|
Post by Can Tho on Dec 17, 2010 10:47:26 GMT 9
Kim Tự Tháp - Công trình kiến trúc bí ẩn nhất của loài ngườiNếu như phải chọn ra một công trình kiến trúc vĩ đại nhất, bí ẩn nhất của con người, chắc chắn Kim Tự Tháp sẽ là một ứng viên cực kỳ sáng giá. Cùng với xác ướp, tượng nhân sư, các kim tự tháp vĩ đại của người Ai Cập là chủ đề yêu thích của các bộ phim, câu truyện phiêu lưu, truyện kinh dị... Cho đến nay, vẫn chưa có một câu trả lời chính thức, đầy đủ, chính xác nào cho những bí ẩn của Kim tự tháp. Không phải ngẫu nhiên mà trong 7 kỳ quan thế giới (cổ đại), Kim Tự tháp Giza đứng ở vị trí cao nhất và là kỳ quan cuối cùng còn sót lại cho đến ngày nay. Kim tự tháp là gì?Kim tự tháp là cách gọi chung của các kiến trúc hình chóp có đáy là hình vuông và bốn mặt bên là tam giác đều. Trong suy nghĩ của đa số chúng ta, các Kim tự tháp chỉ có riêng ở Ai Cập nhưng thực tế dạng công trình này có ở khắp nơi trên thế giới và là tác phẩm của rất nhiều nền văn hóa khác nhau. Với mỗi nền văn hóa, Kim tự tháp lại có những đặc điểm và mục đích sử dụng rất riêng. Với người Ai Cập cổ đại, Kim tự tháp là công trình được xây dựng và sử dụng như một lăng mộ dành cho nhà vua. Đây cũng là các kim tự tháp nổi tiếng và bí ẩn nhất thế giới cổ đại. Theo sử sách, các nhà vua ngay sau khi lên ngôi, việc đầu tiên họ làm sẽ là bắt đầu xây dựng kim tự tháp cho chính mình. Ngoài ra, một số truyền thuyết cũng cho rằng kim tự tháp là nơi mà người Ai Cập bảo vệ các bí mật vĩ đại nhất của mình. Kim Tự Tháp - Công trình kiến trúc bí ẩn nhất của loài ngườiTiếp theo phải nhắc đến các kim tự tháp của người Mesopotamia mà chúng ta hay gọi là Ziggurats. Các Ziggurat là một phần trong những ngôi đền thờ cúng thiêng liêng nhất của người Mesopotamia. Kim tự tháp của các nền văn minh ở châu Mỹ mà nổi bật là người Maya được sử dụng làm nơi hiến tế (con người) cho thần linh cũng là những công trình hết sức đáng chú ý. Ngoài ra, các dân tộc khác như Nigeria, Greece, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Roman, Ấn Độ và cả Indonesia cũng có những Kim Tự tháp riêng cho mình với những đặc điểm riêng biệt. Tuy nhiên, không có bất cứ Kim Tự Tháp nào khác có thể so sánh được về độ vĩ đại, kỳ bí với những công trình của người Ai Cập, vì vậy, trong bài viết này, chúng ta sẽ đề cập đến những lăng mộ của Pharaon. Vì sao Kim tự tháp Ai Cập lại chứa nhiều bí ẩn đến vậy?Nếu như các công trình kim tự tháp khác con người gần như đều có câu trả lời chính xác về cách thức mà người xưa đã sử dụng thì riêng với những kim tự tháp Ai cập, đây còn là một đề tài gây nhiều tranh cãi. Kim tự tháp, chưa cần đến những câu chuyện hư cấu bởi chúng ta đã có vàn những bí ẩn về trình độ phát triển khoa học và kỹ thuật của người Ai Cập xưa. Điểm đầu tiên cần phải được nhắc đến là việc các Kim tháp được xây dựng từ các khối đá thiên nhiên nguyên khối, hoàn toàn không sử dụng các vật liệu liên kết như cách chúng ta dùng xi măng trong công nghệ xây dựng hiện đại. Các khối đá có cân năng đôi khi đến cả chục tấn được đẽo gọt và ghép lại với nhau theo một cách không thể hoàn hảo hơn, điều này đảm bảo độ vững chắc, hoàn hảo và trường tồn với thời gian. Các khối đá này được liên kết với nhau hoàn toàn dựa trên trọng lượng của chúng. Trên thực tế, kim tự tháp lớn và nổi tiếng nhất của Ai cập hiện nay đã tồn tại được trên dưới 5000 năm. Phải biết rằng, loại đá này không phải luôn được lấy ngay ở gần kim tự tháp mà một số trường hợp, phải được vận chuyển từ những địa điểm cách xa nơi xây dựng hàng trăm thậm chí hàng ngàn km. Đồng thời, cách mà người Ai Cập chuyển được những tảng đá nặng hàng tấn này vào những vị trí chính xác để hòan thành kim tự tháp còn là điều bí ẩn. Thêm nữa, kim tự tháp cũng chứng minh một điều là người Ai Cập đã biết đến số Pi - một hằng số mà sau này Archimedes được coi là người đã phát hiện ra. Các kim tự tháp luôn có một tỷ lệ kích thước rất chuẩn dựa trên việc tính toán được số Pi. Ví dụ như Kim tự tháp Kheops, nếu chúng ta lấy hai lần chiều cao chia cho diện tích đấy, chúng ta sẽ được số Pi. Đây được coi là tỷ lệ chuẩn và hiệu quả nhất để xây dựng những kiến trúc như thế này. Bên cạnh đó, các kim tự tháp cũng được làm chi li đến mức dù được ghép từ các khối đá lớn, riêng biệt nhưng chúng ta thậm chí không thể luồn một lưỡi dao sắc mảnh vào giữa hai phiến đá. Tại kim tự tháp Kheops, chiều cao chênh lệch giữa hai cạnh đối diện ở mức dưới 2cm - một độ chính xác đến kinh hoàng nhất trong điều kiện người Ai Cập không có các máy móc đo đạc chính xác như hiện nay. Tiếp theo là cách mà người Ai Cập hiểu về hiệu ứng nhiệt và một số yếu tố mà cho đến nay, khoa học vẫn chưa thể làm rõ. Không gian bên trong các kim tự tháp được cho là sẽ đảm bảo điều kiện hoàn hảo về nhiệt độ, độ ẩm... để giúp bảo quản xác của các Pharaon một cách tốt và hoàn hảo nhất. Cuối cùng phải kể đến sự hiểu biết đáng kinh ngạc về thiên văn, các chòm sao và các định hướng xuất sắc của người Ai Cập. Chỉ bằng cách quan sát các vì sao, họ đã định hướng một cách chính xác gần như tuyệt đối (sai số dưới 3 độ). Nó được xây dựng như thế nào? Trước tiên phải nói rằng quá trình xây dựng thực sự một kim tự tháp còn là một bí ẩn chưa có lời giải xác đáng. Tất cả những gì chúng tôi đề cập đến sau đây chỉ là những giả thiết được các nhà khoa học cho là có lý nhất về cách người ta xây dựng chúng. Đầu tiên phải nói tới những điểm khoa học đã thống nhất về cách thức người tay xây dựng Kim Tự Tháp. Các công trình vĩ đại này luôn được các Pharaoh khởi động ngay sau khi họ lên ngôi và sẽ mất tới hàng chục năm để hoàn thành một kim tự tháp. Trong thời gian này, một lượng nhân công khổng lồ sẽ được các vị vua của Ai Cập huy động để xây lăng mộ cho mình. Nói chung, số lượng nhân công phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lương thực, thời tiết, chiến tranh... nhưng được cho là dao động từ khoảng 20.000 đến 100.000 người làm việc liên tục. Số lượng nhân công này sẽ được thay thế thường xuyên bởi xây dựng kim tự tháp là công việc rất khổ ải và làm sức khỏe những nô lệ này kiệt quệ. Theo các tài liệu có được, một nhân công trung bình chỉ có thể phục vụ trong khoảng 3 năm là tối đa. Nguyên liệu được sử dụng trong các Kim Tự Tháp Kheops được lấy chủ yếu từ mỏ đá nằm cách không xa Kim tự tháp này. Tuy nhiên, lớp đá bọc ngoài kim tự tháp phải lấy từ sông Tura về đến nơi xây dựng Kim tự tháp. Mỗi khối đá nặng chừng 2,5 đến 8 tấn được di chuyển vượt sông, vượt hàng trăm km để về đến nơi xây dựng. Quá trình này, kinh ngạc, sử dụng hoàn toàn sức người. Ngoài ra, đá granite phải được lấy từ Aswan, một địa điểm cách công trình chừng 935km. Người ta ước tính, việc di chuyển một khối đá mất chừng khoảng 2 tháng ròng rã. Tất nhiên, người Ai Cập không thể kéo lê các tảng đá nặng hàng tấn này suốt một quãng đường dài như vậy. Ngoài việc sẽ cực kỳ tốn công sức, các khối đá đã được đẽo gọt này sẽ bị hư hại nghiêm trọng. Để giải quyết, họ sử dụng các thanh trượt bằng gỗ, kéo bằng dây thừng đến công trường. Tất nhiên, dù như vậy, công sức bỏ ra để di chuyển một tảng đá cũng là rất lớn. Đưa đá lên caoĐây là bước gây nhiều tranh cãi nhất trong quá trình xây dựng một kim tự tháp. Hãy nhớ một điều quan trọng là người Ai Cập khi đó hoàn toàn chưa có các loại máy móc hiện đại hỗ trợ. Ngay cả bây giờ, tức là khoảng 4000 năm sau khi các kim tự tháp Giza được hoàn thành, việc nâng các khối đá nặng hàng tấn lên độ cao hàng chục mét vẫn là một thử thách lớn. Vậy tại sao, 4000 năm trước, con người, cụ thể là người Ai Cập đã làm được việc đó? Giả thiết đầu tiên, đơn giản nhất tuy nhiên bản thân tôi thấy là không thực tế cho lắm là người Ai Cập xưa đã sử dụng cần trục và ròng rọc để đưa các khối đá này lên cao. Giả thiết này sẽ rất hợp lý nếu như kim tự tháp được xây bằng gạch hoặc những phiến đá nhỏ hơn. Còn với Kim tự tháp, việc đưa các khối đá nặng chừng 2,5 tấn có vẻ khá khó khăn. Trước hết, nếu sử dụng ròng rọc đơn, chúng ta sẽ phải cung cấp một lực tương đương trọng lực của nó. Một phiến đá trung bình 2,5 tấn và nếu mỗi công nhân có "lực tay" tương đương 100 kg, chúng ta sẽ cần ít nhất 25 người cùng kéo một phiến đá. Tất nhiên, đây là một con số chấp nhận được. Tuy nhiên, liệu 25 người đó có đủ sức để kéo liên tục hòn đá lên hay không? Ngoài ra, lực kéo tương đương sẽ giảm vài lần nếu chúng ta sử dụng ròng rọc kép (như minh họa dưới hình vẽ). Nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, làm sao để chúng ta có thể chế tạo ra những ròng rọc có khả năng chịu đựng được lực kéo khổng lồ này là một bài toán khó giải. Ngoài ra, đưa được lên cao sau đó làm thế nào để đưa những viên đá này vào đúng vị trí? Giả thiết này có vẻ không hợp lý lắm. Giả thiết thứ hai, được nhiều nhà khoa học chấp nhận hơn và cũng hợp lý hơn hẳn: người ai cập đã xây dựng những đường dốc bằng đất khổng lồ để đưa những viên đá lên cao. Những đường dốc này được xây dựng vòng quanh Kim tự tháp và sau khi hoàn thành được phá bỏ. Các đường dốc bằng đất này giúp giảm đáng kể lực cần thiết để đưa hòn đá lên cao đồng thời cũng cho phép nhiều người cùng kéo lên dễ dàng hơn. Cụ thể, người Ai cập sẽ xây dựng một đường dốc dài có độ dốc thấp từ mặt đất đến phần đang xây dựng dở của Kim Tự tháp. Sau đó, khi xây dựng lên những phần cao hơn, người ta sẽ kéo dài con dốc nhằm đảm bảo độ dốc ở mức thích hợp với quá trình xây dựng. Để kéo những viên đá từ chân dốc lên, người ta sử dụng những thanh gỗ tròn nhằm giảm ma sát. Những tốp nhân công với số lượng thay đổi phù thuộc vào kích cỡ phiến đá sẽ được huy động lần lượt. Càng lên cao, chiều dài của con dốc sẽ càng phải kéo dài và công việc của những người nhân công sẽ càng vất vả. Tuy nhiên, may mắn cho họ, số lượng những phiến đá ở trên cao càng ngày sẽ càng ít. Theo tính toán, tới 96% vật liệu được sử dụng ở 2/3 dưới của tháp. Tất nhiên, không phải chỉ có một đường dốc duy nhất được sử dụng vì nếu thế, xây dựng một kim tự tháp sẽ mất cả trăm năm. Ngoài 2 hoặc 3 đường dốc chính được sử dụng liên tục, họ còn xây dựng các đường dốc phụ và nhỏ hơn để mang được nhiều đá lên các phần của kim tự tháp nhất có thể. Xây dựng và hoàn thànhSau khi đưa đá lên cao, các nhân công sẽ đưa những hòn đá này vào đúng vị trí của nó. Các khối đá được liên kết với nhau dựa hoàn toàn vào trọng lực của chúng, người Ai Cập không phải sử dụng bất cứ loại vật liệu liên kết nào. Tùy vào kim tự tháp, thứ tự sắp đặt các viên đá, họ sẽ tạo nên các cấu trúc bên trong khác nhau. Nói chung, kiến trúc bên trong các kim tự tháp luôn hướng đến một điểm chung là tạo ra các hành lang ảo cho linh hồn nhà vua đi đến được các vì sao. Sau khi hoàn thành việc đặt các viên đá để tạo nên hình dáng của kim tự tháp. Người Ai Cập sẽ tiến hành trau chuốt mặt ngoài và mặt trong của kim tự tháp cho đến khi hoàn tất. Công việc chau chuốt được thực hiện từ trên xuống dưới. Họ sẽ lược bỏ các phần lồi ra của mặt Kim Tự tháp, các đường dốc được gỡ bỏ, mặt trong của kim tự tháp sẽ được khắc chữ... Kim tự tháp và quá trình hoàn thành nó vẫn là niềm tự hào của người dân Ai Cập. Sự vĩ đại và kỳ diệu của Kim Tự Tháp thể hiện rõ trình độ và sự sáng tạo của người dân Ai Cập. Cho đến nay, những bí ẩn trong quá trình xây dựng nó vẫn là một câu hỏi lớn của nhân loại. Theo Howstuffworks, Genk Những bí ẩn đáng sợ bên trong