|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:29:27 GMT 9
Dịch và giới thiệu văn học cổ Việt Nam: Những điều bất cập.
Thiếu Khanh pham-v-thanh.blogspot.com/search/label/About%20Uswww.talawas.org/talaDB/talaDBFront.php?rb=08vanmagazine.saigonline.com/Đề cập sự kiện "CD 10 ca khúc nổi tiếng của VN được chuyển sang tiếng Anh" bồi rất... trời ơi mới đây (mà trang web của Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch VN đăng bài hí hửng khoe "Chuyển ngữ sát nghĩa tiếng Anh" để "Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa"), trên trang blog Nguyễn Văn Tuấn tác giả viết:
"Nhưng dịch nhạc và thơ Việt sang tiếng Anh là việc làm rất khó khăn. Nó đòi hỏi người dịch chẳng những phải am tường tiếng Anh, tiếng Việt, mà còn phải có kiến thức tốt về văn thơ của cả hai ngôn ngữ. Dịch thơ văn và nhạc không chỉ đơn thuần là việc chuyển ngữ, mà còn là một công trình sáng tác."
Những yêu cầu cho dịch thuật, nhất là dịch thơ, như Gs Nguyễn Văn Tuấn nói trên đây, vốn đã được nhận thấy từ hàng ngàn năm trước, và được khẳng định một cách cụ thể từ cuối thế kỷ 17. Nhưng trước khi xảy ra vụ "CD với 10 ca khúc" được "dịch" một cách tai hại nói trên, người ta đã có dịp nhận thấy việc dịch và giới thiệu văn học cổ VN đã được một vài dịch giả trong nước thực hiện ngoài "chuẩn" quy định mà hệ quả tuy không đến nỗi... "you inside me after class" [1] (!) nhưng cũng hết sức bôi bác trời ơi.Người La Mã là những người đầu tiên làm công việc dịch thuật từ thời cổ đại. Năm 196 trước công nguyên, các thành bang Hy Lạp chịu nhận sự bảo hộ của La Mã. Người La Mã chiến thắng và cai trị người Hy Lạp nhưng họ vốn rất ngưỡng mộ nền văn minh và văn học của Hy Lạp, và họ đã dành rất nhiều nỗ lực để dịch các tác phẩm văn học của Hy Lạp, trong đó, những trường thiên anh hùng ca Odyssey và Iliad của thi hào Homer vốn là những viên ngọc bất hủ. Ngay khi phát minh dịch thuật, người La Mã đã dịch thơ. Tác phẩm văn học của tất cả các quốc gia thời cổ đại chủ yếu là thơ. Đó là loại tác phẩm dễ lưu truyền bằng miệng và theo trí nhớ khi các phương tiện in ấn chưa ra đời. Kinh nghiệm sớm về dịch thuật của họ cũng là kinh nghiệm dịch thơ. Nhưng chỉ đến nửa sau thế kỷ 17, nhà thơ, kịch tác gia kiêm nhà phê bình văn học người Anh John Dryden (1631- 1700) mới tổng kết kinh nghiệm của các thế hệ những những nhà nghiên cứu dịch thuật để đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể cho một dịch giả. John Dryden đòi hỏi người dịch thơ phải là một nhà thơ, phải nắm vững cả hai ngôn ngữ, và ngoài việc phù hợp với các tiêu chuẩn thẩm mỹ của thời đại của mình dịch giả phải am hiểu cả các đặc tính và "tinh thần" của tác giả nguyên tác. ("To translate poetry ... the translator must be a poet, must be a master of both languages, and must understand both the characteristics and "spirit" of the original author, besides conforming to the aesthetic cannons of his own age." [2]). Hơn ba trăm năm qua, từ Đông sang Tây, dường như chưa có ai phản bác các yêu cầu này của nhà thơ kiêm nhà phê bình văn học người Anh đó. Không những thế, nhận định của ông ngày càng được khẳng định và có giá trị gần như một "định lý". Riêng trong nền văn học VN, cho đến gần đây hầu như các dịch giả dịch thơ bản thân họ đều vốn là nhà thơ, nổi tiếng nhất là nhà thơ Đoàn Thị Điểm đã dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn từ nguyên tác chữ Hán ra chữ Nôm. Có một trường hợp tưởng là ngoại lệ là nhà văn Khái Hưng, người đã dịch một bài thơ từ nguyên tác tiếng Pháp, Sonnet d'Arvers (Bài Sonnet của Arvers), trong tập thơ Mes heures perdues (Những giờ phút nhàn rỗi của tôi) của nhà thơ Pháp Félix Arvers (1806 - 1850). Khái Hưng là nhà văn, dường như không thấy nói ông có làm thơ. Nhưng có đọc tác phẩm Tiêu Sơn Tráng Sĩ của ông mới biết ông rất am tường thi pháp cổ điển, không kém gì một nhà thơ. Và bài thơ dịch "Tình Tuyệt Vọng" của ông, "Lòng ta chôn một khối tình / Tình trong giây phút mà thành thiên thu..." chứng tỏ ông là một nhà thơ vững vàng. Hiện nay tình trạng dịch và giới thiệu mảng thơ của nền văn học cổ, đã cho thấy nhiều bất cập. Nhiều dịch giả dịch mảng thơ này bản thân không phải là nhà thơ, thiếu những kiến thức nhất định về văn học, thậm chí chưa nắm vững ý nghĩa trong văn bản ngôn ngữ nguồn và xuệch xoạc với ngôn ngữ đích. Cũng trên trang blog Nguyễn Văn Tuấn, tác giả nhận thấy "Trong thực tế, đã có biết bao trường hợp những bài thơ được dịch sang tiếng ngoại quốc trở thành đại họa cho tác giả." Đó là hậu quả tất nhiên từ trình độ non yếu của người dịch. Từ một số bài thơ của nền văn học cổ điển VN đã được dịch ra tiếng Anh và xuất bản, có thể thấy được các sai lầm yếu kém làm lộ rõ ba vấn đề căn bản: 1. Ai dịch? Và dịch như thế nào? 2. Dịch cho ai đọc? 3. Họ đã hiệu đính các bản dịch như thế nào? Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng điểm một. Trước hết, 1. Ai dịch? Và dịch như thế nào? Không phải vô cớ mà John Dryden đòi hỏi bản thân người dịch thơ phải là một nhà thơ trước đã. Trước ông, nhà thơ Anh, Sir John Denham, (1615-1669), đã biết rằng người dịch thơ không phải chỉ làm cái công việc chuyển một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác mà là chuyển cái chất thơ, cái hồn thơ (poesie) từ ngôn ngữ này thành cái chất thơ, cái hồn thơ trong ngôn ngữ kia. Phần lớn và là phần quan trọng của mảng văn học cổ VN là thơ. Mà là thơ cổ. Việc dịch những bài thơ đó sang tiếng nước ngoài đúng là rất khó khăn, đòi hỏi người dịch không những phải là một nhà thơ mà còn phải am hiểu văn học và văn học sử VN đến một chừng mực nhất định. Không đáp ứng yêu cầu này, có thể người dịch không những không chuyển đạt đúng nội dung nguyên tác mà còn gây "đại họa cho tác giả." Các "tai họa" đó là do a.- Dịch giả thiếu kiến thức về văn học - Dịch thơ mà không hiểu thơ. Cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay, Tuyển tập song ngữ [3] giới thiệu một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú được gán cho nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, như sau: TIẾNG THAN CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ THỜI NAY Cỏ mướt sân mềm, liễu thướt tha Ngày nào chàng trở lại quê nhà Nửa rèm trăng úa lòng tê tái Lẻ gối quyên kêu lệ thấm nhòa Ải bắc mây giăng mờ bóng nhạn Giang sơn xuân héo tựa nga my Tương tư bao độ thầm trong mộng Từng đến bên anh - biết chăng là 1918. Sương Nguyệt Anh (bút danh của bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê, 1864 - 1922, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), một nữ sĩ nổi tiếng, là người phụ nữ VN đầu tiên làm chủ bút một tờ báo, cũng đầu tiên của phụ nữ VN, tờ Phụ Nữ Chung (Tiếng chuông phụ nữ). Nên biết các văn nhân thời trước theo nho học, coi văn thơ chữ nghĩa là điều thanh cao quan trọng không thể khinh suất. Thơ được coi là một trong bốn nghệ thuật tao nhã, cầm kỳ thi họa, mà chỉ những người có học hành, có tâm hồn thơ và cảm thức về thơ mới biết sáng tác và thưởng thức. Cho nên, trong thơ các cụ rất nghiêm túc về niêm luật, vì đối với các cụ làm thơ thất niêm thất luật không chỉ là sai sót về kỹ thuật mà còn là một bằng chứng của sự học hành thô lậu, dốt nát, và vì thế là một sự nhục nhã. Bài thơ trên đây, về kỹ thuật, hoàn toàn là một tác phẩm dở, không đáng có và không thể có, không thể là thơ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Lẽ nào một "con nhà nòi", và là chủ bút tiên phong của một tờ báo tiên phong vào thời nền cổ học còn ảnh hưởng rất mạnh lại là tác giả của một "bài thơ" chỉ đáng là trò cười như thế! Xét về hình thức, bài thơ thất ngôn bát cú này đang có các vần tha, nhà, nhòa, đến vần thứ tư lại là... my, rồi vần cuối trở lại với là! Câu "Giang sơn xuân héo tựa nga my" vừa không vần vừa không đối theo luật. Câu thứ sáu đã thất vận, đến câu thứ tám lại thất niêm với ba từ cuối rất vô duyên - biết chăng là. Cần biết là vào đầu thế kỷ 20, những tình nhân, và thậm chí vợ chồng, còn chưa gọi nhau bằng các từ "anh, em" như bây giờ, nhất là trong văn thơ. Họ thấy nó... trơ trẽn. Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái, ta là phận trai, (Lục Vân Tiên). Câu "Từng đến bên anh - biết chăng là" vừa vô duyên, vừa không phải là thơ. Nhất định bài thơ đó không phải của bà Sương Nguyệt Anh. Gán cho bà là tác giả bài thơ đó đã là một cách làm nhục bà. Ngoài ra, giới thiệu một bài thơ như thế với độc giả nước ngoài chỉ chứng tỏ được một điều: chính người VN chẳng am hiểu được bao nhiêu các tác phẩm văn học của tiền nhân mình. Nhưng chuyện này là do trình độ hiểu biết về văn học nói chung và về thơ nói riêng của người có trách nhiệm chọn thơ để giới thiệu, còn dịch giả thì vô can chớ? Không hẳn vậy. Chưa xem bản dịch tiếng Anh, người đọc đã biết dịch giả vừa không phải là một nhà thơ, vừa ít am hiểu văn học và văn học sử. Tức là không đúng "tiêu chí" theo như John Dryden nêu ra. Nếu đúng ắt dịch giả đã nhận ra một bài thơ "dỏm", và không phải chịu "khổ nạn" dịch câu "Giang sơn xuân héo tựa nga my" là "The curving hills fade like a woman's delicate eyebrow" để mang tiếng dịch sai vì không hiểu thơ, và "tiếp tay" làm nhục nữ sĩ Sương Nguyệt Anh bằng sự mặc nhiên gán cho người phụ nữ tài hoa ấy một bài thơ "dỏm" và dở cực kỳ đến vậy. Gán bài thơ này cho bà Sương Nguyệt Anh để được dịch và giới thiệu với đọc giả nước ngoài là thêm một trường hợp "đại họa cho tác giả" như thế. Nếu dịch giả là nhà thơ và hiểu biết ít nhiều văn học sử ắt biết nhà thơ Thái Thuận (thế kỷ 15) là phó nguyên soái Tao Đàn của vua Lê Thánh Tôn, tài thơ rất nổi tiếng, mỗi bài thơ thất ngôn bát cú của ông phải đủ tám câu, chớ không phải chỉ có bảy câu như bài dịch "End of Spring in the Citadel" trong tạp chí Vietnam Literature Review, the world's Window on Vietnamese Culture, Volume III, 2009 [4] Ai tư vãn là bài thơ của công chúa Ngọc Hân khóc chồng là hoàng đế Quang Trung, được dịch sang tiếng Anh một cách... thật ngộ: AI TƯ VÃN (Trích) [5] Buồn thay nhẽ sương rơi gió lọt Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa Tưởng lời di chúc thiết tha Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê... Dịch: From LAMENT OF LONELINESS Such loss: Dew settles, the wind pierce, Her tears scatter across the desolate landscape. She remembers the words of his urgent last wishes, Sobbing, sobbing, sobbing, she seems awake yet in the stupor. Chỉ với cái tựa và bốn câu đầu tiên được dịch đã thấy cái... tai họa mà bà công chúa xấu số đã phải gánh chịu sau tai họa mất chồng và sắp có thể bị sát hại cả mẹ lẫn con. "Trích" thì được dịch là From. "Ai tư vãn" (Ai: buồn khổ, tư: nghĩ ngợi, vãn: than thở) được dịch là Lament of Loneliness (Tiếng than của sự cô đơn)! "Buồn thay nhẽ" được dịch thành "Such loss" (!). "Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa" thành ra "Her tears scatter across the desolate landscape"! Và "Khóc nào lên tiếng," thì thành "Sobbing, sobbing, sobbing."! Ngoài cách dịch thơ "lạ lùng" đó, dịch giả, vì không có kiến thức cơ bản về văn học sử nên không cảm nhận được nội dung của tác phẩm, đã không biết Ai Tư Vãn là bài thơ khóc chồng của Lê Ngọc Hân, nguyên Bắc cung hoàng hậu của vua Quang Trung. Không biết Ngọc Hân là tác giả bài thơ, là người than khóc, là nhân vật ngôi thứ nhất. Vì không biết thế cho nên trong suốt bản dịch, dịch giả đã nhất mực từ chối thân phận chủ thể của tác giả Ngọc Hân, đẩy tác giả xuống ngôi thứ ba như một người xa lạ - she, và her, và khi bà góa phụ vương giả nói đến chồng mình thì người dịch "buộc" bà dùng những từ he, his và him. Khi tác giả than mình không còn được hàn huyên với chồng, "Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh" thì dịch giả dịch thành: "No longer can they exchange greetings" - Họ không còn chào hỏi nhau được nữa! Chuyện "không biết" này được nhận thấy một lần nữa ở một dịch giả khác, cũng trong cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam... nói trên, với bài Hạnh Thục Ca[6] , một bài thơ dài kể lại việc vua Hàm Nghi "xuất bôn" rời kinh thành Huế chạy ra Quảng Trị sau mưu toan chống Pháp không thành. Ở đây (và thêm một chỗ khác nữa) người dịch cũng dịch "Trích" là From, còn cái tựa Hạnh Thục Ca (Bài ca về hành trình [vua Đường Minh Hoàng lánh nạn An Lộc Sơn] trốn vào đất Thục) được dịch là Chant of Redemption (!!) Cứ cho Chant là "bài ca" đi, Redemption có nghĩa là sự chuộc lại tội lỗi, chuộc lại vật cầm cố, chuộc kẻ bị tù tội, hoặc sự trang trải hết nợ nần. Thế thì Redemption dính gì với chuyện vua Hàm Nghi bỏ kinh đô chạy ra Tân Sở được tác giả ví như vua Đường "hạnh Thục"? Bài ca "chuộc lại" cái gì đây? Hai câu ở đầu đoạn trích này, nhà vua (Hàm Nghi), lúc này đã chạy ra Quảng Trị, tâu xin Thái hậu cùng chạy lên đồn Tân Sở để tránh giặc Pháp, được chép là: Gởi xin Tần Sở kíp lên Ở đây thế ắt chẳng nên đâu là Và được dịch: They asked for shelter in Tần Sở to escape in time, For it was not the least bit wise to stay behind! Lại một lần nữa, ngoài cách dịch "xa xăm", người có trách nhiệm chọn bài dịch lẫn dịch giả đều không hiểu thơ, và không nhớ cả lịch sử nước nhà, nên, có lẽ, cho đây là một thứ truyện Tàu "diễn thơ" kiểu như... Nhị thập tứ hiếu, và tưởng đồn Tân Sở ở Quảng Trị là nước Tần nước Sở nào ở bên... Tàu! Dù sao, đó là những đoạn tác phẩm mà trong đó lời xưng hô không bộc lộ rõ ràng, dịch giả không phải nhà thơ, không hiểu văn học và không cảm được thơ nên không nhận ra. Thế nhưng trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, người chinh phụ luôn gọi chàng xưng thiếp mà sao dịch giả cũng không hiểu chàng với thiếp nghĩa là gì để cứ một mực gán cho họ là she/her, he/him? Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền [7] Câu 6 trên thì đã rõ nghĩa. Câu 8 dưới có nghĩa là: đi bộ thì thiếp không cưỡi ngựa được, còn đi đường thủy thì thiếp không đi thuyền được, cho nên thiếp rất tiếc không thể theo chàng. Hai câu được dịch ra tiếng Anh... chẳng ăn nhập vào đâu cả: The battle calls him away, leaving her in anguish No longer his mate, once he leaps astride his horse or steps into his boat. (Trận chiến gọi anh ta đi xa, để nàng/cô ta ở lại trong đau khổ Không còn là người bạn của anh ta nữa, một khi anh ta nhảy lên lưng ngựa hay bước xuống thuyền của anh ta)! Và: Nhủ rồi tay lại cầm tay Bước đi một bước dây dây lại dừng (dây dây?) Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san Thành ra They hold hands, sharing gentle counsel, tender words He takes a step away and, preoccupied, another step, then pauses. Her heart, like the moon's shadow, follows him; His heart, far away, seeks glory in the Heavenly Mountains Thôi bỏ qua cách dịch hoàn toàn không đạt, bỏ qua cách dịch word for word mà không nhận ra sự trái nghĩa của từ (bóng trăng dịch thành moon's shadow, mà shadow là bóng tối, trong khi bóng trăng có nghĩa là ánh sáng trăng), bỏ qua việc dịch giả không hiểu tiếng Việt "nhủ" có nghĩa là dặn dò, không biết "Thiên San" là tên núi vì nó ở... bên Tàu, những điều đó thuộc về khả năng thông hiểu hai ngôn ngữ của dịch giả. Có điều kỳ lạ là dịch giả không biết chàng và thiếp có nghĩa hiện đại là anh và em! Một dịch giả khác thậm chí ngay cả từ ta nghĩa là... ta mà vẫn cứ tưởng là một anh chàng nào khác, ở ngôi thứ ba: Mười bảy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng rời tay[8] Thành ra: Seventeen or eighteen you should be Cherrished, never leaving his hands. Và, lạ lắm nhé, cũng trong bài thơ "Vịnh cái quạt giấy" đó của nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Thành ra: A rose fan and powdered cheeks can charm! Điều này thuộc một "tiêu chí" dịch thuật khác, sẽ được đề cập sau. Người dịch thơ mà bản thân không phải là nhà thơ, nhưng nếu "nắm vững hai ngôn ngữ - [ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích]" (master of both languages), am hiểu cả các đặc điểm và "tinh thần" của tác giả văn bản nguồn" (understand both the characteristics and "spirit" of the original author), và "phù hợp với các nguyên tắc thẩm mỹ của thời đại của dịch giả" (conforming to the aesthetic cannons of his own age) theo các tiêu chuẩn John Dryden nêu ra, thì có lẽ bản dịch của họ chỉ thiếu một chút chất thơ thôi chớ không đến nỗi xa nguyên tác đến mức "diệt" thật sự như thế. b.- Dịch giả thiếu kiến thức trong những lãnh vực chuyên biệt - Dịch bừa Nhìn vào chất lượng của một số thơ văn cổ được dịch ra tiếng Anh xuất bản ở VN, người ta có thể suy từ "định lý" của John Dryden, ra nhiều "hệ luận" khác. Ví dụ, để dịch một bài thơ thiền, dịch giả phải là một thi sĩ thiền sư hay một nhà tu, am hiểu giáo lý của Phật. Nói như thế không phải là chuyện trào phúng cho vui. Một dịch giả "layman" không hiểu gì về đạo Phật mà dịch thơ thiền sẽ thành một... trò dị hợm ngay tức khắc. Cũng trong cuốn sách Thơ Nữ..., bài thơ Sắc Không được cho là của thái phi Ỷ Lan (thứ phi của vua Lý Thánh Tông, mẹ của vua Lý Nhân Tông ): SẮC KHÔNG [9] Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không. Sắc không đều chẳng quản, Mới khế hợp chân tông. Khi về già thái phi Ỷ Lan đã đi tu (và làm được nhiều điều tốt, có lẽ để "chuộc" tội làm cho Dương hoàng hậu, vợ cả của vua Lý Thánh Tông, cùng với hơn bảy mươi người cung nữ phải chết. Do những việc làm mang tính "sám hối" này, bà được dân (không hề hay biết những chuyện ghen tuông trong hoàng cung) yêu kính gọi là Quan Âm. Tuy vậy chọn một bài "kệ" của một nhà tu như bài Sắc Không, gọi là "thơ" của bà để giới thiệu ra nước ngoài thì dường như không phù hợp cho lắm. Quan niệm về Sắc và Không của đạo Phật tuy rất cao thâm, nhưng đó là các ý tưởng của Phật giáo, tức là một phần rất lớn nhân loại, những người Phật tử, đã cùng biết, và ngày nay những từ Sắc Không đã trở nên bình thường trên cửa miệng nhiều người, không có gì là đặc biệt của một người, hay của một nhà thơ nữ Việt Nam cần được chia sẻ với thế giới. Có Phật tử nào mà không thuộc Bát Nhã Tâm Kinh "Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không... Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc..."? Giới thiệu một "bài thơ" như thế vốn đã không "đắc", mà bài dịch sang tiếng Anh lại biến bài "thơ" đó thành... trò đùa, cho nên hiệu quả thật là tiêu cực. Đây là bài dịch tiếng Anh: BEING NON-BEING Being is non-being, non-being being Non-being is being, being non-being Pay no mind to being and non-being Only then is there unity of the whole. Being với những non-being đọc lên líu lưỡi nghe như một câu thần chú buồn cười và vô nghĩa. Dịch Sắc và Không là being và non-being là mượn các khái niệm triết học Tây phương, có tồn tại hay không tồn tại, có sống hay không sống, gán ép vào triết học Phật giáo, một cách lấy râu ông nọ cắm cầm bà kia rất thô thiển. Being và non-being không hề có nghĩa tương đương với Sắc và Không trong đạo Phật, và the whole cũng đâu có nghĩa gì là "chân tông"! Sắc trong đạo Phật là sắc tướng, hình tướng, là vạn vật hữu hình; nói chung tất cả những gì con người "chấp" là "có" thì đều được coi là "Sắc" - Form. Không thì phức tạp hơn. Nó đối lại với Sắc, nhưng không phải là không có Sắc, không phải là trống không, không có gì cả. Không, tiếng Phạn là Sunyata. Oshoo, trong The Heart Sutra, Oshoo talks on Buddha, giữ nguyên từ Sunyata mà không dịch sang tiếng Anh; ông cho là tiếng Anh không có từ tương đương. Và bản dịch Bát Nhã Tâm kinh từ chữ Phạn sang tiếng Anh được phổ biến cũng giữ nguyên chữ Sunyata như thế: "O Shariputra, form is no other than sunyata. Sunyata is no other than form. Form is exactly sunyata. Sunyata exactly form. Feeling, thought, volition, and consciousness are likewise like this." (Xá Lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. - Này ông Xá lợi tử, sắc không khác không, không không khác sắc. Sắc chính là không; không chính là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế cả.) Thế nhưng, tuy không có từ tiếng Anh nào mang nghĩa chính xác của từ Sunyata tiếng Phạn, vốn không hoàn toàn có nghĩa là nothing / nothingness hay empty / emptiness, nhưng không phải người nói tiếng Anh nào cũng hiểu được nghĩa từ tiếng Phạn Sunyata. Cho nên người ta đã tạm dùng từ void để dịch chữ Không giúp người đọc tạm có được một khái niệm gần đúng. Thay vì being với non-being, những câu sắc-không ấy có thể chỉ đơn giản là FORM AND VOID Form is void, void is form Void is form, form is void... To find one's true way to conform Pay no mind to form and void Không phải là một bài thơ thiền, nhưng bài thơ Vằng Vặc Trăng Mai của Nguyễn Thị Điểm Bích (Thế kỷ XII) [10] có những câu có vẻ mang phong vị "nhà chùa" : Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ, Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình. Được dịch: A refreshing man of peace: The scene is usual Wherever Sidhartha goes, the garden is calming. Không hiểu dịch giả (là một người nước ngoài làm việc nhiều năm ở Hà Nội) lấy chất liệu ở đâu mà ... tối tác như thế! Cũng từ những bài thơ đã được dịch và xuất bản, ta có thể có "Hệ luận" thứ hai: Để dịch những bài thơ liên quan đến âm nhạc, dịch giả nên vừa là một nhà thơ vừa có sự hiểu biết nhất định về âm nhạc. Nghe thì có vẻ buồn cười nếu không phải là cường điệu cho vui. Nhưng thật đấy. Đây là trường hợp một dịch giả không am hiểu những khái niệm đơn giản trong âm nhạc truyền thống của Việt Nam nên dịch sai và, do đó, độc giả người nước ngoài sẽ không hiểu gì cả hoặc sẽ... phì cười. "Long Thành Cầm Giả Ca" là một bài thơ chữ Hán theo thể cổ phong trường thiên của thi hào Nguyễn Du được nhiều người biết. Mới đây người ta đã làm một cuốn phim "hoành tráng" chuyển thể từ bài thơ này để chiếu trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và dự festival phim quốc tế tại Việt Nam. Bài thơ được dịch ra tiếng Anh và giới thiệu trên tập san Vietnam Literature Review [11] . (Tất cả) bản dịch tiếng Anh trong tạp chí này không kèm theo nguyên tác tiếng Việt. Câu thứ 13 của bản dịch Long thành cầm giả ca: And her fingers danced on the strings, leaping over five octaves. (Và các ngón tay nàng nhảy múa trên những dây đàn, nhảy qua năm octaves.) Câu đó trong nguyên tác được phiên âm: Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến (Năm âm thanh réo rắc biến hóa theo tay người đàn.) Câu tiếng Anh tuy dài nhưng còn xa mới đủ ý của bảy từ trong nguyên tác, nhưng điều quan tâm chính ở đây là dịch giả thiếu hiểu biết về âm nhạc truyền thống Việt Nam, dùng five octaves để dịch từ ngũ thanh là không chính xác và hoàn toàn vô nghĩa. Ngũ thanh là năm âm, chớ không phải là năm octaves. Năm âm, vì âm nhạc truyền thống của chúng ta, nói một cách đơn giản, chủ yếu là nhạc ngũ cung (pentatonic music). Âm giai của nhạc truyền thống của ta là âm giai ngũ âm, pentatonic scale hay five-tone scale, chỉ có năm nốt mang tên Hò, Xự, Xang, Xê, Cống (với năm biến thức gọi theo từ Hán Việt là Cung, Thương, Giốc, Trủy, Vũ) tương ứng với các nốt Đô, Rê, Fa, Sol, La (hoặc Đô, Rê, Mi, Sol, La) [12] trong âm nhạc Tây phương. Trong khi đó âm nhạc tây phương là nhạc thất cung hoặc thập nhị cung [13], ghi âm thanh tự nhiên bằng bảy nốt theo thứ tự Đô Rê Mi Fa Sol La Si, và bảy nốt này là âm giai tự nhiên Đô của âm nhạc thất cung. Nếu lập lại nốt Đô ở bậc cao trên nốt Si, ta sẽ có một âm giai tự nhiên toàn âm (của âm giai) Đô. Từ Đô thấp đến Đô cao là một quãng tám (gồm 8 nốt), tức là một octave. Năm octaves là một âm vực (sound extent) bằng năm lần quãng tám như thế chồng lên nhau từ thấp đến cao. Âm nhạc truyền thống của ta không có quãng tám tự nhiên - octave đó. Vì âm giai của ta chỉ có năm âm thôi mà. Năm octaves thường là âm vực của đàn harpsichord, trong khi âm vực của đàn grand piano trải rộng đến tám octaves (vài cái piano hiện đại thậm chí có âm vực chín octaves). Âm vực của đàn Nguyệt rất hẹp, không quá một octave so với nhạc Tây phương; thường là các bản nhạc chơi trên đàn Nguyệt chỉ diễn tấu trong khoảng quãng bốn hay quãng năm thôi. Cho nên nhạc công không thể nào chơi đến năm octaves trên đàn Nguyệt như trong câu dịch tiếng Anh. Người đọc có thể phì cười là vì vậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:30:46 GMT 9
c.- Dịch giả dịch từng từ theo nghĩa đen (word for word) Ngay từ trước công nguyên, Cicero (106 - 43 BC), một trong các lý thuyết gia dịch thuật nổi tiếng của La Mã có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ dịch giả về sau, đã nhận thấy không nên dịch sát nghĩa đen từng từ (word for word), mà phải chuyển ý của câu hay cụm từ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (sense for sense). Đến nay chúng ta đến sau người La Mã hơn hai ngàn năm, nhưng trong dịch thuật đôi khi việc dịch từng từ vẫn còn là một thói quen dễ dãi và... hấp dẫn không cưỡng được. Trong bài thơ được gán cho bà Sương Nguyệt Anh đề cập trên đây có câu: Ải Bắc mây giăng mờ bóng nhạn Được dịch theo cách word for word thành: Along the Northen Pass, clouds obscure the single swallow. Người xưa lấy điển tích Tô Vũ, một tướng của nhà Hán bị Thiền Vu tức vua của người Hung nô (Hsiung-nu hay Hun) bắt và cầm giữ trên biên cương phía Tây bắc nước Tàu trong mười chín năm, ngày ngày phải đi chăn dê. Nhiều lần vua Hán Vũ đế đòi thả Tô Vũ, nhưng Thiền Vu nói Tô Vũ đã chết rồi. Tô Vũ bèn viết thư cột vào chân của rất nhiều chim nhạn để mùa đông giống chim này bay về phương nam tránh rét, thư có thể đến tay đồng bào ông. Nhờ vậy vua Hán có bằng cớ để đòi Thiền Vu trả Tô Vũ về nước. Do đó, cụm từ "mờ bóng nhạn" trong câu thơ có ý nói không có thư từ tin tức, chớ chẳng phải thực sự nói chi về chim nhạn cả. Trong một bài khác, bài Tự Trào được cho là của nữ sĩ Cao Ngọc Anh [14] có câu: Chẳng có chi mà lại có danh Câu thơ có nghĩa là mình không có công trạng hay thành đạt gì mà cũng có tiếng tăm [15]. Từ "danh" trong câu thơ có nghĩa là thanh danh, hay danh tiếng, reputation chẳng hạn, nhưng cả câu đã được dịch một cách mot-à-mot rất... nghĩa đen: I have nothing, although I've a name. (!) Bài dịch tiếng Anh ngắn ngủi này còn có nhiều điều để nói, nhưng ở đây chỉ đề cập cách dịch dễ dãi word for word. Chẳng hạn từ tiên trong các câu: Dở tiên dở tục dở tu hành Half fairy, half philistine, half religious practitioner và Túi nhẹ thơ tiên trí quẩn quanh Light fairy poems with a muddled view Tiên có lẽ là một khái niệm rất khó dịch ra các ngôn ngữ phương Tây. Trong ngôn ngữ của họ hình như không có sẵn từ tương đương, vì lẽ trong đời sống tinh thần của người Tây phương chỉ có thần thoại, chớ không có tiên thoại. Mà các thần của họ, những ông bà thần trong thần thoại Hy Lạp nửa người, nữa thánh, nửa... quỷ, không phải những vị tiên ông tiêu dao phiêu hốt, tiên bà nhân từ hiền hậu, tiên cô xinh đẹp dịu dàng, tất cả luôn thân thiện và sẵn sàng giúp đỡ con người như trong quan niệm của ta. Từ fairy của họ mà nhiều người quen hiểu là tiên là hoàn toàn không phù hợp với hình ảnh ông tiên, cô tiên trong tưởng tượng của người VN, và có lẽ cả trong một số dân tộc Đông phương. Từ fairy được Từ điển Longman Dictionary of Contemporary English định nghĩa là: a small imaginary creature with magic powers, which looks like a very small person. Từ điển Macmilan English Dictionay cũng định nghĩa y như vậy và cho thêm đôi cánh: an imaginary creature with magic powers that looks like a small person with wings. Còn Từ điển Oxford Advanced Leaner's Dictionary cho ví dụ: a good / wicked fairy Tức là có fairy hiền và fairy độc ác. Và trong thực tế người ta mặc định fairy là một thứ sinh vật trong tưởng tượng, giống người, giới tính nữ. Và đặc biệt là nhỏ. Rất bé nhỏ. Trái với thứ fairy tầm thường trong tưởng tượng trẻ con đó, khái niệm tiên trong bài thơ của nữ sĩ Cao Ngọc Anh hàm ý một điều gì cao siêu, thanh thoát, trong sạch, khác với tục, và dứt khoát không phải là fairy. Và Tây Phương, vì thế, hoàn toàn không có khái niệm thơ tiên như giống như của ta. Thơ tiên của ta không phải là fairy poems. Fairy poems của Tây phương là những bài thơ về các "nàng tiên bé xíu", kiểu như thơ của nhi đồng ... sáng nay mẹ lên nương, một mình em đến lớp.... Cho nên để chuyển gần đúng nghĩa của từ tiên sang tiếng Anh có lẽ dịch giả phải lao động trí óc dữ lắm, chớ không thể dễ dàng dùng "chiêu" word for word mà được. Người Anh Mỹ sẽ ngơ ngác không hiểu gì đâu. Hoặc họ sẽ hiểu rất sai lạc. Cũng dịch giả này khi dịch một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán "Ngẫu Thành" của Nguyễn Trãi có câu: Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư (Việc đời như một giấc mộng hoàng lương) Hoàng là màu vàng - yellow. Hoàng lương là hạt kê (màu) vàng chỉ giản dị là "yellow millet". Ai cũng hiểu cụm từ "giấc mộng hoàng lương" vốn là một điển tích về một anh học trò khó trên đường lên kinh dự thi. Dọc đường, trong một quán trọ, anh tình cờ ngủ quên bên cạnh bà chủ quán đang nấu một nồi chè kê. Trong mơ anh học trò thấy mình đổ tiến sĩ và làm quan suốt vài chục năm thăng tiến vùn vụt, trở nên giàu có sang trọng, vợ đẹp con khôn, một thời lừng lẫy. Bỗng có người tâu lên vua là anh - bấy giờ đã là một đại quan - phạm tội tham nhũng rất nặng. Vua sai điều tra, và với bằng chứng phạm nhiều trọng tội rành rành vị đại quan bị ghép tội tử hình. Đến ngày hành quyết, khi lưỡi đao đoạt mệnh còn chưa kịp bổ xuống cổ, anh học trò hốt nhiên tỉnh dậy, toát mồ hôi khắp người, mừng mình còn sống. Quay nhìn bên cạnh nồi kê của bà lão vẫn chưa chín, nhớ lại "hoạn lộ" mấy mươi năm trong mộng, anh học trò cảm thấy lòng mình nguội lạnh với công danh, bèn mang lều chiếu bỏ về, không thèm đi thi nữa. Thế mà câu thơ đó đã được dịch thành: It's over! Waking from a dream of golden millet. [16] Chưa nói chuyện câu dịch "phóng" không sát nguyên tác, dịch giả đã dịch chữ hoàng lương theo nghĩa đen của từ nhưng lại thành ra golden millet - hột kê bằng vàng! Chắc là độc giả Tây tưởng có ai đó đi tìm hột kê bằng vàng mà không gặp cho nên than thở "It's over"! Trong bài thơ Ai Tư Vãn, công chúa Ngọc Hân đang mơ theo chồng ở thế giới bên kia thì sực tỉnh giấc chiêm bao: Mơ màng thêm nỗi khát khao Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi. Được dịch thành: Such dreams leave her thirsty for him And more anxious to reach him in the Jade Capital. [17] Ngọc kinh chẳng qua một cách nói tu từ cho đẹp lời, một euphemism đối với bậc đế vương (Quang Trung) đã chết, chớ có phải một Jade Capital theo nghĩa đen nào đâu! Hơn nữa, Ngọc Hân khát khao được hội ngộ với chồng ở thế giới bên kia mà nói là leave her thirsty for him thì vừa sai lạc vừa sống sượng quá. Trong tập Thơ Thiền Lý Trần, tập thơ quý ấn loát rất công phu sang trọng và đẹp đẽ, có bài thơ "Ngôn hoài" [18] của Thiền sư Dương Không Lộ với câu đầu: Trạch đắc long xà địa khả cư Câu thơ chưa có gì là thiền vị, được dịch nghĩa thành: Finding a dragon - shaped land where I could reside [19] Và dịch thành thơ: A dragon - shaped land to call my own. Dịch giả là nhà thơ Việt kiều sống ở Mỹ có tác phẩm được chọn trong một trăm bài thơ hay nhất VN thế kỷ 20. Đồng dịch giả là một nhà thơ Mỹ và là giáo sư đại học. Tuy vậy, cả hai đều bị "cám dỗ" rơi vào chiếc bẫy "dễ dãi" khi dịch ba từ "long xà địa" là dragon-shaped land. Một cách làm "thuận tay" của kẻ tự tin quá đáng nên không cần động não. Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ "kỹ thuật" và, có lẽ vì vậy, duy lý. Người đọc sẽ không hiểu dragon-shaped land cách nào khác hơn là mảnh đất "hình con rồng". Thế là có hai điều bất cập: Trước hết, ai cũng biết "long" là linh vật đứng đầu trong tứ linh "Long Lân Qui Phụng" được nhập từ vãn hóa Trung quốc, nhưng dường như ít người nghi ngờ nó có nguồn gốc từ nền vãn minh nông nghiệp sông nước phương Nam. Người Tàu đã nhập khẩu con rồng dưới dạng sản phẩm thô của người phương Nam (có lẽ không xa lắm với con cá sấu vốn được gọi là giao long = rồng của người Giao [chỉ]) vào thời kỳ đầu của sự tiếp xúc văn hóa của hai dân tộc, và sau đó xuất lại sang cho ta (và nhiều dân tộc khác) dưới dạng thành phẩm đã chế biến, tuy không được hoàn chỉnh: họ cho con rồng bay lên làm mưa làm gió nhưng lại... quên vẽ cánh cho nó (như người Tây phương - duy lý - đã làm với con dragon của họ). Là một thứ hàng "ngoại' được gắn mác sang trọng nên các vua chúa của ta, bắt chước Tàu, đã vơ lấy nó làm "lôgô" cho mình, gắn liền nó với tất cả những gì có liên hệ đến vua chúa: Thân thể của vua là long thể, áo của vua là long bào, giường ngủ của vua là long sàng, xe vua đi là long xa, vân vân. Dĩ nhiên không ai gọi ông vua mất nước lưu vong là... long đong, nhưng khi giết vua thì người ta gọi là đồ long (giết rồng). Thanh "đồ long đao" của Kim Dung là với dụng ý để giết vua Mông Cổ khôi phục nhà nước của người Hán đấy. Do nó có địa vị cao sang quý hiếm như vậy, các thầy địa lý gán tính chất "rồng" cho những "cuộc" đất có sẵn những đặc tính thiên nhiên tiện cho việc phát triển các mặt văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự vân vân của một địa phương. Những vị trí giúp cho sự phát triển đó được thuận lợi thì họ gọi là long mạch (mạch máu nuôi thân thể của rồng). Trong chiếu dời đô, vua Lý Thái Tổ gọi khu vực của thành Đại La là thế đất "rồng chầu hổ phục" (long bàn hổ cứ) và đặt tên là Thăng Long, dù ở đó chẳng có con rồng nào, hoặc chỉ có một con duy nhất trong... chiêm bao của nhà vua, nhưng lại có rất nhiều voi (Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép các vua nhà Lý từng ra vùng Tây Hồ xem người ta đặt bẫy bắt voi), chớ tuyệt nhiên không phải đất Hà Nội có hình dạng con rồng chầu hay hình con cọp nằm phục thật sự. Trở lại với câu thơ Trạch đắc long xà địa khả cư. (Đã chọn được vùng / thế đất rồng rắn có thể cư trú.) Ta có thể nghi ngờ giá trị của yếu tố xà trong câu thơ. Long thì cao sang quý hiếm như vậy, còn xà thì sao? Rắn luôn luôn được coi là một sinh vật nham hiểm độc ác. Nó đã chẳng quyến rũ bà Eva sa ngã khiến cả nhân loại bị vạ lây đó là gì? Dân gian có câu ca dao: Lấy chồng thì phải theo chồng / Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo. Theo đó, "hang rắn" hàm ý nơi nguy nan cực khổ, đối lại với hang rồng là nơi an nhàn sung sướng. Thế sao mảnh đất trong câu thơ của vị thiền sư lại gồm cả rắn cả rồng? Có lẽ thiền sư cần một từ để mô tả tầm quan trọng hay tính chất đặc biệt gì đó của vùng đất mình nói đến, chớ không phải nói chuyện rồng rắn gì; chuyện rồng rắn chỉ là một phương tiện của ngôn ngữ. Lý do sự hiện diện của yếu tố xà trong câu thơ có lẽ chỉ là một sự ngẫu nhiên và cũng do luật thơ mà thôi. Trong luật thơ thất ngôn - ở đây là thất ngôn tứ tuyệt thể trắc - chữ thứ tư của câu thơ này phải là một âm bằng (trầm bình thanh, mang dấu huyền, hoặc phù bình thanh không mang dấu) chớ không phải một âm trắc. (Mà hổ là một âm trắc - trầm thượng thanh). Nếu thay xà bằng hổ cho hợp với chữ nghĩa long hổ thường đi đôi với nhau thì câu thơ sẽ thất niêm và khổ độc, thành ra như một câu nói bình thường, không mang nhạc điệu của thơ: Trạch đắc long hổ địa khả cư. Còn nếu bỏ hẳn yếu tố "xà" để nội dung được nhất quán - nghĩa là chỉ có rồng không thôi, không phải vừa rồng vừa rắn - "hiệu quả" sẽ tệ hơn: Trạch đắc long địa khả cư. Từ đó dễ dàng nhận thấy từ xà chỉ là do nhu cầu của âm vận chớ không phải do hình dạng thế đất rồng rắn gì cả. Ý nghĩa chính là vùng đất có địa thế quan trọng và thuận lợi cho sự phát triển cuộc sống - với một vị thiền sư là thuận tiện về mặt tinh thần tu dưỡng. Chớ nếu mảnh đất thật sự có hình rồng hay hình rắn thì đối với một thiền sư đắc đạo có gì là lý thú để đắc ý đâu? Nhiều thi sĩ VN đã dịch bài thơ chữ Hán này thành thơ Việt, và không phải ngẫu nhiên mà hầu hết đều viết "đất long xà", hoặc "đất rồng rắn / rắn rồng", chớ không ai nói nó có hình con gì. Dĩ nhiên một phần là do các thi sĩ đó chưa phải đối diện với một nhiệm vụ khó khăn là chuyển nó sang một thứ ngôn ngữ tây phương rạch ròi duy lý làm cho người nước ngoài hiểu rõ ý của tác giả. Dù sao, dịch long xà địa sang tiếng Anh là "dragon-shaped land" e là vô nghĩa, nếu không nói là ngô nghê. Bởi vì tuy gọi những từ rồng rắn, nhưng trong tâm trí người Việt hiểu rõ ý nghĩa của nó là quan trọng, cao quý, chớ không phải cho là nó có hình rồng hay hình rắn. Long bào, long sàng, long xa là những vật dụng cao quý dành cho nhà vua, chớ đâu phải chúng có hình rồng! Long thể lại càng không phải thân thể của con vật nào cả, dù là con vật đứng đầu tứ lình. Đó là thân thể của ông vua chớ! Đối với người nước ngoài, "dragon-shaped land" bao giờ cũng chỉ có nghĩa đen là mảnh đất / vùng đất hình con rồng mà thôi. Không có nghĩa nào khác. Quá xa với ý nghĩa thật sự mà tác giả bài thơ muốn truyền đạt. Điều bất cập thứ hai: con rồng trong quan niệm của người Đông phương, là một linh vật, thiêng liêng. Rồng làm mưa giúp cho đời sống nông dân thuận lợi. Trong khi đối với vãn hóa Tây phương, dragon là một thứ chằn tinh quái thú hung dữ, đối thủ ghê gớm của con người. Trong thần thoại Tây phương lúc nào người ta cũng thấy cần phải chiến đấu để trừ diệt nó. Biến một "linh vật" của mình thành một chằn tinh ác thú trong mắt người khác không phải là cách hay để giới thiệu giá trị tinh thần trong tác phẩm của cổ nhân. Người Việt đầu tiên nào đã dịch từ dragon trong từ điển thành "con rồng" đã phạm một sai lầm văn hóa vô cùng quan trọng; sự sai lầm đó ngày càng phổ biến, rất khó sửa chữa. Nhưng một dịch giả nhà thơ nắm vững hai ngôn ngữ (cũng có nghĩa là có hiểu biết cả hai nền văn hóa) có lẽ không nên dễ dãi với lối dịch sát nghĩa như thế. Cũng theo cách dịch nghĩa đen word for word, bài thơ Tự Thuật của bà Nhàn Khanh [20] có những câu: Lần lần gió sớm trăng mai Mặc ai tử các, mặc người kim lâu Song đã chót (sic!) nhuộm màu hồng phấn ... (Ý thơ là: Tự vui sống một mình [với gió sớm trăng mai], không bận tâm đến những kẻ ở lầu son gác tía, nhưng đã trót sinh làm nữ giới...) Được một dịch giả khác dịch thành: Better to grow gradually under early wind and the moon Ignoring the whiners who connive for gold and palaces (!) Once we have tinted our faces with rouge (Tốt hơn là nên lớn lên / phát triển dần dần dưới những đợt gió và trăng sớm Bỏ qua những kẻ than vãn mưu mô tìm vàng và các cung điện (!) Chúng ta đã có lần tô màu hồng phấn lên mặt mình) (!) Hoặc câu : Lối xưa tu đã vụng đường Được dịch "sát nghĩa đen" thành ra: The traditional nunnery has become an awkward route (!) (Nữ tu viện truyền thống đã thành một đường lối rầy rà khó chịu)! Hoặc: Mai sau hết kiếp bao giờ Dẫu rằng phú quý cũng chừa trần gian Ví không lên chốn Bồng Sơn Thì xin đem xuống cửu toàn cho xong Chân mây mặt đất bóng hồng Cây cao bóng mát tâm đồng mặc ai... ... Được dịch ... theo nghĩa đen thành: If ever in the future this fate should end If even the wealthy could be spared this world If I can't climb Fairy Mountain Please take me down to the Nine Streams The feelings of the beautiful clouds and earth, Of the tall trees and fresh shadows concern no one (!!) ... (Nếu trong tương lai số phận này chấm dứt Cho dù sự giàu sang có thể được giữ lại thế giới này(?) Nếu mình không trèo (!) lên được Núi Tiên (Bồng sơn) Xin hãy đem tôi xuống dưới chín dòng suối Những cảm xúc của các đám mây và quả đất đẹp đẽ Của những cây cao và những cái bóng (đen) tươi mát (!) không liên quan đến ai hoặc không làm cho ai quan tâm cả (!) ) ... Dẫu rằng phú quý cũng chừa trần gian - Dù (kiếp sau đầu thai) lên trần gian làm người giàu có cũng không thèm, mà được dịch là If even the wealthy could be spared this world! Cửu toàn hay Cửu tuyền = Chín suối = Nine Streams. Liệu một người Tây phương phải sống ở VN bao lâu để hiểu được Cửu tuyền hay Chín Suối có nghĩa là... thế giới bên kia chớ chẳng phải là chín dòng suối nào cả? Bóng mát là... fresh shadows! Diệt vãn học theo kiểu... ráp chữ tập làm vãn như thế này mà giới thiệu với độc giả nước ngoài là giới thiệu làm sao? d.- Dịch giả không hiểu nguyên tác nên dịch liều. Trái với lối dịch sát từng chữ theo nghĩa đen như trên là một lối dịch "phóng khoáng" đến độ nếu John Dryden có sống lại cũng phải ngạc nhiên, dù trong ba loại hình dịch thuật căn bản mà ông đã "công thức hóa", có loại hình thứ ba là dịch theo "cách mô phỏng khi dịch giả có thể rời bỏ nguyên tác nếu cảm thấy phù hợp". (imitation, where translator can abandon the text of the original as he sees fit) [21]. Cách dịch vượt xa sự "mô phỏng" đến độ có thể gọi là... tối tác chủ yếu là do dịch giả hoàn toàn không hiểu văn bản trong ngôn ngữ nguồn, hay nguyên tác. Trường hợp bản dịch bài thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan đã được đề cập trong một bài viết trước đây là một ví dụ. Bài thơ chữ Hán "Ngẫu Thành" của Nguyễn Trãi đã được nói đến ở phần trên gồm bốn câu như sau: Ngẫu Thành Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư Giác lai vạn sự tổng thành hư Như kim chỉ ái sơn trung trú Kết ốc hoa biên độc cựu thư Dịch nghĩa: Ngẫu nhiên mà thành Chuyện đời như một giấc mộng hoàng lương Tỉnh mộng ra thì tất cả mọi chuyện đều hư huyễn cả Hiện nay chỉ còn muốn vào ở trong núi Làm nhà cạnh hoa để đọc sách xưa. Bài thơ được dịch sang tiếng Anh: ACCIDENTS OF FATE[22] It's over! Waking from a dream of golden millet One discovers that all things are empty Better to build a small hut in the mountains and settle in to read old books and find satisfaction in listening to the flowers of the forest bloosom. (!) "Ngẫu thành" là ngẫu nhiên mà thành, hay tình cờ mà làm thành (bài thơ). Bài dịch giới thiệu trong tờ tạp chí không kèm theo nguyên tác, không biết dịch giả cãn cứ vào "dị bản" nào mà dịch tựa đề bài thơ "Ngẫu Thành" này là Accidents of Fate - Các tai nạn hay những tình huống rủi ro của số mệnh? Trong bài thơ tác giả có nói đến tai nạn hay rủi ro nào đâu? Cũng chẳng có gì là số mệnh cả! Ngoài "hột kê bằng vàng", all things are empty chỉ có nghĩa khi nói về những vật đựng như thùng, xô, chậu: mọi thứ đều trống trơn. Vạn sự tổng thành hư - Hư đây là hư ảo, hư huyễn, có đó rồi mất đó, đâu phải là trống trơn như cãn nhà hay chiếc hộp! Và dịch giả không nhận ra đây là lời tự sự của tác giả tự nhủ mình, nên dịch "One discovers..." như nói một kẻ nào khác, và "Better to build..." như lời khuyến bảo một ai khác. Đã vậy dịch giả đã thừa giấy vẽ... thêm lời, thừa cả một dòng in listening to the flowers of the forest bloosom một cách vô cớ trong khi thiếu cái ý "làm nhà bên hoa"! Cách "dịch phóng tác" kiểu này thấy xảy ra thường xuyên hơn hết là ở một dịch giả người nước ngoài sống ở Hà Nội giữ trách nhiệm biên tập nhiều đầu sách dịch của một nhà xuất bản. Đó là người đã dịch những câu thơ của Nguyễn Thị Điểm Bích trích dẫn ở phần trên. Và cũng dịch giả ấy (ngoài những câu "phóng tác" đã được đề cập trong bài viết Bụt Chùa Người trước đây) đã dịch những câu ca dao dân gian [23]: Rượu ngon chẳng quản be sành Áo rách kéo vá hơn lành vụng may thành: No manager check my tempting treat (!?) Better than a tailor, I mended your shirt. Dưới đây thì dịch giả không hiểu nên dịch ngược lại ý nguyên tác: Nói ra đau đớn trong lòng Ấy cái nợ truyền kiếp chớ phải chồng em đâu! I speak about my heart's pain My husband is not my payment for a former life's blame! Hoặc: Biết nhau mỗi đứa một nơi thêm buồn Thành ra: Knowing each other only brings more regret. Hay: Gái không chồng như phản gỗ long đanh Phản long đanh anh còn chữa được Thành ra: Single, she's like a bed with loose plank Waiting for some man to come rewamp Hay: Tôi về đã mấy năm nay thành: I left home many years ago. Dịch giả hiểu lầm hoặc không hiểu văn bản nguồn đưa đến câu dịch "xuyên tạc" một cách buồn cười. Câu hát: Có đêm thức suốt năm canh Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò mô tả phận làm dâu cực khổ của một cô gái trẻ, làm lụng vất vả suốt ngày, đêm về lại phải thức thâu canh nấu rau cháo cho bầy heo chó nuôi trong nhà, nhưng lại được dịch giả hiểu là cô gái phải ăn những thức ăn cho heo cho chó: Lie awake all night in gloom Eat pigs' feed, dogs' gruel, my life doomed! Hoặc, trong bài Ai Tư Vãn, công chúa Ngọc Hân than mình vì các con mà còn phải sống chớ hồn phách luôn dõi theo (hồn phách của) chồng ở khắp noi: Theo xa thôi lại theo gần Theo phen điện quế theo lần nguồn hoa Được các dịch giả khác dịch thành: She followed him far off, followed him close by Followed him to the quarters of wemen in the palace, (!) Dịch giả như thế và dịch theo những cách như thế thì liệu việc giới thiệu văn học VN sẽ đạt được kết quả gì? Vào thế kỷ 16, Etienne Dolet (1509-1546) nhà nhân văn, học giả và dịch giả người Pháp bị xiết cổ chết và đốt xác (tức là một hình phạt, mang ý nghĩa tiêu diệt hẳn linh hồn nạn nhân cho không được dự... ngày phán xét) vì chánh quyền lúc bấy giờ cho là ông dịch sai một đoạn vãn, chứng tỏ ông là người tà giáo không tin vào sự bất tử. Dĩ nhiên chuyện dã man đó chỉ xảy ra vào thời trung cổ ở châu Âu, thời con người còn cuồng tín đến man rợ. Dù sao, thiện chí nhiều mà khả năng không tương ứng thì sẽ gây hậu quả đáng tiếc hơn là hiệu quả. Vấn đề thứ hai: 2. Dịch cho ai đọc? Đã dịch ra tiếng nước ngoài thì đương nhiên là dành cho người nước ngoài đọc chớ sao? Vì dịch là với mục đích giới thiệu vãn học của ta ra nước ngoài mà. Có lẽ không đơn giản như thế, hoặc một vài dịch giả không nghĩ đơn giản như thế. Họ dịch... cho người Việt Nam biết tiếng Anh đọc! Đó là một tình trạng rất dễ nhận thấy. Liệu có người nước ngoài nào hiểu được bà Huyện Thanh Quan nói gì qua hai câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang được dịch ra tiếng Anh một cách khôi hài như dưới đây: "Quốc quốc", the swamp hen laments, "Gia gia", the patridge cries.[24] Chỉ có độc giả người Việt mới hiểu, vì đã biết những từ "quốc quốc", "gia gia" nghĩa là gì trong câu thơ nguyên tác: Nhớ nước đau lòng con "quốc quốc", Thương nhà mỏi miệng cái "gia gia" Còn đây là vài câu trích trong bản dịch một đoạn Chinh Phụ Ngâm: He will hunt the enemy as Giới Tử conquered Lâu Lan, Storm in like Phục Ba smashing the Man Khê rebellion, ... The advance troops are already approaching Liễu Camp While the cavalry remains sheltered in distant Tràng Dương ... Reaching Hàm Capital, he turns, glancing back once more, While she watches from the wharf at Tiêu and Tương Rivers The smoke at Tiêu Tương never drifts to Hàm Dương; The trees in Hàm Dương are a species apart from Tiêu Tương. ... Khoan nói đến những tên người tên đất trong đoạn đó là người Tàu đất Tàu, nhưng người Trung Quốc nào đọc và có thể hiểu đoạn văn dịch có liên quan đến các địa danh và lịch sử đất nước mình? Huống hồ đã "săn Lâu Lan" thì ắt Lâu Lan là tên người, cho nên dịch săn thành conquer là không phù hợp. Tới Man Khê bàn sự Phục Ba mà thêm thắt thành Storm in like Phục Ba smashing the Man Khê rebellion là diễn nghĩa hơi vung tay quá... trớn. Dù với thiện chí người ta cũng không tìm đâu ra trong lịch sử và lịch sử văn học VN những tên người tên đất đó để hiểu hết nội dung bài vãn. Cũng giống như người Pháp và Mỹ đọc những tên phiên âm Lư Thoa, Mạnh Đức Tư Cưu, Oa Sing Tơn, Niu Oóc... chớ không khác. Chỉ có độc giả người Việt mới có thể hiểu được. Vậy, bản dịch chỉ để cho người VN đọc mà thôi. Tuy vậy, đọc bản dịch The Moon Lute Player in the Thăng Long Citadel (Long Thành Cầm giả ca) [25] gặp những câu này ngay người Việt cũng chắc gì đã hiểu: She used to play "Cung phụng khúc" in the palace... ... On a feast night beside the Giám lake.. ... But fierce too like a thunderstroke on the stone stele of Tiến Phúc As moving as the ailing moan in Việt of Trang Tích ... The young people of Ngũ Lăng didn't stand a chance ... I was greeted honorably by Tuyên phủ sứ... v.v... Có được mấy người Việt hiểu được "Cung phụng khúc" là gì, Hồ Giám ở đâu? Bây giờ nó còn không và là hồ gì? Điển tích "a thunderstroke on the stone stele of Tiến Phúc" (trong câu thơ cổ "Vận khứ lôi oanh Tiến phúc bi") nghĩa là gì? Tiếng rên rỉ của Trang Tích ở đất Việt là sao? Ngũ Lăng là cái gì vậy? Không có một lời chú thích nào cả. Cầm như tất cả độc giả nước ngoài đều rành điển tích Tàu hơn người Việt. Không biết có bao nhiêu người Việt, ngoài các sử gia, hiểu rõ chức "Tuyên phủ sứ" là gì? Dịch cho người Việt đọc với nhau mà người Việt cũng không hiểu thì... chỉ còn cách bó tay chấm com! Có một điều duy nhất cho thấy chủ đích các bản dịch này là dành cho độc giả người nước ngoài: đó là trong sách Thơ Nữ Việt Nam... tên họ các tác giả được lược bỏ hết các dấu phụ của nguyên âm (diacritics) và dấu giọng (accent marks), còn lại những chữ "trần trụi" lạ mắt vừa không còn giống chữ Việt vừa không giống chữ Tây, nhưng rồi lại sợ độc giả người Việt không đọc được nên phải đặt lại nguyên dạng của cái tên đó trong ngoặc đơn ngay bên cạnh: LE THI Y LAN (Lệ Thị Ỷ Lan) NGUYEN THI DIEM BICH (Nguyễn Thị Điểm Bích) vân vân... Thật ngộ. Những từ tiếng Việt không dấu vốn là tàn tích của một thời nô lệ gần đây mà dường như nhiều người quên mất ý nghĩa của chúng. Khi những người thực dân Pháp thiết lập nền cai trị trên đất nước ta, tiếng Pháp, ngôn ngữ của kẻ thống trị được sử dụng chính thức trong mọi lãnh vực; tiếng Việt bị đẩy xuống vai trò ngôn ngữ phụ "của thổ dân" như một ngoại ngữ. Những nhà cai trị người Pháp không thấy có lý do nào cần thiết phải đúc thêm các con chữ thích hợp để in đúng chính tả vài tiếng Việt thỉnh thoảng xuất hiện trong các báo cáo hay trên báo chí của họ. Kết quả là những từ tiếng Việt được in ra không có dấu giọng (accent marks) lẫn dấu phụ của nguyên âm (diacritical marks). Một số người Việt tưởng phải viết ngôn ngữ của dân tộc mình một cách trần trụi như thế thì mới văn minh và ... sang như Tây. Thế là họ bắt đầu xóa bỏ hết các dấu trong tên tuổi của minh trên danh thiếp... và bắt chước Tây phát âm những từ tiếng Việt lơ lớ một cách ngọng nghịu, và gọi các địa danh của đất nước mình theo cách gọi của người Pháp: Hạ Long thành Along, Láng Thọ (trung tâm thành phố Sài Gòn bây giờ) thành Lăng Tô, Hương Bì thành Uông Bí, vân vân... Trong lúc đó, khi viết và đọc tiếng Pháp của "mẫu quốc" thì họ cắc ca cắc củm viết cho đúng một cedilla trong chữ Française, cái dấu sắc của chữ café, cái dấu huyền trong chữ frère và dấu apostrophe chẳng hạn cho từ Sonnet d'Arvers trên đây...vân vân. Thiếu những cái dấu đó trong tiếng Pháp là dấu hiệu họ không rành tiếng mẫu quốc khiến họ xấu hổ, còn thiếu những dấu đó trong tiếng Việt và phát âm ngọng nghịu tiếng mẹ đẻ là dấu hiệu theo kịp văn minh hoặc đã được dự phần dồng hóa vào giai cấp thống trị sang cả! Rất tiếc, "dịch" theo cách đó không những không biến những chữ Việt thành tiếng nước ngoài được mà những chữ lai căng "không còn ta mà cũng chẳng phải Tây" ấy chỉ gây bối rối cho người đọc. Nếu một người nước ngoài muốn nói đúng tiếng Việt họ cũng cần chữ có đầy đủ các dấu giọng để làm chuẩn phát âm. Tiếng Việt không dấu không khác gì một con đường lắm ngã ba ngã bảy mà không có một hiệu báo giao thông nào. Người bản xứ chưa chắc đọc hiểu, làm sao người nước ngoài hiểu được? Ví dụ một đoạn văn sau đây, từ một cuốn sách nghiên cứu âm nhạc viết bằng tiếng Anh xuất bản trong nước: "We used traditional technical terms still used by popular artists such as the ngon nhan, ngon chun, ngon nhun... A tendency has appeared among the young instrumentalists and teachers of the dan bau to use a more explicative language for example, by calling the second technique (ngon chun), the descending flexional technique (nhan luyen xuong)" [26]. Có lẽ phải là người Việt trong nghề mới hiểu được những từ Việt "bí ẩn" trong đó. Nếu một người nước ngoài đọc không hiểu, nhờ một người Việt như tôi giải thích thì tôi cũng đành bó tay. Nếu không chịu bó tay thì tôi có thể ... nói bậy như một tác giả (dịch giả?) của một bài viết trên tờ tạp chí Heritage của hãng Hàng Không Việt Nam số Tết Canh Dần 2010 đã dịch ba chữ Việt không dấu Gia Dinh Bao thành... Family News! [27] (Xem hình) Gia Định Báo là tên tờ báo đầu tiên của Việt Nam viết bằng loại chữ "la tinh hóa" mà ngày nay chúng ta gọi là chữ quốc ngữ, xuất bản tại Sài Gòn từ ngày 15 tháng 4 năm 1865. Không ngờ đúng một trăm năm sau ngày đình bản (ngày 1 tháng Giêng dương lịch năm 1910), chỉ vì do ai đó muốn "Tây hóa" bỏ hết dấu đi mà Gia Định Báo trở thành tờ "Tin tức gia đình" (Family News)!
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:31:55 GMT 9
3. Họ đã hiệu đính các bản dịch như thế nào? To err is human. Sai lầm là bản tính của con người. Các dịch giả cũng là người, làm một công việc đặc biệt với một ngôn ngữ không phải bản ngữ của mình trong khi khả năng nhiều bề còn khuyết. Dù sao, không hiểu một đoạn vãn, viết sai một từ hay một câu tiếng Anh cũng chẳng phải là điều gì ghê gớm đến nỗi bút sa thì gà phải chết. Và có lẽ những thiếu sót hay sai lầm trong các bản dịch đề cập trên đây đã được những người có trách nhiệm xuất bản dự liệu trước. Cho nên họ đã cẩn thận nhờ các dịch giả người nước ngoài hiệu đính từng bản dịch. Dưới mỗi bản dịch đều có tên người hiệu đính kèm theo tên dịch giả. Điều đó chứng tỏ sự thận trọng và tinh thần trách nhiệm nghiêm túc của nhà xuất bản. Thông thường, để hiệu đỉnh một tác phẩm dịch thuật, người hiệu đính phải thông thạo cả hai ngôn ngữ như một yêu cầu tiên quyết, và am hiểu vấn đề mà mình tham gia hiệu đính, trong trường hợp này là am hiểu tiếng Việt, lịch sử văn học và nền vãn học cổ VN. Đó là một yêu cầu cần thiết và đúng dắn. Có như thế người hiệu đính mới đánh giá được, trước hết, những điều được dịch có đúng với nguyên tác hay không. Nếu người dịch thơ phải là một nhà thơ thì người hiệu đính không thể không có đủ khả nãng cãn bản họ cần phải có. Thế nhưng mọi sai lầm và thiếu sót, thậm chí nghiêm trọng, về kiến thức lẫn ngôn ngữ, vẫn còn nguyên trong các bản dịch như ta đã thấy. Chúng ta không thể không nêu câu hỏi: những người có trách nhiệm hiệu đính các bản dịch đã làm điều đó như thế nào? Rất tiếc, câu trả lời là: Họ đã không làm gì cả! Không làm gì cả sao họ lại "chịu" để tên mình "hiệu đính"? Chúng ta không nghi ngờ lòng tự trọng của họ: không làm mà vẫn "đánh trống ghi tên". Chắc phải có một lý do nào đó? Lý do gì? Họ không hiểu tiếng Việt, và không hiểu văn học VN nên họ đặt ngược tin tưởng vào các dịch giả người Việt với gỉả định là các dịch giả thông thạo cả hai ngôn ngữ và vì dịch giả là người Việt nên thông thạo văn học VN chãng? Có thể như thế, tuy họ, hoặc nhà xuất bản, đã không nói rõ là các nhà hiệu đính không chịu trách nhiệm về cách các dịch giả hiểu vãn bản nguồn và cách họ dịch, mà chỉ hiệu đính câu cú cho đúng ngữ pháp tiếng Anh thôi. Như thế cũng là hiệu đính. Nhưng cũng không phải vậy. Ở trên chúng ta đã không nghi ngờ tư cách và sự tự trọng của họ. Bây giờ chúng ta cũng không nghi ngờ gì về khả năng tiếng Anh của họ. Nghi ngờ các dịch giả hiệu đính này không thông thạo tiếng mẹ đẻ của họ có thể là một điều xúc phạm. Họ là các dịch giả hoặc tác giả bản ngữ Anh Mỹ, nếu chỉ làm một việc chữa lỗi ngôn ngữ trong các bản dịch, thế tại sao họ đã không nhận ra và không sửa chữa các lỗi ngữ pháp rất hiển nhiên và thậm chí rất cơ bản trong các bản dịch mà họ có ký tên mình hiệu đính? Ngoài các từ tiếng Anh được dùng không chính xác mà có thể do Vietnamese literature is Greek to them, nên họ không biết để sửa, các lỗi ngữ pháp rất thông thường vẫn còn nguyên trong bản in, lồ lộ trước mắt người đọc, rất xốn. Trước hết là một cái tựa sách. Đó là cái tựa "Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay - Vietnamese Feminist Poems From Antiquity to the Present". Thơ thì làm gì có thơ nữ hay thơ nam. Nói Thơ Nữ Việt Nam là nói tắt "Thơ của các nhà thơ nữ Việt Nam". Nhưng Vietnamese Feminist Poems thì đã thành ra chuyện khác. Vì nó có nghĩa là những bài thơ mang tinh thần đấu tranh cho quyền phụ nữ! Khi nói Feminist literature, người ta không nghĩ đó là văn học của phụ nữ mà là thứ văn học tranh đấu cho nữ quyền. Trong cả cuốn sách có bài thơ nào như thế đâu? Trách nhiệm của việc dịch sai ngay cái tựa trên bìa sách này là do dịch giả non kém hay do các nhà hiệu đính "vô tình" bỏ qua? Hay cả hai? Một bài thơ của nhà thơ Phạm Đình Hổ có nhan đề được dịch sang tiếng Anh DELICATE FEELINGS [28] gồm ba đoạn bốn câu, mỗi đoạn đều bắt đầu với cụm từ được lập lại: Pretty girl from Hà Nội Có lẽ không ai lại nói tiếng Anh "hàm hồ" như vậy. Nếu muốn nói đến một cô gái xinh đẹp nào đó ở Hà Nội mà không xác định là ai, thì người ta nói: A pretty girl from Hà Nội Nếu đó là một cô gái xác định hoặc đã được đề cập trước đó rồi thì người ta dùng mạo từ xác định: The pretty girl from Hà Nội Chỉ khi nào muốn nói tổng quát tất cả các cô gái đẹp ở Hà Nội người ta mới có thể không dùng mạo từ, nhưng danh từ thì ở dạng số nhiều: Pretty girls from Hà Nội. Lỗi ngữ pháp sơ đẳng được lập lại nhiều lần "sờ sờ" trước mắt trong sách thì rõ ràng là những nhà hiệu đính, nếu không phải "vô tình không thấy", đã cố tình không làm gì cả. Thậm chí có thể là họ không đọc. Tuy vậy cũng có một dấu vết duy nhất chứng tỏ người ký tên hiệu đính dưới một bản dịch đã có "làm việc" hoặc có đọc qua bản dịch đó. Nhưng rất tiếc, dấu vết đó lại là... rác rưởi: sau câu thứ hai của bản dịch một bài thơ thất ngôn bát cú của Tản Đà bỗng chèn vào một ghi chú trong ngoặc đơn: (autumn or Fall - should be consistent) - gọi mùa thu là autumn hay Fall thì phải nhất quán - Như thế này đây: MOON LIGHT OVER THE WEST LAKE By Tản Đà Gone with a solitary breeze over the West Lake, a leaf falls In the stark autumn moonlight, one is accompanied only by his own shadow (autumn or Fall - should be consistent) Unanswered love mirrored in the water as a lost gaze. ... Trong bản dịch chỉ có duy nhất một từ chỉ mùa thu là autumn (tiếng Anh) mà có lẽ người hiệu đính là người Mỹ muốn dùng từ tiếng Mỹ "Fall" để thay thế. Nhưng không lẽ tất cả những gì mà các dịch giả người nước ngoài làm được vừa đủ để ký tên mình hiệu đính chỉ là... tranh đấu cho một từ tiếng Mỹ được dùng ưu tiên, và lưu một dòng chữ như thế giữa một bản dịch một bài thơ tám câu? Ghi tên tuổi mình một cách nghiêm túc là người hiệu đính mà không làm gì cả, để mặc cho tất cả các sai lầm tồn tại, đó là do họ thiếu tự trọng, họ không trung thực, hay họ coi thường văn học Việt Nam qua những bản dịch quá non nớt? Cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay không chỉ được xuất bản ở Việt Nam mà còn được "ra mắt" ở Mỹ với đầy đủ những yếu kém trong các bản dịch của nó. Đặc biệt, đầu sách có lời "Cùng bạn đọc" (Dear Readers) với câu cuối như vầy được các nhà hiệu đính trân trọng (bụm miệng) giữ nguyên, có lẽ để tỏ ra tôn trọng tính chất "cây nhà lá vườn" trong cách viết tiếng Anh của người Việt cho độc giả khắp năm châu được thưởng thức: "We would be pleased to have readers, poets, and translators share their ideas with us so that subsequent editions of this anthology can be more complete and more engaging..." Có thể nào họ, những người đứng tên hiệu đính ấy, có một "mưu đồ" khác "độc" hơn chăng? Làm cho văn học Việt Nam nói chung xuất hiện như những sản phẩm tầm thường, què quặt, ngây ngô, vô nghĩa trước con mắt thế giới, chẳng hạn? Hoặc hẹp hơn, để cho cả thế giới thấy "Việt Nam 87 triệu dân mà không có người chuyển ngữ thơ văn" cho ra hồn, như Gs Nguyễn Văn Tuấn băn khoăn đặt câu hỏi trên blog của ông chăng? Biết chết liền. Thiếu Khanh [1] - Lời dịch tiếng Anh bồi trong bài hát "Hà Nội mùa vắng những con mưa" trong CD nói trên. [2] - Theo Susan Bassnett-McGuire, Translation Studies, bản in không ghi năm và nhà xuất bản, trang 60. [3] - Nhà xuất bản Feminist Đại học Thành phố New York, Mỹ và nhà Xuất bản Phụ Nữ, VN cùng hợp tác xuất bản. Ấn bản lần thứ hai, năm 2009, trang 148-149. [4] - Số Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, trang 14. [5] - Thơ Nữ Việt Nam... Sách đã dẫn, trang 130 - 133. [6] - Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 140 - 143. [7] - Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 122 - 123 [8] - Thơ Nữ Việt Nam... Hồ Xuân Hương, Vịnh cây quạt, sđd, trang 128 - 129. [9] - Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 112 = 113 [10] - Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 114-115 [11] - Tạp chí đã dẫn, trang 16 - 17 [12] - Âm nhạc ngũ cung có 5 điệu thức. Ở đây ví dụ với điệu thức tưng ứng với âm giai chủ âm Đô cho dễ hiểu. [13] - Âm nhạc thập nhị cung hay âm nhạc 12 âm, tức là âm giai ngoài bảy nốt chính có thêm năm nốt mang dấu diese (#): Đô - Đô# - Rê - Re# - Mi - Fa - Fa# - Sol - Sol# - La - La# - Si. [14] - Thư nữ VN... Sđd, trang 150 - 151. [15] - Nữ sĩ Cao Ngọc Anh (1878-1970), tên thật là Cao Thị Hòa, ái nữ của quan Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục, con dâu của quan Phụ chính Đại thần Nguyễn Trọng Hợp triều Thành Thái. Có lẽ, ngoài tài văn thơ, bà tự cho là mình do gia thế quyền quý mà nổi tiếng nên mới có câu tự trào như thế. [16] - Vietnam Literature Review, sđd, trang 14. [17] - Thơ Nữ Việt Nam... Ai Tư Vãn, Sách và trang đã dẫn. [18] - Thơ Thiền Lý Trần, nhà thơ Nguyễn Duy chủ biên, nxb Văn Hóa Sài Gòn, ấn bản lần thứ hai, 2008, trang 58 [19] - Có lẽ "Having found a dragon - shaped land where I could reside" thì sát và rõ hơn. [20] - Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 146 - 147. Bà Nhàn Khanh là nữ sĩ người Bắc, em gái của hai cụ họ Dương nổi tiếng là Dương Khuê ("Bác Dương thôi đã thôi rồi..." - Nguyễn Khuyến) và Dương Lâm. Bà sống vào khoảng đầu thế kỷ 20. [21] - Ba loại hình dịch thuật căn bản theo Dryden là: 1. Dịch sát từng chữ theo nghĩa đen, 2. Dịch sense for sense theo cách của Cicero, và 3. Dịch mô phỏng, hay phỏng dịch. [22] - Vietnam Literature Review, sđd, trang 14. [23] - Thơ Nữ Việt Nam... sđd, từ trang 93 đến trang 109. [24] - Thơ Nữ Việt Nam, sđd, trang 134 - 135. [25] - Vietnam Literature Review... Tạp chí đã dẫn, trang 16 - 17. [26] - Đào Trọng Từ, Huy Trân, Tú Ngọc, Essays On Vietnamese Music, Red River Foreign Language Publishing House, Hanoi, 1984. Ghi chú (1) trang 36. [27] - Heritage, Tạp chí của Hàng Không Quốc gia Việt Nam - Vietnam Airlines English Magazine, Year of the Tiger, (2010) trang 35. [28] - Vietnam Literature Review, tạp chí đã dẫn, trang 18.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 7:02:35 GMT 9
‘Trả Caesar những gì của Caesar’ Ðằng sau câu Kinh Thánh Viên Linh Không phải tự dưng người viết bài này mang chuyện Caesar ra kể với bạn đọc. mà có hai nguyên do: thứ nhất trong tháng 3 này, ngày 15, vào năm 44 trước Tây lịch, Julius Caesar bị người bạn thân và đồng nhóm gồm 17 người (có sách nói 23 người), cầm dao đâm chết, mỗi người một nhát; thứ hai, một ông tân Caesar, tiếng Nga là Czar, hay Tsar, hôm Chủ Nhật 4 tháng 3 vừa tuyên bố trở thành tổng thống nước Nga. Julius Caesar bị đâm chết tại Nghị Viện La Mã, tranh Vincenzo Camuccini. Trước ngày bầu cử, hàng vạn người đã biểu tình ở Mạc Tư Khoa tố cáo đảng ông gian lận. Song có những người khác ủng hộ ông, cho rằng Vladimir Putin đã đem nước Nga trở lại vị thế một cường quốc sau những năm xáo trộn thời ông Yelstin. Ông từng là tổng thống, và bốn năm qua đã phải lui xuống làm thủ tướng, nay bầu ông trở lại làm tổng thống thêm ít nhất là 6 năm nữa, nếu không là 12 năm, chỉ là chuyện “Hãy trả lại Caesar những gì thuộc Caesar,...” có gì đâu mà phải chống? (1) Caesar là tên một gia tộc thượng lưu ở La Mã. Từ Julius Caesar (102-44) và người cháu (con trai của cô em gái) là Hoàng đế Augustus, Caesar gợi cho người ta nghĩ đến một nhân vật xuất chúng, hiệp liệt. Sau Ðế quốc La Mã, tiếng Caesar trở thành “kaiser” đối với người Ðức, và Czar hay Tsar đối với người Nga. Nhân vật kiệt xuất đó cầm quân viễn chinh qua phương Tây, đặt xứ Gaul (Pháp) dưới sự cai trị của mình, mang hàng chục chiến thuyền đổ bộ Anh quốc; đánh qua phương Ðông thì cặp kè với Hoàng hậu Cleopatra, giúp nàng trị vì đất nước. Julius Caesar vừa là một vị tướng đa mưu, vừa là một chính khách khôn ngoan. Ông phù giúp Pompey trở thành tư lệnh tối cao của quân đội, tạo lập liên minh quyền thế và liên kết với giới giàu có. Ông đưa ra những cải cách được dân chúng tán thành và có giá trị lịch sử. Phát minh lịch Julian là một đóng góp vĩ đại của ông. Thanh thế lên cao, binh lực bành trướng, Caesar trở thành nhà chỉ huy quân sự La Mã vĩ đại của mọi thời. Nhưng sau cùng, cũng vì tham vọng và tài năng vượt bực, Nghị Viện La Mã thấy nguy, quyết định giải tán quân đội dưới quyền Caesar, song ông được sự ủng hộ của hai đồng minh thế lực là Marc Antony và Quintus Cassius Longinus, đối nghịch với thông gia và đồng minh cũ, Pompey. Ðược toàn thể quân đội ủng hộ, Caesar chống lại Nghị Viện. Năm 49 ông vượt dòng Rubicon trở về Ý, làm chủ La Mã, và gây ra cuộc nội chiến trong đất nước mình. Không ai địch nổi ông. Pompey thua, chạy qua Ai cập, Caesar đuổi kẻ thù tới tận Ai cập. Pompey chết tại đây và Caesar trở thành người tình của Nữ hoàng Cleopatra, giúp nàng nắm vững ngai vàng. Ông ở lại Ai cập một thời gian. Cuộc đời Julius Caesar tới đây đã làm tốn biết bao xương máu, và giấy mực, cho lịch sử và văn chương nghệ thuật. Trở về La Mã, Caesar cải thiện đời sống dân chúng và tới năm 44 trở thành nhà độc tài tuyệt đỉnh. La Mã trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới. Ông không lên làm vua nhưng phong cho người cháu, Gaius Octavius là người sẽ kế vị ông! Người ta thấy rõ ông đang xây dựng một đế quốc cho riêng gia đình mình. Ngôi vị độc tôn và tham vọng bá quyền đã khiến ông trở thành mục tiêu của một âm mưu ám sát, mà những kẻ đầu não lại là bạn ông. Họ gồm 60 người, các nghị sĩ và các thành phần cộng hòa... Khoảng 11 giờ sáng ngày 15 tháng 3, 44, Caesar tới Nghị Viện, theo sau là Marc Antony. Có người gọi giật Antony lại, Caesar đi trước. Ngay khi vào trong nghị trường, Caesar bị bao vây bởi nhóm mưu sát, gồm 23 người, cầm đầu bởi Casca, kẻ đầu tiên rút dao găm đâm vào thân thể ông. Ông bị đâm 23 nhát dao tất cả. Mới đầu ông còn chống đỡ, nhưng khi thấy người bạn thân nhất là Brutus rút dao ra, Caesar sững sờ kêu lên: “Et tu, Brutus!” và buông xuôi. Ông chết dưới chân bức tượng Pompey. Với cái chết của Julius Caesar, quyền lực La Mã truyền qua tay Gaius Octavius, Lepidus, Marc Antony. Chỉ một thời gian ngắn, cuối cùng Octavius nắm trọn quyền hành, đổi tên thành Gaius Julius Caesar Octavianus (hay Octavian), sau đổi tên thành Hoàng đế Augustus, và La Mã ngày càng phát triển, ngày càng giàu có. Các sự việc xảy ra sau đó: Năm 42 trước Tây lịch, Brutus và Cassius thua trận ở Philippi, tự tử chết. Năm 40, Herod được chỉ định làm vua Judaea ở La Mã. Năm 38, Marc Antony trở lại Ai Cập (sống với Cleopatra). Năm 31, Octavian kéo quân đi đánh Marc Antony và Cleopatra, đụng trận ở Actium, cặp này tự tử chết, Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã. Năm 30 trước Tây lịch, Octavian đổi tên thành Hoàng đế Augustus, trị vì lâu bền tới năm 14, sau Tây lịch. Julius Caesar là người tài ba quán thế, sống một cuộc đời huy hoàng, hậu thế không ngừng nhắc đến tên ông, ca ngợi các chiến công của ông, những canh tân luật lệ nhân sinh ông đã thực hiện cho La Mã, mà ít nhắc đến hai bộ sách lớn ông để lại cho đời sau: 7 cuốn binh bị về cuộc chiến tranh Gallic (đánh Gaul (Pháp) và Anh, và 3 cuốn về Cuộc Nội Chiến ở Ý. Cuốn Columbia Từ điển Bách khoa thu gọn gọi những cuốn sách mà Caesar là tác giả là “Tuyệt phẩm Văn chương và đồng thời cũng là Tài liệu Binh bị Cổ điển.” Ông lấy vợ 3 lần, với Cornelia, Pompeia và Calpernia. Cuộc đời ấy lại rất ngắn ngủi: lúc bị ám sát chết, ông mới 56 tuổi. Một năm trước, năm 45, Caesar đã được nước Ý tôn vinh là “Người cha của dân tộc.” Ðến Chúa Jesus cũng đã lên tiếng bênh vực ông, thì đủ biết. Dù bị giết, song Ðế quốc La Mã mà ông xây dựng đã thành hình, và tồn tại với người con trai của cô em gái trở thành Hoàng đế Augustus, trị vì qua tới thế kỷ I của Tây lịch. (05.03.2012) Chú thích: 1. “Render therefore unto Caesar the things which are Caesar's, and unto God the things that are God's.” (Matthew 22:11). Câu này do Chúa Jésus phán cùng mấy người Pharisees khi họ hỏi rằng có nên đóng thuế cho Caesar không, trong khi họ đang tiêu những đồng tiền có hình Caesar trên đó. Nghe câu đó, họ ngỡ ngàng bỏ ngài mà đi. Sự liên tưởng của người viết không ở nội dung câu chuyện, mà chỉ xin coi như một câu văn dùng để mở đầu câu chuyện. 2. Sách tham khảo: -The Great Moments in History, S. Nisenson &A. Parker, Grosset &Dunlap, 1932; -Timetables of History, Bernard Grun, Touchstone Book, 1946; -The Cambridge Biographical Encyclopedia, 1994; -The Columbia Encyclopedia, 1983.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:44:18 GMT 9
Nước ta có sử từ đời nào? Ai viết Việt sử trước tiên? Viên Linh “Ðáp câu hỏi đó, trước giờ nhiều người vẫn cho rằng nước ta có sử từ đời Trần (1225-1258) và ông Lê Văn Hưu (1230-?) là người vâng mạng vua Trần Thái Tông (1225-1258) đầu tiên đứng biên soạn bộ “Ðại Việt Sử Ký.” Bìa Tạp chí Tri Tân số 1, tháng 6, 1941, chủ bút Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, tờ báo chuyên về sử học và văn học sử xuất bản lần đầu cách đây vừa đúng 70 năm. Nhưng thật ra, trước bộ “Ðại Việt Sử Ký” ấy, nước ta chắc cũng đã có những bản biên-niên (annales) ghi chép mọi việc đại yếu trong nước rồi. Chứng cớ? Thì từ đời Triệu Ðà (207-137 tr. JC) đã có chức nội sử. Trong bức thư của Triệu Ðà gửi cho Hán Văn Ðế có nói đến Nội Sử Phan. (1) Vậy Phan (chắc là họ), đó là một sử quan đời Triệu, không còn phải ngờ nữa. Ðến đời Lý (1010-1224) đã có ít sách về loại Hiến Chương như “Ngọc Ðiệp,” “Hình Thư” v.v... thì nhà Lý chắc cũng đã có sử thần làm việc biên chép những sách ấy. Chẳng qua vì đời xưa sinh hoạt đơn giản, ít khi có những sự biến hằng xảy cần phải ghi chép, nên dầu có sử thần cầm bút nhưng trên trang “biên niên,” cũng chỉ lưa thưa ít nét, chứ lấy đâu được có những bộ sử dày dặn và to tát như đời sau. Lại vì cuộc thế biến thiên “thẻ” cũ, “lá” xưa đã bị gặm mòn dưới “răng” thời gian và tản mác sau những cơn binh lửa nên, về sau, không thể biết rõ “sử” của bộ sử Phan ở đời Triệu và “Ngọc Ðiệp” (chừng là phả ký của hoàng gia) của đời Lý ra sao. Còn Lê Văn Hưu? Phải chăng ông là người làm sử đầu tiên ở đời Trần? Không phải! Trước ông đã có Trần Tấn. Trong An Nam Chí Lược, quyển XV, tờ 6b, tác giả Lê Tắc chép: “Trần Tấn, được vua Trần Thái Tông (nguyên văn nói là Thái Vương) dùng làm Tả Tàng, rồi thăng lên chức Hàn Trưởng, có làm (tác) Việt Chí.” Cũng tờ sách trên, dưới việc Trần Tấn, Lê Tắc nói đến Lê Văn Hưu: “Lê Văn Hưu tu (sửa) Việt Chí.” Xét thứ tự trong sách trên, ta thấy tác giả An Nam Chí Lược nói việc Trần Tấn trước, rồi đến việc Lê Văn Hưu sau. (Hai nhà sử thần ấy đều là người đồng thời với nhau, cùng sống dưới triều vua Trần Thái 1225-1258.) So sánh (tác) với (tu), ta thấy công việc Trần Tấn là khởi đầu làm ra; còn việc làm của Lê Văn Hưu là sửa sang vậy. Như thế, trước Văn Hưu, còn có Trần Tấn, một sử thần đời Trần, đã đứng làm Việt Chí, tức là Việt Sử rồi. Bộ sử do Lê Văn Hưu đứng làm đây, theo lời tựa của Ngô Sĩ Liên trong bộ “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư” thì chỉ là công việc trùng tu (refonte). Khi làm bộ Ðại Việt Sử Ký ấy, sử thần Văn Hưu, một tay đa thủ bút đời Trần tìm nhặt tài liệu ở các sử cũ và trong mọi sách vở, biên thành 30 quyển: trên kể từ đời Triệu Vũ Ðế, dưới chép đến đời Lý Chiêu Hoàng (207 tr. JC-1224 s. JC) Mãi đến tháng 1 năm Trần Thánh Thiệu Long thứ 15 (tháng 2, 1272) bộ sử ấy của Nhân Uyên Hầu (tước của Lê Văn Hưu) mới nên trọn. Sở dĩ Ngô Sĩ Liên gọi việc làm sử của Văn Hưu là “trùng tu,” có lẽ là vì trước đó đã có những bản “biên niên” cũ, thưa thớt lặt vặt, mỏng mảnh, sơ sài, chưa thể gọi được là sử, bấy giờ Văn Hưu mới thâu nhặt tài liệu trong những bản cũ ấy và tham khảo trong các sách vở, nhất là của Tầu mà làm thành một bộ sử đầy đủ, dày dặn, có đầu mối, có thứ tự, có lời bàn, tức là bộ “Ðại Việt Sử Ký” làm căn cứ cho các sử thần sau này đấy. Vậy nay có thể kết luận: nước ta, từ đời Triệu Ðà đã có chức Nội Sử, đời Lý đã có những sách thuộc loại hiến chương; còn sử thì đến đời Trần Thái Tông đã có bộ Việt Chí mà nhà sử thần Trần Tấn chính là người lính tiên phong trong đội quân sử ký Nam Việt. Tiếc rằng bộ Việt Chí do Trần Tấn làm đó không truyền, nên về sau người ta chỉ thấy có bộ “Ðại Việt Sử Ký” của Lê Văn Hưu, là người có công lớn với sử học giới Nam Việt.” (Hoa Bằng, Tạp chí Tri Tân) (2) Tác giả Hoa Bằng, nguyên chủ bút tạp chí Tri Tân, là nhà văn, nhà nghiên cứu văn sử học nổi tiếng từ thời tiền chiến ở Hà Nội. Ông quê ở Hà Ðông, tự học làm nên, được tiếng là người uyên bác, yêu dân tộc, yêu đất nước, luôn luôn đặt ra những vấn đề thiết yếu, và tự mình tiên phong giải quyết bằng cách viết những bài trả lời với lòng tâm huyết, lời văn giản dị, minh bạch. Trước tác của ông được phổ biến rộng rãi trên những tờ báo uy tín hồi đầu thế kỷ trước như Thực Nghiệp, Trung Bắc Tân Văn, Tiểu thuyết Thứ Bảy, Thế Giới... Ông để lại nhiều sách giá trị, trong có Quốc Văn đời Tây Sơn, Trần Hưng Ðạo, dịch thuật Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Ðại Nam Thực Lục, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí... Về viết báo, ông để lại hàng trăm bài, cả về sử học lẫn văn học. Với câu hỏi ở đầu bài, ông đã trả lời ngay như trên. Nhưng câu hỏi và câu trả lời là dành cho loại sử biên niên, loại sách sử chính thống, nhà nước. Còn một cuốn quan trọng là An Nam Chí Lược của Lê Thục (quen gọi là Lê Trắc hay Lê Tắc, viết về đời Trần trở về trước) song vì Lê Thục chạy qua Tầu, ở Tầu, ăn bổng lộc Tầu, nên cuốn sách của ông tuy hay, mà thuộc loại ngoại hạng. Còn một loại khác vô cùng quan trọng: Những cuốn sử dân gian, sử truyền khẩu sau được ghi chép lại, thoại sử, sử nhân sinh của dân tộc Việt, ta có những tác phẩm quan trọng nào? Về câu hỏi này, xưa nay chúng ta thường nghe nói đến những Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, Việt Ðiện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên, khoảng thế kỷ XIV, hai tác phẩm quan trọng và nhiều liên hệ; và sau đó là những Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Ðình Hổ, Nguyễn Án, Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ, sau này có thêm Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính và một cuốn tuy thuộc đời Trần Hồ, nhưng ít thấy là Nam Ông Mộng Lục của Hồ Nguyên Trừng. Những cuốn sách này không thuộc qui ước phàm lệ bác học nào, phần lớn là truyện kể, giai thoại, song lại nói rất nhiều về lịch sử cổ đại của dân Việt. Gần đây (1999), học giả Lê Mạnh Thát phổ biến một phát hiện quan trọng: có thể ngay từ Lĩnh Nam Trích Quái cũng là sách đã dựa vào một cuốn có trước nó: Thiền Uyển tập anh của Thiền sư Kim Sơn trong phái thiền Trúc Lâm. Thiền Uyển được viết trước cả Lĩnh Nam, đầu thế kỷ 14, và Tổ sư Kim Sơn có thể đã soạn Thiền Uyển theo lệnh của vua Trần Minh Tông vào năm 1337. Nhưng lịch sử thiền học Việt Nam quan trọng thế nào trong liên hệ với Việt sử? Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát viết: “Trong công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta, vấn đề khai thác những tư liệu phản ảnh quan điểm và lập trường đấu tranh của dân tộc là cần thiết,” nhất là trong “lĩnh vực nghiên cứu cổ sử và trung sử.” Và vì “chính sử ta thường chép rất sơ sài, thậm chí chép lại những gì do những ngòi bút thù địch với dân tộc viết ra... ca ngợi (cả) một tên xâm lược đầy tội ác đối với nước ta như Cao Biền. Trong số những tư liệu ấy, ta chỉ có vỏn vẹn ba tác phẩm đó là Việt Ðiện U Linh tập, Lĩnh Nam Trích Quái truyện và Thiền Uyển tập anh.” (3) Chưa bao giờ như lúc này, giới cầm bút trong nước không dám gọi tên sự vật đúng như tên của nó. Kết ước thi hành giải ngân và nợ đáo hạn trở thành “tôn trọng 16 chữ vàng.” Phiên quốc trình tấu công việc với thiên triều trở thành thảo luận song phương. Tầu hải tặc, tầu cướp biển thì các “ký giả truyền thông” nặc danh hóa là tầu lạ. Việc tìm hiểu cội nguồn Việt tộc xem ra sẽ rất khó khăn cho các lớp trẻ sau này. Sự việc sẽ càng khó khăn hơn nếu họ không có các nguồn tài liệu từ hải ngoại; và các nguồn tài liệu còn nguyên vẹn (không bị sửa chữa bởi các viên chức có tên là “chịu trách nhiệm xuất bản” ghi nơi phía sau của mỗi cuốn sách xuất bản ở Việt Nam trong khoảng 50 năm nay.) Cho nên quan chức viết “chính sử,” mọi người yêu nước, người dân, cần phải viết sử lấy cho dân tộc: viết ngoại sử, sử dân gian, sử truyền khẩu. Khi mà kẻ ngoại xâm được đề cao trong chính sử, sử nhà nước, thì đó là lúc người dân viết lịch sử dân tộc, sử truyền khẩu, thoại sử. Chú thích: (1) Bức thư này có in trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Kỷ, quyển 2, tờ 3, 4. (2) Hoa Bằng tên khai sinh là Hoàng Thúc Trâm (1902-1977), người Hạ Yên Quyết, Hà Ðông, có bài đăng các báo từ thập niên '20 thế kỷ trước. Năm 1941 ông làm chủ bút Tạp chí Tri Tân, tờ báo chuyên về văn học sử, và sử học, qui tụ những cây bút uy tín nhất đương thời: Nguyễn Văn Tố, Ng. Thiệu Lâu, Trúc Khê, Dương Quảng Hàm, Ðào Duy Anh,... (3) Lê Mạnh Thát (1999) - Nghiên cứu về Thiền Uyển tập anh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Sài Gòn.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:17:17 GMT 9
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 * NHỮNG VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932 Thanh Lãng
A - Đặc tính chung thế hệ 1932 B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932 C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932 : 1 - Vụ Án Báo Chí / 2 - Vụ Án Cũ và Mới / 3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim / 4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi / 5 - Vụ Án Quốc Học / 6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới D - Mặt trận bênh thơ mới (1) / Mặt trận bênh thơ mới (2) / Mặt trận bênh thơ mới (3) E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận có vẻ gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở đi, tình hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không nói đến nữa, nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hoà chứ không có vẻ bắt bẻ, chửi bới nhau nữa : người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người ta không ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ. Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ xô vào mà chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say sưa, thì từ năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị thánh sống của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của ông.
