|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 5:56:55 GMT 9
Buổi trưa ngày 24-01-1973, một buổi trưa kỳ quái trong chambre chúng tôi. Không khí trong phòng thấy nao nao lên cả, có lẽ vì thông điệp của Tổng Thống VNCH đọc lúc 11 giờ nói về ngày ký Hiệp Định ngưng bắn; đằng này, đàng kia chúng tôi nhảy múa, gõ nhịp vào giường mà ca hát. Một vài anh trong tuổi động viên cấp thời đang ngồi tính chuyện "một mai giã từ vũ khí". Ngay cả anh Luyện, danh số 123 của Đại Đội C chúng tôi, con người "khô" nhất phòng cũng đang áp tai vào chiếc radio transitor nghe bài Bình Luận, miệng lẩm bẩm hát: "Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay trăm ngọn ..." Những ngày cuối năm và cũng là những ngày cuối cùng giai đoạn I thụ huấn tại Quang Trung của chúng tôi, thật có nhiều chuyện, nhiều vấn đề bàn cãi; một vài tin cho hay chúng tôi sẽ về Thủ Đức vài hôm nữa ..., ăn Tết tại Quang Trung rồi đi ..., hoặc đi chiến dịch Chiến Tranh Chính Trị đợt 2. Sáng ngày 25-01-1973, chúng tôi được lệnh chuẩn bị qua sân vận động trại Bùi Như Luông học tập Chiến Tranh Chính Trị, để thông suốt vấn đề trước khi đi chiến dịch. Thế là cả Tiểu Đoàn Gia Long chúng tôi náo động lên, kẻ biên thư, người nhắn tin, mua sắm một vài vật dụng cần thiết khi ra đi. Sau khi đã lãnh lương, cùng mấy ngày lương khô, sáng 27 chúng tôi được xếp vào từng toán và làm lễ xuất phát tại sân vận động Bùi Như Luông. Trong buổi lễ đơn sơ không kém phần ý nghĩa, chúng tôi được Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung gắn Alpha giả định để đi công tác. Giã từ bè bạn được tung bốn phương trời, toán chúng tôi theo anh em lên xe về Hậu Nghĩa. Đến trưa chúng tôi đến Hậu Nghĩa dưới ngàn con mắt hiếu kỳ tò mò của dân chúng. Đám "lính sữa" sau khi nghỉ trưa vào phòng hội của Ty Chiêu Hồi Tỉnh Hậu Nghĩa để nghe Phòng 2 thuyết trình về tình hình an ninh và dân số trong tỉnh. Trong khi ấy hàng loạt súng pháo binh gần đó càng lúc càng nổ dữ dội. Trung Úy Trưởng Ban 2 cho chúng tôi biết Việt cộng từ mật khu Bời Lời vừa kéo về cách phòng hợp độ hơn cây số và đang đụng với mấy Đại Đội Địa Phương Quân (ĐĐ/ĐPQ) ở đó. Chúng tôi nhìn lên bản đồ tỉnh, thấy mịt mù, những vòng đỏ qua đó ghi chú Bời Lời, Ba Thu, Hố Bò v.v... Toàn thứ dữ. Đến 4 giờ 30 chiều, chúng tôi đến Quận Trảng Bàng ở đây một lần nữa, chúng tôi nghe thuyết trình về anh ninh ở Quận. Đại Úy Chi khu phó cho biết VC vừa pháo vào quận lỵ 2 hỏa tiển 122 ly cách đó mấy giờ. Buổi tối đầu tiên tại quận chúng tôi ngủ thiếp đi, có lẽ do một ngày mệt mỏi. Sáng hôm sau, trong khi chúng tôi đi ăn sáng, cũng ngập ngừng bước chân không dám đi xa vì chốn đây đất khách quê người, chúng tôi 10 người được chỉ định về Xã An Hòa, nhưng chưa rõ ở đâu. Lân la lại một bà bán bánh canh (món ăn hảo hạng ở Trảng Bàng) hỏi thử xem. Bà không nói, chỉ ngước nhìn chiếc F-5 đang lao xuống hướng sau lưng chúng tôi cách chừng hơn cây số. Một hoặc hai quả bom lao vút xuống, từng tiếng nổ rền. Tôi nhìn đồng hồ đã 7 giờ 45 rồi, có lẽ những quả bom này là những quả bom cuối cùng. Tôi nghĩ thầm như thế. Bà nọ lắc đầu rồi bảo: - Đó chú, An Hòa đang bị VC vây đánh sát từ tối hôm kia đến giờ, nghe đâu nó ở Ấp Lò Rèn tràn qua Hòa Hưng rồi đánh lan mặt An Lợi, tụi nó bắn "quá trí"... Tôi thấy có gì lạnh lạnh chạy qua tay áo. Đến 8 giờ thiếu mấy phút, chúng tôi ngồi đợi từng giây, Trung Tá Chi Khu Trưởng vừa lên xe ra khỏi Quận, hình như đến thị sát một mặt trận nào đó. Đúng 8 giờ, với chiếc radio nhỏ trong tay, cả toán chụm đầu lại nghe Tổng Thống lên tiếng và chiếc phản lực cơ vẫn lao xuống, rất gần, có một đoàn trực thăng đang đảo gần đó, thỉnh thoảng một tràng đại liên rú lên. Chúng tôi đến Xã An Hòa vào lúc 9 giờ bằng 2 chuyến xe lôi, dưới sự hướng dẫn của Thiếu Úy Trưởng toán thuộc Đại Đội Chiến Tranh Chính Trị Hậu Nghĩa. Một lần nữa, chúng tôi được nghe nói về tình hình ở Xã. Tôi vẫn nhớ cái giây phút ngỡ ngàng khi bước xuống xe lôi, bên chợ vắng người, một vài kẻ qua lại nhìn, không rõ họ thế nào, chúng tôi bấm nhau nói nhỏ - K54 đấy. - Đây là ranh giới Xã An Hòa chúng tôi, đây Xã Lộc Giang, Xã Gia Lộc và đây là Gia Bình, ông Xã Trưởng giới thiệu trên bản đồ với chúng tôi... Xã chúng tôi từ đêm 26-01-1973, Trung Đoàn 271 VC cố đánh vào các hướng này hy vọng chiếm ít đất giữ lợi thế khi ký Hiệp Định. Ông chỉ cho chúng tôi 6 mũi tên đỏ, hướng đánh của địch. Cách đó một Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân đang chấm tọa độ trên bản đồ và xin Pháo Binh ở Chi Khu (ở đây về sau chúng tôi thấy những Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân hay nhân viên xã ấp đều có thể chấm tọa độ một cách nhanh chóng và chính xác, có lẽ họ đã quen địa thế) - Thỉnh thoảng một vài nơi nào đó báo cáo địch treo cờ nhưng lực lượng Nhân Dân Tự Vệ đã hạ và xé rồi. Chúng tôi bắt đầu đi công tác vào chiều hôm đó, không một vũ khí, chúng tôi phải mượn tạm mấy quả lựu đạn của Nghĩa Quân xã theo hộ tống chúng tôi, đề phòng khi hữu dụng. Trạm đầu tiên là trường Cộng Đồng Xã An Hòa, nơi mà dân chúng kéo về tị nạn, chúng tôi chia nhau mỗi người một phòng học để hỏi han và được biết hêm một vài tin tức về dân tình ở đây. Hầu như tất cả đều ngán Cộng Sản (CS) vì lẽ Xã này ngót 20 năm chưa một lần binh lửa dấy lên. Chúng tôi mang hết tất cả những kiến thức, những hiểu biết về ngưng bắn và thủ đoạn của CS giải thích cho họ. Một cụ già bế đứa cháu nhỏ ở chân có một vết thương nhẹ hỏi chúng tôi: - Mấy chú coi nè, nghe đâu ngưng bắn ngưng bùng gì mà chúng nó làm “quá trí” vậy hả chú ? Chúng tôi giải thích thật lâu để họ hiểu, hay những câu hỏi: - Trời ơi, Tết nhất tới nơi rồi mà còn "dô” phá đám nữa, năm nay chắc không thể nào vui hưởng Tết được rồi !. Một vài người thật xem thường súng đạn, len lén bò về tưới đám cải dưới lằn đạn đôi bên. Họ cố bảo vệ cái gia tài sống của họ, hay về lùa bầy heo, trong số này cũng đã có người lãnh B40 của giặc, hoặc họ còn mang theo một vài lớp bánh có lẽ để cúng giỗ trong những ngày đầu năm. Tất cả đều ủ rũ buồn chán, chúng tôi an ủi và nói rất nhiều. Xế chiều sau khi dùng bữa, chúng tôi được lệnh úp nón sắt và vào hầm, nghe đâu chúng nó về còn độ 500m nữa là đến nơi chúng tôi. Trong đồn Xã còn lại Tiểu Đội Nghĩa Quân và đám Nhân Dân Tự Vệ chưa quá 16 tuổi, gác chỉ lo ngủ và vặn đồng hồ "ma giáo". Chúng tôi phải chia phiên gác một mặt phụ để yên tâm hơn. Chúng tôi không quên những buổi đi ăn cơm với đội hình hai hàng dọc, khoảng cách đều và tiến chậm, hoặc 5 người ăn và 5 người gác. Thế rồi những ngày đầu năm trôi qua, giặc cũng bị Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đưổi ra khỏi các Ấp. Chúng tôi đi góp nhặt tang thương cùng với các giáo chức các trường trong Xã, phụ giúp dân làm đơn khiếu nại CS vi phạm ngưng bắn, phá hoại tài sản và gia đình họ. Chúng tôi viết hàng trăm lá đơn mỗi ngày ghi vào những số tiền xin bồi hoàn thiệt hại thật khiên tốn, nhưng trong thâm tâm tôi, một ý nghĩa quay cuồng mãi "không biết bọn CS ngoan cố có bồi hoàn được 1/10 số tiền này không ?". Những ngày đi dụng cờ Tổ Quốc, chúng tôi không thể nào để nhạt phai trong tiềm thức một buổi nắng lên giữa rừng cờ phơi phới, hàng ngàn lá cờ Vàng ba sọc đỏ tung bay trước gió. Vỏn vẹn mấy ngày sau, sự sinh hoạt trở lại bình thường, tôi có dịp đi một vòng Xã, đến từng nhà và bắt tay từng người, hỏi han. Đoàn cải lương nho nhỏ cũng vừa ở nơi nào đó về đóng tại hội trường xóm đạo Thala, bên cạnh buổi hội chợ do giáo xứ tổ chức, (Thala đã nhiều lần nghe đến, bây giờ chúng tôi mới có dịp đến). Những ai đến Thala Xóm Đạo giờ này không thể tin được trước đó vài tuần, bên kia luỹ tre xanh, VC đã chết rãi ở đó vì bom đạn, những đổ nát vẫn còn vết tích nhưng được hàng lũy tre xanh che khuất. Những buổi sinh hoạt Nhân Dân Tự Vệ hay phụ giúp một vài việc như chỉnh đốn hồ sơ hay đơn từ của dân chúng đã thất lạc vì chiến tranh là việc của chúng tôi. Khi đã được gọi là quen với địa thế, chúng tôi được tung ra mỗi người hoạt động ở một Ấp. An Thới là vùng vừa định cư đi đường thủy gần 4 km, cạnh sông Vàm Cỏ Đông nên được cử 2 người, còn lại 1 người để điều hành công tác ở Xã. Tôi được về một Ấp loại A, đó là Ấp An Phú thuộc Xã này. Cái không khí ngỡ ngàng của những buổi sinh hoạt đầu với các liên toán Nhân Dân Tự Vệ, hay dân chúng dần dần tiêu tan đi mất, bên cạnh những đêm khó ngủ, có lẽ ban chiều bắt gặp một ánh mắt, một mái tóc nào đó, tôi vơ lấy khẩu M-16 của một Cán Bộ BĐPT mang đạn vào và theo toán xung kích Nhân Dân Tự Vệ đi nằm bên bìa bưng. Một vài lần ngồi tâm sự, chỉ giáo “kinh nghiệm Quân trường" hay sùi bọt mép với những ly rượu đế đầy mùi quê hương, ở đây chỉ có "nước mắt quê hương" này với cá lóc nướng là tuyệt hảo. Sau hai tháng sống vui buồn tại đây, chúng tôi đã thu góp được một gia tài quý báu của câu "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Chúng tôi may mắn và diễm phúc khi để lại trong lòng dân ở đây một cảm tình sâu đậm, và trong chúng tôi, cũng đã có kẻ mang theo kỷ niệm trong tim, những niềm tin ngày nào trở lại và ... Ngày chúng tôi trở lại Quân Trường để tiếp tục dùi mài cung kiếm, Trời Thala bổng trở mưa, cơn mưa đầu muà làm chúng tôi nao nao. Trong 10 người, 6 người đã trở về Chi Khu từ sáng sớm, còn lại chúng tôi 4 người với Ba-lô đầy đủ nhất đi bộ từ nhà thờ Xóm đạo Thala, dọc đường có những cái bắt tay, những cái chào, những câu nói và những câu giã từ trìu mến. Chúng tôi vẩy tay chào những trại sinh trong một khuôn viên gần đó, buổi sinh hoạt Nhân Dân do Xã tổ chức. Những ánh mắt trông theo. Tôi đưa tay vẫy chào một ánh mắt nai vàng bên mái tóc dễ thương "Hẹn em ngày trở lại ..." Buổi sáng giã từ không có mặt trời và không có gió. (Những ngày đi chiến dịch Dựng Cờ Tổ Quốc tại An Hòa, Trảng Bàng) SVSQ Nguyễn Phúc - 343
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 5:59:37 GMT 9
Lá Thư Tiền ĐồnNgười phụ trách Đừng lo mình không chức vị chỉ lo mình không đủ tài để lãnh chức vị. Khổng Tử Tòa soạn Đặc San Bộ Binh vừa được chuyển đọc lá thư của Chuẩn úy Trương Ngọc Thần, tốt nghiệp khóa 2/72 SVSQ/TB gửi Trung Tướng Phạm Quốc Thuần Chỉ Huy Trưởng (CHT) trường Bộ Binh. Đó là sợi dây liên lạc tốt đẹp nhất giữa các cựu Sinh Viên với nhà trường. Có một sự xưng hô thân mật vì Trung Tướng CHT và Chuẩn úy Thần đều là Hướng Đạo Việt Nam.
Một đều đáng được đề cao là Chuẩn úy Thần, một sinh viên Văn Khoa và cũng là một sinh viên tu sĩ dù lệnh hoãn dịch vẫn còn giá trị đã tình nguyện nhập ngũ. Sau khi tốt nghiệp hăng hái hoạt động tại một tiền đồn hẻo lánh vẫn nghĩ đến nhà trường. Bộ chỉ huy rất hoan nghênh điều đó. Xin độc gỉa cùng chúng tôi tìm hiểu cuộc sống tiền đồn qua lá thư.Ở các đồn xa xôi th ưtù qủa là một món quà tinh thần quý báu nhất "Nhận được thư Anh đề ngày 14-7-73, từ trực thăng tiếp tế gạo vào vì đây là tiền đồn hẻo lánh vào đây bằng 2 phương tiện: Trực thăng và hành quân Thiết Giáp. Còn gì sung sướng và khích lệ hơn". Tại Trường Bộ Binh, Sinh Viên được toàn quyền xin yết kiến vị Chỉ Huy Trưởng nếu có điều gì thắc mắc. Chuẩn úy Thần nhớ lại những lần tiếp kiến đó "Thần vẫn chẳng quên được ngày gặo gỡ Anh trước khi lên đường" và nói cảm tưởng của mình về cuộc gặp gỡ "từ khi được gặp Anh, Thần nghĩ nếu những SVSQ nào ưa chống đối nhà trường, nếu họ được gặp Anh chắc họ không còn thái độ ấy nữa". Chuẩn úy Thần bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề quân dịch: "Thần tuy có vất vả hành quân vì ngay lúc viết thư này cho Anh thì đã mấy bữa phải ăn cháo vì chưa có chuyến tiếp tế nhưng vẫn chưa thấy gì là khổ cực, nhất là nghĩ đến các Anh hàng mấy chục năm trong Binh Nghiệp gian khổ đã nếm quá nhiều. Vả lại Anh cũng biết là Thần tình nguyện thi hành quân dịch dù còn được hoãn dịch vì lý do tôn giáo. Thần là Sinh viên tu sĩ thuộc Học Viện Saint Sulpice Huế, chắc hẳn không ai quan niện như Thần. Trong khi người ta chạy chọt, lấy danh nghĩa nọ kia, núp dưới mọi hình thức để được hoãn dịch khỏi đi lính thì Thần đã tình nguyện đi trong một kỳ đại hội thảo giữa các Sinh viên tu sĩ các Đại Chủng Viện về vấn đề thi hành quân dịch. Thần cho rằng cứ thi hành như mọi công dân khác, về sau ai muốn còn tu thì yêu cầu Hội Đồng Giám Mục VN can thiệp, còn ai thấy mình không còn ơn kêu gọi thì thôi. Nếu không đi ta cũng sẽ bị hiểu lầm là phần đông tu để trốn lính. Thần là Sinh Viên Văn Khoa ngoài đời nhưng vẫn mong đạt được lú tưởng Linh Mục ... học hết Phân khoa Triết học tại Học Viện St. Sulpice Huế, Thần đi lính trước sự ngạc nhiên của Cha Viện Trưởng và nhất là gia đình, nhưng Thần thật không hiểu nổi tại sao người ta sợ đi lính đến thế ! Sợ chết, sợ khổ thì ai mà chẳng sợ phải không Anh Thuần ? Nhưng vừa vừa thôi chứ ! Thật cho đến giờ phút này, Thần cũng chưa hiểu nổi có những chàng trai bề ngoài xem ra hiên ngang, gan dạ mà hiện đang lẩn trốn quân dịch." Đó là quan điểm về quân dịch xin đọc giả cùng chúng tôi cảm thông với cuộc sống tiền đồn. "Anh mến, Ở trong này tuy có hơi vất vả về ăn uống nhưng cũng vui đáo để Anh à, vì có dân đưa đồ đến bán. Đôi khi đi câu, tát cá tôm, bắt cua ốc, rồi đi đào củ chuối, củ dong, rau má ... chỉ tiếc không có mội trường thuận tiện cho sự học hỏi, ngiên cứu tiến thân dù co ghi danh Đại Học nhưng không về thi được, vì chuyến máy bay vào không nhất định ngày nào. Thần có nghe lời Anh dặn đọc kỹ các Hiệp định thư, Nghị định thư, Thông cáo chung. Nhưng làm gì có mà đọc hở Anh ? Những vấn đề quan trọng như vậy Thần rất thích nghiên cứu. Bây giờ Thần mới nhận ra cái thiếu thốn sách vở báo chí, học hành nó quan trọng thật. Đầu óc tưởng như cạn đi ! Biết htế nhưng Thần cũng chẳng dám cậy nhờ Tóa Tổng Giám Mục hay Nha Tuyên Úy vì nghĩ đã dám tình nguyện đi lính ngay lúc tình thế đang sôi động nhất (tháng 3/72) thì cái khổ về thiếu thốn sách báo cũng nên vượt qua." Tiếp theo đó Chuẩn úy Thần có đề nghị một vài ý kiến cải tổ về sinh hoạt và về huấn luyện như trao dồi nhân cách, khả năng chỉ huy, lòng yêu nước cho người Sinh Viên Sĩ Quan, những điều mà Bộ chỉ huy nhà trường đã và đang cố gắng thực hiện để gia tăng hiệu năng trong công tác giảng huấn. Tòa soạn cũng đồng ý là công tác Dân Vận rất quan trọng nhất là trong giai đoạn đấu tranh chính trị cam go này và vô cùng cảm khích trước tinh thần cao đẹp của một người Sĩ Quan trẻ tuổi dù được hoãn dịch về cả 2 lý do học vấn và tôn giáo mà vẫn hăng hái tìng nguyện nhập ngũ. Hơn nữa cuộc sống chật vật và nhiều khi nguy hiểm tại tiền đồn vẫn không làm suy giảm cường độ hăng say trên, sự hăng say của một thanh niên trí thức đã sớm ý thức được nhiệm vụ của mình đối với đất nước, lấy sự thành bại của chính nghĩa quốc gia làm mối ưu tư của mình, đã biên thư thường xuyên góp ý kiến vào công tác huấn luyện mà Bộ chỉ huy nhà trường rất hoan nghênh. Đặc San Bộ Binh ước mong sẽ nhận được những lá thư khác của Chuẩn úy Thần cũng như của các cựu SVSQ, những người đã từng đổ mồ hôi tại đồi Tăng Nhơn Phú viết về kinh nghiệm chiến đấu làm cho mối dây liên lạc giữa nhà trường và lớp người trẻ tuổi đang phụng sự dưới cờ ngày thêm thắm thiết. Người Phụ Trách
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 6:04:09 GMT 9
28 Tuần Đổ Mồ Hôi Thao TrườngSVSQ Võ Thành Trinh Có lẽ từ trước tới giờ, chưa có khóa nào đạc biệt bằng khóa 8. Những cái đặc biệt được nhìn thấy ở mọi phía và ở cùng mọi mức độ. Chính những cái đặc biệt này, khóa 8 có nhiều kỷ niệm nhất. Có thể đó là một kỷ niệm buổi xa trường và cũng là buổi trường dời đi ? Tại sao chúng ta không bảo ngày đi diễn binh ở Sàigòn những lúc chúng ta hồi hộp nhất lại là những kỷ niệm khó quên nhất ? Ồ, thực nhiều kỷ niệm, có kỷ niệm xốn xao như lòng biển, có kỷ niệm êm đềm như dòng sông. Mỗi trạng thái, tình cảm thay đổi làm cho kỷ niệm thêm nhiều sắc độ. Ở đây, chúng ta hảy thử làm một cuộc hành trình trở về nguyên thủy của những kỷ niệm đó để xem thời gian đã vẽ lên khuôn mặt chúng ta những gì và như thế nào ? Ngày mới đến trường Bộ Binh, anh em khó quên được cảnh Huynh Trưởng khăn Tím ra đón đàn em. Nhớ lúc duy chuyển từ Quang Trung qua Thủ Đức, xe chạy còn cách xa trường vài trăm thước, anh em còn nói nói cười cười, chỉ trỏ xuống đường nhưng khi xe vào đến Chợ Nhỏ, anh em bỗng nhiên im thin thít kỳ lạ. Có cái gì làm anh em sợ ? Thử Đức đâu có gì ? Vẫn cổng trường vét vôi trắng; vẫn hàng chữ trường Bộ Binh kiêu hùng bạc mưa nắng trên vách đá. Chúng đâu có gì ! Phải chăng anh em sợ vì những huyền thoại Huynh Trưởng Bộ Binh ? Ồ, huyền thoại luôn luôn dựng đứng sự thật bằng mọi giá. Sự thật đơn vị trong chốc lát lại trở thành sự thật kinh hoàng. Đó, huyền thoại Huynh Trưởng đó ! Rồi cái gì tới sẽ tới. Ba mươi giây xuống xe. "Các ông vui sướng lắm, các ông cười phải không ?" Áo ào, vội vã, cuống quýt. ên, anh em ba-lô, sac-marin, valy ... vắt xuống té ngã hổn độn. Từ khán đài bên kia Bộ Chỉ Huy, có nhiều người chạy ra. "Ê, mày, ai đội nón gì kỳ vậy ? Huynh Trưởng đó. Chết bà, điệu này là thác rồi !" Ba mươi giây xuống xe nữa. Hàng chục xe GMC chở chật kín người không đầy tí-tắc, vắng hoe, trống lặng. Nhà binh cái gì cũng phải lẹ lên chứ. Vâng, ba mươi giây mà Huynh Trưởng. Anh em chạy túa ra thành nhiều toán. Rồi đọc tên. Có mặt. Chạy qua tóan kia. Xong toán này tập hợp, so hàng, khẩu lệnh. Cái gì trang bị chuẩn bị. Tao đếch biết. Trên kia, Huynh Trưởng có dáng người lùn, nhỏ thó có hàm răng hô hét vang. "Đàn em không tuân lệnh phải không ?" Hưởng ứng khẩu lệnh này là hàng chục lời hét của các Huynh Trưởng khác đứng xung quanh. "Đàn em khi dể Huynh Trưởng đó Huynh Trưởng ! Tối đa đi Huynh Trưởng !..." Anh em rét run. Bên Quang Trung chúng tôi chỉ biết ba-lô chuẩn bị hay nón chuẩn bị chứ nào biết trang bị chuẩn bị. Không cần biết gì hết. Thi hành cái đã. Sau một lần bỡ ngỡ với khẩu lệnh mới, anh em quen đi. Nhưng cái quen đôi lúc cũng đáng phiền thật. Huynh Trưởng cho đàn em trang bị lên trang bị xuống cả chục lần. Nào ba-lô, sac-marin, valy ... chật kín đồ đạc, nặng nề, nhấc lên nhấc xuống mỏi nhừ cả cáng tay. Có người sơ xuất để thành sắt ba-lô vướng vào mắt làm toẹt cả làn da, xong màn đó, anh em được phép ngồi xuống. Nằm quanh. Ôi ! Vũ Đình Trường thật bao la ! "Ông kia suy tư phải không ? Ra trình diện Huynh Trưởng coi ! Một lên, hai lên ... Ông kia, nhớ đào phải không ? Một lên, hai lên ... Ông Ma giáo phải không ? Thưa Huynh Trưởng, em Phật Giáo chứ đâu phải ma giáo ! Đàn em xưng em với Huyng Trưởng đó Huynh Trưởng ! Ông đứng dây chạy mười vòng cột cờ, vừa chạy vừa hô ' tôi không nhớ người yêu nữa ' ". Coi ! Rồi chạy, hít đất, nhảy xổm, bò đủ cả. Mệt, thở hùng hục. Người nào người nấy ngồi xếp bằng ngay ngắn, hai tay bỏ thẳng trước đầu gối, mắt nhìn thẳng về phía trước, yên lặng. Huynh Trưởng ở phía trên căn dặn cách làm phiếu nhập trường, lý lịch. Xong phát phiếu cho anh em. Cấm đầu cấm cổ viết. Rồi tất cả, Anh em đứng ... dậy ! Đâu phải đứng là... dậy xong. Mà ôi thôi cả chục lần đứng là ... dậy ! Trước mỏi tay, giờ mỏi chân. Lúc đó, anh em qua nhằm vào buổi chiều. Buổi chiều có nắng vàng tuôn trong kẽ lá, có con nhện giăng tơ, có ru em ngủ ... anh hầu quạt đây, có gió mát, có càn dương vi-vu. Buổi chiều hôm đó trời đẹp nhưng ôi sao lòng ta như gió bão. Cứ tưởng là xong màn giấy tờ, anh em sẽ được Huynh Trưởng ưu ái hướng dẫn chạy để chào Vũ Đình Trường. Nhưng chờ mãi, trời tối dần mà sao không thấy (không biết đó là điều đáng mừng hay đáng buồn ?). Dù vậy, anh em cũng được chạy. Nhưng chạy từ Vũ Đình Trường về Đại Đội. Đến nơi, anh em nhìn lên bản Đại Đội của mình. Tiểu Đòan 3 Liên Đoàn Sinh Viên. Mình vào Tiểu Đoàn 3 rồi. Cố gắng tập nhớ tên Đại Đội, Tiểu Đoàn để lúc nào rảnh biên thơ về cho gia đình hay nữa chứ ! Trời bấy giờ đã tối hẳn, đèn đuốc ở mỗi Đại Đội được bật sáng trưng. Anh em được so hàng, cắt chia thành Trung Đội, Tiểu Đội. Thằng Cương qua Trung Đội khác rồi, chết cha ! Thằng Được ở Tiểu Đội mình, đỡ lắm ! An ủi, dù sao bên cạnh mình cũng có thằng bạn quen để giúp đỡ lúc khi cần. Qua màn phân chia xong để trang bị xuống đi ăn cơm. Hướng về nhà ăn ... "ủa sao không thấy gà-men ? Con khỉ ! mày ngu lắm ! Ở đây là Thủ Đức chứ đâu phải ở Quang Trung đâu !". Ừ nhỉ, cứ tưởng như bên ấy, mỗi lần ăn cơm, lấy gà-men ra xếp hàng đi ăn. Có lúc cầm gà-men trong tay anh em gõ vang lên như điệu nhạc ở hãng đồng, hãng nhôm. Lại ba mươi giây ăn cơm. Nuốt chưa đầy chén cơm, lại đứng ... dậy. Rồi ghế chuẩn bị sẳn sàng, ghế ... vô, ghế ra cả chục lần nữa. Trở về trại làm một màn giấy tờ nữa xong, Huyng Trưởng cho đàn em đi ngủ. "Nếu đàn em nghe một hồi chuông dài, đàn em hãy tắt đèn ngủ hết". Vâng, tắt đèn ngủ, Trung Đội 1 nằm chanbre này, Trung Đội 2 nằm chanbre kế ... Vừa đặt ba-lô lên giường chưa đầy năm phút, huynh trưởng từ đâu lù lù bước vô. Không ai hô "phắc", móc giò lên giường hết, khổ lắm ! Kỹ luật Quân Đội mà ! Lần thứ hai sau đó độ mười phút, huynh trưởng lại xuất hiện hô "phắc" chậm, móc giò lên giường nữa. Lại khổ. Những ngày kế tiếp, tập hợp điểm danh, đột kích, tập cơ bản thao diễn, hít đất, chạy Vũ Đình Trường ... đủ món. Những món ấy ngày nào cũng như ngày nấy không thay đổi. Có thay đổi chăng là thay đổi những toán Huynh Trưởng qua hướng dẫn đàn em. Vì đàn em còn yếu đuối, còn quờ quạng lắm nên Huynh Trưởng cho đàn em đột kích mười lần. Đột kích quen đi rồi sẽ thành phản ứng nhanh khi địch pháo kích. À thì ra thế. Tất cả điều không phải là hình phạt mà là tập luyện có ích lợi cụ thể. Hít đất đâu phải là muốn cho anh hít mãi để gãy tay. Bò đâu phải là muốn cho anh bò mòn da thịt dươớ ngực, dưoơi bụng. Hít đất là tập "tay cứng đá mềm". Bò là tập vượt qua chưnớg ngại vật hàng rào kẻm rai hay tránh hỏa lực bắn thẳng. Ba tuần Tân Khóa Sinh đi qua thật nhanh, Những Huynh Trưởng Tư, Trấn, Duệ, Phát, Phụng, Long, Châu ... đã để lại cho chúng tôi thật nhiều kỷ niệm. Mặc dù những kỷ niệm đó đã thấm biết bao mồ hô chúng tôi. Đêm làm lễ gắn Alpha rồi cũng đến đúng như sự mong ước hằng lâu của chúng tôi. Đêm đó đối với anh em là đêm Giao Thừa chẳng khác. Buổi chiều trước khi gắn Alpha, người nào người nấy cũng lo sửa soạn lại bộ quần áo vàng. Nào cravate, mũ casquette, dây lưng, bút nịt vàng, rồi giầy giớ ... Tất cả đều ở trong thế chuẫn bị hết. Giống như một cuộc chạy đua Marathon, các lực sĩ được chăm sóc kỹ lưỡng. Xong đâu đấy, Anh em được dẫn ra Vũ Đình Trường. Chỉ khối người cao được đi, người lùn bao giờ cũng lỗ, họ ở nhà chờ đợi. Anh em ở Vũ Đính Trường cũng chờ đợi cái khoảng khắc trái sáng được mở bùng lên và cấp hiệu Alpha mới toanh gắn lên vai áo. Từ lúc đó trở đi, anh em trở thành Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ). Anh em đã trở thành "người lớn". "Người lớn" đây là để chỉ tình trạng anh em hết thời gian Huynh Trưởng hướng dẫn. Trở thành một SVSQ rồi, anh em mới bắt đầu thấy lo đủ thứ. Và ra đường, anh em phải cẩn thận. Không khéo là lãnh củ và hít đất đấy ! Làm đàn em nhỏ nhất trong trường đi ra khỏi cổng Đại Đội phải chào tất cả Huynh Trưởng. Nào khăn tím, khăn hồng, khăn nâu, khăn đỏ, khăn vàng. Kể cả Sĩ Quan nữa, khá mệt. Buổi sáng, anh em phải dậy lúc 6 giờ nếu đi học phòng và 5 giờ nếu đi học bãi. Sau khi điểm danh, làm vệ sinh cá nhân xong, anh em đi làm sạch sẽ doanh trại. Công việc tạp dịch gồm chà láng, lượm rác, dội cầu ... Trước khi chỉ huy người ta, anh phải trải qua một htời gian làm lính như họ. Như thế, chúng ta mới hiễu rõ sức hạn và công việc của họ. Biết người biết ta trăm trận trăm thắng là như thế. Sau khi làm tạp dịch xong, anh em dùng điểm tâm rồi đi học. Đại Đội này hướng về F 406, Đại Đội kia hướng về cổng số 9 ... Không ai có thể bảo rằng: "cái học làm quan đã hõng rồi, mười người đi học chín người thôi !". Bằng chứng là anh em học dữ lắm chứ ! Đêm đốt nến học đến hai ba giờ sáng. Làm như học thi Tú-Tài, Cử-Nhân không bằng vậy. Nhưng dù sao, cũng công nhận một điều, khi sang F khác đầy đủ điều kiện học thì lại có một số anh em ngủ gục. Vì sao ? Có thể trả lời: - Thưa Đại úy, tối hôm qua Đại Đội gác tuyến đấy ạ !. - Ngày hôm sau, Đại Đội có gác tuyến không ? - Thưa Đại Úy có ạ !. - Ủa, sao kỳ lạ vậy !. Đúng là bệnh lười, bệnh ngủ nó xui khiến anh em nói dối. Hãy báo động đi chớ ! Anh Dũng, Anh Dũng đây, Anh Dũng nghe rõ trả lời SOS. Vậy là Chết. Đại Đội về tới trại sẽ bị Cán Bộ phạt. Cái tội ngủ nó lớn lắm. Nhưng phạt là phạt biết sao bây giờ. Không lẽ tự thú tôi mệt quá tôi nhắm mắt để đó á. Ồ coi như ne-pas tất cả. Đến ngày thi giai đoạn 2, chết cha thiếu bài. Hùng hục mượn vở bạn chép. Nào Quân Pháp, bài "xúc phạm thuần phong mỹ tục" chắc không thi đâu ! Chẳng lẽ Đại Úy Vượng ra câu có mấy thành tố tội hiếp dâm sao ! bỏ ! Còn vũ khí học, bài ống kính nhắm M.86 C, M.86 F của đại bác 57 ly, khỏi cần chép, giở course vũ khí nặng ra coi, có mà. Nhưng ê, nặng quá mậy ! học chắc chết ! Ráng lên: rớt ra Trung Sĩ đấy ! Vâng phải ráng rồi. Đêm đốt nến rực sáng cả chambre. Những con người ưu tú của đất nước, cúi đầu chăm chỉ học bài. Trông cảnh tượng "bi tráng" quá ! Còn anh em Đại Đội khác ở kế F409 siêng hơn. Kéo nhau qua phòng học đó mở đèn, mở quạt ngồi vào ghế học bài lẩm bẩm. Lính gác đêm đi ngang, sực mình, "ủa đêm rồi, trường còn dạy nữa sao ?" Nhưng "thưa không, anh em Đại Đội 31, 35 qua học đấy ạ !" Ấn tượng sáu mươi mấy người Huynh Trưởng khóa 9A và 9C ra trường sớm bằng ngõ số 9 làm cho anh em Tiểu Đoàn 3 phải học. Dù thế nào cũng phải học. Anh em biết rõ phận mình rồi. Gửi gấm thi cử cũng vô ích ! Vấn đề, anh không phải đậu cao để đi chỗ tốt mà thực sự anh có đậu hay không thôi. Đó, đó là ý nghĩ chung của anh em. Từ Tiểu Đoàn Trưởng, Đại Đội Trưởng đến Trung Đội Trưởng, vị sĩ quan nào cũng khuyên răn các anh, phải ráng mà học không thì rớt đấy ! Tội nghiệp ! Chúng tôi không thể quên vị Đại Đội Trưởng đáng kính luôn luôn nhắc nhở chúng tôi học bài. Vị Đại Úy tốt nghiệp khóa sình lầy làm cho chúng tôi vừa kính vừa phục. Nhớ đêm nào, anh em học bài phòng thủ, một Tiểu Đội bê bối trong vấn đề ăn cơm làm cho Đại Úy giận giữ phạt dã chiến cả Đại Đội. Không gì tếu bằng Đại Đội vừa chạy vừa ôm gà-mên. Đó có phải là đoàn quân không ? Vâng, thưa đoàn quân nhưng mà đoàn quân tả tơi, hốc hác vì bị phạt dã chiến. Cứ ngỡ là 25 tháng 8 ra trường nào ngờ phải học thêm hai tháng nữa. Hai tháng nghĩa là tám tuần lễ và tức sáu mươi ngày. Sáu mươi ngày dài dăng dẳng ôn tập bù lại những ngày học ôn cấp tiều đôộ và đi diễn binh Sài-Gòn. Lại mệt. Vâng, quân trường có bao giờ cho anh em khỏe lâu đâu. Nhớ những ngày tập diễn binh ở Vũ Đình Trường rồi ra xa lộ Đại Hàn, anh em bắt phát ngán. Cả tháng trời, chúng tôi ôm garant mà đi vòng vòng cái Vũ Đình Trường dưới ánh mặt trời không phải là chuyện không có thật. Những ngày đầu, vác garant, anh em thấy ê-ẩm cả vai, tay chân rã rời nhắc lên không muốn nỗi. Nhưng sau rồi riết cũng quen. Anh em cứ tưởng tượng lại ngày nào cũng đi những bước chân anh em đặt lên kế tiếp nhau khiến cho Vũ Đình Trường hiện ra những con lộ mà đá sạn dạt hai bên nằm thẳng băng thật rõ trông giống như đường xe lửa vậy. Nhìn vào chúng, anh em có thể đoán ra sự luyện tập của chúng ta như thế nào. Nhất là khối tạp dịch. Những người lùn hãy trông vào, diễn hành khổ lắm đấy các bạn ạ ! Rồi ngày 19 tháng 6, ngày diễn binh ở Sàigòn cũng tới. Hai giờ sáng, khối diễn hành được đánh thức. Xong công việc vệ sinh cá nhân, điểm tâm, thay đồ, anh em vác súng xếp hàng ra xe chở về Sàigòn. Đến ngay vị trí đã định, các Đại Đội tập hợp so hàng xong, giá súng, dùng cà phê, bánh mì hột gà. Anh em được tan hàng trong nửa tiếng rồi tập hợp. Bấy giờ là sáu giờ, anh em đứng chờ diễn binh cho đến tận chín, mười giờ. Lúc bắt đầu đi anh em bỗng cuống quýt cả lên. Không phải vì đi không được mà vì tiếng trống đánh ở khán đài chính quá nhỏ đến độ không còn nghe nữa, nên khối Thủ Đức đi hỗn loạn. Dân chúng hai bên đường la ó lên làm cho một số anh em mất bình tỉnh hơn. Nhưng khi đến gần khán đài nghe được tiếng trống, anh em mới bắt đầu sửa lại hàng ngũ đi ngang và đánh tay đều. Về đến trường, anh em nào cũng thấy buồn. Mặc dù, lỗi không phải do anh em hay các sĩ quan gây ra, nhưng tất cả ai cũng đều thấy mình có một phần trách nhiệm và danh dự trong đó. Vì thời gian học bù mà khóa 8 mãn khóa chậm hơn tất cả. Có lẽ từ trước đến giờ, trường Bộ Binh chưa có chuyện khóa đàn em ra trường trước khóa đàn anh ? Vậy mà lần này, nhà trường phải thay đổi thông lệ đó. Hai khóa đàn em 9B/72 và khóa 2A/73 ra trường trước khóa 8/72 B+C. Bởi cơ sự đó, đàn em gọi khóa 8 là khóa cơ hữu. Khóa nhận lãnh đủ mọi công tác. Anh em chán nãn, nhưng vị Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng bảo chúng ta nên hãnh diện vì được nhà trường giao công tác. Nhà trường có tin tưởng mới giao chứ đâu phải muốn giao là giao. Vâng đúng vậy. Chúng ta nên hãnh diện. Hãnh diện vì là khóa ở lâu nhất tại đây, vì được lãnh công tác do cấp trên giao phó. Hãy cố gắng chu toàn nhiệm vụ. Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức hùng anh mà ! Thời gian sẽ qua rất nhanh. Tám tuần lễ hay bao nhiêu tuần lễ cũng bằng thừa nếu chúng ta xem mọi việc bằng một con mắt bình thường. Đừng bao giờ nóng ! Hãy wait and see, ngày tháng chẳng bao lâu đâu các bạn. Bây giờ là tháng chín. Chỉ còn hơn tháng nữa, khóa này sẽ ra trường. Ngày ra đi, chắc hẳn vui buồn lẫn lộn. Vui là vì mang một cấp hiệu mới, cao hơn cấp hiệu cũ, buồn là vì phải giã từ những nơi in dấu vết mình từng sinh hoạt. Cứ tưởng tượng vác ba-lô lên vai đi ra khỏi trường, bỏ lại sau lưng mình Vũ Đình Trường từng thấm đượm bao giọt mồ hôi của mình, bỏ lại mái tranh chambre Đại Đội từng che mưa nắng nơi mình trú ngụ và phải chào giã biệt những con đường Bình Long, Long An, An Xuyên ... đầy bóng cây râm mát. Dù sao đi chăng nữa, những nơi đó cũng đã ghi một phần nào sự hiện diện của mình. Giống như ngày bãi trường thời thơ ấu, những khuôn mặt rạng rỡ nắng hương quân trường ngày nào còn bên nhau đầy đủ, bổng chốc lát khuất dạng bay đi tan tác nơi mỗi chân trời. Bẳng đi một thời gian sau, thử kiểm điểm lại lại coi chắc sẽ có thằng còn thằng mất. Tuổi trẻ trong thời chiến là phải chấp nhận. Vâng, chúng ta chấp nhận nhập cuộc, chấp nhận với tất cả ý nghĩa thương đau của nó. Làm gì mà phải than van ? Hai mươi tám tuần lễ ở đây, mười hai tuần lễ ở Quang Trung và tám tuần lễ chiến dịch đủ làm chúng ta chịu đựng. Con đường trước mặt vẫn mở ra tiến tới một chân trời. Còn ngần ngại gì nữa hở các bạn ? Hãy lên đường đi vào lịch sử ! Lần cuối, hãy nắm chặt tay chào nhau đi những bằng hữu yêu dấu. Trường Bộ Binh, ngày 9/9/73 SVSQ Võ Thành Trinh Trung Đội 331
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 6:41:52 GMT 9
TỪ MỸ LAI ĐẾN TÂN LẬP Bảo Định