kim tự thápKim tự tháp Ai Cập luôn luôn là một trong những bí ẩn của nhân loại thách thức giới khoa học suốt nhiều thế kỷ qua. Mỗi kim tự tháp Ai Cập cần rất nhiều khối đá để xây dựng. Theo tính toán, để xây dựng kim tự tháp Giza, phải mất gần 2,3 triệu khối đá, mỗi một khối nặng từ 2 tấn đến 50 tấn. Nguồn: Lolwot. Nhiều người nghĩ rằng bên trong những kim tự tháp bí ẩn là những dòng chữ tượng hình ghi lại sự kiện và những mật truyền, lời nguyền. Điều này không có căn cứ xác thực, trong kim tự tháp Giza, người ta không tìm thấy dấu vết của chữ tượng hình. Nguồn: Lolwot. Để khiến cho kim tự tháp tỏa sáng, người Ai Cập cổ đại đã bao phủ những tảng đá to bằng một lớp vật liệu làm từ đá vôi trắng có độ bóng cao. Nhờ có độ bóng, kim tự tháp sẽ phát sáng khi ánh nắng mặt trời phản chiếu vào. Nguồn: Lolwot. Nhiều người tin rằng kim tự tháp được xây dựng bởi những tù nhân và nô lệ nhưng sự thực hoàn toàn không phải như vậy. Những kim tự tháp được xây dựng bởi những công nhân bình thường, họ lao động và họ được trả tiền. Nguồn: Lolwot. Khi những kim tự tháp còn nguyên vẹn, chưa bị sứt mẻ gì, còn nguyên lớp vỏ bóng bẩy bên ngoài, người ta đồn đoán rằng đứng ở những ngọn núi của Israel, thậm chí là Mặt trăng cũng có thể nhìn thấy kỳ quan thế giới cổ đại này phát sáng. Nguồn: Lolwot. Những kim tự tháp có thể trường tồn với thời gian, thách thức vầng nhật nguyệt là bởi người Ai Cập cổ đại sử dụng một loại vữa có độ dính cao. Đến tận ngày hôm nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể tìm ra được thành phần của chất vữa tuyệt hảo đó. Nguồn: Lolwot. Do phương thức xây dựng vô cùng đặc biệt, nhiệt độ trong kim tự tháp quanh năm không đổi, luôn giữ ở mức 20 độ C. Nguồn: Lolwot. Phải mất khoảng 200 năm người Ai Cập cổ đại mới xây dựng xong một kim tự tháp, điều này đồng nghĩa với việc có những kim tự tháp được xây dựng cùng một thời điểm. Nguồn: Lolwot. Kim tự tháp Kheops là một trong những kỳ quan nặng nhất thế giới. Theo ước tính của các nhà khoa học, kim tự tháp khổng lồ này nặng khoảng 6 triệu tấn. Nguồn: Lolwot. Kim tự tháp Kheops là một trong những công trình cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Đây cũng là công trình nổi tiếng với cấu trúc liên kết chính xác nhất, vị trí đẹp hoàn hảo. Có rất nhiều lý thuyết xây dựng được đưa ra nhưng vẫn không có cách nào lý giải được trình độ khoa học kỹ thuật của những người Ai Cập cổ đại. Nguồn: Lolwot. Theo Kiến Thức Hai bức tượng tuyệt đẹp của hoàng tử Râhotep và Nofret, vợ ông gần bên kim tự tháp của cha ông là vua Snéfrou. Hai bức tượng có vẻ rất "sống" làm ta không ngờ rằng chúng đã 4500 năm. Mắt của tượng làm bằng pha lê và tròng đen bằng améthyste Từ lâu, các kim tự tháp Gizeh đã được coi là một trong những kì quan của thế giới. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là con người đã có thể xây dựng một công trình như thế vào thời kỳ chỉ có những công cụ thô sơ. Quần thể Gizeh, ở gần Cairo, gồm ba kim tự tháp chính, là mộ của ba vị pharaon đã cai trị một vương quốc vĩ đại. Đầu tiên và cao nhất là Đại kim tự tháp được xây dựng cho hoàng đế Kheops, ông trị vì vào khoảng 2650 năm trước Công nguyên. Kim tự tháp này cao 147 mét (nay còn 138 m), có đáy vuông mỗi cạnh là 230 mét, trên một diện tích 5,3 héc ta. Tháp được xây bằng 2.300.000 khối đá, trung bình mỗi khối từ 2-3 tấn, có khối nặng đến 15 tấn; còn những khối đá hoa cương trên phòng mộ nặng đến 50 tấn! Trước đây, du khách có thể được phép bước lên bậc thang của công trình này nhưng nay việc này bị cấm vì có thể xảy ra tai nạn. Dù sao cũng nhờ đó mà nhiều người đã có thể nhìn thấy những khối đá vĩ đại được dùng để xây dựng công trình. Đó là những bậc cầu thang có chiều cao bằng một cái bàn ăn! Lúc đầu, kim tự tháp được ốp một lớp đá vôi bóng loáng, mà qua nhiều thế kỉ đã bị gỡ đi để dùng vào việc khác. Các kim tự tháp cũng như bức tượng khổng lồ hình nhân sư nổi tiếng gần đó, đứng sừng sững trên một nền đá. Ngày nay, khu ngoại ô của thành phố Cairo đã lấn chiến đến gần hết; nhưng vào thời kỳ nó được xây dựng, quần thể này nằm ở giữa sa mạc. Tất cả những gì cần thiết để xây dựng công trường và lương thực cho thợ xây đều phải mang đến bằng sức người, trên những con lừa và những dàn kéo. Lúc đó ở Ai Cập không có lạc đà cũng như ngựa. Ba kim tự tháp này không phải là những công trình đầu tiên được xây dựng ở Ai Cập, nhất là kim tự tháp Saqqarah xây vào năm 2750 trước Công nguyên và kim tự tháp vách láng đầu tiên được xây dựng ở Dahchour là do cha của Kheops. Nhưng kim tự tháp Gizeh là hùng vĩ nhất, đến nỗi sử gia Hy Lạp Diodore ở Sicile vào thế kỉ thứ nhất sau Công nguyên đã viết: "người ta không thể nhìn ngắm mà không cảm thấy bị ngây ngất và thán phục trước một công trình vĩ đại và khéo léo đến như thế". Saqqarah cách 15 mile về phía Nam Cairo. Là Pyramid Zozer. It is the là pyramid trẻ nhất, xây các đây 4600 năm. Nơi yên nghỉ cho Pharaon Người Ai Cập cổ tin vào sự tồn tại sau khi chết và lo lắng nhiều đến việc chuẩn bị các nhu cầu cho người chết. Người chết khi sống càng quan trọng, thì càng được chăm sóc nhiều đến nơi an nghỉ cuối cùng. Một trong những bận tâm đầu tiên của một pharaon mới lên ngôi là do xây dựng cho mình một ngôi mộ, và công trình không nhất thiết phải xong trước khi vị hoàng đế này chết nếu công việc xây dựng kéo dài. Nhiều ngôi mộ hoàng gia đã bị dỡ dang như thế. Khi vị hoàng đế chết, người ta tạm ngưng công trình và tập trung chăm sóc hầm mộ. Đây là nơi ở của người chết. Người ấy sẽ sống ở đó mãi mãi với những nhu cầu y như lúc trước khi chết. Đối với người Ai Cập, sự tồn tại tùy thuộc vào cách giữ xác, bằng cách được tẩm dầu thơm ngay sau khi chết. Ngoài ra ở bên kia thế giới người ta quan niệm người chết cũng cần có một môi trường thân quen như lúc còn sống. Trong đó thực phẩm đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Ngôi mộ cũng được thiết kế để bảo vệ người chết và tài sản của họ khỏi bị bọn trộm đạo cướp phá. Nhưng nó cũng phải thích hợp với thế lực và sự giàu có của chủ nhân nó. Vì thế các pharaon chôn theo mình các kho tàng to lớn, người khá giả thì thường chôn theo những đồ vật giá trị còn người nghèo nhất cũng có vài món thực phẩm dự trữ. Phòng mộ Khi công việc xây dựng Đại kim tự tháp đã thực hiện được kha khá, người ta chuẩn bị một phòng mộ thứ nhì nằm ở chỗ hơi cao trên mặt đất được đậy bằng một cái vòm giả làm bằng hai tấm đá lớn tạo thành một cái trần nhọn. Hầm mộ thật của pharaon được xây cuối cùng ở giữa kim tự tháp, cách mặt đất 42m. Cửa vào kim tự tháp mà các nhà thám hiểm và khảo cổ đã mất thời gian mới tìm ra được, nằm ở vách phía Bắc, cách mặt đất 25m. Nó dẫn vào một hành lang đâm sâu vào lòng đất theo một con đường dốc 26° cho tới phòng mộ đầu tiên, bỏ trống. Trở nên gần ngang với mặt đất người ta lại tìm thấy 1 lối đi hẹp dốc đứng được che kín bằng một tảng đá. Lối này dẫn đến một hành lang, đi vào phòng mộ thứ hai, có tên gọi là "phòng của hoàng hậu" nhưng không có bà hoàng hậu nào được chôn ở đó. ở hành lang ngang, lối đi dốc ngược mở rộng hơn. Đây là hành lang lớn, cao 8,5m, dài 46m có những băng đá dài đặt ở hai bên. Chúng được dùng để làm giàn giá đưa các tảng đá hoa cương lên niêm phong vĩnh viễn lối vào. Bằng con đường này người ta đến được ngôi mộ thực, một căan phòng rộng 5m dài 10m, trần ngang xây bằng 9 tấm đan lớn bằng đá hoa cương, có hai lỗ thông hơi để cho phòng mộ tiếp xúc với không khí bên ngoài, một ở hướng Bắc, một ở hướng Nam. ở đây không khí tôn nghiêm, có lẽ là nơi đến và đi của vị vua đã chết. Trong phòng này có một quan tài bằng đá, mà có lẽ đã được đặt trước tiên, kể cả các tảng đá hoa cương dùng để lấp các lối đi, bởi vì kích thước của nó không thể di chuyển trong các lối đi quá chật hẹp được. Suu Tam Chân trời kiến thức . Không gian bí ẩn bên trong lòng Đại kim tự tháp Giza 19/10/2016 Ảnh đồ họa về không gian trong kim tự tháp Giza. AI CẬP - Vào cuối tuần qua, các chuyên gia đã khẳng định về sự tồn tại của hai gian phòng bí ẩn trong Đại kim tự tháp Giza, sau khi sử dụng phương pháp “scan” công trình cổ kính hàng ngàn năm tuổi này. Dự án hợp tác “Pyramids Scan,” với sự tham gia của nhiều trường đại học và viện nghiên cứu khoa học, sử dụng công nghệ scan và và kỹ thuật dựng hình 3D tiên tiến nhất, đã được thực hiện nhằm làm sáng tỏ những bí mật của các cấu trúc kim tự tháp cổ đại. Hai không gian trống vừa được tìm thấy bao gồm một ở phía Đông Bắc của kim tự tháp, và một ở phía sau hành lang bên trong đi xuống. Bộ Khảo Cổ Ai Cập cũng đã xác nhận thông tin này. Hiện tại, các nhà khảo cổ đang tiến hành những công việc tiếp theo để có thêm thông tin về hai gian phòng bí ẩn, mà hiện họ vẫn chưa tiếp cận trực tiếp được. Kim tự tháp Giza được xây dựng từ 4,500 năm trước dưới thời Pharaoh Khufu. Với chiều cao 146 mét, Đại kim tự tháp Giza, hay còn được biết tới với tên gọi kim tự tháp Khufu, được xem là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Kim tự tháp này có 3 gian phòng đã được biết tới. Giống như các kim tự tháp khác của Ai Cập, công trình này cũng được xây dựng lên với mục đích dùng làm lăng mộ cho Pharaoh. Các nhà khảo cổ đã sử dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại nhất để khám phá cấu trúc bên trong lòng kim tự tháp mà không cần đào bới, không gây nên bất cứ tổn hại nào đối với công trình. Trong hơn 4,500 năm, các kim tự tháp của Ai Cập đã ẩn giấu những bí mật của mình nằm sâu trong những hành lang vòng vèo và những gian phòng biệt lập. Đối với Đại kim tự tháp Giza, từ lâu nay, người ta đã từng đoán rằng nơi này vẫn còn những căn phòng mà con người chưa từng biết tới. Các nhà khảo cổ vẫn đang tiếp tục nghiên cứu bên trong Đại kim tự tháp Giza với hy vọng sẽ có được những kết quả rõ ràng, chi tiết hơn về công trình này trong những tháng đầu năm 2017. Khám phá bí mật kim tự tháp Ai Cập bằng tia vũ trụCác nhà khoa học dùng tia vũ trụ để khám phá toàn bộ cấu trúc bên trong kim tự tháp Bent 4.600 năm tuổi ở Ai Cập, bao gồm những hành lang, đường hầm và phòng chứa.Mô phỏng cấu trúc bên trong kim tự tháp Bent. Ảnh: Bộ Cổ vật Ai Cập. Theo Business Insider, đa số kim tự tháp cổ đại của Ai Cập có niên đại cách đây khoảng 4.500 năm. Chúng là những công trình kiến trúc hùng vĩ, tồn tại trước thử thách của thời gian. Giới khảo cổ học thực hiện dự án "Quét Kim tự tháp", sử dụng tia vũ trụ để khám phá cấu trúc bên trong kim tự tháp Bent cao 105 m, nằm cách thủ đô Cairo 40 km về phía nam. Đây là một trong những kim tự tháp đầu tiên được xây dựng tại Ai Cập, có độ tuổi khoảng 4.600 năm. Các nhà khoa học sử dụng hạt được gọi là hạt muon, có nguồn gốc từ tia vũ trụ để xâm nhập sâu vào các lớp đá, vẽ bản đồ cấu trúc bên trong kim tự tháp. Quá trình thu thập thông tin kéo dài 40 ngày. Công nghệ này có nhiều điểm tương tự kỹ thuật chụp ảnh X quang.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 17, 2010 11:18:15 GMT 9