Nguyên một mình Nguyễn Tiến Lãng đã viết một thôi một hồi về Tản Đà :
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Tràng An số 315, 20-4-1938). 2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938) 3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938) 4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938) 5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943) 6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943) 7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà, luôn luôn bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không biết bao nhiêu bài nói về Tản Đà :
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147, 28-1-1939). 2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939). 3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939). 4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939). 5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản Đà :
1) Lưu Trọng Lư viết " Bây giờ đây khi cái nắp quan tài đã đậy lại ". 2) Trương Tửu viết " Sự thai nghén một thiên tài ". 3) Nguyễn Tuân viết " Chén rượu vĩnh biệt " 4) Nguyễn Triệu Luật viết " Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau ". 5) Trức Khê viết " Tản Đà triết học ". 6) Xuân Diệu viết " Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà ". 7) Nguyễn Xuân Huy viết " Tản Đà dịch văn ". 8) Nguyễn Tuân viết " Tản Đà một kiếm khách ". 9) Nguyễn Công Hoan viết " Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí ". 10) Ngô Tất Tố viết " Tản Đà ở Nam Kỳ ". 11) Nguyễn Nhất Lang " Tản Đà tửu điếm ". 12) Nguyễn Công Hoan viết " Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà ". 13) Lê Thanh viết " Mộng và mộng ".
Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở đi, không còn có vấn đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp : người ta đã giải thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ sau có Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người đó là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về dĩ vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi quá trớn trong việc Tây hoá. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong bài " Đàn Nam giao, một nền văn chương Việt Nam " (Tràng An số 34, 9-7-1942) : " Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên ta, đã nói :" Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn ". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực : cái bệnh ỷ lại là cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
" Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở văn chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống lười biếng và cẩu thả.
" Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ dân " biết sống ", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện ấy. Dân Nam cẩu thả và biếng nhát trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà thôi, vì tôi không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
" Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm cho văn chương ta nghèo nàn gần như " không có ". Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta ; ta chỉ muốn hưởng thụ những " của sẵn ", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn. Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa.
" Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả.
" Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ ngộ áp dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa có chữ quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
" Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ nhất là phải hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một phong trào sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
" Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có, và " phát minh " ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin ở tài lực mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm của quốc âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gụi. Người ta hăng hái, người ta nhiệt thành, nguời ta chỉ xin " cúc cung tận tuỵ " cho quốc văn. Một sự nỗ lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hoá của dân tộc. Nhưng cái bệnh của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc : ta vẫn đi vay mượn của người xưa. Xưa kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác : Làm cho tiếng Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã " ghép " một giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn mà nhãng quên cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy giờ quá sùng thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn Quốc văn. Mà truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát khỏi lề lối Tàu : từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy những điển cổ Tàu.
" Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất của tiếng Việt Nam mà còn bị phải " cố tật " ấy huống hồ là những người sùng bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm " kinh nhật tụng ". Không những người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi đó là một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải truyện Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng phải từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ đã cố làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của riêng mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà tiên sinh không hề làm.
" Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài trước hết phải là một " bồ chữ " động một cái gì cũng có thể " dẫn sách " được. Họ không biết rằng : cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi mình. Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ thuần tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề thói rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương : vô tình ngưòi ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có biết đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn không tiến được như ý nguyện . Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để lại một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng : Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn ? Họ là những người học Tây ; họ có cái khuynh hướng " Âu hoá " những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của cuộc đời mới.
" Nhưng cái gì cũng có một giới hạn : cái giới hạn đã bị vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những ngữ điệu bị " Pháp hoá " đó hay những danh từ bị Việt hoá đó chính không phải là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn : Chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu, tôi có tự hỏi :" ...đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi lúa ngự, ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và trọn vẹn được không ? ". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó không phải là một cái lý để " âu hoá " nền văn chương Việt Nam. Nền văn chương ấy nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng riêng ra một địa vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất " văn chương " khi ta muốn " ngoại hoá " nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách riêng của nó.
" Với sự " âu hoá ", tôi sợ nền văn chương Việt Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị " mất gốc ". Mà sự " mất gốc " ở địa hạt văn chương rất nguy hiểm. Văn chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo ngay. Nó phải hút chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể mang trồng qua chỗ khác được ; nó cũng vẫn sống như thường.
" Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống, nhưng không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá trị khi nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
" Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một thế giới đương suy tàn : Cái cuộc đời Việt Nam đương trỏ nên một cuộc đời khác...Đó là ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một cuộc đời quốc tế đó, ta phải nhận rằng : cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn, trong cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở ngoài vào...Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc, nhưng là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam trong lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng : được chứng kiến một giai đoạn độc nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy trong giờ phút này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
" Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu hát đúm của các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô gái quay tơ (vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị) và lưu giữ mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền văn chương.
" Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh phải tiếp tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người Việt Nam bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
" Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
" Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn tư tưởng cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta sáng tạo lại những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
" Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ hay một cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một thiên tài của xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với thiên hạ rằng :" Đâylà một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã nghĩ và đã cảm ".
" Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà nhận rằng hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước Việt Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời ".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết bài " Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam ", lên tiếng cực tán nền văn chương dân gian, một nền văn chương thuần tuý dân tộc, không chịu ảnh hưởng Tàu hay Tây.
" Nước ta là trong những nước có một nền phong tục thuần nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân lý chặt chẽ đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta ; những khuôn phép, lề lối đã làm cho ông cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
" Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ nghiêm nghị, thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức. Người ta ít tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại lệ.
" Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt Nam. Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần văn học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong quyển sách thiên nhiên : đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc...Chỉ ở đó ta mới nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục lệ quá cầu kỳ.
" Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu, và không dấu diếm cõi lòng.
" Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc tích trong những câu ca dao mộc mạc, mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu ngao trên lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông, trong những điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng, giữa những làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được nghe bà hay mẹ kể lại cho.
" Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người ta đã nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau trong những lời hát ứng khẩu giữa trai gái...Đây ta thấy người dân Việt Nam ranh mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính hư của người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi ác thật...Đây là người học trò " dài lưng tốn vải " bị diễu :
" Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ ".
" Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò cười, đây một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
" Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa bỡn, hơi cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi đó là một bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít người để ý đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt Nam dân giả...Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả các văn chương, là quyển " Tiếu lâm ". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt Việt Nam nhất.
" Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người học trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ. Khi làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết...Tuy nhiên, đó không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ, là của chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
" Người ta đã buộc nhiều về " Tiếu lâm ". Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ ra...Người ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng...tục tằn của bộ sách ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự nhiên giữa ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh thần nào cả.
" Nhưng nếu công việc của " Tiếu lâm " là làm cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công. Cái cười tuy thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự nhiên, nó không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa, nó là cây đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
" Ta đã nói bộ " Tiếu lâm " cho ta biết rõ tâm lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu cợt, bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét...vạch rõ những bí ẩn của những đời tư...của ái tình...Và họ cười...Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười vì họ ưng cười...Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho là thiêng liêng, đáng quí.
" Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết kính nể ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
" Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng đó là sự thật.
" Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến Pháp (Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì đó là văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của người dân giả Pháp... " Tiếu lâm " là hồn của dân giả Việt Nam.
" Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận rằng họ không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc " Tiếu lâm ", biết đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến. Và ta chỉ nhắc đến tên " Tiếu lâm " để biết rằng nước ta không phải thiếu tinh thần hài hước " (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn Công Trứ và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử :
" Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của Quốc gia, mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với Thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
" Thật là sự điều hoà của những cái tương phản nhau : sự điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật...Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
" Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh...Tôi nhớ như có một lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều - thật không phải là một lời nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy, ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng vừa trả lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu nặng bâng khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những kẻ " bốc giời " phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết rõ cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ một lần nữa rằng : sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ " chiến sĩ ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
" Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa cuộc đời âu tây chật vật.
" Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhẩy lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là " Lãng mạn ", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời, và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng : văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu " (Tràng An, số 107, 5-1-1943).
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống Musset : " Những cuộc cãi nhau về " thơ cũ " và " thơ mới " đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. " Thơ mới " chỉ là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của tâm hồn người ta ở thời đại mới.
" Thơ mới " đã đứng vững với tác phẩm giá trị của những thi sĩ có tài : Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
" Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này. Đây tôi không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện cùng các bạn những điều hay hay mình đã thấy.
" Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi nẩy ra một sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước Pháp vào khoảng 1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ phương diện những thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và thơ ta bây giờ có chỗ so sánh được.
" Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện. Lamartine đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp với tâm hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn vẩn vơ, nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ Lamartine đã làm " mê " cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi đó người ta đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes et Ballades và Les Orientalesđã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng. Buồn vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng tượng của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của " phương đông ". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của Hugo.
" Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ một thời.
" Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy cho nhà văn học sĩ nước Pháp...
" Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ nhắc qua rằng : Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er , cũng như Thế Lữ đã " ru " người ta " dạy cho cả một thời đại yêu " (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930. Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ đăng ở báo Phong Hoá được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditationscủa Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
" Nếu thơ Thế Lữ " ru " người ta thì thơ Huy Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ cái tuổi cho đến cái tài và nàng thơ " Siêng năng " của thi sĩ Phạm Huy Thông.
" Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã dám cười khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến sĩ theo Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo chúng ta về " ngày xưa ", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại của nước ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của ông, nụ cười " hóm hỉnh " và có duyên rồi ông giục chúng ta cười theo...
" Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm năm về trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn Pháp ảnh hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở vào một trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
" Thế Lữ, Huy Thông...cũng là những nhà thơ lãng mạn thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm trễ đó không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế. Mà trách sao được ? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước : ngoài những giờ mơ màng đắm say trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy, cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
" Về tiểu thuyết ta đã có những quyển như Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Ta cũng mong các thi sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần ta như thế " (Tràng An, số 108, 24-3-1936).
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh thơ mới hay thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ mới, quay về dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều người vẫn tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không khen thơ mới như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả động gì đến mới hay cũ. Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình và ca tụng ba tập thơ : Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập thơ ra đời năm 1937 :
Với tập Xác thu,ta không phải theo ông Hoàng Điệp ra bãi chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe ngóng hơi thơ của muôn tiên, để hớp lấy giòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước theo sát ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán nản trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa thu tới :
Tất cả mùa thu vàng xám lại Chán chường cũng lại giết hồn tôi (Xót xa) Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn trong sạch ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường : Hẻo lánh bên đường ít quán tranh. Nầy đây sắp sửa lá xa cành Vài ba cánh cửa không buồn mở, Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh (Xác thu) " In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất bại trên đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng niu trong những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng Đau đớn để kêu gọi, van xin : Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi ! Khổ lắm, cho ta một nụ cười, Hãy nắm tay ta thêm chút nữa Để truyền cảm giác xuống đầu môi. (Đau đớn) " Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn không buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của ông mà thôi : Anh chỉ yêu em...ngồi xích lại Cho anh gạn hỏi một đôi điều, Cho anh lọc hết giòng cay đắng . . . . Có phải em là : xác quạnh hiu. (Đau đớn) " Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới cái buồn bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt nhạt, ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ : Trong tôi : Mặt trăng mờ nhạt. Ngôi chùa đổ nát Con đường quạnh hiu. Một buổi chiều, Tôi đón lời tiêu, Tôi đưa lá chết Tôi nhìn đám tang, ...Xác thu vàng ! (Đám tang) " Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung cảnh nho nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa. Ai đi nhặt tiếng vàng rơi Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu. " Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm ảnh tầm thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường " Không màu sắc " ấy, là tài riêng của ông Hoàng Điệp. " Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá vàng đẫm máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ (Nếu tôi không lầm).
" Về nghệ thuật, tập Xác Thuhẳn có phần kém hơn hai tập Hận chiến trườngvà Điêu tàn. Những lối thơ tám chữ của ông Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
" Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình yêu, nói đúng hơn, một mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi " xót xa ", cả vị " cay đắng ", tập " Xác Thu " sẽ là một tập thơ có giá trị riêng về chỗ đó.
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh " Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã tả hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người, nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn " Lạc lối giữa thành sầu mù mịt ". Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên " Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh hơn, gan dạ hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt điện để sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện trong đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa, ông là cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang chới với, ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió vv... " Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông không dám bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng đầy bí mật của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những mảng trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những xác cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng lặng xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
" Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và thường sống trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới riêng của họ. Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái tháp điêu tàn của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
" Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta ba viên ngọc quí :
" Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác thu " (Xuân Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt : " Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài " Premières Solitudes " của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
" Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống ; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
" Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như " Bạn chàng Xuân Diệu ".
" Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
" Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa ! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự ; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa ! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế.
" Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.
" Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối " đoạn tràng ". Chàng chạy theo rõi một mối tình mất mà thương tiếc ; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi ; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang ; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng ; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang ; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để " bước vào mồ nhỏ tí " Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương ; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu ; chàng than thở với Thượng Đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
" Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.
" Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun núi bạc chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình :
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà " Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ. " Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết :
Hai hàng cây xanh Đâm chồi hy vọng... Nhạc vươn lên trời Đời măng đang dậy Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân. " Tả một cảnh thu ở núi rừng :
Non xanh ngây cả buồn chiều Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia " Xem chữ " ngây " nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu ; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi. " Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập " Lữa thiêng " không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ " thần tình ".
" Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt ; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.
" Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt ; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
" Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện ; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày " Thơ thơ " ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
" Tập thơ " Lửa thiêng "là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
" Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.
" Lửa thiêng " ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng An, tháng 3 năm 1941, số 12).
Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu Trên Tràng An số 405, 21-5-1939, 406, 24-5-1939, Xuân Tâm phê bình thơ thơ của Xuân Diệu với lời lẽ rất to tát và coi " Thơ thơ " là " một quyển sách để đầu giường " của ông : " Như tôi đã nói, nghệ thuật của Xuân Diệu rất lão luyện bên nhà thi sĩ có tài tâm hồn muôn điệu, lại có nhà thợ thơ tinh xảo, có kinh nghiệm nhiều và nhất là rất tận tuỵ với nghề mình.
" Tuy lối thơ lục bát của Xuân Diệu không được mềm dẽo và du dương như của Thế Lữ, nhưng trái lại lối thơ hoàn toàn mới với những câu tám chữ và vần liên tiếp, hay lối thơ gồm có từng đoạn bốn câu hoặc tứ tuyệt, hoặc thơ mới với vần song hành, lại rất xuất sắc.
" Đọc những bài Cảm xúc, Vì sao, Trăng, Huyền Diệu, Yêu xa cách, Phải nói, Đây mùa thu tới, Hẹn hò, Vô biên, Tương tư, Chiều, Với bàn tay ấy, và gần hết những bài khác, người ta thấy lời thơ chảy song suốt từ đầu đến cuối, không bỡ ngỡ không khó đọc, mà rất dễ dãi. Lắm đoạn vụt lên rất tự nhiên rất nhẹ nhàng, khiến ta thấy nó từ đáy hồn vụt ra như những tia sáng.
" Những đoạn ấy nhiều lắm, không thể không chép ra đây được, các bạn đọc qua cũng thấy, không phải tìm kiếm.
" Mà những đoạn thơ rất tự nhiên ấy có phải Xuân Diệu phun ngay ra như thế đâu. Chính thi sĩ đã trao dồi rất công phu, sửa đi sửa lại từng câu hay từng chữ nhỏ. Chính những bài thơ đã đăng ở báo Ngày Nay hay Tinh Hoa rồi, mà nay in trên sách lại khác đủ tỏ rằng Xuân Diệu là một người thợ thơ cần mẫn, biết thận trọng nghệ thuật, và khi nào cũng cố gắng đạt được mục đích là sự hoàn mỹ.
" Ví dụ trong bài " Cảm xúc ", câu thứ sáu bây giờ :
Đây là bình Thu Hợp trí muôn hương " Khi trước : Đây là bình Thu Nhận trí muôn hương " Chữ thu nhận chỉ có một nghĩa là thu vào mà thôi nên kém chữ thu hợp, có nghĩa thu vào mà còn chung đục còn trộn lẫn với nhau nữa. " Trong bài " Đây mùa thu tới ", câu thứ 4, khi trước :
Với áo Chùng Thâm Mặt Dám Vàng ; Bây giờ : Với áo Mơ Phai Dệt Lá Vàng, " Mùa thu mà có mặt thì cũng hơi kỳ thật. Chứ áo của mùa thu dệt bằng lá vàng thì hợp lý và hay hơn nhiều. Cũng trong bài ấy, câu thứ 13 khi trước :
Én bỏ từng không, Oanh bay đi. Bây giờ : Mây vẫn từng không, Chim bay đi. " Mùa thu là mùa của chim én ở xa về bay lượn ở đồng nội mà lại bảo nó bỏ từng không thì sai quá. Huống gì mấy chữ " mây vẫn từng không " đã đúng mà còn may mắn hơn nữa. " Không cần phải đưa ra nhiều, ba cái ví dụ trên đây chứng thật một cách rộng rãi rằng Xuân Diệu trau dồi nghệ thuật rất công phu.
" Bên nhà thi sĩ đặc sắc, bên nhà thợ thơ có lương tâm ấy, lại thấy có đèo thêm một nhà họa sĩ. Xuân Diệu đã thấy " màu hoa mới thắm như kêu " (Nụ cười xuân), đã thấy " sắc đỏ của màu xanh " (Đây mùa thu tới). Phải có con mắt của họa sĩ mới thấy được những tế nhị của màu sắc như vậy.
" Với những câu :
Lũ mây già, nghìn vạn khối lâm ly, Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp, Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép, Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào, Những cây bàng là những bộ xuơng cao, Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ. Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ, Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba ; Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm. (Sắt) Xuân Diệu đã vẽ ra một cảnh màu đông nếu tôi không lầm, với những mùa chết, hay nói cho đúng hơn là màu đất và mùa tét. Những chữ " sắt cũ ", " tét cắn lá ", " màu lặng yên ", " Tiếng rắn rỏi pha màu mực đậm " làm ta thấy thật màu đỏ nâu vàng úa của bàng, da bàng về mùa đông là mùa thay lá, và nhận thấy tác giả đã biết hoà hợp tiếng màu để làm nên một cảm giác nặng nề mệt nhọc phảng phất trong bài thơ từ đầu đến cuối. " Nhà họa sĩ đã vẽ ra bằng thơ những bông hoa xinh đẹp, đầy vẻ sống, linh hoạt một cách khác thường trong bài " Lạc quan ", và hiến cho ta bức tranh tuyệt mỹ có cả tình cảm :
Một tối bầu trời dăm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy, Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy. Những lời huyền bí tảo lên trăng Những ý bao la đủ xuống trần, Những tiếng ân tình hoa bảo gió, Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân. (Với bàn tay ấy) " Đó là chưa nói đến mánh khóe nhà nghề mà nhà thơ đã dùng để tả những ý tưởng của mình. Với hai câu : ...Và làm sai tơ nhịp trăng Đang, Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh. (Trăng) " thi sĩ đã được một điệu đàn bằng thơ. " Với câu :
Những luồng Run Rẩy Rung Rinh lá. (Đây mùa thu tới) Xuân Diệu đã tả nổi cho ta nghe những lá run rẩy thật, nhờ ở cách sắp khôn khéo và tìm tòi bốn chữ đi với nhau. " Về cách dứt mạch câu (césure) Xuân Diệu cũng tỏ ra mình nhanh nhẹn lắm. Khi đọc mấy câu :
Thong thả chiều vàng thong thả lại... Rồi đi... Đêm xám tới dần dần... Cứ thế mà bay cho đến hết Những ngày, những tháng, những mùa xuân. (Giờ tàn) " ta tưởng như nghe cả chiều lại, đêm đi và ngày tháng bay thật, nhất là câu cuối cùng, nhờ căÙt làm ba mạch nên đọc lên một âm điệu đưa đẩy rất đầy đủ. " Còn những hình ảnh (images) mới mẻ may mắn, mà tôi đã nói rồi, và nhất là những chữ dùng rất ngộ nghĩnh, rất táo bạo mà không bao giờ đến lỗ mãng, như Huy Thông, thì Xuân Diệu giầu lắm. Bất cứ bài nào cũng có, và chính đó là những chấm đặc sắc nhất của thơ thi sĩ. Thành thử khi ta đọc đi đọc lại càng thấy thấm thía thâm thuý mà không bao giờ chán.
" Sau hết tôi mách các bạn một cái đặc điểm mà chỉ có một mình Xuân Diệu có, lối thơ ngây thơ và dễ yêu : Các bạn hãy nghe :
Ờ nhỉ ; sao hoa lại phải rơi ? Mất... Thực là dị quá - Mà tôi nữa : Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai ? - Nếu không biết những câu thơ ấy của Xuân Diệu, người ta hẳn phải cho là những lời ngây thơ của một thiếu nữ nào mới biết yêu và chưa hiểu đời với những thống khổ là gì. - Cùng một loại thơ ngây ngô ấy, bài " Đơn sơ " hẳn là một tác phẩm bất hủ. Nó cám dỗ hồn ta với những chữ thông thường, rất tự nhiên, và nhất là với vẻ " có duyên " của nó.
" Một thi sĩ giầu tình yêu, hiểu thấu đáo âm nhạc, giầu tình cảm, giầu sức tưởng tượng, và có một nghệ thuật tinh vi như Xuân Diệu, hẳn là một thi sĩ hoàn toàn nhất mà ta có đến bây giờ.
" Và quyển Thơ Thơtác phẩm hoàn toàn như tác giả của nó là một quyển sách để đầu giường (livre de chevet) mà chẳng bao lâu sẽ trở nên một người bạn thân ái của chúng ta.
" Phải chăng tôi đã xem Thơ Thơvới một tâm hồn " rất bạn " của thi sĩ Xuân Diệu ? (Xuân Tâm, Tràng An, 21-5-1939, số 405).
Trên Tràng An số 494 (15-3-1940) H.X.T. khen nữ thi sĩ Thu Hồng, tác giả Sóng Thơ :
" Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới xuất bản của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã quen làm bạn, như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông, ông Thái Can, ông Huy Cận v....tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ mà xem. Lo sợ mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới cũng không phải là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có biệt tài trong sự làm thơ.
" Có lẽ vì tôi dành để quá nhiều thì giờ để xem các thi ca xưa. Có lẽ là vì tôi thấy thi ca trong văn chương chúng ta hiện đương trải qua một thời kỳ phân vân, về đường thể cách cũng như về đường lý tưởng, làm cho độc giả chẳng biết lấy đâu mà căn cứ để suy nghĩ, để so sánh, chẳng biết lấy thái độ nào mà thấu hiểu và cảm động theo cái thâm tứ của mỗi thi sĩ trong mỗi bài thơ.
" Đối với quyển Sóng Thơmới ra đời, trước hết tôi cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang giấy nhanh chóng, rồi tự nói : Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà là một nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một nguời trong Hoàng phái...Rồi tôi xem qua cũng nhanh chóng như thế thấy câu hay, câu không hay ; nhưng không để ý lắm. Chẳng khác lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản nhiên trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường xa lạ khác.
" Vậy là tôi đã xa lìa tập Sóng Thơ, như tôi đã xa lìa nhiều tập thơ mới khác. Có lẽ tôi không nghĩ đến nữa, nếu một sự tình cờ không xui giục tôi quay lại vườn hoa cũ, quay lại với Sóng Thơ của nữ thi sĩ Thu Hồng.
" Một buổi hội họp tại nhà một ông bạn, tôi đã được gặp nữ thi sĩ Thu Hồng, một thiếu nữ trẻ tuổi, và nói chuyện rất tự nhiên và vui vẻ. Lẽ tự nhiên là nói chuyện " thơ ". Rồi trong câu chuyện, nữ sĩ Thu Hồng đọc cho chúng tôi nghe một đoạn của một bài thơ nàng mới làm và chưa in trong tập Sóng Thơ mới ra đời.
...Vì hiểu lầm nên mới mong đừng nên hiểu ; Mong chán nản chớ len vào niên thiếu, Chờ len vào sớm quá tội em mà, Em nghe như thời ấy vẫn còn xa. Em chầm chậm để mong còn xa mãi, Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái, Hoa nồng hương, mà trái có khi chua... " Đoạn thơ được nghe đó, cùng nhiều câu thơ khác, của nữ sĩ Thu Hồng đọc ra hôm ấy, tôi thấy có ý vị, và có một sự giản dị hoà với một âm điệu dịu dàng. Vì cái cảm tưởng hôm ấy nên tôi mới đọc lại tập Sóng Thơ, bà Đạm Phương nữ sĩ có viết một câu phê bình rất ngắn, nhưng rất đúng : Ngòi bút của Thu Hồng tuy chưa sành nghề cho lắm, nhưng có vẻ tự nhiên tao nhã. Tôi xin thêm rằng : có vẻ giản dị và êm đềm tỏ ra một tâm hồn giầu cảm tình, hay thổn thức với cảnh đẹp của tạo hoá, yêu văn chương, không hề oán hận, không hề than van. Vì vậy thơ cô không phải là tiếng kêu gào của những tấm lòng bị đau thương, không phải lời oán trách của những người ê chề, chán nản. Chỉ như là những làn " sóng " dịp dàng uốn mình dưới một ngọn gió nồm thanh thanh mà mát mẻ ; chỉ như những tiếng động rì rào trong lá. Gió qua, lá động rì rào, Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời. " Không phải là cô không có lúc lo sợ hay buồn bã. Nhưng sự lo sợ hay buồn bã của cô không bao giờ khốc liệt, có rồi rào cũng vẫn êm đềm mà thôi. Buồn ngày xưa em buồn thêm một chút... Hoặc là : Vì đâu thoi thóp với canh tàn ? Rời rạc kia mây cũng muốn tan ! Tan tác lòng em bao mộng đẹp, Cái tình vô hạn, khéo đa mang ! " Sự tan tác không phải tấm lòng của cô ; chỉ là bao mộng đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là " Cái tình vô hạn ", một mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một vật nào, có thể làm đau đớn gắt gao được. Vì vậy cho nên một tấm yêu, Lui không nẻo bước, tới cam liều Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa, Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều ! " Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng ta thấy nữ sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng ta có thể nói rằng " thi cảm " của cô không phải là của người mê say ; nó còn ở trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm. " Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể gọi là tầm thường, cái " nên thơ " trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi câu nói đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường, ấy là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những cành hoa thơm đẹp.
" Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến riêng của tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng Thơ của nữ sĩ Tôn nữ Thu Hồng. Tập thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa.
" Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng Thơ với độc giả (H.X.T., Tràng An, 15-3-1940, số 494).
Trên mặt báo Ngày Nay, từ năm 1938 trở đi, Xuân Diệu và Thế Lữ phê bình thơ rất nhiều. Cũng như báo Tràng An, báo Ngày Nay hình như cũng đã xoá bỏ chữ cũ mới trong khi nói đến thơ. Đặc biệt là Thế Lữ trong mục " Tin Thơ " đã chỉ phê bình thơ như là thơ, bởi vậy, rất nhiều bài thơ cũ được ca ngợi và bài thơ mới bị công kích, cũng như vô vàn bài thơ mới được khen lao và bài thơ cũ bị chê bai.
Cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ như vậy là đã đi hẳn vào lịch sử. Qua cuộc tranh luận kéo dài có hằng mười năm, chẳng những làng thơ mới hăng say thảo luận mà ngay đến làng thơ cũ cũng bỏ cái thói quen dè dặt, thẳng thắn bày tỏ và bênh vực lập trường. Chẳng những thi ca mà cả nền văn học Việt Nam, nhờ vậy, đã tiến rất mạnh mẽ.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:18:43 GMT 9
ĐẶC TÍNH CHUNG THẾ HỆ 1932 Thanh Lãng
A - Đặc tính chung thế hệ 1932 B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932 C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932 : 1 - Vụ Án Báo Chí / 2 - Vụ Án Cũ và Mới / 3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim / 4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi / 5 - Vụ Án Quốc Học / 6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới D - Mặt trận bênh thơ mới (1) / Mặt trận bênh thơ mới (2) / Mặt trận bênh thơ mới (3) E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Trung thành với phương pháp đặt các sự kiện văn học vào những " lúc lịch sử quyết liệt ", tôi chọn những năm 32 làm điểm khởi cho thế hệ thứ bốn của nền văn học mới : thế hệ 1932 (1) Thực vậy chung quanh những năm 32, nhiều biến cố quan trọng đã xẩy ra giúp vào việc sửa soạn và xô đẩy hầu như một cách ức bách , sự thành hình của một hướng đi mới, một lối sống mới, một lối hành động mới, một lối cảm xúc mới, một lối suy tư mới, một lối viết mới...với những nhà lãnh đạo mới.
Lý do rất phức tạp, thuộc đủ mọi chiều hướng : chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý, văn học...
I - Lý do thứ nhất : những Biến động chính trị. Trước đây, chúng ta nhận thấy những thất bại quân sự đã từng gieo chán nản, tuyệt vọng vào trong các tâm hồn, khiến nhiều người không còn nghĩ đến chiến đấu : các bậc túc nho thì đi tìm quên lãng trong công việc khảo cứu (viết báo, dịch sách, khảo luận...) ; phái trẻ thì say sưa đi tìm những cảm giác thê lương, ốm yếu để, rút cục, tuyệt vọng, thi nhau mà đi tự tử. Đó là vào khoảng từ 1922 đến 1926. Tình trạng bi quan quá độ ấy, tất nhiên, tạo ra một sức phản ứng mãnh liệt bùng nổ vào những năm 30. Đêm mồng 9 rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt Nam Quốc Dân Đảng, cách mạng bùng nổ ở Yên Báy : điểm báo sự vùng dậy của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Nhưng, thiếu tổ chức, cuộc cách mạng bị đàn áp nặng nề. Tuy vậy, nó cũng gây được một xúc động mạnh mẽ trong các tầng lớp dân chúng. Cũng trong năm 1930, nhiều đảng phái mới ra đời, đáng chú ý hơn cả là Đông Dương Cộng Sản đảng. Tất cả những biến cố chính trị như trên đây chẳng những đánh thức dậy ý thức quốc gia mà còn xoay chiều hẳn chí hướng và hoạt động của cả một thế hệ : thế hệ trẻ, mới... II - Lý do thứ hai : việc Bảo Đại hồi loan. Phải chăng bởi nhìn thấy tinh thần quốc gia đang bồng bột trong các tâm hồn khó lòng dập tắt được mà, từ sau năm 1930, người Pháp tỏ ra mơn trớn người Việt Nam, tung ra nhiều điều hứa hẹn. Đặc biệt hơn hết là năm 32, họ đã nắm lấy cơ hội Bảo Đại hồi hương để gây hẳn một phong trào cởi mở giả tạo, cốt cho các thành phần Quốc gia tin tưởng vào vai trò khai hoá của Pháp để đưa Việt Nam đến một tương lai rực rỡ. Chính vì vậy mà họ đã cho nghênh đón Hoàng đế Bảo Đại hồi loan rất long trọng. Tiễn đưa Bảo Đại tới Marseille, Thượng Thư thuộc địa Albert Sarraut đã nói với nhà vua : "Tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng sẽ gánh một gánh rất nặng nề, là phải làm một Vị Đế Vương tân thời, song phải tuân theo cổ tục, Ngài phải làm cho một nước cổ, hoá ra một nước kim...
" Chúng tôi không muốn Ngài hoá ra một người cấm cố ở một chốn điện đài rực rỡ, người ta đối đãi một cách rất sang trọng, để hòng lợi dụng lúc Ngài vui, hoặc khi Ngài chán ngán mà xin chuẩn y một đôi đạo chỉ dụ, nghịch hẳn với quyền lợi của nước của dân " (2).
Thực vậy, cùng với việc vua Bảo Đại hồi loan vào tháng chín năm 32, Chánh Phủ Pháp đã hứa hẹn rất nhiều mà điều hứa quan hệ nhất là việc áp dụng đúng các điều khoản của Hiệp Ước năm 1884. Theo Hiệp Ước năm 1884, thì Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tuy chịu quyền bảo hộ của Pháp, vẫn tự trị về nội bộ.
Nhưng người Pháp đã áp bức Nam Triều ra chỉ dụ ngày 26-7-1897 để đặt Bắc Kỳ dưới quyền cai trị của ¨Pháp, tách khỏi Trung Kỳ, là xứ cũng dần dần mất hết tính cách tự trị.
Năm 32, nghe rằng Pháp định nới rộng để trao trả quyền tự trị nội bộ cho Nam Triều ở cả Bắc và Trung, người dân Việt Nam thực là háo hức. Le Grauclaude, trong cuốn " Những thời kỳ trọng đại của nước An Nam trong lúc Hồi xuân " đã ghi chú điều ấy : " vì như người nào xét kỹ xung quanh mình, thì biết rõ ràng sự hồi loan này đã làm cho thiên hạ náo động vô cùng, cái ngày ấy càng gần tới chừng nào, thời sự náo động ấy càng rõ ràng chừng nấy, dầu các nhà lãnh tụ các đảng phái lấy ngôn luận làm bút chiến cũng không tả thấu cái tư tưởng của nhân dân đặng. Nếu biết rõ những sự tín ngưỡng di truyền, thời sau khi có những sự loạn lạc, trừng trị, đói kém, cái phong trào ấy của nhân dân cũng dễ giải nghĩa lắm " (3).
Tuy Chánh Phủ Pháp có thiện chí muốn duyệt lại các điều lầm lỡ để nới rộng quyền hành cho Nam Triều, nhưng quan lại Pháp tại Việt Nam xem ra chống đối và hình như cũng kéo được một phe cánh theo họ để phản kháng việc trao trả Bắc Việt cho Nam Triều. Nói về sự kiện đó, Le Grauclaude viết : " Ở Bắc Kỳ, hai phe ấy đã khiêu chiến nhau và ông Nguyễn Văn Vĩnh đã xưng là thay mặt một phần dân Trung Kỳ nữa. Một phái kia là " phái quan trường có ông Phạm Quỳnh là một nhà văn học trứ danh, làm lãnh tụ, chống với phái thanh niên, tự xưng là thay mặt bọn thanh niên Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Bọn này có một tờ báo làm cơ quan là tờ An Nam Nouveau. Ông Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà viết báo có tiếng, chủ trương báo ấy. Còn trong nhân dân, ít nữa là bọn thượng lưu, chia ra hai phe. Một bên đồng tình với ông Phạm Quỳnh mà xin giao Bắc Kỳ lại cho Nam Triều cai trị với chánh phủ bảo hộ Trung kỳ. Một bên hiệp ý với ông Nguyễn Văn Vĩnh mà yêu cầu cho Bắc Kỳ trở nên một xứ thuộc địa, là thể thức cũng tựa như thể thức bây giờ rồi " (4).
Tuy nhiên, phe theo Nguyễn Văn Vĩnh, dầu sao cũng chỉ là số ít, còn phần đông dân chúng vẫn chủ trương theo ông Chủ Nhiệm báo Nam Phong. Được phỏng vấn, Thủ Tướng Nguyễn Hữu Bài, tạm coi được là tiếng nói của các phe Quốc gia, đã trả lời ông Le Grauclaude : " Việc trong thì nước Nam ước ao có quyền nội trị, tự thu xếp lấy. Người ta thường nói người nước Nam không có lòng ái quốc. Tuy không có cái ái quốc như bên Âu Châu, song bên chúng tôi, ai cũng có cái lòng trung ái với nước nhà, ai cũng một lòng một chí mà ước ao cho đặng cái quyền tự xem xét lấy các việc chung của nước nhà " (4).
III - Lý do thứ ba : những cải cách của nội các Bảo Đại. Cho viết những lời lẽ trên này, người Pháp đã tỏ ra kiêng nể Việt Nam lắm. Lý do là vì họ nhận thấy các phe Quốc gia mỗi ngày một ảnh hưởng đến dân chúng, đặc biệt là các tổ chức Cộng Sản, được sự nâng đỡ của ngoại quốc, đang thu hút được nhân tâm. Đàng khác, nạn kinh tế khủng hoảng trầm trọng của mấy năm qua rất có thể được các lực lượng cách mạng khai thác để xúi giục dân làm loạn. Để đánh lạc dư luận, một đàng họ ngấm ngầm đàn áp, một đàng họ công bố những điều hứa tốt đẹp, đồng thời đề nghị với vua Bảo Đại, vừa mới hồi loan, phải đi tuần du cả Trung và Bắc để làm yên lòng dân và cải tổ nội các một cách thực mới mẻ. Nội các cũ gồm các quan già bị bãi nhiệm và theo đạo chỉ dụ ngày mồng 2 tháng 5 năm 1933, vua Bảo Đại công bố thành phần nội các mới gồm những vị Thượng Thư rất trẻ : Ngô Đình Diệm, Bộ Lại, ba mươi mốt tuổi ; Phạm Quỳnh, Bộ Quốc Dân Giáo Dục, bốn mươi tuổi ; Hồ Đắc Khải, Bộ Tài Chánh, ba mươi tám tuổi ; Bùi Bằng Đoàn, Bộ Tư Pháp, bốn mươi sáu tuổi ; Thái Văn Toản , Bộ Công Tác, bốn mươi bảy tuổi.
Thật vậy, không những người Pháp làm ra mặt hoan hỉ, không những người dân đơn sơ tỏ ra vui mừng vì được có một vị vua đầu tiên văn minh tân tiến, mà cả đến dư luận báo chí toàn quốc cũng tỏ nỗi hân hoan trong dịp vua Bảo Đại hồi loan. Không những báo hàng ngày mà cả đến các tuần báo, nguyệt báo cũng có những bài xã thuyết bàn về việc hồi loan của nhà vua được coi như là một biến cố quan hệ, hứa hẹn nhiều đối với Quốc dân.
Ấy là đối với chính trị thì như vậy. Mà đối với việc canh cải học chánh, đường lối giáo dục, vua Bảo Đại cũng có những ý kiến đáng lưu ý. Báo Văn học tạp chí số 4 tháng 8 và tháng 9 năm 1932, trong bài cảm tưởng đối với cuộc ngự giá hồi loan viết : " Đáng tiếc chỉ có thế mà đáng mừng thì có nhiều điều : một là mừng được trông thấy cái thái độ khoan hoà cẩn trọng của Hoàng Thượng mà có phần tin chắc rằng Ngài sẽ cầm vững vận mệnh tương lai cho quốc dân mà thái độ của Ngài lại chứng tỏ rằng : tiêm nhiễm văn hoá Âu Tây mà tự mình bền chí và có định kiến thì cái kết quả sẽ được mỹ mãn ; thế là đủ làm cái gương sáng cho bạn thanh niên du học sau này, biết noi theo đó thì mới có cái hy vọng tạo phúc cho đồng bào được.
" Hai là mừng được trông thấy Ngài đối với báo giới chẳng những tiếp đãi trọng thể mà lại có vẻ chan chứa cảm tình, thế là con đường ngôn luận của ba kỳ bắt đầu từ nay càng thấy sáng thêm và mở rộng vậy.
" Ba là mừng được nghe rõ Ngài là một vị Đế vương ưa văn hoá, trọng học thuật. Thế là nền văn học nước nhà sẽ nhờ Ngài gây dựng tô bồi họa may có ngày vững vàng tốt đẹp như nền văn học các nước văn minh Âu Mỹ.
" Vì ba điều mừng ấy mà tôi dám có mấy lời ước cầu :
" Ước sao về vấn đề phiên dịch trước thuật, Triều đình dốc lòng chiếu cố , hết sức khuếch trương, khiến cho sách quốc văn rộng đường ban bố lưu hành, họa may quốc dân đối với các món phổ thông trí thức chuyên môn khoa học khỏi phải cái khổ học nhờ viết mướn. (Nghe nói hiện nay Viện cổ học ở Huế đã tự xin tổ chức cuộc phiên dịch mà Viện Dân Biểu cũng định xin lập Viện Hàn Lâm).
" Ước sao niên hạn của học sinh, chương trình của học chánh có chút thay đổi thế nào, để trừ bớt cái nạn thất nghiệp của bạn thanh niên học tử nay mai, vì dân tộc Việt Nam là một dân tộc có khiếu thông minh, có tánh ham học, nhưng trong đó phần nhiều là con nhà cực khổ nghèo hèn "(5).
Sau khi bày tỏ niềm hân hoan và tin tưởng vào Ông vua trẻ, báo Văn học tạp chí còn trích đăng những đoạn văn quan hệ của lời huấn dụ ngày 10 tháng 9 của vua Bảo Đại liên quan đến dự án sửa đổi nền giáo dục lúc ấy : "Ta sẽ tuyển dụng cũng như thuở xưa là do thí khảo, đề mục luân lý, kinh văn và cũng có khoa học về chính trị phép luật tân thời, hễ ai được thắng phân số là trúng tuyển. Sẽ lập một trường đặc biệt (là trường sĩ hoạn). Ta sẽ hết sức lo dạy cách chánh trị thực hành làm cho đức dục và trí dục được tấn tới thêm.
" Việc học bây giờ có nhiều người ý kiến trái nhau : kẻ thời nói việc học tấn bộ, người thời nói thoái bộ, ta xem ra trong mấy năm gần đây, chỉ lấy những vấn đề học qui làm trọng.
Vậy học qui há trọng hơn tôn chỉ, mà sao chỉ chăm dạy khai trí không chăm dạy thành đức cho trẻ con là lũ đương nhiệt tâm về tân học. Ta sẽ hết sức bổ cứu cái hại ai nấy đều phàn nàn, là nó làm cho những đời người cận thời giống như đã quên những phong hoá lưu truyền rất tốt của nước ta.
" Chính vì ý ấy, cho nên nhân có chánh phủ Bảo Hộ đã tổ chức học vụ hay tốt, đặt thầy có mô phạm tân thời, cứ cơ sở vững bền ấy, ta sẽ sửa bộ học lại, sẽ gọi là bộ Quốc Dân Giáo Dục, để biểu minh chủ ý.
" Ta muốn sắp đặt việc giáo dục của quốc dân theo nền vững bền gia đình giáo dục và luân lý đời xưa.
" Có trường công về phần quan kiểm sát làm hướng đạo cho việc giáo dục quốc dân. Ta lại tính đường mở mang hương trường và tư trường là nơi gần mặt phụ huynh, vì theo luật phép và phong tục nước ta, phải có trách vụ to về đường giáo dục.
" Ta khuyên kẻ phụ huynh đem lòng lưu ý việc ấy, lo việc tương lai đặng mà giúp sức với chánh phủ, để cho thành được việc gọi là việc xây dựng lại cho dân cả nước, ấy là chính việc xã hội Việt Nam phải đem lòng chăm lo vào đó cả...
" Vả lại noi theo thánh ý khoan hồng Đức Tiên Hoàng Hoàng Tôn Tuyên Hoàng Đế, quả nhơn muốn cho quốc dân thân ái của ta được trần ngôn tiếng thấu tai trên, được tỏ tình những điều sở nguyện, được thỉnh cầu những sự cần thiết phải lẽ... " (5).
Cũng như Văn học tạp chí của Dương Tự Quán, An Nam tạp chí của Tản Đà, trong bài xã thuyết bàn về việc hồi loan của vua Bảo Đại, cũng đã cực lực khen ngợi lời chỉ dụ của Nhà Vua : " Hay thay đức Kim Thượng là đứng thánh minh, đã hiểu cái nhẽ : phải tiến.
" Lời thánh dụ ngày 10 Septembre 1932, nhiều ý hướng duy tân đã khiến cho thanh niên phấn chấn mà đợi buổi tương lai " (6).
Tuần báo Phong Hoá cũng có nhiều bài nói về việc vua Bảo Đại hồi loan, nhất là về việc loan truyền những chỉ dụ của nhà vua đối với công cuộc canh tân xứ sở.
Tất cả các chủ trương của vua Bảo Đại cũng như của Pháp lúc ấy là hô hào canh tân, xây dựng một nước Việt Nam mới, cởi bỏ được các tập tục cũ. Trong bài chỉ dụ đặt nội các mới (2-5-1933) cũng như trong bài diễn văn đọc tại điện Cần Chánh trước mặt tân nội các, vua Bảo Đại đều nhấn mạnh đến tính cách canh tân của chế độ : " Chí tôi là muốn trừ bỏ những cách chính trị quá cũ không thích hợp với thời đại này. Tôi muốn cho nước Nam tấn bộ theo thời, không phải kém các nước khác trong thiên hạ nữa. Làm thế không phải là bạo động biến cách, tức là tuần tự canh tân, là một việc cần. Nước không đổi mới là nước hỏng. Tôi muốn cho nước này được hoạt động, nên tôi quyết đem hết quyền lực giúp cho tiến hoá, cho mau bước lên con đường cải cách văn minh " (7).
Về phía người Pháp, toàn quyền Pasquier cũng trịnh trọng nói đến cải cách với tân nội các : " Cái chế độ cũ trong nước, đả động đến phải cho thận trọng lắm, nhưng mà nếu xét ra thời thế phong tục khiến cho phải thay đổi thì cũng không nên ngần ngại mà sửa đổi " (7).
Những lời cổ võ cho ý hướng theo mới ấy do hai chánh phủ Pháp và Nam triều phải đã gieo vào dân gian một làn khí mới bắt đầu từ năm 1932 là năm vua Bảo Đại hồi loan.
Phong trào theo mới hăng say từ sau năm 1932 hẳn một phần đã bắt nguồn từ việc theo mới của tân nội các Bảo Đại lúc ấy.
IV - Lý do thứ tư : lối sống xé rào của vị vua trẻ Việc vua Bảo Đại về nước năm 1932, chẳng những đã gây xúc động mạnh về phương diện chính trị, cũng như về phương diện canh cải giáo dục và học chánh mà còn gây xúc động mãnh liệt cả về phương diện xã hội nữa. Thứ nhất vì nhà vua là một tay Tây học, đã dám bãi bỏ tất cả các hủ tục, nghi lễ phiền phức, thoái hoá mà Nam Triều đã khuôn mình từ hàng ngàn năm. Thứ hai, tuy không nói ra, tuy không tuyên chiến bằng lời nói, nhưng Bảo Đại đã tuyên chiến bằng việc làm đối với chế độ Đại gia đình. Chính Bảo Đại đã chống lại quyết định của Triều đình Huế, nhất là của Đại Gia đình Hoàng Tộc nhà Nguyễn khi ông cương quyết cưới cho bằng được một bà vợ là con gái thứ dân chứ không phải con hoàng tộc hay con gái bậc Đại Thần. Hơn thế người con gái thứ dân ấy lại theo tôn giáo khác hẳn tôn giáo của Triều đình, của Hoàng tộc. Chính Bảo Đại đã tranh đấu thành công chống chế độ đại gia đình để thực hiện tự do kết hôn. Thứ ba chính Bảo Đại đã khai mở cái thế hệ trai độc thê khác với phong tục cũ vua chúa bao giờ cũng đa thê. Ngần ấy cái mới ảnh hưởng đến lớp thanh niên rất nhiều và các vai truyện của Nhất Linh hay Khái Hưng về sau này, tức mãi 1933-1934, cũng không có gì mới hơn Bảo Đại lúc Bảo Đại làm trái ý Hoàng tộc để cưới cho kỳ được bà Nam Phương làm vợ. Những luận đề mà mãi đến năm 33 hay 34 có khi mãi đến 1935, Khái Hưng hay Nhất Linh mới đem ra bàn giải ở trong tiểu thuyết luận đề của các ông, thì Bảo Đại, ngay từ năm 1932, đã đem bàn giải và biện minh cho nó ngay trong cuộc đời của nhà vua.
V - Lý do thứ năm : bế mạc thế hệ cũ và xuất hiện thế hệ mới. Năm 32 là năm " tống cựu nghinh tân " giữa hai thế hệ mới cũ : nếu trong chánh trường những Nguyễn Hữu Bài, những Võ Liêm, những Tôn Thất Đàn, những Phạm Liệu...đã về hưu để nhường chỗ cho những Ngô Đình Diệm, những Phạm Quỳnh, những Bùi Đằng Đoàn... thì trên văn đàn những Phạm Quỳnh, những Đông Hồ, những Hoàng Ngọc Phách, những Tương Phố cũng rút vào bóng tối để nhường trường sở cho những Khái Hưng, những Nhất Linh, những Xuân Diệu, những Thế Lữ... Thực vậy, năm 32 đánh dấu một cái mốc quan hệ : Phạm Quỳnh bỏ báo Nam Phong để vào nội các của vua Bảo Đại. Phạm Quỳnh đã ra đi trong vinh quang, giữa sự nhớ tiếc của mọi người. Nam Phong còn sống thêm được hai năm nữa, nhưng cũng là sống cầm hơi, không nguyên vì mất người thủ lãnh có tài mà nhất là vì thời thế thay đổi. Như một viên lão tướng, dù huấn nghiệp có cao cả đến đâu, cũng phải nghĩ đến ngày rút lui. Phạm Quỳnh đã ra đi đúng lúc để giữ hầu trọn vẹn cảm tình của văn học giới.
VI - Lý do thứ sáu : nhiều báo mới xuất hiện. Điều đáng chú ý khác là cũng trong khoảng thời gian này nhiều báo chí mới ra đời : Phụ nữ Tân vănra đời năm 1929, Phụ nữ Thời đàm, năm 1930 và đặc biệt là vào khoảng giữa năm 1932 cả một loạt báo mới ra đời hay tái bản hoặc chuyên chú hẳn về xã hội hoặc đi sâu vào nghiên cứu văn học, đó là trường hợp của các báo Chớp bóng, Từ bi âm, Đông tây tuần báo, Văn học tạp chí, Đông thanh tạp chí, An nam tạp chí, Phong hoá tuần báo.
Văn học tạp chí, số 1 ra tháng năm dương lịch năm 1932, trong bài Phi lộ đã tuyên bố mục đích " là để làm cái cơ quan chung cho tất cả các nhà văn có tài, có học thức trong nước cùng đóng góp vô mỗi người một phần tâm lực trau dồi cho, sửa sang cho, gom góp cho, chỉnh đốn cho cái tiếng nói của mình thành một áng văn chương có khuôn phép phân minh, có tài liệu phong thiệm, có thể thức đường hoàng, có lời lẽ tốt đẹp mà dần dần gầy dựng thành một nền văn học xứng đáng sau này " (8).
VII - Lý do thứ bảy : ra đời của báo Phong Hoá và Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng năm 32 là năm của tuần báo Phong Hoá. Phong Hoá là một tờ tuần báo ra ngày thứ năm, số đầu tiên ra ngày 16 Juin 1932. Phong Hoá buổi đầu là của Phạm Hữu Ninh.
Khổ báo buổi đầu thay đổi nhiều. Từ số 1 đến hết số 10, báo ra khổ nhỏ 24x33 ; nhưng từ số 11 đến số 20 thì khổ báo lại to khác thường, to hơn cả khổ giấy nhật trình ngày nay ; và từ số 20 trở đi thì lại lấy giấy khổ trung bình 31x44.
1 - Kỹ thuật mới mẻ của báo Phong Hoá
Xét về hình thức, thì từ số 1 cho đến số 13, ngoài bìa báo không có đề báo do ai chủ trương hết. Ngay tên ông Phạm Hữu Ninh cũng không hề xuất hiện trên báo bao giờ. Bỗng số 11, ngày 25-8-1932, loan bằng tiêu đề lớn : " Một sự cải cách lớn của báo Phong Hoá...
" Phong Hoá tuần báo tạm ra 4 trang giá bán 0p03 để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao. " Vài tuần nữa tờ báo Phong Hoá sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng. " Xin độc giả vững tâm chờ đợi : Phong Hoá tuần báo sẽ không phụ tấm lòng yêu mến của độc giả ".
Số 13 ra ngày 8 Sept. 1932, một tiêu đề lớn hơn kéo dài hai cột báo nơi giữa trang nhất.
" Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong Hoá. " Một sự lạ trong làng báo ! Một cái mới ! Đến ngày thứ năm 22 Sept, 1932. " Báo Phong Hoá sẽ ra số mới " 8 thay 4 trang (khổ nhật trình) mỗi số 0p07 " Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần thiết : " Xã hội, chính trị, kinh tế. " Nói rõ về hiện tượng trong nước " Có 15 tranh vẽ, nhiều chuyện vui, v.v... " Cần thiết... " Hoạt động... " Vui vẻ... " mãi...mãi... " Ai cần xem báo ! Ai thích đọc báo ! " Nên đọc Phong Hoá "(9)
Nguyên đọc nội dung cũng như cách trình bày hai mục quảng cáo trên đây, ta cũng đã thấy có một bàn tay chuyên nghiệp về báo chí nhúng vào tờ tuần báo Phong Hoá rồi. Trong mục quảng cáo số 13 ra ngày 8 Septembre 1932, ta đọc những câu như : " Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần thiết : Xã hội, chính trị, kinh tế ". Lần đầu tiên làng báo Việt Nam chủ trương bàn các vấn đề một cách vui vẻ, khác với chủ trương các báo đi trước, như Nam Phong chẳng hạn bao giờ cũng trệnh trọng kênh kiệu, quí phái...
Các lời quảng cáo trên đây kể ra không phải là quá đáng. Thực vậy, Phong Hoá, từ số 14 ra ngày thứ năm, 22 Septembre 1932, mới lạ từ hình thức đến nội dung.
Báo ra 8 trang thay vì 4 trang. Trên trang nhất xuất hiện ban lãnh đạo của Phong Hoá : Fondateur directeur politique, ông Nguyễn Xuân Mai; Directeur, ông Nguyễn Tường Tam; Administrateur Gérant, ông Phạm Hữu Ninh. Tuy chưa được tăng cường như sau này, vì trước khi được đặt dưới quyền điều khiển của Nguyễn Tường Tam, tuần báo Phong Hoá của ông Phạm Hữu Ninh, ngay từ số 1 ra tháng Juin 1932, cũng đã có một nội dung khác các báo đương thời, cả về văn cũng như về ý tưởng. Trần Khánh Giư Khái Hưng là cây bút cốt cán, giữ nhiều mục quan trọng trên Phong Hoá suốt từ số 1 cho đến số 13.
Nhưng, từ số 14 ra cuối tháng Septembre 1932, khi mà Nguyễn Tường Tam đứng ra điều khiển tờ báo này, với sự cộng tác thường xuyên của Khái Hưng, Tú Mỡ, Tứ Ly, Thế Lữ, Thạch Lam... thì báo Phong Hoá quả là một trái bom nổ giữa làng báo.
Thực vậy, từ đấy trở về trước, báo chí ở nước ta có vẻ quan liêu, khệnh khạng. Nam Phong, mặc dầu được coi là một tạp chí tân tiến, mới mẻ, vẫn là cái tân tiến, mới mẻ của bọn trưởng giả, mang tích cách quan lại.
Phong Hoá đã đưa ra hẳn một tinh thần mới trong việc làm báo, tổ chức tòa báo. Điều này chính Nhất Linh hầu như cũng vỗ ngực tự đắc mà nhận như vậy, nhân ngày kỷ niệm báo ra đời được chẳn ba năm. Đọc bài tự thuật sau đây của Nhất Linh, các bạn thấy ngay hồi ấy, Nhất Linh đã có một quan niệm rất mới mẻ về nghề làm báo :
" Chúng tôi ra số báo này để kỷ niệm ngày báo ra, vì hai năm trước đây, chúng tôi đãng trí nên quên mất việc đó.
" Đã ba năm cùng các bạn cùng đi một con đường, tất là có những kỷ niệm chung mỗi bước đường lại một nhiều thêm. Vậy bây giờ cùng các bạn dừng chân trông trở lại để nhắc đến những việc đã qua, những cảnh đã gặp và nhân tiện ngỏ cùng các bạn hay những truyện riêng trong nhà báo và trong nghề báo, những truyện thân mật mà người ta chỉ thường kể cho nhau nghe trong những lúc nhàn rỗi, nghỉ ngơi. Phải là những lúc đó, những câu truyện trong số báo này kể ra mới hợp thời và không có vẻ cầu kỳ.
" Những lý tưởng nó sai khiến chúng tôi, những ý muốn của chúng tôi trong khi làm báo, Tứ Ly đã có bài tỏ ở dưới đây.
" Có một điều ai cũng nhận thấy là vào thời báo Phong Hoá ra đời (kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu chủ trương báo P.H.), trong làng báo có một khuynh hướng mới về mặt nhà nghề : tờ báo viết để quần chúng xem và tờ báo mong sống về độc giả.
" Thời kỳ những báo loại báo Nam Phong đã tàn, hay còn nữa thì những thứ báo đó cũng chỉ để cho một hạng người đọc riêng, không có ảnh hưởng lớn lao đến quần chúng. Những báo của buổi đời mới không thể là những tờ báo khảo cổ hay sống dựa vào những tài liệu cũ được nữa. Những tờ mới đó phải căn cứ vào hiện trạng, phải săn sóc đến dư luận, đến thời sự, phải là những bức tranh hoạt động của xã hội trước mắt. Nhà viết báo không thể cắm đầu lục lọi trong kho sách cũ, hoặc bó gối trong phòng viết những bài luận về triết lý vừa khô khan, vừa khó hiểu, nhà viết báo bây giờ phải làm thế nào cho ai ai cũng hiểu được mình mà viết về những vấn đề có liên quan đến một số đông người. Nghĩa là phải làm theo những người viết báo bên Âu Mỹ.
" Báo Phong Hoá về mặt trong còn có một sự mới khác hẳn các báo trong nước xưa nay. Lệ thường thì tờ báo hoặc là của riêng một hội, một đảng (ở nước ta ít khi thấy), hoặc là của riêng một người. Người bỏ tiền ra bao giờ cũng nhận lấy chức Giám Đốc dầu rằng không có một cái tài nhỏ mọn gì về nghề làm báo. Ông Giám Đốc chủ nhân đó bỏ tiền ra thuê một ông chủ bút và ít nhiều ông trợ bút. Các nhà văn sĩ vì thế nên luôn luôn xung đột với những nhà tư bản có quyền sai khiến mình mà không có đủ tài để mình phục. Tờ báo ít khi có tôn chỉ duy nhất, vì tòa soạn thay đổi luôn mà ông Giám Đốc thì không đủ tài trí bắt họ theo mình.
" Báo Phong Hoá khác hẳn không phải là của riêng một người nào. Báo Phong Hoá là của chung hết thảy những người viết báo Phong Hoá.Không có ông chủ, người làm công, không có cuộc xung đột giữa các nhà văn sĩ, các nhà tư bản. Những người giúp việc báo Phong Hoá là những nhà văn độc lập, mà tờ báo Phong Hoá vì thế là một tờ báo độc lập, không phải theo mệnh lệnh của một đảng nào hay một nhà tư sản nào.
Mỗi người mỗi tháng chỉ cần một số tiền đủ sống, còn tiền lãi, nếu có, sẽ là của chung và sẽ dùng vào những công cuộc chung rồi phải làm sau này " (1).
2 - Phong Hoá đả kích, hạ bệ tất cả thế hệ đàn anh
Muốn hiểu cuộc cách mạng mà báo Phong Hoá đã xô đẩy ra năm 1932, ta cần hiểu biết tình hìnhvăn học từ năm 1932 trở về trước.
Vậy từ năm 1932 trở về trước ta biết triều đình Huế là một triều đình cổ lỗ. Cả một cái nội các già nua của Nguyễn Hữu Bài, toàn là bọn hủ nho, cũng đủ cho ta thấy trình độ dân trí ra sao rồi.
Nếu văn học là bộ mặt xã hội, thì văn học thế hệ 1913-1932 mà các tạp chí, nhất là tạp chí Nam Phong giữ một vai trò vô cùng quan hệ là hình ảnh cái xã hội đồi trệ, quan liêu, kênh kiệu, khệnh khạng của triều đình Huế lúc ấy vậy. Nếu muốn hiểu xã hội Việt Nam, cần nhìn vào triều đình Huế thế nào, thì cũng vậy muốn hiểu văn học Việt Nam hồi này không gì tốt cho bằng nhìn vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn, Nam Phong là tất cả văn hoá thế hệ 1913-1932. Câu nói trên đây quả không phải là quá đáng. Bởi vì, từ 1932 trở về trước, các nhà văn của chúng ta chưa có thói quen viết sách, xuất bản sách mà chỉ có thói quen viết văn trên báo chí. Vậy Nam Phong hầu như là cơ quan ngôn luận duy nhất đã liên kết tất cả các cây bút có thế giá đương thời, đến nỗi nếu đem đốt hết Nam Phong đi, thì nền văn học thế hệ 1913-1932, có thể nói là bị bóc lột rỗng tuếch. Nói như vậy để các bạn ghi nhận thế giá và uy tín của Nam Phong nó to tát đến như thế nào. Thực vậy, trong suốt mười mấy năm trường Nam Phong hầu như giữ vai trò của một viện Hàn Lâm. Điều gì Nam Phong viết ra đều hay, văn Nam Phong viết ra là đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là được tôn trọng, luật lệ Nam Phong đặt ra mọi người tuân theo, chữ Nam Phong chế ra mọi người đều dùng... Người ta coi Nam Phong như bậc thầy.
Vậy mà năm 1932 vừa bắt đầu ra đời, tuần báo Phong Hoá đã đánh thẳng vào Nam Phong : đánh các người lãnh đạo Nam Phong, đánh ngay cả đường lối chủ trương về tư tưởng và nghệ thuật mà nhóm Nam Phong bênh vực, tức là quốc dân bênh vực có trên hai chục năm. Thực vậy, tuần báo Phong Hoá là luồng gió mới, làm xáo trộn tất cả trật tự xã hội, thổi tung những lớp bụi bặm phủ đầy trên lâu đài văn hoá cũ để lần này nó bay mù trời. Quanh những năm 32, nhiều hiện tượng văn học xảy đến báo hiệu sự thành hình của nhiều khuynh hướng mới, sự chuyển hướng sâu xa của văn đàn Việt Nam, nhất là sự trưởng thành của một thế hệ văn nghệ sĩ trẻ tuổi ý thức được trách nhiệm của mình trước lịch sử và hiên ngang đòi quyền lãnh đạo trong nước Cộng Hoà Văn Học.
Phong Hoá bắt đầu mở chiến dịch khiêu khích, hạ bệ hai lãnh tụ của hai cơ quan ngôn luận lớn nhất của thế hệ trước, lãnh tụ của Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí.
Từ bao nhiêu lâu, khắp từ Nam chí Bắc, dư luận đâu đâu cũng coi Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh là hai ông tổ của văn học thế hệ 1913-1932.Vậy mà Phong Hoá số 14, 22 Sept. 1932 đã đặt vè để chế diễu hai ông chủ bút Đông Dương và Nam Phong tạp chí.
" Phong dao mới " Nước Nam có hai người tài, Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh, Một sừ béo núng rung rinh, Một sừ lểu đểu như hình cò hương Không vốn liếng chẳng ruộng nương, Chỉ đem dư luận bán buôn làm giầu Bây giờ đang sỉa sói nhau : Người câu " lập hiến ", kẻ câu " trực quyền " -" Thưa các ngài, thực vi tiên Muốn xem chiến đấu quẳng tiền vào " đây " (10)
Chế diễu như vậy chưa lấy làm đủ, cây bút hài hước của Phong Hoá, sang số 15, ngày 27 Septembre 1932, lại có mấy dòng sau đây bằng văn xuôi không kém mỉa mai đối với Phạm Quỳnh : " Báo Phong Hoá ra buổi sớm, buổi chiều đi chơi rong phố, nghe thấy con trẻ hát :
" Nước Nam có hai người tài... " Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh " Hai câu phong dao có lọt vào tai hai ông lãnh tụ hai đảng lập hiến và trực trị, chắc hai ông tài cũng... mát dạ. " Ông Quỳnh có lẽ chưa vừa lòng. Ông có giận, xin đừng giận nguời làm thơ, nên giận cái người đặt ra điệu thơ sáu tám. Chả nhẽ lại viết, thứ nhất sừ Uỳnh, thứ hai sừ Ĩnh ".
Người ta không thể bảo báo Phong Hoá chống Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh vì hai ông này làm chính trị mà chỉ vì hai ông bị coi là hủ hoá một lũ mà thôi. Thực vậy, Phong Hoá đã chế diễu nào Hoàng Tăng Bí, nào Huỳnh Thúc Kháng, nào Nguyễn Khắc Hiếu, nào Nguyễn Trọng Thuật, nào Nguyễn văn Tố. Chẳng thế mà Phong Hoá số xuân (24 Janvier 1933), đã có bài chúc Tết " thập bát tú " do Tứ Ly (Hoàng Đạo) gửi cho 18 nhân vật :
- " Mừng cụ Hoàng Tăng Bí tăng phúc, tăng lộc, tăng thọ, tăng...bí. - " Mừng cụ Nguyễn Văn Vĩnh đầu năm học xem tử vi, cuối năm xem thầy số... - " Mừng cụ Huỳnh Thúc Kháng dùng chữ nho nhiều bằng năm bằng mười năm ngoái. - " Mừng ông Phạm Quỳnh thăng quan tiến chức. - " Mừng ông Hy Tống ra ngoài hẳn cái bị của cụ bảng Bí. - " Mừng ông Nguyễn Khắc Hiếu say bằng năm bằng mười năm ngoái. - " Mừng ông Nguyễn Trọng Thuật sinh thêm được năm bảy người An Nam mới. - " Mừng ông Dương Bá Trạc đầu năm học xong tiếng Ăng Lê, giữa năm học xong tiếng Quảng Đông, cuối năm nói truyện ông Đinh Bộ Lĩnh. - " Mừng búi tó ông Nguyễn văn Tố năm nay được vào viện Bác cổ Hà Nội. - " Mừng ông Lê văn Phúc năm nay phát tài một mình... " . . . . .
Chẳng những công kích cá nhân các cây bút đàn anh, Phong Hoá còn bơi móc cả văn của bọn họ nữa.
Đây các bạn nghe Phong Hoá diễu văn của Hoàng Tăng Bí và của Dương Bá Trạc :
" Trứng vịt khó tiêu, không biết còn cái gì khó tiêu hơn nữa không ? Hỏi thế tất ai cũng buồn sắc mặt mà đáp lại rằng : có văn của cụ Hoàng Tăng Bí.
" Nhưng văn cụ bảng tuy có bí, nhưng chưa đến nỗi bí như văn ông cử Dương Bá Trạc, tự là Tuyết Huy. Văn cụ Hoàng bí vì thế văn cụ dài lướt thướt như cái áo thụng nhưng cụ còn có tư tưởng. Đến như ông Dương Bá Trạc, văn ông giống như cái thùng sắt tây, ngoài bóng trong rỗng không có tư tưởng gì. Vì thế văn ông lại bí hơn một bực mà bí lại bí " rỗng ".
" Ngày xưa, Chu Du 3 lần hộc máu, ngẩng cổ lên giời mà than rằng : " Giời đã sinh Du sao còn sinh Lượng ?
" Độc giả báo chí nước Nam mấy lần ngủ gật cũng nên ngáp mà than rằng : " Giời đã sinh ra cụ bảng Hoàng, sao còn sinh ra ông cử Dương ? " (11)
Và đây Phong Hoá diễu cợt nhà học giả Hoàng Tăng Bí :
" Tài phát minh của cụ Hoàng Tăng Bí, Cụ Hoàng Tăng Bí mới tìm ra một thứ bệnh, cụ gọi là một bệnh chung của bạn thiếu niên ta ngày nay ! Cái bệnh ấy là cái bệnh quá yêu tây học, công kích Nho giáo, không biết rằng dân tộc Việt Nam còn đoàn tụ được đến ngày nay, xã hội Việt Nam còn giữ trật tự đến thế này đều là nhờ Nho giáo ! " Cái bệnh ấy có không, không biết, chỉ biết rằng Cụ bảng Hoàng cũng mắc bệnh, cái bệnh chỉ trông thấy cái tốt đẹp của Nho giáo. Bệnh của Cụ bảng Hoàng nghe như trầm trọng lắm, cụ nên tìm thuốc chữa đi thôi "(12).
Chẳng những diễu bọn nam nhi, Phong Hoá cũng chẳng thương đến một nữ sĩ đã từng làm cho thanh niên thiếu nữ yêu mến. Đó là nữ sĩ Tương Phố :
" Giải quán quân. " Bà Tương Phố xưa làm bài thơ " giọt lệ thu " đăng trong Nam Phong, ai cũng khen là lâm ly, ai oán, sầu thảm, thảm thiết, ảo não, và buồn rầu... " Tính ra bài văn đó có 61 chữ vừa " than ôi ", " ôi ", và " lệ ", chia ra như sau này : 29 chữ " than ôi ", 18 chữ " ôi ", 14 chữ " lệ ", Một bài độ bốn trang, mà có những 61 chừng ấy chữ, thì than ôi ! Làm gì mà chẳng đáng bi thương " (11).
Nhưng chẳng hiểu sao Phong Hoá lại có thù riêng gì với thi sĩ Tản Đà ! Trong suốt mấy tháng cuối năm 32 đầu năm 33, chẳng mấy số báo mà Phong Hoá buông tha nhà thơ sông Đà núi Tản.
Họ chế diễu báo của ông :
" Báo Annam của ông Vĩnh đã là báo " Annam mới ", thì báo " Annam " của ông Hiếu hẳn là báo " Annam cũ "... ông Vĩnh mới ít, mà ông Hiếu cũ nhiều. Nên báo ông Vĩnh phải đặt là " Annam mới và cũ " mà báo ông Hiếu là " Annam cũ cũ " hay " cũ cũ " không cho xong chuyện ! " Trong số " cũ cũ " mới đây, ông Tản Đà uống rượu, uống rượu rồi ông say, ông say " rồi thì xuất ". Ông say nên ông trót làm bài thơ cảm tình để cảm hoá Phong Hoá. " Nhưng thôi, ta hãy đợi ông tỉnh đã rồi sẽ nói chuyện " (13) " Giữ quán quân về " chết " đi " sống " lại thì là báo Annam của ông Hiếu : " 3 lần chết " 4 lần ra đời Bao giờ ông Tản Đà làm cho số chết và sống đều bằng nhau thì độc giả mới được nhờ ông lắm lắm " (11).
Họ chửi ông đủ điều, họ làm thơ hoạ vận để rêu ruốc ông. Các bạn nghe Tứ Ly (12) nói về Tản Đà và Annam tạp chí của ông :
" Hoạ nguyên vận : Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hoá Sặc sụa hơi men khó ngửi quá. Đã dạy bao lần tai chẳng nghe, Hẳn còn nhiều phen mồm bị khoá ! Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu Lưỡi ngắn thì nên co lại nhé ! Phong Hoá mà không hoá nổi anh, Tuý nhân quả thực là nan hoá ! PHONG HOÁ " An nam tạp chí ví như sao ? " An nam tạp chí ví như đỉa đói, giai lắm, sống đi chết lại đến mấy mươi lần. " An nam tạp chí giống như con vịt giời, nay ở phố Hàng Lọng, mai ở phố Hàng Bồ, nay ở Hà Nội, mai về Nam Thành, không có cơ sở nhất định, thật là vô gia cư. " An nam tạp chí ví như con sâu róm. Con sâu róm mùa thu còn là trứng ; mùa đông hoá ra sâu, mùa xuân biến ra bướùm, nhưng sau trước vẫn là con sâu róm, tai hại vô cùng. An nam tạp chí năm nay nội dung thay đổi, sang năm nội dung thay đổi, nhưng sau trước vẫn là An nam tạp chí, xem đến buồn ngủ vô cùng " (12). 3 - Phong Hoá đả kích tất cả các cơ quan ngôn luận đương thời Chẳng những Phong Hoá đả phá chế diễu cá nhân này cá nhân khác, mà còn đả phá chế diễu tất cả các cơ quan ngôn luận do các nhân vật thuộc hệ cũ chủ trương. Chẳng những Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Annam tạp chí, ra đời đã lâu, thậm chí những báo vừa mới ra đời như Văn học tạp chí, Đông Thanh tạp chí, cũng đều bị châm chọc. Đây các bạn nghe Phong Hoá phê bình Đông Thanh tạp chí :
" Trong nước Nam tưởng chỉ có một tờ báo cổ là báo Nam Phong. Dè đâu lại có báo Đông Thanh. Báo Nam Phong không định cổ mà thành ra cổ, báo Đông Thanh định tâm cổ mà cổ thật.
" Các ông bấy lâu chúi mũi tìm tòi trong khe đá nứt hay gậm tủ hôi mù quên cả sự đời. Bỗng một hồi, các ông giật nẩy mình bảo nhau : " Ấy chết, trong lúc ta đang cong lưng tìm tòi, cả quốc dân đương mong ngóng muốn biết những cái ta đã phát minh ra : nghĩ thế rồi các ông ra mở báo.
" Đầu tiên, các ông đem những con dấu cổ ra lòe bà con dốt nát, rồi các ông bàn chuyện nước Chiêm Thành, các ông lo đòi lấy lại tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây như ta đòi hai cái lục bình cổ vậy " (14).
4 - Phong Hoá đả kích lý tưởng văn hoá của thế hệ trước.
Như vậy đối với thế hệ cũ, chẳng riêng gì con người họ bị bêu xấu, cơ quan ngôn luận của họ bị chế diễu mà chính cả đường lối của họ từng được cả quốc dân ca ngợi nay cũng bị nhạo báng.
Tứ Ly, trong mục " Từ cao đến thấp ", Phong Hoá số 28 ngày 30-12-1932, còn đả kích Nho giáo nặng nề hơn :
" TÀI PHÁT MINH CỦA CỤ HOÀNG TĂNG BÍ "
" Cụ Hoàng Tăng Bí mới tìm ra một thứ bệnh, cụ gọi là một bệnh chung của bạn thiếu niên ngày nay ! Cái bệnh ấy là cái bệnh quá yêu tây học, công kích Nho giáo, không biết rằng dân tộc Việt Nam còn đoàn tụ được đến ngày nay, xã hội Việt Nam còn giữ trật tự đến thế này đều là nhờ công Nho giáo ! " Cái bệnh ấy có không, không biết, chỉ biết rằng Cụ bảng Hoàng cũng mắc bệnh chỉ trông thấy cái đẹp của Nho giáo. " Bệnh của Cụ bảng Hoàng nghe như trầm trọng lắm, cụ nên tìm thuốc chữa đi thôi ! " Cha ra cha, con ra con " Cụ bảng Bí mắc cái bệnh ấy nên nói rằng vì mấy nghìn năm chuộng Nho Giáo nên trên dưới có trật tự, cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng... cụ Hoàng Tăng Bí ra cụ Hoàng Tăng Bí ; " Ấy đấy, ý cụ bảng là nếu không có nho giáo thì cha không ra cha, con không ra con, anh không ra anh, em không ra em, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ...cụ Hoàng Tăng Bí không ra cụ Hoàng Tăng Bí. " Quái thật có lẽ cụ bảng đồ rằng bên Âu Mỹ, cha không ra cha, con không ra con, anh không ra anh, em không ra em, vợ không ra vợ, chồng không ra chồng, mà hề Charlot không ra hề Charlot " (14).
Suốt mấy chục năm, tên tuổi Phạm Quỳnh nổi tiếng như sóng cồn vì cái đạo chiết trung, điều hoà Âu Á, tức là cái triết lý vừa phần bảo toàn được quốc hồn quốc tuý vừa phần thâu thái được cái hay cái đẹp của văn minh Âu Mỹ.
Cái chủ trương ấy có lúc bị Phong Hoá nghi ngờ như ta thấy trong bài " Đạo Trung Dung của ông Quỳnh " đăng trên Phong Hoá số 16 ngày 6-10-1932.
" ĐẠO TRUNG DUNG CỦA ÔNG QUỲNH.
" Dung hợp Âu Á, lấy những cái tinh hoa của phương Tây đem hoà lẫn với những quốc hồn, quốc tuý của ta, ông Phạm Quỳnh bấy lâu kêu gào trên tạp chí Nam Phong (nói bắc phong thì đúng hơn) cái thuyết sâu xa ấy. " Cái gì hay thì ta giữ lại, cái gì dở thì ta bỏ đi. Chỉ còn một việc đeo chuông...nghĩa là việc phân biệt cái hay với cái dở. " Nghe ra khó tìm phương thi hành. Gặp việc gì khó, tây phương nói tây phương phải, đông phương nói đông phương phải, tiên sinh biết theo bên nào ? " Lúc đó chỉ còn ngồi mà đợi thời, theo chiều gió mà phất là hơn cả, thưa tiên sinh " (12).
Điều mà lúc đầu Phong Hoá nghi ngờ, thì dần dần sau này Phong Hoá phát động chiến dịch đả phá.
Nhất Linh trên Phong Hoá số 18 (20-10-32) đã kết án cái thuyết dung hợp của Phạm Quỳnh. Cái điều đáng lưu ý là, ở thế hệ trước, Phạm Quỳnh vẫn tự coi mình là tay tân học, thì, sang thế hệ mới này, cái ôngtân học Phạm Quỳnh, đối với bọn tân học Nhất Linh, đã trở thành cựu học. Nhất Linh viết về Phạm Quỳnh năm 1932 :
" Vì vậy trong bọn cựu học, có ông Phạm Quỳnh, đã xướng thuyết Trung Dung giữ lấy cái hay của Đông phương, thu lấy cái hay của Tây phương ; dung hoà hai cái văn hoá, gây dựng lấy một nền văn minh riêng, cái mộng tưởng ông Phạm Quỳnh là ở đấy. " Cái thuyết ấy, mới nghe ai ai cũng phải công nhận là hay, là nên theo, song đem ra thực hành thật là khó khăn vô cùng. Ngay đến ông Phạm Quỳnh cũng phải công nhận như vậy. Tôi, tôi lại vượt qua lên một bực nữa : cái thuyết ấy không thể thực hành được... " Theo bên nào cũng có cái hay, cái dở, chưa chắc chắn đâu là chân lý. Song cái văn minh cũ đem ra thực hành kết quả còn ở trước mắt ta, cái kết quả ấy làm cho ta bất mãn. " Ta chỉ còn hy vọng ở cái văn minh của Tây phương, cái văn minh ấy, đưa ta đến đâu, ta chưa biết, song cái vận mệnh con người ta là đi vào vô định, vô thường. Cứ thay đổi mới tiến bộ " (15).
Trong mục " Bàn Ngang ", Tứ Ly, trên Phong Hoá số 28 ra ngày 30-12-1932, còn nói mạnh bạo hơn Nhất Linh :
" Các nhà Nho còn sót lại trên cõi đất Việt, thường than thở cho luân thường, phong hoá, mà nhất là than thở cho mình muốn chấn hưng được đạo Nho kia, mong cho chúng ta ở lùi lại một trăm năm về trước. " Họ muốn cho chúng ta sống như đời Nghiêu Thuấn, còn trẻ con thì cắp sách Nho, đọc Mạnh Tử " chi hồ giả dã " vang khắp bán đảo Đông Dương, nhớn lên thì này bút, này nghiên, này lều, này chiếu, bàn chuyện thì bàn với Tam Hoàng Ngũ Đế , bàn xem Quảng Trọng đã mấy lần tù... " Những điều hay ho ấy, thật chúng ta không xứng đáng theo. Chúng ta không thể sống như đời cổ được, vì chúng ta đã chịu ảnh hưởng một trang lịch sử vừa qua mà các nhà nho kia muốn xoá bỏ đi. Chúng ta nghĩ khác xưa, xét đoán cũng khác xưa rồi ! Chúng ta không thể tin rằng người Thái Tây chân chỉ có một ống, ngã là không dậy được, đèn phải có bấc, dốc xuống không cháy được, súng thần công phải là ông súng, có tàn có tán, sốt thì đổ mồ hôi, ốm thì đổ thuốc vào cho uống. " Thật là không may cho chúng ta...mà rất buồn cho mấy nhà nho hủ " (16).
5 - Chương trình cải cách của Tự Lực Văn Đoàn Có điều các bạn cần ghi nhận là những cái mà Phong Hoá đánh đấm chẳng phải đánh đấm vu vơ đâu. Nó nằm trong chủ trương , đường lối của cả nhóm.
Một cái bản tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn đủ nói lên điều nhận định của tôi. Bản tuyên ngôn này tuy ra đời đầu năm 1934 mà thực nội dung của nó đã tản mát hầu khắp mọi trang báo Phong Hoá ngay từ số 14 là số Nguyễn Tường Tam đứng ra điều khiển tờ báo này. Đây các bạn hãy nghe bản tuyên ngôn đó :
" TUYÊN NGÔN CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN.
" Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng chí trong văn giới, người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong công cuộc có tính cách văn chương. " Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu. " Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo, gửi đến Văn Đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Văn Đoàn và sẽ tuỳ sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách. " Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Văn Đoàn.
" TÔN CHỈ CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN " 1.- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi : mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước. " 2.- Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn lên. " 3.- Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. " 4.- Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách Annam. " 5.- Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. " 6.- Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân, không có tính cách trưởng giả quí phái. " 7.- Trọng tự do cá nhân. " 8.- Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa " 9.- Đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương Annam. " 10.- Theo một điều trong chín điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác "(17).
Chín mục tiêu tranh đấu và đòi hỏi trên đây của Tự Lực Văn Đoàn chẳng có điều nào có thể dung hoà được với chủ trương điều hoà của thế hệ trước.
Điều tai ác đáng chú ý hơn hết là Tự Lực Văn Đoàn coi việc đả phá, đàn áp, tiêu diệt Nho giáo như là một trong chín tôn chỉ mà tất cả mọi người trong Văn đoàn hầu như phải uống máu ăn thề với nhau để mà triệt để thi hành. Có nhiều nhà văn, nhiều tổ chức đôi khi cũng lên tiếng đả kích Nho giáo rất kịch liệt, phũ phàng ; nhưng chưa có ai coi việc đàn áp Nho giáo là tôn chỉ cả. Tất cả cái khác, cái mới quyết liệt, cái mới phũ phàng của Tự Lực Văn Đoàn là ở chỗ ấy. Điều khoản thứ tám Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn ghi là : " Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa ".
Nhưng quyết liệt nhất, đồng thời cũng cảm động nhất là bài bên " Bên đường dừng bước " của Tứ Ly viết ngày 20-9-1935 để kỷ niệm báo ra đời được chẵn ba năm. Sự tàn bạo, phũ phàng đối với Nho giáo được bộc lộ một cách rất cảm động :
" Cách đây ba năm, một đêm thu giá lạnh, tôi và Nhất Linh từ biệt Khái Hưng ở báo quán, nện gót trên đường vắng mà về. Lúc đó vào khoảng hai giờ sáng. Da trời sám nhạt, điểm mấy ngôi sao thưa, trên rặng cây đen sẫm, chuôi Bắc Đẩu đã nằm ngang trời. Dưới ánh vàng của đèn điện, thành phố Hà Nội ngủ yên lặng : thỉnh thoảng chỉ nghe thấy tiếng rao của hàng bán rong như ở một thế giới xa xăm khác đưa lại. Trong khoảng đêm dài tịch mịch đương lúc gió heo may thổi lá khô sào sạc, chúng tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng vui vẻ...Sáng hôm ấy, số đầu (tức là số 14) báo Phong Hoá ra đời.
" Nhắc lại đêm hôm ấy, tôi sinh ra một tư tưởng so sánh cái đêm trường tối tăm kia là cái đời cũ, chặt chẽ, phiền nhiễu, vụn vặt, nhỏ nhen. Sống trong cái hoàn cảnh ủ rũ ấy, ta phải mạnh mẽ chống cự lại, để đợi vừng đông, đợi cái đời mới, phong quang rạng rỡ.
" Đã biết chân lý ở đâu lẽ tự nhiên là phải quả quyết bồng bột mà theo. Vì lẽ ấy, chúng tôi mạnh bạo, hăng hái đem văn chương phụng sự cải cách : phá huỷ những hủ tục đồi phong, xây đắp một cuộc đời hợp lẽ phải, bỏ thành kiến, trí phục tòng, lấy lương tri mà xét đoán mọi sự...Cái tinh thần vị tha bao giờ cũng soi lối cho chúng tôi đi.
" Tuy sẵn có chương trình phân minh, có phương pháp hẳn hoi, mà Phong Hoá lúc ra đời không có lấy một bài phi lộ. Là vì chúng tôi e nói ra không làm được. Chúng tôi sợ chương trình của chúng tôi cũng đến như chương trình của các ông nghị, có cũng như không vậy.
" Ba năm qua...những ý tưởng, những hoài vọng, chúng tôi lần lượt phô bầy trên tờ báo, được các bạn độc giả một ngày một hoan nghênh, khiến chúng tôi nức lòng hởi dạ, càng dốc lòng đi tìm chân lý với các bạn.
" Ba năm qua...sự đổi thay của phong tục, lễ nghi, tuy chưa rõ rệt, nhưng sự thay đổi của linh hồn dân ta đã ngấm ngầm, từ tốn mà tiến hành không có sức mạnh nào ngăn cản lại được nữa. Những lý tưởng, những quan niệm cũ dần dần mất vẻ uy nghi, lẫm liệt, tất rồi cũng phải theo thời gian mà phá tan, nhường chỗ cho những quan niệm, những lý tưởng mới. Linh hồn người ta đã thay đổi, tất hoàn cảnh không chóng thì chầy cũng phải đổi thay. Thay đổi hoàn cảnh, đó là mục đích của chúng tôi vậy.
" Chúng tôi muốn tiêu diệt đời cũ. Nó sẽbị tiêu diệt. Then chốt của nó là cái đạo tống nho. Vì thế mà chúng tôi đã mạnh bạo bài bác cái đạo không hợp thời ấy.
" Có người chê chúng tôi rằng không phô bầy những cái hay của nho giáo. Họ không biết cho rằng chúng tôi không đứng về phương diện của nhà triết học : về phương diện này, nho giáo cũng như tôn giáo khác, không hơn không kém. Đối với nhà triết học, văn hoá đông phương với văn hoá tây phương đều có thể cho là hay cả. Nhưng chúng tôi chỉ muốn làm một nhà cải cách. Nguyên lý của đạo nho, chúng tôi không bàn đến, chúng tôi chỉ nhận ra rằng trong trường thực tế nó đã đưa xã hội ta vào vòng ngừng trệ, tù hãm, kể gì một vài người có trí hướng cao thượng, nếu vì đạo ấy mà phần đông dân ta dầy xéo nhau trong sự nhỏ nhen.
" Cuộc đời cũ mất, sẽ có người thương tiếc ngẩn ngơ. Nhưng tiến bộ tức là biến cải không cùng, ta không thể, trong lúc thế giới đổi thay, sinh sống mãi trong cuộc đời cũ kỹ từ ngàn năm xưa.
" Ba năm qua...Báo chí trong khoảng thời gian ấy cũng tiến bộ một cách mau chóng. Những bài phóng sự, những truyện dài có giá trị thấy dần dần xuất hiện. Báo chí khác trước, ân cần với độc giả tìm cách bênh vực kẻ cô yếu, bài bác những sự bất công...tìm phương pháp, cải cách xã hội một cách sốt sắng hoạt động.
" Ba năm qua...Hôm nay tạm dừng chân đứng lại, chúng tôi nhìn con đường đã đi ; chúng tôi ra báo ngày 22-9 năm 1932, là một ngày rất xấu : ngày tứ ly. Không phải là một sự vô tình : chính là định ý cưỡng lại cái thuyết số mệnh nó bắt dân ta nằm dí một nơi, đương lúc mọi người cùng tiến. Ngày tứ ly, trong ba năm, không thấy reo hoạ gì cho chúng tôi. Công việc chúng tôi làm, các bạn đã rõ. Công cuộc chúng tôi sẽ làm, xin đợi lúc có kết quả, chúng tôi sẽ bàn đến. Dầu sao, ký vãng của chúng tôi, xin đem ra bảo đảm cho tương lai "(18).
VIII - Lý do thứ tám : sự xuất hiện của nhiều cuộc bút chiến Cũng trong thời kỳ này, xẩy ra nhiều cuộc bút chiến gay go giữa nhiều học giả. Phan Khôi có thể coi là một tay chiến sĩ đáng sợ đã khua động cái bình lặng tù hãm của Văn Đàn Việt Nam. Ông gây hấn với Trần Trọng Kim và Phạm Quỳnh : với ông trên, Phan Khôi công kích bộ Nho giáo ; với ông dưới, Phan Khôi hăng hái cảnh cáo cái tính cách học phiệt, gây nên cái mà người ta gọi là " vụ án các nhà học phiệt ". Cùng một đà ấy, từ năm 31, mở ra ở Phụ nữ Tân văn, mục " Vai ngự sử Văn Đàn ", với mục đích đàn hoặc các nhà văn mới tập sự. Ngoài các việc trên đây, chúng ta còn phải ghi nhận mấy biến cố chứng minh sự xoay chiều của nền văn học mới.
IX - Lý do thứ chín : sự xuất hiện những tiểu thuyết theo lối mới
Chúng ta phải kể đến một số tiểu thuyết hay phóng sự ra đời năm 32 này. Trên các tạp chí, từ năm 32, ta thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn của Nhất Linh, của Khái Hưng, của Lan Khai, của Thế Lữ, mà chiều hướng chúng ta thấy khác hẳn với các truyện của Nguyễn Bá Học, của Tương Phố...