Xin gửi đến quí độc giả và chiến hữu bài viết tôi ghi lại theo lời kể của một người còn ở Việt Nam về vụ thảm sát Tân Lập tháng 4/75 để ghi thêm vào quyển sách đen của cộng sản Việt Nam. Trước hết xin nhắc lại vụ thảm sát Mỹ Lai mà Cộng Sản đã lớn tiếng tuyên truyền để che lấp dã tâm của người Cộng Sản thường lấy người dân ra làm mộc đỡ đạn cho các đơn vị chiến đấu của chúng. 1. Vụ Thảm Sát Mỹ Lai Ấp Mỹ Lai-4 thuộc xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi, Trung phần Việt Nam là một nơi được xem như là nằm trong tầm ảnh hưởng của Việt Cộng. Tin tức tình báo ghi nhận Tiểu đoàn 48 Việt Cộng lối 250 tên đang hoạt động trong vùng. Ngày 25 tháng 2, Ðại đội C của Ðại úy Ernest L. Medina, Quân lực Ðồng minh Hoa Kỳ, trong một cuộc hành quân tuần tiễu vướng phải mìn làm cho 6 chết và 12 bị thương. Ngày 14 tháng 3, đơn vị lại chịu nhiều tổn thất khác. Ngày hôm sau, Trung tá Frank A. Baker, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/20 của Sư đoàn Americal 23 Bộ Binh, chỉ thị Ðại úy Medina mở cuộc hành quân "tìm địch và tiêu diệt địch" (Search-and- destroy) để tiêu diệt đơn vị Việt Cộng. Sáng sớm ngày Thứ Ba, 16 tháng 3 năm 1968, Ðại đội C được trực thăng vận xuống một bãi đáp ở phía Tây Ấp. Ðại úy Medina đặt Ban Chỉ Huy Ðại đội trong một khu nghĩa địa bên ngoài và tung các Trung đội tiến chiếm và lục soát mục tiêu. Trung đội 2 lục soát nửa Ấp về hướng Bắc, còn Trung đội 1 của Trung úy Calley lục soát nửa Ấp về hướng Nam. Sau khi tiến chiếm mục tiêu, Trung úy Calley đã cho lệnh bắn giết bừa bãi một cách dã man. Ðã có hơn 175 dân làng bị thiệt hại mà tất cả đều là đàn bà, trẻ con và người già cả. Lối 9 giờ sáng, Trung tá Baker, Tiểu đoàn trưởng bay trực thăng vào vùng. Khi biết được sự việc, ông liền ra lệnh cho Ðại úy Medina hãy ngừng ngay cuộc nổ súng. Vụ thảm sát này sau đó được đưa ra ánh sáng vào năm 1969. Kết quả có 25 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ bị kết án với nhiều tội danh khác nhau - 13, gồm Trung úy Calley bị kết "tội phạm chiến tranh" (war crimes) và 12, gồm Tướng Koster, Tư lệnh Sư đoàn về tội "bao che" (cover-up). Trung úy Calley bị tù chung thân, và Tướng Koster bị giáng cấp. 2. Vụ Thảm Sát Tân Lập Ngày 21 tháng 4 năm 1975, một vụ thảm sát không kém phần dã man do chính bọn Cộng sản xâm lăng Bắc Việt (cũng người Việt) đã thực hiện với chính người Việt (thường dân vô tội Miền Nam Việt Nam mà chúng xem là ngụy dân) với con số trên 183 nạn nhân mà tất cả là đàn bà, trẻ con và người già cả. Sau khi biết chắc chắn đơn vị cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Tiểu 2/43, Sư đoàn 18 Bộ Binh đã triệt thoái khỏi trận địa Xuân Lộc, rời căn cứ hỏa lực Núi Thị, đang di chuyển trong rừng cao su, gần Ấp Núi Ðô, hướng về Long Giao để theo LTL.2 đi Bà Rịa, các đơn vị của Sư đoàn 341 quân Cộng sản xâm lăng Bắc Việt, thuộc Quân đoàn IV của Tướng Hoàng Cầm, được lệnh tiến vào tiếp thu các làng xã từ đèo Mẹ Bồng Con, dọc theo QL.1 đến Ngã Ba Cua Heo, cửa ngõ đi vào Thị xã Xuân Lộc từ hướng Tây. Dù biết Xuân Lộc đã bị bỏ ngõ, nhưng Cộng quân vẫn e dè, thận trọng trong lúc tiến quân. Ðơn vị tiến vào xã Tân Lập, một xã nằm ngay sát phía nam đường xe lửa, cách căn cứ Núi Thị của Tiêu đoàn 2/43 lối 3 cây số về hướng Tây-Nam, cách Thị xã Xuân Lộc lối 5.5 cây số về hướng Tây, tọa độ 392-082, đã vướng phải mìn claymore do các chiến sĩ nghĩa quân gài. Mìn nổ đã làm cho một số cán binh cộng sản chết và bị thương. Phản ứng lại trước kẻ thù vô hình - vì tất cả các đơn vị của QLVNCH, kể cả Nghĩa quân đã được lệnh triệt thoái khỏi Xuân Lộc từ lúc 7 giờ tối ngày hôm trước, chỉ còn lại Tiểu đoàn 2/43 thì cũng đã rời Núi Thị hồi 5 giờ sáng - bọn cộng sản xâm lược nổ súng đồng loạt vào xã. Những tràng đạn tiểu liên AK47, B40, B41 bắn xối xả vào dân làng. Trớ trêu thay, những người dân này bị kích động, bị xúi giục hay bị dọa nạt bởi những kẻ nằm vùng đang ra đứng trước nhà để "hoan hô bộ đội giải phóng". Nhưng đáp lại là những tràng đạn dã man, giết người. Chúng ồ ạt tiến chiếm mà không gặp bất cứ một sức kháng cự nào. Tên chỉ huy ra lệnh lùa dân làng tập trung tại một bãi đất trống. Chúng bắt để tay trên đầu, nằm úp mặt xuống mặt đất rồi cho lệnh bộ đội "cụ Hồ" hay "bộ đội giải phóng" của nó "giải phóng" tất cả những ai chúng bắt được về bên kia thế giới. Những người còn chưa kịp chết vì đạn thì nó cho dùng lưỡi lê đâm chém cho đến chết mới thôi. Những tên du kích, những tên nằm vùng đi theo "bộ đội giải phóng" phải năn nỉ tên chỉ huy mãi cuộc bắn giết mới tạm ngưng. Vì trong số đồng bào bị giết hại đó có thân nhân của chúng. Con số tử vong đếm được trên 183 nạn nhân. Tất cả được lùa xuống hố và chôn tập thể. Hiện nay mồ chôn tập thể đó vẫn còn tồn tại tại xã Tân Lập, Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh. Vụ thảm sát Mỹ Lai dù ban đầu được bao che, nhưng cuối cùng, chỉ 1 năm sau đã được đưa ra ánh sang. Những quân nhân liên quan đều bị đưa ra tòa và bị trừng phạt. Báo chí Mỹ và thế giới làm rùm beng câu chuyện này. Ðó là điều tự nhiên. Kẻ làm ác phải đền tội. Chúng ta không thể bao che tội ác. Nhưng trước đó mấy tháng, đã xảy ra một vụ thảm sát rất rùng rợn và rất dã man, đã làm cho hàng ngàn hường dân vô tội bị chết thảm bằng súng AK47, B40, B41, lựu đạn, dao găm, mã tấu, bị búa đánh vào đầu, thậm chí bị chôn sống trong những hố chôn tập thể. Ðó là vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế. Vụ thảm sát này do bọn Việt Cộng và bọn Cộng sản xâm lược Bắc Việt chủ trương. Trong những ngày chiếm đóng cố đô, chúng đã lùa đi hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội về phía nam hoặc lên rừng để rồi giết sạch bằng nhiều phương thức từ hiện đại (súng) đến những phương tiện dã man thô sơ như búa, dao găm và mã tấu. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ phản chiến đã nói lên được một phần nào cảnh thây người nằm la liệt rải rác khắp đó đây tại Huế trong cái Tết đau thương đó. Nhưng tên chỉ huy trực tiếp là Ðại tá Việt Cộng Lê Minh cùng những tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Tường và em là Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân và nhiều tên khác vẫn còn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, mặc dù bọn chúng đã sát hại hơn 5 ngàn thường dân vô tội, tức con số nạn nhân nhiều gấp 30 lần vụ thảm sát Mỹ Lai; và tàn bạo, dã man gấp ngàn lần. Không những thế, chúng còn hãnh diện là có công lớn với "cách mạng"! Vậy mà báo chí Phương Tây và những kẻ phản chiến đã không làm lớn chuyện này, nếu không muốn nói là họ đã cố tình bỏ qua. Vụ thảm sát Tân Lập xảy ra ngày 21 tháng 4 năm 1975, ngay sau khi toàn bộ lực lương của Sư đoàn 18 BB và các đơn vị tham dự trận Xuân Lộc vừa triệt thoái. Báo chí Phương Tây đã đề cập nhiều về trận chiến tàn khốc này, nhưng rất anh dũng của QLVNCH. Nhưng không một ai nói đến vụ thảm sát dã man đã xảy ra tại một xã chỉ cách Xuân Lộc hơn 5 cây số. Lần đầu tiên cách đây vài năm, Jay Veith, tác giả tập tài liệu "Fighting Is An Art" viết về những trận đánh của Sư đoàn 18 BB từ Ðịnh Quán bắt đầu từ trung tuần tháng 3 năm 1975 đến trận cuối cùng 12 ngày đêm từ 8 tháng 4 đến 21 tháng 4 năm 1975, có hỏi tôi về câu chuyện này. Nhà văn Hải Triều bên Canada cũng có đề cập về vụ này. Cách đây không lâu, một người bạn của tôi hiện ở Xuân Lộc đã cho tôi biết đại khái như trên, không dám nói nhiều. Nhưng ký giả Mỹ Frank Snepp, ngồi tại Sài gòn, tác giả cuốn Decent Interval khi viết về trận Xuân Lộc đã cố tình nói sai sự thật, rồi Luật Sư Hoàng Cơ Thụy, tác giả cuốn Việt Sử Khảo Luận ở bên Tây cứ tưởng là thật, đã đưa vào cuốn sử của ông, và Luật Sư Nguyễn Văn Chức định cư tại Mỹ, không biết "mô tê ất giáp" gì cả, cứ thế trích lại: "Trực thăng đã đến bốc cái Tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của Sư đoàn 18, kể luôn Tướng Lê Minh Ðảo. Có 600 người dưới quyền Ðại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ". (600 người ở lại đó chính là Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18 BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Chế, chứ không phải Ðại tá Lê Xuân Hiếu - Ðại tá Hiếu và Tướng Ðảo đã di chuyển bộ trên con đường LTL2 về quận Ðức Thạnh, tỉnh Phước Tuy cùng quân sĩ, chỉ huy cuộc triệt thoái từ 7 giờ tối ngày hôm trước - Trên đường triệt thoái, Tiểu đoàn đơn độc đi xuyên qua khu vực chiếm đóng của Sư đoàn 341 CSBV, và những căn cứ địa của Việt cộng, đã chạm súng liên tục, bị bao vây truy diệt không ngừng, nên bị thiệt hại khá nặng, nhưng không quá bi thảm như các tác giả trên đã nói. Và cuối cùng cũng ra tới Long Thành, tỉnh Phước Tuy để được xe đưa về căn cứ Long Bình, tỉnh Biên Hòa. Riêng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và 27 quân sĩ bị thất lạc trong rừng cũng đã được trực thăng bốc về 4 ngày sau). Ký giả Frank Snepp với cương vị của ông ta lúc đó hẳn có biết vụ thảm sát này, nhưng đã lờ đi. Còn cái anh chàng ký tên là Hà Nhân Văn, quân sư của Nguyễn Hữu Chánh, khoe khoang chỉ đọc tài liệu của Việt Cộng về trận Xuân Lộc, đã xuyên tạc, viết sai lạc về cuộc lui binh của Sư đoàn 18 BB, mà cả địch và bạn đều công nhận là rất thành công. Câu nói để đời của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: "Ðừng nghe những gì cộng sản nói, Hãy nhìn những gì cộng sản làm". Nhưng Hà Nhân Văn đã tin vào tài liệu do Việt Cộng viết - Việt Cộng nói láo để che đậy thảm bại chua cay mà lần đầu tiên chúng gặp phải trong 55 ngày đêm xâm lược miền Nam. Chúng tiến quân như thế chẻ tre. Văn Tiến Dũng, tên đại tướng chỉ huy đoàn quân xâm lược Bắc Việt đã từng khoác lác: "cán bộ tham mưu đã không kịp vẽ bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội", nhưng khi đụng phải Sư đoàn 18 BB tại Xuân Lộc thì lại phải than: "Mặt trận Xuân Lộc đã ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu..." - Vì một mưu đồ nào đó, Hà Nhân Văn đã nói sai sự thật về Sư đoàn 18 BB và vị chủ soái là Tướng Lê Minh Ðảo. Luật sư Nguyễn Văn Chức, một nhà trí thức, nhưng lại rất gà mờ đi tin những gì do ký giả Mỹ ngồi tại Sài gòn trong phòng lạnh, uống rượu whisky, tưởng tượng rồi viết lếu láo. Nhưng tất cả đã cố tình lờ đi vụ thảm sát Tân Lập, một vụ thảm sát dã man và tàn bạo hơn nhiều so với vụ thảm sát Mỹ Lai. Ðã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ khi vụ thảm sát Tân Lập xảy ra, nhưng bọn Việt Cộng vẫn giấu kín. Người chết thì không thể sống lại. Nhưng những tên hung thủ vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thậm chí còn được tuyên dương là anh hùng quân đội Nhân dân vì đã giết được nhiều Mỹ-Ngụy, mà thực tế chỉ là những người dân vô tội. Dù bây giờ chúng ta không làm được gì, nhưng cần thiết phải nói lên cho mọi người biết. Biết để mà ghê tởm, để mà xa lánh chúng, để đừng có ảo tưởng gì về chúng. Chứ đừng như ai cứ chịu đấm ăn xôi, nhưng sợ rằng xôi lại hỏng, và chỉ làm trò cười cho thiên hạ! Bảo Ðịnh
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 6:43:40 GMT 9
Hố Chôn Người Ám Ảnh Trần Đức Thạch (Bài Ức ký là cũa Trần Đức Thạch, Cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266 - Sư đoàn 341 - Quân đoàn 4.CS BV) Thời gian lặng lẽ trôi, tôi một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải nói . Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng khuyên "Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy". Và quả thật, sống trong xã hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc.Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp với sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm vụ chốt chặn. Nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam cộng hoà tiếp viện cũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước đã đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50 thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa. ... Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ. Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa. - Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây! Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng. Tôi quát: - Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình. Mâý ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi: - Anh ơi! đây là lệnh. - Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa! - Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em "giết lầm hơn bỏ sót". Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm! - Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm! Thấy tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi dật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh: - Ai bắn đấy? - Đại đội phó Hường đấy anh ạ! Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi bị sóc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ "Đi dân nhớ ở dân thương" mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì? Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em Phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh: - Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm! - Không lo, có tôi đi cùng! Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại: - Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang của những người đã chết sau này còn có việc cần đến. Thế là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý như vậy. Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ "Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc. Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?" Công việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảmgiác tội lỗi. Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết chết bố Nghê. Nghê "mừng chưa kịp no" đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn. Nghê buốn rầu nói với tôi: - Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại hết cho anh ấy để lo việc chôn ba. - Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này. * * .... Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4 thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó như thế nào hay để nguyên vậy? Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình dung việc làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác. Không! Người dân ấp Tân Lập sẽ khắc vào xương tuỷ câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy chưa thể phải nhoà được. Còn những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa có lẽ họ cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng sau này chiến thắng. ý nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương này. Sau ngày giải phòng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người, mặt tái mét: - Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả nút. Bạn tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là Đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ hồ khi nghĩ tới vụ thảm sát ở ấp Tân Lập... Trần Đức Thạch Cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266 Sư đoàn 341 - Quân đoàn 4 CSBV
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:14:12 GMT 9
PHI VỤ TỐNG LỆ CHÂN Nguyễn Văn Ba "Tống Lệ Chân", mới nghe qua, như tên người con gái Trung Hoa, có nhan sắc đẹp tuyệt vời, tài danh nổi bật, được ghi trong sử sách lưu truyền cho hậu thế!Tôi không biết mỹ danh đó có từ lúc nào, xuất xứ từ đâu? Nhưng nó đã chiếm một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong mùa Hè đỏ lửa 1972.Nhiều sư đoàn chánh quy Bắc Việt được yểm trợ bởi chiến xa và đại pháo hạng nặng, ồ ạt tiến sang từ biên giới Campuchia và Hạ Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh, với mưu đồ đánh chiếm hai tỉnh Bình Long và Phước Long để thành lập chánh phủ gọi là "Mặt trận Giải phóng Miền Nam", gây hậu thuẫn quốc tế và đặt áp lực nặng nề cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Sàigòn. Tống Lệ Chân là một địa danh, hay đúng hơn là một ngọn đồi chiến luợc, khoảng hơn năm dặm về hướng Tây Nam của thành phố An Lộc.Ngọn đồi này nhờ nằm ở một địa thế cao, được trấn giữ bởi một tiểu đoàn Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hòa rất tinh nhuệ, nên nó chính là tai và mắt, không những cho thành phố An Lộc mà ngay cho chính thủ đô Sàigòn, vì nó kiểm soát được sự vận chuyển của bộ đội Bắc Việt và cơ giới chiến tranh, về hướng Tây Bắc Sàigòn, đưa quân vào Bình Dương, Lái Thiêu và Biên Hòa, nơi đặt Bộ Tư lệnh Vùng III Chiến Thuật. Vì lý do chiến thuật và toàn bộ chiến lược xâm chiếm miền Nam, nên ngọn đồi Tống Lệ Chân là cây gai nhọn nhức nhối trong nách, Cộng Sản phải nhổ nó đi bằng mọi giá. Từ một ngọn đồi hiền lành, xung quanh bao bọc bởi rừng xanh bát ngát, dưới chân đồi một con suối uốn khúc quanh co, tô đậm nét như một bức tranh thủy mạc. Nếu không có trận chiến vừa qua, cũng chẳng có ai cần biết nó, như Ben Hét, Đức Cơ, Dakpek, Dakto..v..v... Những địa danh thật xa lạ với mọi người dân thị thành, nhưng bỗng chốc, nó trở thành những danh xưng được nhắc nhở thường xuyên qua những trận đánh hãi hùng, khiếp đảm, hàng ngày trên báo chí, đài phát thanh, màn ảnh truyền hình, đã làm chấn động lương tâm thế giới. Đã lâu lắm rồi, những vết tích tàn phá của chiến tranh trong trí nhớ gần như đi vào quên lãng. Nhưng chiều hôm nay nó được hâm nóng và sống lại trong tôi, vì tình cờ đã gặp lại những chiến hữu cùng một đơn vị sau hơn hai mươi năm dài đằng đẵng cách biệt. Người hùng "Tống Lệ Chân", cựu Đại úy Lê Văn Cầu, Phi tuần Trưởng của Phi đoàn 237 Chinook, tôi không dùng đại danh hay ca tụng anh để lấy lòng, nhưng sự thật đã xảy ra cách đây trên hai thập niên vừa qua. Vẫn dáng người gầy gầy như ngày nào, nhưng không bao giờ thiếu nụ cười cỡi mở, buông thả trên gương mặt để đón chào anh em chiến hữu. Gặp lại anh trong bữa tiệc họp mặt tại thành phố San Jose California, với một số anh em cựu Lôi Thanh như: Nguyễn Mai, Trần Duy Tôn, Lưu Thế Ngọc, Nguyễn Văn Tiên, Nguyễn Vũ, Nguyễn Văn Mai (Đà Nẵng), cùng hai phu nhân của hai anh Vũ và Mai. Thật sung sướng và hãnh diện, tôi được may mắn gặp lại anh em đã có một thời chiến đấu vào sinh ra tử có nhau, chia sẻ từ bịch gạo xấy, lon thịt heo ba lát, cùng ngồi ăn trưa dưới bụng tàu, trong những buổi trưa Hè nắng cháy của vùng hỏa tuyến Tây Ninh. Bây giờ gặp lại các anh em ở vùng đất xa lạ này, chúng ta tuy có già thêm đôi chút, cuộc sống nhiều thay đổi hơn xưa, tuy vậy tình anh em vẫn nổng nàn, ấm áp như thuở nào. Tôn vẫn tính nào tật nấy, hào hoa quá mức, Ngọc ăn chơi công tử, Vũ vẫn hoạt bát trẻ trung, Mai cứ ngỡ là tài tử Henry Chúc, Tiên mói sang nên còn nhiều ưu tư bỡ ngỡ. Niên truởng Mai cựu Phi đoàn Trưởng Đà Nẵng, mới về hưu ở hãng IBM, trông đạo mạo như cụ non, cần nhiều chất tươi để để tóc bớt rụng.! Chúng tôi chia nhau chén tới chén lui, chén qua chén lại, từ ba giờ trưa mãi đến gần bảy giờ chiều, vì có nhiều anh em phải đi đám cưới chiều hôm đó nên chúng tôi tạm chia tay nhau, và hẹn sẽ gặp lại ở vũ trường Mini vào lúc chín giờ ba mươi tối. Niên trưởng Mai đưa tôi về để thăm gia đình anh chị. Còn "chú Tư Cầu" về nhà rước vợ con sẽ tới sau. Thật hạnh phúc và sung sướng không ai bằng, "chú Tư Cầu" được thím Tư vừa trẻ, vừa đẹp, về để giúp chú "nâng cằm sửa mũi..." và tặng cho chú hai cháu thật ngoan hiền, kháu khỉnh dễ thương. Lúc này niên trưởng Mai, có lẽ muốn dành sức lực để phục vụ bà xã tối nay, nên xin vào nghỉ lưng một tí, cón tôi với "chú Tư Cầu" ngồi lai rai nhậu tiếp dài dài, kể chuyện rên trời dưói biển, rồi đến chuyện hành quân ly kỳ, hấp dẫn của một thời "Dốc Sỏi" Biên Hòa. Tôi biết Cầu từ ngày thành lập đệ nhất Phi đoàn Chinook Lôi Thanh 237, vào giữa khoảng năm 1970-1971, anh thuộc vào nhóm sĩ quan hoa tiêu trẻ, mới ra trường, chưa vợ con, rất hăng say hoạt động trong mọi công tác. Cón chúng tôi, lúc đó không đến nỗi già lắm, tuy nhiên đối với anh em thì được xếp vào lớp "lão làng". Vào khoảng mùa Hè năm 1972, chiến trận ở vùng III Chiến Thuật càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn, thành phố An Lộc chịu đựng hàng ngàn quả đạn pháo ngày đêm, nhà cửa, phố xá nát tan từng mảnh vụn, dân chúng đã bồng bế, dẫn dắt nhau, bỏ hết tài sản theo quốc lộ chạy về hướng Chơn Thành, về gần Sàigòn. Tiền đồn Tống Lệ Chân được tủ thủ bởi khoảng một tiểu đoàn Biệt Động Quân, đã bị cô lập nhiều tuần bởi cả trung đoàn chính quy Bắc Việt, đang rình rập sát dưới chân đồi, trực thăng tải thương và tiếp tế bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 và súng phòng không đe dọa trầm trọng, không thể đáp được trong ban ngày, phi cơ vận tải C-130 thả dù thực phẩm, thuốc men, phần lớn đều bị gió đưa ra ngoài, vào vùng kiểm soát của địch. Việt Cộng thường xuyên pháo kích, đại pháo cày nát gần trọc hết ngọn đồi, những chiến sĩ Mũ Nâu gan lì Việt Nam Cộng Hòa, núp trong những giao thông hào, sâu trong lòng đất như những con rắn độc, đã oai hùng, mảnh liệt đốn ngã những đợt tấn công biển người của Việt Cộng. Trung tá Ngôn, Chỉ huy Trưởng tiến đồn kêu gọi Không Quân cho trực thăng đưa quân vào tăng viện và chuyển bớt thương binh về bệnh viện để ông rảnh tay chiến đấu. Lệnh từ Tổng Tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đưa xuống Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 3 Không Quân, yêu cầu cho trực thăng Chinook CH-47 - Phi đoàn 237 - thi hành phi vụ cảm tử này. Lôi Thanh I, Phi đoàn Trưởng, Phi đoàn 237 nhận đưọc mật lệnh, ông cho mở một cuộc họp kín, với sự có mặt đầy đủ một số anh em phi hành đã có nhiều kinh nghiệm chiến trận, để chọn người tình nguyện. Sau khi Lôi Thanh I tuyên bố lý do và cho biết mật lệnh, không khí trong phòng họp lúc đó trở nên cực kỳ im lặng, nặng nề và khó thở, không ai có một lời thêm bớt hay bình luận gì cả. Tôi nhìn tất cả các anh em hoa tiêu và anh em hạ sĩ quan phi hành lòng chùng xuống, mắt mờ đi, tâm não hoàn toàn như tê dại, tự nhủ thầm: - Người ta sắp bắt chúng tôi làm vật tế thần. Thật ra tất cả anh em chúng tôi không phải là những người sợ chết hay muốn tránh né những phi vụ hiểm nguy, nhưng cái bực tức không nói lên được lúc đó là cấp chỉ huy đã không hiểu khả năng kỹ thuật cơ giới của một chiếc Chinook, hay vì sợ trách nhiệm nên xử dụng chúng tôi một cách sai lầm?... Cũng không thể dựa vào các yếu tố chiến tranh chính trị hay tâm lý chiến thuật nào khác để bào chữa cho phi vụ, vì nó có thể thực hiện được bằng trực thăng loại nhỏ UH-1, chở mỗi lần mười quân nhân va chọn thời gian đáp trong năm lần khác nhau. Loại trực thăng UH-1 được chế tạo dùng trong chiến thuật đạt yếu tố bất ngờ trong lòng địch, như chiến thuật "Diều Hâu", nó có khả năng xoay trở rất nhanh nhẹn, chỉ cần một thời gian, trong khảng năm giây đồng hồ, là có thể đổ được quân và đem được thương binh lên dễ dàng, ta có thể ước đoán tông số thời gian kể như nguy hiểm nhất, từ lúc vào bãi đáp cho đến khi rời khỏi vị trí một cách tương đối an toàn, chỉ tốn vào khoảng hai mươi giây đồng hồ là tối đa. So với một chiếc Chinook CH-47, thật to lớn kềnh càng, chở năm chục binh sĩ, khi hạ cánh với một tốc độ rất chậm, vào một tiền đồn trên đồi, không chỗ ẩn núp, diện tích bãi đáp không lớn hơn khuôn viên một căn nhà, xung quanh triền đồi toàn là quân chính quy Bắc Việt, núp dưới giao thông hào chằng chịt, với những đại liên phòng không tối tân của Nga Sô và Tiệp Khắc, hỏa tiễn SA-7, súng cối 82 ly, và đại pháo 122 ly, đã lấy tọa độ bãi đáp chính xác. Tôi giả sử binh lính Việt Cộng có mù mắt, điếc tai, ngủ gục hết cả lũ, tính theo thời gian nhanh nhất, khi tàu giảm tốc độ vào cận tiến để chuẩn bị đáp an toàn cho năm mươi quân nhân chạy ra phía cửa sau đuôi và chờ khiên thương binh đưa vào, xong xuôi cất cánh, ra tới vị trí tương đối an toàn, ít ra cũng phải mất hết khoảng hai trăm giây đồng hồ. Nếu ta thử so sánh thời gian nguy hiểm trên vùng với chiếc phản lực cơ F-5, khi chúi xuống thả bom, xong kéo lên rời vị trí, chỉ trong tích tắc vài giây đồng hồ mà đôi khi còn bị bắn hạ bởi SA-7 hay đạn phòng không một cách dễ dàng, còn chiếc Chinook, to lớn gấp hai, ba lần, xoay trở rất chậm chạp, hai bên hông tàu mang cả chục ngàn lít xăng JP-4, chỉ cần một phát súng nhỏ, nhạy lửa là nó trở thành một cây đuốc khổng lồ, soi đường cho thần chết, không những thiêu mạng phi hành đoàn mà nó còn đốt cháy năm mươi quân nhân ngồi phía sau nữa. Trong phạm vi bài này, tôi không có ý gián tiếp chỉ trích cá nhân bất cứ một cấp chỉ huy thừa hành nào cả, vì tôi biết lệnh từ trên tối cao đưa xuống, tôi chỉ đưa ra những dẫn chứng sai lầm về sự xử dụng kỹ thuật tác chiến cơ giới. Nhưng quân đội, lệnh là phải thi hành, nếu may mắn còn sống sót không tật nguyền hoặc sứt tay, gãy gọng là điều đáng mừng, phước đức ông bà để lại. Một phút im lặng nghẹt thở trôi qua, như dò xét sự phản ứng của tất cả đoàn viên phi hành. Lôi Thanh I cho biết rằng đây là lệnh của thượng cấp đưa xuống, nếu không có người tình nguyện ông sẽ chỉ định người để thi hành phi vụ tối quan trọng này. Thời gian chậm chạp như muốn ngừng lại, tôi lên tiếng hỏi để biết nhiệm vụ chính của phi vụ dùng vào công việc gì?... Mặc dù tôi là Trưởng phòng Hành quân của phi đoàn lúc đó, nhưng ông ta cũng từ chối, cốt ý để bảo toàn bí mật cho bãi đáp. Khi Lôi Thanh I vừa dứt lời, tôi nhận thấy đại úy Lê Văn Cầu, phi đội trưởng Phi đội 1 ngồi bên ghế trái của tôi, đưa tay lên xin tình nguyện, tiếp theo là Đại úy Huỳnh Bá Hùng, phi đội trưởng Phi đội 2 cũng đưa tay tình nguyện. Bây giờ cần một cơ phi, xạ thủ và áp tải. Thượng sĩ Nguyễn Văn Tranh, Trung sĩ Nguyễn Văn Hoàng cũng đưa tay tình nguyện, tôi nhớ cũng còn nhiều anh em sĩ quan và hạ sĩ quan khác nữa cũng xin tình nguyện, nhưng sau cùng chỉ chọn được phi hành đoàn có đầy đủ khả năng như sau: Trưởng phi cơ cho phi vụ Đại úy Cầu, hoa tiêu phụ Đại úy Hùng, cơ phi Tượng sĩ Tranh, xạ thủ Trung sĩ Hoàng và áp tải viên tôi rất tiếc là không còn nhớ rõ tên anh. Phiên họp kết thúc vào khoảng bốn giờ chiều, để bảo toàn bí mật phi vụ, lệnh phi đoàn cấm trại 100% cho tới khi nào công tác thi hành xong. Tôi đưa các anh em trong phi hành đoàn tình nguyện vào khu quán ăn của cư xá hạ sĩ quan trong căn cứ Không Quân để dùng cơm chiều. Bảy giờ chiều ngày 26-12-1972, phi cơ được lệnh cất cánh từ phi trường Biên Hòa, liên lạc với C&C qua tần số vô tuyến FM, để đáp vào An Lộc nghe thuyết trình và nhận lệnh từ đơn vị bạn. Trời cuối tháng vào mùa lễ Noel nên có vẻ tối sớm hơn thường lệ, những tia nắng hanh vàng đã bắt đầu nhạt dần, ở phía bên kia đầu phi đạo, sân bay đã vắng người qua lại, chỉ còn mình tôi lẻ loi đang ngồi đây để tiễn đưa anh em. Trong trận thế chiến vừa qua, phi đội Thần Phong cảm tử của Nhật Hoàng trước khi cất cánh ra trận, được vinh dự đứng trước hàng quân uống cạn ly rượu "Sakê" hâm nóng, trao tặng từ một tướng lãnh cao cấp để rồi bay vào tử địa. Còn các anh bây giờ được ai tiễn, ai đưa? Hàng quân vinh dự nào đứng dàn chào để tiễn biệt các anh? Tôi biết các anh cũng chẳng cần những thứ rườm rà, màu mè đó, nhưng với ý chí và lòng dạ sắc son nguyện dâng hiến đời mình cho quê mẹ Việt Nam, nên các anh đã hy sinh tình nguyện chấp nhận phi vụ, đáp vào một nơi được gọi là "địa ngục trần gian". Phi cơ đã mất hút, chìm vào bóng hoàng hôn về hướng Tây Bắc chân trời. Tôi lặng lẽ lái xe trở về phòng Hành quân Phi đoàn để theo dõi tin tức phi vụ, lòng lâm râm khấn vái cầu nguyện cho các anh đi được bình an... Trách nhiệm phi vụ các anh chia đều cho nhau, Đại úy Cầu chỉ huy toàn diện, cũng như lo phần bay và điều khiển các cơ phận phi cơ. Đại úy Hùng lo phần vô tuyến, truyền tin liên lạc với C&C và đơn vị bạn, cũng như kiểm soát bản đồ, hướng bay và tọa độ hành quân, các anh em cơ phi, xạ thủ và áp tải giữ an ninh phía trong tàu và đồng thời kiểm soát, báo cáo các vị trí phòng không, SA-7 của Việt Cộng từ dưới bắn lên, để phi cơ tránh né cùng lúc xử dụng hỏa lực tối đa của hai khẩu đại liên, gắn hai bên thân tàu để làm áp lực địch. Kim đồng hồ chỉ hơn tám giờ tối, phi cơ đã đến vùng chỉ định, bên ngoài chỉ còn lại là một màu đen, xung quanh là rừng núi âm u của đêm sau ngày Chúa Giáng sinh. Thành phố An Lộc hoàn toàn như một bóng ma trong đêm, không còn một ngọn đèn đường nào đứng vững hay được cháy sáng để ghi nhận là vị trí của một khu phố. Ngọn đồi Tống Lệ Chân cách đó không xa lắm nghe tiếng phi cơ bèn chớp đèn hiệu, không liên lạc được với C&C hai anh cứ ngỡ đó là thành phố An Lộc, nên cho phi cơ bay thẳng vào hướng có ánh đèn hiệu. Một phút sau, những tia chớp sáng không ngừng của đại liên phòng không từ dưới đất bắn lên như pháo bông ngày Tết, các anh mới nhận ra là đang bay hơi chệch về hướng Tống Lệ Chân. Đại úy Cầu bình tĩnh kéo nhanh cần lái về phía phải cho con tàu lướt nhanh ra khỏi tầm hỏa lực địch, cũng trong lúc đó Thượng sĩ Tranh báo cáo nhìn thấy đèn hiệu về hướng một giờ cách đó không xa lắm. Sau khi quan sát thật kỹ và liên lạc được với quân bạn, Đại úy Hùng OK, đưa ngón tay cái lên trời đồng ý cho Đại úy Cầu chuẩn bị cho phi cơ đáp xuống phía Nam của An Lộc. Sau khi kiểm soát lại phi cơ, mọi sự đều an toàn, anh em phi hành đoàn được đưa vào bộ chỉ huy hành quân tiền phương để nghe thuyết trình phi vụ. Sĩ quan tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt được trang bị với đại liên phòng không đủ loại đang ẩn núp dưới các hầm hố xung quanh chân đồi, tin cũng cho biết thêm là chúng cũng có thể đã được trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 để chống lại các loại phi cơ chiến đấu của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhiệm vụ chính của phi vụ là chở năm chục lính Biệt Động Quân để tăng viện và thay thế những người ở quá lâu trong đó, đồng thời rước về một số thương binh, Phi vụ rất giản dị có thế thôi, nếu ở một vị trí nào khác thì công việc không có gì quan trọng hay đáng nói cả. Giờ hẹn tại bãi đáp là đúng 12 giờ khuya. Trung tá Ngôn, Tiểu đoàn Trưởng Biệt Động Quân phải chuẩn bị sẵn sàng tại bãi đáp, đèn hiệu phải đặt dưới hầm trú ẩn để Việt Cộng khỏi nhìn thấy. Phi hành đoàn họp nhau để bàn về kỹ thuật đáp và phân chia công việc cho mọi người. Tàu sẽ chở năm chục quân nhân với trang bị vũ khí đầy đủ, là một việc khó khăn cho hoa tiêu điều khiển phi cơ để tránh né đạn phòng không vì quá nặng nề, không xoay sở nhanh chóng được. Nếu bay sát ngọn cây với tốc độ thật nhanh, đột ngột từ phía chân đồi nhảy lên thẳng bãi đáp quá nhỏ, xung quanh là ụ súng của tiền đồn, thì là một chuyện không thể thực hiện được nhất là về ban đêm như tối hôm nay, chỉ có loại phi cơ nhỏ một cánh quạt như UH-1 hay H-34 là có thể thực hiện được lối bay nguy hiểm tránh phòng không này; như vậy chỉ còn lại một giải pháp cuối cùng là kỹ thuật đáp 360 độ. Cầu và Hùng đều đồng ý với lối bay này tuy nó rất là nguy hiểm, vì sẽ làm mồi cho súng phòng không, nhưng còn có cơ hội sống sót nhiều hơn là kỹ thuật bay "nhảy bổ" vào lúc ban đêm. Đúng 11 giờ 45 khuya, trời bên ngoài tối om như mực, năm mươi quân nhân Biệt Động đã ngồi yên lặng trong lòng tàu. Đại úy Cầu cho quay máy chuẩn bị cất cánh, âm thanh phản lực của hai động cơ gắn phía sau hòa lẫn với tiếng cánh quạt quay đều trong gió, nghe như tiếng rống phẩn nộ của rừng xanh vang lên trong đêm khuya tĩnh mịch, Đại úy Hùng kiểm soát lại các tần số liên lạc với C&C và các danh hiệu đơn vị lần cuối, Thượng sĩ Tranh báo cáo cho Trưởng phi cơ tình trạng tàu tốt sẵn sàng cất cánh. Hơn 11 giờ 50, C&C cho lệnh cất cánh lấy cao độ khoảng hai ngàn bộ, trực chỉ hướng Tây Nam vào thẳng Tống Lệ Chân. Đại úy Cầu ra lệnh cho Trung sĩ Hoàng lên đạn hai khẩu đại liên để sẵn sàng tác xạ. Đèn Navigation bên ngoài phi cơ đã tắt, chiếc phi cơ hiên ngang như một dũng tướng ngày xưa đơn thương độc mã