Vì chiếc xe bị bom thả trúng, chúi mũi xuống hố bom cũng khá sâu. Tôi thấy pháo tháp hơi bật ra về phía bên trái. Tôi và ông Diệm trèo lên nhìn vào bên trong chiếc xe tăng. Tôi thấy một bộ xương người ngay chỗ của tài xếâ. Chiếc xương sọ gục xuống bên tay lái. Cổ xương chân trái có một sợ dây xích cột vào cần lái xe (tr. 367, 368). Thử hỏi giá dụ anh chàng lái xe tăng đó vào được An Lộc trong chiến thắng liệu cấp chỉ huy của anh trong cơn lửa đạn đã quăng mất tiêu chùm chìa khóa thì ai mở "cái còng tự nguyện" cho anh để ăn mừng? Trong tình trạng bị bao vây đường tiếp tế duy nhất là thả dù, có những lần đồâ tiếp tế rơi vào vùng địch, đồ tiếp tế quá nặng đè chiến sĩ ta chết bẹp, hoặc đang thiếu lương thực quân sĩ reo mừng ùa ra tìm thực phẩm trong cái dù vừa rớt xuống khi mở ra lại thấy toàn là đạn và lựu đạn (tr.162). Bên cạnh những nấm mồ chiến sĩ biệt kích đươc đồng đội không ngại hiểm nguy chôn trang trọng bên lề đường thì có những xác khác cả người lớn, trẻ em, quan, lính dồn về nhà xác của bệnh việân. Mới đầu ở nhà quàn, rồi sang tới nhà xe, rồi tới sân sau bệnh viện và ngang hông phòng y tế. Xác để lâu ngày xình thối và lên tới con số 300. Cuối cùng đành phải giải quyết bằng cách cho xe ủi đất đào hai hố lớn, mang nhữõng xác chết lên xe rồi hất xuống những hố đó. Đấy là ở tiểu khu. "Ngoài ngã ba Xa Cam dọc theo vườn cao su, trung đội chung sự tiểu khu còn đào thêm một hố chôn tập thể ... nghe nói hố đó chứa chừng gần một ngàn xác" (tr. 209). Thấy những thương vong của quân dân ta như vậy ai cũng phải đau lòng mặc dù công trường 9 của địch bao vây An Lộc đã bị B. 52, phi pháo và viện binh ta tiêu diệt chỉ còn hơn một tiểu đoàn (tr. 313). oOo Miệt mài làm không kịp những việc chuyên môn của mình, nhưng lúc thảnh thơi, lúc nghỉ ngơi tác giả cũng có nhiều nhận xét tinh tếâ về sự việc quanh mình. Ông phục tổng thống Thiệu có trí nhớ khá tốt khi tác giả trả lời là đã phục vụ tại bệnh viện tiểu khu Bình Long thời gian tác giả làm trưởng đoàn chiến sĩ xuất sắc năm 1972 trong dịp kỷ niệm cách mạng 1 tháng 11. Tổng thống ngạc nhiên nói với tác giả "Tôi cũng lên đó, hình như tôi không gặp bác sĩ ". Ông Thiệu nói đúng, khi ông thăm mặt trận An Lộc tháng 7. 72 là tuần lễ Nguyễn Văn Quý được đi phép (tr. 420). N?u tác giả phục ông Thiệu có trí nhớ tốt trong cuộc tiếp tân này, thì trong dịp đó Nguyễn Văn Quý cũng nhậân thấy trong phái đoàn nữ sinh đón chiến sĩ có cả “nữ sinh lớn” là nghệ sĩ Mộng Tuyền mà tổng thống soắn suýt, cười nói hơi lâu (tr.422). Lần trung tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh phó quân khu tới ủy lạo chiến sĩ, ông chỉ bắt tay bác sĩ Quý mà không nói một tiếng nào. Tác giả cho là rất lạ nhưng vẫn phải mời vị chỉ huy sang thăm phòng mổ của mình. Khi gõ cửa bên trong có tiếng xột xoạt lạ tai. Khi cửa mở thì trước mắt phái đoàn là: Căn phòng mà tôi cứ yên chí là đã dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp và không có ai thì ngay trước mắt mọi người là một cái võng mắc xéo qua phòng trên cái bàn mổ dã chiến, vợ anh Sáu Xòm mà cái bụng chửa sắp đến này sanh to vượt ngực đang ngồi trên võng nhìn ra cửa tỉnh bơ (tr. 344). Tác giả chỉ còn biết xin lỗi trung tướng và đã hiểu sự lạnh lùng của ông. Bác sĩ Quý biết là không thể và không đủ thì giờ để thanh minh nỗi oan Thị Kính của mình. Giá trong một cuốn hồi ký của một tác giả khác chắc chẳng ai dại gì mà kể những chuyện vô ý đó trên mặt giấy. Là một cuốn sách đầu tiên, đã viết đã từ 30 năm tất nhiên không thể tránh được những câu trùng lặp hay những đoạn không rõ ràng gây thắc mắc. Xin dẫn chứng một ví dụ: Khi nói tới trung tá Nguyễn Đức Liên, Nguyễn Văn Quý viết: Nhìn năm ngôi sao đỏ chót thẳng hàng trên túi áo của anh tôi phục lắm. Trên túi áo tôi chỉ có một ngôi sao (tr. 409). Chính tôi đã sững sờ nghĩ thầm sinh viên y khoa Nguyễn Văn Quý chỉ mới tương đương cấp thiếu úy mà sao lại đeo sao. Và trong ngành y QLVNCH đã có ông trung tướng nào đâu mà ông Nguyễn Đức Liên đeo tới 5 sao thống tướng. Tôi bày tỏ thắc mắc này với một vài anh bạn trong ngành quân y mới biết là khi học y khoa các sinh viên đeo sao theo năm học: năm thứ nhất một sao, năm thư hai hai sao v . v ... Như vậy tránh làm sao cho độc giả dân sự hoặc ngay cả sĩ quan quân đội nhưng không rõ về ngành quân y khỏi thắc mắc. Đúng là một cuốn nhật ký của riêng mình nên Nguyễn Văn Quý đã coi đó là chuyện bình thường ai cũng phải biết, ai cũng phải nhớ nội quy của Trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, thời Việt Nam Cộng Hòa. Về chính tả cũng còn sót nhiều lỗi chẳng hạn như: nước mắt đoanh tròng (tr. 141), bụng chữa (tr. 344), Leon Tolstoil (tr. 343) ... Nên viết nước mắt lưng tròng hay quanh tròng, bụng chửa với dấu hỏi (?). Về tên Tolstoi có trở ngại khi viết bằng tiếng Pháp với hai chấm trên chữ "I", đề nghị nên thống nhất dùng tiếng Anh Leo Tolstoy như khi viết về các tác giả ngoại quốc khác. Nhưng cái lỗi ấn loát có thể khiến tác giả buồn là tất cả các trang trong sách đều viết đúng tên NguyễnVăn Quý với chữ Y dài thì chình ình ở ngoài bìa tên tác giả viết thành Quí với I ngắn. (Ở Việt Nam Bộ Giáo Dục cộâng sản từ lâu rồi đã ra hẳn một văn bản quy định trừ một số ít từ còn đa s? Y dài bắt buộc phải thay bằng I ngắn). Bỏ qua những lỗi lầm nho nhỏ, Nhật Ký An Lộc không còn là một cuốn hồi ký riêng tư mà chính là một phóng sự sống ba tháng trong địa ngục An Lộc. Đọc Nhật Ký An Lộc ta không gập những chuyện khô khan, chuyện đao to búa lớn của chiến lược, chiến thuật mà bị lôi cuốn vào những chuyện nhỏ hàng ngày bằng một giọng kể rất thành thực và chân tình. Trong mười năm qua tôi đã đọc vài chục hồi ký bằng Việt ngữ viết về cuộc chiến Việt Nam nhưng chưa cuốn nào khiến tôi thích thú như Nhật Ký An Lộc mặc dù hành văn đôi lúc khiến ta phải chau mày nhưng nội dung phong phú, chân thật, không giấu diếm, không phô trương, mà chỉ là sự thật, những sự thật rất mộc mạc, không trang điểm, không cường điệu. Nhật Ký An Lộc dày 470 trang kể cả 22 trang hình màu và đen trắng chụp ngay tại chiến trường hồi đó. Giá bán tại Mỹ: 24 mỹ kim. Liên lạc Nhà xuất bản Văn Nghệ, Westminster, CA, Hoa Kỳ. Phôn: (714) 934 - 8574.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 6:55:12 GMT 9
Hoạ Sĩ Tuýt ”Cái Tôi Của Văn Nghệ Sĩ” Vũ Trọng Quang  Bức tranh châm biếm dưới đây của hoạ sĩ Tuýt với chủ đề “Vài cái TÔI của các văn nghệ sĩ thời đại” được đăng trên tạp chí Vấn Đề số 1/tháng 3-1967 do kịch tác gia Vũ Khắc Khoan làm chủ bút. Người đầu tiên bên trái bức vẽ, đứng trên ngựa gỗ tự nhận “TÔI là hậu duệ của Nguyễn Huệ” chính là nhà văn học giả Hồ Hữu Tường, ông ta cho mình là hậu duệ của vua Quang Trung, vì bởi tên thật của Nguyễn Huệ là Hồ Thơm. Người áo đen đứng giữa mang cây đàn là nhạc sĩ Phạm Duy với tuyên bố đến bây giờ không sai một ly “TÔI nhạc sĩ của mọi THỜI mọi chế độ”. Người đeo kính cuối cùng là nhà văn lý thuyết gia,ông Nguyễn Mạnh Côn, chắc rất giàu có nên hào phóng “TÔI cho nhân loại mắc nợ”. Còn đứng giữa học giả và nhạc sĩ là em gái khoả thân với chú thích “tôi là I” thì là ai há. Bây giờ thì ông Hồ Hữu Tường theo hoàng đế Quang Trung bay về cõi Tây Sơn, ông Nguyễn Mạnh Côn không ở lại cõi nhân gian để cho nhân loại mắc nợ. Riêng nhạc sĩ Phạm Phạm Duy thì đang hiện hữu trên giường bệnh. A ha cuộc đời.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2012 6:00:19 GMT 9
Một giờ nói chuyện với dịch giả Liêu Quốc Nhĩ (Kỳ 1) Trich : bao Nguoi Viet .  LNÐ: Trong khoảng thời gian 5 năm cuối cùng của 20 năm sinh hoạt văn học miền Nam, sách dịch các loại là hiện tượng nổi bật, mạnh mẽ nhất. Nó lấn lướt tất cả mọi loại sáng tác ở miền Nam. Tới mức độ, nhiều nhà xuất bản danh tiếng, vốn chỉ chú trọng tới những sáng tác mang tính văn học, nghệ thuật cao, cũng quay sang khai thác thị trường sách dịch. Một bất ngờ, nằm ngoài mọi dự tính, tiên liệu của các nhà xuất bản là sự nổi lên cuồn cuộn như sóng trào của cái gọi là “Hiện tượng truyện Quỳnh Dao.” Vì thế, tạp chí Văn ở Saigon thời đó, đã có một bài phỏng vấn người vô tình tạo nên “cơn bão” truyện Quỳnh Dao, dịch giả Liêu Quốc Nhĩ. Nhờ công sưu tầm của nhà thơ Thành Tôn, hiện cư ngụ tại miền Nam California, chúng tôi trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn kể trên, thực hiện bởi nhà thơ Du Tử Lê, theo yêu cầu của tạp chí Văn, cách đây cũng đã trên, dưới bốn mươi năm. Du Tử Lê (DTL): Thưa ông, xin ông cho biết nguyên động lực nào, hãy tạm nói như vậy, đưa ông tới việc chọn sách Quỳnh Dao để dịch, mà không phải là một tác giả Trung Hoa khác? Nhà văn Quỳnh Dao. (Nguồn ảnh Baidu) Liêu Quốc Nhĩ (LQN): Quả thực, tôi không dự liệu việc dịch sách. Càng không là dịch sách Quỳnh Dao. Với tôi, việc đó thật là tình cờ. Như một trò chơi. Hồi năm 1958, Ðại Học Khoa Học quyết định ra một đặc san Xuân, và anh em bảo tôi viết cái gì cho vui. Tôi nhớ trước đây không lâu, tôi có đọc một số báo Văn, đặc biệt về Quỳnh Dao. Và sẵn có nguyên bản một số truyện Quỳnh Dao trong tay, tôi bèn dịch một truyện và đưa cho họ. Sau đấy, một anh bạn làm tờ Võ Thuật, muốn làm thêm xuất bản lại bảo tôi chọn một truyện của Quỳnh Dao dịch ra, để cho anh ta in. Thế là tôi dịch trọn vẹn cuốn “Song Ngoại.” “Song Ngoại” là cuốn truyện đầu tiên của Quỳnh Dao được in và phát hành tại đây (Saigon), với nhãn của nhà xuất bản Hàn Thuyên. Ðó là năm 1970. DTL: Và sau đấy, thưa ông? LQN: Cũng vẫn là tình cờ thôi ông ạ. Tôi không nhớ khoảng thời gian nào của năm 70, khi tôi đang làm giảng viên cho trường Khoa Học, tôi được gặp anh Ðỗ Quí Toàn. Khi ấy, anh Toàn mới thay anh Uyên Thao trong chức vụ Thư Ký Tòa Soạn của báo Ðời. Anh Toàn bảo tôi dịch cho anh một truyện gì đó. Tôi chọn “Cánh Hoa Chùm Gởi.” Tôi dịch trọn vẹn, xong đưa cho anh Toàn xem. Và anh Toàn đã cho đăng từng kỳ, trên báo Ðời. Tưởng cũng nên nói thêm với ông rằng cho tới lúc đó, tôi vẫn còn nhìn chuyện dịch sách như một cách để kiếm thêm tiền cho cái lương công chức của tôi mà thôi. Cũng xin được nói thêm nữa là cuốn sách dịch đầu tiên tôi chọn dịch không phải là sách của Quỳnh Dao. Mà của Y Ðạt ông ạ. Ðó là cuốn “Tình Yêu Bóng Tối.” Cuốn này mãi tới bây giờ mới được nhà Vàng Son in ra thành sách. Trở lại với “Cánh Hoa Chùm Gửi,” khi cuốn truyện đăng dứt, anh Nguyễn Văn Thành ở nhà Hiện Ðại bảo anh Vũ Dzũng liên lạc với tôi để điều đình in. Thoạt đầu anh Vũ Dzũng cũng chỉ định in thử một cuốn của Quỳnh Dao, xem sao... Ðó là cuốn “Cơn Gió Thoảng,” cũng do tôi dịch. Không ngờ “Cơn Gió Thoảng”... ăn khách. Thế là anh Vũ Dzũng in tiếp ngay “Cánh Hoa Chùm Gửi.” DTL: Ông được bao nhiêu thù lao cho cuốn đầu tiên đó? LQN: Thưa, bốn mươi ngàn đồng. DTL: Còn “Cánh Hoa Chùm Gửi”? LQN: Năm mươi ngàn. Nhưng như ông biết đó, sách Quỳnh Dao không ngờ bán quá chạy. Cho nên không đầy một năm, “Song Ngoại” được tái bản. DTL: Vâng tôi biết. Nhưng nếu tôi không lầm thì “Song Ngoại” của nhà Hàn Thuyên nào đó đã phải bán “son.” Và ông Thành Nhà H.Ð. đã “móc” nó lên từ hè phố? LQN: Quả có điều đó thực. DTL: Cho tới hôm nay, ông đã dịch được tất cả bao nhiêu cuốn sách của riêng Quỳnh Dao? LQN: Mười cuốn. Cuốn mới nhất là cuốn “Hải Âu Phi Xứ.” DTL: Trong số tất cả mười cuốn đã dịch, ông ưng ý với cuốn nào nhất? Tôi muốn nói tới những cái như văn chương, bố cục... đại khái như thế. LQN: Tôi nghĩ đó là cuốn “Bên Bờ Hiu Quạnh” tức “Hàn Yên Thúy.” Nhưng cuốn này hình như lại bán “yếu” nhất ông à. Có lẽ tại vì nó không hợp với độc giả đa số độc giả (?). DTL: Vậy thì theo ghi nhận của ông, cuốn nào được kể là bán chạy nhất? LQN: Ðó là cuốn “Cơn Gió Thoảng.” Ông có thể tin là chỉ với 25 ngày thôi, kể từ ngày phát hành, 5.000 cuốn đã được bán sạch. DTL: Bây giờ, bước vào phần nghề nghiệp và cũng thực tế một chút thì, trung bình ông bỏ bao nhiêu thời gian cho việc hoàn tất bản dịch một cuốn truyện. LQN: Từ nửa tháng tới bốn mươi lăm ngày. Kể luôn thời gian đọc lại và sửa chữa. DTL: Chúng ta đang ở giữa những giây “phút nói thật” ông có thể cho độc giả Văn biết ông có dịch một cuốn nào không phải của Quỳnh Dao, tức Quỳnh Dao... giả hay không? LQN: Không. Dứt khoát không. Sách của tôi dịch, hoàn toàn là sách của Quỳnh Dao... thật. Tôi có thể nói rõ hơn: Riêng về truyện dài, Quỳnh Dao, đến nay, chỉ có mười ba cuốn. Và chính tôi đã dịch mười cuốn như đã kể. DTL: Tôi nghĩ, có lẽ ông biết rõ hơn ai hết, về số sách Quỳnh Dao... giả đang được bày bán ở đây. Tôi không có ý muốn ông nhắc tới những tiểu thuyết mượn tên Quỳnh Dao mà, chỉ muốn nghe ông nói, hiện có khoảng bao nhiêu cuốn truyện Quỳnh Dao... giả, nếu ông thấy có thể? LQN: Vâng. Nhiều lắm. Hàng chục. Hoặc hơn thế ông ạ. Trong đó có những cuốn do nhà xuất bản thuê một vài nhà văn nào đó viết cho họ. Nhưng lúc in ra thì họ lại đề là dịch từ của Quỳnh Dao. Ông cho tôi miễn phải kể ra một số tên sách loại đó. DTL: Vâng. Tôi hiểu. và tôi cũng đã nói với ông là tôi không chờ đợi việc ấy. Tuy nhiên, tôi nghĩ đây là điều ông có thể trả lời được. Ðó là, nếu phải so sánh mãi lực giữa truyện Quỳnh Dao thật và giả, thì loại nào được độc giả đón nhận nhiều hơn? LQN: Ðương nhiên là loại truyện Quỳnh Dao... giả có mãi lực kém hẳn rồi! DTL: Gần đây, dưới xuất bản kháo nhau về một cuốn truyện Quỳnh Dao, cũng do ông dịch, đã có số bán đạt mức... kỷ lục. Nghĩa là từ trước tới nay chưa có cuốn nào có được mức tiêu thụ cao đến như vậy. Thưa ông, đó là sự thật hay chỉ là tin đồn? LQN: Sự thực như vậy đó ông. Không phải tin đồn đâu. Ðó là cuốn “Mùa Thu Lá Bay,” của Quỳnh Dao. Tôi dịch xong, giao cho nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn. Sách in ra, chỉ trong vòng 1 tuần thôi, thị trường đã “hút” 7,000 ngàn cuốn. Tôi lập lại, bảy ngàn cuốn bán hết vèo trong vòng một tuần. Chính thầy Từ Mẫn của nhà Lá Bối cũng phải kinh ngạc! DTL: Tuy nhiên, thưa ông, nếu tính tổng số, nghĩa là cộng chung tất cả những lần tái bản của một cuốn truyện Quỳnh Dao do ông dịch thì, cuốn nào của ông là cuốn có số lượng in cao nhất? LQN: Dạ, đó là cuốn “Cánh Hoa Chùm Gửi.” Chỉ nội một năm, năm 1971, nhà xuất bản đã phải tái bản tới 3 lần. Như nhà xuất bản cho tôi biết thì lần đầu, họ in 7,000. Hai lần sau, mỗi lần tái bản, họ in đúng 10,000 cuốn. DTL: Mặc dù ông đã cho biết rằng, truyện Quỳnh Dao giả có số bán rất kém. Nhưng tôi nghe nói, có thể là tôi nghe sai... Rằng, trong số hàng chục cuốn truyện Quỳnh Dao... giả, cũng có một vào cuốn bán chạy. Ông có biết điều này? LQN: Thưa tôi biết. Nhưng chỉ có một cuốn duy nhất mà thôi. Và cuốn truyện đó cũng chỉ được tái bản một lần rồi bị “chai’ thị trường. DTL: Là người đầu tiên dịch truyện Quỳnh Dao qua tiếng Việt, dù chỉ là tình cờ... Nhưng sau 10 cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của tác giả này, một cách chủ quan, ông có những nhận xét gì về bút pháp, bố cục, về giá trị văn chương... của Quỳnh Dao? LQN: Thưa ông, như tôi biết, ở Trung Hoa, Quỳnh Dao không phải là nhà một văn lớn. Theo tôi, cô ta có lối viết “mềm,” dễ gây xúc động cho người đọc. Cô luôn cho tràn ngập trong truyện của cô tình thương giữa người với người... Tôi thấy cần phải nói ngay rằng, chúng ta không đòi hỏi hay chờ đợi giá trị văn chương cao trong truyện Quỳnh Dao. Là một dịch giả dịch nhiều nhất truyện Quỳnh Dao qua tiếng Việt, tôi có thể khẳng định, tiểu thuyết của cô, không có điều đó. DTL: Cám ơn ông. Ðể thay đổi một chút, tôi muốn hỏi ông rằng, ông có một liên tưởng nào giữa Quỳnh Dao và những nhà văn nữ ở đây chăng? LQN: Có thưa ông. Cá nhân tôi, tôi thấy có một nhà văn nữ rất gần gũi với Quỳnh Dao. Ðó là nhà văn Lệ Hằng. Truyện của Lệ Hằng cũng rườm rà, éo le, gay cấn... DTL: Giữa lúc phong trào đọc truyện Quỳnh Dao lên cao nhất, như chỗ tôi biết, thì đã có một vài nhà xuất bản tìm đến và thương lượng với ông, với mục đích giành giựt bản dịch của ông... Việc đó có chăng? Và nếu có thì nó ra sao? Thế nào? Thưa ông? LQN: Vâng. Ðúng là chuyện ấy có xẩy ra cho tôi. Rất nhiều nhà xuất bản ở đây, trong số ấy, cũng có đôi ba nhà xuất bản có uy tín... đã tìm gặp tôi để yêu cầu tôi trao sách cho họ. Họ sẵn sàng trả thù lao gấp đôi tiền thù lao mà nhà Khai Hóa của anh Vũ Dzũng đã trả cho tôi. Nhưng tôi từ chối. Tôi nghĩ đến cái tình của buổi đầu. Mặc dù tiền thù lao nhà Khai Hóa trả cho tôi phải nói là quá thấp. DTL: Nhân ông đề cập tới giao tình của ông với nhà Khai Hóa, nếu được, xin ông cho nghe sơ qua việc ông và nhà Khai Hóa chấm dứt sự hợp tác với nhau? LQN: Thưa, như đã nói, tôi là người trọng cái tình lắm. Nhưng ông nghĩ coi, cuốn sách nào in ra cũng mười ngàn cuốn! Trong khi tác quyền (bản dịch) không tới một trăm ngàn đồng. Ai cũng vậy thôi... Tôi nghĩ vài lần đầu, mình còn có thể bỏ qua được. Nhưng sau, bạn bè, anh em nói quá, chẳng đặng đừng, tôi phải lên tiếng với nhà xuất bản... DTL: Kết quả ra sao thưa ông? LQN: Thưa ông, kết quả là cuối cùng, tôi phải quyết định chấm dứt sự hợp tác. Tôi đành phải tự tách ra! Tôi muốn tránh vết xe của Trịnh Công Sơn trước đây... Là chúng tôi chỉ làm giầu cho người khác! Trong khi chính mình thì lại chỉ được mỗi cái quyền lợi là quyền lợi về tinh thần mà thôi!
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2012 6:01:43 GMT 9
Một giờ nói chuyện với dịch giả Liêu Quốc Nhĩ (Kỳ 2)
Tiếp theo kỳ trước
LNÐ: Trong khoảng thời gian 5 năm cuối cùng của 20 năm sinh hoạt văn học miền Nam, sách dịch các loại là hiện tượng nổi bật, mạnh mẽ nhất. Nó lấn lướt tất cả mọi loại sáng tác ở miền Nam. Tới mức độ, nhiều nhà xuất bản danh tiếng, vốn chỉ chú trọng tới những sáng tác mang tính văn học, nghệ thuật cao, cũng quay sang khai thác thị trường sách dịch.
Nhà văn Quỳnh Dao. (Hình tác giả cung cấp)
Một bất ngờ, nằm ngoài mọi dự tính, tiên liệu của các nhà xuất bản là sự nổi lên cuồn cuộn như sóng trào của cái gọi là “Hiện tượng truyện Quỳnh Dao.” Vì thế, tạp chí Văn ở Saigon thời đó, đã có một bài phỏng vấn người vô tình tạo nên “cơn bão” truyện Quỳnh Dao, dịch giả Liêu Quốc Nhĩ.
Nhờ công sưu tầm của nhà thơ Thành Tôn, hiện cư ngụ tại miền Nam California, chúng tôi trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn kể trên, thực hiện bởi nhà thơ Du Tử Lê, theo yêu cầu của tạp chí Văn, cách đây cũng đã trên, dưới bốn mươi năm.
DTL: Xin ông kể cuốn truyện dịch đầu tiên mà ông tự xuất bản?
LQN: Ðó là cuốn “Hải Âu Phi Xứ.”
DTL: Muốn hay không thì việc đọc Quỳnh Dao cũng đã từng thành hiện tượng ở đây. Với tổng số sách in ra không dưới con số mấy trăm ngàn bản, và như ông đã nhận định truyện của Quỳnh Dao không có giá trị văn chương... Nên câu hỏi của tôi là, có bao giờ ông nghĩ, ông có trách nhiệm tinh thần ít hay nhiều, trong việc tạo thành hiện tượng đó? Tôi muốn nói rõ hơn, ông có thể hiểu chữ “trách nhiệm” theo nghĩa nào cũng được?
LQN: Thưa ông, thiệt tình tôi chưa hề đặt thành vấn đề “trách nhiệm” trước hiện tượng sách Quỳnh Dao... Tôi chỉ biết dịch. Và sau này tôi bị quay chạy theo món hàng mà người ta muốn. Tuy nhiên, tôi có cảm thấy thích thú trong công việc đó. Câu hỏi của ông bất ngờ quá với tôi...
DTL: Vâng, hiện ông có đang dịch dở một cuốn nào khác?
LQN: Có thưa ông. Ðó là cuốn “Băng Ðiểm,” của nhà văn Nhật, Ayako Miura. Tôi sẽ tự in lấy cuốn này.
DTL: Công việc dịch thuật ở đây, mấy lúc sau này, thường bị những “đòn” cạnh tranh không đẹp! Cá nhân ông có bị?
LQN: Có chứ ông! Tôi bị rất nhiều cuốn. Tuy nhiên, tôi có độc giả riêng của tôi. Cho nên tôi không sợ lắm, dù cho họ có ra trước hay sau cuốn đó. Tôi nghĩ hành động phi văn nghệ này, chỉ có loại nhà xuất bản con buôn mới làm mà thôi. Như tôi mới bị hai cuốn “đụng” là cuốn “Trôi Theo Giòng Ðời” của Quỳnh Dao và “Những Tháng Ngày Có Em” của Từ Tốc. Tôi đã quảng cáo trước ở trong sách in ra trước đấy của mình. Nhưng họ cứ làm...
DTL: Thay mặt độc giả Văn, chúng tôi xin gửi lời cám ơn ông. Một câu sau cùng: Ông có thấy còn điều gì cần phải nói thêm chăng?
LQN: Thưa không. Tôi nghĩ, thế cũng đủ rồi.
Bên ngoài cuộc phỏng vấn, Liêu Quốc Nhĩ nói thêm về mình
“Nghề dịch sách đến với tôi một cách khá bất ngờ. Năm 1965, khi vừa xong tú tài II, tôi đã hăm hở bước chân vào Khoa Học với một ý tưởng thật lớn. Làm một khoa học gia lừng danh. Lúc bấy giờ tôi đã chê Văn và Luật. Vì với tôi đấy là chỗ dành cho con gái (xin lỗi quí vị ở Văn và Luật Khoa nhé). Thời gian miệt mài ở Khoa Học thật là suôn sẻ. Môn tôi chọn ở năm thứ II là Hóa Học. Những phản ứng Walden, Soerensen, Rosenmund... vây chặt lấy tôi không một phút rảnh rỗi. Do đó chẳng có chuyện vẩn vơ văn nghệ gì cả. Ðầu năm 1968, tình cờ ban đại diện trường có ý nhờ tôi viết một truyện ngắn. Bấy giờ là lúc sắp Tết. Tháng của cái lạnh phớt nhẹ, đủ để khơi dậy những cái mà Xuân Diệu bảo là ‘Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.’ Cũng là lúc mới tựu trường, chưa phải chạy đua nước rút với phản ứng hóa học, tôi đã tập tành làm văn chương, viết một truyện ngắn và dịch một truyện ngắn khác cho tờ báo Xuân Khoa Học. Chuyện làm của tôi chỉ có tính cách vui chơi văn nghệ, chứ chẳng có một chủ đích nào. (Thú thật với quý vị độc giả là trước đó ít lâu, khi còn ở trung học tôi cũng có thời viết lách lai rai nhưng chẳng có báo nào chịu đăng cả! Và mộng văn sĩ của tôi cũng tàn lụi từ đó). Chuyện chơi chơi không ngờ lại lọt vào mắt xanh của một nhà xuất bản tài tử, đó là nhà xuất bản Hàn Thuyên do anh Lạc Hà, người chủ trương tờ Võ Thuật phụ trách, Tờ Võ Thuật lúc bấy giờ bán hơi yếu, nên anh muốn chuyển nghề bằng cách lập thêm một nhà xuất bản chuyên về văn chương dịch thuật. Quỳnh Dao là tác giả nữ đầu tiên được anh chú ý đến, và anh đã nhờ tôi dịch cho một truyện của Quỳnh Dao. Tôi chọn ‘Song Ngoại.’ Tôi cần cù làm việc trên hai tháng. (Sự thật mà nói, lúc bấy giờ vì biến cố Mậu Thân, đời sống tôi khá vất vả. Nên tôi phải vừa đi học vừa đi làm. Quốc lộ số 4 cứ bị cắt tới cắt lui, làm nguồn tiếp tế từ gia đình ở Cần Thơ lên cứ gián đoạn). Sách dịch xong trao cho nhà xuất bản cứ bị bỏ xó một chỗ! Vì họ chưa có tiền in. Và do đấy, dĩ nhiên tiền bản quyền của tôi cũng chưa có. Tôi chán nản nghĩ rằng có lẽ quyển truyện dịch rồi đã bị xếp bỏ trong đống giấy lộn! Tôi trở lại việc học, và tiếp tục kèm trẻ. Ðến lúc gần như tôi đã quên thì quyển sách được tung ra. Ðó là năm bảy mươi. Cầm quyển sách đầu tiên mà mình đã có công dịch ra trên tay, tôi hạnh phúc muốn khóc!”
“Nhưng có lẽ vì bất phùng thời, dù Quỳnh Dao bấy giờ đã là một tên khá quen thuộc với độc giả trẻ, nhất là những người đọc báo ‘Văn.’ Vì ‘Văn’ đã giới thiệu một lần trong tuyển tập Quỳnh Dao (trước tuyển tập về Quách Lương Huệ). Sách in ra chỉ có ba ngàn cuốn. Kỹ thuật khá mà bán không chạy. Anh Lạc Hà phải xách xe hai bánh chạy tới chạy lui mấy quán sách... Nhưng họ vẫn không chịu mua. Rốt cuộc anh đành phải đem bán 'sôn' để gỡ vốn, và dĩ nhiên tôi chẳng có một đồng bản quyền nào. Chuyện dịch sách của tôi tưởng đã vào quá khứ. Tôi ra trường và bắt đầu công việc dạy học. Mỗi tuần dạy có hai ngày, quanh quẩn mãi trong phòng thí nghiệm và những giờ giảng bài tập, đôi lúc tôi cũng thấy chán. Tôi định kiếm thêm vài giờ ở các trung học tư thì tình cờ quen với anh Ðỗ Quí Toàn. Lúc bấy giờ anh Toàn đang thay chân cho anh Uyên Thao trong chức Thư Ký Tòa Soạn tuần báo ‘Ðời’. Anh bảo tôi, thử dịch một truyện Tàu xem sao. Nếu được, anh ấy sẽ cho đăng trên báo Ðời. Tôi thấy công việc mình hiện có khá nhàn, nên nhận lời ngay, và về nhà hì hục dịch ‘Thố Ty Hoa’ tức ‘Cánh Hoa Chùm Gửi.’ Ông Chu Tử thấy hay nên cho đăng ngay trên Ðời lúc đó. Ðồng thời, tôi cũng bắt đầu bước chân vào làng báo với những bài ký sự, phóng sự ngắn... Việc làm chỉ có tính cách tài tử. Mỗi tháng tôi kiếm thêm được mươi ngàn dư dả.”
“Cuốn ‘Song Ngoại’ tuy tung bán 'sole' nhưng lại được nhà Hiện Ðại để ý. Chủ nhân, anh Thành, thấy quyển sách hay mà sao lại bán 'sole,' nên thu mua tất cả những quyển còn lại, và cho người liên lạc với tôi ở tòa soạn Ðời nhờ dịch tiếp Quỳnh Dao. Người đến nhà tiếp xúc với tôi là Vũ Dzũng. Chủ nhà Khai Hóa lúc bấy giờ. Anh Vũ Dzũng khi đó mới tách khỏi nhóm Quảng Hóa (*), và cuốn đầu tiên tôi làm với nhà xuất bản mới này là ‘Tiển Tiển Phong’ tức là ‘Cơn Gió Thoảng.’ Lúc đầu theo tôi biết nhà xuất bản hình như chẳng có ý làm nguyên lô sách về Quỳnh Dao đâu. Nhưng có lẽ vì nhờ báo Ðời (phải thành nhìn thật nhận như vậy. Vì lúc đó chẳng có nhà xuất bản cũng như phát hành nào chịu bỏ tiền quảng cáo lăng xê Quỳnh Dao tí nào cả). Cũng có thể vì lúc bấy giờ mọi người đều mệt mỏi vì chiến tranh, thích một cái gì nhẹ nhàng dễ đọc, nên Quỳnh Dao đột ngột trở thành hiện tượng. Và tôi, tôi trở thành một bánh xe lăn theo nhu cầu độc giả. Nói như vậy không có nghĩa là tôi đã nhắm mắt dịch, mà tôi rất chọn lựa. Bằng chứng là mười ba cuốn sách thật của Quỳnh Dao tôi chỉ chọn có mười cuốn (những cuốn còn lại có cuốn là sách phóng tác nên tôi không dịch). Trong lúc dịch, có lẽ tôi bị ảnh hưởng giọng văn nhẹ nhàng của Quỳnh Dao... nên tôi đâm ra mê luôn sách của nhà văn đầy nữ tính này. Tôi dịch rất say mê. Tôi thích nhất là cuốn ‘Bên Bờ Hiu Quạnh.’ Nhưng cuốn này lại bán không chạy lắm. Có lẽ vì độc giả của Quỳnh Dao không thích lối văn tự truyện này! Nhờ sách bán chạy nên tôi cũng có chút tiếng tăm, và cũng vì thế chung quanh tôi mọc lên rất nhiều kẻ thù. Nói kẻ thù không đúng lắm, mà phải nói là những kẻ ganh ghét mình. Có một điều mà tôi rất buồn, đấy là có người đã hiểu lầm tôi, tưởng tôi là một cột trụ trong chiến dịch gây nên hiện tượng Quỳnh Dao để giết chết một số nhà xuất bản và anh em văn nghệ trẻ. Xin thưa thật, tôi chẳng bao giờ có tham vọng, tôi cũng không nghĩ đến nó, cho đến khi có người đưa ra nhận xét như vậy.”