Nhưng điều đáng chú ý là sự ra đời của mấy truyện như Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Tôi kéo xe của Tam Lang. Từ cách xây dựng truyện đến cách đặt vấn đề, cách mô tả tâm lý các vai truyện mà nhất là lời văn dễ dãi, linh động, ba tác giả này như vạch ra một đường rạch lớn phân đôi hai thế hệ trước (13-32) và thế hệ sau (32-45).
X - Lý do thứ mười : sự xuất hiện thơ mới
Nhưng biến cố đã gây xúc động hơn hết là sự xuất hiện bài " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ " (Phụ nữ Tân văn số 122 ra ngày 10-3-1932)
Trong bài này, sau khi công kích và kết án thơ cũ một cách nặng nề, Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới. Đây các bạn nghe bài " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ ".
" Mới đây, tôi có gặp ông Phạm Quỳnh ở Saigon, trong khi nói chuyện ông nhắc đến mấy bài Trúc chi Từ của tôi đã làm trên sông Hương khi gặp người bạn cũ là ông Nguyễn Bá Trác ở ngoại quốc mới về ; ông Phạm tỏ ý khen mấy bài đó và nói chính mình đã dịch nó ra tiếng Pháp. Sau hết ông khuyên tôi nên giữ cái thái độ ngâm thơ như hồi đó thì hơn.
" Lời khuyên của ông Phạm đó, dầu là nói giỡn đi chăng nữa, đối với tôi cũng phải nhìn là có ý nghĩa. Nhưng sau khi nghe lời ấy,tôi chỉ có thể gật đầu mà làm thinh không dám vội vàng tỏ ra mình đã vui lòng lãnh giáo. Vì con người ta mà muốn thay đổi cách sinh hoạt về tinh thần lại còn khó hơn Chánh phủ thay đổi chế độ giáo dục hay chế độ nấu rượu nữa không phải việc chơi đâu mà hấp tấp.
" Duy vì có nghe lời đó mà tôi nhớ sực lại sự làm thơ. Thật, cái động cơ khiến viết bài này là chính ở mấy lời của ông vậy.
" Ông Phạm bảo tôi nên lấy cái thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay đã đổi cái thái độ ấy đi nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Mà quả thế, gần mười năm nay tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.
" Trước kia tôi dầu không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm, tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải là nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có.
" Xin thú thực với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được !
" Vậy thì hiện nay, đừng nói tôi không chịu nhận lời khuyên của ông Phạm, dầu cho tôi nhận đi nữa, mà tôi không còn làm thơ được, thì ông mới xử trí cho tôi làm sao. Đó chính là cái vấn đề ở đó rồi.
" Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi lại lúng túng. Thơ chữ Hán ư ? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư ? Thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh lẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật là dễ tức.
" Duy Tân đi ! Cải lương đi !
(Bị bỏ một đoạn dài)
" Đại phàm thơ là để tả cảnh tự tình mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quí cho Chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra theo lối thất cổ,...cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái Chơn đi, không mất hết cũng mất già nửa phần.
" Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay nó ở đâu...
" Bởi vậy, tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là : đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như :
TÌNH GIÀ Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở ! " Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng ; " Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau " " Hay ! Nói mới bạc làm sao chớ ! Buông nhau làm sao cho nỡ ! " Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy. " Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung ? Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau ; Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi ! Con mắt còn có đuôi " Đó là bài thơ tôi làm trước đây mấy tháng mà tôi kêu là một lối thơ mới đó. Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới : mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ. Chẳng phải tôi người thứ nhất làm ra việc này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng có một vị thanh niên làm việc ấy mà thất bại... : Tôi dại gì lại đi theo dấu xe đã úp, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí, đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người sẽ làm như tôi mà thành công. " (19) Phan Khôi đã nói hai lời tiên tri : tiên tri thứ nhứt ông bảo ông sẽ thất bại, lời thứ hai ông bảo người sau ông sẽ thành công. Hai lời đó đều đã ứng nghiệm.
Bài thơ đó thực quả là trái bom ném vào thành trì của thơ cũ. Người ta nhao lên khắp nơi : người công kích không ít mà kẻ tán thành ông cũng không thiếu. Người đầu tiên hưởng ứng Phan Khôi là Lưu Trọng Lư...Ông này viết thư ngỏ ủng hộ Phan Khôi và làm thơ bắt chước Phan Khôi. Bức thư của Lưu Trọng Lư ký tên cô Liên Hương còn mấy bài thơ thì ký tên Lưu Trọng Lư. Sau đây là lời lẽ Lưu Trọng Lư, bộc lộ với Phan Khôi về thơ mới .
" Phan tiên sinh :
" Cách đây đã lâu, Tiên sinh có đưa trình chánh giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài ấy rồi tôi cứ đợi mãi mà sau tiên sinh không thấy ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng không buồn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái " của mới " ấy có lẽ chưa thích hợp với đời nay. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy. Mà hẳn tiên sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng : " Thôi, không ai ưa thì ta xấp lại nữa, đợi khi khác ta lại mang ra ". Thưa tiên sinh đợi khi khác, khi nào nữa ? Thi ca ta ngày nay đương lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một chút sinh khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi còn chi là tánh mạng của thi ca. Đừng có nói lắt láy như vậy tiên sinh ạ ! Nếu tiên sinh cứ giữ mãi cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân " rỗng tuếch " kia còn cứ ca đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi nhân chân chính.
" Hẳn tiên sinh cũng đủ hiểu rằng, những bậc chân thi nhân không bao giờ chịu đứng trong cái " lãnh thổ " hẹp hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất trên những nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
" Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung động (vibrer) trong mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho những cái niêm luật khắc khổ, làm dẹp mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người ta thường khen Anatole France tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách của thi nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế, phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ nhàng, hể hả.
" Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp, như hiện tình thi ca nước nhà thì họ phải thất vọng biết dường nào !
Vậy ta ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái " Lãnh thổ " kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng : " Phóng túng buông lung quá rồi thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn.
" Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường.
" Cái lối thơ mới của chúng ta đương ở vào cái thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi được đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ ! Đó là sự bí mật của lịch sử văn hoá mai sau ! Dầu thế nào đi nữa, nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do phát triển của thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân, dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công lớn : nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đương triền miên trong cõi chết.
" Trong lúc ban đầu mà đã vội mong ước có những tay " thầy thợ " chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng trái lại nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối " thơ mới " kia, tưởng e cũng đắc tội với tiền đồ văn học của nước nhà lắm vậy " (20) Cô LIÊN HƯƠNG - Fai-Foo
Đủng đỉnh một con thuyền, Trăng lên đầu ngọn núi Đối cảnh với người yêu, Cầm tay tôi gạn hỏi : " Mộng Vân ơi ! vũ trụ ngó bao la Nên cười hay nên tủi ?... Lẳng lặng tự Hằng Nga, Vân nhìn tôi chẳng nói LƯU TRỌNG LƯ ***
Trên bãi biển Giấc mộng tình Thừa lương khách đã vắng ; Trời nước mênh mông, duy còn có bốn mắt nhìn nhau lặng. Trên cát vô tình, vạch chữ : Vân Ta vạch vừa xong sóng xoá dần... Mỉm cười Vân sẽ nói : " Người yêu Vân hỡi ! Sao người lại quá điên, Thân này cũng diệt, nữa là tên ? " Hẳn tưởng nghìn thu, nhờ bãi cát, Tan tác, nào hay, vì sóng bạc Cuộc trăm năm đừng có đa mang, Tình nhân chung kiếp dạ tràng LƯU TRỌNG LƯ
LẠI NHỚ VÂN
Hôm nay dạ lại bần thần, Nhìn đám mây chiều lại nhớ Vân Này mây hỡi ! Mây chiều hỡi ! Đứng lại đây chờ ta với Theo lối chim xanh, Rẽ lối trời tình Cậy cùng dì gió, Tìm nơi Vân ở, Chờ lúc nàng tựa song thưa Ngang trời ta đổ trận mưa Trong cánh song, nàng ngồi ủ dột, Trên lầu tiên, mưa kêu thánh thót, Kêu rằng : " Vân nương hỡi Vân nương Mưa nay, là lệ người thương " LƯU TRỌNG LƯ
VÌ SƯƠNG THU ĐỔ
Thế giới bên mình tuý luý say, Một nàng năn nỉ với gốc cây Lận đận vừng trên còn vừng bạc, Ôi ! cái đẹp nghìn thu, huống gì ai thắc mắc ; Lặng yên nàng đếm giọt sương gieo, Cùng với sương thu lệ nhỏ theo... Nương bóng nguyệt rẽ lau tìm tới Tới tận nàng, cầm tay tôi hỏi -Lệ hỡi lệ, vì ai tôi sụt sùi, Vân hỡi Vân vì ai Vân ngậm ngùi, Nếu phải vì ta mà thổn thức Ta sẽ vì Vân lau hạt ngọc, -Ô hay ! sao buộc lấy mình, Em buồn há chỉ vì anh, Này anh hỡi, kề tai em gạn hỏi : Hồ lệ đây, vì sương thu đổ " (20)
Từ đấy phong trào bùng nổ : hai phái thơ cũ, thơ mới gây chiến sôi nổi kéo dài mấy năm trường nào bằng bút chiến, nào bằng khẩu chiến.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:20:34 GMT 9
Đặc tính chung thế hệ 1932 (Tiep Theo) XI - Lý do thứ mười một : sự xuất hiện một thế hệ mới Như vậy các bạn thấy các biến cố văn học trên đây là những hồi chuông cáo tri bế mạc một thế hệ và tuyên cáo khai mạc một thế hệ mới. Hay nói cách khác, nó là một đạo chỉ dụ tuyên bố cho về hưu " một nội các già " và công bố danh sách " một nội các mới " theo kiểu nội các của vua Bảo Đại. Quả thế, cho dù có tài đến đâu, có huân nghiệp đến thế nào, các ông Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách, Tương Phố, Tản Đà, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Vĩnh...cũng là những ông thượng thư lỗi thời trong cái nước Tân Cộng Hoà Văn Học mà phái trẻ vừa thành lập. Bởi vậy, những tay đàn anh đã từng làm ra luật, ngự trị một cách oai hùng trong thế hệ trước (1913-1932), theo nhau mà rút lui, vào hậu trường : Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, Phạm Duy Tốn, đều đã thành người thiên cổ trước năm 1925. Đến những tay cự phách như Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Tuấn Khải, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tiến, nhất là Phạm Quỳnh tuy còn sống quàng sang thế hệ 32-45, nhưng hầu như thôi hoạt động, hay mất ảnh hưởng, thế giá, trước sức đi lên của một số nhà văn mới. Bước vào " chánh trường văn học ", bọn này nắm ngay được ưu thế, được quốc dân hoan hô nhiệt liệt. Họ có đủ mọi điều kiện để thắng thế và thiết lập uy lực : trên, họ dựa vào thế nhà nước, nhất là dựa vào thế nhà vua trẻ mà người dân Việt Nam hãy còn yêu mến một phần nào, bởi vì vua Bảo Đại như ta thấy, tỏ ra rất ham cải cách, bỏ các thói tục cổ hủ như tục lạy lục. Lần đầu tiên, một nhà vua Việt Nam đã dám du tuần khắp nước một cách bình dị như vua Bảo Đại. Cũng lần đầu tiên, một vua Việt Nam lấy có một vợ mà người vợ ấy vừa là con gái bình dân, vừa là người Công giáo, một tôn giáo dầu sao vẫn chưa được triều đình, nhất là hoàng tộc ưa thích. Vua Bảo Đại đã hành động theo sở thích chứ không hành động theo lễ giáo, hay tập tục cũ, dưới sự thúc bách của Hoàng tộc.
Đi trước cả Khái Hưng, Nhất Linh trong Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Đoạn Tuyệt, Bảo Đại đã tranh đấu thành công cho việc tự do kết hôn, cho chế độ độc thê, mà nhất là trong việc đánh thẳng vào chế độ đại gia đình. Bảo Đại đã chủ trương tự do cá nhân ttước cả Tự Lực Văn Đoàn.
Ngoài những điều kiện chánh trị, các nhà văn thế hệ 32 còn mới một cách hầu như cưỡng bách ở chỗ nếu họ không phải là cánh du học từ bên Pháp trở về như vua Bảo Đại, như Nhất Linh, thì cũng là người xuất thân từ những trường Pháp - Việt mở ra ở trong nước, hay từ trường Đại học Hà Nội thành lập đã có trên dưới mười năm rồi. Món ăn tinh thần của lớp nhà văn này là sách vở Pháp ra đời sau kỳ đại chiến thứ nhất. Thế chiến thứ nhất kết liễu đã đẩy một khúc quặt quan hệ cho lịch sử tư tưởng và nghệ thuật của Pháp : tâm lý chung của các nhà văn hậu chiến thứ nhất là lòng hoài nghi mọi giá trị cổ truyền, mọi nền nếp xã hội, mọi chế độ chính trị : ý hướng của họ là muốn đặt lại mọi vấn đề, là làm lại con người đã muốn sống như con vật. Cái ý hướng khôi phục lại con người ấy của các nhà văn Pháp, ta gặp thấy tiếng vang ở Thiếu Sơn, tác giả Đời sống tinh thần. Mở đầu cho cuốn sách của ông, Thiếu Sơn viết : " Người mà tôi thương tiếc hơn hết là ông Gaston Rageot. Chẳng phải ông là ngôi sao Bắc đẩu ở trên văn đàn Pháp quốc, nhưng vì ông là một danh sĩ hiện đại mà tôi đã hiểu biết và kính yêu. Trước đây tôi đã được đọc một câu văn như sau này :
" Chúng ta đã hết sống theo người, chúng ta phải trở lại với cái cốt cách nhân loại (Nous avons cessé de vivre humainement. Il faut retourner à la condition humaine). Tôi dịch chưa hết nghĩa. Tôi phải giải nghĩa thêm : thế nào là hết biết sống theo người ?
" Bởi hoàn cảnh và thời đại đã làm tan nát cái linh hồn cố hữu của chúng ta.
" Cái linh hồn đó nguyên nó phong phú, nó linh động, nhưng nó đã bị đầu độc bởi những tư tưởng về chính trị, bị mê muội bởi các tổ chức của xã hội mà thành ra tầm thường, phức tạp, cằn cỗi, nghèo nàn "(21).
Cũng như trong các nước chính trị quân chủ, vua Bảo Đại quả quyết canh tân thế nào, thì ở trong cái nước Cộng Hoà Văn Học, chương trình của các cấp lãnh đạo là theo mới hoàn toàn như vậy.
Cái thứ tôn giáo chiết trung � ý chí điều hoà Đông phương và Tây phương � mà thế hệ 1913 đã từng ôm ấp một cách say sưa, ngày nay đột nhiên bị đả phá và mất hết " thiện nam tín nữ ". Chương trình của thế hệ mới là phá vỡ tất cả để làm lại tất cả từ đầu : nó gây nên giữa xã hội Việt Nam những rung chuyển sâu xa trầm trọng, mở đường cho sự thành hình những thứ tâm lý mới, những đường lối suy tư mới, cảm xúc mới, lối viết mới...
Những tay chỉ đạo của phong trào mới hầu hết là những tay tân học, xuất thân từ các trường Pháp và du học ngoại quốc về. Họ bắt đầu hoạt động từ một vài năm trước và có tác phẩm xuất bản từ năm 32.
Sự va chạm với Tây phương đã làm thay hẳn những sở thích và tâm tình họ. Hầu hết họ đều không còn chút lòng kính trọng nào đối với nền cựu học mà thường họ ít hiểu biết. Cái đặc điểm của thế hệ 1913 là nó gồm hầu toàn các nhà học giả, các nhà tư tưởng, những người chuyên chú về lý thuyết : hoạt động của họ vì thế thường là công việc dịch thuật hay khảo luận. Họ tự nhận là " Những người thợ " muốn góp công, góp sức vào công việc xây dựng cơ sở cho chữ quốc ngữ mà họ nhận thấy còn nghèo túng cần phải làm cho mỗi ngày một phong phú thêm.
Thế hệ mới, ngược lại, gồm toàn những người muốn tự xưng là " nghệ sĩ " mà lý tưởng là sáng tạo ra những sự nghiệp có bản sắc và hùng mạnh. Bản tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn đã đặc biệt chú ý đến điểm này.
Cái họ thắc mắc từ đây là " nghệ thuật ", là " cái đẹp ". Họ không còn quan tâm lắm đến đạo đức luân lý như thế hệ trước. Thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật " hầu được toàn thể văn nghệ sĩ ủng hộ. Họ đòi cho nghệ sĩ sự tự do hoàn toàn, nhất là trong việc cởi mở tâm hồn đến chỗ trần truồng. Tất cả họ đều gặp nhau ở chỗ này : đánh dấu cuộc đời bằng một nếp sống lệch lạc, bừa bãi, yếu đuối. Họ muốn chính sự lệch lạc, bừa bãi, yếu đuối ấy sẽ phá tan những điều mà họ dự tính, sẽ đánh lừa những cái họ mong đợi và trùm lên số mệnh của họ vết tích của sự dở dang, sự thất bại. Đàn bà, từ đây, là món sở thích thường ngày và yêu mến của văn nghệ sĩ. Họ tin tưởng có thể có sự điều hoà trong chính những cái tương phản đối lập nhau hoàn toàn : một bên là những bùn dơ nhớp của cuộc sống mà nghệ sĩ đang sống, bên kia là vàng thập của cuộc đời đã được thi vị hoá. Nghệ sĩ, bởi vậy, tin tưởng rằng tác phẩm văn chương phải là kết tinh do chính những mâu thuẩn bi đát thảm hại ấy, nghĩa là do những bước tiến, bước thoái cũng như do những cố gắng của con người vươn tới, nhân đức hay trườn xuống truỵ lạc. Họ luôn luôn muốn " dấy loạn", muốn " rựt đứt" mọi ước lệ để đòi tự do phóng đãng hoàn toàn và hưởng thụ tất cả với một sức cuồng nhiệt vượt bực.
Sức hoạt động chính vừa có tính cách bao la vừa có tính cách sâu rộng của văn nghệ sĩ thế hệ mới là một hoạt động thiên về tâm lý mà mục đích là để giải phóng cho tinh thần : khuyến khích văn nghệ sĩ tìm ra những nhẫn giới mới, thôi thúc họ đem đặt những giá trị nghệ thuật lên trên đỉnh chót mọi hoạt động của con người.
Trước kia, văn gia thường là những nhà bác học, những tay bách khoa, muốn làm hết mọi công việc. Chẳng hạn như Phạm Quỳnh, ta thấy ông vừa là nhà báo, vừa là nhà dịch giả, vừa là nhà khảo luận, vừa là sử gia, vừa là triết gia, vừa là nhà phê bình, vừa là nhà tự điển...
Nhưng từ nay, văn nghệ sĩ có khuynh hướng đi đến chuyên môn và họp thành trường, thành phái mà lý tưởng và chương trình khác biệt nhau hay đối lập nhau.
Đàng khác, những thể văn như báo, dịch, biên khảo v.v...trước kia giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, hầu choán tất cả mọi hoạt động văn học, từ nay rơi xuống hàng dưới.
Ngược lại, những thể văn mới như phê bình, kịch nghệ, tiểu thuyết, thơ ca, sẽ giữ một địa vị cực kỳ quan trọng.
Chúng ta chọn năm 32, để làm khởi điểm cho thế hệ mới mà chúng ta muốn nó sẽ bế mạc vào khoảng tháng 8 năm 45, bởi năm 32 và năm 45, là hai " lúc lịch sử " vô cùng quyết liệt. Năm 32 xoay chiều cho một luồng xúc cảm và suy tư rồi đây sẽ kéo dài cho đến ngày Đảo chánh vào tháng 8 dương lịch năm 45. Thực vậy, dầu sau này, Việt Minh vì theo chủ nghĩa cộng sản đã làm lòng người ly tán, nhưng lúc buổi đầu, họ đã gây được hẳn một phong trào mạnh mẽ, hay nói cách khác, cuộc Đảo chánh vào mùa thu năm 45 đã xoay chiều hẳn lịch sử Việt Nam, công nhiên trả lại cho quốc dân quyền tự do mà thực dân Pháp đã chà đạp lên trong ngót 80 năm. Chính phủ Trần Trọng Kim đã nhờ vào thế lực của Nhật, lật được ách thống trị của Pháp để tuyên bố độc lập, nhưng nền độc lập của chánh thể Trần Trọng Kim không được ai để ý, thậm chí có người không biết đến. Phần vì chiến tranh còn đang kéo dài, phần vì sức uy hiếp của quân Nhật quá mạnh, phần vì nạn đói hoành hành làm chết mấy triệu người. Chứ ngày mà Chánh phủ lâm thời ra mắt quốc dân ở Hà Nội, công nhiên xé hiệp ước đã ký với Pháp và hạ bệ chế độ quân chủ thì không ai là không náo nức tham dự. Toàn là những biến cố trọng đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Chính bởi thế chúng ta chọn năm 45 là năm bế mạc cho thế hệ mà chúng ta khảo sát năm nay bởi vì hình thức và nội dung văn học từ sau 1945 đã biến đổi hẳn. Thế hệ 32-45 là một thế hệ văn học phồn thịnh và phong phú nhất trong suốt cả hai ngàn năm lịch sử.
Sau tất cả những phân tích trên đây, chúng ta có thể đi tới những nhận định cụ thể sau đây : A - CÁC HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC VỨA BẾ MẠC Điều nhận định thứ nhất là ta trông thấy rõ một bức màn vừa buông xuống, một thế hệ vừa rút lui, nhiều hiện tượng văn học vừa bế mạc.
a)- Đường lối suy tư
Trước hết, về mặt tư tưởng, tức đường lối suy tư, ta thấy chấm dứt cái chủ trương từng được đặt lên hàng đầu cho tất cả mọi hoạt động chẳng kỳ là chính trị, văn hoá hay nghệ thuật : đó là chủ trương hoà hoãn, thoả hiệp, điều hoà. Cái chủ trương Pháp � Việt đề huề trong chánh trị không còn nữa. Cái chủ trương văn hoá muốn tham bác cả Đông lẫn Tây bị đả kích. Cái lý tưởng bắt nghệ thuật phục vụ cho luân lý đạo đức bị đả phá.
b)- Về mặt tâm tình :
Cái thái độ nhu nhơ, nước đôi, nửa chừng bị coi là hủ hoá, lỗi thời.
c)- Về chữ viết :
Các văn thể như phiên dịch, biên khảo nếu không biến mất, thì cũng bị gạt xuống hàng hai.
- Câu văn biền ngẫu, nhịp nhàng, dài lượt thượt từng đợt bốn, năm chữ biến mất.
B - CÁC HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC MỚI KHAI MẠC. Đồng thời với sự mất đi một số hiện tượng văn học, thì lại xuất hiện ào ạt không biết bao nhiêu hiện tượng mới.
a)-Lối suy nghĩ
Thế hệ mới, phần nhiều trẻ, tây học hoàn toàn đã có lối nghĩ mới hẳn, nghĩ theo tây phương. Những từ ngữ như " đoạn tuyệt", " thoát ly"...không phải chỉ là đề tài của một vài bộ tiểu thuyết mà còn là chủ trương đường lối của thế hệ mới. Thế hệ trẻ đòi đoạn tuyệt với Đông Phương, quyết thoát ly khỏi nho giáo, cương quyết giải phóng nghệ thuật khỏi luân lý đạo đức.
b)-Lối cảm xúc :
Từ lối suy nghĩ với lập trường dứt khoát, con người cũng có lối cảm xúc bộc lộ : cái lối cảm xúc nặng tình cá nhân manh nha từ thời trước, nhưng còn bị gò bó dồn ép, đến thời kỳ này, được tràn lan như nước vỡ bờ. Tất cả những gì kín đáo nhất của lòng người được phơi bày ra cho hết.
c)- Nghệ thuật :
Để phản ứng lại cái sính làm thơ, viết văn vần của mấy trăm năm văn học, học giả thế hệ trước có thái độ miệt thị văn vần và đề cao quá mức văn xuôi.
Đối với thế hệ trẻ, văn xuôi, văn vần không thành vấn đề. Vấn đề thực đáng chú ý là nghệ thuật. Với nhà nghệ sĩ có tài, văn vần hay xuôi không bao giờ làm ngăn cản công trình sáng tác. Và đối với hạng vô tài, thì dù có viết văn xuôi đi nữa, cũng chẳng bao giờ làm nên được cái gì đáng giá. Đây là mấy điểm đáng chú ý của thời đại mới.
- Các văn thể như thơ, kịch, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút... tức là các loại sáng tác đi vào con đường cực thịnh...
- Các nhà văn họp thành môn phái có lập trường và chương trình riêng.
- Lời văn uyển chuyển muôn mặt, có văn vần, có văn xuôi ; văn có câu dài như văn của Thái Phi, có câu ngắn cụt ngủn như văn của Hoàng Tích Chu. Nhưng dù dài hay ngắn câu văn bao giờ cũng sáng sủa, và không bao giờ đặt theo lối biền ngẫu như văn của Tản Đà, Tương Phố, hay Hoàng Ngọc Phách ở thời trước.
Sau khi trình bày các lý do khiến tôi chọn năm 32 làm năm khởi đầu cho một thế hệ mới, tôi sẽ đi vào thế hệ này để ghi nhận một vài nét chính trước khi đi vào chi tiết trong việc khảo sát các sinh hoạt văn học.
Là một cuộc sống như mọi cuộc sống, sinh hoạt văn học thế hệ 32-45 cũng có một diễn trình biến hoá.
Vậy mười ba năm văn học, chúng ta đã nói là nó tham dự vào một gia tài chung, nghĩa là nó có những lối suy nghĩ cảm xúc và viết văn chung. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà nhiệt độ bắt buộc lúc nào cũng như lúc nào.
Mà thực diễn hình nhiệt độ của thế hệ này có thể chia làm ba giai đoạn : giai đoạn thứ nhất kể từ 32 đến 37, là thời kỳ mở chiến dịch ; giai đoạn hai từ 37 đến 42, là thời kỳ tổng phản công ; giai đoạn thứ ba kể từ 42 đến 45 là thời kỳ càn quét.
Ở giai đoạn thứ nhất năm 32-37, sự tranh đấu, dầu có hăng hái, nhưng tương đối hãy còn do dự, cầm chừng, và chỉ mới dàn trận trên một số bình diện, như thi ca mà nhất là tiểu thuyết. Mục tiêu của các chiến dịch đặt trọng tâm vào chế độ đại gia đình : người ta muốn đập vỡ chế độ đại gia đình để giải thoát cho cá nhân.
Giai đoạn hai từ năm 37 đến 42, là thời kỳ quyết liệt, chiến tranh có tính cách toàn diện : người ta muốn đánh thẳng vào chế độ cũ, muốn tận diệt Nho giáo và qui cho nền văn minh Á đông thoái trào tất cả tội ác của xã hội, tất cả xấu xa đang dâng lên làm ngập lụt, chìm đắm con người. Khí giới để phản công vẫn là thi ca, tiểu thuyết, phóng sự mà nhất là phê bình.
Sang đến giai đoạn thứ ba, từ năm 1942 đến 1945 là thời kỳ càn quét để tiêu diệt những tàn tích bị coi là phản động còn rớt lại. Phóng sự, tiểu thuyết còn được dùng nhưng nghị luận có tính cách tranh đấu là hình thức mới được xử dụng rất nhiều.
Nếu đặt ba giai đoạn trên đây vào hoàn cảnh lịch sử của chúng ta, thì ta thấy giai đoạn đầu (32-37) có thể coi như là phản ứng của lớp người trẻ trước những biến cố xẩy ra chung quanh các năm 32 mà ta đã nói ở trên. Giai đoạn hai từ 37-42 là do ảnh hưởng phần nào của Mặt trần bình dân vừa mới lên cầm quyền ở Pháp từ năm 1936. Vấn đề ý thức xã hội bắt đầu giày vò nhiều tâm hồn. Thời kỳ này cũng là thời kỳ chuẩn bị đại chiến và tiếp đến chịu đựng những hậu quả của đại chiến thứ hai.
Giai đoạn thứ ba (42-45) là thời kỳ hậu chiến đối với các dân tộc Tây phương mà ngược lại đối với ta nó là thời kỳ chiến tranh thực sự : Pháp, Nhật, Mỹ, Trung Hoa... cùng tranh giành nhau, giày xéo lên đất nước ta : kết cục đưa đến nạn đói chết hơn hai triệu người dân năm 1945.
Nói tóm lại, sau đây là các mục tiêu tranh đấu của thế hệ mới :
- Chống chế độ cũ : hô hào theo chế độ mới, theo mới một cách dứt khoát, triệt để, không kiêng nể, e dè, thương tiếc.
Tiêu biểu đại diện cho chế độ cũ :
Là những cường hào gian ác như các ông nghị : Nghị Hách trong Giông Tố Nghị Quốc trong Tắt đèn Nghị Lại trong Bước đường cùng Nghị Bá trong Những ngày vui
- Là những quan lại chỉ nghĩ đến làm giàu như huyện Viết trong Gia đình. - Là những bà mẹ chủ trương môn đăng hộ đối như Bà Án trong Nửa chừng xuân. - Là những người đầu óc nặng nề bằng cấp như bà Tuần trong Gia đình. - Là những người đàn bà quái ác xui bẩy bọn dâu, rể, trai gái, như bà Ba trong Thừa tự. - Là những bà Mẹ làm khổ con gái như bà Hai, hay làm khổ con dâu như bà Phán trongĐoạn tuyệt. - Là những người quyền thế tàn nhẫn, độc ác làm cho Thị Mịch phải điêu đứng (Giông tố ), làm cho vợ chồng anh Dậu giở sống giở chết (Tắt đèn), làm cho vợ chồng anh Pha điên cuồng (Bước đường cùng).
Là hình ảnh lý tưởng cho thế hệ mới, họ chủ trương :
- Đạp đổ chế đội đại gia đình để giải phóng cho con cái khỏi quyền áp bức cha mẹ, chú bác, phụ nữ khỏi quyền đàn áp của nam giới. - Đánh vào nền giáo dục gò bó, giả hình, dồn ép của Đông phương. - Tố cáo những tệ đoan xã hội : như nạn mãi dâm, thất nghiệp. Vạch trần những hủ tục phản tiến hoá.
Đó là những nhận định tổng lược toàn diện sinh hoạt văn học thế hệ 32-45.
(1) - Bốn thế hệ của nền văn học mới là : Thời kỳ thứ nhất : thế hệ 1862 (1862-1900) Thời kỳ thứ hai : thế hệ 1900 (1900-1913) Thời kỳ thứ ba : thế hệ 1913 (1913-1932) Thời kỳ thứ bốn : thế hệ 1932 (1932-1945) (2) - Henri Le Grauclaude, Những thời kỳ trọng đại của nước An Nam trong lúc hồi xuân, 8-7-1933, tr. 8
(3) - Henri Le Grauclaude, tác phẩm kể trên , tr.6
(4) -Henri Le Grauclaude, tác phẩm kể trên, tr.10
(5) - Văn học tạp chí, số 4, tháng 8 và tháng 9 năm 1932
(6) - Annam tạp chí, số 4 tháng 8 và 9 năm 1932, tr. 3
(7) - Henri Le Grauclaude, tác phẩm kể trên, tr. 229
(8) - Văn học tạp chí, số 1, Mai 1932, tr. 8
(9) - Phong Hoá, số 13, ngày 8-9-1932
(10) - Phong Hoá, số 14, ngày 22-9-1932
(11) - Phong Hoá, số 29, tr. 5
(12) - Phong Hoá, số 28, tr. 5
(13) - Phong Hoá, số 28, tr. 13
(14) - Phong Hoá, số 17, ngày 13-10-1932
(15) - Phong Hoá, số 16, ngày 6-10-1932
(16) - Phong Hoá, số 18, ngày 20-10-1932
(17) - Phong Hoá, số 87, ngày 2-3-1934
(18) - Phong Hoá, số 154, ngày 20-9-1935
(19) - Phụ nữ Tân văn, số 122, ngày 10-3-1932
(20) - Bốn bài thơ trên đây đều đi kèm theo lá thư Lưu Trọng Lư gửi cho Phan Khôi đăng ở Phong Hoá, số 31, ngày 24-1-1933
(21) - Thiếu Sơn, Đời sống tinh thần, tr. 5,6
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:22:20 GMT 9
SINH HOẠT PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ HỆ 1932 Thanh Lãng
A - Đặc tính chung thế hệ 1932 B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932
Phôi thai từ Đông Dương Tạp Chí với những bài giới thiệu sách mới, thành hình trên Nam Phong Tạp Chí với những bài phân tích và bình giảng văn cổ hay giới thiệu sách vở ngoại quốc, văn phê bình Việt Nam, ngay từ thế hệ 1913-1932, tương đối cũng đã xây dựng được những cơ sở vững chắc. Nhưng nó chỉ thực sự đi vào con đường thịnh hành từ sau năm 1932. Như bị gò bó, dồn ép trong bao nhiêu lâu, lòng người trước làn gió mới như được mở tung ra. Người ta bắt đầu phê phán, tỏ thái độ trước mọi vấn đề, không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào. Với sự ra đời ồ ạt của báo chí, thật là một dịp tốt, một trường sở thích hợp để các cây bút đua nhau đấu trí, bày tỏ lập trường, bộc lộ tâm tình đối với nhau. Đặc tính của văn học thế hệ 1932-1945 là sự động đạt bằng những cuộc tranh luận sôi nổi giữa các phe nhóm.
Không phải trước đây không có những cuộc tranh luận. Thực ra, lịch sử văn học vẫn còn ghi nhận những cuộc tranh luận mà tôi gọi là vụ án chữ Hán xảy ra giữa Nguyễn Háo Vĩnh và Phạm Quỳnh, hay vụ án truyện Kiều bùng nổ giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế ... Ngần ấy thứ, dầu sao, cũng chỉ là những thái độ cá nhân với cá nhân, chứ chưa được cấu kết thành những mặt trận có chiến tuyến rõ rệt.
Đà tiến của văn phê bình, như vậy, là thấp kém thua hẳn các thể văn khác. Phải chăng vì thái độ nghi kỵ và e dè có từ ngàn đời ? cái tâm lý đó ngay năm 1933, hãy còn chưa gột rửa hết được. Trên báo Đông Thanh, số 16 ra ngày 15 tháng 2 năm 1933, nhà học giả Nguyễn văn Tố có viết :
" Nhiều người cho nhà bình phẩm là một kẻ đố kỵ, tự mình không làm được gì, thấy người làm sách đem lòng ghen ghét ; không thì cũng là người xét đoán thiên lệch vì tính chất và cái thị hiếu riêng của mình nó bó buộc : hễ thấy cái gì mình không ưa thì nhất thiết bài bác cả. Y kiến ấy có lẽ đối với lối " cảm giác phê bình " thì có phần đúng, mà đối với lối " Khoa học phê bình " thì thật là sai. Sự học vấn ngày nay càng ngày càng coi như cái kết quả của công phu nhiều người. Đời bây giờ không phải là đời người học giả có thể tự cao đứng đặc biệt một mình mà xướng ra những học thuyết cao kỳ không cần đối chiếu xem có hợp với sự thực không, miễn là phô diễn ra lời văn xán lạn thì thôi. Các nhà làm sách nước Pháp có trí thông hiểu hơn, biết rằng trong sự học cốt nhất là phải sưu tập lấy nhiều sự thực, nghiên cứu khắp các phương diện, rồi cái triết lý tự khắc nó suy diễn ra. Muốn sưu tập nghiên cứu như vậy, thì cần phải có nhiều người gia công học tập người nọ giám đốc người kia, ai sai lầm chỗ nào thì chỉ trích ra, ai phát minh điều gì tuyên bố lên. Như vậy thì mỗi người vừa là nhà làm sách, vừa là nhà bình phẩm, như thế tức là một cách giúp cho đường học vấn mỗi ngày một tấn tới lên ".
Mấy dòng trích trên đây cho ta thấy, ngay đối với Nguyễn Văn Tố, ông cũng chỉ chấp nhận giá trị phê bình khoa học, áp dụng vào việc tìm tra các tài liệu, chứ thực ra phê bình nghệ thuật xét cho cùng chỉ là công việc của hạng người không làm nổi công việc sáng tác và phê bình, rút cục, cũng chỉ là công kích chê bai cái mà mình chẳng có thể thưởng thức nổi, chứ phê bình đâu có phải là một lối thể hiện sự thưởng thức, thông đạt sự thưởng thức và càng không phải là một niềm cảm thông giữa hai tâm hồn hay một công trình sáng tạo.
Nhưng, tương đối, từ sau năm 1932, tình trạng đó dần dần cũng có thay đổi. Cái khối người đông đảo bấy lâu tự nhận là phái tân học và dư luận quốc dân cũng nhận như vậy, nay bỗng nhiên bị một lực lượng mới hơn chụp cho cái mũ " cựu học ". Trên Phong Hoá số 18 ra ngày 20 tháng 10 năm 32, Nhất Linh đã viết : " Vì thế trong bọn " cựu học ", có ông Phạm Quỳnh đề xướng thuyết trung dung giữ lấy cái hay của Đông phương, thu lấy cái hay của Tây phương, dung hoà hai cái văn hoá, gầy dựng lấy một nền văn minh riêng, cái mộng tưởng ông Phạm Quỳnh là ở đấy. "
Xã hội văn học Việt Nam, khoảng hai ba năm đầu thế hệ 1932, chia hẳn ra làm hai khối rõ rệt. Tôi tạm gọi là khối A, khối của tất cả những người thuần cựu học như các ông Dương Bá Trạc, Nguyễn trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Đôn Phục, Lê Dư, Phan Khôi... và của một số rất đông đảo những người bấy lâu vẫn tự xưng ra tân học mà nay bị kết án là cựu học như các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh... Khối A, tức khối của những người mệnh danh là cựu học, toàn thể đều là những người chủ trương hay viết thường xuyên cho các báo bấy lâu rất được dư luận quí mến, tôn trọng như là những cơ quan phổ biến, tuyên truyền cho văn hoá mới. Đó là trường hợp các báo như Đông Dương Tạp chí (1913), Nam Phong Tạp chí (1917), Hữu Thanh Tạp chí (1921), An Nam Tạp chí (1926), Rạng Đông (1929), Tiếng Dân (1927), Phụ Nữ Tân văn (1929), Đông Phương (1929), Nhựt Tân (1929), Phụ Nũ Thời đàm (1930), Tiểu Thuyết Tuần san (1931), Khoa Học Tạp chí (1931), Đông Thanh Tạp chí (1932), Văn Học tạp chí (1932).
Tôi tạm gọi là Khối B, khối của phe nhóm Tuần báo Phong Hoá, tức Tự Lực Văn Đoàn. Đây là một văn đoàn đầu tiên có chủ trương thuần nhất, liên tục, có tổ chức đàng hoàng, chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm nhặt ràng buộc hội viên, có cơ quan ngôn luận riêng biệt, với mục tiêu đã được chỉ định minh bạch, có chương trình hoạt động được nghiên cứu kỹ lưỡng và được phân công rất thích đáng với tài năng của mỗi hội viên.
Lực lượng của khối B này không có đông đảo gì cho lắm, nhưng tất cả đều có tài cán và được giao những công tác thuộc đủ mọi ngành nghệ thuật : Khái Hưng, Nhất Linh viết nghị luận rất nhiều nhưng chuyên nhất về tiểu thuyết ; Hoàng Đạo, Thạch Lam có viết tiểu thuyết nhưng hoạt động chính là viết xã thuyết ; Thế Lữ viết truyện hay, soạn kịch cũng khéo, phê bình có tài nhưng là kiện tướng trong làng thơ mới ; Tú Mỡ thì thiên hẵn về thơ khôi hài ; Nguyễn Gia Trí thì chuyên giữ mục hí họa và trình bày tờ báo.
Tất cả đều trẻ, có tài, lại được chỉ huy do những chương trình đã hoạch định kỹ lưỡng, thành phần của lực lượng khối người mới cấp tiếng này gặt được thành công ngay từ buổi đầu.
Phải chăng vì thế mà ngay từ lúc mới thành lập, Tự Lực Văn Đoàn đã khai chiến quyết liệt với lực lượng khối cựu học, hay ít ra bị coi là cựu học.
Hầu hết các nhà văn tên tuổi của thế hệ trước đều bị khối Phong Hoá chế diễu ; toàn bộ các báo, ngoại trừ báo Phong Hoá, đều bị khối Phong Hoá bêu xấu.
Nói cách khác, văn phê bình từ 1932 đến cuối 1934 là văn phê bình của hai khối A và B, tức văn phê bình của tất cả các nhà văn không thuộc nhóm Phong Hoá với các nhà văn của khối Phong Hoá, tức Tự Lực Văn Đoàn.
I - Đặc tính của khối A, tức khối bị coi là cựu học - Thành phần rất phức tạp. Không phải những cây bút cộng tác với khối này không có những cây bút mới, trẻ, có tư tưởng cấp tiến, nhưng có thì có đấy, thường khi lại là con số đông hơn cả bên Phong Hoá, khốn nỗi bọn họ lúc này lẻ loi, độc lập, chưa qui tụ thành đoàn thể : đó là trường hợp các cây bút như Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm, Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều... Các ông không chuyên mục cho hẳn một tờ báo nào, và các ông càng không có quyền lực gì đối với đường lối của các tờ báo mà các ông cộng tác.
Ngược lại, đa số các cây bút giữ vai trò lãnh đạo, hay chủ biên của các tờ báo đều là thuộc thành phần cũ, nghĩa là thuộc thế hệ trước, tức thế hệ 1913-1932, cái thế hệ còn đang mơ say việc xây dựng một nền văn hoá dung hợp được cả Đông lẫn Tây : đó là trường hợp các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn văn Vĩnh, Hoàng Ngọc Phách, Đông Hồ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn văn Tố, Ngô Tất Tố, Nguyễn trọng Thuật, Dương Bá Trạc, Lê Dư, Trần Trọng Kim, Dương Tự Quán, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Khắc Hiếu, Đỗ Thận, Phan Khôi, Bùi Kỷ, Nguyễn Công Tiễu, Huỳnh Thúc Kháng...
- Cơ quan ngôn luận của các ông, xét về lượng, thật là đông đảo. Có những người làm báo trên dưới hai mươi năm, như các ông Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Trần Trọng Kim ; có những tờ báo xuất bản trên dưới mười năm như Trung Bắc Tân Văn, Nam Phong, An Nam Tạp chí. Nhưng cái kém của tất cả các tờ báo này là kỹ thuật làm báo chưa được cải tiến canh tân, từ cách trình bày cho đến nội dung bài vở, đều cổ lỗ, trịnh trọng, đài các. Thực vậy, trong khi lớp người trẻ đang khao khát những cái mới lạ thì mấy tờ báo của khối A này đều chỉ để tâm làm công việc khảo cổ, viết những bài nghiên cứu rất xa xôi, không ứng đáp những khát vọng mới lạ của tuổi trẻ mà cũng chẳng phải là những công trình khám phá có giá trị gì cho lắm. Đó là trường hợp của Nam Phong Tạp chí còn kéo dài thêm hai ba năm, của An Nam Tạp chí, Rạng Đông,Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn, Đông Phương, Nhựt Tân, Phụ Nữ Thời Đàm, Tiểu Thuyết Tuần san, Khoa Học Tạp chí, Đông Thanh Tạp chí, Văn Học Tạp chí ...
- Văn của khối A này hãy còn là lối văn dềnh dàng, trịnh trọng, đọc lên nghe rất kêu mà nội dung thì hoặc là trống rỗng hay có khi còn mâu thuẫn, phi lý là khác.
- Với tất cả ngần ấy thứ, lập trường của khối A hầu như là muốn sống yên ổn, hoà hoãn với cái đang có. Nói vậy chẳng phải bảo khối A này không muốn tiến, nhưng chủ trương của họ là tiến hoá trong trật tự, tiến mà không gây xáo trộn, không phá phách, không đoạn tuyệt, không dứt khoát với những cái mà các ông cho là quốc hồn quốc tuý...
II - Đặc tính của khối B, tức khối cấp tiến. - Thành phần của khối cấp tiến, tuy ít, nhưng thuần nhất, tự đặt mình vào những kỷ luật chung, có sự kiểm soát chặt chẽ ; đàng khác, họ toàn là người mới, trẻ, thường xuất thân từ các trường Đại Học, hay Cao Đẳng ở trong nước hay ngoại quốc. Đó là các ông Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ ...
- Cơ quan ngôn luận là tờ báo Phong Hoá và, sau này, là tờ Ngày Nay, đều là những tờ báo, về mặt kỹ thuật, tổ chức Toà Soạn, nghệ thuật trình bày, về nội dung bài vở... nhất thiết đều mới mẻ, nhẹ nhàng, vui tươi, thích thời ...
- Lập trường không còn phải cái thứ lập trường hoà hoãn nước đôi. Họ muốn tiến với bất cứ giá nào, dầu phải tàn nhẫn, phải đập phá, phải chém giết... Mà thực họ đã tàn nhẫn với tất cả cái gì mà họ coi là cũ, họ đập phá tất cả cái gì mà họ cho là ngáng trở bước đi tới của họ, và lắm khi họ chẳng ngại đổ máu để giật phần thắng lợi.
- Văn của họ rất độc đáo, họ khởi xuất một lối văn mới mẻ, đơn sơ, bình dân, dễ hiểu, vui tươi..
Với ngần ấy thứ khí giới, họ lập mặt trận và tuyên chiến với tất cả học giới đương thời.
Gây gỗ và tuyên chiến với các nhà văn lão thành
Trong những mục hoặc như Mực Tàu Giấy Bản, hoặc như Từ Nhỏ đến Nhớnhoặn như Bàn Ngang, hoặc như Từ Cao đến Thấp, hoặc như Giòng nước ngược hoặc như Cuộc Điểm Báo thật là những nơi dụng võ thường xuyên của các cây bút như Tứ Ly Hoàng Đạo, tức Nguyễn Tường Long, như Nhất Linh, Nhị Linh, Tam Linh, Tứ Linh, tức Nguyễn Tường Tam, như Tú Mỡ, tức Hồ Trọng Hiếu, như Thạch Lam tức Nguyễng Tường Lân, như Lê Ta, Thế Lữ, tức Nguyễn Thứ Lễ...
Chẳng có một số Phong Hoá nào mà chẳng có một vài nhà văn, nhất là nhà văn thuộc thế hệ trước, bị đem ra chế diễu. Lối phê bình của Phong Hoá, qua các mục nói trên, về các nhà văn đàn anh, thường là lối phê bình châm chọc, chế diễu, thuộc đời tư hơn là lập trường văn nghệ. Nếu có lúc nào bọn họ đem lập trường văn nghe äcủa phái già ra mà mổ xẻ, thì cũng chỉ là để chê bai là cổ lỗ, thoái hoá, không hợp thời nữa. Chứ ít khi họ đánh thẳng vào lập trường như là lập trường mà thường thường họ đi tìm ở bọn đàn anh của họ một ít lối sống, một đôi thái độ, một vài cử chỉ họ cho là kỳ cục, thế rồi họ dùng tài thuật châm biếm, hài hước, chế diễu con người của đối thủ hơn là chính nghệ thuật của đối thủ.
Đối với Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, ngay từ lúc bắt tay vào làm số Phong Hoá đầu tiên tức số 14 ra ngày 22-9-1932, trong bài Phong Dao mới, Phong Hoá đã chế diễu ông Vĩnh béo núng rung rinh và ông Quỳnh gầy lểu đểu như hình cò hương rồi kết án hai ông là phường buôn văn bán chữ mà thành giàu có. Đó chỉ là một trong hàng trăm thí dụ về việc Phong Hoá chế diễu hai ông Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh.
Nhưng chẳng hiểu sao lại có hai nhân vật bị Phong Hoá liên miên đem ra chẳng phải để chế diễu suông mà còn để chửi bới lải nhải suốt cả mọi số báo, đó là trường hợp các ông Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu.
Phong Hoá, chẳng hạn, ví văn của HoàngTăng Bí khó tiêu như trứng vịt (Phong Hoá số 29, trang 5), và nhìn họ Hoàng như một người mang bệnh nan y " Bệnh chỉ trông thấy cái đẹp của Nho Giáo. Bệnh của Cụ Bảng Hoàng nghe trầm trọng lắm, Cụ nên tìm thuốc chữa đi thôi " (Phong Hoá số 28, trang 5),
Còn Tản Đà, trước con mắt Phong Hoá, chi là một anh say rượu, say khướt lướt :
Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hoá Sặc sụa hoi men khó ngửi quá (Phong Hoá số 28 ; trang 5) Nhưng không ở đâu Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu được mô tả một cách tồi tàn, gàn dở, quê kệch, nhất là đê hèn như trong vở " Tuồng cổ tân thời " (Phong Hoá số 38, 39, 40, 41, 42). Nơi đây Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu được mô tả như là một lũ mọi đang lập cơ mưu một cách rất buồn cười để tấn công thành trì kiên cố, tối tân của Phong Hoá. Bà Tương Phố được nêu lên như là một gương điển hình về lối văn rỗng tuếch : một bài " Giọt lệ thu " chỉ có không đầy bốn trang mà có 61 chữ vừa Than ôi ! vừaÔi ! vừa Lệ " (Phong Hoá số 29).
Diễn giả Lê Dư được mô tả như là một anh hát trống quân lẩm cẩm trong bài " Ông Lê Dư, còn nói truyện văn chương không phải là cái bánh " (Phong Hoá số 75).
Nguyễn Trọng Thuật là một tay cừ khôi đã từng chiếm giải thưởng văn chương với tác phẩm " Quả dưa đỏ ", vậy mà nay Phong Hoá, trong bài " Nhà Nho tương lai " (Phong Hoá số 108) đã vẽ Nguyễn Trọng Thuật như là đồ ngu dốt chưa biết chấm câu. Tứ Ly đã lấy thí dụ một ông thanh tra bảo một ông Xã là con lừa mà ám chỉ ông Nguyễn Trọng Thuật cũng là đồ con lừa.
Nhưng trong các bài chửi bới, chế diễu các nhà văn ở ngoài Phong Hoá, có mấy bài đáng chú ý. Bài thứ nhất đề là " Tuồng cổ tân thời ", hài kịch, hai hồi, đăng liền trên năm số Phong Hoá từ số 38 đến hết số 42. Những nhân vật được đem ra chế diễu gồm có Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn văn Vĩnh, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Tiến Lãng, Việt An, Lê Công Đắc, Trịnh Đình Rư, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn văn Tố, Hy Tống...
Bằng ấy nhân vật được mô tả như đang thành lập một sào huyệt mà Đảng chủ là Hoàng Tăng Bí với hai tên tham mưu hèn nhát là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn văn Vĩnh. Bộ ba này muốn tấn công Phong Hoá mà không dám bèn bày cái trò ẩy chó bụi rậm, sai khiến bầy lâu la là những Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Tiến Lãng, Lê Công Đắc, Trịnh Đình Rư, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn văn Tố, Hy Tống. Thật là một cuộc bày binh bố trận đàng hoàng, trịnh trọng nhưng buồn một nỗi là bầy lâu la toàn là " kẻ thì chỉ biết lạy như cốc đế, kẻ thì quen khóc lóc như ri, ngẫm ba quân tiết lộn mề ". Bởi vậy cho nên, dầu chưa lâm trận nhiều anh đã chạy trốn. Kết cục quân của bè lũ Hoàng Tăng Bí bị đại bại, bị quân Phong Hoá bắt trói hết cả.
Bài thứ hai là bài " Hội nghị Văn học ", Phong Hoá số 71, tác giả vẫn là Tứ Ly như bài trên. Tứ Ly tả phòng hội : " Một gian phòng. Một cái bàn dài phủ dạ xanh, chung quanh các ông hàn ngồi, trước mặt mỗi người có một cặp sách. Ăn vận theo lối các hội viên viện Hàn Lâm bên Pháp, chỉ khác có cái mũ thổ công ".
Đây là một Hội nghị Văn học, được tổ chức bắt chước như Hàn Lâm Viện của Pháp. Người đứng ra triệu tập và giữ chức Chủ tịch là Huỳnh Thúc Kháng. Hội viên gồm có các ông Hoàng Tăng Bí, Phạm Lê Bổng, Dương Bá Trạc, Phan Khôi, Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Khắc Hiếu, Dương Tự Quán, Lê Cương Phụng, Lê Dư, Trúc Đỳnh, Đỗ Văn, Tùng Vân, Mai Đăng Đệ. Bây giờ các ông hội họp nhau không phải để bày mưu kế diệt Phong Hoá mà để tranh dành nhau, người nào cũng sốt sắng hiến cho hội cái tờ báo đang ngấp ngoải của mình. Ai nói thì người ấy nghe, cho nên khi ông Tùng Vân là người cuối cùng nói thì " các ông hàn lần lượt ngủ dần hết đến bây giờ vẫn còn ngủ, lay thế nào cũng không dậy nữa ".
Bài thứ ba đề là " Non Bộ Phong Hoá " Phong Hoá số 125, là một bài thơ dài 84 câu. Tú Mỡ, với những vần thơ dí dỏm, chửi xỏ hầu khắp mặt mọi người :
Tản Đà tửu sĩ thảnh thơi ngồi Hũ to hũ nhỏ bầy la liệt. Đỗ Thận thì : " Một hang thăm thẳm trông lồng lộng Bia tạc " Khâm Thiên dệ nhất động " Đỗ Thận tiên ông ấy chủ nhân Luyện đàn tinh nhảy và ... ôm xống. Nguyễn văn Vĩnh thì được vẽ như anh thầy bói. " Vắng khách, buồn tênh thầy tướng Vĩnh ". Gọi lối kể truyện của Dương Bá Trạc " Rai như chão rách đến bao chừ ? ".
Gọi Nguyễn Trọng Thuật là mọi : " Nam man Tổng Thuật trồng dưa đỏ ".
Để thêm tài liệu, các bạn có thể tìm đọc những bài chửi Dương Bá Trạc ở Phong Hoá số 120, chửi Nguyễn Tiến Lãng, Phong Hoá số 105, số 137 ; chửi ông Lê Dư ở báo Tân Thiếu Niên, Phong Hoá số 112 ; chửi Thái Phỉ của Ngọ Báo, Phong Hoá số 110, chửi Nguyễn Khắc Hiếu ở bài " Ba người nói rằng ", Phong Hoá số 115, chửi Nguyễn Vỹ của bài Tập thơ đầu, Phong Hoá số 127 ; chửi ông Vũ Bằng ở bài " Cùng ông Tiêu Liêu Vũ Bằng ", Phong Hoá số 60.
Chẳng những đánh từng cá nhân, mà Phong Hoá còn đánh phủ đầu hầu khắp lượt các tờ báo đương thời mà họ chê là làm việc dốt nát, là viết văn cổ lỗ, là tư tưởng thoái bộ...
Trong bài " Báo giới với Xã Hội An Nam " (Phong Hoá số 40), Tứ Linh cho rằng báo chí chưa có ảnh hưởng gì đối với xã hội...
Tôi tạm kể ra đây cho các bạn ít bài tiêu biểu về lối Phong Hoá chế diễu, chửi bới các báo : Tú Mỡ chửi Trung Bắc Tân Văn trong bài Phong Dao Mới (Phong Hoá số 64) ; Tú Mỡ chửi An Nam Tạp chí trong bài " Văn tế Phong Hoá tuần báo viếng An Nam Tạp chí " (Phong Hoá số 56) ; Thạch Lam, trong bài " Cái túi khôn " (Phong Hoá số 111), công kích Tiểu thuyết Thứ bảy ; Việt Sinh chửi báo Rạng Đông, nơi bài Bức Tranh Vân Cẩu (Phong Hoá số 70) ; Tứ Ly cũng chửi Rạng Đông, nơi bài báo Rạng Đông (Phong Hoá số 56) ; Thạch Lam chửi báo Nhật Tân ở bài Sự thông thái của báo Nhật Tân(Phong Hoá số 105) và bài Ai ngủ, ai thức (Phong Hoá số 104). Báo Tiếng Dân thì bị Ngộ Không chửi ở bài Báo Tiếng Dân bá cáo (Phong Hoá số 78), bị Lê Ta chửi ở bài " Lũ mọi, người nhà quê ăn muối " (Phong Hoá số 92), bị Thạch Lam chửi ở hai bài Câu chuyện con voi (Phong Hoá số 99) và bài Cuộc Điểm báo (Phong Hoá số 101).
Phan Khôi và Phụ Nữ Tân văn bị Tứ Ly đem ra chế diễu trong bài Trẻ con hay người lớn (Phong Hoá số 75). Nhưng xem ra báo Đông Phương là bị chế diễu nhiều nhất, do Nhất Linh, trong bài " Loài nhai lại " (Phong Hoá số 51), do Thạch Lam, nơi bài Cuộc điểm báo (Phong Hoá số 126 và số 127), do Tứ Ly nơi bài " Thái độ quân tử của báo Đông Phương " (Phong Hoá số 35) và bài Cố lên báo Đông Phương (Phong Hoá số 35) do Nhát Dao Cạo nơi bài " Hoa giấy trong lọ văn " (Phong Hoá số 124). Phụ nữ Thời đàm bị Tứ Ly chửi nơi bài " Phong Hoá tờ báo trẻ con " (Phong Hoá số 74) và bài Phụ nữ Thời đàm tiến bộ (Phong Hoá số 102), bị Tú Mỡ châm biếm nơi bài " Khóc cô Phụ Nữ Thời đàm " (Phong Hoá số 91), bài " Cô Phụ Nữ Thời đàm lo sợ nước " (Phong Hoá số 101), bài " Cô Phụ Nữ Thời đàm chết vờ " (Phong Hoá số 112). Tiểu thuyết Tuần san bị Nhất Linh, Nhị Linh chửi ở bài Con Khỉ (Phong Hoá số 55) và bài Văn vui (Phong Hoá số 55). Báo Nam Phong của Phạm Quỳnh, đổi mới, bị đem ra chế diễu rất chua cay do Tứ Ly trong bài Quốc hồn quốc tuý (Phong Hoá số 125) và do Tú Mỡ với bài " Phong Lãng kỳ duyên : Sự tích ông Nguyễn Tiến Lãng chim Bà lão Nam Phong " (Phong Hoá số 117). Thạch Lam cười Khoa học của báo Khoa Học (Phong Hoá số 129). Báo Đông Thanh bị Nhất Linh chửi nơi bài Nghĩ lẩn quẩn (Phong Hoá số 55), bị Tú Mỡ chửi ở bài Phong dao mới (Phong Hoá số 28). Văn học Tạp chí bị Nhất Linh, Nhị Linh châm biếm ở ba bài " Sợ ta nhầm " (Phong Hoá số 35), " Sự thật thà trong làng báo " (Phong Hoá số 47), " Văn học quảng cáo " (Phong Hoá số 119), và bị Nhát Dao Cạo chế diễu trong bài Hoa giấy trong lọ văn (Phong Hoá số 123). Báo Nhật Tân bị cả Thế Lữ, cả Nhất Linh, cả Thạch Lam tấn công nơi bài Tạp phí hè (Phong Hoá số 112), bài cùng ông Đỗ Văn (Phong Hoá số 113), bài Bất lịch sự (Phong Hoá số 131). Báo Loa thì bị chửi liên miên, nhưng ta có thể cử ra ít thí dụ như những bài chửi rất tàn tệ của Tứ Ly, " Loa hay váy " (Phong Hoá số 91), Lại mỹ nhân gà (Phong Hoá số 114) của Tú Mỡ, Nhắn lão Bô cả (Phong Hoá số 94). Báo Annam Nouveau của ông Vĩnh bị Tứ Ly chửi xỏ nơi bài " Ông Nguyễn văn Vĩnh muốn giật lùi " (Phong Hoá số 32). Báo Tạp chí Việt bị Tứ Ly chế diễu nơi bài " Ông Hy Tống với tờ Việt Nam " (Phong Hoá số 116).
Một ít những bài tôi trích đọc cho các bạn nghe trên đây cho các bạn thấy Phong Hoá đã tung ra chiến trường những chiến sĩ thời danh nhất của họ gồm có các ông Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ... để mà hạ uy tín các cây bút không thuộc nhóm Tự Lực và hầu hết các báo ngoại trừ Phong Hoá của họ.Thái độ Phong Hoá là thái độ kẻ lớn, là tiếng nói làm ra bộ đàn anh đối với bọn đàn em. Phong Hoá thật ra chưa có đứng trên lập trường nghệ thuật, hay nhân danh nghệ thuật để mà phê bình đồng nghiệp. Trái lại, hầu hết các bài đều có vẻ bêu xấu đồng nghiệp.
III - Đặc tính của khối C chống Phong Hoá Ngày Nay. Những đồng nhiệp bị báo Phong Hoá công kích, bêu xấu, đông đảo vô cùng và thuộc đủ mọi lứa tuổi, có người thuộc phái cựu học mà rất lắm người còn mới hơn cả anh em bên Phong Hoá. Chính vì vậy mà một mặt trận mới như được liên kết lại từ năm 1934-1935 : một bên là Phong Hoá, một bên là hầu hết các tạp chí khác ; một trận tuyến được giàn ra, gay go, kéo dài hàng mấy năm liền giữa hai khối. Nếu từ 1932 đến 1934 là trận tuyến Phong Hoá giàn ra để đánh tất cả làng báo mà Phong Hoá coi là cổ lỗ, thì từ năm 1934 trở đi, một sự tổng phản công của các báo chí khác vừa mới ra đời từ năm 1934, đã liên hiệp lại để đánh thẳng vào Phong Hoá. Thực ra, ngoài Phong Hoá hầu hết các báo từ năm 1934 trở về trước đều nằm trong tay bọn học giả khuynh về dung hoà. Bọn trẻ, mới, viết cho các tờ báo này đông khá lắm, nhưng chưa nắm được các tờ báo, cho nên vẫn bị nhóm Phong Hoá coi thường. Nhưng từ năm 1934 trở đi, Phong Hoá dù trước kia có trẻ mấy, có duyên mấy, thì lúc ấy cũng già đi nhiều rồi. Năm 1934 và các năm sau, nhiều tờ báo mới ra đời, mà phần nhiều ban chủ trương lại là thuộc thành phần trẻ xưa kia đã cộng tác với các tờ báo từng bị Phong Hoá chửi bới, cho nên ngày nay họ vô tình mà liên hiệp lại để tấn công Phong Hoá. Phải chăng vì vậy mà Phong Hoá sắp phải chết để đầu thai dưới một tên khác " Ngày Nay " ? ? ?
Mặt trận hay khối thứ ba, mà chúng ta tạm gọi là khối C này gồm có những báo như Tiểu Thuyết Thứ Bảy (1934), Loa (1934), Hà nội báo (1936), Ích hữu (1936).
Loa là tờ Tuần báo ra ngày thứ Năm, 15 tháng hai năm 1934. Nếu trước đây, Phong Hoá liên miên chửi bới các báo, thì bây giờ đến lượt Loa thường xuyên sửa lưng Phong Hoá. Loa có những cây bút phê bình nghị luận tên tuổi như Lan Khai, nhất là Trương Tửu.
Nhưng các bài tranh luận liên miên với Phong Hoá đều không ký tên thật mà thường để một tên giả " Tư Húi " trong mục " Mép thợ ngói ". Nếu ở Phong Hoá, các mục " Từ cao đến thấp ", " Từ bé đến nhớn " luôn luôn dành để chửi Loa hay các đồng nghiệp của Loa, thì cái mục " Mép thợ ngói " là chỗ để Loa bắt loa sang mà chửi Phong Hoá. Các bạn có thể tìm đọc ở mục Mép thợ ngói của Tư Húi các số 10, 16, 19, 20, 29, 30, 31 hay những bài như " Sau một năm " Ký Loa, số 54, hai bài Văn tế Phong Hoá, ký tên Khai Ánh, số 69, các bạn sẽ thấy rằng lối phê bình mà các báo dành cho nhau chỉ tranh giành độc giả. Nếu Phong Hoá gọi Loa là váy thì Loa bảo Phong Hoá chuyên " dòm dỏ " váy. Bài " Chính anh chàng ấy dòm dỏ... (Loa số 29) thật là hài hước, chua cay và xỏ lá đối với Phong Hoá.
Sau Loa ít lâu, đến lượt Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra đời ngày mồng 2 tháng 6 năm 1934.
Tiểu Thuyết Thứ Bảy có những cây bút cứng cát chuyên giữ mục Văn học như Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Hải Triều, Thiếu Sơn, Hoài Thanh.
Tiểu Thuyết Thứ Bảy tiếp tay với Loa trong chiến dịch tấn công Phong Hoá. Ngoài rất nhiều bài ngắn trả lời Phong Hoá, đáng chú ý, là hai bài ký tên Nguyễn Công Hoan và một bài ký tên Tân Dân, tức nhà xuất bản Tân Dân.
Trong bài Từ Cô Giáo Minh đến Đoạn Tuyệt, số 92, Nguyễn Công Hoan kết án Nhất Linh là người gian ngoa, " không biết mình và không biết người ".
Trong bài " Lối trích văn của Phong Hoá ", số 97, Nguyễn Công Hoan minh chứng sự gian ác của Phong Hoá trong lối trích văn cốt ý xuyên tạc để hạ uy thế đồng nghiệp.
Trong bài Phong Hoá gièm pha chúng tôi, Nhà Tân Dân viết : " Phong Hoá càng ngày càng xuống. Tiểu Thuyết Thứ Bảy càng ngày càng lên. Ích hữu tờ báo thứ hai của nhà Tân Dân mới xuất bản rất được hoan nghênh .
" Ba sự hiển nhiên ai cũng nhận thấy.
" Các ông bên Phong Hoá lo Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Ích hữu Tuần báo " truy " mất hết độc giả của các ông nên độ rày các ông hoạt động dữ ". Sau đấy, nhà Tân Dân tố cáo thái độ Phong Hoá cố ý gièm pha đồng nghiệp.
Tờ báo thứ ba, Hà nội báo, tuần báo ra ngày thứ Tư, số 1, ra ngày 1 tháng 1 năm 1936 là nơi quy tụ nhiều cây bút quen thuộc như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lệ Chi, Lê Tràng Kiều, Nguyễn Công Hoan, Trương Tửu, Lê Thanh, Vũ Trọng Phụng...
Có lẽ không có tờ báo nào chống đối nhóm Phong Hoá mạnh mẽ cho bằng Hà nội báo. Chẳng mấy số Hà nội báo không có bài công kích Phong Hoá. Chỉ mới kể ra đây những bài tiêu biểu, mạnh mẽ hơn, ta đã có thể đếm được 11 bài ký Hà nội báo, 2 bài ký Thiện Quả, 3 bài ký Văn Tệ, 1 bài ký Nguyễn Công Hoan, 4 bài ký Lê Tràng Kiều... Tôi kể ra đây để làm chứng những bài tiêu biểu ký tên Hà nội báo :
- Bài " Một việc tối quan trọng trong làng văn " (H.b. số 6) tố cáo Phong Hoá đã đưa ra " lời vu cáo hèn hạ " đối với Nguyễn Công Hoan.
- Bài Tổ ong vỡ (H.b. số 7) đã mỉa mai gọi Phong Hoá là bầy ong, bầy ruồi vỡ tổ.
- Bài " Cái thái độ hèn nhát của báo Phong Hoá " (H.b. số 9) kết án Phong Hoá trả lời đồng nghiệp " bằng những câu thô bỉ, bằng một giọng hèn nhát " không đứng trên lập trường tư tưởng hay nghệ thuật để phê phán mà chỉ cố ý bêu xấu cá nhân của đồng nghiệp một cách rất vô lý như việc Phong Hoá chửi Hà nội báo chỉ vì ông Lê Cường, chủ trương Hà nội báo là ông chủ một nhà thuốc lớn, một nhà in bề thế.
- Bài " Bức thư ngỏ gửi ông Nguyễn Tường Tam ", (H.b. số 11), tác giả viết : " Đối với bạn đồng nghiệp cũng như khinh những hạng người không thành thực, nguy hiểm hèn nhát, bao giờ cũng vì một cái lợi nhỏ, một cái thù vặt, mà có ý gieo cho người ta những mối nghi ngờ ác hại ".
- Bài " Tội trạng báo Phong Hoá " có những câu như :
" Những tội trạng của Phong Hoá không phải chúng tôi mới nhận thấy, hầu hết những độc giả ngày nay là của Hà nội báo, và ngày trước của Phong Hoá đều đã thấy cả ". Thế rồi Hà nội báo kể các tội trạng của Phong Hoá như việc chế diễu, mạ lị người dân quê dốt nát (Lời nói thêm của Hà nội báo số 13), như việc phê bình thiên vị, dốt nát (Bài Độc giả lượm những cái dốt của Phong Hoá số 13).
- Khái Hưng bị đả kích khá nặng nề trong bài " Báo Phong Hoá vu cáo hèn, ông Khái Hưng ngụy biện " (H.b. số 13).
- Nhưng không có số báo nào đánh Phong Hoá mạnh bằng số 15 ra ngày 15-4-1936 : hai bài trong một số báo. Trong bài thứ nhất đề " Tội trạng báo Phong Hoá ", tác giả viết : " Tội thứ ba của Phong Hoá. Dìm đồng nghiệp... Bất kỳ một tờ báo nào mới ra, cũng bị Phong Hoá nói xỏ, nói xiên, nói châm, nói chọc, có khi kéo cả đại đội ra để công kích. Họ công kích như vậy để làm gì ? Cốt cho đồng nghiệp lui đi, để bãi cỏ xanh chỉ còn một mình họ ăn " (H.b. số 15).
Bài thứ hai đề " Một bức thư cùng ông chủ bút Hà nội báo " (H.b. số 15), một độc giả Hà nội báo đã hạ những lời phê bình gay gắt về Tự Lực Văn Đoàn : " Chúng tôi là một bọn độc giả báo Phong Hoá , cũng như phần nhiều độc giả Phong Hoá trước kia chúng tôi vẫn tưởng báo ấy ra đời là vì xã hội, là vì bình dân, vì một tôn chỉ cao xa, như ông Nguyễn Tường Tam thường rao trên báo.
" Nhưng dần dần chúng tôi xét ra mục đích của bọn ông Nguyễn Tường Tam chỉ vì hiếu danh mà làm báo. Muốn đạt cái mục đích ấy, họ dùng đủ cách đê hèn, cái chương trình của họ gồm có hai phần :
" Trước hết họ xoi bói chế nhạo thô bỉ tất cả những người tài giỏi hơn họ, hoặc có chút danh vọng giữa xã hội. Làm như thế để quốc dân chán ghét, mỉa mai, khinh bỉ những người ấy. Sau khi đã đánh đổ những người có tên tuổi họ liền đem nhau ra mà tâng bốc, Khái Hưng khen Thế Lữ và Nhất Linh, Nhất Linh khen Khái Hưng vv... để quốc dân tưởng lầm rằng chỉ có bọn họ mới thật là thi sĩ, nhân tài Việt Nam.
" Cái chương trình của họ ngày nay đã thực hiện. Một phần quốc dân đã bị họ lừa, hoan nghênh bọn họ một cách quá đáng, còn như những ông Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Khắc Hiếu, Huỳnh Thúc Kháng bị xem như hạng người đáng cười nhất thế giới.
" Thấy thế bọn họ càng kiêu căng tự phụ, không nể kiêng gì ai nữa. Hễ họ thấy một nhà văn sĩ nào có tiếng tăm, hay một tờ báo nào chạy hơn họ, thì họ tìm cách " dìm " ngay. Hôm qua mạt sát Phan Khôi, Nguyễn Khắc Hiếu, Lãng Nhân, Nguyễn Lan Khai, Lưu Trọng Lư ... Hôm nay họ cố làm mất giá trị Trương Tửu, Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan... Ngày mai cái tính đố kỵ nhỏ nhen của họ đưa họ đến đâu ? "
Trong bài " Lời nói thêm của Hà nội báo " (H.b. số 56 ngày 16-3-1937), tác giả vạch rõ sự tàn nhẫn của Phong Hoá : Phong Hoá không những đã dìm những đồng nfhiệp đương sống mà cả những đồng nghiệp đã chết rồi, Phong Hoá có để yên cho đâu ! Lâu lâu Phong Hoá lại đào mồ những tờ báo đã chết để nói cho hả giận... chẳng nói gì cho lắm, thí dụ như tờ báo Loa.
" Cái tin báo Loa chết đối với Phong Hoá là một tin mừng... Ngày được tin ấy, Phong Hoá liền vẽ ngay lên bìa, một bức tranh ông Bùi Xuân Học ngồi vá váy và khóc bù lu, bù loa... Cái tranh ấy kể cũng buồn cười thật, nhưng hơi " mất dạy " một chút ". Ngoài loạt bài không để tên tác giả, mà chỉ để Hà nội báo, ta còn có thể kể thêm nhiều bài ký tên tác giả.
Ông Thiện Quả là tác giả bài " Tội thứ nhất " (H.b. số 13) và bài " Phong Hoá với dân quê " (H.b. số 15). Ở cả hai bài, ông Thiện Quả đều bài bác thái độ của Phong Hoá đối với dân quê.
Ông Văn Tệ là tác giả ba bài " Trả lời cho báo Phong Hoá " (H.b. số 6), " Tội trạng báo Phong Hoá " (H.b. số 14), " Báo Phong Hoá yêu cầu chính phủ trị " (H.b. số 15). Ở cả ba bài, ông Văn Tệ ghi nhận rằng báo Phong Hoá ngày một xuống, một ế, cho nên báo Phong Hoá ngày một phải cạnh tranh bất chính bằng các thứ cười rất tục tằn và tàn nhẫn ".
Nhưng trong số những nhà văn có tên tuổi lên tiếng công kích Phong Hoá, ta phải kể đến Nguyễn Công Hoan và Lê Tràng Kiều.
Nguyễn Công Hoan (H.b. số 9 ngày 4-3-1936), đã cố vạch ra cho độc giả thấy cái gian ý của Tự Lực Văn Đoàn trong khi họ lên tiếng kết án cô giáo Minh là bắt chước Đoạn Tuyệt.
Vào hùa và bênh vực Nguyễn Công Hoan, Lê Tràng Kiều viết một thôi một hồi ba bài để bắt bẻ Phong Hoá vì bọn này đã công kích Nguyễn Công Hoan. Các bạn có thể đọc ba bài Lê Tràng Kiều phê bình Tự Lực Văn Đoàn phê bình Nguyễn Công Hoan. (Vì lẽ gì Phong Hoá không trả lời, H.b. số 7, Giọng hèn nhát của báo Phong Hoá, (H.b. số 13). Cuối cùng Lê Tràng Kiều phê bình Thế Lữ phê bình Khói lan chiều của Lan Khai. Lê Tràng Kiều đã chê Thế Lữ phê bình Khói lam chiều bằng cách đi nhặt những " hạt đậu dọn ", nghĩa là xoi bói những cái nhỏ nhen không đáng kể.
Cuối cùng đến Ích Hữu lại mở chiến dịch công kích Phong Hoá hay đúng hơn là Ngày Nay.
Nguyễn Công Hoan viết hai bài : " Từ Đoạn Tuyệt đến cô giáo Minh " (Ích Hữu số 2) và bài " Cùng ông Khái Hưng " (Ích Hữu số 4). Ở cả hai bài, Nguyễn Công Hoan đều trả lời Tự Lực Văn Đoàn về việc công kích tác phẩm cô giáo Minh bằng đường lối mà Nguyễn Công Hoan cho rằng có gian ý, muốn dìm đồng nghiệp.
Sau khi Nguyễn Công Hoan lên tiếng, thì Lãng Nhân Phùng Tất Đắc họa lời bênh vực tác giả Cô giáo Minh và cho rằng lối phê bình của nhóm Tự Lực Văn Đoàn là thiên lệch một chiều.
Ngoài ra còn năm bài ký tên Ích Hữu cũng đều kể tội Phong Hoá hay Ngày Nay là có dã tâm gièm pha, hạ bệ đồng nghiệp như các bài " Lối trích văn của Phong Hoá " (Ích Hữu số 6), " Phong Hoá gièm pha chúng tôi " (Ích Hữu số 6), " Cái thói gièm pha của bọn Phong Hoá, Ngày Nay " (Ích Hữu số 56), " Cái thói gièm pha của bọn Phong Hoá, Ngày Nay, nhiều báo đã công nhận " (Ích Hữu số 57), " Ngày Nay nhận tội " (Ích Hữu số 58).
Các bài phê bình Phong Hoá hay Ngày Nay đại để cũng là kết án hai cơ quan này có thái độ gièm pha đồng nghiệp. Trong số các bài kể trên, có bài " Cái thói gièm pha của bọn Phong Hoá, Ngày Nay, nhiều báo đã công nhận " (Ích Hữu số 57), tác giả nhắc đến và trích văn các báo đã có bài công kích báo Phong Hoá, Ngày Nay. Tác giả có kể đến báo Loa, số 10 ra ngày 19-4-1934, báo Đông Phương hoạt động số 2 ra ngày 13-1-1937 ; báo Nhật Tân số 36 ra ngày 18-4-1934 ; báo Tương Lai số 8 ra ngày 18-3-1937.
IV - Đặc tính của khối D, khuynh hướng Mác xít. Song song và đồng thời với cả khối A, tức khối mệnh danh là cựu học, cả khối B, tức Tự Lực Văn Đoàn, cả khối C, tức phe mới đối lập, chống báng Tự Lực Văn Đoàn, có thể kể đến khối D, tức phe nhóm của Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng, một thiểu số các nhà văn có khuynh hướng duy vật mác xít. Với chủ trương văn nghệ phải phục vụ cho giai cấp đấu tranh, khuynh hướng duy vật đứng biệt lập ra một phía, chống đối lại cả ba khối trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:23:40 GMT 9
C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932 : 1 - Vụ Án Báo Chí / 2 - Vụ Án Cũ và Mới / 3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim / 4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi / 5 - Vụ Án Quốc Học / 6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới D - Mặt trận bênh thơ mới (1) / Mặt trận bênh thơ mới (2) / Mặt trận bênh thơ mới (3) E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Trên đây, tôi tạm phát vẽ sinh hoạt phê bình dưới hình thức phe phái, trong khoảng từ 1932 đến 1939 hay 1940. Có lẽ chưa có thời nào sinh hoạt văn học có vẻ hào hứng, động đạt cho bằng trong khoảng thời gian này. Để tóm tắt, chúng ta có thể ghi nhận sinh hoạt phê bình văn học, hồi đầu thế hệ 1932 như là những vụ án văn học.
1 - Vụ Án Báo Chí
Chưa bao giờ báo chí Việt Nam bút chiến với nhau dữ dội như ta thấy ở chương ba ở trên đây. Các cuộc bút chiến này, trọng tâm có lẽ là sự cạnh tranh nghề nghiệp, tranh dành độc giả, nhưng cũng gián tiếp đặt ra được nhiều vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập trường văn nghệ, sửa chữa được nhiều lộn xộn trong nghề viết văn. Các báo chia thành hẳn bốn khối như tôi đã trình bầy ở trên : khối A của các nhà mệnh danh là Cựu học với các tờ báo ra đời từ 1932 hay trước năm 1932 mà còn hoạt động cho tới năm 1934 ; khối B của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hoá và Ngày Nay ; khối C của các báo ra đời từ 1934 trở đi, đối lập, phản kháng lại Tự Lực Văn Đoàn ; khối D của nhóm mác-xít với các ông Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng…
2 - Vụ Án Cũ và Mới
Mặc dầu được Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí cố gắng đứng ra giàn hoà trong một thời gian khá lâu, phe mới cũ cũng bất đắc dĩ phải cụng nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khai mào vào khoảng từ 1931 trở đi. Phan Khôi, từ khoảng 1931 trở đi, đã lái Phụ Nữ tân văn, đi vào con đường canh tân. Nhiều cây bút, mà đặc biệt là cây bút Phan Khôi, bắt đầu tấn công nền cựu học, tấn công Nho giáo, kết án chế độ đại gia đình, công kích kịch liệt chế độ Tam Cương. An Nam tạp chí của Tản Đà nhảy vào chiến trường. Hai nhà nho, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu và nhà nho Phan Khôi, giao tranh ác liệt trong một thời gian khá lâu. Sau này, năm 1932, xem ra Đông Thanh tạp chí và Văn Học tạp chí, như có vẻ đứng về phe Tản Đà, để phản đối những kết án của Phan Khôi đối với nền đạo đức Đông phương, nếu không bằng các bài bút chiến trực tiếp thì cũng bằng các bài trình bày cái hay cái đẹp của đạo đức Đông phương.
Nhưng từ khi Phong Hoá ra đời, thì một mặt trận đã giàn ra, đẩy mạnh chiến dịch mà Phan Khôi chỉ mới khai mào. Cuộc tranh luận mới cũ được Phong Hoá đặt lên làm tôn chỉ cho cơ quan ngôn luận, và là mệnh lệnh mà mọi nhà văn thuộc văn phái Tự Lực phải tuân theo. Chẳng những người ta dùng nghị luận để kết án đạo đức cũ mà còn dùng tranh khôi hài, thơ trào phúng, kịch hí lộng, tiểu thuyết tranh đấu để đánh thẳng vào nền cựu học, với ý chí quyết liệt là hạ bệ được nền cựu học.
3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim
Phan Khôi phê bình Nho giáo Đầu năm 1930, Trần Trọng Kim cho xuất bản cuốn I của Bộ Nho Giáo của ông, trình bày khá cặn kẽ về thân thế, sự nghiệp và học thuyết Khổng Tử cùng trường phái nho giáo. Phan Khôi đã đọc Nho giáo của Trần Trọng Kim rất kỹ lưỡng và trên Phụ Nữ tân văn số 54, ngày 29-5-1930, sau khi ca ngợi công lao của Trần Trọng Kim, đã công kích ông này lầm lẫn Khổng Học với Tống Nho.
Sau bài đả kích trên, không còn đợi Trần Trọng Kim trả lời, Phan Khôi viết một thôi một hồi về nho giáo, khi xa khi gần, vẫn có vẻ công kích tác giả Trần Trọng Kim như ta thấy trong những bài như : Cuốn sách nho giáo gợi ý cho chúng tôi, nó bảo rằng : người Việt Nam phải viết chữ quốc ngữ cho đúng (P.N.T.V. số 56, 12-6-1930), Người mở đường cho luân lý học Á Đông, Khổng Tử và cái thuyết " chánh sách " của Ngài (P.N.T.V. số 57, 19-6-1930). Thuyết chánh danh đính chính lại cái tên xưng hô của người Việt Nam (P.N.T.V. số 58, 28-6-1930 và số 59, 3-7-1930).
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi Trần Trọng Kim đã theo rõi công việc làm của Phan Khôi và để tâm suy nghĩ về những lời lẽ công kích của ông. Chính vì vậy mà Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi nơi bài " Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo " (P.N.T.V. số 60, 10-7-1930). Trong bài này, Trần Trọng Kim có chịu là Phan Khôi có lý ở nhiều điểm, nhưng không trả lời đúng vào cái điểm mà Phan Khôi đã công kích ông. Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học phiệt Có lẽ vì vậy mà trên Phụ Nữ tân văn số 62, 24-7-1930, trong bài " Cảnh cáo các nhà học phiệt ", cho dù mục đích là để tấn công Phạm Quỳnh, Phan Khôi cũng vẫn trách khéo cả Trần Trọng Kim như là cố ý lẩn tránh vấn đề. Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi nhà Mr Logique Và sau đấy, trên Phụ Nữ tân văn số 63, 31-7-1930, nơi bài " Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đến nhà Mr Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói truyện ". Phan Khôi vạch rõ những điểm mà Trần Trọng Kim đã né tránh không chịu trực tiếp trả lời, đồng thời Phan Khôi cũng chê trách Khổng Tử và Mạnh Tử là thiếu óc luận lý. Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà học ta mà nói truyện Lần này, thì Trần Trọng Kim không còn giữ yên lặng nữa. Trên ba số báo, Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi : bài " Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói truyện " (đăng lên liên tiếp hai số báo, số 71, 25-9-1930, và số 72, 2-10-1930) với bài " Khổng giáo với khoa học ", số 74, 16-10-1930). Trần Trọng Kim đã tỏ ra phục thiện, chịu lỗi là đã sơ ý mà trở thành bông lông không trả lời đúng vào các điểm mà Phan Khôi công kích ông. Nhưng rồi Trần Trọng Kim cũng minh xác với Phan Khôi nhiều điểm, nhất là điểm Phan Khôi trách triết gia đông phương thiếu óc suy luận khoa học. Vấn đề Phan Khôi nêu ra năm 1930, và đến năm 1932, khi cho tái bản Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cho sửa chữa, thì Ngô Tất Tố lại khơi lại để công kích Trần Trọng Kim năm 1940.
Cuộc tranh luận này cho ta thấy hai nhà học giả họ Phan và họ Trần đã có thái độ trí thức rất đáng phục. Chính thái độ trí thức ấy đã giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học bấy lâu bị thiên hạ hiểu rất mu mơ.
4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi Phan Khôi công kích " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên " Nhân đọc cuốn tiểu thuyết " Cay đắng mùi đời " của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận về cái cười thường khi rất bỉ ổi, tàn nhẫn của người Việt Nam mình. Bài đó ông đề nó là " Cái cười của con rồng cháu tiên " (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Phan Khôi đã vạch ra cái khéo léo, tài tình của ngòi bút tả chân Hồ Biểu Chánh trong việc vẽ ra cái cười man rợ, khả ố, đê tiện của cái nòi giống tự xưng là " Con rồng cháu tiên ". " Bộ " Cay đắng mùi đời " hẳn đã có nhiều người nói đến và thấy trong đó tả những gì, khi tôi đọc chắc tôi cũng thấy như người ta. Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế thái. Nhất là sự khốn nạn của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm. Vậy mà những điều đó tôi để ra ngoài hết, khi tôi đọc nó tôi chỉ có một cái cảm tưởng về cái cười trong truyện mà thôi. Hẳn tác giả " Cay đắng mùi đời " là ông Hồ Biểu Chánh cũng phải nực cười mà cho tôi là tọc mạch ". (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Trong rất nhiều thí dụ về trường hợp lố bịch của cái cười Việt Nam mình, Phan Khôi đã đưa ra một so sánh :
" Có một phần đông người Pháp ở đây ta hằng ngày thấy họ cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc Pháp. Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn, có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trợt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười hay không ? Tôi, và nhiều người như tôi nữa dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa. Còn như Con Rồng cháu Tiên ta, ai không biết chớ tôi, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, họ phải cười một chặp cho no nê đã ". (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi công kích Tống Nho Sau khi, với giọng bông đùa, Phan Khôi đã dám đưa ra mà công kích cái cười khả ố, bần tiện của cả một cái nòi giống tự xưng là Con rồng Cháu tiên, thì, đến ngày 13-8-1931, trên Phụ Nữ tân văn số 95, ông lại cay nghiệt chửi tùm lum cái phong tục man rợ mà người ta xưng tụng là thủ tiết trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam. Theo Phan Khôi, cái luật bắt người đàn bà góa chồng, ở vậy, thủ tiết thờ chồng là một luật rất man rợ, thoái hoá, người Trung Hoa đã bỏ nó từ lâu rồi mà người Việt Nam mình cứ giữ nó khư khư để đàn áp người đàn bà. YÙ Phan Khôi muốn đổ cái lỗi ấy cho Tống nho, chứ thực tình Khổng nho chẳng có dạy " cái điều xằng bậy " ấy…Mà ngay đến Tống nho hồi đầu bên Trung Hoa cũng chẳng ai coi cái luật thủ tiết là quan trọng. Phan Khôi kể :
" Các nho gia nhà Tống trước Trình Hy đối với phụ nữ có ý rất khoan thứ, nghĩa là không bắt buộc họ phải thủ tiết, chịu thiệt thòi cả đời như Phạm Trọng Yêm (sanh năm 989) có lập ra cái nghĩa trung trang, trong tờ khoán ước có trích ra một phần ruộng để giúp đàn bà cải giá, còn đàn ông tái thú lại không giúp. Ông có con trai là Phạm Thuận Hựu chết non để lại một người vợ góa, sau đó, học trò ông là Vương Đào góa vợ, ông bèn đem người dâu của mình mà gả cho, vả lại mẹ ông Phạm Trọng Yêm trước kia cũng cải giá cho một người họ Chu. Ông theo mẹ về ở với cha ghẻ, đổi họ tên là Chu Thuyết đến sau đỗ đạt rồi ông mới lại theo họ Phạm. Phạm Trọng Yêm là một bậc danh hiền buổi Tống sơ, một nhân vật lớn trong lịch sử mà cũng không hề cho sự cải giá là phi lệ, không hề bắt đàn bà goá thủ tiết; cho đến mẹ ông cải giá, ông cũng chẳng hề lấy làm sỉ nhục gì. " (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391).
Chính vì vậy, mà Phan Khôi xem ra có thù với Tống Nho, nên hễ có dịp là ông đả kích bọn họ. Lần này chẳng hiểu là lần thứ mấy. Chẳng thế mà ngay ở đoạn đầu số báo này (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391) ông phải nhắc đến việc ông đã từng hô hào chống Tống Nho ở số 89 Phụ Nữ tân văn :
" Trong bài " Lại nói về tam cang với ngũ luân " ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có nói rằng : " Trong cái vòng luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm thầy, mà đồng thời tôi cũng muốn phế truất Hán Nho và Tống Nho ". Tôi nói thế không phải nói bậy đâu. Hán nho như cái thuyết tam cang của họ mà tôi đã bác đi trong mấy bài trước đó, đáng phế truất là đường nào. Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp với Khổng Mạnh mà làm hại cho ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hoá, ta nên phế trừ đi là phải. "
Thế rồi, trong phần kết của bài Tống nho này, ông hô hào chị em phụ nữ hãy nên " phế trừ " cái tục " trái tính trời " ấy đi :
" Tôi lấy làm lạ, cái kêu bằng cái " tiết đó " không phải tánh trời sanh thì sao lại đem nó để càn lên trên cái do tính trời sanh ? Tôi thì cứ giữ mực quê quê thiệt thiệt, căn cứ ở câu : " Thực sắc thiên tánh " của Mạnh Tử mà nói rằng : Hể đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác, đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác. Còn như cặp vợ chồng nào có cái ái tình đặc biệt, một người chết đi một người đành ở vậy, cái thì tuỳ ý họ, xã hội không ép buộc gì. Đến như nói cái thứ hai của tánh trời, gặp lúc đáng bỏ phải bỏ, thì, đã cấm đàn bà cải giá xin cũng cấm đàn ông tái thú luôn.
" Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu ? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa " (P.N.T.V. số 95,13-8-1931).