PHẬT TỰ VÀ ĐẠO QUÁNChùa chiền (phật tự) Trung Quốc xuất hiện từ khi Phật giáo du nhập vào đất nước này. Ban đầu Hán Minh Đế (cai trị 58-75) cho xây riêng một toà nhà ở Lạc Dương để hai cao tăng Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan làm chỗ cư ngụ và tàng trữ kinh Phật. Vì kinh phật ban đầu được chở bằng ngựa trắng chở sang, nên chùa được đặt tên là Bạch Mã tự. Đại Nhạn Tháp tại Tây An xây dựng năm 652 (đời Đường) Bạch Tự (tức Vĩnh An Tự) tại Bắc Kinh với kiến trúc Phật giáo Tây Tạng, xây dựng năm 1651, đổi tên là Vĩnh An Tự năm 1741 (đời Vua Càn Long), trùng tu vào các năm 1743 và 1751. Khi Phật giáo phát triển, các chùa mọc lên rất nhiều, bố cục kiến trúc chùa còn ảnh hưởng theo kiểu kiến trúc qua các dinh phủ quan lại đời Hán (một số quan lại đã hiến nhà làm chùa). Theo cấu trúc này, cổng vào nằm trên trục nam bắc, cách một khoảng sân lại có toà điện, xung quanh là hành lang. Bố cục thông thường của quần thể này là: Cổng chính có ba cửa nhỏ. Bước qua cổng thì thấy ngay một điện thứ nhất (Thiên Vương Điện, có gác chuông hai bên). Kế đó là lớp điện chính (Đại Hùng Bảo Điện), gồm đại điện thờ chư phật; sau đại điện là pháp đường để thuyết pháp giảng kinh. Hai bên pháp đường là trai đường và thiền đường. Nơi ở của phương trượng (sư trụ trì), nhà kho, nhà bếp, nhà tắm, và nhà tiếp khách thì thiết kế xung quanh. Lục Hoà Tháp ở Hàng Châu, xây dựng năm 971 (đời Tống) Quần thể kiến trúc chùa theo kiểu Ấn Độ còn có tháp đá. Kiểu kiến trúc này du nhập vào Trung Quốc qua ngả Trung Á. Khi tháp xuất hiện tại Trung Quốc (có lẽ cuối đời Hán), thì tháp có dáng cao và thon thả. Tháp có khoang rỗng để đặt tượng phật. Khi tháp được bản địa hoá thì nó thay đổi kiểu dáng, có nhiều tầng lầu, vừa có thể để tượng phật vừa có thể đứng ngắm cảnh. Các tháp thông thường có 7 tầng (cũng có khi 9 hay 11 tầng) xây dựng trên nền cao, các tầng dưới thì cao và to, các tầng trên thì thu nhỏ dần. Tháp đời Nam Bắc Triều có tầng trệt cao rộng, các tầng trên rất thấp là khít nhau. Tháp đời Đường bằng gạch hay gỗ, phổ biến là tháp hình vuông, lục giác, và bát giác. Tháp bát giác thịnh hành sau đời Đường. Đời Tống, tháp bằng gạch và xây đặc ruột. Sang đời Nguyên do Phật giáo Tây Tạng hay Lạt Ma giáo thịnh hành, tháp Lạt Ma giáo xuất hiện cũng nhiều; kể cả trong đời Minh và đời Thanh cũng vậy. Các đạo quán có rất nhiều khắp nơi của Trung Quốc. Quan trọng nhất là Bạch Vân Quán tại Bắc Kinh. Bạch Vân Quán ở phiá ngoài cửa tây của Bắc Kinh, là tổ đình của Toàn Chân phái, nổi tiếng là «Thiên hạ đệ nhất tùng lâm». Tên ban đầu của nơi này là Thiên Trường Quán, xây dựng năm 722 theo sắc lệnh của Đường Huyền Tông. Đời Kim, giặc Khiết Đan phương bắc kéo xuống phương nam đánh phá, Thiên Trường Quán bị hủy hoại nặng nề. Năm 1167 Kim Thế Tông sắc lênh trùng tu, đặt tên lại là Thập Phương Đại Thiên Trường Quán. Năm 1202, đạo quán bị đốt cháy, Kim Chương Tông ban sắc lệnh trùng tu năm 1203, đổi tên là Thái Cực Điện, rồi lại đổi thành Thái Cực Cung. Sơn môn của Bạch Vân Quán Đời Nguyên, đạo quán nổi danh kể từ Khưu Xứ Cơ được Thành Cát Tư Hãn quý trọng. Khưu Xứ Cơ về trụ trì Thái Cực Cung năm 1224. Nguyên Thái Tổ ban sắc lệnh tu sửa nơi này và đổi tên thành Trường Xuân Cung. Cuối đời Nguyên, Trường Xuân Cung cũng bị hư hoại trong chiến tranh. Vào những năm Vĩnh Lạc (1403-1424), vua Minh Thành Tổ ban sắc Trong khuôn viên của Bạch Vân Quán lệnh trùng tu, và đổi tên nơi này thành Bạch Vân Quán năm 1443. Quần thể Bạch Vân Quán gồm Bài Lâu (lầu gỗ cao 7 tầng để quan sát tinh tú), Linh Quan Điện (thờ thần hộ pháp của Đạo giáo là Vương Linh Quan), Ngọc Hoàng Điện (thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế), Lão Luật Đường (tức Thất Chân Điện, thờ Toàn Chân Thất Tử), Khưu Tổ Điện (kiến trúc trung tâm của Bạch Vân Quán, thờ Khưu Xứ Cơ), Tam Thanh Các, Tứ Ngự Điện (thờ chư thần của Đạo giáo). Những điện đường này xây dựng không cùng thời gian, bên trong có tượng thờ và hình ảnh trang trí tùy theo mục đích thờ phụng. 5. KIẾN TRÚC CHO KIẾP SAU Việc mai táng là một trong những nét cơ bản của văn minh Trung Quốc. Những gì khai quật được ở lăng mộ vua chuá đời Thương ở An Dương và lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng Đế ở Lâm Đồng (Tây An) khiến người ta phải kinh ngạc. Trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, người Trung Quốc không có quan niệm về tái sinh, luân hồi, và kiếp sau. Họ quan niệm sau khi chết linh hồn sẽ «sống» ở cõi âm. Quan niệm này khiến họ phải tuỳ táng những đồ vật cho người quá cố hưởng thụ như thể người đó còn sống ở cõi dương. Những vật tùy táng này gọi là minh khí. Thần đạo (lối đi dẫn vào Thập Tam Lăng) với hai hàng lính gác và quái thú canh giữ . Cửa vào Thập Tam Lăng và nơi hoá vàng cho vua Mặc dù kiến trúc cổ đại trên mặt đất thường là kết cấu gỗ, kiến trúc cho các mộ thất thì bằng đất, gạch, và đá. Những gia đình giàu có xây các ngôi mộ nhỏ bé hơn các ngôi mộ vua chuá, nhưng cũng có đủ cả các đồ minh khí (vật tùy táng) y hệt như những vật mà người quá cố đã dùng lúc sinh tiền. Bên trong một lăng mộ Cổng đá và thần đạo dẫn vào Thập Tam Lăng đời Minh, xây năm 1540, cao 14 mét, rộng 19 mét Bắc Kinh trở thành kinh đô dưới các triều đại Nguyên, Minh, Thanh. Các vua chuá đời Nguyên vốn là dân tộc du mục, cho nên họ không xây những lăng mộ vĩ đại và huy hoàng tráng lệ như các vua đời Minh và đời Thanh. Sự khác biệt này xuất phát từ quan điểm khác nhau về cái chết. Dân du mục sống trên thảo nguyên, họ cho rằng họ sinh ra từ đất. Cho nên họ chấp nhận cái chết đơn giản: người chết được đặt vào thân cây nam mộc khoét rỗng, rồi sau đó được chôn dưới đất cỏ. Chẳng bao lâu sau đó cỏ mọc lấp đầy, xoá đi dấu vết của ngôi mộ. Ngược lại, các vua đời Minh và đời Thanh tin vào kiếp sau – một đời sống khác sau khi chết – cho nên người chết sẽ «sống» một cuộc sống tương tự như trên dương thế. Do đó họ xây những lăng mộ vĩ đại. Thập Tam Lăng là quần thể lăng mộ 13 vua đời Minh (1368-1644), cách Bắc Kinh 50 km về phía tây bắc. Thập Tam Lăng được xây dựng từ năm 1409 cho đến 1644, rộng trên 40 km vuông với tường thành bao bọc dài 40 km. Mỗi lăng mộ toạ lạc trên một gò cao và nối với lăng mộ khác bằng lối đi gọi là «thần đạo». Hai bên thần đạo có hai hàng tượng lính gác, lạc đà, voi, và quái thú bằng đá để canh giữ lăng. Cổng đá vào lăng xây năm 1540, cao 14 mét, và rộng 19 mét.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 10:59:07 GMT 9
Cao Dai Cathedral (built 1933-55)A few of the outbuildings.Front entry to the temple.View of the inside of the temple showing the various levels reflecting the nine steps to heaven.Caodaism (Dai Dao Tam Ky Pho Do, or Third Great Universal Religious Amnesty) is a syncretic religion that had its beginnings in Vietnam, then part of French Indo-China, in the 1920s. Its founder, Ngo Minh Chieu (or Ngo Van Chieu), was a French civil servant and was also a mystic who was well-versed in western and eastern religions. In 1919 he began receiving revelations about the truth of religions from God (Caodai) that told him to combine the teachings of Buddhism, Hinduism, Taoism, Confucianism, Christianity, Islam and other religions into one religion to promote peace. In 1926 he revealed his seances to the public as a new belief system. It soon became quite popular. There are a number of important figures in the Cao Dai pantheon. The major saints are Chinese revolutionary leader Sun Yat-sen, the 19c French writer Victor Hugo and the 16c Vietnamese poet Nguyen Binh Khiem. Lesser dignitaries who have manifested themselves in seances include notables such as Joan of Arc, Descartes, V. I. Lenin, William Shakespeare, and Winston Churchill. The organizational structure roughly follows that of the Roman Catholic Church with a pope, cardinals, bishops and priests. There are several million practicioners in (mostly southern) Vietnam and perhaps over a thousand temples, mostly in the Mekong delta. There are also practicioners in the west, though these are primarily in the expatriate Vietnamese communities. The movement became involved in the Vietnamese nationalist movement against the French and for a while even were allied with the Viet Minh. But Cai Dai military units eventually joined the French against the Viet Minh. After the triumph of the North in the Vietnam war Cao Daiists suffered much along with other religions. The Great Temple, or Holy See, is the center of the sect. Constructed between 1933 and 1955, is about 60 miles (100 kilometers) northwest of Ho Chi Minh City. It is near the market village of Long Than, and only 5 kilometers from Tay Nihn, the capital of the province of the same name. There are colorful ceremonies with chanting four times a day, including the noontime service in January, 1992, depicted here. Text by Robert D. Fiala Bibliography: All images copyright 2000 Professor Robert D. Fiala of Concordia University, Nebraska, USA Bezacier, L. Relevés de Monuments Anciens Du Nord Viet-Nam Ecole Francaise D'extreme Orient, 1958. Paris Buckley, Michael. Moon Travel Guides: Vietnam Cambodia and Laos Handbook, 2nd Edition Moon Publications, Inc., 1997. China Cohen, Barbara. The Vietnam Guidebook Harper and Row Publishers, Inc., 1990. New York Florence, Mason & Storey, Robert. Lonely Planet: Vietnam Lonely Planet Publications, 1999. Melbourne Nguyen, Ba Dang. Traditional Vietnamese Architecture Gioi Publishers, 2004. Hanoi Phan Huy Lê. Kiê'n trúc phô' cô Hôi An Viêt Nam Thé Giói, 2003. Hanoi West, Helen. Insight Guides: Vietnam APA Publications (HK) Ltd., 1991. Singapore
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 11:06:05 GMT 9
Enclosure and tower complex seen from the south.East face and entrance, main tower.Gate tower, west face.Repository, east face.Repository, north face.Po Klong Gerai Towers (built c. 13th century) These temples are perched on a hillside just to the west of Phan Rang. Situated on the road from Phan Rang to Dalat, this is a popular site, with a parking lot for tour buses and a gated entrance with entrance fee required. These are among the last of the towers that the Cham built, dated to approximately the 13th or 14th Century. There are three surviving structures enclosed by a rectangular perimeter wall: the main tower (kalan), a small gate tower to the east, and one of the smaller buildings of the type that was thought to be used to prepare offerings or store religious articles. They are in relatively good condition, particularly the main tower, whose corner-towers and flame-decorations are either intact or restored. According to Tran Ky Phuong, there once was a tower housing a stele in the southwest corner, but that has disappeared. The Chams continue to pay their respects to this minor king, and a mustachioed linga representing Po Klong Gerai is still seated in the center of the main temple, awaiting offerings. The Chams hold a major ceremony at this temple as a part of their Kate festival each year, which usually falls in early October. Bibliography: All images copyright 2004 Mike High, Editor, U.S. Dept. of Education, Hunting Creek Road, Arlington, Virginia, USA (mike.high@starpower.net). Boisselier, Jean. Statuaire du Champa; recherches sur les cultes et l'iconographie Ecole française d'Extrême-Orient, 1963. Paris Guillon, Emmanuel. Cham Art, Treasures from the Da Nang Museum, Vietnam River Books, 2001. Thailand Maspero, Georges. The Champa Kingdom White Lotus Press, 2002. Bangkok Ngo, Van Doanh. Champa Ancient Towers, Reality and Legend The Gioi Publishers, 2002. Vietnam Parmentier, H. Inventaire descriptif des monuments cams de l'Annam Ecole française d'Extrême-Orient, 1909-18. Paris Stern, Philippe. L'art du Champa, ancien Annam, et son évolution Adrien-Maisonneuve, 1942. Paris Tran, Ky Phuong. Unique vestiges of Cham civilization The Gioi Publishers, 2000. Vietnam