“Chuyện Quỳnh Dao trở thành một hiện tượng theo tôi là một chuyện tự nhiên xảy ra theo chu kỳ nhu cầu của độc giả. Nhiều lúc đọc loại sách bắt trí óc làm việc nhiều quá như loại tư tưởng hay triết học cũng mệt mỏi. Do đó cũng cần có sách nhẹ nhàng để đọc. Hầu hết truyện của Quỳnh Dao là chuyện tình bối cảnh xã hội là bối cảnh của phương Ðông. Trong đó tư tưởng Ðông và Tây đang xung đột, rất gần gụi với cái không khí của xã hội ta. Ðọc một cuốn sách, người ta khó đứng ở vị trí khách quan của người đọc để xét đoán, nhất là loại tiểu thuyết, mà độc giả thường hòa mình vào đời sống của nhân vật. Họ vui với cái vui, cũng như buồn với cái buồn của nhân vật. Bối cảnh của sách Quỳnh Dao là bối cảnh phương Ðông thì làm sao chẳng được độc giả đón nhận nồng nhiệt.”
“Sách Quỳnh Dao được đón nhận nồng nhiệt đến độ trở thành hiện tượng, đó hoàn toàn là do độc giả và tác giả, người dịch là tôi, chỉ giữ vai trò chuyển ngữ thế thôi. Còn vấn đề những nhà xuất bản hay tác phẩm của nhà văn trong nước bị ảnh hưởng thì đó hoàn toàn là ngoài ý muốn của tôi. Mong quí vị có thiên ý như vậy cũng nên xét lại.”
Liêu Quốc Nhĩ
(Nguồn: Giai Phẩm Văn, Saigon, chủ đề “Hiện Tượng Sách Dịch,” số ra ngày 8 tháng 6 năm 1973. Hiệu đính tại Cali, tháng 1, 2012)
Chú thích:
(*) Nhà xuất bản Quảng Hóa thời đó, do nhà báo Ðỗ Việt Anh chủ trương. (DTL)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:31:11 GMT 9
Nhà văn Xuân Vũ (1930-2004) đi tập kết, về giải kết Wednesday, January 04, 2012 Viên Linh LTS: Bài dưới đây, cũng như các bài khác của Viên Linh, chỉ đăng trên nhật báo Người Việt. Các diễn đàn khác muốn đăng lại, cần có sự đồng ý của tòa soạn Người Việt. Còn nhớ đó là vào khoảng 1968, chính sách Chiêu Hồi của chính quyền Quốc Gia đang phát động mạnh, một hôm nhà văn Xuân Vũ được dẫn vào tòa soạn Nhật báo Tiền Tuyến, đặt tại số 2 đường Hồng Thập Tự.  Nhà văn Xuân Vũ (1930-2004). Chủ bút tờ báo “bàn giao” công việc cho tôi, nói rằng đây là một nhà văn mới hồi chánh, và dặn anh Xuân Vũ rằng từ nay anh làm việc với thư ký tòa soạn của tờ báo. Bài anh sẽ đăng trên trang ba của Tiền Tuyến, mà tôi là người hàng ngày chịu trách nhiệm làm các trang 2-7, 3-6. Xuân Vũ đưa ra một xấp bài, nhan đề là Ðường Ði Không Ðến. Xuân Vũ người thấp, mặt vuông, vai u, lè phè, nhưng cử chỉ nhanh nhẹn, vầng trán cao, chịu lắng nghe và nói ít. Dung mạo một người như anh, tôi nghĩ, nhìn qua cái gì là biết hết, nhưng làm hay không là chuyện khác. Lông mày rậm và ánh mắt tinh anh là điều dễ thấy nhất ở anh. Ðiều nữa sau này tôi thấy là hình như không bao giờ anh đi giầy. Anh thường đi dép. Tôi không chỉ làm việc biên tập với Xuân Vũ suốt thời gian anh viết Ðường Ði Không Ðến trên tờ nhật báo, ngày lại ngày qua cả năm, mà sau này còn làm việc với anh cùng một phòng, tám giờ một ngày, tại Ðài Mẹ Việt Nam, trụ sở ở số 7 đường Hồng Thập Tự. Chủ bút tờ báo dặn dò gì anh hồi chánh viên Xuân Vũ là chuyện trước đó, phần tôi thì bổn phận rõ ràng: Tôi chịu trách nhiệm trước khi phổ biến bài của anh. Anh có thể là người chân thành tìm tự do, một Victor Kravchenko khoảng hai mươi hai năm trước (so với 1968) rời bỏ Liên Bang Xô Viết rồi viết I Chose Freedom - cuốn sách mà bất cứ tay chiến tranh chính trị nào cũng muốn biết qua - hay tôi có thể bị vào tròng, tuyên truyền cho Việt cộng ngay trên tờ báo chính thức của quân đội, là chuyện tôi phải “ngửa cổ ra mà lãnh,” nếu chuyện đó xảy ra. Tầm mức ấy khiến tôi là người đã đọc Ðường Ði Không Ðến từng dòng, từng chữ, từ khi nó ở dạng bản thảo, viết chữ nghiêng, mà chữ nghiêng thường khó đọc hơn chữ đứng. Tôi đã hỏi anh nhiều lần sau một câu, một kỳ, tôi còn đề nghị với anh nhiều câu nhiều kỳ khác. Tôi hoàn toàn tin anh và chúng tôi đối với nhau như hai đồng nghiệp từ đó. Giao tình giữa Xuân Vũ và tôi thường trực hơn, thân hơn, từ 1974. Nhờ làm việc chung một cơ quan tám tiếng một ngày với nhau, tôi biết thêm một điều về anh: Anh cần ngủ trưa. Chỉ có đâu ba mươi phút để ăn trưa, mà anh phải ngủ khoảng ba mươi lăm phút là ít. Cho nên anh thường ngủ quá giờ ăn của mình. Ban biên tập thường trực của đài, lãnh lương tháng, có tám người, mà ba là hồi chánh viên, ngoài tác giả Ðường Ði Không Ðến còn có một đạo diễn từng đi học ở Mạc Tư Khoa về, và Thượng Tá Tám Hà, trung đoàn phó gì đó mà địa bàn hoạt động là quanh vùng Nha Trang, Khánh Hòa. Xuân Vũ đi làm bằng xe đạp, có lẽ nhà ở quanh đó, vùng Thị Nghè, cách sở vài cây số. Trong các biên tập viên tôi biết chỉ một mình anh đi xe đạp, không phải anh nghèo. Anh không có cung cách một nhân viên sở Mỹ, dù Ðài Mẹ Việt Nam thực tế là trực thuộc Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ngoài ban biên tập còn các biên tập viên cộng tác, là những người được mời viết trên căn bản bài, viết bài gửi vào (không ngồi trong đài, lãnh nhuận bút từng bài) mỗi bài tùy theo hạng, nhưng tối thiểu là ba ngàn, tối đa là năm ngàn một bài để đọc trong năm phút. Những ngày gần Tháng Tư không khí Ðài Mẹ Việt Nam trầm lặng trong bí ẩn. Khoảng tháng ba chúng tôi đã được hỏi một câu giản dị thôi, nhưng không giản dị về phía người hỏi: “Theo bạn, tình hình sẽ ra sao nếu miền Nam có một giải pháp liên hiệp?” Thượng Tá Tám Hà, Xuân Vũ và tôi nhìn nhau. Chúng tôi lắc đầu, hay có thể diễn tả như thế. Riêng tôi, câu trả lời được nói ra rõ ràng: “Theo thôi thì liên hiệp chỉ có nghĩa là cộng sản sáu tháng sau.” Ðây là buổi họp của giữa các nhân viên Việt Nam và các cố vấn Mỹ từ tòa đại sứ qua. Trong một buổi họp khác, một tờ giấy được đưa cho mọi người, trong có một câu hỏi đáng nhớ: “Nếu chiến sự lan tới Sài Gòn, đài phải di chuyển ra một hải đảo, bạn có sẵn sàng đi theo đài không?” Người được hỏi phải viết vào tờ giấy câu trả lời và ký tên. Nghe thì giản dị, nhưng đó là một câu hỏi sinh tử nếu anh đang là quân nhân tại ngũ, hay công chức đương nhiệm. Nếu anh ký nhận đồng ý theo đài, 'di chuyển ra một hải đảo,' là anh hứa sẽ đào ngũ, và đào nhiệm với chính phủ và quân đội nước anh. Với tôi thì giản dị vì đã giải ngũ từ cuối năm 72. Cố vấn về tổ chức quân sự của Việt cộng là nguyên Thượng Tá Tám Hà, ngồi sau cái bàn bên tay mặt; bạn hồi chánh viên của tôi là Xuân Vũ, ngồi ở một góc tối, chỉ nhìn. Như nhìn vào khoảng không. Tôi nhớ hai tháng sau đó ở Guam, chỉ qua một đêm, sáng hôm sau mái tóc Bác Tám trắng phơ. Hơn 20 năm sau chúng tôi không liên lạc với nhau, cho tới khi Xuân Vũ đọc được bài tôi viết về học giả Ðào Duy Anh. Anh viết thư cho tôi: 1. “Gửi Viên Linh thân mến. Già mẹ nó rồi mà cứ tưởng còn như hồi ở Xè Goòng 1973 uống cái chai Cointreau của bạn ở số 7 Hồng Thập Tự. Người xưa đâu tá cả rồi? Thấy có Hồi ký Ðào Duy Anh thì muốn đọc. Ông già đó với Nguyễn Tuân là tôi đọc liền. Ðó là trí thức, văn sĩ. Ổng nói câu này: ‘Lập trường không thay được khoa học.’ Còn Tố Hữu thì bảo: ‘Cần gì khoa học ta có chính trị...’’ Hai câu đó tôi nhớ, ghi lại không dám thêm một chữ ông à. Như nước với lửa vậy. Nay tôi thấy hình ông nhận không ra hồi mình ra Phú Quốc. Cái đêm bị ăn cắp sạch láng mà vẫn xách [...]qua Mỹ Khởi Hành nay đã 28 năm. (1) Mình đang viết ÐÐKÐ (Ðường Ði Không Ðến) tiếp. Mô tả cặp chân Ba lê của cô Thu, nay đã trên 70 rồi, không biết có còn đẹp không. (2) Ông đã đi vào ngõ ngách của báo chí chứ không phải đại bang, đại lộ, nhưng cái ngõ ngách rất lạ rất đông khách đến nhậu. Phải dân ‘nhậu’ văn chương thì mới đọc Khởi Hành. Ðến số này tôi mới cất để đọc đây. Cảm ơn, Bẫy Ngầm. (3) Ðường đi không đến. Xuân Vũ.” 22.5.03 [Chú thích lá thư trên: 1. Ðêm 29.4 cả toán nhân viên Ðài Mẹ Việt Nam bị ăn cướp có súng chặn lại, cứ 10 va-li thì họ lấy 9, cho lại 1. 2. Có lẽ Thu Hà, xướng ngôn viên Ðài Mẹ Việt Nam. “70 rồi...” là tác giả tự nói mình, chứ không phải nói Thu Hà. 3. Bẫy Ngầm là quán cà phê tại đường Cao Thắng Sài Gòn, VL, Xuân Vũ hay gặp nhau ở đấy.] 2. Ông Ðào Duy Anh nói một câu mà nếu Mác nghe chắc sẽ ngồi dậy cãi nhau với cụ. Ở đâu mà bạn có được tài liệu quí thế? Cố gắng ra Khởi Hành. Nó sẽ lớn và trở thành tư liệu Văn Hóa VN nhờ tay VL đó. Cần gì tôi viết được thì gọi 210 67092...” 3. “Thấy nói là không còn ai sống từ thời NVGP (Nhân Văn Giai Phẩm). Ở Hà Nội thì tôi không rõ nhưng Hải ngoại này còn tôi. Tôi sống suốt thời đó, từ nó ra đời tới nó chết. Và tôi có gặp nhiều người, cả trăm. Tôi dự các cuộc đại hội ở Hà Nội. Ðại khái là ở Hà Nội, ở Thái Hà Ấp, mỗi cuộc gồm có cả ngàn văn nghệ sĩ mới cũ, Nam Bắc, VB (?)lẫn Hà Nội. Không giới nào tôi không quen. Ông có cần thì tôi viết cho toàn bộ diễn biến Nhân Văn Giai Phẩm mà tôi thấy và dự nhưng không bảo đảm có đầy đủ hay không và theo nhận định của tôi. “Chủ tọa đấu tố là Hoàng Văn Hoan không phải Hoài Thanh và Tố Hữu đâu. Chủ tọa mời Tô Hoài lên phát biểu Tô Hoài nhất định không lên. Tôi còn nhớ Tố Hữu mạt sát Bảy Trấn lúc đó là GÐ Ðại Học Nhân Dân (nơi tập trung đấu tố) rất thô lỗ ông ạ. Lạ thật. (Tôi đã yêu cầu Xuân Vũ viết bất cứ gì anh biết về NVGP, từ người đến việc, viết như quay phim như chụp ảnh, liên tục cũng được mà từng pha cũng được. Cứ dương máy lên mà chụp, rồi thảy cho tôi. Ði chợ cứ mua loạn lên, về thảy cho tôi, tôi làm đầu bếp, xào nấu kho chua kho mặn món khô món ướt là chuyện của tôi. Xuân Vũ đã gửi cho tôi những tài liệu quí về NVGP. Những dòng chữ cuối cùng của đời anh rồi sẽ được gửi tới bạn đọc. Những trang viết chữ nhỏ, viết tháu và liền liền, viết dọc và viết ngang gửi tới tôi hình như trong tháng 8. 2003.) Nhà văn Xuân Vũ từ trần SAN ANTONIO, Texas - Hội Ái Hữu Bến Tre - Khánh Hòa thông báo là nhà văn lão thành Xuân Vũ, tên thật là Bùi Quang Triết, đã qua đời vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 1, 2004 tại San Antonio, Texas, thọ 74 tuổi. Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, từng học tại trường College Mỹ Tho, đi kháng chiến chống Pháp và tập kết ra Bắc vào năm 1955. Sau khi hiểu thế nào là Cộng sản, ông đã tìm cách trở lại miền Nam, bỏ Cộng sản. Năm 1963 ông được trở về miền Nam và đã ra Hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1968. Xuân Vũ được trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1972 với tác phẩm Ðường Ði Không Ðến. Lễ hỏa táng được cử hành vào ngày Thứ Hai 5 tháng 1, 2004 tại nhà quàn Oakhills, San Antonio, Texas.” (Báo Người Việt)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:35:08 GMT 9
Sài Gòn (trước 1975) dịp cuối năm Wednesday, November 30, 2011  Báo Xuân, và các hồi ký làm báo VIÊN LINH  Bang Ba Lan LTS: Bài dưới đây, cũng như các bài khác của Viên Linh, chỉ đăng trên trang Thời Sự Nhân Văn của Nhật Báo Người Việt. Các diễn đàn khác muốn đăng lại, cần có sự đồng ý của Tòa Soạn Người Việt. Lời tác giả: Bài “Làng báo Sài Gòn dịp cuối năm,” cũng như các bài khác của Viên Linh, chỉ đăng một lần trên Trang Thời Sự Nhân Văn của Nhật Báo Người Việt. Các diễn đàn khác muốn đăng lại, cần có sự đồng ý trên văn bản của luật sư phụ trách bản quyền của tác giả: Tien Nguyen, Esq., 1716 N. Alexandria, Los Angeles, CA 90027. Cuối năm, thường là bắt đầu từ tháng 12 dương lịch, ngồi trước bàn viết, không biết phải viết gì? Câu hỏi ấy hiện ra trong đầu người ký giả, mà có thể cũng hiện ra trong đầu người viết văn, làm thơ. Những cuốn hồi ký và biên khảo về nghề làm báo của các ông Hồ Hữu Tường, Nguyễn Ang Ca, Huỳnh Văn Tòng. Cuối năm ngồi đọc lại mình Nhác trông trang giấy, thấy hình quỉ ma. Ðầu trâu mặt ngựa nhẩn nha Mắt xanh nanh đỏ thân ngà dáng tiên Hay ta ngừng viết, đặng xem Canh khuya hâm rượu, mình ên... Ðó là một thứ thơ, trong các thứ, không phải của người ký giả, không nên nghĩ tiếp. Thế nhà văn, người kể chuyện, viết gì? Thường là họ được mời viết bài Xuân cho các Giai phẩm Xuân, như năm tới Nhâm Thìn thì viết các chuyện xung quanh con Rồng, về các năm Rồng hay người tuổi Rồng. Các nhà phê bình, viết tham luận, được đặt bài viết tổng kết tình hình sinh hoạt thuộc mọi bộ môn văn học nghệ thuật trong năm đang qua. Các phóng viên chiến trường kể chuyện hào hùng ngoài mặt trận, các phóng viên nghị trường thuật chuyện các ông nghị, thượng nghị sĩ hay dân biểu. Ðó là nói về việc làm báo Xuân tại miền Nam trước 1975, Xuân và báo Xuân hải ngoại có khác. Báo Xuân miền Nam có một đặc điểm tốt: mỗi năm tòa báo họp bàn, và quyết định trao việc thực hiện Giai phẩm Xuân cho một nhà văn, hay một ký giả trong tòa soạn, mà không trao cho vị chủ bút đương nhiệm, đặng người chủ bút có dịp nghỉ ngơi dưỡng sức sau một năm gắn liền với tòa soạn, và mặt khác, khuyến khích sự phát huy sáng kiến mỗi năm, san sẻ đồng đều khả năng nhân viên Bộ Biên Tập, và tránh được nạn “con ông cháu cha,” hay bè cánh trong tờ báo, nếu có. Nhuận bút bài Xuân thường là gấp đôi gấp ba ngày thường, thường là từ 2,000 tới 5,000 đồng một bài. Việc chọn người chủ trương Giai phẩm Xuân diễn ra trước Tết khoảng 3 tháng, nghĩa là Giai phẩm Xuân là một tuyển tập được sửa soạn kỹ, mở rộng ra bên ngoài tới các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, và các tài năng trong cả làng báo, nó vừa là món quà Tết thích hợp, vừa là một tặng phẩm ngoại giao một khi được gửi ra ngoài, các giới, các cấp. Những Giai phẩm Xuân được đón mua thay đổi tùy năm, song những tờ nổi tiếng người viết còn nhớ được là Xuân Tự Do, Xuân Tiếng Chuông, Xuân Tia Sáng, Xuân Tiền Tuyến, (xin miễn kể những báo xuân mình làm)... Dịp cuối năm trong làng báo Sài Gòn, và cả một vài lãnh vực ngoài xã hội - tuy không rộng mà chỉ thu vào một số có nền nếp - còn nhộn nhịp ở chỗ mọi người chờ đợi xem năm nay có “lương tháng thứ 13” không. Chuyện này có, song không đều, và hiếm. Năm nào chủ hãng, chủ nhiệm hớn hở cho biết năm nay “tạm khá,” là hy vọng cuối năm có thêm một tháng lương, gọi là “lương tháng thứ 13.” Chữ “tạm” nghe chưa lấy gì làm chắc, nó có thể được thay thế vào tuần tới, là “không” khá. Vậy anh em cố gắng lên, may ra năm tới thì sẽ khá thật. Viết đến đây người viết bài này cảm thấy muốn viết vài nét về nghề báo, muốn nhìn lại sơ lược thôi một số nhân vật của làng báo Sài Gòn, anh em trong làng báo cũ. Quyết định rồi, người viết thấy cần thắp một nén hương lòng để tưởng niệm các đàn anh, các bạn lớp trước, cùng thời hay lớp sau, từ 1955 tới 1975, và các tác giả đã viết những cuốn sách, tập tài liệu, về làng báo Việt Nam mà khi này khi khác, người viết trích dẫn trong loạt bài 4 kỳ này: Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc (1907-2008): Làm Báo Thời Xa Xưa, Hồi Ký, Sài Gòn, 1972. Hồ Hữu Tường (1910-1980): 41 Năm Làm Báo, Paris, 1967. Vũ Bằng (1914-1984): Bốn Mươi Năm Nói Láo, Sài Gòn, 1969. Nguyễn Ang Ca (-): Giá Tự Do, Hải ngoại, 1985. Hồ Văn Ðồng (1923-): Sương Như Búa Bổ, Virginia 1991. Huỳnh Văn Tòng: Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, từ khởi thủy đến 1930, Trí Ðăng, Sài gòn, 1973. Ðặng Văn Nhâm: Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, từ khởi thủy đến 1999, Việt Nam Văn Hiến, Ðan Mạch, 1999. Thanh Nam (1931-1988): Hai Mươi Năm Viết Văn Làm Báo, Tạp chí Văn. Dương Hùng Cường: Mục Lục Báo Chí Việt Nam Hải Ngoại, 1975-1985, IRAC, Washington, D.C., 1985. Và tài liệu của riêng tôi: Các khuynh hướng tiểu thuyết (qua các tạp chí Văn học Miền Nam, 1954-1975), học bổng Ford Foundation, Hoa Kỳ, 1976. Hầu hết các vị trên đã qua đời. Ký giả Nguyễn Ang Ca vào nghề báo năm 1950, chủ nhiệm nhật báo Tin Sớm 1964-1972, đã 8 lần đi dự các Thế Vận Hội Quốc Tế và Hòa Ðàm Ba Lê. Ký giả Hồ Văn Ðồng từng là chủ tịch Hội Chủ Báo Việt Nam 1966-1970; phó chủ tịch Liên Ðoàn Ký Giả Quốc Tế 1964-1966. Các ký giả khi viết hồi ký nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp, ngành nghề họ theo đuổi, họ đã viết những gì? Học giả, nhà báo Hồ Hữu Tường kể lại lý do ông biết đọc báo ra sao kể từ năm ông mới 6 tuổi, và ở tuổi đó đã đọc báo Nam Phong của Thượng Thư Phạm Quỳnh: “Cha mẹ tôi là tá điền của người cậu bà con, nhà gần nhà tôi, và làm hội đồng. Vì cái chức hội đồng ấy, cậu bị nhà nước ép mua dài hạn tạp chí này [Nam Phong]. Nhưng trong nhà chẳng ai thèm đọc. Mỗi tháng anh trạm thư đem đến một số. Nó liền bị ném vào góc, tha hồ ai muốn dùng cách nào thì dùng. “Ðáng lẽ tờ Nam Phong chịu chung số phận với một tờ báo khác, mà tôi quên bẵng tên đi. Nhưng mà, những người đàn bà thấy trong Nam Phong có phần chữ Nho, họ bảo là chữ của thánh hiền, không nên làm ô uế, nên tạp chí của Phạm Quỳnh tránh khỏi số phận bị ném vào cầu xí. 'Thằng Thuộc mày muốn lấy thì lấy.' Hai người chị dâu của cậu Sáu tôi cho phép tôi làm chủ tạp chí này. “Tôi đem về nhà, nằm lên võng, đưa kẽo kẹt mà đọc những bài báo khó khăn, chẳng hiểu chi ráo, để mà biết những danh từ lạ. Và để trưa trưa, đọc chán quá, ngủ một giấc ngon lành. Nào có dè Nam Phong gieo vào đầu óc tôi quá nhiều chữ Nho, hại tôi mang một chứng bịnh mà Phan Văn Hùm đặt tên là 'tân hủ nho'...” * (tr.7-8) Như vậy, độc giả thiếu niên Hồ Hữu Tường cho biết việc đọc báo Nam Phong ra sao và đã cùng nhà cách mạng Phan Văn Hùm, tác giả Ngồi Tù Khám Lớn, nghĩ gì về tờ báo ấy. Cuốn “41 Năm Làm Báo” dày 192 trang, gồm 16 chương, nói tới các tờ báo tác giả đã làm, từ báo Tiền Quân ra được có một số tới báo “xương xoa,” là báo bí mật khi cả nhóm Tạ Thu Thâu bị Pháp trục xuất khỏi Paris, ra báo tả phái ở Sài Gòn, lấy tên là “Tháng Mười,” mỗi tháng ra 8 số. Ðến 1932 thì bị bắt. Khi ở tù ông làm báo nói, hay báo miệng. Ra tù ông làm tờ báo “Nam Nữ giới chung,” nghĩa là báo chung cho độc giả cả đàn ông lẫn đàn bà. Tờ báo bị rút giấy phép thì ông được nhà báo Diệp Văn Kỳ mời cộng tác. Thế là Hồ Hữu Tường chính thức bước vào làng báo chuyên nghiệp. Ðó là tờ Công Luận. Thời gian này ông hoạt động bên cạnh những trí thức trẻ tên tuổi, vào tù ra khám nhiều lần như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Lê Văn Thử. Tờ báo quan trọng nhất, mạnh nhất là tờ kế tiếp: Ðồng Nai, cùng làm với Phan Văn Hùm. Theo cuốn hồi ký: “Báo Ðồng Nai ra đời, chẳng bao lâu trở nên là một ‘trung tâm văn hóa.’” Tờ báo lại được “một nhà sư” trứ danh ở Việt Nam là sư Thiện Chiếu cộng tác. Năm 1943 nhà sư này ở tù Côn Nôn, sau chẳng ai rõ đi đâu. Sau đó, nhóm Hồ Hữu Tường được sự cộng tác của ông Ðào Duy Anh từ Huế vào, mà ông rất hãnh diện: “Tôi được Ðào Duy Anh kết làm bạn thân nhờ cơ hội này.” Cũng năm 1943, theo Hồ Hữu Tường, thì Nguyễn An Ninh chết trong tù Côn Nôn. Theo Hồ Hữu Tường, ông Ninh nổi tiếng ở Sorbonne không những học giỏi, một năm xong cử nhân, mà còn viết báo Pháp ngữ Tây rất phục. Trong thập niên '50, ông Tường đi tù 9 năm vì lý do chính trị, mà trong hồi ký, ông viết rõ “tôi kẹt trong vụ Bình Xuyên, mà vỡ cái mộng qua Pháp hành nghề xuất bản. Trong vụ này, tôi mắc kẹt từ cuối tháng 3 năm 1955, đến cuối tháng 1 năm 1964, mới ra khỏi nhà tù.” Chữ “kẹt” của ông quá giản dị. Ông là cố vấn của Tướng Bảy Viễn, lãnh tụ Bình Xuyên, lực lượng vũ trang được Vua Bảo Ðại và Pháp yểm trợ, dùng súng đạn chống lại ông Ngô Ðình Diệm, lúc ấy là thủ tướng chính phủ. Nếu tên các tờ báo của ông Tường, có may tờ hàm ý chủ trương chính trị của ông: Tiền Quân, Tháng Mười, thì tờ báo sau rốt của ông ở Sài Gòn là tờ Hòa Ðồng, khi ông từ Côn Ðảo được thả về, năm 1964, sau khi chế độ Cộng Hòa Thứ Nhất bị lật đổ ngày 1 tháng 11, 1963. Ðến khi Hòa Ðồng chết, ông được nhà báo Chu Tử mời cộng tác với báo Sống, và chính tờ báo này đưa ông vào ghế dân biểu của Việt Nam Cộng Hòa. “Sự hợp tác với báo Sống làm cho Chu Tử có cảm tình với tôi. Nên khi năm 1967, tôi ứng cử dân biểu, theo một mưu mẹo có thể là đánh đòn gió mà thôi, Chu Tử lại dốc toàn lực mà 'lăn cục đá ù lì' là tôi vào Hạ Viện... làm cho tôi 'bị đắc cử' dân biểu đô thành. Từ đấy, tôi được nhiều báo mở rộng cho viết. Như Quyết Tiến, Ðuốc Nhà Nam, Tiếng Nói Dân Tộc, Tin Sáng, Sài Gòn Mới, Ðiện Tín. Ðó là không kể một số tuần báo, tạp chí.” ** (tr 189)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:57:50 GMT 9
Nhà văn Nghiêm Xuân Hồng (1920-2000) VIÊN LINH Tháng 5, năm 2000, một nhân vật của văn học và chính trị miền Nam đã ra đi. Báo chí Little Saigon hồi ấy đã loan tin: “Vào lúc 1 giờ sáng Chủ Nhật, 7 tháng 5 năm 2000, nhà văn Nghiêm Xuân Hồng, tác giả Ði Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng, bộ trưởng trong chính phủ Nguyễn Khánh, đã từ trần tại nhà riêng ở quận Cam, thọ 80 tuổi.  Nhà văn, nhà biên khảo Nghiêm Xuân Hồng (1920-2000). Lễ hỏa thiêu và di quan cử hành trong ngày 12 tháng 5.” Ðược biết đến như một trong ba thành viên cột trụ của Nhóm Quan Ðiểm mà hai người kia là Vũ Khắc Khoan, Mặc Ðỗ. Ông Nghiêm Xuân Hồng, từ năm 1954 sau Hiệp Ðịnh Geneve chia đôi đất nước, thuộc nhóm nhà văn thế hệ thứ nhất tại miền Nam Việt Nam, khai mở một nền văn học dưới vĩ tuyến 17, gọi là nền Văn Học Tự Do, hay Văn Học Quốc Gia. Những người trong thế hệ này, cầm bút sáng tác từ miền Bắc, nhưng chỉ khi di cư vào Nam mới tích cực hoạt động trong lãnh vực báo chí, văn học. Ngoài nhóm Quan Ðiểm ra, có thể kể Mặc Thu, Hiếu Chân, Nguyễn Hoạt, Phạm Tăng, Ðỗ Thúc Vịnh qui tụ trên tờ nhật báo Tự Do (không kể những người đi trước một chút, cũng qui tụ trên tờ này, như Tam Lang, Ðinh Hùng). Ðó là chỉ nói về những nhà văn có lập trường chính trị được thể hiện rõ ràng qua tác phẩm lúc ấy. Nghiêm Xuân Hồng sinh năm 1920 tại Hà Ðông, lúc thiếu thời học trường tư thục Minh Tiến tại thị trấn Phủ Lý, khi lên Hà Nội mới học Ðệ Lục đã đi thi Thành Chung, và thi đậu. Ðậu rồi, ông lại nhảy lớp để đi thi Tú Tài, và lại đậu nữa. Ông ghi tên học Luật, trở thành luật sư, tham gia hoạt động chính trị, đảng phái, trong đó có Ðảng Duy Dân của Lý Ðông A. Khi Tướng Nguyễn Khánh đảo chính năm 1965, Nghiêm Xuân Hồng trở thành bộ trưởng Phủ Thủ Tướng. Tác phẩm đầu tiên của ông do Quan Ðiểm xuất bản năm 1957 tại Sài Gòn là Ði Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng, dầy 216 trang, có tiêu đề: “Nhận thức luận.” Cuốn này được tái bản ít ra là ba lần, trong hai năm 1964, 1967. Nghiêm Xuân Hồng thường tìm cho tác phẩm của mình một tiêu đề, như cuốn Người Viễn Khách Thứ 10, in năm 1963, thay vì kịch, ông đề: “Ba hồi hoang ngôn.” Năm 1966, ông in cuốn Xây Dựng Nhân Sinh Quan. Cùng những cuốn khác nữa như Luyến Ái Quan (Quan Ðiểm 1961), hai cuốn Biện Chứng Giải Thoát (theo tư tưởng Ấn Ðộ, in 1966) hay theo Triết Lý Trung Hoa (in năm 1967). Qua những cuốn sách như thế, người đọc thấy tác giả Nghiêm Xuân Hồng suốt đời đi tìm một ý nghĩa cho cuộc sống, không những cho mình, mà cho thế hệ ông, và sau ông. Có thể nói, ông như một lý thuyết gia nỗ lực tạo dựng một ý thức hệ chống lại ý thức hệ mác xít mà ông từ khước, bằng ngòi bút cũng như bằng sự tham gia hoạt động chính trị. Ðó hẳn là nguyên do ông viết các cuốn Cách Mạng và Hành Ðộng, Diễn Tiến của Phong Trào Quốc Gia Việt Nam. Trong những năm cuối đời tại hải ngoại, Nghiêm Xuân Hồng dành hầu hết thì giờ vào việc đọc kinh Phật, và giảng kinh Phật tại các chùa tại miền Nam California. Ông thường tán tụng Kinh Hoa Nghiêm, hay nói về bộ kinh này. Pháp danh của ông là Tịnh Liên (bông sen âm thầm). Ngay khi đặt chân lên trại tị nạn cộng sản ở Hoa Kỳ, ông đã viết những bài đầu tiên về đạo Phật, một trong những bài đó có nhan đề “Tìm bóng Phật trên đất khách,” đăng trong tạp chí Ðuốc Tuệ số 1, xuất bản vào tháng 5, 1976. Trong thời gian ở trại chuyển tiếp Indiantown Gap, thuộc tiểu bang Pennsylvania, tháng 7 năm 1975, Nghiêm Xuân Hồng, Thanh Nam, Viên Linh mỗi buổi sáng đi từ lều này qua lều khác để tìm nhau. Cả ba, dưới trời sương buổi sáng khá lạnh, tuy là vào mùa Xuân đất khách, vẫn đi dạo trên những đồi cỏ, và thường thường hỏi nhau: “Bây giờ ta đi đâu?” Hỏi thì hỏi thế thôi, chứ khi ra khỏi căn trại gỗ, người nào cũng nghĩ: đi uống cà phê đi! Ông từng cho người viết bài này biết là sau một vụ hỏa hoạn, nhận thức của ông về cuộc đời đã thay đổi hoàn toàn. Khi nói, họ Nghiêm không hùng biện, dù là một luật sư tốt nghiệp ở Hà Nội từ trước 1954, mà cách nói như một triết gia - người viết nghĩ thế - vì nghe ông nói, người nghe phải chú tâm lắm lắm mà chỉ hiểu mơ màng. Vả chăng, khuôn mặt ông lúc ấy như có một đám mây mờ bay qua, hay như một mảng khói xám tỏa xuống. Nên người nghe chỉ biết ghi nhận, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vì nghĩ rằng hỏi lại, hay gặng hỏi, là điều không nên, và không thể được. Người nghe cố bắt lấy tâm điểm của lời kể, hình ảnh của chuyện kể, và tự mình hiểu được đến đâu thì hiểu. Chẳng hạn, hình ảnh là một chiếc giầy phụ nữ, và chiếc giầy đó là của vợ ông. Chiếc giầy nằm giữa lối đi. Và ông mới mở đầu câu chuyện: một vụ hỏa hoạn. “sau một vụ hỏa hoạn,” nhận thức của ông về cuộc đời thay đổi hoàn toàn. Người nghe không dám hỏi thêm. Nhưng hẳn nhiên, vụ hỏa hoạn làm cho nhận thức một đời người thay đổi, thì vụ hỏa hoạn ấy là một thảm kịch. Có một điều gì đó, nối kết đến đâu, người viết cũng không thể hiểu. Chỉ biết thế. Một vụ hỏa hoạn, Nghiêm Xuân Hồng nhớ lại, sau một quãng và nhớ ra trên lối đi có thấy một chiếc giầy mà không kịp nghĩ gì. Sau mới biết chiếc giầy ấy của vợ ông... Ông kể với tôi chuyện này tại trụ sở Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại đường Bolsa, phía sau phòng mạch của Nha Sĩ Phạm Ðình Tuân, vào khoảng vài năm trước khi ông ra đi. Trong một bài thơ, ông cũng nói về sự xa khuất của bà vợ, nhưng câu thơ có thể làm những người đọc trẻ tuổi hiểu lầm. Bà mất trước, để ông lại trong cuộc đời buồn bã (ông hay dùng mấy chữ buồn bã trong các bài viết); và người đi trước bị coi là phản bội, vì vội tìm về cõi thần tiên cực lạc một mình: “Hắn thở dài, kéo cao tấm chăn, làm di động ánh trăng vàng vọt. Ðưa mắt nhìn quanh căn phòng trần trụi: Có lẽ gia-tư của hắn chỉ còn có vậy! Lũ con cái thì nhớn cả rồi. Chúng như lũ chim lạ hoắc muốn bay xa, trong khoảng trời gió ngật. Chẳng muốn ngoái cổ nhìn lại những đám bụi hồng đằng sau... Vợ thì cũng vậy, đã phản bội bỏ ra đi trước mất hút. Chiều chiều, không còn nghe thấy tiếng guốc lóc cóc trước ngõ...” (Nghiêm Xuân Hồng, Ðộc Ðăng Ðài số 2) Những dòng sau đây, viết từ năm 1975, 1976, cho thấy rõ một Nghiêm Xuân Hồng thay đổi nhận thức như thế nào từ khi rời bỏ quê hương: “Hồi mới lớn, đi học, tôi hay vào trường Bác-Cổ Hà Nội đọc mấy cuốn sách của người Pháp viết về Ðạo Phật, tuy tôi chẳng hiểu được mấy. Tôi cũng hay đi bộ lang bang thăm mấy cảnh chùa ở vùng Bắc-Ninh, Yên Tử... Sau đó, căn duyên hơi đứt đoạn, tôi mải mê chạy theo cuộc đời... Tới năm bốn mươi tuổi, tôi ngồi mấy năm đọc lại sách Phật, nhận thấy nhãn quan của mình nhìn đạo đã đổi khác... Rồi tôi lại bỏ bẵng đi mất bảy, tám năm... Ðến ba, bốn năm gần đây, tôi trở lại nghiền ngẫm kinh sách, và lần này, tôi có cảm tưởng hình như không dứt được nữa... Ngồi ngẫm lại, thấy các cuốn Kinh có điểm thật lạ lùng là Kinh như hạt châu quý, mỗi người đọc tùy theo căn duyên của mình lại nhìn thấy một mầu khác nhau, mỗi tuổi đọc lại một khác. Mới đọc, khi căn duyên chưa nở và nghiệp chướng còn đầy ắp, thấy mình như đập đầu vào vách, nhưng đọc lâu thấy trong Kinh có một thế giới trang nghiêm và huyền diệu lạ thường, hình như không phải thế giới người mà vẫn bao gồm cõi nhân thế... “Hồi di cư, tôi có để lại Sài-Gòn mấy giá Kinh và nhiều hình Phật treo la liệt trên tường. Tôi không mang đi, một phần vì quá vội, nhưng cũng có một phần ẩn ý muốn cho những người Việt-Cộng nhìn thấy những bức hình đó. Tuy mang nặng nghiệp sát và nghiệp quyền-lực, nhưng họ nhìn những hình đó, tôi nghĩ họ cũng tiêu được một chút nghiệp chướng. Dù họ có mang xé đi, thì họ cũng gây một nghiệp nghịch với Phật, và những kẻ gây nghiệp nghịch, trong cuộc hành trình mênh mang của các kiếp, cũng sẽ trở về con đường Phật chỉ... Cuộc di cư của gia đình tôi, đến nay tôi vẫn nghĩ rằng có sự độ trì của Ðức Quán Thế Âm, tuy cho rằng mình không đáng gì hết. Vì cuộc ra đi thật nhẹ nhàng và chẳng do manh mối nào cả... Sang đến đất này, thì thấy thành phố ồn ào nhưng như vắng hoe... Không hẳn vì hàng rào ngôn ngữ, nhưng lẽ chính vì tôi nhận thấy đất này có vẻ vắng bóng thần-linh...” (NXH, Tìm bóng Phật trên Ðất Khách, Ðuốc Tuệ, 5.1976) Theo một người con trai của nhà văn, thì thân phụ ông biết trước thời gian mình lìa đời, ông nói với người con: “Tao thấy yếu rồi, có thể đi trong tháng 5 hay trễ là tháng 6.” Chiều Thứ Bảy ngày 6 tháng 5, 2000, được chở vào bệnh viện cấp cứu, nhưng chỉ một giờ sau ông đòi về. Vẫn theo ông Nghiêm Xuân Quan kể thì trên xe, trên đường về, thân phụ ông nói: “Bầu trời đổi sắc rồi.” Nửa ngày sau, tác giả Nguyên Tử, Hiện Sinh và Hư Vô ra đi.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 8:02:03 GMT 9