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi Hai bài của Phan Khôi viết ra, một bài vào tháng 5, một bài vào tháng 8 năm 1931, sẽ phải tiếp nhận những nhát búa nặng nề của Tản Đà bắt đầu từ tháng giêng năm 1932. Thực vậy, trên An Nam tạp chí, bắt đầu từ số 26, 23-1-1932, Tản Đà bắt đầu khai chiến dữ dội. Nơi đây, ta không còn thấy Tản Đà nhà thơ lãng mạn, đôn hậu, mơ màng nữa, mà ta thấy ông khi thì là một quan toà, khi thì là một đao phủ nữa. Chính vì vậy, mà ta thấy ngay ở phần mở bài thứ nhất trong loạt bài được chọn bằng một tiêu đề rất đặc biệt " Một cái tai nạn lưu hành ở Nam Kỳ : Phan Khôi ", Tản Đà mở đầu cuộc chiến của ông như thế này :
" Cứ những lời của ông Khôi viết ở trong tờ Tân Văn có nhiều những tính chất tầm bậy. (như bài " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên) ; mà hại cho phụ nữ về phần nhiều ( như lời bài kích Tống Nho về câu " ngạ tử sự thậm tiểu, thất tiết sự thậm đại "). Sự hại đó, không phải là ông Khôi có định chí làm hại ; chỉ là ông quá dụng sức về nhẽ " ăn cây nào rào cây ấy " viết bài cho Tân Văn phụ nữ thời chiều theo tâm chí của phần nhiều phụ nữ đó mà thôi. Phần nhiều phụ nữ tân thời nay muốn tự do, muốn giải phóng, ông Khôi phun giải phóng, phun tự do. Đối với các độc giả có được lòng thời tờ Tân Văn mới phát đạt ; tờ Tân Văn có phát dạt thời giá mua bán bài mới cao. Tờ Tân Văn được lòng độc giả vì ai, thời giá bài người ấy tất phải đắt. Huống chi chủ nhân là Mme Nguyễn Đức Nhuận tức cũng lại là một vị độc giả phụ nữ tân thời. Ngoài chiều ý người mua báo, trong chiều ý người mua bài, ông Phan Khôi mới hết sức viết những lời tầm bậy. Lời tầm bậy đã in lên báo, thời chiều ai mà tức thị hại ai. Đó là do tâm tình mà những lời viết báo của ông Khôi thành ra làm hại cho phụ nữ lưu vậy " (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Theo Tản Đà, việc bài trừ, " giết bỏ " Phan Khôi, chẳng phải là điều thích làm thì làm mà là một bổn phận của " anh em sĩ phu trong phái tân học " :
" Thuộc về phần riêng của từng người, thời nghĩ như ông tú Khôi cùng tôi, có thể cũng kể là hạng sĩ phu về bên Hán học trong nước ta ở cái thời kỳ hiện tại ; nếu ông Khôi mà có làm điều không phải với công chúng, tôi cùng các người khác trong Hán học đều không được tự bảo mình là vô can. Cho nên muốn bài trừ những lỗi tầm bậy của ông Khôi , tức là tôi không có tự vì một phần riêng, mà vì cả các anh em sĩ phu trong phái Hán học.
Nay xin hãy có lời báo cáo để Phụ Nữ tân văn và các bạn phụ nữ trong Nam cùng biết trước, công việc bài trừ còn nhiều, cần phải tra xét tường bạch, và cũng không phải việc cấp bách ; xin ai nấy ung dung chờ coi ". (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Sau khi đã hứa như vậy ở số 26, ra ngày 23-1-1932, Tản Đà đã giữ lời hứa. Ông viết một thôi ba bản cáo trạng rất gay gắt để buộc tội Phan Khôi trước toà án công luận : bản cáo trạng thứ nhất đăng trên An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932, buộc tội Phan Khôi đã xúc phạm đến cả tổ tiên trong bài " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên ", hai bản cáo trạng sau, cũng đăng trên tạp chí trên, ở các số 34, ngày 26-4-1932 và số 37, ngày 16-4-1932) (1).
Ông tự lập lấy tòa án : " Nay tôi xin, trước mặt quốc dân, đỡ lời công chúng, quyền làm sự thẩm án thuộc về toà sơ cấp, mong ai nấy cùng nghe " (An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932).
Tản Đà dựa vào lai lịch bốn chữ " Con Rồng Cháu Tiên " là bốn chữ cực cao, cực quí chỉ cả tổ tiên của một dân tộc và chỉ cả quốc dân có một lịch sử oai hùng để mà kết án. Phan Khôi nhục mạ chẳng riêng gì người ta đời nay, mà còn nhục mạ cả nòi giống tổ tiên ta xưa kia nữa. Ông tuyên án Phan Khôi đáng xử trảm ; nhưng để Phan Khôi được quyền minh oan, nên Tản Đà tạm cho ông được hưởng bản án " trảm giam hậu ".
Nhưng đấy chỉ mới là một tội. Phan Khôi còn nhiều tội khác mà Tản Đà tiếp tục đưa ra toà, đặc biệt là cái tội làm đồi trụy phong hoá, Tản Đà mở đầu bản xử án thứ hai :
" Trong Phụ Nữ tân văn số 95, ra ngày 13 Aout 1931, ông Phan Khôi có viết bài " Tống Nho với phụ nữ " viết đại ý ở dưới đề mục rằng :
" Cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hoá nên phế trừ đi là phải ".
" Xin cứ những lời tầm bậy trong bài ấy, chỉ trích và thuyết minh ra, để phụ nữ trong Nam và chư vị độc giả cùng nghe , rồi sẽ kết tội án Phan Khôi ở cuối " (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một phong tục cao cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ đời Tống :
" Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một đạo trinh tiết của đàn bà Á đông, thực do thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ trong kinh Dịch nẩy mầm ra, đời đời nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hoá tuyệt thanh quí trong nhân loại. Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà chịu sự thiệt thòi, mà lại qui cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống nho. Thực là loạn ngôn hoặc chúng vậy " (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà kết án Phan Khôi là đồi trụy phong hoá và ví Phan Khôi với bọn hạ lưu đã dám nói ra những lời xàm xỡ , Tản Đà viết :
" Gian thay ! ông Phan Khôi, ác thay ! ông Phan Khôi, tiểu nhân thay ! ông Phan Khôi.
" Cứ mấy lời luận lý của ông Khôi, nếu không hết sức bài trừ, mà để cho ông được hành những cái gian, cái ác, cái tiểu nhân, thời nay ông đã viết ra bài này, thời mai ông chắc viết ra bài khác, ngấm ngầm truyền bá vào trong tâm lý một số người trong xã hội, xui khiến cho gái bỏ trinh tiết, giai bỏ trung hiếu ; phàm những cái tốt đẹp trong đạo làm người , như nhân, từ, tín, hậu, lễ, nghĩa, liêm, sỉ đều bị những lời luận lý vô đạo ấy làm cho đến mất hết giá trị. Nếu lo cho quá, thời một phần nhân đạo chẳng sẽ do đó mà dần dần lấn lún đến trở ra cầm thú cẩu chệ sao ? Nguy thật thay !
" Cùng hai câu thực ý của ông Khôi.
" Ông Khôi nói :
" Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác ; đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác ".
" Xưa nay, đàn ông chết vợ mà họ lấy vợ khác, đàn bà chết chồng mà lấy chồng khác, vẫn là sự thường trong thế tục ; có cần chi đến những nhà học vấn phải ra công luận lý mà khuyên bảo cho chúng ru ?
" Đàn ông hoá vợ mà ở yên không lấy vợ khác nữa, hạng người ấy gọi là nghĩa phu, từ xưa đến nay thật ít thấy trong sử sách. Đàn bà hoá chồng mà ở yên không đi lấy chồng khác nữa (người còn trẻ tuổi) hạng người ấy gọi là tiết phụ, so với nghĩa phu thực có số nhiều hơn. Song tóm tự nghìn xưa, nếu có thể cộng được toàn số đàn bà hoá chồng còn trẻ tuổi mà tính xem, chưa dễ nghìn ai mong có một. Vậy thời những người tiết phụ kia sinh ở nhân gian thế, dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm cẩu thú, thời cũng là hòn ngọc ở núi đá hạt châu nơi bể chai. Đời đời vua chúa ơn ban " Tiết hạnh khả phong ". Cũng vì là vật quí của đời, đời nên biết quí vậy.
" Tục thuần hậu mỗi ngày càng kém xưa, giá trinh tiết mỗi ngày càng hiếm có ; vật quí của đời lại đến lúc đời không biết quí, phong dao lý ngữ, nhiều câu nghe thấy đã thương tâm :
" Lẳng lơ chết cũng ra ma Chính truyên chết cũng khiêng ra đầy đồng " -" Ông chết thì thiệt thân ông, " Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai " -" Bà chết thì thiệt thân bà, " Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu " " Ba câu ca dao đó, ngẫm như một câu dẫn ở trước nhất, thực là do phong hoá suy đồi tự ở mồm những kẻ hạ lưu xướng ra. Hai câu dẫn thứ hai thứ ba ở sau, hoặc giả còn là có ai đó, vì cái bụng thương cho đời, mới thoát ra những lời chua xót. Tôi tuy chưa dám định nghĩa ; song tóm lại chỉ đều là những câu ca dao mà không phải là lời luận lý. Lập thành thế, luận thành lý, thời mới thấy như hai câu của ông Khôi là thứ tư. -" Đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác.
" Đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác "
" Hai chữ " thì " đó, ngẫm ra cho kỹ không có tình nghĩa, chút tơ vương ; chính cũng như trong xóm Bình Khang thường có câu " Cuốn chiếu nhân tình sạch " vậy ! Hai câu đó trước lúc chưa đem đăng báo, ông Khôi hoặc có cùng ngồi đàm luận với hai vị chủ nhân và chủ nhiệm tờ báo Phụ Nữ tân văn mà đem ra cùng đọc, thì không biết cái cảm tưởng của những người nghe kia như sao ?
" Nghĩ cho phong hoá đến lúc đã suy đồi, chẳng ai có sức nào giữ được. Song thuộc hành vi riêng của cá nhân, ai có muốn sao cứ tự, thực cũng chưa mấy ai nhẫn tâm dụng lực mong tồi hoại cho cái nền hủ cựu đó chóng đổ đi làm chi. Có chăng, thời là ông Tú Phan Khôi vậy ". (An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932).
Sau khi đã buộc tội Phan Khôi như trên, Tản Đà long trọng tuyên bản án Phan Khôi như các bạn đọc sau đây :
" Hợp hai bài " Bài trừ " An Nam tạp chí số 34 và 37 đây, thời Phan Khôi viết bài " Tống Nho với Phụ nữ " đăng trong Phụ Nữ tân văn số 95 ra ngày 13 Aout 1931 tức là kẻ có tội với danh giáo :
– Vu hãm tiên hiền.
– Loạn ngôn hoặc chúng.
– Bại hoại phong hoá.
" Nay, chiếu theo hình luật Á Đông từ đời vua Thuấn mới đặt, có minh văn trong kinh thư rằng : " Phốc tác giáo hình ". Nghĩa là : " Cái roi, dùng làm hình phạt thuộc về sự giáo huấn ". Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo, vậy nên dùng roi để chừng.
" Chiếu theo các trường dạy nho ta kia xưa, phàm học trò học dốt, đọc không thuộc, hoặc có tội vô lễ thời bắt phải nằm sấp xuống đất, đánh ba roi. Cứ Phan Khôi can phạm ba điều như đã yết trên đây so với những tội học dốt, đọc không thuộc và vô lễ thực lớn hơn gấp trăm. Vậy nên đánh đòn ba trăm roi.
" Chiếu theo pháp lý Á đông, làm tội người đem ra ở chợ, để cùng có công chúng dự biết. Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo nên đánh đòn ở trước sân Văn miếu, để trên có các vị Tiên Thánh, Tiên Hiền cùng giám lãm, dưới có các sĩ phu trong phái Hán học cũng được dự biết.
" Cứ các nhẽ đã sơ thẩm như trên, xin nghĩ kết Phan Khôi phải chịu ba trăm roi đòn, chia đánh ở ba nơi :
- Đánh ở trước sân Văn Miếu Thăng Long là nơi gốc văn vật của sự học nho của nước ta từ triều nhà Lý.
– Đánh ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung kỳ.
– Ở Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân sinh trưởng học tập.
" Ngoài cái tội án Phan Khôi đã nghĩ kết, chiếu theo thường luật có bắt tội oa chủ ; vậy những tiền phí giải Phan Khôi từ Nam ra Bắc, cho lại về đến Huế, về đến Quảng Nam do Ban Trị Sự của Phụ Nữ tân văn phải trích tiền quĩ của báo ấy cung nạp.
" Giở lên các điều án nghị theo như lệ nghị kết về bài Phan Khôi viết : " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên " ; riêng bản án này, trên có Toà Thượng Thẩm riêng xét về danh giáo là toàn thể sĩ phu phái Hán học trong nuớc sẽ cùng phúc thẩm, dưới có tội nhân và oa chủ, ai có muốn thân oan, cứ được hết lời thân oan ". (An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932)
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội như vậy, hình như Phan Khôi vẫn yên lặng không lên tiếng mà chỉ có bạn bè của Phan Khôi lên tiếng một cách gián tiếp. Ấy là theo sự ghi nhận của Nguyễn Tiến Lãng trong bài " Nguyễn Tiến Lãng và Phan Khôi " (An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932). Thực vậy, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công kích Phan Khôi trong hai bài đăng trong báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề là Autour d’une Polémique.
Vì bị Nguyễn Tiến Lãng công kích, Phan Khôi lên tiếng trong bài " Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng " đăng trên Đông Tây số 160, ngày 6-4-32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt, dùng sai tiếng Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả.
Nguyễn Tiến Lãng viết bài kể tội Phan Khôi gửi cho báo Đông Tây, nhưng vì báo Đông Tây không đăng, cho nên Nguyễn Tiến Lãng gửi đăng trên An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932, trả lời ít điểm mà Nguyễn Tiến Lãng cho rằng Phan Khôi đã xuyên tạc ông. Đây lời Nguyễn Tiến Lãng :
" Nay tôi giả nhời cho Khôi rõ :
" 1) – Phan Khôi hỏi : " Ông Lãng có thử đọc qua những bài ấy của tôi không ? …Theo nhời ông Lãng, đủ biết rằng trong khi viết bài ấy, ông Lãng không có dưới mắt ông tập báo kia có bài của tôi, nhưng trước kia, thì ông có đọc cả, nên bây giờ mới nhớ mà nhắc lại cho ".
" Phải, tôi chép nguyên văn đó " nhời văn " ông Phan Khôi hỏi tôi. Nhời văn của Phan Khôi là người chê văn quốc ngữ của tôi " còn chưa xuôi ". Nhưng thôi…Nói làm chi. Tôi chỉ đáp câu hỏi kia ; vậy tôi đáp.
" Chính phải thế Phan Khôi nghe ! Mà tôi không có Phụ Nữ tân văn để giữ luôn ở trong nhà, và không gối văn Phan Khôi ở dưới giường để xem đi xem lại luôn luôn, sự ấy Phan Khôi lấy làm lạ du ? Xã hội thì hiểu rồi, hiểu cho tôi rằng tôi còn có việc khác và văn khác để xem chớ sao ? "
" 2) – Các câu hỏi của Phan Khôi có ý bắt buộc tôi phải đọc lại văn (!) của Phan Khôi rồi viết thêm cho báo Đông Tây mấy cột báo, mà về văn (!) ấy, tôi không đáp ; bởi vì ông Tản Đà đã có cái chương trình bài trừ cái nạn văn (!) và tư tưởng (!) Phan Khôi, mà chương trình ấy đã đang thực hành trong An Nam tạp chí rồi. Việc đời còn nhiều, các bực sĩ phu trong xã hội nên chia nhau mỗi người làm một việc. Huống chi " bài trừ Phan Khôi " tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà.
" 3) – Câu kết của Phan Khôi : " Ai không biết đến đầu đến đuôi hết, thấy bài Nguyễn Tiến Lãng nói như vậy rồi tin đi, ắt phải cho Phan Khôi là người bậy bạ. Hoặc giả ông Nguyễn Tiến Lãng dụng tâm như thế chăng ? Ông Nguyễn Tiến Lãng nên hối ngộ liền. Đừng còn nhỏ tuổi mà lập tâm bất chánh như vậy về sau sẽ hỏng ! "
" Nguyễn Tiến Lãng tôi đáp : " Phan Khôi bậy bạ hay không bậy bạ, xã hội đã thừa rõ, cho nên Lãng này không cần phải nói thêm ; nếu chỉ vì một nhời nói của Lãng mà xã hội từ trước vẫn nhầm vì Khôi, đến nay mới biết Khôi là người thế nào, thì Khôi dù uất bởi ngòi bút này mà đã phải lớn tiếng nhưng Nguyễn Tiến Lãng cũng rất vui lòng vì đã làm được một việc ích. Ông Phan Khôi nên hối ngộ liền ! Tuy đã già đời, nhung cũng còn thì giờ cải tà quy chánh, một đời chưa đến nỗi hỏng tất cả !
" Đối với tôi nói thế là đủ ; sau này mặc cho Khôi lớn tiếng xin để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng cười với tôi ". (An Nam tạp chí số 38).
Như các bạn thấy ở đây, giọng điệu của Nguyễn Tiến Lãng đối với Phan Khôi quả thực gay gắt, phũ phàng.
Vân Bằng đả kích Phan Khôi Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi Phan Khôi (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932) trong bài " Tôi thất vọng về Phan Khôi ". Trước hết Vân Bằng tố cáo Phan Khôi như là người hiếu chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta :
" Thật vậy, Ông Phan đã có phen khai cuộc " bút chiến " - cái này mới thật là " bút chiến " chứ – cùng ông Trần Trọng Kim về sách Nho giáo. " Đình chiến " được ít lâu ông lại khởi " thế công ", khai một cuộc " bút chiến " khác – cái này cũng thật là cuộc " bút chiến " nữa chứ – cùng ông Lê Dư về vấn đề quốc học.
" Ông đã có phen hô hào cảnh cáo những nhà " học phiệt " (xin mở tự vị Khang Hi) làm cho quốc dân đã được hưởng cái thú đọc bài trả lời " mát mẻ " của ông Phạm Quỳnh.
" Ông đã có phen đem cái tài hùng biện ra trước Toà án dư luận làm trạng sư cãi " thí " để " thân oan " cho " bà vua Võ Hậu, đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui trong lúc vạn cơ chi hạ " (theo lời ông).
" Ông đã có phen thuyết lý về cái môn " Lô dích " (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem cái thuyết " xưng hô " ra dạy đời nữa.
" Vừa đây, ông lại ra công " sáng chế " ra một lối thơ " tân thời, tự do đặc biệt " không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người " Hoài cổ " phải ngậm ngùi thương tiếc " Tám vế " Luật Đường ! ! ! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng ?
" Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối với quốc văn là như thế. Cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như lời Ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng : " bạn Phan Khôi " của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là " Léon Daudet " của Việt Nam. Sau khi đã vô tình đề cao tán dương Phan Khôi như vậy, Vân Bằng trách Phan Khôi là thô lỗ, bỏ cả phong thái nhà nho để dùng những ngôn ngữ tục tằn khi trả lời ông Nguyễn Tiến Lãng :
" Vậy mà trái đất xoay mình đâu chừng hai mươi vòng, nghĩa là kể từ ngày tôi đọc bài của ông Phan Khôi đăng trên báo Đông Tây số 160 (6-4-32) đến nay chừng ba tuần lễ, thì bỗng đã làm cho tôi thất vọng ! Tôi hay vậy, dạo trước đừng coi báo Đông Tây là hơn
mà cũng đừng mừng chi về tài ông Phan Khôi là hơn !
" Xin độc giả chịu khó giở tờ Đông Tây số 160 ra ngày 6-4-32 mà đọc lại bài của ông Phan Khôi nơi cột năm ở trang nhất thì liền thấy sự thất vọng của tôi là có căn cứ. Sự thất vọng của tôi về ông Phan Khôi là do ở cái cái cách " xưng hô " bất lịch sự của ông đối với ông Nguyễn Tiến Lãng, cái cách xưng hô đó dã tỏ ra rằng ông Phan Khôi không nhớ cái lễ độ cảa độc giả và quên mất cái thuyết " vô bất kính " của làng nho !
" Vậy, tôi cứ theo như cái " sự ngay thật người luận biện phải giữ " mà kể cái cách xưng hô của ông Phan trên tờ Đông Tây số 160 như sau này : bắt đầu ông viết " ông Nguyễn Tiến Lãng ", sau đến " Lãng ta " sau đến " Va " ! sau đến " Tiến Lãng " sau lại " Ông Nguyễn Tiến Lãng ", Nguyễn Tiến Lãng, và Lãng trống trơn vân vân…
" Không những riêng cách xưng hô bất lịch đó, ông lại còn mở cuốn " tự vị riêng " mà dùng những tiếng " Xỏ lá, ba que " (xin lỗi độc giả tôi cũng không hiểu nghĩa rõ) trên bài luận thuyết " tràng giang đại hải " của ông (Đông Tây số 160 cột 5 trang 1) như vậy thật là thiếu cái vẻ lễ độ với công chúng nữa ".
Để ra ngoài những lời nặng tiếng nhẹ mà người ta tặng cho nhau trong lúc tranh luận nóng nảy, ta nhận thấy cuộc bút chiến này cũng đã đặt ra những vấn đề xã hội rất đáng chú ý. Cuộc tranh luận này còn cho ta thấy Phan Khôi mới lắm. Chẳng những Tản Đà không chịu được cái mới của ông mà cả đến Nguyễn Tiến Lãng một tiến sĩ Pháp cũng chẳng ưa cái mới mẻ của Phan Khôi.
Nhân vụ rắc rối đối với Tản Đà này, ta nhận thấy Phan Khôi là người có tư tưởng rất mới. Ông muốn xã hội Việt Nam phải đổi mới. Mà theo ông muốn tiến tới phải đánh đổ mọi thứ mặc cảm tự tôn, ỷ lại vào những là bốn ngàn năm văn hiến, những là Con Rồng Cháu Tiên. Ngoài ra ông còn đi trước cả các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn trong chiến dịch hạ bệ Nho giáo, chống chế độ đại gia đình, chống tục cản trở đàn bà goá cải giá.
5 - Vụ Án Quốc Học Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học Quốc học là gì ? Thực chất của nó ra sao ? Đó là một vấn đề được đặt ra vào khoảng đầu năm 1930. Nhưng hình như hồi đầu người ta không có đặt vấn đề nội dung cho từ ngữ này. Cái người đầu tiên đã dùng tiếng này nhiều có lẽ là Sở Cuồng Lê Dư : ông lập ra một tủ sách lấy tên là " Quốc học tùng san ". Tất cả các sách do ông biên soạn đều đề là " Sở Cuồng Văn Khố Quốc học tùng san ". Rất tiếc là lúc viết về vấn đề này tôi không có trong tay tất cả các tài liệu liên quan đến vụ này mà không biết tìm đâu cho ra. Các thư viện mà tôi biết đều không có. Năm 1930, Lê Dư cho xuất bản tập nghiên cứu đầu tiên của ông trong bộ Quốc học tùng san, đề là " Bạch Vân Am thi văn tập " với lời ghi chú " giật sử và văn thơ sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ".
Rất tiếc là hiện giờ tôi không có tập này trong tay. Nhưng tôi nghe rằng trong Bạch Vân Am thi văn tập, Lê Dư đã đề cao Nguyễn Bỉnh Khiêm như là người có công nhất trong việc xây dựng nền quốc học.
Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư Trịnh Đình Rư phê bình Bạch Vân Am thi văn tập của Lê Dư. Bài phê bình này, tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc, chỉ biết, theo Phan Khôi, trong bài " Luận về quốc học " (P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) thì Trịnh Đình Rư không đồng ý với Lê Dư, không công nhận nước ta đã có cái gì gọi là quốc học trong bài Luận về quốc học, Phan Khôi có trích lại hai đoạn văn Lê Dư đã trích của Trịnh Đình Rư : " Nước ta từ xưa đến nay chưa từng thấy có cụ nào dựng ra được một học thuyết gì to tát riêng, xét đến lịch sử những nhà học giả Đông Tây mà nghĩ lại đến quốc học nhà, ta tưởng tự lấy làm thẹn " (trích theo Luận về quốc học, P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) và của Phạm Quỳnh : " Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta có gì ; không dám nói bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu An và cụ Trạng Trình nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có ích ? " Cứ theo Phan Khôi thì vì Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh đã có ý kiến như vậy về quốc học cho nên Lê Dư đã viết bài " Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng " trong đó ông Lê Dư lên án đích danh Trịnh Đình Rư và ám chỉ ông Phạm Quỳnh bằng việc trích văn của ông này như Phan Khôi tố cáo mà không gọi tên đích danh Phạm Quỳnh. Trong bài đó Lê Dư kết án Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh rất gắt gao mà ông gọi là vô ơn và nhục mạ tổ tiên. Phan Khôi có trích mấy dòng sau đây của Lê Dư : " Ôi ! các ông chưa xét cho kỹ, mà dám to gan dạn miệng bội bạc tiền nhân như vậy ! Sao các ông vụ nhục nền văn hoá nước nhà như vậy ? " (Trích theo Phan Khôi trong bài Luận về quốc học).
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư Nếu bài phê bình của Trịnh Đình Rư chúng ta không được đọc toàn vẹn vì chưa biết nó được đăng ở báo nào, chứ bài của Phạm Quỳnh thì chúng ta có thể đọc được đầy đủ. Thực ra Phạm Quỳnh không có ý bàn về quốc học mà chỉ bàn đá đến vấn đề mà thôi. Phan Khôi kết án Phạm Quỳnh là học phiệt, nghĩa là kiêu ngạo, khinh người, không chịu trả lời khi có người công kích. Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi qua bài " Trả lời bài Cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sanh " (P.N.T.V. số 67, 28-8-1930). Trong bài này, sau khi đã minh xác và thân oan cho thái độ của mình, Phạm Quỳnh, trong phần kết luận, có bày tỏ nỗi lòng của ông đối với nền học vấn của ta từ xưa đến nay. Phạm Quỳnh phàn nàn rằng tất cả cái học của ta từ xưa đến nay đều là cái học thuê viết mướn chưa có gì đáng giá cả. Thế rồi ông hô hào người trong nước cố gắng gây lấy một nền quốc học mai ngày bằng việc thành lập hội " chấn hưng quốc học " : " Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta đã có gì ? Không dám bội bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu văn An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có giá trị ? Nào đâu là những phái Vương học, phái Thiền tôn như ở Nhật bản, cũng học chữ Tàu mà khám phá được nhiều điều người Tàu không nghĩ tới ? Nước mình tịnh không có gì cả. Đó chẳng qua là bởi cái tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá. Lại bởi cái mô phỏng của người mình nữa, xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay bắt chước người Tây… " Ấy cái hiểm tượng của học giới ta ở đó, ở cái tánh nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người nầy hay người nọ…
" Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây dựng cho nước nhà một nền " quốc học " đích đáng, không Tây mà không Nho, có cái tính cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ trương đã lâu lắm rồi.
" Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ động lập một hội " Chấn hưng quốc học ", họp tập những người có chí học vấn trong Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên thi hành cho nước nhà có một nền quốc học xứng đáng không ?
" Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã nhau vô ích. Phan tiên sanh nghĩ sao ? (Phụ Nữ tân văn, số 67, 23-8-1930).
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh Vì Phạm Quỳnh đã hỏi " Phan tiên sanh nghĩ sao ? ", nên Phan Khôi đã trả lời Phạm Quỳnh trên Phụ Nữ tân văn, số 70, 18-9-1930, qua bài " Về các ý kiến lập hội chấn hưng quốc học của ông Phạm Quỳnh ". Trong bài này, sau khi thương xác với Phạm Quỳnh nhiều vấn đề, Phan Khôi tỏ ý không tán thành việc thành lập cái hội gọi là hội " Chấn hưng quốc học ". Theo Phan Khôi chúng ta dã có quốc học bao giờ đâu mà nói đến mất hay đến suy vi khiến phải chấn hưng. Phan Khôi viết :
" Cái ý kiến của tiên sanh muốn lập một hội kêu bằng " Chấn hưng quốc học " đó, theo tôi, tôi tưởng ta chưa làm được, mà cái hội ấy hình như cũng không cần có nữa. Nhơn rốt bài của tiên sanh, có lời hạ vấn dến tôi, tôi phải trực trần ý kiến, xin chớ ai thấy mà trách tôi : Làm không làm, lo phá đám !
" Trước hết xin gạn hỏi cái tên hội mà tiên sanh phỏng định ra đó. Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi mà sau suy bại đi, mình muốn làm cho nó hồi phục lại cái quang cảnh cũ, vậy mới nói là chấn hưng được. Cái nầy nền " quốc học " của nước ta tiên sanh đã nhận rằng từ xưa chưa có, mà tôi cũng từng nhận như vậy, thì sao gọi được là " chấn hưng " ?
Ấy ngay từ hồi này, như các bạn thấy, chẳng phải chỉ có Trịnh Đình Rư hay Phạm Quỳnh chối ta không có quốc học mà cả Phan Khôi nữa. Phan Khôi còn chối mạnh hơn cả hai ông Rư và ông Quỳnh. Vậy mà trong bài " Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng " Lê Dư chỉ đả kích có Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà không nói gì đến Phan Khôi. Chính sự yên lặng đó của Lê Dư đã được Phan Khôi nhắc tới trong bài Luận về quốc học của ông khi ông viết :
" Còn tôi ai khảo mà xưng " Lạy ông tôi ở bụi này ", cái không những là dại mà là dởm. Nhưng vì nếu tôi có thú khai tôi ra đây thì cái ý nghĩa bài này mới càng đích xác hơn vậy.
" Cái giọng phủ nhận như ông Trịnh Đình Rư và ông Phạm Quỳnh đó, thưa thiệt, tôi cũng có thốt ra nhiều lần rồi…
Một lần sau mới đây, lời càng thống thiết hơn, là trong bài " Hán học ở bên Tây " đăng ở báo Đông Tây cách vài tháng trước. Trong bài ấy đến nỗi tôi muốn nói rằng nước ta từ xưa đến nay không có cái gì đáng gọi là cái học nữa kia. Những cái luận điệu của tôi đó tưởng ít nữa ông Lê Dư cũng có thấy qua, song ông chừa tôi ra, là vì ông cùng tôi có tình anh em riêng, với tôi, ông càng không muốn rắc rối hơn với ông Phạm nữa.
Ông Lê có lòng tốt đối với tôi như vậy tôi nỡ nào đi phụ cái lòng ấy của ông ? Song tôi nghĩ, cái chân lý giữa cõi học nó bắt phải để riêng cái tình anh em trong một nhà. Bởi vậy, trong việc này, tôi phải để mình về bên hai ông Phạm và Trịnh kia, viết bài này cùng ông Lê thương xác lại vấn đề ấy ". (Phụ Nữ tân văn số 94, 6-8-1931).
Cuộc chiến bùng ra gay gắt từ đấy. Nhưng trước khi đi vào việc trình bầy tiếp cuộc tranh luận này, chúng ta cần tìm xem quan điểm Lê Dư từ đấy trở về trước đối với vấn đề quốc học như thế nào.
Tôi không được đọc Bạch Vân Am thi văn tập là tập I trong bộ Quốc học tùng san của Lê Dư in năm 1930, nhưng tôi được đọc Vị Xuyên thi văn tập là tập II của bộ Quốc học tùng san, in năm 1931. Nơi đầu tập sách này có hai bài giới thiệu ngắn một của nhà xuất bản Nam Ký thư quán là nhà xuất bản đứng ra in tất cả sách vở của Lê Dư, một của Sở Cuồng Văn Khố. Theo chỗ tôi phỏng đoán thì hai bài giới thiệu này cũng đã in ở đầu sách " Bạch Vân Am thi văn tập " rồi nay lại được giới thiệu lại ở Vị Xuyên thi văn tập. Bài giới thiệu của Nam Ký thư quán mang tựa đề là " Lời bá cáo của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng thư ". Vậy lời bá cáo này mở đầu bằng những đòn sau đây :
" Quốc hồn ở đâu ? ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta, từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy nên quốc học cũng ở đấy.
" Ông Sở Cuồng là một nhà đốc chí hiếu học, cố sức vun bồi nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ngót mười năm nay ở trường Bác Cổ, lưu lý sưu tập những tài liệu thuộc về quốc văn, quốc sử biên tập thành bộ " Quốc học tùng san " kể hơn một trăm tập nào là lịch sử, nào là văn chương, tài liệu như núi như non, từ tảo như hoa như gấm, đủ chứng minh kho văn học của ta phong phú như vậy, các bậc tiền bối ta, có công với nền quốc học như vậy " (Lời bá cáo của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng san, trong Vị Xuyên thi văn tập 1931). Đến chính Sở Cuồng cũng có mấy lời giới thiệu Quốc học tùng san của ông, cũng in ở đầu cuốn Vị Xuyên thi văn tập như thế này : " Bản Văn Khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu tập văn chương và lịch sử của các nhà học giả xưa biên thành bộ " Quốc học tùng san " này, phương pháp theo lối khảo cổ, cốt thu thập được nhiều tài liệu cho tiện về sau này, các nhà văn học muốn khảo cứu về vấn đề gì đều sẵn đủ cả, cho nên cái nội dung có khác với các quyển giáo khoa và các quyển thi văn tinh tuyển khác, xin độc giả lượng xét cho ". Bài giới thiệu này ký là " Sở Cuồng Văn Khố ".
Cứ những bài giới thiệu trên đây thì ta thấy quan điểm của Lê Dư chưa được minh bạch rạch ròi cho lắm. Nếu quan điểm đó không chỉ cho quốc học là văn học thì ít ra quốc học hầu như là văn học. Thứ nhất ta thấy những sách trong bộ quốc học của Lê Dư gồm toàn sách văn chương : nơi bìa tập sách Vị Xuyên thi văn tập, tác giả liệt kê " Sách bộ Quốc học " của ông chỉ gồm toàn sách văn chương như : Văn đàn bảo giám, Bạch Vân An thi văn tập, Bằng quân thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn tập, Việt văn dẫn giảng…Thứ hai là ta thấy Lê Dư hứa sẽ viết một bộ Việt Nam văn học sử với dụng ý minh chứng nền quốc học Việt Nam rất phong phú. Thứ ba ta thấy lời giới thiệu của Nam Ký thư quán cũng hiểu quốc học là văn học như trong câu : Quốc hồn ở đâu ? Ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên quốc học cũng ở đấy ". Thứ bốn ta thấy chính Lê Dư trong " Mấy lời giới thiệu " cũng nói đến việc xây cơ sở nền quốc học bằng việc sưu tầm văn chương :
" Bản văn khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của các nhà học giả xưa, biến thành bộ quốc học tùng san này ".
Phan Khôi đã chẳng hiểu quốc học như Lê Dư, vì thế ông mới viết bài luận về quốc học.
Phan Khôi luận về Quốc Học Trước hết Phan Khôi nói đến việc dùng danh từ quốc học trong văn giới Việt Nam cũng như văn giới Trung Hoa mới là từ mấy năm trở lại đây mà thôi. Phan Khôi định nghĩa chữ Quốc học rất rành rẽ. Ông viết :
" Quốc học là một danh từ mà cũ và mới có nghĩa khác nhau. Hồi trước ta nói " quốc học " tức là cái trường học cho cả nước ; như trường Quốc học ở Huế là lấy nghĩa ấy : Còn chữ " Quốc học " ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Vậy khi nói " quốc học " cũng gần giống như " quốc phục " là y phục riêng của một nước. Nói " Quốc kỳ " là hiệu kỳ riêng của một nước.
" Chữ quốc học trong bài này chuyên nói về nghĩa mới là nghĩa sau đó (Luận về Quốc học).
Như vậy, theo Phan Khôi, Quốc học là nền học thuật, tức nền tư tưởng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh hưởng, chi phối đời sống của dân tộc nước ấy khiến cho dân tộc ấy thành khác biệt những dân tộc trên thế giới.
Dựa theo giới thuyết như trên về quốc học, Phan Khôi đồng tình với Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà quả quyết nước ta chưa có quốc học. Phan Khôi cho rằng đây là một vấn đề học vấn, vấn đề chân lý ; có thì nói có, không thì nói không, chứ đừng vì tình cảm, vì tự ái dân tộc không đúng chỗ mà phải nhận là có cái ta chưa có :
" Ông Lê nói có, ông lại hứa rồi đây ông sẽ đem chứng cớ ra. Song, truyện ấy để lát nữa sẽ nói, đây tôi xin tỏ ra cái cớ tại sao mà chúng tôi phải hô hào lên cho người ta biết rằng nước ta không có quốc học.
Sự học tức là sự trí thức, nó chuyên khuynh hướng về lý trí mà không nên xen vào một chút tình cảm. Đức Khổng cũng dạy rằng cái học của người đời xưa là vị kỷ và bắt đầu từ thành ý nghĩa là không dối mình. Khi nói về cái học của một người đã vậy thì khi nói về cái học của một nước cũng vậy. Nếu nước ta quả không có quốc học thì dầu nó là một sự nhục cho mình đi nữa cũng phải chịu, không nên vì tình cảm mà nói có, cho thành ra dối mình. Dối mình là một cái hại lớn lắm, cho người cũng như cho nước. Bởi vì, nếu không mà nói có, ai nấy tin rằng có, sẽ sanh ra lòng tự phụ, mà tự phụ một cách hư ngụy, rồi không lo tu tấn nữa, nhơn đó cõi học trong nước lại càng tối tăm thêm. Do lẽ ấy trước khi muốn người nước mình bắt đầu từ ngày nay lập nên một nền học thuật chúng tôi phải khai thiệt ra cho ai nấy biết cái tình hình trong cõi học nước ta từ trước ra thế nào ; thấy không có thì chúng tôi phải nói không có, đó là chỗ trung hậu thành khẩn của chúng tôi, cũng như một nhà kia ông cha nghèo, thì phải khai thiệt là nghèo, không có một cục đất nào thì phải khai thiệt là không có một cục đất ; hầu cho con cháu mà lo làm ăn vậy.
" Đó, nếu ai đã tin bụng tôi, hoặc chúng tôi, thì sẽ không trách sự phủ nhận ấy là bội bạc, là vụ nhục nữa ; bây giờ đây, cái vấn đề chỉ còn là sự " có " với " không " mà thôi. Như ai nói " có " thì phải đem chứng cớ ra ". (Luận về quốc học).
Sau khi minh định quan niệm và thái độ thẳng thắn như vậy, Phan Khôi duyệt qua một ít các nhà học giả xưa mà Lê Dư thường nâng lên như là các ông tổ của nền quốc học Việt Nam thì chỉ thấy họ là những nhà văn học chứ không ai kiến tạo được một hệ thống tư tưởng riêng biệt cho xứ sở này.
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học Đồng ý và tiếp theo Phan Khôi, Phạm Quỳnh viết một bài đại luận " Bàn về quốc học ", đăng liên tiếp trên hai số báo Phụ Nữ tân văn số 104 (15-10-1931) và số 105 (22-10-1931). Nơi bài số 104 (15-10-1931) Phạm Quỳnh thử ngược dòng lịch sử duyệt qua một vòng xem có thể tìm đâu ra được vết tích quốc học không thì Phạm Quỳnh đã phải thất vọng hoàn toàn.
Theo Phạm Quỳnh, anh hùng ta có, liệt nữ ta có, danh sĩ, cao tăng ta cũng có, nhưng trong " cõi học nước ta, cổ kim chưa có người nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập ra những học thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một " nhà " đối với các " nhà " khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa " (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104). Cái học của ta, Phạm Quỳnh thấy toàn thị là cái học mướn mà học mướn ấy cũng chưa học cho đến nơi đến chốn… Tổ tiên ta chỉ chú trọng đến cử nghiệp cho nên rút cục sau hàng ngàn năm các cụ học hành mà con cháu ngày nay nhìn về các cụ chẳng tìm thấy gì gọi được là học thuật tư tưởng đứng đắn cả. Về việc định nghĩa quốc học là gì, ý tưởng Phạm Quỳnh giống ý tưởng Phan Khôi, duy có điều Phạm Quỳnh nói sau nên có chiều khúc chiếc gẫy gọn hơn. Ông nói : " Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một nước, có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp có trước tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy " (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104).
Cứ theo định nghĩa ấy Phạm Quỳnh đã đồng ý với Phan Khôi mà bảo rằng nước ta chưa có quốc học. Rồi từ đó ông đi tìm nguyên nhân đã xui khiến nên tình trạng buồn tủi kia. Phạm Quỳnh cắt nghĩa sự thiếu vắng kia bằng ba lý do vừa địa lý, vừa lịch sử, vừa chính trị. Về địa lý, nước ta quá bé nhỏ cho nên hầu như bị Trung Hoa nuốt trửng nên bị mất hẳn độc lập về tinh thần.
Về lịch sử, nước ta càng bị nước Tàu đè nén hơn nữa. Ngoài 10 thế kỷ nô lệ, Việt Nam trong suốt thời độc lập vẫn phải đối phó gay go cơ cực với Tàu. Ấy là chưa nói đến việc ta coi các học thuyết truyền từ Tàu sang đều là tôn giáo cả cho nên không khi nào dám bàn cãi.
Thuộc về chính trị, thì nước ta xưa kia bị cái nạn quân chủ chuyên chế. Nhà vua đã đặt ra một lối học rất gò bó để làm tiêu chuẩn tuyển chọn người tài thành ra bao nhiêu sáng kiến tư nhân bị tiêu diệt dần đi.
Sau khi đã nhìn về dĩ vãng mà nhận định vấn đề như vậy, Phạm Quỳnh đã hướng về tương lai mà đặt vấn đề : làm sao để xây dựng được một nền quốc học ? Nếu đã tố cáo cái học nô lệ theo Tàu xưa kia thế nào, thì Phạm Quỳnh lại chống cái học hoà đồng theo Tây như vậy. Cả phần thứ hai của bài bàn về quốc học, tức bài số 105 (P.N.T.V. số 105, 22-10-1931), Phạm Quỳnh dành cho việc phân tích nghiên cứu vấn đề để tìm một lối thoát cho tương lai đang lúc Tây phương chi phối chúng ta nặng nề chẳng kém gì Tàu đồng hoá các cụ ta xưa kia. Phạm Quỳnh muốn đề ra một triết lý văn hoá, nó sẽ là linh hồn, là cơ sở cho nền quốc học tương lai. Triết lý đó là triết lý dung hoà. Ông viết : " Muốn cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng phương pháp phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng nghĩa lý cũ của Á đông ta rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ, đối chiếu với những điều chân lý cùng những sự phát minh của khoa học thái tây. Kết quả của sự phân tích cùng tổng hợp đó, tức là tài liệu để gây ra quốc học sau này vậy " (P.N.T.V. số 105).
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi Sau loạt bài của Phan Khôi đến của Phạm Quỳnh, đến lượt Lê Dư lên tiếng. Không như những lần khác, lần này quan điểm của Lê Dư được trình bầy khá minh bạch. Người ta có thể không đồng ý với ông nhưng biết rõ ông muốn gì chứ không như trước đây. Có lẽ những lời công kích ông trước đây, đã khiến cho Lê Dư suy nghĩ và cô đúc lại để đặt ra một lý thuyết cho chữ quốc học mà trước kia có lẽ ông chưa có ý kiến rõ rệt. Lê Dư cũng tự nhận thấy rằng sự không rõ rệt đó đã xui khiến nên những cuộc tranh luận mà ông cho là vô ích cho nên ông viết bài " Vấn đề quốc học " ghi rõ định nghĩa và nội dung quốc học (P.N.T.V. số 107, Nov 1931).
Lê Dư đã định nghĩa quốc học : " Quốc học là học vấn, kỹ thuật của một nước : học vấn kỹ thuật ấy là cái cố hữu của mình hay là cái mình học của người nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành cái cố hữu của mình mà người ta không ai có " (P.N.T.V. số 107).
Sau khi định nghĩa, Lê Dư mô tả nội dung của quốc học : " Quốc học là đối với các học vấn ngoại lai như : Hán học, Phật học, mà nói có chỗ đặc biệt mà từ xưa đến nay đã có học phái, có ảnh hưởng đến nhân quần xã hội ta ; người ngoại quốc bàn đến cái học ấy, phải cho là cái học đặc biệt của người nước Nam, không giống nước nào hết " (Bàn về quốc học).
Rồi Lê Dư kể lể các yếu tố làm nên qua niệm quốc học theo ông hiểu :
" Đã là quốc học thì nội dung phải bao hàm cả quốc văn, quốc sử, quốc túy ở trong.
" Quốc văn – lấy nhất ban quốc văn học làm chủ như các học thuyết, lý thuyết những sách vở của tiền nhân đã trứ thuật để lại và những quốc ca, quốc ngữ (chữ nôm và chữ quốc ngữ) đặc biệt của ta.
" Quốc sử – lấy nhất ban chính trị sử làm chủ như cách tổ chức, cách hành động về chánh trị và những pháp luật, chế độ, phong tục, tập quán, kỹ thuật đặc biệt của ta.
" Quốc túy – lấy nhất thiết trường sở mỹ điểm thuộc về vật chất, về tinh thần của dân tộc tính cố hữu mà do cái tình hình địa lý và nguyên nhân lịch sử đã dưỡng thành trong mấy mươi thế kỷ nay.
" Ba cái ấy, tôi đã nhận thấy là quốc học của ta và là chủ nghĩa của tôi chủ trương đó (P.N.T.V. số 107).
Sau đó Lê Dư bảo đó chẳng phải ý kiến lập dị riêng của ông mà là chủ trương của cả cái dân tộc cực văn minh là dân tộc Nhật Bản. Và chỉ ai dốt nát không biết như vậy mới dám phủ nhận nền quốc học phong phú của ta. Ta đọc thấy những dòng đại khái như sau đây của Lê Dư ám chỉ về những người bảo ta chưa có quốc học : " Ôi ! sao các ông không xét đến sự thật và tình hình học vấn nước nhà xưa nay, mà đã vội mạt sát tiền nhân như vậy ?
" Ôi ! không căn cứ theo sách vở , thì dễ nói bậy bạ, cho nên tôi thường có một câu cách ngôn rằng : không biết pháp luật thì dễ nói ngang, không xem sách vở thì sẽ nói càn " (P.N.T.V. số 107)
Lời lẽ của Lê Dư như các bạn thấy trên đây quả là kết án bọn các ông Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi là dốt nát.
Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà Sau bài công kích của Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật đứng ra hoà giải qua bài " Điều đình cái án quốc học ". Đây nguyên là một bài diễn thuyết ông đọc tại Hội Trí Tri Hải Dương ngày 26-11-1931, rồi sau lại đăng tải trên Nam Phong tạp chí số 167 ra tháng 12 năm 1931. Nói là hoà giải, là điều đình, nhưng thực ra Nguyễn Trọng Thuật đứng hẳn về phe Lê Dư, công kích phe Phan Khôi, có điều là Nguyễn Trọng Thuật công kích bằng lời lẽ phải chăng mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật mở bài diễn thuyết của ông bằng việc ghi nhận nội dung và lý do vụ án mà ông gọi là " vụ án quốc học ".
" Hiện nay trong nước ta đang có một cuộc tranh luận về vấn đề quốc học, là cái học riêng của một nước. Nó khác với nghĩa quốc học cũ nghĩa là cái nhà trường học của cả nước như xưa. " Khởi xướng ra hai chữ quốc học về nghĩa mới ở ta đây là ông Lê Dư ; cãi lại rằng nước ta không có cái học đáng gọi là quốc học là ông Phan Khôi. Hai bên tranh luận ở báo Đông Tây Hà nội, thành ra một cái học án cho học giả trong nước đang bàn xét " .
Nguyễn Trọng Thuật có trách Lê Dư, nhưng điều ông trách Lê Dư là điều rất nhẹ. Theo ông, cái lỗi của Lê Dư, nếu có, chỉ là Lê Dư " sơ ý một chút " mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật viết :
" Nay xét đến nguyên nhân cuộc tranh luận này, thì chỉ ông Lê Dư sơ ý một chút để nên chuyện mà thôi. Nguyên ông làm trong trường Bác Cổ Hànội đã lâu năm, khảo cứu sưu tập được nhiều những tập văn thi nôm của nước ta, nay ông muốn đem in dần ra làm một bộ sách tùng thư thuần về bản quốc. Ông lấy việc làm như thế là nó thuộc vào một phần trong khoa quốc học như của Nhật Bản đó. Ông bèn đặt tên cho bộ sách ấy là " Quốc học tùng san ". Cuốn in mở đầu là " Bạch Vân Am thi tập ", trên đầu bìa có bốn chữ tên bộ sách như thế… "
Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Trọng Thuật, cái sơ ý của Lê Dư là ở chỗ dùng một từ ngữ với một nội dung mới mà không minh định trước cho độc giả biết cái nội dung mới mẻ ấy.
" Đại phàm mới phát minh ra một danh từ về chủ nghĩa gì hay là mới thâu thái nó ở đâu mà đem xướng lên cho xã hội thì phải giải thích cho rõ cái tính cách của nó ra trước. Bởi vì ngày nay thường một danh từ mà nghĩa mới nghĩa cũ, nghĩa rộng nghĩa hẹp nhiều lắm, thế mà ông Lê không giải thích cho cái tên quốc học mà ông mới dùng ấy một câu nào cả. Lại quyển " Bạch Vân Am thi văn tập " ông Lê giữ tính cách biên tập và tồn cổ, cho nên ông không có bình luận gì vào đấy một câu nào. Nghĩa là chỉ để cho học giả được đủ nhiều tài liệu để nghiên cứu mà thôi. Nhưng ông cũng không dặn cho người ta biết thế. Ở cái đời khoa học thực nghiệm này, trông ngoài bìa sách thấy hai chữ " quốc học " mới mẻ to tát, mở cuốn sách thấy một ít lời sấm, thì ai cũng phải ngờ. Ấy vì thế nghị giả nhận sai nghĩa chữ quốc học đi mà thành lầm ".
Nguyễn Trọng Thuật cho rằng chính bởi thiếu minh định nội dung từ ngữ như vậy mà làm cho Phan Khôi hiểu lầm. Ông phân tích và bàn giải về sự lầm lẫn của Phan Khôi một đàng vì không hiểu biết nội dung từ ngữ quốc học theo nghĩa của Nhật bản, một đàng vì thiếu sự tìm tòi và đối chiếu các tài liệu cũ của ta với nhau vì so sánh chúng với các nước khác. Đó là ý nghĩa của đoạn văn sau đây :
" Nay xét ra nghị giả lầm vì hai cớ này : một là không biết đến cái nghĩa quốc học đan thuần của Nhật Bản, nhận thấy ở Trung quốc đâu đầu đời Dân quốc, có một phái nào đó xướng lên lấy sách bách gia chư tử làm quốc học để đối với Tây học đang tràn vào. Quả như lời nghị giả thì nghĩa quốc học ấy là ngoan cố khoa đại đấy, quả thế thì lầm. Hai là nghị giả không đem thời đại học thuật của nước nhà mà so sánh với xa gần, và đồng thời không chịu lượng xét cho học giới ta xưa bị những trở lực gì mà dù có ít nhiều điều biệt kiến cũng phải tiêu trầm, rồi không chịu khó bới móc trong chỗ giấy rách mà nhặt nhạnh lại, nhất diện cứ câu chấp ở đống sách bề bộn của Tàu mà kết án cho cổ nhân mình, kết luận rằng : "Nước ta không có cái học gọi là quốc học ". Xét ra thì ý nghị giả muốn nói về cái học chung của thế giới kia, mà gọi lầm là quốc học đấy, chứ quốc học thì nước nào mà chả có.
" Song le dù đối với cái học chung của thế giới đi nữa, so với cụ Khổng, cụ Phật cùng Đông châu chư tử thì cổ nhân ta không những không có mà lại còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái thời đại học thuật với nhau, nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh Thanh, mà đời kêu là đại nho thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số nhiều không biết trọng mà để trầm mai đi, thì còn lấy đâu mà thành lập lưu hành được. Chứ nếu đều được thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh tượng học thuật khủng hoảng như bây giờ… "
Đoạn văn trích trên đây cho ta thấy Nguyễn Trọng Thuật chủ trương rằng tổ tiên ta có thua kém thì chỉ thua kém cụ Khổng, cụ Phật thôi, chứ có thua kém gì bách gia chư tử của Tàu và các học giả của Nhật.
Để minh chứng cho lập trường trên, Nguyễn Trọng Thuật phân biệt cái học ra làm quốc học và thế giới công học rồi lần lượt định nghĩa, mô tả thế nào là quốc học và thế giới công học : " Cho được hiểu rõ hai điều lầm của nghị giả trên này, tôi xin bàn giải, so sánh và chứng dẫn luôn làm một bài khảo cứu như sau này, các ngài tự suy xét phán đoán lấy, chứ tôi không muốn theo cách biện luận tỉa tách từng lời, cãi vặt từng câu nữa.
" Dưới đây trước tôi phân giải cho hai cái học ở trong học giới các nước ngày nay là quốc học với thế giới công học khác nhau thế nào. Rồi tiến lên xem học thuật Việt Nam đối với hai cái học ấy ; về quốc học thì lấy nghĩa của Nhật Bản rồi xem Việt Nam sẽ có những gì, về thế giới công học thì trước xét ở Trung quốc, ở Nhật Bản về đồng thời xem thế nào, rồi xét đến Việt Nam xem thế nào.
" Hai cái học trong học thuật thế giới :
" Học thuật các nước thế giới đến ngày nay là hoàn bị và tinh tế, song lấy quốc tính mà phân ra thì có hai loài là quốc học và thế giới công học. Quốc học là cái học riêng chỉ một mình nước ấy có. Thế giới công học là cái học chung của các nước học lẫn của nhau.
" Coi đó thì biết quốc học tức là cái học bất dịch, chỉ một nước ấy có, chỉ người nước ấy cần phải học, hoặc là chỉ người nước ấy mới có thể học thâm thấu được, còn nước khác không có, người nước khác không cần phải học, hoặc là có học cũng không thâm thấu được. Đến như thế giới công học thì là cái học chung, là cái học biến dịch, nghĩa là tùy thời mà đổi mới tùy thời mà khứ thủ không nhất định được.
" Ví như một người, quốc học là phần bản thể ; thế giới công học là phần bồi dưỡng. Bản thể thì cần phải nuôi cho lớn khôn khỏe đẹp ra mà không bỏ và thay chỗ nào được, nếu bỏ hay là thay chỗ nào thì là bất cụ, quá thì chết. Còn bồi dưỡng thì nếu nhà có thì chớ, bằng có mà thiếu, hoặc có mà xấu, hoặc không có đi nữa thì cứ lấy ở ngoài…
" Xem thế thì về thế giới công học, thiếu đâu cứ cầu ở ngoài, đã hủ rồi thì cứ cải lại, hoặc khử cả đi, hoặc phát kiến thêm ra được để đóng góp với đời càng tốt. Đến như quốc học thì phải có sẵn cả rồi, là cũ kỹ tích lũy chứ không phải là mới. Hoặc có nhãng bỏ thì nay đem ra, có tản mát thì nay thu tập lại, chứ không phải đi chuốc ở đâu đem vào được ".
Như vậy, theo Nguyễn Trọng Thuật, cũng như theo Lê Dư, quốc học gồm có " quốc sử, quốc văn, quốc thần, địa dư chí, cổ điển, ca dao và văn thi. " Quốc sử thì gồm có " sử ký, liệt truyện, gia phả và bi ký " ; Quốc văn tức là " ngôn ngữ văn tự ", tức cũng là " cái gốc của cõi học một nước ", quốc thần thì gồm " những vị thần từ Hùng Vương trở xuống nào quốc tổ, nào vĩ nhân cùng những vị có công đức ", địa dư chí thì biên chép các nơi danh thắng trong nước ; cổ điển tức là " chính trị của lịch triều " ; chế độ của xã hội, phong tục của dân gian ; ngạn ngữ phong dao là " cái kho tự điển văn luật, vừa là một pho kinh, điển của cả một dân tộc kinh nghiệm hoặc sở đắc về luân lý, về phép hành vi, về mĩ cảm ", văn thi là " kho tàng văn học thơ của các văn nhân thi sĩ ".
Sau khi đã phân tích và mô tả quốc học và thế giới công học là thế nào rồi, Nguyễn Trọng Thuật dựa vào các quan niệm đó mà duyệt lại lịch sử của Việt Nam, của Trung Hoa, của Nhật để minh chứng, ở mọi địa hạt, ta không có thua kém gì Trung Hoa hay Nhật Bản, có chăng ta chỉ thua kém là không có một " cụ Khổng ", một " cụ Phật " mà thôi.
Cuối cùng Nguyễn Trọng Thuật, căn cứ vào lịch sử để trình bày một cách cụ thể nền quốc học và nền thế giới công học như là đã có cơ sở liên tục qua suốt cả lịch sử Việt Nam. Cái học của Việt nam dưới con mắt của Nguyễn Trọng Thuật quả cũng đã có trường phái đàng hoàng. Ông viết :
" Tóm lại học thuật Việt Nam trong một thời đại, cả Nho học Phật học đều có ba cái tính chất khác nhau là hợp sáng, biệt sáng và toàn mô phỏng. " Ba tính chất ấy có những học phái này : " Về Nho học, tính chất hợp sáng có Hán nho đích Việt Nam học phái, tính chất biệt sáng có Chu An thực hành học phái, Hoa Việt Nho học phái, Quế đường học phái hay là Lê Nguyễn nho học phái, tính chất toàn mô phỏng có Tống nho học phái ".
Như vậy, chẳng những ta không thua kém Tàu hay Nhật mà cũng không đến nỗi hổ thẹn nếu so sánh với các nước trong thiên hạ. Nguyễn Trọng Thuật diễn tả ý tưởng đó ở đoạn sau :
" Bởi vậy tôi đã ví quốc học là bản chất, ví những cái học cũ ở Á Đông là nhà trường Đông phương học ; mà những cái sở đắc cũ là những cái bằng tốt nghiệp trước vậy. Bây giờ bạn học cũ đã đều lên trường cao đẳng mới, ta dù chậm chạp cũng đã tìm thấy cổng trường, nhưng trước khi thụ giáo, ta phải tự sát hạch lại cái bằng tốt nghiệp cũ của ta là phải lắm. Cái bằng tốt nghiệp cũ của ta, về món quốc học, những tài liệu về bản chất, so với bạn học cũ dẫu chẳng được toàn ưu điểm gì, nhưng cũng ưu liệt tương bán. Về món công học dù bị nội giới ngoại giới cùng số nhiều ham mê về cử nghiệp khiến cho có sở đắc mà không được lưu hành, có lưu hành mà được một số ít người hoặc được một thời kỳ ngắn ngủi ; song những tinh thần chủ nghĩa như là điều hoà siêu việt với thực tế, thực hành minh đạo hoá dân, tự tín, tự giác về quốc âm thổ sản như trên ấy, thực đã biết đem cái học công hữu của thế giới biến hoá ra làm cái học độc hữu của một nước rồi đó ".
Qua sự phân tích bài " Điều đình cái án quốc học " như trên đây, các bạn đã nhận thấy Nguyễn Trọng Thuật, tuy nói là không bênh bên nào, mà kỳ thực thì đã bênh Lê Dư và kết án Phan Khôi. Có điều là lời lẽ Nguyễn Trọng Thuật nó thanh lịch, kín đáo, nhẹ nhàng.
Phải chăng vì vậy mà Phan Khôi không chấp nhận sự hoà giải của Nguyễn Trọng Thuật qua bài " Bất điều đình " của ông đăng ở báo Đông Tây số 133. Tiếc rằng bài " Bất điều đình " của Phan Khôi tôi chưa được đọc cho nên không biết Phan Khôi đã trả lời Nguyễn Trọng Thuật những gì : hiện giờ tôi chưa làm sao tìm ra được tờ Đông Tây nào.
Phan Khôi chống sự giàn hoà của Nguyễn Trọng Thuật Nhưng cứ đọc bài Siêu Việt công kích Phan Khôi vì Phan Khôi không chấp nhận sự điều đình của Nguyễn Trọng Thuật thì cũng biết qua được thái độ của Phan Khôi đối với Nguyễn Trọng Thuật. Để phản đối cái việc Phan Khôi không chịu nhận sự hoà giải của Nguyễn Trọng Thuật, Siêu Việt đã trích những lời Phan Khôi buộc tội những ai muốn điều đình đều là hạng người hèn nhát : " Người ta mà ưa làm kẻ điều đình là chỉ vì có ý sợ khó, có ý chiều đời, có ý thích làm lớn, bằng không có ý đó thì bổn thân cái thuyết điều đình chẳng đứng một mình được vì nó vừa đen vừa trắng hay là không đen không trắng, dễ nói quá, mà chẳng có nghĩa gì " (theo bài " Đọc bài Bất điều đình của ông Phan Khôi " trong báo Đông Tây số 133, An Nam tạp chí số 43, 1-6-1932).
Sau khi đã trích câu văn của Phan Khôi, Siêu Việt lấy nó để mà đả kích Phan Khôi là ngụy biện thiếu tư cách của một học giả tự xưng là trọng luân lý : " Ông Phan Khôi thường tự nhận là một nhà học giả, song đọc đoạn văn trên vừa rút ở bài của ông, tôi không thể coi là cách lý luận của học giả được ; gọi là cái luận điệu của trạng sư thì đúng hơn. Cái bổn thân của sự điều đình thế nào ? Nó có hại và vô giá trị không, ông Phan hãy cùng tôi nghiên cứu " (Siêu Việt, An Nam tạp chí, số 43).
Phản đối việc Phan Khôi không chịu điều đình, Siêu Việt đã định nghĩa thế nào là điều đình theo nghĩa triết học. Ông viết : " Điều đình hay là tổng hợp cũng vậy, có khi thì là cái chung cục của một cuộc biến, mà có khi lại là cái mầm của một cuộc biến khác. Một lý thuyết dù hay dù dở, bao giờ cũng có một phái tán thành, hết sức duy trì lấy nó. Đồng thời lại có một phái khác phản đối lại. Bởi đó, sự xung đột của hai lý thuyết mà rút lại thì là sự điều đình vậy. Hết cuộc biến thiên này lại kế tiếp một cuộc khác, nhân loại tiến hoá không biết tới đâu mới là cùng " (An Nam tạp chí số 43).
Sau khi đã tranh luận với Phan Khôi về ý nghĩa của chữ điều đình, Siêu Việt lại thương xác với Phan Khôi về thái độ cực đoan của Phan Khôi. Cũng nhờ Siêu Việt mà ta biết Phan Khôi có chủ trương cực đoan. Siêu Việt trích lời Phan Khôi : " Đại phàm sự học nhờ ở sự cực đoan mà mới có tiến bộ. Nói về triết học, ai có khuynh hướng về duy vật thì cứ duy vật đi. Mỗi bên đều cứ theo chỗ mình tin tưởng dựa vào luận lý học và phát huy nghĩa lý cho tới cùng như vậy nền triết học mới càng ngày càng chói sáng thêm. Học giả bên Tây sở dĩ tấn tới mau lắm là nhờ đi theo con đường đó. Con đường đó là gì ? Chẳng phải là sự quan ma tư ích cho nhau của hai cái thái cực duy tâm và duy vật là gì ? " (Siêu Việt An Nam tạp chí số 43).
Trích lời Phan Khôi rồi, Siêu Việt lại bàn giải về vấn đề cực đoan như là một phương tiện trên đường khám phá chân lý. Như chỗ tôi hiện biết, thì hình như cuộc tranh luận đã ngừng lại ở đấy. Vấn đề tuy chưa ngả ngũ hẳn ra đàng nào, vụ án quốc học cũng khai mào cho việc đặt ra rất nhiều vấn đề văn hoá xã hội và hối thúc học giả đi vào con đường tìm kiếm, giải quyết : Văn học nhờ vậy mà tiến bộ rất nhiều.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:26:44 GMT 9
6 - Vụ Án Thơ Cũ Thơ Mới Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương Chẳng phải đột ngột, bất thần mà có cuộc cách mạng về thơ. Cuộc cách mạng ấy, thực ra, đã âm ỉ chuẩn bị từ lâu. Năm 1917, trên Nam Phong tạp chí, số 5, nơi bài " Bàn về thơ nôm ", Phạm Quỳnh nhân đọc cuốn Cổ xúy nguyên âm của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ thái độ về thơ cũ mà ông coi luật lệ thực không có khác luật hình : " Người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lộn, vẫn tất áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sánh những khóe thôi xao, giỏi những cảnh xuất sáo mà gây nên những bức thanh âm tuyệt điệu ; người nào không thuộc luật thì phạm phải những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình : nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu ". (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5, Nov, 1917). Sau khi đã nêu lên những lề luật chật hẹp như vậy, Phạm Quỳnh chê tâm lý của cái thứ thơ ấy là thứ tâm lý đã bị sửa chữa thành ra giả tạo : " Người ta thường nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó hay hơn, trúng vần, trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5). Sau đó, Phạm Quỳnh giới thiệu hai bài thơ, bài " Qua đèo ngang " của bà Huyện Thanh Quan, và bài " Soir en montagne " của Léonce Depont và trình bày cho độc giả nhận thấy thơ Tây tình tứ, dồi dào, siêu việt bao nhiêu, thì thơ ta giả tạo, tiểu xảo, gò bó bấy nhiêu. Và ngay từ hồi này Phạm Quỳnh hình như cũng mong có một sự đổi mới bằng sự bắt chước Pháp trong khi ông viết :
" Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa nơi giao giới của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra thì có thể điều hoà được cái hay của hai đằng mà không mắc phải những khuyết điểm. Ta cứ nên giữ lấy cái lối tranh cảnh của ta nhưng ta nên rộng cái khuôn nó ra một tí mà bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người " (Bàn về văn nôm, Nam Phong số 5).
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp Nếu năm 1917 đối với thi ca cũ, Phạm Quỳnh mới chỉ dám trách nó là quá ư nghiêm nhặt nhưng vẫn nhận nó là tuyệt xảo thì năm 1928 trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã dám táo bạo chê luật lệ thơ cũ của ta là trói buộc, tù hãm đã vậy mà lại còn thô tục nữa : " Song từ ngày đem thất ngôn luật vào khoa cử rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú...Ấy chỉ là luật riêng dạy về lối làm thi trong việc khoa cử mà thôi, nào có phải cái phép tắc chánh truyền của nghề thi như vậy ? nhưng mà ngày nay người ta cũng tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi trói. Thấy có một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà cũng dạy theo lối thi khoa cử ấy, thì thật là tục quá. Thi quí cho nhã ; mà đã tục thì còn dạy ai ?" (Chương dân thi thoại, tr 46). Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ Con Ve sầu và Con Kiến Cũng năm 1928 này, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện trên Trung Bắc Tân văn, bài thơ đầu tiên không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu : bài thơ dịch của Nguyễn văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi : Ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè Đến kỳ gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối. Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường Năm 1929, Trịnh Đình Rư viết một loạt bài về vấn đề thi ca trong mục " Văn thơ với nữ giới " đăng trên Phụ Nữ Tân Văn mà ta có thể kể ra làm thí dụ tiêu biểu các số sau đây : số 18 (25-8-1929), số 19 (5-9-1929), số 26 (24-10-1929), số 29 (21-11-1929), số 31 (5-12-1929), số 33 (19-12-1929), số 62 (20-2-1930). Trước hết ông trình bày cho ta thấy thi ca của ta từ xưa cho đến nay không phải dừng bến bỏ neo ở mãi một chỗ mà vẫn biến hoá từ đời này qua đời khác, từ chỗ nô lệ hoàn toàn đi đến chỗ vay mượn chế biến cho tới hình thức sáng tạo độc lập đặc thù.
Thực vậy, nơi số 13 ngày 25 Juillet 1929 Trịnh Đình Rư viết : " Văn chương theo từng thời vận mà biến đổi. Từ triều Lê trở về trước nhân dân ăn ở dưới quyền quân chủ, dân trí hãy còn thuần ngạc cho nên thơ văn về những thời kỳ ấy toàn là những giọng chất phác cả...Từ cuối đời Lê cho tới triều Nguyễn gần đây dân trí hơi mở mang dần, văn chương có điều lịch sự hơn trước, song cái tư tưởng về xã hội chưa có cho nên các nhà làm văn phần nhiều là chỉ tả cái chí khí, cái tâm sự cùng cái hứng thú của mình...
" Cách mười năm về trước đây, sự học nước ta đã thay cũ đổi mới, các nhà học giả đua nhau chuộng về văn quốc âm, song buổi đó là buổi quốc văn mới phôi phai, lại chưa chịu đủ cái sức trào lưu ở ngoài thúc giục, cho nên những tập văn thơ xuất bản về hồi ấy, toàn thấy những bài phi tình thì sầu, phi sầu thì phiếm, ngày nay thức giả cho là vô vị mà hồi đó ai cũng ưa chuộng ngâm nga ?
" Văn chương là hồn nước. Hồn nước tỉnh dần thì văn cũng phải đổi mới...
" Ta thử xem ngay ông Nguyễn Khắc Hiếu. Năm xưa xuất bản những tập " Khối tình con " " Còn chơi " kể có biết bao nhiêu là văn thơ gọt nặn tỉ mỉ.
" Thế mà đến hồi năm kia ra chủ trương tạp chí An Nam cho đến sau vào viết bài ở Đông Pháp thời báo, thì thơ văn của ông thấy đã đổi hẳn ra giọng khảng khái và hùng hồn không ? " (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Trịnh Đình Rư cũng tố cáo sự chuyển hướng mãnh liệt nơi chính bản thân ông : " Kẻ viết bài này nhân cũng xin thú thực rằng : hồi năm 1919 đã có xuất bản một tập văn thơ nhưng sau tự xét thấy thiệt là vô vị nên sau đó những thơ văn làm ra có thể tiếp tục in thêm được vô số tập nữa, lại tự xét cũng không thấy ích gì cho xã hội, vậy đã quả quyết mà đem các bản thảo phó cho thần lửa thu hết. " (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Sang đến số 19 (5-9-1929), nơi bài " Vì đâu mà chuộng thơ sầu cảm ? ", Trịnh Đình Rư nhìn nhận rằng hầu hết thi ca của ta lúc bấy giờ đều là thứ thơ sầu cảm rỗng tuếch, vô vị chứ đâu có được thứ sầu cảm to tát, sâu xa.
Sự sầu cảm vô vị và rỗng tuếch của thi ca Việt Nam, theo Trịnh Đình Rư, có lẽ vì nó bị gò bó bởi luật thơ Đường quá ư chật hẹp.
Có lẽ chính bởi vậy mà bài khảo luận sau đó, đăng Phụ Nữ Tân Văn số 26, 24-10-1929, Trịnh Đình Rư đã kịch liệt chống đối bài bác thơ Đường.
Trong bài này, Trịnh Đình Rư đả kích thơ Đường luật khá gắt gao : " Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy.
" Chánh những nhà văn sĩ, nữ sĩ ở Trung Hoa gần đây, họ cũng ít chuộng thơ Đường luật này nữa, vì họ cho là một lối thơ bó buộc, làm cho người ta khó tả được hết cái cảm hứng. Cho nên họ có làm thơ, thì hoặc dùng lối " trường thiên " không có hạn vần, hạn câu, hoặc dùng các lối từ khúc không cần phải đối ghép tỉ mỉ. Ấy là lối thơ của họ mà ngày nay họ cũng đã tự cải cách rồi đó. Ta còn cứ thần phục lối thơ Đường, nô lệ thơ Đường mãi sao ? ".
Trịnh Đình Rư, tuy đả kích thơ Đường mạnh mẽ là thế, nhưng chưa có đề nghị một lối thơ mới nào cả mà chỉ mới dám đề nghị lấy thơ " lục bát ", " song thất lục bát " thay thế mà thôi :
" Ngày nay ta nên biết rằng, hai lối thơ đó mới thiệt là thơ nước nhà, nó không có bó buộc người ta hạn câu, phải nặn chữ như là lối thơ Đường luật. Nề nếp của nhà, văn chương của nhà, tiếng nói của nhà, mà ta theo đòi luyện tập thì còn gì dễ hơn và hay hơn ? " (Trịnh Đình Rư, " Có nên chuộng thơ Đường luật hay không ? " Phụ Nữ Tân Văn số 26, 26-10-1929).
Ngoài ra Trịnh Đình Rư còn viết thêm ba bài ca ngợi những thể thơ hoàn toàn Việt Nam. Số 29 (21-11-1929 cực tán lối thơ lục bát : " Viết một bài thơ lục bát, chữ đã không cần phải đối, vần lại không phải đeo nhiều, vui bút kéo đến trăm câu, muốn gọn viết một bài vắn, cái thú hạ bút tự do toàn ở tác giả cả. Vả lại thơ lục bát còn có một cái thú nữa, là một bài thơ nếu có lời lẽ khá, có ý tưởng hay, thì người đọc dễ biết và dễ cảm ".
Đến số 31 (5-12-1929) ông ca ngợi thơ song thất lục bát. Theo Trịnh Đình Rư, song thất lục bát chẳng những hay hơn thơ Đường mà còn hay hơn cả lục bát vì nó tự do, nó uyển chuyển hơn.
Sang số 33 (19-12-1929) ông đề cập đến một lối Ca mới mà ông cho là cũng thuần tuý Việt Nam và rất tự do : " Nay tôi lại xin nói đến một lối ca mới này, là một lối ca do điệu thơ lục bát mà thêm đặt ra thành từng câu. Lối ca này hiện ở ngoài Bắc đang thạnh hành lắm, thường đi chơi khắp kẻ chợ nhà quê, đến đâu cũng nghe có người hát điệu ca này ; giọng hát thì nhiều ngưòi cho là giọng " sa mạc " còn điệu văn thì nhiều người cho là điệu ca " anh khoá " !
" Bởi sao gọi là điệu ca " anh khoá " bởi vì họ cho rằng khởi đầu từ bài " Tiển chưn anh khoá " của ông Trần Tuấn Khải đặt in ở quyển " Duyên nợ phù sanh " xuất bản năm xưa " (Phụ Nữ Tân Văn số 33).
Cuối cùng đến số 42 (20-2-1930), nơi bài " Văn thơ nên trọng về ý tưởng ", Trịnh Đình Rư lại đả kích thơ cũ vì gò bó về niêm luật mà ý tưởng phải bị hy sinh :" Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy ". (Phụ Nữ Tân Văn số 42).
Cái ý tưởng này, Trịnh Đình Rư nhắc đi nhắc lại luôn qua tất cả năm sáu bài ta đã kể trên đây.
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách : làm bài thơ Tình Già Nhưng phải đợi mãi đến ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phụ Nữ Tân Văn, số 122, mới cho nổ trái bom nguyên tử vào thành trì thơ cũ làm cho nó hầu bị sụp đổ tan tành. Phan Khôi là người chỉ huy cuộc tấn công này. Thật vậy, trên Phụ Nữ Tân Văn số 122, ra ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phan Khôi đã viết bài " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ ". Trong bài này, trước khi " trình chánh " một lối thơ mới của ông, Phan Khôi đã chĩa súng bắn tới tấp vào thành trì thơ cũ. Từ xưa ông vẫn làm thơ, mà rồi bẵng đi ông chẳng sáng tác được bài thơ nào nữa. Ông gặp ông Phạm Quỳnh, ông này khuyên ông nên làm thơ như cũ vì Phạm Quỳnh cho rằng đấy là nghề của Phan Khôi. Học giả họ Phan suy nghĩ và lấy lời ông Phạm Quỳnh làm phải và đã cố gắng làm theo ông Phạm Quỳnh nhưng chẳng đi đến kết quả nào cả. Phan Khôi đã bộc lộ tâm sự buồn chán, bất lực của ông mặc dầu trước đấy trong làng thơ ông cũng là tay đáo để, đã không làm thơ thì thôi chứ đã làm là phải hay cả. Ông viết : " Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Và quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có. " Trước kia dầu tôi không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ hán, hoặc bằng chữ nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có ".
Mà Phan Khôi bảo ông không làm chẳng phải vì ông không muốn, không thèm làm mà thực là ông " mót " làm lắm mà làm không được. Ông đưa ra các lý do khiến ông không làm nổi bài thơ nào : " Xin thú thực với mấy ông thợ thơ. Không có không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được !
" Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng. Thơ chữ Hán ư ? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư ? thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi.
" Cái ý nào họ chưa nói mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật đã dễ tức ".
Mà bởi tức như vậy, cho nên Phan Khôi chửi thơ cũ là giả dối, là đáng bỉ. Cácbạn nên chú ý đến chữ " bỉ " mà Phan Khôi dùng để nói về thơ cũ : " Đại phàm thơ là để tả cảnh tả tình, mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quí cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng theo ra lối thất cổ...cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già nửa phần.
" Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay ở đâu "
Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng có gì là đặc biệt. Trịnh Đình Rư mà có lẽ cả Phạm Quỳnh nữa cũng đã chê trách thơ cũ gay gắt rồi.
Cái mới đặc biệt, có thể coi như quái gở nữa là khác đối với học giả đương thời là ở chỗ ông bày ra một lối thơ mới mà ông chưa biết gọi tên là gì.
" Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là : đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết ".
Sau khi giới thiệu sơ lược như vậy về thơ mới của ông, Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới, bài Tình Già.
Tuy là một bài thơ mới đầu tiên, bài Tình Già của Phan Khôi đã táo bạo hơn cả những thơ mới ra đời sau đấy xét cả về cách gieo vần, cách đặt điệu, cách dùng tiếng vv...Câu thơ của Phan Khôi dài lượt thượt, câu ngắn nhất cũng trên mười chữ, câu dài nhất có tới mười sáu mười bảy chữ... Luật bằng trắc đã bị phá vỡ hoàn toàn, cho nên câu thơ của Phan Khôi còn gần văn xuôi hơn cả các thơ tự do ngày nay.
Sau khi trình làng thơ rất " hỗn loạn " của ông, Phan Khôi phải thanh minh rằng chẳng phải bởi lập dị hiếu sự mà ông làm như vậy, nhưng bởi ông thấy trên miếng đất thơ cũ ông đã mất chỗ đứng cho nên ông phải đi tìm đất mới. Ông chẳng dám tin rằng bài thơ của ông sẽ thành công vì mươi năm trước đã có người làm như vậy mà đã thất bại nhưng nói tiên tri rằng có người sẽ làm như ông mà sẽ thành công :" Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới ; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.
" Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại. Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp ? Nhưng tôi tin rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí đã tiêu trầm rồi ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công ".
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới Gương Phan Khôi có người soi ngay và lời tiên tri của ông đã ứng nghiệm (tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công) đó là trường hợp của Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư đã gửi cho Phan Khôi một bức thư đính kèm hai ba bài thơ mới được Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm 1932, tài liệu mà sau này báo Phong Hoá cho đăng vào số Xuân, tức Phong Hoá số 31 ra ngày 25 Janvier 1933.
Trong bức thư này trước tiên Lưu Trọng Lư như có ý trách Phan Khôi đã đánh trống bỏ dùi trong lúc thi ca Việt Nam đang ở trong thời kỳ ngấp ngoải vì thi đàn lúc nhúc toàn tụi thị nhân rỗng tuếch ; rồi ông mô tả thế nào là một " chân thi nhân " ; sau đó ông hô hào canh tân thi ca nếu cần phóng túng buông lung thì cứ phóng túng buông lung đừng do dự ngần ngại ; sau cùng ông khuyên người ta tin vào tương lai của thi ca lúc này mờ tối bấp bênh :
" Phan Tiên Sinh,
" Cách đây đã lâu, Tiên Sinh đã có đưa trình chính giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài rồi tôi cứ đợi mãi đợi mãi mà sau tiên sinh không thấy có ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng không muốn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái " của mới " ấy có lẽ chưa thích hợp với đời này. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy, mà hẳn Tiên Sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng : Thôi, không ai ưa thì ta xếp nó lại đã, đợi khi khác ta lại mang ra ". Thưa Tiên Sinh, đợi khi khác, khi nào nữa. Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một chút sinh khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tính mạng của thi ca ? ? Đừng có nói láy lắt như vậy tiên sinh ạ ! Nếu tiên sinh cứ giữ mãi cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân " rỗng tuếch " kia còn cứ ca đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi nhân chân chính.
" Hẳn tiên sinh cũng hiểu rằng, những bậc chân thi nhân không bao giờ lại chịu đứng trong cái " lãnh thổ " hẹp hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất trên những sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung động (vibrer) trong mình mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho những cái niêm luật khắc khổ, làm đẹt mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người ta thường khen Anatole France Tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách thuần tuý của thi nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế ? Phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ nhàng, hể hả.
" Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp, như hiện tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào ! Vậy ta còn ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái " lãnh thổ " kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng : " Phóng túng buông lung quá rồi thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn.
" Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường.
" Cái lối thơ mới của chúng ta là đương ở vào thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi được đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ ! Đó là sự bí mật của lịch sử văn hoá mai sau ! Dầu thế nào đi nữa nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do phát triển của thi ca, đưa thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công lớn : nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đương triền miên trong cõi " chết ".
Trong lúc ban đầu mà đã mong có những tay " Thầy thợ " chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối " thơ mới " kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy ". (Phụ Nữ Tân Văn số 153, tháng 6-1932).
Đồng thời với việc Lưu Trọng Lư làm công việc khen ngợi, hối thúc Phan Khôi bên Phụ Nữ Tân Văn, thì trên An Nam tạp chí số 39, ra ngày 30-4-1932, Vân Bằng, trong bài " Tôi thất vọng vì Phan Khôi ", nhân trách Phan Khôi thất lễ với Nguyễn Tiến Lãng, đã mô tả Phan Khôi như là con người ưa lập dị, việc gì cũng muốn làm khác người. Vân Bằng đã có những mỉa mai sau đây về Phan Khôi tác giả một lối thơ mới. " Vừa đây, ông lại ra công " sáng chế " ra một lối thơ " tân thời " tự do, đặc biệt, không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người " hoài cổ " phải ngậm ngùi thương tiếc. Tám vế " luật đường " có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng ?
" Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng " bạn Phan Khôi " của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là " Alphonse Daudet của Việt Nam " (Vân Bằng, An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932).
Như vậy, có lẽ Vân Bằng là người đầu tiên chống lại nhà thơ mới Phan Khôi. Có điều là những điều nói mỉa mai của Vân Bằng về Phan Khôi chẳng dè lại hoá thành lời tiên tri. Quả thực là tám vế luật đường sẽ vì sự phát minh của Phan Khôi mà bị mai một, và quả thực Phan Khôi đã làm một công trình vĩ đại.
Nhưng ở ngay buổi đầu này, hình như những người nghĩ như Vân Bằng có lẽ đông hơn nhưng những người lên tiếng như Vân Bằng chưa có đông mà ngược lại những người làm công việc như Lưu Trọng Lư có lẽ đông đảo hơn. Phong Hoá ngay từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, đã lên tiếng kịch liệt đả kích thơ cũ và hô hào bênh vực thơ mới. Bài hô hào đó được trích nhắc lại trong Phong Hoá số xuân 1933, tức số 31, 24 tháng giêng năm 1933 với lời mở thế này :" Trong số báo 14, Phong Hoá đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của thơ đường luật ". Tác giả bài ấy kết luận rằng " bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng. Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương đề gửi cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng bản báo " (Phonh Hoá số 31, trang 16).
Lưu Trọng Lư đã từng gửi bài đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số 153, vào tháng 6 năm 1932, rồi lại gửi đăng ở Phong Hoá số 31 ra ngày 24 tháng 1 năm 1933 vẫn chưa lấy làm thoả mãn nên tháng 5 năm 1933, khi cho xuất bản tập tiểu thuyết đầu tay, Người Sơn Nhân, ông còn cho đính kèm ở phần hai một bài đả kích thơ cũ ca ngợi thơ mới. Đó là bài " Một cuộc cải cách về thi ca ".
Bài " Một cuộc cải cách về thi ca " này còn được kèm theo 14 bài thơ mới. Xét về nội dung bài " Một cuộc cải cách về thi ca " này, ta không thấy có gì mới mẻ hơn bức thư đã gửi cho Phan Khôi gần một năm về trước. Có điều là ở bức thư trước kia, Lưu Trọng Lư phàn nàn là chưa có ai hưởng ứng, còn ở đây Lưu Trọng Lư ghi nhận là trên văn đàn đã có khuynh hướng, tức đã có phong trào thơ mới :
" Gần đây trên trường văn học nước nhà thấy nảy ra một cái khuynh hướng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi trói thi ca ra khỏi cái niêm luật khắc khổ. Biểu hiệu cho cái khuynh hướng ấy, đáng kể nhất có ông Nguyễn Thế Lữ ở báo Phong Hoá và cô Nguyễn Thị Kiêm ở Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai coi bộ sốt sắng lắm. Nhưng cái " thi trào " ấy còn nóng mãi hay là sẽ nguội dần, đó là sự bí mật của lịch sử văn học tương lai ta không thể đoán trước được " (Người Sơn Nhân).
Sau khi nhận định như vậy về sự phôi thai của thơ mới, Lưu Trọng Lư tấn công thơ cũ, chửi thơ cũ, nhất là cái thứ thơ cũ được chế tạo rất giả hiệu đang bày biện ở các cửa hàng. Nó là thứ thơ chẳng thơ tí nào :" Một hôm tôi vào một rạp hát nọ tôi không biết là người ta diễn vở tuồng gì, nhưng khi tôi vào là nhằm khi một chú hề đương pha trò trên sân khấu. Chú bông lơn thế nào mà thiên hạ cười như lười ươi nắc nẻ mà tôi thì...khóc không được. Tôi tiu nghỉu ra đi, vẫn nghe tiếng cười vỡ rạp.
" Cái tiếng cười của rạp hát nọ đã chết rồi, vì nó lạt lẽo, vô duyên quá. Ai bảo thi ca nước nhà với tiếng cười ấy chẳng cùng chung một số phận. Ta thử tìm trong những cái vườn thơ của ta có gì là hoa thơm cỏ lạ đâu nào ? Trong những bài thơ xuất bản trên các báo ngày nay, dưới ký cái biệt hiệu mỹ miều đó, rặt là những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi luyện lại từ xưa đến nay, không thêm bớt, không sứt mẻ. Các tay thợ kia chỉ chuyên một mặt từ chương âm vận : lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo văn chương hoa hoè sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối, những cái tư tưởng tầm thường.
" Cả một đám thanh niên rỗng tuếch, mềm nhũn, ươn hèn đều tấp tểnh tập thói rung đùi, nặn câu, cũng khóc thời khóc thế, khóc gió khóc giăng...Họ ca đi ca lại mà không thấy chán, những cái mà một Cống Quỳnh hay một cô Xuân Hương đã quên nhãng. Họ gây lên một cái phong trào làm thơ rất náo nhiệt, tưởng họ đưa được tâm hồn người ta lên phảng phất, tiêu diêu trên sự nôm na chật hẹp hàng ngày, nào hay chỉ tổ làm cho người ta thêm long tai điếc óc " (Một cuộc cải cách về thi ca, Người Sơn Nhân).
Một đoạn như đoạn trích trên đây cho ta thấy Lưu Trọng Lư đã đi xa hơn Phan Khôi. Phan Khôi mới chỉ chê thơ cũ xưa kia và thú nhận chính ông bất lực không làm nổi thứ thơ ấy nữa. Chứ Lưu Trọng Lư chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tùm lum tất cả các người đang làm thơ cũ lúc ấy. Phải chăng vì vậy mà gây nên phản ứng mãnh liệt trong làng thơ cũ như các bạn thấy sau này.
Sau cùng Lưu Trọng Lư đã bộc lộ tâm tình của thế hệ trẻ đang khao khát cái gì mới mẻ, đang say sưa chờ đón những thay đổi, đến nỗi ông dã ví người " thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình, như người con đi tìm mẹ ". (Người Sơn Nhân) :
" Ai cũng biết người thanh niên Việt Nam ngày nay đã chán nản về những sự chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng về những cái mộng tưởng mỹ miều mà giả dối. Người thanh niên Nam Việt ngày nay chỉ ao ước có một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được có một nhà thi nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận tâm hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi đưa phả vào những cái âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư thả. Một việc khó khăn như vậy, tưởng các người Tùng, Tuy ngồi đếm câu, chọn chữ mà làm được ư ?
" Người thanh niên Nam Việt ngày nay đau đớn về những cái đau đớn mà nhà thi nhân Nam Việt chỉ ngồi ca hát những nỗi khổ buồn xưa. Còn gì chán bằng bắt ta buồn mãi cái buồn réo rắt, u uất của người cung nữ đời Tần ? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu mãi cái sầu dằng dặc, âm thầm của nàng chinh phụ ? "
" Người thanh niên Nam Việt ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình, như con đi tìm mẹ. Có ai thấy cái tình cảm thảm thiết ấy không ? " (Người Sơn Nhân).
Lưu Trọng Lư xuất bản " Người Sơn Nhân " vào khoảng tháng 5 năm 1933. Cuộc chiến giữa thơ cũ và thơ mới bùng ra dữ dội từ đấy. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong bài tựa " Một thời đại trong thi ca ", đã phác hoạ lịch sử thi ca trong vòng mười năm 1932 đến 1942, nhất là đã ghi nhận cuộc chiến bùng ra giữa thơ cũ và thơ mới.
Các phe bênh thơ cũ Sau đây là phe phái bênh thơ cũ : " Aout 1933, một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, ông Tân Việt, bỉnh bút báo Công Luận, bênh vực thơ cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Saigon. Octobre 1933 : Văn học tạp chí, Hànội, chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
" Novembre-décembre 1934 : Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
" Décembre 1934 : Trên Văn học tạp chí ông Hoàng Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư tại nhà học hội Qui Nhơn.
" 9 Janvier 1935 : Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon.
" 6 Janvier 1935 : Ông Nguyễn Văn Hanh lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon cùng hôm với cô Nguyễn Thị Kiêm (diễn thuyết tranh luận).
" Avril 1935 : Hai ông Tường Vân và Phi Vân xuất bản tập thơ cũ " Những bông hoa trái mùa " ở Vinh.
" Juin 1935 : Ông Tùng Lâm Lê Cương Phụng công kích thơ mới trên Văn học tuần san, Saigon.
" Avril 1936 : Ông Thái Phỉ công kích thơ mới trên báo Tin Văn Hànội.
" Aout 1937 : Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở hội Quảng Trị Huế.
" Juin 1941 : Ông Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần chỉ trích và mạt sát, nói quả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt vận " (Hoài Thanh, Thi Nhân Việt Nam, trang 22).
Các phe bênh thơ mới Về phía các nhà bênh thơ mới, Hoài Thanh ghi :" Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội Khuyến học Saigon hết sức tán dương thơ mới. Hội Khuyến học Saigon thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế. " Nối gót cô Nguyễn Thị Kiêm, còn nhiều diễn giả cũng theo một mục đích : dành lấy phần thắng cho thơ mới.
" Juin 1934 : Ông Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Qui Nhơn.
" Janvier 1935 : Ông Đỗ Đình Vượng diễn thuyết tại hội Trí Tri Hànội.
" Janvier 1935 : Cô Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon để tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh.
" Novembre 1935 : Ông Vũ Đình Liên diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.
" Février 1936 : Ông Trương Tửu diễn thuyết về thơ Bạch Nga tại hội Khai Trí Tiến Đức Hànội ". (Thi Nhân Việt Nam trang 19).
Cứ kể bằng ấy mà thôi thì đã thấy Vụ án Thi ca đã là rầm rộ, gay go, sôi nổi lắm. Rất tiếc rằng hầu hết các bài diễn văn đôi bên bài bác nhau mà Hoài Thanh Hoài Chân nhắc đến trong bài " Một thời đại trong thi ca ", hiện lúc này tôi không có trong tay. Tôi mong các bạn sẽ bồi bổ vào bằng việc đi tìm ở các thư viện ở tỉnh, ở các thư viện tư gia.
Nhưng dù thiếu chưa tìm ra các tài liệu mà Hoài Thanh nhắc tới, nhưng một tài liệu tôi hiện có trong tay đã thấy nhiều rồi và càng chứng tỏ chưa có một vấn đề nào, ngoài vấn đề truyện Kiều, đã được văn giới sốt sắng tham gia góp ý kiến hay quyết liệt bênh vực cho bằng vấn đề thơ Mới thơ Cũ.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:28:01 GMT 9
Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới A- Mặt trận bênh thơ mới (1) Phong Hoá bênh Thơ Mới Tôi nghĩ gọi phe bênh thơ mới đả kích thơ cũ là một mặt trận cũng không là quá đáng : chính bọn họ khai chiến, ngay cả lúc bên mà họ cho là địch không có ai ra ứng chiến. Thực vậy, lai rai từ lâu trước với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trịnh Đình Rư và ngay cả chính Phan Khôi, nhưng đến năm 1932 lại cũng chính cái ông Phan Khôi lai rai lúc đầu đã ra tay làm cách mạng. Bỏ ngoài phần lớn các tài liệu mà Hoài Thanh và Hoài Chân đã trưng ra ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của các ông vì chưa tìm ra, tôi xin phép trình bày với các bạn theo tài liệu những sách vở báo chí mà tôi có trong tay. Tôi mong các bạn hợp tác với tôi để bổ túc vào sau. Vậy cũng theo chỗ tôi biết hiện nay thì, tuy báo Phụ Nữ Tân Văn đã là nơi xuất phát trận tuyến do Phan Khôi chỉ huy, nhưng tham gia thật sự vào trận mạc lúc ban đầu này lại không phải Phụ Nữ Tân Văn mà là tuần báo Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn. Ngay từ số 14, ra ngày 22-9-1932, Phong Hoá, như các bạn đã thấy ở trên, đã có lời chửi thơ cũ và hô hào theo thơ mới :" Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng ".