tiến vào trận địa. Đại úy Hùng chỉ về phía trước mặt đèn báo hiệu bãi đáp đã nhấp nháy dưới hầm, tiền đồn Tống Lệ Chân gần kề trước mặt. - OK! "Pitch down"! Toàn thân phi cơ như hụp xuống khỏi mặt nước, xoay tròn thật gắt 360 độ về phía trái như muốn vỡ tung, hết sức khó chịu vì sức rơi lúc đáp quá nhanh từ trên cao độ. "Rầm... Rầm...!!!" Nhiều khối lửa to lớn đang chớp nhoáng phía dưới, chúng đang pháo kích vào bãi đáp. Địa ngục trần gian bắt đầu cơn bão lửa! Đạn phòng không dưới chân đồi đã tập trung giăng chằng chịt cả màn đêm, những viên đạn đỏ tươi như màu máu vọt lên đan vào nhau thành những tia sáng như hình rẻ quạt quét cả trọn vùng trời, nhắm về hướng phi cơ đang lơ lửng xoay tròn giữa không gian; vì trời quá tối nên nhiều trái sáng được địch quân bắn lên để cho chúng dễ dàng nhận diện phi cơ. Dưới sức sáng nhân tạo của các trái hỏa châu, con tàu thật lẻ loi đơn độc không thể dấu mình trong màn đêm được nữa, đã gánh chịu hàng trăm viên đạn của loài quỷ đỏ hung hăng ghim vào thân xác như một con đại bàng bị tên trúng vào tử huyệt, nhưng oai hùng dang cánh thản nhiên đáp trên đầu địch. Đại úy Hùng không còn liên lạc qua tần số vô tuyến với C&C được nữa, cơ phận phát điện bị trúng đạn phát hỏa, hệ thống thủy điều bị bể ống hoàn toàn ngưng hoạt động, cần lái bị "locked" chặt cứng không còn điều khiển được. Đại úy Cầu như tê dại nhìn thẳng phía trước, dùng hết sức còn lại với phản ứng tự nhiên của mình, cố điều khiển để cho con tàu rơi từ trên cao hơn 30 bộ xuống bãi đáp. Thân phi cơ chạm mạnh trên đất nhảy dựng trở lên, uốn mình như con khủng long hung hăng dãy chết, những cánh quạt phía trước chặt mạnh vào ụ súng của tiền đồn tan nát văng từng mảnh vụn. Lửa khói đã cuồn cuộn cháy ở phía sau đuôi, đạn súng cối, hỏa tiễn địch quân liên tiếp pháo vào, những chuỗi dài nối tiếp nhau chớp sáng của tạc đạn nổ long trời, cát bụi tung bay mù mịt cả bốn bề. Con tàu sau vài giây đồng hồ mới chịu đứng yên, chấp nhận ngày cuối cùng của đời mãnh long trên ngọn đồi xa lạ này. Lửa đã cháy dữ dội hơn, một số Biệt Động Quân còn sống sót chạy tràn ngập ra phía trước phòng lái, tìm cách thoát ra ngoài. Đại úy Cầu cảm thấy đau đớn nhức nhối ở gót chân mặt nhưng vì sự sống còn, anh cố gắng lết ra từ phía bên trái cửa sổ phi cơ. Bên ghế phải Đại úy Hùng đang bị buộc chặt vì dây an toàn bị gãy chốt, ghì chặc anh vào thành ghế với áo giáp, súng đạn mang lỉnh kỉnh bên hông, lại bị lính Biệt Động Quân chen lấn thoát thân đè chặt anh xuống ghế, lửa đã cháy sát bên lưng, sức nóng hừng hực của cả ngàn lít dầu JP-4 táp vào mặt, anh cảm thấy gần như tuyệt vọng, trong lúc đó một anh lính Biệt Động sau cùng vừa trèo lên để chui ra thì bị một mảnh đạn pháo kích trúng vào đầu bị thương ngã người lại phía sau, tay anh lính níu chặt lấy chiếc gối nệm phía sau lưng Đại úy Hùng để khỏi ngã quỵ xuống sàn tàu, chiếc gối sút ra văng xuống theo tay anh lính. Nhờ cơ hội may mắn hiếm hoi này Đại úy Hùng lòn mình thoát ra được từ phía lỗ trống trên nóc phòng lái. Trung sĩ Hoàng nhờ Trời, Phật che chở nên chui ra ngoài được an toàn trước khi phi cơ phát nổ. Tất cả những anh em thoát chết đều cố gắng bò nhanh xuống hầm trú ẩn gần đó, đạn pháo vẫn tiếp tục rú lên trong gió gây ra những âm thanh thật kỳ dị nghe như tiếng ma tru, quỷ rống rợn cả người. Lửa cháy phi cơ soi sáng cả góc trời, có lẽ giờ phút đó dưới chân đồi trong các hang hóc chằng chịt, loài quỷ đỏ đang ăn mừng nhảy múa bên các vong linh oan hồn mà chúng vừa mới sát hại. Trung tá Ngôn cho anh em Biệt Động Quân ra khiêng Đại úy Cầu vào băng bó, kiểm điểm quân số phi hành đoàn không thấy Thượng sĩ Tranh, mọi người nghĩ rằng anh đã chết. Sáng hôm sau mọi việc tương đối yên lặng, anh em lần mò bò ra phi cơ để lấy xác vì có rất nhiều quân nhân Biệt Động đã bị súng phòng không của Việt Cộng bắn chết trong lúc đáp, cũng như bị thương chạy ra ngoài không được bị chết cháy trong tàu. Phi hành đoàn nhận diện được dấu tích của Thượng sĩ Tranh mặc dầu đã bị cháy tan biến, nhưng thẻ bài kim loại và súng đạn anh mang theo, cho biết rằng anh đang đứng gần cửa phía sau thân tàu, có thể anh bị đạn phòng không chết trước khi đáp. Đại úy Hùng thu nhận cẩn thận tất cả thân xác còn lại của anh chờ ngày mang về để mai táng. Khoảng ba ngày sau, phi hành đoàn được báo là sẽ có một phi hành đoàn UH-1 vào rước về, mọi người thức suốt đêm chờ đợi sau cùng được báo là phi vụ cứu cấp bị lộ nên bải bỏ, không thể nào rước các anh ra được. Những giờ phút ở đây thật dài vô tận, những giấc ngủ chập chờn, tử thần luôn luôn rình rập, ranh giới giữa sự sống và chết gần như lẫn lộn không giới tuyến rõ rệt. Các anh lính Mũ Nâu anh hùng chiến đấu thật cô đơn, cam khổ, đạn pháo địch ngày đêm từng chập không ngơi nghỉ, tiếng trống, tiếng loa của loài quỷ đỏ vẫn hò hét, kêu gào dưới triền núi vọng lên như tiếng khóc than từ địa ngục. Những anh lính Biệt Động Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm kìm chặt tay súng, núp sâu dưới lòng đất sẵn sàng đứng lên để đập vỡ cái mưu toan của chúng muốn biến nơi này thành mồ chôn tập thể. Vào khoảng chín giờ tối của đêm thứ năm, Trung tá Ngôn cho phi hành đoàn biết lệnh mật từ Bộ chỉ huy Hành quân Không Quân là sẽ có người vào rước anh em trong giờ giao thừa của đầu năm Dương lịch. Mọi trách nhiệm và kế hoạch di tản được chuẩn bị đầy đủ. Trung sĩ Hoàng sẽ cõng Đại úy Cầu bị thương chân không đi được, Đại úy Hùng sẽ ôm xác Thượng sĩ Tranh cố gắng chạy nhanh ra tàu. Bây giờ là 23 giờ 55 đêm 31-12-1972, chỉ còn năm phút nữa là một năm mới sẽ ra đời. Trong những giây phút thiêng liêng này ở các quốc gia khác, người ta đang hạnh phúc sung sướng bên những ly sâm-banh sùi bọt, những lời chúc an lành, những nụ hôn ấm cúng, những dạ hội, những vũ điệu, những bài ca gần như bất tận trong đêm nay. Còn tại nơi đây, nơi một quốc gia nhỏ bé, một tiền đồn heo hút nằm giữa rừng hoang vắng, nơi mà những căm thù được dựng lên bằng những suy luận vô lý của hai ý thức hệ ngoại lai. Hởi những người Việt Nam da vàng máu đỏ, tại sao?... Và tại sao?... Tiếng động cơ trực thăng đã bắt đầu nghe rõ từ hướng Đông Bắc, như một thiên thần từ trời cao đang ngang nhiên tiến vào chiến tuyến giữa đêm trừ tịch để cứu người lâm nạn. Đạn lửa phòng không nổ ròn như pháo Tết, hỏa tiễn ì ầm rơi vào bãi đáp. Cộng Sản đang làm lễ đăng quang để tiếp rước thiên thần đang giáng thế. Thật bình tĩnh với nụ cười ngạo mạn, Trung úy Phát tự "Phát Sứt", đã nhiều lần vào sinh ra tử khéo léo đặt con tàu vào bãi đáp một cách dễ dàng, bên ghế trái, hoa tiêu phụ là Trung úy Bằng, một cựu Biệt Động Quân Biên Phòng, một người anh hùng luôn luôn đặt nặng trách nhiệm và bổn phận của Tổ Quốc giao phó trước sự sống còn của đời mình. Đạn pháo kích vẫn tiếp tục rơi tới tấp, những cái chớp nhoáng, lập lòe gây ra một thứ ánh sáng cực kỳ man rợ. Trung sĩ Hoàng hết sức khó khăn vất vã mới đưa được Đại úy Cầu lên tàu. Đại úy Hùng nhất quyết ôm chặt tro xác của Thượng sĩ Tranh lần mò chạy theo sau. Phi hành đoàn đã lên tàu đầy đủ. Trung úy Bằng đưa ngón tay lên trời ra dấu cho trưởng phi cơ Trung úy Phát sẵn sàng cất cánh. Như một con chiến mã thật hiên ngang nhảy vọt lên không trung, chỉ trong tích tắc sau đó đã lặng lẽ biến mình trong màn đêm dày đặc Xin giã biệt Tống Lệ Chân, giã biệt những anh hùng Mũ Nâu Biệt Động. Qua tần số radio của đài phát thanh Sàigòn, chuông kiểng nhà thờ đã rộn rã khua lên từng hồi để chào đón một năm mới vừa ra đời. Các anh: Cầu, Hùng, Hoàng và vong linh của Thượng sĩ Tranh, cũng như phi hành đoàn UH-1 cấp cứu, anh Phát, anh Bằng... Hôm nay tôi viết bài này để nhắc nhở những thành tích oanh liệt, can trường của các anh. Các anh là những anh hùng của Không Quân nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa nói chung. Vì vận nước không may các anh đã chia tay nhau mỗi người mỗi nẻo khắp nơi trên thế giới, nhưng "tinh thần Tống Lệ Chân" của trên hai mươi ba năm về trước các anh đã thể hiện được tình huynh đệ chi binh, quên thân mình để cứu giúp đồng đội, chiến hữu. Tôi cầu nguyện và chúc lành các anh em gặp được nhiều may mắn và hạnh phúc trong quãng đời còn lại. Riêng Thượng sĩ Tranh, tôi xin thành tâm khấn vái và cầu nguyện cho vong linh anh được yên lảnh trong thế giới vĩnh cửu, hãy vui trong giấc ngủ bình yên... Cựu Lôi Thanh II Phi đoàn 237 Nguyễn Văn Ba
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:16:32 GMT 9
GIÀY SAUT TRONG TỬ ĐỊA ( Chân thành cảm ơn:
Đại úy Trần Văn Quy, Tiểu Đoàn Phó TĐ37BĐQ
Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội Trưởng ĐĐ3/ TĐ37BĐQ
đã giúp phối kiểm một số chi tiết trong bài viết )******************************** Thứ Ba 01-04-1974 . 06H30 Sáng sớm Đại Đội Trưởng Trần Văn Vương kéo tôi về nhà ông ở Hòa Mỹ để ăn sáng với gia đình. Chỉ đơn giản có món xôi và cà phê nhưng buổi điểm tâm thật ấm lòng. Bà Vương và cô con gái luôn miệng nhắc chúng tôi: Đại úy Vương, người tài xế, và tôi “ ăn cho no bụng để lấy sức đi đường! “. Trong vòm sáng của thoáng bình minh vờn qua cửa, ánh mắt của người vợ Lính đã nói lên tất cả. Vì vậy, phút giã từ chỉ cô đọng trong lời chúc bình an của người ở lại và câu dặn dò của chinh nhân với vợ con : “ Mẹ lo cho mấy đứa dùm Bố. Con nhớ nhắc các em chăm lo bài vở. Ráng học nghe! “ Biết lúc đi. Không biết ngày về. Người Lính nén tiếng thở dài, đón lấy một gói giấy từ tay vợ rồi quay lưng leo nhanh lên xe. Bên khung cửa là đôi mắt đượm nét âu lo, và một bàn tay khẽ vẫy. 8H00 – Tiểu Đoàn lại chuẩn bị lên đường sau một tháng dưỡng quân và bổ sung quân số. Lính lại trở về với ngăn nắp, trật tự và kỷ luật cố hữu. Mọi sự chuẩn bị đều được thực hiện gọn gàng và mau chóng về mọi mặt. Thời gian còn lại là chờ đoàn xe Tiếp Vận đến đón. Vẫn là cảnh quyến luyến của vợ con lính từ trại gia binh kéo lên đứng đầy trước cổng của hậu cứ. Vẫn là những tiếng cười hồn nhiên của tuổi trẻ độc thân quanh những câu chuyện kể xen kẽ với vài ánh mắt đăm chiêu sau làn khói thuốc. Lệnh hành quân đã được loan báo chính thức dù ai nấy đều đoán biết là Tiểu Đoàn sẽ vào Quảng Ngãi vì 21 và 39 đã có mặt trong đó từ lâu. Vùng nào thì chưa biết nhưng “…Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm …” là chuyện thường tình của Lính trận. Đi đâu cũng được vì…” Lính mà Em! …” 10H00- Trời bỗng chuyển mây mưa. Mặt trời trốn biệt tăm sau màu xám ẩm thấp. Hơi lạnh từ Hải Vân và Trường Sơn đổ xuống, gặp gió từ biển tràn lên tạo thành những cơn xoáy thốc mịt mù. Lính tuần tự lên xe. Kiểm điểm quân số lần cuối. Khởi hành. Vợ con lính co ro đứng nhìn theo đoàn xe hơn 20 chiếc từ từ lăn bánh. Cư dân Phú Lộc cũng gởi theo người thân, chiến hữu, và bạn bè những ánh mắt thân tình pha lẫn âu lo khi GMC chậm rãi vượt qua phố chợ và khu gia binh của Liên Đoàn. Đó đây là một vài nụ cười, vài bàn tay giơ cao, khẽ vẫy từ dưới đường, còn trên xe là tiếng cười đùa, chọc ghẹo của lính trẻ. Lính là vậy: hồn nhiên và…bất sá! Đoàn xe trực chỉ xuôi nam, vừa chạy qua Miếu Bông thì trời đổ mưa làm nhòa đi cảnh vật hai bên đường. Mưa suốt chuyến hành trình. Không lớn, không nhỏ, nhưng cũng đủ để mọi người trùm kín poncho để tránh gió và chống lạnh. Không còn ai thích thú chuyện trò như khi còn trong Đà Nẵng. Đường vắng, nhưng trơn trợt vì sình đất từ hai bên lề túa ra lấm lem nên đoàn công voa chạy chậm hơn bình thường. Phố thị ven quốc lộ lần lượt lùi lại phía sau. Xe qua Tam Kỳ. Thị xã kiêm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Tín khiêm nhường sinh hoạt dưới mưa. Phố vắng càng thêm vắng vì phố chính chỉ là hai dãy nhà nhìn nhau ven quốc lộ. Chưa bao lâu thì đã đến Chu Lai. Tại đây, đường xá thênh thang như muốn tạo vẻ cân xứng với tầm vóc của căn cứ và phi trường quân sự lẫn dân chính vốn chỉ đứng sau Đà Nẵng. 13H00. Quảng Ngải là đây! Thành phố của núi Ấn, sông Trà, của những danh nhân và dũng tướng như Trần Quang Diệu, Trương Định, Huỳnh Thúc Kháng hôm nay trầm ngâm và lạnh lùng nhìn theo người Lính xuôi nam…. Xe chầm chậm lướt qua phố chính của thị xã. Hàng quán bên đường, nhứt là những quán cà phê, trông cũng bề thế không thua gì ở phố Đà Nẵng. Mưa vẫn còn dầy hạt nên ngọn Thiên Bút chỉ là một khối mờ bên quốc lộ. Ra khỏi phố, đoàn quân xa thong thả lăn bánh, thẳng vào địa phận quận Mộ Đức rồi dừng lại khi vừa qua khỏi núi Điệp. Mộ Đức của chim mía, mạch nha, cá chuồn, cây thuốc lá và đường tán thơm lừng không xa lạ gì với Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân chúng tôi: đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Đoàn 1. Từ 1965 tới nay, Lính Mũ Nâu cứ đến rồi đi. Đánh đấm không biết bao nhiêu lần tại vùng này, đến độ ai đó đã có câu “ Muốn lên lon thì đi Thạch Trụ…” để nói đến mức độ nóng bỏng của một địa danh nổi tiếng trong quận. Lính xuống xe đổ quân hai bên đường. Hành trình 160km tính từ hậu cứ Phú Lộc, thuộc vùng ngoại ô phía nam Đà Nẵng, đến ngay Mộ Đức không dài, nhưng đủ để mọi người ngất ngư, và đã bắt đầu thấy đói và lạnh run vì gió mưa dai dẳng. 15H30. Mới vừa nhai vội, nuốt nhanh một ít gạo xấy, thịt hộp, là có lệnh di chuyển. Mưa vẫn rơi, gió vẫn rít từng cơn. Cả Tiểu Đoàn rời quốc lộ, di chuyển theo đội hình hành quân dọc con đường đất dẫn về hướng đông. Trên bản đồ là một lằn đen đứt quãng chạy mút xuống một khu vực dân cư nằm sát biển. Ngoài địa hình là một con đường làng nhòe nhoẹt bùn đất. Bùn dính vào giày dẻo ngoe. Lính ghì tay súng, oằn lưng vì ba lô quá tải, trông chẳng khác gì những bóng lạc đà đang bước chậm. Nhà cửa thưa dần, người chẳng thấy đâu. Ruộng vườn cũng hòa vào khung cảnh bàng bạc của màn nước và của mây mưa xám ngắt. Bốn cây số lầy lội đủ để làm mỏi những cặp giò chai đá nhứt nên mọi người thở phào khoan khoái khi vào đến vùng hành quân vì trời cũng vừa tạnh mưa, và cũng vì thấp thoáng dọc theo hai dãy nhà của xã Đức Lương là những chiếc nón lá và bóng dáng đủ làm Lính…tròn xoe mắt. Phần còn lại trong ngày chỉ là nhận vị trí, rồi chuẩn bị hầm hố qua đêm thì cũng vừa xong ngày đầu ra quân của Tiểu Đòan 37 BĐQ sau đúng một tháng “ thất nghiệp “. Chúa nhựt 06-04-1974 . 11H00 Đức Lương, cũng như phần đông các nơi khác, vốn là xã xôi đậu, từ lâu đã là cái gai khó nhổ của Chi Khu Mộ Đức. Lính đến, du kích rút vào các thôn làng bỏ hoang từ lâu. Lính đi, đám chuột nhắt lại bò ra tác quái. Cứ vậy mà người dân nào còn trung thành với miếng đất cha ông để lại đã phải chịu đựng và nín thở lặn hụp giữa hai làn nước. Cho đến lúc sau này, khi quân đội Mỹ rút quân thì tình hình tại Đức Lương càng thêm nghiêm trọng. Vì vậy Tiểu Khu Quảng Ngãi phải nhờ Biệt Động Quân tăng phái để giúp giải tỏa áp lực địch tại ngay hướng chính đông của Mộ Đức. Công tác của Tiểu Đoàn 37BĐQ là bình định, an dân. Bình định thì không khó, nhưng dân có an hay không lại là chuyện khác. Mấy ngày rồi mà dân chúng chưa chịu tích cực phá bỏ những hầm nổi và các hàng cây, hay lùm, bụi rậm rạp quanh nhà và ngoài bìa làng. Dân không làm thì Lính xăn tay áo nhào vô. Rốt cuộc, công việc chính của Tiểu Đoàn là tảo thanh và …phát quang để du kích không có chỗ ẩn núp và len lỏi về thôn xóm. Lính phá hầm, hạ cây thì dân đứng nhìn. Họ bất cộng tác cũng phải vì ly’ do bảo vệ an ninh cho xã ấp không đủ sức thuyết phục họ. Biết dân ngấm ngầm bất mãn, nhưng nhiệm vụ được giao thì Lính phải thi hành triệt để. Do đó đã có lời ta thán đó đây và hằng đêm đã có điệp khúc “…đồng bào hãy nhứt tề vùng lên dẹp tan bè lũ bạo quyền… “ từ loa phát thanh lưu động của đám du kích địa phương. Thứ bảy 12-04-1974 13H00 Đơn vị tiến dần từ hướng nam lên phía bắc. Mới đó mà đã gần hai tuần! Thời gian đủ dài để sang bằng những hầm nổi, rào dậu, lau lách, cây cỏ trong và chung quanh xã. Tầm nhìn quang đảng hơn, xa hơn. Dân cũng bớt ta thán, nghi kỵ vì vô hình chung Lính đã giúp họ sửa sang lại bộ mặt của thôn làng. Nhờ vậy đã có những ánh mắt và nụ cười thân thiện hơn và những câu chuyện cởi mở hơn so với lúc mới vào vùng. Đã có câu mời chào của các vị bô lão, những thẹn thùng e ấp của những mái tóc dài mới mấy ngày trước còn mang nét nghi ngại gần như bất cộng tác về mọi mặt. Và từ đó Lính biết thêm nhiều điều thú vị về Đức Lương, đặc biệt là kỹ thuật trồng cây thuốc lá và cách chăm bón đất thật giản dị nhưng khó khăn, khổ sở và…khó ngửi vì phải cần đến …phân người! Muốn có thứ này thì ngày xưa người ta phải đi hằng chục cây số, càn quét các cánh đồng- cũng là nhà xí lộ thiên trong vùng- để lượm lặt rồi gánh về bón đất trồng. Nghe kể mà bất chợt nhìn lại Capstan, Ruby “ Quân Tiếp Vụ “, Bastos, Mélia và cả những loại thuốc “ sang “ như President mà cảm thấy muốn …ớn lạnh! Nhưng Lính không dậm chân tại chỗ. Hôm nay Trung Đội lại có lệnh di chuyển lên vùng cực bắc của Đức Lương, là vùng hoạt động công khai của du kích với căn cứ địa là những thôn xóm bỏ hoang từ khi quân đội Mỹ mới đến. Gần một chục năm nhà không vườn trống nên làng Văn Bân chỉ còn là những “ mụn cám “ trên bản đồ, còn làng Hoài An cạnh đồi Van Bang đã là một ốc đảo với không đầy một chục nóc gia. Đại Đội 3 được lệnh đóng quân tại đây. Và Trung Đội 1 trở thành tiền đồn trên cao độ 60 mét của Van Bang. - Sao tên ngọn đồi nghe lạ quá vậy bác Hai?! - Tui cũng không biết. Người lão niên sống bằng nghề trồng cây thuốc lá và bắt dong ven biển lắc đầu. Người dân địa phương không biết. Vậy thì chuyên viên in bản đồ của Nha Địa Dư đã quên bỏ dấu cho hai chữ Van Bang không chừng!? Nhưng dù sao thì cái tên khó đọc này lại dễ nhớ đời vì giữa trưa hôm nay Lính phải gò lưng đội nắng để leo dốc. Sau đó, những nhát cuốc bổ xuống đá ong dội vào tay đau điếng làm chúng tôi lắc đầu, ngao ngán. Nhưng phồng tay, nhức lưng thì cũng phải lo cho xong hầm hố và tuyến phòng thủ. Vừa xong mọi thứ là đã chói chang ráng chiều. Màu vàng của nắng, màu nâu của đá ong, màu cam của dải đồi nhấp nhô chạy mút tầm mắt về phía tây để hòa vào màn xanh mờ mờ của núi Điệp tạo thành một bức tranh lạ mắt nhưng hài hòa của thiên nhiên. Lính thay nhau “ hạ san “ để tắm giặt và cũng để tạt qua làng nhìn “ nẫu “ cho đỡ ghiền. Trong khung cảnh hoàng hôn, đâu là vị trí súng của pháo binh Mỹ mấy năm trước đây? Đâu là ranh giới của đất lành và mìn bẫy mà Đại úy Vương đã hết lòng căn dặn phải hết sức cẩn thận? Đâu là vùng đất chết mà du kích đã thông báo cho dân biết và chính đám chuột nhắt cũng đã từ lâu không dám đặt bước tới? Thứ năm 16-04-1974.18H00 Đồi trọc. Khô khốc. Ngồi chờ trực thăng tải thương mà buồn ơi muốn khóc! Vùng tử địa với mìn nội hóa đóng vai tử thần giăng bẫy. Khoảng đất rộng đủ cho cả Đại Đội trấn đóng chỉ giao phó cho 20 mạng khai quang bằng giày saut và lưỡi lê vì máy rà mìn Poland của Công Binh hoàn tòan vô hiệu lực. Đành phải dùng mắt mà tìm, dùng lưỡi lê để kiếm và giày saut để rà từng tấc đất. Cả mấy ngày trời mà vẫn chưa xong một nửa ngọn đồi. Công việc càng chậm càng tốt, kỹ lưỡng chừng nào chắc ăn chừng nấy. Đơn giản nhưng hồi hộp như trong phim nghẹt thở. Trung đội dàn hàng ngang, mỗi người cách nhau chừng một sải tay. Lưởi lê cột chặt vào một nhánh tre, cắm phập xuống đất, khoảng cách càng khít khao càng tốt. Xăm tới đâu bước tới đó. Nhưng rồi đến ngày thứ tư cũng đã không tránh khỏi thương vong! Một thằng em cuốn poncho, thêm một đứa bay mất bàn chân khi nhào tới đỡ bạn. Tổng cộng 28 trái mìn nội hóa sau bốn ngày “ chiến đấu với Ma “. Tiếng rên của thằng em càng làm nhói thêm lồng ngực vì không thể chia sớt được nỗi đau thể xác của một con người. Nguyễn Hoàng Minh chạy đua với thời gian và bất chấp tử thần nhưng thua cuộc phải bỏ lại một phần thân thể. Thương bạn và nóng lòng vì bạn nên mới ra nông nỗi. Thật đáng tiếc! Còn Lê Văn An vì bổn phận và trách nhiệm của người lính mà phải bỏ lại mạng sống mình trên đồi máu. Thật đáng buồn! - ĐM! Tụi nó gài mìn độc quá! Trung Sĩ nhứt Thái vỗ về thằng em khinh binh rồi trở lại bên tôi bật tiếng chưởi thề. Ông Trung Đội Phó dạn dày trận mạc là người đầu tiên gõ đúng vào trái mìn nội hóa làm bằng lon trái cây, bên trong là thuốc nổ, đinh, vít, và mọi thứ sắt vụn trên đời. Không biết bộ óc khủng bố nào đã nghĩ ra được cách vô hiệu hóa máy rà mìn thật tinh vi bằng cách bao hai lớp nylon lên mảnh ván đặt nằm gọn trên lon mìn, ngòi kích hỏa là một cây đinh đóng xuyên qua ván và cắm thẳng vào lon có ngòi nổ là một vỏ đạn M16. Mọi thứ còn khá tốt nhờ nylon cản nước không làm mục gỗ hay ướt thuốc. Dẫm chân trệt qua một bên thì có thể không gây chạm nổ, nhưng đạp ngay trên chiếc đinh thì …chỉ có phép lạ mới làm cho tịt ngòi. Bằng không thì …bay gót, hoặc mất bàn chân nếu là lon nhỏ, hay mất mạng nếu gặp lon cỡ hộp sữa SMA hay lớn hơn! Khi trực thăng đến tải thương thì mặt trời cũng vừa tắt nắng. Mừng cho đứa em từ nay xa rời cuộc chơi nhưng cũng buồn rười rượi cho một hoa niên đã sớm lìa đời. Nhìn theo cánh quạt khuất dần về phía Quảng Ngãi mà ước thầm được theo về hậu phương an lành. Nhưng Lính không có thì giờ để tần ngần hay tưởng tiếc. Cắm cọc làm dấu những vị trí đã dò xong các loại mìn. Báo cáo trong ngày. Cơm chiều. Chỉnh đốn lại tuyến phòng thủ qua đêm. Cắt đặt canh gát. Công việc vừa xong là đã thấy sao trời lấp lánh. Một ngày lại trôi qua trong đời Lính. Mai này sẽ ra sao?! Chúa Nhựt 20-04-1974 . 10H00 Khỏang đất dọc theo sườn phía đông của Van Bang vừa được khai quang hòan toàn. Hành lang bề ngang chừng hơn 2 mét và chiều dài trên dưới 100 được chúng tôi bảo đảm không còn mìn bẫy. Mõm đá ven sườn hướng đông là vị trí khá tốt để quan sát khu vực đưới chân đồi, ruộng đồng ngoài bìa làng, và cả núi Cây ở phía bắc. Và chỉ chờ có thế! Tiểu Đoàn tung hai Đại Đội để thăm dò căn cứ địa của đám du kích trong khu vực của ấp Văn Bân. Đại úy Trần Văn Quy, Tiểu Đoàn Phó trực tiếp chỉ huy. Đại Đội 2 nổ lực chính, Đại Đội 3 tiếp ứng. Cối 81 và 60 ly của Tiểu Đoàn và hai Đại Đội vừa dứt mấy tràng đạn là Đại Đội 2 của Trung úy Hiền xung phong vào làng theo trục Đông Tây. Tại hướng Bắc, Trung Đội 1 và 2 do Thiếu úy Lợi, Đại Đội Phó Đại Đội 3 chỉ huy đã dàn sẵn để chờ địch. Phía Tây là đồng trống, dành cho cối của Tiểu Đoàn và bốn khẩu 105 ly của pháo binh Chi Khu Mộ Đức càn quét khi cần. Tiếng súng nổ dòn dã. Bóng người mất hút vào những hàng cây, bờ dậu. Vài bóng người chạy xuyên qua những khoảng sân thưa hay đất trống. Xa quá không rõ là Mũ Nâu hay du kích. Đại úy Quy vừa theo dõi, vừa buông, chụp ống liên hợp điều binh liên tục. Lính xung phong, tiếng thét nghe vang dội. Âm thanh xen kẽ vào tiếng súng ngắn, dài, tạo thành âm điệu quen thuộc của mặt trận đang sôi động. Thốt nhiên, xen lẫn với tiếng nổ dòn của súng nhỏ là mấy tiếng đùng đùng vang lên gần như cùng một lúc. - Chết mẹ! Tụi nó dính mìn rồi! Ông quay sang tôi than một tiếng rồi đứng lên quát tiếp vào PRC25, ra lệnh cho Thiếu úy Lợi đánh ép vào làng để giải tỏa áp lực cho Đại Đội 2, và yêu cầu Trung úy Hiền báo cáo tình hình. Sau một hồi trao đổi là ông ra lệnh cho hai Đại Đội ngưng truy kích và nằm im tại chỗ. Việc tải thương bắt đầu. Cần phải chạy đua với thời gian nên con đường ngắn nhứt, là leo đồi để lên Van Bang chờ trực thăng đến bốc. Mấy họng cối của Tiểu Đoàn và Đại Đội lại khạc đạn vào Văn Bân, làm hàng rào cản để hai Đại Đội tuần tự lui binh về phía bắc làng Hoài An, và từ đó phá bụi, lùm, để mở đường leo dốc. Trên đồi, Trung Sĩ Thái chọn vài khinh binh tình nguyện của Trung Đội rồi dẫn họ và lao công đào binh do Tiểu Đoàn phái lên cùng xâm, dò, phát quang dần xuống để bắt tay với toán tải thương. Từng giây phút trôi qua là một nỗi lo nghẹt thở vì khoảng cách trên dưới 100 mét dẫn xuống chân đồi chẳng khác gì một “ lối vào tử địa “. Và chuyện gì tới phải tới! Một tiếng nổ vọng lên từ hướng đang mở lối làm mọi người thót tim, khô cổ. Tôi cố lần theo dấu chân, bước xuống mõm đá, nhoài người nhìn xuống phía dưới nhưng không nhìn thấy gì sau mớ bụi cây dày đặc. Một lúc sau thì Trung Sĩ Thái trồi lên, sau lưng ông là hai khinh binh của Trung Đội 1, trên lưng của người đi trước là Lê Văn Chánh, theo sát phía sau là một thằng em đang xòe tay nâng giữ bàn chân bê bết máu và lòi cả xương gót của Chánh đang lủng lẳng theo nhịp bước của đồng đội. Tiếp theo là toán lao công đào binh cùng với “ bánh tét “ và thương binh nặng, nhẹ, nối nhau lần lượt lên đồi. Hai nằm, bốn ngồi, cộng thêm Chánh là bảy tay súng bị loại khỏi vòng chiến. Trong khi đó thì tổn thất của địch không rõ. Gía đắt thật! Trung Sĩ Thái dừng lại bên tôi, nhìn về phía thằng em đang được y tá băng bó, ông cố nén sự buồn bực bằng tiếng thở dài: - Lại thêm một đứa gặp “ Ma “. Không tải thương kịp, chắc là nó… - ĐM! Đã gọi trực thăng rồi. Ông Quy ngắt lời. Sẽ có ngay. Rồi quay qua tôi, ông nói tiếp. Chú mày lo vụ tải thương cho chu đáo nghe. Tao về đi phép vợ đẻ đây! ĐM! Đánh đấm gì mà chỉ gặp toàn là mìn không hà! Câu nói của Đại úy Quy cũng là lời than của chúng tôi suốt mấy ngày nay. Nhưng nhận lệnh thì phải thi hành. Quân Đội có những lệnh lạc trời ơi đất hỡi như vậy là chuyện thường. Thi hành trước! Than thở sau. Lính mà Em! Lần này số thương binh gặp may vì chỉ chừng nửa tiếng sau là có chuồn chuồn tới gắp xác. Cánh chim sắt vừa khuất dạng thì đã có kế hoạch mới của Đại Đội: gấp rút dọn bãi mìn trên Van Bang để lập đồn dã chiến. Chúng tôi lắc đầu: lại khổ nữa rồi! Lính quen lưu động, bây giờ phải nằm tại chỗ gánh thêm một trách nhiệm mà không ai muốn nhận lãnh. Đã vậy, Trung đội bây giờ chỉ còn 17 mạng. Thì thôi cũng đành. Thứ Tư 23-04-1974. 17H00 Chỉ còn một khoảng đất nhỏ là coi như xong công tác dò mìn. Chiều nay Trung Đội dời vị trí phòng thủ đến khu vực vừa dọn xong. Một lô mìn nội hóa đủ cỡ, đủ loại, nằm chất đống bên ngoài tuyến chờ ngày mai dứt điểm toàn bộ ngọn đồi thì sẽ phá hủy một lượt. Đùa với tử thần nên phải trả giá bằng mạng người. ’’ Đòn bánh tét ’’ gói thây đứa em còn nằm đó. Trần Bình xui tận mạng: lạc bước ra ngoài khu vực đã làm dấu để giải quyết nhu cầu cho ’’ đệ tứ khóai ’’ nên đạp phải mìn banh xác. Đã chờ hơn hai tiếng đồng hồ mà vẫn chưa có trực thăng. Bóng nắng đã nghiêng dài nhưng vẫn còn đổ lửa. Ngưng dò mìn để đào hố, căng lều cho kịp buổi tối. Bàn tay phóng dao cả ngày lại phải cầm xẻng phập đất, nạy đá nên bây giờ đã phồng, dộp, đau rát. Căng xong poncho, cột xong võng cho ba thầy trò cùng khoanh chung một chỗ là mỏi nhừ hai tay. Đang cởi giày, tháo vớ cho mát chân thì vài đứa em tà tà đi ngang qua. Một đứa trong bọn kéo lê thanh tre dưới đất, lưỡi lê lòng thòng như muốn sút hẳn ra nên tôi quát gọi tới ngay bên võng. - ĐM! Lè phè vừa phải thôi nghe! Phải thật chặc như vầy nè! Vừa chưởi thề, tôi vừa quấn dây cột lưỡi lê lại rồi phóng vài nhát ngay dưới chân. Một tiếng ‘ phụp ‘ khô khan vang lên làm tôi điếng người. Nhìn đầu lưỡi lê cắm ngay giữa đôi giày, tôi thấy lạnh xương sống. Gần một tiếng đồng hồ loay hoay tại chỗ này không lẽ Hồ Viết Sành, Nguyễn Ngọc Thanh và tôi không có lần đạp phải trái mìn này? Nhưng vì sao nó không nổ? Đạp xéo một bên? Hay thuốc nổ tịt ngòi? Phép lạ chăng? Phản ứng đầu tiên là cả đám dạt ra thật nhanh làm cả Trung Đội giựt mình quay lại nhìn. Còn tôi lạnh cẳng ngồi chết trân một hồi lâu mới hoàn hồn. Chưa kịp nói gì thì Tín ‘ lùn ‘ đến bên võng gỡ lưỡi lê của mình rồi thận trọng gạt từng lớp đất mỏng. Miếng ván có bọc nylon hiện ra, đã mục nhưng chưa nát. Chẳng bao lâu sau là cả trái mìn nội hóa được moi lên: một lon dầu ăn, loại thực phẩm viện trợ! Cả đêm tôi trằn trọc nghĩ ngợi về trái mìn ngay dưới chân mình. Nếu nó phát nổ thì cả ba, hay trong ba thầy trò: tôi, thằng em ô đô, và hiệu thính viên của Trung Đội, chắc chắn phải có người trùm poncho và cho dù bị thương thì cũng sẽ mất máu, hay kiệt sức mà chết vì không có phương tiện tải thương trong đêm nay. Chiếc poncho gói xác Trần Bình vẫn còn nằm tại chỗ. Thỉnh thoảng có người đến đốt thuốc thế nhang rồi cắm trong chén cơm trắng đặt phía trên đầu của đứa em vắn số. Nghi thức tiễn biệt của đồng đội chỉ có thế. Đơn giản mà chí tình. Đọc cho thằng em vài câu kinh mới sực nhớ xâu chuỗi còn nằm trong ngực áo. Lại nghĩ tới một phép lạ nào đó đã cứu cả ba thầy trò chúng tôi không chừng. Và cả đêm thức trắng chỉ để rùng mình nghĩ ngợi và tưởng tượng rồi rù rì với hai thằng em quanh những câu chuyện đa số bắt đầu bằng: Nếu như trái mìn nổ!?... Thứ Ba 29-04-1974. 14H00 Rồi cũng dọn xong vùng tử địa trên đồi Van Bang sau hai tuần đổi bằng máu, mồ hôi, và cả nước mắt của Lính. Mỗi lần nghe một tiếng nổ, dù là tiếng phá mìn, thì cổ họng như muốn thắt lại. Tiếng nổ dội vào ngực, xoáy trong đầu, tạo cảm giác rùng rợn khi âm thanh dội vào vách đá rồi vang rộng khắp đồi. Chết ngay thì không nói gì, đằng này mìn nội hóa thường giết người dần mòn do mất máu và đau đớn vì cụt giò, mất bàn chân, hay nát bọng đái. Ngày lên đồi cả Trung Đội chúng tôi có 20 người. Bây giờ vẫn là 20, nhưng đã có 5 tân binh vừa mới bổ sung hồi sáng. Số lính mới về được chia đều cho ba Trung Đội vì tổn thất nhân sự gần như ngang nhau sau cuộc rà mìn bằng chân của chúng tôi hay những lần hành quân thăm dò của hai Trung Đội còn lại. Đại Đội 3 te tua nhưng vẫn sẽ là nổ lực chính trong cuộc hành quân vào ngày mai. Mấy hôm nay địch tha hồ bắn tỉa khi chúng tôi dựng tre, cắm cột để nối hàng rào, và hằng đêm, đám du kích hiên ngang đem loa phóng thanh tiến sát chân đồi ” sủa ” liên tục. Đã đến lúc phải hành động! 16H00. Đại úy Vương họp các Trung Đội Trưởng để chính thức thông báo lệnh của Tiểu Đoàn về việc truy lùng du kích và khai quang toàn bộ khu vực tây bắc dưới chân đồi. Kế hoạch hành quân lần này hơi khác lần trước. Chỉ có Đại Đội 3 trực tiếp tham chiến vì có tin cho biết là du kích đã rút lực lượng nòng cốt khỏi Văn Bân, chỉ để lại một toán nhỏ để tuyên truyền và quấy rối. Đại Đội 4 sẽ đóng vai trò tiếp ứng và giữ an ninh ngoại vi khi thành phần xung kích của Đại Đội 3 đã vào bên trong làng. Sau khi cho biết tình hình và kế hoạch, ” Bố Gìa ” đặt thẳng vấn đề : - Cả ba Trung Đội đều thiệt hại nặng như nhau nên tôi dành cho quí vị sự lựa chọn. Ai sẽ đi đầu vào ngày mai? Nếu không ai tình nguyện thì tôi sẽ cho bốc thăm. Như vậy là công bằng nhất. ” Cả ba Trung Đội Trưởng im lặng. Không ai nhìn ai. Căng thẳng. Vương Vũ tỏ dấu hiệu kiên nhẫn chờ đợi bằng cách mồi thuốc hút, nhưng ông chỉ vừa rít hơi khói đầu tiên là đã có câu trả lời. - Tôi nhận! Hai tiếng chắc nịch của tôi làm không khí thay đổi ngay lập tức. Ông Vương gật đầu nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Lê Văn Hữu và Nguyễn Thanh Vân cùng đến vỗ vai tôi, kèm theo những nụ cười thông cảm và câu nói của Vân: - Tối nay hai ông qua chỗ tui nhậu. Kéo mấy ông phó qua luôn nghe. Về đến tuyến đóng quân thì mọi người đã biết tin tức cuộc họp. Lính vốn luôn sẵn sàng để chấp nhận mọi hoàn cảnh nên nét lo âu thoáng hiện trên ánh mắt rồi cũng tan biến theo những cợt đùa cố hữu. Vui được lúc nào hay lúc đó nên Lính vẫn hồn nhiên sinh hoạt như trên đời này không có gì để bận tâm ngoại trừ kiểm tra súng đạn để chuẩn bị cho cuộc hẹn với tử thần vào sáng ngày mai. Xong xuôi mọi thứ thì cũng vừa kịp giờ hẹn với Vân và Hữu. Nắng vẫn còn đẹp dù đã xậm màu. Một ngày trong đời lại trôi qua...”Một ngày như mọi ngày ” của Lính!
