|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 4:36:50 GMT 9
Benjamen FranklinVietsciences-Phạm Văn Tuấn Benjamen Franklin (1706 - 1790), nhà lập quốc Hoa Kỳ Benjamin Franklin là một trong các nhân vật hàng đầu đã xây dựng nên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông là người duy nhất đã ký tên vào 4 văn kiện quan trọng trong Lịch Sử Mỹ Quốc, đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiệp ước Đồng Minh với Pháp, Hiệp Ước Hòa Bình với Anh và Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Benjamin Franklin là một nhân vật đa diện. Ông đã từng làm thợ nấu xà bông, nấu nến, thợ in, nhà văn, nhà xuất bản, nhà khoa học và phát minh, nhân vật tổ chức và lãnh đạo cộng đồng… và cũng là một nhà ngoại giao có tài. Các phục vụ của ông trong công tác ngoại giao tại nước Pháp đã giúp ích rất nhiều trong cuộc chiến tranh giành Độc Lập của Hoa Kỳ. Nhiều sử gia Hoa Kỳ đã coi ông là nhà ngoại giao có khả năng nhất và thành công nhất từ xưa tới nay. 1- Thuở thiếu thời. Benjanim Franklin sinh ngày 17 tháng 1 năm 1706 tại Boston, Massachusetts. Cậu là con trai thứ 15 và là út trong một gia đình 17 anh em. Tổ tiên của Benjanin sinh sống tại Anh Quốc và không thuộc một giòng họ danh tiếng. Các cụ làm nghề thợ rèn, song là những người thực thà, cần mẫn. Trong giòng họ này chỉ có cha của Benjamin, ông Josiah, sang lập nghiệp bên Mỹ Châu. Ông Josiah có với người vợ trước 5 người con và người vợ sau 12. Ông cũng là con út trong gia đình và vì rất mến người anh ruột tên là Benjamin mà ông đặt cho con trai út của mình cái tên đó. Gia đình ông Josiah không được sung túc lắm nên các con của ông chỉ được theo đuổi việc học trong 2 hay 3 năm rồi kiếm một nghề tay chân. Ông cho các con làm các ngành nghề khác nhau, tùy theo sở thích và năng khiếu của từng đứa : thợ in, thợ nhuộm, thợ rèn . . . Benjamin Franklin biết đọc, biết viết rất sớm, vì vậy ông Josiah định cho cậu sau này làm mục sư. Ở trường tiểu học, Benjamin học rất thông minh, tiến dần tới đầu lớp nhưng khi lên bậc trung học, vì tốn kém quá, ông Josiah đành cho con đến học tư toán và văn chương tại nhà ông Brownell song cậu Benjamin lại khá về văn chương mà kém về môn Toán. Năm 1716, vì nghề nhuộm ế ẩm, ông Josiah phải đổi sang nghề làm nến và nấu xà bông. Benjamin phải thôi học, ở nhà giúp cha. Công việc của cậu là cắt bấc, đổ sáp vào khuôn, mua bán lặt vặt hay trông coi cửa hàng thay cha khi người bận việc. Ngoài thời giờ giúp việc tại nhà, Benjamin thường hay chơi đùa cùng các bạn : nào bơi lội, nào chèo thuyền. Cậu không thích nghề nghiệp của cha mà mơ mộng trở thành thủy thủ song ông Josiah không bằng lòng cho con theo đuổi ngành này. Thấy con đã lớn mà còn lông bông, nên ông có ý tìm cho con một nghề kiếm ăn thích hợp. Ông đưa con đi thăm các cơ xưởng trong tỉnh để xem con ưa thích ngành nghề nào nhất. Ngay từ thuở nhỏ, Benjamin đã thích đọc sách. Hễ gặp quyển sách nào là cậu nghiềm ngẫm say sưa, hễ được đồng tiền nào là cậu để dành rồi mua sách về đọc. Thấy con ưa thích sách như vậy, ông Josiah cho con theo hoc nghề in tuy rằng trong nhà đã có người con lớn, anh James, theo