Thực ra, đòi cho thơ phải mới về tinh thần tức mới ý tưởng thì đã có nhiều người nói từ lâu rồi, nhưng mới về văn thể thì chỉ có từ Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122, 10-3-1932).
Tiếp sang Phong Hoá số 15 ngày 29-9-1932 nối bài " Sầu thảm nhiều rồi ", Việt Sinh chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tất cả văn chương theo lối cũ là chỉ biết khóc, khóc một giọng rên ư ử từ ngàn xưa :" Xã hội ta xưa nay vốn là một xã hội tiêu điều nhạt nhẽo. Hơn một nghìn năm chịu đè nén dưới đạo Khổng đứng đắn nghiêm trang, hiểu lầm chăng, nên chỉ khuôn con người ta vào vòng lễ phép chật hẹp vô cùng.
" Nói không dám nói mạnh, cười không dám cười to, cái gì cũng như bó buộc, cằn cỗi già sói...
" Văn thơ của ta gần đây thực như khóc như đầm đìa huyết lệ. Một chữ là một giọt nước mắt để ngậm ngùi cho " Đạm Thuỷ với Tố Tâm ", xót thương cho " Lê Ảnh với Mộng Hà "...Ta hãy nghe ông Trần Tuấn Khải an ủi lòng người " Anh ơi ! anh ngồi xuống đây, anh xơi chén rượu này, anh nằm ngủ, anh ngủ cho say...kiếp trần thong thả ngày là tiên ! ". Ấy thế mà chưa ai ngủ, chỉ riêng Trần Tuấn Khải đó " phận kém duyên hèn " này mới tự mình du ngủ lấy mình đến nay ông thật ngủ yên rồi mà ngọn bút quan hoài hẳn từ nay ráo mực. Ông Đặng Trần Phất cũng đã yên giấc ngàn năm không bao giờ dậy nữa...
" Mà nào đã hết cái " thái sầu muôn kiếp không tan được " của bà Tương Phố, cái " tân sầu " khóc ve kêu hoa soan rụng của ông Nguyễn Tiến Lãng đã làm rơi biết bao nước mắt " (Phong Hoá số 15, 29-9-32).
Rồi cũng trên Phong Hoá số 15 ấy, nơi bài " Quốc văn nó đi như sao ? " với một giọng châm biếm tác giả khi thì nhái văn Tản Đà, khi thì nhái văn Hoàng Tích Chu, đã viết một lối văn bông đùa để chửi khéo tất cả các nhà thơ cũ :" Cho đến ngày nay thì biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ toàn loạt trứ danh nào Hiếu Nguyễn Khắc, nào Bi Hoàng Tăng, nào Quỳnh Phạm, nào Dư Lê, nào Việt An họ Nguyễn, nào Tuấn Khải họ Trần kể có vài muôn, nhớ tên sao viết vậy (Phỏng theo lối văn Đức Trần Hưng Đạo)...số văn sĩ nhiêu phong như thế thì đáng lý ra quốc văn được bành trướng một cách cấp tốc lắm mới phải ! hà cố các áng văn tuyệt tác về vận văn, về tản văn vẫn hạn hữu ? Vì cứ tầm quan sát của bỉ nhân thì chỉ về vận văn mấy tập Kim Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán ngâm khúc,còn dáng đăng lục luận đề, chứ về tản văn thì thực tịnh vô nhất quyển " (Phỏng theo văn Phạm Quỳnh)...
" Thiếu ý sáng kiến, lối văn mới ta không có một. Thành thử không ai có " Xịch tin " riêng. Ta viết bá láp : lăng nhăng. Hoặc ta theo người xưa : lòng thòng. Còn ý tưởng ? Càng tệ càng cũ không mấy khi dám bước ra ngoài lũy tre trí thức nước Lỗ (Khổng Mạnh) và nước Sở (Lão Tử).
" Quốc văn muốn giàu. Phải có nhiều lối, nhiều lối mới. Lối cũ nào không hợp thời : ta phích !
" Lại phải có tư tưởng mới !
" Mới lên !
" Nào chúng ta nhúng tay vào làm việc " (Phỏng theo lối văn Hoàng Tích Chu)
Từ đó, hầu như chẳng có số báo nào mà Phong Hoá không dành giăm ba bài để chửi bới, trêu chọc tất cả các nhà văn, nhà thơ cũ. Nhưng mũi dùi hình như chĩa thẳng vào lãnh tụ của thơ cũ là Tản Đà.
Phong Hoá, số 28, 30-12-1932, nơi bài " Hoạ nguyên vận ", đã mô tả Tản Đà là anh say rượu :
" Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hoá Sặc sụa hơi men khó ngửi quá Đã dạy bao lần tai chẳng nghe Hẳn còn nhiều phen mồm bị khoá ! Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu ! Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá ! Phong Hoá mà không hoá nổi anh, Tuý nhân quả thực là nan hoá " Chẳng phải vô tình mà Phong Hoá đánh các nhà thơ cũ : nó nằm trong chính sách văn học của Tự Lực Văn Đoàn mà chính sách của hội nhà văn này là theo mới. Dĩ nhiên, Thơ Mới phải được Tự Lực Văn Đoàn tích cực bênh vực. Như tôi đã nói gián tiếp ở phần trên, nơi bài " Lối Thơ Mớỉ (P.H. số 31, tức số Xuân 1933), trong khi cho đăng bức thư Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới, Phong Hoá đã nhắc lại lập trường của họ đối với thơ mới, lập trường mà họ đã bày tỏ từ số 14 ra ngày 22-9-1932 :" Trong số 14, Phong Hoá đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ Đường luật...Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương để gửi cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, " ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng của bản báo. Vậy bản báo vui lòng đăng lên mục văn học và sẽ lục đăng các bài thơ mới của các bạn thi nhân " (Phong Hoá số 31, 25-1-1933). Thế là từ đây, ngoài việc viết bài chửi thơ cũ, bênh thơ mới, Phong Hoá còn chú trọng nhất đến việc đăng tải " thơ mới của các bạn thi nhân " như họ vừa hứa.
Việt Sinh chê thơ cũ Thực vậy, cùng ở nơi số 31, tức số Xuân này, Việt Sinh và Nhất Linh đã chế diễu các ông làm thơ cũ : Việt Sinh chế Nguyễn Tiến Lãng làm thơ sáo, đánh cắp văn mà không biết :" Trong bài nhớ Tết năm ngoái " ở sách " Xem tết ", ông Lãng hồn thơ lai láng, cảm vì xuân nên " vụt nghĩ " ra hai câu thơ :
Bức tranh vân cẩu treo rồi xoá Gánh nợ tang bồng trả lại vay ! " Vì ông Lãng " Vụt nghĩ " nhanh quá, nên ông quên không nhớ đến hai câu thơ Vịnh nhà hát San nhiên năm xưa : " Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn " Một cuộc tang thương xoá lại bầy ! " Nếu chúng ta không nhầm thì hai câu dưới cũng hơi hơi giống hai câu trên. Mà nếu chúng ta không nhầm thì cái " Vụt nghĩ ra " của ông Lãng nó " cũng lâu lâu thì phải ". Sau Nguyễn Tiến Lãng thì đến Trần Tuấn Khải là một nhà thơ lừng danh ở thế hệ trước, cũng bị Việt Sinh chửi là nhai lại cái cũ rích thành ra đạo văn :
" Trong " Sách chơi xuân " của Nam Ký, ông Á Nam vì Xuân làm bài thơ rất hay, rất mới :
" Một đời được mấy gang tay, Một năm được mấy mươi ngày là xuân Gặp xuân ta phải chơi xuân Kẻo mai hạ tới thì xuân không chờ ! " " Hay tuyệt ! Câu đầu, cả ý lẫn chữ là câu sáo cũ. " Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất. " Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai. " Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam ". Còn Nhất Linh thì chế diễu thơ của Phương Lang : " Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại bài thơ ấy ra đây lần nữa :
Mặt bẩn sao chưa lau ? Con ra lấy cái thau Đổ nước mang khăn mặt Mau ! " Thơ như thế sao gọi là thơ được. Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Bài sai đầy tớ của Ôn Như Hầu cũng chỉ là mấy câu sai đầy tớ mà có vần và đúng khuôn phép niêm luật. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi... " Nhất Linh lại xin bắt chước ông Phương Lang làm bài thơ như thế nữa :
LẠC QUAN Trông vào nồi, cơm hết. May còn miếng cháy ròn Ăn với cá kho mặn, Ngon ! MỪNG KHỎI BỆNH Tay tôi mụn ghẻ đầy May sao gặp thuốc hay Bôi được một tuần lễ Khỏi ngay ! " Chắc ông Công Luận phục hai bài thơ này lắm, vì theo ý ông tôi đã tránh được những tiếng cao nhã (mots nobles) mà toàn dùng cái giọng thông thường (langage vulgaire) đi thẳng một hơi trôi chảy vô cùng " (P.H. số 31). Tứ Ly chế diễu Tản Đà Sang số 34, 17-2-1933, Tứ Ly lại diễu Tản Đà trở lại : " Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi. Trước kia Tứ Ly ví ông Hiếu với anh Tề Ngã. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ ông Hiếu giống thầy Nhan Hồi. Thầy Nhan Hồi đeo bầu, ông Hiếu cũng đeo bầu. Bầu Thầy Nhan Hồi đựng nước. Bầu ông Hiếu cũng đựng nước. Nước trong bầu Thầy Nhan Hồi không có men. Nước ông Hiếu lại có men. Cũng vì thế, ông Hiếu giống thầy Nhan ". Nếu Tứ Ly viết văn xuôi nhạo Tản Đà thì Vân Dương làm thơ, mà là thơ mới chửi xỏ Tản Đà, tuy không có gọi tên tuổi Tản Đà :
" Ngày xuân ngồi ngắm hoa thuỷ tiên Lòng thơ bỗng thấy sôi nổi lên Bắt chước thi nhân ngồi bóp trán Cố vịnh một bài " đứng ngoài hiên ". Ngoài hiên đứng chờ người bạn quen Chờ mãi khống thấy dạ ưu phiền Mây bay, gió thổi, lá bàng rụng Thi nhân bất nguyện càng buồn thêm Không thấy bạn quen, ôi ! một thú Thà vào trong nhà đắp chăn ngủ Nghĩ vậy vừa toan quay lưng vào Bỗng thấy một người nắm cái hũ, Người đó ung dung đi lại gần Cất giọng lè nhè " Kìa Dương quân, Ngày tết sao không say tuý luý Tội gì đứng đấy, rét cực thân ". Chưa kịp trả lời, khách lại nói : " Người trần ai cũng có tội lỗi Nên ngày hăm ba cúng ông Táo Để ngài lập bô cho ít tội. Chẳng biết ông có cúng gì không ? Riêng tôi chẳng dám để ngài giận Một cái tầu bay, nghìn tờ công, Gọi chút " vi thiềng " dâng ngài nhận Thế giới có lắm sự khốn nạn Tôi đều liệt vào tờ cáo trạng Đốt, nhờ ông Táo đem lên trời Để Đức Ngọc Hoàng coi, xét đoán Này, đứa ngông cuồng, ưa theo mới Đứa đem quốc tuý, riễu trên báo Bọn gái đua nhau, mở, lập hội Tôi đều liệt vào trong tờ cáo Phải chăng lời tôi nói là đúng Bác có cùng tôi cùng một bụng Thôi, nói lâu rồi, tôi xin về, Về nhà còn phải sửa cỗ cúng... " Khách khom lưng chào, ung dung đi, Tôi nhịn không được, bật cười khì Khách ngoái cổ lại, trợn mắt quát : -Ô hay Bác này giống người gì ! " Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch " Tuồng cổ Tân thời " Chẳng những viết văn xuôi chửi Tản Đà, làm thơ diễu Tản Đà, Phong Hoá còn soạn kịch bêu xấu thi sĩ Núi Tản Sông Đà. Tứ Ly soạn vở tuồng lấy tên là " Tuồng cổ tân thời " đăng liên tiếp trên năm số Phong Hoá, tức các số 38 (17-3-1933), số 39 (26-3-1933), số 40 (31-3-19363), số 41 (7-4-1933), số 42 (14-4-1933). Trong vở " Tuồng cổ tân thời " này, các nhà văn nhà thơ cũ được trình bày như là tập họp nhau uống máu ăn thề lập sào huyệt để đánh cướp và thanh toán bọn Phong Hoá Tự Lực Văn Đoàn. Chủ trại là Hoàng Tăng Bí, tham mưu là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Văn Vĩnh, lâu la là các ông Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Trịng Đình Rư, Lê Công Đắc vv... Còn bên địch là cả tụi Phong Hoá, nhất là Tứ Ly, Việt Sinh, Nhất Linh, Nhát dao cạo... Cuộc tranh hùng được trình bầy cực gay cấn, sôi nổi, tàn nhẫn nhưng cũng cực là trò hề, buồn cười, tố cáo cái ngây ngô, nhiều khi ngu xuẩn của phe cũ.
Cuộc giao phong của phe cũ tuy nói thì hăng lắm mà vào việc chưa gì đã mỗi anh chạy tháo thân, kết cục bị Phong Hoá đánh tan tành. Sự tan tành của đảng bí mật trong Tuồng cổ tân thời là sự tan tành của lớp văn sĩ, thi sĩ cũ trước sức đi lên của bọn văn sĩ thi sĩ mới vậy. Thực thế, Tứ Ly đã đặt vào miệng của các nhân vật cũ những lời lẽ ngây ngô, và để vào người họ những cử động điên khùng, khiếp nhược. Tôi chỉ trích cho các bạn nghe một vài đoạn Tứ Ly đặt vào miệng Tản Đà, vị tướng soái của làng thơ cũ. Đây Tản Đà hét nhạc :
" Tản Đà thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh, làm tham mưu lạm dự chút quyền, chỉ một việc rượu chàn quí tị, thơ sẵn có khối tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu càng say ngâm giọng càng ròn, tiếng ngông đã vang trời dậy đất.
" Ngâm :
Say sưa nghĩ cũng hư đời Hư thời hư vậy, say thời cứ say Đất say đất cũng lăn quay Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười " TÁN : Rứa mà chừ, có tin chủ trại triệu đến trướng tiền việc dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc bạch. " Cười nói : Kha kha ! hay chủ trại nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để cho được say lăn lóc (Tham mưu Hiếu cầm hũ ra). . . . . . . . . . . . . " Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
" TÁN : Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệt biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hoá ra chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rủ quân thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khứ !
" (Nói đến đây, hữu tham mưu tuý luý, gục xuống bàn không còn biết gì nữa) (Hồi thứ thứ nhất số 38 17-3-1933).
Sang đến hồi thứ hai (Phong Hoá số 40, 31-3-1933), Tứ Ly cho Tản Đà ra nghênh chiến với bọn Phong Hoá :" Trong thành Phong Hoá vẫn có tiếng cười đáp lại : Ha ha ! (Tả tham mưu Hiếu a bạch :- Thét -) : Bớ a !
" Phong Hoá ! Phong Hoá ! Bọn ngươi thực là láo quá, ta đây còn chẳng xá kể chi, ta say sưa nào có hại cái gì, mà chẳng để tuỳ ta sở thích. Ta đây giống Lưu Linh thủa trước, đích thực là Lý Bạch đời nay, trừ bọn mi, ta quyết ra tay, đem thành quách thu vào trong hũ.
" (Hát khách) : Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh (Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo)
" TÁN : Cái thành, cái quách nó ngả, nó...với giềng, hỡi đồ mách qué.
" NGÂM : Văn minh Đông Á trời thu sạch Này lúc luân thường đảo ngược ru ? " (Hồi thứ hai).
Cũng lại Tứ Ly trong mục " Từ nhỏ đến lớn " (P.H. số 56, 21-7-1933), đã lấy số tử vi cho nhà thơ Tản Đà một cách rất ư là " xỏ lá " nói theo tiếng Phan Khôi :
" Số ông Nguyễn Khắc Hiếu
" Lấy văn chương mà suy xét thì ông ấm Hiếu đáng lẽ cũng được văn khúc, văn xương như ông cử Trạc, nhưng xét đến đường công danh thì không có thể được : hoặc giả văn xương phùng hình cho nên lao lực linh đinh, chịu làm ông ấm suốt đời chăng ? Nếu thế thì di hận biết thủa nào nguôi.
" Nhưng ông được sao tham lang thủ mệnh, nên lòng hận của ông không lâu. Vì có câu rằng :
" Tham lam tính bẩm thung dung, Say miền gái đẹp rượu nồng mùi ngon. " Gái đẹp thì không có, hay có cũng không được biết, chứ rượu nồng thì hẳn ông không còn chối vào đâu được ! " Nhưng thế cũng chưa đủ : ông còn là người cả lo, ông lại còn là một nhà thi sĩ. Nếu vậy thì mệnh ông còn phải có các sao bạch hổ, tang môn quan phù điếu khách, hoặc chính vị hoặc phụ chiếu. Vì rằng :
" Hổ tang chẳng việc mà lo. " Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời.
Rồi cũng nơi Phong Hoá số 56, 21-7-1933, Tú Mỡ đã làm bài văn tế viếng báo An Nam tạp chí của Tản Đà vừa chết một cách, theo tiếng nói của Phan Khôi, vừa xỏ lá vừa ba que.
Đây các bạn thử đọc bài văn tế đó. Thật là tàn tệ.
" Ngày 12 tháng năm dư năm Quý dậu :
" Ngu hữu là Phong Hoá tuần báo đứng trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng :
- Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu (1), - Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn giòng lệ rền rĩ buồn bã (2). - Than như không mà khóc cũng như không, - Im cũng giở mà nói ra cũng giở. - Nhớ bạn xưa : - Giấy trắng mực đen, - Nhà không tiếng cả, - Dượng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay ! - Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to truyện quá ! - Duy trì đạo đức, dương Đông kích Tây. - Bồi bổ văn minh, dung Âu, hợp Á. " Nhồi độc giả năm pho kinh cổ, nhai lại chi, hồ, giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi, " Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả. " Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hoá. " Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần, " Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy thủa. " Hơn bẩy, tám năm lăn lóc, khi Hà-thành, khi Nam-định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua ; " Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá. " Vẻ vang thay nghìn rưởi số in, " Hân hạnh lắm được một trăm độc giả. " Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay. " Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở. " Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu. " Cho nên thăng thiên đường, tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá. " Than ôi ! " Cùng làng ngôn luận, tân cựu đôi đường, Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả, Bâng khuâng luống xót xa lòng, Tưởng nhớ thêm ngao ngán dạ, Vừa độ nào ta đây bạn đó, điều phải chăng còn rũa bút luận bàn, Mà bây giờ kẻ khuất người còn, thơ chua chát biết cùng ai xướng hoạ. Thôi ! chẳng may mỏng phận ngắn đời, Song nay đã yên mồ đẹp mả. Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng : Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả ; Mực nướng vài con, sò huyết một tá, Bạn có khôn thiêng, Xin về chứng quả. Thượng hưởng. TÚ MỠ Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch " Hội nghị Văn học " Trong một hài kịch, một hồi một cảnh, tiêu đề là " Hội Nghị văn học ", diễn viên gồm có các ông Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Phạm Lê Bổng, Phan Khôi, Nguyễn Công Tiểu, Lê Dư, Tùng Vân, tay hài hước Tứ Ly lại một lần nữa đưa các nhà học giả ra làm trò cười. Mà nhân vật được chọn làm hề số một vẫn là vị nguyên soái của làng thơ cũ, thi sĩ Tản Đà : " Ông Nguyễn Khắc Hiếu (ngồi một xó, mặt đỏ gay, từ nẫy, chốc lát lại thò tay vào bọc lấy bầu hồ lô ra nốc, loạng choạng đứng dậy) :Thưa các ngài, Viện ta là Hàn lâm viện về...(giọng rượu) văn chương, không phải về khoa học, ông tú Khôi lý luận xằng xì ! (lau trán). Văn chương là...là... (lưỡi líu dần) mâm gỏi...là...rượu. Cổ nhân có câu " hoả nhập thi xuất ", tưởng anh em ta nên uống rượu cho nhiều, rồi làm việc mới có ích cho nước.
" Nhát dao cạo : Cho rượu...
" Ông Hiếu :-..Tôi nói gì rồi nhỉ...(cố nghĩ) À phải...nên nhắm rượu...(rút hũ rượu ra) mời các ngài, văn chương là... thịt chim (say quá ông ngã gục xuống hũ rượu ngủ...) "
Như vậy, các bạn thấy, buổi đầu này, Phong Hoá xem ra chưa bày tỏ lập trường minh bạch về thơ mới, thơ cũ mà thường chỉ làm hai công việc : một là đem ra chế diễu các nhà thơ cũ, nhất là vị lãnh tụ thơ cũ là Tản Đà được mô tả như là anh chàng hề điên điên khùng khùng ; hai là trịnh trọng cho đăng vào chỗ đích đáng trên hầu hết các số báo những bài thơ mới của Tú Mỡ, của Thế Lữ, của Nhất Linh, của Tứ Ly, của Huy Thông vv...
Nhưng vào khoảng cuối năm 1933 sang đầu năm 1934, thì Phong Hoá đi hẳn vào con đường bênh vực, biện hộ cho thơ mới, phê bình ca ngợi thơ mới. Nhị Linh trên Phong Hoá số 67 (6-10-1933) đã lên tiếng chống báo Văn Học tạp chí để bênh thơ mới trong bài điểm báo :
" Một cuốn tạp chí văn học ngoài Bắc nơi nổi tiếng là đất văn vật - mà luôn mấy kỳ nay toàn rút bài của báo khác làm xã thuyết, thì cái giá trị của báo ấy cũng đáng ngờ lắm. Dẫu sao Văn Học tạp chí đã lấy những ý tưởng của báo khác làm ý tưởng của mình, chịu những ý tưởng ấy là đúng, là hay mà nêu lên trang đầu thì ta cũng cứ bình phẩm bài xã thuyết kia như là của Văn Học tạp chí.
" Tác giả TR, GI bắt đầu :
" Thường thường các tay thợ thơ ta bây giờ hay có cái khẩu khí : thơ cốt sao tứ cho cao, lời cho mạnh là được rồi, chứ hơi nào mà ngồi đẽo từng chữ. "
" Biết bao ý tưởng mâu thuẫn trong một câu nhập đề.
" 1. Dù ở Tây phương hay ở Đông phương, trong làng thơ bao giờ cũng có hai hạng : một hạng là thi sĩ (poète), hai là thợ thơ (versificateur). Các thi sĩ thì trước hết cốt tứ cho cao, lời mạnh rồi mới nghĩ tới văn thể. Còn hạng thợ thơ thời chỉ hì hục ngồi gọt đẽo đục, chạm từng câu, từng chữ như người thợ mộc hay người thợ khắc đục chạm gỗ...
" 2. Người đẽo từng chữ là công việc một thi gia tầm thường. Đây có lẽ tác giả muốn nói cân nhắc cẩn thận từng chữ. Song muốn có lời mạnh mà không chịu lựa từng chữ đích đáng thì mạnh sao được . Muốn tả một sự hùng vĩ mà không chọn những chữ có ý nghĩa, có âm điệu hùng vĩ thì tả sao nổi.
" Ta coi đó đủ biết tác giả viết chỉ để viết chứ không có nghĩ ngợi gì. "
Nhất Linh công kích thơ cũ Cũng Nhất Linh, tức Nhị Linh, nơi Phong Hoá số 69, 20-10-1933, đã đi xa hơn bài công kích trên đây mà làm công việc so sánh thơ mới với thơ cũ : thơ cũ chỉ cần chọn tiếng, chọn chữ cho thật đối, đọc cho kêu, còn thơ mới cần chọn chữ cho hợp ý. Nhất Linh cho rằng xét chung, về điểm này, thơ mới hơn hẳn thơ cũ. Ông viết bài " Sự cân nhắc chữ trong thơ cũ và thơ mới ". " Trong mục " Cuộc điểm báo " số Trung Thu, Nhị Linh có nói đến bài xã thuyết của Văn Học tạp chí, mục đích chỉ để công kích bọn thi sĩ mới, cho bọn này có tứ cao lời mạnh, nhưng không biết cân nhắc chữ dùng.
" Văn Học tạp chí, một tờ báo văn học mà như không muốn khuyến khích các trào lưu mới về văn học, vì chân thành thủ cựu hay vì không có tài theo kịp bọn mới, nên mới tìm cách dìm bọn này đi. Có biết đâu là làm như thế mà tự mình dìm mình.
" Đây tôi không muốn bàn xem thơ cũ hay thơ mới hơn, nên làm thơ cũ hay nên làm thơ mới.
" Tôi chỉ xin nói ngược lại ông TR, GI ở Văn Học : các nhà làm thơ mới cũng chọn chữ như các nhà làm thơ cũ. Nhà làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chỉnh, đọc lên nghe cho kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo.
" Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ để đo đắn xem chữ nào diễn được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng hơn hết,xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn.
" Đó, hai bên cùng chọn chữ cả : khác nhau chỉ ở mục đích của sự kén chọn ấy.
" Xin lấy mấy câu thơ cũ nổi tiếng là những câu tuyệt tác làm thí dụ :
Hai bàn tay trắng làm nên thế, Một tấm lòng son ở với đời, . . . . . . . . . . . Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. " Cái hay của mấy câu thơ cũ này không phải ở ý nghĩa mà ở những chữ : hai một, trắng son, thế đời, nhớ thương, nước nhà, lòng miệng, cái con, quốc gia đối với nhau chan chát, hay ở chữ quốc (là con cuốc) vận lên chữ nước ; chữ gia (con gia gia) vận lên với chữ nhà mà chữ nhà lại đối rất chỉnh với chữ nước. Kể về cách xếp chữ thì thật là một công trình tuyệt sảo. Nhưng tiếc thay vì quá thiên về cách xếp cho tài tình nên quên mất cái hồn của câu thơ. " Trái lại nếu lấy câu thơ mới như :
" Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan... ; . . . . . . Mau ! bay, trèo mau ! đừng lần nữa ! Phải cao, cao nữa, xa, xa nữa... . . . . . . . . . . . . . Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc... . . . . . . . Rặng lau già xao xác tiếng reo khô..., . . . . . . . . . ...Như khuyên van, như dìu dặt, Như hắt hiu cùng hơi gió heo may " Ta sẽ thấy nhà làm thơ mới chọn chữ một cách khác hẳn. " Chữ vàng không cần phải đối với chữ bạc, mà cốt tả cho thật đúng cái mầu của một đêm trăng trong rừng. Những chữ ái ân, ôm, để tả sự dịu dàng sự âu yếm của cỏ cây, những chữ hắt hiu, hơi gió heo may phần nhiều bắt đầu bằng chữ h để tả đúng được tiếng sáo.
" Vẫn biết rằng trong thơ cũ cũng có chữ dùng đúng chỗ, diễn đúng ý, và trong thơ mới cũng nhiều câu chỉ kêu mà không có hồn, song nói về toàn thể, thì khác nhau như trên.
Một bên chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố cân nhắc để tìm những chữ nào hợp điệu thơ, diễn đúng ý. "
Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ Cũng như Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trong bài " Thơ mới " (P.H. số 97, 11-5-1934) tuy có công kích một ít thơ mới lố lăng, thơ thẩn, nhưng đã cực tán thơ mới, cho thơ mới chẳng những không lo bị tiêu ma, trái lại đã xây dựng được cơ sở rất vững chắc mà còn cho thơ mới về hầu hết các phương diện đã hơn hẳn thơ cũ : thành thực hơn, mạnh mẽ hơn, hợp tình hợp cảnh hơn : " Thơ mới đã bị nhiều người công kích, cho là chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bề trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ vì không có âm điệu âm luật gì cả.
" Lẽ tự nhiên là trong bao nhiêu bài thơ mới thế nào cũng có bài chỉ nhặt nhạnh những ý tưởng sáo nhét vào một hình thể mới. Nhưng đấy chỉ là một số ít. Ta có thể mang nhiều bài ra làm chứng rằng thơ mới bây giờ đã xứng đáng với tên gọi.
" Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ mới,những cảnh vui buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thương, nhớ tiếc hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao hơn nữa, những sự huyền bí nhiệm mầu của đời người và của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thế Lữ, đã tỏ ra rằng thơ mới đã vượt qua những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khác rộng rãi, tốt đẹp hơn nhiều.
" Nhưng thơ mới bị công kích nhất là về phần hình thức. Vì nhiều người làm thơ không biết đặt câu cho có điệu, thành ra bài thơ chỉ là những câu nói thường có vần thơ. Như thế, không thể gọi là thơ được. Ta thử nghe mấy câu sau này :
(Trích trong Nhật Tân) Như những hạt lệ của người bạn lẻ loi, Khóc chồng trong lúc đêm khuya lòng sôi
(Trong Bạn Trẻ)
...Anh khen cái nhăn mặt của Tây Thi Anh quên cơn cau mày của gái quê Anh để ông dật khách là cao phẩm Anh quên bác thợ cày bùn lấm...
(Trong Phụ Nữ Thời Đàm) ...Vừa rao vừa lạy mãi mới có người mua Tiền chưa kịp trả xe chạy vù... " Đọc lên nó lủng củng, chúc chắc, lại có vẻ ngớ ngẩn, tuy rằng ý tưởng cũng mới. " Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn. Như thế tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ.
" Dùng những câu tám hay chín chữ để đặt điệu hơn cả, tuỳ ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách (rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes, césures) cho điệu lên xuống.
Mấy câu thơ của Thế Lữ để làm mẫu :
VẦN LIỀN : Trời xanh dịu, sợi mây hồng vơ vẩn Trên bờ sông, cô em đương thơ thẩn Đứng lặng nhìn, mặt nước chiếc thuyền trôi. Với ánh chiều thu, bầm tím chân trời. . . . . . . . . . . . . . . Chính vì, hồn thu vi vút ban chiều
Đã nhắc cho cô, thấy lòng cô yêu
VẦN CÁCH (BÀI HOÀI XUÂN) :
Tiếng ve ran, trong bóng cây râm mát Giọng chim khuyên, ca ánh sáng mặt trời Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt Mùa Xuân còn, hết ? Khách đa tình ơi ! Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
" Đọc những câu thơ trên đủ biết rằng thơ mới đã có điệu cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có thể thay đổi theo những cảnh, những tính tình êm đềm hay dữ dội trong bài thơ. Trong bài " Con Hổ " của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ : ... Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ, Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa, Ta bước chân lên giõng dạc, đường hoàng ! . . . . . . . . . . . . Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan, " Những ý tưởng ấy, nếu diễn ra bằng thể thất ngôn hay là lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay. " Hai bài thơ cũ chỉ khác nhau về ý tưởng, nhưng bài thơ mới vừa khác nhau ở tinh thần lại vừa ở hình thức nữa.
" Người ta đã có thể làm một bài " thơ mới " nhưng ý tưởng cũ hay một bài " thơ cũ ", nhưng ý tưởng mới (xem bài : Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ ) :
" Tuy theo luật thơ cũ, nhưng chỗ nghỉ và chỗ xuống câu khác hẳn trong thơ cũ :
Em thấy chàng yêu mới nhớ ra Tên em là Đẹp, bạn em là Bao nhiêu cảnh tượng muôn hình sắc Ánh sáng, non sông, mây, cỏ, hoa. . . . . . . . . . . Trời cao xanh ngắt ! Ơ kìa Hai con hạc trắng bay về Bồng lai . " Nhưng hay hơn cả là đạt diễn những tư tưởng mới vào một hình thể mới. " Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm có giá trị ! "
Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã là theo mới, mới trăm phần trăm, thì dĩ nhiên Phong Hoá phải ủng hộ thơ mới triệt để và phải coi đó là một bổn phận nữa là khác. Thực vậy, Phong Hoá đã tranh đấu cho Thơ Mới và sau hơn hai năm tranh đấu cho thơ mới, Phong Hoá đã tự kể công lao mình. Đây lời Tứ Ly tính sổ văn học năm 1934 đã có mấy lời về thơ mới như sau, đăng Phong Hoá số 134, 30-1-1935, nơi bài " Thơ mới và quần áo mới ". " Về phương diện văn chương và mỹ thuật, thì trong năm vừa qua, Phong Hoá gây nên hai phong trào mới : phong trào kiểu áo mới và phong trào thơ mới.
" Thơ mới bắt đầu có từ bài " Tình già " của ông Phan Khôi. Nhưng vì thiếu người bênh vực có can đảm, thiếu thi sĩ mới có kiên chí, nên độ ấy không ai ngó tới nó nữa. Đến nay, thơ mới nghiễm nhiên chiếm một địa vị quan trọng trong làng văn : thi sĩ làm thơ mới rất nhiều, tương lai của thơ mới rất là rực rỡ. Tuy vậy, các nhà thi sĩ lối xưa vẫn nhất định rằng chỉ có thơ làm theo lối xưa là thơ, còn mới không phải là thơ, tuy nó vẫn là thơ.
" Phong trào mặt áo tân thời cũng bồng bột lên như phong trào thơ mới. Kẻ công kích, người khuyến khích. Những áo tân thời kể cũng đã làm tốn mực, giấy cho các nhà văn. Dẫu sao, có thay đổi mới có tiến bộ. Mỹ thuật bắt họ phải ăn vận mỗi người mỗi khác, nhưng nền luân lý chặt chẽ của Tống nho lại bắt họ phải ăn vận giống nhau : để lệch một bên ngôi cũng đã là phạm một tội nặng, huống hồ lại đổi cả kiểu một cái quần ! Tội thật đáng đầy chung thân...Đến bây giờ chính những bà những cô lên giọng đạo đức ấy vội vàng đi cạo răng, đi may áo mới...Ý chừng họ lấy làm sung sướng được chung thân...chung thân với áo quần kiểu mới.
" Mong rằng sau hai thứ mới này còn có nhiều thứ khác cần phải mới mà năm trước chưa phải lúc có thể thực hiện được. "
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh Đàng khác hình như từ trước tới nay Tự Lực Văn Đoàn có chửi thơ cũ, cũng chửi bâng quơ, chửi trống không vậy, chứ chưa có ra mặt bắt bẻ đích danh ai bằng những bài tranh luận. Nhưng từ đầu năm 1935, thì Tự Lực Văn Đoàn đã tiến thêm một bước. Ngộ Không đã ra mặt bắt bẻ Nguyễn Văn Hanh từng điểm một bài diễn thuyết mà ông này đọc ngày 9 tháng 1 năm 1935 tại hội quán S.A.M.I.P.I.C., Saigon. Ông Nguyễn Văn Hanh đưa ra năm lý do để bảo thơ cũ hay hơn thơ mới. Trước khi vào việc bác bỏ năm cái lý của ông Hanh và đưa ra năm cái lý là thơ mới hay hơn thơ cũ , Tứ Ly đã dùng cái ngón châm biếm để vẽ ra một Nguyễn Văn hanh dốt đặc mà lại kênh kiệu muốn học làm sang. Các bạn nhận thấy tất cả sự cay cú của Tứ Ly nơi bài " Một cuộc diễn thuyết ở Saigon : Vấn đề Thơ Mới...và Thơ Cũ (P.H. số 135, 8-2-1935).
" Tối thứ tư, 9 janvier vừa rồi, tại hội quán S.A.M.I.P.I.C. đường Galliéni, ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết về thơ cũ và thơ mới bằng tiếng Nam, người ta tới đông lắm, vì hai năm nay mới lại có diễn thuyết bằng tiếng Nam. Thấy báo " Tân Văn " giới thiệu ông Hanh là một nhà giáo " có học vấn " và đã từng có " thịnh danh trong văn giới " nên Ngộ Không tất tả chạy tới S.A.M.I.P.I.C. thì thấy quả nhiên là ông Hanh " có học vấn " : ông tỏ cho bà con cái học vấn của ông bằng những tiếng Pháp chen luôn luôn vào bài diễn thuyết tiếng Nam, tuy rằng những tiếng Nam ông dùng, bà con đều hiểu cả.
" Nhưng ông không cần, cứ mỗi tiếng Nam ông lại dịch ra bằng một tiếng Pháp, ngộ nhỡ người Nam không ai hiểu tiếng Nam chăng. Chu đáo lắm vậy !
" Ông nói : "Một bài thơ là một cõi thế giới, " univers "... " thơ không nên coi là một món chơi phiếm " bagatelle "... " thuyết nghệ thuật vì nghệ thuật " l'art pour l'art "...trụy lạc ; " dégénéré "...những tay thợ " les artistes " (tuy artiste không phải là tay thợ, nhưng có hề gì cái đó)... " những cái hay ở ngoài và những cái hay ở trong, beauté extérieure et beauté intérieure "... " tiếng ta là tiếng độc âm, " monosyllabique " còn tiếng Pháp là tiếng liên âm, " polysyllabique ", chữ tây không có dấu, " accents "... " thơ ta không nên làm " enjambement " ... vân vân.
" Mỗi lúc ông đọc nhầm, ông vội chữa ngay bằng một tiếng " à, bạc đồng ! " rất cứng cỏi. Có lúc ông đọc một câu rất dài bằng tiếng Nam, rồi tiếp ngay một câu rất dài bằng tiếng Pháp :" c'est le langage... " làm cho ai nấy giật mình tưởng ông sẽ tiện mồm diễn phăng ngay bằng tiếng Pháp thời nguy to.
" Nhưng may sao ông hãm phanh kịp, nên ai nấy mới hoàn hồn. Ông bảo đó là câu văn của một thi sĩ người Anh. Nhưng ông đọc bằng tiếng Pháp ? giá ông đọc luôn bằng tiếng Ăng lê có phải càng tỏ cái học vấn của ông một cách hùng hồn không. Ông còn có chỗ hở, tuy rằng ông đã có " thịnh văn trong văn giới " theo lời báo Tân Văn...
" Chưa xét đến nội dung bài diễn văn, cứ nghe ông nói đã thấy vui tai, vì tiếng Pháp, tiếng Nam chen lẫn, thật là :" nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau ". Đến nỗi người ta có thể nói là ông Hanh diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chen lẫn tiếng Nam cũng được.
" Người ta chỉ tiếc rằng có một vài chữ (rất hiếm) ông không dịch ra tiếng Pháp như chữ " tôi " chẳng hạn. Giá ông cứ dịch là " moa " có phải lý thú bao nhiêu :" Hôm nay moa nói chuyện về thơ với các toa, moa lấy làm bố cu hân hạnh honoré, vân vân et coetera ".
" ...Nhưng ông vẫn chê thơ mới. Lạ nhất là ông đọc mấy bài thơ cũ, thất ngôn, ông nhất định bảo đó là thơ mới, rồi ông nói :" Tôi không thấy mới ở chỗ nào ". Thế thì còn ai cãi được nữa. Ông lại có cái nhã nhặn đọc mấy câu thơ của cô Nguyễn Thị Kiêm, vừa đọc, vừa nhìn vào tận mặt cô Kiêm ngồi trước mặt ông, rồi ông cười một cách ranh mãnh mà hỏi cô Kiêm :" Thơ của cô như thế thì mới ở chỗ nào, mà hay ở chỗ nào ? ". Ông nghiễm nhiên đóng vai ông giáo " chuy " học trò của mình, ông lấy thế làm khoái trí lắm. Tuy vậy, ông còn chưa cho là nhã nhặn lắm, ông còn muốn nhã nhặn hơn nữa kia, ông nói một cách tinh quái :" Của cô dài lắm, đây là tôi bỏ đầu , bỏ đuôi, chỉ lấy quãng giữa thôi "...và " cô còn cứng đấy, tuy thơ của cô có chữ " xìu dégonflée ". Chắc hẳn tối hôm ấy, ông về ngủ ngon giấc lắm vì đã rất nhã nhặn với thính giả, và tự cho mình là hóm hỉnh hơn người, tuy cô Kiêm có cự cho ông mấy câu làm ông lúng túng một lúc lâu và chối bay chối biến :" Không, không, tôi có công kích cô đâu, tôi, tôi...tôi có mạt sát cô đâu ! "
" CÁI ĐINH VÀ... CÁI ROI "
" Nhưng lúng túng nhất là khi ông đánh rơi một cái đinh ! Vâng, ông đánh rơi một cái đinh, loay hoay mãi không tìm thấy. Thính giả cũng có mấy ông đứng dậy quanh co tìm hộ ông hồi lâu mà không thấy. Ông tìm đinh để đóng hai bức tranh lên bảng đen, hai bức tranh dùng để cắt nghĩa thế nào là loi de symétrie (A) và loi d'alternance (B) :
" Ông nhổ lên, cắm xuống trong nửa giờ đồng hồ không treo xong hai bức tranh, rồi ông lúng túng mãi với cái đinh đánh rơi. Mất mười phút đồng hồ mới xong cuộc tìm đinh đóng tranh. Xong hai tay nắm chặt một cây gậy tre, ông chỉ lên hình A bảo đó là symétrie, lên hình B bảo đó là alternance. Ông kết luận hình B đẹp hơn hình A, vì ông có một người bạn " học mathématiques supérieures " bảo ông như vậy. Xem chừng thính giả không tin mấy, ông tức mình hỏi phăng ngay ông Hồ Văn Lái họa sĩ, ngồi ngay đó :" Ông Hồ Văn Lái là nhà mỹ thuật hẳn ông đồng ý với tôi rằng hình B đẹp hơn A ? " Ông Lái gật đầu thế là ông Hanh đắc chí lắm, vênh mặt lên nói với thính giả, rồi bỉu môi mà leo lên diễn đàn.
" Thính giả ngơ ngác nhìn nhau có ý hỏi : hai bức tranh đó có liên hệ gì với thơ ? hay có bao hàm ý nghĩa gì sâu xa ? Nhưng chẳng ai hiểu hết.
" Sau mới vỡ lẽ là ông định cắt nghĩa cái hay của luật Bằng Trắc của thơ Đường.
" Nếu bằng bằng bằng bằng bằng ...thì không hay, nếu trắc trắc trắc trắc trắc...cũng không hay phải BBTTTBB thì mới hay. À ra thế ! Chỉ có thế thôi mà ông phải cầm lăm lăm cái gậy tre ở tay gõ mãi lên bảng đen như nhà giáo dạy học, làm cho thính giả cứ tưởng mình là học trò, mà nơm nớp sợ cái roi vô tình của ông. Nhất là cô Kiêm. Biết đâu lúc cáu tiết, ông lại không nện cho vài roi, theo thói quen của nhà nghề.
" Cái roi của ông từ đấy không rời tay ông ra. Khi ông lên ghế ngồi, vẫn để cái roi trên bàn, và luôn tay mân mê đến nó một cách khoái lắm.
" Đồng hồ đánh mười tiếng mà ông không cho học trò ra chơi, à quên, ông không cho thính giả về ngủ !
Ông Hanh bênh thơ cũ một cách rõ rệt, tuy ông nói là " Không nghịch với thơ mới ". Cứ kể ông đã có công trình vất vả chép đầy hai cái bảng đen hai bên, nào những bài thơ cũ của Yên Đổ, nào những TTBBBTTB, BBTTTBB,BBTTBBT, TTBBTTB...
" Trước hết ông đậy kín bằng mấy tờ giấy nhật trình, sau mới long trọng bóc ra để giảng nghĩa cho thính giả, ông thích chí lắm, hình như đã cho chúng ta biết một cái kỳ quan.
" Tóm tắt đại ý của ông, ông cho thơ cũ là hay, vì có những đặt điểm sau này :
" 1.- Câu trước câu sau đối chọi nhau, đọc câu trên cố ý đợi chữ đối ở câu dưới, khi đọc đến chữ mình đương đợi thì sướng lắm. Cũng như trông thấy một cái tai, rồi lại trông thấy một cái tai nữa thì sướng lắm. Vả khi trông thấy một cái mũi, có lẽ nếu thấy một cái mũi thứ hai ở sau gáy thì chắc cũng sướng lắm. Chắc ông Hanh này thích cửa sổ giả (fausses fenêtres) như ông Pascal đã nói.
" 2.- Thơ cũ có những lối yết hậu, chiết hạ...mà thơ mới không thể có được. Những câu thơ tuyệt cú mà ông thích là :
" Ước gì ta được mà ta để... " Ta để đem về để nữa ta... " " Ông thích nhất là những chỗ có chấm lửng (...) hóm lắm ! " 3.- Thơ cũ có lề lối, có khuôn khổ. Còn thơ mới chẳng có lề lối, khuôn khổ gì cả thì hay làm sao được. Vậy con chim phải ở trong lồng mới đẹp, nếu bay lượn không trung thì còn có lề lối gì nữa, đẹp sao được.
" 4.- Thơ cũ theo luật bằng trắc, nên mới có âm hưởng nhịp nhàng, chứ thơ mới có theo luật nào đâu, ai muốn viết sao thì viết. Nói đến âm hưởng, ông đọc câu thơ của cụ Nguyễn Du :
" Tiếng mau rập rập như trời đổ mưa ". Cụ Nguyễn Du có nghe thấy cái âm hưởng của hai chữ " rập rập " cũng phải đến bực tức mà gắt :
" - Đọc láo đến thế thì thôi !
" 5.- Lẽ thứ năm ông yêu thơ cũ...vì...vì lẽ gì không biết. Ông liền hỏi thính giả :" Những bài thơ cũ còn sống đến giờ là vì lẽ gì ? Nếu không hay sao còn sống mãi đến tận bây giờ ? Rồi ông đứng dậy, không kịp để thính giả hỏi lại ông :" thế cái búi tóc của đàn ông nếu không hay ho, sao còn lủng lẳng mãi tới bây giờ trên đầu Lý Toét ? Vậy nó hay vì cái gì ?
" ÔNG HANH CŨNG LÀ THI SĨ " " Không những ông là thi sĩ, mà ông lại là thi sĩ của phái thơ mới nữa mới kỳ. Nói đáng tội, ông có làm hai câu thơ mới thật, song làm để chế riễu thơ mới. Nhân công kích cái lối câu trên rớt xuống câu dưới (enjambement) ông liền đọc hai câu thơ của ông làm và viết sẵn trong bảng đen :
" Tôi đi đầu trần. Vì tôi không " Biết trên đầu có ai " " Rồi ông chế nhạo lối rớt chữ của thơ mới. Kỳ thực, ông không hiểu " enjambement " là gì cả. Và hai câu thơ của ông, ngớ ngẩn đã đành là ngớ ngẩn, mà chẳng chế riễu được ai hết. Nhất là ông thích rung đùi lúc ngâm thơ, nên ông lại càng là thi sĩ nữa. Ông có hứa sẽ nói tại sao khi ngâm thơ lại rung đùi, nhưng trước khi kết luận, ông tự hỏi :" Tại sao rung đùi ? " Rồi chính ông cũng không biết tại sao cả, nên ông lại thôi không cắt nghĩa cho ai biết nữa. " CÁCH LẬP NGÔN CỦA ÔNG HANH "
" Ông chê thơ mới mà ông chỉ đọc những câu ngớ ngẩn của những thi sĩ lơ mơ. Mà ông bênh thơ cũ, ông lại đọc những câu thơ vô nghĩa của Thượng tân Thị, và đôi câu đối viếng ông toàn quyền Pasquier cũng của Thượng tân Thị. Thành thử ông cũng không che chở cho thơ cũ được tí nào.
" Một điều nhầm to của ông là ông tưởng lầm rằng người ta thích làm thơ, là vì không có lề lối bắt buộc, nên dễ làm. Ông khoái chí lắm, kêu lớn lên, làm ai nấy đương lim dim ngủ đều giật mình tỉnh dậy :" À, tôi biết rồi, làm thơ cũ có khuôn khổ, lề lối, nên khó, còn thơ mới không có lề lối dễ làm, nên họ thích làm thơ mới...
" NHƯNG ÔNG HANH LẠI LÀ TRI KỶ CỦA PHONG HOÁ "
" Và nhất là tri kỷ của Tú Mỡ và Lê Ta (Tất nhiên là ông không đội trời chung với Thế Lữ). Ông đọc đến tên báo Phong Hoá luôn, hân hạnh cho báo Phong Hoá lắm thay mà cũng ân hận cho Thế Lữ lắm thay vì ông thích văn của Lê Ta, đọc thơ của Tú Mỡ, chứ không hề nói đến Thế Lữ.
" Ông yêu Tú Mỡ, vì Tú Mỡ làm thơ...lối cũ, như bài " Văn sách bà nghị khuyên ông nghị ". Ông đọc trọn bài cho thính giả. Ông yêu Lê Ta vì...Lê Ta công kích thơ mới của Nguyễn Vỹ, ông đọc từng đoạn văn rất dài của Lê Ta, lấy làm yêu mến lắm. Nhưng ông yêu ông nhất, vì ông đã công kích thơ mới, lối thơ yêu của Phong Hoá.
" Thành thử đối với ông, P.H. không biết nên cám ơn hay nên trách. Cứ kể trong cuộc diễn thuyết này, ông nói đến P.H. rất nhiều và giới thiệu Tú Mỡ với thính giả, cũng là tri kỷ lắm vậy.
" CÒN CÔ KIÊM ? "
" Cô Nguyễn Thị Kiêm bất bình vì ông Hanh đã mạt sát cô, và đã trái ý cô về vấn đề " mới cũ ", nên cô đứng dậy nói với thính giả sẽ tiếp câu chuyện ấy bằng một bài diễn thuyết tối thứ tư sau (16-1) cũng ở S.A.M.I.P.I.C.
" Chắc hẳn tối hôm đó, ta sẽ được xem cô Kiêm mắng lại ông Hanh như ông Hanh đã mắng cô ngày hôm nay, chắc là kịch liệt lắm.
" Rồi ông Hanh lại diễn thuyết cốt để mắng lại cô Kiêm, rồi cứ như thế mãi cho đến ngày nào cả hai người hoá đá có lẽ cũng vẫn còn mắng nhau. "
Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Sau khi thuật lại cuộc diễn thuyết của Nguyễn Văn Hanh công kích thơ mới và công kích đích danh cô Nguyễn Thị Kiêm, Phong Hoá có loan báo là cô Nguyễn Thị Kiêm sẽ có bài trả lời vào tuần sau. Cô Kiêm đã giữ lời hứa. Ta sẽ nói đến bài diễn thuyết của cô Kiêm khi nói đến Phụ Nữ tân văn với vấn đề thơ mới. Đây ta chỉ thuật lại bầu không khí rất hài hước của buổi nói truyện của cô Kiêm do Ngộ Không, đặc phái viên của Phong Hoá tường thuật. Theo lời Ngộ Không thuật như các bạn sẽ đọc sau dây, thì hôm cô Kiêm nói truyện, Nguyễn Văn Hanh đã huy động lâu la đến để yểm trợ ông ta hầu phá rối cuộc nói chuyện của cô Kiêm. Đây là một tài liệu rất đặc thù, nó tố cáo sự hăng say của hai phe cũ mới, coi như là một cuộc ganh đua canh bạc chứ không phải chỉ là một cuộc thảo luận về thơ là cái gì mông lung mơ mộng. Bài của Ngộ Không thật linh động và hài hước hết chỗ nói, nó cho ta thấy thương cô Kiêm, thương thơ mới và khinh ông Hanh làm trò " mất dậy " và mất cảm tình với thơ cũ. " Đúng như tối hậu ngôn của cô Kiêm quả nhiên tối thứ tư 16-1, hội quán Samipic biến thành một chiến trường rất náo nhiệt, hay nói cho đúng hơn, diễn đàn ở Samipic hôm đó đã thành ra một lôi đài thí võ. Người đi nghe thì ít, người đi coi rất đông, mà người trợ chiến lại đông hơn hết. Chưa đến 9 giờ, trong gian phòng ẩm thấp dưới nhà hầm của hội Samipic đã đông chặt những người, không còn chỗ nào lách chân, mà những cái mũi của thính giả ngơ ngác không biết đặt đâu để thở được một chút không khí. Không khí trong hầm lúc đó nồng những hơi người và đầy những sát khí.
" Cuộc tranh đấu bắt đầu. Cô Kiêm, sau mấy lời giới thiệu của bác sĩ Trần Văn Đôn, lên diễn đàn. Cô đứng trước bàn trong 10 phút đồng hồ, mà chưa nói gì được.
" Ngay hàng ghế thứ nhất, ông Nguyễn Văn Hanh ngồi lăm le chỉ chực vọt lên diễn đàn tuy không phải là phiên ông diễn thuyết. Tay xách một cái cặp da, đựng những giấy má gì không biết, làm cho mấy người chưa trả xong tiền nhà, tiền điện, cứ giật mình thon thót. Mấy ông bạn ngồi cạnh ông và xun xoe khắp mấy góc phòng đều mắm môi mắm lợi, xắn tay áo, để cố ý trấn tĩnh và cũng để nạt cô Kiêm nữa.
" Cô Kiêm biết mình dại, không sớm đề phòng thuê một ít người...trợ lực... Nhưng đã chót lên đến thì thôi cũng phải nói qua loa cho xong truyện. Thành ra cô bênh vực thơ mới không được hùng hồn lắm, và công kích ông Hanh cũng rất là nhè nhẹ.
" Ngay bên cạnh chỗ tôi ngồi, có một ông to béo, ý chừng là phe đảng ông Hanh. Mỗi lần cô Kiêm đọc một câu thơ mới của Thế Lữ, hay của Tường Bách hay của một thi sĩ nào ở báo Phong Hoá, thì ông rún vai bỉu ra một cái môi rất dài và " ứ ừ " một tiếng dài gần bằng cái môi ấy. Tiếng ứ ừ của ông ta được những cái mồm đồng đảng họa theo làm cho cô Kiêm xịu hẳn nét mặt lại và ông Hanh thì nở phồng hai lỗ mũi vốn nó cũng không nhỏ gì cho lắm. Cái ông to béo, có lúc nóng nảy dạng hai cái đùi u những thịt ra, như người đứng tấn một bài võ tầu làm cho mình suýt nữa bắn xuống đất, vì...thiếu chỗ ngồi, tôi chỉ được ghé một mẩu ghế của ông và một mẩu ghế nữa của ông bạn nhỏ người. Cũng may ông ta chỉ đứng vậy thôi chứ không đi bài võ tầu nào, nên không đến nỗi thành án mạng.
" Cái không khí lúc bấy giờ không phải là không khí một phòng diễn thuyết mà rõ là không khí một đài thí võ. Trong khi cô Kiêm khua môi trên võ đàn, như nàng Sử Cẩm Bình (trong truyện Anh hùng náo) múa võ trên lôi đài, thì ở dưới bọn đi xem, phe đảng ông Hanh cũng xắn áo, xắn quần, mắm môi mắm lợi như chư anh hùng, phe đảng của Lý Quảng.
" Cái không khí ấy đè nén một cách nặng nề, mãi cho đến khi cô Kiêm nói xong. Cô vừa đứng dậy thì ông Hanh lấy hơi vọt lên ...lôi đài.
" Xưa nay ông giáo Hanh trước mặt học trò vẫn phải giữ dè lời nói, thì tội gì hôm đó được dịp nói nhảm lại không nói. Người ta phải tuỳ từng lúc mà lịch sự, chứ lúc nào cũng lịch sự, cũng nhã nhặn thì còn có nghĩa lý gì. Vì thế, nên ông Hanh hôm đó quyết trút hết những cái lịch sự, nhã nhặn để lộ hẳn chân tướng trên diễn đàn một lần nữa, để tỏ cho bà con biết rằng nếu con em ít giáo dục thì về sau ăn nói như vậy.
" Ông Hanh leo lên diễn đàn, hỏi thính giả :
-Anh em chị em có muốn cho tôi nói không ?
" Những tay trợ chiến của ông đều trả lời :
" Có, có
" Tức thì ông Hanh toét một cái miệng rất tình và rất rộng, cười mà trả lời cô Kiêm một cách đắc chí lắm. Ông gọi cô Kiêm là " Nữ thi sĩ " rồi ông quay lại thính giả cười một cách ranh mãnh...Những người trợ chiến lại vỗ tay và cười rất hùng hổ.
" Ông Hanh nói :" Tôi, Nguyễn Văn Hanh, cô, Nguyễn Thị Kiêm, hay là cô, Nguyễn Thị Kiêm, và tôi Nguyễn Văn Hanh lật lại theo lối tây... "Rồi ông ra hiệu cả hai tay, cười một cách khoái lắm. Trong đám thính giả, có bao nhiêu con nít láu lỉnh, đều cười rộ lên. Những người đang ngáp hay đang cãi nhau cũng giật mình quay lại rồi cười theo và vỗ tay theo.
" Ông Hanh nói tiếp :" Tôi với cô cùng đi trên một con đường tối tăm, mà cô không biết. Ông định nói : Ông không phản đối thơ mới và đồng ý với cô Kiêm. Nhưng ông có một lối nói bóng bẩy mà xuyên tạc làm vui lòng một số đông thính giả.
" Ông lại nói : Cô đẩy một cái cửa đã mở rồi " vous enfoncez une porte ouverte. Một số đông lại cười rộ vì họ tưởng rằng cô Kiêm đến đẩy cửa nhà ông Hanh. Nhưng ông Hanh chỉ định nói là cô Kiêm phản đối ông vô ích, vì ông có công kích thơ mới đâu. Phải, ông không công kích thơ mới ông chỉ chê thơ mới thôi. Nhưng ông không dám nói là :" Tôi, Nguyễn Văn Hanh chê thơ mới " ông chỉ chê thôi, mà ông không nói là chê. Nhưng ông Hanh lại được mãn nguyện quá sức mong, là vì không một mình cô Kiêm " mắc cỡ " mà tất cả bao nhiêu nữ thính giả đều mắc cỡ, vì những lời lẽ, những dáng điệu của ông. Thực là kết quả mỹ mãn không ngờ.
" Ông nói với cô Kiêm :" Cô bảo cô không xìu (dégonflée) thế là cô còn cứng, vậy tôi xin xìu trước ". Rồi ông lại toét miệng ra cười và lom khom bước xuống ghế ngồi.
" Thế là ông lại được hoan hô một lần nữa.
" Có mấy bà ngồi hàng ghế đầu nhấp nhỏm đứng dậy mắng cho ông mấy câu, nhưng thấy vây cánh ông lớn quá, và nhất là cái quả đấm của ông nắm chặt quá, nên lại ngậm ngùi mà ngồi im. Có một bà, trái hẳn lại, vỗ tay dữ hơn mọi người để khen ông Hanh ; mọi người trông lại thì bà...bà Nguyễn Văn Hanh.
" Bỗng một ông nữa vọt lên diễn đàn. Thôi nguy to rồi, cô Kiêm lại phải một phen run sợ. Nhưng may sao, ông này tuy đem một cái mũi rất lớn lên diễn đàn cũng không đáng sợ bằng ông Hanh. Ông ôn tồn nói một hồi, không ai hiểu ông nói gì, chỉ thấy ông quanh quẩn mắng hết ông Hanh, lại cự đến cô Kiêm cho là hai bên đều vô lý hết, rồi ông lại cự cả ông, vì ông cũng vô lý nốt.
" Ông Hanh ngứa tiết lại nhẩy lên lôi đài. Hai ông giở tài ngọn lưỡi trước mặt cô Kiêm, làm cho cô Kiêm hậm hực muốn khóc ; cô muốn chui xuống đất, nhưng hiềm đất rắn quá, cô lại muốn bay lên trời, thì cái hầm lại thấp quá. Cô Kiêm cầu cứu ông huyện Tri, nhưng ông huyện Tri không động đậy ; cô cầu cứu ông Phan Văn Hùm, nhưng vẫn thấy ông Phan Văn Hùm nét mặt thản nhiên, lạnh lùng làm cho cô cuống quít ở giữa cái mồm rộng của ông Hanh và cái mũi lớn của ông nọ.
" Ông đốc tờ Đôn lúc bấy giờ vẻ mặt hớn hở lắm. Ông chắc lẩm : thế nào chẳng có anh vỡ đầu, sát trán, dập sọ, gẫy xương. Nếu không cũng có một vài ba thính giả hoảng sợ mà ngất đi chăng.
" Nhưng bà con thấy quang cảnh nguy ngập, xô nhau mà chạy trốn làm cho người ngao ngán nhất là ông đốc tờ Đôn. "
Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Cùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà Phong Hoá có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn kể thêm ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng đều cho ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu chết. Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam : " Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm ở quán hội K.T.T.Đ.
" Người đến nghe và đến xem chắc hẳn là đông lắm. Vì một cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô con gái diễn thuyết tất có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở Hà thành, áo tha thướt và nhiều màu tóc mượt và đen nhánh.
" Người ta đến đây cũng như một cuộc vui chơi. Trong một sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi.
" Buổi tối hôm ấy không một ai nghe rõ được câu gì. Người ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ hôi trên trán, thấy đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn thuyết cho bà ấy nghe ở hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng không nghe thấy gì ".
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Và đây đến lượt Lê Ta tuờng thuật : " Công chúng mỗi lúc một đông thêm. Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói . Dưới này họ lục đục chen nhau, cãi nhau về chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người kia để bênh vực cái đồng hồ đeo tay của ông.
" Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm ướt áo mọi người, thì bỗng cái quạt điện bừng chạy.
" Một ông dẫm lên chân một cô ngồi cạnh để tỏ ý bất mãn, rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên.
" Dần dần, cả những người ngồi đầu đều đứng lên, rồi muốn cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế.
" Một vài ông cố sức mở một đường " huyết đạo " xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng diễn thuyết mà không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một lúc trèo mám lên một cái ghế nghiển cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các ông sung sướng chen ra tỏ ý mãn nguyện lắm.
" Cái nóng bức trong hội quán cùng với sự náo động cứ tăng mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng nhiệt liệt của công chúng lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ được...Những người ở dưới muốn nghe rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi ".
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Sau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là Ngym, chẳng biết là ai : " Thính giả, cả hai giống, có đến bảy tám trăm đầu.
" Các bà các cô đến đông. Phần nhiều không được trắng như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn.
" Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có độ hơn 400 ghế thì các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông huyện Trị thân sinh ra cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các bà quần thoa " íu đúi ". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả phái khỏe không chịu nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ " galant " là lẳng được).
" Muốn cho thính giả lẳng lặng mà nghe, các tổ chức viên dùng " suỵt ". Sau có người " chừng cũng thạo về khoa học ", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông. Anh hàng kẹo hay anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt đãi.
Lê Ta phê bình tập thơ " Những bông hoa trái mùa " Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ " Những Bông Hoa trái mùa " của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua vai với thơ mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn vừa sáo, vừa rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca ngợi đã hết sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng thơ cũ phải một phen bể mặt. Đây bài phê bình " Những Bông Hoa trái mùa " của Lê Ta (P.H. số 148, 10-5-1935). " Sau khi góp sức chế tạo ra được ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi Vân " một ngày tốt đẹp kia ", đem in thành sách. In sách để tỏ cho thiên hạ biết hai ông cũng có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi hát :
Còn lạ lùng chi cái thói đời. Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi (Cuộc Đời) " Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái, khóc ý trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, " dặm liễu " đã mòn chân " ngựa ký " mà " đường mây " chưa thẳng cánh " chim đồng " cho nên " anh hùng " còn thẹn mặt trần ai, luống lo tưởng đến " nợ kiếm cung " ( !) chưa biết đến bao giờ trả được. " Tác giả thực là người có tâm huyết, có khí khái, có tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét móng tay mà giận đời không biết đến mình.
" Bởi thế, cái mới là cái đáng thù, cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện Thanh Quan :
Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá, Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo. (Trên núi Thiên nhẫn) " Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên thuyền bằng văn Cung oán : Cá dưới nước ra chiều lảng bảng, Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh. Hoa kia ngơ ngẩn với tình, Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe. (Trên mặt hồ tây) " Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật giở hơi và kiểu cách : Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn, Xông tên đột pháo một đầu voi (Triệu Ẩu) " Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm như tiếng đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm hồn của người khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào. " Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như thế này :
Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời ; Tiếng êm như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa. " Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông cũng viết : Trong như tiếng hạc mới bay qua, Đục tựa lưng vời nước suối pha, Êm ái tiếng khoan như gió thoảng, Tiếng mau sầm sập lại mưa sa. " Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những chỗ sông Tân, vườn Thuý, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu thơ Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy là " Những bông hoa trái mùa ". " Các ông đem bó hoa không đáng gọi hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.
" Là vì các ông không làm được thơ mới.
" Các ông không phải là người biết tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời chúc tụng của bọn người hát " súc sắc súc sẻ " đầu năm.
" Các ông trách lối thơ bây giờ không theo niêm luật cũ, vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật. Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố cái tiểu sảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn : mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng lòng.
" Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất nhiên phải dùng đến những chữ : chuốc chén qua nhà với duổi dong dặm kỳ ; khi vinh hoa tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng : sắc nước hương trời. Mà cuộc đời bao giờ cũng là một tấn tuồng cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng là ác, là chênh chếch, giọt sương dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt xanh, không quên những câu :
Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng, Thượng uyển là đây có phải không ? Hương ngự ( !) ngạt ngào đôi khóm cúc, Nhạc thiều ( !) reo rắt mấy cành thông (trang 15) " Để tả những cảnh...trong vườn bách thú ( !). Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết. " Ấy thế mà các ông đi công kích bọn làm thơ lối mới ; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ :
Lạy bác xin đừng nói đến thi, Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi. " Và gọi họ là bọn mù : Chẳng khác anh mù lại nói mơ, Chẳng qua một bọn dốt làm thơ... " Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo kinh điển, vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc tính tình, cảm hứng của họ. " Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì thực là may cho quốc văn.
" Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn không phải thứ trò chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần phải có những bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn cản lại.
" Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa cho quyển " Những bông hoa trái mùa " tôi lại tưởng tượng đến một bậc nữ lưu đoan trang, trầm mạc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy không được vừa ý cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói : tôi tưởng tượng ra một bực nữ lang... bà già.
" Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã già như cái cây cổ thụ.
" Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi sĩ của cô ham mến cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô lại viết một bài thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm là bài thơ quý hoá ấy cũng có đủ những biền ngẫu : nhị vàng đi dôi với cành thắm, lòng bướm với kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi đôi với những chữ sáo.
" Cô thực là người biết yêu trọng quốc hồn, quốc tuý. Nhất thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao :
Ta về ta tắm ao ta, " Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha khuyên người ta chê bỏ và tự mình chê bỏ " ao ngoài ", để về tắm " ao nhà " dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn. " Tôi buồn rằng người " thục nữ " có duyên đến thế lại kém vệ sinh.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:29:16 GMT 9
Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới A- Mặt trận bênh thơ mới (2) Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn bênh thơ mới mà bênh rất găng, rất tận tình nhưng không đồng ý cho rằng hễ cái gì không phải thơ cũ đều là thơ mới cả. Buổi đầu các ông chưa tỏ thái độ gì với các loại thơ rất dở mà người ta tôn xưng nó là thơ mới. Nhưng từ giữa năm 1935 - có lẽ lúc này thơ mới đã có cơ sở rồi - thì các ông lên tiếng loại bỏ những thơ mà theo ý các ông, không đáng là thơ mới hay cho dù có là thơ mới, thì cũng là thơ mới hạng bét, rất dở chẳng kém gì thơ cũ.
Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng Ngày 18-1-1935, Phong Hoá số 133, Nhị Linh công kích và phê bình Đỗ ĐìnhVượng bằng một giọng mát mẻ. Ông Vượng diễn thuyết ca ngợi thơ mới, nhung Nhị Linh phàn nàn rằng giá ông đừng đi nghe ông Vượng thì còn biết thơ là gì, và thơ mới ra sao, chứ " lúc tôi ra về không còn hiểu thơ và thơ mới là cái quái gì nữa, tuy diễn giả đã chịu khó tra cứu, khảo sát, lục lọi trong đủ các sách cổ, kim, tây, tầu, An nam, nào của Boileau, nào của Hồ Thích, nào của Nguyễn Du, nào của các thi sĩ cổ điển, lãng mạn ". Ngày 25-3-1935, P.H. số 142 Thạch Lam viết bài " Thơ mới " để công kích một số đông các tờ báo có đăng thơ mới, các sách có xuất bản thơ mới. Theo Thạch Lam, thơ bọn họ chẳng cũ mà cũng chẳng mới. Các bài thơ đó có năm đặc tính sau đây :
" - Cái đặc tính thứ nhất - và cũng lạ lùng nhất - là những bài đó không phải là thơ. " - Cái đặc tính thứ hai là không có vần. " - Cái đặc tính thứ ba là đọc lên nghe sang sảng như những mãnh sắt vụn người ta để trong bao gai mà xóc lên. " - Cái đặc tính thứ tư là không có nghĩa lý gì hết. " - Còn cái đặc tính thứ năm nữa, cái đặc tính này không phải của thơ, mà của người viết ra những thơ đó, cái đặc tính ấy là ...xuẩn. " Nếu ta có cái đặc tính cốt yếu ấy, và nếu thơ ta có đủ bốn cái đặc tính như trên thì ta thành ra một người làm thơ mới. " Thơ mới trong một vài tờ báo chẳng hạn ".
Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ Cũng Thạch Lam, ngày 3-5-1935, (P.H. số 147) đã chửi thơ mới của ông Phạm Văn Kỳ. Thạch Lam ví điệu thơ của ông Kỳ như đám cháy nhà. " Đấy là một cảnh thương tâm lắm ; những " khổ chủ " thấy thần hoả đến thiêu nhà khóc vang như ri. Còn những tiếng " hì hục " của vạn người không tên đó, có lẽ là tiếng của những người đến chữa cháy...
Của vạn người không hạnh phúc, Đợi chết dưới hầm than, Của vạn người đang nhui nhúc Tù tội của thời gian... " Kể không có hạnh phúc thì những người bị cháy nhà không có hạnh phúc thật ! Nhất là họ bị đốt cháy trong những cái nhà như những cái " hầm than " nữa. Rồi câu thơ ngươi, thi sĩ, Sẽ bọc những tiếng than, Góp thành một tiếng rền rĩ, Kêu động cả không gian. Một tiếng mạnh như tiếng sấm Đớp lửa và động mưa, Phát hoả từ trong rừng rậm, Lặn đến thành phố xưa... " Cái tiếng mạnh như sấm đó là tiếng tre nứa nổ đấy. Ta thấy nhà thi sĩ nói đến thành phố : Ô hay, thế thì xe cứu hoả, vòi rồng tưới nước đâu ? A, đây rồi ! Thi sĩ thật là người cẩn thận : Đố ai ngăn được tiếng ấy, Nó tràn với sông xanh. Đố ai trừ được tiếng dậy Của sức mạnh liên thanh. " Nghĩa là cái vòi rồng của thành phố không đủ. Phải cần đến tiếng của nhà thi sĩ : Rồi tiếng của người thi sĩ Khi sấm hết rền vang Sẽ đọng lại thành tiếng nỉ Non...như của khúc đờn. Rồi chung quanh ngươi, cả chủng Tộc...đều mở xiềng gông Rồi Nàng Thơ của ngươi cũng Yêu ngươi một cách nồng... Thế là thơ hết và cháy cũng hết. " Chỉ còn lại tro tàn, lửa bụi, một đống than lủng củng những vôi, những gạch, những mảnh tre, mảnh nứa, lá gồi... " Thơ của thi sĩ Phạm Văn Kỳ âu cũng thế. Âm điệu thì réo rắt như tiếng tre nổ, tiếng vách sụp, tiếng nhà cháy.
" Còn vần thơ thì lủng ca lủng củng như một đống than đầy vôi, những gạch, những tre, mảnh nứa, lá gồi...
" Mà đọc xong bài thơ " Ngươi, thi sĩ " của ông ta, ta có cái cảm giác thoát dược một việc nguy nan như khổ chủ thoát tai nạn cháy nhà. "
Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn Đến Lê Ta ông đã bênh thơ mới bao nhiêu thì ông lại chửi người làm thơ mới bấy nhiêu. Phải chăng bọn làm thơ mới này không thuộc phe Phong Hoá ? Không dám quyết, nhưng người ta có thể ngờ rằng thế. Ngày 14-12-1934 (P.H. số 128), Lê Ta phê bình để chê bai cuốn Mơ Màng của Đức Văn là thứ thơ " văn kêu và rỗng là món sở thích của những nhà văn mới mà chẳng biết mình nói gì, " khinh miệt tập " Tình em " của Nhuệ Thuỷ có cái " biệt tài là thơ văn ông viết bằng những câu văn và ý tưởng người khác ".
Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ Về thơ của Nguyễn Vỹ, Lê Ta có hai bài phê bình một bài đăng Phong Hoá số 127 (7-12-1934), và một bài đăng số 129 (28-12-1934). Ở bài thứ nhất, Lê Ta nhắc lại lời phê bình của Nhất Linh về Nguyễn Vỹ,và nhân đấy chửi mát Nguyễn Vỹ :
" Nhà " thi sĩ " Nguyễn Vỹ, tác giả tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái lại nhiều hơn. Cho nên khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của người tên là đuôi kia không có ruột ! Muốn khỏi mất lòng " thi sĩ " tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh : thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn sách của ông ra mà xem : Chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không biết nó đựng những cái gì ! "
Sang đến bài thứ hai, Lê Ta phũ phàng với Nguyễn Vỹ hơn, đã ví thơ Nguyễn Vỹ như thơ của con sen, thơ của vú già :
" Ông Nguyễn Vỹ là một nhà học rộng. Bàn về thơ ca, ông đã cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ : ông hiểu rõ hết được các âm điệu thơ, khuôn phép thơ, mỹ thuật của thơ, tuy ông không hiểu thơ là cái gì, và tuy ông thấy mình là thi sĩ.
" Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm, khéo nói quá ! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, rất chu đáo, mà ông phản đối ông lại chu đáo gấp đôi. " Tập thơ đầu " của ông là một tập thơ có khuynh hướng về cải cách, nhưng người làm " Tập thơ đầu " lại sợ cải cách, hay cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu với phép hạn chế phá, thừa, luận, kết của luật thơ Tàu, để mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây.
" Thơ của ông Vỹ thiếu cái chi chi kia, chứ " chân " (pieds) thì đủ lắm. Xin đọc thử ít câu sau này :
Những cặp mắt xinh đẹp, mà ta thấy thoáng qua Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối (Lối thơ 10 chân) . . . . . . . Hai bàn chân linh thiêng ấy, những ngày rằm và ngày hội Tôi đã được nhìn rất cảm động những trẻ mồ côi nhỏ Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ Hôn hít hai bàn chân Thánh hoặc lấy tay vuốt ve, sờ Hay là với khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc Mà họ áp hôn vào môi, hoặc đưa lên đầu tóc (Lối thơ 12 chân) " Soi đến kính hiển vi cũng không thấy thiếu một chân nào. Thơ ông quả thực không phải thơ quê. Nhưng quả thực là ngô nghê. " Đem so sánh thơ ông Vỹ với hai bài thơ " Đồng Hồ " của tôi ông không bằng lòng là phải, vì nó không đủ chân, nhưng giá đem so sánh với bài " Son nê " sau này của cô N.T.G. thì hẳn ông ưng ý lắm :
TẶNG VÚ GIÀ CỦA TA Hỡi vú già của ta ơi ; Hỡi vú già của ta ơi ! Vú đến ở hầu nhà ta, may mắn ấy thực bởi trời. Vú tuy người chẳng xinh tươi, mà lại cũng không còn trẻ Nhưng rất chắc chắn, vững vàng, và vừa nhanh và vừa khỏe. Gọi thì dạ, bảo thì vâng chưa hề phải mắng một lời. Suốt từ sáng sớm đến chiều, chỉ làm lụng chẳng rong chơi Nào việc bếp nước nấu ăn, nào giặt quần áo, nào chẻ củi, nào quét dọn nhà cửa, hết việc lớn đến việc bé. Tôi lấy hết can đảm để đọc đi đọc lại, lúc thì nhẩm thẩm, lúc thì cất giọng ngâm nga, mà buồn thay cho tôi, tôi nghe nó vẫn làm sao ấy. " Nhưng đối với tác giả thì nó có nhiều thi vị lắm, nó có một thứ thi vị ngầm, cũng như người đàn bà xấu số ở trong phong dao có duyên thầm vì được chồng yêu quý :
Lỗ mũi em tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho Đêm nằm thì ngáy o o ; Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm. " Ông Vỹ có quyền yêu thơ của ông lắm. " Am hiểu âm luật, biết nói đến những chữ trật tự, quy tắc, biết chê sự hỗn độn, hồ đồ, lại biết ghét những cái ngớ ngẩn ngây ngô, mà viết ra những thơ như trên kia, thì viết làm gì ? ".
Ngày 12-1-1935 (P.H. số 132), Lê Ta, trong bài " Cuộc điểm...mấy Nàng Thơ ", đã gọi thơ của Từ Bộ Hứa là " một đứa con xam xám : Vậy mẫu thân của nó hẳn là một nàng tây đen " ; bảo " Nàng thơ của Nguyễn Vỹ không hay nói tiếng Việt Nam, người cay nghiệt chặt chẽ từng dòng, từng chữ, nên đứa con của nàng không thiếu một chân, một tay nào hết. Nhưng nó phải cái ngẩn ngơ cũng như nàng " ;
Về thơ Đức Văn, Lê Ta viết :
" Ông Đức Văn thì vớ phải con mẹ quê mùa, dở hơi, sống sượng. Chị chàng này chỉ biết có thơ văn như hạng Phạm Công, Cúc Hoa ở miệng bọn hát xẩm. Cũng có khi tâm hồn xúc động, " nàng " cất thứ giọng lệnh vỡ của người nhà quê vùng bể mà ngâm rằng :
Tách nòng hờ hững mấy nòng Nửa hương nuống để nạnh nùng bấy nâu " Bởi vì nàng vừa ngớ ngẩn lại vừa ngọng. " Về thơ của Nhuệ Thuỷ, thì Lê Ta viết :
" Ông Nhuệ Thuỷ thì kết duyên với một chị có họ gần với nàng Đông Thi. Nghĩa là một người xấu và hay bắt chước vẻ đẹp của Tây Thi. Thấy Tây Thi nhăn thì nàng cũng nhăn. Nhưng Tây Thi nhăn thì thêm duyên, mà nàng nhăn thì người ta chết khiếp ".
Còn nàng thơ của Lan Sơn thì ôi thôi mỉa mai làm sao !
" Nàng thơ của ông Lan Sơn là một người hay vòi. Tôi thấy lúc nào nàng ta cũng lẽo đẽo đi lải nhải theo sau thi sĩ, tay cầm cái mùi soa ướt đẫm, mặt thì mếu xếch mếu xác. Chẳng biết có bị thi sĩ bạt tai cho cái nào không ".
Đến nàng thơ của Huy Thông thì theo Lê Ta nó thuộc vào loại " tăng gia sản xuất " :
" Nàng thơ của Huy Thông là một nàng thơ có nhiều tình cảm, nhiều tư tưởng hay. Nàng lại là người " mắn " ta sẽ thấy nàng sinh sản được đông đàn. Vậy nàng có thể tự an ủi nàng rằng hỏng đứa này, còn đứa khác.
Nói thế không phải có ý bảo tập " yêu đương " - đứa con đầu lòng của nàng thơ Huy Thông là một tập thơ dở cả. Những ý tưởng mạnh mẽ, những tình tứ không thường, những hình sắc lộng lẫy hay dịu dàng với những vẻ đẹp trong trẻo, ngây thơ, mong manh, tôi thấy đầy dẫy trong tập sách trên một trăm trang giấy tốt.
" Người thiếu niên thi sĩ của tôi biết cảm xúc vì cái vẻ hùng vĩ, mênh mông của bể cả, biết mong gửi lại tiếng lòng " thì thầm lời nước mây kiều diễm " theo tiếng sóng, biết cùng tiếng sóng ca ngợi " lòng kiêu căng không bờ bến " với " nỗi buồn gớm ghê, niềm ngao ngán của một trái tim đau đớn bởi điên cuồng ".
" Huy Thông biết ghi cái vẻ mơ hồ của :
" Ngàn liễu nơi xa trong sương hồng chìm đắm ".
" Biết thổi khúc tiêu êm ái để buồn ca những lời tự tình của người tiêu bất tử thiết tha khuyên nhủ chàng mục đồng.
Những nỗi niềm âu yếm, nồng nàn và lòng yêu đương đằm thắm của một trái tim sớm đắm đuối vì tình, ông Huy Thông biết đem thả vào tiếng rộng rãi của gió trên bể bạc và thu vào trong vỏ hến nhỏ để người yêu nghe.
" Nhưng bao cái hay cái đẹp kia, tiếc thay chỉ là những hạt trai lóng lánh lẫn vào trong đống đá sỏi sù sì. Nếu ví thơ ông là bát chè thì người ăn chè là chúng ta đến thành móm hết ".
Nhưng cách đấy năm tháng, tức đến 24-5-1935, nơi Phong Hoá số 150, Lê Ta lại có một bài phê bình thơ mới của Huy Thông. Lần này, tuy có còn chê mát Huy Thông, nhưng Lê Ta đã dành nhiều chân tình cho Huy Thông. Phải chăng Huy Thông đã cộng tác với Phong Hoá. Đây lời Lê Ta :
" Gớm ! Làm gì mà ầm ĩ lên thế nhỉ ? Truyện tình tự là truyện kín đáo mới phải chứ, là những truyện một người yêu nói cho một người yêu nghe.
" Nói ở phòng riêng, bên bờ nước, ở nơi âm u, nơi tăm tối hay trong ánh trăng khuya.
" Nói bằng cái giọng nỉ non, êm ấm, dịu dàng hay khê nặc, hay khàn khàn như ống bơ rỉ, hay nặng nề như tiếng vịt đực, hay ồm ộp như tiếng ễnh ương...
" Nhưng mà người ta nói nhỏ.
" Nói nhỏ để cho những lời ở cái miệng đa tình lọt được vào cái tai đa tình,
" Thế thôi ! Chứ người ta không gào tướng lên cho bất cứ hòn đá nào với bất kỳ một " nhân vật " nào cũng nghe thấy được.
" Ông bạn Suối Đào của tôi lại không nghĩ thế.
" Bởi ông là suối. Là suối, nên ông róc rách, kể lại hết cả các tiếng cây, tiếng gió, điều hay truyện dở, và thiên tình sử rất đáng cảm động của cô Tần Ngọc với ông Huy Thông. Ông Huy Thông, " nhà thi sĩ đã bao nhiêu người biết tiếng và mến tài... ", ông Huy Thông mới 17 tuổi đã đổ tú tài triết học. Có lẽ từ xưa đến nay chưa từng thấy ai thông minh đến bực ấy ", ông Huy Thông là một nhà đẹp trai và " có vẻ một nhà thông thái với trán rộng và mái tóc bờm sơm ".
" Đó là lời trong bức thư cô Tần Ngọc mà cái suối bép xép kia một hôm đã nghe thấy. Rồi bây giờ đi học lại cho chúng ta cùng nghe (Trong Văn Học tạp chí đổi mới số 1).
" Suối Đào lại cho chúng ta nghe những lời tha thiết hơn, chân thật hơn trong những bức tình thư nồng nàn của một vị nữ lang mới mẻ vô cùng - là cô Tần Ngọc - Cô yêu ông Huy Thông lắm. Cô muốn gặp ông Huy Thông sau buổi chiếu bóng ở Palace lắm. Cô muốn cho ông Huy Thông không " lọ " lắm. Cô cũng muốn cho ông Huy Thông " làm mấy bài thơ đăng ở báo Phong Hoá để tặng " cô lắm...Trời ! Biết bao nhiêu lời cảm động, làm tê tái lòng ông Huy Thông đẹp trai lắm của tôi !
" Cả một truyện tình của một tài tử với một giai nhân. Một truyện tình riêng, nghĩa là chẳng có ích gì cho ai hết thảy.
" Vậy mà Suối Đào kể lại tường tận, rất chu đáo, rất có duyên nữa. Người thóc mách đến thế là cùng.
" Có lẽ là vì Suối Đào quá yêu Huy Thông nên không hề biết gì là giữ gìn, là dè dặt nữa. Ông này quá yêu ông nọ và muốn quảng cáo cho sự đẹp trai và sự... " đa tình " của tác giả tập " Yêu đương ". Có biết đâu rằng truyện thóc mách của Suối Đào sẽ làm cho ông Huy Thông và cô Tần Ngọc không bằng lòng.
" Tôi biết ông Huy Thông là người rất khiêm tốn không bao giờ ưa người ta nói đến tài của ông lắm, hay có ai nói thì không bao giờ ông đem khoe ai...Ông Huy Thông phải đâu là người chuộng sự phô trương trên mặt báo. Không, người thi sĩ của tôi ưa ca trong lầu vắng, và chỉ muốn để cho thiên hạ thấy có khúc nhạc réo rắt của mình thôi.
" Cô Tần Ngọc cũng vậy. Cô không muốn cho ai biết truyện riêng của cô. Tình yêu đối với cô là thứ tình kín đáo, mầu nhiệm. Cô yêu ông Huy Thông vì Huy Thông " đẹp trai có tài " chứ có phải vì để được người ta làm thơ tặng cô trên báo đâu. Khi cô xúi ông Huy Thông rằng :" Số Phong Hoá sau thế nào cũng có một bài thơ tặng tôi (cô Tần Ngọc) đấy " có phải là vì hiếu danh đâu ? Đó chỉ là một tấm tình yêu thiết tha, chân thực, nồng nàn và kín đáo...nhất là kín đáo.
" Ông Suối Đào thực không biết ý tứ một chút nào hết. Những điều kín đáo như thế mà đem nói toạc cả ra !
" Làm như ông Huy Thông cũng muốn đem việc riêng của ông ra công bố.
" Làm như ông Huy Thông đã thấy mình bất tử và thấy thiên tình sử kia đáng lưu lại hậu thế.
" Làm như ông Huy Thông mong mỏi cho người ta ca tụng cái tài thi sĩ, cái tài học, cái đẹp như thần tiên...
" Ông Huy Thông của tôi đọc bài của Suối Đào chắc bây giờ đang nổi giận ".
Cuộc cách mạng về thơ đã bùng ra ở Phụ Nữ Tân Văn với bài " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ " ngày 10-3-1932, Phụ Nữ Tân Văn số 122.
Sau đó im bặt cho đến số 153 ra vào tháng 6 năm 1932, Lưu Trọng Lư, dưới tên giả cô Liên Hương, mới lên tiếng hưởng ứng Phan Khôi. Rồi hình như viên đá thứ hai của cô Liên Hương ấy cũng không gây được tiếng động nào trên cái hồ văn học Phụ Nữ. Tờ báo đầu tiên hưởng ứng nồng nhiệt là Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn, chứ không phải báo Phụ Nữ Tân Văn của Phan Khôi, vì suốt năm 1932 Phụ Nữ Tân Văn không có một bài nào đề cập thêm về vấn đề thơ mới. Chưa hiểu nửa năm đầu 1933 thế nào, vì các thư viện mà tôi tra cứu thì thiếu những số từ Janvier 1933 đến Juin 1933.
An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn Nhưng từ Juillet 1933, thì trên Phụ Nữ Tân Văn thấy có nhiều bài đề cập đến thơ mới. Ngày 6-7-1933 (P.N.T.V. số 207) An Điễm, viết bài " Lối thơ mới ". Theo An Điễm thì trên Phụ Nữ Tân Văn đã có phong trào thơ mới rồi và nó đã ảnh hưởng mạnh đến văn giới cả trong và ngoài Phụ Nữ Tân Văn :
" Thiệt, " lối thơ mới " là một cái khuynh hướng đương phát triển trong văn giới Annam.
" Không những là thơ lối " Manh Manh " đăng ở P.N.T.V. được nhiều độc giả hiểu ý nghĩa, tình tứ, mà hoan nghênh ; và nhiều thiếu niên thi sĩ bắt đầu bỏ thiên kiến mà sấn bước vào con đường mới lạ, đặt cảm tình tư tưởng vào khuôn mới, khác hẳn phạm vi Đường thi.
" Hình như nhiều giới thi sĩ khác ở ngoài cơ quan PNTV cũng hưởng ứng mà dạn dĩ đặt cho thi cảm của mình vào khuôn mới, khác nào thi nhau mà thách sự mai mỉa của hủ tục ".
Sau đó, An Điễm tuyên bố P.N.T.V. muốn giữ vai trò lãnh đạo phong trào thơ mới :
" Phụ Nữ Tân Văn muốn làm một cơ quan tiền quân cho nên trong sự sửa đổi khuôn khổ của thơ ta, cũng như trong mọi vấn đề kinh tế xã hội, thoát ra ngoài thiên kiến, mà dạn dĩ gọi bạn làm thơ đi vào con đường mới � con đường mới hợp với sự sanh tồn mới.
" Khuynh hướng trong vài giới thi sĩ xứ ta đã thay đổi, thế là bạn làm thơ không phải lãnh đạm đối với kẻ thanh niên thi sĩ của báo Phụ Nữ Tân Văn.
" Ước gì các bạn sẽ tiến mau cho đến ngày đánh vỡ được thành trì giam hãm làm sỉ hổ tình tứ của nhà mỹ thuật là luật nhà Đường ; " hồn thơ " trong xứ ta sẽ có cơ tới gần cái thiệt tế hơn " .
Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo Ngày 20-7-1933, P.N.T.V. số 208, Thạch Lam, trong bài " Lối thơ mới " đã giới thiệu bài thơ " Con nhà thất nghiệp " của Hồ Văn Hảo : " Thanh niên thi sĩ Hồ Văn Hảo ra mắt bạn đọc báo lần này là lần thứ hai. Hai lần thách sự mỉa mai của hủ tục, sự áp chế của kỷ luật nhà Đường ; hai lần tỏ ra một sự tiến bộ lớn.
" Lần đầu trong " P.N. " kỳ số 205, ra ngày 22 Juin vừa rồi thi sĩ Hồ " Tự tình với trăng ".
. . . . .
" Hôm nay xem bài thơ sau này, các bạn sẽ có dịp cùng chúng tôi nhận một sự tiến bộ lớn ".
CON NHÀ THẤT NGHIỆP " Ngọn đèn leo lét, Xác xơ một nóc nhà tranh ; Trên chiếu tan tành, Một trẻ thơ nằm im, xanh mét... . . . . . . . . . Ngoài, trời mưa xào xạt ; Gió tạt Vào, vách thưa Mấy hạt mưa Mảnh mùng tơi tan tác... . . . . . . . . . Lạnh lùng đứa bé " Cựa mình, cất tiếng ho rang, Người mẹ vội vàng Vuốt ve rằng :" nín đi con nhé ! . . . . . . . . . Cha con gần về tới, Con ôi, Nín đi nào ! " Dạ như bầu, Miệng cười, hàng lệ xối Cánh cửa tre từ từ mở . . . . . . . . . Một luồng gió lạnh chen vô. Đèn vụt tắt ; tối mò... Ai đó ? Ai ? Mình về đây... . . . . . . . . . Chút nữa đã bị còng ; Mới chun vào, họ la : ăn trộm ! Nếu chân không chạy sớm, Mặt vợ con còn thấy chi mong ! . . . . . . . . . Thôi ! bây giờ tiền đâu mua thuốc Cho con ; chết nỗi đi Trời ! Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc. Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi ! Hồi làm cu li, Đến mua, tiệm còn bán chịu ; Nay sở đã đuổi ra, thì Một đồng điếu Họ cũng bảo : đi ! . . . . . . . . . Âm thầm, vợ đốt đèn dầu Ra chiều buồn bã. Chồng quên lạnh dạ. Ngồi thở ra, chắt lưỡi lắc đầu. . . . . . . . . . Ngoài, vẫn mưa xào xạt Trong, đứa bé ho rang... Ngọn đèn tàn Hết dầu nên lu lạt... " . . . . . . . . . Đó là một trong những bài thơ mới của khoảng giữa năm 1933 nghĩa là một năm sau bài Tình Già (10-3-1932). Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới Thơ mới tuy phát xuất từ Nam Kỳ với Phan Khôi, là người Trung, nhưng dư luận học giới Nam kỳ lúc ấy cũng phân tán lắm. Nguyễn Văn Hanh phản đối chống thơ mới bao nhiêu thì cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn Thị Manh Manh sốt sắng bênh vực thơ mới bấy nhiêu. Ngày 26 Juillet 1933, cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết bênh vực thơ mới tại hội Khuyến học Saigon. Theo Phụ Nữ Tân Văn số 211 ra ngày 10-8-1933, số đăng bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm thì cô Kiêm nói truyện lâu trong tiếng rưỡi đồng hồ " mà vì ứng khẩu mà diễn " cho nên báo Phụ Nữ Tân Văn chỉ thuật lại được những đoạn cốt yếu. Vì bài diễn thuyết này gây xúc động mạnh trong thi giới miền Nam, nên ta cần biết qua về bài diễn văn này. Đây các bạn nghe cô Nguyễn Thị Kiêm nói truyện về thơ mới :
" Trước khi nói về vấn đề thơ mới tôi xin thử giải thơ là gì. Thơ là một danh từ để chỉ chung các vận văn. Làm thơ là gì ? Làm thơ tức là lựa một vận văn trong các thứ vận văn, hay là đặt ra một vận văn để phô tả tánh tình, ý tưởng của mình, những quan niệm của mình đối với sự đời, với vũ trụ, những cảnh vật, những hiện tượng của sự sống.