Tú Kếu, nhà thơ trào phúng với bản án 18 năm tù cộng sản Viên Linh Trong một bài báo Xuân gần đây từ trong nước gửi ra hải ngoại, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, giải khôi nguyên Thơ Miền Nam trước 1975, viết rằng: Từ sau tháng 4, 1975, miền Nam mất hẳn một thể loại văn chương vốn trước đó phồn thịnh: đó là Thơ Trào Phúng.  Tấm ảnh chót của nhà thơ Tú Kếu (1937-2002) do Nguyễn Thụy Long chụp, tháng 4, 2002. Trào phúng, hay châm biếm, thường là “khí giới” của nhà thơ dùng để chống lại kẻ mạnh. Trên báo chí miền Nam trước 75, báo nào cũng có ít ra là hai mục châm biếm: mục văn xuôi, nhất thuộc loại “Ao Thả Vịt,” hay “Radio Catinat,” hay “Tin Trời Biển,” viết theo lối hư mà thực, hư hư thực thực, loại tin đồn không có lửa sao có khói, bởi lẽ viết đích xác ra thì sẽ rắc rối, nếu không bị kiện ra tòa thì cũng ăn đòn hội chợ, hay bị bắn sẻ. Mục này có khi được đưa ra trang nhất. Ở trang trong mục đó thông thường là một mục thơ, Thơ Trào Phúng, có khi gọi là Thơ Chua, Thơ Chì, Thơ Xám. Với Tú Kếu, thi sĩ khét tiếng của thể loại này, mục của ông có tên khởi đầu là Thơ Ðen. Thơ châm biếm của ông lên tới độ siêu đẳng: có thời gian có tới 4 nhật báo mua thơ ông mỗi ngày, ông trở thành thi sĩ duy nhất không cần mưu sinh bằng nghề gì khác (dù dạy học), vì thơ đã nuôi ông. Ông giữ bốn mục Thơ Ðen, Thơ Chì, Thơ Xám, Thơ Chua cho bốn tờ báo khác nhau. Ông vẫn làm thơ khi cộng sản chiếm được miền Nam, không có báo đăng thì truyền tay cho bạn bè, và rồi, sau những móc ngoặc, Tú Kếu bị đưa ra tòa cộng sản, và bị kết án 18 năm tù. Hình như chưa có thi sĩ nào bị kết án nặng như thế. Thơ ông đáng sợ lắm sao? Xin đọc một bài của Tú Kếu làm sau 1975, có lẽ khoảng thập niên '80: Nhân quyền Việt Nam quyền con người Người được quyền đi lại Quanh quẩn trong vùng thôi Ra ngoài bị tóm cổ Việt Nam quyền con người Người được quyền cư trú Nơi chỉ định mà thôi Ra ngoài cũng tóm cổ Việt Nam quyền con người Người được quyền phát biểu Ca tụng đảng mà thôi Ngoài ra bắt tự kiểm Việt Nam quyền con người Người được quyền đau khổ Ðược quyền khóc trước cười Ðược quyền chui xuống mộ Tú Kếu Nhà thơ Tú Kếu không còn nữa Từ Sài Gòn, nhà văn Nguyễn Thụy Long báo tin cho bằng hữu hải ngoại: “Tôi báo cho các bạn một tin buồn: Tú Kếu chết hồi 8 giờ 30 sáng ngày 25 tháng 4 năm 2002, tức ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Ngọ.” Tin cũng cho hay tang lễ nhà thơ được cử hành vào ngày 27 tháng 4, tức là Thứ Bảy cuối tuần. Tú Kếu là một thi sĩ trào phúng nổi tiếng nhất của làng báo miền Nam trong hai thập niên '60 và '70 qua các mục thơ biếm trích thường xuyên trên các nhật báo và tuần báo mà anh đặt là Thơ Ðen, Thơ Chua, Thơ Chém Treo Ngành. Một trong những mục đó là một mục thường xuyên của Khởi Hành trước 1975. Ðối tượng của anh không phải chỉ là những thói hư tật xấu của một hạng người nào đó, mà còn là chính quyền đương thời. Do đó thơ anh thường bị kiểm duyệt đục bỏ, toàn bài hay từng câu từng chữ. Mục thơ trào phúng của anh một mặt làm báo bán chạy, mà mặt khác cũng làm báo ra chậm, vì một khi bài thơ bị đục bỏ, người ta phải dùng mục đen bôi đi, nếu ít, hay phải in lại, nếu báo lỡ in rồi. Bằng hữu và độc giả thường biết Tú Kếu tên thật là Trần Ðức Uyển, thực ra không phải. Tên thật ông là Nguyễn Huy Nhiên, còn Trần Ðức Uyển, hay Hoàng Bình Sơn chỉ là những bút hiệu ông dùng trong khi làm những bài thơ không châm biếm. Tú Kếu sinh năm 1937 tại Sơn Tây, dạy học trước khi bước vào làng báo. Anh lập gia đình với con gái một người bạn, và đó là gia đình đầm ấm anh sống cho tới cuối đời, ở Sài Gòn và Lâm Ðồng. Sau khi miền Nam sụp đổ, anh bị cộng sản bắt, và đưa ra tòa, bị lên án 18 năm tù. Dĩ nhiên cũng vì những bài thơ chống Cộng của anh. Ở tù được trên mười năm thì Tú Kếu được thả về, có lẽ vì căn bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ) bắt đầu tác hại. Ra khỏi tù, anh về sống ở Bảo Lộc. Những ngày đầu tháng 4, 2002, bệnh của Tú Kếu quá trầm trọng, anh được gia đình đưa về Sài Gòn.Cái chết của Tú Kếu là một cái tang lớn cho làng thơ trào phúng Việt Nam. (1) Theo nhà thơ Trần Thúc Vũ “Tú Kếu với một tâm hồn ngay thẳng, chân thực, đôn hậu và can trường. Dưới bất cứ thời buổi nào, anh luôn luôn dùng ngòi bút để chống: cường quyền, bạo lực, bất công, áp bức... cả những thói hư, tật xấu cho dù đó là ‘ai’ đi chăng nữa, và ngay cả với chính mình. Anh châm chọc nhưng không tàn nhẫn, anh chỉ trích nhưng tràn đầy yêu thương. Năm 1976, anh bị kết án 18 năm tù cũng bởi những điều như thế. Nhưng năm 1988 thì được thả. Hiện nay anh sống lặng lẽ ở Sài Gòn mà lòng đầy u uẩn về một tương lai cho Việt Nam.” Tú Kếu ra đi đã được 9 năm. Ðể tưởng niệm một nhà thơ chính khí tài ba của Việt Nam, xin đọc một vài bài thơ cũ của anh: Vịnh một chính khách bên Tây về Thời cơ có lẽ tới rồi đây Phúc hậu ông tôi mặt vẫn đầy Lưu lạc mấy năm người béo lẳn, Giang hồ dăm bận má tròn phây! “Ái quần” số dách trong vòng... “mật” Ðoàn kết “bom nhe” dựa thế Tây! Nghe nói quan anh tài... đỡ đẻ Thôi đừng chính trị, hãy ra tay! Phúng ông Kennedy Ông chết rồi, ông chết thật rồi! Cõi đời khốn nạn lắm ông ơi! Hòa bình thế giới què chân đứng, Dân chủ năm châu hụt chỗ ngồi! Hý hửng anh Mao lòng mở hội Ngậm ngùi bác Kút, miệng bôi vôi! Thương ông: hiệp chủng văn minh quá Ðen, xám, vàng, nâu... trách cụ trời! Trách cụ trời gây loạn trước tiên, Làm cho ông mệt mấy năm liền! Ba thằng tư bổn càng to vốn, Các gã lưu manh lại rộng quyền. Khuynh hữu phất phơ cờ... cứu quốc Cộng huề khấp khởi ghế... ăn trên! Không gian bát ngát, ông về đất, Nhớ chống tam vô dưới cửu tuyền! Dưới cửu tuyền ví gặp cụ Ngô, Giảng hòa thôi nhé, tiếng cười to! Bắt tay thân thiện: tôi và bác, Chào hỏi khoan dung: tớ với bồ! Súng đạn than ôi, thời buổi loạn! Anh hùng thảm bấy, phút sa cơ! Ngàn trùng biển Thái xanh ngăn ngắt! Ngơ ngác trên cây một ngọn cờ! Tú Kếu Chú thích: 1. Trích bản tin đăng báo Khởi Hành số 67, tháng 5, 2002. (Viên Linh, Hồi Ký Văn Học)
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 10, 2013 17:18:12 GMT 9
Thêm hồi ký nhà báo trong tù của nhà văn An Khê Viên Linh Gần đây người viết bài này được biết thêm một hồi ký về nghề báo chưa từng đọc, được đăng lại trong một cuốn sách mới xuất bản nhan đề “An Khê Nguyễn Bính Thinh.” An Khê là ai? Ðộc giả hải ngoại có thể không có bao nhiêu người biết đến nhà văn này, nhưng nếu nói đến tuồng cải lương “Bơ Vơ,” “Tuyệt Tình Ca” hay “Hai Chuyến Xe Hoa” mà đoàn Thanh Minh Thanh Nga đã trình diễn suốt 21 đêm tại Sài Gòn thì có lẽ có thêm nhiều người nhớ đến An Khê, vì tuồng đó đã soạn từ cuốn tiểu thuyết “Người Vợ Hai Lần Cưới” của ông. Xin đừng nhắc đến cuốn phim “Hai Chuyến Xe Hoa” mà đạo diễn Hoàng Anh Tuấn dựng theo vở cải lương và cuốn tiểu thuyết này, vì nó thất bại hoàn toàn, chính An Khê đã phát biểu như thế, và còn kể lại trong hồi ký nhà đạo diễn đã phải xin lỗi tác giả ra sao.  Nhà văn An Khê ngồi bên mộ ký giả Nguyễn Ang Ca, Bruxelles, Bỉ. (Hình: Võ Ðức Trung, Pháp) An Khê (1925-1994) tên khai sinh là Nguyễn Bính Thinh, gia nhập làng báo năm 1950, biên tập viên báo Ðọc Thấy, có tiếng từ khi viết cho báo Ðời Mới của ký giả Trần Văn Ân sau đó vài ba năm. Những năm '60 ông là tác giả cực kỳ ăn khách, được các báo chèo kéo, mua chuộc, đến nỗi ông trở thành nhà văn viết tới 13 truyện từng kỳ trên 13 tờ nhật báo trong một ngày, vượt cả ông thầy của ông là nhà văn Bình Nguyên Lộc, người viết 12 truyện từng kỳ cho 12 tờ báo lúc trước đó. Gọi Bình Nguyên Lộc là ông thầy vì bút hiệu An Khê là do Bình Nguyên Lộc đặt cho tác giả Người Vợ Hai Lần Cưới, và chính Bình Nguyên Lộc bảo An Khê hãy viết loại tiểu thuyết tình cảm thôi, loại đó hợp với văn phong và vốn sống, kiến thức, của An Khê hơn là loại tiểu thuyết võ hiệp lịch sử hay trinh thám gián điệp, là hai loại mở đầu của Nguyễn Bính Thinh, ký các bút hiệu Cửu Lang, Trương Vân Anh,... An Khê vốn là tên ngọn đèo An Khê ở Pleiku, nơi Thiếu Tá Nguyễn Bính Thinh đụng trận với Việt Minh, và là nơi chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của ông, vì từ sau đó, bị tàn phế nặng nề, ông chỉ còn sử dụng được hai ngón tay để gõ máy chữ, và hoàn toàn mưu sinh, nuôi gia đình, bằng nghề văn nghề báo. Khoảng 1964, 1965, làm thư ký tòa soạn nhật báo Dân Tiến ở Sài Gòn, tôi trông coi các trang trong, một trong năm tiểu thuyết của tờ báo phải có một truyện dài của An Khê, chính trong dịp này tôi đã gặp anh. Nếu trí nhớ không lầm, mấy truyện bên cạnh là của Ngọc Linh, Sĩ Trung. Vì Dân Tiến nhằm vào độc giả gốc miền Nam, nên tôi cũng đã mời hầu hết các đồng nghiệp viết văn Nam cộng tác với Dân Tiến, như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà (kịch trường), Hoàng Trúc Ly (truyện cổ tích). Truyện bằng tranh cũng phải mời họa sĩ miền Nam, là Diệp Ðình. Nếu những nhà văn Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Hoàng Trúc Ly tới tòa báo, đặt trên đường Phạm Hồng Thái chạy xéo từ Ngã Sáu đâm vào cạnh nhà ga xe lửa, thì An Khê xẹt qua bằng xe mô tô. Anh to lớn, vạm vỡ, nhưng khi đi đứng, người ta biết ngay anh là thương phế binh hạng nặng. Hạng nặng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: anh là cựu thiếu tá phó chủ tịch Hội Thương Phế Binh Việt Nam. Khoảng sau 1990, anh đoàn tụ gia đình tới Pháp, và ít lâu sau có gửi cho tôi một lá thư khá dài, giấy mỏng, khổ giấy legal ở Mỹ. An Khê là thiếu niên yêu nước, người tranh đấu, nhà hoạt động cách mạng chống thực dân, việc này đã khiến anh trở thành phạm nhân chính trị, bị Pháp bỏ tù vào năm 1942, mới đầu ở Khám Lớn Sài Gòn, sau bị đưa ra giam tại Côn Ðảo. Ở Côn Ðảo, An Khê được biết rõ các phạm nhân cộng sản đã bắt tay với cặp-rằn Pháp hay tay sai cho Pháp để giết hại các chiến sĩ quốc gia, điều này lại khiến anh trở thành một chiến sĩ quốc gia chống Cộng sản: những điều này tôi chỉ biết nhờ vào phần hồi ký của anh, nhan đề “25 Năm Vinh Nhục Trong Làng Báo Việt Nam trước 1975,” và nói rộng ra, qua bài của nhiều người khác trong cuốn “An Khê Nguyễn Bính Thinh, Hoài Niệm.” “Trước kia khi ở trong Khám Lớn, bọn chúng (cộng sản) đã bao phen ngồi liên hoan với chúng tôi, để cổ võ chiêu bài chúng đưa ra: Quốc Cộng liên minh. Người quốc gia và cộng sản phải liên kết chặt chẽ, cùng sát cánh nhau để cứu nước. [...] Chúng phải làm thế vì ở Khám Lớn, phe Cộng là thiểu số. Nhưng khi ra Côn Ðảo, họ đông hơn, có thế lực núp bóng cai tù, nên trở mặt, bảo: ‘Trên đảo chỉ có màu đỏ, không màu vàng. Người quốc gia muốn yên thân trả nợ tù, phải nhuộm đỏ.’ Không cộng sản tức là kẻ thù, không có khác, cũng không được lưng chừng.” (An Khê, Từ Khám Lớn tới Côn Ðảo, tr.141, trích lại trong An Khê NBT, Hoài Niệm, phần Nguyễn Thiên Thụ) “Ðối với tôi, Côn Ðảo có nhiều phần thiêng liêng còn ở lại mãi trong tâm hồn tôi. Và ác độc, dã man nhứt là những tên cựu tù cộng sản tại Hà Nội, lắm tên đã ở Côn Ðảo hay Lao Bảo, [...]thế nhưng khi chúng nắm chính quyền trong tay, chúng lại thực dân hơn cả thực dân cũ, lập thêm khắp nước những nhà tù, hành hạ tù nhân tàn khốc, ác độc hơn. (An Khê, sđd, tr. 223, phần Hoàng Ngọc Hiển.) “Về sau này, anh Lê Tấn Thông, người chính trị phạm quốc gia làm đường ở ê kíp Ma-thi-ơ Côn Ðảo kể lại: ‘Ông Nguyễn An Ninh khi ngồi tù, bị anh em phiền trách sao ông để cho cộng sản lợi dụng tên tuổi ông... ’ (Sđd, tr.165) Ở một chỗ khác cho biết, Nguyễn An Ninh chết vì nghe theo hai tên cán bộ cộng sản, chúng đưa cho hai con vích, bảo ăn thì sẽ hết bệnh!” Trong văn chương sách vở xuất bản ở hải ngoại, loại sách hồi ký rất hữu ích, cho dù được viết bởi một ngòi bút không chuyên nghiệp, nữa là hồi ký của một nhà văn nổi tiếng như An Khê. Cuốn “An Khê Nguyễn Bính Thinh, Hoài Niệm,” do Võ Ðức Trung chủ biên, với sự góp mặt của Hoàng Ngọc Hiển, Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Thiên Thụ, Nguyễn Ang Ca, Nguyễn Song Anh, Nguyễn Tánh Ðệ, Trần Minh Tâm. Sách dầy 300 trang, do Hương Cau Paris xuất bản, liên lạc qua Nhóm Văn Hóa Pháp Việt, (*) Alleé des Peupliers, 59320 Hallennes Les Haubourdin, France. Chú thích: (*) Xuất hiện trong “Văn Hóa (France Vietnam Culture) số các tháng 11 và 12.1994, tháng 8.1995, 12.1995 và 1.1996; in lại trong “An Khê Nguyễn Bính Thinh - Hoài Niệm” của Võ Ðức Trung và nhiều tác giả, Hương Cau, Paris, 4.2013.
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 10, 2013 17:22:31 GMT 9
Tủ chè miền Bắc, tủ sách miền Nam Viên Linh Một người bạn ở Hà Nội từ 10 năm nay, mặc dù chưa từng gặp mặt, lại mới hối thúc tôi gửi cho anh những chữ ký của các nhà văn nhà thơ miền Nam mà anh tin rằng tôi có sẵn. “Em sưu tập sách miền Nam đã lâu, bây giờ em cần có chữ ký các tác giả của những cuốn sách trong ‘tủ sách miền Nam,’ của em. Anh ráng giúp em, khi nào anh trở lại kinh thành xưa, em sẽ làm thổ công đưa đi anh đi khắp các hang cùng ngõ hẻm.” Hình ảnh những cuốn sách cũ giá trị phần lớn là từ các ấn bản đầu tiên trước 1975. (Nguồn: Khởi Hành) Sách miền Nam, tác giả miền Nam, những chữ ấy đã được nói ra từ nhiều năm trước rồi, mới đây lại được nhắc đến khi một thanh niên ở Sài Gòn viết cho tôi qua điện thư: “Hồi xưa cháu mua sách Sài Gòn dễ, bây giờ khó lắm rồi, và mắc lắm.” Một bà bạn ở Annandale, chị Bell, mới viết cho tôi: “Tôi tin hiện giờ vẫn còn một số độc giả cần tìm lại những tác phẩm văn chương nghệ thuật của thời trước 1975. Về Sài Gòn là biết liền. Tiệm nào cũng giấu kỹ sách xuất bản trước 1975 và bán giá cao gấp 3, 4 lần sách xuất bản sau này.” Thư mới viết trong ngày 30 Tháng Tư, 2013. Một thanh niên 26 tuổi, Huy Vespa, chuyển lên trang báo nhà của anh những cuốn báo Tuổi Ngọc của Duyên Anh, những tác phẩm viết cho tuổi choai choai ngày xưa. Lúc 75 anh chưa ra đời, vậy mà bây giờ, anh say mê những cuốn báo thiếu nhi do một nhà văn hơn ba chục năm trước thực hiện. Anh còn xin tôi chuyển cho anh những bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Ðiều này có thể hiểu được, chừng như anh nghe thơ của Nhiên qua nhạc Phạm Duy, nên thích những hình ảnh “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” đó chăng? Hay anh thích những “con đường Duy Tân, cây dài bóng xế” của khu trường Luật, cũng qua nhạc Phạm Duy. Vì cùng với thư, anh gửi cho tôi “những phố Sài Gòn mà cháu mới chụp được, gửi bác xem để đỡ nhớ Sài Gòn.” Xem ảnh do Huy Vespa chụp, thấy một tâm hồn mơ mộng rất xưa: vài cành cây thưa làm cận ảnh cho một mái nhà thờ Vương cung Thánh đường, một hàng rào sắt phía trong che lại bằng một cái mành mành tre đan đã vàng cũ, một cái cột cổng sắt mũi nhọn với những vòng uốn hoa thị cân đối, nhìn ra một tâm hồn lãng mạn biết thưởng thức những nét đẹp cổ kính phương Tây. Tâm hồn ấy chưa chết ở một nơi ta vẫn đọc thấy qua báo chí một cuộc sống vật dục giành giật, một xã hội hắc ám và một guồng máy vô dụng bất nhân. Một hôm cậu thanh niên lãng mạn gửi cho tôi một nhận xét khác thường: “Ðộ này mua sách miền Nam khó quá bác ạ, chả là ở Hà Nội bây giờ, phòng khách nhà nào cũng phải có một tủ sách miền Nam thì nhà đó mới được coi là nhà sang; giống như hồi xưa phòng khách nhà sang phải có sập gụ tủ chè, thì bây giờ phải có một cái tủ sách miền Nam bác ạ. Cháu đi mỏi chân mà chỉ mua được một tờ báo cũ.” Cách đây khoảng 10 năm trên tờ Văn Học ở Quận Cam còn thấy Phan Cự Ðệ ở Hà Nội đăng lời kêu gọi các nhà văn hải ngoại gửi bài về tham dự chủ đề “Lý luận văn học thế kỷ hai mươi,” đại khái thế, người viết không còn nhớ nguyên văn. Có một hai bạn văn hỏi tôi nghĩ sao, nghe cách hỏi, tôi biết người văn hữu đó có ý muốn tham dự, nhưng ngần ngại, nên mới hỏi quanh nghe ngóng tình hình. Tôi bảo anh: “Tôi tưởng anh phải biết đối với các văn công Việt Cộng, thì chỉ có một thứ lý luận, ấy là lý luận Mác-xít. Anh nghĩ họ chấp nhận được các thứ lý luận khác hay sao? Nghe Việt Cộng nói là anh sẽ bị bịp, cách này hay cách khác.” Quả nhiên sau đó không còn nghe nói tới những vận động cuối mùa ấy. Nhưng khoảng 6 năm trước đây, tờ Văn Nghệ, diễn đàn chính thức của Hội Nhà Văn Việt Nam ở Hà Nội, gửi thư cho các nhà văn ở hải ngoại, trong có tôi, xin mỗi người hai truyện ngắn, dù là truyện cũ, một để đăng trên Văn Nghệ số Tết Âm Lịch; một để đăng trên Văn Nghệ số Xuân Dương Lịch. Họ nhấn mạnh chỉ mời khoảng năm sáu người thôi, nghĩa là hân hạnh lắm cho những ai được mời; và “đã có mấy người gửi bài rồi,” nghĩa là mau lên không thì hết chỗ. Người mời tôi là cô Minh Thu. Tôi không rõ cô có phải là một nhà văn có dinh cơ trong khu Ba Ðình không, (tương tự một Trung Nam Hải của Trung Cộng, nơi ở của các cán bộ cao cấp có đảng tịch), tôi đã trả lời, tôi sẽ có trả lời thuận tiện nếu trên bìa tờ Văn Nghệ bỏ đi cái tiêu đề “Vì Chủ nghĩa Xã hội.” [Tờ báo chính thức của Hội Nhà Văn Việt Nam từ mấy chục năm qua - nghe nói vừa đóng cửa - vẫn in mấy chữ này ở ngay trên bìa báo, và mấy nhà văn hải ngoại, hiện ở quanh Cali, Oregon và Paris, đã có bài đăng trên tờ Văn Nghệ này. Như thế, ngoài tám trăm hội viên hội nhà văn trong nước chỉ viết văn theo chủ nghĩa xã hội, còn có thêm bốn nhà văn hải ngoại cũng viết văn “vì chủ nghĩa xã hội.”] Nhân dịp trả lời họ, đã đăng trên tạp chí Khởi Hành, tôi có đề nghị Hội Nhà Văn Việt Nam hãy gửi thư tham dự Giải Guinness World Records, là giải quốc tế hàng năm vẫn trao giải cho “những cái nhất của thế giới,” (ví dụ con mèo dài nhất thế giới, nụ hôn dài nhất thế giới, bộ óc nhỏ nhất thế giới...) Nếu hội tranh giải “một hiệp hội đông nhất thế giới chỉ nghĩ bằng một cái đầu,” thế nào Hội Nhà Văn Việt Nam ở Hà Nội sẽ đoạt chức vô địch, nhưng chưa thấy họ nắm lấy cơ hội này. Tôi nghĩ tới hôm nay, cơ hội của họ vẫn còn đó. Sự việc thứ ba liên hệ tới sách miền Nam, tác giả miền Nam, là trong thời gian gần đây, hai nhà văn ở Quận Cam đã có sách in ở trong nước, chứng tỏ rằng sự chịu đựng của Hà Nội đã tới mức giới hạn. Họ phải in sách miền Nam, vì bỏ qua ngày nào, thất thu ngày ấy. Mà thu vào vốn là quốc sách. Vì thế, sách Võ Phiến đã xuất bản ở Việt Nam cách đây vài tháng, mặc dù cuốn sách in ra, ông đã phải dùng bút hiệu phụ là Tràng Thiên. Cuộc thử nghiệm chưa rõ kết quả ra sao. Năm ngoái, nhà văn Dương Nghiễm Mậu, một cây bút miền Nam hiện còn ở Sài Gòn, cũng đã có sách tái bản tại Việt Nam, nhưng bị cán bộ văn xuôi Vũ Hạnh viết bài lăng mạ thậm tệ. Ðại khái y viết sao lại “khai quật xác chết” làm gì, song họ Dương vốn có thói quen là nhắm mắt lắc đầu cười khì, thành ra không biết sự việc rồi ra sao. Có điều, sự chửi bới không ai không biết là do tị hiềm cá nhân, chứ bây giờ ai mà nói tới chủ trương đường lối làm gì cho xấu hổ? Người ta không còn chống văn nghệ miền Nam từ lâu rồi, người ta còn đề cao và sưu tập để tồn trữ hay trưng bày nữa. Trong khi ấy, lặng lẽ nhưng công khai, những ngôi nhà khang trang ở Hà Nội đã thay tủ chè chén sứ bằng tủ sách miền Nam, thì người ta vốn “tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại,” chứ còn đợi đến bao giờ mới cho trưng bày những tinh hoa mà cả nước đã sưu tầm, ca ngợi, và nghiên cứu, tìm hiểu. “Nhà sách Cảo Thơm ở đường Lý Thường Kiệt và đường Lê Duẩn, ngoài bán sách mới còn có mua và bán sách cũ. Mỗi tội sách cũ ở đây cũng... đắt. Là người kinh doanh sách nên chủ nhà sách sành sỏi trong thẩm định nội dung và chất lượng, độ quý, hiếm của mỗi đầu sách cũ để định giá bán. Nhiều đầu sách cũ ở đây bán đắt hơn sách mới là chuyện thường.” “Cả buổi chiều lăn lộn trong đống sách lớn như những đống rạ, mình mua được tổng cộng gần 3 bao tải lớn sách cũ có dấu của thư viện trường. Toàn những tác phẩm văn học kinh điển của Xô Viết cũ, của Pháp, Mỹ, Anh, Ba Lan. Và các tác phẩm một thời vang bóng của Việt Nam. In từ những thập niên 80 của thế kỷ trước.” “Ðiều mình bắt gặp thường xuyên, nhiều người cũng từng nói rồi, là ở nơi bìa lót những cuốn sách cũ có chữ ký và những lời đề tặng, lời chúc, dòng nhắn gửi của người tặng đến người được tặng nhân dịp như sinh nhật, mừng thành tích mới hay một lý do bất kỳ nào đó. Nhiều cuốn sách là tác giả sách ký tặng. Nhiều tác giả có tên tuổi, có chỗ đứng trong làng văn làng báo hay giới khoa học. Có khi cả người tặng và người được tặng đều nổi tiếng... Nhưng trong lòng khi vào các sạp sách cũ mình lại thấy hứng thú và tò mò với những cuốn sách như vậy. Nhiều khi mua một cuốn sách cũ không phải vì nội dung của cuốn sách mà vì chữ ký và những dòng nhắn gửi, lời chúc của tác giả nổi tiếng này cho một người cũng có tiếng khác.” (Từ Vỉa Hè Sách Cũ, Người Ðưa Tin)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 15, 2013 10:46:56 GMT 9
Người lính trẻ sư đoàn Sao Vàng này đã tỉnh ngộ hàng mấy chục năm trước những người phản tỉnh hiện nay: Trong cuốn “Mai Lĩnh Chiến” , tác giả Nguyễn Hùng Kiệt đăng lại bài thơ dưới đây của thiếu úy Nguyễn quốc Dũng thuộc sư đoản CSBV Sao Vàng – nguyên sinh Viên Đại Học Tổng hợp Hà Nội . Bài thơ này viết với ý định gửi cho người mẹ trước khi anh ta tử trận:
“Từ buổi con lên đường xa mẹ Theo anh em sang Lào, rồi dấn bước vào Trung Non xanh nước biếc chập chùng Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở Vì hoà bình đâu có ngại gian nguy Mấy tháng trời đêm nghỉ ngày đi Giày vệt gót, áo sờn vai sớm lạnh Rừng Trường sơn núi đồi hiu quạnh Mẹ hiền ơi con nhớ đến quê mình Khói lam chiều giàn mướp lá lên xanh. Con bướm nhỏ, mái đình xưa, Ôi nhớ quá. Và nơi đây trong cảnh người đất lạ Nhưng một màu xanh vẫn một quê hương. Vẫn bóng dừa xanh, vẫn một con đường Con trâu về chuồng tăng thêm gợi nhớ Đã qua rồi phút xa đầu bở ngỡ Con nhìn ra, nào có giải phóng gì đâu? Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu Mái chùa cong, buông hồi chuông tín mộ Lớp học tung tăng từng đàn trẻ nhỏ Đang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca và bên này luống cải vườn hoa Đàn bướm nhỏ bảo nhau về hút mật Sao người ta bắt con đốt xóm phá cầu Phải gài mìn gây thương tác, thương đau Khi gài mìn đôi tay con run rẫy Rồi sau đó con thấy xác người trong máu đỏ chan hoà Máu của ai?Máu của đồng bào ta, của những người như mẹ Đêm hôm ấy mắt còn trào lệ. Ác mộng về trằn trọc thâu canh…”
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:05:08 GMT 9