đuổi nghề này. Năm 12 tuổi, Benjamin ký giao kèo với anh James nhận làm thợ in cho tới năm 21 tuổi mà không lãnh lương thực thụ. Một người tinh nhanh, chăm chỉ như Benjamin thì chẳng bao lâu đã thạo việc. Thực vậy, cậu đã giúp anh một cách đắc lực. Cũng nhờ theo nghề in này mà Benjamin đọc được nhiều sách hơn: các sách đưa đến in, đến đóng lại, cậu đều đọc qua, có khi cậu thức suốt đêm để đọc nốtù vì sáng ngày mai đã phải trả sách lại cho khách hàng. Cậu đã tự học được nhiều môn như đại số, hình học, văn phạm, luận lý, các môn vật lý và khoa học tự nhiên. Một hôm, có một nhà buôn trong tỉnh lại thăm nhà in. Ông này thấy Benjamin ham mê đọc sách mà mình có sách thường để không, nên đã dẫn Benjamin về nhà mình và cho phép cậu mượn bất cứ quyển nào cậu muốn. Nhờ nghề in mà Benjamin đọc thông viết thạo hơn, song cậu còn kém về cách hành văn và từ ngữ không được dồi dào. Để sửa chữa, cậu nghĩ tới việc làm thơ. Anh James cũng khuyến khích em vì anh ta nghĩ có thể in thơ rồi đem bán được. Vì vậy vài ba quyển thơ cũng ra đời song cha cậu đã chế nhạo cậu vì ông biết rằng nghề làm thơ chỉ mang lại nghèo túng mà thôi. Benjamin thường cùng với một người bạn cũng ham đọc sách, tranh luận về bất cứ đề tài nào. Lúc đầu, họ còn dùng lời, sau dùng chữ viết, nhờ vậy cậu thấy mình còn kém về phương pháp và lý luận còn thiếu minh bạch. Năm 1721, anh James bắt đầu ra một tờ báo lấy tên là The New England Courant (Bản Tin Tân Anh Cát Lợi). Đây là tờ báo thứ nhì phát hành tại châu Mỹ. Vào thời đó, các nhà trí thức thường viết các bài báo song ký tên khác đi vì sợ chính quyền làm khó dễ. Nhiều người có tài đã gửi các bài viết rất hay, làm tăng gía trị cho tờ báo. Benjamin cũng muốn viết báo song e ngại rằng nếu ký tên thật, anh James sẽ vứt ngay bài vào sọt rác, cậu bèn viết với tên hiệu là "Silence Dogood" rồi đợi đến đêm, ném bài qua khe cửa sổ nhà in. Sáng hôm sau, anh James nhận được bài, đọc thấy cũng khá đặc sắc nên cho in. Nhiều khi Benjamin còn được nghe anh và các bạn ca tụng các bài viết đó trước mặt mình. Họ tin chắc rằng các bài viết đó phải do một người học rộng, tài ba, mới viết nổi. Benjamin vẫn phải bấm bụng nhịn cười. Sau cùng, vì không giữ bí mật được nữa, cậu đành phải thú nhận mình là tác giả của các bài viết trên. Kể từ khi đó, các bạn của cậu trọng nể cậu hơn trước song anh James lại lấy làm khó chịu. Anh thường bắt em làm việc quá nhiều, có khi còn đánh đập em nữa. Vì vậy giữa anh em thường xẩy ra các vụ bất hòa. Anh James quả là một người anh bắt nạt em, một người chủ áp bức thợ. Năm 16 tuổi, Benjamin được đọc một cuốn sách nói về sự ăn chay. Cậu liền quyết định theo đuổi cách dinh dưỡng này rồi đề nghị với anh xin một số tiền để nấu ăn lấy. Nhờ chỉ ăn rau, Benjamin đã để dành được phân nửa món tiền, đỡ mất thời giờ về ăn uống mà trí óc lại sáng suốt hơn trước. Thực vậy, trong khi anh James và các bạn ra quán ăn thì ở nhà, cậu thổi nấu ăn uống theo ý muốn và đọc được mấy chục trang sách rồi bọn kia mới bắt đầu ra về. Năm 1723, tờ báo của anh James có đăng một bài xã luận xúc phạm đến chính quyền nên anh James bị bắt giam một tháng. Benjamin thay