" Thi sĩ An nam hồi nào tới bây giờ thường dùng ba lối thơ : thơ Đường luật ; lục bát ; song thất lục bát. Không kể thơ Đường luật, là thơ của người Tàu, ta chỉ có hai lối thơ sau, còn bao nhiêu lối khác chỉ cho chung về điệu ca (như hát sẩm, hát nhà trò vân vân...). Phần nhiều thơ Đường luật là thơ tả tình cảm về thân thế của tác giả, còn thơ lục bát và song thất lục bát thì hay thiên về lối tả cảnh, thuật truyện (Style narratif).
" Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó buộc về từng câu từng chữ, chặt chịa về luật bình trắc, về phép đối câu, đối chữ. Vì khuôn khổ luật phép phiền phức nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một phạm vi eo hẹp lúng túng, hễ cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy trăm bài khác ; còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người " phát minh " ra trước rồi. Bằng muốn bỏ hết mấy " sáo cũ ", diễn những tư tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn khổ. Ta có thể nói rằng thơ Đường luật không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay, bao nhiêu cái ý tưởng sâu, đều đã có một hạng thi sĩ tài đời xưa, phô tả hết rồi, người sau đây vì cái vòng niêm luật ấy, phải lập lại câu cũ ý xưa mà thôi, thành ra lời văn không thích hạp với sự đời bây giờ mà ý tưởng thì không tả ra hết được.
" Hai lối sau, lục bát và song thất lục bát thì giản dị hơn : cách đặt câu định vần cũng không cần phải đối, phải hạn câu. Tuy vậy, về nội dung của nó, ý tưởng ít bị khép hơn thơ Đường luật, song cái hình thức cũng còn ép ta phải lập những sáo cũ.
" Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị " đẹt " mất thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới.
" Năm ngoái, trong báo Phụ Nữ Tân Văn, ông Phan Khôi " trình trong làng thơ " một lối thơ mới, nhưng ông cũng kể rằng, mười năm trước, có một thiếu niên thi sĩ ở Hà Nội có sáng kiến này đầu nhứt. Chưa thấy được bài thơ mới đầu nhứt, tôi chỉ đọc bài thơ " Tình già " của ông Phan Khôi.
" Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở vv... "
" Bài thơ này ít người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài
" Tình già " không được gọn, nhưng về nội dung, tình tứ giãi ra một cách rõ ràng, dễ hiểu mà thật thà. Chỉ đọc qua là nghe khác hẳn lối thơ xưa, có vẻ thiết thực và cảm hoá được người đọc. Chính ông Khôi đã nói đó là một lối thơ làm thử (un essai) cốt đem tình tứ có thật trong tâm hồn mình mà tỏ ra bằng những câu thơ có vận chớ chẳng buộc niêm luật, hạn câu chi hết. "
" Sau ông Phan Khôi chẳng bao lâu, báo Phụ Nữ Tãn Văn có đăng bài hưởng ứng lối thơ mới của cô Liên Hương (Trung Kỳ) và một bài thơ mới của ông Lưu Trọng Lư sau đây :
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI : Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi? Lẳng lặng với sương gieo im đìm cùng gió thổi, Không tiếng, không tâm, không thưa không hỏi. Không hát, không cười, không than, không tủi. Lận đận với năm canh, bóng ai kia lủi thủi. (P.N.T.V. số 211, 10-8-1933) " Tôi chắc là bài " Trên đường đời " được nhiều người thích hơn bài " Tình già ". Câu văn bài sau nghe thâm trầm, có nhịp có vần hơn, song nên để ý rằng ý nghĩa của bài này không rõ rệt hơn bài trước mà lại có hơi mờ ám. Nhưng phải biết rằng bài này rút trong một tiểu thuyết (Hai cái thời đại) chớ chẳng phải một bài thơ riêng, vậy muốn hiểu nghĩa của nó phải biết chuyện trong tiểu thuyết hay là hiểu sơ bài ấy nói về khúc nào trong tiểu thuyết. Theo ý tôi là người chưa đọc quyển tiểu thuyết kia, đọc bài " Trên đường đời ", định phỏng rằng tác giả (ông Lưu Trọng Lư) muốn tả thân cô độc, đau khổ, của một người trên đường đời có khác nào một bóng người âm thầm đi một mình trong cái đêm tối. . . . . . . . . . . . . . . .
" Bài " Trên đường đời " không gọi được là một bài vì nó vắn lắm, sau nầy khó làm mẫu để tỏ tư tưởng khác, chỉ kêu là một khúc trong một bài (une strophe). Bây giờ muốn làm ra một bài một điệu thì nên thêm một khúc nữa tương tự mẫu khúc trên rồi hai khúc sau chỉ có bốn câu hay ba câu tùy ý, như vậy hình thức điệu này rõ rệt, chắc chắn, có hơi giống điệu sonnet của thơ Pháp. (Đọc một sonnet Pháp). Đây là tôi bày một ý kiến cho các thi sĩ (une proposition) chớ không phải nói ông Lưu Trọng Lư bắt chước theo thơ Pháp mà các ngài hòng la lên :
" Bỏ thơ Tàu lại vớ thơ Tây !
" Sau bài " Trên đường đời " còn có một lối thơ mới. Tác giả Ký Thanh Tâm (không biết của ông hay là bà nào) gởi đăng báo P.N.T.V.
" Tôi thử đọc bài này, tựa là " Vắng khách thơ ". Hình thức bài này chia rõ ra ba phần : phần đầu : Xuân năm ngoái, phần thứ nhì : ly biệt, phần thứ ba : Xuân năm nay : ý tưởng rõ rệt dễ hiểu. Nên để ý rằng bài nói về sự buồn (ly biệt, nhớ thương) mà câu văn lại gọn gàng, phe phẩy như nhảy nhót (style sautillant) vì tại câu văn vắn, chấm phết nhiều. Thành ra đọc bài " Vắng khách thơ " xong, người đọc sẽ la :" cái bài ngộ nghĩnh quá ! " chớ không có cảm tưởng buồn. Đây, ta thấy rõ cái hình thức bài văn có quan hệ lớn đối với nội dung.
" Đó là ba bài thơ mới đầu hết mà ít có ai để ý tới. Bây giờ tôi sẽ bàn đến thơ mới sau này, của tôi và bạn hưởng ứng như Hồ Văn Hảo, Khắc Minh vân vân là bọn người làm đại náo trong làng thơ.
" Đầu năm ngoái, trong số báo mùa xuân của Phụ Nữ Tân Văn, có bài thơ mới đầu nhứt của tôi, tựa là " Viếng phòng vắng " (Đọc bài thơ) tả những tư tưởng của người khách, đến một phòng xưa, phòng của người bạn yêu đã quá cố. Bài này thấy rõ rệt 7 strophes, mỗi strophe giống nhau, strophe đầu và trong strophe chót hơi đồng chữ mà khác ý. Khúc đầu và khúc chót :
Gió lọt phòng không Gió lọt phòng không Tạt hơi đông Tạt hơi đông Lạnh như đồng. Lạnh như đồng. Ngồi mơ tưởng... Ngồi mơ tưởng.. Ngày xưa phất phưởng Tình xưa phất phưởng Dấy động tơ lòng Ấm dịu cõi lòng. " Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6, thì mỗi câu có bốn chữ, câu 2, 3, 4 mỗi câu có 3 chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp với nhau ; 4, 5 vần với nhau. Khúc đầu là nhập đề liền, lại là cái giàn cảnh : Người khách đến viếng phòng vắng, ngồi trong phòng. Cửa phòng mở he hé, luồng gió lạnh tạt vào làm cho khách rúng động ; tưởng ngày xưa phất phưởng ; lòng lại bồi hồi. Khúc thứ 2, 3, 4, 5, 6 tả những tư tưởng của khách. Do theo mấy tư tưởng ấy, ta có thể thấy cái phòng không. Trải đã mấy trăng Hỡi nhện giăng, Với rêu lan, Tấm vách cũ... Từ khi người chủ Một giấc lặng trang ? " Khúc chót là cái kết luận của mấy tư tưởng nọ, là cái tâm hồn (état d'âme) của người khách sau khi ôn truyện xưa nhớ người xưa...Tình xưa phất phưởng, ấm dịu cõi lòng. " Sau bài này, tôi cũng theo điệu này mà viết một bài khác, tựa là " Thơ gửi cho em Vân " (đọc và cắt nghĩa bài sau...). Còn đây là là một điệu khác. Điệu này tôi có làm hai bài " Canh tàn " và " Mộng du " (đọc hai bài ấy). Tôi xin chép một bài ra đây để tiện chỉ cách đặt.
CANH TÀN Em ơi, nghe lóng nghe Gió đêm thoáng qua cửa, Lụn tàn một góc lửa, Lạnh ngắt chốn buồng the ! . . . . . Gió đêm thoáng qua cửa... Não dạ, dế tỉ te. Lạnh ngắt chốn buồng the. Em ôi, khêu chút lữa, . . . . . Não dạ, dế tỉ te. Gió ru... " thiết chi nữa ! " Em ôi, khêu chút lữa, Rồi lại ngồi đây nghe . . . . . Gió ru... " thiết chi nữa ! " Sụt sùi mấy cành tre... Em ngồi đây có nghe. Tơ lòng chị đứt nữa ?... Bài này có 4 khúc, mỗi khúc 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Khác là câu thứ 2 và 4 của khúc trước đem vô khúc kế làm ra câu thứ 1 và 3. Tôi ngụ ý đặt điệu này theo bài (... Soir) của thi sĩ Pháp Charles Baudelaire. (Đọc bài ấy) có mấy câu lập đi lập lại. Không phài là túng vận hay là chỉ để êm tai, mà thật là cái dụng ý để tả cái buồn, một cái ý tuởng đang vấn vít theo mãi. " Trong một điệu khác, tôi cũng dùng lối lập đi lập lại câu văn, nhưng cái dụng ý lại khác và vấn đề bài cũng khác xa bài này. Ấy là bài " Hai cô thiếu nữ " (đọc bài ấy).
" Bài này cũng có nhiều khúc. Mỗi đoạn có 4 câu, câu 1 và 3 có 7 chữ, câu 2 và 4 có 8 chữ. Câu 1 và 9 là câu lập lại. Cái đề là " Hai cô thiếu nữ " thì bài này chỉ thuật chuyện hai cô thiếu nữ, tác giả không để mình vô trong đó, không nói cảm tưởng của mình, cũng không phê bình câu chuyện ; để cho mặc ý người đọc phán đoán.
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng ; (Một cô ở chợ một cô ở đồng) Hai cô thiếu nữ đi ra đồng, Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen. " Mấy câu lập lại vừa là cái giây liên lạc (lien de transition) trong bài vừa là cái điệu riêng của bài. Có nhiều người cho rằng lập lại câu văn là đỡ kiếm vần và dễ làm lắm, kéo dài bao nhiêu cũng được, làm mấy chục bài như vậy cũng được. Tha hồ cho mấy ông cứ làm ! Nhưng lập lại câu văn như trong bài " Canh tàn " và bài " Hai cô thiếu nữ " mà không khéo lập, cho ăn nhập với câu trên câu dưới, thì mấy câu lập đi lập lại sẽ làm " nghẹt " bài thơ, lui không lui, tới không tới, khác nào người dui là chàng " Vân Tiên cõng mẹ " vô không vô mà ra không ra. Tôi nói như vầy là có một bài thơ ngộ nghĩnh, giọng khôi hài, không biết tác giả là ai, hình như của Cổ Nguyệt Nguyên thì phải. Vân Tiên cõng mẹ trở ra, Đụng lấy cột nhà cõng mẹ trở vô. Vân Tiên cõng mẹ trở vô, Đụng lấy cột bồ cõng mẹ trở ra. Vân Tiên cõng mẹ trở ra... vân vân... " " Tôi cũng có dùng lối song thất lục bát, rồi xen một lối vận khác vào, để thành ra một lối thơ mới như trong bài " Sa đàn " (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy). " Gần đây người mình có dịch văn Pháp nhiều lắm. Dịch ra bằng lối bát cú, tứ cú cũng có, lối lục bát, song thất lục bát cũng có. Song hai lối sau thường dùng hơn vì theo hình thức, dễ phô tả ý tưởng của tác giả hơn hai lối nọ. Dịch các thơ Tây bằng lối song thất lục bát tôi chẳng nóigì, đến như dịch mấy bài thơ của thi sĩ Pháp Paul Verlaine là một lối thơ đặc biệt quá mà dịch bằng lối lục bát thì không trúng ý tác giả. Ông Verlaine muốn cho thơ đặt làm sao mà đọc nghe như tiếng đờn. Thế nên ông có một lối văn riêng. Nhưng vậy, không phải thơ ấy không có nghĩa. Đọc nghe êm ái mà lại cho người " thấy " được thưởng thức được cảm giác khác.
" Tôi xin đọc hai bài thơ của ông, hai bài này có nhiều dịch giả (đọc bài La lune blanche và Chanson d�automne). Rồi bây giờ tôi đọc mấy dịch văn. Đây là bài " Khúc ca hay " (La bonne chanson hay là La lune blanche) của ông Phạm Đình Nguyên dịch " Khúc ca hay " theo lối lục bát, lời văn hay, ý tưởng trúng, nhưng lối lục bát khác với lối văn riêng của Verlaine quá thành ra không tả hết cái hay. Bây giờ tôi đọc bài " Vầng trăng bạc " của ông Đào Thanh Phước cũng dịch bài La lune blanche mà dịch bằng lối thơ mới. Tôi cũng xin đọc hai bài dịch " Chanson d�automne " của hai ông Đào Thanh Phước và Dương Quang, bằng một lối thơ mới, ý tưởng trúng mà câu văn dồi dào có lẽ đạt được ý muốn của tác giả. Nãy giờ tôi nói đến dịch văn tây là có ý tỏ rằng với lối thơ mới người ta sẽ dịch được nhiều bài hay.
" Trước khi dứt câu chuyện thơ mới, tôi xin bàn đến vài bài thơ mới của thi sĩ Hồ Văn Hảo. Tiếc rằng tôi không đủ thời giờ để nói đến các bạn hưởng ứng khác như Khắc Minh vân vân ... Bài thơ của Hồ Văn Hảo là " Tự tình với trăng " (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy) câu văn thật êm đềm mà rõ rệt, người xem bài này có thể vẽ ra một cảnh.
Màn trời ai vén, Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi Một nụ cười, Ra chiều xẻn lẻn... " Tiếc là ý tưởng bài này có hơi cũ, tác giả chê cõi đời là " bể khổ trầm luân " không thiết gì đến đời, muốn lên ở cung trăng cho êm tịnh. " Nhưng bài sau thì lại khác hẳn. Ấy là bài " Con nhà thất nghiệp " mà người ta cho là chẳng phải thơ. Chỉ vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh hoa tàn, nguyệt xế, suối chảy chim ngâm mà là một cảnh thiết thực, một cảnh khổ có thực trong đời : người thất nghiệp.
" Có lẽ trong thơ văn, người cu li ờ trần quần vẫn là một động vật không có gì lãng mạn chăng ? Có lẽ cái bi kịch một người nghèo khổ phải đi ăn trộm " hụt ", chúng ta hay được la " ăn trộm " ! rồi anh chạy trốn, kịch ấy không có gì lạ, đáng để ý chăng ? (đọc bài " Con nhà thất nghiệp " và phê bình).
" Kết luận tôi xin nhắc rằng chúng tôi chẳng hề nói mình đặt ra những " thơ mới " hoàn toàn xuất sắc bao giờ, chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều người dể ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời. "
Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ngày 26 Juillet 1933. Bài diễn thuyết của cô tuy mãi sau này mới đăng lên Phụ Nữ Tân Văn số 211 (10-8-1933) đoạn đầu và đoạn sau mãi đến số 213 (24-8-1933) mới đăng hết, bài diễn thuyết ấy đã được báo Phụ Nữ tường thuật ngay từ số 210 và liên tiếp các số sau. Nơi số 210 (3-8-1933), nghĩa là một tuần sau khi cô Kiêm đọc diễn văn, bài xã thuyết của trang nhất tựa là " Đáp lại một cuộc bút chiến " tác giả ký Phụ Nữ Tân Văn đã cực tán dương cô Kiêm như là người đầu tiên dám can đảm dạn dĩ đi " hẳn vào con đường mới, không quản sự mỉa mai của nhiều người thủ cựu " (P.N.T.V. số 210) :
" Cô Nguyễn Thị Kiêm đã diễn thuyết ở hội Khuyến học Saigon về lối thơ mới.
" Tất cả bạn độc giả có xem qua cuộc bút chiến to tát của vài tờ báo đối với thơ mới đăng ở Phụ Nữ Tân Văn sẽ nhận được ý nghĩa cuộc diễn thuyết này.
" Vài năm nay, đành rằng vẫn có nhiều người bảo phải bỏ những khuôn khổ cũ trong thi ca An nam, vì nó không còn thích hạp với tình tứ và tư tưởng của thi sĩ đời nay, là đời điển khí.
" Có người cũng đã bắt chước lối tây hay là tự ý bày ra lối mới để làm thử một hai bài thơ.
" Nhưng, thật ra, chưa có thi sĩ nào dạn dĩ bước hẳn vào con đường mới, không quản sự mai mỉa của " nhiều người thủ cựu ".
" Không ai có thể cãi rằng cô Nguyễn thị Manh Manh đã đem thi cảm thật mà đặt vào khuôn khổ mới, tỏ ra là một tân nhân vật chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ Tây.
" Người nào chịu bỏ thiên kiến không kể những lời chế diễu quá dễ dàng của vài ông túng " câu chuyện hằng ngày " ; người nào có huấn luyện về văn thơ, người nào chịu khó suy nghĩ trong khi đọc, tất nhận được thi cảm trong những bài thơ mới của cô Nguyễn, và đã tự hiểu rằng : tinh tứ mới cần diễn ra trong thơ mới . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
" Cô Nguyễn đã tỏ ra quan niệm mới đối với thơ vần ; cô lại là người có thi cảm cho nên sự sáng kiến của cô có ảnh hưởng và nhơn đó mà sinh bất tiện cho cô. Ta cứ xem cuộc bút chiến to lớn và phi thường về thơ lối mới thì đủ biết.
" Người thi sĩ của báo P.N.T.V. đối phó với sức phản động ra thể nào ?
" Cô đã đăng dàn diễn thuyết để đáp lại những lời chỉ trích ; cô đã tỏ ra nghị lực phấn đấu một cách rõ rệt.
" Thái độ của bạn nữ lưu nầy sẽ có ảnh hưởng hay cho vận động phụ nữ ; bạn đàn bà có thể tự phụ vì cô Nguyễn đã dạn dĩ phấn đấu như thế ! chúng tôi xin chị em lưu ý tới thái độ của bạn nữ biên tập chỉ là vì cơ vận động phụ nữ ; chúng tôi nêu mục này ở mục xã thuyết là vì cái ảnh hưởng của nó đối với trào lưu phụ nữ, chớ không phải vì nhà diễn thuyết là bạn của chúng tôi đâu.
" Chị em đọc báo tất đã nhận chủ tâm của chúng tôi "...(Phụ Nữ Tân Văn số 210, 3-8-1933).
Các bạn nên ghi nhận kỹ lưỡng đoạn văn trên đây. Nó không phải của một nhà văn nào nhận định về cô Kiêm, về thơ mới, về cuộc tranh luận giữa thơ cũ thơ mới, mà nó là bài xã thuyết, bài lập trường của báo Phụ Nữ, tức là nó nằm ở trong chính sách, nằm trong đường lối của Phụ Nữ Tân Văn.
Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm Rồi cũng trong số 210 này, sau bài lập trường kể trên đây, còn có một bài tường thuật của Huấn Minh tựa là " Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội Khuyến Học về LỐI THƠ MỚI ". Đây là một bài tường thuật rất có ý nghĩa, bởi nó hợp với điều mà Ngộ Không đã tường thuật ở Phong Hoá nghĩa là nó tố cáo sự hăng say của văn giới đối với vấn đề. Trong bài tường thuật này Huấn Minh đã ghi nhận bảy điểm bằng bảy tựa đề in chữ to : 1. Tựa đề thứ nhất " Cuộc diễn thuyết về lối thơ mới ". Huấn Minh ghi :" Một tuần lễ nay, đi đến đâu cũng nghe bàn bạc về " lối thơ mới " của cô Nguyễn Thị Manh Manh, và cuộc diễn thuyết về lối này. Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên " nhàn đàm " và " câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi.
" Cuộc diễn thuyết này là một lời thanh minh ; nó mở ra trong văn học xứ này một trương mới ; nó có hai đặc sắc. Một lần đầu, ở xứ này có cuộc tranh biệt kịch liệt về thơ, về khuôn khổ cũ và mới, lần này là lần thứ nhứt, một thiếu niên nữ sĩ đứng ở trước chỗ đông người làm án một bọn văn sĩ thủ cựu ".
2. Tựa đề hai " Đông nhứt các buổi hội ". Huấn Minh ghi :" Buổi diễn thuyết tối hôm thứ tư 26 Juillet vừa rồi được đông người nghe nhứt...
" Tân Việt và bọn của ông ngồi rải rác các nơi, tức là đại biểu cho sức phản động. Trong thi giới cũng như trong các phạm vi khác vẫn có lắm kẻ bảo thủ ".
Điều ghi nhận ông Tân Việt và bọn ông kéo nhau đi để phá cô Kiêm là điểm các bạn nên ghi chú.
3. Tựa đề ba " Thơ hăm dọa ", Huấn Minh ghi :" Cô Nguyễn Thị Kiêm tới hội quán ! Người trong hội trao lại cho cô một xấp dày những thơ hăm dọa ".
Điều ghi chú này lại càng là một điểm độc đáo, tố cáo vấn đề gay go đến mức độ nào.
4. Tựa đề bốn " Từ hai mươi lăm năm nay ! ", Huấn Minh ghi :" 8 giờ rưỡi ! ông hội trưởng hội Khuyến học, đốc tơ Trần Văn Đôn, đứng ra giới thiệu nữ diễn giả.
- " Hội Khuyến học có đã hai mươi lăm năm nay : lần này là lần thứ nhứt, một người phụ nữ đăng đàn ! "
5. Tựa đề năm " Diễn giả nói một tiếng rưỡi đồng hồ ", Huấn Minh ghi :" Cô Nguyễn nói về lối thơ mới. Cô bác những lời nghị luận vô giá trị của ông Tân Việt và cô Tịnh Đế, vân vân, bảo rằng những thơ cô cho đăng trên báo P.N.T.V. không niêm luật. Cô giải thích chữ thơ...
" Cô giải rõ ràng vì sao mà phải bỏ khuôn khổ cũ, không phải vì phạm vi 8 câu 56 chữ không thể giúp cho thi sĩ diễn tả cái thiệt tế ngày nay, bày rõ vấn đề sự sống, cho đến những lối cũ mà hơi rộng hơn là lối lục bát và song thất lục bát cũng không thể làm khuôn cho tình tứ mới được.-Lời quả quyết này quả đúng sự thật ! "
. . . . . . . . . . . .
6. Tựa đề sáu " Thái độ của người phản đối ", Huấn Minh ghi :" Tuy những nhà phản đối cô Nguyễn đã cao rao là sẽ xin đứng lên phản đối cô tại hội quán, mà họ vẫn ngồi im...Diễn được một tiếng đồng hồ thì chừng mươi người trong bọn phản đối ấy rút về êm. "
7. Tựa đề bảy : " Cảm giác ", Huấn Minh ghi :" Trừ những kẻ tật đố, còn thì ai cũng nhận rằng buổi diễn thuyết hôm thứ tư rồi có ảnh hưởng tốt trong mọi đường.
" Dầu sao, lối thơ mới đã chiếm được quyền sống còn trong văn học An Nam.
" Hết thảy bạn nam nữ thấy cô Nguyễn nhận chơn trách cứ của mình và cổ động cho cuộc biến đổi trong thi giới như vậy � Có người đã gọi là một cuộc cách mạng trong làng thơ, - đều hưng khởi trong lòng.
" Văn sĩ An nam phần đông rất lãnh đạm với mọi sự biến đổi, nhờ cử động cương quyết của cô Nguyễn kích thích mà sẽ đổi thái độ của mình ". (P.N.T.V. số 210, 3-8-1933)
Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới Cũng trong P.N.T.V. số 210, sau bài của Huấn Minh, chính bà chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhuận cũng có bài " Nghe cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ". Các bạn có thể ghi mấy dòng tiêu biểu hơn sau đây :" Một người thiếu nữ đứng trước gần ba trăm thính giả nam nữ mà giảng về thơ, văn chương, cắt nghĩa chức vụ của thơ là thế nào, thỉnh thoảng cầm mấy tờ để đọc những lời chỉ trích của bạn đồng nghiệp mà thái độ rất tự nhiên, rất vững vàng ! " Cái quang cảnh ấy làm cho lời nói của bác sĩ Trần thêm có ý nghĩa.
" Hội Khuyến học ra đời hai mươi lăm năm nay, mới có lần diễn thuyết này diễn giả là một người thiếu nữ ! Một người thiếu nữ có tư tưởng, có văn tài. Một người thiếu nữ đã dám bảo rằng phải bỏ những khuôn khổ cũ của thơ ta, phải ngâm vịnh trong khuôn khổ mới !
" Một người thiếu nữ chống lại bao nhiêu nhà thủ cựu trong thi giới mà nói rằng cần phải tả sự thật đời nay trong khuôn khổ rộng hơn khuôn khổ Đường thi.
" Một người thiếu nữ dám ca tụng những thơ rất mới như là bài " Con nhà thất nghiệp " của thi sĩ Hồ Văn Hảo, làm cho bọn công kích thơ mới khó chịu phải kéo nhau ra về !
" Quang cảnh hay thay !
" Tôi ước ao các ngài phản đối lối thơ mới cứ tha hồ phản đối, nhưng giữ phép lịch sự đối với một nữ đồng nghiệp đã dạn dĩ đi vào con đường mới lạ.
. . . . . . . . . . . .
" Nếu các ông chịu nhận như vậy rồi đem sự tranh luận về lối thơ mới lên trình độ cao, chớ không nói pha lửng về " bài thơ con cóc " một cách vô vị, thì các ông sẽ được người nghịch nể vì ".
Sau cùng, cũng ở P.N.T.V. số 210, còn có bài " Lối thơ mới " của Thanh Lan (ký tên T.L.) giới thiệu bài thơ " Tình thâm " của Hồ Văn Hảo. Thanh Lan nhận định cái gì ở xã hội ta cũng đang đổi mới. Mà theo tác giả, về sự đổi mới của văn vần, có người chỉ muốn đổi mới về nội dung còn giữ y nguyên hình thức cũ. Thanh Lan không chịu thế :" Những sự biến đổi kịch liệt trong xã hội An Nam về kinh tế và chánh trị đã có vang bóng trong văn chương An Nam.
" Về văn xuôi, lối văn đối từng câu từng vế, luộm thuộm lòng thòng, dần dần thối bộ để nhường chỗ cho lối văn mới, hợp với đời mới này hơn.
" Về văn vần, tuy rằng thơ của các thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, Khắc Minh và các bạn khác nữa đăng ở Phụ Nữ Tân Văn vẫn còn đương bị chỉ trích dữ, nhưng số độc giả đã đổi thị hiếu mà cảm biết cái thi vị của lối này mỗi ngày mỗi đông.
" Kẻ bảo thủ thấy mỉnh có mòi thất bại, thì đổi chiến sách. Bấy giờ họ bảo rằng :
" Đã đành là thi sĩ phải diễn cái thiệt tế mới trong xã hội, nhưng can chi lại phải bỏ lối thơ Đường luật là lối thơ đã từng nhờ những bài thơ tuyệt bút của bao nhiêu thi sĩ đời xưa mà nổi danh ? Can chi mà đổi cái hình thức ? Chỉ vụ tất ở hình thức chẳng là nông nổi lắm ru ? Chi bằng ta lo về nội dung, nghĩa là cứ diễn đạt tư tưởng và cảm tình mới trong khuôn khổ cũ.
" Tôi xin đáp ngay với người phản động :
- Hình thức và nội dung quan hệ cùng nhau mật thiết lắm.
" Cái áo đà không đủ tỏ là kẻ tu hành chân chính (l�habit ne fait pas le moine) ; nhưng mà cái áo đà (hình thức) cũng đã tỏ ra một cái tinh thần (nội dung) đặc biệt. Vì, quả nhiên, người mặc áo đà có tâm lý khác với người vận y phục thường. Dầu không phải là thầy tu chân chánh chăng nữa người vận áo đà vẫn không phải tâm lý như người thông thường.
" Nói thiết thực hơn về vấn đề thơ mới, thi sĩ nào có tình tứ mới mà chịu diễn đạt trong khuôn tám câu năm mươi sáu chữ, thì sẽ thấy kết quả nầy.
" Tình tứ thật của mình không thấy phát biểu ra được, mà chỉ thấy mình nói những lời mình không muốn nói. Cái khuôn khổ cũ giam mình trong một hoàn cảnh không thật ".
Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới Ngày 7 tháng 9 năm 1933 (P.N.T.V. số 215), một tác giả khác, ký tên L.Đ. đã viết bài " Nên bàn về lối thơ mới ". Bài " Nên bàn về lối thơ mới " đã được báo Phụ Nữ Tân Văn giới thiệu như thế này : " Bổn báo đăng bài sau này của ông L.Đ. để mở đường tranh luận về lối " thơ mới " trong tập báo này. Phụ Nữ Tân Văn không thể làm cơ quan cho đảng phái chánh trị hay là văn học nào hết ; trên tờ báo chúng tôi có thể đăng bài tả ra những khuynh hướng khác nhau để cho công chúng tranh biện rồi tự kết luận lấy ". B.B.
Bài này, trước hết, thuật lại nền học của Việt Nam từ đầu, là một nền học lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Hoa cho nên các kỹ thuật làm thơ viết văn, nhất thiết đều bắt chước Tàu :
" Nước ta từ xưa đến nay vẫn là một nước có một nền văn hiến ; song xét ra cho dùng văn cho đúng, văn hiến ấy phần nhiều chuyên chú vào các hạng nhà nho.
" Còn về mặt quốc âm vẫn còn kém sút nhiều lắm, kém sút về hình thức mà về phương diện tinh thần cũng quá eo nghèo.
" Ngày nay hán học đã sắp điêu tàn, e có ngày phải tuyệt diệt. Vậy thì cần nhứt là ta phải kiếm một lối học thuật mới để thay vào. Đó là lẽ cố nhiên ai ai cũng đều công nhận ; nhưng trong nước hiện thời có hai nền văn học. Thứ nhất : Pháp văn ; thứ nhì : Quốc văn. Pháp văn cần phải học đã đành rồi, song học để mà làm một cái lợi khí để hấp thụ lấy tinh thần Âu Mỹ hầu truyền bá trong dân gian, chớ không thể lấy đó mà thay cho Quốc văn được.
" Vậy thì điều cần thiết hơn hết là ta nên lấy quốc văn làm một môn học phổ thông. Dân ta là An Nam, lại học nói, học viết tiếng An Nam, há chẳng phải là một điều tiện lợi lắm ru. Thế mà từ xưa đến nay có mấy ai cho rằng tôi học quốc văn ở trường này...trường kia ra chăng ? Hẳn là không ! Ta định lấy Quốc văn là môn học phô thông, mà hồi nào đến giờ không có trường, không có cơ quan cho đúng dắn thì người thức giả phỏng ai lại chẳng đem lòng lo nghĩ .
" Người nho học thi ngồi chễnh chệ, run đùi, tấm tắt khen thầm văn ông Lý, ông Đỗ là hay. Còn hạng tân học khen Pháp văn, là cao thâm uyên bác, khen thơ ông Victor Hugo là khéo, khen văn ông Lamartine là não nuột thâm trầm. Nhhũng hạng có học thì tuỳ theo sở thích của mình mà ưa chuộng, không mấy ai chịu ngóng ngàng đến Quốc văn ; thành thử từ xưa đến nay, cái tình đối với Quốc văn thật là nguội lạnh lợt lạt. Vẫn biết rằng Quốc văn đã phát hiện từ hồi đời nào kia, cũng có người quan tâm đến, nhưng đó là phần ít. Nếu không có thì sao lại có cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Tần Cung Oán, cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Lục Vân Tiên là mấy bộ văn chương kiệt tác như thế. Song xét cho kỹ thì các nhà văn sĩ hồi xưa làm ra những áng văn ấy vì một cơn ngẫu hứng, hoặc là đem tả lấy cái tâm sự của mình nó uẩn khúc trong lòng chớ chưa phải là vì vấn đề Quốc văn mới sản xuất ra mấy tập văn kia vậy.
" Các nhà nho kia hễ mỗi khi cảm hứng thì làm toàn là thơ bằng Hán văn, mấy ông cho rằng nôm na là mách qué. Bởi thế có mấy ai ngó ngàng đến vận mạng, đến tiền đồ Quốc văn làm chi. Có lẽ vì duyên cớ ấy mà làm cho lắm điều trở ngại về Quốc văn, sự tấn bộ về Quốc văn cũng phải dần dà chểnh mảng. Hiện nay chúng ta đã biết rằng Quốc văn là eo hẹp, nên chỉ lật đật tu bổ, trau dồi lại cho tốt ; xây tường đấp móng cho nền Quốc văn được rực rỡ thêm nhiều. Kẻ lo tìm kiếm nhiều tiếng mới, người lại lo bầy bố nhiều lối thơ. Nói tóm lại ai ai cũng đều lo sửa đổi " cái kho hương hoả " của mình cho hoàn toàn thiện mỹ, hầu chẳng hổ rằng người nước ta là một giống dân hiếu học, văn chương nước ta chẳng kém chi người.
" Nay thử hỏi ý kiến bày ra " thơ mới " phát hiện vào thời kỳ nào ?
" Người nước ta thuở xưa phần đông chuyên về hán học. Cứ theo sách cũ tra cứu ra thì nước ta biết chữ Hán tự đời Hồng Bàng, nghĩa là lúc ban sơ mới khai quốc thì trong nước ta đã có chữ Hán. Tiền nhân của chúng ta học hán văn tất phải dùng chữ, dặt câu theo Hán. Trở về sau, dần dần Hán mạt, cải Đường là lúc chữ Hán thạnh hành mới biến chế và phân ra nào là : ngũ ngôn cố thể, ngũ ngôn cận thể, ngũ ngôn bài luật, ngũ ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt cú ; thất ngôn cổ thể, thất ngôn cận thể, thất ngôn luật, thất ngôn bài luật, thất ngôn tuyệt cú vv... song thể cách thơ từ cũng chưa phải là vào tình trạng quá gắt gao. Trở về sau, từ đời Trung Hưng trong nước ta sấp xuống chuyên dùng lối thơ thâÙt ngôn luật, trong một bài thơ phải có câu : phá đề, nhập đề, thượng trạng, hạ trạng, thuợng luận, hạ luận, thượng kết, hạ kết, bó buộc bách xúc thái quá, xưa nay không có thế bao giờ.
" Về sau, các nhà nho nào là văn nhân thi sĩ, hễ mỗi cơn khiển hứng thì mượn lối đó mà làm, thét rồi đời này sang đời kia thành di truyền ra một tánh quen, nói trắng ra thành một " cái tật " là đúng hơn, không thế nào trừ bỏ dặng.
" Đến sau - không biết vào thời kỳ nào ? - Hoặc giả vì lối thơ ấy câu đã ngắn, lại có hạn ; phần niêm luật quá gắt gao, trang nghiêm, hiểm hóc, sao là " bình ", sao là " trắc ", lại còn " âm vận ", hãm người làm thơ phải theo lấy đó. Thành thử cái ý kiến của mình không thể nào đem tả ra cho hết nội trong " năm mươi sáu " chữ ấy. Phải cân nhắc tỉ mỉ từng câu, từng chữ, thật là trong óc lúng túng, bực bội vô cùng những người làm thơ đều biết - vì thế mà ngòi bút không đặng một tí tự do, và câu văn cũng kém mất đôi phần linh hoạt.
" Thật vậy, có nhiều khi tôi tập làm thơ trên nầy, hễ bị " bí " một cái, xuất mồ hôi hột chẳng chơi ! Cào tai, gãi cổ ; chọn tiếng này, lựa tiếng kia mãi rồi trọn một ngày thơ đâu chẳng thấy, chỉ thấy trí óc nó dật dờ chóng mặt, mà dầu có đặng đi nữa đọc bài thơ nghe cũng " xẳng lè ". Vì sao ? Vì trong bài thơ có nhiều chữ tôi không muốn để mà buộc lòng tôi phải để. Trước sự bức bách của thể cách Tàu, chẳng phải bây giờ mới có người nghĩ ra thơ mới, mà đã có người nghĩ ra thơ mới từ thủa nào rồi kia : đó là hai thể lục bát và song thất lục bát.
" Thiết nghĩ, vì duyên cớ ấy mới có người phát minh ra hai lối thơ mới - ngày nay đã cũ rồi - chính là thơ lục bát, và song thất lục bát kia vậy. Ấy đó, vấn đề thơ mới này sanh ra trong óc tiền nhân ta lâu rồi ; chớ không phải đến nay mới có chúng ta là trước nhứt. Song đó chẳng qua là mấy tay thi sĩ đại tài sáng kiến ra một lúc mà thôi. Trở về sau cái tình ấy tưởng đâu là phải tiêu diệt mất, vì người ta đối với nó một cách hờ hững lơ là ; khác nào một luồng gió vừa thổi lai rai, một đốm lửa con con trong đống củi ".
Lần thứ hai, văn sĩ ta, theo ông L.Đ., đã lại nghĩ ra thơ mới, đó là ông Trần Tuấn Khải với điệu " Anh khoá ".
" Về thời kỳ gần đây thấy trong quyển " Duyên nợ phù sinh " của ông Á Nam Trần Tuấn Khải có một bài thơ mới tựa là :" Tiễn chân anh khoá xuống tàu ".
Anh Khoá ơi em tiễn chân anh xuống tận bến tàu (1) Đôi tay em đỡ lấy cái khăn giầu (trầu) em lấy đưa anh . . . . . " Ấy cái điệu thơ mới của ông Trần là như thế. " Ông khéo sáng kiến dùng điệu thơ lục bát thêm tiếng thêm điệu vào thành ra bài thơ, không có hạn câu, hạn chữ, dễ đạt được ý tứ và phô bày ra rõ ràng tình tiết. Khi đọc lên lại nghe rất êm tai, dễ cảm hoá được lòng người, vì câu văn thật là não nùng uyển chuyển lắm.
Các nhà làm thơ mới sau ông Trần Tuấn Khải, cũng theo ông L.Đ., hình như cũng chỉ là theo đà tiến hoá chung mà gây thành phong trào rầm rộ hơn chứ không có gì là lạ lùng hay lập dị.
" Về sau phong trào " thơ mới " sôi nổi, không khác nào luồng gió lai rai kia hoá thành luồng giông lớn, đốm lửa con con kia bừng cháy. Lửa càng cao, giông càng lớn : bao nhiêu người tỉnh giấc đều đối với vấn đề thơ mới một cái tình cảm rất nồng nàn ". Sau đấy, ông L.Đ. kể tên và khen một số nhà thơ mới như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Hoàng Xuân Mộng, Nguyễn Thị Kiêm :
" Đến đây có lẽ là thời kỳ giải quyết. Nào là bài " Tình già " của ông Phan Khôi, " Trên đường đời " của ông Lưu Trọng Lư, " Trên con đường cũ " của ông Hoàng Xuân Mộng vân vân... Lại cô Nguyễn Thị Kiêm là một nhà tân nữ lưu, sốt sắng đứng lên diễn thuyết tại nhà hội Khuyến học để bàn về lối thơ mới ; thì thật là hay lắùm, tốt lắm.
" Tôi xin biểu đồng tình cùng cô, và tôi còn trông mong, khuyến khích sau này sẽ còn nhiều cô Nguyễn Thị Kiêm nữa.
" Tôi lấy làm tiếc không đặng lên mục kích và nghe mấy lời của cô phun châu nhả ngọc, song xem trong báo chương thì cũng đủ biết rằng lời của cô là chánh đáng.
" Một đoạn cô bình luận bài thơ " Tình già " của ông Phan Khôi có câu " Bài thơ này ít có người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài Tình già không được gọn... ". Cô cho nó không có nguyên tắc và không được gọn tôi xin đồng ý cùng cô ; còn cô bảo nó là " dài lắm " thì tôi cho rằng trái.
" YÙ kiến phát minh ra thơ mới là để tránh lối thơ Đường vì câu nó quá ngắn không thế nào đạt hết ý. Đã cho đó là phiền phức, rấp toan kiếm một con đường mới mẻ rộng rãi, thênh thang để mặc sức ngòi bút vẫy vùng, tình tứ hoạt bát, mà cô còn câu nệ " dài lắm " tôi e trái chăng ? Thế thì ta cứ theo lối cũ, cứ tám câu bảy chữ, hoặc 5 chữ 3 vần càng tốt hơn, hà tất phải bày ra lối mới ?
" Mong rằng cô suy xét và biết giùm cho, vì chính cô cũng có nói :" Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị " đẹt " mất, thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới ".
Nhưng L.Đ. mong rằng thơ mới, tuy hình thức có tự do hơn thơ cũ, nhưng cũng phải đặt ra thể cách cho nó đàng hoàng, chứ không thể để cho ai nấy muốn tự do sao cũng được :
" Còn về nguyên tắc một bài thơ thì cần phải có : Những nhà phát minh thơ mới cũng nên biết rằng thơ mới là để cho ta đặng tự do ; song cái tự do ấy có mực thước, có chuẩn bằng, có qui tắc. Lời thơ phải ở trong một cái phạm vi nhứt định. Nếu kẻ làm thơ muốn vuợt ra ngoài lề lối ấy, thì tôi tưởng rằng bài thơ không phải là vận văn mà là " tản văn " là phải.
" Ngoài cái nguyên tắc ấy thơ lại phải có âm hưởng véo von. Khi đọc bài thơ nghe ra như khúc đờn êm ái : khi khoan, khi nhặt, lúc bổng, lúc trầm ; người xem thơ tư tưởng rằng đứng vào cảnh ngày hè hoặc đêm thu, nghe dế ngâm ve hót.
Đó là kể sơ qua phương diện bề ngoài bài thơ lại phải có ý tứ sâu xa, lời lẽ hùng hồn, câu văn chánh đáng. Thơ có hồn mà không có xác thì chưa phải là thơ toàn ; mà có xác lại không có hồn thì khác chi đoá hoa tươi không hương nhụy ; chỉ đáng cho ta vất bỏ đi mà thôi !
" Tôi nói nghe ra hơi lạc đề, nhưng muốn luận cái đặc tính về hình thức, về tinh thần bài thơ ra thể nào, cùng cô Nguyễn nên mới dông dài như thế. Tưởng lại bà con cũng chẳng đem lòng cố chấp. Bây giờ tôi nói lại chánh đề " thơ mới !".
Sau đấy ông L.Đ. đề nghị đặt cho thơ mới một cái tên riêng, chứ chẳng nhẽ cứ gọi nó mãi là thơ mới sao cho tiện. Bây giờ là mới, chứ sau này, giăm bảy chục năm, một trăm năm, cũng cứ gọi là thơ mới thì không khỏi vô nghĩa.
" Thơ mới là gì ? Đã có người nói đến rồi ! Kêu rằng " thơ mới " chỉ là một cái tên kêu đỡ, tạm một lúc vậy thôi. Về sau, trải qua năm nầy tháng kia lối " thơ mới " mà ta đang kêu đây cũng phải cũ. Chừng ấy không lẽ ta cứ gọi hoài " thơ mới ". " Thơ mới " hay là ta cứ để tên đó, rồi dậm thêm như vầy :" Thơ mới mà xưa " chăng ? Vậy thì mỗi lối " thơ mới " buộc phải có một cái tên riêng, để sau này khỏi lẫn lộn.
" Vấn đề đặt tên thơ mới là một vấn đề cần nên bàn đến và giải quyết ngay mỗi khi có một lối " thơ mới " xuất hiện. Song cũng không phải là dễ !
" Ít nữa phải có nhiều người hiệp ý kiến lại đặng công đồng ; kẻ đa người giảm bao giờ tột lẽ mới thôi. Làm như vậy một lối thơ đối với cái tên của nó mới xứng. Khi kêu đến " tên " nó thì người đọc có thể hiểu ngay tính cách riêng của nó ra sao ? Tỷ như thơ " Lục bát " thì hiểu thơ ấy là thơ câu trên 6 chữ câu dưới 8 chữ ; thơ " Song thất lục bát " thì tự hiểu rằng : hai câu 7 chữ, kế đó một câu 6 một câu 8...
" Thấy đó thì đủ biết sự đặt tên cho thơ mới tưởng cũng không phải là vô ích ; nhưng hiện thời nó cũng lắm nỗi khó khăn, vì mỗi lối thơ mới còn phải để cho độc giả lựa chọn cho xác đáng rồi mới công nhận ".
Nhưng bàn thì bàn chứ thực ra chính tác giả cũng không biết đề nghị được cái tên gì cho ổn, thành ra tác giả đành phó cho thời gian thôi :
" Bao giờ lối thơ đã đăng " nhập tịch " rồi, thì chừng đó cái tên của nó cũng có lẽ phải xuất hiện ra.
" Chính tôi đem hiến cho bà con một lối thơ mới, mà bài của tôi cũng là một lối thơ " vô danh ". Suy nghĩ hoài, định cho nó một cái tên nhưng không biết tên chi ?...
" Ấy mới biết " bày ra một lối thơ " có lẽ dễ hơn " đặt tên một lối thơ " nhiều lắm.
" Hiện thời phong trào " thơ mới " lôi cuốn bao nhiêu người có nhiệt huyết với quốc văn đều quan tâm chú ý đến rồi, sắp sửa làm cho cái lâu đài quốc văn cực đẹp thêm lên. Bản đồ (plan) đã vẽ, còn chờ có nhân công thì khởi cất ".
Tác giả L.Đ. chẳng phải phải là người đứng ngoài mà bàn suông. Ông bàn rồi ông cũng hăng hái góp công sức. Ông cũng đã làm một bài thơ mới để góp mặt với làng thơ mới :
" Thấy cái nhà ấy là một cái nhà chung, sau này chúng tôi sẽ trông mong nhờ cậy vào nó nhiều lắm nên không dám làm lơ. Đã biết bao nhiêu người lo tạo tác chúng tôi tuy rằng bất tài, không dám dương lên là " tay thợ " lên tường đấp móng dựng cột, ra kèo chúng tôi làm không nổi, song chẳng lẽ điềm nhiên ư ? Hoặc là để chúng tôi tiếp phụ công vào ôm gạch, chở cát, trộn hồ tưởng cũng nên.
" Một ngày kia cái lầu cao, mát mẻ ấy gầy dựng hoàn thành rồi, chúng tôi bước đến ở mới là không thẹn và tự nghe trong mình vô cùng thơ thới vui vẻ lạ thường.
" Vì vậy chúng tôi cũng xin đem sau đây " Một lối thơ mới trình chính giữa làng thơ " để cho văn nhân, thi bá liệu lượng chấm giùm. Bài thơ ấy như vầy :
NHẮN AI Ai chẳng bảo rằng duyên đôi ta là duyên đầm ấm ? Rày đường xa muôn dặm, ai có biết vì đâu mà nên cuộc bể dâu ? Kìa trời nước một màu, ai tỏ lời thề hẹn, dành giữ nguyền không vẹn ? Đã lắm lúc đôi phen, nguyện đá vàng liêm tiết dẫu cuộc đời giải kiết... Quan san rày vĩnh biệt ngao ngán bấy tình trường lại xẻ gánh chia đường Nào ! luân lý cang thường thử xem dường bao nã ? Ôi ái tình nước lã ! Danh dự xem bã giả vì thế lực kim tiền, nên lỗi ước phụ nguyền. Tất thành lại khuôn thiên, âu thả gièo giòng nước, thà phụ lời sau trước. Miễn sao là mình được phú quí với công danh thì thoả nguyện bình sanh Ôi ! duyên nợ mỏng mành, nhân tâm thường tráo chác hỡi ơi người quá ác ! Hồng nhan thường phận bạc, nàng biết thế hay chưa, cuộc đời lại nắng mưa. Nhắn ai khéo lọc lừa, tài tai thường đi cập mấy ai người khỏi gặp ! ? Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới Đến ngày 15-9-1933 (P.N.T.V. số 216) Lưu Trọng Lư lại cho đăng lại bài " Một cái khuynh hướng mới về thi ca ", bài mà ông đã viết và cho in trong tập tiểu thuyết " Người sơn nhân " xuất bản vào tháng 5 năm 1933. Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới Ngày 14 tháng 12 năm 1933 (P.N.T.V. số 228), cô Nguyễn Thị Kiêm lại gửi một bức thư ngỏ, tựa đề là " Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới ". Chính bức thư là một bài thơ mới khá dài ký tên Nguyễn Thị Manh Manh, nhưng bài thơ này được giới thiệu bằng những dòng văn xuôi sau đây ký tên Nguyễn Thị Kiêm :
" Tờ phụ truơng văn chương của Đuốc Nhà Nam ngày 3,4-12-33 vừa rồi, có một bài của ông Hoàng Tâm giở ra câu chuyện thơ mới, thơ cũ mà cãi nữa. Trong bài ông ấy có nói đến tôi, nói rằng tôi đã thất trận, đến đỗi phải gởi thơ mới đăng trong báo Phụ Nữ thời đàm ! ông Hoàng Tâm lầm đấy, Nguyễn Thị Kim ở Phụ Nữ thời đàm với Nguyễn Thị Kiêm viết cho Phụ Nữ Tân Văn là hai người, chớ không phải một : Đến chuyện ông cho tôi " rút cờ " lại là một việc sai nữa. Lâu nay trong báo Phụ Nữ Tân Văn không có đăng thơ mới chỉ vì không trống giấy mà thôi. Người ta vẫn gởi thơ mới đến cho chúng tôi nhiều lắm và chính tôi cũng có làm nhiều bài. Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại chưa có dịp đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến, sửa soạn ăn mừng cuộc thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách đây hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thì giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài thơ mới để cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể. "
Đây bài thơ, tức bức thư ngỏ mà Nguyễn Thị Kiêm gửi cho người ưa và người ghét thơ mới. Nó bộc lộ một tâm hồn thiếu nữ đất Lục Tỉnh, thẳng thắn, đột ngột, hăng say :
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à ! Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng " nột dạ " ? Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à ! Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?... Bọn yêu tựu hỏi nhỏ : " E...chỉ sợ ? Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "... Bạn ghét xúm hét to : " Á ! nó sợ ! Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ " Nghiêng mình thưa :" Hỡi các bạn quí yêu, Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa " xiều " Khoanh tay gọi :" Hỡi các ông trớ trêu, Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều Thật, lâu nay tôi vắng đến " làng thơ " Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ, Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ, Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ. Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động. Há được ngồi không mà sấp " mấy sợi tơ lòng ". Trước là hành động, thơ không mấy trọng, Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phòng ! Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở, Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ. Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở ! Thôi, lấy " túi văn chương " vét một vài bài thơ. Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ, Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ? Nó chơi chớ có gì đâu mà chờ, Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới ! ...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới. Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới, Ưa đến nghe, ghét đến " bới " làm tôi tái xanh ...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm, Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt ! Kẻ nghịch la :" Đả đảo ! chẳng để êm ! " Bạn thích gật đầu nói :" Cái lối thơ hay thiệt " Kết kuận chuyện mới gần thành chuyện cũ Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ : Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ; Đất trước để yên, đất sau lo xới, Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi. Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới, Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi. Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ : Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở, Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:30:22 GMT 9
Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới A- Mặt trận bênh thơ mới (3) Phan Văn Hùm phê bình nhà thơ Xuân Giang, tức Đông Hồ Ngày 3 tháng 5 năm 1934 (P.N.T.V. số 240), Phan Văn Hùm đã viết bài " Thảo luận về thi : Nguồn thi cảm mới " để phê bình về tập thơ "Nguồn thi cảm mới " của Xuân Giang, tên tác giả của Đông Hồ Lâm Tấn Phác. Phan Văn Hùm đã ví thơ mới của Xuân Giang với thơ của thi hào Sully Prud'homme của Pháp :
" Theo lời của ông Đông Hồ ở trong số báo " Việt Dân " ra ngày 7 Avril 1954, thời một nhà thi sĩ sành về thơ cũ, ông Xuân Giang có một tập thơ tên là " Nguồn thi cảm mới " :
" Hai bài : 1. Cái hôn lần đầu - 2. Cô gái xuân. trích tập thơ nầy đăng ở báo " Dân Việt " có cái giọng thật là mới mẻ. Tôi không ngại gì mà không thú thật rằng, khi đọc qua, ngâm lại, tôi đã buông ra lời " in giọng Sully Prud'homme ! ". Nhưng mà đó là cái ý riêng của tôi, không đủ khinh trọng.
" Ở đây tôi dẹp lại những vấn đề lý luận cùng học phái. Tôi không muốn động dến vấn đề thơ cũ thơ mới, dẫu cho tôi hết sức hoan nghinh lối thơ sau, hết sức hoan nghinh bài " Bất chủ nghĩa " của Hồ Thích, hết sức hoan nghinh tập Les Douzes Poètes của bộ tùng thơ " Horizon ". Phan Văn Hùm đã có một lối phê bình thơ mới rất mới không đứng ở ngoài để khen câu này hay, chữ này khéo, ý này mạnh. Ông đã muốn bắt chước một kỹ sư, một kiến trúc sư...đi vào bên trong, hay đúng hơn nhìn công trình kiến trúc thơ từ bên trong :
" Tôi chỉ muốn đứng về phương diện nghệ thuật (art) không, tôi còn muốn thâu hẹp ranh rắp hơn nữa : tôi chỉ muốn đứng về phương diện kỹ thuật (point de vue technique) muốn vào trong công trường (atelier) vào trong trung điện mật nhiệm của nhà nghề, để xem cái tay thơ đương kiến trúc.
" Tôi sẽ xem được hay không, tôi xem mà sẽ thấy hay không ? Mặc kệ, cứ bước sấn tới thử xem.
" Trước hết tôi không muốn để chữ quốc ngữ nó làm lầm tôi, vì tôi đã quen với sự in lầm nhiều lắm rồi. Nghề in xứ này, thật là bất tiện quá.
" Hai bài thơ trích tập " Nguồn thi cảm mới " thể chất và cách điệu, cũng như nhau. Hai bài cũng chỉ có một chủ chỉ (un même thème) là cuộc cách mạng nổi dậy, do ái tình phiến động, làm khuynh đảo tâm hồn đương yên tĩnh êm đềm của người con gái, hoặc nói của " con người " cũng được
Thực vậy, qua mấy trang liền, cùng với việc trích văn để làm chứng, Phan Văn Hùm đã cố gắng lấy tư cách chuyên môn của nhà kỹ sư hay kiến trúc sư để vẽ lại cái họa đồ kiến trúc của thơ Xuân Giang. Đây các bạn nghe Phan Văn Hùm phê bình thơ mới của Xuân Giang Đông Hồ theo con mắt của kiến trúc sư :
" Tác giả dùng lối " bồi thấn " tả hai cái hiện tượng tiếp nhau mà khác nhau của một cái bản thể duy nhất, để làm cho càng biểu lộ những nét tế vi của nó ra .
" Vẽ cái bản thể của ái tình, là điều có phải dễ dàng đâu. Tác giả trở qua phía khác, mà cứ ở hiện tướng. Cái hiện tướng của ái tình, ở đây lại khéo mượn vật cụ thể (concret) để dụ dẫn, làm cho người đọc dễ cảm xúc. Hoặc lấy nước hồ khi bằng phẳng mà tả tâm hồn người chưa biết ái tình :
Mặt hồ lặng lẽ, xuân êm ái... " Lại lấy nước hồ khi giợn sóng, mà tả cái tâm hồn người đã vào ái tình. Một hôm gió giợn mặt hồ xao. Ngọn sóng lòng em bỗng dạt dào. " Hoặc lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người chưa biết ái tình còn thưởng cảnh vật thiên nhiên một cách thản nhiên : Lá rập cành xoài, bóng ngã ngang. Cô em dừng bước nghỉ bên đường. Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán. Gió mát lòng cô cũng nhẹ nhàng. ...Vội vàng để vở lên bờ cỏ. Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh. " Rồi lại lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người đã vương ái tình, đối cảnh mà tình tha thiết : Lá rợp cành xoài, bóng ngã ngang. Cô em dừng bước nghỉ bên đường Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán Gió mát, lòng cô những cảm thương. ...Ái tình nào phải bướm ngày xuân ...Một thoảng bay qua không trở lại Trước sau cảnh một mà tình hai, hiện tượng dẫu hai mà bản thể vẫn một. Cái bản thể " một " không phải hai đó, tác giả biểu xuất được rất thần tình là nhờ cái kỹ thuật " trùng phục " đem lời tả cảnh trước mà tả lại cảnh sau. Trước sau lời dẫu có như nhau, mà kỳ trung vẫn khác. Khác ở ý nghĩa, khác ở chỗ đổi thay, thêm bớt hình dung từ (adjectif) hoặc trạng từ (adverbe). Ánh sáng tưng bừng em chẳng cảm Mặc chùm hoa nở, tiếng chim kêu. " Là tâm hồn trước khi biết ái tình. Mà sau khi biết ái tình rồi thời Ánh sáng tưng bừng, em hớn hở, Chim kêu, hoa nở, cảnh vui sao ! Thời cũng người ấy, cảnh ấy, bản thể ấy, cũng Trong xóm làng trên, cô gái thơ Mà tình chưa nhồi sóng khi Tuổi xuân mơn mởn vẻ đào tơ " Thời tấm lòng yên tĩnh : Gió đông mơn mởn bông hoa nở Lòng gái xuân kia vẫn hẫng hờ. " Chờ... rồi chợt thấy, gần như được. Nào ngờ thành ra một chuyện bắt bướm hụt, mà Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ ...Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm Cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ " Là cái tuổi " trong trẻo, bình minh ", còn Lửng thửng lên đường buổi sớm chiều " Mỗi một lượt thấy " bướm bay qua bãi cỏ xanh... " là một lượt " lòng phấp phới ". Vội vàng để vở lên bờ cỏ Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh " Đó là hai chỗ xuất sắc trong kỹ thuật tác giả. " Một là dùng phép " bồi thấn " hai là dùng phép " trùng phục ". Phép nào tác giả dùng, thời tác giả cũng chủ nó được, điều khiển nó được cả.
" Ngoài ra, còn những cái đặc sắc, mà tôi không nỡ bỏ qua không nhắc đến. Như khéo dùng âm hưởng cho kêu câu văn :
Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ : " Khéo dùng vật cụ thể dụ dẫn sự vô hình Chim con nằm dưới tổ êm đềm Lòng anh ấm áp, em sung sướng Tình ái êm đềm như tổ chim. " Nhứt là khéo dùng hình linh hoạt và có thể sắc làm thành những bức tranh nhỏ thần tình : Ánh sáng tưng bừng Hồi hộp nhìn em ngẩn ngơ... Quần đen, áo trắng khăn hồng nhẹ " Câu sau đó làm cho tôi nhớ câu : Vân Tiên đầu đội kim khôi Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô " Hay là câu trong Chinh Phụ Ngâm Áo chàng đỏ tợ ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. " Lối dùng màu này, Nguyễn Khắc Hiếu khéo dùng nhứt, trong bài hát xẩm, tựa là " Cô tây đen ". " Tác giả lại có cái tài khéo dùng tiếng nói chuyện thường ngày, mà để vào cho hạp tình hạp tiết, thành ra " có duyên " như những tiếng :
Lòng em trong trẻo : Em không náo nức ; Ánh sáng tưng bừng : - hồi hộp nhìn anh ; Lửng thửng lên trường : - lửng thửng bên đường : - lòng em phấp phới. - v.v... " Kỹ thuật được như vậy, thi tứ dồi dào, khó mà luyện tập cho nên. Tiếc vì, về tự nghĩa, sao chừng như tác giả không chắc cho mấy, hay là không lưu tâm đến mấy. Tôi không hiểu như nước triều mà tác giả dùng, nghĩa ra làm sao. Cứ như câu : Đầy đặn lòng em, mặt nước triều, " Thời chữ triều có nghĩa là yên lặng. Mà thủa nay thời cái nghĩa của nó là lưu động xem như câu truyện Kiều nói : Ngọn triều non bạc trùng trùng... " Còn về cái tổ " ổ " chim, thời có thể dùng tiếng dưới mà chỉ cái đáy nó hay không, mà nói : Chim non nằm dưới tổ êm đềm ? " Lại còn tiếng mơn trớn, tác giả hiểu nghĩa nào mà nói là : Gió đông mơn trớn bông hoa nở ? " Tôi cũng lại không biết ngẩn ngơ tác giả hiểu làm sao mà : Hồi hộp nhìn anh em ngẩn ngơ Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ. " Tôi không dám nói nhiều lời nữa, chỉ còn muốn hỏi xem tác giả dùng tiếng Nam tiếng Bắc trộn trạc là ý làm sao. " Tổ chim (Bắc) - mồ hôi (Nam) - giọt lệ (Bắc) - rỏ lệ (Bắc).
Sau khi phân tích tỉ mỉ kỹ thuật của Xuân Giang, Phan Văn Hùm đã để những lời kết luận cực tán thơ mới, và tin vào thơ mới như sau :
" Mà đó chỉ là những chỗ sơ lậu cỏn con, không có nghĩa gì, không có phương hại gì cho cái thi tài của tác giả, là người thật có biệt tài. Tôi chưa được dịp biết nhà thi sĩ nào trong làng văn chữ nho hay quốc ngữ, mà lìa bỏ được cái phóng tứ mơ màng, đuổi rượt những cái tư tưởng vu vơ theo gió trăng, non nước, cùng những cái tư tưởng thông thường về nhân tình thế sự, nghĩa là lìa bỏ được cái ngoại giới mà quay trở về mình, chú lực vào trong thân trong mình, để miêu tả nội giới hay không ? Thật tôi chưa từng thấy có, mà cũng có lẽ tại kiến văn tôi cô lậu thật.
Nay thấy ông Xuân Giang là một. Cái ráng sức mà nội tỉnh đó (cet effort d'introspection) cái ráng sức mà phân tích (cet d'effort d'analyse) những nỗi uẩn trong tâm hồn đó, là một điều rất đáng hoan nghênh và tưởng lệ. Giả thử tôi mà có văn tài thế lực thì tôi không ngại gì giới thiệu ông Xuân Giang một cách sốt sắng về phương diện kỹ thuật mà thôi. Tôi nói " về phương diện kỹ thuật mà thôi " là khen kỹ thuật vị tất là khen người về phương diện khác, một là bởi không bằng cứ được ở nơi sự thành tựu của một người phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật nào, mà dám quyết rằng người ấy sẽ thành tựu, khi phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật khác, nhứt là cái chủ nghĩa nghệ thuật có hàm lý tưởng xã hội. "
Đông Hồ lên tiếng trả lời Phan Văn Hùm, tự nhận là Xuân Giang Sau bài phê bình của Phan Văn Hùm, ngày 24-5-1934, Đông Hồ lên tiếng cũng trên Phụ Nữ Tân Văn (số 243) để tự tố cáo cái tên tác giả Xuân Giang là chính tên của Đông Hồ, tức người giới thiệu thơ Xuân Giang trên báo Việt Dân với Xuân Giang chỉ là một người. Đây lời Đông Hồ giải thích lý do tại sao ông phải giả thác như vậy :
" P.N.T.V. số 240, ngày 3-5-34 vừa rồi, ông Phan Văn Hùm đã đứng về phương diện nghệ thuật mà phê bình hai bài (1- Cái hôn lần đầu, 2- Cô gái xuân) trích ở tập " Nguồn thi cảm mới". Cuối bài có mấy chỗ, vì Phan quân còn ngờ nghĩa nên hỏi lại. Nay tôi xin viết bài kính đáp nầy.
" Trước khi vô bài, tôi xin mở cái dấu ngoặc.
" Tôi xin chịu tội với Phan quân và với cả các bạn độc giả báo Việt Dân số 6 và độc giả P.N.T.V. số 240 cái tội đã nói dối. Nói dối vì tôi đã đem hai chữ Xuân Giang mà che đậy cái tên mình rồi lại giới thiệu thơ của mình làm một cách ân cần, tội nhứt là trong lời phê bình đó có một ít tiếng khen, là lời giới thiệu mình mà tự mình lại khen mình.
Nguyên tôi muốn đem hai bài thơ nọ đăng báo khi toan gởi đi tôi lại sợ để trơn như vậy khi đăng báo, tất nhà báo cho đăng lộn vùi trong đám rừng " thơ nay " độc giả tất không để ý xem đến. Tôi có cái ý nghĩ đó vì khi làm xong hai bài thơ, không dám nghĩ được xứng đáng như lời khen lao của Phan quân, chớ cũng tự biết là nó có một ít đỉnh giá trị đặc biệt. Và đem đăng báo là tôi có muốn cho độc giả nhận thấy cái đặc biệt của nó ở chỗ thoát được cái tư tưởng ý tứ " xôi thịt " của thi ca ta, chính tôi cũng đã từng châu tuần một lúc lâu trong cái phạm vi tư tưởng ý tứ " xôi thịt " đó rồi. Đó là bởi thành thực muốn mở một thể thế, một cách lập luận mới cho thi ca nước nhà, chớ quyết không phải bởi lòng tự khoa tự đại. Vậy thì cần phải có một ít lời giới thiệu. Đáng lẽ thì viết bài giới thiệu đó là về phần tòa soạn của báo V.D. Nhưng tôi ở xa xuôi cũng bất tiện. Nơi gần thì tôi không kiếm được ai - ở một nơi cô lậu hẻo lánh, nó có những sự thiệt thòi cho học vấn như thế - nơi xa thì bất tiện. Đánh bạo, tôi đành phải dùng cái phương " giả thác ". Giả thác ra đó là thơ của một người bạn mà mình đứng ra giới thiệu, nên trong lời giới thiệu tôi dùng tiếng để gọi tác giả là :" anh Xuân Giang " là cái cách kêu gọi thân thiết như tiếng thường dùng trong văn tiểu thuyết, chuyện bịa đặt, chớ không dám ngay thẳng mà gọi là " ông Xuân Giang " vì theo phép giao tế, đem một nhà thi sĩ giới thiệu với quốc dân trên báo chương thì phải gọi là " ông " chớ sao được gọi là " anh ".
" Nay Phan quân đã phê bình đến một cách nghiêm trọng thành thực thì tôi thiệt không dám dấu cái tên mà không xứng, không dám nuôi sự giả thác - hay muốn nói là sự giả dối cũng được - ấy mãi, mà phải thành thực cùng Phan quân tiếp chuyện bày tỏ cái duyên cớ như trên, để trước là khỏi để làm lầm nhà phê bình, sau là để khỏi lầm cho độc giả. Lại một sự giả thác đó, cũng nên cải chính, sớm muộn rồi cũng phải làm, để tránh khỏi nhiều điều lầm lẫn về sau trong thi giới. "
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới Tiểu Thuyết Thứ Bảy đối với phong trào thơ mới cũng không kém sôi nổi. Người lên tiếng nhiều trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy cũng là người đã lên tiếng ở Phong Hoá, ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, ở Phụ Nữ Tân Văn, người đó là Lưu Trọng Lư. Ông đã viết ba bài bênh vực thơ mới trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Bài " Phong trào thơ mới " (T.T.T.B. số 27, 1-12-1934) đã được toà báo giới thiệu thế này :" " Kỳ trước ông Tản Đà có nói đến bài diễn văn ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Hội học Qui Nhơn nên nay trích đăng một đoạn để các bạn độc giả cùng xem. " Như lời giới thiệu, bài " Phong trào thơ mới " này là một bài diễn văn. Có lẽ vì vậy mà ta thấy, nơi bài này, có rất nhiều ý, nhiều đoạn, ông đã nói ở bài gửi cho Phan Khôi đã đăng ở báo Phụ Nữ Tân Văn số 153 tháng Juin 1932 rồi sau lại đăng ở Phong Hoá số 31 Janvier 1933, hay ở bài đăng ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, tháng 5 năm 1933 rồi lại đăng lại ở Phụ Nữ Tân Văn số 216 ngày 14-9-1933. Có điều, ở đoạn trích bài diễn văn này, Lưu Trọng Lư nói mạnh mẽ hơn, so sánh thơ cũ thơ mới để tìm ra nguyên nhân sự khác biệt của đôi bên.
Trước hết, Lưu Trọng Lư nhìn nhận bọn thanh niên đã đưa thơ mới đến chỗ đặt được cơ sở rồi :
" Gần đây trong học văn nước nhà thấy có một cái phong trào mệnh danh là " Thơ mới "... Nó đã thành một sự hiển nhiên, dù muốn dù không, nó cũng cứ ngày một bành trướng. Cũng như mọi cái mới có ở trên đời, phong trào ấy chia dư luận ra hai phái : Phái hoan nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái hoan nghênh là hạng thanh niên tây học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai bên đương sừng sộ nhau, đương giằng co nhau... Thắng bại về đâu không thể đoán trước được, đó là sự bí mật của lịch sử văn học mai sau. Dầu sao, có một điều chắc chắn là những điều kiện ở bên ngoài đã biến thiên thì tâm hồn của người ta cũng thay đổi. "
Sau đó Lưu Trọng Lư phân tích tâm lý thi gia thời xưa để tìm nguyên nhân tại sao các cụ ta ưa lối thơ gò bó chật hẹp nhiều giả dối nữa :
" Những sự thương đau buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của chúng ta không còn giống những sự thương đau, buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của ông cha ta nữa đó là một sự thực ! Các cụ ta xưa sống trong một cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít ỏi, cho nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ nghèo nàn, phẳng lặng khô khan như cuộc đời của các cụ, gia dĩ văn hoá Tàu tràn sang, đưa đến cho ta những kỷ luật nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Cái chế độ chuyên chế trong chính trị cũng có ảnh hưởng lớn đến thi văn vì các thi sĩ ta xưa đều là những nhà nho mài miệt mười năm đèn sách, là chỉ lăm le có một ngày kia xuất chính. Thi văn của họ là một thi văn quí phái, bệ vệ, đường hoàng, có lề, có lối để thù tạc với nhau, hay để ca tụng những kẻ quyền thế đương thời, những công danh sự nghiệp của người và của mình. Những nhà nho ấy, nếu không may thất thời, lỡ vận, hoặc giả có tiêm nhiễm một ít tư tưởng Phật, Lão mà đâm ra chán đời, thì đã đành họ không thèm ca tụng những cái công danh sự nghiệp ở đời, nhưng khi dưới bóng trăng trong, dốc bầu rượu, họ cũng chỉ ngâm được một câu sáo :" chiếc hoa tàn, bóng mây qua, đời là bể khổ "...
" Thật thế, lòng chán đời của các cụ cũng tầm thường, ít ỏi như cái lòng yêu đời của các cụ ! cái tình cảm đã tầm thường ít ỏi như vậy, thì cần gì có một cái khuôn khổ rộng rãi hơn mềm mại hơn ?
" Một nhà thi sĩ có biệt tài, theo các cụ, là kẻ đã đưa một cách khéo léo những cái tình cảm cũ rích ấy vào những cái niêm luật khó khăn hơn hết.
" Họ không cần tưởng tượng cao xa, có tình cảm thành thực vì cái giá trị bài thơ không phải ở chỗ đó. "
Sau khi chê bai tâm tình các cụ là chật hẹp nhỏ nhen, Lưu Trọng Lư chửi bới, châm biếm các kỹ thuật tiểu xảo mà các cụ nghĩ ra để gói ghém những tình cảm nhỏ nhen của các cụ. Dưới con mắt người đời mới, cái mà xưa kia các cụ cho là tài tình, tế nhị, ngày nay chỉ là ngây ngô, tẩn mẩn :
" Họ có một cái lối đối đáp rất buồn cười là hễ khi tôi thấy " con chó đi ra " thì thế nào tôi cũng phải nghĩ đến " con mèo chạy vô " dầu lúc bấy giờ trước mắt tôi thấy chiếc lá rụng. Nếu tôi không nói thế thì là không hay, không hay vì đối không chỉnh. Ngay người có tài như bà Huyện Thanh Quan cũng vì mắc phải cái bệnh ấy, mà viết ra lắm câu buồn cười. Rất đỗi người có trí xét đoán chắc chắn như Phạm Quỳnh tiên sinh, khi đọc bài " Đèo ngang " mà phải phục là " Tuyệt bút ". " Tuyệt bút " theo Tiên sinh, nghĩa là không thể đặt bút vào chỗ nào nữa, hết nước hay, hết nước đẹp, nhưng thưa các ngài, chỉ có một cái lỗi nhỏ là chẳng thành thực chút nào hết.
" Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia " Không biết các ngài thì thế nào, chứ tôi thì khi đọc hai câu ấy, thấy cái lòng nhớ nước, thương nhà của bà Huyện mất vẻ tự nhiên và thành thực nhiều lắm. Thật bà đã kiếm được những chữ " sướng " nhưng không phải giúp bà diễn tả cái nỗi lòng tha thiết của mình, mà chỉ là để kết thành hai câu thơ tài tình. Tài tình đây là tài tình về mặt tiểu xảo. Hình như bà đã bỏ cái tình cảm đầu tiên của bà, mà theo dõi những sự đối chọi từng chữ, từng câu, cái vẻ không thật ấy, ta thấy hầu hết trong các bài thơ bát cú xưa nay ". Theo Lưu Trọng Lư, ngày nay ta chẳng nên trách các cụ, nhưng ngày nay các cụ cũng chẳng nên bắt ta sống theo các cụ, yêu, ghét theo các cụ. Người giữa thế kỷ hai mươi nghĩ, cảm...bao la hơn các cụ nên phải đi tìm cái thể thức rộng rãi hơn để mà diễn tả tâm tình.
Lưu Trọng Lư viết :
" Ngày nay ta đã có cái ý muốn lập một nền văn học hẳn hoi cho nước nhà, thì cố nhiên không còn là cái lúc nói bằng những điển tích mơ hồ, nói những điều mình không cảm, nói mãi những điều cũ mèm sáo hủ. Phàm cái gì mà lập lại hai ba lần là thành " máy móc ", là mất hẳn sự thành thật, sự sống, là vô hồn...Vậy ta phải đi tìm những tình cảm mới mẻ. Mà sự thật, thì ngày nay ta được tiếp xúc với văn hoá âu tây, với những thực trạng mới lạ, không phải tìm, ta cũng đã có những tình cảm mà cha ông chúng ta không có.
" Các cụ ta chỉ thích cái bóng trăng vàng giọi ở trên mặt nước ; ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ ở đầu ngọn tre xanh. Các cụ ta ưa mầu đỏ choét ; ta lại ưa những mầu xanh nhạt.- Một dòng máu chảy ra làm cho các cụ giùng mình.- Chỉ một cái quan tài phất giấy đỏ lững thững đi dưới bóng mặt trời ban trưa cũng có thể làm cho ta rởn óc.- Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà đúng ngọ.- Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi ; ta thì cho là mát mẻ đứng trước một cánh đồng xanh ngắt, cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình, muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già giặn, cái tình trong giây phút, cái tình nghìn thu...Các ngài xem đấy, cái tình cảm của người đời bây giờ dồi dào, phiền phức như thế, liệu có khép vào trong những niêm luật khắc khổ được không ? Ông Lanson chẳng đã nói rằng : "Với những cái tâm trạng mới, phải có những văn thể mới " (à des états d'âme nouveaux, des genres nouveaux), thì trong Văn học ta bây giờ mà có cái phong trào " Thơ mới " cũng là lẽ tất nhiên vậy ". (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 27, 1-12-1934).
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản Đà Sau khi đã tàn nhẫn phũ phàng phần nào với thơ cũ như vậy ở số 27 (1-12-13934), thì đến số 29 (15-12-1934) trong " Bức thư thứ nhất gửi lên Khê Thượng " cho Tản Đà, Lưu Trọng Lư đã đổi hẳn giọng nói. Đây không còn phải là một người muốn tranh hùng, cãi cọ mà là một " tâm hồn muốn mở ra với một tâm hồn ". Thực vậy, Lưu Trọng Lư đã nói với Tản Đà bằng một ngữ ngôn đầy tình yêu, lòng quý mến, niềm kính trọng một người anh đã ấp ủ lòng người em bé bỏng. Đây lời Lưu Trọng Lư thổ lộ với Tản Đà : " Tản Đà Tiên sinh,
" Lần này là lần đầu tiên, tôi được biên thơ cho tiên sinh, nhưng tôi đã được hân hạnh làm quen với tác giả " Khối tình con " từ ngày tóc còn để trái đào. Đối với tôi, Tiên sinh không phải là một người lạ ; đã có lúc Tiên sinh đi bên cạnh tôi, đưa quyền phép thiêng liêng dẫn tôi vào một thế giới thần tiên, mộng ảo, thế giới của Chiêu Quân, của Dương Quý Phi, của Hằng Nga...của Tô nữ...Đã đành rằng lúc mộng thì phải có lúc tỉnh, khi ra khỏi cuộc phiêu lưu kỳ lạ, lại thấy mình quạnh quẽ lạc loài không hiểu mình, không biết người, ngơ ngác lạ lùng giữa một đám người quen biết, nhưng riêng tôi vẫn lấy điều ấy làm thích thú :
" Ai bảo rằng ta hay mộng tưởng ? " " Cuộc đời âu cũng giấc chiêm bao ! " " Ở trong thế giới này, nếu có điều bất ý, thì tôi đây cũng muốn mơ luôn không muốn tỉnh " cũng muốn đi vào thế giới đẹp đẽ hơn do ta tạo lấy...mà ai ngăn ta điều ấy được ? " Tiên sinh ạ, thì ra chúng ta đã quen nhau tự hồi nào, mà nay mới biên thơ cho nhau, kể cũng đã muộn lắm.
" Vậy trong bức thơ này và những bức thơ sau, Tiên sinh cho phép tôi gác hết những giọng khách sáo thường tình, nói phăng ra những điều tôi thường bâng khuâng trong trí về một vấn đề quan trọng giữa làng thơ. Tôi muốn nói là vấn đề " Thơ mới " mà thiên hạ bàn tán đã nhiều. Một hôm tôi đưa vấn đề ấy ra chất vấn một ông bạn tôi. Bạn tôi bình sinh là người ngay thẳng, minh bạch rất ghét thái độ mập mờ, thế mà đối với vấn đề này cũng phải trả lời một cách lúng túng :" Thơ mới hay thơ cũ thơ nào hay thì tôi thích và ngâm mãi ".
" Câu trả lời lúng túng của ông bạn, sau này tôi xét lại thật chí lý, ví dụ : như tôi đây là một người rất yêu " Thơ mới " mà trong làng " Thơ mới" dầu có sản xuất ra được một bậc thiên tài lỗi lạc tôi không vì bậc thiên tài ấy mà rẻ dúng ông Nguyễn Du thân yêu của tôi, ông Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời. "
Như vậy, ta thấy Lưu trọng Lư chẳng có ghét, chẳng có chán thơ cũ khi những nhà thơ cũ ấy là Nguyễn Du, khi các vần thơ cũ ấy là " khối tình con " của Tản Đà. Nhưng Lưu trọng Lư đã thỏ thẻ với Tản Đà rằng : thằng em bé bỏng là chàng ấy ngày nay lớn khôn rồi, mái nhà cũ của cha mẹ, tuy nó vẫn yêu, vẫn quí, mà không muốn ở nữa, nó ra đi xây dựng một mái nhà khác để ở riêng với người yêu của nó. Lưu Trọng Lư đã ôn tồn giải thích cho Tản Đà thấy tại sao ông phải làm thơ mới :
" Cuộc đời dầu có thay đổi, bao giờ tôi cũng là người ưa ngâm...ngâm mãi mà không biết chán những bài " Chiêu hồn ", bài" Mả cũ... ". Nhưng tôi không thể giấu Tiên sinh cái cảm tình rất nặng của tôi đối với " Thơ mới "...Tiên sinh cho phép tôi nói ra đây cái cớ tại sao tôi làm " Thơ mới " tôi cần phải sáng tạo ra những điệu mới "...
Sau đó, với tất cả tình trìu mến, say sưa, Lưu Trọng Lư đã trình diễn lại các tâm trạng mà ông trải qua khi làm một bài thơ mới, từ chỗ nghĩ ra đề tài, đến tình tứ gợi lên ; tới việc tìm chữ, chọn vần, lựa điệu :
" Nói đến mình, tôi tưởng là một điều khiếm nhã, nhưng cũng chỉ có mình mình mới hiểu được rõ ràng thôi.
" Tôi còn nhớ một buổi sáng về mùa Xuân ở quê nhà, ngồi bên một cánh song, tôi nhìn bóng mặt trời lấp lánh ngoài vườn hoa, giữa những mầu xanh, đỏ, tím...Những hoa hoàng lan, hoa tử vi, cúc trắng, hồng bạch phơn phớt rung rinh trong bầu xuân khí ấm áp, lòng tôi bỗng thấy nhẩy nhót, vui vẻ, phe phẩy. Tôi bèn đặt mình vào cảnh ngộ một người thiếu nữ, bên người tình để hưởng cho hết diễm phúc, làm ra bài thơ đề là
" Ngày xuân " Năm vừa rồi Chàng cùng tôi Nơi vùng giáp Mộ Trong gian nhà cỏ Tôi quay tơ Chàng ngâm thơ Vườn sau, oanh giục giã Nhìn ra hoa đua nở Dừng tay tôi kêu chàng : " Này! Này! ; bạn ! xuân sang " Chàng nhìn xuân mặt hớn hở Tôi nhìn chàng, lòng vồn vã...
" Nhưng một ý nghĩ tàn ác thoạt len vào trong trí tôi : tôi chợt thấy sự mỏng mảnh của tạo vật...Hoa sẽ tàn...Ngày tháng đi ! lòng người thay đổi - Bao nhiêu cái đẹp đẽ, êm đềm, thân yêu ở trên cõi thế rồi sẽ tan tành, đổ bể vào vực thẳm, của thời gian, lòng tôi bỗng xám tốc lại : . . . . Rồi ngày lại ngày Sắc mầu phai Lá cành rụng Ba gian : trống Xuân đi... . . . . " Những vật kia kể còn bền chắc, dai dẻo hơn người. " Vật " còn mong trở lại chứ " Người " thật là một đi ngàn thu mất biệt : ...Xuân kia còn trở lại Người xưa không thấy tới " Thể thơ ấy là do tôi tạo ra để cho hợp với sự uyển chuyển ngoắt nghéo của thi tình, thi tứ, rồi tôi gọi nó là " Thơ mới ". " Muốn tả cái lòng hớn hở, cái vui phe phẩy, khi thấy ánh trời buổi sáng nhởn nhơ với những đóa hoa mơn mởn, ta cần phải dùng một " thi thể " riêng, gọn gàng, văn vắn, vần trắc cùng ngang với vần bằng.
" Cũng như khi tả sự nhanh chóng của thì giờ ta phải đi từ câu dài đến câu vắn hơn để người đọc nhận thấy sự nhanh chóng ấy một cách rõ rệt :
Rồi ngày lại ngày Sắc mầu phai Lá cành rụng Ba gian : trống Xuân đi. " Thưa Tiên sinh, theo ngu ý, cái điệu thơ thật có quan hệ đến bài thơ. Sống ở trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy vài cái tình cảm khác khác, mà muốn diễn tả ra cho hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn. Âu đó cũng là một điều bất đắt dĩ, có ai cho là lập dị, cũng đành cam tâm... " Hôm nay xin tạm biệt Tiên sinh ở chỗ này đã...Trong những thư sau, ta sẽ còn trở lại với " Thơ mới " (T.T.T.B. số 29, 15-12-1934).
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản Đà Trong bức thư sau đề ngày 19-1-1935 (Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 34), Lưu Trọng Lư đã viết cho Tản Đà, phân tích và cực tán bài thơ " Non xanh xanh " của Tản Đà, bài thơ mà Lưu Trọng Lư bảo cũng có thể xếp vào hàng thơ mới. " Tản Đà Tiên sinh
" Trong bức thư trước, tôi có câu rằng :" Cái điệu thơ thật quan hệ đến ý tứ của bài thơ ". Bức thơ ấy viết xong, thì tờ T.T.T.B. số 26, mang lại một cái chứng thực nữa cho lời tôi đã nói, bài " Non xanh xanh " của Tiên sinh đăng trong số báo ấy, ở mục văn nghệ, ngoài cái giá trị tưởng tượng, nó còn có một cái giá trị ở chỗ khác nữa : ở điệu thơ...
" Dương Quí Phi và Chiêu Quân là hai kẻ đa tình có danh tiếng ở trần gian, lúc về tiên giới ngày nhìn xuống cõi trần hoàn xa thẳm, mù tịt là chốn " tình trường " của mình ngày trước thì lòng thương giạt dào những nỗi nhớ nhung, thương tiếc...Cái tình thật là kỳ lạ, mà cũng thật là giét giắt, não nùng, mênh mông ! chẳng ngại gì. Tiên sinh đã tự ý tạo ra một cái điệu riêng cho thích hợp, từ đầu đến cuối bài thơ. Tiên sinh gieo toàn một vần bằng ngõ hầu diễn cho hết cái " giéo giắt ", cái não nùng, cái " mênh mông " của khối tình kỳ lạ ấy !... Trong âm hưởng của ta, những tiếng " bằng " thật là dồi dào, uyển chuyển, " huyền diệu " có thể diễn tả được hết cái buồn của người ta, cái buồn muôn hình vạn trạng...
" Giả thử Tiên sinh đem phả cái tình của hai bà tiên vào một điệu thơ rất bó buộc, toàn vần trắc chẳng hạn, thì cái tình ấy sẽ tiêu tan đi mất hoặc trở nên buồn cười. "
Sau khi cực tán thơ của Tản Đà, Lưu Trọng Lư đồng ý với Tản Đà rằng có rất nhiều bài thơ mới rất dở, cho nên mặc dầu sốt sắng bênh thơ mới Lưu Trọng Lư cũng chẳng muốn bênh vực những thứ thơ đó.
" Trong bài " Phong trào thơ mới " Tiên sinh có câu : "... cũng có xem đến một vài bài thơ mới đăng trên các báo chí nhưng thực chưa lấy làm xứng ý " mà tôi đây cũng lấy làm bất mãn lắm...Tôi là một người yêu " thơ mới " - xin thú thật với Tiên sinh như vậy. Nhưng tôi cứ thành thực tố cáo với làng thơ rằng : phần nhiều những nhà tân thi nhân hình như không hiểu cái âm luật huyền bí, cái cách tiết tấu tự nhiên của tiếng ta...
" Đã đành có khi cần phải tạo ra những điệu mới nhưng người nào nghĩ rằng muốn tạo ra thế nào thì tạo, thật là lầm to...
Cái " điệu " phải hợp với thi tình, thi tứ, mà cũng cần phải hợp với những luật phép nhất định của thanh âm. Trên các báo chí ở đây tôi thấy nhiều bài " thơ mới " chữ dùng rất sôi nổi vần điệu khó khăn, lại có những câu dài dằng dặc đọc lên nghe lổng chổng nghênh nghênh thế nào !
" Đối với người thường, một câu thơ có thể dài mấy cũng được, nhưng đối với các lỗ tai rất sành sỏi của thi nhân sự ấy rất có hạn định...Trong thể ca trù cũng có lắm câu rất dài, những câu dài ấy là gồm nhiều câu ngắn nương tựa vào nhau, câu thơ mới dễ ngâm...
" Hãy bình tĩnh mà xét, ý tứ của những bài " Thơ mới " ấy không phải là không hay, nhưng ý tứ hay mà làm gì, nếu không biết diễn tả ra được một cách dễ dàng, trơn tru, êm ái...Cái " thi tứ " nào luyện bằng một âm hưởng du dương, mới hòng đi tới lòng ta được, bằng không nó sẽ đi lên trí ta và nó chỉ làm cho ta suy nghĩ mà không làm cho ta cảm xúc ".
Tuy có đồng ý với Tản Đà mà chê một ít bài thơ mới, Lưu Trọng Lư cũng tha thiết yêu cầu Tản Đà không nên vì những sự sơ xuất đó mà hờ hững ác cảm với thơ mới :
" Dầu sao cũng không nên vì đôi điểm lầm lỗi của nhà Tân thi nhân mà hờ hững với " phong trào thơ mới "... Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, cái tâm hồn phiền phức của ta, trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức...
" Tiên sinh nghĩ sao ? ".
Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B. Đồng thời với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh cũng dùng Tiểu Thuyết Thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) để bàn về " Thơ mới ". Theo Hoài Thanh, xét cho cùng ra, không có thơ mới cũng như không có thơ cũ : chỉ có thơ mà thôi, tức là thơ làm ngày xưa và thơ làm ngày nay. Cái hay, cái kiệt tác không lệ thuộc ở thời gian mà ở thiên tài của thi nhân :
" Trước hết một câu hỏi, thơ mới có hay không có ?
" Nói một cách tuyệt đối văn thơ không có xưa không có nay, vì vô luận xưa nay, hễ ghép chữ thành câu, có ý tứ, có âm điệu, gợi được mỹ cảm cho người nghe, đều gọi là thơ cả.
" Ta đọc những câu :
Dưới dòng nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha... . . . . Cảnh ấy tình này thôi hết muốn Trời kia đất nọ nỡ cho đành" Hay những câu của Thế Lữ : Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt Mây bay, gió quyến mây bay... Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt Như hắt hiu cùng hơi gió heo may " Mấy đoạn văn này đều gợi được thi cảm trong lòng ta, ta cần gì phải phân biệt xưa nay ". Tuy nhiên nếu bình tâm mà nhận định ta vẫn thấy có một cái gì khác biệt giữa hai thể thơ mà người ta gọi là cũ, là mới : " Tuy vậy cái mục đích của nhà làm thơ, cái công dụng của thơ không khác, mà cách xếp đặt có khác, có bài thơ làm theo lối nhất định ngày xưa, có bài lại không theo niêm luật nào, những bài thơ không theo niêm luật này, quả như ông Tản Đà đã nói, không phải đợi đến vài năm gần đây mới có, song chắc ông Tản Đà cũng phải nhận rằng chỉ trong khoảng vài năm gần đây, lối thơ ấy mới thành phong trào, có địa vị hẳn hoi trên văn đàn nước nhà, phong trào thơ mới ngày nay đã thành sự thực hiển nhiên, " thơ mới " có vậy.
" Thơ mới không những có, mà lại có những tay thi sĩ có tài sản xuất nhiều tác phẩm rất giá trị nữa ".
Sau đó, Hoài Thanh trích của Thế Lữ mà Hoài Thanh gọi là những vần thơ kiệt tác :
" Những câu thơ của Thế Lữ tôi dẫn trên kia hay những câu sau này của Lưu Trọng Lư có đăng trong một kỳ Tiểu Thuyết Thứ Bảy vừa rồi. " Nếu đem so sánh với các áng văn kiệt tác xưa nay của nước ta, tưởng không có gì phải hổ thẹn.