Vũ Bằng (1913 -1984) Vương Trùng Dương "Nếu một ngày kia, Trời xử phiên án cuối cùng, hỏi tôi nếu trở lại làm người thì sẽ làm gì... Nếu trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo" Vũ Bằng  Vũ Bằng tên thật Vũ Đăng Bằng, sinh ngày 03-6-1913 tại Hà Nội. Thân phụ ông là chủ nhân nhà sách Quảng Thịnh, phố Hàng Gai, Hà Nội. Ông theo học Trường Albert Sarraut, tốt nghiệp Tú Tài Pháp. Ông không thích tiếp tục con đường học vấn và làm công chức mà dấn thân vào nghiệp cầm bút. Ngoài ra, ông còn ký với các bút hiệu: Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm, Vũ Tường Khanh... Năm 1931, ông khởi sự sáng tác tập văn trào phúng Lọ Văn. Sinh hoạt trong văn giới và báo giới, bản tính phóng túng, thích ăn chơi, thuốc phiện "Tôi hút. Tôi uống rượu và tôi chơi... bợm" (Bốn Mươi Năm Nói Láo) nhưng vài năm sau ông tự chủ được bản thân nên ly dị được với "nàng tiên nâu"; ông viết tác phẩm Cai, hồi ký ghi lại quãng đời của ông từ con nghiện, dụ dỗ tình nhân trở thành con nghiện cho dến khi tan vỡ cuộc tình, vào bệnh viện mới dứt bỏ. Trong lãnh vực báo chí, ngay từ thời trai trẻ ông đã cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội trong thập niên 30, 40... Chủ Bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Thư Ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật... cho đến khi tên tuổi của ông quen thuộc trong làng báo, nhiều tờ, nhiều mục đều có Vũ Bằng. "Viết báo, viết báo, thầu báo cai đầu dài ba bốn tờ một lúc. Anh viết đủ thứ, từ thượng vàng hạ cám, từ cái hộp thư, cái tin vặt, cái vui cười, cái biết ai tâm sự đến truyện ngắn, truyện dài đăng từng kỳ" (Tô Hoài). Trong tác phẩm Văn Học Miền Nam, Võ Phiến đề cập đến tài năng làm báo của ông: "Vũ Bằng có lúc tay nầy một tờ báo của Vũ Đình Long, tay kia một tờ khác của Nguyễn Doãn Vượng; có lúc một mình trông nôm cả ba tờ báo ở Sài Gòn (Đồng Nai, Sài Gòn Mai và Tiếng Dân; lại có lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm Tổng Thư Ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác với người thứ ba làm báo Vit Vịt...". Ông dấn thân vào nghiệp báo vời nỗi đam mê, song song với nhiều thể loại đóng góp trên tờ báo, ông sáng tác đều đặn nhiều tác phẩm. Trong tác phẩm Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan: "Tập tiểu thuyết đầu tay của Vũ Bằng là Một Mình Trong Đêm Tối (in tại Trung Bắc Tân Văn - Hà Nội, 1937), kế đến tập Truyện Hai Người (Tân Dân - Hà Nội, 1940), Tội Ác Và Hối Hận (Phổ Thông bán nguyệt san, số 66 ngày 1-9-1940, Để Cho Chàng Khỏi Khổ (Phổ Thông BNS, số 78 Ngày 1-3-1941)". Vào Nam năm 1954, ông làm việc tại Việt Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Ông chuyên về dịch thuật nhiều hơn sáng tác. Đặc biết với "cái ăn" ông viết rất tuyệt vời, thưởng ngoạn món ăn như cảm nhận được thi vị của cuộc sống. Về tình duyên, năm 1935, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ, người Thuận Thành, Bắc Ninh. Bà Quỳ lớn hơn ông 7 tuổi và đã có một đời chồng nhưng vợ chồng bất hòa nên khi gặp Vũ Bằng, bà ly dị để lập lại cuộc tình. Hai người có được người con trai là Vũ Hoàng Tuấn. Năm 1954, ông vào Nam, để lại vợ con ở Hà Nội, năm 1967, bà Quỳ qua đời. Trong tác phẩm Thương Nhớ Mười Hai, ông viết về hình ảnh người vợ bên kia vỹ tuyến, khởi sự từ tháng Giêng 1960, ròng rã mười hai năm mới hoàn thành vào năm 1971. Ở Sài Gòn, ông lập gia đình với người phụ việc, bà Phấn, nhỏ hơn ông 15 tuổi, hai người có được 6 đứa con. Ông mất ngày 07-4-1984. _____________ Tác phẩm đã xuất bản: Một Mình Trong Đêm Tối (Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội Chuyển) - Hai Người (Tân Dân, Hà Nội 1940) - Ba Truyện Mổ Bụng (Tân Dân, Hà Nội, 1941) - Cai (Tân Dân, Hà Nội 1943) - Bèo Nước ( Thăng Long, Hà Nội 1944)... Ăn Tết Thủy Tiên (1954) - Khảo Luận Về Tiểu Thuyết (1955) - Miếng Ngon Hà Nội (1957) - Bốn Mươi Năm Nói Láo (1969) - Món Lạ Miền Nam (1970) - Cái Đèn Lồng (1971) - Nhà Văn Lắm Chuyện (1971) - Những Cây Cười Tiền Chiến (1971) - Nói Có Sách (1971) - Thương Nhớ Mười Hai (1972)... Vương Trùng Dương Giai thoại và sự thật Viên Linh Trong văn nghệ có nhiều giai thoại, mà giai thoại là những chuyện đẹp, (giai là đẹp, như trong hai chữ giai nhân, giai phẩm). Người có nhiều giai thoại đáng kể là nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, có lẽ vì ông là thổ công Sài Gòn, ngày ngày đi từ phố báo tới phố văn, gặp nhiều, quen nhiều, và cứ gặp là kéo nhau vào quán chuyện trò.  Kịch sĩ Kim Cương tại tang lễ Bùi Giáng, Chủ Nhật, 11 Tháng Mười, 1998, tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức. (Hình: Khởi Hành) Trần Tuấn Kiệt không làm một nghề gì phải ngồi trong văn phòng nhiều giờ, cho nên nếu có làm báo nào, thì giờ làm việc của ông phần lớn cũng là nói chuyện với các văn nghệ sĩ, rồi viết ra những cuộc nói chuyện ấy. Nhưng kể lại, đúng hay sai, lại là chuyện khác. Nhiều khi kể cho vui; hay nói như một câu thơ của Vương Ngư Dương: “Nói láo mà chơi, kể láo chơi...” [Ðúng ra: Nói láo mà chơi, nghe láo chơi.] Cách đây bẩy tám năm, Trần Tuấn Kiệt nhân viết một bài về nhà thơ Hoàng Trúc Ly, đã kể ra nhiều chuyện rất thú vị. Trong trí nhớ của tôi, Hoàng Trúc Ly cũng không làm một việc gì phải ngồi văn phòng 6, 7 tiếng một ngày, nên nếu hai người này rủ nhau đi nhậu, thì họ có thể nhậu hết quán này qua quán khác, từ sáng tới chiều, cho nên giai thoại họ kể họ nghe với nhau hẳn là nhiều lắm. Trong bài vừa nói, Trần Tuấn Kiệt rào trước đón sau: “Thật sự đã từ lâu lắm rồi, tôi quên bẵng nhiều điều, nhiều người bạn thân, thỉnh thoảng nghe ai nhắc đến tên người đó, tôi chợt nhớ ra mang máng mơ hồ, y như là một giấc mộng, hình ảnh, giọng nói mơ mơ ngang ngang dường như chẳng có một quan điểm, một thái độ nào bộc lộ ra đối với lịch sử hay cuộc đời... tôi nhớ về Hoàng Trúc Ly như thế đó.” Câu mở đầu như thế là bảo đảm rồi. Người nghe tin hay không tin là chuyện của người nghe, còn người nói cứ nói thôi: “Nhớ lúc 'cải tạo' về, tôi quên cả con đường đi về nhà, và cứ đi luôn về hướng khác và cũng không cần thiết phải về sau gần mười năm ‘tù cải tạo’, vì chuyện bá láp không đâu. Một hai ngày sau tôi nhớ tôi ghé nhà H. [người chép lại xin viết tắt] xin một bộ đồ để mặc... thật sự là để bán lấy chút tiền uống café, còn đi đâu ở thành phố tôi chỉ mặc bộ đồ 'cải tạo' ấy cho đến khi mục rã ra... Tôi ghé H. vì trước đây cậu ta hay đến nằm lại nhà tôi gần chợ Vườn Chuối. Tình nghĩa anh em xưa mà! Bấy giờ thì tôi thấy hơi là lạ. Gặp H. tôi lại nhớ tới Phạm Công Thiện, bây giờ Thiện ở Mỹ. Qua Phạm Công Thiện tôi lại nhớ tới Hoàng Trúc Ly và Tam Ích. Tôi cũng quên rằng trước đây lúc làm báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, gặp thường hai người này. Tôi cũng mơ hồ không biết Thiện nói nhiều về Hoàng Trúc Ly, hay ngược lại... Còn Hoàng Trúc Ly thì viết như thế này, tôi chỉ ghi mấy vần thơ trong ký ức thôi. Còn tập thơ Hoàng Trúc Ly đã chung số phận với các tác phẩm Văn Học Miền Nam, bị nấu cháo cả rồi.” Thơ rằng: Những người xưa đi rồi không về nữa Một mình anh lại gặp một mình em Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm Em cúi mặt mắt buồn ươn ướt đỏ Nhà anh nghèo anh đau tim anh yếu phổi Ðời lạnh lùng bốn hướng gió và mưa Ta lạc nhau từ em còn bé nhỏ Anh thương em câm nín đến bao giờ. Bởi vì đâu da em xanh giá rét Nắng rưng vàng lên mái tóc mồ côi Ngày giặc giã quê hương mình mỏi mệt Mười năm qua hình ảnh có ngậm ngùi Nhà anh nghèo anh đau tim anh yếu phổi Em bềnh bồng anh phiêu lãng về đâu Không dĩ vãng cho đêm dài đợi sáng Không mai sau cho nước chảy qua cầu Em bảo anh người đi không trở lại Nấm mồ ai như giọt lệ chưa tan Ngọn gió nào mang anh vào mộng mị Em giang hồ làm tiếng hát lang thang Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời Anh nhớ em: núi cao càng hiu hắt Anh thương em, máu vọt bốn phương trời. [VL: TTK nhớ sai nhiều chữ, tôi chép lại từ sách theo bản in đầu] “Nhắc tới Hoàng Trúc Ly tôi nhớ lại Tam Ích, người thầy dạy tôi làm thơ và Pháp Văn ở trường Tân Thanh cũ, xóm Bàn Cờ.” Ðại khái thế, cứ từ người này thi sĩ nhớ tới người kia, nhớ cho tới khi nào đủ... 5 trang giấy thì thôi! Nhưng như thế không phải là dở. Như thế mà lại hay, vì rồi tự dưng có chuyện thú vị xảy ra. Các giai thoại kế tiếp là chuyện Hồ Hữu Tường diễu cộng sản. (“Cộng sản chủ trương Tiến Hóa theo thuyết Darwin, nhưng không chấp nhận các học thuyết khác, như thế là phản tiến hóa. Nói như thế chắc linh hồn ông Karl Marx sẽ mỉm cười! Nhưng ông Karl Marx đâu có linh hồn, thì chúng ta cười thay ông vậy.”) Tới khi giai thoại bắt qua Bùi Giáng thì Trần Tuấn Kiệt cho biết một chi tiết rất hay. Với tôi sách Hồ Hữu Tường viết cũng như Bùi Giáng, cả hai đều là hai cây triết gia đại thụ cả, tôi lên Ngã Bẩy, thấy Bùi Giáng tả tơi vác cái lồng sắt, có mấy con chồn đi bán, ông nói bán được lắm. Sau này không thấy ông bán chồn nữa mà thấy ông gầm gừ, nạt nộ xe qua đường. Thiên hạ bảo ông điên, gặp ông tôi kéo ông vào quán café, gần Ngã Bẩy cùng uống café hỏi thăm sức khỏe ông và hỏi: “Ông thấy tư tưởng Martin Heidegger bây giờ thế nào?” Bùi Giáng nói: “Ðương thời mình viết còn không hiểu, bây giờ thì làm thế nào mà hiểu được!” Rồi ông vừa nói với tôi vừa cười hề hề: “Mấy câu mình viết cho Kim Cương đó... là nói về 'Kinh Kim Cương' chứ không phải cô Kim Cương đâu.” Câu văn này thật là quan trọng. Lâu nay giai thoại văn nghệ thường nhắc tới những mối tình một chiều, mà “mối tình một chiều nào cũng đều đẹp cả.” Tây gọi là tình yêu lý tưởng (l'Amour platonique), như Hoàng Trúc Ly chiêm ngưỡng Thanh Thúy hay Bùi Giáng chiêm ngưỡng Kim Cương. Nếu Trần Tuấn Kiệt viết đúng, nghĩa là Bùi Giáng quả có nói thế, thì làm sao kiều nữ Kim Cương lại tới đưa đám thi sĩ “Mưa Nguồn”? Có một sự hiểu lầm đẹp, nên cho hiểu lầm luôn? Hay Bùi Giáng quả có yêu Kim Cương, không mong gì hơn là nàng tới đái lên mộ mình? Nhiều giai thoại chẳng thể tìm hiểu, vì nếu giai thoại là chuyện đẹp, chúng ta cũng nên có càng nhiều chuyện đẹp càng hay. Yêu nhau nhiều lúc cũng liều Hào quang phụ nữ diễm kiều mà ra Tại người đâu phải tại ta? Tại người như thế thành ra điên rồ. (Bùi Giáng, Tình Yêu, Như Sương, tr.61)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:08:46 GMT 9
BÌNH NGUYÊN LỘC - Tùy bút, thơ
Thu Tứ
Tùy bút - Âm thanh bí mật - Câu dầm - Những hàng me Sài Gòn - Quà đêm trên sông Ông Lãnh - Lập đông ở miền Đông - Hồn ma cũ - Mưa thu nhớ tằm Thơ - Thơ Ba Mén - Dâng má thương *
Bình Nguyên Lộc mà tùy bút, thơ? Tưởng ông chỉ chuyên tìm hiểu nguồn gốc người Việt với "lột trần" tiếng Việt với viết truyện ngắn truyện dài thôi chứ?...
Thì đúng vậy. Quả nhiên Bình Nguyên Lộc không chuyên về, nghĩa là viết rất ít, tùy bút. Ngay trong số bảy bài chọn đây, thì đã có bài thực ra là trích đoạn từ một truyện ngắn. Ông lại càng ít khi thơ hơn nữa.
Chợt nghĩ, Bình Nguyên Lộc đã bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ để nghiên cứu những đề tài hóc búa và để hư cấu vô số truyện éo le, mà đã dành quá ít thì giờ cho việc "diễn" chính tâm hồn mình. Như ta có thể thấy qua số bài tùy bút, thơ ít ỏi, đó là một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm...
Chẳng những có nhiều cảm xúc tinh, Bình Nguyên Lộc còn có năng khiếu khiến được chúng hiện ra thành lời gợi cảm, với nét duyên riêng trên dáng chung Nam bộ.
Hình như chính Bình Nguyên Lộc cũng ưng ý loại văn này của mình và muốn viết nhiều hơn nhưng hoàn cảnh không cho phép. Tiếc cho ông, cho cảnh này chuyện nọ vật kia, và cho người đọc...
Sau đây là chút "của tin".
Âm thanh bí mật
"Đậu này nó nóng như Trương Phi, Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"...
Ngâm sĩ mù có phải là một người Bắc? Giá ngoài bài đậu "Phi, pháo", thỉnh thoảng hát xẩm cho bà con cô bác nghe chùa.(1)
Năm 2013 không biết nhạc bột khoai có còn nấn ná, chớ hát ru em thì về vườn lâu lắm rồi.
Gần sáu thập kỷ trước, "ký giả" ngồi giữa "hòn ngọc Viễn Đông" nghe tiếng "chim vịt kêu thương" mà "bâng khuâng". Bây giờ, đọc lại Âm Thanh Bí Mật, có độc giả nào cũng chợt nghe bâng khuâng?...
----
Sáng sáng sau trận phát thanh xôi giò, bánh bèo, bắp nấu thì một giọng ngâm thơ trong trẻo nổi lên trong các xóm. Mới nghe người ta ngỡ ai mở ra-dô đâu đó vì giọng ngâm hay hơn cả giọng ngâm của các ngâm sĩ quen biết.
Ca sĩ vô hình ngâm lục bát như vầy:
"Đậu này nó nóng như Trương Phi, Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"
Thì ra đó là chị mù bán đậu rang, còn quờ quạng ngoài đầu ngỏ. Trước kia chị nầy đi hành khất. Từ ngày có lời khuyên răn của cảnh sát, chị ta đổi nghề. Cảm động thay!
Đó là một nghệ sĩ có tài mà không tự biết, người nghe cứ tiếc sao mình không có một cái máy ghi âm để thâu lấy giọng rao hàng ngâm thơ của chị.
Chiều lại, một số hành khất chưa chịu "hoàn lương" hiến cho ta những phút trở về quê cũ và thời xưa não nuột khiến cho ta rưng rưng nước mắt, nhớ lại thời thơ ấu nào.
Tiếng "kêu cơm" của họ, nhứt là vào những ngày sóc ngày vọng, đánh thức tỉnh trong lòng ta cả một dĩ vãng xa xôi: một con đường mòn uốn éo qua làng, một bà lão xách bị than van trong chiều tà:
"Ớ... ơ bớ cơm, bớ gạo, làm doan, làm phước bố thí cho kẻ bần hàn..."
Sài Gòn bỗng chết mất đi và thôn dã hiện lên với tất cả thi vị và đói rét của nó.
Đèn đường đã bừng cháy. Trời nóng bức khiến ai cũng thèm cái gì ươn ướt mà ngòn ngọt. Vừa lúc ấy thì một thứ âm thanh huyền ảo khác nổi lên.
"Ai... bột khoai bún tàu... đậu xanh nước dừa đường cát hôn..."
Tiếng "cát" lên cao vút như đầu ngọn thông rồi hạ xuống tiếng "hôn" nó cứ mõn lần trong đêm tối như là giọng thỏ thẻ của một giai nhân (...)"</i> (1957)
Câu dầm
Câu dầm theo lối "của tôi", tuy cũng có xách theo tới "vài chục cần" nhưng không nhằm câu con cá nào hết, mà nhằm "hứng lấy những hột mưa nhọn hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay", nhằm được "bơ vơ trong bóng tối" mà "thèm thuồng một ngọn đèn xa", được "rùng rợn vì tiếng vạc não nùng" v.v. Hứng mưa, đón gió, thèm đèn, rợn người vì tiếng vạc, kế đến gặp được ông Ba Sa, bữa câu đó coi như toại nguyện!
----
Tôi ưa đi câu, không phải để được cá bởi vì tôi nặng bóng vía lắm:
"Cá không ăn câu, mồ cha con cá dại Cần câu anh cầm, nghĩ lại con cá khôn."
Cũng không phải theo dấu của ông già sông Vị đợi chờ chúa Thánh rước về làm tướng Tây Kỳ.
Đi câu, đối với tôi là những giờ mà lòng được nhẹ bổng không buồn, không vui, lâng lâng như đã thoát trần. Đi câu là những giờ rình một tăm cá hay lơ đãng ngó theo bóng chim thằng chài xẹt mau như sao băng, hoặc xem "từng mây lơ lửng trời xanh ngắt". Đó là những phút hồi hộp nhìn cái phao chìm lần... chìm lần, nghe đầu cần câu nặng nặng. Rồi... roạch một cái, con cá gì đó đã sứt mép còn lưỡi câu thì góa mồi, mồ hôi ngư ông nhỏ giọt... Đi câu là xem những con sông, ngọn rạch, tựa hồ như những con đường biết đi, mang theo hình ảnh của cả một sự sống, một cuộc đời hiếu động. Đi câu là vớt những trái tràm, những bụi cây rù rì trôi từ trên nguồn về để nghe nó kể lể chuyện rừng xanh.
Tôi lại thích đi câu dầm. Vì vậy mỗi lần về quê, tôi về vào mùa mưa để đi câu dầm, tìm lại những cảm giác đã sống qua ngày nào.
Phải nói cho các bạn nghe câu dầm là làm sao chớ. Có gì đâu: vài chục cần câu tre ngắn, đâu cần uốn cong như cây cung, đuôi cần vạt nhọn, nhợ câu ngắn hơn cần một chút, lưỡi thép hơi to.
Ở làng tôi người ta gọi đó là câu cắm, là vì cần câu được cắm dài theo bờ ruộng, có người lại kêu là câu bủa, vì cần nhiều, bủa khắp đồng ruộng. Còn câu dầm của họ thì lại là một cách khác nữa.
Nhưng tôi có cần gì nói trúng một tiếng nhà nghề của địa phương đâu. Câu dầm của tôi là một cuộc đi câu ban đêm, những đêm mưa dầm, phải dầm mưa mà câu.
Ở đây, câu, đối với tôi cũng không phải là bắt cá bằng cần. Đi câu dầm là hứng lấy những hột mưa nhọn hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay để được tận hưởng trong tưởng tượng cái cảnh ấm êm, chăn gối nệm bông.
Bơ vơ trong bóng tối, thèm thuồng một ngọn đèn xa... Lắng nghe sự sống bí mật, âm thầm của côn trùng trong cỏ, trong lau... Rùng rợn vì tiếng vạc não nùng như tiếng một cô hồn đau khổ, và tiếng thì thầm của đêm tối, tiếng gió vi vu...
Đó là những thú lạ thường mà người kỳ khôi hay tìm kiếm. Nhưng điều nầy thích hơn hết, là đi câu dầm thế nào cũng gặp ông Ba Sa.
*
Ông Ba Sa là một người thuộc về âm. Ban ngày không ai thấy ông đâu hết, trừ khi ông giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đình. Những lúc hội họp xóm làng như vậy, ông ít nói chuyện với ai, không hiểu vì thói quen sống cô độc, hay vì lẽ gì khác.
Như một con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ đèn để đi câu dầm, về mùa mưa. Còn trong những tháng nắng ruộng khô không biết ông làm gì.
Đêm nào tôi cũng thấy ngọn đèn ông Ba leo lét đằng xa. Một khi kia nghe mình hiu quạnh cô đơn quá, cần phải nói với ai một điều gì, hay ít ra cũng cần sự có mặt một "hơi" người bên cạnh, tôi mò lần lại cái đóm đỏ, ẩn hiện như đèn ma đằng kia.
Ông Ba cũng không tìm cách trốn tránh gì tôi, song cái miệng làm thinh của ông thì không ai cạy nổi.
Nhưng tôi đã có những chiếc đũa phép, một điếu thuốc mời, rồi hai điếu, rồi ba, rồi không còn biết là mấy điếu nữa. Trong những lúc như vậy mới biết hút thuốc điếu là sướng.
Cái sức nóng nhỏ mọn của điếu thuốc như thấm nhuần khắp châu thân, nghe như đỡ lạnh mình và lạnh lòng.
Khói thuốc xui người khép nép nhứt cũng phải cởi mở lòng. Lời qua, tiếng lại, ban đầu còn cụt ngủn, xẳng lè lần lần thân mật, có bao nhiêu trút rót ra không tiếc.
Một tiếng sét đằng xa vọng lại, tức thì ông Ba có chuyện Thiên Lôi, chuyện lưỡi tầm sét để nói cho tôi nghe liền.
Ông Ba biết rất nhiều chuyện yêu ma, và ở đây, hoàn cảnh rất thích hợp để gợi sự hãi hùng, rùng rợn (...)
Những hàng me Sài Gòn
Bình Nguyên Lộc lang thang trên những vỉa hè Sài Gòn cách nay mới sơ sơ... ngót sáu chục năm. Người lang thang đi rồi, nhưng vỉa hè còn ở lại, me cũng còn ở lại tuy phong độ so với trước chắc suy nhiều...
BNL ngó me, vừa vì mến me vừa do có ý muốn theo dõi "cô Mùa". Tuồng như sợ nỗi nhớ mùa nọ mùa kia của mình chưa đủ dông dài, nhân thấy me ngủ chiều, ông bèn nhớ luôn tuốt về thời tiền sử!
Những hàng me Sài Gòn bây giờ có bao nhiêu gốc đủ già để biết người xưa?
----
Me! Cái tên mới thô lỗ làm sao chớ! Nó không được tầm thường như mận, bưởi, cau, mà cục mịch như ổi, xoài, măng cụt.
Nhưng nếu có những cô Thùy Dương, Yến Tuyết không đẹp bằng những chị Mén, chị Vầu, thì cũng có những cây anh đào, thanh tùng không đẹp bằng me, bằng me Sài Gòn.
Me vốn đã đẹp với thân cây đều đặn, không cao lỏng khỏng như dầu, không lùn tịt như sanh, đẹp với vỏ cây cằn cỗi gợi nhớ những cội tùng già bên chùa cổ trên một sườn non, với rêu xanh non mởn bám trên vỏ sậm đen, đẹp như non bộ dày sương dạn gió, với tàn không thưa, không xơ rơ như tàn sầu riêng, không dày mịt như măng cụt, vốn nó đã đẹp ở ngoài thiên nhiên rồi, mà trồng trên vỉa hè đá, bên cạnh những ngôi nhà xi-măng cốt sắt, khô, nóng và buồn, thì nó còn đẹp hơn biết bao!
Ôi, những hàng me Chợ Cũ, những hàng me phố Gia Long, những hàng me phố Tản Đà giao nhành rợp bóng, những hàng me bầu bạn của người đi bộ về trưa, những hàng me tò mò dòm vào các cửa sổ tư gia, gởi vào đó những lá nhỏ li ti trên tóc cô gái bé, những hàng me tàn xanh sậm quyến luyến những tiếng dương cầm của ai trong vài cửa sổ vọng ra...
Ôi, những hàng me chứa chấp cô Mùa, một cô gái quê ít dám léo hánh đến thành phố. Chính trên mớ tóc xanh biến màu theo thời tiết của ngươi mà những khách yêu thiên nhiên tìm dấu chân Mùa hằng năm len lén đến vài lần nơi thành phố.
Lòng sầu xứ quê của những kẻ lạc loài vào đô thị Sài Gòn được dịu đi vài phần khi nhìn những hàng me Nguyễn Du và Hồng Thập Tự ngả màu rồi lại thắm màu.
Những ngày mà toàn thân me đều khoác áo màu đọt chuối non, là những ngày người mến thiên nhiên nghe tiếng hát của Mùa, là những ngày họ hồi hộp rình Mùa, hồi hộp lắng nghe bước chân Mùa trên xi-măng của thành phố.
Ôi, những cây me ngủ chiều, gợi nhớ sự nghỉ ngơi của đồng áng, gợi nhớ những nỗi buồn tiền sử của loài người, khi chiều xuống họ hãi hùng nhìn cây ngủ, chim về, mặt trời chun xuống thiên nhai không biết ngày mai sẽ trở lại hay không...
A... ha, những cây me vui, những cây me rắn mắc, thỉnh thoảng, sau một trận mưa, lại đánh rơi xuống áo đẹp của ai những hột nước làm cho ai nhăn mày...
Tôi thương Sài Gòn vì những hàng me. (1952)
Quà đêm trên sông Ông Lãnh
Vậy là "gã Bình Nguyên Lộc" còn ưa "lang thang" dưới sông nữa, chớ đâu phải chỉ trên "hè phố". Nhờ "gã" chịu khó đi rồi chịu khó ghi, mà nay ta mới được thấy chút ít hình ảnh của con sông Ông Lãnh, tức con kinh Tàu Hũ, tức con lạch Bến Nghé, một thời...
Món bánh canh cá rô, "hay tệ lắm (...) cá lóc", không biết có còn nhiều người thích ăn?
"Con đò Thủ Thiêm"...
Khách chạy xe dưới đáy sông Sài Gòn bây giờ có biết chăng xưa kia, trên mặt nước trên đầu mình, đêm đêm một "cô bé (...) có tấm thân uốn éo như dòng sông uốn khúc" đã chèo qua chèo lại rao bán "bắp non"?...
----
Nếu ban ngày con sông Ông Lãnh rộn rịp sanh hoạt với những ghe thương hồ chở khẩm lừ trái cây và các thứ hàng hóa khác, thì về đêm, một sự sống âm thầm nhưng không kém linh động, nổi lên trong khi người ta ngỡ con rạch ngủ yên.
Ở đây không có xe hơi, không có ra-đi-ô, không có trẻ nô đùa, nên những tiếng bí mật của đêm trường mang rõ linh hồn của nó, âm thanh có sự sống đã đành mà cho đến tiếng động, lắm khi cũng thành nhạc.
Một chiếc xuồng tam bản, chuồi êm rơ trên mặt nước, một mái chèo khua nhẹ trên dòng kinh, một đèn dầu leo lét soi mờ bóng một cô chèo xuồng, rồi từ tất cả các thứ ấy, vẳng lên: "Ai... chè đậu... cháo cá... hông?".
Bất giác ta bị đẩy lùi về thế kỷ trước và câu ca dao:
"Bắp non mà nướng lửa lò Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm"
như được một người bình dân nào bập bẹ cho nó thành hình, chập chững lần dò, bỏ một tiếng, thêm một lời, để tỏ tình gián tiếp với cô bé chèo thuyền có tấm thân uốn éo như dòng sông uốn khúc.
Khách hàng dưới sông phần lớn là dân quê, những trạo phu của ghe thương hồ. Vì thế quà ở đây cũng nấu theo lối quê, thật thà nhưng đậm hương vị. Cháo cá ngọt cái chất ngọt của cá đen ở đồng chớ không phải ngọt ngay nhờ bột ngọt hóa học như cháo trên bờ. Mùi thơm của chè đậu trắng gợi nhớ mùa chè cúng đưa ông Táo ngày hăm ba Tết ở làng xa.
Lối bán hỗn hợp hai thứ quà mặn ngọt này cũng là theo truyền thống nhà quê. Trên phố, người ta bán cháo cá vào giấc sáng, thỉnh thoảng về đêm; chè đậu luôn luôn bán buổi trưa từ 11 giờ đến hai giờ.
Quà trên sông Ông Lãnh luôn luôn nóng hổi, vì bếp lửa khỏi phải gánh nặng nề, nên các nồi quà được nằm mãi trên cà-ràng cho đến khi vơi tới đáy.
Ai đã ăn món xu xoa mật đường hạ trên kinh Tàu Hủ vào mùa nực chưa? Đường hạ đen sản xuất ở Biên Hòa tiết ra một mùi thơm đặc biệt mà đường cát trắng không có được. Khi thứ đường hạ ấy được nấu thành mật để ăn bánh đúc hoặc ăn tàu hủ (óc đậu), xu xoa, thì hương vị của nó càng đậm đà hơn.
Ta cứ nghe như là phảng phất đâu đây mùi đồng áng, mùi lò đường tiểu công nghệ với những đêm dài nổi lửa đốt lò, với tiếng rít ghê rợn của các "ông che" (...)
"Kẹo đậu phộng trà Huế hông?". Ông già rụng răng nầy rao nghe còn dở hơn chú Khách trên. Nhưng người ta cứ mong lão tới.
Họ thích xem lão đưa cao ấm nước trà đang sôi lên, rót trà xuống một tô nước lạnh, lão rót thế nào mà bọt dâng lên còn nhiều hơn là bọt bia, không khát nước, trông thấy cũng cứ thèm.
Thích nhứt là xem lão ta uống, không biết bao tử lão là bao lớn mà hễ khách quen thách uống là lão tự pha cho lão, không phải một tô thường, mà một tô con rồng, thứ tô sứ giả sản xuất ở Lái Thiêu cách đây bốn mươi năm mà ngày nay ít gia đình nào còn giữ được.
Tô ấy to bằng năm tô thường. Lão ta uống một hơi, không nghỉ để thở lần nào cả. Những người biết lão nhiều, kể rằng lão có tài ăn năm mươi chiếc bánh trôi nước có nhân, rồi uống liên tiếp hai tô nước như vậy.
"Kẹo đậu phộng trà Huế hông?". Câu hát không hay ho gì nhưng nghe yêu đời lắm, vì do miệng một kẻ yêu đời hát lên, kẻ ấy đã ngót bảy mươi rồi và chắc không con cháu, nhưng chưa hề ai thấy lão than thở một lần, đêm đêm quạt lò trà xành xạch để sống những ngày nhàn như thời Sài Gòn chưa thấy xe hơi, những ngày một miếng kẹo, một tô trà Huế đậm và một miếng trầu, cả ba thứ được bán chung lại với một giá kinh khủng là... một xu.
Lập đông ở miền Đông
"Anh Chín cất cái chòi này giống như khoét một lỗ trong rừng. Chung quanh nhà anh, thảo mộc xanh mịt đứng sững lên như thành giếng đóng rêu. Nhà anh Chín giống như nằm dưới đáy giếng, chỉ thấy một mảnh trời tròn, nhỏ. Gió bấc lướt trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh.
Cái buồn chiều hôm, cái buồn một ngày mưa, cái buồn đêm vắng cũng nghe không khó chịu bằng nỗi buồn nhìn cây lá xơ rơ trong gió. Nghe như là một cuộc tang thương đã qua đó, và cái gì cũng đã hết, đã chết, hoàn toàn trống rỗng từ ngoài vào đến bên trong."
Cảm giác, cảm xúc độc đáo. Cái "nghe" ở đây ngộ "từ ngoài vào đến bên trong"!
----
Mặt trời mãi không thấy đâu hết từ sớm đến giờ. Mây trắng đục phủ cả vòm trời và hối hả từ phía rừng sâu bay về đâu không biết. Những hột mưa nhỏ xíu khi nhặt khi thưa cứ rơi mãi xuống mặt đất lầy nhầy. Thỉnh thoảng những sợi nước nhuyễn ấy bị gió từng cơn thổi tạt, khi thì xiên qua, khi thì xiên lại giống như những sợi chỉ treo vật gì, đánh đòng đưa trước gió. Có khi gặp phải hai luồng gió ngược nhau, những sợi mưa ấy tréo lộn với nhau như tre đan. Có khi hột nước mịn quá và rơi nhặt quá, bị gió cuốn, bay như khói.
Gió nhẹ, mưa sương, nhưng anh Chín nghe cái lạnh thấm tới đáy lòng anh. Nhưng anh không ngạc nhiên vì thời tiết. Đã ba ngày rồi trời vẫn thế. Năm nào, vào độ này trời cũng âm u, vần vũ ba bốn ngày, rồi mưa dứt hẳn, cùng với gió bấc trên rừng về, và mùa nắng bắt đầu thiêu đốt vạn vật cho đến mùa mưa tới. Anh Chín nhớ rằng hồi ở dưới làng người ta gọi cảnh thê lương này là "trời lập đông".
Vậy hôm nay là ngày thứ ba trong những ngày lập đông ủ dột.
Những đám mây thừa trong lục địa bị đuổi xua ra biển cả, như còn tiếc sứ mạng chưa tròn, đánh rơi mãi những giọt lệ giã từ buồn như mưa Ngâu.
Anh Chín cất cái chòi này giống như khoét một lỗ trong rừng. Chung quanh nhà anh, thảo mộc xanh mịt đứng sững lên như thành giếng đóng rêu. Nhà anh Chín giống như nằm dưới đáy giếng, chỉ thấy một mảnh trời tròn, nhỏ. Gió bấc lướt trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh.
Cái buồn chiều hôm, cái buồn một ngày mưa, cái buồn đêm vắng cũng nghe không khó chịu bằng nỗi buồn nhìn cây lá xơ rơ trong gió. Nghe như là một cuộc tang thương đã qua đó, và cái gì cũng đã hết, đã chết, hoàn toàn trống rỗng từ ngoài vào đến bên trong (...)