anh làm quản lý nhà in. Khi được tha về và vì bị cấm không được ra báo nữa, anh James đành phải nhờ em làm chủ nhiệm tờ báo. Vì luật pháp thời đó không cho phép một người làm công chịu trách nhiệm một công việc to tát như vậy nên anh James đành phải hủy bỏ tờ giao kèo bắt buộc Benjamin làm công với mình khi trước. Ít lâu sau, một cuộc xung đột xẩy ra và Benjamin đã bỏ nhà ra đi. Về sau cậu hối hận mãi về điều này. Anh James liền thông báo cho các in trong tỉnh đừng mướn Benjamin. Vì vậy cậu phải đi New York là nơi có nhiều nhà in mà lại ở gần Boston nhất. Cậu Benjamin phải bán bớt sách để lấy tiền đi đường, lúc đó cậu mới 17 tuổi. Tới New York, Benjamin không tìm ra việc nhưng nhờ có người giới thiệu, cậu lại đi Philadelphia cách New York 160 cây số. Đây là thành phố lớn nhất của thuộc địa châu Mỹ thời bấy giờ. Đến nơi, cậu Benjamin vào ngay một hiệu bánh mì trên đường Market mua ba ổ bánh, mỗi ổ kẹp ở một nách rồi ăn ngấu nghiến ổ thứ ba. Một cô gái ở ngôi nhà đối cửa khi trông thấy cảnh đó, đã ôm bụng cười. Cô này tên là Deborah Read, vợ của Benjamin sau này. Tại Philadelphia, Benjamin tìm được việc làm nơi nhà in của ông Samuel Keimer. Ít lâu sau, cậu quen được ông thống đốc Keith. Thấy cậu là người học rộng, ông Keith muốn giúp Benjamin làm chủ một nhà in. Ông ta bảo cậu kê khai các thứ cần mua rồi ông ta sẽ bỏ tiền và Benjamin sang Anh Quốc mua sắm các dụng cụ đó. Song ông Keith chỉ là người hứa suông, nên khi đã sang tới nước Anh rồi, cậu chẳng nhận được sự giúp đỡ nào cả, ngay cả bức thư giới thiệu. Benjamin đành phải làm công cho các nhà in Palmer và Watt. 2- Thời thanh niên. Năm 21 tuổi, Benjamin trở về Philadelphia và lại giúp việc cho ông Keimer. Từ đây, Franklin đã trở nên một chàng thanh niên khôn ngoan, tháo vát. Việc đọc sách vẫn là sở thích của chàng. Franklin nghĩ rằng nếu riêng rẽ thì một người chỉ có thể đọc được một số sách. Vậy nếu một số người hiếu học họp lại với nhau, trao đổi sách báo và thảo luận cùng nhau thì sẽ có lợi biết bao. Chàng liền lập ra Câu Lạc Bộ Junto để các hội viên thay nhau thuyết trình về các vấn đề luân lý, chính trị và khoa học. Lúc đầu câu lạc bộ gồm 7 hay 8 hội viên hay đọc sách, họp với nhau vào chiều thứ sáu để thảo luận về các vấn đề đã nêu ra từ tuần lễ trước. Nhờ việc thảo luận này mà các hội viên đều tiến bộ về cách nói năng và sự nghiên cứu. Hơn nữa, cứ ba tháng mỗi hội viên lại phải sáng tác một luận án về bất cứ vấn đề gì. Câu Lạc Bộ Junto này đã nổi tiếng trong thành phố thời bấy giờ. Năm 22 tuổi Franklin thôi không làm cho ông Keimer nữa mà mở một nhà in riêng với Hugh Meridith. Lúc đầu công việc còn ít song chàng cố gắng làm việc và yêu nghề, thức khuya dậy sớm, không bao giờ la cà tại các tửu quán nhờ vậy dân chúng tín nhiệm và các công việc thương mại càng tăng hơn. Hồi đó giấy bạc khan hiếm, người ta e ngại nếu in thêm, đồng tiền sẽ mất gía còn nếu không in thì tình trạng kinh tế không được phát triển. Franklin liền mang việc này ra bàn với các hội viên Junto rồi chàng cho in một cuốn sách nhan đề là "Tính chất và sự cần thiết của giấy bạc". Việc làm này đã khiến cho Nghị Viện thành phố