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 11:11:28 GMT 9
Champa Ruins at My Son (built 4th-13th centuries) My Son, which flourished from the late 400s to the mid 1200s, was a center of Champa culture. The Champa kingdom emerged during the 2nd century in the area around Danang. Through commercial and religious contacts with India, the Champa kingdom quickly developed a strong affinity for Indian culture, borrowing Hinduism and the Sanskrit alphabet, as well as Indian architectural and artistic tastes. For many centuries the Champa kingdom existed as an independent entity, warring constantly with the Vietnamese to the north and the Khmer to the west (although the Khmer were heavily Indianized themselves). Champa endured until the 17th century when it was absorbed by Vietnam. The ruins at My Son represent a series of constructions over a period of many centuries. The monuments bear a strong resemblence to Khmer structures found in present-day Cambodia and eastern Thailand. My Son was far enough south that it was sheltered from Chinese artistic tastes that saturated northern Vietnam. Instead, the cosmopolitan city of My Son did a brisk trade with India to the west and Java to the south. The builders at My Son did not just borrow, but developed their own indigenous styles. One technological advantage they discovered was a way to "glue" bricks together using a type of tree resin native to central Vietnam. Although the precise method is now lost, it appears that the Champa builders set the resin in place by baking entire monuments in fire for a number of days. Presumably, the monuments were detailed many weeks later after the structures thoroughly cooled. The beauty of My Son would be more complete if not for widespread American bombing during the Vietnam war. Even today, unexploded ordnance continues to pose a problem for archaelogists working in the periphery of the My Son area. Bibliography: All images copyright 2003 Khuat Tan Hung. Bezacier, L. Relevés de Monuments Anciens Du Nord Viet-Nam Ecole Francaise D'extreme Orient, 1958. Paris Buckley, Michael. Moon Travel Guides: Vietnam Cambodia and Laos Handbook, 2nd Edition Moon Publications, Inc., 1997. China Cohen, Barbara. The Vietnam Guidebook Harper and Row Publishers, Inc., 1990. New York Florence, Mason & Storey, Robert. Lonely Planet: Vietnam Lonely Planet Publications, 1999. Melbourne Nguyen, Ba Dang. Traditional Vietnamese Architecture Gioi Publishers, 2004. Hanoi Phan Huy Lê. Kiê'n trúc phô' cô Hôi An Viêt Nam Thé Giói, 2003. Hanoi West, Helen. Insight Guides: Vietnam APA Publications (HK) Ltd., 1991. Singapore
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 11:24:54 GMT 9
Po Nagar Towers (built 7th-12th centuries)Mandapa (East approach to temple). Main temples (viewed from SW). Entrance to north (main) tower. Entrance to south tower. Entrance to middle tower. Temple in NW corner of complex. Located on a small hill at the mouth of the Cai River at Nha Trang, the temple Po Nagar is named for a goddess of local origin who is said to have created the earth, eaglewood, and rice. The temple was built during the Hindu period of Champa, and thus the image of the goddess takes the form of Uma, wife of Siva. Po Nagar is now used by Vietnamese, who have dressed the goddess in Buddhist robes. The temple is also popular with tourists, and the parking lot for tour buses is small and crowded. A small fee is charged for entry. The first temple buildings were of wood, but were destroyed by seagoing raiders from Java around 774 A.D. The first brick structure, built ten years after the raid, is no longer extant. The earliest surviving structure, according to Tran Ky Phuong (citing Parmentier and Stern), is the mandapa -- it was built sometime before the inscription dated to 817, which mentions it. Tran Ky Phuong (citing Stern's classification of styles) dates the small northwest tower to the 10th Century, and the main tower to the 11th Century. In its most complete form, the complex probably consisted of 6 towers, in two parallel rows of three, but the south-west and center-west towers have vanished. The arrangement makes an interesting comparison with the brick towers of Lolei, near Angkor Wat in Cambodia, which were built at the end of the 8th Century. For a fascinating discussion of the regional influence of this goddess, see "The Vietnamization of Po Nagar" by Nguyen The An, from Essays into Vietnamese Pasts, edited by K.W. Taylor and John K. Whitmore, Southeast Asia Program, Cornell University, Ithaca, NY 1995. Bibliography: All images copyright 2004 Mike High, Editor, U.S. Dept. of Education, Hunting Creek Road, Arlington, Virginia, USA (mike.high@starpower.net). Boisselier, Jean. Statuaire du Champa; recherches sur les cultes et l'iconographie Ecole française d'Extrême-Orient, 1963. Paris Guillon, Emmanuel. Cham Art, Treasures from the Da Nang Museum, Vietnam River Books, 2001. Thailand Maspero, Georges. The Champa Kingdom White Lotus Press, 2002. Bangkok Ngo, Van Doanh. Champa Ancient Towers, Reality and Legend The Gioi Publishers, 2002. Vietnam Parmentier, H. Inventaire descriptif des monuments cams de l'Annam Ecole française d'Extrême-Orient, 1909-18. Paris Stern, Philippe. L'art du Champa, ancien Annam, et son évolution Adrien-Maisonneuve, 1942. Paris Tran, Ky Phuong. Unique vestiges of Cham civilization The Gioi Publishers, 2000. Vietnam
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 11:28:18 GMT 9
The four surviving towers in this group were probably built towards the end of the 11th Century. The main tower and the adjacent repository are at the very summit of a hill overlooking the Highway 1, the town of Binh Dinh, and a river (identified by Tran Ky Phuong as a major arm of the Con River). Two smaller towers are situated at lower levels on the hill, to the south and east of the main tower. At the time of these photographs (March 2004) the main tower was surrounded by scaffolding, with much fresh replacement brickwork in evidence. The neighboring tower shows a fair amount of replacement work, but also much that has been left in a rough state. Several fine bas-reliefs of dancers from Banh It are now displayed in the Cham Museum in Da Nang. Ngo Van Doanh states that one of the major works of Banh It, a statue of Siva, was removed by the French to the Trocadero Museum around 1884-86, and is now part of the Guimet collection. Bibliography: All images copyright 2004 Mike High, Editor, U.S. Dept. of Education, Hunting Creek Road, Arlington, Virginia, USA (mike.high@starpower.net). Boisselier, Jean. Statuaire du Champa; recherches sur les cultes et l'iconographie Ecole française d'Extrême-Orient, 1963. Paris Guillon, Emmanuel. Cham Art, Treasures from the Da Nang Museum, Vietnam River Books, 2001. Thailand Maspero, Georges. The Champa Kingdom White Lotus Press, 2002. Bangkok Ngo, Van Doanh. Champa Ancient Towers, Reality and Legend The Gioi Publishers, 2002. Vietnam Parmentier, H. Inventaire descriptif des monuments cams de l'Annam Ecole française d'Extrême-Orient, 1909-18. Paris Stern, Philippe. L'art du Champa, ancien Annam, et son évolution Adrien-Maisonneuve, 1942. Paris Tran, Ky Phuong. Unique vestiges of Cham civilization The Gioi Publishers, 2000. Vietnam
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 18, 2011 2:03:07 GMT 9
THÁNH ĐỊA MỸ SƠN LỊCH SỬ - CẤU TRÚC & NHỮNG CHIẾC MẶT NẠ HÌNH LINGA Hồ Đắc Duy Phần 1 Khu A Phần 2 Khu B Phần 3 Khu C Phần 3 Khu C2 Cách Hội An 42 Km và cách Trà Kiệu khoảng 30 Km về phía tây có một thung lũng nhỏ đường kính ước chừng 2 Km đó là thánh địa Mỹ Sơn , nó nằm gọn giữa những ngọn núi bao quanh và chỉ có một lối vào duy nhất là theo con đường độc đạo nằm giữa hai quả đồi , hai quả đồi này tạo thành hai cái trạm gát , một cái chốt phòng ngự cao khoãng 30 mét và một con suối nằm chắn ngang trước mặt con đường vào thung lủng như một chiến hào sâu và rộng gây thêm một chướng ngại cho những ai muốn vào khu vực thánh địa , một thứ chiến lủy của thiên nhiên sẵn có , con suối chảy quanh co theo sườn núi phía bắc , rồi đâm thẳng vào phía trung tâm , sau đó nó chạy vòng quanh tạo thành một thủy lộ lưu thông cho toàn bộ khu vực này trong mùa mưa và chỉ cần một cái đập nhỏ chấn ngang dòng suối thì sẽ là lý tưởng , hình như con suối này ăn thông với một nhánh của sông Vu Giang , Thu Bồn... Sau khi băng qua suối đi dọc theo một con đường ngoằn nghèo khoảng 3 Km thì đến khu vực với các công trình kiến trúc quan trọng nhất của nền văn hóa vương quốc Champa Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT ) có ghi lại một số sự kiện liên quan đế sư hình thành của vương quốc champa , kinh đô Trà Kiệu và thánh dịa Mỹ Sơn ĐVSKTT trang 158 : " năm 137 người man ở huyện Tượng Lâm , quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện giết trưởng lại , năm 138 Thị Ngự sử Giả Xương cùng quân các châu huyện hợp lại đánh Khu Liên không được , bị Khu Liên vây đánh hơn một năm..... " Khu Liên được xem như vị vua đầu tiên của Lâm Ấp hay còn gọi là Vương quốc Champa sau này ĐVSKTT trang 173 : " Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân rồi vào cướp Giao Châu " Kinh đô của Lâm Ấp bấy giờ là Trà Kiệu Năm 420 Tuệ Độ đánh Lâm Ấp phá được chém giết đến quá nửa , Lâm Ấp xin hàng...Lần đầu tiên Kinh đô Trà Kiệu và Thánh địa Mỷ sơn bị xâm chiến Năm 432 Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống xin cai trị Giao Châu... Năm 436 Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long , thừa thắng tiến vào Tựơng Phố ( Trà Kiệu ) đây là lần thứ hai Thánh địa Mỹ Sơn bị chiếm ĐVSKTT trang 222 chép : " Năm 982 Vua Lê Đại Hành thân đi đánh Chiêm Thành chém chế vua Chiêm tại trận. Chiêm Thành thua to , bắt sống của chúng nhiều vô kể , cùng các kỷ nữ trong cung trăm người và mộ nhà sư người Thiên Trúc , lấy các đồ quí đem về thu được vàng bạc châu báu vô kể , san phẳng thành trì , phá hủy tông miếu , vừa một năm thì trở về kinh sư ... " đó là lần thứ ba khu Thánh địa này bị tàn phá và về sau các Vua Lý Thái Tông , Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành nhiều lần nữa Những nghiên cứu của các nhà khảo cổ cho biết Thánh địa này xây dựng từ thế kỷ thứ IV và liên tục được trùng tu , phát triển và xây mới thêm những đền tháp cùng các pho tượng điêu khắc bàng đá khác cho đến thế kỷ thứ XIII mới chấm dứt Theo Đai Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) quyển 2 trang 332 thì vùng đất Quảng Nam – Trà Kiệu - Mỹ Sơn thì xưa là đất Việt Thường thị ; đời Tần thuộc Tượng quận , đời Hán là bờ cỏi quận Nhật Nam; đời Đường thuộc Lâm Ấp; đời Tống thuộc Chiêm Thành là đất Châu Lý và Chiêm Động, Nước ta đời Trần năm 1306 gọi là châu Hóa ; năm Hồng Đức thứ nhất ( 1470 ) Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục trang 1104 ghi : " Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành , mở rộng đất đai đến núi Đá Bia đặt tên Thừa Tuyên Quảng Nam và tên Quảng Nam có từ ngày đó (Tháng 6 năm 1472) Trong ĐNNTC có ghi về phần cổ tích có ghi