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:18:31 GMT 9
Thứ Tư 30-04-1974. 9H00 Từng đợt cối thi nhau rót vào mục tiêu. Cuộc hành quân tảo thanh bắt đầu. Lê Văn Hữu cho Trung Đội 2 bám vào bìa làng phía đông rồi dừng tại đó. Còn tôi dẫn Trung Đội 1 vòng qua hướng bắc rồi xông thẳng vào. Từ trên đồi, Đại úy Vương thận trọng điều quân. Ông cho lệnh chúng tôi lục soát từng khu vườn, từng nền nhà hoang rồi tiến dần qua hướng nam, nghĩa là đi ngược lại phía Van Bang, còn Trung Đội 2 của Lê Văn Hữu từ cạnh sườn phía đông chuyển dần qua hướng tây bắc, cắt ngang sau lưng chúng tôi dựa theo địa thế của khu làng. Hướng biển được nhường lại cho Đại Đội 4 dàn quân sẵn sàng tiếp ứng. Khỏang cách lúc đầu tính bằng những hàng dậu hay khoảng sân nhờ Đại úy Vương trên đồi còn nhìn thấy chúng tôi di chuyển, nhưng không bao lâu thì đã bị cây cối che khuất nên thỉnh thoảng phải dừng lại để xác định vị trí và khỏang cách với Trung Đội 2 của Hữu. Không có sự kháng cự nào của địch. Mới tối hôm qua còn ra rả tiếng loa tuyên truyền nghe đến ngứa lỗ tai. Bây giờ thì im lặng hoàn toàn. Chúng nó đã rút đi, hay đang rình rập giăng bẫy phục kích đâu đó không chừng!? 10H00 Văn Bân hoàn toàn bị bỏ hoang đã từ lâu. Nhà cửa chỉ còn lại nền đất và vườn tược, cây cối không có dấu hiệu được chăm sóc. Nhưng dấu chân trên đất cát vẫn còn khá rõ mặc dù một số lớn có dấu hiệu bị xóa đi một cách vội vã. Như vậy, nơi này đúng là căn cứ địa, là vùng bất khả xâm phạm của du kích bấy lâu nay. Lục soát thêm vài khu vườn thì toán khinh binh đi đầu dừng lại. Trung Sĩ Thái trở lại bên tôi và cho biết phía trước có dấu vết của một con đường mòn hình như đã từ lâu không có người qua lại. Tôi mở bản đồ, xác định con đường làng một thời nối Đức Lương với các xã chung quanh, báo cáo với Vương Vũ, rồi dừng tại chỗ chờ Trung Sĩ Cho dẫn Tiểu Đội khinh binh vượt hàng dậu thưa để tiến dần qua khu vườn lân cận. Đến khi người cuối cùng là Nguyễn Văn Tâm vừa bước theo đồng đội thì một tiếng nổ vang lên, hất tung Tâm ” sún ” khỏi mặt đất trong một màn bụi đất dày đặc. Và đó là hình ảnh sau cùng tôi nhìn thấy trước khi bị sức nén đẩy té xuống đất. Khi tôi lồm cồm ngồi dậy thì Trung Sĩ Thái đang nhìn tôi với nét mặt lo lắng, còn Thanh ” máy ” thì đang lom khom, vừa ngó dáo dát chung quanh vừa báo cáo về Đại Đội. Trong khi đó thì Hồ Viết Sành còn nằm dưới đất chong súng về phía trước. - Chuẩn úy có sao không? Trung Sĩ Thái run giọng hỏi tôi. Trong cơn choáng váng, tôi nhìn thấy ông đã không còn cầm súng mà ngược lại, bàn tay phải đang nắm chặt cánh tay trái. Người ông đầy máu. Còn trên tay tôi cũng dính một miếng thịt của ai đó không rõ. Vài vết máu đây đó trên người, nhưng tôi không có cảm giác đau đớn, chỉ thấy hơi tức ngực. Đến lúc này Trung Sĩ Thái mới bàng hoàng rồi trân trối nhìn lại cánh tay đẫm máu của mình. - ĐM! Sao lạnh quá vậy! Vừa dứt lời nói sảng là ông ngã xuống, ngất xỉu. Tay vẫn còn nắm vết thương.Tôi choàng qua, gỡ bàn tay phải của ông ra thì mới hay cánh tay trái chỉ còn nối vào người bằng một miếng thịt nhỏ bé ở gần vai, ngay dưới nách. Tôi nghiến răng giựt cánh tay ra rồi đắp vội mảnh băng cá nhân vào vết thương. Hồ Viết Sành nhào qua đỡ người Trung Đội Phó cho Hạ Sĩ Bé chích thuốc cầm máu. Giao ông Thái lại cho người y tá, tôi lật đật ra lệnh cho Trung Sĩ Đặng Tri dàn toán đại liên bên cánh phải, chong súng về hướng bìa làng, đề phòng địch phản kích. Sau đó kéo Thanh ”máy ” và Hồ Viết Sành chạy lên phía trước. Toán khinh có mười người thì đã bỏ cuộc hết năm, nằm bất động, hay oằn oại rên siết. Trung Sĩ Bi và một khinh binh đang lăng xăng lo cho đồng đội kém may mắn, còn mấy người khác thì ngồi ghìm súng về phía trước. Tôi thảy thằng em ô đô vào trám tuyến với khinh binh, ra lệnh mọi người gấp rút đào hố cá nhân, trong khi đó Thanh ”máy ” cũng báo cáo tình hình với Vương Vũ và xin tải thương cấp tốc. Trở lại phía sau, xem xét tuyến dàn quân của toán đại liên, chôn tạm cánh tay của ông Thái trong một hố đào rất cạn, hối hạ sĩ Bé lên chích thuốc cầm máu và băng bó cho toán khinh binh. Tất cả những gì tôi làm từ lúc lồm cồm ngồi dậy sau khi bị đẩy bật xuống đất cho tới lúc này hoàn toàn là do bản năng. Đầu óc tôi nhẹ tênh, nhưng tôi biết mình đang run và cách duy nhứt để trấn áp nỗi lo sợ là chạy một vòng kiểm tra, gằn giọng rít qua kẽ răng để trấn an thương binh vào năn nỉ họ đừng rên la kẽo địch có thể nắm bắt tình hình và tấn công bất ngờ, lúc chưa có thế phòng thủ vững vàng. Có thể nói cả Trung Đội vùa hoang mang vừa thất thần vì chưa chạm địch mà đã rụng hết 6 mạng. Nhìn chung quanh mới thấy tình cảnh chúng tôi thật thê thảm. Chỉ nội lo cho thương binh cũng đã là một gánh nặng. Mọi người đều phơi nắng. Không ai dám tìm bóng mát vì bóng mát có thể là tử địa. Đúng ra, nơi nào trong khu làng này cũng có thể là tử địa. Đâu ai ngờ bỏ lối mòn, phát đường qua hàng dậu mà đi cũng vướng bẫy. Cái số xui tận mạng đã khiến cho thằng em nhỏ con, thấp người vướng chân vào sợi giây bẫy của đầu đạn 155 ly. Hơn một kí thuốc nổ! - Chuẩn úy ơi! Đừng bỏ em. Trong cơn mê sảng, Tâm ” sún ” mở mắt gọi tôi. Tay bi da số một của Liên Đoàn bây giờ chỉ còn nửa người phía trên. Hai chân đã biến mất và vùng hạ bộ chỉ còn là một mớ máu thịt bầy nhầy. Tôi nâng thằng em lên,vừa an ủi, vừa đau lòng lại vừa...sợ một cách bâng quơ. Không chịu nỗi cảnh thằng em bê bết máu, tôi cởi áo lót phần hạ bộ của Tâm, ôm gọn thằng em vào lòng mà có cảm giác như đang ẵm bồng em bé. Nắng khô khốc, nắng giữa trưa của một ngày sắp vào hè nung lửa thật tàn nhẫn. Giữa mồ hôi và nước mắt, tôi không biết thứ nào chảy dần xuống má của vài thằng em đang cắm từng nhát xẻng xuống lớp đất cát khô mịn chung quanh mình. - Lạnh quá chuẩn úy ơi! Chắc em chết quá!.. ĐM! Thằng Bi đâu rồi... Nước! Cho miếng nước!... Những tiếng rên la trong cơn mê sảng của Tâm ” sún ” và mấy đứa em vừa được kéo về chỗ Trung Sĩ Thái làm tôi thêm đắng cổ. Bỏ Tâm ” sún ” xuống thì không đành lòng nên tôi ngồi đó ra lệnh cho Thanh ” máy ” hối thúc vụ tải thương, rồi chỉ định Trung Sĩ Đặng Tri, Tiểu Đội Trưởng trưởng đại liên làm phó cho tôi để cùng Trung Sĩ Nguyễn Văn Bi đôn đốc việc đào hố cá nhân và tổ chức phòng thủ. Lê Văn Hữu gởi một toán của Trung Đội 2 mang các thanh tre từ phía sau lên, dự trù sẽ khiêng số thương vong ra phía sau rồi vòng lên đồi theo lối tải thương lần trước, nhưng có lệnh của Vương Vũ nằm tại chỗ chờ Trung Đội 3 của Nguyễn Thanh Vân dò mìn để mở đường theo lối mòn đã từng dẫn thẳng lên đồi lúc xưa. Như vậy chỉ trên 100 mét là thương binh sẽ đến nơi đáp của trực thăng thay vì nửa cây số dằn xóc có thể làm vong mạng khi phải khiêng cáng đi vòng bìa làng. Còn đang lo chỉ nơi dựng poncho che nắng cho thương binh thì có tiếng của Hạ Sĩ Bé. - Chuẩn úy!... Nó ” đi ” rồi. Tôi nhìn lại mới hay Tâm ‘’ sún ‘’ đã tắt thở lúc nào không biết. Nhìn ánh mắt thằng em còn mở trừng như muốn cưỡng lại định mệnh nghiệt ngã mà tôi muốn khóc. Chỉ vì thiếu hụt quân số nên vẫn còn giữ nó ở Trung Đội thay vì gởi nó về Tiểu Đoàn cho ấm thân. Lính là vậy đó! Đánh giặc trước, chuyện khác tính sau. Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân vừa mất đi một cao thủ bi da với đường cơ lả lướt và không lần nào dưới 30 điểm mỗi khi chạm banh, ngoại trừ lúc cố tình câu độ! Đưa tay vuốt mắt cho thằng em SàiGòn mà cứ nhớ hoài những lần khoái trá nhìn thằng em lần lượt hạ các hảo thủ của Đà Nẵng, dân cũng như quân, trong những lần đọ sức tại các bàn bi da trên đường Độc Lập suốt một tháng qua. Tôi thở dài giao xác thằng em cho Hạ Sĩ Bé rồi lần qua hai căn lều vừa dựng xong giữa sân nắng. Một đòn ‘’ bánh tét ‘’ đã gói sẵn. Ba khinh binh khác nằm rên dưới đất. Nặng nhứt là Minh, mới bổ sung hôm qua, bị toát lưng, gãy xương sống, đang nằm sấp rên la từng hồi. Còn lại là tân binh tên Tài bị thương nơi chân và má trái, đang ngồi cúi đầu bập từng hơi thuốc. Nắng đổ lửa trên đầu, hừng hực trên poncho, cháy bỏng trên mặt đất. Đã gần hai tiếng đồng hồ mà Nguyễn Thanh Vân vẫn chưa khai thông được 100 thước tử địa. Không trách được hắn! Con đường hoang phế đã gần 10 năm. Mìn bẫy, hay có thể cả hầm chông đầy dẫy mà Lính thì chỉ có giày saut và lưỡi lê mà thôi! Phải tiết kiệm nhân mạng tối đa! 14H00. Rồi cũng bắt tay với nhau sau hơn hai tiếng phá đường, mở lối! Nguyễn Thanh Vân và Trung Đội Phó Y Biếc dẫn toán lao công đào binh và một tiểu đội xuống tải thương và đem nước cho chúng tôi. Chỉ vài câu trao đổi là anh bạn gốc Long Xuyên vội vàng theo Thượng Sĩ Y Biếc trở lên đồi. Tôi thầm lo cho Minh. Cột xương sống lòi tủy. Bốn mảnh băng cá nhân không đủ đắp ngang lưng. Gần ba tiếng chịu đau đớn. Bao lâu nữa thì mới có trực thăng? Máy bay không hề chờ người. Chỉ có người sống, cũng như kẻ chết phải sẵn sàng để chờ chuồn chuồn đến bốc. Nhìn lại Trung Đội mới thấy chạnh lòng. Lính âm thầm chịu đựng và chấp nhận mọi hoàn cảnh. Chúng tôi chỉ còn lại 14 tay súng và đang hoang mang khi nhìn chung quanh toàn là bóng dáng của mìn bẩy và...thần chết! Tiếng trực thăng kéo tôi ra khỏi trạng thái gần như lạc hồn. Cánh thiên thần đã đến đúng lúc. Nhưng ba tiếng đồng hồ chịu đựng đau đớn và mất máu, liệu ông Thái, Minh, Tài và cả một đứa em tân binh bị gãy chân còn đủ sức để lâm trận với tử thần trên bàn mổ hay không?! Tôi choàng tỉnh khỏi cơn chấn động tinh thần ngay sau khi Thanh ” máy ” cho biết Vương Vũ vừa nhắc tới việc lo cho con cái ấm chỗ để qua đêm, còn Hồ Viết Sành thì mang tới cho tôi một ca sắt trong đó là cơm nóng và mít non luộc cùng với một lát thịt hộp. Thấy tôi nhìn trân trân mấy miếng mít, thằng em cười ruồi chỉ tay bâng quơ qua hướng sân kế bên nói ngay: - Chuẩn úy đừng lo! Không có mìn đâu. Tụi em coi kỹ lắm rồi mới ‘’ vớt ‘’ nó xuống. Còn có canh dưa hường nữa. Em sẽ mang lại ngay. Không thấy đói, nhưng cũng phải ráng ăn cho có sức và cũng để không phụ lòng của thằng em ô đô. Vừa nhai, tôi vừa miên man nghĩ về trái đạn đã loại khỏi vòng chiến một phần ba quân số của Trung Đội. Lại thêm một sự may mắn vừa đến với tôi và với hai thằng em đứng kề bên. Bốn người đứng cạnh nhau trên khoảng sân trống trải. Chúng tôi vô sự. Chỉ có ông Thái bay một cánh tay. Đúng là đạn tránh người. Có lẽ là nhờ cả ba thầy trò chưa tới số, hay còn có nguyên do nào khác chăng?! 19H00 Trung đội đóng chốt ngay giữa những miếng đất đã dẫm nát từ ban sáng, sau một màn xăm xoi tất cả những nơi chưa có dấu chân hay có dấu hiệu khả nghi. Báo cáo đầu giờ cho Đại Đội. Một vòng kiểm tra tuyến đóng quân, đặc biệt là chốt phòng thủ hướng về phía khu làng chưa kịp tảo thanh. Nhìn địa thế mà tôi thầm ngao ngán mặt dù phía sau có Trung Đội 2, hướng trên đồi có Trung Đội 3, bên sườn phía đông có một Trung Đội của Đại Đội 4. Mỗi gốc cây là một dấu hỏi, mỗi hàng dậu hay rào thưa là một gương mặt của tử thần. Không biết ngày mai lệnh lạc sẽ ra sao, chứ nếu như kiểu này thì chắc chắn ngay cả Vương Vũ chắc cũng phải buột miệng chưởi thề không chừng. Lót ổ xong là mọi người mệt nhoài nên không có những cợt đùa cố hữu. Lính trầm ngâm hơn thường ngày. Chắc chắn ai cũng đang nhớ lại thảm cảnh của những ngày qua và nhứt là những đồng đội kém may mắn. Hôm nay là họ, ngày mai sẽ đến lượt ai?! Có đúng ’’ ... Đi lính có nghĩa là chờ tới phiên mình bị thương hay tới số... ’’ như lời ai đó đã nói hay không? Mà thôi! Suy nghĩ vẫn vơ hoài chỉ đày đọa thêm bản thân. Kệ mẹ nó! Tới đâu thì tới. Lính mà em! Thứ Năm 01-05-1974. 07H00 Đêm yên lành trôi, dù rất chậm. Cũng may là không bị đám chuột nhắt khuấy phá, dù chỉ bằng tiếng loa phát thanh như cả tháng qua. Đêm thao thức để thấy lòng bùi ngùi khi thả tâm trí ngược về những ngày Lễ Lao Động của thời còn hít thở bụi phấn trong lớp học và những chuyến rong chơi với bạn bè ngoài Vũng Tàu. Thế giới hồn nhiên của ngày xưa đã không còn, thay vào đó là trò chơi súng đạn để tự vệ và sinh tồn. Cứ thế mà vẩn vơ cho đến sáng tỏ. Mọi người đã thức dậy. Vài ngụm cà phê và điếu thuốc Mélia làm đầu óc cảm thấy dễ chịu hơn. Lại một ngày mới đang bắt đầu. Ước gì ngày nào cũng như sáng hôm nay: trời trong, nắng hồng để còn thấy chút hạnh phúc dù rất mong manh vẫn còn hiện diện trong lòng. 9H00 - Chuẩn úy! Vương Vũ muốn gặp trên máy. Thanh ‘’ máy ‘’ vừa nói vừa đưa tôi ống liên hợp. Bên kia đầu máy, tiếng của Đại úy Vương như muốn nghẹn lại khi thông báo là có lệnh gom dân trao cho chúng tôi để tiếp tục việc phát quang. Lệnh này do Liên Đoàn ban ra nên dù không tán thành, Vương Vũ vẫn phải tuân hành. Trung Đội 1 nằm tại chỗ chờ nhận người. Cùng lúc đó thì Trung Đội 3 cũng sẽ từ trên đồi mở rộng con đường mòn tải thương hôm qua và khai quang sườn dốc phía tây để sau đó bắt tay với chúng tôi ở cuối làng. Còn Trung Đội 2 thì qua những làng lân cận để gom người và ‘’ mượn ‘’ luôn dao, rựa của dân xài thay vì chỉ có lưỡi lê và xẻng cá nhân vốn bị hạn chế trong việc phát quang. Trong khi chờ đợi nhận người, chúng tôi thận trọng dò dẫm từng thước đất và chú tâm tuyệt đối vào từng bụi cây hay rào dậu quanh tuyến đóng quân. Để chắc ăn, tôi cho Hạ Sĩ Trần Văn Qúy dùng M79 tác xạ vào những nơi nghi ngờ có mìn bẩy. Anh chàng nổi tiếng thiện xạ và vua gài lựu đạn này ngứa ngáy đã lâu, nay được dịp trổ tài nên tha hồ nhả đạn tưng bừng. Và quả nhiên, một số mìn trúng đạn nổ tung như muốn thót tim, làm Thanh ‘’ máy ‘’ cứ phải luôn miệng báo cáo về Đại Đội để ‘’ Bố Gìa ‘’ yên tâm. 11H30 Đang ngồi nghỉ mệt thì Lê Văn Hữu dẫn tám người đến giao cho chúng tôi. Nhìn họ mà tôi than khổ trong lòng vì ngoại trừ một thiếu niên mặc bộ đồng phục của một trường Trung Học nổi tiếng của Quảng Ngãi, còn lại toàn là đàn bà, con gái. Dụng cụ ‘’ mượn ‘’ về chỉ có một cái rựa, hai cái cuốc và một con dao phay. - Có còn hơn không. Xài đỡ đi Huynh Trưởng. Nhân lực và vật lực chỉ có bấy nhiêu thôi. Chắc là Lễ Lao Động nên họ cũng xả hơi chăng!? Hữu nói đùa rồi dẫn lính trở lại tuyến của mình. Còn tôi đứng đó, phân vân không biết phải làm sao. Cuối cùng, tôi báo cáo với Đại úy Vương rồi quyết định cho một người có vẻ lớn tuổi ra về và dặn bà ta báo với gia đình những người còn ở lại là chúng tôi bảo đảm bảy người này sẽ được đối đãi tử tế. Vài người lên tiếng phản đối, liền miệng đòi tôi phải thả hết. Tôi chỉ im lặng nghe họ nói. Nhìn những ánh mắt âu lo nhưng bất mãn của họ mà tôi cảm thấy buồn bực. Không có bằng cớ đích xác họ là du kích hay giao liên vì theo lời Hữu thì họ bị gom lúc đang ở ngoài ruộng, còn hai cô gái trẻ và em học sinh thì nói là nhân ngày lễ, nên về thăm gia đình. Sau cùng tôi cũng phải đi đến quyết định là giao họ cho Trung Sĩ Đặng Tri và Nguyễn Văn Bi để tùy nghi xử dụng. Dù sao thì họ cũng đã ở đây rồi. Nhưng hai chàng Trung Sĩ chưa kịp dẫn toán người đi thì có tiếng mìn nổ lớn trên sườn đồi. Đám dân ngồi thụp xuống đất, mắt láo liên, vẻ mặt hớt hãi. Mọi người đều hướng mắt về phía có tiếng nổ. Tôi đưa mắt nhìn Thanh ‘’máy’’. Thằng em hiệu thính viên đang nghe báo cáo điều gì đó. Một lúc sau, nó đến bên tôi nói gọn lỏn. - Thượng Sĩ Y Biếc! 109 rồi! Tôi khẽ gật đầu, hối Đặng Tri và Nguyễn Văn Bi dẫn người về vị trí đã phân công, rồi ngồi thừ người nghĩ ngợi về người Hạ Sĩ Quan gốc Thượng vừa hy sinh. Vậy là ’’ tứ hùng ‘’ của Đại Đội 3 giờ chỉ còn lại một mình Lê Văn Trữ đang làm Thường Vụ Đại Đội. Những chiến sĩ xuất sắc từ thời Lam Sơn 719 rồi Sa Huỳnh đã lần lượt giã từ vũ khí. Trong hai ngày, hai Trung Đội Phó giã từ cuộc chơi một cách oan uổng. Trên kia chắc là Vương Vũ đau lòng lắm, và Nguyễn Thanh Vân cũng buồn không kém vì mất một người thầy dạn dày kinh nghiệm. ĐM! Tôi bất giác văng tục trong lòng. Tình trạng này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa !? Thật là chán chường gì đâu! Nhưng đúng là họa vô đơn chí! Vừa nuốt vội chút cơm và chưa hết bồi hồi vì cái chết của Thượng Sĩ Y biếc thì một tiếng nổ khác từ tổ khinh binh của Đặng Tri vọng lại làm tôi thót tim vì có tiếng lao xao nhốn nháo vọng lại: một dấu hiệu chẳng lành. Chạy đến nơi thì đã thấy Bùi Hữu Tùng, đứa em gốc Vũng Tàu nằm bất động, còn Đặng Tri thì mặt mày hầm hầm xỉa xói vào mấy người đàn bà đang ngồi gầm đầu xuống đất, rồi đến bên tôi báo cáo. - Mấy con mẹ này chắc chắn biết có mìn mà không chịu chỉ. Cứ xớ rớt khều khều nên thằng Bình tức tối chụp rựa phang. Chỉ mấy nhát là nó dính chấu. ĐM! Đám này là dân của tụi nó đó chuẩn úy! Tôi cũng muốn nổi khùng nhưng chỉ biết than thầm trong lòng và không biết phải hành động ra sao. Giận dữ cũng phải nén, đau lòng cũng phải dấu nhẹm. Hết nhìn bờ dậu tới nhìn xác thằng em. Chúng đặt mìn dưới đất thì còn có thể rà tìm, gài lựu đạn trên bờ rào thì vô phương. Nhưng lời của Trung Sĩ Đặng Tri cũng không phải là vô căn cứ. Chúng nó phải làm dấu cho dân biết để tránh. Nếu không tại sao chỉ một mình thằng Tùng toát ngực !? Nhưng làm sao tìm ra!? Cũng đừng hòng đám dân này chỉ điểm. Những người đàn bà vẫn ngồi nhìn xuống đất mặc cho Đặng Tri hằm hè bước tới bước lui lầm bầm những câu chưởi rũa. Tôi cho lệnh tạm dừng việc phát quang để mọi người lắng cơn xúc động rồi kéo Đặng Tri qua phía Trung Sĩ Bi để bàn thảo riêng kế hoạch đối xử với đám dân, đồng thời cũng để kềm Đặng Trị khỏi nỏi khùng bất tử. 17H00 Đến giờ này mới có trực thăng. Không biết trên kia Đại úy Vương nghĩ gì vê người Thượng Sĩ ít nói mà chân chất đã từng vào sinh ra tử với ông bao năm qua bây giờ đã vào thiên cổ, riêng phần tôi cũng quặn lòng vì bảy người mới nhận về hồi Tết giờ chỉ còn lại Trần Minh Sơn, một tấm lòng rất...SàiGòn ! Nhìn đám dân đang ngồi lết bết, chờ được thả cho về mà thấy ngao ngán cho tình cảnh của của chúng tôi. Giữ họ để phát quang thay Lính thì thật là tàn nhẫn nếu như họ là người dân vô tội. Dù sao họ cũng không phải là người cầm súng trực tiếp đối đầu. Tha cả bọn họ thì tôi không có đủ thẩm quyền. ĐM! Tôi lại chưởi thề trong lòng. Bố Vương nói đúng. Thà đụng chánh quy chứ còn rà mìn hay truy lùng du kích thì chỉ ‘’ từ chết tới bị thương ’’ thật là nhức óc! Nhức óc cũng phải cắn răng mà chịu, vì lệnh của ‘’Bố‘’ phán xuống cho tôi là phải giữ dân lại qua đêm. Ngày mai tính tiếp. Lại một phen gom gạo, nhường poncho, đào thêm hố. Lại một màn hăm he lính mẻ răng vì ngại họ quấy nhiễu một cách xàm xỡ những người đàn bà, nhứt là hai cô gái trông khá mặn mòi vốn là nam châm thu hút ánh mắt hao háo và những bông lơn, cợt đùa, chọc ghẹo của lính từ sáng đến giờ. Câu nói ‘’ Quân và Dân như Cá với Nước ‘’ nghe thật khôi hài làm sao! Dân nào thì không biết chứ những người đang chuẩn bị qua đêm ngay trong tuyến chúng tôi thì khác. Nếu được thì có lẽ họ sẽ ‘’xơi tái ‘‘ chúng tôi là cái chắc. Và điều này là lẽ tất nhiên. Có một điều khó hiểu: bắt dân vào bãi mìn để khai quang thì sao gọi là ‘’bình định, an dân ‘’ cho được!? Chẳng lẽ cấp trên của chúng tôi không biết hay sao?! Thật đúng là nhức đầu! Thứ bảy 03-05-1974. 8H00 Hai ngày sinh hoạt chung với nhau mà trong lòng như nước với lửa. Hai ngày mệt óc vì những lời mắng vốn và thưa gởi của mấy người đàn bà và cả hai cô gái về chuyện lính tráng đã có nhiều hành động và lời nói không đẹp với họ. Hai ngày trần thân vì vừa trấn an dân, vừa vuốt ve tinh thần của Lính làm tôi mệt nhoài tâm trí. Việc phát quang chỉ làm cho có lệ nên không ai bị gì. Tình hình an ninh cũng lắng dịu. Có lẽ là nhờ chúng tôi đang có con tin trong tay. Yên tĩnh hoàn toàn. Và niềm vui chợt đến khi vừa nhâm nhi xong chút cà phê sáng là Thanh ‘’ máy ‘’ báo tin Vương Vũ cho lệnh thả người và ngưng công việc phát quang để chuẩn bị bàn giao vị trí cho một đơn vị bạn. Thời gian sẽ cho biết sau. Lính khoan khoái ra mặt khi nghe tin đổi quân. Một tháng chơi trò hú tim trong vùng tử địa đã quá đủ nếu không muốn nói là quá dài. Lệnh đổi quân đến thật đúng lúc! Chúng tôi cần thay đổi không khí vì đã quá căng thẳng trong suốt thời gian một tháng vừa qua. Nhìn quanh tuyến đóng quân để thấy thương đám em út và thương cả chính mình khi mạng sống chỉ biết phó mặc cho may rủi. Sống, chết là chuyện thường tình. Nhưng chết vì mìn thì thật là lãng xẹt! Không biết thượng cấp có hiểu cho tâm trạng của chúng tôi hay không?! Mà thôi! Đằng nào cũng đã chấm dứt trò chơi đẫm máu này. Đức Lương sẽ trở thành kỷ niệm. Một kỷ niệm hi hữu với hình ảnh của những chiếc giày Saut thận trọng thả ‘’ từng bước chân âm thầm ‘’ trong tử địa. HUY VĂN ( Trích Nhật Ky’ Hành Quân )
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:24:56 GMT 9
Mũ Đỏ, Mũ ĐenĐoàn Phương Hải / TĐ11ND
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Đức Dũng, và những anh hùng Mũ đỏ, mũ đen đã vị quốc vong thân tại Damber.
Gửi N/T Bùi văn Lộc - Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh... đã tham chiến tại Damber để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.
Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng Sản Nga, Tầu, Cộng Sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.
Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp Tết Mậu Thân, trên "Đại lộ kinh hoàng", trên phố trên nhà, trên ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão lửa chiến tranh.
Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng Cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy lùng tiêu diệt.
Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia. Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích, tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng Sản Việt Nam.
Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.
Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn Cộng Quân bao vây căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến biên giới Việt Miên.
"Song kiếm trấn ải" 11 Dù tiến quân vào căn cứ trong tiếng reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị Cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.
Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức lòng binh sỹ, mang khí thế mới về cho đơn vị.
Thừa thắng xông lên 2 Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.
Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hoả lực Pace ngay sát biên giới Việt Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất Kampuchia.
Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa "ăng ten" ngắn, dài, một người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Trưởng TĐ11/ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.
- Niên trưởng "Đại Lộc", lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ này vào Damber, chắc gay lắm phải không?
- Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn tôi và Mũ nâu Biệt động quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung đoàn Cộng quân tại "Miếu ông Sành". Kỳ này mình phải nghiền nát Damber ra mới được!
Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 18 Kị binh, Thiếu Tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.
Xếp Mũ đen với biệt danh "Tầy Quầy", lừng danh trận mạc trong binh chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi.
Tình tự Võ Bị từ ngày nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao hơn, nhưng vẫn một điều "Niên trưởng, hai điều Niên trưởng " xưng hô với xếp Mũ đen.
Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực thăng xuống ngay trận địa.
Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đ/T Khôi bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần, tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 Cộng quân đang có mặt tại Damber.
Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối trống với rất nhiều gò mồi, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn cho chiến xa di chuyển.
Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân .
Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió nổi bật trên nền trời.
Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.
"Mê Linh" Lê văn Mễ , Thiếu Tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M 113 giải tỏa, thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung Tá Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.
Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào cũng "Anh Năm, Anh Năm" xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp bậc.
- Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung Tá, lúc nào cũng xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi như anh em trong nhà.
Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, Ba Đại úy Đại Đội Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc là "Bắc Đẩu" và "Phi Điểu" ào ào tiến quân trực chỉ Damber.
Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M 41 bẵng qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa. Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113 thì không có gì trở ngại.
Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến trừơng, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.
- Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp nghiền nát chúng tại đây!
Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy cây cao bóng mát, nườm nượp "khách giang hồ" lui tới ghé thăm.
Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch. Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.
"Tubip" Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong, nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình, êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành kia nào ai biết đến chiến tranh!
Qua khỏi Miếu Ông Sành, (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón cối, dép râu vương vãi trên chiến điạ. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp cao của Quân đoàn ghi nhận.
- Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?
- Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.
Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tíếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa gần khu đóng quân.
- "Khều"! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?
- TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung Tá Thoàn là mũi xung kích cho Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng.
Có đêm mới 2, 3 giờ sáng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến thắng lớn.
Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.
Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!
Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy lạy như tế sao.
Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.
Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt Cộng nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!
Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!
Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người lính Nhảy dù đứng nhìn bầy trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi trên một quê hương xa lạ!
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn kia cũng đang run sợ khi bom đạn đốt hừng hực đốt cháy quê hương!
Thấy dân làng và bầy trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi đang làm độc trên thân thể.
Anh Năm, "Đại Lộc", ra lệnh cho tiền trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành quân.
Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.
Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao su, thè lươĩ liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt, mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới sót sa tội nghiệp làm sao!
Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái thơm thơm của dầu săng khi lại gần chiếc xe nhà binh.
Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và mấy chủ tiểu trên chùa.
Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn, tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam..
Quê hương tôi sao quá đọa đầy! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em miền Bắc!
Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn!
Nếu vương quốc Cao Miên không cho phép Cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người linh miền Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!
Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy múa lung linh trên pông sô, bên tiếng hót trong cao của bầy chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin may mắn cho đơn vị khi bứơc vào chùa giã biệt vị sư già.
Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hoả lực Hồng Hà để trở về quê mẹ. Hình ảnh dân làng và bầy trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên lũy tre.
Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức nhột nhạt khó chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và săng nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.
Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo của địch.
May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ.
Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào xạ kích, đánh bom trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.
Mấy thiết xa M48 chất đầy săng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm săng, bơm dầu cho chiến xa.
Phi hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để chờ trực thăng bốc ra.
Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.
"Tubip" Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với ông bạn Bác sỹ quân y bên Thiết giáp.
- Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào cũng ầm ĩ đầy mùi săng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia Budwiser và bia 33)!
- Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, "rang muối" gần chục xe rồi đấy ông ơi !
Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống B40 ngay trước đầu xe.
Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì bỗng choàng mình tỉnh giậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng cày tung đất đá ngay sát bên tai.
Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82 nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi hái tử thần sé gío bay đến vị trí đóng quân.
Mặc dầu đã qúa quen thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến. Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trứớc, đằng sau, bên trái, bên phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!
Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe. Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên canh Trung tá Bảo cũng đang ôm ngực chống tay, dựa vào thành xe.
Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong máy, "Bảo Ngọc" chụp ống liên hợp liên lạc với "Đại Lộc" và các đại đội ngoài phòng tuyến.
Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố trí theo bờ suối, sát đường.
Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra điểm hẹn trước khi trời sáng.
Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên đầu địch.
- Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao sẽ dùng chiêu "Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung" mà địch vẫn thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt sạn đạo Damber. Công trường 7 Cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong trận thư hùng quyết tử này!
Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Có tiếng C 47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng.
Vừa chui ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.
- Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!
- Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái đầu!
Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.
- Đệ nhất phong thủy miền Nam, "Diễn tiên sinh", khi được xếp lớn đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội. Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!
- Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến "Diễn tiên sinh", đó anh Năm!
- Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì nữa!
Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác, bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.
Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy "thảm" B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu tiên pháo binh, không quân cho trận điạ.
- Sáng rồi, mình "thượng đài" nhập trận đi anh Năm!
- Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.
-Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch.
Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa trắng ngả nghiêng uốn mình theo gío, cảnh vật im vắng trong làn sương mỏng ban mai.
Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm, căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an tòan của đủ loại vũ khí chờ Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu.
Tôi chợt nghĩ đến gia đình, một thoáng Saigon, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.
Sau khi đã bàn thảo với "Đại Lôc" xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít sé gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông "Lước Hốc Môn" từ nhiều vị trí khác nhau "T.O.T" chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá, bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau. Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.
Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị trí Bắc quân.
Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa.
Từng đoàn khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hàng chuỗi bom chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam và chiếc nón bay của các phi công bạn.
Rừng cây bùng lên trong biển lửa khi bom "Napalm" chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng.
Phòng không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như pháo bông dầy đặc quanh thân tầu.
Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực, cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng đạn bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và lửa.
Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hảo lực ào ào xung phong vào trận địa.
Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt tấn công.
Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37 ly nhả đạn như mưa chống trả.
Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh, Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.
Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.
"Tubib" Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang cấp cứu cho các thương binh.
Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận chiến cũng vừa tàn.
Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen.
Dăm ba chiếc nón sắt rằn ri móp méo lủng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gío chiều.
Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng Đại Đội Trưởng/ Đại đội 111/ TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.
Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn khoá trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời xanh... Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu...
"Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến. Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!
Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ, mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa ttrong đám bạn bè, và thường bị các cô trêu chọc.
Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng, khóa 22 Võ Bị. - Người "Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi ra trường"
Người sỹ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!
Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.
Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ mãi mãi vắng thiếu bóng anh!
Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người chết ngủ vùi cạnh bên nhau.
Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói súng chiến trường lắng đọng trong tim.
Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe rất lạ tai!
Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên tay anh.
Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ kéo về. đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng, cây trái, sẽ xoá mờ đi vết tích chiến tranh
Tôi nằm đong đưa trên võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận chiến.
Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.
Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mặc kẹt trong xích xe bắt đầu xông lên khó chịu.
- Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!
- Thì cũng quen đi thôi!
Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.
- Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết còn đánh nhau cho tới bao giờ! "Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp ma"!
Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đòan quân rời vùng, tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7.
Mấy con qụa đen cất tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài cánh đồng.
Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Saigon, nhớ vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia đình mờ mịt cuối phưong Nam...
****
Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã, hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương... lấy xương trắng máu đào để bảo vệ miền Nam.
Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ huynh trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.
Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 Cộng quân.
Đai úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐTT112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài Quảng Trị. trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.
Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ "Phi Điểu" hy sinh trong trận ác chiến tại đồn điền Krek, Kampuchia.
Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại Hải Lăng!
Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha trận mạc.
Xin thắp nén hưong lòng để tuỏng nhớ các Anh
Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời gian từ hơn môt phần tư thế kỷ. Nhưng vì "Nhớ bạn bè, nhớ anh em", nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ huynh của một thời chiến trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.
Memorial Day, Bắc Cali Đoàn Phương Hải
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 8:25:28 GMT 9
Mũ Đỏ, Mũ Đen Đoàn Phương Hải / TĐ11ND
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Đức Dũng, và những anh hùng Mũ đỏ, mũ đen đã vị quốc vong thân tại Damber.
Gửi N/T Bùi văn Lộc - Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh... đã tham chiến tại Damber để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.
Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng Sản Nga, Tầu, Cộng Sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.
Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp Tết Mậu Thân, trên "Đại lộ kinh hoàng", trên phố trên nhà, trên ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão lửa chiến tranh.
Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng Cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy lùng tiêu diệt.
Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia. Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích, tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng Sản Việt Nam.
Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.
Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn Cộng Quân bao vây căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến biên giới Việt Miên.
"Song kiếm trấn ải" 11 Dù tiến quân vào căn cứ trong tiếng reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị Cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.
Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức lòng binh sỹ, mang khí thế mới về cho đơn vị.
Thừa thắng xông lên 2 Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.
Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hoả lực Pace ngay sát biên giới Việt Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất Kampuchia.
Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa "ăng ten" ngắn, dài, một người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Trưởng TĐ11/ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.
- Niên trưởng "Đại Lộc", lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ này vào Damber, chắc gay lắm phải không?
- Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn tôi và Mũ nâu Biệt động quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung đoàn Cộng quân tại "Miếu ông Sành". Kỳ này mình phải nghiền nát Damber ra mới được!
Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 18 Kị binh, Thiếu Tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.
Xếp Mũ đen với biệt danh "Tầy Quầy", lừng danh trận mạc trong binh chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi.
Tình tự Võ Bị từ ngày nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao hơn, nhưng vẫn một điều "Niên trưởng, hai điều Niên trưởng " xưng hô với xếp Mũ đen.
Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực thăng xuống ngay trận địa.
Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đ/T Khôi bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần, tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 Cộng quân đang có mặt tại Damber.
Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối trống với rất nhiều gò mồi, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn cho chiến xa di chuyển.
Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân .
Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió nổi bật trên nền trời.
Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.
"Mê Linh" Lê văn Mễ , Thiếu Tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M 113 giải tỏa, thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung Tá Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.
Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào cũng "Anh Năm, Anh Năm" xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp bậc.
- Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung Tá, lúc nào cũng xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi như anh em trong nhà.
Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, Ba Đại úy Đại Đội Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc là "Bắc Đẩu" và "Phi Điểu" ào ào tiến quân trực chỉ Damber.
Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M 41 bẵng qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa. Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113 thì không có gì trở ngại.
Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến trừơng, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.
- Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp nghiền nát chúng tại đây!
Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy cây cao bóng mát, nườm nượp "khách giang hồ" lui tới ghé thăm.
Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch. Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.
"Tubip" Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong, nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình, êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành kia nào ai biết đến chiến tranh!
Qua khỏi Miếu Ông Sành, (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón cối, dép râu vương vãi trên chiến điạ. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp cao của Quân đoàn ghi nhận.
- Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?
- Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.
Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tíếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa gần khu đóng quân.
- "Khều"! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?
- TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung Tá Thoàn là mũi xung kích cho Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng.
Có đêm mới 2, 3 giờ sáng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến thắng lớn.
Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.
Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!
Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy lạy như tế sao.
Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.
Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt Cộng nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!
Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!
Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người lính Nhảy dù đứng nhìn bầy trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi trên một quê hương xa lạ!
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn kia cũng đang run sợ khi bom đạn đốt hừng hực đốt cháy quê hương!
Thấy dân làng và bầy trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi đang làm độc trên thân thể.
Anh Năm, "Đại Lộc", ra lệnh cho tiền trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành quân.
Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.
Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao su, thè lươĩ liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt, mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới sót sa tội nghiệp làm sao!
Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái thơm thơm của dầu săng khi lại gần chiếc xe nhà binh.
Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và mấy chủ tiểu trên chùa.
Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn, tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam..
Quê hương tôi sao quá đọa đầy! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em miền Bắc!
Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn!
Nếu vương quốc Cao Miên không cho phép Cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người linh miền Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!
Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy múa lung linh trên pông sô, bên tiếng hót trong cao của bầy chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin may mắn cho đơn vị khi bứơc vào chùa giã biệt vị sư già.
Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hoả lực Hồng Hà để trở về quê mẹ. Hình ảnh dân làng và bầy trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên lũy tre.
Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức nhột nhạt khó chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và săng nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.
Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo của địch.
May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ.
Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào xạ kích, đánh bom trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.
Mấy thiết xa M48 chất đầy săng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm săng, bơm dầu cho chiến xa.
Phi hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để chờ trực thăng bốc ra.
Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.
"Tubip" Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với ông bạn Bác sỹ quân y bên Thiết giáp.
- Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào cũng ầm ĩ đầy mùi săng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia Budwiser và bia 33)!
- Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, "rang muối" gần chục xe rồi đấy ông ơi !
Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống B40 ngay trước đầu xe.
Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì bỗng choàng mình tỉnh giậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng cày tung đất đá ngay sát bên tai.
Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82 nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi hái tử thần sé gío bay đến vị trí đóng quân.
Mặc dầu đã qúa quen thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến. Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trứớc, đằng sau, bên trái, bên phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!
Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe. Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên canh Trung tá Bảo cũng đang ôm ngực chống tay, dựa vào thành xe.
Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong máy, "Bảo Ngọc" chụp ống liên hợp liên lạc với "Đại Lộc" và các đại đội ngoài phòng tuyến.
Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố trí theo bờ suối, sát đường.
Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra điểm hẹn trước khi trời sáng.
Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên đầu địch.
- Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao sẽ dùng chiêu "Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung" mà địch vẫn thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt sạn đạo Damber. Công trường 7 Cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong trận thư hùng quyết tử này!
Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Có tiếng C 47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng.
Vừa chui ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.
- Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!
- Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái đầu!
Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.
- Đệ nhất phong thủy miền Nam, "Diễn tiên sinh", khi được xếp lớn đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội. Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!
- Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến "Diễn tiên sinh", đó anh Năm!
- Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì nữa!
Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác, bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.
Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy "thảm" B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu tiên pháo binh, không quân cho trận điạ.
- Sáng rồi, mình "thượng đài" nhập trận đi anh Năm!
- Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.
-Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch.
Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa trắng ngả nghiêng uốn mình theo gío, cảnh vật im vắng trong làn sương mỏng ban mai.
Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm, căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an tòan của đủ loại vũ khí chờ Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu.
Tôi chợt nghĩ đến gia đình, một thoáng Saigon, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.
Sau khi đã bàn thảo với "Đại Lôc" xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít sé gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông "Lước Hốc Môn" từ nhiều vị trí khác nhau "T.O.T" chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá, bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau. Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.
Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị trí Bắc quân.
Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa.
Từng đoàn khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hàng chuỗi bom chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam và chiếc nón bay của các phi công bạn.
Rừng cây bùng lên trong biển lửa khi bom "Napalm" chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng.
Phòng không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như pháo bông dầy đặc quanh thân tầu.
Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực, cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng đạn bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và lửa.
Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hảo lực ào ào xung phong vào trận địa.
Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt tấn công.
Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37 ly nhả đạn như mưa chống trả.
Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh, Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.
Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.
"Tubib" Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang cấp cứu cho các thương binh.
Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận chiến cũng vừa tàn.
Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen.
Dăm ba chiếc nón sắt rằn ri móp méo lủng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gío chiều.
Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng Đại Đội Trưởng/ Đại đội 111/ TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.
Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn khoá trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời xanh... Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu...
"Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến. Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!
Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ, mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa ttrong đám bạn bè, và thường bị các cô trêu chọc.
Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng, khóa 22 Võ Bị. - Người "Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi ra trường"
Người sỹ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!
Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.
Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ mãi mãi vắng thiếu bóng anh!
Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người chết ngủ vùi cạnh bên nhau.
Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói súng chiến trường lắng đọng trong tim.
Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe rất lạ tai!
Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên tay anh.
Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ kéo về. đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng, cây trái, sẽ xoá mờ đi vết tích chiến tranh
Tôi nằm đong đưa trên võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận chiến.
Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.
Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mặc kẹt trong xích xe bắt đầu xông lên khó chịu.
- Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!
- Thì cũng quen đi thôi!
Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.
- Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết còn đánh nhau cho tới bao giờ! "Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp ma"!
Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đòan quân rời vùng, tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7.
Mấy con qụa đen cất tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài cánh đồng.
Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Saigon, nhớ vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia đình mờ mịt cuối phưong Nam...
****
Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã, hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương... lấy xương trắng máu đào để bảo vệ miền Nam.
Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ huynh trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.
Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 Cộng quân.
Đai úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐTT112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài Quảng Trị. trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.
Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ "Phi Điểu" hy sinh trong trận ác chiến tại đồn điền Krek, Kampuchia.
Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại Hải Lăng!
Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha trận mạc.
Xin thắp nén hưong lòng để tuỏng nhớ các Anh
Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời gian từ hơn môt phần tư thế kỷ. Nhưng vì "Nhớ bạn bè, nhớ anh em", nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ huynh của một thời chiến trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.