quyết định in thêm tiền và họ giao cho Franklin công việc đó vì chàng đã có công đóng góp. Nhờ thế mà nhà in của chàng có thêm việc làm. Năm 24 tuổi, Franklin cưới cô Deborah Read, người đã cười chàng khi trông thấy chàng gặm ổ bánh mì lúc bắt đầu đặt chân tới Philadelphia. Deborah là người ít học song cặp vợ chồng Franklin là những người tận tụy làm việc. Họ có 3 con, 2 trai và 1 gái. Một người con trai tên là William, sau này trở nên Thống Đốc của tiểu bang New Jersey. Franklin thấy rằng khi tra cứu thì cần phải có nhiều sách mà mỗi người chỉ có một số nhỏ. Vậy nếu các hội viên Hội Junto cùng mang sách đặt tại một nơi thì người nọ có thể đọc được sách của người kia và sự tra cứu sẽ dễ dàng hơn. Các hội viên đều nghe lời đề nghị này của Franklin. Việc này rất có lợi song cũng có điều bất tiện, chẳng hạn như ai cũng đòi hỏi người khác giữ gìn sách của mình cho cẩn thận nên một năm sau, Hội Junto phải giải tán tủ sách. Franklin lại nghĩ đến việc lập một thư viện công cộng cho mượn sách. Chàng nhờ một viên chưởng khế thảo điều lệ. Hội viên có tới 100 người. Số tiền đóng góp của các hội viên dùng để mua sách bên nước Anh. Đây là thư viện đầu tiên tại Bắc Mỹ, nó đã mở đầu cho phong trào thư viện sau này. Chính nhờ có thư viện mà dân xứ Philadelphia thời đó có một trình độ văn hóa cao hơn dân của các vùng kế cận. Vì thế các miền chung quanh chẳng bao lâu cũng bắt chước làm công việc ích lợi kể trên. Franklin tin rằng chăm chỉ bao giờ cũng vẫn là phương thuốc để trở nên giàu sang. Chàng cho rằng một người muốn thành công phải làm việc chăm chỉ hơn những kẻ đang cạnh tranh với mình. Chàng lại có ước vọng muốn trở nên một nhà đạo đức, muốn khắc phục mọi thói xấu để sống một cuộc đời trong sạch. Chàng thấy rằng tin tưởng suông vào đạo lý chưa đủ để giữ cho khỏi sa ngã, cần phải luyện tập các đức tính, xếp chúng theo thứ tự rồi thêm vào đó các định nghĩa để làm sáng tỏ các quan niệm về các đức tính đó: 1- Điều độ: không ăn đến chán, không uống đến say. 2- Yên lặng: không nói nếu lời nói không hữu ích cho người khác hoặc cho bản thân. Không nói dỡn cợt. 3- Thứ tự: xếp đặt mọi vật vào một chỗ riêng, các việc làm vào những thời giờ nhất định. 4- Quyết tâm: phải quyết tâm làm những việc cần. Việc gì đã quyết tâm rồi thì phải làm cho kỳ được. 5- Tiết kiệm: chỉ tiêu tiền về những việc có ích cho mình và cho người khác. 6- Chuyên cần: không bỏ phí thời giờ, lúc nào cũng làm việc hữu ích. 7- Thật thà: phải nói cho đúng, không nói xấu người, có những ý nghĩ lành mạnh. 8- Công bằng: không làm hại người khác và nhớ hưởng những gì mình đáng được hưởng. 9- Dung hòa: tránh mọi thái cực, chịu đựng những điều trách mắng nếu mình có lỗi. 10- Sạch sẽ: thân thể, quần áo và nhà cửa phải sạch sẽ. 11- Yên tĩnh: tránh ưu phiền về các việc thường xẩy ra hay không thể tránh được. 12- Trong sạch: tránh trác táng, hại sức khỏe, hại thanh danh của mình và của người khác. 13- Khiêm tốn: noi gương Chúa Jesus và Socrates. Chính nhờ cách sửa mình này mà về sau, Benjamin Franklin đã trở nên một người khôn ngoan và đạo đức của Hoa Kỳ. Năm 26 tuổi, Franklin thấy rằng cần phải phổ biến các tư