Thành cổ Hoàn Vương (Trà Kiệu) ở huyện Diên Phước tục gọi là Vệ Thành , tương truyền ngày xưa Hoàn Vương đóng đô ở đấy.Ba mặt thành , trước ,tả ,hữu bị xói lở chỉ còn góc phía tây bắc hiện nay vẫn còn ; về tháp cổ Chiêm Thành ở huyện Diên Phước có hai cây tháp nay dều đổ nát , một tháp đổ xuống thành gò ước hơn một mẫu....và còn mô tả một số tháp có trong tỉnh nhưng không có chỗ nào trong sách mô tả phong cảnh và tháp miếu như ở Mỹ sơn mà chỉ nói ở Khương Mĩ là có ba tòa liền nhau cao 80 trượng , phía trên có lỗ thông thiên , phía trong có tượng đá ,nay đã đổ nát , tương truyền đây là chổ táng vợ vua Chiêm Thành Hiện tại Thánh địa Mỹ Sơn là quần thể kiến trúc phong phú và đa dạng nhất của nghệ thuật Champa vể đền tháp , văn bia , tượng , điêu khác trên đá và trên gạch Lịch sử phát triễn của Thánh địa Mỹ Sơn có lẽ là song song với sự xây dựng , hoàn thiện kinh đô Trà Kiệu trong một tổng thể không thể thiếu được trong nền văn minh , văn hóa Á đông nhất là văn minh Champa là : Kinh đô - Lăng Miếu , Thánh địa , Đền đài để thờ cúng các tiên vương , chư thần... Trong một bi ký cho biết chính vua Bhadravarman đệ nhất là người khởi công xây dựng thánh địa này với những giòng như sau : " Ngài đã cúng dâng cho thần Bhadresvara một khu vực vĩnh viễn , phía đông la núi Sulaha , phía nam là núi Mahaparvata , phía tây là núi Kusala , phia bắc là núi...làm ranh giới . Ngài cũng cúng dâng cho thần tất cả các ruộng đất và cư dân trong phạm vi đó, hoa lợi cũng được dâng cúng cho thần.....Nếu có kẻ nào dùng vũ lực để chiếm đoạt hay phá hủy ruộng đất này thì nhân dân không phải tội, mà tội lổi sẽ dành cho kẻ đó.... " Có bao nhiêu lối đi vào bên trong khu vực thánh địa hay vào một quần thể tháp Champa , có hay không ? một lối đi vào trực diện với cửa chính của tháp đến nay vẫn còn là một điểu bí ẩn , hầu hết các tháp đều quay mặt về phía đông , hướng của mặt trời và của thần linh , khi quan sát người ta thấy chỉ có một lối đi vào bên hông hay mặt sau của tháp mà thôi Từ một vị trí cao nhất trong thung lủng để quan sát hết quần thể kiến trúc của Thánh địa Mỹ Sơn ta có thể phân chia các di tích , các tháp theo kiểu phong thủy của nền văn minh Châu Á người ta thường chọn hướng Đông Tây làm trục chính , Nam Bắc làm trục phụ , gò cao , thế núi và mạch sông làm chuẫn trong việc thiết kế xây dựng kinh đô , lăng miếu , đền đài , nhà cửa... Trong thung lủng có hai ngọn đồi , ngọn phía đông cao hơn ngọn phía tây hai ngọn đồi này đối diện nhau ở điễm trung tâm ngã tư của một con suối , các nhánh của con suối này bao bọc 4 khu vực trong Thánh địa Khu A : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía đông Khu B : gồm các tháp và di tích nằm ngọn đồi về phía tây Khu C : gồm các tháp và di tích nằm phía nam , có hai khu C1 và C2 Khu D : gồm các tháp và di tích nằm phía bắc Cách phân chia này phù hợp với địa thế phong thủy , tránh được tình trạng xé lẻ từng mảnh vụn của tổng thể kiến trúc của mỗi tháp mà trước đây nhà khảo cổ học người Pháp ông H.Parmentier đã công bố năm 1904 Khu A có 5 kiến trúc : 1 tháp chính và 4 tháp phụ Khu B có 4 kiến trúc : 1 tháp chính và 3 tháp phụ ? Khu C chia làm C1 và C2 , C1 nằm phía đông được bao quanh bằng một con suối gồm có 16 kiến trúc (4 kiến trúc nằm rải rác bên ngoài và 12bên trong) : 2 tháp chính với 8 tháp phụ , 1 tháp chính và 2 tháp phụ đi kèm cùng một số tượng điêu khắc bằng đá C2 nằm phía tây gồm có 26 kiến trúc ( 6 ngoài và 20 trong ) : 3 tháp chính và 12 tháp phụ cùng với một số tượng , phù điêu cùng các tác phẫm điêu khắc , bi kí bằng đá mang tính tôn giáo Khu C là khu vực có nhiều tháp và các tác phẫm điêu khắc nhất Khu D có 12 kiến trúc ( 1 ngoài và 11 trong) : 2 tháp chính , và 4 tháp phụ ,trong đó có 1 tháp chính không có tháp phụ đi kèm ? cùng một số tượng điêu khắc bằng đá Tất cả là 46 kiến trúc có thể đếm được trong khoảng ước chừng 70 kiến trúc của Thánh địa này Quan sát một số tháp , di chỉ tiêu biểu mà hiện nay (năm 2003 ) còn lại trên thực địa Khu A : gồm 5 kiến trúc nằm trên ngọn đồi phía đông là ngọn đồi cao nhất trong thung lủng , có một tháp chính và 4 kiến trúc phụ trong đó có một tháp nhỏ để đựng bi kí nằm ở giữa , một thủy tháp , một hỏa tháp và nhà bày mâm dùng để sửa soạn đồ tế Tháp chính có hai cửa theo hướng đông tây , ở mỗi cửa có 8 bậc cấp để đi lên , ở mỗi cửa đều có vòm cuốn Núi Kasula Thánh địa Mỹ Sơn Ô Vuông điêu khắc hình Dương Vật Mặt nạ điêu khắc hinh Sư tử Các vật trang trí quanh tháp chất liệu xữ dụng toàn là gạch và đất nung không bằng sa thạch như ở tháp khác Đặt biệt , tiêu biểu và khá độc đáo nhất là cách trang trí ở chân tháp , mỗi góc của chân tháp có một con sư tử đực vóc dáng cực kỳ dũng mãnh bằng đá có kích thước khá lớn trong tư thế chống đở các góc tháp , quanh chân tháp được trang trí bằng những hàng mặt nạ gồm các ô vuông bằng đất nung cùng một kích thuớc và cùng một chủ đề là mô tả dương vật bằng hình ảnh thật mà không cách điệu như bộ Linga – Youni mà ta thường thấy , mổi ô là một tác phẫm điêu khắc rất tinh tế , sắc sảo , đầy ấn tượng với dương vật ngắn , hai tinh hoàn to và tròn , qui dầu tròn đỉnh nhọn , mạnh mẽ đầy sinh khí Mặt nạ nầy cũng có thễ nhìn theo một cách khác đó là mặt của một quái vật mắt lồi , mũi to , môi trên xếch lên , nhe răng dáng dấp của sư tử , mỗi ô vuông là mỗi tác phẫm điêu khắc rất sinh động và hấp dẫn, không có cái nào giống cái nào ( Xem hình ) Nếu chỉ tách riêng phần sống mũi và hai cánh mũi của quái vật để so sánh với một Linga ở khu D thì khuynh hướng thiên về hình ảnh của Linga không cách điệu dể dàng đựơc chấp nhận hơn , thế nhưng giải thích đó là mặt nạ của mặt sư tử theo như vùng đất mang tên Shimhapura thì cũng là một điều thú vị , bởi Shimhapura là Trà Kiệu hay còn gọi là thành phố sư tử Khu A có thể được xem như là khu vực linh thiêng nhất nó mô tả toàn bộ triết lý của vương quốc và dân tộc Champa hay chỉ riêng vùng đất Shimhapura Các biểu tượng sư tử hay về bộ phận sinh dục nam và nữ được các nhà điêu khắc và các nghệ sĩ cổ đại Champa sáng tác theo hình ảnh thật chứ không cách điệu như các tác phẫm ơ nơi khác , hình ảnh bộ phận sinh dục được thờ phượng rất trân trọng ở nơi đây , ngoài ra Khu A là một trong toàn bộ một tổng thể kiến trúc mang tính chất triết lý và thờ phượng đặc sắc nhất của nghệ thuật sử dụng gạch và đất nung để trang trí trên tháp của dân tộc Champa trong thời kỳ vàng son của vương quốc này . Một số trong các tác phẫm bằng đất nung vẫn còn vẽ đẹp sắc sảo , với các nét đặc thù của nó, mặc dù nó đã trải qua phơi mình giữa nắng mưa suốt gần 1500 năm mà vẫn không hề hấn gì , phần còn lại của toàn cảnh thánh địa Mỹ Sơn điêu tàn , thê lương như nhận xét cách đây hơn một thế kỷ rửơi của sách Đại Nam Nhất Thống Chí HỒ ĐẮC DUY ( Xem tiếp phần 2 Khu B ) Tham khảo 1/ Du ký đường Trường Sơn 2/ Đại Nam Nhất Thống Chí 3/ Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm của Trần Kỳ Phương 4/ Đại Việt Sử Ký Tòan Thư 5/ Mỹ Sơn sanctuary 6/ The Cham sculpture museum Đà Nẳng
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 18, 2011 2:08:11 GMT 9
THÁNH ĐỊA MỸ SƠN VŨ ĐIỆU CỦA NỮ THẦN SIVA Hồ Đắc Duy Trong Thánh địa Mỹ Sơn có hai ngọn đồi , chúng nằm đối diện nhau theo hướng đông – tây ngay ngã tư của một con suối , các nhánh của con suối chia vùng này thành 4 khu vực Khu A : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía đông Khu B : gồm các tháp và di tích nằm ngọn đồi về phía tây Khu C : gồm các tháp và di tích nằm phía nam , có hai khu C1 và C2 Khu D : gồm các tháp và di tích nằm phía bắc Khu B : gồm có các kiến trúc nằm trên ngọn đồi phía tây có một tháp chính và 3 kiến trúc phụ Theo tác giả Trần Kỳ Phương thì tất cả nhóm tháp này đều có cùng một niên đại .Tháp chính xoay mặt về hướng đông, một kíên trúc phụ đối diện với tháp chính ( xem hình ) có thể đó là chỗ bày mâm , nơi dùng để sửa soạn vật dụng tế lễ, chếch về phía nam một kiến trúc khác có thể đó là Hỏa tháp - Thủy tháp và một miếu nhỏ dựng bi kí phía đông nam Hiện nay tháp chính đã bị phá hủy , đổ nát tạo nên một cái gò cao bằng gạch , phía dưới chôn vùi những gì bí ẩn thì chẳng có ai biết , ngoài đống đổ nát này chỉ còn một mảng tường cao về phía bắc , trên tường còn một cửa giả và 5 trụ áp tường. Cửa giả có vòm cuốn có hình ba lưỡi mác chồng lên nhau, trước nhỏ sau lớn hơn. Trụ áp vào chân tường cũng có hình lưỡi mác nhỏ. Tất cả những phần trang trí trơn không chạm hoa văn Vật trang trí là những đầu thủy quái Makara bằng sa thạch trông rất kỳ cục và hung dữ . Trên cửa chính là một tấm lá nhĩ chạm thần Siva múa, thần có 8 tay , hai tay chắp lên đầu , hai lòng bàn tay úp lại với nhau , vẫn còn trông rõ các ngón tay , một kiểu thức đặt biệt của nghệ thuật múa Champa và 4 cánh tay bên trái của nữ thần Siva mô tả chi tiết không rõ rệt nhưng các bàn tay bên phải thì sinh động hơn nhiều , các ngón tay nắm lại như đang cầm một vật phụ thuộc , một đai dây đeo trước bụng , dưới rốn một phần đai dây thòng xuống che kín bộ phận sinh dục , đầu đội mũ Kirita-Mukuta , dưới chân hai con Makara có vòi cuốn (TKP) Khu B tương đối là nhỏ nhất trong quần thể kiến trúc ở đây , tháp chính không có các kiến trúc phụ đầy đủ đi theo kèm như Hỏa tháp , Thủy tháp....như các tháp khác của Champa , tuy nhiên ở đây có nét đặt biệt là tượng thần Siva trở thành chủ đề thở phựơng chính của khu này Khuôn mặt với mắt có hai hàng lông mày mỏng , mắt nhắm nghiền , khuôn măt trong trạng thái , siêu thoát , sóng mũi cao và cánh mữi nở lớn , môi dày và hơi mím lại , tai đeo búp hoa , trái tai trệ xuống , nữ thần Siva trong thế múa với các động tác rất đặt trưng là hai hàng tay dang ngang rồi cong vút lên đầu , phần thân được kéo xuống do tư thế dang hai đầu gối ra và gót bàn chân chụm lại , bàn chân chài ra và các ngón chân hất ngược lên . Về phương diện múa cỗ điển hay biến tâu hiện đại thì đây là một động tác trong 5 động tác chân căn bản của nghê thuật múa đòi hỏi nhiều kỷ năng và thời gian luyện tập lâu dài mới có khả năng thực hiện được động tác khó này , bởi nghệ sĩ múa chỉ tỳ trọng lượng của tòan bộ cơ thể chỉ trên một điểm tiếp xúc nhỏ ở một phần ở lòng bàn chân phài làm điểm tựa và toàn bộ chịu lực đặt vào gan bàn chân phần ngón cái của bàn chân trái Vũ điệu của nữ thần SIVA Dưới chân nữ thần Siva có hai người trong tư thế quỳ , hai tay chấp lại đang dâng cho nữ thần một phẩm vật , hai nhân vật này không đối xứng và có động tác mô tả sự hiến dâng lễ vật cho nữ thần rất khác nhau , một người ở phía trước nữ thần và một người sau , những chi tiết hoa văn trang trí phần này là một biến tấu trong nghệ thuật điêu khắc rất đa dạng tinh vi , Phần đế là hai con Makara nằm phủ phục hai bên với vòi cuốn cong , con bên trái của nữ thần vòi được chạm trổ che khuất một phần ống chân , mắt mở to , mí mắt hai vồng ngước trông lên dầy sùng bái và ngữơng mộ , con Makara bên phải ở trong tư thế khác , nằm sau nữ thần , phần đầu của vòi kẹp một xâu chuỗi có hơn 25 hạt hướng dâng lên nữ thần Nữ thần Siva đang thể hiện điệu múa trên một tòa sen có nhiều cánh trong trạng thái trầm tư thanh thoát như đang hội nhập vào cõi siêu nhiên vô hình Giữa lòng Thánh địa Tượng người trên tường tháp Hoa văn trên đài tượng Tấm lá nhĩ này có đôi chổ sứt mẻ nhưng vẫn còn thể hiện được cái triết lý của nền văn hóa Champa qua tài năng của các nghệ sĩ điêu khắc tạc tượng của họ Khu B bây giờ hoang tàn đổ nát bởi những cuộc chiến tranh tàn phá hủy diệt của Tuệ Độ thứ sử Giao Châu thời Tấn năm 420 , của Thứ sử Hòa Chi đời Tống năm 436 hay các cuộc chinh phạt của Lê Đại Hành Hoàng đế năm 942 , của Lý Thánh Tông năm 1044, của vua Lê Thánh Tông (1472 )....., có chăng chỉ còn một gò cao gạch vụn màu đỏ nồng nàn của đất cát bazan núi rừng cao nguyên đất đỏ và màu rêu xanh của năm tháng trầm luân , u uất nơi mà ngàn măm trước đây các nghệ sĩ Champa đem hết lòng sùng kính và tài hoa của mình qua nét chạm trổ , điêu khắc và xây dựng nên một thánh địa để bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ đối với các vị tiền nhân tổ tiên cũng như các vị thần linh che chở dân tộc và vương quốc Champa Thánh địa Mỹ Sơn giờ đây chỉ còn sót lại lác đác vài đền tháp rệu rã , những bức tượng không đầu rải rác đâu đó trong bụi rậm ,dưới lòng suối hay nơi gò mối ... Hoang vu như những cơn gió nam oi nồng thổi qua trên đỉnh núi Mahaparvata nhưng cái hồn của Champa vẫn còn phảng phất đâu đó trên cỏ gai và cây dại , cái tinh anh của các nghệ nhân Champa cổ đại vẫn còn thấp thoáng trong điệu múa của nữ thần Siva trên khu cổ tháp ngậm ngùi Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo Ngõ cũ lâu dài bóng tịch dương Hồ Đắc Duy