Memorial Day, Bắc Cali Đoàn Phương Hải
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:28:54 GMT 9
Nhớ Về An Lộc
Tác Giả: Nguyễn-Sơn Truyện quân sự, như chúng ta đã biết, có rất nhiều, nhưng viết truyện quân sự có mang tính văn học không phải là nhiều, dễ hiểu vì đa số những nhà văn thì không phải là nhà quân sự và ngược lại
Xin giới thiệu truyện ngắn sau đây của tác giả NGUYỄN SƠN - bài nói về An Lộc - một địa danh quá nổi tiếng trong cuộc chiến VN như là chiến trường của địa ngục trần thế-
Đã 34 năm kể từ trận chiến "mùa hè đỏ lửa" , đối với 1 đời người là dĩ vãng đã xa, nhưng với dòng lịch sử trận chiến vẫn tồn tại với thời gian
NVX xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọcNhớ về An-Lộc Nguyễn-SơnBài trích đăng từ Đặc San GĐ81/BCND số 1 ngày 1 tháng 7 / 1995 ________________________________________ Cho đến nay, đã hơn ba tháng tôi sống nơi đây mà vẫn chưa quen được với giờ giấc và thời-tiết. Đã đành đang Đông nên mặt trời thường "đi ngủ sớm". Nhưng trong người tôi vẫn thường bị xây xẩm hoặc bị ảo-giác về giờ-giấc. Có khi đang trưa mà tôi cứ ngỡ là nửa đêm. Nên thường nhìn đồng-hồ là vậy. Bây giờ đã hơn 1 giờ. Tôi biết chắc điều này vì ngoài trời mờ ảo với ánh đèn nhiều màu của thành-phố. Tuyết đang rơi thì phải. Hơn một tiếng đồng-hồ trước đây tôi đã thức giấc trong tiếng chuông điện-thoại. Người đã gọi, tôi không quen hay đúng hơn là tôi không nhớ. Anh đã nhắc nhiều đến Biệt Cách Dù trong đó có cả chị. Sau đó tôi đã không ngủ được. Tâm trí cứ vẫn-vơ nghĩ đến chuyện cũ An-Lộc năm xưa, đưa tôi vào ảo-giác chiêm-bao, trong mê tỉnh thực mộng...Tôi đã quên tôi trong hiện-hữu lạnh lẽo giá băng, trong thực tại tha-hương kiếm sống... tôi nhớ thật nhiều đến một mùa hè rực-rỡ, trong lửa đỏ Bình-Long, đến chị. * * **** Ngày 16/4/72 tôi đứng trong cơn chiều gió-lộng, trên một đỉnh đồi phía Đông không xa đồi Gió để nhìn vào An-Lộc. Nhìn con đường ngoằn-ngoèo, quanh co dẫn vào nơi khói lửa đó, lòng tôi bỗng dưng nôn-nao vô cớ, như lần hẹn hò với người tình đầu đời của tuổi học trò. Đêm tôi thao-thức với âm-thanh đạn nổ hai lần từ trời cao vọng xuống lẫn trong tiếng động-cơ con tàu C130 văng-vẳng khi gần, khi xa đã khiến tôi không sao nhắm mắt được với điệu ru buồn bã này. Sáng hôm sau, đơn-vị tôi vào An-Lộc- con đường ngoằn-ngoèo bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã đi qua những buôn làng xám ngắt trong tro tàn vắng lạnh. Chúng tôi đã đi qua những vườn tiêu xanh tươi trong nắng vàng ban mai và trên con đường rợp bóng mát cao-su. Chúng tôi đã vào An-Lộc để mai này nối tiếp đi lên phiá Bắc - lên đỉnh đồi Đồng Long... Đoạn đường không xa để đi qua thị-xã nhỏ bé này, để đến đồi Đồng-Long cùng với thời-gian không dài trong thế-kỷ 20. nhưng chúng tôi đã đi không tới trong một sớm một chiều, một ngày một đêm. Bởi thời-gian không tính bằng phút, bằng giây mà nó đã định bằng âm-vang đạn nổ, bằng hàng vạn lượt pháo bắn vào thành-phố này. Con đuờng chúng tôi đi tới, không đo bằng gang tấc mà bằng từng giọt mồ hôi và nước mắt của người lính và gia-đình. Con đường bằng máu trơn trợt trong điêu tàn khi lên khi xuống như bể khổ trầm-luân... Đồi Đồng-Long như ảo-giác ốc-đảo trong sa-mạc, khi trước mắt khi xa xăm, lúc chờn-vờn lung-linh trong bão lửa, lúc biến mất trong sương mù nhuộm khói...An-Lộc chìm ngập trong tiếng nổ và lửa cháy suốt 60 ngày như đêm bạo chúa Neron đốt thành-trì, đốt cư-dân để tìm hứng thơ... Chúng tôi đã đi qua được trận bão lửa này, trong tình bạn đồng-đội và hy-sinh để đến được đồi Đồng-Long và Hớn-Quản, ngoại-biên cực Bắc của thành-phố. Ngày 12/6/72 đồi Đồng-Long ngạo-nghễ nhìn quân Bắc-Việt tan-tác tháo chạy dưới chân...chấm dứt tham vọng của "cáo miền Bắc" đội lốt "chồn miền Nam" nối liền Lộc-Ninh, An-Lộc làm thủ-phủ xâm lấn miền Nam. Đêm nay trong cảnh rét mướt của xứ người, lòng tôi bỗng nhớ lại chuyện máu lửa xa-xưa. Chuyện mà mấy ai còn nghĩ, còn nhớ đến trong cuộc sống vội vã bon chen này. Vả lại để làm gì, khi nó là một kỷ-niệm không thuộc về mình. "Ai dư nước mắt khóc người đời xưa"phải không chị? Ngay chính tôi cũng vậy. Dù là người mới đến nơi đây, chân chưa cạn vết nứt-nẻ bùn đen, mặt chưa phai màu nắng cháy quê-hương và lòng còn nặng biết bao điều nắng mưa ở Việt-Nam, cũng đã phải theo chân bạn-bè đi trước, kề vai vào gánh vác cuộs sống, chạy đôn chạy đáo rao đổi mồ-hôi lấy bạc cắc, không đủ thời-gian để viết lá thư tình với năm ba chữ yêu-thương...Vậy mà đêm nay, quên cả đêm dài cần-thiết để lấy sức cho ngày mai còng lưng kéo cuộc sống, lại ngồi chong đèn, bút giấy nói chuyện đời xưa với chị. Hẳn là chị phải ngạc-nhiên? Ở đây tôi không nghĩ về chị như thế nào? Nhưng tôi đã nghĩ nhiều đến bạn bè của tôi đã sống và chết như thế nào mà đã gây cho chị một xúc-cảm đặc-biệt để viết thành hai câu thơ: "An-Lộc địa sử ghi chiến-tích Biệt-Cách Dù vị Quốc vong thân" Tôi cũng không nghĩ đây là bản "phong-thần" mà mặc-nhiên chị đã dành cho chúng tôi- những người lính BCD. Điều mà tôi đã cảm-nhận được ở đây - ở chị - chị đã nhìn thấy chúng tôi đã chết từ "chiến-tích" để được sống lại trong "sử ghi" và cũng vì "Vị-Quốc" nên chúng tôi đã không còn chọn lựa nào khác hơn là "hy -sinh" phải thế không?...Tôi rất cảm-kích về điều của chị và có lẽ những anh-linh của bạn bè tôi cũng vậy. Đó là chuyện "An-Lộc địa" và cô Pha ngày nào. Còn chuyện của tôi ngày xưa ở chiến-trường An-Lộc với chị ngày nay ở Cali - Đông có nắng vàng ấm-áp, hè có gió mát lá bay. Nơi chị đang an vui với gia-đình và bạn bè. Tôi cũng đã được lắm bạn bè nghĩ nhớ đến tôi cũng như tôi thường nghĩ nhớ đến họ. Những người đang sống và đã chết. Những người bạn thân-thiết cơm gạo sấy, nước trên ngàn của một thời chinh-chiến loạn-ly...Một Dung,Khánh, Mỹ, Thể...Một Huyên, Cường, Châu, Chính, Khoẻ...Tên của họ như vòng hạt chuỗi thẻ bài mà tôi đã từng mang nó trong năm tháng đời lính để ngày nay trở thành những mắt xích ràng buộc tôi với họ trong nỗi nhớ của tâm-hồn và vĩnh-viễn trong mai kia, dẫu tôi có sống dư thừa trăm năm, thế-sự có trầm-luân biến đổi đến đâu nữa - hình ảnh họ vẫn nguyên lành trong tôi với những đặc-điểm ở họ tôi đã mến thương. Những người lính chúng tôi đã không tiếc thân mình, thì với chiến-trường nào cũng vậy, chỉ có máu đổ chứ không có lệ rơi. Nước mắt không còn rửa được hận thù và lệ rơi không ngăn được mưa pháo đạn bay nên đã xem chuyện "tử -biệt sinh ly" như chuyện tương-lai trước mắt. Kẻ trước người sau rồi cũng đến phiên như một phiên gác đêm của người lính trong đời sống súng đạn mà thôi. Tôi đã từng sống bên những xác bạn bè còn nóng máu chảy, và nhìn thấy khuôn mặt còn tươi tỉnh, bình-thản tắt thở. Tôi bình-thản đợi chờ đến phiên mình, có lúc đã quên cả tiếng thở dài để chào người nằm xuống... Nhưng chị có biết không? Tưởng như vậy là hết, là quên, quên người, quên tên, quên cả kỷ-niệm và phiên mình chờ mãi vẫn không thấy đến. Không được chết vinh nên tôi đã phải sống nhục trong suốt 20 năm qua mà vẫn chưa yên...Để đêm nay lại đến với tôi, cuộc sống hiện-hữu, những hình ảnh của người chết trong vọng-tưởng hư-vô. Dẫu giờ đây cơm gạo sấy không còn, chiến-trận không còn sau 75. Bạn bè vẫn còn chập-chờn trong trí tôi. Bãt chợt đâu đó ở ngoại-cảnh, cũng có thể đưa tôi trở về dĩ-vãng để được gặp lại họ trong đời chiến-binh. Dẫu là mơ màng mộng tưởng nhưng đó cũng là nơi trú ẩn bình-yên duy nhất của tâm-hồn tôi giữa cuộc sống phàm-tục gian-truân này. Những tháng ngày lưu đày, hay bên đường xuôi Bắc ngược Nam, lúc nhai củ sắn, khi gặm củ khoai. Cuộc sống nối tiếp qua những trại tập-trung đày ải của người anh em bắt làm thân trâu ngựa, kéo cây đẵn gỗ trên ngàn, lặn sông, lặn suối vớt đá đắp đường. Để rồi khi đông qua rét mướt đẫm mồ hôi, hè đến trong nắng lửa, ngất xỉu bên luống cày cạn khô lao-lực. Họ đã lấy hung tàn để cạo rửa lý-trí, vắt cạn sức lực con người bằng miếng ăn họng súng. Đưa con người trở về với bản-năng sinh-tồn của một sinh-vật, và trong cuộc sống yếu đuối tận cùng này, bạn bè như hiển-linh đến với tôi trong dáng điệu nụ cười. Khi bên bờ suối hoặc đình non cao, lúc chờn-vờn trong mây trong gió như khuyến-khích an-ủi vỗ-về; hãy ráng lên sống với giả-trá vinh-quang và khổ nhục để tồn tại, hãy nghĩ đến vài trăm hạt bắp cuối ngày, thuốc cầm hơi để kéo dài kiếp sống lưu-đày mà bạo-lực đã ban cho. Tôi đã sống qua những ngày tơi-tả trong manh áo hai màu thay da bọc xương. Tôi đã thấy từng toán người không vải che thân, da nhăn-nheo thiếu máu lùa xuống ao nhúng nước như những đàn dị-vật hai chân. Tôi đã thấy tôi trong đoàn người cùng khổ đó. Chúng tôi đã mất tất cả danh xưng làm ngưòi để thấp kém hơn cả những loài thú-vật nuôi trong nhà. Nhưng trong tôi luôn luôn vẫn còn niềm tự-hào của đơn-vị, của bạn bè để làm vốn liếng cho cuộc sống tinh-thần và mỉm cười với hai chữ "sa cơ" và "thời -thế". "Thập tam niên" lưu đày không là bao so với thế kỷ, với lịch sử loài người. Nhưng cũng là một sự mất mát đáng kể cho một đời người dù là trăm năm phải không chị? Tuy-nhiên đây không phải là một lời than - một sự tiếc nuối cho cá-nhân tôi hay cho bạn bè cùng thời. Giá gì 13 năm không ra chi đó mà nhắc nhở! Nếu có chăng chúng ta hãy nghĩ giùm đến hàng bao thế-hệ con trẻ của chúng ta đã bị trì trệ trí tuệ, mụ mẫm trong kiêu-căng phi-nghĩa, phi-nhân - Quên Cha ông, Tổ-tiên, Giống nòi trong hai tiếng "anh ,tôi". Để chỉ biết có loài khỉ vượn ăn trái, ăn cây làm nên sự-nghiệp bác đảng. Con tôi không hiểu chữ "Hiếu" chữ "Ân"chữ "Tôn", chữ "Kính", không học Ngũ thường của Khổng Tử dạy làm người, mà lại thuộc lòng năm điều bác dạy như vẹt nói tiếng người. Tôi nhìn trong gia-đình với những xót-xa đổi thay và thấy ngoài xã-hội với những đổi mới kỳ-quặc. Tôi đơn-côi và bơ-vơ trong cuộc sống nửa khóc nửa cười này. Giờ đây trong đêm khuya khoắt, bên đèn chiếc bóng. Bạn bè lại đến trong giọng nói điệu cười, cho tôi được một lần vui trong ngày, để sau đó tôi lại trở về với lặng câm của cơn buồn cuộc sống, của dĩ-vãng một thời làm lính và một thời đi tù. Tôi đã không nghĩ đến bà con thân-nhân hay người yêu thưở nhỏ, hoặc cuộc sống mai đây sẽ khá hơn trong kiếp sống ly-hương này. Tôi sẽ có "job" mong ước khiêm-nhường của kẻ mới tới - để được chút tiền sống cho nình và cho người... Điều mà tôi nghĩ ở đây là những bạn bè của tôi không còn trên cõi đời này, những người đã chết không đám tang, không thay áo mới giữa chiến-trường. Họ đã trả lại cho đời sống cả tuổi thanh-xuân lẫn gian-truân một thời. Họ đã thảnh-thơi ra đi không bận với những gì còn lại và tiếp-diễn trên thế-gian này, dù là đầu đạn màu đồng hay những mảnh gang thép đã ghìm sâu vào thân thể, hay chiếc thẻ bài trắng bạc buông thòng trên cổ khi họ tắt thở - họ bình yên trong hai tiếng "trận -vong" thế là hết - một đời làm người!. Nợ nước, nợ đời họ đã trả. Nhưng tình nhà ra sao hở chị? Những mảnh khăn tang ngày đó không đủ phủ-kín nỗi sầu-bi, tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ con. Những tha-thiết nhung nhớ ngày đó của người tình, người yêu - bây giờ chắc cũng đã quên...Nhưng sao hôm nay lòng tôi bỗng dưng lại bồi-hồi xúc-động nhớ đến họ... Hơn 20 năm qua cứ mỗi lần nghe ai đó nhắc đến An-Lộc tôi lại một lần nhớ đến bạn bè - nhớ đến chị. Tôi nhớ đến những người đã chết nơi này và nhớ đến chị đã sống nơi đó. Tôi nhớ đến những người đã tạo nên chiến-tích cho đơn-vị bằng cái chết của mình và nhớ đến hai câu thơ của chị đã làm cho họ sống lại trong lòng mọi người. Và tôi nhớ đến ngày chị bị thương như một sự an-bài để "Ta quen nhau hề Lý-Bạch lưu linh..." vì "an bài" nên chị đã may mắn thoát khỏi quả pháo đến đón chị vào số phận "hồng -nhan bạc mệnh" hay nửa đời người làm "bại tướng cụt chân". Đáng ra vết thương này phải là của chúng tôi - những người trực-diện đối đầu phía trước - để cho mọi người - cho chị tay không cầm súng được an-lành. Nhưng chị biết đó, những viên đạn đồng đâu có hồn để biết đau thương, những viên đạn đầu đen mang gang thép ngoại-nhập nào có biết nhân-tình. Dù cho một em bé tuổi chưa thôi * mẹ, nuôi chưa tròn tiếng gọi mẹ cha, hay ông cụ bà lão tật nguyền chống gậy khấp khểnh trên đường ve"Qui-Tiên". Ở chiến-trường này đạn pháo của địch đã không nhân-nhượng khoan-dung cho bất cứ một thứ gì. Từ một bàn thiêng trước ngõ cho đến một con chó lạc chủ lang-thang bên đường. Tãt cả phải huỷ-diệt. Đó là điều mong muốn của địch. Họ đã dùng pháo để băm vằm thành-phố, băm vằm chúng tôi - những người lính đã quyết tử với họ...để giữ cho An-Lộc được tồn tại trên phần đãt tự-do miền Nam. Bầu trời An-Lộc xưa nay vẫn đẹp trong nắng hồng trời xanh, đều đặn hai mùa nắng đẹp, mưa vui, cho cây lá thêm tươi và vì là một tỉnh lẻ địa-đầu nên một sư-đoàn cùng hàng ngàn chiến-xa. đại-bác từ phương Bắc xuôi Nam tràn vào tàn phá chiếm giữ. Bàu trời bỗng dưng rực đỏ mầu hồng cùng với khói đen. Tai ương đến - khu Kito nhuộm máu giáo-dân trong buổi cầu kinh - Chúa vẫn buồn dang tay chuộc tội thế-nhân, mà người vẫn đa mê trong tội ác. Chùa xụp đổ, chẳng còn kinh mõ, Phật từ-bi rơi nước mắt khóc điêu-linh, cuộc thế trầm-luân. Đoàn quân CS vượt sông Gianh, Bến-Hải, xuyên Trường Sơn qua biên-giới. Ngày đêm ì-ạch khuân vác chiến-cụ ngoại-bang vào Nam. Người anh em chỉ nhằm mục-đích "giải-phóng" san bằng tự-do thanh-bình của người dân Nam để cùng nghèo đói gông cùm miền Bắc, trong giáo-điều bạo-tàn nô-dịch dân-tộc. Chắc chị cũng đã nghĩ như tôi, chắc chị đã không đau vì vết thương trên da thịt mà đã ray rứt về nỗi tủi hờn của một kẻ yếu đuối nữ-nhi, tay không cầm súng, không quen phong-trần cùng với gió sương. Chắc chị đã tiếc mình là nhi-nữ, không là Triệu-Ẩu, Trưng-Vưong, để phải lắm phen quay quắc trong hãi-hùng. Từ toà Hành-Chánh hay ga xe lửa, khu Kito hay trường học - chị lang-thang không nhà trốn giặc, trốn đạn khắp thành-phố bị bao vây nhiều ngày này và chị đã đến đây. Chị đã thấy gì hơn những nơi khác? Củng đổ nát điêu-tàn, cũng pháo rơi đạn nổ vung vãi khắp phố xá nhà cửa của dân lành. Địch nhằm mục-đích gây khủng-hoảng tinh-thần chúng tôi để chờ thời-cơ tiến đánh, nên đã ngày đêm không tiếc đạn bắn phá chúng tôi. Nhưng chị cũng thấy đó, chúng tôi vẫn thảnh-thơi vui cười - chờ địch đến như chờ cuộc chơi. Và với không khí lạc-quan đó đã khiến cho chị cảm thấy dễ chịu bình-yên hơn, tin tưởng hơn - dù một chút tin-tưởng đến muộn nhưng đã giúp chị thoát khỏi sự ám ảnh nào đó của âu lo...khi nghĩ đến cảnh phải ngồi co-ro ở một xó-xỉnh nào đó mà quyền làm người của chị lệ-thuộc vào họng súng AK, liệu chị có còn dám ngước mắt nhìn thẳng mặt họ mà vui cười như nhìn chúng tôi hay không? Hay chỉ biết cúi mặt chờ đợi - Những đầu ngón chân đen đúa đường xa của bọn chúng, chị sẽ nhìn thấy ở đó, một phần nào số phận của mình sẽ được định-đoạt. Chị sẽ bị mang ra bắn bỏ hay chôn sống. Có thể họ sẽ tha cho chị tội chết nhưng sẽ bắt chị phải đền tội sống. Tội làm người ở đãt nước tự-do, tội làm một cô giáo tỉnh lẻ hay viên-chức phụ-động ngày hai buổi đi về không biết hoan-hô, đả đảo...Chị sẽ được giáo-dục lao-động là vinh-quang làm theo sức trâu bò quên ngày, quên đêm là tiên tiến, là mũi nhọn công đầu...Chân chị sẽ chẳng còn guốc hồng dép trắng - chẳng còn nuột-nà gót sen và đôi tay của chị trau chuốt một thời sẽ nhăn-nheo héo úa bởi bùn đen đãt đỏ, bởi gai đâm vết cắt...tâm-hồn chị sẽ chai lì trong ê-chề buồn thảm để đến lúc chẳng còn biết mình là ai. Năm qua tháng lại chị sẽ trở thành một tên nô-lệ chuyên-nghiệp của chiến-trường xuôi Bắc ngược Nam, quên cha quên mẹ, quên cả người tình...Ngày ngày vác sắn,tải đạn, khiêng thương binh, chôn xác quân thù. Đêm về ngồi xếp bằng vỗ tay ca hát như lũ con nít vừa mới lên năm. Cuộc đời rồi cũng tàn-tạ rơi-rụng như chiếc lá úa trên rừng...Gương Mậu-Thân ngày nào ở Huế, chắc chẳng mấy ai quên... Sống nơi này với chúng tôi chị đã cảm thấy dễ chịu bởi chúng tôi đã không vướng bận với cái sống,cái chết, nên chị cũng đã bỏ lo đi để bình-thản. Rồi một đêm mùa hè trăng soi, chị đã quên cuộc sống dẫy đầy chết chóc, đau thương, chị yên tâm quên pháo, nằm dưới hiên để ngắm chị Hằng lững-lờ cùng trời mây. Chị có nhớ Lý-Bạch đã chết vì trăng không? Tôi không hiểu Tô-đông-Pha đã chết như thế nào? Nhưng tôi đã biết rõ chị Pha đã thoát chết trong một đêm mưa pháo của trận chiến An-Lộc. Và chị đã không chết ngay tại chỗ nhưng với vết thương đó liệu chị có nghĩ đến "Mỹ nhân nhân tự cổ như danh tướng. Bãt hứa dương gian..."không? Đấy,chị đã sống gần chúng tôi bao ngày trận chiến hung hiểm. Chị cũng đã từng thấy chúng tôi ngã gục trên chiến-hào, hay bao phen thay phiên mang thương tích để giữ đất và giữ nước. Chị cũng đã nhìn thấy những nấm mồ chôn vội vã bên cạnh chúng tôi. Với một nấm mồ có gì để đáng nói! Nhưng với chúng tôi đó là những nấm mồ mà chúng tôi đã đắp lên cho bạn bè bằng tất cả tình huynh-đệ thân thương...Chị đã thấy, trong những đêm mưa tầm-tã lẫn lộn với pháo rơi, chúng tôi đã phải mò-mẫm từng tấc đãt trong bóng đêm để bới những cái hố nhỏ chôn mình tránh pháo rồi mới đào những huyệt lớn để chôn xác bạn sau. Chúng tôi đã xem thường cái chết trong lúc chiến-đấu một mất, một còn với địch bao nhiêu, quý xác bạn bè khi nằm xuống bấy nhiêu. Đôi khi thật vô-lý - khi một người chết lại phải mất thêm một vài người sống chỉ vì một cái xác không hồn. Nhưng tình-cảm riêng của chúng tôi, nó có lý lẽ riêng của nó...và chúng tôi đã tồn tại được trong gian-nguy khắp chiến-trường dạo đó, một phần cũng nhờ vào tinh-thần đồng-đội "sống chết có nhau". Có lẽ ở đây chị cũng đã nhìn thấy được ở chúng tôi điều mà chúng tôi đã không thấy. Đó là thân-phận thật nhỏ nhen của một người lính khi sống cũng như lúc chết và sự hy-sinh hào-hùng lớn lao của họ mà thế-nhân ít kẻ thực-sự nhìn thấy. Lẽ dĩ nhiên đôi khi chúng tôi cũng được ca tụng, ngợi khen, có lúc cũng đã phải thẹn-thùng bởi vì nó đã vượt quá điều chúng tôi nghĩ, chúng tôi làm. Và, chị là một - một chứng-nhân cho sự sống chết và hy-sinh bên nhau của chúng tôi. Nếu chúng tôi là những tên giác-đấu khô cằn sắt đá, chỉ biết đi tới trong bước chân Robot người máy, hoặc quay lưng lại chạy trước, quên sau, không cần biết bạn bè chiến-hữu thì chúng tôi cũng đã tự huỷ-diệt từ lâu. Và bây giờ cũng chẳng còn gì để nói với nhau, với chị. trong cái nhìn của chị về chúng tôi, cũng như đã cảm-nhận được những gì mà chúng tôi đã có. Cái đau hành xác của vết thương thiếu thuốc. Cái chết lơ-lững trước mắt trong lằn đạn địch bắn tới. Cái"lạnh cẳng" khi đôi chân vướng vít giữa những lằn đạn bắn ngang dọc, và nhất là tiếng nổ của viên đạn pháo rơi kề cận, là một điều thật hiếm hoi để cho chị phải nhớ mãi. Bởi những trường-hợp như thế này ít khi còn dịp để cho mình nhớ lại cảm-giác lúc đầu. Vì mình sẽ không còn nữa, và linh-hồn không biết có mang theo để nhớ lại ở đâu đó không? Chị cũng đã từng chung niềm vui với chúng tôi trong những khi chiến-thắng và cũng đã cùng buồn trong những lúc chiến-bại. Chị là chiếc bóng kề cận, là chứng nhân, là chiến-hữu của chúng tôi. Dù không súng đạn ba-lô, không mang cấp bậc số quân, không ai tuyên dương chị nhưng chính chị đã tuyên-dương chúng tôi, đã khiến cho mọi người nhìn thấy chúng tôi trên khắp chiến-trường giông bão chống giặc Bắc-phương ngày đó qua "An-Lộc địa"của chị và mãi cho đến bây giờ hoặc mai sau.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 3:49:35 GMT 9
Ðường đến Hoàng Sa * Bút ký của Vũ Thất LTS - Tên thật Võ Văn Bảy, nhà văn Vũ Thất là tác giả của bút ký Ðời Thủy Thủ xuất bản trước 1975 lúc ông còn là sĩ quan đơn vị Hải Quân chiến đấu sau khi từng phục vụ trong ngành văn nghệ Hải Quân. Ơng tốt nghiệp Hải Quân khóa XI Ðệ Nhất Bảo Bình (1963). đang định cư tại tiểu bang Maryland, nhà văn Vũ Thất vẫn góp mặt thường xuyên trên trang Sinh hoạt Văn học Nghệ thuật Người Việt Tây Bắc và Quán Văn. Tôi nhìn về hướng mũi tàu. Sa mù xám đục ngập phủ, ập xuống mặt nước như cố ngăn những lượn sóng ào ạt cuốn vào bờ. Từng loạt gió hâm hấp, cuốn theo các hạt nước bắn lên từ các ngọn sóng ngã đổ, vùn vụt lướt qua chiến hạm. Gió va vào các bộ phận lộ thiên, phát ra những âm vang dị biệt, tạo thành một hợp âm lạ lùng đầy vẻ dọa dẫm. Những vạt nước tóe lên từ bên hông tả hạm, bắn vào mặt vào mắt ran rát và cay xót. Chiến hạm lay lắc, từng khi hích mạnh vào cầu tàu, gây nên những cơn giật bất thường, ngầy ngật. Ông hạm trưởng nghiêng người nhìn dọc theo hữu hạm, kiểm soát tình trạng sẵn sàng của nhân viên trong nhiệm sở rời cầu. Ông quay sang hạm phó nói bằng giọng điềm đạm như khuôn mặt của ông: - Biển còn động mạnh quá! Hạm phó nhìn ông mỉm cười. Tôi thấy những tia hy vọng lung linh từ nụ cười cầu tài đó. Trong bữa cơm trưa vài tiếng trước đây, hạm phó đã đề nghị hoãn khởi hành đi Hoàng Sa thêm một vài ngày. Ông cho rằng việc hoán chuyển quân là việc không gấp gáp, tội gì phải oằn người vì sóng gió. Tôi biết cái lý do thầm kín mà ông không thể nêu ra. Sóng gió đối với ông là chuyện bỏ đi. Ðêm qua, ông khoe với chúng tôi là mới quen được với một cô nữ sinh trường Sao Mai và ước ao phải chi cơn bão không tan vội... Giọng cà tửng quen thuộc của hạm phó: - Hoãn thêm một ngày nữa là phải quá, thưa hạm trưởng. Một ngày rỗi rảnh, hạm trưởng sẽ làm thêm được vài bài thơ tình, hạm phó sẽ được hưởng thêm những giây phút êm đềm... Tôi ngước nhìn hạm trưởng với hy vọng ông không đổi ý. Tôi thì một ngày trôi qua nơi bến lạ là một ngày chồng chất nhớ nhung. Nhớ người yêu thì ít, nhớ phố xá Sài Gòn thì nhiều. Lẽ ra giờ này tôi đã ngồi ở một quán kem nhìn ông đi qua bà đi lại. Lẽ ra tôi đã gặp lại người yêu... - Phải khởi hành thôi, hạm phó. Mình đã trễ một tuần rồi. Ðại đội địa phương quân ngoài Hoàng Sa đang mong ngóng được về gặp mặt vợ con. Tôi chỉ mới mười ngày không gặp gia đình mà đã ủ ê, huống hồ họ đã quá hạn sáu tháng... Ông đổi giọng rắn rỏi, dứt khoát: -Tháo hết dây, trừ dây số ba. Tôi vui sướng nghe anh vô tuyến lặp lại mệnh lệnh vào điện thoại nội bộ. Khi các dây đã kéo về tàu, nằm gọn vào ổ, hạm trưởng ban hành các lệnh cần thiết để tách con tàu đang bị sóng gió đẩy dính vào cầu. Ðúng vào lúc sợi dây duy nhất còn lại căng bần bật, bốc khói thì mũi tàu từ từ tách khỏi cầu. Con tàu hục hặc, vùng vằng tiến lên. Càng xa cầu, con tàu càng chao đảo. Tiếng gió rít đâu đó như tiếng sáo ở cung bậc cao, hòa quyện với tiếng bầm bập từ tấm vải bố rộng lớn che kín lòng tầu cùng tiếng phần phật từ lá quốc kỳ ở chóp trụ sắt bên trên đài chỉ huy. Tôi ngẩn nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ mới tinh đang năng nổ phất phới tung bay và chợt thấy vui vui, hăng hái... Con tàu bất ngờ chui vào một vùng mây mù xám xịt. Vô vàn mảng nhỏ xoắn xuýt rồi tan nhanh. Người tôi nóng bừng, bứt rứt. Miệng tôi nhờn nhợn, khó chịu. Mồ hôi rịn ra ở ngực và lưng. Tôi biết là tôi đang muốn mửa. Cái khả năng chịu sóng của tôi qua mấy tháng thực tập hải nghiệp ở quân trường được ghi nhận là yếu. Trong suốt thời gian đó biển ngày nào cũng động, nhưng dù động mạnh hay nhẹ, không ngày nào tôi không ói mửa. Có hôm mửa cả mật xanh mật vàng. Tôi nhớ đã nghĩ đến chuyện đào ngũ, bỏ cuộc. Giờ đây, ý nghĩ đó lại trở về. Tôi đặt ống dòm lên mắt, cố chú tâm quan sát. Phía trước mù mịt. Tôi chúc ống dòm xuống mặt nước. Mặt nước đục ngầu, giận dữ, lồng lộn sủi bọt. Hạm trưởng ra lệnh anh giám lộ kéo còi hải hành trong sương mù. Tiếng còi vang lên kéo dài, bị nuốt chửng vào không gian âm u rồi lại vang lên, kéo dài, đều đặn. Tôi cũng lắng nghe tiếng còi vọng đến từ đâu đó nhưng mọi phía vẫn chỉ là những âm thanh hỗn tạp, khó nghe... Hạm trưởng bước lại bàn hải đồ mở quyển nhật ký hải hành. Ông đứng viết vài dòng tiêu lệnh rồi bước sang ngồi lên chiếc ghế nệm bọc da duy nhất dành riêng cho ông. Người ông đong đưa, đôi mắt đăm đăm nhìn xuyên qua khung trời mù mịt. Tôi đoán là ông đang ưu tư. Tôi nhớ một lời nói đùa khi học về hải hành trong sương mù. Nó không khác già hiệp sĩ mù nghe gió kiếm. Con tàu phải lắng nghe tiếng còi để tránh nhau. Khi “thấy” nhau thì coi như quá muộn. Hạm phó nói lớn: - Phòng radar báo cáo ba écho gần nhất. Tôi nghe lệnh truyền đi và tiếng đáp nhận. Một lúc sau là tiếng báo cáo hướng và khoảng cách. Hạm phó loay hoay đo đạc, chấm tọa độ vị trí chiến hạm lên tấm hải đồ. Ông đề nghị hạm trưởng cho đổi đường. Ðược chấp thuận, hạm phó ra lệnh anh hạ sĩ quan vận chuyển đứng gần chiếc loa dẫn xuống phòng lái: - Bên phải năm. Sau khi anh lặp lại lệnh, có tiếng vọng từ miệng loa: -Tay lái năm bên phải. Mũi tàu quay dần về phía hữu. Bất chợt con tàu chao đảo dữ dội. Tôi chụp lấy thành đài, bám chặt. Hạm phó buông thõng chiếc ống dòm lủng lẳng trước ngực, phóng tới ôm chiếc la bàn điện đặt trên một trụ sắt giữa đài chỉ huy. Ông nhìn vào chiếc la bàn, giọng thật sắc: - Lái thẳng. Tiếng vọng: - Lái thẳng, đường năm ba. Hạm phó ra lệnh tăng tốc độ. Con tàu chúi mũi vào các ngọn sóng bạc đầu, hâm hở tiến lên. Nước bắn tóe vào đài chỉ huy từ mọi phía. Các bộ kaki màu nước biển lấm tấm những đốm xanh thẫm. Hạm trưởng rời khỏi ghế, bước lại bàn hải đồ nhìn vị trí được đánh dấu bằng vòng tròn có gạch chéo. Nó nằm trên con đường hải hành trù định. Hạm trưởng gật gù tỏ vẻ hài lòng. Ông hỏi hạm phó: - Ai là sĩ quan đương phiên? - Thưa thiếu úy Túc. - Ai kế? - Thưa, trung úy Lâm. Ông quay sang tôi: - Thiếu úy Bằng đi ca với trung úy Hào. Ca của trung úy Hào bắt đầu tám giờ tối. Không đợi tôi đáp nhận, ông quay sang hạm phó:ố Hạm phó trách nhiệm chỉ huy từ giờ phút này cho đến khi tàu qua khỏi cù lao Chàm. Thiếu úy Bằng có thể xuống nghỉ ngơi... Tôi hăng hái lên tiếng: - Thưa hạm trưởng, tôi xin ở đây cho đến khi nhận phiên. Ông gật gù: - Còn bốn tiếng nữa mới đến phiên. Mệt lắm đó. Tùy anh. Ông xoay người hướng về cầu thang. Hạm phó hô nghiêm. Tất cả nhân viên đưa tay chào. Ðợi Hạm trưởng khuất hẳn, hạm phó cười cười với Túc: - Anh hùng thấm mệt? Túc tựa lưng vào thành đài, nhăn nhó: - Ðêm qua quần nhau tới sáng. Giờ gặp sóng gió thế này chắc... chết. - Muốn hạm phó đi giúp ca này chăng? Túc lắc đầu: - Có sức chơi có sức chịu. Cám ơn hạm phó. - Vậy thì tôi sẽ giao phiên khi chiến hạm qua khỏi cù lao Chàm. Bây giờ thì cứ đứng nhắm mắt... cho lại sức. Nhưng Túc vẫn đăm đăm nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió. Thỉnh thoảng anh loạng choạng, quơ tay lung tung để giữ thăng bằng khi con tàu nghiêng quá đà. Tôi biết là tôi chưa làm thế được. Tôi còn cần bám vào một cái gì đó mới giữ được thăng bằng. Tiếng gió rít veo véo, tiếng rào rào của các mảng nước bắn tung, tiếng đì đùng của các đợt sóng ngầm chặt vào lườn. Thỉnh thoảng chiến hạm va phải cơn sóng mạnh, cả thân tàu run rẩy theo tiếng răng rắc vang lên. Tất cả những âm thanh đó gợi tôi cái cảm giác bất an. Suốt tháng trước, dù được đi ca chung với hạm phó, học hỏi được nhiều nhưng tôi vẫn chưa quen với những tiếng động lạ thường trên chiến hạm. Tiếng của hạm phó lạc vào âm thanh hỗn độn: - Thiếu úy Bằng xuống kiểm soát việc trực radar. Ðừng để nhân viên thám xuất rời mắt khỏi màn ảnh. Mọi bất thường báo cáo ngay. Tôi đáp nhận rõ rồi xiên xẹo lần ra đầu cầu thang dẫn xuống phòng lái. Cầu thang như sâu hơn thường ngày. Tôi lần dò đặt chân lên từng bậc. Hai tay bám chặt thanh sắt an toàn. Con tàu chầm chậm nghiêng hết về bên phải rồi vặn mình nghiêng hết về bên trái. Tôi phải dồn toàn lực vào hai tay để bám víu mỗi khi con tàu nghiêng hết về một phía. Sự cộng hưởng tạo một sức ly tâm cực mạnh khiến tôi có thể bị bắn văng khỏi tàu. Xuống đến chân cầu thang, tôi thận trọng bước lần dò về cửa phòng lái. Cửa là một tấm sắt dềnh dàng đóng kín khi sóng to gió lớn. Cần khóa đang ở thế thẳng đứng. Muốn mở, phải vặn cho nó nằm ngang. Trời vẫn oi bức nhưng tôi cảm thấy lành lạnh, rợn người. Với mức độ tròng trành thế này, không cẩn thận chọn đúng thời điểm, cánh cửa ngàn cân có thể bật tung vào người gây thương tích nặng. Và một khi cửa đã mở mà không bước vào kịp, nó sẽ bật vụt lại, chặt gãy tay chân. Một tay bám vào thanh an toàn, tay kia nắm cần chốt, tôi nín thở chờ đợi. Vừa khi con tàu trở về vị trí thăng bằng, tôi xoay phần tư vòng, mở vụt cánh cửa, lách vô thật lẹ. Chân vừa rút vào thì cánh cửa ập sầm lại. Tôi gài chốt màà hú hồn. Phòng lái lờ mờ. Tôi bước đến chiếc radar đặt gần vách trong. Anh thượng sĩ thám xuất đưa tay chào. Tôi gật đầu, thân mật: - Các anh đều... êm cả chứ? Anh cười: - Cám ơn thiếu úy, tụi này cũng đỡ. Tôi nhìn vào mặt kính hình vành tròn. Từ điểm trung tâm, một vệt sáng quét chầm chậm tạo nên hình ảnh hải cảng vịnh Sơn Trà. Phần sáng rực là bờ và núi. Phần nhạt hơn là biển với vài ba đốm trắng nổi bậc. Anh thám xuất cho biết các đóm sáng đó là những đối vật di động, có thể là thương thuyền. Anh báo cáo tình hình lên đài chỉ huy. Hạm phó ra lệnh theo dõi và báo cáo liên tục hướng và khoảng cách... Ánh sáng khi lóe, khi lòe làm mắt và đầu tôi căng nhức. Tôi bước lui, tựa lưng vào vách. Qua lỗ châu mai, mũi tàu cất lên thật cao rồi gục xuống đánh sầm. Một mảng sóng lớn tràn qua mũi như muốn nhận chìm chiến hạm. Nước tốc lên, túa ào ạt vào lòng tàu và ập vào ô kính các lỗ châu mai. Tôi nghĩ thầm, may mà tàu còn ở vận tốc chậm. Nếu máy tiến ở tốc độ đường trường thì coi như là đời đi đứt. Như để thách đố, một giọng uể oải phát từ miệng loa: - Phòng lái, hai máy tiến bốn. Tôi cay đắng mỉm cười. Rồi mày lại thấy mật xanh mật vàng. Rồi mày sẽ còn mửa dài dài,còn khốn khổ dài dài... Tiếng lạch cạch từ cần tốc độ. Tiếng leng leng báo hiệu máy đã tăng. Nhìn về tả hạm qua lỗ châu mai,một khoảng không gian nhỏ bé chầm chậm chuyển từ vòm trời âm u sang vùng biển xáo động và ngược lại. Con tàu liên tục vật vã, giật mình, rên rỉ... Tôi lại thấy ngột ngạt, bụng quặn lên, nước mắt ứa tràn. Ðến cơn quặn đau thứ ba, tôi phóng tới chiếc sô đặt gần cửa ra vào. Chưa kịp gục mặt xuống, miệng đã há rộng. Tôi nôn thốc hết thức ăn bữa trưa. Rồi tiếp tục các chất bầy nhầy lợn cợn chừng là thức ăn chưa kịp tiêu của ngày hôm qua và ngày trước đó. Nước mắt tôi ràn rụa. Tôi nín thở mà vẫn ngửi được mùi tanh hôi nồng nặc. Tôi không dám đứng lên, vẫn tiếp tục ôm chiếc sô chờ tới phiên mật xanh mật vàng. Trong giây phút toát mồ hôi đó, đầu óc tôi chợt hiện ra hình ảnh câu ca dao đã được một anh thủy thủ hiệu đính nhân một lần thấy tôi ói mửa: Hôm qua lên gác đài cao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ, buồn trông thiếu úy ôm sô... Tôi thấy vui vui và bỗng nghe người nhẹ đi. Một cảm giác dễ chịu lan nhanh. Theo kinh nghiệm, tôi hiểu là công tác... nuôi cá đã tạm dứt và từ giờ có quyền... chờ dịp khác. Tôi gắng gượng đứng lên, bám vào vách, hổn ha hổn hển. Ðúng lúc đó tôi nghe văng vẳng giọng ca Thanh Thúy. Tôi tưởng tôi đang mê nên cố lắng tai... Giọng ca nỉ non, rõ ràng từng tiếng: “...thì dù xa xôi tôi vẫn là của ngườià” Tôi bật cười thì thầm: “Cám ơn em, cho dù có em ở đây, anh cũng chẳng... ăn được cái giải gì!” Nghe tiếng tôi cười, anh hạ sĩ vận chuyển quay sang: - Phòng vô tuyến chơi điệu lắm, thiếu úy. Những lúc sóng to, biển động, họ mở nhạc yêu cầu nghe hết sảy! Tôi gật đầu tán đồng nhưng không dám lên tiếng. Tôi biết, nếu há miệng, tôi sẽ không nói mà là mửa tiếp. Tôi nín hơi cố ngăn một cơn nôn. Giọng ca nức nở, ngọt ngào như ru tôi vào cõi mộng... “Nhiều khi ưu tư, tựa song cửa nhỏ, nhìn ngoài mưa tuôn sao nghe lạnh vào hồn...” Tôi thấy lạnh ở thân nhưng hồn thì tan theo tiếng hát. - Mời thiếu úy Bằng lên đài chỉ huy gặp hạm phó. Tôi nói lớn đáp nhận rồi dứt khoát bước nhanh về cánh cửa sắt. Tôi xoay cần chốt, vừa đẩy mạnh vừa kềm giữ. Cánh cửa bật tung. Tôi bước nhanh ra. Cửa tự động ập lại. Tôi xoay cần chốt khóa chặt. Gió rít từng hồi mang theo những giọt nước li ti bắn túa vào người. Tôi lại lạng quạng từng bước lên các bậc thang. Con tàu chao nghiêng, trườn tới rồi chao nghiêng, chừng như đang biểu diễn một điệu luân vũ giữa muôn ngàn hoa sóng. Chiếc mũ lưỡi trai bất ngờ rời khỏi đầu. Tôi ngoái lui. Chiếc mũ bay vụt cao, la đà rồi lại vụt cao và mất hút. Cơn ớn lạnh len dài theo xương sống. Tôi nhớ ra là đã quên cái áo mưa trong phòng lái. Tôi muốn trở lui nhưng nghĩ đến phút giây phải mở cánh cửa chết người nên đành chịu ướt, chịu lạnh bước tiếp. Hạm phó nhìn tôi cười: -Gọi cậu lên đây xem sức cậu tới đâu! Khá lắm! Thôi, xuống nghỉ ngơi đi. Vài giờ nữa nhận phiên là... thăm thẳm chiều trôi đấy. Mệt quá, tôi không cười nổi với lời đùa của ông và cũng lờ đi lời nói ngon lành với hạm trưởng mới đây. Tôi chào từ biệt hạm phó và thiếu úy Túc. Có lẽ phải mất đến mười phút tôi mới lần dò tới được chiếc giường êm ấm của tôi bên trong lòng tàu. Nhưng chỉ cần vài phút là tôi đã chìm vào giấc ngủ mê man... Tôi chợt thức giấc vì cảm nhận một sự êm ả bất thường. Chiến hạm không còn đong đưa, lay lắt, không còn rên rỉ vì những cú đập tàn bạo của các đợt sóng ngầm. Tôi nghe máy tàu vẫn còn chạy ở vận tốc cao nhưng dường như đang hải hành trong một vùng vịnh không sóng gió. Tôi nhìn đồng hồ: 7 giờ sáng. Ðêm qua tôi bị đánh thức để nhận đi phiên từ tám giờ tối đến nửa khuya. Bốn tiếng chịu đựng những cơn tiện xoáy bào quả là dài đăng đẳng. Ðôi lúc tôi tưởng chừng kiệt sức, gục quỵ. Khi rời đài chỉ huy, biển còn động dữ dội. Không lẽ chỉ qua một giấc nam kha mà lại êm ru bà rù? Thì cũng có thể lắm. Giấc nam kha kéo dài suốt bảy tiếng, đủ để tàu vượt qua một đoạn đường dài, dứt bỏ vùng bão tố. Bụng tôi chợt cồn cào, ran ran. Tôi nhớ ra là tôi đã bỏ bữa ăn tối qua, đã mửa liên tục. Tôi cũng nhớ ra nhiệm vụ chính của tôi trên chiến hạm là kiểm soát việc ăn uống của thủy thủ đoàn. Bây giờ là giờ điểm tâm. Tôi ngồi bật dậy, cảm nhận cơn mệt mỏi rã rời... Tôi rửa mặt thật chậm, tận hưởng cơn sảng khoái từ độ mát mẻ của nước. Tôi sửa sang tề chỉnh quân phục rồi bước lên nhà bếp. Hai nhân viên hỏa đầu vụ đưa tay chào. Tôi chào đáp và hỏi: - Trung sĩ Tuyến đâu, anh Cát? - Thưa thiếu úy, trung sĩ đang kiểm soát phòng ăn đoàn viên. Thiếu úy cần, tôi đi gọi? Tôi nhìn nhà bếp gọn gàng, sạch sẽ: - Thôi khỏi. Còn thức ăn sáng cho sĩ quan? - Tôi dọn thêm món trứng chiên này là xong. Thiếu úy đã bỏ cơm chiều hôm qua... Tôi cười gượng: - Sáng nay chắc cũng thế. Giọng Cát vui vẻ: - Biển đã yên. Ăn được rồi, thiếu úy. Tôi lắc đầu: - Vấn đề là... ăn không vô. Thức ăn chưa qua khỏi cổ là... vọt ra liền! Hy vọng bữa trưa, may ra. - Trưa không chừng mình có vít ăn. Hoàng Sa có nhiều vít, thịt ngon hơn thịt gà. - Vít là con gì vậy? - Một loại rùa nhưng lớn hơn con ba ba nhiều. Tôi cười, lắc đầu: - Rùa rắn là không có tôi. Tôi bước qua khung cửa vào lòng tàu. Cả đại đội địa phương quân còn say sóng nằm la liệt từ mũi tới lái. Họ như ngủ say sưa, mà thật ra họ đang mê thiếp, như tôi đêm qua. Nhiệm vụ buộc tôi phải... tỉnh lại. Chỉ vài giờ nữa thôi, họ sẽ hạnh phúc lên bờ. Còn tôi, trọn đời khó thoát khỏi biển. Tôi leo vội lên đài chỉ huy đúng lúc tiếng còi đổi phiên vang lên. Tôi chào trung úy Lâm. Ông đưa tay, thân mật: - Biết chú mầy thường lên sớm nên tôi đang mong đây. Lái giùm tôi cho đến khi trung úy Hào lên nhận phiên. Tôi có việc xuống sớm một tý. Không cần biết tôi bằng lòng hay không, ông tỉnh bơ rời vị trí. Tôi tưởng ông đùa vì ông thừa biết tôi chưa đủ khả năng hải hành. Tôi mới ra trường được một tháng mà theo hạm trưởng phải ít nhất sau năm bảy chuyến công tác tôi mới được đánh giá làm trưởng phiên. Tôi chợt lo lắng, nhìn quanh xa khơi. Không bóng dáng một chiếc tàu thuyền nào. Chỉ bao la một thảm xanh lao xao, lấp lánh. Muôn ngàn tia sáng chạy dài đến tận mặt trời chưa lên cao. Gió nhẹ, mát rười rượi. Tôi hít một hơi dài, thấy an tâm và hãnh diện. Việc ủy thác của trung úy Lâm hẳn đã dựa vào thành quả một tháng cố gắng học hỏi tận tình của tôi. Nhớ đến việc đầu tiên phải làm khi nhận trưởng phiên hải hành là xác định vị trí chiến hạm, tôi bước sang bàn hải đồ nhìn vào hải trình. Hàng chục vòng tròn nhỏ có gạch chéo cách đều nhau trên một đường kẻ kéo dài từ cù lao Chàm đến trung tâm quần đảo Hoàng Sa. Vòng cuối cùng với ghi chú 1100H, nằm cách không xa một nhóm đảo trông giống như là những quả trứng lớn nhỏ nằm ngổn ngang. Tôi hiểu là còn khoảng ba tiếng nữa sẽ đến điểm đổ bộ. Tiếng trung úy Hào từ phía sau: - Mình đến đâu rồi, thiếu úy Bằng? Tôi quay lại đưa tay lên chào nhưng anh chỉ cười cười đưa tay ra bắt: - Còn sức lên nhận phiên sớm là ngon quá rồi. Cứ tưởng anh hùng đã thấm mệt! Tôi ráng nở nụ cười: - Thưa trung úy, theo phỏng định thì còn ba tiếng nữa là đến điểm đổ quân. - Cụ tin vào cái vị trí phỏng định là có cơ hội chẳng bao giờ thành... hạm trưởng. Trong tình trạng sóng to gió lớn, vị trí phỏng định là vị trí... bi quan nhất. Từ chiều hôm qua chúng ta đi với hướng sóng gió chếch mũi. Chúng ta đã cho lái “trừ hao” độ dạt. Và chúng ta đã phỏng định tốc độ là mười hai gút. Thật sự giờ này chúng ta ở nơi nào trên biển, chỉ có... Trời biết. Không chừng ta đã lạc sang vùng Amphitrite Group của người dưng khác họ hoặc tệ hại hơn là đang vào vùng nước cạn North Reef với những xác tàu chìm. Nói cho cùng, gặp cái nào thì cũng thân bại danh liệt. Tốt hơn hết là bắt đầu theo dõi độ sâu. Anh đổi giọng sắc và lớn: - Phòng lái, cho biết chiều sâu mỗi năm phút. Radar báo cáo ngay khi phát hiện echo. Thiếu úy Bằng và các quan sát viên quan sát cẩn thận bằng ống dòm, từ hướng 9 giờ đến 3 giờ. Hào dò nhìn lên tấm hải đồ khi nghe phòng lái báo cáo chiều sâu. Anh gật gù vói tay lấy chiếc ống dòm rồi bước sang chiếc ghế sắt gắn vào thành đài. Anh ngồi tréo chân thoải mái, chầm chậm quét ống dòm quanh hướng mũi chiến hạm. Anh hạ sĩ quan phụ tá trưởng phiên, anh giám lộ và tôi cùng đưa ống dòm lên mắt. Vẫn chỉ là mặt biển lóng lánh, thăm thẳm, mênh mông... Con tàu thênh thang phóng tới, bọt biển tỏa hình cánh chim, đổ về phía sau thành một tràng dài trắng xóa. Cột cờ trơ trọi cuối lái gợi tôi nhớ lá cờ trên đỉnh đài chỉ huy. Tôi bước ra phía ngoài ngẩn mặt. Tôi nhìn trân trân. Lá cờ đã nhạt màu, phần đuôi rách te tua. Lá cờ vẫn bay phất phới nhưng uyển chuyển, nhẹ nhàng, trái hẳn hình ảnh vẫy vùng, mãnh liệt chiều qua. Tôi có cảm tưởng lá cờ cũng cùng mang sức sống như chúng tôi, cũng chịu đựng những vất vả gian nan, cũng tận hưởng những niềm vui thành đạt. - Báo cáo có echo hướng một giờ, khoảng cách 28 hải lý. Tự dưng tôi thở ra nhẹ nhõm. Hào đứng thẳng lên, chếch ống dòm về phía tay mặt. Anh chầm chậm, thật chậm quét ống dòm qua lại. Ðược vài phút, anh rời ghế, chạy vội xuống phòng lái. Khi trở lên, anh cười tươi tắn: - Hải hành phỏng định mà... chính xác gớm! Anh nhấc điện thoại: - Thưa hạm trưởng, tôi trung úy Hào. Trình với hạm trưởng, đã thấy đảo hướng một giờ, cách 27 hải lý bằng radar. Chưa thấy bằng ống dòm. Anh lặng thinh nhận chỉ thị một lúc,đáp nhận rõ và gác máy. Anh nhìn la bàn, ra lệnh: - Lái đường một-không-sáu. Hào đưa ống dòm lên mắt. Tôi bắt chước anh. Biển vẫn thăm thẳm, chập chùng đến ngầy ngật. Dường như gió đổi chiều, đưa ngược khói tầu lên tận đài chỉ huy. Mùi khói khó ngửi nhưng lại gợi tôi thèm một điếu thuốc. Tôi đã quên nó từ lúc tàu khởi hành. Tôi mở nắp túi, gắn điếu thuốc lên môi, thong thả châm lửa. Tôi nhả ngụm khói đầu tiên rồi hít một hơi dài tưởng chừng như đang hôn người yêu. Bất ngờ tôi sặc sụa và nghe bứt rứt khó thở. Chưa hút được. Tôi nhủ thầm, dứt khoát ném điếu thuốc. Nó nương theo gió bay thật xa rồi rơi hút vào bọt biển. Bầu trời trong sáng, xanh ngát, không một dấu vết sa mù. Gió nhè nhẹ, mát rượi. Tôi hít một hơi sảng khoái và thấy lại yêu đời yêu biển... Hạm trưởng xuất hiện ở chân cầu thang. Tôi báo cho Hào. Anh ra dấu cho nhân viên. Tất cả chỉnh đốn lại quân phục, tư thế. Tôi hô nghiêm và đưa tay chào khi ông đặt bước lên đài chỉ huy. Ông thân mật hỏi han từng người. Tôi là người cuối cùng. - Thiếu úy Bằng trông tỉnh táo lắm. Ðược lắm. Tôi chỉ biết lí nhí cám ơn. Ông chưa yên vị trên ghế thì có tiếng báo cáo: - Ðã thấy đảo hướng mười hai giờ. Tôi chụp ống dòm. Tôi vốn nôn nao, nôn nóng muốn biết cái... dung nhan mùa hạ của cái quần đảo đã làm tôi khốn khổ, đau đớn. Phải khó khăn lắm tôi mới trông thấy một vệt đen trên đường chân trời. Vệt đen đó dần dần rõ dạng. Nó vươn cao cùng lúc lô nhô những ngọn cây. Rồi toàn bộ cái đảo thấp lè tè. Tôi cảm thấy thất vọng. Hoàng Sa là thế đó sao? Tôi quét chiếc ống dòm thành vòng 360 độ. Tất cả vẫn chỉ là mặt biển xanh thẫm mênh mông. Hạm trưởng ra lệnh từ chiếc ghế dành riêng cho ông: - Trung úy Hào có thể cho bớt máy. Hào ra lệnh, không do dự: - Hai máy tiến ba. Sau tiếng leng keng, cường độ tiếng máy dịu hẳn đi. Tôi cũng cảm nhận được sự giảm tốc của con tàu. Sự thất vọng của tôi cũng tiêu tan. Tôi nhìn thấy thêm hai hòn đảo nữa bằng mắt thường. Tôi không ngờ trên đời lại có những hòn đảo nhỏ và thấp đến thế. Chúng chỉ vừa đủ nổi trên mặt nước. Một trông như con rùa đang bơi bập bềnh và một như chiếc tiềm thủy đĩnh đang lặng lờ trôi. Giữa cái mênh mông của sóng nước, hai hình ảnh đó trông lạ và đẹp mắt. Cơn mỏi mệt, ngật ngừ bỗng dưng tan biến. Người tôi chợt xao xuyến, lâng lâng. Một mùi hương lạ thoang thoảng, sảng khoái. Mùi hương đã đến với tôi lần đầu khi chiến hạm hướng mũi vào sông Lòng Tào sau chuyến công tác đầu tiên. Mùi đất liền. Chỉ những ai đi biển lâu ngày mới nhận ra mùi hương tuyệt dịu đó... Hạm trưởng lên tiếng nhận quyền chỉ huy. Ông ra lệnh nhận còi nhiệm sở vận chuyển và cho giảm máy. Con tàu sựng lại rồi tiến thư thả trên vùng nước trong veo, phô bày đáy biển toàn cát đá trắng. Xa xa hai bên hông là những dãy san hô ngầm long lanh ánh sáng. Chẳng bao lâu hòn đảo thấp lè tè hiện ra trước mắt thường. Tôi chỉ một đóm trắng nằm ở cuối đảo, hỏi ông trung sĩ giám lộ đứng gần: - Có cái gì màu trắng? Anh có nhận thấy không? - Thưa thiếu úy, đó là đài khí tượng. Chúng ta có một toán khí tượng hoạt động trên đảo. Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển là từ đài đó. Tôi cười vui sướng với một khám phá mới mẻ... Vào đúng thời điểm đã định, hạm trưởng ra lệnh thả neo. Con tàu xuôi theo gió nằm song song với hòn đảo khá lớn. Hòn đảo có những lùm cây rậm rạp sau một bãi cát trắng chạy vòng. Cuối bãi cát về phía mặt là một tòa nhà màu trắng vươn cao. Ðó chính là đài khí tượng. Nổi bật trên nóc tòa nhà là lá cờ vàng ba sọc đỏ đang ngạo nghễ phất phới giữa nền trời xanh. Tôi đăm đăm nhìn lá cờ. Như một thói quen, tôi chụm hai chân đứng vào thế nghiêm, đưa bàn tay lên ngang mày. Trong tôi, những xúc động dạt dào dâng lên.... (Trích hồi ký Ðời Thủy Thủ, Sài Gòn 1969)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 24, 2011 1:37:07 GMT 9