tưởng hướng thiện, chàng liền soạn rồi cho xuất bản cuốn Niên Lịch lấy tên là "Niên Lịch của Richard nghèo khó" (Poor Richard's Almanach). Trong cuốn này, chàng đặt những tư tưởng cao thượng và ích lợi thành các châm ngôn để người đọc dễ nhớ hơn. Ngày nay các câu châm ngôn này còn được phổ thông chẳng hạn như câu "ngủ sớm, dậy sớm làm cho con người khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan" (Early to bed and early to rise makes a man healthy, wealthy and wise). Mọi người đã tán thưởng cuốn niên lịch đến nỗi 10 ngàn cuốn được xuất bản trong một năm và cứ thế kéo dài trong 25 năm liền, quả là một sự việc hi hữu tại một nơi và vào một thời kỳ mà tình trạng dân chúng còn kém mở mang. Cũng vào năm 26 tuổi, chàng Franklin lập ra tờ báo lấy tên là Nhật Báo Philadelphia (the Philadelphia Gazette). Chàng đã làm phát triển tờ báo thành một trong các báo thành công nhất tại thuộc địa châu Mỹ. Chàng luôn luôn chú ý đến tư tưởng mới. Các sử gia Hoa Kỳ cho rằng Franklin là viên chủ nhiệm đầu tiên tại châu Mỹ đã cho phổ biến trên các trang báo những mẩu tranh hí họa và hướng dẫn các tin tức bằng bản đồ. Nhờ tờ báo của mình, Franklin đã trình bày cho dân chúng biết rõ nhiều dự án cải tiến công ích. Tờ báo Philadelphia đã sống được từ năm 1729 tới năm 1766. Franklin lại còn soạn thêm cuốn sách "Con đường dẫn tới giàu sang" (the Way to Wealth). Cuốn sách này cũng có một giá trị đặc biệt về kinh tế. Năm 27 tuổi, Franklin cảm thấy cần phải biết thêm ngoại ngữ để dễ thông cảm với các dân tộc khác. Chàng liền bắt đầu học tiếng Pháp và chẳng bao lâu đã nói thạo và đọc sách tiếng Pháp một cách dễ dàng. Học xong tiếng Pháp rồi, chàng quay sang học tiếng Ý. Ít lâu sau, Franklin lại học tiếng Tây Ban Nha và rồi cũng thông thạo thứ ngôn ngữ này. Năm 30 tuổi, nhờ sự hiểu biết của bản thân, nhờ sự tín nhiệm của mọi người, Franklin được bầu làm thư ký Nghị Viện Pennsylvania (the Pennsylvania Assembly). Thành phố Philadelphia càng ngày càng được mở mang mà chưa có một đội lính cứu hỏa, Franklin liền đứng ra thành lập đội quân tình nguyện này. Ông còn có công trong việc cải tiến cách tuần phòng trong thành phố. Cũng vào năm 30 tuổi, Franklin được đề cử làm Giám Đốc Bưu Điện của Philadelphia. Cách làm việc hữu hiệu của ông đã khiến cho chính quyền Anh Quốc phải chú ý nên về sau, vào năm 1753, ông đã trở nên Phó Tổng Giám Đốc Bưu Điện của tất cả các miền đất thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã làm việc rất tận tâm, cải tiến rất nhiều dịch vụ Bưu Điện, làm tăng tốc độ chuyển thư bằng cách dùng tới các tầu biển chạy nhanh nhất qua Đại Tây Dương. Đối với các thư từ trong vùng, ông đã thuê mướn các người đưa thư đi ngựa chuyển thư cả ngày lẫn đêm. Ông cũng giúp cho xứ Canada thiết lập ra các dịch vụ bưu điện đầu tiên. Ông đã cho mở các trạm bưu điện tại Quebec, Montreal và Trois Rivière vào năm 1763 và rồi xếp đặt việc chuyển thư giữa Montreal và New York. Benjamin Franklin cũng để ý tới sự cải tiến các dụng cụ thường dùng. Năm 36 tuổi, ông đã phát minh ra được một thứ lò sưởi không có khói, cho sức nóng gấp hai lần mà lại dùng 1/4 số lượng củi