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 18, 2011 11:11:30 GMT 9
Đại bảo tháp cao nhất Việt NamTrước ngọn tháp uy nghi, người lễ chùa cảm thấy lòng đầy tin tưởng rằng những ước nguyện đầu năm bày tỏ ở chốn thiêng liêng này sẽ linh ứng. Khánh thành ngày 22/11/2010, xuân Tân Mão là mùa xuân đầu tiên tháp Báo Ân - Đại bảo tháp cao nhất Việt Nam - chính thức đón tiếp khách thập phương đến chiêm ngưỡng và lễ bái. Nằm trong khuôn viên chùa Bằng A (Linh Tiên tự), phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, tháp Báo Ân được xây dựng dựa trên kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam. Tháp được xây dựng trong gần 7 năm, với kinh phí gần 20 tỷ đồng công đức của thập phương tăng ni Phật tử và nhân dân cả nước. Được xây dựng dựa trên kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam, tính đến thời điểm này, tòa tháp đang giữ kỷ lục Việt Nam về độ cao và số lượng tầng (gồm 13 tầng). Chiều cao tính tới chóp đỉnh tháp gần 57m, đế móng sâu 45m. Bên trong tháp có 104 pho tượng Đức Thích Ca được đúc bằng đồng theo phương pháp cổ truyền. Chung quanh tháp tôn trí 4 pho tượng Tứ trấn Thiên Vương bế thế bằng đá. Trên 8 cửa ở tầng 1 của tháp 8 pho sách (cuốn thư) đúc bằng đồng, mỗi cuốn nặng 250 kg, có chạm nổi các thi phẩm - thiền kệ. Với việc khánh thành Đại bảo tháp Báo Ân, chùa Bằng A đã trở thành một điểm đến tâm linh đầy ý nghĩa trong những ngày đầu năm đối với nhiều Phật tử trong và ngoài Hà Nội. Đứng trước ngọn tháp cao lớn, uy nghi với những đường nét kiến trúc đầy tính nghệ thuật, người đi lễ chùa không thể không cảm thấy trong lòng mình trào dâng cảm giác bình yên, và trong lòng đầy tin tưởng rằng những ước nguyện đầu năm được bày tỏ ở chốn thiêng liêng này sẽ trở thành hiện thực. Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, trụ trì chùa Bằng A chia sẻ: “Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn giản chỉ để ước nguyện, mà đó còn là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao vất vả trong cuộc mưu sinh. Hòa vào dòng người đi lễ, mỗi người trong chúng ta sẽ cảm nhận được sự giao hòa của trời - đất. Mùi hương trầm, mùi nến, sắc màu rực rỡ của đèn, hoa cùng với không gian thanh tịnh của chốn linh thiêng sẽ làm cho lòng người trở nên nhẹ nhàng, thanh thản”... Dưới đây là những hình ảnh tháp Báo Ân trong một chiều nắng ấm đầu xuân Tân Mão, Đất Việt ghi nhận. Tháp Báo Ân được xây dựng theo mẫu thiết kế của các kiến trúc sư Việt Nam nổi tiếng và có tham khảo ý kiến của kiến trúc sư Nhật Bản. Tháp được xây dựng trên nguyên tắc kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam, với nét đặc thù là được thiết trí theo hình Tháp Bát giác (theo giáo lý Bát Chính Đạo). Cửa tháp mở ra theo 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Bên trong Tháp tôn trí 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng ngồi trên bệ đá, nhằm thể hiện trọn vẹn tinh thần bình đẳng trong giáo pháp của Người. Những pho tượng Phật trong tháp được kiến tạo theo 3 dạng kết cấu khác nhau, với chiều cao và trọng lượng tỉ lệ với các tầng của tháp. Tầng 1 của tháp còn tôn trí 4 tượng Tứ trấn Thiên Vương (Đông phương: Trì Quốc Thiên Vương; Nam phương: Tăng Trưởng Thiên Vương; Tây phương: Quảng Mục Thiên Vương; Bắc phương: Đa Văn Thiên Vương). Các bức tượng được tạc bằng đá, cao 3,5m. Trên 8 cửa ở tầng 1 của tháp Báo Ân có treo 8 pho sách (cuốn thư) được đúc bằng đồng, mỗi cuốn nặng 250 kg, có chạm nổi các thi phẩm – thiền kệ của các bậc cao tăng Việt Nam đương đại. Toàn bộ tầng 1 của tháp được ốp bằng đá Thanh Hóa, từ sàn, tường đến lan can, đặc biệt là những hàng cột đá cao 7m được thực hiện bởi nhóm thợ đá giỏi của huyện Ý Yên – Nam Định. Bên cạnh tháp là 18 pho tượng La Hán ngồi thẳng hàng, mỗi tượng đều thể hiện đầy đủ sắc thái, cảm xúc khác nhau về những nỗi đau, sự khổ ải đè nặng lên kiếp sống hàng ngày của chúng sinh đang trầm luân trong luân hồi sinh tử. Tháp Báo Ân nhìn từ vườn chùa, hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính Tuyên; Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển. Tháp Báo Ân nhìn từ Quan Âm viên, nơi tôn trí bởi 45 pho tượng khác nhau gồm chính thân, 32 hóa thân theo phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và 12 đại nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Những pho tượng này nhằm nói lên tinh thần cứu khổ, ban vui của Bồ Tát Quán Thế Âm cho tất cả chúng sinh trong thế giới. Tháp Báo Ân nhìn từ tháp chuông chùa Bằng A, nơi còn lưu giữ Đại hồng chung (chuông chiêu mộ) được đúc năm 1837. Đây là quả chuông to nhất vùng thời đó, được nhân dân ca ngợi qua câu: “Chuông Bằng, trống Lủ, mõ Đình Công, cồng làng Sét”. Trong khuôn viên chùa Bằng A còn có một hồ nước hình vuông, giữa hồ tôn trí tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hướng vế phía tháp Báo Ân. Tháp Báo Ân hiện giữ 2 kỷ lục ở Việt Nam: kỷ lục tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam và tháp có nhiều tượng Phật bằng đồng nhất Việt Nam. Đại bảo tháp Báo Ân đã trở thành một điểm đến tâm linh đầy ý nghĩa trong những ngày đầu năm Tân Mão đối với nhiều Phật tử trong và ngoài Hà Nội. Hồng Quân
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2015 12:23:19 GMT 9
Trong kiến trúc chùa chiền Phật Giáo, luôn có các Bảo tháp (là nơi chứa xá lị, kinh kệ v.v..) Các tháp này lại có nguồn gốc từ hình thức kiến trúc tháp thờ- lăng mộ từ xa xưa gọi là Stupa Trong ảnh là Stupa nổi tiến ở Sanchi do Asoka đại đế xây dựng Mới đầu, tháp được xây bằng gạch, về sau, người ta đã ốp thêm lẩn đá quý ở ngoài thành to rộng gấp đôi. Tổng chiều cao tháp hơn 17m, kể cả bệ cao 4,3m. Đường kính đáy tháp 32m. Tháp được kết thúc bằng một vọng lâu (đài quan sát) hình vuông, được xem là nơi để -xá lị của Phật . Trên tận cùng của nóc có một cây cột gắn ba phiến đá lớn hình đĩa, tạo nên một chiếc dù nhiều tầng mà người ta coi là biểu tượng của sự tôn nghiêm. Xung quanh tháp bán cầu có hàng rào đá với 120 thanh chống và bốn cổng mở ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cổng là một biểu tượng của tam thế trong giáo lý nhà Phật: quá khứ, hiện tại, tương lai. Trên cột có nhiều hình chạm khắc với nghệ thuật rất điêu luyện, hình ảnh tinh tế, sống động. Ở đây hội tụ đủ các loại thú vật, thảo mộc, người và thần thánh, các huyền thoại về cuộc đời nhà Phật, bánh xe pháp luân… Các nghệ nhân đã truyền đạt được những cảm xúc tràn trề, sự say đắm với cuộc sống và cái đẹp. Ở trên cổng phía Đông còn có cặp tượng nữ thần khỏa thân “mông dày, bụng thon, bộ ngực nhô ra đồ sộ, điệu bộ phóng túng gợi tình” (theo Will Durand) toát lên vẻ đẹp vừa thánh thiện, vừa trần tục. Xung quanh stupa Sanchi có cả một quần thể công trình dùng làm chỗ ở cho các vị sư và là trường học Phật giáo
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2019 16:43:15 GMT 9
Từ tháp Phật đến tháp Mộ- Một biểu tượng của hành trình giải thoát Đặng Vinh Dự tapchivanhoaphatgiao.com/nghien-cuu/tu-thap-phat-den-thap-mo-mot-bieu-tuong-cua-hanh-trinh-giai-thoat.htmlVới người phương Đông, nhất là với đạo Phật thì “sinh ký tử quy”, người xưa đã từng dạy như vậy. Nhưng trong cùng một cái chết cũng có hàng ngàn cách quay về. Có sự quay về ồn ào, hào nhoáng, đôi khi thấm đẫm cả máu, xương, nước mắt của hàng vạn người như sự quay về của các vị vua. Với Pharaon, sự quay về đó để mãi vẫn là Pharaon, vì vậy Kim thự tháp được xây trường tồn với thời gian. Tần Thủy Hoàng cũng vậy, sống là vua và chết cũng sẽ là vua nên cả giang sơn, cung điện, quan lại, thị tỳ đã theo ông về thế giới bên kia…Các vị vua triều Nguyễn tuy không ồn ào, hoành tráng như các Pharaon hay Tần Thủy Hoàng nhưng cũng tốn khá nhiều tiền của và thời gian để lo cho sinh phần lúc nằm xuống. Cho nên chết có nghĩa là được quay về, quay về để không còn ở kiếp trầm luân. Sự quay về đó chỉ cốt được giải thoát. Hành trình giải thoát là một lối đi dài nhẹ nhàng như hình hài của ngôi tháp mộ, đầy màu sắc triết lý và thấm đượm tính nhân văn của Phật giáo. Từ ngôi tháp Phật giáo đơn sơ ở Ấn Độ được cải biến để hình thành những phức hệ tháp “vương giả” đa dạng về kiến trúc và mỹ thuật của Trung Hoa đến những ngôi tháp huyền bí theo phong cách Tây Tạng và tháp mộ của chư vị thiền sư ở Huế thể hiện vừa sự tiếp biến vừa ý thức bảo tồn phong thái của người Việt trong kiến trúc và mỹ thuật. Tháp là gì?Theo Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn thì tháp (stupa), pagoda, tháp bà, đâu bà, du bà, tụy đồ ba, tụy đô bà, phù đồ… đều là những tên gọi theo Phạn ngữ thường đọc là “tháp”. Ấy là những tòa kiến trúc cao, nhiều tầng, dưới lớn trên nhỏ, để thờ xá-lị (tro tàn) của chư Phật hoặc của các bậc thành đạo như Bồ-tát, Duyên-giác, A-la-hán; hoặc để táng di cốt của các bậc tôn túc từng hành đạo trong các ngôi chùa. Có cảnh tháp cất riêng một mình. Song phần nhiều cốt trong vườn nhà chùa [6:46]. Còn theo Nguyễn Tường Bách thì tháp trước hết là nơi chứa đựng Xá-lị (s:sarira) các vị Phật hoặc các bậc Thánh. Tháp cũng được xây dựng tại các thánh tích quan trọng, kỷ niệm cuộc đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Lâm-tì-ni, Giác Thành, Câu-thi-na, Vương Xá) (…). Tháp không nhất thiết là nơi chứa đựng Xá-lị mà còn có thể là nơi chứa đựng kinh điển, tranh tượng. Tháp cũng là một trong những đối tượng thiền quán, thường có nhiều ý nghĩa tượng trưng. Các bậc thang lên tháp đôi lúc biểu hiện cho các khái niệm Đại thừa, như bốn bậc là từ, bi, hỷ, xả hay mười bậc là Thập địa [3: 2530]. Như vậy, tháp có nhiều chức năng và công dụng khác nhau nhưng chức năng sơ khai ban đầu của nó là an trí Xá lợi hay nhục thân của Đức Phật của Bồ-tát. Từ tháp Phật… Tháp Phật là nơi chứa Thánh tích, di vật của Đức Thích-ca Mâu-ni hoặc các vị Tổ sư có công đức lớn. Theo truyền thuyết Phật giáo, tháp là sự kết hợp ba vật bất ly thân của một vị tu sĩ Phật giáo, đó là Tam tạng kinh, bình bát và cây tích trượng. Tam tạng kinh giúp vị tu sĩ bám sát lộ trình giới định tuệ và luôn xác định bước đường đi đến