Hai cặp trâu cổ, nhốt chung trong chòi, phía sau, bỗng rống lên, những tiếng dài chết lần theo với tiếng gió hú trong cây. Đàng xa thác nước Hàn Dài và Hàn Ông Sâm giận dữ đổ ào ào nghe như mưa nguồn gầm trong cây lá. Tùy theo chiều gió, tiếng thác khi thì xáp lại gần như muôn binh tiến đến, khi thì dịu lại như mưa sắp tàn (...)
Lập đông đã dứt trong đêm rồi. Mưa bụi không rơi nữa. Mặt trời ban mai đã trở lại sau những ngày núp ẩn, để nghe chim muông tung hô, chào đón. Qua các lỗ trống trên tàng cây, ánh nắng lò vào bóng râm, thành những tia ngay bót như cây cột đình. Anh Chín thỉnh thoảng ôm lấy những cây cột nắng đó để mà sưởi. Những lúc ấy anh sè tay hứng lá trắc tròn xoe, vừa rơi vừa quay như chong chóng, hoặc những lá sao dài rơi xụi lơ xuống đất.
Cùng với tiếng ve rân trong nắng sớm, những tiếng tố hộ, tố hộ của loài công vang dội từ gốc rừng này đến gốc rừng khác. Những man khê, suối dại rù rì đâu đó, dưới cỏ, trong rêu (...)
Rốt cuộc anh cũng tới nơi. Bờ sông Bé cao nghều nghệu như muốn ép con sông nhỏ chảy dưới kia, sâu thăm thẳm. Vách lá xanh đứng sững lên làm cho sâu thêm vực thẳm ấy. Bờ sông man rợ khiến dòng nước hiền lành kia cũng mang một vẻ hiểm ác như chứa trong lòng nó không biết bao nhiêu là thủy quái (...) (Trích từ truyện ngắn Thèm Người. Nhan đề phần trích tạm đặt.)
Hồn ma cũ
Nhờ thấy một người khách "rót cà-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống", "Kỳ mới hiểu, tại sao chàng lại ưa thích tiệm cà phê nầy".
"Hồn ma cũ (...) giục chàng đến đó".
Nhưng thiết tưởng người trong tiềm thức không có hồn ma cũ nào hết, mà đọc nhằm:
"(...) những buổi sáng sớm mưa dầm. Bên ngoài, mưa gió lạnh, mà ngồi được trước một tách cà-phê lên hơi, bên cạnh cái lò chụm trấu, thì thú tuyệt vời",
chắc cũng muốn bước vô ngồi thử trong một tiệm cà-phê cắc chú "truyền thống"...
----
Kỳ đẩy xe đạp qua các bờ đất, ra tới ngã ba Cầu Kinh, thì mặt nhựt mới tô lợt son tàu lên tấm nền trời dựng sau những ngọn dừa nước ở hướng Đông.
Từ đó mà ra Sài Gòn, vào giờ đường vắng, chỉ mất mười lăm phút là cùng; Kỳ cũng chẳng có công chuyện gì cần phải làm sớm. Thế mà chàng cũng cứ dậy khuya mà đi như mọi ngày.
Qua đường Hàng Sanh, qua đường Hàng Bàng, qua đại lộ Hai Bà Trưng, xuống "Một Hình", rồi đổ ra Chợ Cũ. Kỳ đi thật là lòng vòng, do các nẻo xa nhứt để đi tới đích.
Chợ Cũ còn dụi mắt, trừ các tiệm cà-phê. Kỳ sung sướng như về quê nhà và vào ngay tiệm nước ở góc hai phố X.Y.
Chàng ngồi trước chiếc bàn con đặt sát vách, không nhìn ai hết, cốt tránh thấy. Chàng muốn nghe nhiều và ngửi sâu. Ở đây có những tiếng động, những âm thanh, những mùi vị quen thuộc và rất thân yêu mà chàng mến thích.
Ngoài sau bếp, người thợ xíu-mại bằm thịt bằng hai con dao Tàu, mà hắn hạ lưỡi dao xuống thớt theo một nhịp điệu kỳ lạ, nghe như một khúc nhạc man rợ nhưng vẫn êm tai. Những anh phổ ky hô món ăn hoặc hô số tiền, mà khách phải trả, không phải bằng văn xuôi, mà bằng lời hát có ca, có kệ đàng hoàng. Khi một người khách đứng lên, hắn hát to cho anh thủ quỹ nghe: "Ạ ...a... người đội nón nỉ đen á...à...à...sáu đồng lẻ bảy cắc ạ...a...". Lẽ cố nhiên, hắn hát bằng tiếng Tàu, thổ ngữ Quảng Đông, câu hát thành dài lê thê vì những á...a, á...à, nghe rất thú vị. Có một câu ngắn: bạc tẩy tảl tống mùl mà hắn làm được một bài hát nhỏ, nghê nga đến lúc tách sữa trứng gà bưng ra tới bàn khách, bài hát mới dứt.
Mùi bánh bao hấp từ các xửng dưới lò bốc lên, mùi cà-phê rịn ra từ những chiếc vợt đầu tiên trong ngày, tất cả những tiếng và hơi ấy tạo thành một không khí, mà Kỳ rất thích.
Ngày nay, các tiệm cà-phê "các chú", phần đông đã đổi mới, không ca hát lăng nhăng nữa, không bằm dao trên thớt theo một nhịp điệu riêng nữa, nên Kỳ chỉ vào tiệm nầy thôi. Chàng đã ghiền không khí ở đây, ghiền cả thời gian nữa; phải ngồi tiệm vào lúc thật sớm, như bây giờ, mới hưởng đầy đủ không khí một tiệm cà-phê cắc chú ngày xưa (...)
Kỳ còn ghiền một yếu tố nữa, mà không phải lúc nào cũng đòi hỏi dược. Đó là những buổi sáng sớm mưa dầm. Bên ngoài, mưa gió lạnh, mà ngồi được trước một tách cà-phê lên hơi, bên cạnh cái lò chụm trấu, thì thú tuyệt vời. Càng thú hơn, khi nghe một anh phổ ky đối đáp với khách hàng:
- Nị không lạnh sao, mà ở trần?
- Hà cái lầy pên Tàu lặng lắn (lạnh lắm) qua pên lây lực lắn (nực lắm), khoong pết (không biết) lặng mà...
Nghe câu nói ấy, không khỏi nghĩ đến một xứ rét run, và mình càng cảm thấy ấm hơn trong tiệm nầy.
Kỳ ngồi làm thinh, không kêu món uống. Thế mà anh phổ ky lại hát lên: "Vách bên trái, cà phê không thật đậm, nhớ lược bằng vợt mới, nghe không". Rồi người thủ quỹ kiêm nhơn viên rót cà-phê, nhìn chàng một cái, đoạn thi hành y theo lời phổ ky dặn dò.
Đó là yếu tố quan trọng nhứt của không khí tiệm nầy. Đây là một tiệm cà-phê lâu đời và nhứt là một tiệm cà-phê giữ truyền thống của họ, nên họ có những người khách lâu năm, rất lâu năm. Họ thuộc lòng từ ý muốn nhỏ của mỗi người khách: người nầy ba muỗng đường; người kia một muỗng rưỡi thôi. Còn khách thì không thốt ra lời nào cũng có kẻ dưng tới tay món uống vừa ý.
Kỳ lấy muỗng nhỏ dò đáy ly cà-phê đen như thuốc Bắc: chỉ có độ một muỗng đường cát ở dưới ấy thôi, thật là đúng sở thích của chàng. Chàng gác muỗng lên miệng dĩa, cúi xuống hớp một hớp cà-phê, chấp chấp lưỡi để nghe mùi thơm của nó (...) .
Ngày nào cũng thế, chàng ngồi đó như một vị tiên bất tử. Khách hàng, hết lớp nầy đến lớp kia ra vào, y như các thế hệ người kế tiếp nhau mà tàn mọc trên dương thế, còn chàng thì ở ngoại càn khôn mà nhìn những kiếp sống phù du nầy (...)
Mưa thu nhớ tằm
Trời, đọc Bình Nguyên Lộc mới biết cái khu phố đông đúc khô khan nơi mình lớn lên, trước đó không lâu nó đã là một "ngoại ô xa (...) khá nên thơ" có tre, có cả cây dâu tằm!
Cầu Mới chắc là cầu về sau gọi cầu Trương Minh Giảng, bắc qua kênh Nhiêu Lộc nước đen thui. Chợ chồm hổm Bà Y thì chịu không đoán nổi vốn đã ở chỗ nào...
Chắc không phải ngẫu nhiên mà BNL tìm thăm xóm Quảng để tình cờ gặp cây dâu tằm đâu. Vì ông vốn có gốc Quảng. Bác Y xa quê ở nhớ tằm nuôi, còn người phỏng vấn bác hôm trời mưa dầm năm nọ, có phải người ấy xa quê trong gia phả rồi nhớ cái gì đó chưa từng thấy mà tìm đến?
----
Đi đường Trương Minh Giảng để ra ngoài đô thành, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt khách, đâm ra một con đường phố mới, chưa có tên, tạm gọi là Lộ 18.(2)
Bên phía tay mặt phố là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi đó, tục gọi là chợ Bà Y.
Đó là xóm nhà của đồng bào Quảng Nam - Quảng Ngãi tới đây lập nghiệp từ lâu, kẻ trước người sau, từ hơn hai mươi năm nay.
Người ta giới thiệu tôi với gia đình ông Y, mà tên của người vợ được lấy đặt tên chợ.
Ông Y, là một bác thợ dệt, gốc ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào đây sanh sống từ những năm đói kém tiền chiến.
Bác ta làm công cho một xưởng dệt Khách ở Chợ Lớn.
Hôm tôi vào xóm Quảng Nam năm ấy, trời giữa thu như độ nầy (...)
Mưa dầm không nặng hột cứ rơi mãi không thôi (...)
Tôi hỏi thăm bác Y về đời sống hằng ngày ở Quảng Nam, hỏi tên những cây mọc dựa đường, tên địa phương của dụng cụ nông nghiệp v..v. và xin bác đọc cho chép một mớ ca dao địa phương mà bác nhớ (...)
Cuộc "phỏng vấn" đã chấm dứt, nhưng trời cứ mưa hoài, nên chúng tôi ngại ra về.
Ngồi nhìn giọt tranh mãi cũng chán, nên tôi lén quan sát người chủ nhà hà tiện lời kia. Bỗng tôi sực nhớ một cử chỉ của bác ta mà tôi bỏ qua từ lúc khởi đầu nói chuyện: là mắt bác luôn luôn nhìn ra góc trái sân nhà và không bao giờ rời chỗ đó ra.
Chà, bậy quá, tôi nghĩ thầm. Té ra bác ta có một công việc quan trọng nơi đó mà phải bỏ dở vì mình. Tôi nhìn theo chỗ ngó của bác Y. Qua những làn mưa tro trắng đục, tôi thấy lơ thơ vài bụi sả đang ngã nghiêng trước gió. Phía sau mấy bụi sả là một cây dâu già, to bằng cây ổi bốn năm tuổi.
Nước mưa thoát ra đường mòn trước nhà do góc rào đó và mài khuyết đất quanh gốc dâu. Một cái mương nhỏ đang đào dở chừng để xuyên tạc đường nước, bấy giờ đã bể bờ và nước lại trở về đường cũ.
Thì ra hồi nãy bác Y đang bận cứu cây dâu, chừng như quí lắm nên bác ta mới dầm mưa mà làm việc và hiện đang sốt ruột trông thấy.
- Cây dâu nầy bác trồng à ?
- Dạ, trên mười năm rồi!
- Để làm gì, rơ miệng cho các cháu?
Ta có tục tẩy lưỡi trẻ con bằng lá dâu vì thứ lá nầy nhám.
- Dạ không, tôi không có con.
- Vậy để đuổi tà ma?
Bác Y mỉm cười:
- Tôi không sợ ma quỉ cho lắm.
Mặt bác Y giãn ra, bớt vẻ băn hăn bó hó.
- Chớ bác trồng dâu làm gì ?
- Để cho nó giống làng tôi. Trong Nam nầy, ít khi tôi được thấy cây dâu lắm, nhứt là ở Sài Gòn.
- Ngoài bác, người ta trồng dâu nuôi tằm hả?
Nghe nói tiếng "tằm", mắt bác Y bỗng sáng lên rồi ươn ướt.
Tôi chợt hiểu bác ta, kéo ghế ngồi xít lại gần bác rồi hỏi thêm, giọng cố thân mật:
- Cây dâu khiến tôi nhớ tằm. Có phải để...
Bác Y bẽn lẽn như con gái bị người ta đoán trúng tim đen, nhưng lại sung sướng đến mọc óc trên da mặt.
Bác quên tôi là người lạ, nắm lấy tay tôi, nói một thôi không ngớt:
- Những ngày trời ủ dột như vầy, tôi nhớ nhà thì ít mà nhớ tằm sao mà như nhớ người tình nhơn đầu. Tôi nhớ "hén" lạnh, tôi nhớ "hén" đói vì dâu ướt át suốt ngày, khó tìm ra dâu ráo cho "hén ăn".
Bác Y nói đến con tằm mà y như người ta nói đến một người bạn, dùng tiếng "hắn" để kêu nó, và cái giọng Quảng Nam biến hắn ra hén, nó bùi ngùi làm sao buổi trưa hôm đó.
- Nên tôi trồng cây dâu nầy để sáng sáng, chiều chiều ra nhìn lá mà nhớ hén. Nhiều đêm, nằm vừa thiu thiu ngủ là tôi nghe văng vẳng tiếng rào rào, ngỡ hén đang ăn lên, tôi vụt ngồi dậy rờ quanh thì không có gì hết. Buồn quá tôi thắp cây đèn dầu, chạy ra sân soi vào lá với hy vọng hão huyền tìm gặp một con tằm hoang. Lạ thiệt! Hồi xưa, tằm vẫn ở hoang chớ phải không thầy? Nhưng sao bây giờ không có tằm hoang nữa. Tôi trồng cây dâu nầy mười năm, mỗi đêm mỗi trông đợi mà không bao giờ gặp tằm hoang cả.
Lúc ấy từ nhà ai ngoài sau, vọng đưa ra tiếng hát ru con. Tiếng ấy hát rằng:
Ù... Ơ... Em tôi buồn ngủ buồn nghê, Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi.
Nghe hát, bác Y chụp nói:
- Thầy có thấy tằm "hén"chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo (3) và nó dễ thương làm sao! Hén ngủ "thức lớn" rồi hén thức chơi với mình suốt bảy ngày, rồi hén "chộ". Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả nong đều chín đỏ như người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu huyết lại để chuẩn bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu!
À, thầy nên chép câu ca dao nầy mà hồi nãy tôi quên:
"Thương tằm cổi áo bọc dâu Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình".
Con tằm hén giống như đứa con èo uột. Hén hay đau ốm lắm. Mình cực khổ với hén hết sức mà lắm khi hén bạc tình, hén lăn ra chết ráo nạo từ nong nầy qua nong khác. Mà có lẽ cũng vì hén như hũ mắm treo đầu giàn như vậy nên mình thương hén càng nhiều chăng? Mà thầy ôi, bạc tình chính là tôi, chớ không phải tằm đâu. Tôi đã bỏ tằm, vô trong nầy... người bạn tôi có lỗi gì đâu (...)
Bác Y lại tiếp:
- Tơ mà nó vô tới Sài Gòn thì mùi tằm không còn được bao nhiêu. Tôi ưa hít tơ lắm, như là hít áo của một người yêu để nhớ hơi, mà tơ ở đây, hít đến mệt phổi cũng không nghe hơi hám gi.
Mưa đã dứt. Người bạn tôi đã nhiều lần ngáp dài giữa câu chuyện "con tằm đỏ chín" nầy nên đứng dậy kiếu về. Tôi siết chặt tay bác Y.
Ra đến ngoài, bác còn hỏi tôi:
-Chắc thầy cũng thương tằm lắm phải không? Tôi nhìn mặt thầy thì đoán biết.
- Phải - tôi nói láo bừa - tôi thương tằm lắm. Bà nội tôi ngày xưa có để tằm mà! (Thu 1956)
Thơ Ba Mén
Quán nhỏ. Có người ngồi uống cà-phê ngó ghe đậu dưới bến, "bỗng chạnh tình quê", nước mắt rưng rưng. Người ấy rồi để ý bàn bên cạnh có ông cũng đang "khóc trộm"...
Hai người "đồng tâm" kể cho nhau nghe chuyện xóm làng mình, người này kể tới đâu người kia thấy "cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng bâng khuâng" tới đó...
Rồi có Bình Nguyên Lộc không biết ở chỗ nào mà cũng nghe được chuyện, mà viết thành thơ để "thương những người chìm nổi"...
Thơ quê chơn chất đôi lời, Tình kia cảnh nọ rụng rời lòng ai!
----
Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác, Quán bên hè, uống tách cà-phê. Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê, Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.
Bến Ông Lãnh màn mưa bao phủ, Ghe thương hồ ủ rũ dưới kia. Ghe ơi, vài bữa ghe về, Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?
Mùi đất nước ruộng bùn phảng phất Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu. Năm năm, bao cuộc bể dâu? Phút giây in lại như hầu hôm qua.
Bàn bên cạnh, một ông bới tóc, Liếc sang nhìn đang khóc trộm thầm, Đoán mình là kẻ đồng tâm, Lân la nói chuyện. Mưa dầm cứ rơi.
Cà-phê nóng lên hơi nghi ngút, Lò than hồng lách tách nổ ran. Nghe người kể chuyện xóm làng. Cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng bâng khuâng,
Viết lại đây mẩu đời luân lạc, Thương những người chìm nổi, đầy vơi. Thơ quê khôn tả hết lời, Để ghi dấu vết một thời chiến tranh.
Dâng má thương
"Thổ ngơi thơm phức", vì là nơi "má thương" xưa đã ở.
"Hồn đất", "hồn ma..."...
"Những người muôn năm cũ Hồn ở đây bây giờ"!
----
Từ đáy thời gian, dậy tiếng ru Ầu ơ lời má, giọng trầm phù Má ơi, hồn đất bao năm thiếp Bỗng chốc trưa nay vẳng, tít mù...
Kẽo kẹt xà nhà tiếng võng đưa Đâu đây đồng vọng cõi xa xưa Thổ ngơi thơm phức: hồn ma cũ Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ
Ngày qua, năm tháng cứ trôi xuôi Một phút nhớ xưa, thoắt ngậm ngùi Những ngỡ tro tàn trong bếp lạnh Hay đâu than ngún dưới tro vùi
Ngược dòng năm tháng mấy dòng này Những áng tuyết xưa gợi lại đây Gởi cả muôn thương cùng vạn nhớ Tân Uyên đất má, thảm vơi đầy. __________
(1) "Chùa" nghĩa là miễn phí, lối nói phổ thông ở Sài Gòn trước 1975. (2) Lộ 18 sau thành đường Trương Tấn Bửu, rồi Trần Quang Diệu. (3) Đẹp, nói theo người miền Trung.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:06:43 GMT 9
Vòng Tay Học Trò : Nguyễn Thị Hoàng, một biểu tượng ‘hồng nhan đa truân’? Tôi nghĩ, dù đứng ở vị trí nào, văn học hay xã hội, đời thường hay đạo lý, khó ai có thể phủ nhận Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ thực sự tài hoa của 20 năm VHNT miền Nam. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ thấy bà trong vòng phấn của cuốn truyện “Vòng Tay Học Trò” (VTHT), vốn được nhìn như một thứ bán hồi ký và, nhan sắc trời cho của bà, tôi cho là chúng ta đã không công bình với họ Nguyễn. Bởi vì, ngoài VTHT, Nguyễn Thị Hoàng còn có những sáng tác khác, cũng được nhiều người ưa thích, như “Về Trong Sương Mù,” “Tuổi Saigon,” hoặc “Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về”...  Nguyễn Thị Hoàng, năm 2007. (Hình: Thái Kim Lan-chinhhoiuc blogspot.com) Ðó là một phần trong số lượng hàng chục tiểu thuyết mà bà đã viết được, trong một khoảng thời gian rất ngắn. Giải thích về sự “mắn đẻ” này, bà kể với nhà báo Tố Tâm rằng: “...Từ năm 1966 đến 1969, mình viết liên tục theo những 'đơn đặt hàng'. Trong thời gian này mình viết rất nhanh, có khi viết hai, ba truyện cùng một lúc... rồi thì lại buồn chán, mệt mỏi, kiệt sức và mất hoàn toàn tinh thần làm việc vì trong suốt những năm dài liên tục mình chỉ sống với bổn phận làm vợ, làm mẹ và gánh vác kinh tế gia đình. Cái nguồn sống riêng phải nín lại, bị khô héo đi...” (9) Cũng trong cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo Tố Tâm ở Việt Nam, tác giả “Tiếng chuông gọi người tình trở về” đã tiết lộ phần nào đặc tính hay nét riêng thuộc cõi-giới tiểu thuyết của mình, như sau: “...Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời... rồi ráp thành chuyện. Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả...” (10) Mặc dù là một nhà văn nữ có số bán cao nhất ở thị trường tiểu thuyết miền Nam trước đây (vì truyện của họ Nguyễn đáp ứng được những đòi hỏi, chờ đợi của giới trẻ, cũng như tâm lý nữ giới...?) - Nhưng bà cũng bị một số người cho rằng càng về sau, khuynh hướng văn chương của bà càng mang tính “điệu đà,” có phần hơi nhiều... son, phấn. Tiêu biểu hàng ngũ có cái nhìn tiêu cực ấy, người ta thường nhắc tới ghi nhận của nhà văn Nguyễn Ngọc Chính: “...Có thể nói, văn phong của Nguyễn Thị Hoàng cũng tựa như của Mai Thảo: rất ‘điệu đà’, rất ‘bay bướm’ và rất ‘làm dáng’... đến độ nhiều khi trở thành sáo rỗng. Chẳng hạn như trong ‘Người yêu của Ðấng Trời’, một tiểu thuyết đã được viết từ hơn một chục năm nay nhưng chưa hề xuất bản. Hợp Lưu trích đăng một chương có những đoạn viết: ‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’ ... ‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’” (11) Ở lãnh vực văn chương, nếu tác giả VTHT được dư luận theo dõi sát sao bao nhiêu thì ở lãnh vực tình trường của Nguyễn Thị Hoàng cũng được dư luận đề cập tới và, cũng không kém phần chi tiết. Cụ thể như một “scandal” từng gây chấn động thành phố Nha Trang, khi nhà văn Nguyễn Thị Hoàng theo gia đình di chuyển về thành phố này năm 1957. (12) “Scandal” đó, nổ ra trước câu chuyện tình của bà và người học trò tên Mai Tiến Thành, đã được bà ghi lại một phần trong truyện VTHT. Sự việc sau đó, cũng đã được bà thẳng thắn xác nhận qua đoạn văn dưới đây: “...Trước khi lên Ðà Lạt dạy học, gia đình Nguyễn Thị Hoàng sống tại Nha Trang. Những năm theo học tại trường Võ Tánh, Nguyễn Thị Hoàng dính vào một scandal một thời là đề tài nóng bỏng tại thành phố biển. “Cô nữ sinh dan díu và có thai với ông Cung Giũ Nguyên, giáo sư Pháp văn, hơn Nguyễn Thị Hoàng gần ba mươi tuổi. (13) Biến cố đầy tai tiếng này được dàn xếp êm thấm giữa hai gia đình với lời thú nhận can đảm của người trong cuộc: “‘Ông Cung Giũ Nguyên không có lỗi trong vụ này. Lỗi là do tôi dụ dỗ ông ta khi theo học thêm lớp Pháp văn tại nhà, vì tôi muốn có một đứa con thông minh xuất chúng như ông ấy!’ “Ðứa con gái sinh ra được đặt tên Cung Giũ Nguyên Hoàng (tên gọi của ông Nguyên và bà Hoàng ghép lại) và được bà vợ chính thức của ông Nguyên nuôi dưỡng vì bà này không thể có con. Trong ngày tang lễ của ông Cung Giũ Nguyên (tháng 11, 2008) người ta thấy Cung Giũ Nguyên Hoàng phục tang cha, ôm bát nhang đi trước linh vị...” (14) *** Hôm nay, nhìn lại toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn tài hoa Nguyễn Thị Hoàng, không ít người đã có cùng một kết luận, đại ý, phải chăng, định mệnh của tác giả “Vòng Tay Học Trò” tiêu biểu cho những trường hợp mà chúng ta quen gọi là “hồng nhan đa truân”? (California, 27 tháng 3, 2014) Chú thích: (9) Theo trang mạng Wikipedia-Mở sau truyện VTHT, xuất bản năm 1966, thì chỉ trong vòng 4 năm (từ 1967 tới 1970), nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã có tới 12 tác phẩm được xuất bản. (10) Tố Tâm, Nđd. (11) Nguyễn Ngọc Chính, Nđd. (12) Tư liệu của Wikipedia-Tiếng Việt ghi rằng, “Nguyễn Thị Hoàng sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế. Năm 1957, bà chuyển vào sinh sống ở Nha Trang rồi đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Ðại Học Văn Khoa và Luật nhưng bà bỏ ngang, không học hết mà lên Ðà Lạt dạy học. Ðến năm 1966, bà chuyển sang chuyên tâm viết tiểu thuyết...” (13) “Cung Giũ Nguyên (28 tháng 4 năm 1909 - 7 tháng 11 năm 2008) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam, gốc Hoa, được biết đến với những tác phẩm tiếng Pháp. Về mặt văn chương, tên tuổi ông được ít người Việt biết đến vì các tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên về mặt hoạt động xã hội, ông là một huynh trưởng nổi bật thuộc thế hệ sáng lập ra phong trào Hướng Ðạo Việt Nam. Cuối đời, ông cư ngụ tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và mất tại đây.” (Wikipedia-Tiếng Việt) (14) Nguyễn Ngọc Chính, Nđd.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:37:13 GMT 9
Phạm Cao Củng (1913-2012), nhà văn trăm tuổi Viên Linh Trong một bài trước mục Thời Sự Nhân Văn đã nói đến những nhà văn, nhà văn hóa của Việt Nam sống đến trăm tuổi, song chỉ nhắc sơ qua, gần đây nhất có Giáo Sư Nguyễn Khắc Kham (100 tuổi), Giản Chi (101 tuổi), Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc (102 tuổi). Những vị ra đi sau tuổi 90 còn nhiều hơn, có Trương Cam Khải, Vương Hồng Sển, Thái Tuấn, Hữu Loan, Tùng Long, Nguyễn Tường Bách,... Vài chục năm trước đây, người Việt sống tới tuổi trên 60 đã được gọi là cụ, 70 đã là “cổ lai hy,” song bây giờ những cụ như thế ngồi nhan nhản ở các quán cà phê mà mày tao chi tớ, tiến bộ hơn nhiều. Bài hôm nay xin nói về một vị mà người viết bài này quen biết, thư từ qua lại, sống đúng 100 tuổi mới ra đi, đó là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám: Phạm Cao Củng, mất vào hôm nay, 17 tháng 12, năm ngoái.  Nhà văn Phạm Cao Củng (1913-2012), tác giả trên 160 cuốn truyện đủ loại, từ trinh thám tới kiếm hiệp. (Hình: Từ Ðiển Văn Học Việt Nam) Sống lâu, nhưng nhà văn Phạm Cao Củng như một người xa vắng, văn giới và báo giới hầu như không thấy nhắc đến ông, trong khi tác phẩm của ông khá nhiều, cuốn đầu tay nhan đề Vết Tay Trên Trần in trên báo LOA ở Hà Nội từ 1933, sau đó được nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng in thành sách. Năm 12 tuổi người viết bài này đã đọc cuốn sách của ông, và say mê nhân vật thám tử Kỳ Phát, không phải ở những hành động ngang tàng, không, viên thám tử này không hề ngang tàng, sóng gió, tung hoành, mà rất bình thường, từ tốn: cái hay của Kỳ Phát, sự lôi cuốn trong các cuốn truyện của ông là ở sự lý luận, giải đáp các kỳ án, “phương pháp phá án bằng suy luận” như ông nói, chứ không ở hành động. Còn nhớ khi Kỳ Phát giải án trong cuốn truyện Vết Tay Trên Trần, câu mấu chốt là một con người không thể dễ gì để vết tay mình in lên ở cái chỗ cao như thế trong căn phòng, và do đó, vết tay ấy đã khiến nhà thám tử tìm ra thủ phạm: một cách nào đó, Kỳ Phát nghĩ đến “một con khỉ,” và do đó, lôi cuốn độc giả, ít nhất là các độc giả trẻ trung một thời. Vào những năm '30 của thế kỷ trước, truyện trinh thám của Phạm Cao Củng đương nhiên đã rất tân tiến trong văn chương Việt Nam, sự việc này ít ra đã để lại dấu vết trong văn học sử. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, khi viết bộ Nhà Văn Hiện Ðại 5 cuốn, có cuốn chỉ có 5 chương, như bản in lần thứ hai vào năm 1951, Phạm Cao Củng một mình chiếm một mục, một thể loại: “Tiểu Thuyết Trinh Thám,” từ trang 221 đến trang 235. Trong thể loại này không có thêm ai, ngoài tác giả Vết Tay Trên Trần, vì ông đặc sắc hơn tất cả, hơn cả Thế Lữ hay Bùi Huy Phồn cũng viết truyện án mạng. Theo tác giả Nhà Văn Hiện Ðại “Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu thuyết trinh thám của Phạm Cao Củng là những nhân vật và khung cảnh do ông sáng tạo đều có tính chất Việt Nam, hợp với trình độ người Việt Nam ta hiện thời, không như mấy nhà tiểu thuyết trinh thám khác đi nhặt những mẩu chuyện ly kỳ của Tây phương và cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt, lai Pháp.” (tr. 223-224). Ngay khi bộ Nhà Văn Hiện Ðại ra đời, 1941, ngoài cuốn truyện nói ở trên (in trên báo năm 1933, in thành sách 1936), Phạm Cao Củng đã xuất bản được cả chục cuốn rồi, có thể kể thêm: Chiếc Tất Nhuộm Bùn 1938, Người Một Mắt 1940, Kinh Hoàng 1940, Kỳ Phát Giết Người 1941, Nhà Sư Thọt 1941, Ðóa Hoa Tai của bà Chúa 1942,... lúc ấy ông mới 27 tuổi, và như sau này ông cho biết, “[khi viết những cuốn ấy] tôi chưa qua bậc trung học.” Vào tháng 10 năm 1995, khi tới khánh thành Trung tâm Văn Bút Việt Nam tại Florida do nhà văn, Bác Sĩ Nguyễn Ðức An làm chủ tịch, chúng tôi đã trao tặng một tấm bảng lưu niệm và vinh danh nhà văn Phạm Cao Củng trong đại hội, (ông cư ngụ cùng gia đình tại North Lauderdale tiểu bang này và cùng vợ chủ trương nhà xuất bản Huyền Nga, tên của bà). Dịp ấy trong bài vinh danh đọc trước đại hội, có một số chi tiết được nói đến, mà nếu không tìm hiểu tại chỗ, không ai có thể làm được. Hình ảnh và bài diễn văn đã được đăng báo, xin trích một đoạn: “Nhiều người trong chúng ta ở đây đã là tác giả, song số tác phẩm mỗi người chúng ta viết ra có lẽ chỉ cần một bàn tay cũng nắm trọn. Tác phẩm của nhà văn Phạm Cao Củng, nếu xếp từ mặt đất nơi cụ đứng, với 160 cuốn truyện đủ loại, đã cao ngang tầm với mái tóc cụ. Trong văn chương Việt Nam chỉ có vài tác giả có số tác phẩm viết ra chất cao bằng đầu mình, tôi cố nhớ chỉ có ba người: Lê Văn Trương, Bình Nguyên Lộc, và cha đẻ thám tử Kỳ Phát.” Còn nhớ, ngoài loạt truyện trinh thám, ông còn viết tiểu thuyết tâm lý (Kinh Hoàng), truyện kiếm hiệp (Lục Kiếm Ðồng, Chu Long Kiếm, Võ Hùng Kiệt), phiêu lưu mạo hiểm (Kho Tàng Hồ Ba Bể, Bọn Người Săn Ngọc). Sau đó vài ba năm tôi có dịp báo tin cho ông hay là có tạp chí của hội nhà văn ở Hà Nội viết về “nhà văn quá cố Phạm Cao Củng,” ông xin tôi bài báo viết đại kia, và địa chỉ của họ, tôi đã gửi ông. Sau đó ông đã về Hà Nội, vào Thư Viện chính (Bibliothèque Pasquier) và tìm lại được rất nhiều tác phẩm cũ của ông, in từ thời Pháp thuộc, vẫn còn lưu trữ trong đó. Ông gửi tặng tôi mấy cuốn khi tái bản tại Hoa Kỳ. Hơn nửa thế kỷ trước, loại truyện trinh thám không được coi trọng trong văn học, kể cả ở Châu Âu. Dù sao, những Sir Conan Doyle cha đẻ của Sherlock Holmes ở London hay George Simenon cha đẻ của thám tử Maigret ở Pháp vẫn được trọng vọng hơn là Phạm Cao Củng ở Việt Nam. Nhưng chuyện đã thay đổi tốt hơn, nhất là từ khi văn hào André Gide, giải Nobel văn chương 1947, lên tiếng ca ngợi Simenon là một nhà văn lớn của thế kỷ XX thì loại truyện này, và các nhà văn sản xuất những cuốn truyện về tội ác, được đối xử đẹp hơn, cho dù tự họ không cần biết đến giới phê bình viết lách ra làm sao. Riêng bản thân là người chọn nghề cầm bút, từ lâu tôi tin rằng nhà văn viết bất cứ chuyện gì cũng vẫn là nhà văn, miễn là viết với nhân sinh thẩm mỹ quan, làm gì cũng làm sao cho đẹp. Phạm Cao Củng là tên thật dùng làm bút hiệu chính, các bút hiệu phụ là Văn Tuyền khi viết truyện kiếm hiệp, Phạm Thị Cả Mốc khi làm thơ châm biếm và đối đáp với Tú Mỡ trên báo Phong Hóa, sinh ở Nam Ðịnh, cha là Tú Tài kép (Hán học) Phạm Cao Ðạt. Ông gọi Bà Tú Xương bằng bác (chị ruột của cha mình). Học tới Thành Chung thì Phạm Cao Củng chuyển qua học trường Kỹ Nghệ Thực Hành ở Hải Phòng. Tại đây ông ra báo Học Sinh cùng bạn học là Ðặng Thế Phong (sau là nhạc sĩ, cùng gốc Nam Ðịnh), và nhà thơ Lê Tràng Kiều. Chính thức chọn nghề báo khi vào làm tờ Hải Phòng tuần báo. Ðúng lúc này viết Vết Tay Trên Trần đăng từng kỳ trên tờ báo ông làm, nhưng tờ báo thuộc về nhà xuất bản Mai Lĩnh. Với vốn chữ Pháp của bậc Thành Chung, ông đọc rất nhiều truyện Pháp thuộc loại sách bình dân Fantomas và các truyện giải trí đương thời. Với các vốn liếng đó và sự cầm bút miệt mài, ông trở thành Phạm Cao Củng, cha đẻ Kỳ Phát của thể truyện văn chương trinh thám Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:39:49 GMT 9