" Ban đêm đi dạo, thoáng nghe mùi thơm của một đoá hoa mà tưởng tượng :
...Kiếp trước hoa là thiếu nữ Sống một kiếp, vạn người thương Chết vô duyên vùi bên đường. . . . . . Một đám đất vàng Dãi nắng dầm sương... Trên đống sương lạnh Thổi lên một nhánh Lúc canh trường Thoảng mùi hương... " Mới trong thời gian rất ngắn, mà đã có những kết quả tốt đẹp như thế, thì thơ mới còn nhiều hy vọng về sau. " Cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh nhìn nhận toàn thể cơ cấu xã hội đang bị cuốn phăng theo trào lưu mới : tất cả cuộc đời dân tộc ta đang đổi mới. Tâm tình ta, tuy có thay đổi chậm hơn cả, nhưng cái lúc nó thay đổi cũng đã đến rồi :
" Nước ta trong mấy ngàn năm sống một cuộc đời chất phác, bình dị, tư tưởng, tình cảm, người ta cũng vì đó mà bình dị, cứ phô diễn theo những qui tắc đời trước cũng đủ.
" Nhất đán, phải tiếp xúc với văn minh Âu Tây, bao nhiêu nền tảng kiên cố về lễ nghi, về tôn giáo, về xã hội, về chính trị, đều bị một phen rung rinh, điên đảo, trước mắt, bỗng bầy ra những cảnh rực rỡ nguy nga, cũng như cảnh thảm mục, thương tâm chưa bao giờ thấy. Lúc đầu còn ngơ ngác chưa hiểu ra thế nào dần dần cũng uốn mình theo cuộc sinh hoạt mới để mưu lấy sự sinh tồn, ăn bận theo lối Tây, nhà ở xây theo kiểu Tây, cũng dùng ô tô cũng đi xe lửa, cũng mở thương điếm, công trường, đó là cuộc cải cách về vật chất.
" Tiếp đến cuộc cải cách về tư tưởng, người mình cũng có kỹ sư, cũng có bác sĩ, cũng nghiên cứu khoa học, triết học thái tây ".
" Song cuộc cải cách chỉ ở trong vòng vật chất và tư tưởng thì chưa được sâu xa, hoàn toàn ; còn phải có một cuộc cải cách về tình cảm nữa. Phong trào thơ mới là tiêu biểu cho cuộc cải cách này vậy, cũng bởi tình cảm là phần cốt yếu trong tâm tính người ta, khó thay đổi hơn lý trí cùng mọi tập quán sinh hoạt hàng ngày, nên mãi hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn hoá Âu Tây mới thấy có sự thay đổi rõ rệt, sự thay đổi này không phải chỉ riêng vài người mà chung cho rất nhiều người. Các thi sĩ trong làng thơ mới đã được hoan nghênh một cách đặc biệt cũng vì hợp với lòng khát vọng của phần đông.
" Người ta thường nói " Nguồn thi cảm ", mà quả thế, thi cảm là một dòng nước vô hình chảy ngầm ngầm từ đời này qua đời khác trong tâm hồn dân tộc. Lúc thường dòng sông phẳng lặng đi theo lối có sẵn từ ngàn xưa, gặp lúc giông tố, năm bẩy nguồn nhóm lại, sức nước quá mạnh, tung bờ, vỡ đê, chảy tràn lan khắp đồng ruộng. Nhưng tràn lan một lúc rồi cũng phải tìm lối đi, nhân đó sẽ có thêm nhiều dòng sông mới, dần dần lại cùng phẳng lặng chảy hoài như xưa cho đến ngày có một cơn giông tố khác.
" Tôi muốn dòng sông kia như khuôn phép mà làng thơ mới sẽ tự tạo ra và buộc mình vào trong vì một lối thơ mới tồn tại không thể có qui tắc nhất định. Người có thiên tài thì tự nhiên sẽ lựa được những âm điệu có thể làm rung động lòng người nhưng thiên tài hiếm, lẽ tất nhiên làm cho không phải ai cũng có thiên tài, một người tìm ra được âm điệu hay, năm ngàn người cùng làm theo âm điệu ấy đã thành ra qui tắc rồi đó.
" Vậy bây giờ thơ mới đã có qui tắc gì chưa ? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy, mà thôi, lối thơ sau này, câu thơ sẽ dài hay ngắn thể nào, điệu thơ sẽ thể nào, chưa ai biết được, song có điều chắc chắn, là thơ thì phải có vần. Những bài Nguyễn Du, Nietzche của Thái Can trong quyển Những Nét Đan Thanh, ý tứ dồi dào đều là những bài văn xuôi rất hay, nhưng không thể xem là thơ được, thơ phải có vần, phải chú trọng về âm điệu, phải mượn thêm âm điệu trao mối cảm cho người ta nhiều hơn là mượn ý tứ ly kỳ hay sâu sắc ".
Sau cùng, cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh dầu có trách một ít sơ suốt của làng thơ mới vẫn bênh vực thơ mới, vẫn chịu rằng thơ mới đã có những thiên tài xứng đáng :
" Các ông trong làng thơ cũ thường hay có ác cảm với thơ mới đó là lẽ tất nhiên. Họ lại còn nói xấu nữa " mấy anh trẻ con không có nho học, không biết niêm luật thơ là thế nào cũng muốn kiếm một chỗ ngồi giữa đình làng thơ, nên mới phải bày ra lối thơ mới. " Điều này quả là một điều vu oan. Tôi thấy phần nhiều các ông làm thơ mới đều có biết làm thơ cũ, chỉ vì qui tắc thơ cũ quá chật hẹp không đủ phô diễn những mối cảm xúc, những tính tình mới mẻ phức tạp của họ nên họ phải đi tìm những phép tắc rộng rãi hơn đó thôi. Một đôi khi vui vui, họ cũng làm thử lối thơ cũ thì thơ họ hay lắm. Những bài " Học trò đi học đã về " (1), " Hoa ái tình " (2), của Thái Can ; " Túp lều cỏ " " Nhớ lại ngày " (3) của Lưu Trọng Lư ;bài " Năm qua " (4) của Leiba, bài " Than thở của nàng Mỹ Thuận " (5) cùng nhiều bài khác của Thế Lữ đều là những bài thơ có giá trị, cùng với mấy bài này ta có thể kể luôn mấy bài thơ của Đông Hồ : " Bốn cái hôn " (6), " Cô gái xuân ", " Cái hôn lần đầu " (7) tuy ông Đông Hồ không tự nhận mình là một nhà thơ mới.
" Có một điều, nguồn thi cảm mới đầu có đi theo những phép tắc xưa vẫn giữ tính cách riêng của nó ; mà những bài thơ tôi vừa kể trên này nếu gọi là thơ mới có lẽ đúng hơn là thơ cũ. " (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 31, 29-12-1934).
Văn Thức trên báo Loa ca ngợi thơ mới Sau Tiểu Thuyết Thứ Bảy, đến báo Loa cũng bênh vực, ca ngợi thơ mới, được gọi bằng một tên đẹp " Nàng thơ ". Trong bài" Mộng thơ " (Loa số 79, 22-8-1935), B.C. Văn Thức đã nhân hoá thơ thành một thiếu nữ trẻ, đẹp, duyên dáng, say sưa, yêu đương, si tình. Người thiếu nữ mới này bạo dạn, tự do chứ không e lệ, kín đáo, ít lời như người thiếu nữ xưa. Cũng trên Loa số 79, 22-8-1935, nơi mục Văn Học Việt Nam hiện đại, Trương Tửu đã đem so sánh tài nghệ của ba nhà văn tả cảnh Thế Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư với các đại văn hào thời xưa như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương rồi ông ghi nhận rằng nghệ thuật của ba nhà văn mới hơn hẳn các nhà văn xưa.
Trương Tửu đã phân tích nghệ thuật tả cảnh xưa kia của bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương. Bài thơ tuy có tài tình, nhưng không đặc sắc, không bao la như thơ mới, tức thơ bắt chước của Pháp :
" Thứ tả cảnh này vẫn có trong thơ Việt Nam từ ngày thành lập nền văn học. Những truyện có giá trị như Thuý Kiều, Hoa Tiên, những ngâm khúc tuyệt bút như Chinh Phụ, Cung Oán và phần nhiều những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương, Thanh Quan nữ sĩ, của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ...đều là những bức tranh đậm đà, lý thú của mầu sắc thiên nhiên.
" Nhưng ta phải nhận rằng lối tả cảnh hồi xưa, thiếu ba tính cách cần yếu :
1 - Rõ ràng. 2 - Đầy đủ. 3 - Linh hoạt. " Muốn chứng thực điều nhận xét của tôi vừa viết, tôi đơn cử ra đây một bài thơ tả cảnh một nhà văn, theo tôi thấy, ưa thích tả cảnh hơn tất cả những người khác, tôi muốn nói bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương nữ sĩ : Một đèo, một đèo, lại một đèo Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo. Cửa son đỏ toét bùm tum nóc Hòn đá xanh rì lún phún rêu Lắt lẻo cành thông cơn gió dật Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo Hiền nhân quân tử ai mà chẳng Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo " Theo quan niệm văn học cũ về thơ, thì bài này tuyệt mỹ. Nhưng đã có ý kiến mới về lối tả cảnh thì nó không còn một mẩy giá trị nghệ thuật nào. " Dùng những danh từ : đèo, cửa, nóc, đá, rêu, thông, liễu, gió, sương, những phẩm từ : cheo leo, đỏ toét, xanh rì...không phải là tả, chỉ là dán trên mỗi vật một mầu giấy kê tính chất (ce n'est pas prendre c'est poser des étiquettes).
"Ừ, đèo cheo leo, nhưng cheo leo ra làm sao ? Cửa đỏ toét nhưng đỏ giống mầu gì ? Phải tả thế nào mà người xem văn trông rõ cảnh sắc ấy như ở trước mắt, không cần dùng đến những chữ cheo leo, đỏ toét...mà ai cũng có cảm giác tương đương...
" Tả cảnh không được nói trơn tính chất, mầu sắc của vật chỉ cần bày ra tất cả những điều kiện thành lập của tính chất, mầu sắc ấy.
" Một cái nhận xét này có thể ứng dụng vào cả bài thơ.
" Lấy một vài nét đơn sơ để thu tóm đại thể, một cảnh sắc, chủ ý ký thác vào thiên nhiên, một cảm tình tổng quát, đó là nguyên lý (le principe) của lối văn tả cảnh ngày xưa ".
Sau khi đã giới thiệu và lấy thí dụ để mô tả nghệ thuật một phần nào giả tạo, tiểu xảo của thơ cũ, Trương Tửu đã phân tích và trình bầy cái nghệ thuật uyển chuyển, bao la của thi ca Pháp mà thi nhân Việt Nam cần bắt chước :
" Tôi nói : hồi xưa, vì từ khi chịu ảnh hưởng của Pháp văn, nó đã thay đổi nhiều, nghĩa là tiến bộ nhiều.
" Dưới ngòi bút các nhà văn Pháp, cảnh vật trở thành rõ rệt, linh hoạt. Họ tả cặn kẽ, tỉ mỉ mà không bề bộn. Mỗi nét vẽ họ đặt trên tờ giấy là một cảm giác in vào hồn người đọc.
" Muốn có thí dụ thì phải vài mươi pho sách mới chép hết đuợc.
" Cũng một cảnh đăng sơn mà trong bài thơ của bà Huyện Thanh Quan ta chỉ thấy hình bóng lờ mờ : cỏ cây, vách đá, tiều phu, chợ...Với thi sĩ Pháp Léonce Dépont ta được nhìn rõ những vực sâu, hang thẳm những " đầu người đội mũ đá, mọc sừng thông, màn sương như tấm lụa đào che phủ cả bầu trời trái đất. Những đàn bò vừa đi vừa kêu dưới ánh xiên khoai của tà dương ". Ta còn được nghe tiếng chuông, tiếng suối làm rung động cả thinh không tiếng nhạc rung vang khắp sườn núi trơ vơ...( !)
" Nữ sĩ của chúng ta, trước cảnh thần tiên của Đèo ngang, chỉ có cảm tưởng nhớ quê hương, trơ trọi. Léonce Dépont làm ta " cao hứng, say mê, khoát đạt, thấy mình trở lại cái thời kỳ ấu trĩ mang một tâm hồn trong sạch, thơm tho ". Thi sĩ truyền cho ta cảm giác của " một con ong nở ra giữa mùa mật, tha hồ mà hút những bông hoa ảo tưởng... "
" Một đằng tả sơ sài, một đằng tả kỹ lưỡng.
" Một đằng cảm nông nổi, một đằng cảm sâu xa.
" Đó là hai cái sai biệt của hai lối văn tả cảnh Pháp Nam. So sánh hai văn chương, tôi thấy rằng dù tả cảnh hay tả tình, nhà văn Pháp cũng chuộng sự phân tách tinh vi. Còn ta chỉ sở trường sự tổng hợp xảo thủ.
" Như vậy, là vì hai văn hoá khác nhau.
" Một bên tôn sùng đạo lý, xã hội nên khinh bỏ và toả chiết cái sinh hoạt của thân, tâm (Nam).
" Một bên phụng sự nghệ thuật, cá nhân nên quý trọng và hỗ trợ sự phát triển tự do của giác quan, tình cảm (Pháp).
" Ngày nay muốn gây một văn học xứng đáng cho dân tộc, chúng ta phải phá đổ cái giáo lý khô khan tổ truyền để vun trồng chủ nghĩa cá nhân cho đâm bông nẩy quả ".
Lê Tràng Kiều tính sổ thơ mới Nhưng người đã viết nhiều nhất về thơ mới trên Hànội báo là Lê Tràng Kiều. Trong hơn ba tháng trời, ông viết một loạt 13 bài bàn về thơ mới hay bênh vực ca ngợi các nhà thơ mới. Ngày mồng 8 tháng 4 năm 1936, Hànội báo 14, Lê Tràng Kiều viết bài " Thơ mới " để kiểm điểm về thành tích của thơ mới qua ba năm sóng gió bão táp. Lê Tràng Kiều đã ví ba năm thi ca của thế hệ 1932-1936 như một thế kỷ :" Cách đây hơn ba năm, trong Phong Hoá số mùa xuân (1933), ông Lưu Trọng Lư rụt rè, giấu mình dưới một cái mật hiệu, lần đầu tiên gieo một cách mạnh mẽ hạt giống thơ mới, vào đất Bắc...
. . . . . . . . . . .
" Ba năm qua...
" Cái lối " thơ mới " mà ông Lưu bấy giờ còn cho là một sự bí mật của lịch sử văn học, nay đã thành sự thật ai cũng công nhận, hơn thế nữa, một sự thành công vẻ vang.
. . . . . . . . . . .
" Ba năm qua, văn học ta đã bước được một bước dài. Một sự may mắn không ngờ ! chỉ trong vòng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện ra không biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị, mà trong cái dĩ vãng rất bằng phẳng mấy ngàn năm chỉ lơ thơ một vài cái.
" Từ bao giờ đến bây giờ, nguời ta đã có mấy lần một tâm hồn
- Hùng tráng như Huy Thông - Dồi dào như Thế Lữ - Huyền diệu như Thái Can - Âm thầm như Đông Hồ - Trong sáng như Nhược Pháp - Mơ màng như Lu Ba - Buồn bã như Nguyễn Vỹ " Và một tâm hồn đầy âm nhạc, đầy mộng ảnh như Lưu Trọng Lư. " Ba năm qua " Như một thế kỷ đã qua ! " Bây giờ tôi tưởng đã đến lúc nên xoá bỏ hai chữ " Thơ mới " đi thôi. " Hai chữ " Thơ mới " là biểu hiệu một cuộc cách mạng đương bồng bột.
" Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu.
" Thơ mới không còn lạ lùng nữa.
" Thơ mới đã thuần thục rồi !
" Thơ mới đã trở vào khuôn phép rồi !
" Thơ mới đã quen với chúng ta rồi, và có lẽ " quen thân " nữa !
" Thơ mới không còn cái gì bỡ ngỡ và rụt rè lúc ban đầu... "
Hình như Lê Tràng Kiều đã hơi nói " phét " thì phải khi viết, vào khoảng tháng tư năm 1936 " Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu ". Là vì chính bài " Thơ mới " mà Lê Tràng Kiều viết tựa, cho cuốn " Những áng thơ hay ",bài tựa mà ta vừa phân tích và trích mấy đoạn ở trên đây khiến cho Thái Phỉ nổi nóng, lên tiếng công kích Lê Tràng Kiều trên báo Tin Văn. Tài liệu báo Tin Văn tôi không có. Nhưng biết được sơ qua ý của Thái Phỉ qua bài trả lời Thái Phỉ của Lê Tràng Kiều (Hànội báo số 17, 29-4-1936). Lê Tràng Kiều phải công nhận rằng Thái Phỉ " phát biểu toàn là những ý kiến ngờ vực đối với phong trào thơ mới, đối với các nhà thơ mới mà thôi ". Như vậy thì năm 1936 chưa hẳn là cuộc cách mạng về thơ mới đã chìm xuống.
Chẳng những có những cá nhân như ông Thái Phỉ còn chống thơ mới, mà Lê Tràng Kiều cũng còn phải nhận rằng còn có cả những cơ quan ngôn luận ở Bắc cũng như ở Nam hiện đang chống thơ mới.
" Không hẹn mà nên tờ Văn Học tuần san ở trong Nam và tờ Tin Văn ngoài Bắc, đối với thơ mới cùng đồng một ý kiến với nhau, mỗi khi nhắc đến " Thơ mới " là họ bỉu môi với nhau một cách khinh khỉnh.
" Tôi có thể nói một cách cả quyết rằng : một cơ quan văn học mà không nhìn nhận giá trị của " Thơ mới " là một cơ quan văn học không xứng đáng đại biểu cho nền văn học một nước ! vì không nhìn nhận giá trị của " Thơ mới "- Tôi cần phải nói cả quyết thêm điều này nữa - tức là không hiểu gì về thơ mới cả.
" Không trách, những tờ báo văn học mà tôi vừa nói đó, không được các bạn thanh niên hoan nghênh một cách xứng đáng.
" Mỗi lần tôi đọc những bài công kích " thơ mới " ở trong Văn Học tuần san, hay ở Tin Văn tôi cứ bâng khuâng nghĩ ngợi mãi, tự hỏi một trăm lần " có thể như thế được ư ? bọn họ có thể tầm thường đến thế ư ? hoặc giả là lúc mới lọt lòng ra họ mang mối không đội trời chung với thơ mới rồi (Hànội báo số 18, 6-5-36).
Nhưng Lê Tràng Kiều cho rằng sở dĩ họ công kích thơ mới chẳng qua vì thiên kiến mà thôi. Cho nên ý ông là thuyết phục, đánh đổ thiên kiến đi, mà đánh đổ bằng lý luận cãi cọ ít hơn là bằng tình cảm, bằng sự phân tích, giới thiệu các bài thơ mới có giá trị.
" Rồi tôi biết họ công kích " thơ mới " là vì những thành kiến đã che mắt họ. Nghĩ vậy, hôm nay tôi mới trả lời cho họ bài này, có cái ý như làm cái công việc của một viên y sĩ đi chữa mắt người ta vậy. Ï
" Làm sao họ lại cần hỏi một câu lẩn thẩn rằng :" Thơ mới có khuôn phép không, và khuôn phép thơ mới là thể nào ? Nhưng câu hỏi của họ tôi sẽ lần lượt trả lời sau, bây giờ tôi tưởng cần nói ngay một điều :
" Nếu họ thật quả là có nhận thấy giá trị của nhiều bài thơ mới, thì một cái kết quả tốt đẹp như thế, tất nhiên đã chứng một cách hùng hồn, một công phu dồi dào, một phương tiện rạch ròi, và thơ mới có một cái lẽ sống rất chính đáng vậy ".
" Bằng như trái lại, thì cái câu hỏi của báo Tin Văn đã nêu lên đó, tôi cho là thừa.
" Một ông bạn của tôi thường nói :" Muốn cho người ta nhận cái giá trị của thơ mới không nên biện luận " con cà con kê " với người ta làm gì vô ích, chỉ nên bảo người ta ngồi im như ngồi thuyền đinh và đến đọc vào tai người ta, mấy bài thơ mà mình cho là có giá trị, rồi bảo người ta, một là gật đầu, hai là lắc đầu, người ta gật đầu thì cần phải nói thêm nữa, nếu người ta lắc đầu, thì mình quay lưng đi mà thôi. Thơ là một " giống thiêng liêng " người ta chỉ đọc trong giờ thiêng liêng, khi tâm trí trong trẻo và bằng phẳng như một tấm gương. Nói chuyện thơ mà chỉ hòng cãi lộn nhau thì còn bao giờ hiểu thơ được ! "
" Tôi cũng công nhận như ông bạn tôi rằng :" Không có cái lý luận nào hùng hồn để bênh vực thơ mới cho bằng chính lại là những bài thơ mới...Nhưng với người không kịp hiểu, ta chớ vội quay lưng đi, ta phải làm cho tất cả mọi người cả những người thù ghét của thơ mới, cũng phải cúi đầu trước thơ mới và ăn năn vì sự ruồng rẫy trước kia của mình vậy. Một nhà thơ như Thế Lữ chẳng hạn, không phải là của anh, của tôi, của một người nào, mà là con công của một nước, của hiện tại, của hậu thế.
" Những bài thơ như bài " Tiếng thu " " Bao la sầu " " Một chiều thu " không phải là di sản của một gia đình nào, của một phái nào, của một thời đại nào, nó đáng cho mọi người trong nước ngâm nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta thấy rằng : cái dân tộc của ta, không phải là không còn có người hiểu cái hay cái đẹp ở đời.
" Lại những nhà thi sĩ có tâm hồn kỳ dị như Thái Can, như Huy Thông, như Nguyễn Vỹ không phải giống thường có ở nước ta.
" Mặc ai biểu môi, mặc ai khinh khỉnh chúng ta cũng có quyền kêu to lên rằng :" chúng ta ngày nay đã có những nhà thi sĩ xứng đáng vậy " (Hànội báo số 18).
Thái Phỉ có trách Lê Tràng Kiều ở báo Tin Văn rằng ông mâu thuẩn thì ta cũng chẳng lấy làm lạ. Ông đã từng cho rằng thơ mới đã làm một cuộc cách mạng sôi nổi mà nay đã lặng hẳn để rồi ông lại nhận thấy nó chưa có lặng tí nào. Đến nay, ngày 13 tháng 5 năm 1936, Hànội báo số 19, ông lại cho như từ khi có thơ mới chưa ai lên tiếng bênh vực thơ cũ, công kích thơ mới. Tưởng như Thái Phỉ là người đầu tiên thì quả thật là lầm chứ đừng nói là mâu thuẫn.
" Cách đây đã 6, 7 năm, lần đầu tiên ở Trung Đông Pháp thời báo, ông Phan Khôi là một nhà nho (thoát ly) quay giáo đánh lại đạo nho, viết nhiều bài để mạt sát đạo nho, hình như cốt khêu tức mấy nhà nho chơi, thế mà rồi, đáng phục thay, các nhà nho vẫn hững hờ như không, không có một ai chạy ra tiếp chiến, đến nỗi bên nghịch đánh mãi ở chỗ không, chán phải kêu : " tình đời bạc bẽo thay ! "
Ý ông Phan bảo rằng : nhà nho hèn nhát đến nỗi một cái đạo đã nuôi sống mình mấy nghìn năm bây giờ bị nạn, cũng không ai ra cứu chữa !
" Kể thì tình đời bạc bẽo mà người đời hèn nhát thật ! Nói như trong một vấn đề " thơ mới thơ cũ đây " ta cũng thế thấy cái tâm lý ấy một cách rõ rệt. Thử hỏi từ khi có phong trào " thơ mới " ở Bắc kỳ này, trong phái thơ cũ, bị người ta đưa ra công kích.
Có ai dám đường hoàng viết lên báo, lên sách một bài cỏn con để tự bào chữa cho mình ; có ai dám đường hoàng bài trừ thơ mới mà theo các ông, là một cái dịch đáng sợ. Các ông chỉ được cái tài nói sau lưng người ta ! Mỗi khi các ông tình cờ đọc được một bài thơ mới chẳng hạn, thì các ông nhăn mặt, bưng mũi, làm đủ thứ khó chịu và bỉu môi bảo một cách khinh khỉnh :" Thơ mới " cóc rác " gì thế này ! lủng củng lủng ca.
" Đến đấy mới thấy một người : người ấy là ông Thái Phỉ, đục vào trong bụng các nhà thơ cũ, đưa những điều uất ức, âm thầm nén ở trong bụng họ, và đường hoàng viết lớn ra ở trong cơ quan văn học mà ông chủ trương.
" Ở đất này, giống thơ mới đã nẩy nở hơn ba năm rồi mà nay mới có một người, ở trong óc người ấy mới nẩy nở cái ý : phá cái giống ấy đi, vì là một giống xấu, kể thì cũng hơi muộn một chút ! Nhưng ông Thái Phỉ ơi ! ông hãy đợi cái cây ấy cao hơn một tí nữa, rồi hãy chặt, nếu như ông đủ sức chặt được. Cái công ông đối với nền văn học nước nhà mới lại càng to lớn vậy.
" Ông Thái Phỉ chỉ là tiếng của cả một đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh một trận cuối cùng " (Hànội báo số 19).
Chiến thuật của Lê Tràng Kiều từ đây để đối phó với " đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh trận cuối cùng " này là đưa các tay nghệ sĩ tài danh ra chiến trường.
" Xưa nay ta chỉ buồn vỉ đánh mãi ở chỗ trống, nay mới biết mình cũng có kẻ địch đáng sơ, thật là dịp tốt để thử cái oai lực của ngọn kiếm " thơ mới " của mình vậy.
" Nhưng tôi cần phải phân vua với các bạn một điều rằng với phái thơ cũ không cần đến người như tôi ra tiếp chiến : đã có những ngọn kiếm hùng mạnh thay tôi, ra mà chống cự với địch quân. Một người như tôi chỉ đáng ở nhà " khua chiêng, đánh trống " để ẩy người khác ra đánh thay mình mà thôi.
" Tôi sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt : ông Thái Can, ông Nguyễn Vỹ, ông Nguyễn Nhược Pháp, ông Thế Lữ, ông Huy Thông, ông Lưu Trọng Lư.
" Nếu trên mặt trận văn học sau này, họ cắm lá cờ Thơ mới thổi khúc khải hoàn : thì công ấy hoàn toàn công của ông vậy.
" Nhà thi sĩ tuy là trẻ tuổi mặc lòng nhưng mà...ông Thái Phỉ chắc cũng biết câu bất tuyệt của nhà kịch sĩ Corneille vậy...
" Họ trẻ tuổi nhưng mà...có múa gươm, mới biết tài nhau " (H.B. số 19, 13-5-1936).
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thái Can Lê Tràng Kiều hứa là sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt : Thái Can (H.B. số 20, 20-5-36), Nhược Pháp (H.B. số 21, 27-5-36), Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36), Nguyễn Vỹ (H.B. số 23, 10-6-36), Thế Lữ (H.B. số 24, 17-6-36), Vũ Đình Liên (H.B. số 26, 1-7-36), Lưu Trọng Lư (H.B. số 30, 29-7-36). Thế là đến ngày 20-5-36 (H.B. số 20), Lê Tràng Kiều tuyên bố " ẩy " Thái Can ra mặt trận. Lý do khiến ông " ẩy " Thái Can ra trước tiên vì, dù có chịu ảnh hưởng Tây, Thái Can vẫn gần gũi thơ cũ, gần gũi Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan. Nếu đem so với Tàu thì ông gần Lý Thái Bạch, còn nếu đem so sánh với Tây, thì ông giông giống Rignier hay Hérédia...
" Muốn cho cuộc bút chiến khỏi đột ngột, kỳ này tôi muốn " ẩy " Thái Can ra trước mặt trận, vì nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết thi sĩ là Thái Can.
" Thái Can là một người trẻ tuổi về phái Tây học nhưng - điều này mới quí - trong thơ văn của ông không chịu ảnh hưởng Tây học mấy, hình như một đôi bài, một đôi câu ta cũng thấy có phảng phất chút ít Régnier, hay là Hérédia còn phần nhiều ở đâu, trong lúc nào, ta cũng thấy họ Thái là một đứa con cưng của Lý Thái Bạch, Bạch Cư Dị, lạc loài vào thời đại này vậy.
" Thật thế, nếu thi văn của đời Đường, cái đời có một không hai ở trong lịch sử Trung Hoa, còn có dấu vết gì ở xứ này, ở thời đại này, cái dấu vết ấy không thể tìm trong tâm hồn của một nhà nho nào khác mà chính là ở trong tâm hồn của Thái Can vậy.
" Một ông bạn tôi đọc thơ Thái Can thường bảo rằng :" Thơ họ Thái " Tầu " quá, chữ " Tầu " đây không có cái nghĩa của người Tây thường hiểu, chữ " Tầu " đây nói bằng một giọng thành kính, xuất tự một tấm lòng sùng bái những cái tinh hoa, cái đẹp đẽ của nước Tầu cổ.
" Một hôm tôi hỏi họ Thái :" Có nhiều người liệt anh vào phái thơ cổ, anh có cho vậy là đúng không ? " Họ Thái cười và đáp :" Ấy là họ chứ hiểu nghĩa chữ mới đó mà thôi ".
" Ý họ Thái cho rằng : những bài thơ của Lý Thái Bạch bao giờ cũng là " mới ".
" Nói về văn thơ Thái Can, tôi tưởng phải hiểu chữ " mới " một cách hết sức rộng rãi.
Sau đấy Lê Tràng Kiều phân tích và mô tả cái mới cái cũ trong thơ Thái Can. Riêng về cái cũ, cái cổ điển ở Thái Can, Lê Tràng Kiều đã hạ những lời phê bình rất to tát :
" Nhất là nên hiểu chữ " mới " về phương diện tinh thần mà thôi. Về hình thức, thì ta thấy Thái Can chỉ " mới " một cách rụt rè, nhưng thực ra sánh với các nhà thơ cũ khác, thì Thái Can cũng đã là táo bạo lắm, có đủ những cái táo bạo để cho bọn này buộc tội, nội chỗ họ Thái nhất thiết không dùng lối gò chữ " đối ngẫu " là cái lối sở trường của một ông Trần Tuấn Khải, cũng đủ cho phái thơ cũ, họ không công nhận mình. Mà ngay cái lối tứ tuyệt là lối Thái Can thường dùng, cũng khác cái lối tứ tuyệt của nhà nho. Nó rộng rãi và phóng túng hơn nhiều.
" Nhưng ở Thái Can, còn có nhiều cái gì khác để lập cho họ Thái một cái địa vị riêng ở trong văn học sử nước nhà.
" Những nhà nho ở nước ta gần đây - ngay những người như Yên Đỗ, Tú Xương đều là những người học trò đã lạc bước của thầy. Tôi muốn nói rằng : trong sự cảm hứng của họ, không thấy phảng phất một tí dấu vết nào của Lý, Đỗ, là những bực thi thánh mà họ hết bực tôn sùng, có lẽ những nhà thi sĩ này chỉ giống họ Lý, họ Đỗ ở chỗ " uống ba trăm chén mà không hề ngừng " chỉ thế thôi ; điều này hình như vô lý, nhưng mà sự thực là như thế.
" Với Thái Can đời Đường sẽ sống lại, nói thế không phải là có ý bảo rằng : Thái Can chỉ là một kẻ học trò trung thành nhai lại một cách vô ý thức, cái hay, cái đẹp của họ Lý, họ Đỗ đã phun ra một lần rồi ".
Khen Thái Can là cái cầu bác vào dĩ vãng rồi, Lê Tràng Kiều ca ngợi ông đã đi vào sâu trong thế giới mới, làm công việc sáng tạo, chế biến ra cái mới.
" Không, Thái Can chỉ tìm cái nguồn cảm hứng của mình trong thơ Đường mà thôi, chứ Thái Can vẫn riêng có một cái tinh thần sáng tạo rất rõ rệt, rất chắc chắn.
Mà nói " sáng tạo " tức là nói " mới " vậy trong bài tựa cuối " Những áng thơ hay " tôi có bàn rằng : đã đến lúc nên xoá bỏ hai chữ thơ mới đi thôi.
Đọc thơ Thái Can ta thấy sự cần xoá bỏ ấy ; lại càng tha thiết, vì một bài thơ có sáng tạo tức là một bài thơ " mới " vậy.
" Sự thay đổi thi thể chỉ là một việc nhỏ, đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo đó mới là cái công lớn của các nhà thơ mới vậy. Họ đã sáng tạo, họ đã đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo, văn học sử còn đợi gì nữa mới ghi chú tên tuổi họ.
" Nhưng tôi cứ thuyết lý mãi như thế này thì ai tin ? Các bạn đọc hãy lặng im mấy phút. Trong cái im lặng của tâm hồn các bạn hãy để yên cho rơi vào từng giọt thánh thót, những tấm vỡ của tâm hồn nhà thi sĩ. Lặng im : vì những chị ấy là tiếng nói của nàng hoa, tiếng chân đi của cái xác thịt dã biến thành linh hồn, cái bóng thấp thoáng của ánh sáng ".
Sang phần hai, Lê Tràng Kiều trích thơ của Thái Can để biện minh cho những điều ông đã nói ở trên.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Nhược Pháp Cũng ở trong tinh thần muốn là nhịp cầu thông cảm giữa cũ và mới và cũng ở trong chủ trương cho thơ hay không có cũ mới, sau khi " ẩy " Thái Can, Lê Tràng Kiều đã muốn " ẩy " Nhược Pháp vì ông cho Nhược Pháp gần Thái Can lắm. Thực vậy, ngày 27-5-36 (H.B. số 21), Lê Tràng Kiều viết về " Thơ mới Nhược Pháp " : " Viết xong Thái Can, thì tôi liền nghĩ đến Nhược Pháp, cũng vì tôi không muốn đi từ sự đột ngột này qua sự đột ngột khác. Tôi chưa muốn nói về nội dung, về hình thức, tôi đã thấy Nhược Pháp và Thái Can gần nhau lắm : hai người đều " mới " một cách rụt rè như nhau, Thái Can thì thích lối thất ngôn, mà Nhược Pháp thì bình dị hơn nữa rất thích lối " ngũ ngôn ".
" Một sự bình dị về hình thức, tiêu biểu một sự bình dị về tinh thần " (H.B. số 21, 27-5-36).
Sau đấy, Lê Tràng Kiều lại cũng phân tích và mô tả những đặc tính của thơ Nguyễn Nhược Pháp, gồm có sự bình dị, trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên :
" Nhược Pháp là một tâm hồn bình dị.
" Hơn thế nữa, một tâm hồn trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong sáng như mây mùa Thu, nhí nhỏm như đôi chim nhẩy truyền ở trên cành, ngộ nghĩnh như cô gái Saigon, hồn nhiên như rầu sắng mới hái ở nguồn.
" Với một tài nghệ không có gì, Nhược Pháp đã dựng lại một thế giới : Ngày xưa.
" Ngày xưa, cái tên nó nặng nề biết bao đối với ông đồ nho ! Ta hãy tưởng tượng một thế giới mà từ nam chí bắc, từ già đến trẻ, từ kẻ đại phu đến kẻ dân cầy, từ tâm hồn vô tri của cậu học trò nhỏ đến cái ngọn tre vô giác kêu kẽo kẹt ở bên sông, cũng như nhuộm một tư tưởng nặng nề, âm u đen xám như cảnh tang vậy, cái tư tưởng ấy, là cái tư tưởng Khổng giáo, linh hồn cái thế giới ngày xưa...
" Thế giới ấy gặp Phương Tây, đã tan như một giấc mộng chỉ còn lưu lại những dấu vết rất mơ hồ càng ngày càng nhạt để một ngày kia mất hẳn.
" Giữa lúc ấy, có một người trẻ tuổi...- cố nhiên không phải một ông đồ nho - vào cái thế giới cũ ấy nồng nàn tha thiết như một kẻ phương xa nay trở về với cố hương.
" Người trẻ tuổi ấy là một nhà thi sĩ.
" Vì là thi sĩ cho nên chàng chỉ là ... thi sĩ với những vật liệu của một nhà thi sĩ chàng dựng lại cái thế giới " ngày xưa ".
" Ngày xưa, đứng dậy.
" Ngày xưa " đã cởi bỏ cái bộ đồ tang phục của mình.
" Ngày xưa " đã rũ sạch những tư tưởng nặng nề của Khổng giáo.
" Với Nhược Pháp, cô gái " ngày xưa " đã biết cười, một nụ cười nửa miệng. Ô, duyên thầm tệ !
...Ta ngồi bên tảng đá Mơ lều chiếu ngày xưa Mơ quan nghè, quan Thám Đi có cờ lọng đưa. Rồi bao nàng yểu điệu Ngấp nghé bay trên lầu, Vừa leng keng tiếng ngựa, Lẹ gót tiến gieo cầu. Tay vơ cầu ngũ sắc Má quan Ngè hây hây Quân hầu reo chuyển đất Tung cán lọng vừa quay. Trên lầu mấy thị nữ Cùng nhau rúc rích cười, " Thưa cô đừng thẹn nữa Quan Nghè trông lên rồi. (Tay ngà)" Thật là ngây thơ và thật là giản dị. " Ngây thơ không phải là khờ dại, không biết gì ; biết nhưng mà vẫn ngây thơ như thường ".
Lê Tràng Kiều ca ngợi Đông Hồ Sau khi đã đẩy hai nhà thơ mới, rất mới mà lại có duyên rất nhiều với thơ cũ ra chiến trường, để minh chứng thơ mới là hay là đẹp, Lê Tràng Kiều đã làm một công việc phũ phàng, tai ác hơn thế là đẩy ra mặt trận một nhà thơ cũ, đã như " về hàng thơ mới " và được thơ mới đón nhận, tiếp rước linh đình. Người thi sĩ cũ đã bỏ hàng ngũ ấy là Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36). Lê Tràng Kiều đã mô tả rất tỉ mỉ sự lột xác của nhà thơ cũ Đông Hồ, một sự lột xác kỳ diệu, quái gở :
" Đọc hết thơ Đông Hồ, từ quyển " Thơ Đông Hồ " do Nam Kỳ xuất bản cho đến những bài thơ rải rác đăng các báo gần đây, ta nhận thấy sự thay đổi lạ lùng - tôi toan nói một cuộc cách mệnh vĩ đại - ở trong tâm trí, ở trong tâm tình, ở cái cách cảm xúc cũng như ở cái cách phô diễn của nhà thi sĩ.
" Thật có thể như thế được ư ?
" Cái mà người ta gọi là cái tài đó - cái phần thiêng mà trời riêng phú cho những con cưng của mình là các nhà thi sĩ đó - cái ấy nhất đán có thể thay đổi, có thể chịu ảnh hưởng một sức mạnh nào mà thay đổi được ư ? như vậy tức là tự mình tạo ra cho mình một cái " tài " được ư ? Như vậy là không có cái quyền nào là cái quyền của tạo hoá nữa ư ?
" Thật là một điều không thể tin được.
" Nhưng khi ta theo bên cạnh Đông Hồ, dò xét từng ly, từng tý, những cái triệu chứng phát ra ngoài, ta thấy ngay có một sự thay đổi ở trong, sự thay đổi giống như sự biến hoá của một con tằm, con tằm " Đông Hồ " đã ăn dối, đã nhả tơ, đã " kéo kén ", đã hoá thành " nhộng " và tưởng đã vô dụng rồi. Nhưng không ngờ con " nhộng " ấy, một ngày kia, trên lưng mọc lên những chiếc cánh nhẹ : nó bay được. Nó là là ở giữa vùng hoa lá xanh tươi, nhởn nhơ dưới bóng nắng. Nó là con bươm bướm của các cô thiếu nữ thân yêu...
" Nhà thi sĩ Đông Hồ đã trẻ lại.
" Đông Hồ ngày trước là một ông (cụ non) lụ khụ, bệ vệ, đạo mạo - chỉ còn thiếu một bộ râu nữa, thì nhà thi sĩ của chúng ta đã là một ông lão hoàn toàn.
" Cái ông Đông Hồ ấy, trong chúng ta ai là chẳng biết. Ai có đọc qua những bài thơ của ông ở tạp chí Nam Phong, ai có đọc qua cuốn thơ Đông Hồchắc cũng phải nhận điều tôi nói đây, quả không ngoa chút nào. Nói ra thì mất lòng, chớ sự nghiệp của ông về trước, chỉ là con zéro to ".
Lê Tràng Kiều đã chê bai, khinh thường nhà thơ cũ Đông Hồ bao nhiêu thì lại say mê nhà thơ mới Đông Hồ bấy nhiêu :
" Thử hỏi ông đã làm được cái gì, ông đã sáng tạo ra được cái gì gọi là đặc sắc của ông, khả dĩ sau này còn có người nhắc đến tên ông ? Ngoài những bài thơ thù tạc, đi lại, nay tặng cho ông Đồ Nam, mai tặng cho ông Tùng Vân. Ngoài những câu sáo về thời thế, về nhân sinh, về vũ trụ mà ông " phỏng " của Tô Đông Pha, của Bạch Cư Dị vân vân...Ngoài những thứ không đáng kể ấy, mà tôi không nhắc lại đây, ông đã làm được gì ? Thỉnh thoảng cũng có một đôi câu " được " mà đôi câu " được " ấy, không đủ tỏ ra rằng : ông là một thi sĩ có tài. Có người bảo " thơ Đông Hồ " không có hồn, và Đông Hồ chỉ là một anh thợ ghép vần khéo. Thật trước kia, tôi cũng không nghĩ khác người ấy. Muốn chứng điều ấy ra đây, tôi tưởng không khó gì. Nhưng ta hãy để yên cho dĩ vãng, hơi đâu xới lại đống tro tàn.
" Vì Đông Hồ ngày nay là một người khác rồi ! "
Như vậy, dưới mắt Lê Tràng Kiều, Đông Hồ chẳng phải chỉ đổi khác mà còn đổi giống : đang là một ông lão, Đông Hồ đã được giải phẫu thành một cô gái trẻ đầy duyên dán ; chính Thơ Mới đã làm cuộc giải phẫu thành công ấy. Còn gì chua chát cho thơ cũ hơn nữa !
" Đông Hồ ngày nay là mùa xuân, là " cô gái xuân ", là con bướm trắng, là " cái hôn đầu tiên ", là tình yêu, tình yêu trẻ trung, đẹp đẽ, ngây thơ với bao nhiêu cái đức tính và đặc tính của tuổi trẻ.
" Bác sĩ Voronofb đã " ghép hạch " cho thi sĩ Đông Hồ.
" Bác sĩ Voronofb ấy chẳng ai khác là cái Phong trào mà người ta đã quen gọi là " thơ mới ". " Thơ mới " như một làn khí xuân nhuộm tươi cái huyết đen chạy ở trong toàn thân nhà thi sĩ... " thơ mới " sẽ thành một danh từ thừa, nhưng có lúc nó đã biểu hiệu cho một cuộc cách mệnh có thực, cuộc cách mệnh ấy đã đưa lại cho ta những bài thơ có giá trị, hơn thế nữa, nó đưa lại cho ta một tinh thần sáng tạo mới, một cách cảm xúc mới, một cách phô diễn mới - nói tóm lại, là : một quan niệm mới và một nghệ thuật mới. Cái quan niệm mới ấy về thi ca, đã giúp cho biết bao thi sĩ biểu lộ được hết cái tài của mình - nếu như quả là có tài thật.
" Trái lại, thơ cũ, với những khuôn khổ bó buộc với một quan niệm hẹp hòi đã dìm biết bao là cái tài.
" Biết bao thi sĩ đã ngẩng đầu không nổi dưới cái làn không khí nặng nề ấy.
" Bảo rằng : Đông Hồ là một người không có tài thì thật là vô lý, nhưng bảo rằng cái tài ấy không nẩy nở được ở trong cái hoàn cảnh cũ, thì đó quả là một sự hiển nhiên không một nhà phê bình nào, mà ngay cả tác giả nữa cũng không thể chối được...
" Cái tài của Đông Hồ đến nay mới phát triển kể cũng đã chậm lắm. Nhưng là một sự rất hiếm có ở trong lịch sử thi ca, và còn cái thú nào hơn, là khi người ta quá thì rồi mà bỗng được " xuân " lại như gái 15, 16, đó, tôi tưởng là một cách làm cho cái ngày Xuân thêm dài, cái ngày xuân mà biết bao thi sĩ thương hay tiếc. Vì mỗi khi ngày ấy đi qua, nhà thi sĩ đương nhắm mắt lại để lặng hưởng cho hết cái thanh thú, thì nó đã vụt đâu rồi... khi bừng mở mắt ra.
" Cái " ngày xuân " ấy đã trở về với nhà thi sĩ " (H.B. số 22).
Thật là với trường hợp Đông Hồ, Lê Tràng Kiều đã đánh vào thơ cũ một đòn nặng nề : tác giả bài thơ mới Đông Hồ xem ra khoái trá về việc điều khiển mặt trận chống thơ cũ mà có Đông Hồ trợ chiến.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Vỹ Để bênh vực cho thơ mới, Lê Tràng Kiều đã dùng một tên lính khá nguy hiểm, tên lính khá nguy hiểm ấy là Nguyễn Vỹ. Thực vậy, Nguyễn Vỹ là một nhà thơ mà làng thơ cũ ghét cực điểm đã dĩ nhiên rồi bởi vì ông mới lắm, mới quá nữa. Khốn nỗi Nguyễn Vỹ cũng bị làng thơ mới chối bỏ, không chịu cho Nguyễn Vỹ nhập tịch. Vậy mà Lê Tràng Kiều cứ đưa Nguyễn Vỹ ra làm lính để bênh đỡ thành trì thơ mới, cho Nguyễn Vỹ nhập đoàn quân tấn công thơ cũ. Ngày 10-6-36 (H.B. số 23), viết bài thơ mới Nguyễn Vỹ, Lê Tràng Kiều đã phản đối Thế Lữ để bênh Nguyễn Vỹ. Lê Tràng Kiều bảo Nguyễn Vỹ có nhiều câu thơ không hay, nhiều bài thơ không ra gì, nhưng tất cả sự nghiệp thơ mới của Nguyễn Vỹ chẳng phải chỉ có như vậy mà thôi...
" Kể bây giờ mà mới nói Nguyễn Vỹ đã là chậm lắm rồi, người ta nói đến Nguyễn Vỹ nhiều lắm, nhiều quá...
" Chỉ một cái được người ta nói tới nhiều, cũng đủ vinh dự cho nhà thi văn, vì vô duyên nhất, đau đớn nhất cho kẻ hao tổn không biết bao tâm trí, biết bao thời giờ, để làm nên một bài thơ, in lên một cuốn sách mà không ai nói tới. Đã đành rằng những lời nói tới đó, chẳng đẹp lòng ông Nguyễn Vỹ, nhưng...người ta công kích ông ta, chỉ chứng rằng ông ta sống...
" Thơ ông Nguyễn Vỹ đã là một cái đầu đề để cho người ta viết, một câu chuyện cho người ta bàn, thơ Nguyễn Vỹ đã sống một cách đầy đủ ở trên mặt các tờ báo "...(H.B. số 23, 10-6-36).
Theo Lê Tràng Kiều, Thế Lữ công kích Nguyễn Vỹ có lẽ chỉ vì lòng ganh ghét vì cùng là thi sĩ như nhau :
" Quyển " Tập thơ đầu " mới ló đầu ra đã bị ông Lê Ta ở báo Phong Hoá, công kích một cách tàn tệ...cũng lại chỉ vì cái lẽ ông Lê Ta (Thế Lữ) cũng làm thơ mà ông Nguyễn Vỹ cũng làm thơ đó thôi. Chứ công kích như kiểu ông Lê Ta trong cái thời kỳ văn học đương phôi pha này, có nhà văn nào, có tác giả nào là không đáng công kích ? Cứ theo cái phương pháp phê bình của ông Lê Ta, thì ông Thái Can, ông Lê Trọng Lư, ông Huy Thông, ông Thế Lữ trong các văn thơ của các ông ấy, ta cũng thấy nhan nhản những điều đáng công kích. Phê bình mà chỉ tìm cái kém, cái dở, chưa hẳn là phê bình. Một nhà phê bình có tiếng đã nói :" Cố ý để mà hiểu lấy tác giả...Vì lẽ rằng : không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi để mà góp vào sự xây dựng cái toà lầu Nghệ thuật, cái toà lầu ấy không thể do độc lực một người mà xây nổi, vì nó phải dầu dãi nhiều mưa gió, chịu sự vùi dập của bao thế kỷ. Cái toà lầu ấy phải là công xây dựng của Quá khứ, của Hiện tại, của Tương lai ".
" Ông Nguyễn Vỹ chẳng hạn, đưa lại cho sự xây đắp ấy, một mảnh vôi nhỏ, cũng đã là nhiều lắm rồi. Ta có cần gì hơn nữa ở họ một sự hoàn toàn không bao giờ có. Thật là không biết người biết của vậy ! Giả như tôi đưa mấy quyển " Mấy vần thơ " của ông Thế Lữ, tôi bỏ ra ngoài vài ba bài " được ", rồi tôi cứ đưa những bài " lủng củng lủng ca " đầy dẫy ở trong sách, ra mà bắt mà bẻ (điều ấy khó gì mà không làm được), thì chừng ấy ông Thế Lữ còn gì mà lên mặt " thi sĩ " với đời.
" Ai đã thấy Nguyễn Vỹ một lần rồi, đã có gặp ông ấy một lần nào ở trong cái nhà ấy, thì sẽ không ngạc nhiên chút nào, khi thấy văn thơ của ông ấy nhiễm đầy một vẻ buồn thảm não nùng ! cái cuộc đời buồn thảm của ông đi qua, để lại ở trên cái mặt ông cũng như ở trong thơ văn của ông, những nếp răn, những nếp răn đã thành cái dấu hiệu cho ông ở trong đám người chen chúc ở chợ trần đám người mà ông đem lòng khinh thị không bờ bến...
" Cứ một hôm, lối 9-10 giờ đi qua xóm Khâm Thiên, vừa khỏi phố cô đào rực rỡ ánh điện, và lộng lẫy như cô tiên, gần đến Ô chợ dừa, ta ngẩng lên sẽ thấy có một cái gác nhỏ...mù mờ ở dưới một ngọn đèn liu hiu, trong cái gác ấy có một cái bóng đen đi đi lại lại, cầm một cái que gõ vào tường như muốn làm nẩy ở trong cái vật vô tri, một cái tư tưởng linh động, mấy câu thơ, mấy cái linh hồn.
" Cái bóng ấy là cái bóng của một thi sĩ.
" Cái que ấy là cái quản bút thân yêu của thi sĩ.
" Cái gác nửa sáng nửa tối ấy là cái tâm hồn thi sĩ.
" Cái tâm hồn ấy là một bể sầu não, những " giọt thơ "từ đấy rơi ra là những giọt sầu não, những tư tưởng ở đấy bay ra đều có đôi cách đen, đen một mầu đen thảm đạm, như đôi cánh quạ.
" Con quạ đen ấy đã hơn một lần, đưa sự buồn não cho thi sĩ, chính ngay lúc thi sĩ đương triền miên trong giấc mộng ái tình,
Lần đầu hai ta hôn nhau Đứng so đôi trên cành dâu Một cặp bồ câu trắng gáy Em buồn...và em ngẩn ngơ Hỏi anh... " mình yêu em ơi Ngày ta yêu nhau được mấy ? Hai ta yêu nhau lần đầu Lần đầu hai ta hôn nhau. Một cặp bồ câu trắng gáy. Ái tình ru bên tai ta. Ta sẽ yêu nhau đến già. Như cặp bồ câu trắng ấy... (Tiếng quạ kêu) Sau khi đã công kích Thế Lữ (ngày 10-6-36) để bênh vực NguyễnVỹ, thì một tuần sau, ngày 17-6-36 (H.B. số 24) Lê Tràng Kiều lại viết bài cực tán Thế Lữ và đẩy Thế Lữ ra mặt trận. Kể ra Lê Tràng Kiều đã biết dụng binh cho nên việc tấn công vào thành trì thơ cũ lần này được coi như là thanh toán chiến trường. Lê Tràng Kiều ca ngợi Thế Lữ Tuy chẳng dám ngạo nghễ đặt Thế Lữ ngang hàng với Nguyễn Du trên mọi địa hạt, Lê Tràng Kiều cũng muốn ví Thế Lữ với Nguyễn Du ở một ít điểm. " Trước đây, phê bình ở trong báo Tràng An, có người nói một câu rằng :" Tài nghệ của hai người (Nguyễn Du và Nguyễn Thế Lữ) vị tất đã có hơn kém " làm cho nhiều nhà thơ cổ phải bỉu môi...
" Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ không thể phun ra được những câu :
Lơ thơ tơ liễu buông mành Con oanh học nói trên cành mỉa mai... Hay là : Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha... " Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ còn xa lắm, hay là không bao giờ viết ra được những câu nhẹ nhàng bay bổng, những câu thơ như có đôi cánh nhẹ, bay là lượt ở trên đám ruộng mạ xanh trong một cảnh chiều xuân êm và trong như mộng. " Cố nhiên là ta không bao giờ khờ khạo đến nỗi đặt ông Nguyễn Thế Lữ ngang hàng với ông Nguyễn Du, nhưng ta có thể so sánh mà không ngượng, ông Thế Lữ và Nguyễn Du ít nhất về một phương diện " (H.B. số 24, 17-6-36).
Lê Tràng Kiều muốn so sánh với Nguyễn Du nghệ thuật tả tiếng, bắt chước âm thanh tự nhiên của Thế Lữ. Ông trích và đối chiếu thơ tả âm thanh của hai nhà thơ :
" Ở đây, tôi muốn so sánh những câu thơ tả " tiếng " ở trong mấy vần thơ và ở trong " truyện Kiều ". Tôi xin chép hết ra đây để cho độc giả đối chiếu :
Trong như tiếng hạc bay qua Đục như nước suối mới sa nửa vời Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. (Kiều) Một cung gió thảm mưa sầu Bốn giây đổ máu, năm đầu ngón tay Ve kêu vượn hót vào tay... . . . . Phím đàn dìu dặt tay tiên Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa Khúc đâu đượm ấm dương hoà Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh Khúc đâu êm ái xuân tình Ấy hồn Thục Đế, hay mình Đỗ Quyên Trong sao châu rõ ghềnh quyên Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông. (Kiều)
Theo chim tiếng sáo lên khơi Lại theo giòng suối bên người tiên nga Khi cao vút tận mây mờ Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh Êm như lọt tiếng tơ tình Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không Thiên Thai thoảng gió mơ mòng Ngọc Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay... (Tiếng sáo Thiên Thai)
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt Mây bay...gió quyến...mây bay... Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt Như hắt hiu cùng hơi gió heo may... (Tiếng trúc tuyệt vời)
Trong khi lật đật rẻo sông Mê Trận gió heo may, đuổi nhạn về... Bụi cuốn, đường xa, chinh khách mỏi Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia Tiếng hát trong như nước Ngọc Tuyền Êm như hơi gió thoảng cung tiên Cao như thông vút buồn như liễu Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên... (Tiếng hát bên sông)"
Vất hết những thành kiến trong óc, cứ bình tĩnh mà đọc những đoạn thơ trên, chắc ai cũng phải nhận rằng : Cái tài nghệ của Thế Lữ về một phương diện này quả không kém Nguyễn Du là mấy. " Nếu tiếng sáo của Thế Lữ kém thâm trầm réo rắt, thì nó lại " lơ lửng " " véo von " hơn...ta đọc những câu :
Khi cao vút tận mây mờ Khi buồn vắt vẻo bên bờ cây xanh Hay là : Cao như thông vút, buồn như liễu. . . . . . . .
" Thì ta thấy cái " tiếng " là cái vô hình, trở nên có hình có bóng, khi bay vụt lên cao, khi lưởn vưởn giữa đám cây bên bờ...Thơ như thế mới thật là hoạt...vậy.
" Không những " tiếng " cỏ cây, mây nước, những vật vô tri vô giác, thì sẽ đã khéo làm cho linh động như con người ta.
" Nhưng câu :
Mây hồng dừng lại sau đèo Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi. Làm cho ta phải nhớ đến cái nghệ thuật tả cảnh của Chateaubriand trong bài " Đêm ở rừng Mỹ ". Trong bài ấy, những dòng sông, bóng trăng, cây cối " hoạt động " một cách lạ thường khiến cho ta đương ở trong cái rừng sâu tịch mịch mà không thấy tịch mịch chút nào...(H.B. số 24). Sau khi mải mê đi theo Thế Lữ người tiến dẫn mình vào thế giới tiên, Lê Tràng Kiều đã quay trở lại trần để đi theo Vũ Đình Liên dẫn ông đi vào dĩ vãng, vùi mình trong những cảnh đổ vỡ hoang tàn. Thật vậy, Lê Tràng Kiều đã giới thiệu thiên tài mới Vũ Đình Liên trong việc làm sống lại dĩ vãng, làm sống lại những hình ảnh điêu tàn.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Vũ Đình Liên Để làm nổi cái điêu tàn rã rời mà Vũ Đình Liên đang cố vẽ lên trên lụa, Lê Tràng Kiều đem so sánh Vũ Đình Liên với Nguyễn Nhược Pháp : " Nếu có nhà thi sĩ khêu gợi lại những cái nhí nhỏm, ngộ nghĩnh của cái thế giới cũ như Nguyễn Nhược Pháp thì cũng phải có một nhà thi sĩ như Vũ Đình Liên đưa ta về cái dĩ vãng thân yêu, đầy tuyết đẹp sương trong, đầy lá thu và hoa xuân, đầy những dịu dàng và êm ái.
" Những bức tranh xưa ấy do nhà thi sĩ phác họa ra treo trên vách trong cái tòa lầu mới mẻ ngày nay để làm gì, - nếu không phải để cho người ta những nỗi nhớ nhung, mến tiếc, mến tiếc hão huyền, mà đã từng phải tổn hao biết bao giọt lệ thắm.
" Với Nhược pháp, miệng ta chỉ muốn mỉm một nụ cười hồn nhiên.
" Với Vũ Đình Liên...thì thấy buồn buồn một cách buồn man mác, có khi réo rắt nữa, như buổi chớp choáng ta nhìn những núi sông lờ mờ ở trên trời xa, đương biến hình đổi dạng.
" Ta thấy ta nhớ những cảnh cũ niềm xưa...Ta thấy ta là một kẻ mãi bước giang hồ, chợt nhớ đến cảnh quê hương.
" Quê hương ! cả một dĩ vãng ở trong ấy đã êm đềm sống những tâm hồn mộc mạc và hồn nhiên cả cái thế giới của cha ông ta đó chẳng phải mới thực là cái quê hương của những bọn chúng ta còn sống sót ngày nay. Sống một cách chật vật giữa những cái thực trạng mới mẻ mà khô khan tựa hồ như là ty tiện nữa, vì là vật chất, những cái thực trạng do Âu tây mang lại.
" Trong lúc tâm hồn ta cuốn theo làn sóng Âu tây, làn sóng, than ôi ! không biết còn đẩy ta đến chỗ nào nữa, mà được trong giây lát, đứng im lặng để hồi tưởng cái dĩ vãng đã xa mờ thì cái giây lát ấy nó thành kính, nó long trọng, nó ý nghĩa biết bao, hơn thế nữa, nó cho ta một luồng mát mẻ làm rơi cả tâm hồn,
Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết đi đâu ? Giấy đỏ, buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. Ông Đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay. Lá vàng rơi trên giấy. Ngoài giời mưa bụi bay. (Ông Đồ)" Ta cảm thấy cả một thế giới điêu tàn đã rời rạc, đổ vỡ... "(H.B. số 26). Lê Tràng Kiều ca ngợi Lưu Trọng Lư Cuối cùng ngày 29-7-36 (H.B. số 30), Lê Tràng Kiều đã dành cho nhà thơ yêu dấu của ông một sự giới thiệu đặc biệt : Lưu Trọng Lư, người chiến sĩ cuối cùng được đẩy ra trận để dọn dẹp chiến trường. Có lẽ không ai chiếm trọn vẹn cảm tình của Lê Tràng Kiều như Lưu Trọng Lư. Lê Tràng Kiều đã chọn Lưu Trọng Lư để trả lời phái thơ cũ ở điểm mà họ từng công kích thơ mới mạnh mẽ nhất : thơ mới không có âm điệu. Lê Tràng Kiều lặp lại luận điệu của phe bênh thơ cũ thường kết án thơ mới : " Những người phản đối thơ mới đều nói một cách hồ đồ : " Thơ mới là một thứ thơ không niêm, không luật, đọc lên nghe " lủng ca lủng củng ", rồi họ kết luận : Thơ mà không có âm điệu là thơ bỏ đi, vâng, thật có thế ! Nhưng " thơ mới " đâu phải như lời họ nói - là thứ thơ không có âm điệu. " Thơ mới " có âm điệu lắm chớ. Nhưng là một thứ âm điệu riêng, khác hẳn âm điệu của thơ Đường, của Lục bát, của Song thất lục bát. Âm luật của một thứ tiếng rất là dồi dào, và huyền diệu, ai bảo rằng ngoài điệu Đường luật, Lục bát, Song thất lục bát, không còn có nhiều điệu khác nữa, những điệu vô danh mà hữu thực, lại rất hợp với sự tiết tấu thiên nhiên của thanh âm ?...
Chẳng qua vì trước kia người ta không nghĩ tới, cho nên người ta bảo là không có mà thôi ".
Lê Tràng Kiều cho rằng muốn chứng tỏ thơ mới có âm điệu hẳn hoi, mà thường khi còn là âm điệu du dương, réo rắt, không gì bằng lấy thơ Lưu Trọng Lư ra mà làm chứng. Vì không quá khích nên Lưu Trọng Lư đã dung hoà và thừa hưởng tất cả âm điệu cũ mới, cổ kim, Lê Tràng Kiều viết :
"Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt.... " Thơ mới " vào đất Bắc. Trong một số mùa xuân của báo Phong Hoá lần đầu Lưu quân cho đăng mấy bài thơ của mình...rồi từ đó, mỗi kỳ luôn luôn trên mặt báo ấy người ta thấy đăng những bài của Nguyễn Thế Lữ, của Tân Việt và của Vũ Đình Liên. Độc giả làm quen với Thế Lữ dần dần quên lãng Trọng Lư. Điều ấy rất dễ hiểu, vì bao giờ người ta cũng thích những cái thái quá hơn là những cái vừa chừng...Người ta ưa " thơ mới " người ta lại ưa cho thật " mới ". Cứ bình tĩnh mà xét thơ Trọng Lư không phải là không mới, nhưng cái mới ở trong thơ " Trọng Lư " rất khó nhận vì nó mới ở tình cảm, ở âm điệu, ở hình ảnh (images), thơ Thế Lữ, thơ Huy Thông thì phần nhiều " mới " ở tư tưởng, ở ý tứ " mới " một cách rõ ràng hơn, " mới " một cách táo bạo.
" Thơ Trọng Lư thì những ý tưởng cũ biết pha vào điệu mới, nó cũng còn có nghĩa và cảm người ta một cách mới mẻ. Vì thế Lưu Trọng Lư chú trọng phương diện âm điệu hơn các phương diện khác ví dụ như bài " Bên thành " mà tôi chép lại đây :
Bên thành con chim con Hát nỉ non. Giục lòng em bồn chồn Buổi hoàng hôn. Em trách gì con chim con ? Em oán gì con chim con ? Em chỉ hận Sao em ngớ ngẩn Đã để tình lang em lận đận Chốn xa xôi... Nơi tuyệt vời... Trong lúc con chim giời Bên em nó hót những lời ...nước non... " Về ý tưởng thì không có gì đặc sắc lắm, tình cảm thì không có gì sâu xa lắm, bài này ta sở dĩ đọc thích là vì nó có một cái điệu mới, một cái điệu riêng, một cái điệu ngộ. " Cái điệu ngộ ấy, ta thấy hầu hết trong những bài thơ của Lưu Trọng Lư (H.B. số 30).
" Thường thường người ta không hiểu được họ Lưu là vì hồn nhà thi sĩ như chỉ bàng bạc, phưởng phất trong cái thế giới vô hình : trong một hơi thở, trong bóng trăng mờ, trong một vài vong hồn hay là những cái nhỏ nhặt quá mà mắt người thường bỏ qua...anh bước nặng, anh hát lớn, anh sẽ không bao giờ tìm nhà thi sĩ động mạnh, là hồn nhà thi sĩ sẽ tan ngay.
" Cũng đồng tả tiếng, mọi thi sĩ thì thích những tiếng đàn sáo thâm trầm, réo rắt, làm rung chuyển cả tâm hồn. Trọng Lư thì riêng thích " những tiếng " rạo rực, ríu rít những tiếng mà người thường không nghe thấy...
Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức ? Em không nghe rạo rực : Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ ? Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc : Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô ? (Tiếng thu -I.H.)" Những tiếng mà chúng ta không nghe, đều lọt vào tai nhà thi sĩ ? Xưa nay, trong văn chương Tàu và ta có mấy ai dám tả " tiếng thổn thức " của trăng mờ ? " Ai dám bảo rằng :" Cái hình ảnh của người chinh phụ lại " kêu rạo rực " ở trong lòng người cô phụ ? Ai dám tả mùa thu, bằng " tiếng kêu xào xạc " của chân một con nai ngơ ngác đạp lên trên những lá khô ?
" Ta có thể nói rằng : đây là một bức tranh phả vào một khúc nhạc, hay là một khúc nhạc vẽ thành một bức tranh...Đọc bài thơ này, ta không còn phân biệt được Thơ...Hoạ và Nhạc...nữa ? "
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:31:26 GMT 9
Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới E - Phản ứng làng thơ cũ Thái độ chung các nhà thơ cũ Chẳng hiểu dựa vào đâu mà có người cho rằng trước sự tấn công của làng thơ mới, làng thơ cũ đã chịu thua ngay từ đầu không có một ai lên tiếng. Hình như đó cũng là ý tưởng mà Lê Tràng Kiều đã biểu lộ trong bài trả lời ông Thái Phỉ, Hànội báo số 19, 13-5-1936. Sự thực đã không hẳn như vậy. Trong khi tường thuật những vụ diễn thuyết ủng hộ thơ mới ở Nam và ở Bắc, tôi đã đọc cho các bạn nghe những bài tường thuật của báo Phong Hoá và báo Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai tờ báo đều tố cáo thái độ quyết sống quyết chết của phái bênh thơ cũ. Chẳng thế mà khi cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết mấy lần ở Nam kỳ và ở Bắc kỳ, phe phản đối thơ mới như các ông Nguyễn Văn Hanh chẳng những huy động bạn bè đi nghe để gây rối, để đăng đàn phản đối cô Kiêm tại trận mà ta còn thấy có lần cô Kiêm bước vào phòng diễn thuyết đã được người ta trao cho cô một túi đầy ắp những thơ hăm doạ. Cô Kiêm quyết liệt đối với thơ mới thế nào thì ông Hanh hăng say đối với thơ cũ như vậy. Thực là trong cuộc chiến tranh này chẳng những cá nhân chọi với cá nhân mà còn các cơ quan ngôn luận chọi với các cơ quan ngôn luận nữa : trận tuyến lan tràn từ Nam ra Bắc kéo dài suốt mấy năm trường. Nếu bênh thơ mới có Phong Hoá, Phụ Nữ Tân Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hànôi báo, Loa, Ngày Nay.. thì bênh thơ cũ có An Nam tạp chí, Văn Học tạp chí, Công Luận, Tiếng Dân, Văn Học tuần san, Tin Văn...Xét số đông thì bên thơ cũ buổi đầu chắc là ăn đứt bên thơ mới.
Tản Đà, tuy chẳng ưa gì thơ mới, nhưng xem ra nhà thi sĩ của chúng ta tế nhị lắm : chính ông không để cơ quan ngôn luận của ông là An Nam tạp chí tấn công thơ mới. Còn đối với thơ cũ, ông thản nhiên bênh vực nó một cách gián tiếp bằng việc cho đăng thơ cũ, bình giảng thơ cũ. Đề cập thẳng đến thơ mới với luận điệu mỉa mai có lẽ có trường hợp Vân Bằng trong bài " Tôi thất vọng về ông Phan Khôi " (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932).
" Vừa đây, ông lại ra công " sáng chế " ra một lối thơ " tân thời, tự do đặc biệt ", không cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm cho nhiều người " hoài cổ " phải ngậm ngùi thương tiếc, " tám vế " luật Đường ! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng ? "
Chất Hằng đả kích thơ mới của Phan Khôi Ngoài An Nam tạp chí, tờ báo thứ nhất ở Bắc tỏ vẻ chống thơ mới là tờ Văn Học tạp chí của Chất Hằng Dương Tự Quán. Trong bài " Ấm Hiếu Không thể làm Tú Khôi " hay là " Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu ", Chất Hằng, trong lúc đả kích Phan Khôi ở nhiều phương diện, đã mỉa mai lối thơ mới do Phan Khôi khai mào. Nói về Phan Khôi làm thơ, Chất Hằng viết :" Người ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém cho nên Phan Khôi không hay làm thơ mà chỉ ưa nghiên cứu về thơ. Đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ của ông cũng " hùng hổ " như ông... hay khắc khổ như văn xuôi của ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng của ông.
" Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức của thơ mà xướng xuất ra một thể thơ mới nó thật ra chẳng mới chút nào, và cũng ít người cùng ông hưởng ứng " (V.H.T.C. số 18, 1-6-1933).
Sau khi chế diễu thơ mới một cách nhẹ nhàng ngày 1 tháng 6 năm 1933, Chất Hằng viết liên tiếp ba bài công kích thơ mới đăng Văn Học tạp chí các số 22 (1-8-1933), số 23 (15-8-1933), số 24 ( 1-9-1933). Bài đăng số 22, với tựa đề " thơ mới ", đề cập đến cuộc cải cách thơ của Phan Khôi từng được mệnh danh là cuộc cải cách của thơ mới. Chất Hằng cho rằng cái mà Phan Khôi nhận là mới ấy, chẳng phải Phan Khôi là người đầu tiên xướng xuất ra, người đầu tiên xướng xuất ra là Nguyễn Văn Vĩnh :
" Phá cùm và cắt xích cho những nhà thơ, công cuộc giải phóng đó không phải là chẳng hợp lý và chẳng thích thời.
" Nhưng khi ấy cũng ít người hưởng ứng, trong số tôi thấy có ông Thượng Minh mà các bạn độc giả của Văn Học tạp chí chắc còn nhớ là một người vì quá hâm mộ ông Phan Khôi mà liệt ông Nguyễn Khắc Hiếu vào hạng nhà văn điên cuồng, gàn dở.
" Mới đây một tờ báo có tính cách hài hước " lại đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh " và hết sức cổ động cho " lối thơ Phan Khôi " như lời ông Thượng Minh đã nói trong báo Đông Tây.
" Nhưng trước khi bàn về việc đổi mới cho thơ, ta hãy nên " trả cho César cái gì của César " đã. Tôi muốn nói rằng ông Phan Khôi chẳng phải là người thứ nhất đã có cái sáng kiến làm thơ quốc văn theo lối tây vậy.
" Người ấy có phải ai đâu mà chính là ông Nguyễn VănVĩnh. Ta hãy đọc mấy câu trong bài ngụ ngôn " Con ve và con kiến " dịch của La Fontaine ra đây :
Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Đến kỳ gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối Một miếng cũng chẳng còn Ruồi bọ không một con Vác miệng chịu khúm núm Sang chị Kiến hàng xóm Xin cùng chị cho vay Giăm ba hạt qua ngày. Đối với Chất Hằng, Nguyễn Văn Vĩnh hay Phan Khôi cũng thế thôi, toàn là người lập dị, phản động : vẫn biết phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ nên đổi mới tinh thần thôi chứ ai lại kỳ cục mà sửa đổi hình thức theo đây : " Song tôi không đồng ý hẳn với người hay những người đã và sẽ sáng tạo ra các lối thơ mới, tuy trên kia tôi nói rằng công cuộc giải phóng cho thơ không phải là chẳng hợp lý và không thích thời.
" Tôi thích đổi mới cho thơ, nhưng tôi chú trọng về tinh thần của thơ hơn là là đường hình thức. Về đường hình thức của thơ, tôi dám nói rằng những nhà thơ cổ của Trung quốc đáng là thầy ta. Lối thơ Đường luật tuy bị giam hãm vào trong cái thi pháp chặt chẽ nhưng ta thử hỏi có lối thơ nào là chẳng phải bó buộc bởi những luật lệ nhất định. Ngay như thơ tây cũng còn phải theo phép tắc rất phiền phức. Vì nếu không thế thì không phải là thơ nữa.
Và ngoài thể thơ Đường luật nghiêm nhặt ra, ta há lại không còn thể nào rộng rãi nữa hay sao ?
Còn như coi thể thơ Đường luật có chật hẹp quá, thì có thể cổ phong cũng là rộng rãi lắm chứ, việc gì phải lập dị. Tinh thần hướng dẫn nhà thơ hiện đại phải là " dùng lối cổ mà diễn những tư tưởng mới " :
" Thì thể cổ phong đó thật đủ tư cách để ứng phó cho sự nhu yếu của ta. Cổ phong là lối văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau là tuỳ ý của nhà làm văn, không phải là một luật nhất định. Cổ phong không có niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu cho đến bao nhiêu câu cũng được. Cả bài dùng một vần tức là độc vận, như :
Hôm qua có bạn, rượu lại hết Hôm nay có rượu, bạn không biết, Cất đi, đợi bạn đến lúc nào, Cùng uống, cùng vui trời đất tít Khi say, quên cả ai là ta Còn hơn lúc tỉnh nhớ mà mệt Cả bài dùng nhiều vần là liên vận, như : Đá xanh như nhuộm, nước như lọc Cỏ cây hoa lá dệt như vóc Trời hoang mây tạnh gió hiu hiu Ai thấy cảnh này mà chẳng yêu Mới biết Hóa công tay khéo vẽ Tuy người điểm xuyết ra nước non Bể cạn non bộ nhỏ con con Sao bằng tiêu giao cùng Tạo hoá Bốn mùa phong cảnh thật không giả. Đọc qua mấy bài thơ thể cổ phong tôi lục ra trên đây, chắc phần nhiều các bạn độc giả sẽ nghĩ như tôi rằng những người khởi xướng và cổ động cho lối thơ mới chỉ là " cho máy chạy rụt lùi " mà thôi, chứ có chi là đặt ra mới đâu. Vì vậy tôi cho cái hình thức của thơ chẳng phải đổi mới. Việc các nhà thơ nên làm ngay bây giờ là cứ theo cái hình thức thơ cổ và diễn những tư tưởng mới.
Sang đến bài " Làm thế nào để đổi mới cho thơ " (V.H.T.C. số 23, 15-8-1933), về vấn đề hình thức, ngoài việc đề nghị hình thức cổ phong, còn đề nghị thêm hình thức lục bát và song thất lục bát nữa, nhưng ông không ưng cho người ta đi xa hơn nữa. Thế rồi ông kịch liệt tấn công sự nghèo nàn của thơ hiện tại về phương diện nội dung. Ông hô hào phải đổi mới cho thơ về mặt đề tài, về nội dung. Ông bảo :
" Sao người ta không vịnh cái máy bay, cái tầu thuỷ, cái ô tô, cái xe lửa, mà cứ quanh đi quẩn lại hết cái điếu, cái chổi lại đến cái nón hay cái hoả lò ?
Giá ông thi sĩ nào vịnh cho tôi cái toa máy xe lửa cũng linh động như mấy câu sau này :
Sur le taureau de fer qui fume, souffle et beugle L'homme a monté trop tôt... Mais il faut triompher du temps et de l'espace Arriver ou mourir... ...Mais aucun n'est le maitre Du dragon mugissant qu'un savant a fait naitre, của thi sĩ Alfred de Vigny tả những toa máy thứ nhất (Les premières locomotives) thì có phải ông ấy đã mở được cho thơ quốcvăn một con đường mới không. Tôi lại ước ao có nhà thơ nào đem con mắt biết quan sát mà ngắm những nhà máy và cảnh sinh hoạt anh em chị em lao động rồi vẽ nên được những bức tranh tuyệt xảo giống như của thi sĩ Verhaeren nước Bỉ, thì lúc này chúng ta còn có thể lạc quan, trong khi dự đoán tiền đồ của thơ quốc âm. " Thương Sơn bênh thơ cũ Chẳng những bảo thơ mới của Phan Khôi chẳng có gì mới mà còn cho thơ mới của bọn các ông chẳng qua chỉ là một thứ từ khúc hết sức cổ lỗ, lời thời trước đây đã có biết bao nhiêu người làm rồi. Bài này tựa đề là " Thơ mới tức là Từ Khúc " ký Thương Sơn một bài bổ khuyết bài " thơ mới "của Chất Hằng và được ông Chất bàn góp thêm ở phần cuối (V.H.T.C. số 24, 1-9-1933). Theo cả hai ông Thương Sơn và Chất Hằng thì thơ mới thực ra chỉ mới ở mỗi cái chỗ gieo vận. Vậy mà các lối vận của cái thơ được mệnh danh là thơ mới, lại chỉ là vận của các lối từ khúc mà thôi. Ông Thương Sinh phân tích các vần của hai bài : bài " con ve và con kiến "của Nguyễn Văn Vĩnh, cũng như bài " Tình già " của Phan Khôi, rồi đem so sánh với cách gieo vần của nhiều bài Từ Khúc để kết luận : thơ mới là một hình thức đi giật lùi. " Kể ra thì trong bài " con ve và con kiến " cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau, đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần " liên tiếp " (rimes suivies) của tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng, cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ, tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
" Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của Cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây xin trích mấy vần :
Thám hoa (đọc) :
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi ? Ngã ngựa đứt băng một bên đùi. Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông ? Ở đời có ba sự rất sợ, Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa. . . . . . lại điệu từ " Bồ tát Man " dịch đăng ở Nam Phong : Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt Mây in mái tóc, thân pha tuyết Ủ dột nét mày ngài Điểm trang cùng với ai ? Cánh hoa lồng trong kính Mắt hoa cùng lấp lánh Mới mẻ . . . Đôi chim ai thêu thùa ? Cùng điệu " Mộc Lan Hoa " Đàn ai tiêu sái Khiến khách giang hồ tình ái ngại ; Lơ lửng trăng sân, Bóng mình mình ngỡ bóng giai nhân . . . . . chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru ? " Tôi còn nhớ như bài " Khóc Lâm Tứ Nương " đăng ở tạp chí này, nguyên Hán văn cũng bắt vần như thế.
" Vậy thì cách vần ở bài" Tình già " cũ lăm lắm chứ có cũ vừa đâu ! - ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống nhau lắm ru ? Bài trên là một bài ngũ ngôn ; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi, thì còn gì là sáng kiến nữa đâu ! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ " suốt mùa hè ".
" Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần " liên tiếp " nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là " tân thời ". Ấy cũng vì nó không hay gì cho lắm, không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó cũng sắp vào vòng " đào thải " rồi. "
Rồi Thương Sơn đem so sánh bài " Tình già " của Phan Khôi với bài " Mối tình ngầm "của Trần qu Thường H.T., để quả quyết rằng thơ Phan Khôi còn cổ hơn là Từ Khúc nữa kia :
" Ông Chất Hằng chép bài " Tình già " sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến cái tự do của nó. Như thế, những người đã " lại đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh " chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông chép lại mấy câu thơ gốc của " lối mới " rồi chỉ một chỗ " cũ " khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa Một đêm vừa gió lại vừa mưa Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở Ôi ! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng Mà lấy nhau hẵn đà không đặng, Để đến nỗi tình trước phụ sau Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau . . . . . Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này : Lá liễu xanh Hoa hồng đỏ Trăng rạng tỏ Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ Ai to nhỏ ? Vườn xuân cỏ cây tươi tốt Khi xuân đầm ấm dương hoà Dan díu cùng ai lời thề thốt Hẹn dưới hoa. " Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng " Thơ mới " mà gửi cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối " thơ Phan Khôi " là mới, họ sẽ đăng ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ " mới " vậy. Nhưng nó " mới " từ độ mười năm nay, trong Hữu Thanh khi xưa ; tôi đã trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do, nhưng " tự do " ở trong " giới hạn " âm nhạc câu thơ, tự do phải đường ". Động Đình đả thơ mới Cũng trên Văn Học tạp chí số 49, 11-8-1934, Động Đình viết bài " Bàn thêm về lối thơ mới ", lời lẽ có vẻ còn cay nghiệt hơn trước đây. Trước hết, Động Đình cho rằng luật thơ cũ chẳng có gì là khó khăn gò bó cả : " Ít lâu nay cái phong trào thơ mới sôi nổi dữ. Các báo thường thấy hô hào cải cách về thơ. Nào bài xích lối thơ Hàn luật, đổ tội cho thơ cũ của ta phải tội niêm luật quá nghiêm khắc, làm cho mất cả tinh thần tự do của văn chương đi. Nhưng nói thế là lầm, ta hãy xét lại những lời xưa ý cũ của các thi sĩ đời xưa xem có diễn được hết ý tứ, ngụ được đủ tính tình của người làm thơ, tả được hết cái trạng thái của vũ trụ, của cảnh vật không ".
" Đem so với thơ mới bây giờ thì thơ cũ hơn vô cùng, thơ mới vô vị thế nào thì thơ cũ thi vị và ý vị như vậy :
" Cái thi tứ thi vị ngày xưa so sánh với thơ mới bây giờ ra sao. Thật là thơ Hàn luật vẫn ý vị vô cùng, thanh tao biết mấy, bóng bảy dường nào, đọc lên, nghe đến ai mà không hiểu. Tuy, cái niêm luật, thể vần, lối thơ cũ của ta nó hơi khó, hơi nghiêm một chút, nhưng âm điệu vẫn thâm trầm, mà tinh thần vẫn hàm súc đủ các ý tưởng, tình tứ ".
Động Đình cho rằng những lẽ người ta viện ra để bảo thơ cũ luật lệ chật hẹp là không đúng, có thứ chặt chẽ như thất ngôn bát cú, nhưng lắm thứ chẳng có luật lệ gì gò bó như " ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong :
" Vả lại thơ cũ có thật niêm luật khắc khổ nghiêm ngặt thì sao từ trước đến giờ thi sĩ có ai chịu không theo nổi cái niêm luật thể thức ấy đâu ?
" Kể thơ Hàn luật còn lắm điệu, nhiều thể rộng lắm như các bài ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong, chữ và vần vẫn tự do chẳng cũng là đặc điểm khoan hồng cho thi luật lắm đó sao ? Bất tất phải thay đổi chi thêm phiền, thêm rắc rối. Còn lối thơ mới bây giờ, xét ra cũng bất ngoại cái khuôn sáo cũ. Thể cách tuy có hơi khác, nhưng cái tinh thần vẫn cũ rích.
Động Đình đồng ý phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ đổi mới về nội dung mà giữ y nguyên về hình thức chứ, theo ông, thơ mới, ngược lại, chỉ có mới về lời mà ý thì cũ rích và lạc hậu :
" Tưởng đã duy tân cho thơ thì cần ở chỗ tinh thần hơn là hình thức thì mới nên. Chứ chỉ bỏ có niêm luật thể vận cho dễ viết mà thôi, thì e rằng rừng thơ thêm gai góc, hồn thơ tổ vẫn đục.
" Duy có một điều mà tôi muốn bàn đây là chỉ nên cải cách nguyên cái tinh thần cũ. Vì ít lâu nay thơ ca nhường như phần nhiều đều phải chung cái bệnh không hồn. Phàm gọi là thơ, văn phải có tình, có tứ, có khí, có hồn, ấy thế mà chỉ thấy giọng sầu oán bi ai cả là nghĩa lý gì.
" Sao lại có thứ văn chương phù phiếm ấy, nhu nhược thế. Hay là vận thế đến lúc suy, mà văn chương cũng suy theo chăng .
" Văn tức là hồn nước, rất có ảnh hưởng đến nền tiến hoá ".
Cuối cùng Động Đình chê thơ mới yếu đuối, phản động vì buồn bã, ủy mị, hại dân hại nước, không bổ ích cho ai :
" Ta nên rèn dũa sao cho văn chương được hùng hồn, có vẻ hoạt động, thực tế, thì ở thế kỷ 20 này mới thích dụng. Lại còn phải thông thường thì mới bổ ích. Bởi thứ văn sầu cảm đã không bổ ích gì cho đường thực tế, mà lại làm thêm ủy mị đi, mất cả cái nhuệ khí phấn đấu, cái mãnh lực tiến thư, dẫu có hay mấy cũng là vô dụng ".
Nếu ở ngoài Bắc có Văn Học tạp chí đố kỵ thơ mới thì trong Nam có Văn Học tuần san chửi bới thơ mới. Hai nhà văn của Văn Học tuần san bênh thơ cũ chửi thơ mới quyết liệt hơn cả là Tùng Lâm Lê Cương Phụng và Thiết Diện.
Để bênh vực thơ cũ là thứ thơ có âm điệu, có tiết tấu, nghĩa là có chất thơ, tức là đáng gọi là thơ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng viết bài " Nói chuyện văn vần : lịch sử và giá trị của nó " (V.H.T.S. số 5, 1-5-1935).Trước hết Tùng Lâm phân biệt văn vần với văn xuôi :
" Tình cảm ở trong, phát lộ ra tiếng nói, tiếng nói có tăng thứ, có ý vị, có âm hưởng, làm cho người ta dễ cảm xúc được, ấy là nguồn gốc của văn vần.
" Tiếng chim hót mùa xuân, tiếng ve ngâm mùa hạ, tiếng dế khóc mùa đông, tiếng cao, tiếng thấp, tiếng nhặt, tiếng khoan, ấy là manh mối của văn vần.
" Văn vần có cái đặc điểm khác văn xuôi là câu đặt gọn gàng mà bóng bảy, lời đưa uyển chuyển mà tiêu dao. Nay xin kể qua lịch sử và giá trị của nó ".
Thế rồi ông ngược dòng lịch sử mà phác vẽ nguồn gốc của thi ca từ Tây phương qua Đông phương, từ đời thượng cổ cho đến nay, đâu đâu người ta cũng thấy văn vần là thứ văn của thần linh :
" Lịch sử văn vần ở Thái tây phát sinh từ đời nào tôi chưa được chắc ; chỉ theo thần thoại Hy Lạp, tôi được biết rằng Apollon là một đứng thi thần (Dieu de la poésie) ; còn theo lịch sử văn chương YÙ Đại Lợi thì tôi thấy người ta tôn sùng Daute làm thi tổ, vì cuốn La divine comédie của Daute.
" Ở Pháp hình như bài vận văn đầu tiên thì thuộc vào thế kỷ thứ IX (chỗ này chúng tôi đương còn tra cứu). Ở Tàu thì trước kỷ nguyên Thiên Chúa hai nghìn năm vào đời Nghiêu, Thuấn đã nứt mầm rồi, đại để như bài ca Cao Dao, bài đờn Ngu Thuấn, bài hát Khang Cù...đều là câu có vận cả.
" Trải qua một khoảng thời gian khá dài hơn hai ngàn năm nữa, từ đời Thành Chu tới đời Lục Triều, lúc bấy giờ văn vần mỗi ngày một tiến lên, và biến thể rất nhiều, từ lối Quốc Phong, Nhã, Tụng mà tiến dần tới thi Ngũ ngôn, Thất ngôn. Dẫu rằng các nhà học giả sinh vào thời kỳ ấy có trứ tác lối văn lý thuyết như Tiêu dao thiên của Trang Chu, Đạo đức Kinh của Lão Tử, và các sách của Tuân, Dương, Quản, Án...nhưng đó chỉ là một thể văn, không thể đánh đổ nổi lối văn gọi là văn tánh tình như vận văn được ".
Tùng Lâm ví thơ với hội hoạ : cái khó của đôi bên làm nên chính cái giá trị của cả đôi bên. Hội hoạ tài tình vì những nét tỉ mỉ, thơ kỳ diệu vì những luật lệ tinh vi. Bỏ tất cả các thứ đó đi, hoạ không còn là hoạ và thi cũng hết là thi :
" Nhà làm văn vần, cũng như nhà hội hoạ, nét bút nhà hội hoạ càng tỉ mỉ, tinh tế, bóng bảy đúng mẫu mực, thì mới thấy cái khéo của nét bút thần tình. Trái lại nếu không có cái sở thích (gỏt) và không thường để ý thưởng thức nó thì không bao giờ nên một nhà danh hoạ được. Nhà làm văn không có cái đặc tánh sở thích thì bao giờ làm nổi văn vần ? "
Sau đó ông bác bẻ những lý lẽ người ta viện ra để chê trách các luật lệ gò bó, câu thúc của văn vần, tức của thơ cũ. Theo ông, thơ là cái gì tinh hoa nhất trong nghề văn :
" Tôi đã có thường thấy nhiều người phản đối văn vần. Họ cho rằng : lối văn ấy câu thúc trong quyền sáo, tẳn mẳn đẽo gọt, mất hết tự nhiên, và nhiều khi vì vận mà ép câu vì lời mà hại ý, mà nhất là phí mất cả thì giờ.
" Phải, chính lúc ban sơ tôi đây cũng nghĩ như thế . Nhưng rồi sau tôi nghĩ lại : Văn vần đứng trong các thứ văn cũng như một mỹ thuật đứng trong các nghệ thuật.
" Văn vần như cánh hoa cắm để chơi, bức tranh treo để ngắm, cây đờn đờn để nghe. Nếu cắm cành hoa không sắc không hương, treo bức tranh vẽ vụng về thô tháp, nghe tiếng đờn không nhịp không nhàng, thì cái giá trị đặc biệt nó ở chỗ nào ? Thà đừng có còn hơn.
" Một lẽ nữa : văn vần là một lối văn để thưởng thức mà chơi. Muốn chơi đến nó, tự nhiên phải theo niêm luật, vận âm của nó, nghĩa là phải nằm trong khuôn sáo của nó ; cho được câu văn chải chuốt bóng bảy, tự nhiên phải phí mất thì giờ. Cái đó để riêng phần cho các nhà tao ông, mặc khách là những nhà tài tử phong lưu, lúc nhàn du ngâm vịnh, chớ mình, thày lay chơi đến nó làm gì mà bảo rằng tốn công tỉ mỉ, phí uổng thì giờ ? ".
Cuối cùng Tùng Lâm kể ra tất cả thể thơ của ta, từ lối bắt chước Tàu (hễ Tàu có gì thì ta có nấy) đến các lối riêng của ta như lục bát, song thất lục bát, ca trù, ca Nam, xoang xẫm, trống quân...rồi ông kết luận rằng thi ca Việt Nam phải là theo truyền thống ấy.
Theo ông, thơ mới chẳng qua chỉ là sự lập dị của một người (chắc ám chỉ Phan Khôi) không thể lấy đó làm khuôn phép :
" Thì tôi dám nói quả quyết rằng, lối văn vần chẳng hạn ở Tàu, ở Tây, hay ở Ta, cứ mỗi ngày mỗi tiến mãi lên vì no cóù cái giá trị đặc biệt, cho nên nhà làm văn vẫn chú ý đến nó và muốn bồi bổ cái gốc nó mà khuyếch trương mãi, trừ ra một ít người không muốn dụng công đặt để tìm theo cách dễ dàng, mau lẹ, khuynh hướng về lối thơ mới. (Chúng tôi sẽ có bài nói riêng về thơ mới). Còn riêng ra những hạng người thích ngâm vịnh, chuộng tài hoa thì thật không bao giờ bỏ qua các lối văn vần để có qui tắc như từ lâu nay chúng ta thường thấy đó " (Văn Học tuần san số 5, 1-5-1935).
Tùng Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới Sang đến Văn Học tuần san số 6, 1-6-1935, Tùng Lâm tấn công thơ mới ra mặt.Vì chưa có trích tuyển ở đâu nên tôi trích vào đây toàn bài để cácbạn tiện bề so sánh. Trong bài này Tùng Lâm đề cập đến các điểm sau đây : 1) Chỉ có hạng dốt mới muốn thơ mà lại thơ dễ dãi không niêm luật. 2) Thơ mới là thứ thơ bừa bãi,vô kỹ luật. 3) Minh chứng những chỗ dở của các bài thơ mới. 4) Trách Đông Hồ đã đi lầm đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào thơ mới với những bài thơ vô vị :
" Thi vẫn một món trong các thứ văn vần, nhưng đối với các thứ ấy nó lại rắc rối mắc mỏ hơn nhiều. Người đã từng chơi với nó và nếu được ý vị nó ít nhiều, thì lại càng thấy cái khó của nó ; trừ ra những hạng " bướng " hoặc chưa có nhà " đại gia " " căng nọc " ra chỉ vạch những chỗ khuyết điểm cho, thì bao giờ họ cũng vẫn cho là dễ.