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng TưMũ Đỏ Nguyễn Văn Lập (Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon) Ngựa đang sải vó lưng đồi Súng gươm bỏ lại cuộc chơi nửa chừng Một thời ngang dọc kiêu hùng Tháng tư gảy súng thấm từng nổi đau…Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 pháo binh Nhảy Dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp. Ta đứng bên nầy, trông núi sông Một trời thương nhớ ở phương đông Đường hoa theo dấu chân luân lạc Một gánh giang san khóc hộ chồng Một ngày tan nát bao thân phận Nửa kiếp lưu vong tối mặt mày Cũng thử đưa cay bằng chiến trận Ói toàn uất hận lúc xuôi tay Bạn bè còn lại bao nhiêu đứa Đứa còn, đứa mất chẳng ai hay Chí lớn cùng đường, tài bỏ xó Anh hùng bạt mạng, vợ con lo Nhớ quê chửi nát mồ ma đỏ Một nắm xương khô đẫm máu đào Nhìn nhau bổng thấy quê hương củ Nghìn trùng rực rở núi sông xưa Vết đau ngày tháng còn mưng mủ Giọt lệ bên đường mặc gió mưa Ví thử xuân xanh còn rực lửa Cũng đành dâng hiến trọn non sông Và em, sẻ một đời tựa cửa Nhìn qua lục địa để ngóng trông. Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không còn sĩ quan huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn. Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quãn nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẳn sàng một vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quãn nhiệm năn nỉ cần phải ra vào làm nhiệm vụ nên xin giử chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: “Trung úy định tử thủ“. Tôi trả lời không vào câu hỏi: ” Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ.” Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ Thủ đô sẻ do những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề như thế này bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cãm thấy có bổn phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trể thì đừng trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trể phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẳn sàng sống chết với mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rỏ, chứ biết rỏ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có một người xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám về trình diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm, vì một khi đụng lớn có hể không tiếp tế được. Người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc nào cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi vì tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền tin. Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một địa điểm tìm đơn vị bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người còn súng có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, còn các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em còn súng và thất lạc đơn vị này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng lòng, nhưng tình thế hết sức phức tạp hiện nay không tiện yêu cầu điều này. Đến xế trưa, một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy Trần Văn Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc trực thăng khác bay từ biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di tãn, bỏ của chạy lấy người. Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn về phía Saigon lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa lòng Thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học vẫn còn đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẻ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẻ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Dòng suy nghỉ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách tôi chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng, con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia cầm súng đang bảo vệ Thủ đô đã chọn cho mình một số phận, hiên ngang đi nốt con đường khổ nạn của dân tộc, nếu anh có bề gì thì ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô. ………….. Những tràng súng lẽ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần, cả Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử. Có nhiều điều đã báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974 trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẻ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ Thủ đô và đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đã đến.. Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiễn thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội khét mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10 giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội B của Tiểu đoàn tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng địch, 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đã tác xạ, khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, còn Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh. Những chiếc trực thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ. Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh “check fire” (ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn “Hướng bắn của tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi”. Thiếu Tá Việt bảo “Đợi”. Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ mặt phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn vị phòng thủ Saigon. Tôi nhìn vào xạ bảng, những điểm cận phòng mà tôi đã chấm chung quanh Dinh Độc Lập, đã làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng, không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nửa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi nó đó. Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, các đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục tục rời vị trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi ngang qua chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng, 21 năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản, đáng tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được. Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng Hoa Thám để chào tạm biệt , rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng chào trình diện quân số, đợi lệnh“. Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cãm, những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống“. Sau đó tôi cho pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng hàng trên ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên. Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi. Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở vào nhà viên quãn thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nửa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người lính nguyên thủy. Hơn ba mươi năm qua, mổi năm đến ngày này, tôi lại khóc, không phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, vì những người lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì không giữ được nước, vì cuộc chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay thống khổ dưới gông cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của mình, vì một khi vào quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử. Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm nhận lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so với lính cộng hòa, nếu tiếp tục cuộc chiến thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ đời đời “sinh Bắc tử Nam”. Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ sơ giải mật cho thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên Xô, và đã thành công, cộng sản quốc tế bị tan rả sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989 và khối cộng sản Đông Âu cũng tan rả theo sau đó. Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nửa vì Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó, và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cản Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng, Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, và kết quả đúng như bàn cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này. Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội đã hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì cũng phải nghe, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 24, 2011 1:37:46 GMT 9
ĐẤT NƯỚC VÀ CHIẾN TRANHSuu TamNhìn sông Hậu, con sông lớn nhất của tổ quốc, mênh mông miệt mài trôi, cuồn cuộn phù sa và ánh sáng, không một ai có thể nghĩ rằng vùng đất quê hương kỳ diệu này cũng là vùng đất của chiến tranh trong gần 30 năm qua! Thị trấn Cần thơ, nằm trên hữu ngạn sông Hậu, vẫn sinh họat bình thường! Bây giờ là tháng hai 1972! Dân chúng trong thị trấn Miền Tây này, đâu có ngờ chỉ trong một vài tháng nữa là cả nước đi vào Mùa Hè Đỏ Lửa với những trận đánh ở ngọn đồi Tân Cảnh, Căn Cứ Lữ Đòan 2/Dù! Sau đó là Trận đánh An Lộc, Trị Thiên, Đại Lộ Tử Thần, những trận địa chiến hai bên bờ sông Thạch hản.v.v..Những trận đánh lớn cứ theo chân nhau, vượt Trừơng sơn, từ ngoài Trung vào Nam, từ Cao nguyên đổ xuống đồng bằng duyên hải như thác ngàn! Hai phe, bốn bên dốc toàn lực đổ quân vào những trận đánh điên cuồng, đẩm máu làm áp lực hòa đàm Paris ở giai đoạn chót! Những trận đánh tân tình hủy diệt nhau làm rực lửa những trang báo cùng khắp thế giới, thắp sáng lương tri nhân loại! Hầu hết các gia đình người Mỹ, mỗi chiều tối đều ngóng nhìn lên màng ảnh truyền hình, theo dỏi chương trình CBS Evening News Reports tại New york, hớp từng lời tường thuật về Chiến tranh Việt nam của Walter Cronkite! Những trận đánh đẩm máu xé nát trái tim những bà mẹ nước Mỹ! Phong trào phản chiến trên tòan khắp thế giới lên đến cực điểm. Các sinh viên trong các trường đại học nhất là tại Mỹ, tại Anh và các quốc gia Bắc Âu và Tây Âu, bãi khóa, tổ chức“ truồng chạy” phản đối chiến tranh diệt chủng tại Việt nam! Trong khi đó tại Sàigòn, giọng hát Thái Thanh thảm thiết trong bài “Kỹ Vật Cho Em”, một kiệt tác phản chiến thời danh của Phạm Duy, viết sau cuôc hành quân Lam sơn 719 ! “Anh trở về trong chiếc pon.cho… Anh trở về trên đôi nạn gỗ… Anh trở về tật nguyền chai đá… Anh trở về dang dỡ đời em… Vào thượng tuần tháng 3/1972, toàn thể dân chúng thị trấn Cần thơ, giật mình thức giấc vào lúc 4 giờ sáng vì ba trái hỏa tiển 122ly vừa bắn vào thị xã Cần thơ gây thương vong một số đồng bào. Đó là tình trạng mà Đội Phẫu Thuật và Toán Cấp Cứu Ngoại khoa của chúng tôi tại bịnh viện dân y Thủ Khoa Nghĩa, phỏng đoán cũng như chờ đợi bấy lâu nay. Đội ngũ Ngoại khoa của bịnh viện dân y Thủ Khoa Nghĩa lúc bấy giờ có thể nói là có tổ chức và chỉnh đốn, phồi hợp tốt cũng như can thiệp cấp cứu hữu hiệu. Thành phần bác sĩ phẫu thuật tại bịnh viện lúc bấy giờ khá đông đúc và đầy đủ! Phần nhiều chúng tôi tốt nghiệp từ trường Y khoa Sàigòn, hay các Trường Y ở Pháp như Montpellier, Bordeau. Anh em chúng tôi có tất cả 9 người. Bác sĩ Phan Ngọc, nguyên bác sĩ Thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa, biệt phái, là Trưởng khối Ngoại. Ba trái hỏa tiển rơi cách nhau mỗi trái hai phút: Một trái rớt vào mé sông Hậu, làm sạt bờ sông, nhưng vô hại, hai trái khác rơi đúng vào khu dân cư, nhiều người bị thương! Chỉ 25 phút sau, Đội Cấp Cứu của bịnh viện phối hợp với các toán Nhân Dân Tự Vệ di chuyển vào bịnh viện 8 người bị thương nặng; và 10 phút sau đó đội thứ hai mang về 4 người. Hôm ấy, tôi trực khoa ngoại. Chúng tôi có kinh nghiệm trực diện với tình trạng cấp cứu cùng một lúc nhiều nạn nhân như thế này. Nhưng đây là một trường hợp đặc biệt: nạn nhân là người sống cùng trong một thị xã với chúng tôi.Có người là thân nhân của nhân viên bịnh viện trực hôm ấy! Việc xử trí, vì thế hơi chật vật lúc ban đầu. Tôi đang cố gắng dẫn lưu màng phổi cho một bịnh nhân bị thương ở ngực bị tràn máu màng phổi, một bàn tay đặt nhẹ trên vai tôi, tôi vừa quay lưng lại, giọng nói ôn tồn của bác sĩ Ngọc sát vào tai tôi:“Mừng cho ‘toi’! Thế là ‘toi’ trúng số đấy! Tất cả các anh em sẽ vào để chia sẻ với ‘toi.’!. Nói xong, tôi chưa kịp cám ơn anh, thì anh đã ra phòng ngoài điều khiển tiếp cứu các nạn nhân! Sau khi dẫn lưu màng phổi, tôi chuyển bịnh nhân vào phòng Đặc Biệt Theo Dõi. Bây giờ là 5:00 giờ sáng, tất cả các bác sĩ phẫu thuật đều có mặt tại phòng Cấp Cứu Ngoại, CCN, và tiếp tay với tôi. Tất cả mọi người đều nhiệt tình hăng say tự nhận lấy bịnh nhân, và tiến hành phẩu thuật cấp cứu với tinh thần trách nhiệm của mình. Cảm động vô cùng là các chị y tá, cán sự và gây mê hồi sức, của 4 kíp phẫu thuật cấp cứu đều có mặt, 4 phòng phẩu thuật hoạt động! Tôi tiếp cứu một phụ nữ có thai độ gần chín tháng, bà bị thương ở ngực và ở bụng, bà vừa khó thở bà vừa đau bụng, bà quằn quại khủng khiếp! Tôi nhìn lên film phổi và bụng của nạn nhân, có một mảnh kim loại mà tôi nghi là của hỏa tiển nằm trong phổi trái của bà khá sâu, một mãnh thứ hai, xuyên qua thành bụng và nó có vẻ nằm trong bào thai! Khi nghe tim thai, tôi thấy tim thai đâp nhanh! Thế là cả mẹ lẫn con đều bị thương! Tôi xúc động mạnh! Tôi không kiềm chế tôi được! Tôi quát lớn:“ Thai nhi cũng bị thương! Khốn nạn! Chiến tranh!”. Tôi nghe giọng nói của bác sĩ Ngọc ngay sau ót tôi: “Đó là chiến tranh và bạo động!”. Anh vừa nói vừa xoa nhẹ lưng tôi! Chúng tôi và kíp cấp cứu đưa nạn nhân lên phòng mổ! Theo ý nguyện của bà mẹ, chúng tôi phải lo cứu bào thai trước nhất!.Bà nói với tôi, trong giọng nói thều thào đau đớn vì lúc đó Bác sĩ Ngọc đang dẫn lưu màng phổi trái của bà : - Xin bác sĩ lo cứu cháu trước, vì cháu là đứa con duy nhất sau khi vợ chồng tôi ăn ở với nhau gần 6 năm! Cháu là niềm hy vọng duy nhất của chồng tôi! Hôm nay cháu đúng chin tháng bào thai! Tôi biết chị là cựu sinh viên Viện Đại Học Cần thơ và chồng chị là sĩ quan Cảnh sát Dã chiến, hiện anh đang đóng đồn taị vùng ‘xôi đậu’ Thuận Trung, Cờ đỏ! Tôi bảo chị cứ an tâm, bào thai vẫn còn tốt, cả mẹ lẫn con không ai có gì là nguy kịch cả! Binh nhân vừa bắt đầu mê là tôi mở ổ bụng, đi vào tử cung bắt con liền. Sợ nhất là cháu ngạt thở. Rất may, mới có chín tháng bào thai mà cháu đã xoay đầu xuống. Mảnh của rocket xuyên qua thành bụng người mẹ, đi vào khoảng 1/3 trên của tử cung. Mảnh rocket ghim vào mông trái của cháu, không có dấu hiệu thương tổn đến xương hay thần kinh.Vừa bắt cháu ra cháu có vẻ tái tím ai cũng sợ. Các cô diều dưỡng người thì lo hút đờm nhớt cho cháu, người lo đánh nhẹ vào mông cháu cho cháu khóc kích thích cho cháu thở! Các cô la lớn: - Khóc lên đi! Khóc lên đi! Cháu bậc khóc! Lúc đầu còn yếu, sau 5 giây cháu khóc lớn! Cả phòng mổ cười vui nhộn lên! Ai cũng vui sướng khi thấy cháu đỏ và hồng hào. Tôi phối kiểm ổ bụng người mẹ, rất may mảnh rocket xuyên qua thành bụng chỉ gây thương tổn tử cung và bào thai. Ruột và các tạng trong ổ bụng của bà tốt! Bây giờ là 6:30 sáng, tôi đang viết tường trình phẫu thuật, bác sỉ Phan Ngọc điện thọai vào và yêu cầu tôi ra phàng Cấ cứu gắp! Một hình ảnh kinh dị: mảnh hỏa tiển cắt đứt hai cánh tay của một phụ nữ! Mỗi bên chỉ dính hai phân da. Hai cẳng tay bỏ thỏng xuống brancard lũng lẵng trông dị thường! Không hiểu chị đứng hay nằm ở tư thế như thế nào mà hỏa tiển chỉ cắt tiện hay cánh tay chị, trong khi cả thân thể chị hầu như nguyên vẹn, không một chút hế hấn gì! Đội cắp cứu và các nhóm nhân dân tự vệ, đã cúu mạng chị vì họ biết cách dùng garrot buộc chặc phía trên hai cánh tay, cầm máu. Tuy nhiên chị cũng mất máu khá nhiều trước khi chi gặp được toán cắp cứu và các anh em nhân dân tự vệ! Huyết áp của chị đang tuột thảm hại. Mạch hầu như bắt không được, mặc dầu bác sĩ Phan Ngọc đã cho dich chuyền và chuyền máu cho chị! Tôi cố gắng bộc lộ hai tĩnh mạch ỡ 2 cổ chân, tăng cường thêm dịch chuyền mặn bảo hòa. Sau 15 phút huyết áp tốt hơn mạch bắt được tuy còn yếu! Sau đó khị áp huyết áp lên được 90/60, binh nhân có thể trả lời một vài câu hỏi ngắn của tôi, tôi liền cho di chuyển bịnh nhân vào phòng phẫu thuật, cho tiền mê. Áp huyết tiếp lên cao, mạch nghe rõ hơn, chúng bắt dầu cho mê và tiến hành phẫu thuật! Vừa hoàn tất tường trình phẩu thuật cas thứ hai, tôi nhìn sang ba phòng phẩu thuật các bác sĩ đang tiếp tục cas thứ hai của họ. Bây giờ là gần 7:30 sáng, tôi dến từng phòng mổ cám ơn các đồng nghiệp và nhất là các chị điều dưỡng, các toán cấp cứu đã “cấp cứu” tôi. Và sau cas phẫu thuật này xin các anh chi về nghỉ, phần còn lại là của tôi! Tôi sẽ tự giải quyết!. Bác sĩ Phan Ngọc lúc đó đang đứng sau lưng tôi, nói tiếp: - Trước khi về mời các anh chị nhân viên điều dưỡng xuống Câu Lac Bộ ăn sáng và ghi sổ tên tôi.! Bác sĩ Vĩnh, đang mổ ngước mặt lên, anh nói đùa: - Đã quá! Tôi xin ăn hai tô phở được không? Bác sĩ Ngọc cười lớn, anh nói: - Tùy thích! Bác sĩ Phan Ngọc, đầu ngành Ngọai, người Vĩnh long, ngay sau biến cố Tết Mậu Thân anh tình nguyện mang cả gia đình vào ở trong một cái villa ngay trong bịnh viện, anh sinh hoạt với anh em như một bác sĩ thường trú! Phải khiêm tốn mà nói, anh không phải là một bác sĩ tài ba lỗi lạc, nhưng anh là một bác sĩ yêu nghề, giàu lòng nhân đạo, biết quên mình vì lý tưởng y học. Năm 1975 anh ở lại. Sau gần 20 năm phục vụ binh viện Thủ Khoa Nghĩa như một bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ Phan Ngọc qua đời năm 1988, trong muôn vàn thương tiếc của toàn thể dân chúng của thị xã Cần thơ! Anh đã để lại cho tôi những tình cảm sâu sắc. Mỗi khi viết về anh, tôi không khỏi ngậm ngùi! Bây giờ là tháng Tư / 72 Mùa Hè Đỏ Lửa thật sư bùng nổ! Cả nước, cả thế giới sống trong căng thẳng của chiến tranh Việt Nam! Tình trạng này càng căng thẳng hơn vì những đợt trải thảm bom của pháo đài bay chiến lược B52 ở rừng núi Trường sơn, đường mòn Hồ Chí Minh! Có khị B52 đánh bom địa đạo Củ chi, hay ven đô, các phóng viên thời sư quốc tế nằm ở Hotels: Caravelle, Ritz, hay Ambassy…tại trung tâm Saigòn hằng đêm thức giấc nghe bom run từng líp cửa! Chính phủ Trung ương Saigon lúc này cũng bắt đầu tranh thủ nhân tâm. Bộ Y Tế phát động phong trào” Y Tế Về Làng”. Như vậy có nghĩa là hàng tuần các bác sĩ phải hướng dẫn một đòan y tế và thuốc men đi về các thôn xã, ngay cả trong những làng ở tận các vùng sâu để khám bịnh cho thuốc những đồng bào quê, nghèo khó không đủ phương tiện ra các bịnh viện ở tỉnh thành điều trị! Tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa lúc ấy tính cả 4 khoa phòng lớn Nội, Ngoai, Sản và Nhi. Chúng tôi tất cả là 34 bác sĩ. Các bác sĩ ai cũng chấp nhân thi hành nghị định của Bộ mặc dầu nghị định này có nhiều thiếu sót như là không có gì bảo đảm an ninh cho đòan y tế, nhất là cho các bác sĩ, phần nhiều các anh từ quân đội biệt phái, nghĩa là họ vẫn còn trong quân ngũ! Hơn nữa khi đi chúng ta có mang theo một ít thưốc men, rủi găp “Họ”, “Họ” xin thì sao?! Đó là những điều mà Bác sĩ Phan Ngọc thường hay lo nghĩ cho phong trào Y Tế Về Làng. Nhưng ngày mai thứ bảy, cuối tháng Tư 72, đến phiên anh, anh cũng phải đi. Anh có chút vui là anh biết có tôi đi phụ theo anh, anh rất thích tôi. Tôi là bác sĩ trẻ, ra trường cách đây 3 năm, không có trong quân đội, không đảng phái chính trị. Khi đến làm việc tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa tôi rất tìch cực và chủ động trong mọi công tác từ quản lý khoa phòng đến xử trí chuyên môn, trao đổi và giao tế với các đồng nghiệp. Nhưng tôi rất quan ngại cho anh là chuyến này chúng tôi đi vào tân vùng sâu, Thuận Trung! Ở Cần thơ ai cũng biết, Thuận trung và Cờ Đỏ, là vùng xôi đậu nổi tiếng! Muốn vào Thuận Trung chúng tôi phải lên khỏi Ô môn, rồi dùng tác ráng (đò nhỏ chạy bằng máy, còn gọi là xuồng đuôi tôm) đi trên sông một giờ mới đến Thuận Trung. Đoàn Y tế gồm có 16 người, đem theo thuốc men dụng cụ y tế và thức ăn trưa cho toàn đội. Lâu ngày chúng tôi thật sự hôm nay được hít thở không khí đồng quê! Riêng tôi, tôi vô cùng nhớ ruộng vườn sông nước của quê tôi ở Ninh thuận, Phanrang! Mọi người đều vui nhộn, quên đi những nguy hiểm có thể xẩy đến trong một vài giờ tới! . Có lẽ ở xã chính quyền đã thông báo cho đồng bào hay, cho nên chúng tôi căng lều dựng trại vừa xong là đồng bào đã đổ xô lại vô cùng đông đảo! Chúng tôi khám bịnh say sưa, cắp thưốc men cho họ. Thỉnh thoảng có những phụ nữ dìu những ông già quấn khăn rằn mà họ bảo là cha họ hay ông nội ông ngoại của họ. Phần nhiều những người này bị suy kiệt và nhiễm trùng đường tiêu hóa, nhất là kiết lỵ và viêm gan, có người bị sốt rét rừng, họ được khiêng đến chúng tôi trong lúc cơn bịnh hoành hành! . Sao lớp các ông già ấy, là các bà già theo sau là một số phụ nữ. Họ cười đùa và nói chuyện với các cô nữ y tá của chúng tôi một cách thoải mái! Bác sĩ Phan Ngọc bảo nhỏ vào tai tôi:” Tôi nghi các cô phụ nữ này quá! Trong một vài phút nữa các cô dám mời mình nhảy ‘sol-lá-mì’ lắm”! Lúc đó cách chúng tôi vào khỏang 2-3 cây số, máy bay săn giặc nhào lên bổ xuống bắn phá dữ dội, chúng tôi nghe cả tiếng súng lớn và tiếng bom nổ! Lúc đó ông Xã Trưởng cũng vừa xuất hiên, ông chào bác sĩ Ngọc, và ông cũng nói với chúng tôi: “đó là vùng oanh kích tự do, họ đang đánh nhau”! Bà cụ, tôi đang khám bịnh, cũng cho tôi hay “họ đánh nhau hà rầm, chuyện đó xảy ra như cơm bửa, bác sĩ đừng có lo”! Lúc này thì Bác sĩ Ngọc thật sự sợ! Anh lo lắng! Anh quên hẳn chuyện có thể các phụ nữ mời anh nhảy ‘sol-lá-mì’! Anh hối anh em khám bịnh cho thuốc cho nhanh về sớm! Thật sự tôi còn sợ hơn cả anh ấy nữa! Tôi cố giử vẻ mặt bình tỉnh! Nhưng số bịnh nhân càng trưa càng đông! Thuận trung không phải một xã, lớn hơn xã, nó là một làng giàu có, dân chúng đông đúc. Mặc dầu người dân sống ở đây thường gặp tai nạn chiến tranh, nhưng họ vẫn bám ở đây mà sống vì đời sống ở đây sung túc. Một người đàn ông đi trên hai nạn, cụt mất một chân, tay phải xách một con gà, đang tươi cười tiến tới tôi, anh đang đứng trước tôi. Môi anh run: - Thưa bác sĩ! Chắc bác sĩ quên con…em..rồi! Thật sự lúc ấy tôi hòan toàn quên anh ấy. Tôi cố nhớ là ai, tôi gặp anh hồi nào? Thật sự nhớ lại một người bịnh nhân của mình, nơi đây, trong hòan cảnh hôm nay là một sự cần thiết và may mắn cho tôi và cho cả đội Y tế nữa! Có quen biết hay có ai là bịnh nhân của mình ở đây, điều đó làm chúng tôi vững lòng! Nhưng tôi đành chịu, không thể nào nhớ nổi! Anh ấy nói tiếp: - Em là Nguyễn văn Chín, gần ba năm về trước bác sĩ cứu em, em bị thương do một cốt mìn tụi Mỹ từ máy bay rãi xuống chưa kịp nỗ. Bác sĩ cưa chân em và cắt một phần...anh vừa nói anh vừa chỉ vào háng anh! Nghe tới đó, tôi vụt đứng dậy: - Chín! Anh Chin! Tôi nhớ anh rồi! Anh đi cày thuê, đụng phải cốt mìn. Anh bình an? Trong gần ba năm tôi mong gặp lại anh, để tiếp tục sửa chữa điều trị cho anh, nhưng anh không tái khám! Vâng, thật sự tôi nhớ người bịnh nhân này và hình như bác sĩ Phan Ngọc cũng đang cố hình dung lại anh ta. Đêm hôm ấy, cách đấy gần 3 năm, tôi trực, vào khoảng 1:00 sáng tôi nhận một cas gửi từ quận Thới long nghĩa là cũng từ làng này. Nạn nhân là một nông dân, đi cày thuê, đạp phải mìn, 1/3 dưới cẳng chân trái bị biến mất, lòi trơ xương chầy, và hầu như toàn bộ phận sinh dục của anh, và mặt trong của háng cả hai bên bị những mảnh mìn hủy hoại! Anh được chuyển về tôi hơi trễ, 7 tiếng đồng hồ sau khi bị thương! Anh đang bị chóang nặng, bất tỉnh không hay biết gì nữa, tim nghe rời rạc, mạch bắt không được. Anh bị mất máu nhiều quá và nhiễm trùng! Đội cấp cứu và gây mê hồi sức phải đặt khí quản, bôm dưỡng khí liên tục, và giúp anh thở. Tôi bộc lô các tĩnh mạch, cho them máu, và dich chuyền. Gần một tiếng đồng hồ sau, anh bắt đầu cựa quậy, anh trả lời được câu hỏi ngắn của tôi. Anh biết là anh đang trong bịnh viện! Áp huyết anh tăng dần lên 90/60, lúc đó anh bắt đầu có cảm giác biết đau. Tôi sợ anh bị choáng lại. Tôi cho y lệnh: tiền mê, nâng huyết áp cao hơn. Sau đó cho mê, rửa sạch các vết thương và tiến hành can thiệp phẩu thuật! Nếu bị thương vì một viên đạn hay nhiều viên đạn, việc giải quyết vết thưong bằng phẩu thuật cũng là khó nhưng không đến nỗi nhiêu khê như một vết thương do mìn hay B40 tạo nên! Nhất là loại mìn nhỏ chống cá nhân! Vì khi mìn nổ thì có muôn ngàn mảnh nhỏ li ti có thể xuyên thấu qua các phần mềm, hay làm gẫy hở xương, thêm vào đó, nó mang bùn đất, và các chất dơ dáy khác như mảnh vải từ quần áo của nạn nhân! Do đó việc phẩu thuật thật vất vã và đòi hỏi bác sĩ phẫu thuật phải kiên trì! Sau khi giải quyết cẳng chân anh, đến bộ phận sinh dục của anh là cả một vấn đề nan giải. Tôi phải cầu cứu bác sĩ Trưởng Khoa Ngoại, bác sĩ Phan Ngọc, lúc 3 giờ sáng đến giúp tôi giải quyết vấn đề! Mảnh mìn đã hủy hoại hết một dich hoàn bên trái của anh. Dịch hoàn trái bay mất, không tìm thấy, chỉ còn lại cuốn của dịch hòan. Dịch hoàn bên phải cũng bị hai mảnh nhỏ của mìn gâm sâu vào, nhưng còn cứu vãn được. Nhưng dương vật của anh bị đứt mất phần ngọn chỉ còn trơ 1/3 dương vật còn lại! Bác sĩ Ngọc và tôi cố bảo trọng dịch hòan còn lại, và cố tái tạo phần còn lại của dương vật, để sau này anh có thể tiểu tiện dễ dàng. Anh em chúng tôi cũng có ý định sau này sẽ gửi anh ấy về khu tiết niệu thuộc trường Y Saigòn để tái tạo lại dương vật của anh thêm phần nào mừng phần ấy cho bịnh nhân. Nhưng sau khi cho anh ấy xuất viện hẹn trở lại tái khám, và hứa là sẽ gửi anh ấy đi lên Trường Y Sàigòn để tiếp tục tái tạo hình dương vật cho anh. Nhưng từ khi xuất viên mãi đến bây giờ không thấy anh trở lại tái khám! Chúng tôi cũng quên hẳn anh ấy đi! Hình như đến lúc này thì bác sĩ Ngọc nhìn ra được người bịnh nhân. Anh hỏi người bịnh nhân: - Sao! Sau khi xuất viện, chúng tôi cho anh tái khám, mà không thấy anh trở lại! Tôi nghe thấy người bịnh nhân thều thào trả lời - Thưa bác sĩ! Vợ em nói thôi! ‘Nó’ như vậy cũng được rồi. Em vẫn chống nạn cày thuê được mà khỏi sợ phải đi lính đi trán gì hết! Anh vừa nói vừa nhìn chị vợ đang đứng ngòai xa. Người bịnh nhân liền quay lại tôi, anh ấy nói: - Từ hôm qua, hai vơ chồng em biết bác sĩ hôm nay đến đây khám bịnh cho đồng bào, nên em xin đem đến biếu bác sĩ con gà mái để bác sĩ đem về Cần thơ nấu cháo ăn! Tôi quyết liệt từ chối. Có nhiều lý do lắm, nhưng tôi chỉ nêu một lý do là tôi không thể mang con gà từ Thuận trung về Cần thơ được! Tội nghiệp chị vợ thật là thật thà, chị chạy lại gần tôi, chị nói: - Xin bác sĩ nhận đi bác sĩ. Đó là con gà mái ấp, xương mềm, nấu cháu ăn bổ và ngon lắm bác sĩ! Thật sự nghe tới đây.chẳng những tôi mà ngay các cô điều dưỡng cũng muốn khóc! Tội nghiệp họ nghèo quá, không còn gì để tỏ lòng nhớ ơn tôi, chỉ còn có một con gà mái đang ấp một ổ trứng, họ bắt nó đem cho tôi. Nghĩ tới cái ổ trứng không còn gà mẹ, lạnh tanh vào giờ này, ai cũng ray rứt! Cuối cùng không phải một mình tôi mà cả đội y tế, nhất là các cô y tá nhất quyết yêu cầu vợ chồng anh ta đem con gà về và trả lại nó cho ổ trứng! Dĩ nhiên hai vợ chồng người bịnh nhân cũng phải tuân theo! Chúng tôi sữa soạn ăn trưa, thì tôi thấy một nhóm thanh niên nam nữ và hai ông cụ bà cụ khiêng một binh nhân tay ôm bụng xem chừng bịnh nặng lắm và lâu ngày. Bịnh nhân được đật trên một tấm phản .Anh nằm ngữa phủ trên thân người một cái mền màu xám, loại mền quân-tiếp-vụ của quân đội Việt nam Cộng hòa. Mắt anh nhắm nghiền lại! Tôi nghe bà mẹ bịnh nhân nói : - Không sao đâu con! Các bác sĩ sẽ cứu con! Và bà khóc… Lúc bây giờ tôi thấy bác sĩ Ngọc nỡ nụ cười, có lẽ anh thấy yên tâm là vì chúng tôi được sự tin yêu của quần chúng địa phương này! Bác sĩ Ngọc đến hỏi thăm bịnh nhân. Người bịnh nói lí nhí không ra lời. Người cha của bịnh nhân đứng bên cạnh lặng thinh, còn bà mẹ chỉ biết khóc và than vãn chiến tranh phiền nhiễu đời bà! Bà đã mất nhiều đứa con trai vì chiến tranh, “nay chỉ còn.thằng này là thằng út duy nhất còn lại mà bây giờ nó cũng…”! Bác sĩ Ngọc đến dỡ mền, mắt anh gắng chặt vào ổ bụng bệnh nhân, miệng anh há hóc! Tôi chỉ nghe anh kêu lên một tiếng “Trời”! Anh chụp mền lại! Anh không đủ can đảm nhìn thêm nữa. Cả toán y tế chạy lại, anh xua họ đi xa. Anh gọi tôi lại. Anh vén cái mền tay anh nắn ổ bụng bệnh nhân.Tôi nghe anh hỏi người bịnh : - Đau không em! Tôi thấy người bịnh nhăn mặt! Tôi đến dỡ tấm mền, kéo xuống thắp, tôi bảo bịnh nhân co chân lại và khép hai đầu gối lại. Há miệng thở, thở nhẹ tự nhiên! Tôi sờ các nép lạt vót nhọn may thành bụng của bịnh nhân, khô, cứng, và vết thương thành bụng nhiễm trùng, có chỗ viêm thành mủ, bốc mùi. Tôi hỏi bịnh nhân bị thương hồi nào và mổ bao lâu rồi? Và bây giờ bụng anh ấy có đau không? Không chờ người bịnh nhân trả lời, bác sĩ Ngọc nói ngay: - Còn hỏi gì nữa! Bị viêm phúc mạc rõ ràng quá! Người bịnh nhân bị nhiễm trùng huyết đang bị sốt cao độ! Rồi Bác sĩ Phan Ngọc than vãn: - May thành bụng bằng lạc vót nhọn! Đau khổ thật! Nhưng sau đó anh lấy lại bình tĩnh ngay, anh hỏi tôi: - Bây giờ làm sao? Tôi chưa kịp trả lời và cũng thấy bác sĩ Ngọc bình tĩnh trở lại, cho nên toàn toán y tế đổ nhào đến nhìn bụng bệnh nhân. Không ai nói được nên lời! Chỉ có cô điều dưỡng Hy, chuyên viên gây mê hồi sức la lớn: - Trời hởi! May thành bụng bằng tre vót nhọn! Tội quá đi! Và cô đưa hai tay lên ôm đầu! Bác sĩ Ngọc nhìn tôi và lập lại câu hỏi: - Giờ tính làm sao? Không cần chờ tôi trả lời, toàn toán y tế đều muốn đem nạn nhân về bịnh viện Cần thơ điều trị ngay. Tôi cũng phải hiểu ngay rằng đó cũng là điều bác sĩ Ngọc mong muốn, mặc dù anh không dám nói ra! Ngay sau đó anh ra y lệnh cho dich chuyền cho bịnh nhân để tái tạo lại các các chất điện giải và nước! Một số nhân viên y tế thực hiện y lênh của bác sĩ Ngọc, một số còn lại thì quay trở lại sữa soạn buổi ăn trưa. Bây giờ gần hai giờ chúng tôi đói thật sự và cái hứng thú vui hưởng khí hậu đồng quê cũng bị quên mất! Chợt các cô điều dưỡng nhìn tôi và nói: - Vợ chồng ông Chín bà Chín, bịnh nhân của bác sĩ, họ cùng gia đình quay trở lại kìa! Nhìn lại tôi thấy hai vợ chồng anh Chín quay trở lại cùng mấy đứa con của anh chị. Họ khệ nệ bưng mấy rỗ cơm nóng phủ lá chuối xanh, và 2 nồi canh chua to, đang bốc hơi nghi ngút. Tôi cứ tưởng họ làm thịt con gà, tôi phàn nàn: - Tội quá đi anh chị Chín ơi! Anh làm thịt con gà mái ấp thật sao? Chị Chín nhanh nhẹn trả lời: - Thưa bác sĩ và các cô, không phải thịt gà đâu! Đó là nồi canh chua nấu với cá lóc, xin mời bác sĩ và các cô thực lòng dùng. Bác sĩ Phan Ngọc, nhìn vào nồi canh chua, anh ngạc nhiên và hỏi: - Cá lóc ở đâu mà sẵn vậy? Chị Chín nói: - Anh Chín vừa trả con gà mái vào trong ổ cho nó ấp trở lại, anh chạy xuống con lạch trước nhà, anh lặn lật cái chum bể mà anh bỏ nó ở đó cách đây 6 tháng, anh hy vọng có con có ‘lóc chiếc’ sẽ chun vào đó ở. Hên quá bác sĩ, đúng vậy, anh bắt được con cá lóc bông cân khoảng gần 2 kí. Anh mới nấu liền một nồi canh chua để mời bác sĩ và các anh chị. Nghe nói xong, bác sĩ Ngọc cám ơn người bịnh nhân và anh quay lại nói cùng các anh chị em trong toán y tế: - Ở đây đời sống có vẻ dể dãi và sung túc, nên mặc dầu có những khó khăn về chiến tranh, người dân họ vẫn bám ruộng bám vườn ở đây mà sống! Tóan Y Tế Về Làng của chúng tôi trở về bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa tại Cần thơ, đúng 5 giờ chiều. Chiếc xe ambulance chở người bịnh nhân và cha mẹ bệnh nhân đến thẳng Phòng Cấp Cứu Ngoại, CCN, theo đúng lệnh của bác sĩ Ngọc. Giấy tờ nhâp viện của bịnh nhân, anh đã kỹ lưỡng làm trước, ngay tại lều Y tế tại Thưận trung. Bác sĩ Ngọc yêu cầu tôi luôn luôn túc trực bên cạnh bịnh nhân, còn phần anh thì anh phải làm việc thận trọng với bác sĩ Giám Đốc bịnh viện và nếu cần anh phải làm việc với Công an, Cảnh sát và An ninh quân đội vì anh vẫn còn tại ngũ! Anh bảo với tôi: “phải thận trọng, đừng để ‘anh em”hiểu lầm mình”! Tôi di chuyển bịnh nhân vào phòng CCN, anh Diệp Phùng, người Y tá trưởng phòng CCN trực hôm ấy, liền đến phụ tôi, đưa người bệnh nhân từ brandcard sang giường cấp cứu! Anh tiếp ứng tôi rất chu đáo. Anh thăm hỏi bịnh nhân, anh nhìn vào giấy tờ nhập viện của bịnh nhân mà bác sĩ Ngọc đã làm sẳn. Anh nói với tôi: - Thưa bác sĩ, “tụi nó” vừa giựt mìn sập cầu Cái tắc, một chiếc xe đò bị lật, một người chết, tài xế bị thương nặng cùng với năm người khác! Hôm nay thứ Bảy mà xui thật! Mình lãnh đủ! Bác sĩ Vĩnh và Bác sĩ Quốc đang mổ cấp cứu! Nói xong anh đến xem lại người bịnh nhân. Anh đọc hồ sơ. Anh vén drap lên. Anh nhìn thành bụng bệnh nhân! Tôi thấy anh thất sắc.Anh chạy đến tôi, anh quát lớn: - Bác sĩ và bác sĩ Phan Ngọc, tiếp thu thằng chiến bịnh Việt cọng này ở đâu vậy? Tôi biết lắm mà! Thuận trung, Cờ đỏ là ‘chiến khu’ của tụi nó! Tôi chưa kịp phản ứng, anh tiếp tục hét lớn, anh chửi thề: - Đ.m…Chỉ có tụi bác sĩ Việt cọng mới may thành bụng bằng lạt, bằng tre vót nhọn! Lạt mềm buộc chặt! Nó là thằng Việt cọng! Bác sĩ rước Việt cọng vào nhà! Vào Nhà thương!..Anh liền chạy đến giật chai dịch chuyền đang vô cho bịnh nhân! Các cô y tá và toàn thể toán Y Tế Về Làng hôm ấy đang có mặt trong phòng CCN lúc đó, liền nhảy đến ôm anh Phùng lại. Cô Hy, chuyên viên hồi sức gây mê nói: - Người ta là bịnh nhân bị thương mà anh Phùng! Diệp Phùng vẫn không nghe, anh tiếp tục la hét, và nguyền rủa người bịnh. Anh nhảy bổ vào, định đánh người bịnh. Anh chỉ mặt người bịnh nhân anh hét lớn: - Vì mày! Vì bọn Việt cọng tụi mày mà thằng con tao chết! Và Anh nhào đến đánh bịnh nhân! Tôi đang trì kéo với anh Diệp Phùng, tôi nhất định bảo vệ người bịnh của tôi, một cánh tay choàng qua vai tôi từ phía sau, nắm cổ áo anh Diệp Phùng ghì lại, và giọng nói của bác sĩ Vĩnh vang lên sau lưng tôi:: - Nó bị thương nặng! Không được hành hung bịnh nhân! Anh Phùng! Anh Diệp Phùng khựng lại! Bác sĩ Vĩnh, kéo anh dang xa người bịnh! Bác sĩ Vĩnh nhìn sâu vào mắt anh Diệp Phùng và nói: - Anh Diệp Phùng! Nó bị thương! Tôi quay lại, cám ơn Bác sĩ Vĩnh! Bác sĩ Vĩnh, cao lớn người, tốt nghiệp Y khoa tại Montpellier, Pháp. Anh chuyên về giải phẩu lồng ngực. Bác sĩ Vĩnh cho tôi hay anh vừa mổ cấp cứu xong! Anh hỏi tôi: - Anh có cần tôi phụ anh mổ cas nầy không? - Cám ơn anh! Có lẽ là không, vì anh Ngọc có kế hoạch là mổ cas này với tôi ngay chiều tối hôm nay. Sau đó Bác sĩ Vĩnh chào tôi, ra về. Anh Diệp Phùng đang ngồi trên ghế, trong một gốc tường của phòng CCN, thở hổn hển! Anh có vẻ mệt! Không hiểu là vì anh còn tức giận, hay anh bị bác sĩ Vĩnh nắm cổ áo anh chặc quá khi cố dở hỏng anh lên và kéo anh xa người bịnh nhân và xa tôi! Tôi biết anh Diệp Phùng gần ba năm về trước, khị tôi đến làm việc tại bịnh viện này. Anh đậu ưu hạng khóa “Infirmier d’État” tại Chợ Rẫy, Sàigòn năm 1950! Những năm về trước anh là người Y tá, có văn bằng cao nhất; “Ytá Quốc gia” trong binh viện. Anh là người Ytá năng động, yêu nghề, biết thương yêu kính trọng bịnh nhân. Anh đươc nhiều bằng khen thưởng. Anh được cất nhắc lên làm Trưởng Phòng Cấp Cứu Khoa Ngoại, một chức năng cao nhất (plafond) của người Y tá! Anh có gia đình, vợ và 4 con: 2 trai, 2 gái. Anh có một đời sống gia đình mẫu mực! Người con trai lớn của anh, vừa đậu xong Tú tài, bị động viên đi lính, thụ huấn quận sự tại Trường Sĩ Quan Bộ binh Thủ Đúc. Bất hạnh cho anh! Người con trai của anh là một trong những sinh viên sĩ quan bị chết vì dịch Viêm màng não do trùng Méningocoques bộc phát bất ngờ trong quân trường Thủ đức năm 1969! Cái chết của người con trai của anh là một tai biến khủng khiếp cho gia đình anh, là một thảm họa cho riêng anh! Anh trở nên phẩn uất, phản kháng với tất cả mọi người, Anh trở nên nghiện rượu. Trong cơn say, anh nguyền rủa Chính quyền VNCH, anh chửi Mỹ, anh lên án Việt cọng. Anh trở thành người chống cộng hung bạo. Anh thường bảo là tại Việt cộng mà con anh chết! Ngày đầu tiên tôi gặp anh, anh nói chuyện với tôi trong hơi men của rượu! Anh Lê Văn, bác sĩ Giám đốc, nhiều lần phàn nàn về anh, nhưng không phải vì thế mà cho anh nghỉ việc hay về hưu. Theo bác sĩ Lê Văn, anh Diệp Phùng là nhân viên bịnh viện lâu đời nhất! Dù sao đi nữa, không ai có thể quên được những cống hiến của anh cho bịnh viện trong hơn 20 năm qua! Anh Lê Văn bảo với anh em, thời thế và chiến tranh đã làm cho anh Diệp Phùng trở thành nạn nhân của bịnh chứng “phản kháng xã hội” (antisocial disorders)! Cô điều dưỡng trưởng của phòng mổ đến cho tôi hay là Bác Sĩ Phan Ngọc và bịnh nhận đang chờ tôi trong phòng phẫu thuật! Tôi vào phòng mổ chậm.Tôi chưa kịp xin lỗi, bác sĩ Ngọc nhìn tôi với nụ cười rạn rỡ: - Nào, chúng ta phải kiên trì làm việc với cas này! Khó đó anh! Tôi thấy anh đã chuẩn bị bịnh nhân rất kỹ. Anh phủ những nép lạt khô bằng bằng gạt ướt, sau khi rữa thành bụng bằng thuốc khử trùng. Anh giải thích: - Phải làm cho lạt mềm, nó trở thành dẽo, khỏi bị gẫy! Tôi có kinh nghiệm về ‘vụ’ này, hồi sau Mậu Thân tôi can thiệp “mổ lại” hai cas như thế này! Tất cả đều xuất viện an toàn! Đựơc sửa soạn kỹ lưỡng trước cho nên khi cắt tháo mấy nép lạc may thành bụng không mấy khó khăn. Chúng tôi cắt bỏ những mô họai tử. Tạo vết mổ có bộ mặt mới. Khi chúng tôi đi vào thăm dò ổ bụng thì chúng tôi gặp khó khăn là ruột bị nhiều mô sợi viêm nhiễm quấn chung quanh, làm tắt ruột nhiều đọan, nhưng rất may không có phần ruột nào bị hoại tử hay lủng cả!. Tuy nhiên có vài đọan bị tím. Những bộ phận khác cũng như ruột đều bị viêm nhiễm nặng, nhất là mạc-nối-lớn dày cộm lên, nhưng không có dấu hiệu hoại tử! Tôi nghe bác sĩ Ngọc thở phào! Dấu hiệu của sự lạc quan! Cả kíp mổ vui nhộn lên! Các cô phụ mổ hỏi tôi: - Hy vọng cứu được ‘thằng nhỏ‘này không bác sĩ? Tôi trả lời: - Hy vọng lắm! Cũng là nhờ sự hợp tác của cô với chúng tôi! Vừa nói chuyện với các cô chúng tôi vẫn luôn tay tháo gỡ các mô sợi. Phải thú thật rưôt dình nhiều đọan dính sát với nhau, tháo gỡ rất là khó, có nhiều lúc chúng tôi có cảm tưởng là sẽ bỏ cuộc! Hơn thế nữa, thành ruột rất dể vỡ, dể lủng vì tình trạng viêm nhiễm lâu ngày! Chúng tôi phải tháo gỡ vô cùng thận trọng và kiên trì! Tôi thấy trán bác sĩ Ngọc đổ mồ hôi. Anh ngẫng mặt lên, vừa nhìn tôi, anh nói: - Nếu phải chi chúng ta là những người mổ cas này từ thuở ban đầu thì không đến nỗi khó khăn và vất vả như bây giờ!..Anh nhìn các cô phụ mổ, anh nói tiếp: - Kẻ đến sau bao giờ cũng là những kẻ bất hạnh, phải không các cô? Chúng tôi thừa hưởng những cái khó khăn người đi trước bỏ lại! Các cô nhìn bác sĩ Ngọc. Các cô muốn cười mà không ai dám cười! Cô Hy, gây mê hồi sức, hỏi bác sĩ Ngọc: - Thưa bác sĩ, bác sĩ mệt rồi hả? Lúc đó cả phòng mổ cười rộ lên. Cô phụ mổ đứng bên cạnh tôi, cô ấy nói: - Tôi nghĩ hai bác sĩ phải tự hào là kẻ đến sau, sửa chữa những lỗi lầm của người đi trước! Bác sĩ Ngọc bảo: - Vâng! Chúng tôi đang tự hào và tự hào lắm đây! Tự hào đến đổ mồ hôi đây! Cả phòng mổ lại có dip cười vui! Bác sĩ Ngọc hỏi các cô điều dưỡng: - Các cô có biết tại sao có các mô sợi trong ổ bụng bịnh nhân không? Các cô chưa kịp trả lời, Bác sĩ Ngọc giải thích: - Khi người bịnh này bị thương, máu tràn ra ổ bụng. Các bác sĩ phẫu thuật trước, may lại vết thương ruột, và cầm máu. Họ đóng thành bụng sau khi dẫn lưu hố chậu! Có lẽ họ không có rửa và chùi sạch máu trong ổ bụng, có thể là vì không có thì giờ, và cũng có thể họ không có đủ phương tiện, có lẽ cuộc phẩu thuật được tiến hành cấp cứu trong hầm phẩu thuật dã chiến! Các cô biết máu tuy nhìn thấy như chất lỏng, nhưng kỳ thực máu là mô sợi. Máu tù đọng trong ổ bụng lâu ngày biến thành sợi. Những sợi đó quấn quanh ruột. Vì nhu động của ruột, mỗi ngày nó càng thắt chặc hơn! Nói đến đây, anh chỉ cho các cô nhìn thấy các mô sợi đang quấn ruột. Tuy vừa nói chuyện và giải thích cho các cô điều dưỡng, chúng tôi vẫn luôn tay tháo các mô sợi thắt ruột và bốc tách các phần ruột dính lại với nhau! Sau gần hai giờ làm việc kiên trì, cuối cùng chúng tôi giải phóng toàn thể ruột của bịnh nhân ra khỏi mô sợi, không còn đoạn nào bị tắt nghẽn, hoặc tái tím! Chúng tôi cắt bỏ toàn bộ các mô sợi tìm thấy trong ổ bụng! Chúng tôi rửa ổ bụng chậm sạch máu. Ruột trở nên hồng hào! Chúng tôi đóng thành bụng sau khi dẫn lưu hai hố chậu! Trong phòng dành riêng cho bác sĩ viết tường trình phẩu thuật, bác sĩ Phan Ngọc nói với tôi: - May ổ bụng bằng lạt vót nhọn! Đau khổ thật! Đau khổ cho cả bịnh nhân lẫn bác sĩ! Chiến tranh! Khốn nạn! Chiến tranh thật khốn nạn!. Chúng tôi ra khỏi phòng phẫu thuật lúc 11:00 giờ đêm. Cuối tháng tư bầu trời đầy sao đẹp lạ thường! Tôi thư thả tản bộ trong sân bịnh viện, muốn tận hưởng những giây phút thỏai mái sau một ngày lao động vất vã! Chợt nghe tiếng anh Diệp Phùng chào tôi: - Thưa Bác sĩ! Bác sĩ chưa về nghỉ sao? Tôi chưa kịp trả lời, anh ấy chỉ tay về cuối chân trời xa; - Thua Bác sĩ! Bác sĩ có thấy hỏa châu, trái sáng đầy trời đấy không? Họ lại đánh đấm nhau! Dân chúng lại bị thương chết chóc! Bác sĩ về nghỉ đi! Không khéo, khuya nay lại phải vào mổ cấp cứu nữa! Tôi đến bắt tay anh ra về. Diệp Phùng nắm chặc tay tôi trong lòng hai bàn tay của anh, anh hỏi tôi: - Thằng nhỏ chiến binh Việt cộng Bác sĩ và bác sĩ Phan Ngọc mổ liệu có còn hy vọng gì không? - Tôi nghĩ là hy vọng, và rất tốt! - Ùm!. Được vậy, tôi cũng mừng cho nó! Viết xong tại Oak park, Illinois/USA Jan15/96 Đào Như (BS Đào Trọng Thể)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 11:14:47 GMT 9