Chánh pháp; bình bát giúp vị nuôi sống thân mạng; và cây tích trượng nâng đỡ bước chân mỗi lúc sức khỏe suy giảm. Sống là vậy; và lúc qua đời những vật bất ly thân ấy cũng kết thành hình ảnh nấm mồ nơi chư vị nằm xuống. Dù chỉ là truyền thuyết nhưng không phải là không có lý. Trên thực tế, tháp Phật nguyên thủy có hình hài như gò mộ táng xa xưa của người Ấn Độ. Sau khi Đức Phật Thích ca nhập diệt, kiểu gò mộ này lần lần được dung hợp vào Phật giáo như là nơi chứa thánh tích của Phật và chư tôn giả, đồng thời được xem như phương tiện nhắc nhở đến sự giác ngộ của Ngài và là biểu tượng của nhục thân cũng như lời dạy của Ngài. Loại gò mộ ấy được gọi là Phức Bát Thức Tô Đồ Ba [4:335]. Bảo tháp Sanchi còn tồn tại khá hoàn chỉnh hiện nay ở Ấn Độ là một ví dụ. Đó là một kiến trúc hình bán cầu xây trên nền hình tròn bằng đá. Trong tháp có những hộp đựng Xá lợi, các hộp đó cũng có hình tháp, làm bằng vật liệu quý, đặt ngay giữa bán cầu hoặc trên đỉnh. Trong một thời gian dài sau đó, kiến trúc tháp trải qua quá trình biến đổi. Xuất phát từ Gandhara (Tây Bắc Ấn Độ), tháp nền hình tròn bằng phẳng được thay thế bằng một nền hình ống, chia thành nhiều đoạn. Phần bán cầu được kéo dài ra, nhưng so với nền ống thì nhỏ hơn trước. Phần nằm trên bán cầu cũng được kéo dài, chia thành nhiều tầng, biến thành hình nón. Khoảng giữa những năm 150 và 400 sau Tây lịch, phần gốc hình ống lại biến thành hình vuông và trở nên phổ biến tại vùng Nam Á. Hành trình đi về phía Bắc của ngôi bảo tháp chứa đựng nhiều điều thú vị. Ở Tây Tạng, bảo tháp Phật giáo được gọi là Chorten. Các Chorten nơi đây có hình dáng gần giống với các bảo tháp ở Ấn Độ, cụ thể là phong cách Bắc Ấn. Hình dáng có ba phần chủ yếu, phần đáy dưới cũng rộng, phần thân chính hình tròn vươn lên cao, mặt nghiêng mở rộng về phía trên (được gọi là anda), bên trên người ta đặt phần chính thứ hai. Cách xây dựng này cùng các thành phần hỗ trợ (được gọi là harmika) đánh dấu sự chuyển tiếp sang phần cuối cùng gồm có một cột với các chồng đĩa tròn hoặc những chiếc dù có kích thước nhỏ dần, số lượng chênh lệch từ tám đến mười ba cái [8: 107]. Với ý nghĩa truyền thống của Phật giáo, các Chorten Tây Tạng, bên cạnh việc được coi là cái cốt tủy của chính Đức Phật, còn có ý nghĩa về vũ trụ, đặc biệt là phần đỉnh. Đỉnh chorten được cấu tạo bởi năm hình thể kỷ hà biểu thị cho ngũ hành. Phần đế vuông biểu thị cho sắc, trong khi vòng tròn bên trên biểu thị cho thức. Tiếp đến, hình tam giác tượng trưng cho tinh thần và nửa vòng tròn biểu thị cho Phật pháp. Trên cùng của kiến trúc là một viên bảo châu rực lửa tượng trưng cho nguyên lý tối thượng. Kiến trúc và những chi tiết trang trí này phần nào nói lên sự đa dạng của bảo tháp Phật giáo, nói thể hiện được sự tiếp biến và việc bảo tồn phong cách đặc thù của mỗi nền văn hóa. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng những ngôi tháp này vẫn chưa thể hiện được sự đa dạng và phần nào còn chịu ảnh hưởng của hình mẫu nguyên thủy. Có thể nói rằng, đạo Phật ra đời ở Ấn Độ nhưng lại phát triển rực rỡ ở đất nước Trung Hoa. Ngôi tháp Phật giáo cũng vậy. Theo bước chân truyền bá đạo Phật vào Trung Hoa, ngôi Phật tháp xuất hiện ở vùng đất này đã khoác lên mình một phong cách mới, phong cách lầu các. Sở dĩ có sự thay đổi này là vì theo quan niệm của người Trung Hoa, tháp là nơi chôn cất Xá lợi Phật, thiêng liêng và thần thánh, phải dùng hình thức kiến trúc cao quý để tôn trí. Trung Quốc vào các thời kỳ Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế đã xây dựng lầu cao gác lớn để nghênh hầu thần tiên, nên khi thờ phụng Phật, người Trung Hoa cũng dùng loại kiến trúc vương giả này. Ngoài ra, khi ngửa đầu chiêm bái tháp cao, con người tự nhiên có lòng kính trọng và ngưỡng vọng; xây tháp cao để thờ Xá lợi Phật là vì thế [4: 337]. Tuy nhiên hình thức tháp Phức Bát của Ấn Độ không mất đi khi vào Trung Hoa. Nó đã được cải biến thành một kiểu tháp mới chia thành ba phần: Địa cung nền tháp, thân tháp và tháp sát. Tháp được dùng để an trí Xá lợi Phật nên áp dụng phương thức lăng mộ địa cung để cải táng. Nền tháp làm nền tảng cho tòa tháp, phủ úp lên trên địa cung. Thân tháp là kết cấu chủ yếu của tòa tháp, có thể rỗng hoặc đặc. Tháp sát nằm ở đỉnh của tháp, bản thân giống một tòa tháp nhỏ, chia làm sát tọa, sát thân và sát đỉnh. Loại hình kiến trúc này dần dần phổ biến và được tiếp thu ở nhiều nước theo dấu chân của Chánh pháp. Ở Trung Hoa, tháp Phật có nhiều loại hình và kết cấu. Nêu chia theo hình dáng, có tháp hình vuông, hình lục giác, hình bát giác, hình tròn…Nếu chia theo hình khối sẽ có tháp đơn tầng (tháp mộ gọi là Bảo châu), thấp 3 tầng, 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng…(trong thực tế tháp mộ có cả 6 tầng). Nếu chia theo vật liệu kiến trúc thi có tháp gỗ, tháp gạch, tháp sắt, tháp lưu ly…Có thể đơn cử một vài loại hình tiêu biểu như sau: * Tháp kiểu lầu các: Bắt nguồn từ lầu các trong kiến trúc truyền thống Trung Quốc. Loại tháp này có lịch sử lâu đời, hình thể cao lớn. Tuy nhiên do dễ bị hỏa hoạn nên từ thời Tùy Đường trở đi, loại tháp lầu các bằng gỗ ít xuất hiện mà thay vào đó là những vật liệu bằng gạch, đá. * Tháp kiểu mật thiềm: Là loại tháp có rất nhiều tầng hiên ở bên ngoài. Tháp Đăng Phong, chùa Tung Nhạc (Hà Nam) là một ví dụ. * Hoa tháp: Là loại hình tháp được trang trí phức tạp như một đóa hoa ở phần nửa trên. Tồn tại chủ yếu vào thời Tống, Liêu, Kim. * Ngoài ra còn có các loại hình khác như tháp kiểu đình các, tháp kiểu Kim Cang bảo tòa, Qúa Nhai tháp, Thiết tháp, Phồn tháp… Những loại hình này đã làm cho ngôi tháp vốn đơn sơ của Ấn Độ trở nên phong phú và có tính thẩm mỹ hơn. Tháp Phật giáo giờ đây không chỉ còn là nơi an trí Xá lợi Phật mà nó đã chuyển tải được những ý nghĩa nhân sinh của Phật giáo qua các chi tiết kiến trúc, họa tiết trang trí trên ngôi tháp. Việt Nam có dấu chân của chư vị tôn giả từ thế kỷ thứ II, cũng từ đó ngôi tháp Phật xuất hiện với những hình hài đa dạng. …đến tháp mộ chùa HuếTháp mộ chùa Huế tiếp thu các kiểu dáng từ ngôi tháp Trung Hoa, Tây Tạng…, theo thời gian đã có sự cải biến cho phù hợp. Có những kiến trúc tháp mộ mang dáng vóc của tháp lầu các, cũng có tháp mộ mang hình hài của tháp kiểu mật thiềm và cả hình dáng của chorten Tây Tạng. Chỉ có điều, những ngôi tháp mộ này có vóc dáng vừa phải, nương mình dưới bóng cây, hài hòa giữa không gian vườn chùa, ít khi vươn cao lộ vẻ thách thức. Dù có xuất hiện trên đồi cao thì tháp mộ cũng thể hiện vẻ nhún nhường vốn có của phong cách kiến trúc Việt, như từ tâm của giáo lý nhà Phật. Điểm khác biệt rõ nhất là chi tiết tháp sát. Tháp sát ở tháp mộ xứ Huế không còn sát tọa, sát thân và sát đỉnh mà thay vào đó là đóa sen thuần khiết mang nhiều ý nghĩa. Xuất hiện từ cuối thế kỷ XVII, tháp mộ ngày càng nhiều lên theo dấu chân hoằng pháp của các vị thiền sư và đến nay đã có hàng trăm ngôi tháp mộ lớn nhỏ tồn tại trên mảnh đất xứ sở này với những phong cách kiến trúc và mỹ thuật đặc trưng. Tháp mộ Giác PhongLão Tổ (chùa Báo Quốc) tuy không còn nguyên vẹn, chỉ là một di tích lịch sử, nhưng đó là di tích đầu tiên ghi dấu về sự xuất hiện ngôi tháp mộ. Tháp mộ Tổ Liễu Quán (chùa Thuyền Tôn) lại mang dáng dấp đặc trưng của kiến trúc mật thiềm đến những ngôi tháp mộ mang hình hài nguyên thủy trên đồi Yết Ma (chùa Tường Vân), chùa Thiền Lâm Theravada..và nhiều tháp mộ theo kiến trúc lầu các cảu Trung Hoa phổ biến sau này. Tất cả như một phức thể quy tụ lại để thể hiện sự đa dạng và dung hòa các phong cách thật ngẫu nhiên. Và sự giải thoátVốn chỉ là ngôi tháp mộ nhưng kiểu thức và họa tiết của nó không đơn điệu, vẫn lộ được vẻ thuần phát của phong cách nguyên thủy, vẻ đài các của phong thái Trung Hoa và đâu đó là chút huyền bí của người Tây Tạng. Ở đây chỉ xin nhắc đến hai chi tiết đặc trưng toát lên nhiều ý nghĩa; đó là thân tháp và đóa sen (thay cho tháp sát) trên đỉnh của tháp mộ. Thân tháp của tháp mộ Phật giáo xứ Huế chịu ảnh hưởng của loại hình bảo tháp thớ Xá lị và được xây theo hình bát giác như tên gọi ban đầu là tháp Phức Bát. Bình đồ dạng tháp Phức Bát là kiểu dáng phổ biến trong hệ thống tháp mộ chùa Huế, thỉnh thoảng có thêm hình lục giác (duy nhất tháp mộ của Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng ở chùa Quốc Ân). Với quan niệm của nhà Phật, ý nghĩa của hình bát giác không chỉ gói gọn trong nhu cầu sở thích. Tháp có 8 mặt biểu hiện cho 8 hướng trong ý thức Phật pháp viễn chiếu tám phương. Số 8 trong triết lý nhà Phật còn được hiểu rõ hơn trong thuật ngữ “Bát chánh đạo”. Vốn Phật giáo xem cuộc đời này là bể khổ, sự khổ ấy xuất phát từ sự mê muội của con người, của tham-sân-si. Để con người thoát khỏi tham-sân-si thì việc tu tập theo Bát chánh đạo là con đường đi đúng đắn nhất. Với Bát chánh đạo, vị tu sĩ sẽ nghiêm trì được giới luật, quán định được tư duy để khi viên tịch có thể được đến cõi Niết-bàn. Quá trình tu tập là một quá trình dài lâu, vì vậy ngay cả khi viên tịch thì ước vọng tu theo con đường đã chọn để đạt chánh quả vẫn là một ước vọng cần phải thực hiện. Phải chăng hình hài tháp mộ cũng có dụng ý như vậy? Nhưng nếu tháp Phật ở Trung Hoa có nét giống với ngôi tháp từ Ấn Độ do còn lưu giữ hình ảnh tòa phù đồ trên đỉnh tháp thì vào Việt Nam, đặc biệt là những tháp mộ ở Huế, chi tiết ấy đã mất hẳn và thay vào đó là đóa hoa sen. Hoa sen trở thành chi tiết trang trí độc tôn của tháp mộ Phật giáo xứ Huế không những vì nó có hình dáng trang nhã mà còn vì với đạo Phật, hoa sen nói lên nhiều điều hơn cả hình hài đượm vẻ hiền dịu ấy. Hoa sen là biểu hiện của sự nẩy nở Tinh Thần, của Linh Thiêng và của Thuần Khiết. Chuyện truyền kỳ của Phật giáo kể lại rằng ngay khi cậu bé Siddhartha, Đức Phật tương lai, vừa chạm đất và đi bảy bước thì bảy hoa sen từ dưới đất mọc lên. Như vậy, mỗi bước của Bồ-tát là một động tác làm nẩy nở tinh thần. Chư Phật nhập định lại được trình bày ngồi trên tòa sen và sự nảy nở của Thiền định cũng được tượng trưng bằng hoa sen nở, mà ở trung tâm và nơi các cánh hoa có các biểu tượng hay hình vẽ của chư Phật và Bồ-tát khác nhau. Ý nghĩa căn nguyên của hoa sen tồn tại như chính quá trình sinh trưởng của nó. Sen mọc từ bùn đen, vươn lên mặt nước, và ra khỏi mặt nước mới nở hoa. Mặc dù lớn lên từ trong lòng đất, nước, hoa sen không vướng bận bởi những điều hôi tanh. Tinh thần cũng vậy, sinh ra ở thế giới này, trong thân thể con người, nhưng sẽ nở các cánh hoa của đức hạnh sau khi đã thoát khỏi làn sóng bùn dơ của đam mê và ngu dốt, sau khi đã biến đổi các lực mù quáng trong các chiều sâu thành nhụy thanh kiết của hoa-trí huệ Giác ngộ (Bồ đề tâm) hay viên ngọc Như ý (Mani). Nếu sức mạnh hướng về ánh sáng ngủ yên trong mầm sen ẩn dưới lòng đất, thì sẽ không có liên đài vươn mình đón vầng thái dương. Nếu trong sự hoàn toàn vô trí, trong sự ngu dốt cùng cực, mà ngủ yên lòng mong ước mãnh liệt muốn hiểu biết tất cả thì sẽ không bao giờ trong đêm dài sinh tử lại có bậc Giác ngộ đứng lên.thap-mo hoa sen Cũng như thế, chư vị Tăng Ni trong bảo tháp kia là những thần thức đã thoát khỏi nhục thân, hình hài tạm bợ để vươn lên cùng ánh sáng trí huệ, của đạo Pháp như đóa sen nở trên chóp tháp vậy. Trong không gian thanh nhàn, êm đềm và yên ả của vườn chùa, giữa tiếng cầu kinh, tiếng chuông vẫn hôm sớm vang lên xua tan những buồn lo u uẩn, tháp mộ của chư vị thiền sư hiện hữu một cách nhẹ nhàng ngày đêm mang điềm lành đến cho đồ chúng và Phật tự thập phương. Như đóa sen đã vươn mình lên khỏi bùn nhơ tăm tối và đạt đến trí huệ, đến sự viên mãn, lúc tàn đi vẫn trữ lại nguồn dinh dưỡng giúp nảy mầm những đóa sen tương lai. Thần thức của chư vị thiền sư đã đến với thiên giới, với cõi Phật nhưng với bảo tháp kia chư vị như vẫn nhắc nhở đồ chúng một điều rằng: hãy tu tập để nở đóa hoa trí huệ, không ngừng tinh tấn để đạt tới Niết-bàn. Vốn cuộc đời là vô thường, tạm bợ vì vậy phải làm sao để lúc viên tịch một chút hương vẫn còn lưu lại với đời, giúp cuộc đời trần thế này thêm phần hương sắc. “Đàm hoa lạc khứ hữu dư hương”, câu thơ ở cổng vào tháp mộ Tổ Liễu Quán đã dạy như vậy. Hành trình của tháp Phật giáo cũng là hành trình tìm đến sự hoàn mỹ cho ước nguyện được giải thoát. Hành trình ấy qua không gian và thời gian đã mang theo mình những chi tiết nghệ thuật cũng như kiến trúc thể hiện rõ phong cách của từng nền văn hóa. Trên nền tảng của sự vi diệu trong giáo lý nhà Phật, tháp Phật mang đến sự an lạc cho toàn thể chúng sinh và niềm an lành cho mỗi kiếp nhân sinh trong từng tháp mộ. Tài liệu tham khảo