" Mà thật thế, có khó chi, cứ đủ vần đủ chữ, đừng thất niêm thất luật, ấy là thi đó chứ gì. Đó là nói về lối thi ngũ ngôn, thất ngôn, chớ còn cái lối thi như hiện thời gọi là " thơ mới " đó, lại càng dễ hơn thập bội nữa. Cứ việc kéo, tha hồ kéo, kéo lượt bượt, mấy vần cũng được, mấy chữ cũng xong, không có khuôn sáo nào, luật nào bó buộc, dễ biết bao nhiêu, không trách gì hạp với thời thượng cũng phải.
" Họ bảo rằng : Cái thời đại này là thời đại máy móc, trăm ban vạn sự gì cũng cần sự mau chóng tiện lợi, đâu có phải như cái đời cũ kỹ trước kia, bất kỳ việc gì cũng chần chờ, chậm chạp, làm phí mất thì giờ, nhà văn cũng thế, ngồi rung đùi tối ngày, tằn mằn tỉ mỉ, đẽo gọt từng câu từng chữ, đối với thời buổi này không dùng lối ấy được đâu ". Nghe có lý lắm ! Nhưng có người cắc cớ hỏi vặn lại một câu :" Thi là một món chơi, để tiêu khiển thì giờ, nó đối với nhân sanh thực tế không quan thiết gì, có cũng được, không không sao, ai bảo đeo đuổi nó làm chi, rồi chê bai nó, ghét ghen nó, mắng nó là lối văn chặt chịa, ở trong quyền sáo niêm luật, không được tự do ? Nếu muốn dễ dãi thì hẳn cứ viết văn xuôi đi, cho người ta dễ hiểu, việc gì phải ngụy tạo ra cái lối văn " cổ chẳng ra cổ, kim chẳng ra kim " ? Thì đây, tôi xin đem ra một bài này để làm đại biểu cho trăm nghìn bài khác :
CẢNH TRỜI XUÂN " Cảnh trời xuân, " Em dạo ra sân, " Đứng trông, em càng khoan khoái tinh thần. " Kìa kìa, con chim nó hót cái giọng " Thảnh thót như một vị mỹ nhơn, khảy khúc đờn. " Khúc đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng " Thấp, dường như khêu gợi mối xuân tình của em " Từ bấy lâu nay dồn dập " Rồi em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn. " Nghĩ cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây " Một mai xuân này đã qua, thân em già " Lúc bấy giờ, em tưởng tượng lại, " Em chi xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi. " Mây bay, nước chảy, hoa trôi ". (Xin dấu tên của tác giả)
" Đó, thơ mới đó ! Tác giả chính là tín đồ của thơ mới, thật tôi ráng đọc ; tôi muốn nói thơ, thì thơ chẳng ra thơ, tôi muốn nói ca, thì ca cũng chẳng ra ca. Tôi chỉ hiểu cái bài ấy là bài ấy đó thôi ! " Song, cái bài này đây, nghe ra còn có câu, có nghĩa, chỉ hiềm nó không ở trong một khuôn sáo là " thể " gì cả.
" Tác giả bài này trước kia là tín đồ của thơ luật, có nhiều bài thần tình lắm, chẳng biết bị cái phong trào thơ mới nó lôi cuốn thế nào, nay lại xoay sang làm tín đồ thơ mới ?
" Lại gần đây, có nhiều nhà phỏng theo điệu thơ Tây làm ra nhiều bài, cũng tự cho là thơ mới.
Như bài này :
BÊN GỐC CÂY DỪA " Ánh nắng trời thu dịu dàng êm mát, " Bên gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu. " Trên thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát, " Cô đăm đăm nhìn dưới nhịp cầu. " Phong cảnh đẹp bóng cây in bóng nước, " Lá rung rinh, tàn xanh lả lướt. " Mặt cô em tròn trắng xinh tươi, " Dưới vành khăn, phơ phất mái tóc mai. " Mắt lóng lánh, làn môi tươi thắm ; " Khiến cho tôi nhìn cô em say đắm. " Nhẹ nhàng tôi bước lại một bên. " Ngồi gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem, " Giờ lâu tôi mới tìm lời ướm thử " Rằng " câu cá vẫn là một cái thú : " Những người thanh tao ẩn dật xưa nay, " Chỉ biết thanh nhàn với cỏ cây, " Sớm vác cần câu bên khóm trúc... " Buông cần cô em ngảnh nhìn tôi : " Cặp mắt ngây thơ, cô trả lời : " Em nào phải thanh nhàn phong phú, " Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú. " Nhà nghèo sớm tối em nhọc nhằn, " Lúc dưới nắng hạ, lúc mưa xuân, " Lúc gió đông thổi lạnh lùng rét mướt, " Và sương thu rơi thấm ướt, " Em vẫn phải làm với ngày tháng cho qua, " Bên gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già, " Trong túp lều tranh, sớm mong chiều đợi. " Hai mắt đã loà, hai chân đã mỏi, " Chỉ trông vào em, kiếp sống chiều tàn... " Cần lòng yêu, để che nỗi khóc than... " Em nào phải thanh nhàn phong phú, " Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú, " Sớm câu, chiều câu, lại mai câu. " Mong có cá nhiều và mong mẹ sống lâu, " Bữa qua bữa với tấm lòng vui vẻ, " Của một mẹ già trông mong ở con trẻ.
" Thể thơ đó, bắt vần như thể thơ Tây, nhưng tác giả phun châu nhả ngọc, muốn bao nhiêu tuỳ ý. Có bài gấp đôi, lại cũng có bài ngắn bằng nửa. " Mà rồi ta thử lẳng lặng ngâm coi, coi cái giọng ngâm nó ra sao ? Ngâm như ngâm thi thì ngâm thế nào được, hay là phải ca như ca Văn Thiên Tường ? Hoặc phải bắt giọng như giọng ca Tiều của cô Phùng Há ?
" Xét cho kỹ, chẳng qua tác giả chán nản cái công phu đặt thi luật, nó chỉ có bốn câu tám câu năm vần, ba vần mà phải cho đủ ý, đủ lời, không thất niêm, không phản luật, không lạc vần, thấy khó chơi, rồi thì băng qua một con đường khác đặng cho dễ dãi, nhưng không ngờ lại đâm ra cái bãi đại sa mạc minh mông !
" Muốn cho dễ dãi một ít, khỏi mất công phu đẽo gọt, thì tôi xin hiến cho một kế là hẵng làm theo lối thơ Đường, mà thể Đường cổ phong. Thì như bài này :
THƠ VUA SIAM MỚI GỬI CHO VUA CŨ " Năm xưa chú bảo chú đau mắt ; " Bà con ai cũng cho là thật ; " Cả nước chờ chú về làm vua ; " Ai ngờ tin chú ngày một mất
* " Bây giờ thơ chú gửi về nhà, " Rằng chú ở lại nước người ta, " Ngôi vua chú không muốn ngó đến, " Thịnh suy mặc kệ nghiệp ông cha. * " Không lẽ nước có, vua không có, " Đình thần mới chọn cháu lên đó, " Cháu đã nghĩ tới rồi nghĩ lui, " Cháu biết làm vua là chuyện khó * " Vì rằng trong nước đảng phái nhiều, " Quân chủ, dân chủ biết bao nhiêu, " Rầy nhất là chính sách lập hiến, " Quyền vua chỉ còn có một thiu. * Cũng vì mẹ cháu bàn giải mãi, " Cháu không làm vua cháu cũng dại, " Dầu chỉ có vị không có quyền, " Nhưng mình ăn tiêu còn rộng rãi. * " Huống chi kinh tế buổi khó khăn, " Tay làm không đủ cho miệng ăn, " Ai chê ai cười chi cũng mặc, " Làm vua còn sướng hơn làm dân. ĐƯỜNG QUANG (Trích ở báo Ánh Sáng)
" Đó cũng là lối thơ dễ dãi, mà nghe hay, lại có lý thú nữa. Nếu muốn văn hoa thêm thì phỏng như bài này :
HOA THẬT HOA GIẢ (Lời cô hàng hoa) " Cô em hàng xóm sinh nhà nghèo, " Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều, " Gió đông vừa thổi hoa vừa nở, " Cắt bó vội vàng đem bán chợ, " Chợ chiều lác đác người hồ quang, " Gánh hoa còn nặng cô bàng hoàng. " Nào đâu quà em, nào cháo mẹ, " Mẹ yếu em thơ lòng những thương ! " Đổ hoa xuống rãnh bưng mặt khóc, " Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc. " Cúi đầu gạt lệ sợ người cười, " Nhìn hoa dưới rãnh mắt khôn rời. " Thương hoa thương cả công vun xới, " Sương nắng công trình biết mấy mươi ! " Ô hay ! người đời riêng tính lạ ! " Hoa thật chẳng thích, thích hoa giả, " Hoa thật hỏi mua nào mấy người ? " Hoa giả đắt hàng như tôm tươi, " Cô em ngẫm nghĩ bụng sực nhớ, " Vì nghèo nên phải liệu chiều đời, " Mua lụa mua phẩm, mua giây sắt, " Nhuộm đủ các màu đem kéo cắt, " Nào cành, nào cánh, nào đài trang, " Khéo làm chẳng khác chi hoa thật. " Làm xong hoa giả bán nhiều tiền, " Lãi lời tấn tới ngày một lên. " Mẹ khỏe, em học, chị buôn bán, " Tay không bỗng chốc dư bạc nghìn ! " Có khi thong thả thăm vườn cũ, " Mắt trông trăm hoa chiều ủ rũ, " Tàn tàn, nở nở biết bao lần, " Mưa mưa, gió gió ai là chủ ? " Tần ngần ngắm nghía cô thương tâm ! " Chứa chan dòng lệ khôn ngăn cầm ! " Thương hoa, thương cả nghề buôn bán, " Lai láng tình riêng năm lại năm.
NHƯỢNG TỐNG " Gần đây lại nổi cái phong trào thi bình dân. Thấy có nhiều tờ báo đăng những bài thi, trong đó tác giả dùng nhiều tiếng rất tục tĩu khó nghe quá. Như là : ỉa phẹt phẹt, ăn ngủ đ..., bày mổng trôn...Bảo rằng đó là thơ bình dân. Lại còn ngụy biện bảo là lối tả chân. Gớm thật ! " Đâu có hiểu rằng, thơ bình dân nghĩa là thơ có tính chất bình dân, không cái " mốt " thưởng nguyệt xem hoa, đề non vịnh nước, tiêu sầu khiển hứng như những trang tài tử phong lưu, không mơ mộng lên cung quế, gặp Hằng Nga, uống rượu đào, nghe khúc sinh ca, như phái thi ông lãng mạn. Chỉ cốt lời văn mộc mạc, tả ra cái phong vị của hạng bình dân mà thôi.
" Muốn tập làm thi bình dân thì hẵng bắt chước như bài dưới này :
ĐI LÀM THUÊ " Miền tôi ở lở dở, " Đã cách với nguồn lại xa chợ. " Muốn buôn, không có đồng vốn nào, " Muốn cày ruộng, không có một sở ; " Học mới học cũ cũng dỡ dang, " Không phải thầy, cũng không phải thợ. " Trong tay không có nghề, " Thêm nạn khủng hoảng gớm ghê ! " Ma đói dục thúc mãi " Buộc mình bước chưn đi làm thuê " Nghe nói miệt trong đường xe lửa, " Các ông đứng thầu làm nhiều sở. " Lật đật mang gói đi ngay vào, " Cùng bạn cô li làm dọi bữa. " Đào đất đập đá, " Công việc vất vả. " Mong rằng mồ hôi đổi bát cơm. " Đồng công đồng nợ có tiền trả, " Nào hay vài tháng nay, " Làm rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay. " Chỉ lưa cái mình mộc, " Đi về lỡ cười lại lỡ khóc ! Người Làm Thuê (Trích ở báo Tiếng Dân) " Đó, xem có chữ nào quê kịch, sống sượng, tục tỉu không ? " Luôn dịp nói chuyện thơ, tôi xin nói đến thơ Đông Hồ :
" Đông Hồ tiên sinh, một nhà thi sĩ đã viết ra nhiều tập, in ra nhiều cuốn, hình như tác giả có cái sở thích về thơ.
" Tôi để ý xem thì đoán được ngay nhà thi sĩ này có mấy cái đặc tính :
" Mấy năm trước, nhà thi sĩ vẫn là tín đồ của phái thi niêm luật, khoảng trung gian lại ít chuyên về lối ấy, thường dùng " Thơ tản văn ".
" Tôi không hiểu lối này là lối gì. Xin trích ra một hai bài dưới đây :
BÓNG TRĂNG TÀN " Bàng hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn, ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng trăng này : Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình cũ nào đâu : tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai buông toả bên vai. " Vói bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón...gối nghiêng trằn trọc suốt canh dài ! "
CÀNH HOA HỒNG " Bình pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi tả khắp bàn... " Một năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười nữa không ? "
" Còn nhiều nữa, vô khối ! Tôi chỉ trích ra hai bài đó cũng như các bài khác.
" Tản văn là tản văn, mà thơ là thơ, đâu có thơ với tản văn chung với nhau làm một được ? Nếu bảo thơ thì tất nhiên phải có vần nghe mới được chớ, dầu cổ, dầu kim, dầu Đông, dầu Tây, chưa tầng thấy lối thơ nào mà thơ không vần, xin hỏi Đông Hồ tiên sanh ?
" Gần đây, nhà thi sĩ lại cũng chịu ảnh hưởng " thơ mới " ít thấy làm tứ tuyệt, bát cú như trước nữa, hoặc giả bị cái trào lưu thời thượng nó lôi cuốn rồi chăng ? Nhưng xem thơ mới của tác giả thì có phần kém hơn thơ luật nhiều. Tôi chưa nói chỗ hay chỗ dở, ý thì ít mà lời thì nhiều, đại khái như bài thơ này :
TRƯỚC GIÓ (Tặng Thanh Lan) " Chập tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng. " Người có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng. " Là cái đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì, " Cái đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê. " Nàng đứng chỗ ào ào cơn gió rét, " Hơi gió lạnh như thấm vào trong xương thịt, " Chiếc áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc, như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc. " Ta, bấy giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẻ hỏi : Em ơi ! Lạnh nhỉ ? Mỉm cười, đáp lại lời ta : Anh ơi ! Tuổi trẻ ! tuổi trẻ là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi lạnh lùng của sương gió, của thời gian. " Mặc gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa,với non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta ? ĐÔNG HỒ " Tôi xin mạn phép tác giả, cũng trong bài ấy, bấy nhiêu chữ, tôi xin rút lại tám câu như thế này : Gặp người trong mộng tối hôm qua, Trạt tuổi xuân xanh nét mặn mà. Chiếc áo phong phanh màu tuyết nhuộm, Giải khăn phơn phớt áng mây qua. Lạnh lùng chẳng quản cơn sương gió, Đầm ấm như say thú cỏ hoa. Âu yếm, ta vừa lên tiếng hỏi, Mỉm cười, liền tỏ tấm tình ra. " Như vậy cũng đủ ý, đủ nghĩa, mà chẳng gọn hơn sao ? " Tôi đã đọc qua các tập thơ Đông Hồ, tôi có để ý đoán xét được tác phẩm của nhà thi sĩ này hầu hết chín phần mười là thư tình, mà là tình mơ mộng cả, thành ra hão và phù phiếm quá, ít có bài nào vịnh vật hoặc kỷ sự như mấy nhà thi nhơn khác. Thử lật một tập " Thơ Đông Hồ " ra xem, thì nhan nhản những bài : Chơi hoa, Khóc hoa, Nhớ Mai, Trông trăng nhớ người, Dưới hoa, Buồn nhớ người xưa, Buồn vơ buồn vẩn, Gặp nhau, Trách nhau...chan chứa cả giọng bi sầu ảo não.
" Rồi xem đến cuốn " Cô gái xuân " cũng thấy rặt những bài :
" Ngấn lệ, Quả tim, Cái hôn lần đầu, Giấc mộng tình, Đưa nhau, Hôn em, Dưới cây, Hỏi nhỏ, Gió buồng xuân...cũng là lai láng cả tình là tình !
" Thì ra cái tâm hồn nhà thi sĩ này thường vơ vẩn ở cõi " Cánh hoa thuỷ nguyệt " cùng là tiêu dao nơi hận hải tình thiên " trừ ra không mấy khi thấy lối văn nào khác nữa. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng bị mấy cái tật ấy mà Phạm Quỳnh tiên sanh tặng cho cái tiếng " văn chơi " " Ngông " chỉ nghĩa là không thiết thực.
" Vậy xin thi sĩ Đông Hồ cũng nên bớt bớt cái lối văn tình đi, xin luôn đừng chơi thơ mới nữa, hãy khôi phục lại lối thơ như các bài mấy năm trước đã từng làm, mong sau này sẽ trở nên một thi gia thằng mặc "
Sau khi chửi bới thơ mới và khuyên Đông Hồ nên bỏ thơ mới trở về với thơ cũ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng còn lên tiếng cực tán thơ Đường mà ông cho là hơn hết mọi thứ thơ vì năm lý do sau đây (xem bài Những cái đặc sắc của Đường thi, V.H.T.S. số 9 tháng 9 năm 1935).
1) Là nấc tiến cuối cùng, tột đỉnh của thi ca Tàu.
2) Là vì nó là thể thơ được xã hội cực văn minh Trung Hoa trau dồi tô điểm trong mấy trăm năm.
3) Là vì nó là một kho tàng văn chương vô cùng phong phú, đủ màu, đủ sắc.
4) Là vì nó là thể thơ thuần nghệ thuật chứ không phải là thể thơ đạo đức.
5) Là vì lắm khi nó còn bao hàm ý nghĩa bình dân, phô thông.
" Đều là thi, trước đời Đường thì Hán, Tấn, Nguỵ cũng có thi, sau đời Đường thì Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng có thi. Thế sao lại Đường thi vẫn có giá trị hơn ? Các nhà thi sĩ phê bình nhau cũng lấy thi Đường làm căn cứ, các nhà nho học, cũng lấy thi Đuờng làm thi pháp nhập môn. Cho đến mấy câu sáo ngữ ở Tàu thường nói " Đường thi, Tống Tự, Hán văn chương " " Đường nhân phong vị " v.v... Thì biết thi Đường có giá trị hơn các thi khác. Nhưng, ta nên biết cái đặc sắc của nó ở chỗ nào ?
" Có người nói : Lục triều vẫn có thi, nhưng thi ấy phần nhiều phức tạp, Tống, Nguyên, Minh vẫn có thi, nhưng thi ấy không được phong tao, không bằng Đường thi gồm đủ các thể tài. Nói thế, vẫn có lẽ, song chỉ lấy một phương diện chớ sự thật thì còn nhiều chứng tá. Muốn biết cái đặc sắc của Đường thi, nên xem lời phê phán của ông Hồ Vân Đực thì mới biết rõ là xác đáng hơn.
" Ông Hồ là một thi sĩ có tiếng ở đời nhà Thanh, người có công nghiên cứu về thi học, có viết ra cuốn nghiên về Đường thi, trong có nhiều đoạn bài bác các nhà thi sĩ xưa nay nhiều chỗ ngộ giải ; nay tôi chỉ xin lược trích ra một chương nói về chỗ đặc sắc của Đường thi, hiến cho các thi nhân được biết một ít Đường nhân phong vị.
" Đường thi sở dĩ hơn các thi khác, có bốn cái đặc sắc :
" Một là do thể thi của Tấn, Nguỵ mà biến thành mới, có niêm luật, có cổ, cận thể, có trường đoản thiên. Tức như các bài đã tuyển trong bộ Đường thi tam bách thư.
" Hai là đời Thạch Đường từ vua Cao Tôn về sau, hơn ba trăm năm triều đình chỉ chăm một mặt dùng thi phú từ chương làm nấc thang cho sĩ phu trong nước. Đại để như ông Lý Thái Bạch làm ra bài " Thanh bình Điệu " thì được vua Huyền tôn yêu quí lạ thường, ông Bạch Cư Dị làm bài Trường Hận Ca thì vua Hiến Tôn vời làm chức Hàn lâm học sĩ, vua Mục Tôn thấy tập thi ca của Nguyên Thận thì vời làm chức xá nhân, cho đến các cung phi, hoàng hậu như Võ Hậu, Vi Hậu, Mai Phi, Dương Phi đều là các bà thích ngâm vịnh cả. Người bề trên đã ham chuộng, tự nhiên kẻ bề dưới phải lấy đó làm con đường tiến thân, thành ra một phong khí tập quán.
" Ba là ảnh hưởng của thời cuộc ; vì đời Đường từ khai nguyên Thiên hửu sắp về sau, trong nước thường gặp nhiều cảnh éo le, những cảnh ấy dễ làm đề tài cho thi nhơn đề vịnh, đại khái như việc An Lộc Sơn đời Minh Hoàng, việc Sử Tư Minh đời Túc Tôn, việc Trần Hoàng Chí đời Hiến Tôn, việc Chu Toan Trung đời Chiêu Tôn, thảy thảy những đại biến trong nước, nhà làm thi hay dùng sử liệu vào thi ca, mở xem một bộ Đường thi bao nhiêu bài đáng ca tụng, đều là những bài thời thế, như Điếu chiến trường, Yên ca, Tùng quân, Khuê oán, Cung Trung từ ...Có nhiều cảnh nên thơ, thơ mới nảy ra nhiều tình tứ, mới thấy chỗ đặc sắc.
" Còn một lẽ nữa, đời nhà Đường lấy thi làm tác phẩm văn chương, chứ không như Hán, Nguỵ và Tống chỉ lấy thi làm tác phẩm đạo đức, vì người đời ấy cho rằng đã là thi mà ngụ cái giọng đạo đức thì lời văn không được thôi xao, thành ra không lưu truyền được rộng, xem như thi của Châu Mậu Thúc, Thiệu Nghiên Phu ở Tánh Lý thì đủ biết.
" Vả lại, Đường thi thì có cái đặc sắc là phần nhiều chứa chất nhiều qua niệm văn học bình dân. Đại khái như thi của Nguyên Thận, Vương Xương Linh, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy... Phần nhiều thi của các ông ấy lời văn giản dị mà thâm, ý tứ dồi dào càng dễ cảm, thành ra một lối thi phổ thông trong đám bình dân. Lục trong thi Đường có nhiều bài miêu tả cảnh thống khổ của xã hội, như là trọng phú (thuế nặng), Phụ nhơn khổ (cái khổ của người đàn bà), Mãi thán ông (ông bán than) Chiết tí ông (ông gãy tay)...Nay tôi xin trích mấy câu trong bài Ông bán than dịch ra đây, để cho các bạn đọc biết rằng lối thi bình dân đã xuất hiện từ đời Đường :
" Mãi thán ông, phạt tân thiêu thán nam san trung, mãn diện trần khôi yên hoả sắc, lưỡng mấn thương thương thạp chỉ hắc, mãi thán đắc tiên hà sở dinh, thân thượng y phục khẩu trung thực, khả liên thân thượng y chánh đan, tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn "...
" Ông bán than, đốn củi đốt than núi Nam san, mặt mày khói khém lem lọ bôi, mái tóc xanh kịt, tay đen thùi, bán than kiếm tiền lo mưu sanh, lo ăn trong miệng, mặc trong mình, thương hại mình ông áo mỏng lét, ông lo than ế, cầu trời rét... ". Lối thi đó đủ chứng là một lối thi bình dân ".
Thế rồi, để kết luận bài " Những cái đặc sắc của Đường thi ", Tùng Lâm kết luận bằng việc hô hào các ông làm thơ mới hãy thôi lập dị :
" Hỡi các nhà thơ mới của ta ! Đừng tưởng rằng Đường thi là thi cổ hãy chịu khó tìm kiếm trong thi Đường mà xem thử coi, không có lối nào mà thi Đường không có, cái đặc sắc của nó là gồm đủ các phương diện, các thể tài, cảnh có, tình có, tả chân có, quí phái có, cần gì phải bịa ra thơ mới làm chi, làm cho nhiều bạn trẻ em học cách háo kỳ, tập làm theo, đã bất thành cú, mà rồi một ngày kia không còn ai biết Đường thi là gì, chẳng là uổng cho văn nghệ ba trăm năm của một đời toàn thạnh lắm sao ? "
Thiết Diện tỏ ác cảm đối với thơ mới Cùng một quan điểm như Tùng Lâm, Thiết Diện bày tỏ thái độ ác cảm của ông đối với thơ mới ở bài :" Quan niệm của tôi đối với thơ mới " (V.H.T.S. số 8, tháng 8 năm 1935). Trong bài này Thiết Diện cực lực chê trách thơ mới, coi nó chỉ là thứ đồ rác rưởi, trò múa máy quay cuồng của bọn người ngu dốt, nào có khác gì bọn du đãng mặc áo rằn ri, bọn lẳng lơ đi giầy cao gót. Theo ông đã gọi là thơ mới thì phải mới như thơ của Hồ Thích bên Tàu, chứ đàng này thơ mới Việt Nam, chỉ mới có mỗi một cái là bỏ niêm luật, còn tất cả đều cũ, đều xưa. Cái cũ và xưa ấy là cách dùng chữ, cách chọn đề tài, nhất là cái tinh thần từ chương, bạc nhược, thua trận, thiếu hẳn tinh thần bình dân, xa cái đại chúng vô sản lam lũ. " Trong vũ trụ này, không có gì là không thay đổi ! Trái đất này vẫn xoay, thì tư tưởng người ta vẫn tiến ! Chúng tôi có lý nào không biết đến lẽ tuần tự tiến hoá mà lại đi nhận rằng thi phải ở trong khuôn mẫu chật hẹp của luật Đường và chỉ có thi nào ở trong khuôn mẫu ấy mới gọi là thi.
" Nhưng muốn làm một nhà thi chân chánh trong phái mới, thì ít ra cũng phải biết thi là gì đã, và cũng phải biết qua những luật Đường, làm được một bài thi cổ, dầu không hay cũng phải đúng với thi pháp. Như thế, nghĩa là tôi muốn nói nhà thi sĩ, phải có một cái khiếu về thi, phải có một cái học chắc chắn, chớ chẳng phải cóp nhặt năm bảy câu vô ý thức làm thành một bài vô nghĩa lý mà đã lên mặt thi hào đâu !
" Một ông bạn già của tôi thường hay nói :" Thời hư quỉ lộng, bọn ranh con thường hay cho mình hủ lậu, nhưng cái mới của chúng chỉ mới ở hình thức, mà mới một cách lố lăng theo cái kiểu áo rằn ri không khỏi đầu gối, và đôi giầy cao gót cao gần một tấc tây :
" Tôi hiểu ông bạn ấy lắm. Theo ông bạn, thì dầu mới dầu cũ, cũng đều có khuôn phép cả, nếu không thì 20 triệu người ý muốn của mỗi người !
" Chắc ai cũng biết bác sĩ Hồ Thích là người đề xướng ra thơ mới ở Tàu, trong cuốn " Thường thi tập " tiên sanh có đặt tám luật cho thơ mới, gọi là luật " Bát Bất " :
1)- Không dùng điển tích, 2)- Không dùng chữ sáo, 3)- Không buộc đối vế 4)- Có thể dùng chữ tục, 5)- Phải biết văn pháp, 6)- Bỏ lối không đau mà rên, 7)- Không buộc theo người xưa, 8)- Phải nói có sự thật.
" Thơ mới của ta đã có luật gì chưa, hay là mạnh ai nấy đặt luật ?
" Ông bạn già yêu quí của tôi lại một phen chíp miệng thở dài :
" Than ôi ! Mấy ông làm " thơ mới " ở nước ta miệng còn hôi sửa thì đâu phải là Hồ Thích ở nước Tàu ! "
" Thơ phải kể cái hồn của nó đã rồi sẽ kể đến cái hình thức. Cái hồn chưa thoát khỏi sáo cũ, cũng còn nghe " Tiếng sáo Thiên Thai ", " Tiếng trúc tuyệt vời ", " Tiếng nhạn kêu sương " v.v...thì đổi cái hình thức phỏng có ích gì ? Đó cũng chẳng khác chi bắt một bà già mặc áo rằn ri, đi giầy cao gót. Độc giả thử tưởng tượng trong trí, coi có được không ?
" Tiếng nhạn ở đâu, kêu sương hồi nào ? và sao gọi là Tiếng sáo Thiên Thai ?
" Thế là ở trong những bài thi cũ, người ta còn dung thứ ; chớ đã tự xưng là " thơ mới " mà còn sáo hư như vậy, thì đâu phải là những " chiến sĩ chắc chắn " để đỡ gạt những mũi tên của những người đại biểu cho thơ cổ có cái tên như " Nguyễn Khắc Hiếu ", " Trần Tuấn Khải "... ?
" Tôi vẫn biết rằng văn chương thi phú chỉ là cái phản ảnh vật chất, trên chỗ vật chất đã có điều cải cách thì trên chỗ văn chương làm sao cũng không khỏi có điều biến dịch. Nhưng một nhà thi chân chánh, ngoài việc biểu lộ tư ý ra, còn phải làm một người hướng đạo cho quần chúng nữa.
" Nhà thi phải nhắm đến quyền lợi của quần chúng trước nhứt, chứ chẳng phải chỉ biết có mình mà không biết có ai. Vậy thì thi ca không phải chỉ dùng để biểu diễn cái tâm hồn của cá nhân mà đủ ; cái quan niệm của phái thi sĩ lối mới như thế nào ?
" Nếu có dịp " giải phẫu " những tác phẩm của họ ra, thì cũng chỉ thấy đầy cả sự yêu đương mơ mộng, vì họ chỉ biết phát biểu tâm hồn đau khổ của một giai cấp " thua trận ", không nữa thì họ cũng chỉ biết sùng bái một vài cử chỉ anh hùng, sự sùng bái ấy chỉ là cái óc nô lệ của thời đại phong kiến còn sót lại mà thôi.
" Thiệt nhắm ra chẳng bổ ích gì cho hạng bình dân nghèo khổ, vì đối với cái quan niệm trên ấy thì hạng người sau này vẫn không ham muốn thứ ái tình mơ mộng viễn vong của một số người phong lưu đài các và cũng không có tư tưởng giống với tư tưởng sùng bái anh hùng, yêu nhà yêu nước của số ít người kia, đời bây giờ biết bao nhiêu đứng vô danh anh hùng đã phơi thây giữa đám bình nguyên để mua cái tiếng anh hùng cho một mình Mussolini, Hitler, hay Tưởng Giới Thạch.
" Đời bây giờ, không có tư bản thì không có nhà, và anh lao động ở đâu sống đươc thì ở đó là quê hương, vậy thuyết yêu nước yêu nhà có còn đứng vững không ?
" Cái quan niệm của mấy ông " thi sĩ mới " đối với cuộc thiệt tế sanh hoạt tôi chẳng thấy có chút gì là mới cả, mới chăng là mới với các ông ở giai cấp tiểu tư sản chớ chẳng mới gì với giai cấp bình dân.
" Xét về phương diện vật chất, thì những bài thơ mới của một vài ông bạn thiếu niên thi sĩ mà ông Nguyễn Triệu Luật ngoài Bắc đã gọi là " một tụi văn sĩ non hứng lấy mà vung vẫy những áng văn xuôi không vần ", xem ra chưa có những niêm luật gì nhất định. Thế nghĩa là thơ mới có kỷ cương đáng ở riêng vào một học phái. Đọc phần nhiều những bài thơ mới bây giờ, người ta đều có cái cảm tưởng rằng nhà thi sĩ bỏ cái khó tìm cái dễ để mạnh ai nấy viết, mạnh ai nấy ngâm. Đó là chưa nói đến sự dùng chữ sai (như nàng Ly Tao là nghĩa lý gì !).
" Xét về phương diện tinh thần, thì những bài thơ mới ngày nay đó chỉ là cái tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản, là một giai cấp bại trận không có sức phấn đấu hẳn hòi như cấp bình dân. Chính giai cấp sau này mới là nguyên động lực tiến hoá của xã hội.
" Mấy ông bạn trong làng " thi mới " nếu có cho tôi hủ tôi xin chịu, nhưng tôi không sợ mất lòng mấy ông mà dám nói lớn với anh em bình dân rằng :
" Cái phái thi mới ấy vừa xác, vừa hồn không có ích gì cho anh em, chị em chúng ta cả ! Hãy tẩy chay đi ! "
" Không tẩy chay cái tinh thần bạc nhược của giai cấp thua trận thì anh chị em ta sẽ gặp lắm điều trở ngại trên con đường tiến thủ của chúng ta.
" Chừng nào thi mới của các ông có một khuôn khổ " mới " nhứt định, và thứ nhứt, chừng nào thi mới có một tinh thần bình dân đặc biệt, không có cái lối ru ngủ, cái lối mơ mộng hão huyền và biết ca tụng sự phấn đấu của chúng tôi thì chừng ấy chúng tôi sẽ hoan nghinh ngay.
" Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt đem những bài thi mới mà một số người làm thi mới đã ca tụng để bình phẩm, chúng tôi sẽ chỉ cho tác giả các bài thi kia thấy rằng tinh thần và thể chất mình là cũ.
" Xin ai kia đừng trách rằng chúng tôi cay nghiệt với phái thi mới, mà biết cho chúng tôi chỉ muốn làm một người bạn " ngang bằng sổ thẳng " mà thôi.
" Chúng tôi không chê thi cổ là sáo, bởi vì mấy ông đã chê nó là sáo rồi ".
Hoàng Tân Dân chê thơ mới phản động Mang nặng óc đảng phái, có khuynh hướng thiên tả, Hoàng Tân Dân, không công kích thơ mới vì thơ mới bỏ phép tắc cũ, mà chê thơ mới có thái độ phản động, phản cách mạng ở chỗ chỉ phục vụ cho tư bản, không đau mà rên, cho nên lúc nào cũng xướt mướt (V.H.T.S. số 9, tháng 9 năm 1935).
Đẩu Tiếp chê thơ mới Sau cùng, Đẩu Tiếp, vào tháng 11 năm 1936 (V.H.T.S. số 26), lại lên tiếng " Nói chuyện về thi ". Trong bài này, Đẩu Tiếp kết án Phan Khôi rất nặng nề. Theo ông, chính vì ganh ghét Tản Đà hơn mình về thi mà Phan Khôi phải lập ra thơ mới để được thiên hạ biết đến tên tuổi mình. Và bọn thanh niên ngu dốt không làm nổi trò trống gì đã ùa chạy theo Phan Khôi. Thành thử bên thơ cũ gồm bao nhiêu thiên tài thì bên thơ mới gồm bấy nhiêu tụi nhãi con, ngu dốt, bất tài. Giới thuyết như vậy rồi, Đẩu Tiếp đưa ra các điểm mà người ta chê thơ cũ để lại bênh vực thơ cũ, từng điểm một, như việc dùng điển, dùng sáo ngữ, lặp lại tư tưởng của tiền nhân. " Từ ngày ngọn cờ ba sắc đã dựng nên giữa cõi trời Nam, muốn hiểu biết ngôn ngữ của người Pháp để tiện ra hợp tác với họ, hòng giành lại trong muôn một, một ít quyền lợi của ông cha để lại, quốc dân ta đều đua nhau xu hướng về đường văn học. Chữ Hán, một thứ chữ trước kia người mình vì dùng quen đã lâu đời, đã hầu thành ra một thứ tiếng mẹ đẻ, từ đó theo cớ chuyển vận đã hầu lọt ra ngoài vòng đào thải. Nhân tài nước ta bây giờ tây học càng rộng, thì Hán học càng hẹp ; Hán học đã hẹp thì quốc văn phải kém, vì chữ hán mà có người đã gọi là chữ Hán Việt, nghĩa là chung của Tàu và Ta, vắng nó thì chữ An nam nói ra hầu không thành tiếng nữa.
" Tuy vậy mỗi khi đọc đến những tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ của các cụ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Công Trứ, tâm hồn ta tự thấy rung động rồi đem lòng khao khát, thèm thuồng, nhưng cố làm cho được một bài thơ như người xưa thì ngồi bóp trán mãi cũng chẳng thấy ra được chữ gì, hoặc được thì lổ đổ vài chữ kết lại cũng chẳng thành câu ! Thẹn thuồng và tức giận, bọn thanh niên ta đổ ra ghen với cổ nhân hầm hầm, toan đạp đổ những xiềng xích trong lối thơ Đường.
" Đương lúc ấy, thì Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu hai ngài không biết tại sao lại có điều xích mích nhau, rồi nổi giận cãi nhau, mắng nhau, rồi ghét bỏ nhau !
" Tự nghĩ Nguyễn Khắc Hiếu là kẻ thù của mình, mà trên đàn thơ lúc nào mình cũng nhường hắn đứng trước, Phan Khôi bèn muốn rẽ ra một con đường khác, bụng bảo dạ rằng dẫu hắn có đi trên con đường ấy, thì ta cũng được đi trên con đường này, cũng như một bên làm tướng nước Nhựt, một bên làm tướng nước Xiêm, nghe nói hai bên làm tướng cả thì người đời cho là hai bên nghịch nhau, nào ai biết tài bên nào cao, trí bên nào thấp mà phân biệt trên dưới. Nghĩ thế rồi Chương Dân tiên sinh vung văng vác bút chạy ra một con đường mới " Đả đảo Đường luật, làm thơ theo lối mới ". Bọn thanh niên nói trên nghe được câu nói của Chương Dân tiên sanh liền hăm hở bắt hơi nối gót theo tiên sanh. Phái thơ Đường diễu cợt họ càng cay thì họ lại châm chích phái thơ Đường càng độc. Phái thơ Đường gồm những bậc lão thành hay thanh niên kiêm thông cả tân học cựu học, hay riêng giỏi về một món học thì cho họ là " một tụi văn sĩ non hứng lấy mà vùng vẫy một thứ văn không xuôi không vần ". Hoặc có người độc hơn thì lại thuật bài thơ cổ người ta vịnh con cóc để cười những kẻ làm thơ không ra thơ.
" Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi ! " Rồi kêu bọn " thơ mới " mà cười rằng tôi tưởng thơ mới của các anh ra thế nào té ra cũng như thơ con cóc mà có người đã làm hơn trăm năm trước. Lời công kích có thú vị và cay độc quá. Tôi xin giả làm một nhà thơ mới đáp lại. " Người làm bài thơ con cóc, là vì ngó thấy con cóc như vậy mới làm thơ, người không biết cóc thì biết gì mà bình phẩm thơ cóc ! Không, những nhà thơ mới gồm có những kẻ mới học tòm tèm được 3 chữ Pháp, không hề hiểu một giọt (ne comprendre goutte) về hán văn họ không thèm đáp lại một cách vu vơ như vậy đâu. Trái lại câu trả lời của họ có nhiều khi nghe ra cũng có phần xác thực lắm.
" Họ nói : các ông chỉ là những bọn nô lệ chịu trói buộc trong những luật pháp nghiêm khắc của thơ Đường.
" Nhưng họ quên rằng chính nhờ ở chỗ pháp luật nghiêm khắc đó mà thơ Đường rất dễ nhớ. Vì trong bài thơ đã hẹn trước rằng " chữ nào trắc chữ nào bằng ", nên khi ta đọc mà thấy sai thì tự nghĩ liền và đổi lại, tuy vậy ta cũng đừng nệ theo Đường luật lắm, chịu thất luật một đôi chỗ mà câu thơ thấy già hẳn lên ta cũng thấy vui lòng, nhưng chỉ khi nào bất đắc dĩ không dùng chữ ấy mà dùng chữ khác thay vào không thú bằng thì ta mới chịu dùng chữ ấy và cam tiếng thất luật vậy. Phái thơ mới lại chê : thơ Đường của các ông chỉ biết khóc trăng khóc gió. Thơ Đường luật cũng có nhiều bài khẳng khái lắm chứ. Các ngài hãy đọc thử lại những thơ văn cổ ngày nay quốc dân hãy còn truyền tụng mà xem. Người xưa dầu có nhiều khi họ than khóc thì trong tiếng than tiếng khóc của họ cũng nghe rất là giọng trượng phu. Tả một cảnh đang rơi châu đau ruột, như trong Chinh phụ ngâm, họ chỉ biết dùng ngòi bút vẽ ra một bức tranh khiến ta trông vào mà tự đau ruột rơi châu, chứ trong bài nào họ có hề dùng tới một chữ rơi châu đau ruột ? Các ngài không nhận rằng sầu là một cái bệnh chung của con nhà văn nhà thơ mà nở công kích kẻ đa sầu đa cảm ? Ấy thế mà các ngài chỉ biết làm những lối thơ phóng đãng là gì ? Các ngài thường " ôi " ! Thấy hoa bay các ngài cũng "ôi" ! Thấy lá rụng các ngài cũng ôi" ! Thậm chí có ngài viết " tôi đau đớn, ôi huyền diệu " ! Các ngài lại nói thơ Đường luật hay dùng những điển tích mơ hồ, như có người làm bài thơ " Vịnh Trương Lương " :
Mình dịu dàng như gái, Bao trời một lá gan ! Bốn trăm năm nghiệp Hán, Ba tấc uốn trong màn. Vẫn biết ba tấc đây là ba tấc lưỡi, nhưng ba tấc lưỡi uốn trong màn, thì có thể khiến cho mọi người hiểu được không ? Cách dùng điển như vậy coi cũng mơ hồ lắm, nhưng đó là tay vụng chớ tay khéo thì nhiều khi họ dùng điển chẳng những đã rõ mà lại hay ; có một cách dùng điển mà tự lấy làm thú lắm khi họ dung hoà hai điểm lại một. Như nguyên trong sách Thuý Kinh của Tàu có nói : Giống cá Gáy hễ đến tháng ba thì đua nhau nhảy lên thác Long Môn (cách Trường Yên cao 900 dặm, con nào nhảy lên được thì hoá ra rồng, cho nên người đời hễ ai thi đậu thì người ta ví như cá Gáy nhảy lên được Long Môn, còn con cá Gáy nào mà không nhảy lên được thì phải vạch cả trán mà phải trở về chỗ cũ). " Nhân vậy rồi Lý Bạch có câu thơ nói người thi hỏng :
" Điểm ngạch bất thành long " vạch trán chẳng ra rồng ! thú vị biết là bao nhiêu, còn trong đám thi sĩ ta thì có người làm câu :" Lò đời thổi gió un mây... " thì ai cũng biết rằng là đời là một điển, gió mây là một điển, nhưng tác giả khéo biết dung hoà vào trong một câu " gió thổi un mây " ứng với lò đời cũng như câu thơ của Lý Bạch ra rồng ứng với vạch trán, điển tuy cũ mà tứ vẫn mới đó vậy. Dùng điển mà dùng được như vậy thì cũng đáng dùng lắm chứ, còn như không thêm được cái ý mới vào chỉ biết lập lại những tư tưởng cũ của người thì xem ra cũng nhạt. Ví dụ bậc thi bá đời Đường đã nói " xử thế nhược đại mộng " rồi ta lại lập lại : Trăm năm giấc mộng cười thân thế ; lời thơ tuy cứng nhưng phái thơ mới họ bảo dở đó kìa.
" Họ lại chê thơ Đường luật quen lập lại những tư tưởng của tiền nhân.
" Vẫn có thế nhưng cũng chỉ có những kẻ bất tài mới có thế thôi, chứ phàm người có tài năng họ cũng biết rằng trong mỗi bài thơ ít nhất cũng phải có một câu tứ mới. Đừng nói đến thơ nôm, nói ngay đến một số câu thơ chữ của người xưa cũng đủ thấy rồi. Khi trong bài " Đi chơi đêm với cụ Nguyễn Hàm Ninh ở núi Tuỳ Vân ", ngài Tùng Thiện Vương có câu :
Ngư xướng trời thanh ngoai, Chung minh thọ sắc trung. Chài reo ngoài tiếng sóng, Chuông điển giữa màu cây ! " Trong bài mừng được ân ban một chiếc thẻ ngà khắc Tứ Nguyễn Hàm Ninh nhập các, được ra vào tự do trong các, của cụ Nhâm Sơn có câu: Cung nhật hồi xuyên ảnh, Giai hoa phật bội thanh. Dịch : Vầng nhật trên cung xây bóng vách, Cành hoa quanh lối gõ bài ngà, " Mấy câu thơ đó ông Cao Bá Quát đã khuyên đặt cả mặt giấy chẳng phải đều có tứ mới sao ? " Phái thơ mới lại chê : các cụ ấy chỉ ngồi mà đẽo gọt từng chữ.
" Lạ chưa ! thơ đã gọi là một môn mỹ thuật thì dầu cho đẽo gọt chạm trỗ cũng là lẽ thường. Nhưng bao giờ câu thơ cũng được vẻ tự nhiên, nhà thơ vẫn dư biết thế ! Mở lời ra mà gặp liền được chữ đối xứng thì cụ Dương Bá Trạc cũng đối chơi :
Ta giã núi bụi hồng đeo đẳng, Núi xa ta mây trắng mịt mờ ! " bằng không, thì cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng chỉ cười một hơi mà thành ra bài thơ vậy. Tớ đẻ tháng mười năm bính tí, Năm nay bính tí sáu mươi năm ! Kể vòng hoa giáp quanh đà khắp, Còn nợ non sông chết chửa cam v.v... " Nhưng các bạn thơ mới lại nói rằng : Các ông có học chữ tàu mà làm thơ nôm thì chúng tôi học chữ tây lại không có quyền bắt chước thơ tây mà chế ra một điệu thơ riêng để chúng tôi ngâm vịnh ? " Đã bắt chước thì hễ ai có cái hay ta cũng có thể bắt chước được cả. Song thử hỏi lối thơ ta phỏng theo lối thơ tây, thì có thể ngâm nga được như lối thơ ta đã phỏng theo lối thơ Đường không ? Nói thế tất sẽ có người lấy làm lạ mà hỏi rằng vậy sao ta vẫn ngâm được thơ tây ? Vì ngâm thơ tây ta vẫn ngâm theo giọng tây, còn khi ngâm thứ thơ mới kia ta không thể ngâm theo giọng tây được, mà ngâm theo giọng ta thì nào có âm hưởng gì đâu. Đến như thơ Đường luật sở dĩ mình ngâm lên mà nó réo rắt như tiếng đờn nguyệt là vì hợp với tiếng ta đó vậy.
" Tóm lại, dầu chi ta cũng nên hoan nghinh lối thơ Đường luật, nếu có chê nó là khó thì cứ làm theo lối tứ tuyệt, lối song thất lục bát hay lối thượng lục hạ bát, cùng đi nữa thì những từ khúc.
" Thơ Thế Lữ, những bài xuất sắc cũng vẫn làm theo những điệu ấy, thế sao vẫn gọi là thơ mới ?
" À phải ! Ông Lê Tràng Kiều có nói : Vô luận thì làm theo điệu thơ gì có tứ mới thì đều gọi là thơ mới. Song tôi lại xin trừ ra lối thơ mà ta vẫn mô phỏng theo thơ tây một cách vô ý thức, vì ngoài một đôi người như Thế Lữ là vẫn có một chút tài, còn thì lối thơ lố lăng ấy chỉ tạo ra được những nhà thơ non như là Phúc Nhuận, ông Đỗ Phủ (ông Đỗ Phủ người Bắc chứ không phải cụ Đỗ Phủ người Tàu đâu !). Nhưng điều đó ta cũng chẳng cần lo, vì ông Phan Khôi thì đã ngỏ lời từ biệt lối thơ " không xuôi không vần " kia trên báo Trường An độ nọ, còn những đồ đệ của ông mỗi ngày mỗi vắng dần. Nhiều kẻ hô hào đào thải thơ Đường luật, ngày nay lại muốn trở về với nó. Đáng khen thay những kẻ biết rộng thấy xa, lâu nay vẫn dốc một lòng thờ phụng thơ Đường " (Văn Học tuần san, số 26, 1-11-1936).
Tản Đà lần đầu tiên lên tiếng về thơ mới Trong cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ này, Tản Đà xem ra có căm tức lắm, nhưng Tản Đà khôn lắm, ít khi lâm trận đánh thẳng vào địch, dù địch đó là Phan Khôi. Trong mấy lần đụng độ với Phan Khôi, như vụ Nho Giáo, vụ Cái Cười Con Rồng Cháu Tiên..., Tản Đà đã hăng hái, quyết liệt, phũ phàng nữa là khác. Vậy mà trong vụ thơ cũ thơ mới, Tản Đà xem ra đứng ở ngoài. Bài Tản Đà đả kích thơ mới mạnh nhất có lẽ chỉ là một bài chửi mát, mà cũng chỉ là chửi mát Phan Khôi trong bài " Hài đàm của Tản Đà : Thơ mới " đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số Xuân năm 1934. Tản Đà đem so sánh Phan Khôi với Lý Bạch cũng như so sánh một họ Quách nào đó phải chăng là Quách Tấn với Bá Nha để rồi kết luận : đàn của chàng Quách thỉ " ngớ ngẩn " còn thơ của chàng Phan thì " vẩn vơ " " Hài đàm của Tản Đà :
" Thơ mới " Từ khi Lý Bạch chết, thiên hạ không chuộng thơ mà thơ kém hay : Bởi thế mới có Phan tiên sinh ra đời. " Từ khi Bá Nha chết, thiên hạ không chuộng đờn, mà đờn kém hay : Bởi thế mới có Quách tiên sanh ra đời.
" Phan tiên sinh cải lương về nghề thơ, ở đời chưa gặp ai tri kỷ :
" Quách tiên sinh cải lương về nghề đờn, ở đời chưa gặp ai tri âm.
" Một hôm, kỳ ngộ duyên may, hai tiên sinh gặp gỡ.
" Trong một nhà ở phố Khâm Thiên, Phan đương nằm hút ở trên gác, bỗng nghe ở dưới gác có tiếng đờn gẩy, nhân lâu rất thấy khác thường ; tiếng đờn thực hay mà như không có cung bực do bụng hoài nghi, Phan tiên sinh bước xuống bực thang, ngó thử coi thấy người nẩy đờn đó chừng cũng là một du tử mà coi ra có vẻ cao nhân, nhân bước luôn xuống thang, làm quen nói chuyện chơi. Người đó là ai ? Tức là Quách tiên sinh vậy. Rồi đó, Quách tiên sinh nói chuyện đờn, Phan tiên sinh nói chuyện thơ.
Rồi Quách đờn một chập, Phan thơ một hồi.
Rồi Quách lại đờn ; Phan lại thơ.
Rồi Phan, Quách lại truyện thơ, truyện đờn.
" Cái thú gặp tri kỷ, khó bút mực nào vẽ cho hết. Chi chủ đó nguyên là một tay tài tình, văn thơ âm nhạc, đều có hiểu qua, nhân bàn quanh một cuộc cầm thi, cũng cảm tác một bài " Thơ Mới " :
Đờn là đờn Thơ là thơ Thơ thời có chữ, đờn có tơ. Nếu không phá cách vứt điệu luật, Khó cho thiên hạ đến bao giờ ! Bá Nha xa. Lý Bạch khuất. Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách, Thơ có chữ Đờn có tơ : Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ Tài tử văn nhân nhường rứa rứa, Bách huê ngao ngán bận đề thơ " Sau bài nói kháy, chửi mát Phan Khôi và thơ mới trên Xuân Phụ Nữ Tân Văn, Tản Đà viết một thôi năm sáu bài về thơ mới đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy vào cuối năm 1934 : 1)- Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ (T.T.T.B. số 26 ngày 24-11-1934). 2)- Cùng các bạn làng thơ (T.T.T.B. số 28) 3)- Tính chất của thơ (T.T.T.B. số 30 và số 32) 4)- Một chữ trong nghề thơ (T.T.T.B. số 40)
Bài " Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ " là để thương xác với Lưu Trọng Lư về bài diễn thuyết ông đọc ở nhà Học hội Qui NHơn.
Với một tâm hồn cởi mở, và những lời lẽ rất ư là khiêm tốn, Tản Đà đã bày tỏ thái độ của ông đối với thơ mới, thơ cũ. Tản Đà cho rằng giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp thơ cũ thơ mới thì Tản Đà không có mặt ở Hànội, cho nên không theo rõi được sự diễn biến của cuộc chiến. Phải chăng đây là thời kỳ Tản Đà đang buồn chán vì An nam tạp chí của ông bị chết lần thứ tám, tức là lần chót. Biến cố đau thương đó đã khiến Tản Đà tủi dỗi đời nên tự đặt mình ra bên ngoài xã hội :
" Mới đây một người bạn tôi gởi cho bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Học hội Qui Nhơn, tôi đọc tới bài đó, tâm hồn xúc động, không thể lại lẳng lặng mà ngồi yên. Cứ như bài diễn văn của ông Lư, cảm tưởng và kiến giải, phần nhiều thiệt tôi lấy làm phải, có nhiều chỗ lại thấy rất là tinh.
" Song mà trong sự quan sát cũng còn có chỗ không tường xác ; cái kiến giải để hướng đạo cho quần chúng coi chưa đủ phát dương hiệu lệnh trên thi đàn. Bài tôi viết đây, không chuyên cùng ông Lưu Trọng Lư biện luận, cho nên không dẫn đến những chỗ mà tôi cho hơn kém ấy. Nay tôi chỉ cần muốn biện bạch trước độc giả, công chúng vì thấy có mấy lời trong bài diễn văn của ông Lư.
" Trong bài ông Lư nói, ngay một đoạn mở đầu rằng : " gần đây, trong văn học nước nhà thấy có một cái phong trào mạnh danh là " thơ mới". Cái phong trào ấy dư luận chia ra làm hai, phái hoan nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái hoan nghênh là phái thanh niên tân học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai bên đương sừng sộ nhau đương giằng co nhau ".
" Ông Lư đã nói, chắc là ông có thấy như thế, mà lâu nay tôi xa đất Hà Thành, thực tình trạng trong văn giới như sao, ít có tiếp đến tai mắt, riêng về phần tôi, thời như lời ông Lư nói đó, tôi quả không phục tình. "
Sau đó, gián tiếp Tản Đà muốn bảo rằng cái mà người ta gọi là thơ mới, Tản Đà vẫn làm, làm từ lâu, từ 20 năm nay mà chỉ khác là ông không gọi nó là thơ mới. Ông trích mấy bài thơ ông đã làm trên dưới hai chục năm :
" Cứ văn vận của tôi đã làm ra trong khoảng 20 năm nay, kể có không ít ; mà nay nếu có người hỏi tôi rằng : bài nào hay hơn hết ? Thời phải lấy một bài trong cuốn tiểu thuyết Giấc mộng con thứ hai, làm cho Dương Quí Phi, Tây Thi...ở Bồng Lai, bài ấy rằng :
Non xanh xanh Nước xanh xanh Nước non như vẽ bức tranh tình. Non nước tan tành Giọt lệ tràn năm canh. * Đêm năm canh Lụy năm canh Nỗi niềm non nước, Đó ai quên cho đành ! * Quên sao đành ? Nhớ sao đành ? Bồng lai non nước xanh xanh ? " Cuốn tiểu thuyết ấy viết ra, trong khi tôi giúp việc Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ ở Nam, là khoảng năm 1926 cách đây đã 8 năm. " Lại như bài " Cảm thu liễu thư " của tôi, một đoạn tả cảnh ở đầu rằng :
" Từ vào thu đến nay Gió thu hiu hắt Sương thu lạnh Trăng thu bạch Khói thu xây thành Lá thu rơi rụng đầu ghềnh Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly. Nhạn về... " Mấy câu đó, riêng tôi thật ngâm mãi không chán ; mà bài văn đó tới nay ở trong báo Saigon lại có người lại đem ra để phê bình, kể cái thời gian tôi viết ra thời vào khoảng năm 1921, trong lúc tôi làm việc cho báo Hữu Thanh, cách đây có 14 năm. " Lại như những bài " Hoa rụng " in ra ở Khối tình con, lời văn rằng :
" Hoa ơi, hoa hỡi, hoa hời ! Đang ở trên cành bỗng chốc rơi ! Nhị mềm cành úa, Hương nhạt mầu phai Sống chưa bao lâu đã hết đời Thế mà hoa lại sướng hơn người. . . . . " Bài này viết ra, kể cách nay có tới 20 năm. " Những điệu văn thơ đó, thật tự tôi đặt ra, không theo niêm luật ở đâu hết, duy tôi không gọi nó là thơ mới mà thôi. "
Ngày 8-12-1934, Tản Đà viết bài " Cùng các bạn làng thơ " (An nam tạp chí số 28), bàn về ý nghĩa của thơ mà ông phân biệt làm nghĩa rộng, nghĩa hẹp.
Về nghĩa rộng của thơ, Tản Đà viết :
" Theo nghĩa rộng mà nói, thì thơ là lương năng của mọi người, cho nên không có hạng người nào đều có thể nên thơ. Như thế, phạm vi của thơ thật rất rộng, hàm người ta nói ra mà hơi có vần, đều là thơ, không thể cách phi hết. Những thơ đó, theo ý kiến của người quan sát, chỉ có thể nhận cho những câu nào, những bài nào là hay; mà không thể phán đoán bảo như những câu nào, những bài nào là dở ".
" Hiểu theo nghĩa rộng, thơ là thú tiêu khiển ai cũng có thể làm được. Nhưng hiểu theo nghĩa hẹp, thơ là " một thứkỹ thuật phải người có học mới biết làm, mới làm được ; ví như đánh đàn phải có cung bực, đánh cờ phải sạch nước cản, nếu không thì không là thơ ".
Đối với Tản Đà, thơ hiểu nghĩa hẹp là các lối thơ thất ngôn, ngũ ngôn, cổ phong, tứ tuyệt. Như vậy mà trong cuộc tranh luận thơ cũ thơ mới, chữ " thơ mới ", theo Tản Đà là một danh từ lạm dụng, hiểu sai nghĩa.
Sau khi bàn về danh nghĩa của thơ, Tản Đà dành hai số báo để bàn về " Tính chất của thơ " (TTTB số 30 và 32). Theo Tản Đà, thơ có hai tính chất : tài và tình. Tài là tài nghệ, tức là thuộc về nghĩa mỹ thuật ; tình là tình hoài, tức là thuộc về nghĩa lương năng " (TTTB số 30). Tản Đà đã dựa vào hai tính chất tài và tình để tìm ra cái đẹp trong các câu thơ cũ. Không nói rõ ra, nhưng cứ theo lối trình bầy, người ta cũng nhận ra rằng thơ mới thiếu hẳn tính chất " tài ", cho nên thơ, mới là thứ thơ lệch lạc, là thứ thơ không hoàn toàn.
Những tài liệu tôi trích trên đây chưa phải là tất cả các tài liệu liên quan đến cuộc tranh luận gay go giữa thơ mới và thơ cũ và có lẽ cũng chưa phải là những bài quyết liệt nhất. Chẳng hạn ba bài diễn thuyết nảy lửa của Nguyễn Văn Hanh bênh vực thơ cũ, của Thái Phỉ công kích Lê Tràng Kiều, của Tường Vân và Phi Vân tác giả tập " Những bông hoa trái mùa ".
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:32:33 GMT 9
F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận có vẻ gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở đi, tình hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không nói đến nữa, nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hoà chứ không có vẻ bắt bẻ, chửi bới nhau nữa : người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người ta không ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ. Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ xô vào mà chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say sưa, thì từ năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị thánh sống của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của ông.
Nguyên một mình Nguyễn Tiến Lãng đã viết một thôi một hồi về Tản Đà :
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Tràng An số 315, 20-4-1938). 2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938) 3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938) 4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938) 5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943) 6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943) 7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà, luôn luôn bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không biết bao nhiêu bài nói về Tản Đà :
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147, 28-1-1939). 2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939). 3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939). 4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939). 5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản Đà :
1) Lưu Trọng Lư viết " Bây giờ đây khi cái nắp quan tài đã đậy lại ". 2) Trương Tửu viết " Sự thai nghén một thiên tài ". 3) Nguyễn Tuân viết " Chén rượu vĩnh biệt " 4) Nguyễn Triệu Luật viết " Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau ". 5) Trức Khê viết " Tản Đà triết học ". 6) Xuân Diệu viết " Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà ". 7) Nguyễn Xuân Huy viết " Tản Đà dịch văn ". 8) Nguyễn Tuân viết " Tản Đà một kiếm khách ". 9) Nguyễn Công Hoan viết " Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí ". 10) Ngô Tất Tố viết " Tản Đà ở Nam Kỳ ". 11) Nguyễn Nhất Lang " Tản Đà tửu điếm ". 12) Nguyễn Công Hoan viết " Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà ". 13) Lê Thanh viết " Mộng và mộng ".
Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở đi, không còn có vấn đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp : người ta đã giải thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ sau có Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người đó là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về dĩ vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi quá trớn trong việc Tây hoá. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong bài " Đàn Nam giao, một nền văn chương Việt Nam " (Tràng An số 34, 9-7-1942) : " Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên ta, đã nói :" Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn ". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực : cái bệnh ỷ lại là cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
" Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở văn chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống lười biếng và cẩu thả.
" Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ dân " biết sống ", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện ấy. Dân Nam cẩu thả và biếng nhát trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà thôi, vì tôi không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
" Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm cho văn chương ta nghèo nàn gần như " không có ". Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta ; ta chỉ muốn hưởng thụ những " của sẵn ", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn. Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa.
" Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả.
" Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ ngộ áp dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa có chữ quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
" Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ nhất là phải hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một phong trào sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
" Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có, và " phát minh " ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin ở tài lực mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm của quốc âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gụi. Người ta hăng hái, người ta nhiệt thành, nguời ta chỉ xin " cúc cung tận tuỵ " cho quốc văn. Một sự nỗ lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hoá của dân tộc. Nhưng cái bệnh của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc : ta vẫn đi vay mượn của người xưa. Xưa kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác : Làm cho tiếng Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã " ghép " một giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn mà nhãng quên cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy giờ quá sùng thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn Quốc văn. Mà truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát khỏi lề lối Tàu : từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy những điển cổ Tàu.
" Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất của tiếng Việt Nam mà còn bị phải " cố tật " ấy huống hồ là những người sùng bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm " kinh nhật tụng ". Không những người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi đó là một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải truyện Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng phải từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ đã cố làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của riêng mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà tiên sinh không hề làm.
" Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài trước hết phải là một " bồ chữ " động một cái gì cũng có thể " dẫn sách " được. Họ không biết rằng : cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi mình. Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ thuần tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề thói rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương : vô tình ngưòi ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có biết đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn không tiến được như ý nguyện . Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để lại một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng : Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn ? Họ là những người học Tây ; họ có cái khuynh hướng " Âu hoá " những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của cuộc đời mới.
" Nhưng cái gì cũng có một giới hạn : cái giới hạn đã bị vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những ngữ điệu bị " Pháp hoá " đó hay những danh từ bị Việt hoá đó chính không phải là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn : Chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu, tôi có tự hỏi :" ...đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi lúa ngự, ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và trọn vẹn được không ? ". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó không phải là một cái lý để " âu hoá " nền văn chương Việt Nam. Nền văn chương ấy nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng riêng ra một địa vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất " văn chương " khi ta muốn " ngoại hoá " nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách riêng của nó.
" Với sự " âu hoá ", tôi sợ nền văn chương Việt Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị " mất gốc ". Mà sự " mất gốc " ở địa hạt văn chương rất nguy hiểm. Văn chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo ngay. Nó phải hút chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể mang trồng qua chỗ khác được ; nó cũng vẫn sống như thường.
" Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống, nhưng không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá trị khi nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
" Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một thế giới đương suy tàn : Cái cuộc đời Việt Nam đương trỏ nên một cuộc đời khác...Đó là ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một cuộc đời quốc tế đó, ta phải nhận rằng : cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn, trong cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở ngoài vào...Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc, nhưng là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam trong lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng : được chứng kiến một giai đoạn độc nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy trong giờ phút này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
" Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu hát đúm của các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô gái quay tơ (vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị) và lưu giữ mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền văn chương.
" Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh phải tiếp tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người Việt Nam bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
" Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
" Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn tư tưởng cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta sáng tạo lại những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
" Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ hay một cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một thiên tài của xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với thiên hạ rằng :" Đâylà một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã nghĩ và đã cảm ".
" Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà nhận rằng hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước Việt Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời ".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết bài " Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam ", lên tiếng cực tán nền văn chương dân gian, một nền văn chương thuần tuý dân tộc, không chịu ảnh hưởng Tàu hay Tây.
" Nước ta là trong những nước có một nền phong tục thuần nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân lý chặt chẽ đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta ; những khuôn phép, lề lối đã làm cho ông cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
" Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ nghiêm nghị, thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức. Người ta ít tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại lệ.
" Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt Nam. Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần văn học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong quyển sách thiên nhiên : đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc...Chỉ ở đó ta mới nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục lệ quá cầu kỳ.
" Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu, và không dấu diếm cõi lòng.
" Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc tích trong những câu ca dao mộc mạc, mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu ngao trên lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông, trong những điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng, giữa những làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được nghe bà hay mẹ kể lại cho.
" Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người ta đã nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau trong những lời hát ứng khẩu giữa trai gái...Đây ta thấy người dân Việt Nam ranh mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính hư của người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi ác thật...Đây là người học trò " dài lưng tốn vải " bị diễu :
" Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ ".
" Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò cười, đây một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
" Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa bỡn, hơi cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi đó là một bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít người để ý đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt Nam dân giả...Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả các văn chương, là quyển " Tiếu lâm ". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt Việt Nam nhất.
" Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người học trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ. Khi làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết...Tuy nhiên, đó không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ, là của chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
" Người ta đã buộc nhiều về " Tiếu lâm ". Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ ra...Người ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng...tục tằn của bộ sách ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự nhiên giữa ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh thần nào cả.
" Nhưng nếu công việc của " Tiếu lâm " là làm cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công. Cái cười tuy thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự nhiên, nó không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa, nó là cây đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
" Ta đã nói bộ " Tiếu lâm " cho ta biết rõ tâm lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu cợt, bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét...vạch rõ những bí ẩn của những đời tư...của ái tình...Và họ cười...Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười vì họ ưng cười...Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho là thiêng liêng, đáng quí.
" Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết kính nể ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
" Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng đó là sự thật.
" Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến Pháp (Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì đó là văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của người dân giả Pháp... " Tiếu lâm " là hồn của dân giả Việt Nam.
" Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận rằng họ không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc " Tiếu lâm ", biết đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến. Và ta chỉ nhắc đến tên " Tiếu lâm " để biết rằng nước ta không phải thiếu tinh thần hài hước " (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn Công Trứ và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử :
" Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của Quốc gia, mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với Thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
" Thật là sự điều hoà của những cái tương phản nhau : sự điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật...Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
" Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh...Tôi nhớ như có một lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều - thật không phải là một lời nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy, ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng vừa trả lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu nặng bâng khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những kẻ " bốc giời " phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết rõ cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ một lần nữa rằng : sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ " chiến sĩ ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
" Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa cuộc đời âu tây chật vật.
" Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhẩy lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là " Lãng mạn ", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời, và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng : văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu " (Tràng An, số 107, 5-1-1943).
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống Musset : " Những cuộc cãi nhau về " thơ cũ " và " thơ mới " đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. " Thơ mới " chỉ là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của tâm hồn người ta ở thời đại mới.
" Thơ mới " đã đứng vững với tác phẩm giá trị của những thi sĩ có tài : Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
" Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này. Đây tôi không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện cùng các bạn những điều hay hay mình đã thấy.
" Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi nẩy ra một sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước Pháp vào khoảng 1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ phương diện những thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và thơ ta bây giờ có chỗ so sánh được.
" Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện. Lamartine đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp với tâm hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn vẩn vơ, nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ Lamartine đã làm " mê " cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi đó người ta đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes et Ballades và Les Orientalesđã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng. Buồn vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng tượng của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của " phương đông ". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của Hugo.
" Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ một thời.
" Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy cho nhà văn học sĩ nước Pháp...
" Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ nhắc qua rằng : Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er , cũng như Thế Lữ đã " ru " người ta " dạy cho cả một thời đại yêu " (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930. Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ đăng ở báo Phong Hoá được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditationscủa Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
" Nếu thơ Thế Lữ " ru " người ta thì thơ Huy Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ cái tuổi cho đến cái tài và nàng thơ " Siêng năng " của thi sĩ Phạm Huy Thông.
" Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã dám cười khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến sĩ theo Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo chúng ta về " ngày xưa ", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại của nước ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của ông, nụ cười " hóm hỉnh " và có duyên rồi ông giục chúng ta cười theo...
" Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm năm về trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn Pháp ảnh hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở vào một trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
" Thế Lữ, Huy Thông...cũng là những nhà thơ lãng mạn thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm trễ đó không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế. Mà trách sao được ? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước : ngoài những giờ mơ màng đắm say trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy, cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
" Về tiểu thuyết ta đã có những quyển như Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Ta cũng mong các thi sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần ta như thế " (Tràng An, số 108, 24-3-1936).
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh thơ mới hay thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ mới, quay về dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều người vẫn tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không khen thơ mới như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả động gì đến mới hay cũ. Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình và ca tụng ba tập thơ : Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập thơ ra đời năm 1937 :
Với tập Xác thu,ta không phải theo ông Hoàng Điệp ra bãi chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe ngóng hơi thơ của muôn tiên, để hớp lấy giòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước theo sát ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán nản trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa thu tới :
Tất cả mùa thu vàng xám lại Chán chường cũng lại giết hồn tôi (Xót xa) Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn trong sạch ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường : Hẻo lánh bên đường ít quán tranh. Nầy đây sắp sửa lá xa cành Vài ba cánh cửa không buồn mở, Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh (Xác thu) " In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất bại trên đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng niu trong những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng Đau đớn để kêu gọi, van xin : Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi ! Khổ lắm, cho ta một nụ cười, Hãy nắm tay ta thêm chút nữa Để truyền cảm giác xuống đầu môi. (Đau đớn) " Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn không buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của ông mà thôi : Anh chỉ yêu em...ngồi xích lại Cho anh gạn hỏi một đôi điều, Cho anh lọc hết giòng cay đắng . . . . Có phải em là : xác quạnh hiu. (Đau đớn) " Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới cái buồn bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt nhạt, ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ : Trong tôi : Mặt trăng mờ nhạt. Ngôi chùa đổ nát Con đường quạnh hiu. Một buổi chiều, Tôi đón lời tiêu, Tôi đưa lá chết Tôi nhìn đám tang, ...Xác thu vàng ! (Đám tang) " Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung cảnh nho nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa. Ai đi nhặt tiếng vàng rơi Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu. " Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm ảnh tầm thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường " Không màu sắc " ấy, là tài riêng của ông Hoàng Điệp. " Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá vàng đẫm máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ (Nếu tôi không lầm).
" Về nghệ thuật, tập Xác Thuhẳn có phần kém hơn hai tập Hận chiến trườngvà Điêu tàn. Những lối thơ tám chữ của ông Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
" Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình yêu, nói đúng hơn, một mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi " xót xa ", cả vị " cay đắng ", tập " Xác Thu " sẽ là một tập thơ có giá trị riêng về chỗ đó.
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh " Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã tả hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người, nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn " Lạc lối giữa thành sầu mù mịt ". Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên " Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh hơn, gan dạ hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt điện để sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện trong đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa, ông là cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang chới với, ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió vv... " Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông không dám bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng đầy bí mật của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những mảng trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những xác cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng lặng xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
" Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và thường sống trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới riêng của họ. Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái tháp điêu tàn của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
" Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta ba viên ngọc quí :
" Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác thu " (Xuân Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt : " Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài " Premières Solitudes " của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
" Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống ; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
" Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như " Bạn chàng Xuân Diệu ".
" Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
" Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa ! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự ; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa ! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế.
" Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.
" Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối " đoạn tràng ". Chàng chạy theo rõi một mối tình mất mà thương tiếc ; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi ; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang ; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng ; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang ; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để " bước vào mồ nhỏ tí " Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương ; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu ; chàng than thở với Thượng Đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
" Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.
" Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun núi bạc chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình :
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà " Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ. " Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết :
Hai hàng cây xanh Đâm chồi hy vọng... Nhạc vươn lên trời Đời măng đang dậy Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân. " Tả một cảnh thu ở núi rừng :
Non xanh ngây cả buồn chiều Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia " Xem chữ " ngây " nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu ; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi. " Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập " Lữa thiêng " không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ " thần tình ".
" Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt ; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.
" Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt ; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
" Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện ; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày " Thơ thơ " ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
" Tập thơ " Lửa thiêng "là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
" Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.
" Lửa thiêng " ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng An, tháng 3 năm 1941, số 12).
Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu Trên Tràng An số 405, 21-5-1939, 406, 24-5-1939, Xuân Tâm phê bình thơ thơ của Xuân Diệu với lời lẽ rất to tát và coi " Thơ thơ " là " một quyển sách để đầu giường " của ông : " Như tôi đã nói, nghệ thuật của Xuân Diệu rất lão luyện bên nhà thi sĩ có tài tâm hồn muôn điệu, lại có nhà thợ thơ tinh xảo, có kinh nghiệm nhiều và nhất là rất tận tuỵ với nghề mình.
" Tuy lối thơ lục bát của Xuân Diệu không được mềm dẽo và du dương như của Thế Lữ, nhưng trái lại lối thơ hoàn toàn mới với những câu tám chữ và vần liên tiếp, hay lối thơ gồm có từng đoạn bốn câu hoặc tứ tuyệt, hoặc thơ mới với vần song hành, lại rất xuất sắc.
" Đọc những bài Cảm xúc, Vì sao, Trăng, Huyền Diệu, Yêu xa cách, Phải nói, Đây mùa thu tới, Hẹn hò, Vô biên, Tương tư, Chiều, Với bàn tay ấy, và gần hết những bài khác, người ta thấy lời thơ chảy song suốt từ đầu đến cuối, không bỡ ngỡ không khó đọc, mà rất dễ dãi. Lắm đoạn vụt lên rất tự nhiên rất nhẹ nhàng, khiến ta thấy nó từ đáy hồn vụt ra như những tia sáng.
" Những đoạn ấy nhiều lắm, không thể không chép ra đây được, các bạn đọc qua cũng thấy, không phải tìm kiếm.
" Mà những đoạn thơ rất tự nhiên ấy có phải Xuân Diệu phun ngay ra như thế đâu. Chính thi sĩ đã trao dồi rất công phu, sửa đi sửa lại từng câu hay từng chữ nhỏ. Chính những bài thơ đã đăng ở báo Ngày Nay hay Tinh Hoa rồi, mà nay in trên sách lại khác đủ tỏ rằng Xuân Diệu là một người thợ thơ cần mẫn, biết thận trọng nghệ thuật, và khi nào cũng cố gắng đạt được mục đích là sự hoàn mỹ.
" Ví dụ trong bài " Cảm xúc ", câu thứ sáu bây giờ :
Đây là bình Thu Hợp trí muôn hương " Khi trước : Đây là bình Thu Nhận trí muôn hương " Chữ thu nhận chỉ có một nghĩa là thu vào mà thôi nên kém chữ thu hợp, có nghĩa thu vào mà còn chung đục còn trộn lẫn với nhau nữa. " Trong bài " Đây mùa thu tới ", câu thứ 4, khi trước :
Với áo Chùng Thâm Mặt Dám Vàng ; Bây giờ : Với áo Mơ Phai Dệt Lá Vàng, " Mùa thu mà có mặt thì cũng hơi kỳ thật. Chứ áo của mùa thu dệt bằng lá vàng thì hợp lý và hay hơn nhiều. Cũng trong bài ấy, câu thứ 13 khi trước :
Én bỏ từng không, Oanh bay đi. Bây giờ : Mây vẫn từng không, Chim bay đi. " Mùa thu là mùa của chim én ở xa về bay lượn ở đồng nội mà lại bảo nó bỏ từng không thì sai quá. Huống gì mấy chữ " mây vẫn từng không " đã đúng mà còn may mắn hơn nữa. " Không cần phải đưa ra nhiều, ba cái ví dụ trên đây chứng thật một cách rộng rãi rằng Xuân Diệu trau dồi nghệ thuật rất công phu.
" Bên nhà thi sĩ đặc sắc, bên nhà thợ thơ có lương tâm ấy, lại thấy có đèo thêm một nhà họa sĩ. Xuân Diệu đã thấy " màu hoa mới thắm như kêu " (Nụ cười xuân), đã thấy " sắc đỏ của màu xanh " (Đây mùa thu tới). Phải có con mắt của họa sĩ mới thấy được những tế nhị của màu sắc như vậy.
" Với những câu :
Lũ mây già, nghìn vạn khối lâm ly, Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp, Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép, Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào, Những cây bàng là những bộ xuơng cao, Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ. Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ, Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba ; Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm. (Sắt) Xuân Diệu đã vẽ ra một cảnh màu đông nếu tôi không lầm, với những mùa chết, hay nói cho đúng hơn là màu đất và mùa tét. Những chữ " sắt cũ ", " tét cắn lá ", " màu lặng yên ", " Tiếng rắn rỏi pha màu mực đậm " làm ta thấy thật màu đỏ nâu vàng úa của bàng, da bàng về mùa đông là mùa thay lá, và nhận thấy tác giả đã biết hoà hợp tiếng màu để làm nên một cảm giác nặng nề mệt nhọc phảng phất trong bài thơ từ đầu đến cuối. " Nhà họa sĩ đã vẽ ra bằng thơ những bông hoa xinh đẹp, đầy vẻ sống, linh hoạt một cách khác thường trong bài " Lạc quan ", và hiến cho ta bức tranh tuyệt mỹ có cả tình cảm :
Một tối bầu trời dăm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy, Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy. Những lời huyền bí tảo lên trăng Những ý bao la đủ xuống trần, Những tiếng ân tình hoa bảo gió, Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân. (Với bàn tay ấy) " Đó là chưa nói đến mánh khóe nhà nghề mà nhà thơ đã dùng để tả những ý tưởng của mình. Với hai câu : ...Và làm sai tơ nhịp trăng Đang, Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh. (Trăng) " thi sĩ đã được một điệu đàn bằng thơ. " Với câu :
Những luồng Run Rẩy Rung Rinh lá. (Đây mùa thu tới) Xuân Diệu đã tả nổi cho ta nghe những lá run rẩy thật, nhờ ở cách sắp khôn khéo và tìm tòi bốn chữ đi với nhau. " Về cách dứt mạch câu (césure) Xuân Diệu cũng tỏ ra mình nhanh nhẹn lắm. Khi đọc mấy câu :
Thong thả chiều vàng thong thả lại... Rồi đi... Đêm xám tới dần dần... Cứ thế mà bay cho đến hết Những ngày, những tháng, những mùa xuân. (Giờ tàn) " ta tưởng như nghe cả chiều lại, đêm đi và ngày tháng bay thật, nhất là câu cuối cùng, nhờ căÙt làm ba mạch nên đọc lên một âm điệu đưa đẩy rất đầy đủ. " Còn những hình ảnh (images) mới mẻ may mắn, mà tôi đã nói rồi, và nhất là những chữ dùng rất ngộ nghĩnh, rất táo bạo mà không bao giờ đến lỗ mãng, như Huy Thông, thì Xuân Diệu giầu lắm. Bất cứ bài nào cũng có, và chính đó là những chấm đặc sắc nhất của thơ thi sĩ. Thành thử khi ta đọc đi đọc lại càng thấy thấm thía thâm thuý mà không bao giờ chán.
" Sau hết tôi mách các bạn một cái đặc điểm mà chỉ có một mình Xuân Diệu có, lối thơ ngây thơ và dễ yêu : Các bạn hãy nghe :
Ờ nhỉ ; sao hoa lại phải rơi ? Mất... Thực là dị quá - Mà tôi nữa : Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai ? - Nếu không biết những câu thơ ấy của Xuân Diệu, người ta hẳn phải cho là những lời ngây thơ của một thiếu nữ nào mới biết yêu và chưa hiểu đời với những thống khổ là gì. - Cùng một loại thơ ngây ngô ấy, bài " Đơn sơ " hẳn là một tác phẩm bất hủ. Nó cám dỗ hồn ta với những chữ thông thường, rất tự nhiên, và nhất là với vẻ " có duyên " của nó.
" Một thi sĩ giầu tình yêu, hiểu thấu đáo âm nhạc, giầu tình cảm, giầu sức tưởng tượng, và có một nghệ thuật tinh vi như Xuân Diệu, hẳn là một thi sĩ hoàn toàn nhất mà ta có đến bây giờ.
" Và quyển Thơ Thơtác phẩm hoàn toàn như tác giả của nó là một quyển sách để đầu giường (livre de chevet) mà chẳng bao lâu sẽ trở nên một người bạn thân ái của chúng ta.
" Phải chăng tôi đã xem Thơ Thơvới một tâm hồn " rất bạn " của thi sĩ Xuân Diệu ? (Xuân Tâm, Tràng An, 21-5-1939, số 405).
Trên Tràng An số 494 (15-3-1940) H.X.T. khen nữ thi sĩ Thu Hồng, tác giả Sóng Thơ :
" Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới xuất bản của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã quen làm bạn, như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông, ông Thái Can, ông Huy Cận v....tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ mà xem. Lo sợ mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới cũng không phải là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có biệt tài trong sự làm thơ.
" Có lẽ vì tôi dành để quá nhiều thì giờ để xem các thi ca xưa. Có lẽ là vì tôi thấy thi ca trong văn chương chúng ta hiện đương trải qua một thời kỳ phân vân, về đường thể cách cũng như về đường lý tưởng, làm cho độc giả chẳng biết lấy đâu mà căn cứ để suy nghĩ, để so sánh, chẳng biết lấy thái độ nào mà thấu hiểu và cảm động theo cái thâm tứ của mỗi thi sĩ trong mỗi bài thơ.
" Đối với quyển Sóng Thơmới ra đời, trước hết tôi cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang giấy nhanh chóng, rồi tự nói : Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà là một nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một nguời trong Hoàng phái...Rồi tôi xem qua cũng nhanh chóng như thế thấy câu hay, câu không hay ; nhưng không để ý lắm. Chẳng khác lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản nhiên trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường xa lạ khác.
" Vậy là tôi đã xa lìa tập Sóng Thơ, như tôi đã xa lìa nhiều tập thơ mới khác. Có lẽ tôi không nghĩ đến nữa, nếu một sự tình cờ không xui giục tôi quay lại vườn hoa cũ, quay lại với Sóng Thơ của nữ thi sĩ Thu Hồng.
" Một buổi hội họp tại nhà một ông bạn, tôi đã được gặp nữ thi sĩ Thu Hồng, một thiếu nữ trẻ tuổi, và nói chuyện rất tự nhiên và vui vẻ. Lẽ tự nhiên là nói chuyện " thơ ". Rồi trong câu chuyện, nữ sĩ Thu Hồng đọc cho chúng tôi nghe một đoạn của một bài thơ nàng mới làm và chưa in trong tập Sóng Thơ mới ra đời.
...Vì hiểu lầm nên mới mong đừng nên hiểu ; Mong chán nản chớ len vào niên thiếu, Chờ len vào sớm quá tội em mà, Em nghe như thời ấy vẫn còn xa. Em chầm chậm để mong còn xa mãi, Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái, Hoa nồng hương, mà trái có khi chua... " Đoạn thơ được nghe đó, cùng nhiều câu thơ khác, của nữ sĩ Thu Hồng đọc ra hôm ấy, tôi thấy có ý vị, và có một sự giản dị hoà với một âm điệu dịu dàng. Vì cái cảm tưởng hôm ấy nên tôi mới đọc lại tập Sóng Thơ, bà Đạm Phương nữ sĩ có viết một câu phê bình rất ngắn, nhưng rất đúng : Ngòi bút của Thu Hồng tuy chưa sành nghề cho lắm, nhưng có vẻ tự nhiên tao nhã. Tôi xin thêm rằng : có vẻ giản dị và êm đềm tỏ ra một tâm hồn giầu cảm tình, hay thổn thức với cảnh đẹp của tạo hoá, yêu văn chương, không hề oán hận, không hề than van. Vì vậy thơ cô không phải là tiếng kêu gào của những tấm lòng bị đau thương, không phải lời oán trách của những người ê chề, chán nản. Chỉ như là những làn " sóng " dịp dàng uốn mình dưới một ngọn gió nồm thanh thanh mà mát mẻ ; chỉ như những tiếng động rì rào trong lá. Gió qua, lá động rì rào, Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời. " Không phải là cô không có lúc lo sợ hay buồn bã. Nhưng sự lo sợ hay buồn bã của cô không bao giờ khốc liệt, có rồi rào cũng vẫn êm đềm mà thôi. Buồn ngày xưa em buồn thêm một chút... Hoặc là : Vì đâu thoi thóp với canh tàn ? Rời rạc kia mây cũng muốn tan ! Tan tác lòng em bao mộng đẹp, Cái tình vô hạn, khéo đa mang ! " Sự tan tác không phải tấm lòng của cô ; chỉ là bao mộng đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là " Cái tình vô hạn ", một mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một vật nào, có thể làm đau đớn gắt gao được. Vì vậy cho nên một tấm yêu, Lui không nẻo bước, tới cam liều Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa, Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều ! " Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng ta thấy nữ sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng ta có thể nói rằng " thi cảm " của cô không phải là của người mê say ; nó còn ở trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm. " Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể gọi là tầm thường, cái " nên thơ " trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi câu nói đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường, ấy là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những cành hoa thơm đẹp.
" Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến riêng của tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng Thơ của nữ sĩ Tôn nữ Thu Hồng. Tập thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa.
" Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng Thơ với độc giả (H.X.T., Tràng An, 15-3-1940, số 494).
Trên mặt báo Ngày Nay, từ năm 1938 trở đi, Xuân Diệu và Thế Lữ phê bình thơ rất nhiều. Cũng như báo Tràng An, báo Ngày Nay hình như cũng đã xoá bỏ chữ cũ mới trong khi nói đến thơ. Đặc biệt là Thế Lữ trong mục " Tin Thơ " đã chỉ phê bình thơ như là thơ, bởi vậy, rất nhiều bài thơ cũ được ca ngợi và bài thơ mới bị công kích, cũng như vô vàn bài thơ mới được khen lao và bài thơ cũ bị chê bai.
Cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ như vậy là đã đi hẳn vào lịch sử. Qua cuộc tranh luận kéo dài có hằng mười năm, chẳng những làng thơ mới hăng say thảo luận mà ngay đến làng thơ cũ cũng bỏ cái thói quen dè dặt, thẳng thắn bày tỏ và bênh vực lập trường. Chẳng những thi ca mà cả nền văn học Việt Nam, nhờ vậy, đã tiến rất mạnh mẽ.
MỤC LỤC * TẠI SAO XUẤT BẢN ** MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Chương I : ĐẶC TÍNH CHUNG THẾ HỆ 1932
Mười một lý do khai mạc thế hệ mới : Những biến động chính trị Việc Bảo Đại hồi loan Những cải cách của Nội các Bảo Đại Đời sống xé rào của vị vua trẻ Bế mạc thế hệ cũ và xuất hiện thế hệ mới Nhiều báo mới ra đời Sự ra đời của Phong Hoá và Tự Lực Văn Đoàn Kỹ thuật mới của báo Phong Hoá Phong Hoá đả kích thế hệ đàn anh Phong Hoá đả kích tất cả báo chí đương thời Phong Hoá đả kích lý tưởng văn hoá thế hệ trước Chương trình cải cách của Tự Lực Văn Đoàn Sự xuất hiện nhiều cuộc bút chiến Sự xuất hiện những tiểu thuyết mới Sự xuất hiện thơ mới Sự xuất hiện một thế hệ mới Các hiện tượng Văn học vừa bế mạc Các hiện tượng Văn học vừa khai mạc
Chương II : NÓI CHUNG VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Từ ngữ Nghệ thuật Từ ngữ Văn chương Từ ngữ Văn học Từ ngữ Phê bình Văn học Từ ngữ Văn học sử Sự khác biệt của Phê bình Văn học và Văn học sử Các trường pái phê bình Trường phê bình cổ điển Trường phê bình lãng mạn Trường phê bình khách quan Trường phê bình ấn tượng Trường phê bình sáng tạo Trường phê bình triết học Trường phê bình duy vật Trường phê bình bác học Kỹ thuật và công tác phê bình Phê bình một tác phẩm dĩ vãng Nghiên cứu trạng thái bên ngoài của tác phẩm Tìm ra tác giả Tìm thời điểm sách ra đời Nghiên cứu sự thành hình tác phẩm Tìm hiểu ý tưởng chỉ huy Tìm cách bố cục tác phẩm Tìm hiểu công việc trình bày tác phẩm Kiểm điểm tài liệu Phê bình một tác phẩm quen biết nhiều Phê bình nhà văn bậc hai, bậc ba Phê bình tác phẩm hiện đại Phải biết chung cả sự nghiệp nhà văn Phải biết chung về văn học nhiều ít đồng thời với tác phẩm được phê bình Phải biết tổng quát về văn học Phê bình một thời đại Viết Văn học sử
Chương III :
SINH HOẠT PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ HỆ 1932
Đặc tính khối A, tức khối Cựu Học Đặc tính khối B, tức khối Cấp Tiến Đặc tính khối C, khối chống Phong Hoá Đặc tính khối D, khối Mác Xít
Chương IV :
MƯỜI VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932 Vụ án BÁO CHÍ Vụ án CŨ và MỚI Vụ án PHAN KHÔI - TRẦN TRỌNG KIM Phan Khôi phê bình Nho giáo Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học phiệt Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi nhà Mr Logique Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà học ta mà nói truyện Vụ án TẢN ĐÀ - PHAN KHÔI Phan Khôi công kích " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên " Phan Khôi công kích Tống Nho Tản Đà khai chiến với Phan Khôi Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi Vân Bằng đả kích Phan Khôi Vụ án QUỐC HỌC Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh Phan Khôi luận về Quốc Học Phạm Quỳnh luận về Quốc Học Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà Phan Khôi chống sự giàn hoà của Nguyễn Trọng Thuật Vụ án THƠ CŨ - THƠ MỚI Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ Con Ve sầu và Con Kiến Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách : làm bài thơ Tình Già Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới Các phe bênh thơ cũ Các phe bênh thơ mới
MẶT TRẬN BÊNH THƠ MỚI
Phong Hoá bênh Thơ Mới Việt Sinh chê thơ cũ Tứ Ly chế diễu Tản Đà Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch " Tuồng cổ Tân thời " Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch " Hội nghị Văn học " Nhất Linh công kích thơ cũ Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới Lê Ta phê bình tập thơ " Những bông hoa trái mùa " Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới Phan Văn Hùm phê bình nhà thơ Xuân Giang, tức Đông Hồ Đông Hồ lên tiếng trả lời Phan Văn Hùm, tự nhận là Xuân Giang Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản Đà Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản Đà Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B. Văn Thức trên báo Loa ca ngợi thơ mới Lê Tràng Kiều tính sổ thơ mới Lê Tràng Kiều ca ngợi Thái Can Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Nhược Pháp Lê Tràng Kiều ca ngợi Đông Hồ Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Vỹ Lê Tràng Kiều ca ngợi Thế Lữ Lê Tràng Kiều ca ngợi Vữ Đình Liên Lê Tràng Kiều ca ngợi Lưu Trọng Lư
MẶT TRẬN THƠ CŨ
Thái độ chung các nhà thơ cũ Chất Hằng đả kích thơ mới của Phan Khôi Thương Sơn bênh thơ cũ Động Đình đả thơ mới Tùng Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới Hoàng Tân Dân chê thơ mới phản động Đẩu Tiếp chê thơ mới Tản Đà lần đầu tiên lên tiếng về thơ mới Văn giới đối với cái chết của Tản Đà
SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA THI CA VIỆT NAM
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu (xin đọc tiếp nơi cuốn 2)
|
|