Sách cũ trong và ngoài nước Viên Linh Sách cũ em chôn cạnh mộ thầy Hình anh em gửi gió heo may Nhà anh giặc ở con anh lạc Còn xác thân em dưới cát lầy. (Viên Linh, Thủy Mộ Quan, 1982, tr.45) (Thư người vợ gửi cho chồng trong tù cải tạo sau năm 1975 sau khi được ở lại nhà cũ với một ông thượng úy, một mình, còn con cái gửi đi nơi khác.)  Nhà giáo Hà Mai Anh (1905-1975), người Thái Bình, dịch giả “Tâm Hồn Cao Thượng,” “Vô Gia Ðình,” “80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới.” (Hình: Gia đình cung cấp) Chủ Nhật vừa qua nước Mỹ lùi thời gian lại một giờ, tôi có dịp tham dự cuộc bán sách cũ tại Viện Việt Học ở Little Saigon. Anh Nguyễn Minh Lân trong ban điều hành ngày nào nay thấy mái tóc đã hoa râm, và lần đầu gặp được quản thủ thư viện Phạm Lệ Hương, người mà năm 1971, Hòa Thượng Thích Minh Châu - Viện trưởng Ðại Học Vạn Hạnh gửi đi du học Hoa Kỳ về ngành giữ sách. Tôi có mang theo vài cuốn sách cũ để triển lãm, ai trả giá cao cũng sẽ bán, vì thư viện của riêng mình đã quá chật chội, đó là các ấn bản lần đầu của sách Ðào Duy Anh (Kiều, 1943), Phan Chu Trinh (Giai Nhân Kỳ Ngộ, 1958, in theo bản 1926), Phan Bội Châu (Ngục Trung Thư, 1950), Ðường Thi của Ngô Tất Tố (Tao Ðàn, 1940, ấn bản đầu) và Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á (1957). Tôi sẽ bán một cuốn với giá 250, hai cuốn với giá 500, hai cuốn với giá 1,000 Mỹ kim một cuốn. Một vị muốn mua cuốn của Ðào Duy Anh, cũ 70 năm, và một vị muốn mua cuốn của Phan Châu Trinh, cũ 55 năm. Sách cũ quí hiếm đã đành, bài này không nói tới. Sách cũ đã trở thành “chứng từ” một khi đất nước hồi sinh khởi sự cuộc gột rửa tàn tích giặc đỏ, của các ủy ban tương tự như dân tộc Do Thái ngày nay vẫn đang làm, truy diệt bằng hết những tội phạm giết người, bọn sát nhân cướp của, hay như mấy ngày hôm nay báo chí thế giới đang nói đến: về sự giải tỏa cho chính đáng kho tàng nghệ thuật của nhân loại mà Ðức Quốc Xã đã chiếm đoạt một phần ba thế kỷ trước. Các ủy ban này không nhằm trả thù cá nhân, mà nhằm hồi phục nhân cách và tu chỉnh sự thêm bớt của nhà đương quyền trong các sản phẩm do các đời trước sáng tạo. Có thể gọi như là ủy ban quốc gia thanh lọc sự cộng xâm trong cổ thư. Sau đây là một ví dụ. Trong khoảng hơn 10 năm nay, dân chúng Việt Nam không có sách để đọc, sự đọc sách xuống thấp tới cạn đáy: một dân tộc 90 triệu người mà sách in ra chỉ khoảng 500 bản, hay nhiều lắm là 1000 bản. Ðã thế không sản xuất được sách mới, hay sách mới không ai thèm đọc, cả nước chỉ có 49 nhà xuất bản được giấy phép hoạt động (hiện nay mới có thêm 4 cơ quan nữa được cấp giấy phép, trở thành 53 nhà xuất bản có giấy phép hoạt động). Tất cả đều là đảng viên cộng sản và là trưởng cơ quan, không có ai có tư cách pháp nhân riêng nhà xuất bản của mình trong 53 nhà xuất bản này. Không hề có giám đốc nhà xuất bản, trên thực tế sự hèn kém đã ghi rõ ở cuối sách: “Chịu trách nhiệm xuất bản:” tên Mỗ, tên Cán A, B hay C. Ở Little Saigon cách đây 10 năm cũng có một tạp chí “văn học” loại đần độn cũng tự động ghi mấy chữ “chịu trách nhiệm xuất bản” ở cuối sách. Ðúng ra, mấy người ghi tên ở mục “chịu trách nhiệm xuất bản” chỉ là kiểm duyệt viên có trách nhiệm đọc trước các bản thảo và kiểm duyệt lần thứ nhất các sách sẽ nộp lên “trên” để xin giấy phép. Các trí thứ khoa bảng và trí thức sáng tạo trong nước hiện vẫn làm việc dưới sự cố vấn của các cán chính “chịu trách nhiệm xuất bản” này. Tình trạng không có sách cho dân chúng đọc không có gì đáng ngạc nhiên. Số 53 “kiểm duyệt viên” (tức người có tên “chịu trách nhiệm xuất bản” ) khi in một cuốn sách đã phải hết sức bình sinh loại bỏ bằng hết những gì họ sợ, họ đã là đợt 53 người ngăn cản hàng triệu tác giả viết lách, thì sách in ra được còn gì đáng đọc? Vì thế hơn mười năm trước, để cứu vãn việc này, “sách ngụy” được in lại, và những kẻ “chịu trách nhiệm xuất bản” toàn quyền cắt bỏ, và không những thế, không những đã cắt bỏ, còn sửa và thêm. Hẳn bạn đọc còn nhiều người vẫn nhớ cuốn sách loại giáo dục thiếu nhi nhiều thế hệ trước 1954 và 75 đã say mê: đó là cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” do nhà giáo Hà Mai Anh dịch từ bản Pháp ngữ “Les Grand Coeurs” của nhà văn Ý Edmond de Amicis? Ông người Kiến Xương, Thái Bình, bút hiệu Mai Sơn, sinh năm 1905, từng được trao tặng Giáo Dục Bội Tinh VNCH, Giải nhất Giải Dịch thuật Pháp văn của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa năm 1970. Ông cũng là người đã dịch những danh phẩm hầu như chúng ta đều biết: “Vô Gia Ðình” (dịch Sans Famille của Hector Malot), “80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới” (dịch Jules Verne), “Guy-Li-Ve Du Ký) của J. Swiff), “Em Bé Bơ Vơ” của Charles thingyens... Bản dịch Tâm Hồn Cao Thượng của ông không những được Giải Văn Chương của Hội Alexandre de Rhodes ở Hà Nội năm 1943, mà đã trở thành cuốn sách có ảnh hưởng giáo dục sâu đậm tới nhiều người, kim-chỉ-nam cho giới thiếu niên nửa thế kỷ qua. Bạn còn nhớ chăng khi cậu An-Di lên lớp ba, thầy giáo lớp tư hiền dịu và tình cảm vỗ vai học trò cũ nói: “An-Di ơi! Thầy trò ta từ nay chia tay nhau nhỉ?” (Ngày khai trường). Một số trong những lời văn chọn lọc, những từ ngữ chính xác mà nhà giáo tận tâm và người dịch Hà Mai Anh đã khổ công tra cứu, nghiền ngẫm, nay đã bị xóa bỏ, thêm thắt trong cuốn sách của chính ông dịch nhưng in ở Việt Nam sau 1975. Cách đây vài năm trước khi mất, người bạn thời trung học đệ nhị cấp của tôi ở Hồ Ngọc Cẩn Gia Ðịnh là Hà Mai Phương, con trai của dịch giả Hà Mai Anh, gửi tặng cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” bản in ở San Jose năm 2005. Anh viết trong thư dặn tôi: “Bạn Viên Linh Nguyễn Nam: Nhớ đọc kỹ trang 198 đến trang 200!” Những trang này cho biết nhà xuất bản Thanh Niên ở trong nước đã in lại “Tâm Hồn Cao Thượng” do Hà Mai Anh dịch và tự động tung tác những hành vi sau đây: -An-Di của Hà Mai Anh dịch tên Henry, bị họ sửa là Enrico. -Ðảo Xác-đe của HMA dịch đảo Sarde thì họ sửa là Xarđênha. -Thay từ “nhân dân” bằng “dân-sự” (trang 226). -Thay từ “tương tàn” bằng “thương tâm” (tr. 225). -Sửa từ “chung sống” bằng “sống chung” (tr. 100). -Thay từ “bác sĩ” bằng “quan thầy thuốc nhà binh” - sửa từ “thân ái” bằng “thân thuộc” - thay từ “Thưa Ðại-úy” bằng “Bẩm Ðại-úy” (tr. 99). -Thay câu “Thưa Ðại úy, xin Ðại úy hãy tin vào em” thành “Bẩm Ðại úy, xin Ngài hãy tin vào con” (tr. 96). -Sửa từ “vòng bán nguyệt” thành “vòng cung bao vây” - sửa từ “Em đánh trống” bằng “Thằng đánh trống” (tr. 95). -Tất cả các chữ Em trong bản dịch HMA bị đổi thành Thằng, Mày, Nó, Con (tr. 94-99). -Cắt bỏ phần chú thích và giải nghĩa. Cuối trang 200 của bản in ở hải ngoại, Mai-Ðình, người thay mặt gia đình dịch giả Hà Mai Anh cho biết, họ sẽ tái bản lại hết “tất cả các dịch phẩm nguyên thủy của ông cha để lại.” Và tuyên bố: “Các ấn bản khác ngoài chính bản [do gia đình in lại] đều bị sai lạc, không còn giá trị và không tương xứng với công trình dịch thuật của nhà giáo Hà Mai Anh.” Người viết bài này không những tán thành, mà còn nhân đây, lưu ý bạn đọc rằng chỉ có sách cũ còn lưu truyền ở hải ngoại là xác thực, chúng ta cần lưu giữ, đừng gửi về trong nước khi còn cộng sản, vì họ sẽ thủ tiêu, và in lại sau khi đã sửa đổi theo ý các kiểm duyệt viên “chịu trách nhiệm xuất bản” và các cấp trên của họ. Họ có khi không thù ghét riêng ai, họ chỉ cần tiêu diệt mọi người không nghĩ giống họ. Và họ vẫn cố gắng kéo dài thể chế để đào tạo “một trăm năm trồng người ngu độn,” để lớp này tiếp tục làm việc nước, biến việc nước thành việc phường khóm, xã ấp, thích hợp với tinh hoa của giống nòi hồ ngao, mọi cá nhân trở thành “thằng, con, mày nó, ngài, bác,” (cao nhất là bác), thì rồi dân tộc thế kỷ này vẫn như câu thơ của Tản Ðà hồi đầu thế kỷ XX: “Chỉ bởi người dân ngu quá lợn...” Sách cũ trước 54, trước 75, quan trọng vô cùng. Tài liệu văn học quí hiếm Viên Linh Tài liệu văn học quí hiếm đối với một người sưu tập, trong trường hợp riêng của tôi, một là sách vở hình ảnh vừa thoát khỏi bàn tay lục soát của mấy tên cán ngố, hai là vừa kịp thời tìm thấy dưới đáy tủ ẩm thấp, khi mấy chú mối mọt chưa kịp gặm vào. Hôm nay trong đầu không le lói một chút lửa sáng tạo nào, tôi ngồi lục lại ngăn dưới cùng của một tủ sách mà phía trên có một chậu hoa tươi, nhiều khi tưới vội vàng một chén nước, nào ngờ đã làm hư hại mấy tập bản thảo phía dưới.  Thi hào Vũ Hoàng Chương (1915-1976), hình chụp khoảng 1940, nay đã bị mối mọt, như bạn đọc thấy. Quí bạn nào phục chế được, vui lòng cho tác giả một bản, xin cảm ơn. Viên Linh: phamcongkh@yahoo.com. (Hình: Vũ Hoàng Ðịch, Hà Nội) Tiếc thay, có một tấm hình đẹp trai chưa từng thấy của Vũ Hoàng Chương, (nay không còn nhớ ai gửi cho, chỉ biết tấm hình ấy do ông Vũ Hoàng Ðịch, em trai nhà thơ từ Hà Nội tặng bạn ở hải ngoại), và mừng thay, thấy lại vài bài thơ hiếm của ông, có người chép cho từ khoảng chục năm trước. Bài này nói về các tài liệu đã bị bỏ quên ấy, vì nếu không bí đề tài, không lục lọi, chỉ vài tháng nữa, mối mọt sẽ gặm nhấm tất cả; hay những giọt nước ẩm “lên men”, sẽ trở thành bụi đen như than, tất cả. Lời nguyện chiều thu Nước non vô tội bỗng lăng trì Xương máu càng đau hận biệt ly Nước bặt tăm rồi non chết ngất Xương nằm trơ lại máu ra đi... (Vũ Hoàng Chương) Thơ Ðường luật, mỗi câu bảy chữ, là sở trường của tác giả Thơ Say, khi dùng chữ bác học, thì thật bác học, khi dùng tiếng nôm na hàng ngày, thì thật chọn lọc, tinh tế. Ngay câu đầu, chỉ có bảy chữ, mà thấy ngay một sự việc nếu diễn ra nghĩa cho đầy đủ, sẽ mất vài dòng, nếu không là cả chục dòng. Chữ “lăng trì” vốn xưa nay người viết bài này chưa thấy ở đâu dùng để chỉ một quốc gia, một nước. Lăng là xâm phạm, là lấn lướt, bức hiếp, trì là nắm giữ, lăng-trì, trong pháp luật, là “thứ hình phạt ngày xưa rất tàn khốc, đem người phạm ra, trước cắt tay chân, rồi xẻo thịt dần đần, làm cho chết” (Hán Việt Từ Ðiển Ðào Duy Anh). Hai tiếng này dùng trong câu thơ “Nước non vô tội bỗng lăng trì” thì chỉ có người Việt Nam hiểu được, và chỉ có thi hào Việt Nam biết mà dùng được. Có một đất nước nào bị coi là phạm pháp phải lấy mã tấu lưỡi lê dao kéo và nhất là búa liềm ra cắt xẻo cưa xén cho đến khi nước đó chết, chỉ có nước Việt Nam. Nhìn ngược đường lịch sử, nước ta là như thế: Triều đại này lên giết chóc nhân vật chế độ cũ đã đành, thậm chí chặt đầu, cưa ngang lưng, đào mả lấy cái xương sọ làm bô đái, nghiền xương bỏ vào nòng súng bắn cho tan... xương; còn tàn phá các vật thể vô tri ngày trước cho mất tăm mất tích, - hành động như căm thù đến ba đời, tru di như huyết hận cả hai kiếp - thành ra một nước con cháu cứ xưng tụng là có hơn bốn ngàn năm văn hiến, hỏi đâu, văn hiến đó đâu, nhìn quanh thì chẳng thấy dăm ba chứng tích. Thơ văn hiếm hoi, mấy ngàn năm nay chỉ tìm ra in được một hai ngàn trang, lẫn lộn cả “câu thơ thi xã = con thuyền Nghệ An”. Bài trên có tám câu, song ta qua bài khác: Ðã bao giờ Ðã bao giờ có hạc vàng đâu? Ðể có người tiên, để có lầu? Ðã tưởng hạc bay mây trắng ở Lầm Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau... Năm tháng hão huyền như khói sóng Nồi kê chưa chín nghĩ mà đau. Vũ Hoàng Chương Ðúng thế, năm tháng văn hiến hão huyền như khói sóng. Trên đây cũng lại là một bài Ðường luật, thể thơ phú sở trường của thi hào. Xấp giấy bị thấm nước tưới cây, tờ trên dính vào tờ dưới, “lên men” đen như bụi than - (chợt nhớ trong bảng màu sắc các vật thể, nước được ghi là có màu đen ố biển mới được ghi là có màu xanh) - bóc ra thì không còn đọc được mấy câu giữa. Hồ sơ thấm nước gồm tài liệu của các tác giả có tên vần C, ngoài Vũ Hoàng Chương, còn có Văn Cao, Hiếu Chân, Phạm Trọng Cầu, Hà Huyền Chi, Nguyễn Hùng Cường (chuyên gia thư tịch), Dương Hùng Cường, nhà viết văn ố phiếm, v.v... Tuyệt vời thay, còn thấy một bài thơ do Vũ Hoàng Chương dịch, chữ viết lại là chữ của người viết bài này. Bèn nhớ ra, đây là bài dịch nhà văn Mặc Thu (đã quá cố) đọc qua điện thoại cho tôi chép lại thời gian Mặc Thu từ Việt Nam qua quận Cam thăm con gái, con rể Mặc Lan và Chử Vương Anh. Khi gặp thì Mặc Thu thế nào cũng khui Martell (cảm ơn ông con rể, nay đã quá cố). Một hôm không đến được, anh đọc và bình mấy bài thơ qua điện thoại. Tôi chép mà sơ ý không thấy nhan đề, có khi là vì người đọc không nhớ, nên không có mà ghi, nên nhìn bài thơ phiên âm không đầu không cuối, giống như một người mặc quần áo nghiêm chỉnh, mà không mũ không giầy: Lạc phách giang hồ tải tửu hành Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh Thập niên nhất giám Dương Châu mộng Thụ đắc thanh lâu bạc hạnh danh. Vũ Hoàng Chương dịch như sau: Rượu Hồ quảy gánh Giang Nam Lưng ong gái Sở đã nhàm vòng tay Mười năm chợt tỉnh cơn cười Lầu xanh được tiếng con người Sở Khanh. Còn nhớ sau đó gặp nhau, anh Mặc Thu xuýt xoa mãi về tài dịch của Vũ thi hào. Ông cựu chủ nhân trà thất Anh Vũ Quán trên đường Bùi Viện, Sài Gòn những năm cuối thập niên '50, một hai năm đầu thập niên '60, nơi có hát cô đầu, rất tâm đắc mấy chữ “lưng ong gái Sở”. Gái Sở là gái Việt, Bách Việt, các nước ở phía Nam sông Dương Tử, trong có Lĩnh Nam. Hai tiếng “rượu Hồ” theo Mặc Thu, là chỉ anh chàng Bắc phương, Sở Khanh, gã ở phía Bắc sông Dương Tử, tức là Trung Hoa. Vũ Hoàng Chương dịch tuyệt hay vì không những tiếng Việt tuyệt luân, mà vì chữ Hán cũng thâm hậu. Năm tháng hão huyền như khói sóng “Âm công cán mối” nghĩ mà đau.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 24, 2014 16:04:42 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 24, 2014 16:18:28 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 7:16:01 GMT 9
Báo chí thời VNCH (3) (Tiếp theo) Các loại báo định kỳ rất đa dạng về chủ đề dành cho các đối tượng người đọc. Thích văn chương, thơ phú có thể tìm đọc Văn, Phổ thông, Văn nghệ Tiền phong… Một trong số các tạp chí văn chương có nhiều người đọc nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng. Số ra mắt từ năm 1964 và sống đến ngày cuối cùng của Sài Gòn. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo với chủ đề báo “Tập san Văn chương, Tư tưởng, Nghệ thuật”.  Quầy báo Sài Gòn xưa bán cả báo trong nước và ngoài nước Tạp chí Văn cũng quy tụ được nhiều cây bút thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao vốn là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.  Tạp chí Văn, số đặc biệt tưởng niệm Nhất Linh Đối với những người quan tâm đến nghệ thuật sẽ có một số tạp chí chuyên về các bộ môn này như Điện ảnh, Màn ảnh, Màn ảnh Kịch trường… Nổi bật nhất là các tạp chí khai thác mảng đề tài điện ảnh, thường được gọi là “nghệ thuật thứ bảy” với đối tượng người đọc là giới trẻ ghiền xinê. Thông tin tham khảo thường là các tạp chí điện ảnh của Pháp như Ciné Monde, Ciné Revue… mảng điện ảnh trong nước cũng được khai thác triệt để về thị trường phim trong nước cũng như cuộc đời của những tài tử nổi danh.  Tạp chí Màn Ảnh Tân nhạc được gới trẻ quan tâm, nhất là các vũ điệu mới xâm nhập từ Hoa Kỳ như Bebop, Twist, Limbo Rock… Cải lương cũng là một đề tài thu hút nhiều người đọc để theo dõi các nghệ sĩ cải lương trên sân khấu cũng như trong đời thường. Các loại tạp chí nghệ thuật xuất hiện rất nhiều trên các sạp báo miền Nam, từ đó các phóng viên có thêm ngành chuyên biệt như “ký giả kịch trường”, “ký giả điện ảnh”… Độc giả nữ thường chọn cho mình một trong số các tạp chí như Phụ nữ Diễn đàn, Phụ nữ Ngày mai… Báo dành cho phụ nữ thường có những mục như làm đẹp, gia chánh dưỡng nhi, gỡ rối tơ lòng, tâm tình cởi mở....  Phụ nữ Ngày mai Trong Hồi Ký của mình, bà Tùng Long, thư ký tòa soạn Phụ nữ Diễn đàn, viết về những kỷ niệm trong đời làm báo: “Có thể nói, tôi là người đầu tiên khởi xướng viết mục Gỡ Rối Tơ Lòng và được đăng trên báo Saigon Mới vào năm 1953. Nguyên nhân là vì lúc ấy để có tài liệu viết bài về phong trào phụ nữ trên thế giới, tôi đã thường xuyên mua những tạp chí xuất bản ở Pháp. Trong đó có mấy tờ tuần báo Marie Claire, Elle và La Femme. Ngay ở trang đầu báo Marie Claire có mục “Coeur à Coeur” (từ trái tim đến trái tim). Độc giả nữ tâm sự, hỏi về những chuyện tình cảm và được một cây bút nữ trả lời ngắn gọn rất hấp dẫn. Thấy vậy tôi bỗng nghĩ đến một số đông phụ nữ Việt Nam vẫn có những tâm sự tương tự mà không biết hỏi ai nên liền đề nghị với bà Bút Trà, chủ nhiệm báo Saigon Mới, để tôi viết mục Gỡ Rối Tơ Lòng và ký bút hiệu Tùng Long. Bà Bút Trà đồng ý ngay và tờ báo liền quảng cáo về mục Gỡ Rối Tơ Lòng…”  Bà Tùng Long Các tờ báo chính của quân đội VNCH gồm các báo Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến, tuần báo Thông Tin Chiến Sĩ, bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa (tiền thân là tờ Quân Đội) và nguyệt san Phụng Sự. Những tờ báo này quy tụ các cây bút nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Phạm Huấn, Văn Quang... Ngoài ra còn có tờ Cách mạng Quốc gia do chính quyền đương thời chủ trương. Cũng có những tạp chí rất “kén chọn” người đọc, chẳng hạn như Tập san Sử Địa của nhóm giáo sư và sinh viên trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thực hiện, nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã chủ biên với sự bảo trợ của nhà sách Khai Trí. Tập San Sử Địa xuất bản hàng quý (3 tháng mỗi kỳ) từ năm 1966 cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ, tổng cộng 29 số báo. Ban biên tập là các nhà nghiên cứu chuyên môn về sử ký và địa lý, bên cạnh đó là sự góp mặt của các cây bút nổi tiếng như Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Hảo, Vương Hồng Sển, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Đăng Thục, Thái Văn Kiểm, Phan Khoang…  Tập san Sử Địa số ra mắt năm 1966 Điểm nổi bật là trong số báo cuối cùng (số 29, năm 1975), Tập san Sử Địa chọn chủ đề Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, quy tụ một loạt bài viết về những quần đảo của VNCH sau cuộc xâm lăng của Trung Cộng năm 1974. Chủ biên Nguyễn Nhã có hai bài viết Thử đặt vấn đề Hoàng Sa và Hoàng Sa qua vài tài liệu văn khố của Hội Truyền Giáo Ba Lê. Nguyễn Nhã viết: “Cách đây vừa đúng một năm, vấn đề Hoàng Sa trở nên sôi động nhưng rồi có vẻ như bị chìm dần. Nhưng thật ra, biến cố “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc” cưỡng chiếm Hoàng Sa đã, đang gieo vào lòng người Việt Nam những khắc khoải, uất hận về thân phận nhược tiểu trong khi anh em trong nhà thiếu đoàn kết. [Nguyễn Nhã ám chỉ miền Bắc VNDCCH bị ràng buộc bởi thế liên minh với Trung Cộng trong cuộc chiến tranh Nam-Bắc vừa qua nên nội bộ người Việt Nam “thiếu đoàn kết” trong vấn đề TC lấn chiếm Hoàng Sa năm 1974]. "Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc anh hùng, nổi tiếng bất khuất, quyết liệt chống lại mọi hình thức xâm lăng bất cứ từ đâu tới. Trong quá trình lịch sử, người Việt Nam có thể bị thất bại, nhưng cũng chỉ tạm thời trong hàng chục năm, hàng trăm năm và có thể tới hàng ngàn năm, nhưng rồi thời cơ tới, người Việt Nam vẫn còn dẻo dai quật khởi và cuối cùng kẻ thù nào cũng bị đánh bại để Việt Nam tồn tại. "Người Trung Hoa đang cố gắng tạo hỏa mù về Hoàng Sa để dư luận thế giới lầm tưởng rằng quần đảo Hoàng Sa chưa rõ ràng thuộc về nước nào, nên các quốc gia đã tranh chấp nhau, để rồi kẻ mạnh đã dùng sức mạnh để thắng. "Thật ra, việc Việt Nam hành sử chủ quyền tại Hoàng Sa đã quá lâu và tiếp tục qua nhiều thế kỷ trước khi người Pháp đến đô hộ Việt Nam. Mọi người Việt Nam đều biết như vậy và các sử liệu chữ Hán, Việt, Anh, Pháp mà trong số báo này đã phần nào đăng tải, đã chứng minh việc hành sử chủ quyền của Việt Nam không thể chối cãi và không còn tranh nghị nữa”. Học giả Hoàng Xuân Hãn có bài nghiên cứu mang tựa đề Quần đảo Hoàng Sa: “Quần đảo Hoàng Sa là đất của Việt Nam, hoặc nói cho hợp hơn, là đất của Đại Việt từ khi dân Việt định cư ở phủ Tư Nghĩa, tức là đất Quảng Ngãi ngày nay. "Bút chứng cũ nhất và đầy đủ nhất thấy trong sách Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn soạn vào năm 1776, với những tư liệu của các Chúa Nguyễn. Sau đó, các sử gia, địa gia đời vua Nguyễn đều dựa theo đó và thêm thắt việc mới vào. Về đồ vẽ, các “bản đồ” và “lộ đồ” đời Lê cũng có ghi một cách sơ sài cái “bãi cát vàng” hoặc “bãi Trường Sa” ấy”. Thái Văn Kiểm đưa ra những chứng cớ trong bài Những sử liệu Tây Phương minh chứng chủ quyền của Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa từ thời Pháp thuộc đến nay. Ngoài ra, còn có các bài Hoàng Sa dưới mắt nhà địa chất H. Fontaine (của tác giả Lạp Chúc Nguyễn Huy), Các văn kiện chính thức xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời Pháp thuộc tới nay (Bà và Ông Trần Đăng Đại), Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa liên quan tới vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Quốc Tuấn) và Hoàng Sa qua những nhân chứng (Trần Thế Đức). Chúng tôi sẽ có bài viết riêng về số báo chuyên đề về Hoàng Sa – Trường Sa của Tạp chí Sử Địa trong một dịp khác. Bạn đọc có thể tham khảo các bài viết trong số 29 của Tạp chí Sử Địa qua địa chỉ: www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/tapsansudia29dackhaohoangsatruongsa1.pdfGiáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (sau năm 1975) đã nhận xét về tờ báo này của VNCH: “Tập san Sử Địa để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc về tinh thần khoa học và ý thức dân tộc của những người chủ trương tập san và các tác giả bài viết. Tính khoa học và tính dân tộc là đặc điểm bao trùm của tập san. Nhiều bài viết trên tập san thật sự là những công trình nghiên cứu có giá trị cao, sưu tầm tư liệu công phu, xử lý thông tin khoa học, thái độ khách quan trung thực và nhất là góp phần dấy lên tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và nêu cao các giá trị văn hóa dân tộc...”.  Số cuối cùng năm 1975 của Tập san Sử Địa: “Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa” Hiện tượng báo chí thuộc loại “lá cải” cũng đáng được ghi nhận trong làng báo Sài Gòn. Các tờ báo này được đa số người đọc ưa thích vì thường đưa tin thời sự “giật gân” và đăng các loại tiểu thuyết, truyện kiếm hiệp feuilleton. Mục đích chính của chủ báo là khai thác thị hiếu của người bình dân để kiếm tiền. Số lượng phát hành của loại báo này luôn luôn cao: Saigon Mới (65.000 bản), Tiếng Chuông (60.000 bản), Tin Điển (40.000 bản)… Trước 1954, Sài Gòn có hai tờ báo nổi bật là Thần Chung (Nam Đình làm chủ nhiệm) và Tiếng Chuông (Đinh Văn Khai). Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, tờ Thần Chung bị đóng cửa trong suốt 9 năm, mãi đến khi chính phủ quân nhân lên nắm quyền mới được phép tục bản. Giấy phép chưa ráo mực, Thần Chung lại bị đóng cửa một lần nữa vì lý do “thiên cộng”, cụ thể là trường hợp của ký giả Nguyễn Kỳ Nam bị phát hiện là người của miền Bắc gài trong tòa soạn. Đối với tờ Tiếng Chuông, ít ai ngờ là có một số ký giả “nằm vùng”. Mãi đến sau này mới “ngã ngửa” là ký giả Nguyễn Văn Hiếu, tức Khải Minh, đã mang chức Bí thư ban Trí vận thành ủy khoảng thời gian 1949-1957. Tờ Buổi Sáng với số phát hành 25.000 bản có sự góp mặt của Trần Bạch Đằng qua bút hiệu Tổng Tào Lao. Trong suốt cuộc chiến vừa qua, Trần Bạch Đằng lần lượt đảm trách nhiều cương vị quan trọng như bí thư Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục, Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông chính là tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý, người viết Ván bài lật ngửa xuất bản sau năm 1975. Ván bài lật ngửa cũng được lên phim nhựa, đen trắng, dài 8 tập, do Xí nghiệp phim Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Hãng phim Giải Phóng) sản xuất trong những năm 1982-1987. Bộ phim mô phỏng quãng đời hoạt động của các nhân vật gián điệp “nằm vùng” có thật ngoài đời. Phim do Nguyễn Trương Thiên Lý viết kịch bản, Khôi Nguyên (tên mới của Lê Hoàng Hoa trước 1975) đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên Nguyễn Chánh Tín (vai Nguyễn Thành Luân), ca sĩ Thanh Lan và Thúy An (vai nữ điệp viên tình báo Thùy Dung, vợ của Nguyễn Thành Luân).  Bộ phim DVD “Ván bài lật ngửa” Bên cạnh đó, còn một số không nhỏ những nhà văn, nhà báo có xu hướng “thân cộng” được Hà Nội gọi là “thành phần tiến bộ”. Tuy không phải là đảng viên nhưng họ có tư tưởng thiên về Cộng sản. Trong số này phải kể đến Thiên Giang, Nguyễn Bảo Hóa (Tô Nguyệt Đình), Tam Mộc, Lý Văn Sâm, Thuần Phong, Trần Tấn Quốc, Quốc Ấn, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Huỳnh Hoài Lạc, Trúc Chi, Đỗ Thiếu Lăng, Quách Thoại và Tam Ích. Trong bài viết Báo chí miền Nam trước 1954, Nguyễn Văn Lục điểm mặt đích danh một số tờ báo có những “ký giả nằm vùng” hoặc “thiên cộng” như Dân Chủ có cán bộ cộng sản Thành Hương, Ngôn Luận có Châu Dương, Sàigòn Mai có Ty Ca, Dân Chúng có Phi Vân và Thời Luận có ký giả Ký Ninh làm tổng thư ký tòa soạn. Có một trường hợp đặc biệt trong làng báo Sài Gòn: một chính trị gia, nhà văn, nhà báo đã sống 70 năm trong thế kỷ XX và trải qua nhiều năm tù tội dưới tất cả các chính quyền tại Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, thời VNCH và thời CHXHCN. Chúng tôi muốn nói đến Hồ Hữu Tường. Thụy Khê đã nhận xét về Hồ Hữu Tường: “Tác phẩm của ông phản ảnh tính chất nổi loạn trong con người, một con người vừa trào lộng, vừa bi đát, suốt đời đi tìm phương cách giải phóng dân tộc ra khỏi mọi hình thức quản trị giáo điều: từ bị trị đến hủ tục, từ độc tôn đến độc tài, nhưng cũng suốt đời “thất bại” trong việc “chống lại định mệnh”, cho đến phút chót vẫn muốn “cưỡng lại số trời” mà không được. Có lẽ ở bên kia thế giới, Hồ vẫn tiếp tục con đường thiên lý của một Phi Lạc đã đại náo trần gian: Tây, Tàu, Nga, Mỹ và giờ đây, xuống âm ty đại náo địa ngục”. Tháng 11/1932, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt lần đầu, giam 6 tháng. Ngày 1/5/1933 ra tòa bị xử án treo ba năm. Trong thời gian bị giam giữ, ông xuất bản nhật báo “nhẩm” Thiên Thu. Trong suốt mười năm làm báo (1930-1939), ông đã viết rất nhiều nhưng nay không còn lưu lại được gì. Năm 1939, Hồ Hữu Tường từ bỏ Đệ tứ Cộng sản và chủ nghĩa Mác-Lê. Ông hợp tác với báo Sàigòn Mới, viết tiểu thuyết Phi Lạc sang Tầu dưới bút hiệu Ý Dư. Bộ tiểu thuyết Ngàn Năm Một Thuở bao gồm Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Náo Huê Kỳ, Phi Lạc Bỡn Nga đã được ông trích đăng từng đoạn trên các báo Sàigòn Mới, Phương Đông, Ánh Sáng... Năm 1955, vì có liên lạc với các nhóm trong Mặt Trận Thống Nhất (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên), chống lại Ngô Đình Diệm, ông bị bắt ở Rừng Sát. Năm 1957 ra tòa và bị kết án tử hình, nhưng nhờ những trí thức ở Pháp trong đó có Albert Camus viết thư can thiệp nên án lệnh được đình chỉ và ông bị đưa ra Côn Đảo. Sau tháng tư năm 1975 ông lại bị đi học tập cải tạo 5 năm và mất tại Gia Định ngày 26/6/1980. Xem ra không một ký giả nào đã nếm đủ mùi nhà tù dưới chế độ thực dân, cộng hòa rồi cộng sản. Có người đã giải thích một cách tiếu lâm vì sao Hồ Hữu Tường “phi lạc vào tù” dưới cả ba chế độ: đơn giản chỉ vì bản thân cái tên “Hữu Tường” của ông khi nói lái sẽ là… “hưởng tù”! .jpg) Hồ Hữu Tường qua nét vẽ Tạ Tỵ Tạ Quang Khôi trong bài Ký giả nằm vùng đã liệt kê một số ký giả năm vùng thời VNCH. Về nhà báo Nguyễn Nguyên (Nguyễn Ngọc Lương), Tạ Quang Khôi viết: “Sau 30/4/1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hối thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng ở báo nào... Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ông phải viết cho báo Tiếp Thị để tạm sống qua ngày”. Về nhà văn-nhà báo Vũ Hạnh, Tạ Quang Khôi Dù viết: “Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nằm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen dùng bút, chứ có biết chơi súng đâu.” Hạnh lườm xéo Tuấn một cái rồi bỏ đi… Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ: “Totalement deҫu!” (hoàn toàn thất vọng)”. Tạ Quang Khôi kể tiếp: “Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang:“Mày biết không? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.” Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp:“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ!”. Tạ Quang Khôi qua nét bút Đằng Giao *** (Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 7:18:53 GMT 9
Truyện Chưởng Ở Sài Gòn Trước 1975
Khoảng năm 1960, tờ Dân Nguyện của ông chủ bút Hà Thành Thọ bỗng khởi đăng nhiều kỳ (feuilleton) cuốn tiểu thuyết võ hiệp Lam y nữ hiệp của Hồng Kông, một tác phẩm thuộc loại “tân trào võ hiệp tiểu thuyết” (danh từ của các nhà xuất bản Hồng Kông), nghĩa là nó khác với các loại “cựu trào” trước Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Do mới và lạ, Lam y nữ hiệp được đông đảo độc giả đón nhận, khen hay, báo bán đắt như tôm tươi! Thấy “ngon ăn”, một tờ báo khác vung tiền “mua đứt” dịch giả cuốn Lam y nữ hiệp, mời ông này dịch bộ Lã Mai Nương. Từ đó, truyện chưởng Hồng Kông bắt đầu bùng nổ trên báo chí miền Nam, khi cùng lúc xuất hiện hai dịch giả Tiền Phong (thường gọi là “Sìn Phoóng”, tên Việt là Từ Khánh Phụng) ngoài 50 tuổi, người Minh Hương, và Tam Khôi (người gốc Hải Nam). Có thể nói Từ tiên sinh là vị sứ giả đầu tiên đưa truyện chưởng Kim Dung đến Sài Gòn qua bộ Bích huyết kiếm, còn Tam Khôi dịch bộ Anh hùng xạ điêu. Tờ Đồng Nai đăng nhiều kỳ truyện dịch của Tiền Phong (Cô gái Đồ Long), còn tờ Dân Việt khai thác tài dịch thuật của Tam Khôi, tờ Báo Mới, đăng bộ Thần điêu đại hiệp và hàng chục tờ báo (trong số đó có một số nhật báo Hoa ngữ như Thành Công, Luân Đàn Mới, Nhân Nhân, Quang Hoa, Á Châu, Kiến Quốc…) đua nhau đăng truyện chưởng. Có báo sắp khai tử, nhờ đăng Cô gái Đồ Long mà hồi sinh mãnh liệt, lượng phát hành tăng vọt!