Meher Mc Arthur (2005), Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ Thuật (Phan Quang Định dịch) Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Chân Nguyên-Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học, Nxb Thuận Hóa (Nguồn: Đạo Uyển Nguyễn Tuệ Chân (biên dịch) (2008), Nghệ thuật Phật giáo, Nxb Tôn Giáo Nguyễn Tuệ Chân (biên dịch) (2008), Toàn tập giải thích hình tượng hoa sen Phật giáo, Nxb Tôn Giáo Đoàn Trung Còn (1997), Phật học từ điển , quyển II, Nxb Tp. Hồ Chí Minh. Kiêm Đạt (?), Mỹ thuật Phật giáo, ĐH Đông Phương-California-USA .(http://www.quangduc.com/vanhoa/36kientruc12html). Robert E. Fisher (2004), Mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo, Nxb Mỹ Thuật (Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Tuấn dịch). Robert E. Fisher (2002), Mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo, Nxb Mỹ Thuật (Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Tuấn dịch). Nguyễn Bá Lãng (1972), Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, tập 1, Viện Đại học Vạn Hạnh. Hà Xuân Liêm (2000), Những ngôi chùa Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách (1993), Danh lam xứ Huế, Nxb Hội Nhà Văn.************************************************* fudozon.com/chi-tiet-album/mat-cat-cau-tao-kien-truc-co-dien-vung-tay-a--647.htmlfudozon.com/chi-tiet-album/cau-tao-kien-truc-den-chua-nhat-ban--1262.htmlStupa (nghĩa đen là "búi tóc") hay tháp, tháp-bà, phù đồ, thạt (từ tiếng Lào), theo truyền thống Phật giáo là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Đức Phật) hay để tưởng niệm Đức Phật và môn đệ có thánh tích. Cách cách gọi khác gồm có: Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp. fudozon.com/chi-tiet-album/stupa-kien-truc-and-cac-linh-khi-bang-kim-loai--1800.html?fbclid=IwAR1YG5-9tPuiFhMnilM6CI_XWbH-5kWueal8eozawbzq0ILWVy5WSBh_TT4Dấu vết kiến trúc Phật giáo cổ nhất của stupa là ở Ấn Độ vào thế kỉ 4-1 TCN, dạng bán cầu, xung quanh có lan can, được trang trí bằng những hoạt cảnh về cuộc đời Đức Phật, trên đỉnh là hình tượng chiếc lọng. Ở các nước như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, stupa có dạng bán cầu và đỉnh nhọn, vì theo tương truyền trước khi tịch, Phật được hỏi: làm thế nào để bảo tồn sự tôn kính di thể Phật? Phật gấp tư áo cà sa, úp bát khất thực lên, rồi đặt cái gậy chống lên trên cùng rồi tịch. Ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, stupa được gọi là tháp hay tháp-bà, là nơi đựng tro cốt của Phật (xá lợi) hay của sư tổ trụ trì chùa. Tháp có chiều cao lớn hơn cạnh đáy, chia thành nhiều tầng, thường càng lên cao càng thu nhỏ dần, phía trên cùng có mái cong. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người” nhằm đề cao giá trị nhân văn giúp đỡ người khác một cách trực tiếp thì tốt hơn là xây dựng những gì mang tính hình thức theo tôn giáo.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:43:27 GMT 9
Đình Bình Thủy
Đình Bình Thủy nay thuộc phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ. Đình nằm sát với khu cư dân phía Bắc cách bờ sông Hậu khoảng 200 m, phía Đông là bờ rạch Bình Thủy, còn phía Nam sát với trục đường giao thông chính. Đây là công trình rất đặc sắc, biểu thị sức sống mãnh liệt của cộng đồng làng xã cư dân Nam bộ, tinh thần tôn trọng, thờ phụng tổ tiên, người có công với nước… đồng thời cũng thể hiện trí tuệ, bàn tay khéo léo của người dân địa phương. Lịch sử xây dựng đình Qua khảo sát thực tế và thông qua các tư liệu về lịch sử xây dựng và phát triển của các di tích tại Cần Thơ, cho thấy kiến trúc nghệ thuật đình Bình Thủy mang nhiều lớp niên đại khác nhau. Khởi dựng (năm 1844) Qua lời truyền khẩu của các bô lão trong làng, khi bão lụt diễn ra liên miên tại làng Long Tuyền khiến nhà cửa ruộng vườn thiệt hại, nhân dân lầm than, làng đã lập một ngôi đình bằng gỗ, lợp lá tại vàm Bình Hưng vào năm GiápThìn (1844), lúc đầu thờ Thành hoàng làng nguyện thần linh làm ăn yên ổn. Lần trùng tu thứ nhất (năm 1853) Năm Tự Đức thứ 5 (1852), quan khâm sai đại thần Huỳnh Mẫn Đạt trên đường tuần du qua sông Hậu, bất ngờ gặp phải một trận cuồng phong, ông cho thuyền nấp vào cù lao, ngã ba của một dòng kênh đổ và sông Hậu nơi vàm rạch Bình Hưng (nay là Cồn Linh tại Vàm rạch Bình Thủy), nhờ đó mà thuyền được bình an. Ông lên bờ tham quan tìm hiểu dân tình địa phương và cho đổi lại tên rạch và tên đất này là "Bình Thủy". Khi trở về, ông đâng sớ lên vua Tự Đức, xin ban sắc phong “Bổn Cành Thành Hoàng” cho thần Thành hoàng làng Bình Thủy vào ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý (1852). Từ đó, làng có tên mới là Bình Thủy, và ngôi đình cũng được người dân gọi là đình Bình Thủy. Sau khi nhận được sắc phong của nhà vua, dân địa phương đã cùng nhau sửa sang lại đình (1853). Lần này lợp ngói phía trước đình để xây thêm một nhà võ ca (thường dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một sân khấu nhỏ, thấp, bằng gỗ để cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn). Sau này nhân dân còn đưa thêm những người có công với nước vào thờ như: Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập... Lần trùng tu thứ hai (năm 1909) Năm 1904, quan tri phủ Nguyễn Đức Nhuận thấy đình sắp sập, Đình Bình Thủy được xây lại mới hoàn toàn ở ngã tư trên sở đất của làng rộng 2,9 ha. Không may khi quan tri phủ qua đời, công việc bị đình trệ. Năm 1909 ông cả Nguyễn Doãn Cung cùng ông thông gia điền chủ đồng tán thành ý kiến xây dựng lại ngôi đình cũng tại chỗ cũ (vàm Bình Thủy) với số tiền chung là 5.823 đồng Đông Dương. Công việc xây dựng được khởi công từ ngày 12 tháng 7 năm 1909 đến 1910 thì hoàn thành. Công việc xây dựng được tiến hành tốt đẹp với sự thiết kế của ông Huỳnh Trung Trinh. Bia công nhận di tích đình Bình Thủy (tên cũ là Long Tuyền cổ miếu) dựng ở sân đình ghi: Long Tuyền cổ miếu tức đình Bình Thủy ngày nay, đã được vua Tư Đức sắc phong "Thành hoàng Bổn cảnh" ngày 29 tháng 11 năm 1852. Ngôi đình hiện tại được xây dựng từ 1909. Đây là một trong những ngôi đình lâu đời của Nam Bộ, còn giữ được khá nguyên vẹn ở tỉnh Cần Thơ. Đình Bình Thủy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị của dân tộc Việt Nam, nơi sinh hoạt tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân vào những ngày lễ hội truyền thống. Mặt bằng tổng thể và kiến trúc đình Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 20 nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống của dân tộc. Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình nghệ thuật độc đáo. Đình được xây dựng trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m² theo hình chữ Nhất (-), tọa lạc trên bờ Nam sông Hậu thuộc địa bàn phường Bình Thủy. Cách kiến trúc ngôi đình này khác rất nhiều so với kiến trúc ở miền Bắc. Đình được cất trên một nền cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều có 6 hàng cột, trong đó bố cục với 5 gian điện thờ và 2 dãy hành lang nội bộ hai bên. Tòa tiền điện là gian thờ các vị anh hùng có công làm rạng rỡ quê hương đất nước như Trần Hưng Đạo, Phân Bội Châu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Trung Trực, Đinh Công Chánh, ngoài ra còn có bàn thờ ngũ vị Nương Nương và các bàn nghi. Bên phải tiền điện và nơi tiếp khách và hội họp của các chức sắc trong đình. Chính điện là nơi thờ Bổn Cảnh Thành Hoàng, đặt chính giữa bức chân dung của vị thần nhân đức có phong thái trầm tư như đang lo nghĩ về nhân tình, thế sự. Vị thần đứng sau là Đinh Công Chánh, người đã có công đóng góp công sức cho địa phương nên được dân phong làm Hậu thần, Dọc hai bên chính điện, phái trái là bàn thờ Hương Chức Tiên Giác, bàn thờ Hậu Hiền. Bên phải đối diện là bàn thờ Chức Sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền hiền. Gian hậu điện có bàn thờ Hậu Thần ở giữa, hai bên là hai bàn thờ Hữu Ban và Tả Ban. Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước. Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay đình Bình Thủy vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt. Lễ hội đình Bình Thủy Hàng năm nhân dân địa phương tổ chức hai ngày lễ lớn long trọng: lễ Thượng điền ở đình Bình Thủy được xem là lễ hội lớn nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Lễ thờ Bổn Cảnh Thành Hoàng (hay còn gọi là Thành hoàng làng là thổ thần canh giữ đất) mang đậm tính chất nền văn minh lúa nước (cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa), diễn ra trong ba này 12, 13 và 14 tháng 4 âm lịch, gia đạo an khang). Trong những ngày này, khách thập phương, dân làng lục ấp (6 ấp của làng Bình Thủy xưa: Bình Nhựt, Bình Lạc, Bình Thường, Bình Dương, Bình Phó và Bình Yên) và các dân tộc tấp nập về dự lễ cúng đình đông vui, cờ hoa màu sắc. Xưa kia, khi đường giao thông bộ chưa mở rộng, lễ rước sắc thần diễn ra trên sông bằng thuyền rồng và bè thủy lục, nay đã được thay thế bằng long xa và các phương tiện giao thông đường bộ. Ngày đầu tiên, từ 2 giờ sáng, một dòng người y phục chỉnh tề theo long xa rước sắc thần đi du ngoạn một vòng từ đình đến ngã tư Bé, rồi sau đó trở về đình an vị. Từ đó trở đi, không gian di tích luôn từng bừng, nhộn nhịp với các trò chơi dân gian, như thả vịt, kéo co, hát bội, hát tiều, nữ công gia chánh... Đêm đến, trong âm thanh rộn rang của tiếng kèn, tiếng trống, mõ chiêng nổi lên khi hành lễ. ngoài sân đình những vở tuồng diễn điển tích cổ được trình diễn suốt ba ngày đêm Lễ Hạ Điền chỉ tổ chức trong một ngày vào 14 tháng Chạp. nghi lễ diễn ra như ngày đầu của lễ Thượng điền: Tế lễ, thay khắn, rước sắc thần, diễn xướng dân gian… Với những giá trị văn hóa đặc sắc còn được bảo lưu, ngày 5 tháng 9 năm 1989, đình Bình Thủy đã được Bộ Văn hóa – Thông tin ban hành Quyết định số 1570VHQĐ công nhận đình Bình Thủy là Di tích Lịch sử - Văn hóa (cấp Quốc gia). Năm 2001, đình được Bộ Văn hóa – Thông tin đầu tư trùng tu tôn tạo tổng thế. Từ đó đến nay, hàng năm nhân dân và chính quyền địa phương luôn quan tâm gìn giữ và phát huy đình làng Bình Thủy – một di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhân dân miền sông nước Việt Nam. Nguyễn Hoàng Hiệp ( phòng Nghiên cứu - Sưu tầm) Bảo tàng Lịch sử quốc gia
|
|