ÐẠI TƯỚNG và. . . Tôi! - Nguyễn Trọng Hoàn Lý do tôi phải mào đầu dài dòng để kể câu chuyện này, như sau: Sau khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa tan rã, cả nước Nam tan rã, chúng ta phải sống tha phương nơi đất khách quê người. Vì nơi dung thân là nước Mỹ, giầu có, nên tấm thân của mình, của gia đình mình, trông lên những người bản xứ thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống những đồng bào của mình đang còn ở quê nhà, thì quả một trời một vực! Tuy vậy, đối với một số người thì là một sự đổi đời, còn với nhưng người khác, niềm hoài vọng ngày trở về cố hương xa lắc cứ dần dần bị xói mòn, riêng những người lính trận chúng tôi. . . Mời bạn đọc tiếp: Bản thân tôi thì không ra gì, dở chàng dở đục, nhưng bạn bè tôi, nhìn ngang nhìn ngửa đứa nào cũng nổi tiếng. Ngày trước, chúng nổi tiếng trên chiến trường, qua Mỹ chúng nổi tiếng bằng cái nghề tay trái: Làm báo viết văn! Tôi thích mang những sở trường của họ ra khoe với những người lạ, làm cứ như những ưu điểm của họ có thể lấp trống giùm cho tôi những nhược điểm của bản thân mình. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí lẽ dĩ nhiên không nằm trong trường hợp trên, vì nếu như bây giờ, ai người ta cũng có thể gọi bằng thằng, càng gọi khỏe càng lộ chất “ Ông” trong người mình ra. Thì ngày xưa, cái móng tay của ông ấy tôi cũng không bằng, huống chi nói là bạn với bè? Có điều, một vị tướng ngày xưa, thì thiếu gì thuộc hạ. Tôi có may mắn là thuộc hạ của ông Ðại Tướng tài ba và nhiều tai tiếng này. . . Sau tết Mậu Thân, Việt cộng ngậm ngùi suy ngẫm học thuyết quân sự cũ rích: Tiến công và nổi dậy! Ðó là sở trường mà chúng gọi là tổng công kích. Công là đánh tới. Kích là bẩy lên, hay xúi giục ai nổi lên. Thành phần chủ lực ở ngoài tấn công vào. Ðám nằm vùng xúi dân nổi loạn. Khốn thay cho Việt cộng trong cuộc tấn công này, bộ đội chủ lực thì xâm nhập vào được nhưng chẳng có ma nào xúi được dân nổi lên cả, ngay cả những người dẫn đường cũng lặn luôn. Nên bọn cán ngố cứ như con dế bị ngắt mất cọng râu. Thế là làm mồi cho quân ta mà thôi! Nhân đây, tôi cũng xin mở một dấu hỏi to tướng, về âm mưu “ Thay ngựa giữa dòng” của người Mỹ. Họ đã biết trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy của Việt cộng, nhưng họ lờ đi “ Ðể xem mày ( VNCH) có chống cự nổi không, còn sức chống, tao giúp tiếp, dở quá, bỏ luôn.” Một bằng chứng là khoảng 26, 27 tháng Chạp là các cố vấn Mỹ ở các tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị biệt lập đã cuốn gói trở về “hậu phương” rồi! Thế rồi, thiên bất dung gian, kẻ gian đại bại. Ngay sau đó, trong khi ông Hồ mang cái hận ngàn thu ấy xuống âm ty địa phủ thì đám cán bộ mang tàn quân lết bên Căm Bốt để cùng nhau hát bài : “Dậy mà đi!” Tôi tham gia cuộc hành quân Toàn Thắng của Sư đoàn 25 BB, mục đích để tiêu diệt nốt đám tàn quân ấy! Chiến đoàn tôi mang tên 333 từ hướng mật khu Ba Thu, đánh xuôi xuống vùng Mõm Chó, Chi Phu, Bravet rồi theo quốc lộ 1 thọc thẳng lên Svayrieng (Xoài Riêng). Trận này, diễn tiến như thế nào, tôi sẽ kể sau. 2. Mẫu giáo Tôi có một thói quen: mỗi khi sắp tham dự vào một cuộc hành quân xa, tôi thường xin về Sài Gòn một thoáng để thăm mẹ. Phần nghĩ đến một thời gian dài sắp tới phải nhá cái khẩu phần C. chết tiệt. Phải về với mẹ để được ăn một món gì cho khoái khẩu. Phần vì tôi luôn đeo đẳng cái cảm giác, sự sống của những người lính trận chỉ đếm bằng từng ngày một. . . “Mình không về gặp bả, ngộ có gì. . .” Tôi lại không bao giờ dám nói với mẹ là mình sắp đi xa: "Con hành quân ở vùng ven biên ấy mà, tạt về thăm đẻ một chút thôi rồi con phải đi liền!" “Một chút” của tôi thường bị kéo dài bởi nồi canh cua rau đay nấu với mướp hương hoặc những miếng thịt heo cháy cạnh mà chỉ tự tay mẹ làm thì mới vừa miệng tôi thôi. . . Lần này, chính cậu “Tà loọc” đã làm hại tôi: - Bà có hộp dầu ông hổ nào không, con xin cho Trung Úy một hộp? Ở Miên nghe nói mùa này là mùa gió chướng, Trung Úy lại chỉ hợp với loại dầu này! Mẹ tôi ngừng têm trầu: - Lại đi đánh nhau tận bên Miên cơ à? Tôi thấy mẹ tôi lấy khăn lau nước mắt. Ăn cơm xong, mẹ ra đi văng ngồi nhai trầu, giọng bà như muốn khóc: - Ðánh nhau như vậy đủ rồi, hay để đẻ nói với chú Hạ (thông gia nhà tôi), nói với bác Thuần xin cho con về văn phòng? Biết sẽ phải nghe điệp khúc ấy, tôi đứng dậy vươn vai, lấy chiếc áo trận, vừa mặc vừa nói như hát vọng cổ: - Mẹ ơi! Mai kia mốt nọ yên giặc con cũng trở . . . Dzề!. Mẹ tôi chì chiết: - Con người ta, cha mẹ bảo sao nghe vậy, chúng nó ăn trắng mặc trơn, nhơn nhơn ăn học. . . Còn cái thứ con nhà này. . . Ngu như bò! Mẹ tôi đưa hộp dầu ông hổ cho chú lính, mẹ nói: - Ở Miên họ hay dùng bùa ngải lắm đấy! Lại hay “thư” nữa đấy! Có người bụng cứ trướng lên, mổ ra một đống toàn răng với tóc không đấy nghe con! Con gái của họ, không phải như gái bên mình, đá gà đá vịt vào rồi không thích thì bỏ đâu đấy! Ðừng dại nghe con.. Khác với những lần trước, mẹ tôi đưa tôi ra tận cổng, hành động này của mẹ khiến tôi vừa xúc động vừa lo lắng. Mẹ tôi chỉ vào chiếc balô căng đầy mà chú lính đang để vào băng sau xe jeep: - Mẹ có cho mang cho con một cỗ bài chắn, đóng quân ở đâu, trong lúc rảnh rỗi, thày trò rủ nhau đánh cò con cho vui, nhớ đừng đi lang thang nghe con. Hai mẹ con đang bịn rịn thì Hương phóng xe tới. Mặt cô đỏ au. Mẹ tôi giữ ý, chỉ Hương: - Thôi cô cậu giã từ rồi lên đường cho sớm, mẹ vào.. Hương cầm lấy hai cánh tay tôi, chân dậm dậm xuống đất: - Em vừa lên hậu cứ kiếm anh, anh sắp đi Miên hả? Tôi cười: - Việc binh cốt ở thần tốc và bất ngờ, anh chưa xuất phát mà ngã ba Ông Tạ đã biết, Hàng Xanh đã biết thì còn đánh đấm cái mẹ gì nữa? Hương đưa ngón tay dí vào môi tôi: - Sao lại nói tục với em? Hôm nọ hứa cái gì nào? Em có tin mừng mới phải lên báo cho anh chứ bộ! Tôi sướng run lên, tôi biết ngay cái tin đó là gì rồi, nhưng cũng giả vờ hỏi: - Tin gì vậy? Nàng lại ghé sát vào má tôi, mái tóc có mùi bồ kết làm tôi ngây ngất: - Em “ Có” rồi. Hú vía, hú vía! Mà này, anh qua bên Miên, ăn bánh trả tiền nhe! Con gái Miên ghê lắm đấy! 3. Ngày N. . . Lần đầu tiên từ khi tôi ra trường, tôi được “ đối đáp” với một vị Tướng, mà lại là vị tướng nổi danh mới oách chứ: Trung Tướng Ðỗ Cao Trí ngoái cổ lại hàng ghế phía sau hỏi to: - Ông nào là Ðại Đội Trưởng Trinh Sát đâu? Tôi đứng bật dậy như lò xo bung: - Có mặt. - Nãy giờ ông có nghe kỹ diễn tiến của ngày N và N+1 không? - Nghe rõ! Ông Tướng đứng dậy, đưa tay ra hiệu cho Ðại Tá Lều Thọ Cường, Chiến Đoàn Trưởng chiến đoàn 333, đưa que chỉ bảng cho ông. Bây giờ tôi mới nhìn thấy rất rõ ngoại mạo một ông Tướng khét tiếng này. Vầng trán cao xám ngoét, đôi mắt sáng, đỏ au như mắt cá chầy (Người ta bảo con mắt ổng có cô hồn đấy! Nhất tướng công thành vạn cốt khô mà!) Phần từ đầu tới thắt lưng, tướng pháp không chê vào đâu được, nhưng từ thắt lưng xuống tới đôi giầy “Máp”, giống như củ khoai lang cắt đôi, dựng ngược, từ từ teo tóp. . . Tôi bỗng rùng mình, chua chát nghĩ đến chiếc bóng chênh vênh của Kinh Kha bên dòng Dịch Thủy: Gió hiu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê. Tráng sĩ một đi không trở về! Tướng Trì xòe nguyên bàn tay mum múp trên tấm bản đồ không ảnh, kéo một đường dài từ Gò Dầu Hạ, dọc theo quốc lộ 1 lên tận Svayrieng: (Ôi! Những ai từng “ đi” nhận lệnh hành quân, còn nhớ chăng cái cảm giác xương sống lành lạnh, mỗi khi thấy ông đơn vị trưởng của mình xòe tay trên một tấm bản đồ 1/25.000 trong đó một ô vuông nhỏ xíu nhưng ngoài thực tế là một cánh đồng bát ngàn, đi mù con mắt mà vẫn không tới?) - Ông Chuyên, cho các mục tiêu vừa thuyết trình, giạt ra xa quốc lộ 1 chừng một cây số... Bỗng ông ngừng lại: - Ông Cường, thằng Tiểu đoàn 1 của ông đến đâu rồi? Ðại tá Cường, rập hai chân lại trong một cử chỉ vừa nghiêm trang, vừa như lấp ló có tin vui: - Thưa Trung Tướng, thằng 1 của tôi vừa làm chủ Chi-Phu. - Tốt, như thế này nhá: Ông Cường cho Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn của ông, dời từ đây lên Chi-Phu. Tôi nhắc các ông từ bây giờ bọn cố vấn Mỹ không theo mình vào Miên nữa đâu đấy! Ông nhìn mấy cố vấn Mỹ, rồi bảo người thông dịch viên: - Dịch nguyên văn cho “chúng nó” nghe câu này: “ Phải tập đánh độc lập đi, dựa mãi vào mãi thằng Mỹ mai kia mốt nọ, chúng qua cổng rút cầu thì sao?” Ông lại xòe bàn tay ra, dùng ngón trỏ và ngón giữa căng theo quốc lộ 1, rồi ông dùng que chỉ bảng chỉ ngay vào mặt Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Tư Lệnh sư đoàn 25, gốc pháo binh: - Ông Thịnh, từ đây lên Xoài Riêng còn trong tầm bắn tác xạ của Tiểu đoàn 252 Pháo binh không? Tôi thích thú nhìn Tướng Thịnh, ông Tướng có mấy sợi lông tài trên nốt ruồi đen, trên khuôn mặt to đen lạnh lùng như ông thần đất, mà mọi khi chúng tôi rất hãi, cũng phải đứng bật lên: - Thưa, tới! Bất ngờ Tướng Trí chỉ ngay vào tôi: - Trung úy Hoàn, mở sổ tay ra. Tôi rụng rời. . . Trong cái nóng hầm hập của phòng hành quân tạm, mọi người đổ dồn về phía tôi, một sĩ quan có cấp bậc nhỏ nhất, lại được Tướng Trí nhớ tên. Tôi đỏ mặt, tính háo danh, và sự sung sướng lấn át hết cảm giác sợ hãi. Tự tin hơn là tôi đã chuẩn bị một quyển sổ tay, mà những sĩ quan nào, hơn một lần bị “ông Tướng sổ tay” hạch hỏi vì: “Là cấp chỉ huy mà không có quyển các-nê-đờ-nốt là một sĩ quan tồi. . .” Tôi cầm quyển sổ tay. A! Có một điểm đầu tiên rồi đấy! Tôi thấy Tướng Trí cười: - Quân số hành quân của ông bao nhiêu? - Trình Trung Tướng: 102. sĩ quan 9. Hạ Sĩ quan 15, binh sĩ. . . Tướng Trí hét lên: - Sao nhiều thế, sao sĩ quan nhiều thế, hạ sĩ quan ít thế? Bịa hả? Ðại Tá Cường đỡ cho tôi: - Thi hành khẩu lệnh của Trung Tướng trước đây, quân số các đơn vị Trinh Sát phải luôn luôn bổ sung đầy đủ. Sĩ quan nhiều vì trong tTrung đội viễn thám, mỗi Toán viễn thám phải có một sĩ quan trưởng toán. . . Tướng Trí ngắt lời: - Tôi biết rồi. Rồi ông lại dùng que thuyết trình chỉ xuống phía dưới, giọng ông chắc nịch: - Tất cả mở sổ tay ra. Như cái máy, Tướng, Tá phía dưới đồng loạt để tay lên túi áo trận. Tướng Trí đọc chính tả: - Viết đi: Sức mạnh của một đơn vị bộ binh chiến đấu (phẩy) không phải ở lớp Sĩ quan chuyên chỉ tay năm ngón (phẩy) mà nằm trong lớp Hạ sĩ quan cốt cán (chấm). Tóm lại, bộ binh là hoàng hậu của chiến trường (phẩy) mà chiến trường thắng hay bại tùy thuộc vào cấp bậc từ Hạ sĩ nhất đến Thượng sĩ nhất, viết rõ chưa? (Chấm hết) Rồi ông lại chỉ vào mặt tôi: - Trung Úy lên đây. Con người nhỏ con kia sao toát ra cái uy quyền lạ kỳ. Tôi đã vào sinh ra tử nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi lúng túng đến như thế. Tôi ríu tíu đỡ cây que chỉ bảng: - Trung Úy chỉ cho tôi xem đâu là Quốc lộ 1. Tốt. Ðâu là cây cầu chính vào thành phố. Tốt. . . Trung Úy có thể chiếm thành phố này chỉ với một mình đại đội của Trung Úy được không? Cả sống lưng của tôi như bị điện giật. . . Một đại đội Trinh sát với một nhúm người như thế này, làm sao đây? Tính háo danh của tôi lại bật dậy: - Ðược, thưa Trung Tướng. - Tốt, thế mới là trinh sát chứ! Như thế này nhá. Ông Cường cho . . . . . . Máu háo thắng cùng niềm kiêu hãnh cứ dâng lên từng đợt trong con người phàm của tôi cho đến khi tôi tập họp đại đội dưới một thửa ruộng khô vừa xong mùa gặt. Tôi huênh hoang khoe: - Ðích thân Trung Tướng Tư lệnh Quân đoàn vừa chỉ thị, một mình Ðại đội ta sẽ chiếm Tòa thị sảnh Svâyriêng! Từ sĩ quan cho tới lính mặt mày nhớn nhác. Có nhiều người nhẩy lên vì thích thú. Có người dơ cao khẩu M16 hét lên: - Chơi luôn! Có vài nét mặt đăm chiêu của sĩ quan, tôi lờ đi, nói lớn, ngất ngất hào khí: - Mọi người có nửa tiếng để sắp xếp lại quân trang quân dụng, bỏ lại hết thực phẩm, quân trang nặng nề. Tóm lại chỉ mang súng đạn cá nhân. Hai Trung đội trưởng trinh sát và Trung đội trưởng viễn thám ra đây nhận lệnh. Lệnh có gì đâu, nhưng nghe xong, mặt ai cũng như chàm đổ. . . Sau đấy khoảng hơn một tiếng. Hơn 10 chiếc xe vận tải dân sự từ Gò Dầu Hạ trở về Miên, bị chúng tôi trưng dụng. Trung đội trưởng kè súng vào hông người tài xế Miên, còn lính nằm ở phía sau. Ðạn lên nòng, xe cứ thế mà chạy. Trên quốc lộ phía bên Miên ngày ấy, cứ vài cây số lại có một cái bàn đặt ngay quốc lộ để đơn vị Miên nào đóng gần quốc lộ . . . thâu tiền mãi lộ! Ðoàn xe của Ðại đội cứ thế mà chạy, qua trạm, chạy luôn, khiến những người lính Miên trên các trạm ấy xả súng vào đoàn xe, cũng may không có ai bị thương. Tôi ngồi ngay xe thứ 2, xe trước tôi là Toán viễn thám 1 của Chuẩn Úy Cừu. Bỗng tôi thấy đoàn xe chạy chậm lại, cái dốc cầu vào thị xã cong cong làm tôi không quan sát được chiếc xe phía trước. Có tiếng thằng Một: - Hải Ðiểu, đây Một. Tôi chụp máy: - Tôi nghe đây! Tiếng của Cừu gấp gáp: - Trình Thẩm quyền trên đường tụi Miên giăng concertina nhiều quá, có cả mấy con ngựa gỗ nữa. . . Một tràng súng xé không gian, tiếp theo là những tràng súng khác thi nhau vãi vào đoàn xe. Tôi hét to trong máy: - Cho xuống xe ngay, xung phong! Cả đại đội sẽ yểm trợ cho ông, chiếm ngay cái bốt canh kia kìa! Một chiếc trực thăng xà ngay xuống, tôi thấy rõ Tướng Trí đội nón đỏ đang quần quần ngay trên cái đồn tôi vừa ra lệnh cho Cừu chiếm. Chiếc trực thăng đảo một vòng rồi bay lơ lửng ngay trên đồn Miên. Tôi vừa hô xung phong vừa kinh ngạc nhìn lên thấy Tướng Trí đã ngồi vào vị trí của người xạ thủ đại liên. Ông xoay họng súng vào phía lô cốt, một tay khoác khóac như cổ động cho đám quân dưới đất. Có tiếng hét của Cừu: - Tụi nó bắn lên máy bay của ông Tướng kìa. Một khẩu đại liên phòng không từ một cái đồn nhỏ bên phải cầu đang khạc hung hãn lên hông bên kia của chiếc máy bay. Chiếc trực thăng chao nghiêng. . . Tôi kéo trung sĩ Thuận trong toán Viễn thám, chỉ tay về hướng ổ đại bác phòng không: - Cậu dẫn toán men theo bên này cầu, diệt phứt cái lô cốt kia đi cho tôi. Thuận nhận lệnh, anh dẫn toán chạy lên, vừa dùng súng M97 hướng mũi trực xạ, một tiếng nổ làm bật tung khẩu súng phòng không, đồng thời biến mất những tên lính Miên, xạ thủ của khẩu phòng không ấy. . Chiếc trực thăng chở Tướng Trí lại vòng tới, lần này ông lại bay thấp hơn, ông biến thành xạ thủ của chiếc “ gunship”, chĩa những lằn đạn về phía đồn chính. Bỗng mọi người dưới đất xanh mặt khi chiếc máy bay rung lên, như con rồng chuyển mình, bốc lên cao. Một cái nón đỏ, đúng là nón của ông Tướng bay vụt ra, xoay vòng vòng như chiếc lá rồi bay vút về phía cây cầu. . . Những người lính trinh sát vừa hò hét vừa tiến lên, đen kịt thành cầu, những tiếng la phát ra từ những trái tim nóng hổi: - Việt Nam, Việt Nam! Tôi kéo chú hiệu thính viên lao tới, hai mắt tôi rưng rưng. . . Thuận hớn hở chạy về phía tôi giơ cao chiếc mũ đỏ có ba ngôi sao gắn chéo. Người ta bảo nóng giận thì mất khôn, nhưng vui mừng quá cũng mất khôn luôn, với lại tính háo danh nằm sẵn trong tôi, nó sai bàn tay tôi, ném cái mũ sắt đang đội, lấy cái nón đỏ đội vào đầu. Lại nghĩ: “Có ngày “mày” cũng được “nằm” vào đầu tao thôi!”. Tôi vừa đắc chí vừa chạy tới, chạy một quãng thì hiệu thính viên đưa cho tôi chiếc combiné: - Mặt Trời gập Trung úy. Tôi nghe tiếng Tướng Trí. - Ðừng bắn, đừng bắn nữa, chúng nó từ chân cầu đang phất cờ trắng kia kìa. Một hàng dài lính Miên, có cả đàn bà, con nít đang cầm những mảnh khăn trắng giơ cao trên đầu. Tôi vừa ra lệnh ngừng bắn thì hiệu thính viên lại đưa ống nghe cho tôi. Tiếng Tướng Trí: - Tốt lắm, để một toán nhỏ lại giữ đầu cầu thôi, còn cậu tiếp tục đi. Như những con gà chọi đang say đấu, chúng tôi lao cả đoàn xe về phía trung tâm thành phố. Dưới đường người ta vẫn thong thả đi lại, những người lính Miên vẫn đeo súng lơ ngơ ngắm phố. Chắc không có một ai hiểu việc gì đang sắp xẩy ra với họ. Tiếng Cừu báo qua máy: - Trình Thẩm quyền mục tiêu kia rồi “Băng ga lo” bề thế, nơi tôi phải chiếm, đang ẩn mình dưới những tàn cây cổ thụ, mục tiêu diễm lệ của tôi kia rồi! Xe của Cừu húc đổ ngay con ngưạ gỗ, tiếp theo xe của tôi và các xe sau trờ tối. . . Cừu đưa khẩu colt vào ngay ngực tên lính gác, qua một người lính gốc Miên thông dịch. - Văn phòng Tỉnh Trưởng đâu? Tên lính đưa tay chỉ về phía cổng lớn nơi có hai con ngựa đá rất to. Cả đại đội lại lao về phía đó. Chẳng có đội hình gì cả. Khi Ban chỉ huy của tôi chạy vào trong đại sảnh thì một cảnh tượng vừa tức cười, vừa thống khoái hiện ra trước mặt: Trung Úy đại đội phó Trần Như Xuyên đang ghìm khẩu súng M16 về hướng những người mặc toàn lễ phục đang chắp tay lậy như tế sao! Té ra tại đây đang diễn ra buổi đại tiệc! Tiếng người thông dịch: - Trong các ông, ai là Tỉnh Trưởng? Một người chắp tay xá xá. Bỗng có tiếng lao xao phía sau tôi. Có người lính hét to: - Sao sẹt! Sao sẹt kìa! - Vào hàng, Phắc! Tướng Trí xông thẳng đến tôi, ông đến trước tôi khoảng ba bước, ông rập hai chân vào nhau rồi đứng nghiêm chào tôi. Tất cả quan quân mặt ai cũng xanh như tầu lá! Chết mẹ tôi rồi! Cái nón đỏ có hàng lon Trung Tướng tôi đang đội trên đầu, chỉ đem cho tôi cái thích thú phù du, nhưng sẽ là một thảm họa khôn lường cho tôi. Tôi vừa sợ hãi vừa xấu hổ, đưa tay lên đầu, giật ngay cái mũ xuống rồi bằng hai tay, trịnh trọng đưa trả nón, y như kẻ bại trận dâng cây kiếm quy hàng. Tướng Trí, chìa cả hai tay lấy chiếc nón đỏ. . . Mọi người chờ cơn thịnh nộ của ông Tướng Sấm Sét. . . Ông cúi xuống gỡ ba ngôi sao ra cười hiền từ: - Giữ giùm cậu ba ngôi sao này, còn tặng cậu cái mũ làm kỷ niệm, làm kỷ niệm thôi nhé! Coi chừng quân cảnh bắt về tội tiếm phục quân hiệu đấy. Mặt tôi nóng ran lên như người lên cơn sốt. Tướng Trí đến ngay trước viên Tỉnh Trưởng Miên, tính võ biền cố hữu của ông biến mất và y như một chánh khách chuyên nghiệp, ông dơ tay, bắt tay viên Tỉnh Trưởng. Ông nói một tràng tiếng Pháp, tôi nghe lỏm bõm, hình như ông ra lệnh cho viên Tỉnh Trưởng phải kêu gọi các lực lượng dưới quyền quy hàng, bằng cách ra lệnh cho các đơn vị ấy, tháo hết các cơ bẩm của các loại súng rồi cho chở lên các bộ chỉ huy liên hệ. . . Rồi y như ông chủ, chính tay ông khui whisky: - Vào đây, Ðại đội trinh sát vào đây, các chú khá lắm, “moi” phải khao các “toi” một chầu mới được. Tôi bước ra trước, nhưng ông làm tôi quê hết sức khi ông hỏi lớn: - Chú lính nào ít thâm niên nhất, cấp bậc nhỏ nhất vào đây. Rồi cũng y như khi lúc xung phong, chẳng kể quan lính, mạnh ai nấy ùa tới vây quanh ông y như một người thân. Chính tay ông rót cho mỗi người một ly ruợu nhỏ. Bỗng Tướng Trí lấy tay đập vào trán: - Chú nào bắn trái M79 trúng ổ đại liên cứu “moi” thế? Tôi chỉ vào viên Trung sĩ viễn thám: - Trình Trung Tướng, Toán phó viễn thám, Trung sĩ Thuận! - Thấy “moi” nói có đúng không? Nhớ đấy! Hạ sĩ quan mới là lực lượng nòng cốt của quân đội! Ông rút trong túi ra quyển sổ tay, nhìn chăm chăm vào bảng tên của Thuận, ghi xong ông hất hàm hỏi: - Trung sĩ nhất bao lâu rồi? Thuận hớn hở trả lời: - Thưa Trung Tướng, gần hai năm. Tướng Trí nghiêm nghị: - Cho cậu lên Thượng Sĩ. Rồi ông quay lại phía tôi, nhắc lại điệp khúc: - Phải nằm lòng, Hạ sĩ quan mới là nòng cốt. . . Lần này không thấy ông bắt ai ghi vào sổ tay cả. 4. Cô gái Miên. Sau khi chiếm xong dinh Tỉnh Trưởng, Ðại đội Trinh sát của tôi, được lệnh kéo trở ngược lại Bravét, một thị trấn nằm giữa Chi-Pu và Svrâyriêng, vừa đóng chốt, vừa giữ an ninh cho một toán công binh chiến đấu làm cầu. Ðây là một cây cầu nhỏ nhưng rất quan trọng về mặt chiến lược đã bị quân lính của Si- Ha-Núc phá sập khi họ rút lui về Nam Vang. . . Buổi chiều, tôi dẫn các Trung đội trưởng đi tìm chỗ đóng quân. Ðến cây cầu đang xây, tôi nói với Ðại đội phó Xuyên: - Cái thằng Trưởng toán công binh này, giờ này không đến nhận lệnh đóng quân là làm sao? Chúng nó làm gì mà túm quanh căn nhà sàn kia thế? Thôi ta vào đấy xem sao? Vừa thấy chúng tôi đến. Toán người đứng xung quanh nhà sàn bỗng bỏ chạy. Biết có việc gì không ổn, toán sĩ quan đi theo tôi chạy đến. Tôi vừa bước lên chân cầu thang đã nghe thấy tiếng quát của Xuyên: - Sĩ quan mà khốn nạn vậy à? Trước mặt tôi là một người con gái Miên thân thể lõa lồ, nằm tênh hênh, bất động giữa sàn nhà, một toán 5, 6 người lính đang lui cui mặc đồ. Tôi hoa mắt lên vì giận, khẩu súng colt 45 run run chĩa vào một người, có lẽ là sĩ quan đang nghênh ngang đứng trước Xuyên: - Ông cấp bậc gì? - Chuẩn úy! - Mấy người hiếp dâm người phụ nữ này? - Bẩy người. - Tại sao ông làm cái việc vô lại này? - Xa vợ lâu ngày, kẹt quá ông ơi! Bỗng tôi nghe thấy người phụ nữ rên: - “ Miên tê! Miên tê” (Trời ơi, trời ơi). Cô cong người lên, thở hắt ra, hai bàn chân rung rung, rồi xụi lơ. Hành động cuối cùng của một sinh vật trước khi lìa đời. Cơn giận như một nồi áp suất quá tải, bật tung, tôi nã luôn hai phát vào đôi chân đang giạng ra như thách thức của viên sĩ quan, mà ngay chiều hôm ấy, tôi biết anh ta là em của một ông Chuẩn Tướng Chỉ huy trưởng của một Cục. . . 5. Phúc hữu trùng lai! Sáu tháng sau, tôi dời Ðại đội trinh sát để sang Tiểu đoàn 2, người ta bảo, đi kèm với một sự may mắn thường là một tai nạn . . . Hai viên đạn súng colt hôm ấy, có một viên trúng bắp vế của viên sĩ quan nọ, và viên đạn này đã đưa tôi đến cái ngưỡng cửa của Quân lao Gò Vấp. Tôi sẽ phải về trình diện phòng dự thẩm 1 ở bến Bạch Ðằng, nới có cái một ông Ðại tá tên X. chẳng tha một ai khi phải trình diện ông ta. . . Ðại tá Lều Thọ Cường bắt tay tôi như bắt tay một thuộc cấp lần chót. Tôi leo lên trực thăng, rồi nhìn xuống bến phà Neak-Luông. Nơi đóng quân của đơn vị tôi, nước sông cuồn cuộn đục ngầu, phẫn nộ. . . Bỗng lòng tôi chùng hẳn xuống. Tại sao cuộc đời lại có thể bất công thế nhỉ? . . . Tôi vừa xuống máy bay tại sân bay Trảng Lớn, thì gập máy bay của Trung Tướng Ðỗ Cao Trí cùng sĩ quan tham mưu của ông cũng vừa đáp xuống. Tôi đang tính né qua cái cái hangar để tránh mặt ông thì có một đại tá cầm tấm bản đồ vẫy tôi: - Ðại Úy, đến trình diện Trung Tướng. Tướng Trí hỏi tôi: - Cậu đi phép hả? Tôi chưa kịp trả lời thì ông đã móc quyển sổ tay ra. Nhưng tôi vội nói: - Trình Trung Tướng, tôi không về phép. Tướng Trí tròn mắt: - Dù hả, oai nhỉ, dù bằng máy bay cơ à? Giọng tôi bi ai: - Trình Trung Tướng lần này tôi về Sài Gòn để ra Tòa án quân sự! - A! Cái vụ cậu nện cái thằng sĩ quan hiếp dâm chứ gì. Sao không bắn què cả hai chân nó luôn cho rồi? Quân đoàn đã có văn thư gửi Nha Quân Pháp về vụ này rồi! Khỏi, khỏi, cho cậu về thăm cha mẹ, thăm bồ bịch 48 tiếng rồi trở lại mặt trận giết giặc cho tốt. . . Không để tôi cám ơn, ông bỏ đi ngay. Tôi đứng như trời trồng, giữa trùng vây của bụi, khói và nóng, thế mà người tôi mát lạnh, nhẹ tênh, tôi có cảm giác như đang đi vào cổng nhà Hương. Có giàn hoa thiên lý ngan ngát. Có nếp nhăn áo lụa vàng dậy muộn. Có hương bồ kết thoang thoảng quyện theo bước chân chim. . . 6. Người đi, đi mãi. . . Một tháng sau, Tiểu đoàn tôi đang hành quân tại Kăm Pông Trapeck, vùng biên giới phía Ðông nam căn cứ Thiện Ngôn, trên một ngọn đồi trọc, một người lính hiệu thính viên chỉ về phía Trảng Lớn la to: - Một em gẫy cánh rồi! Tôi ngoảnh lại, một khối đỏ như một quả cầu, đang ôm một chiếc trực thăng xoay vòng vòng rồi đâm nhào xuống đất. Ngay tối hôm ấy, tôi được biết chiếc máy bay ấy đã chở cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí về miền đất yên lành không bao giờ có tiếng súng trận nữa. Tôi bước ra ngoài lều vải, chòm sao Hiệp sĩ (Orion) đêm nay có cái đầu bị mây đen che khuất, có thanh gươm mờ nhạt, nhấp nháy như muốn khóc. Nguyễn Trọng Hoàn Nguồn: h*tp://www.phiem-dam.com/2TN.htm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 6, 2011 3:59:39 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 8, 2011 4:46:32 GMT 9
BÀI VIẾT VỀ TONLE TCHOMBE (TỐNG LÊ CHÂN)
Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến hữu Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng
Tác Giả: Phan Nhật Nam Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Hòa bình Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang. Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm rối. Hòa bình, thứ rượu nhạt mà thế giới hằn lâu không được uống. Tống Lê Chân, trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị bao vây đúng 17 tháng, hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội. Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Balaam 66 ngày, quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày và ở Việt Nam "thiên đường" của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những cứ điểm với tên tuổi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ hơn hết là những trận đại chiến khởi đầu trong mùa hè '72, những trận đánh vượt quá hẳn chiến sự thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25 tháng 7/1972 đã được giải tỏa phần lớn... Thế nên, Tống Lê Chân với 510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10 tháng 5/1972 đã bị mờ khuất sau làn khói lớn của An Lộc, Quảng Trị, Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng Sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật nóng để cầu nguyện cho số người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: tội ác đã đồng nghĩa với con người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam. Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Saigon dày đặt khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu 3 dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của Cộng Sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng. Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc, Chiến Khu C và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đã thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bât giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay mũi phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình, các trại kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn. Một toán lính Dân Sự Chiến Ðấu (DSCD, còn được gọi là "CIDG," viết tắt của chữ Civilian Irregular Defense Force trong Anh ngữ) đang di chuyển ngang con suối cạn. Vào đầu thập niên Bảy Mươi, các lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu được biến cải thành Biệt Ðộng Quân Biên-Phòng. Nhiệm vụ của họ là đóng quân án ngữ tại các điểm then chốt nằm dọc theo biên giới Việt-Miên, Việt-Lào. Trong trận chiến tại Tống Lê Chân, quân Bắc Việt đã chịu một tổn thất ghê gớm với hàng nghìn xác chết. Họ phải huy động đến hơn 10,000 bộ đội Bắc Việt, và mãi sau 510 ngày bao vây và kịch chiến, Bắc quân mới tràn ngập được tiền đồn nhỏ bé kia. Xin nhắc lại, căn cứ Tống Lê Chân không có 5 ngàn hoặc 10,000 binh sĩ VNCH trấn đóng. Nơi này chỉ được phòng thủ bởi 259 tay súng của Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân mà thôi. Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ còn là những cơn sốt vỡ da cho "hòa bình" nguy hiểm. Tống Lê Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía Bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình Long xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để mặt trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lê Chân cũng là yết hầu chận ngang đường dây Bắc Nam, nơi bản doanh Cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống Bình Dương, Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lê Chân không còn là mục tiêu quân sự thông thường. Căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết kiểm soát được bốn hướng tây đông, bắc nam của hệ thống giao liên quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống Lê Chân chưa bao giờ có một ngày thanh bình, tên địa phương là Tonle Tchombe, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long gọi trại thành Tống Lê Chân. Những người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặt Biệt phần đông gọi theo danh từ hàm xúc này, Tống Lê Chân tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngã. Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại Tống Lê Chân phần đông là những dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stieng tình nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng 4 năm 1972, song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đã có ý định "ủi láng" hết dãy căn cứ biên phòng trên để rộng đường điều quân cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 quyết định rút hết lực lượng của bốn căn cứ Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lê Chân đã có câu trả lời sau khi nhận được lệnh: - Xin ở lại chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá. Biệt Động Quân mà di tản yếu quá. - Tình hình có giữ nổi không? - Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng. Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ lòng chiến đấu bền bỉ của người Việt cho hòa bình. Hòa bình Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của cả một dân tộc được tưới thêm bởi máu nóng của những người lính vô danh của Tiểu đoàn 92 trong một hốc của núi rừng miền đông Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vật vã này, toàn thể nhân loại có biết thế không? Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cánh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lê Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu R (Việt Cộng) đã được xác định là một mục tiêu cần phải "dứt điểm". Ngày 10 tháng 5/1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công xâm nhập được vào vòng đai phòng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững như lời nguyền người chỉ huy của trại tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhường, 25 tuổi đã giữ được lời thề Ngôn thuộc Khóa 21 Đà Lạt, ra trường năm 1966, bây giờ tháng 9 năm 1972, Ngôn mang cấp bậc trung tá, một thời gian kỷ lục, nhưng không ai tỵ hiềm. Không thể tỵ hiềm được vì tình hình quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn còn đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Ðoàn 92 của anh là một biệt lệ, một hiện thực ý niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời luôn nghĩ đến. Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của mình trên đảo Saipan, trong buồng lái của những chiếc máy bay Rero, trong những phi vụ trên vùng trời Âu châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn phòng không trong đệ nhị thế chiến…Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của quân giặc. Tống Lê Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng Nhảy Dù lừng danh của Quân đoàn Viễn chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre: "Hãy móc tôi ra khỏi Điện Biên Phủ, tôi vừa sống 6 tháng ở ổ chuột Na San rồi. Tôi quá sợ những cứ điểm bưng bít như thế này!" Sáu tháng ở cứ điểm Na San trong vị thế một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thãi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp, thế nhưng trên ngọn đồi 50 thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Lê Văn Ngôn đã sống đến ngày thứ 510 cùng với Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân với số quân thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút. Những phút Tiểu Ðoàn 92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày. Chúng ta phải làm gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chận, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp, tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân đã đặt để cho căn cứ không còn nữa. Chúng ta chỉ còn lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lý để những người anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ sự tàn ác, khiếp nhược của nền hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ làm gì nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này. Phiên họp đặt biệt cấp trưởng đoàn ngày 17 tháng 3/1973 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lê Chân lên bàn hội nghị. Trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hòa, tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách: • 1. Cử ngay một toán Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên trung ương đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm ngay lập tức sau khi có thỏa thuận hội nghị. • 2. Nếu phe Cộng Sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu Ủy Ban Quốc Tế cử người đi điều tra. • 3. Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ Ủy Ban Quốc Tế khi đến điều tra. Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía Mặt Trận Giải Phóng biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết: dù Trần Văn Trà mang quân hàm trung tướng đi chăng nữa, Trà cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề đó thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt để cho viên đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay. Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng bối rối né qua tố cáo: Việt Nam Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Đức Cơ (Pleiku) và kết luận ung dung: chính Việt Nam Cộng Hòa vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù chiếc đầu tán đồng lập lại lời phát biểu của Mặt Trận Giải Phóng với thứ tự chữ nghĩa nói khác đi một chút. Bài học đã được học từ nhà, các cậu học trò cộng sản lập lại không sai một chữ, bất chấp nội dung rõ rệt của ba đề nghị…Ý kiến - một sự kiện không có bao giờ có trong đầu của cá nhân người cộng sản khi chưa "hội ý!" Hình trên: A-7 Corsair, phản lực cơ dội bom của Hoa Kỳ, một loại vũ khí không-yểm rất hữu hiệu mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa rất thiếu thốn trong các năm 1973, '74 và '75 (hình ảnh: Air War College Gateway & USAF Counterproliferation Center).