Tên truyện của Kim Dung được nhiều báo khai thác theo những cách khác nhau, như trường thiên tiểu thuyết Thiên long bát bộ, có báo đặt tên là A Tỷ Kiều Phong, báo thì đăng Lục mạch thần hiếm, có báo lại là Cô Tô Mộ Dung…
Truyện chưởng (kiếm hiệp tân kỳ) đã làm cho nhiều người, nhất là thanh niên, mê như điếu đổ, với những Võ lâm ngũ bá, Cô gái Đồ Long, Võ lâm tuyệt địa, Lưu Hương đạo soái, Tiếu ngạo giang hồ, Kiếm sĩ si tình, Giang hồ hiệp khách, Tướng cướp Liêu Đông, Lục mạch thần kiếm, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Lộc Đỉnh Ký, Thiên long bát bộ… Từ Đài Loan, Hồng Kông, sách chưởng của những Mộ Dung Mỹ, Gia Cát Thanh Vân, Cổ Long, Ngọa Long Sinh, Nhược Minh, Nam Kim Thạch, Độc Cô Hồng, Điển Ca, Kim Dung, Trần Thanh Vân, Trần Trung Vân… tràn vào Sài Gòn-Chợ Lớn qua tờ Minh Báo từ Hương Cảng, với hơn 30 nhà xuất bản tranh nhau in truyện chưởng như An Hưng, An Thành, Bừng sống, Đại Hưng, Đông Hưng, Đông Phương, Hương Hoa, Quyền sống, Vui Sống, Vân Thành, Sông Hữu, Sông Xanh, Trung Thành, Trường Giang, Thành Phương, Thời Đại, Thế Kỷ, Tổ Hợp Tiến, Tổ Hợp sống…
Có năm nhà xuất bản in 5 bộ chưởng của Ngọa Long Sinh, trong đó có bộ dài tới 2.000 trang; có ít nhất sáu nhà xuất bản in sách chưởng của Gia Cát Thanh Vân. Trong hơn mười bộ sách chưởng của cây bút này, có bộ Tứ hải quần hùng dài hơn 1.300 trang, bộ Đoạt hồng kỳ dài hơn 1.500 trang.
Truyện chưởng của Cổ Long cũng được bốn nhà xuất bản in khoảng 11 bộ, cộng chung lại gần 40 tập, tròm trèm 13.000 trang! Nổi bật nhứt là truyện chưởng Kim Dung, đạt mức kỷ lục: hơn 20 bộ, trong đó Cô gái Đồ Long gồm 6 tập với 2.370 trang; Lục mạch thần kiếm (8 tập) cộng lại tới 2.400 trang; Anh hùng xạ điêu cũng 8 tập với 2.820 trang, còn Tiếu ngạo giang hồ có tới 15 tập với ngót 3.000 trang.
Từ khi thể loại truyện chưởng tràn ngập Sài Gòn-Chợ Lớn, lập tức xuất hiện một “guồng máy dịch thuật”: Từ Khánh Vân, Từ Khánh Phụng, Thương Lan, Phan Cảnh Trung, Hàn Giang Nhạn, Phương Thảo, Khưu Văn, Dương Quân, Quần Ngọc, Lão Sơn Nhân, Điền Trung Tử, Lã Phi Khanh… Phan Cảnh Trung dịch ít nhất 10 bộ chưởng của sáu tác giả, in ở năm nhà xuất bản, trong khi đó chỉ từ năm 1969 đến 1973, riêng Thương Lan đã dịch không dưới 62 bộ chưởng của 5 tác giả, in ở 5 nhà xuất bản khác nhau. Đặc biệt, bộ Ỷ thiên Đồ Long ký (tức Cô gái Đồ Long) của Kim Dung do Từ Khánh Phụng dịch (Nhà xuất bản Trung Thành -1966) thu hút hàng trăm ngàn độc giả thuộc mọi tầng lớp.
Năm 1965, Sài Gòn xuất hiện một dịch giả cự phách, lấy bút danh Hàn Giang Nhạn và Thứ Lang. Ông tên thật là Bùi Xuân Trang, sinh năm 1909 tại Thái Bình, là giáo sư trung học Trần Lục, giỏi Hán văn, chuyên dịch sách cho Nha Tu thư Bộ Giáo dục. Ông mua bản quyền của tờ Minh Báo và dịch feuilleton (truyện đăng báo nhiều kỳ) bộ Tiếu ngạo giang hồ cho các nhật báo ở Sài Gòn. Sài Gòn lúc ấy có khoảng 40 tờ nhật báo thì 12 tờ đã mua bản dịch của Hàn Giang Nhạn.
Có thể nói, nhật báo ở Sài Gòn thời ấy sống được là nhờ tiểu thuyết Kim Dung và dịch giả Hàn Giang Nhạn. Tháng 9, tháng 10 trời bão, máy bay Hồng Kông không qua được nên báo phải cáo lỗi, tạm gác một kỳ Tiếu ngạo giang hồ. Tờ báo đăng cáo lỗi ấy đành phải chịu ế, bởi người ta chỉ say mê đọc Tiếu ngạo giang hồ – cái đó kêu bằng “Phi Kim Dung, bất khả mại báo”!
Hàn Giang Nhạn đã dịch ít nhất 25 bộ truyện chưởng.
Một người thư ký ngày đó của Hàn Giang Nhạn, ông Nguyễn Văn Tầm, nhớ lại: Nhà của Hàn Giang Nhạn tiên sinh ngày ấy ở Bàn Cờ. Buổi sáng, tiên sinh vừa uống cà phê xong là đã có 12 anh tùy phái của các nhật báo đến chờ. Tiên sinh mở tờ Minh báo ra và cứ thế mà dịch và đọc cho ông Tầm viết bằng tay. Ông Tầm phải lấy 12 tờ pelure loại mỏng, lót 11 tờ carbon, cố gắng ấn đầu bút bic xuống thật mạnh để “lực đạo” có thể in qua trên 20 tờ giấy. Hễ tùy phái nào đến trước thì được bản ở trên; ai tới sau phải chịu lấy bản ở dưới. Cho nên, chữ nghĩa lộn xộn, cùng một dịch giả mà báo này in khác báo kia!
Bên cạnh việc tranh nhau phóng tác, in truyện chưởng, cải biên truyện chưởng thành truyện tranh, viết truyện chưởng… giả, người ta còn bày ra những cuộc đàm luận, tranh cãi, phân tích, phê bình truyện chưởng, thậm chí một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo lấy tên các nhân vật võ lâm làm bút danh như Lê Tất Điều (Kiều Phong), Nguyên Sa (Hư Trúc), Chu Tử (Kha Trấn Ác)…
Các cao thủ võ lâm trong truyện chưởng Kim Dung như Lệnh Hồ Xung, Hoàng Dược Sư, Trương Vô Kỵ, Dương Quá, Đông Phương Bất Bại, Cừu Thiên Nhận, Âu Dương Phong, Vi Tiểu Bảo, Nhạc Bất Quần, Quách Tỉnh, Châu Bá Thông, Vương Trùng Dương… được giới trẻ coi như thần tượng, hoặc như những anh hùng hảo hán. Những tên nhân vật, chiêu thức võ công, ai cũng phải nằm lòng để không bị chê là… quê! Hai bộ chưởng Xác chết loạn giang hồ và Lệnh xé xác (dịch giả Lã Phi Khanh) là sách “gối đầu giường” của không ít tay anh chị giang hồ thời đó. Chưa hết, từ khi truyện chưởng Kim Dung xuất hiện, khắp hang cùng ngõ hẹp ở Sài Gòn-Chợ Lớn, đi đâu cũng nghe những “tiếng lóng” nhuộm màu sắc võ lâm như: “Thằng cha đó bị tẩu hỏa nhập ma”; “Cà chớn là tao cho một chưởng”; “Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua, lắc một cái ra ba con gà mái”; “Chơi ma giáo”; “Cái bang đại hiệp”; “Ông này công phu thượng thừa, đao thương bất nhập” hoặc Nhất dương chỉ, Nhị thiên đường, Tam Tông Miếu, Tứ đổ tường, Ngũ vị hương, Lục tào xá…
…Một vài hãng phim ở Sài Gòn thấy đề tài kiếm hiệp “ngon ăn”, vội nhảy vào khai thác; sau Báu kiếm rửa hận thù, xuất hiện phim Quái nữ Việt quyền đạo do hãng Mỹ Vân thực hiện (đạo diễn Lê Mộng Hoàng, kịch bản Lê Khanh) với Thanh Nga, Lệ Hoa, Á hậu Ngọc Tuyết, Ngọc Dung cùng Thanh Việt, Văn Chung, Khả Năng, Thanh Hoài, Tùng Lâm, Xuân Phát, Bảo Quốc, Kim Ngọc, Kim Cúc, Năm Châu, chỉ đạo võ thuật: Lý Huỳnh; Long hổ sát đấu do hãng phim Cửu Long thực hiện (chỉ đạo võ thuật là võ sư Hồng Kông Hàn Anh Kiệt và Lý Huỳnh) với các nghệ sĩ Trần Quang, Hoàng Long, Việt Hùng, Bạch Lan Thanh, Ngọc ĐanThanh, Ba Vân, Lý Huỳnh…
M.V. (Theo trieuthanhweeklymagazine.com)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 7:21:19 GMT 9
Tỷ Phú Của Tỷ Phú Sài Gòn Người Sài Gòn trước đây ai cũng biết đến bột ngọt Vị Hương Tố, mì Vị Hương mà chủ nhân là ông Trần Thành, một người có thể ví là “tỷ phú của tỷ phú Sài Gòn”. Để đạt được địa vị như vậy, Trần Thành đã phải trải qua không biết bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn để vươn lên từ hai bàn tay trắng. Thế nhưng, sản nghiệp khổng lồ mà ông ta dày công xây đắp cuối cùng cũng tan theo bọt nước. Từ lao công… Trong hoàn cảnh khốn khó, loạn lạc của đất nước Trung Hoa những năm trước Đệ nhị Thế chiến, giống như nhiều người Hoa khác, cậu thiếu niên Trần Thành đã cùng với gia đình, lưu lạc sang Việt Nam, tha phương cầu thực. Trước năm 1945, Trần Thành vẫn còn bữa đói, bữa no, lang thang, gõ cửa các hãng xưởng của những đồng hương trong vùng Chợ Lớn, chỉ mong kiếm được một việc làm độ nhật. Dịp may đến, Trần Thành được một ông chủ họ Trịnh thu nhận vào làm công tại một cơ sở sản xuất dầu ăn. Cơ sở này chuyên thu mua đậu nành, đậu phọng, đem về ép dầu. Công việc đầu tiên của Trần Thành là cọ rửa các thùng chứa, một loại lao động phổ thông, không cần trình độ, do đó đồng lương cũng chẳng là bao. Cần mẫn, Trần Thành không bao giờ kêu ca, phàn nàn dù nặng nhọc đến mấy, hết giờ làm Trần Thành luôn vui vẻ phụ giúp người khác quét dọn cơ xưởng, góp nhặt các nguyên vật liệu rơi vãi, sắp xếp ngăn nắp dụng cụ… Chính vì thế mà chẳng bao lâu ông ta đã chinh phục được cảm tình của chủ, được giao hết chuyện vệ sinh nhà xưởng. Được tin dùng, Trần Thành phân chia công việc thật công bằng và hợp lý, bản thân mình lãnh phần công việc còn nặng nề hơn những người khác. Chính cách hành xử này đã khiến chủ nhân họ Trịnh càng hài lòng hơn nữa. Uy tín của Trần Thành đối với chủ và cả anh em công nhân ngày càng lên cao, từ đó ông được ông chủ Trịnh cho đi thu mua nguyên liệu ở các tỉnh miền Tây. Trần Thành sau này từng tâm sự, đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, đã làm thay đổi cuộc đời ông ta. Từ một người suốt ngày ru rú ở một góc tối tăm trong xưởng, ông bước ra xã hội rộng lớn bên ngoài và ngỡ ngàng làm quen với việc kinh doanh, mở rộng tầm mắt. Trần Thành lặn lội đến tận những vùng xa để thu mua đậu phọng, đậu nành. Không bao giờ ép giá cũng chẳng bao giờ sai hẹn và hứa hẹn những gì mà không làm. Mua rẻ, ghi vào sổ sách là rẻ, mua cao thì ghi cao, Trần Thành tuyệt nhiên không bao giờ kê giá lên để hưởng lợi. Kiểu làm ăn mua bán lấy chữ Tín làm đầu đã tạo được niềm tin với nhà nông, họ thích bán cho Trần Thành. Để tưởng thưởng, ông chủ Trịnh cho Trần Thành trông coi toàn bộ việc thu mua của xưởng. Thế là ông có dịp đi khắp nước, từ miền Đông ra tới miền Trung và mở rộng sang tận Cam Bốt, biến địa bàn này thành nơi cung cấp lớn nhất. Lúc này Trần Thành đã lập gia đình và tích lũy được một số vốn. Thấy Trần Thành có nhiều đức tính tốt, và khả năng đặc biệt trong kinh doanh, có chí tiến thân, nhất là góp rất nhiều công sức cho hãng, ông chủ họ Trịnh quyết định cho Trần Thành gây dựng cơ nghiệp riêng, cho vay một số vốn lớn để đầu tư và cho độc quyền cung cấp nguyên liệu cho hãng của ông ta. Chẳng bao lâu, Trần Thành trở thành nhà cung cấp các loại hạt có dầu cho hầu hết các hãng xưởng ở khắp miền Nam. …. trở thành chủ hãng bột ngọt Vị Hương Tố Sự nghiệp và tài sản của Trần Thành tăng nhanh theo tốc độ phi mã. Không những đã hoàn lại vốn cho ông chủ Trịnh, Trần Thành còn đủ khả năng thâu tóm mọi nguồn hàng của ngành nghề này. Khi đã gây dựng được một cơ nghiệp khá vững chắc, Trần Thành xoay ra đầu tư vào các hướng khác. Trần Thành lại rất say mê ngành kỹ nghiệp thực phẩm. Đầu óc nhạy bén của Trần Thành nghĩ ngay đến bột ngọt. Thời đó đây là loại gia vị cần thiết cho bữa ăn của mọi gia đình, nhu cầu trên thị trường to lớn biết chừng nào nhưng dân miền Nam còn phải xài bột ngọt của Nhật Bản và Đài Loan, với số lượng nhập có hạn. Trần Thành tính toán: giá rẻ sẽ chiếm dần thị phần và đánh bạt được hàng nhập cảng. Năm 1960, Trần Thành đã cho ra đời Nhà máy sản xuất bột ngọt Vị Hương Tố, có công suất lớn, với thiết bị nhập từ Nhật Bản, được đánh giá là hiện đại nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Ngay bước đầu, nhờ chất lượng chẳng thua kém gì của Nhật Bản và Đài Loan, mà giá cả lại rẻ hơn, bột ngọt Vị Hương Tố sớm được các bà nội trợ đón nhận. Thừa thắng xông lên, Nhà máy bột ngọt Vị Hương Tố còn sản xuất thêm mì gói, mì chay, tàu vị yểu, và đều rất thành công. Suốt thập niên 1960 là thời gian cực thịnh của Trần Thành. Từ lợi nhuận kếch xù của Nhà máy bột ngọt Vị Hương Tố, ông tiếp tục đầu tư vào nhiều ngành nghề khác như: khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, và trường học, mà lĩnh vực nào cũng thắng. Trần Thành còn mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như địa ốc, khách sạn, nhà hàng. Tuy không biết số vốn mà Trần Thành đầu tư ở Singapore, Đài Loan, Hồng Kông là bao nhiêu, nhưng các nhà tài phiệt Chợ Lớn nói rằng còn lớn hơn tài sản của Trần Thành ở Việt Nam. Xuất thân nghèo khó nên khi trở thành ông chủ, Trần Thành quan tâm đến đời sống của công nhân một cách thiết thực. Nếu nhà ai có tang, Trần Thành cho một quan tài và thêm một tháng lương để lo việc ma chay. Ông sống gần gũi và hòa đồng với mọi người. Bất cứ công nhân nào cũng có thể gõ cửa phòng ông chủ để trình bày nguyện vọng, hoặc xin giúp đỡ. Uy tín ngày càng lớn, mới 40 tuổi, Trần Thành đã được bầu làm Bang trưởng Triều Châu và là một trong những nhân vật không chỉ được cộng đồng người Hoa tại miền Nam, mà cả chính quyền kiêng nể. Không ai có thể biết được chính xác tài sản của Trần Thành là bao nhiêu, nhưng người Sài Gòn – Chợ Lớn gọi ông là “tỷ phú của tỷ phú”. Thời đó, có nhà báo hỏi ông bí quyết để thành công trong kinh doanh? Trần Thành nói, đó là điều mà người Á Đông đã biết từ ngàn xưa. Chữ Tín, lòng trung thực và sự kiên trì. Làm ăn mà không giữ được chữ Tín và sự trung thực thì chẳng bao giờ có thể trở thành “ông chủ lớn” nổi. Của cải mất đi còn có thể gây dựng lại được, nhưng uy tín không còn thì coi như trắng tay. Thời kỳ mới khởi nghiệp, có một lần ông đã gom hết vốn liếng có được đánh một chuyến hàng thật lớn từ Nam Vang về. Không ngờ toàn bộ chuyến hàng đó bị thất lạc, mất trắng. Coi như ông hoàn toàn bị phá sản, nợ nần ngày càng chồng chất. Trần Thành tưởng chừng như không còn có thể gượng dậy nổi. Một thời gian ngắn sau, Trần Thành nghe ngóng dư luận coi uy tín của mình còn hay không? Thấy họ thông cảm chứ không chỉ trích, Trần Thành yên tâm đứng dậy, làm lại từ đầu. Chỉ một thời gian ngắn, Trần Thành lại vươn lên, trả hết nợ nần, ơn nghĩa, và bước vào hàng những ông chủ lớn. …không qua được ải mỹ nhân! Triết lý sống của Trần Thành lúc khởi nghiệp là cần kiệm và tránh xa những chốn ăn chơi. Ông nói, làm ăn cũng giống như đi tu. Không nên dính líu đến rượu chè, cờ bạc và phụ nữ. Nhưng khi đã trở thành “tỷ phú của tỷ phú”, Trần Thành cũng sa đà vào con đường ăn chơi. Dân Sài Gòn – Chợ Lớn nhiều người vẫn chưa quên chuyện tình giữa Trần Thành với diễn viên điện ảnh Thang Lan Hoa nổi tiếng của Đài Loan dạo đó. Trong một lần qua Sài Gòn biểu diễn, Thang Lan Hoa đã làm cho trái tim quen đập theo nhịp tính toán của Trần Thành không còn tự chủ được nữa. Trần Thành đã tìm mọi cách làm quen và gần gũi người đẹp, bỏ ra hàng núi tiền dưới chân Thang Lan Hoa. Từ đó, Trần Thành thường xuyên đi về Đài Loan như đi chợ. Sau khi chia tay với cô đào Thang Lan Hoa, Trần Thành thường qua lại Singarpore làm ăn và có con với một phụ nữ bản xứ. Cuối cùng, vào những năm đầu thập niên 1970, khi lui tới vũ trường Maxim, Trần Thành lại bị một vũ nữ trẻ đẹp mê hoặc. Về sau, cô vũ nữ này trở thành vợ bé không biết thứ mấy của Trần Thành… Đ.T.L (kienthuc.net)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 8, 2015 7:54:13 GMT 9
Vũ Quang Ninh, từ con nuôi TT Diệm tới nghiệp phát thanh Du Tử Lê Thời trước tháng 4, 1975, ở Saigon có hai nhân vật cùng làm phát thanh và, cùng giữ những chức vụ quan trọng. Ðó là các ông Phạm Xuân Ninh (bút hiệu Hà Thượng Nhân), và Vũ Quang Ninh. Ðể phân biệt, anh em trong giới văn nghệ, phát thanh đã gọi ông Vũ Quang Ninh là Ninh “con” - Lý do, so với ông Phạm Xuân Ninh thì ông Vũ Quang Ninh nhỏ con hơn. Lại nữa, cả hai ông cùng có một thời gian dài làm việc ở hai địa chỉ cách nhau chỉ vài phút đi bộ. Vì thế, một người trong giới văn nghệ sĩ đã sửa câu đồng giao “Ông Nỉnh ông Ninh / đi đến đầu đình lại gặp ông Nang,” thành “ông Nỉnh ông Ninh / đi đến đầu đường lại gặp ông Ninh.”  Hình chụp tại đài phát thanh Huế. Từ trái qua phải: Mai Thảo, Hà Thanh, Huyền Vân, Quốc Phong, Vũ Quang Ninh, Ngọc Hoa. (Hình: Hồ Ðình Vũ) Nhân vật này chọn “đầu đường” thay cho hai chữ “đầu đình” vì, sau thời gian giữ chức vụ giám đốc đài phát thanh Quốc Gia, ông Phạm Xuân Ninh được điều về làm chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến của quân đội. (1) Mà, tòa soạn báo Tiền Tuyến nằm trong cục Tâm Lý Chiến, số 2 Bis Hồng Thập Tự - - Trong khi ông Vũ Quang Ninh làm giám đốc đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do, ở cư xá Thành Tín, số 7 Hồng Thập Tự. Sinh thời, ông Vũ Quang Ninh bước vào ngành phát thanh rất sớm. Ngay khi mới di cư từ miền Bắc vào Nam, ông đã tham gia ngành phát thanh. Theo một tài liệu còn được lưu trữ trên trang mạng Wikipedia-Mở thì ngay sau khi tốt nghiệp khóa sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, ông được cử làm quản đốc đài phát thanh Huế, trước khi được thuyên chuyển về Saigon, phục vụ tại đài phát thanh Quân Ðội, rồi về làm việc tại đài Tiếng Nói Tự Do, trước khi trở thành giám đốc đài này. Trong thời gian làm quản đốc đài phát thanh Huế, ông Vũ Quang Ninh đã tạo cơ hội cho bạn ông là cố nhà văn Mai Thảo gặp gỡ nữ ca sĩ Hà Thanh, tại trụ sở của đài. Không lâu, sau cuộc gặp gỡ này, nhà văn Mai Thảo đã một thân, một mình trở lại Huế, đến thẳng nhà nữ ca sĩ Hà Thanh / Trần Thị Lục Hà, gặp song thân của người nữ danh ca kia, ngỏ ý muốn xin hỏi cưới cô. Trong một bài viết khá lâu, đã tôi ghi chuyện này theo lời kể của chính tác giả “Ðêm Giã Từ Hà Nội.” Ðược biết, theo chuyện kể của nhà văn Mai Thảo, thì ông rất chân thành, tha thiết muốn được làm rể dòng họ Trần. Bằng cớ, trước khi ra về, ông còn nhấn mạnh: “Nếu được hai cụ chấp thuận thì chúng tôi sẽ mời cha mẹ của chúng tôi từ Saigon ra Huế, để ngỏ lời cầu hôn chính thức...” Tiếc rằng cuộc “cầu hôn” chính thức, duy nhất trong cuộc đời của người đứng đầu tạp chí Sáng Tạo, đã không được gia đình họ Trần chấp thuận. (2) Sự kiện hy hữu này, cũng được người trong cuộc là nữ danh ca Hà Thanh, xác nhận trong những năm cuối đời. (3) Nhắc tới tình bạn thâm giao giữa Vũ Quang Ninh và Mai Thảo, tôi tin, nhiều người còn nhớ, đôi lần, giữa những họp mặt bất ngờ, trong giới hạn thân hữu, nhà văn Mai Thảo từng chỉ tay vào họ Vũ, nghiêm trang tiết lộ rằng: “Thằng này, ngày xưa ghê gớm lắm đấy. Nó được phép gặp ông Diệm bất cứ lúc nào mà không cần phải thông qua chánh văn phòng hoặc phải xin hẹn trước. Vì nó là con nuôi của tổng thống kia mà...” Những lúc đó, nhà truyền thông Vũ Quang Ninh chỉ mỉm cười, không nói gì. Rất nhiều người hiện diện muốn hỏi thêm, chẳng hạn khởi tự nhân duyên nào mà họ Vũ lại được cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nhận làm con nuôi? Hay sự kiện ấy đã xẩy ra khoảng thời gian nào? Nhưng mọi người cùng tôn trọng sự im lặng mang tính tư riêng của ông, không ai ngỏ lời... Là người yêu, quý anh em văn nghệ nên, nếu không kể những văn nghệ sĩ được mời cộng tác dưới hình thức cung cấp bài vở theo hợp đồng, người ta thấy rất nhiều nhân viên bán chính thức, hoặc chính thức của đài Tiếng Nói Tự Do được họ Vũ tuyển dụng như các nhà thơ, nhà văn Dương Nghiễm Mậu, Tú Kếu, Phan Tùng Mai, Nguyễn Thượng Tiến, Song Hồ, các nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, Hồ Ðăng Tín, Từ Công Phụng v.v... Về phía ca, kịch sĩ, người ta thấy có những tên tuổi đáng kể như Quỳnh Giao, Mai Hương, Hồng Vân, Lữ Liên, Vũ Huyến, Thanh Thoại, Bích Sơn, Bích Thủy v.v... Nhưng tình yêu lớn nhất, một đời của họ Vũ, theo tôi, có lẽ vẫn là nghiệp phát thanh! Tôi dùng chữ “nghiệp” thay vì “nghề” bởi vì ngay từ những năm tỵ nạn đầu tiên tại Hoa Kỳ, trong lúc còn làm công việc của một cán sự xã hội cho thành phố Los Angles thì Vũ Quang Ninh đã hợp tác với một số bằng hữu, vốn là nhân viên cũ của ông như Nguyễn Hữu Công, Hạ Bá Kỳ thiết lập một chương trình phát thanh vào mỗi tối Chủ Nhật, gọi là chương trình “Tiếng Quê Hương” ở quận hạt Orange County. Tôi nhớ đó là những năm đầu thập niên 1980s, tại căn nhà chứa xe của chuyên viên phát thanh Hạ Bá Kỳ, những chương trình của Tiếng Quê Hương đã được thu thanh tại đây... Ở những ngày đó, Vũ Quang Ninh phải lái xe từ vùng Los Angeles về Quận Cam làm việc cũng như vận động, khích lệ tinh thần anh chị em cộng tác, hoàn toàn tự nguyện, không thù lao. Phụ trách tin tức của Tiếng Quê Hương thuở đó, ngoài Nguyễn Hữu Công, còn có Ngọc Dung. (Trước khi đổi tên thành Phương Dung, mở thẩm mỹ viện). Trước tháng 4, 1975, ở Việt Nam, Ngọc Dung là xướng ngôn viên đài truyền hình số 7 Cần Thơ, rồi xướng ngôn viên đài phát thanh Chương Trình Tiếng Nói Cửu Long/Quân Ðoàn 4/Chiến Tranh Chính Trị. Thời gian cộng tác với chương trình Tiếng Quê Hương, Ngọc Dung còn ở thành phố Glendale với nhà báo Ngọc Hoài Phương. Cô phải di chuyển hàng tuần một đoạn đường dài không thua gì người chủ xướng Vũ Quang Ninh. (4) Phụ trách những chương trình khác của Tiếng Quê Hương là các nghệ sĩ Bích Sơn, Bích Thuận, Lê Tuấn,... Bên cạnh đó, có thể nhiều người không nhớ rằng, ngoài công việc phát thanh, Vũ Quang Ninh còn hợp tác với ông Ðinh Lưu Nhã, điều hành nguyệt san Diễn Ðàn Giáo Dân, cũng ngay tự những năm đầu thập niên 1980s, tại miền Nam California. Ông Ðinh Lưu Nhã giữ vai trò chủ nhiệm. Ông Vũ Quang Ninh trong vai trò chủ bút. Sau bao nhiêu thăng trầm, truân chuyên, mãi tới năm 1993, Vũ Quang Ninh mới cùng một số chuyên viên, những người nặng lòng với nhu cầu cần có một tiếng nói cho cộng đồng Việt tỵ nạn tại miền Nam California, tiếp tay, góp vốn dựng bảng đài phát thanh Little Saigon Radio (LSR). Rất mau chóng, với thời gian LSR phát triển thêm ở nhiều vùng khác trong nước Mỹ. (Còn tiếp một kỳ) Chú thích: (1) Ông Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân sinh năm 1920 tại làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. (Ðó là lý do ông chọn cho mình bút hiệu... “Hà Thượng Nhân.” Ông cũng dùng bút hiệu Hoàng Trinh cho những bài thơ tình cảm. Nhà thơ Hà Thượng Nhân bị tù cải tạo từ tháng 4, 1975, tới năm 1983 mới được trả tự do. Năm 1990, rời Việt Nam theo chương trình HO, ông chọn định cư tại thành phố San Jose, miền bắc tiểu bang Cali. Ông mất tại thành phố này, ngày 11 tháng 10 năm 2011, hưởng thọ 91 tuổi. (2) Nhà văn Mai Thảo tên thật Nguyễn Ðăng Quý, sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại Nam Ðịnh. Ông là chủ nhiệm tạp chí Sáng Tạo, tạp chí văn chương tạo được ảnh hưởng lớn trong sinh hoạt 20 năm văn học miền Nam (1954-1975). Không biết có phải vì thất bại trước vụ cầu hôn thứ nhất với nữ danh ca Hà Thanh hay không(?) Mà, cho tới ngày từ trần nhà văn Mai Thảo đã không có một lần câu hôn nào khác. Ông cũng không chủ trương sống đời sống vợ chồng với bất cứ người phụ nữ nào... Trước khi qua đời ngày 10 tháng 1 năm 1998 tại thành phố Garden Grove, Nam California, nếu không kể những tập truyện ngắn cũng như tiểu thuyết nổi tiếng, xuất bản trong nước thì, tập thơ duy nhất tựa đề “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền” của Mai Thảo, do nhà sách Văn Khoa, Cali., xuất bản năm 1989 cũng đã gây một tiếng vang lớn trong văn giới... (3) Nữ danh ca Hà Thanh, tên thật Trần Thị Lục Hà sinh năm 1937 tại tỉnh Thừa Thiên/Huế. Bà mất ngày 1 tháng 1 năm 2014 tại thành phố Boston, tiểu bang Masschusetts, Hoa Kỳ vì bệnh ung thư máu, hưởng thọ 77 tuổi.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 5, 2015 0:31:13 GMT 9
Sách dịch và Trần Phong Giao (1932-2005) Viên Linh Các nhà văn nhà thơ, các nhạc sĩ họa sĩ ở miền Nam trong khoảng 1954-1975 sau này đã được nói đến luôn luôn, được nói đến rất nhiều, không những ở hải ngoại mà còn ở trong nước, nhất là ở miền Bắc trong những năm gần đây. Các nhà phê bình có tiếng đề cập văn học miền Nam từ lâu, gần đây là lớp trẻ hơn, không những viết bài, còn do những bài viết ấy, tạo thêm ảnh hưởng thu mua sách quý từ miền Nam giai đoạn 54-75 trong giới đọc sách trong nước. Sách miền Nam in ra nhiều, nhưng nhiều là bao nhiêu thì ít ai biết rõ. Hãy chỉ tìm hiểu một vụ thôi, chúng ta sẽ hình dung thêm rõ hơn, đó là vụ “Hội thảo về hiện trạng và chiều hướng phát triển sách tại Việt Nam [Miền Nam] do Ủy Hội Quốc Gia UNESCO Việt Nam Cộng Hòa tổ chức tại Sài Gòn vào tháng 9, 1972.” Nhà văn, dịch giả Trần Phong Giao (1932-2005). Một viên chức cao cấp của Sở Phối Hợp Nghệ Thuật (tên văn hoa của sở kiểm duyệt) báo cáo: “Căn cứ vào số giấy phép cho xuất bản sách do Bộ Thông Tin chúng tôi cấp ra hàng năm, mỗi năm có khoảng 3000 giấy phép đã ký.” (1) Giả dụ báo cáo trên là đúng, thì trong 20 năm, các nhà văn ở Sài gòn đã sản xuất 3,000 x 20 = 60,000 nghìn sáng tác phẩm Việt Ngữ, nếu sáng tác phẩm ấy in trọn trong 1 cuốn, nhưng những bộ truyện kiếm hiệp chẳng hạn, mỗi bộ dài tới 7, 8 cuốn, số sách sẽ là trăm ngàn cuốn, ấy là chưa kể sách in lậu, sách tái bản không thèm xin phép lại (nếu cái bìa không thay đổi), và chưa kể sách ngoại ngữ nhập cảng. Năm 1971, nói theo một tỷ lệ so sánh tương đương, cứ 1 cuốn sách Việt ngữ được in ra, thì có 10 cuốn sách ngoại ngữ được nhập cảng, vậy 3,000 giấy phép xuất bản sách ký ra, tương đương với 30,000 cuốn sách nhập cảng vào! Vẫn theo tài liệu trên của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa. Bây giờ ta hãy xem việc dịch sách diễn ra như thế nào. Nhà văn Bình Nguyên Lộc nói: “Theo tôi thì phong trào dịch thuật - đã bắt đầu từ trước - sẽ tiếp tục tiến mạnh vào năm 1973 này. Kế đó là sự lui bước kín đáo của ngành xuất bản, vì họ phải mua giấy với giá chợ đen, mà chợ đen giấy năm nay thì quá tàn nhẫn. Tuy sách cứ tiếp tục ra đời là nhờ sách đang in, lúc chưa có chợ đen. Ðã trót làm, người ta phải hoàn thành công việc.” (2) Dịch giả Nguyễn Hiến Lê phát biểu: “Ở nước ta cũng như ở các nước khác, chỉ hạng trung lưu (công chức, quân nhân, tiểu thương) là đọc sách, hạng giàu không có thì giờ đọc, hạng nghèo không có tiền mua, mà hạng trung lưu bây giờ lo chạy gạo đủ mệt rồi; do đó, nạn cho thuê sách năm nay tăng lên mạnh; tôi nghe nói trong nước đã có tới 2,000 nhà cho thuê tiểu thuyết, sách nhi đồng,... (*) và lúc này đương mọc thêm nhiều nhà nữa; cũng do đó, và do thêm đồng bạc mất giá đều đều, nên một số nhà xuất bản phải áp dụng chính sách ăn xổi, thấy một cuốn best seller nào ở Pháp, Mỹ thì gởi mua liền bằng đường hàng không, rồi chia ba chia bốn cho ba bốn người cùng dịch, nội trong nửa tháng xong, để in liền, kẻo nhà khác ra trước mất. Loại sách đó không có giá trị nghệ thuật, nhưng truyện nào cũng hấp dẫn, hy vọng bán được vài ngàn cho các nhà cho thuê sách và một số độc giả dễ tính, kể ra cũng tạm sống được.” (2) Bài này không bàn rộng hơn vấn đề sách dịch. Trước hết chúng ta kiểm điểm từng dịch giả một, nói về một dịch giả và những tác phẩm ông (hay bà) dịch giả ấy đã dịch, chúng ta sẽ có một thoáng nhìn về văn học miền Nam và trình độ độc giả Việt Nam so với các giai đoạn khác. Ðầu tiên xin nói về Trần Phong Giao, dịch giả những cuốn sách văn chương triết thuyết thời đại, mất cách đây đúng 10 năm: 2005. Nhà văn Trần Phong Giao (1932-2005), tên khai sinh là Trần Ðình Tĩnh, bút hiệu Thư Trung, Mõ Làng Văn, Trần Phong, sinh tại Nam Ðịnh, xuất hiện trong làng văn đầu thập niên '60 vừa với sáng tác, Ngồi Lại Bên Cầu, Nửa Ðêm Thức Giấc 1964, vừa với các dịch phẩm: Sứ Mệnh Văn Nghệ Hiện Ðại, dịch bài diễn văn Discours de Suède đọc trong dịp lãnh giải Nobel văn chương của Albert Camus, dày 126 trang, Giao Ðiểm xuất bản năm 1963. Các sách dịch khác: Lưu Ðày và Quê Nhà, dịch L'Exile et le Royaume của Albert Camus, Guồng Máy, dịch L' Engrenage, Chết Không Mồ Mả dịch Morts sans Sépulture và Sự Ðã Rồi dịch Les Jeux sont Faits đều của Jean-Paul Sartre. Ấn phẩm của ông phần lớn do Giao Ðiểm, tên nhà xuất bản của riêng ông, in và phát hành. Ông từng làm quản thủ thư viện tại một đại học tư, Cửu Long; mất ngày 13 tháng 4, 2005 tại Sài Gòn. Mặc dù đã in một tập truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, song Trần Phong Giao không nổi tiếng nhờ sự sáng tác. Sự việc khiến ông được nói đến, thậm chí có thể được ghi nhận vào sự nghiệp báo chí, đó là vai trò thư ký tòa soạn của ông, trước hết là với bán nguyệt san Văn, số 1 ra vào ngày 1 tháng 1 năm 1964, và tập san Văn Uyển, có tính đặc san, tham luận trong khi Văn nổi bật về mặt sáng tác. Ông được nhắc nhở nhiều khi đưa tên tuổi Y Uyên ra ánh sáng, liên tục và trân trọng, với những tập truyện ngắn, mặc dù có thể ông không phải người đầu tiên mà trở thành người số 1 trong vai trò này khi liên tục in sách cho Y Uyên, cổ võ Y Uyên, thậm chí còn trực tiếp vận động để đưa nhà văn sáng giá nhất viết về chiến tranh Việt Nam về miền đất lành hơn, nhưng một viên đạn hay một miểng mìn đã kết thúc sự nghiệp hứa hẹn ấy tháng 1 năm 1969. Làm thư ký tòa soạn một tạp chí văn chương hay trông coi một nhà xuất bản mà không đưa được ra ánh sáng một tài năng xuất sắc nào, một ngòi bút sáng giá nào, thì anh đã không làm nổi vai trò đó một cách tốt đẹp, chỉ khả dĩ dùng được. Phải có một nhận định sắc nét, nếu cần đầy góc cạnh, người thư ký tòa soạn mới làm được cái điều mà nghề nghiệp đòi hỏi: đưa tờ báo tới chỗ thành công, ngoại giả anh chỉ là kẻ thừa kế công trình của người đi trước. Trần Phong Giao đã thành công lớn với vai trò thư ký tòa soạn bán nguyệt san Văn, liên tiếp 8 năm, cho đến khi xung đột với ông chủ nhiệm bỏ vốn. Anh không được cảm tình của nhiều người, điều ấy hầu như rõ ràng, và điều ấy tự nó phơi bày một giá trị của dịch giả “Sự Ðã Rồi.” Làm thư ký tòa soạn, anh trực tiếp đương đầu với cả vài chục người mỗi tuần, vài trăm người mỗi tháng, hoặc đối mặt hoặc qua thư từ điện thoại, mà anh được lòng tất cả mọi người thì hóa ra anh có sở trường của người mại bản, giao tế, chứ không ở sự đánh giá văn chương, các giá trị chữ nghĩa, tinh thần và liên hệ tác giả độc giả, nơi hoan nghênh các cá biệt, coi nhẹ sự đồng phục. Những năm giữa thập niên 70, sau khi Trần Phong Giao phải rời tờ Văn, anh gặp tôi thường hơn ở tòa soạn tạp chí Thời Tập, nhà in Phúc Hưng của cô em gái tôi và tôi ở trong Chợ Lớn, tôi đã mời anh làm chủ bút cho Thời Tập, nhưng cuối cùng vì bận rộn với việc mưu sinh khác (làm quản thủ thư viện một đại học tư, Cửu Long), anh chỉ nhận một mục thường xuyên (Giải Ðáp Thắc Mắc Văn Học - ký bút hiệu Thư Trung), và đứng tên trong Bộ Biên Tập, bên cạnh các tên tuổi khác như Thạch Trung Giả, Tuệ Sỹ, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Nhật Duật, Ðỗ Khánh Hoan. Một hôm Trần Phong Giao làm tôi ngạc nhiên: anh đưa tôi bài viết nhan đề “Thư Ngỏ Gửi Viên Linh.” Hóa ra thư ngỏ đó nói tới khá nhiều mặt liên hệ tới việc làm một tạp chí văn chương ở Sài gòn. Lá thư đăng lên, giới cầm bút biết được nhiều chuyện bên trong bên ngoài làng văn làng báo miền Nam. Trong thư Trần Phong Giao chính thức nói đến công việc anh làm tờ tạp chí Văn: “- Từ tay trắng, với rất nhiều công khó, tôi đã dựng nên một tạp chí văn chương tự lực [tạp chí Văn] mà sống lâu hơn cả trong quá trình sinh hoạt báo chí nước ta. Tôi không có tài, chỉ có chút công. Hơn hai năm nay tôi không viết báo, không làm báo, vì tuân theo một nguyên tắc do chính tôi đặt để cho cuộc sống. “Từ nay, nếu thỉnh thoảng tôi có giúp cho Thời Tập một đóng góp nho nhỏ, ấy là vì tôi biết rõ anh bạn Viên Linh đã và đang làm báo một mình, cô đơn và thiếu thốn. - Rất có thể, rồi ta tôi cũng sẽ làm báo trở lại. Nhưng đó là chuyện về sau. Chuyện chỉ xảy ra trong trường hợp nếu tôi bị đói quá, nếu tôi thấy cần đền đáp tình người tri kỷ, nếu tôi, tự làm lấy báo của riêng mình hoặc nếu gặp được người biết cách đãi ngộ tốt với các cộng tác viên...[...] Bạn Viên Linh, Ngày hai bữa cơm rau, nếu không được ‘vỗ bụng no bình bịch’ thì cũng đỡ chạy xuôi chạy ngược, lo đôn lo đáo, thì giờ rảnh rang, học thêm ít chữ nghĩa thánh hiền cho mình bớt ngu. Ðêm đêm chong đèn, dịch văn. Dịch xong, cuốn nào in được thì cho in. Gặp khó, đem cất kỹ vào ngăn tủ... chờ thời. Ðược làm những việc mà mình ưa thích há chẳng đủ là niềm hạnh phúc của kiếp nhân sinh, chao ôi, cái kiếp nhân sinh dẫy đầy hệ lụy!” (3) Chú thích
1. Tài liệu Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa in năm 1971.
2. Trả lời Viên Linh phỏng vấn về “Một năm văn học nghệ thuật sau Hiệp định Ngưng bắn và Vãn hồi Hòa bình Paris 1.1973.” Thời Tập số 1, Sài Gòn, tháng 12, 1973.
(*) Sách miền Nam trung bình in ra 3,000 cuốn kỳ in thứ nhất. Tác giả nào tên tuổi, ăn khách in 5,000. Nội các nhà thuê sách mua đã bán được khoảng 1,000 cuốn. Nếu Miền Nam có 2,000 nhà cho thuê truyện, thì người đọc tiểu thuyết trung bình phải có khoảng 5,000 người, nếu 1 cuốn sách chỉ có 5 người thuê. Ngược lại, cứ xem sổ sách nhà cho thuê truyện, mỗi cuốn trung bình cũng có mươi mười lăm người thuê.
3. Trần Phong Giao, Thư Ngỏ Gửi Viên Linh, Thời Tập số Xuân Ất Mão, Sài Gòn, 1.2.1975.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 6, 2015 18:01:03 GMT 9
Cây Cổ Thụ Của Tuổi Hoa Đã Ra Đi27/06/2015 Cam Li Nguyễn Thi Mỹ Thanh            Trước 1975, tác giả đã có nhiều truyện ngắn, truyện dài do tạp chí và nhà xuất bản Tuổi Hoa ấn hành tại Saigon. Sau tháng 4/1975, Cam Li không viết nữa. Định cư tại San Jose từ 2003. Cam Li bắt đầu góp bài cho Việt Báo từ 2009 và đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ 2010. * * * Người ta đọc được những dòng chia sẻ: Ông Simon NGUYỄN BÍCH VÂN Bút hiệu Nguyễn Trường Sơn, Hà Châu Chủ bút BÁN NGUYỆT SAN TUỔI HOA Giám đốc TỦ SÁCH TUỔI HOA Đã mệnh chung vào lúc 12 giờ 45 trưa Thứ Tư 20 tháng 5 năm 2015 (giờ Paris), hưởng thọ 97 tuổi. Tang lễ sẽ được cử hành tại Paris, Thứ Ba ngày 26 tháng 5 năm 2015. Vâng, những dòng chia sẻ đơn giản, chứ không phải cáo phó, như một thông báo trong muôn vàn thông báo của đời sống, được đăng trên blog của tuoihoaonline. Và rồi một thông báo khác sau đó: “Buổi tưởng niệm nhà văn Nguyễn Trường Sơn sẽ được tổ chức vào ngày 7 tháng Sáu, năm 2015 tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, 1538 N. Century Blvd. Santa Ana, CA 92703. Thánh lễ do Đức Giám Mục Dominic Mai Thanh Lương và Linh Mục Bill Cao cử hành. Nhà văn Nguyễn Trường Sơn đã góp phần đáng kể vào công cuộc giáo dục thanh thiếu niên Việt Nam trong những thập niên 1960 và 1970. Ảnh hưởng tốt đẹp của tạp chí Tuổi Hoa và tủ sách Tuổi Hoa cho đến nay vẫn là dấu ấn không phai mờ trong tâm hồn rất nhiều độc giả Tuổi Hoa thời niên thiếu.” Ly không có mặt trong buổi tưởng niệm ấy. Nhưng Ly sẽ tưởng niệm bác suốt đời. * Sao Ly lại nghĩ bác là cây cổ thụ nhỉ? Một cây cổ thụ lặng lẽ, nghiêm trang trong một khu vườn đầy hoa lá và tiếng chim! Đó là khu vườn xinh xắn an lành nơi mảnh đất quê hương: Khu vườn Tuổi Hoa. Cái tên “Tuổi Hoa” tự nó đã đầy ý nghĩa sống động. Nhưng cụ thể hơn cả, nó là tên của một bán nguyệt san dành cho tuổi học trò, và sau này cũng là tên của một tủ sách chuyên xuất bản những truyện dài: Tủ Sách Tuổi Hoa. Các anh chị trong tòa soạn gọi Bác là “Anh Cả”, chỉ có Ly gọi Bác bằng “Bác”, bác Trường Sơn. Mấy ai biết nhiều về cuộc đời của bác? Chỉ sau khi bác ra đi, mọi người mới có dịp nhắc nhở: “Sự nghiệp viết báo của ông Nguyễn Trường Sơn khởi đầu từ Hà Nội, thập niên 1950. Hai tác phẩm đầu tiên là Măng Chột (báo Đạo Binh Đức Mẹ) và Xóm Giáo (phát động thành lập đoàn liên minh Thánh Tâm), cả hai đều ký bút hiệu Hà Châu. Sau khi vào Nam, nhà văn Nguyễn Trường Sơn bắt đầu nghĩ đến việc giáo dục thanh thiếu niên một cách lâu dài hơn. Tiền thân của tờ báo Tuổi Hoa là một quyển truyện mỏng “Đường Vào Hang Cọp” với nội dung khuyên trẻ em nên biết nghe lời người lớn, những bậc đã có kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau khi phát hành, tác phẩm này được tiếp nhận rất nồng hậu và ông nghĩ ra một chuyện lớn hơn, “dài hơi” hơn, đó là ra một tờ báo. Từ đó bán nguyệt san Tuổi Hoa ra đời. Khi báo đã đứng vững, ông cho phát hành tiếp tủ sách truyện Tuổi Hoa với ba loại: “Hoa Đỏ” dành cho tuổi thanh thiếu niên thích phiêu lưu mạo hiểm, “Hoa Xanh” dành cho tình cảm nhẹ nhàng của thiếu nhi, và ít lâu sau đó là “Hoa Tím” dành cho lứa tuổi mới lớn với ít nhiều mộng mơ. Truyện “Chú Thỏ Đế” là “sản phẩm” đầu tiên được đón nhận, và ông bắt đầu thành lập hẳn tủ sách Tuổi Hoa.” (Theo Nhà văn Quyên Di.) * 15 tuổi, đang học lớp Đệ Tam (lớp 10), Ly “cả gan” gửi bài cho Tuổi Hoa, theo lời khuyến khích của Thầy Hoàng Đăng Cấp dạy Toán ở lớp Ly học và cũng là một cây bút của Tuổi Hoa. Truyện ngắn đầu tiên của con bé viết về chiến tranh, và… lại được đón nhận. Con bé đi vào khu vườn ngập hoa lá bằng những bước chân rụt rè. Cây cổ thụ - lúc đó ở tuổi trung niên - mỉm vười khuyến khích con bé. Và cứ thế, những truyện ngắn Ly đã nắn nót viết tay – thời đó làm gì có computer! – rồi “đem nộp”, đã thường xuyên có mặt trên Bán nguyệt san Tuổi Hoa. Khi có bài đăng, Ly được tặng một số báo Tuổi Hoa. Có lẽ những ai đã sống “thời Tuổi Hoa”, đều đồng ý rằng đa số học trò muốn mua sách báo thì phải nhịn quà sáng, vì giá sách báo “không hề rẻ”. Nhưng thật dễ thương, có bạn đã “làm giàu” cho mình bằng cả một tủ sách báo do chắt chiu mà sắm được, và quý như vàng. Trong thế giới văn chương của Miền Nam Việt Nam thời đó, không có ai “dạy viết” cho ai cả, trừ quý thầy cô dạy Việt Văn trong nhà trường, nhưng đó lại là một chuyện khác. Vào khu vườn Tuổi Hoa, như đã có một vùng đất được vun bón, những cây trái hoa cỏ cứ việc tăng trưởng. Mà chính những tác phẩm của bác Trường Sơn là chất liệu quý giá đã góp thêm phần màu mỡ cho đất. Chính những tác phẩm của bác đã là những bài “dạy viết” tuyệt vời! Chưa hết, nếu không nói đến chuyện “được trả tiền nhuận bút” sẽ là một thiếu sót rất lớn. Viết truyện ngắn đăng báo, là sẽ được trả tiền nhuận bút. Báo nào cũng vậy, chứ không riêng báo Tuổi Hoa. Vì vậy người đọc cũng thấy câu này rất thường trên các báo: “Bài được đăng trên báo này rồi xin đừng gửi cho báo khác”. Tuy là viết thì có nhuận bút, nhưng viết trở thành một sinh hoạt, một nhu cầu, không phải một phương tiện. Các cây bút trẻ thời đó không viết vì tiền. Mùa he, sau khi thi đậu Tú Tài 1, Ly được nhận vào làm “cô cò” cho tòa soạn Tuổi Hoa. (Thời ấy kỹ thuật in là đúc từng chữ rời bằng chì. Muốn xếp từ ngữ “báo”, thợ xếp chữ phải lần lượt bốc chữ b, chữ á và chữ o. Cứ vậy ghép lại thành trang sách, in tạm ra để sửa kỹ mọi sai sót trước khi lên máy in. Người trách việc coi bản in tạm, sửa lỗi gọi là “thầy cò” vì thường do các chú, các bác lớn tuổi phụ trách.) Thế là ngoài chuyện học hành, Ly có thêm “nghề”. Mỗi buổi chiều Ly đến tòa soạn, ngoài công việc “cô cò” Ly còn nhận các thư từ của độc giả để phụ bác Trường Sơn phân loại, trả lời, hoặc sắp xếp cho bác tiện việc đọc để chọn đăng. Công việc rất yên lặng vì ít ai vào tòa soạn trong ngày thường, trừ khi có việc cần. Còn muốn thấy cảnh nhộn nhịp không khó, chỉ việc bước vài bước ra phía sau là sẽ đến nhà in, dùng chung cho báo Đức Mẹ và báo Tuổi Hoa. Ở đó, tiếng máy in chạy rập rình suốt buổi, át hẳn tiếng người nói. Có khoảng sáu, bảy người làm việc, từ sắp chữ, lên khuôn, in thử, rồi sau mấy lần sửa chữa dưới bàn tay của “cô cò”, các bản in chính thức sẽ ra đời, được đóng gáy, ráp bìa, đem đi phát hành. Mà vui nhất có lẽ là chiều Thứ Bảy, các anh chị trong Ban biên tập tụ họp về, cùng với thân hữu và độc giả khắp nơi, ghé chơi chuyện trò, ca hát. Một số cây bút Tuổi Hoa, đi lính, đã sớm đền nợ nước ở tuổi còn rất trẻ. Tòa soạn có những lúc đắm chìm vào nỗi buồn của đất nước. Loại “Hoa Tím” ra đời trễ nhất, sau hai loại “Hoa Xanh” và “Hoa Đỏ”. Ly là người sớm viết cho loại này, cũng với sự khuyến khích của bác Trường Sơn. Ban đầu, vì nghe nói loại “Hoa Tím” dành cho tuổi mới lớn, tuổi mơ mộng, có “chút chút” yêu đương, nên một số phụ huynh e ngại loại truyện này, cấm các con nhỏ xem. Càng bị cấm thì các bạn càng tò mò, lẽ đương nhiên. Nhưng Tủ Sách Tuổi Hoa đã đi vững chắc với đường hướng của mình, dần dần các cây bút và các tác phẩm loại “Hoa Tím” đã được “giải oan” và trở thành người bạn thân thiết của độc giả học trò. * Tòa soạn Tuổi Hoa đóng cửa ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ly không biết các thành viên của Tuổi Hoa đã đi đâu, ra sao. Cái biến cố to lớn ấy đã thay đổi tất cả. Ly, cây bút tuổi học trò, có hai truyện dài “được” nằm trong danh sách bị cấm. Như một cây non bị bứng ra khỏi khu vườn yên vui, vứt vào một vùng đá đen, xung quanh toàn những cây gai hung tợn, cây non lập tức héo úa. Ly muốn gượng dậy, nhưng rồi không được. Ly thà cất cây bút của mình vào một nơi không được nhớ đến, hơn là phải bẻ cái ngòi bút cho cong. Ly tự đặt một dấu chấm hết cho việc viết lách của mình, không muốn liên lạc với một ai. Tình cờ về sau Ly được biết bác Trường Sơn cùng gia đình đã qua sống bên Pháp. Bây giờ, bác chọn thời điểm 40 năm để ra đi vĩnh viễn. Một khoảng thời gian dài! Khoảng thời gian ấy có làm cho tâm tư của Bác mòn mỏi? Bác hẳn đã hơn ai hết nhớ thương mảnh vườn mà Bác đã khai mở và vun đắp. Nhưng dù sao, nghĩ đến bác Trường Sơn, Ly thường nghĩ đến hình ảnh người mang trên tay những hạt giống. Bác sống nửa sau của cuộc đời và ra đi ở bên Pháp. Nhưng những hạt giống lành Bác đã gieo khắp nơi, từ khu vườn hoa gấm một thời. Có một mảnh đất mà Ly không thể không nhắc đến. Nơi đó được xem là một “Tủ Sách Tuổi Hoa” thời hậu 75. Mà người khai mở mảnh đất ấy lại là Thục Đoan, một bạn trẻ sống tại Hoa Kỳ, chưa từng là cây viết của Tuổi Hoa. Bạn vì lòng yêu mến Tuổi Hoa và hiểu được nhu cầu của độc giả, đã làm một cuộc sưu tầm các tác phẩm của Tuổi Hoa và nhờ người đánh máy lại để thành lập “Tủ Sách Tuổi Hoa online”. Nhờ đó, Ly đã hăng hái đánh máy hết các truyện ngắn, truyện dài của mình gửi cho bạn đăng. Bạn cùng với một số bạn khác cũng tìm tòi và đánh máy, đăng gần hết các tác phẩm của Tuổi Hoa. Một Tuổi Hoa “ảo” mà thật, đang vươn lên trong thế giới mở của văn hóa văn nghệ ngày nay. Mà không chỉ là những tác phẩm cũ được hồi sinh, thực tế các cây bút của Tuổi Hoa đã sống lại, tiếp tục đứng lên. Hình ảnh một cây cổ thụ sừng sững mà rất đỗi khiêm nhường, lặng lẽ truyền sức sống cho cả một thế hệ, Ly sẽ mãi nhớ và tri ân bác suốt đời. Bác Nguyễn Trường Sơn ơi! Xin Bác yên nghỉ. Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh Cây Cổ Thụ Của Tuổi Hoa Đã Ra ĐiNgười ta đọc được những dòng chia sẻ : Ông Simon NGUYỄN BÍCH VÂN Bút hiệu Nguyễn Trường Sơn, Hà Châu Chủ bút BÁN NGUYỆT SAN TUỔI HOA Giám đốc TỦ SÁCH TUỔI HOA Đã mệnh chung vào lúc 12 giờ 45 trưa Thứ Tư 20 tháng 5 năm 2015 (giờ Paris), hưởng thọ 97 tuổi. Tang lễ sẽ được cử hành tại Paris, Thứ Ba ngày 26 tháng 5 năm 2015. Vâng, những dòng chia sẻ đơn giản, chứ không phải cáo phó, như một thông báo trong muôn vàn thông báo của đời sống, được đăng trên blog của tuoihoaonline.  Và rồi một thông báo khác sau đó : “Buổi tưởng niệm nhà văn Nguyễn Trường Sơn sẽ được tổ chức vào ngày 7 tháng Sáu, năm 2015 tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, 1538 N. Century Blvd. Santa Ana, CA 92703. Thánh lễ do Đức Giám Mục Dominic Mai Thanh Lương và Linh Mục Bill Cao cử hành. Nhà văn Nguyễn Trường Sơn đã góp phần đáng kể vào công cuộc giáo dục thanh thiếu niên Việt Nam trong những thập niên 1960 và 1970. Ảnh hưởng tốt đẹp của tạp chí Tuổi Hoa và tủ sách Tuổi Hoa cho đến nay vẫn là dấu ấn không phai mờ trong tâm hồn rất nhiều độc giả Tuổi Hoa thời niên thiếu.” Ly không có mặt trong buổi tưởng niệm ấy. Nhưng Ly sẽ tưởng niệm bác suốt đời. * Sao Ly lại nghĩ bác là cây cổ thụ nhỉ? Một cây cổ thụ lặng lẽ, nghiêm trang trong một khu vườn đầy hoa lá và tiếng chim! Đó là khu vườn xinh xắn an lành nơi mảnh đất quê hương: Khu vườn Tuổi Hoa. Cái tên “Tuổi Hoa” tự nó đã đầy ý nghĩa sống động. Nhưng cụ thể hơn cả, nó là tên của một bán nguyệt san dành cho tuổi học trò, và sau này cũng là tên của một tủ sách chuyên xuất bản những truyện dài: Tủ Sách Tuổi Hoa. Các anh chị trong tòa soạn gọi Bác là “Anh Cả”, chỉ có Ly gọi Bác bằng “Bác”, bác Trường Sơn. Mấy ai biết nhiều về cuộc đời của bác? Chỉ sau khi bác ra đi, mọi người mới có dịp nhắc nhở: “Sự nghiệp viết báo của ông Nguyễn Trường Sơn khởi đầu từ Hà Nội, thập niên 1950. Hai tác phẩm đầu tiên là Măng Chột (báo Đạo Binh Đức Mẹ) và Xóm Giáo (phát động thành lập đoàn liên minh Thánh Tâm), cả hai đều ký bút hiệu Hà Châu. Sau khi vào Nam, nhà văn Nguyễn Trường Sơn bắt đầu nghĩ đến việc giáo dục thanh thiếu niên một cách lâu dài hơn. Tiền thân của tờ báo Tuổi Hoa là một quyển truyện mỏng “Đường Vào Hang Cọp” với nội dung khuyên trẻ em nên biết nghe lời người lớn, những bậc đã có kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau khi phát hành, tác phẩm này được tiếp nhận rất nồng hậu và ông nghĩ ra một chuyện lớn hơn, “dài hơi” hơn, đó là ra một tờ báo. Từ đó bán nguyệt san Tuổi Hoa ra đời. Khi báo đã đứng vững, ông cho phát hành tiếp tủ sách truyện Tuổi Hoa với ba loại: “Hoa Đỏ” dành cho tuổi thanh thiếu niên thích phiêu lưu mạo hiểm, “Hoa Xanh” dành cho tình cảm nhẹ nhàng của thiếu nhi, và ít lâu sau đó là “Hoa Tím” dành cho lứa tuổi mới lớn với ít nhiều mộng mơ. Truyện “Chú Thỏ Đế” là “sản phẩm” đầu tiên được đón nhận, và ông bắt đầu thành lập hẳn tủ sách Tuổi Hoa.” (Theo Nhà văn Quyên Di.)  15 tuổi, đang học lớp Đệ Tam (lớp 10), Ly “cả gan” gửi bài cho Tuổi Hoa, theo lời khuyến khích của Thầy Hoàng Đăng Cấp dạy Toán ở lớp Ly học và cũng là một cây bút của Tuổi Hoa. Truyện ngắn đầu tiên của con bé viết về chiến tranh, và… lại được đón nhận. Con bé đi vào khu vườn ngập hoa lá bằng những bước chân rụt rè. Cây cổ thụ - lúc đó ở tuổi trung niên - mỉm vười khuyến khích con bé. Và cứ thế, những truyện ngắn Ly đã nắn nót viết tay – thời đó làm gì có computer! – rồi “đem nộp”, đã thường xuyên có mặt trên Bán nguyệt san Tuổi Hoa. Khi có bài đăng, Ly được tặng một số báo Tuổi Hoa. Có lẽ những ai đã sống “thời Tuổi Hoa”, đều đồng ý rằng đa số học trò muốn mua sách báo thì phải nhịn quà sáng, vì giá sách báo “không hề rẻ”. Nhưng thật dễ thương, có bạn đã “làm giàu” cho mình bằng cả một tủ sách báo do chắt chiu mà sắm được, và quý như vàng.  Trong thế giới văn chương của Miền Nam Việt Nam thời đó, không có ai “dạy viết” cho ai cả, trừ quý thầy cô dạy Việt Văn trong nhà trường, nhưng đó lại là một chuyện khác. Vào khu vườn Tuổi Hoa, như đã có một vùng đất được vun bón, những cây trái hoa cỏ cứ việc tăng trưởng. Mà chính những tác phẩm của bác Trường Sơn là chất liệu quý giá đã góp thêm phần màu mỡ cho đất. Chính những tác phẩm của bác đã là những bài “dạy viết” tuyệt vời! Chưa hết, nếu không nói đến chuyện “được trả tiền nhuận bút” sẽ là một thiếu sót rất lớn. Viết truyện ngắn đăng báo, là sẽ được trả tiền nhuận bút. Báo nào cũng vậy, chứ không riêng báo Tuổi Hoa. Vì vậy người đọc cũng thấy câu này rất thường trên các báo: “Bài được đăng trên báo này rồi xin đừng gửi cho báo khác”. Tuy là viết thì có nhuận bút, nhưng viết trở thành một sinh hoạt, một nhu cầu, không phải một phương tiện. Các cây bút trẻ thời đó không viết vì tiền. Mùa hè, sau khi thi đậu Tú Tài 1, Ly được nhận vào làm “cô cò” cho tòa soạn Tuổi Hoa. (Thời ấy kỹ thuật in là đúc từng chữ rời bằng chì. Muốn xếp từ ngữ “báo”, thợ xếp chữ phải lần lượt bốc chữ b, chữ á và chữ o. Cứ vậy ghép lại thành trang sách, in tạm ra để sửa kỹ mọi sai sót trước khi lên máy in. Người trách việc coi bản in tạm, sửa lỗi gọi là “thầy cò” vì thường do các chú, các bác lớn tuổi phụ trách.) Thế là ngoài chuyện học hành, Ly có thêm “nghề”. Mỗi buổi chiều Ly đến tòa soạn, ngoài công việc “cô cò” Ly còn nhận các thư từ của độc giả để phụ bác Trường Sơn phân loại, trả lời, hoặc sắp xếp cho bác tiện việc đọc để chọn đăng. Công việc rất yên lặng vì ít ai vào tòa soạn trong ngày thường, trừ khi có việc cần. Còn muốn thấy cảnh nhộn nhịp không khó, chỉ việc bước vài bước ra phía sau là sẽ đến nhà in, dùng chung cho báo Đức Mẹ và báo Tuổi Hoa. Ở đó, tiếng máy in chạy rập rình suốt buổi, át hẳn tiếng người nói. Có khoảng sáu, bảy người làm việc, từ sắp chữ, lên khuôn, in thử, rồi sau mấy lần sửa chữa dưới bàn tay của “cô cò”, các bản in chính thức sẽ ra đời, được đóng gáy, ráp bìa, đem đi phát hành. Mà vui nhất có lẽ là chiều Thứ Bảy, các anh chị trong Ban biên tập tụ họp về, cùng với thân hữu và độc giả khắp nơi, ghé chơi chuyện trò, ca hát. Một số cây bút Tuổi Hoa, đi lính, đã sớm đền nợ nước ở tuổi còn rất trẻ. Tòa soạn có những lúc đắm chìm vào nỗi buồn của đất nước. Loại “Hoa Tím” ra đời trễ nhất, sau hai loại “Hoa Xanh” và “Hoa Đỏ”. Ly là người sớm viết cho loại này, cũng với sự khuyến khích của bác Trường Sơn. Ban đầu, vì nghe nói loại “Hoa Tím” dành cho tuổi mới lớn, tuổi mơ mộng, có “chút chút” yêu đương, nên một số phụ huynh e ngại loại truyện này, cấm các con nhỏ xem. Càng bị cấm thì các bạn càng tò mò, lẽ đương nhiên. Nhưng Tủ Sách Tuổi Hoa đã đi vững chắc với đường hướng của mình, dần dần các cây bút và các tác phẩm loại “Hoa Tím” đã được “giải oan” và trở thành người bạn thân thiết của độc giả học trò.  * Tòa soạn Tuổi Hoa đóng cửa ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ly không biết các thành viên của Tuổi Hoa đã đi đâu, ra sao. Cái biến cố to lớn ấy đã thay đổi tất cả. Ly, cây bút tuổi học trò, có hai truyện dài “được” nằm trong danh sách bị cấm. Như một cây non bị bứng ra khỏi khu vườn yên vui, vứt vào một vùng đá đen, xung quanh toàn những cây gai hung tợn, cây non lập tức héo úa. Ly muốn gượng dậy, nhưng rồi không được. Ly thà cất cây bút của mình vào một nơi không được nhớ đến, hơn là phải bẻ cái ngòi bút cho cong. Ly tự đặt một dấu chấm hết cho việc viết lách của mình, không muốn liên lạc với một ai. Tình cờ về sau Ly được biết bác Trường Sơn cùng gia đình đã qua sống bên Pháp. Bây giờ, bác chọn thời điểm 40 năm để ra đi vĩnh viễn. Một khoảng thời gian dài! Khoảng thời gian ấy có làm cho tâm tư của Bác mòn mỏi? Bác hẳn đã hơn ai hết nhớ thương mảnh vườn mà Bác đã khai mở và vun đắp. Nhưng dù sao, nghĩ đến bác Trường Sơn, Ly thường nghĩ đến hình ảnh người mang trên tay những hạt giống. Bác sống nửa sau của cuộc đời và ra đi ở bên Pháp. Nhưng những hạt giống lành Bác đã gieo khắp nơi, từ khu vườn hoa gấm một thời. Có một mảnh đất mà Ly không thể không nhắc đến. Nơi đó được xem là một “Tủ Sách Tuổi Hoa” thời hậu 75. Mà người khai mở mảnh đất ấy lại là Thục Đoan, một bạn trẻ sống tại Hoa Kỳ, chưa từng là cây viết của Tuổi Hoa. Bạn vì lòng yêu mến Tuổi Hoa và hiểu được nhu cầu của độc giả, đã làm một cuộc sưu tầm các tác phẩm của Tuổi Hoa và nhờ người đánh máy lại để thành lập “Tủ Sách Tuổi Hoa online”. Nhờ đó, Ly đã hăng hái đánh máy hết các truyện ngắn, truyện dài của mình gửi cho bạn đăng. Bạn cùng với một số bạn khác cũng tìm tòi và đánh máy, đăng gần hết các tác phẩm của Tuổi Hoa. Một Tuổi Hoa “ảo” mà thật, đang vươn lên trong thế giới mở của văn hóa văn nghệ ngày nay. Mà không chỉ là những tác phẩm cũ được hồi sinh, thực tế các cây bút của Tuổi Hoa đã sống lại, tiếp tục đứng lên. Hình ảnh một cây cổ thụ sừng sững mà rất đỗi khiêm nhường, lặng lẽ truyền sức sống cho cả một thế hệ, Ly sẽ mãi nhớ và tri ân bác suốt đời. Bác Nguyễn Trường Sơn ơi! Xin Bác yên nghỉ.  Cam Li Nguyễn Thi Mỹ Thanh từ quốc nội
|
|