Thấy hai phái đoàn Cộng Sản không đá động gì đến ba đề nghị vừa trình bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đêø nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn-Bên chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: "Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra." Phiên họp ngưng ở kết luận này. "Tính nhất trí" của Hiệp định, tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị! Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng Sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra Tống Lê Chân: "UBQT không đồng ý đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh." Muốn chắc ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện vì Mặt Trận Giải Phóng chắc chắn không đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 8, 2011 4:47:17 GMT 9
Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp ngày 17 tháng 3/1973 tất cả nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chấn lối bởi hai ngón đòn: "Tình hình Tống Lê Chân chưa rõ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra." Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề. Ngày 23 tháng 3/1973, chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hạn 60 ngày làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại (chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để sớm điều tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa Ðại Tá Võ Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp Ðại Tá Lomis (Gia Nã Đại) thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày 24 tháng 3/1973…Nhưng rốt cuộc cũng là trò đánh tráo. Theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng Cộng Sản ở đây xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự - tức là cùng của Việt Nam Cộng Hòa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân.
Tên sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24 tháng 3/1973. Cuộc điều tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được. Không bao giờ. Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17 tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cùng sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23 tháng 3/1973, thay vì xuống Tống Lê Chân như đã dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt Trận xuống "Sóc Con Trăn" cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với "địa phương" y trước, sau một hồi tìm kiếm trong vùng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh đứt đường giây y không tìm ra ai. Chiếc trực thăng trở về Saigon, không một thương binh được di chuyển.
Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì yêu cầu Mặt Trận Giải Phóng thảo luận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24 tháng 3/1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cuối cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng "hòa hợp, hòa giải dân tộc" với giá máu này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó. Cấp trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lê Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nhìn của người Cộng Sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành một cuộc hành quân của "quân đội Saigon" lên chiếm khu vực Tống Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời! Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn "nống nấn" ra ngoài khu vực Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào vòng vây của một sư đoàn). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng "đạo lý, hiệp định" cho binh sĩ trong đồn biết "đạo lý về hòa hợp, hòa giải dân tộc". Ý nghĩa đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi của người Cộng Sản. Những điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác, các thành viên Hung Gia Lơiï, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tòa báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày mau đến.
Đau đớn hơn, khi tại Saigon, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nhìn vấn đề ngược lại, như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh (những nghị sĩ, dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa). Những người này là gì trong khi đồng lõa với tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lê Chân, hai mươi ngày sau khi hòa bình 28 tháng 1/1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh hòa bình.
Quả tình chúng ta đang ở trong một "trạng thái hòa bình" sau hai mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ đại bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng của An Lộc, Quảng Trị nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của ngày hôm nay, chúng ta đã vội vã xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội nghiệp này, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đã không đủ khả năng để nhớ đến hình ảnh một căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ý muốn sống trong tự do và hòa bình, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lê Chân.
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6 năm 1973, thời gian quân đội Cộng Sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã đứng vững được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắng chặt tên anh cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ trọn như tên anh đã định trước. NGÔN --một lòng son sắt giữ mãi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực hình ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hỗ thẹn trước nỗi can trường này.
Những phiên họp của tháng 3, tháng 4/1974 tại Ban Liên Hợp Quân Sự Hai-Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động: Công Trường 9 (Cộng Sản) nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng Trung Ðoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung Ðoàn 27 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và tăng viện. Một năm trời thử lửa, một hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự…quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi từ 5 tháng 4/1974 đến 1:00 giờ ngày 11 tháng 4/1974 đoạt được đồn. NGÔN làm gì với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?
Tiểu Ðoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh hùng chiến trận của nhân loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh của thế giới đã dựng lên tấm bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN và Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động dựng lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất cả, NGÔN và 259 Biệt Động Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình. Hòa bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên có nghĩ gì khi hay tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt nước mắt, phải, chỉ còn một giọt nước mắt ngập bi hùng.
Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 25, 2011 18:12:04 GMT 9
Tại sao tôi mất Huế? Chúng ta mất miền Nam Việt Nam Tôi học cùng lớp với Trọng Hê và Phú Rổ, hai tên du đãng nổi tiếng quậy phá của đất Thần Kinh. Hôm đó chúng trừng mắt nghênh nhau suốt buổi học. Để chứng tỏ lòng can đảm Trọng Hê tự đấm vào mũi vài cái làm máu tuôn xối xả, Phú Rổ tự đâm bút bi vào cánh tay làm máu ra lai láng. Tan học hai anh quần nhau một trận tại sân bóng rổ để tranh giành thứ bậc anh chị học đường trước sự cổ võ của đám học sinh. Tính tôi vốn hiền hòa không thích chuyện ẩu đả nên cũng chẳng biết ai thắng ai thua. Ngoài việc đi học tôi chẳng có chuyện gì làm nên thường diện bộ áo quần mới nhất theo dòng người bát qua phố Trần Hưng Đạo xuống đường Phan Bội Châu rồi dừng lại trước phòng vẽ Ngọc Duy gọi anh Do, người bạn cùng lớp, ra tụ tập cùng đám bạn đứng uốn éo cười đùa nhìn người đi qua đi lại và mong cho ai quanh phố nhìn thấy mình. Trong số bạn học có anh Hoàng con nhà giàu có được chiếc xe gắn máy hiệu Ichia thường đèo tôi lạng một vòng quanh phố rồi dừng lại ngồi trước quán café Lạc Sơn để đợi người đẹp tên Nga, con của ông chủ rạp ciné Tân Tân, người yêu trong mộng của anh ta. Mỗi lần cô Nga xuất hiện thì mặt Hoàng tái ra, cô vô tình càng đi đến gần thì anh ta càng run và trong khoảng thời gian tôi đi chơi chung với Hoàng tôi chưa bao giờ thấy Hoàng mở miệng nói gì với cô Nga, còn về sau thì tôi không biết. Thấy bạn có được tình yêu tuy một chiều nhưng quá dữ dội tôi cũng tìm đối tượng để yêu cho biết mùi vị tình yêu. Đối tượng để yêu của tôi Hương, cô bé học cùng trường có đôi mắt bồ câu đen nhánh. Nhưng một hôm chị Tâm, người hàng xóm, cũng có đôi mắt bồ câu đen nhánh giống Hương chửi chồng và trợn đôi mắt to lên hung dữ như mắt cú làm cho óc thẩm mỹ trong tôi thay đổi và tôi quên mất Hương hồi nào không hay. Tôi lớn lên trong thành phố Huế thanh bình trong lúc cả nước đang chìm đắm trong chiến tranh mà tôi nào có hay biết. Các bạn học tôi ngày nào cũng bàn về ban nhạc The Beatles giọng ca của Fransoir Hardy hoặc Silvie Vartan, còn tôi mãi mơ mộng theo hình ảnh mấy anh tóc dài giang hồ lãng tử hippies tận trời Tây. Năm đó tôi không thể bình yên tiếp tục học hành vì các anh sinh viên học sinh ngày biểu tình ngày bãi học. Cuộc đời tôi đi vào một khúc quanh vì 2 thứ thôi thúc tính giang hồ trong tôi mà nói ra chẳng ai tin. Đó là bản nhạc bằng Anh Ngữ tên là gì tôi không biết nhưng trong đó tôi chỉ biết một câu và thường nghêu ngao một mình: “If you come down to the river. If you’ re rowing on the river. Rowing rowing on the river. You don’t have to worry because you have no money…” Tạm dịch “Nếu anh đến ở bên giòng sông. Nếu anh chẻo thuyền trên sông. Chèo thuyền chèo thuyền trên sông. Anh không lo lắng muộn phiền vì anh chẳng có tiền…” và hình ảnh một đám thanh niên tóc dài hippies đi chân đất sống hòa nhập với thiên nhiên đăng trong tờ báo Life. Tôi gom góp được một số tiền bỏ nhà bỏ học lên đường đi “Bụi Đời”. Hippy Bụi Đời và thực tế khác nhau rất xa. Tôi hết tiền rất nhanh và ghé vào Đà Nẵng thăm chị mình nhưng thật chất là xin ăn. Ông anh rể kiếm cho tôi một việc làm trong phi trường Đà Nẵng cho quân đội Mỹ, đang ào ạt vào Việt Nam tham chiến. Vài tháng sau phòng nhân viên tại đường Quang Trung mở thi tuyển thông dịch viên. Tôi trúng tuyển và được thâu nhận làm thông dịch viên cho Đại Đội 29 Dân Sự Vụ Bộ Binh Mỹ đóng trong Bộ Tư Lệnh Lực Lượng III Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại bên kia bờ sông Hàn. Lúc còn đi học tôi chọn Anh Ngữ là ngoại ngữ phụ nên vốn liếng tiếng Anh chẳng là bao, khi làm thông dịch viên tôi nói thì tôi nghe và Mỹ nói thì Mỹ nghe. Tôi ôm cuốn tự điển Anh Ngữ và cuốn văn phạm Anh Ngữ mở lớp tự học Anh Ngữ trong trại lính Mỹ và lớn dần với thời gian. Vài tháng sau tôi mua được một chiếc xe gắn máy mới hiệu Honda, đó là niềm mơ ước từ lâu của tôi, rồi quên mất chuyện trở lại trường xưa để tiếp tục học hành mà bước thẳng vào đời. Năm Mậu Thân tôi về lại Huế ăn tết và mắc kẹt lại tại vùng Gia Hộì vì quân cộng sản Bắc Việt mở trận công kích chiếm trọn thành phố. Khi quân lực VNCH đánh bật quân cộng sản ra khỏi thành phố tôi phải ở lại thêm một tuần vì đường giao thông từ Huế vào Đà Nẵng chưa được giải tỏa. Trong tuần lễ đó, ban ngày cả xóm tôi đang ở náo loạn mỗi khi tìm được xác người thân trong xóm bị chôn trong các hầm tập thể, ban đêm tôi phải thức trắng đêm không ngủ được vì tiếng khóc hằng đêm của những người vợ mất chồng mẹ mất con em mất anh con mất cha trong xóm. Những năm sau đó khi trở về thăm Huế, nơi được sanh ra và lớn lên, tôi không bao giờ đủ can đảm ở đến ngày thứ 3 vì mỗi lần nằm xuống trong mơ màng thì tiếng khóc lại vang lên trong tai. Nay đang cư ngụ tại Mỹ không có kế hoạch về thăm lại Việt Nam và nếu có về Việt Nam cũng chưa chắc tôi sẽ đi Huế, có lẽ tôi đã mất Huế. Người ta nói Huế để đi mà nhớ nhưng đối với tôi Huế để đi mà quên vì ai cũng muốn quên những câu chuyện buồn. Sau năm Mậu Thân chính quyền Miền Nam Việt Nam ban hành lệnh tổng động viên. Tôi rời chỗ làm lên đường nhập ngũ. Sau một thời gian được huấn luyện tại trường Bộ Binh Thủ Đức và trường tình báo Cây Mai, tôi trình diện Phòng Nhì Bộ Tư lệnh Quân Đoàn I (BTLQĐI) và được phân công làm Sĩ Quan Liên Lạc trong phái bộ cố vấn Mỹ (MACV) của BTLQĐI. Hai năm sau tôi được du học thêm về ngành tình báo và đưa về làm sĩ quan tình báo trong Ban Tình Báo của Phòng 2 BTLQĐI. Ban Tình Báo do Đại Úy Thuận làm trưởng ban với 3 sĩ quan là Trung Úy Ninh, Trung Úy Hẽo và tôi. Phần việc của tôi là lên bản đồ hàng ngày những vị trí điện đài của quân cộng sản trong vùng và cùng với hai sĩ quan trong ban lên tin tức để Đại Tá Phạm Văn Phô thuyết trình cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân Đoàn I, mỗi buổi sáng. Trung Úy Hẽo là một sĩ quan siêng năng thường tới sớm lo vẹn toàn đầy đủ tin tức cho những buổi thuyết trình. Sau năm 1975 mới lộ ra y là một cơ sở của cộng sản, như thế những tin tức trong phòng hội của BTLQĐI đã được y chuyển cho cộng sản suốt thời gian y làm việc. Thời gian gần đây một số anh em làm tại phòng 2 BTLQĐI có về VN gặp y đi lượm rác kiếm ăn và gần đây thì lại thấy cạo đầu đi tu. Hôm đó là ngày mồng 4 tết năm Tân Sửu, tức là ngày 30 tháng 1 năm 1971. Ban Tình Báo chia làm 2, tôi và Đại Úy Thuận lên đường theo đoàn xe của BTLQĐI ra Đông Hà thành lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương để bắt đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua Lào. Vùng hành quân theo đường 9 qua đến thành phố Tchépone, Lào. Mặt trận để dàn quân trải dài từ biên giới Việt Lào là Lao Bảo đến Tchépone khoảng 40 cây số đường chim bay. Số quân đổ vào mặt trận trên dưới 20 ngàn. Với mục đích (không nói ra khi mở đầu cuộc hành quân) thiết lập trên các cao điểm một số Căn Cứ Hỏa Lực hai bên đường 9 trong thời gian dài để khống chế chặn đường xâm nhập quân cộng sản. Phía Bắc đường 9 có 2 Căn Cứ Hỏa Lực 30 và 31 do quân dù và pháo binh trấn giữ. Bên ngoài về hướng bắc 2 Căn Cứ Hỏa Lực trên có TĐ 39 BĐQ và TĐ21 BĐQ nằm vành đai. Dưới 2 Căn Cứ Hỏa Lực trên có Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới là nơi đồn trú của quân Thiết Giáp, Dù và Pháo binh. Phía Nam đường 9 là nơi đóng quân của Sư Đoàn I Bộ Binh tại các cao điểm tên là Delta, Lolo, Sophia. 10 ngày sau tôi được lệnh cùng Đại Úy Cảnh, ban trận liệt, lên đường bay đến một ngọn đồi gần phi trường Khe Sanh để lập Bộ Chỉ Huy Nhẹ cho Đại Tá Nguyễn Đình Vinh, vị chỉ huy trưởng toàn Mặt Trận, lên sau đó. Khoảng 1 tuần sau Bộ chỉ Huy Nhẹ đón nhận một vị khách không mời, Đại Tá Nhật, trưởng phòng 3 BTLQĐI. Ông trước là sĩ quan quân huấn thường tạo nhiều khuyết điểm khi thuyết trình và hay bị Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm “nổ”. Ông thường nằm đu dưa trên võng và hồn nhiên nói: “Tao bán cái cho thằng Nhàn dưới đó” (Trung Tá Nhàn, phó phòng 3 đang ở Đông Hà). Cuộc hành quân đang diễn ra tốt đẹp. Các đơn vị tịch thâu được nhiều chiến lợi phẩm và vào được các vị trí chỉ định không bị kháng cự nhiều của địch. Tôi đưa về Đông Hà một tù binh bắt được từ chiến trường Lào, đó là tù binh độc nhất trong cuộc hành quân, y đã khai thấy rất nhiều chiến xa pháo binh tụ tập trong vùng trước đó 2 tháng. Sau này tôi được biết cuộc hành quân đã bị lộ từ trung ương nên cộng sản đã bí mật giấu tại vùng hành quân 5 sư đoàn gồm 12 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn thiết giáp, 1 trung đoàn pháo, 19 tiểu đoàn phòng không và đang giăng một cái bẫy chờ đón quân VNCH. Một tuần sau vào một buổi trưa Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm bước vào phòng họp của Bộ Chỉ Huy Nhẹ tay cầm cái can gỗ quất mạnh vào mấy cái ghế và nói như hét, “Nó qua bên đó làm gì? Tao vừa ở bên đó về, ở đó rất yên tĩnh mà”, thì ra Đại Tá Nhật nghe tin Trung Tướng HXL từ Đông Hà lên nên đã ra phi đoàn trực thăng đậu trước Bộ Chỉ Huy Nhẹ lấy một chiếc trực thăng bay qua thăm tiểu đoàn 39 BĐQ và bị bắn rơi. Hai chiếc trực thăng Cobra được điều động lên tìm nhưng khoảng hơn giờ sau đều trở về báo cáo không thể xuống được vì hỏa lực phòng không của địch quá dày. Quân cộng sản bắt đầu lộ diện nổ súng thì bắn rơi được máy bay của trưởng phòng 3 BTLQĐI trong tay ông ta có mang theo cuốn sổ trong đó có phóng đồ của cuộc hành quân. Ngày hôm sau một cuộc họp trong Bộ Chỉ Huy Nhẹ diễn ra giữa các vị chỉ huy của từng binh chủng có tham dự cuộc hành quân, phía Mỷ có ba vị tướng, một mặc áo không quân, có lẽ là tư lệnh không quân Mỹ ở Đà Nẵng, một mặc áo bộ binh, có lẽ là tư lệnh sư đoàn 101 dù Mỹ đang đóng tại Phú Bài và một là chuẩn tướng cố vấn của BTLQĐI. Trong cuộc họp Trung Tướng HXL nói thật to một cách bất mãn “President said you support why you say no?” (Tổng thống nói anh yểm trợ tại sao anh nói không?). Sau cuộc họp ba vị tướng Mỹ ra đứng bên ngoài hầm tiếp tục họp với nhau thêm vài gìờ nữa. Sau này tôi được biết cuộc hành quân không được sự đồng thuận của Mỹ vì Tổng Thớng Richard Nixon đang câu đươc con cá lớn (bắt tay với Trung Cộng). Phó tổng thống Trần Văn Hương phải họp báo tại Sài Gòn vừa tố giác vừa kêu gọi nên Mỹ mới tham gia. Phía cộng sản Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng họp báo thách thức ai làm chủ được Tchépone thì làm chủ được Hạ Lào. Khi phía Mỹ đồng ý yểm trợ cuộc hành quân thì phi đoàn chiến đấu cơ của không quân Mỹ ở Đà Nẵng được chuyển ra Đông Hà. Phi đoàn trực thăng 217 của sư đoàn không kỵ Mỹ được đưa lên Khe Sanh. Phi trường Khe Sanh nhộn nhịp hẳn lên. Tôi từ giã Bộ Chỉ Huy Nhẹ lên đường nhận nhiệm vụ mới: Sĩ quan liên lạc cho phi đoàn trực thăng 217. Phần việc của tôi là mỗi buổi chiều đi cùng Trung tá chỉ huy trưởng (TTCHT) phi đoàn 217 Robert f. Molineli qua họp tại bộ Chỉ Huy Nhẹ và thu thập tin tức cuộc hành quân để thuyết trình cho phi hành đoàn mỗi buổi tối. Về sau tôi được biết phía Mỹ khi tham gia cuộc hành quân đã có 65 phi hành đoàn bị bắn rơi. 42 mất tích. 818 bị thương. 106 chiếc máy bay bị hủy. 618 chiếc bị hư hại. Điều dở nhất của chính giới Hoa Kỳ tại Washington D.C. là đã đưa vào trận chiến Việt Nam hàng trăm vị tướng giỏi nhưng khi muốn rút chân ra khỏi trận chiến lại giao cho tên hạ sĩ thuộc sư đoàn bộ binh 84 tên là Henry Kissinger giải quyết. Nên những phi công Mỹ bị bắn rơi tại Lào không bao giờ về lại được đất Mỹ. Chiều hôm đó TTCHT phi đoàn 217 và tôi bay qua Bộ Chỉ Huy Nhẹ để họp, vừa bước vào hầm họp thì Đại Tá Nguyễn Đình Vinh nói liền với TTCHT phi đoàn 217 “sau cuộc họp này tôi nhờ anh cho 1 chiếc trực thăng lên tìm TĐ 39 BĐQ giùm, chúng tôi bị mất liên lạc với họ từ chiều qua”. Câu nói vừa xong thì chuông điện thoại reo Đại Tá NĐV bắt điện thoại trả lời, bận rộn gọi điện thoại ra lệnh điều khiển trận đánh. Cuộc họp hành quân buổi chiều ấy bị hủy. Chúng tôi ra về, thay vì đáp xuống phi trường Khe Sanh TTCHT, phi đoàn 217 lại điều khiển trực thăng bay rà thấp trên ngọn cây qua Lào ngang qua nơi đóng quân của Tiểu Đoàn 39 BĐQ và Căn Cứ Hỏa Lực 31. Xác người nằm ngổn ngang từ dưới chân đồi lên, 2 chiếc xe tăng của quân cộng sản đang quần qua lại trên đỉnh đồi, hai quà đạn pháo làm bùng lên hai ngọn lửa lớn, tiếng súng phòng không lộp bộp. Quân cộng sản đã tràn ngập vị trí đóng quân của TĐ39 BĐQ. Quân dù trên Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 vẫy tay chào. Chiếc trực thăng dàn ra xa và bay vút lên cao, ông ta mở tần số liên lạc và ra lệnh cho tôi gọi tìm TĐ39 BĐQ. Tiếng tôi vang lên trong không gian âm u trên cao của bầu trời đang ngả màu tối. Đạn phòng không của của quân cộng sản giăng tỏa thành một màn lưới sáng đi chập chờn từ dưới lên quanh chiếc máy bay. Vài quả đạn nổ trên không làm đỏ rực bầu trời, tôi có cảm giác chiếc máy bay chòng chành theo từng tiếng nổ. Tôi không biết quân cộng sản đã khai hỏa bao nhiêu lâu nhưng thời gian đó là những giây phút dài nhất trong đời tôi. Tôi báo cáo với trung tá chỉ huy trưởng phi đoàn là không bắt liên lạc được dưới đất sau khi đã chuyển đổi nhiều tần số. Chiếc máy bay nghiêng xuống về lại Bộ Chỉ Huy Nhẹ để báo cáo cùng Đại Tá Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân về phi vụ vừa thực hiện. Hôm sau TTCHT phi đoàn 217 cho tôi biết chiếc phi cơ trực thăng đã bị hư nhẹ vì có trúng đạn. Về sau tôi được biết tôi đã bay trên hỏa lực phòng không mạnh nhất dày nhất kể từ thế chiến thứ II bằng 1 chiếc trực thăng mà bên dưới có 19 tiểu đoàn phòng không nhắm bắn không trúng. Tôi thoát chết là nhờ bầu trời vụt tối khá nhanh bên dưới nhìn lên không thấy được chiếc phi cơ in trên nền trời đen thẫm. Hú hồn. Chiến tranh là hoạt động ngu xuẩn nhất của con người. Sanh mạng của mình được trao cho những con người không quen biết. Bốn hôm sau Đại Đội Hắc Báo, chuyên nhảy toán cứu phi hành đoàn bị bắn rơi và bảo vệ sân bay, cùng với lính Mỹ đang phòng thủ sân bay đưa vào 5 binh sĩ của TĐ39 BĐQ chạy bộ từ chiến trường về. Tôi kiếm đồ cho họ ăn và lấy xe đưa họ về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn BĐQ nằm dưới Bộ Chỉ Huy Nhẹ. Trong câu chuyện với người xạ thủ súng M72 của Tiểu Đoàn 39 BĐQ tôi được biết như sau: Không thể chặn đứng được chiếc chiến xa T54 đi đầu của địch khi nó tiến lên đồi. “Em bắn tất cả 3 quả M72. Quả đầu hơi xa em không biết chắc có trúng hay không. 2 quả sau em biết chắc rằng em đã bắn trúng nhưng đạn không găm vào xe mà đi trợt ra ngoài” “Tại sao ?”. “Vì chúng đi từ dưới đồi lên. Lúc chúng tập trung quân em đã quan sát rất kỹ chiếc chiến xa T54 này, chỉ hạ được bằng cách bắn vào dưới bánh xe mà thôi. Phần trên và tháp súng của xe có bắn trúng cũng không ăn nhằm gì. Em đứng trên cao xe dưới thấp đi lên em không thấy được phần dưới xe. Khi em bắn quả cuối cùng chiếc xe T54 chỉ còn cách em 15 mét nên em dục tất cả và chạy bộ về đến đây”. Anh ta hạ giọng “Em không cản được thì tụi dù cũng không cản được, em sợ chúng ta … thua trận này quá!”. Tôi trả lời “Dưới đất không cản được T54 thì máy bay trên không cản được”. Mấy ngày sau quân cộng sản tập trung tấn công vào Căn Cứ Hỏa Lực 31. Một chiếc chiến đấu cơ của không quân Mỹ yểm trợ cuộc hành quân bị bắn rơi, chiếc còn lại ham cứu bạn không cần biết trận chiến bên dưới. Quân dù không cản nổi xe tăng T54. Căn Cứ Hỏa Lực 31 bị tràn ngập. Về sau này khi quan sát những chiếc xe tăng T54 bị bắn bể giây xích bánh xe nằm ngổn ngang trên bãi cát bên kia bờ sông Mỹ Chánh tôi mới hiểu rằng lời nói của người xạ thủ M72 của TĐ 39 BĐQ là đúng. Ngang đây tôi xin bạn đọc cho tôi có vài lời với những người chưa hề cầm súng. Chiến trường thắng bại phần đông do vũ khí và những người lính gan dạ vô danh. Nếu không có vũ khí là cây tre dài buộc dao nhọn và bùi nhùi tẩm dầu lửa được đốt lên khi tấn công thì vua Quang Trung không thể đánh bại quân Xiêm và quân Thanh. Nếu không có những cây súng hỏa mai mua của Tây Phương thì vua Gia Long không bao giờ giành lại được sơn hà. Xe tăng T54 không phải là vũ khí mới, không phải là loại vũ khí không trị được nhưng trong ngẫu nhiên quân cộng sản dùng nó để tấn công vào các cao điểm đi từ dưới thấp lên bảo vệ được bánh xe nên thành công. Nếu quân lực VNCH giữ vững được các Căn Cứ Hỏa Lực trên đất Lào chặn được đường xâm nhập của cộng sản thì Miền Nam Việt Nam không bao giờ bị mất. Đó là lý do tại sao chúng ta mất Miền Nam Việt Nam. Lý do này tôi cho là lý do chính. Theo một tài liệu của người Mỹ cho biết trong trận chiến tại Hạ Lào, Quân Lực VNCH đã thiệt hại đến 5.000 người vừa chết vừa bị thương và mất tích, quân cộng sản là 13.341 người. Tất cả khí tài của 2 phe tham chiến điều bị hủy diệt. Số liệu này không thể được gọi là chính xác, nhất là sự thiệt hại của quân cộng sản. Thế thì trận đánh Hạ Lào là một trận đánh tổn thất lớn nhất cho cả 2 bên trong chiến tranh Việt Nam diễn ra như thế nào và cách giết nhau như thế nào mà có đến gần 20.000 người thiệt mạng (có thể nhiều hơn). Tôi xin trình bày tổng quát đơn giản, khách quan trung trực theo sự hiểu biết có hạn của tôi, một sĩ quan tham mưu nhỏ nhất còn sống sót, trong trận chiến. Trận chiến Hạ Lào có 7 trận đánh lớ : Trận thứ nhất quân cộng sản tấn công xóa sổ TĐ 39 BĐQ Trận thứ nhì quân cộng sản tấn công tràn ngập Căn Cứ Hỏa Lực 31 Trận thứ 3 quân cộng sản bao vây và dùng pháo binh cầm chân quân Thiết Giáp đang đồn trú tại Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới Trận thứ tư quân cộng sản phục kích quân thiết giáp và quân Dù đi cứu Căn Cứ Hỏa Lực 31. Trận thứ năm quân cộng sản phục kích quân của Sư Đoàn I khi họ rút ra sau khi đã vào Tchépone. Trận thứ sáu quân cộng sản tấn công xóa sổ TĐ 21 BĐQ Trận thứ bảy quân cộng sản bao vây Căn Cứ Hỏa Lực 30. Khi quân trong Căn Cứ Hỏa Lực 30 được lệnh bí mật rút lui là toàn bộ quân của QLVNCH từ Lào đồng tháo chạy về Khe Sanh. Các giới chức quân sự thường cho rằng bên bị phục kích luôn luôn thiệt hại nhiều hơn bên phục kính và con số 1 thủ bằng 3 công để đo lường thiệt hại đôi bên khi tham chiến. Ý tưởng này không đúng với trận chiến ở Hạ Lào. Trận đánh này là trận đánh dùng kỹ thuật trong chiến tranh của 2 phe tư bản và cộng sản mà người Việt Nam đã sử dụng để giết nhau một cách tàn nhẫn. Thuở đó ngành tình báo của Quân Lực VNCH đã phát triển thêm Nha Kỹ Thuật để áp dụng những phát minh mới nhất của nền khoa học kỹ thuật hiện đại vào phục vụ cho ngành tình báo và chiến tranh. Hai phát minh mới nhất về tình báo để hỗ trợ cho trận chiến Hạ Lào là các toán kỹ thuật dùng máy Sensors, là những chiếc máy nhỏ được thả trong rừng để định vị địch và dùng pháo bắn hủy diệt và chiếc máy bay EP-3 (sau này Trung Cộng có bắt Mỹ hạ cánh tại đảo Hải Nam một chiếc) bay vần vũ suốt ngày trên bầu trời phi trường Khe Sanh để định vị trí điện đài quân cộng sản đang tham gia trong trận đánh và dùng pháo đài bay B52 thả bom hủy diệt. Tôi nghĩ rằng quân cộng sản cũng đã biết những kỹ thuật đó nhưng họ không còn chọn lựa nào khác là phải sử dụng điện đài để điều quân tham chiến. Pháo đài bay B52 xuất phát từ Thái Lan bay đến mặt trận Hạ Lào trong vòng 1 giờ, mỗi phi vụ gồm 3 chiếc, mỗi chiếc mang được 32 tấn bom dàn hàng ngang rải bom hủy diệt một vùng hình chữ nhật rộng hơn 1 cây số dài hơn 6 cây số. Không chết vì trúng bom thì cũng chết vì âm thanh khi nằm trong khu vực bị B52 dội bom. Hầu hết các trận đánh đều có sử dụng các phi vụ B52 để chặn đường tiến quân, giải tỏa áp lực hay hủy diệt toàn bộ khu vực nếu không giữ được. Những phi vụ B52 có tác dụng hủy diệt nhiều nhất mà tôi được biết là: Khi quân thiết giáp và quân Dù đi cứu Căn Cứ Hỏa Lực 31 bi phục kích, toàn bộ thiết giáp và khí tài được lệnh bỏ lại chiến trường và bí mật rút quân ra trong vòng vài giờ vào lúc nửa đêm để một phi vụ có đến 6 chiếc B52 rải thảm bom hùy diệt. Trận đánh tại Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 30 khi bị quân cộng sản bao vây tăng áp lực, các vị chỉ huy đã vẽ một tam giác cho quân trú phòng vào một góc và cho B52 thả bom ở cạnh đối diện. Sau khi thả hết 3 cạnh của tam giác quân trú phòng được lệnh rút và toàn bộ quân VNCH đều chạy về Khe Sanh. Ngày hôm đó toàn bộ điện đài của quân cộng sản tại Lào không còn hoạt động. Có ý kiến của các vị chỉ huy cần tái chiếm vì quân cộng sản đã bị tổn thất quá nặng không còn đủ sức tấn công nhưng người Mỹ lại từ chối yểm trợ. Trong những năm gần đây tôi có về Việt Nam đi các nhà sách để tìm đọc những bài viết của người lính cộng sản có tham gia trận đánh Hạ Lào thì chỉ tìm ra độc nhất một bài viết vài trang của tướng công binh cộng sản Đồng Sĩ Nguyên viết về việc xây dựng đường 559 phục vụ cho trận chiến Hạ Lào mà thôi. Phải chăng tất cả họ đều đã chết dưới bom đạn. Phía quân lực VNCH có 2 nhân vật chủ chốt trong trận đánh Hạ Lào vẫn còn sống là Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm và Đại Tá Nguyễn Đình Vinh thì hình như không có bài viết nào về trận đánh mà chỉ có những bài viết của những cấp thấp nên đầy phiến diện. Hình như hầu hết những cuộc chiến tranh do con người bày ra đều có nhiều lý lẽ tưởng rằng đúng lúc mới tham gia và cũng có nhiều nỗi hối hận giày vò khi tàn cuộc chiến. Không có gì hay ho để đánh giá ai thắng ai bại trong trận đánh Hạ Lào, một trận đánh trong hàng trăm trận đánh của cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn nhưng lại cần định tội cho những ai đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa và ngu xuẩn ấy. Hôm nay ngồi trong quán café tại thành phố Atlanta, tôi hỏi cô bé du học sinh có thân hình đầy đặn khuôn mặt ngây thơ đang bưng café để kiếm thêm tiền trả học phí “Con ở đâu bên Việt Nam? ”. “Con ở Hà Lội”. Tôi biết một cách chắc chắn rằng tôi chẳng có gì thù hận cô ta và cô ta cũng chẳng có gì thù hận tôi nhưng 40 năm trước nếu chúng tôi gặp nhau là gặp nhau trên hai chiến tuyến. Tôi bỗng nhớ lại 2 thằng bạn học du đãng năm xưa và nhớ cả trận đánh Hạ Lào. Tôi đi về nhà ngồi gõ gõ viết lại chuyện xưa mà lòng vẫn đầy thương cảm cho 20.000 sanh mạng đã vùi thây trên vùng đất Hạ Lào, họ cũng có những tâm tư tình cảm giống tôi nhưng thiếu may mắn hơn tôi. Đớn đau ai cũng là người. Đớn đau ai cũng là người đớn đau. Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
|
|