đốt. Phát minh của ông được phổ biến trong thành phố vì nó rất hợp với khoa học lại tiện lợi. Chính quyền định cấp cho ông bằng phát minh song ông từ chối và nói : "Tôi được dùng các phát minh của người khác thì tôi cũng sung sướng khi thấy phát minh của tôi đã giúp ích cho các người chung quanh". Năm 37 tuổi, vì Hội Junto kém phát triển nên Franklin đề nghị lập ra "Hội Triết Học Mỹ Quốc" (the American Philosophical Society) gồm các người đạo đức, có kiến thức rộng, ở các thuộc địa khác nhau tại Bắc Mỹ. Hội Triết Học này được tổ chức theo lề lối của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc (the Royal Society). Nhiều người đã ghi tên tham dự và Franklin được bầu làm thư ký của Hội. Các hội viên thường trao đổi thư từ cùng nhau. Trụ sở của Hội đặt tại Philadelphia là thành phố trung tâm lại có thư viện đầy đủ và nhiều tương lai về kiến thiết. 3- Nhà Khoa Học. Vào năm 40 tuổi, vì kinh tế gia đình đã khá đầy đủ nên Benjamin Franklin có thời giờ để tâm đến Khoa Học. Thời đó châu Mỹ nhận được các sách báo cùng các dụng cụ thí nghiệm về điện học từ nước Anh gửi sang. Hội Triết Học nhờ Franklin làm các thí nghiệm như đã mô tả sẵn, song không những ông đã làm lại được hoàn toàn các thí nghiệm đó mà còn khám phá ra được nhiều điều mới lạ. Năm 42 tuổi, Franklin cắt nghĩa được sự phân phối điện tích ở chai Leyde. Sang năm sau, ông lập bảng nhận xét về các đặc điểm chung giữa điện và sét. Ngày nay người ta còn nhắc lại thí nghiệm về sét bằng chiếc diều của ông. Franklin vẫn quan niệm rằng sự phát điện từ chai Leyde cũng giống như sét đánh, song với một cường độ nhỏ hơn nhiều. Oâng tìm cách chứng minh. Nhân một ngày có bão, Franklin cùng con trai là William mang một chiếc diều ra thả. Cuối sợi dây diều, ông buộc một chiếc chìa khóa bằng các dải lụa. Bỗng nhiên ông nhận thấy các sợi của dải lụa tách ra như có một sức đẩy chúng xa nhau. Khi để ngón tay gần đầu nhọn của chiếc chìa khóa, một tia lửa bật ra và ông cảm thấy bị điện giật. Thí nghiệm này đã khiến ông kết luận rằng sét thường bị hút bởi các đầu nhọn bằng kim loại và ông tìm ra rằng các đám mây thường chứa điện âm. Khi thử lại với chai Leyde, Franklin thấy cùng kết quả. Ông lại có thể tiếp điện cho chai Leyde bằng điện của bầu trời. Thật là may mắn cho Franklin đã không bị sét đánh trong cuộc thí nghiệm táo bạo đó mà ông không biết, bởi vì về sau, Giáo Sư Richman thuộc Đại Học St. Petersbourg khi làm lại thí nghiệm của ông đã bị thiệt mạng. Năm 44 tuổi, sau khi đã hiểu rõ về sấm sét, Franklin đã phát minh ra cột thu lôi. Ông dựng ngay trên nóc nhà của mình một cột rồi sau lại cải tiến thêm. Franklin phổ biến phát minh này bằng một bài đăng trong quyển niên lịch của mình. Cũng năm này, Franklin được bầu vào Nghị Viện Pennsylvania. Franklin luôn luôn nghĩ tới việc khai hóa dân chúng. Đối với ông, Hội Triết Học không đủ. Ông cho xuất bản cuốn sách mỏng : "Các đề nghị liên quan tới vấn đề giáo dục các thanh niên ở Pennsylvania", nhờ vậy chương trình học đã được sửa đổi và nhà trường đã bắt đầu dạy tiếng La Tinh, Hy Lạp và Toán Học. Franklin được bầu làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị các trường Trung Học Pennsylvania. Philadelphia khi đó không có cơ sở đào tạo nền giáo dục cao cấp vì thế ông đã giúp tay vào việc thành lập Viện Hàn Lâm (the Academy) mà sau này là trường Đại Học Pennsylvania. Kết quả của các chương trình giáo dục và thư viện của Franklin đã giúp cho Pennsylvania trở nên một địa phương tiến bộ nhất trong 13 xứ thuộc địa thời bấy giờ. Vào năm 1751, một người trong thành phố nghĩ đến việc lập ra một bệnh viện công cộng và một nhà tế bần, Franklin liền bắt tay ngay vào công tác thực hiện hai chương trình này. Tháng 8 năm 1752, Franklin gửi cho ông Collison, nhân viên Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc những kết quả về các phát minh của mình. Tài liệu đó được đọc trước Hội Khoa Học vào tháng 12. Mọi nhà khoa học đều trầm trồ khen ngợi ông. Cuốn sách "Thí nghiệm và nhận xét về điện học" của ông được xuất bản tại London và năm sau, được dịch sang tiếng Pháp và in tại Paris. Franklin cũng phát minh ra loại kính đeo mắt hai tròng (bifocal eyeglasses) nhờ đó kính đọc sách và kính nhìn xa được ghép chung vào một gọng kính. Ông cũng nhận thấy bệnh tật phát sinh nhiều tại các căn phòng kém thoáng khí và ông cũng chỉ dẫn cho dân chúng cách cải thiện đất đai có acít bằng vôi bột (lime). Năm 47 tuổi, Franklin được Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc trao tặng huy chương vàng Copley và Vua Louis 15 đích thân khen ngợi ông về các phát minh điện học. Các trường đại học Harvard và Yale tặng ông bằng cấp Cử Nhân Danh Dự. Ông lại được đề cử làm Tổng Giám Đốc Bưu điện và đã giữ chức vụ này trong 21 năm liền. Mùa xuân năm 1754, khi đó Franklin 48 tuổi, đã xẩy ra cuộc chiến tranh giữa người Anh và người Pháp tại châu Mỹ. Franklin cho rằng các thuộc địa Bắc Mỹ nên đoàn kết lại để tự bảo vệ chống lại người Pháp và sự quấy nhiễu của thổ dân da đỏ. Ông đã cho in tấm hình hài hước nổi tiếng có tên là "Tham gia hay là chết" (Join or Die) trên báo của minh. Tấm hình này vẽ một con rắn bị chặt ra thành nhiều khúc, tượng trưng cho các thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã đề nghị Chương Trình Liên Bang (Plan of Union) tại hội nghị 7 xứ thuộc địa họp tại Albany, New York. Theo chương trình này, 13 xứ thuộc địa nên cùng nhau họp lại thành "một chính phủ tổng quát" (one general government). Chương trình liên bang đó đã chứa đựng các ý tưởng mà sau này có trong Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Các đại biểu tại Hội Nghị Albany đã đồng ý với chương trình của Franklin nhưng các thuộc địa đã không đồng lòng phê chuẩn. Rồi chiến tranh đã khiến Franklin phải chú ý đến phạm vi quân sự. Đầu năm 1755, Tướng Edward Braddock và hai trung đoàn quân Anh tới Bắc Mỹ với lệnh chiếm lại căn cứ của người Pháp tại Fort Duquesne, là nơi hội tụ của hai giòng sông Allegheny và Monogahela. Đội quân Anh đã gặp khó khăn trong việc tìm mua ngựa và các toa xe. Franklin đã giúp công vào việc trang bị này. Nhưng rồi quân Pháp và dân da đỏ đã phục kích đoàn quân Anh tại các bờ sông Monogahela và tướng Braddock tử trận, đoàn quân Anh hầu như bị tiêu diệt. Lúc này, Franklin đã lo việc thành lập đội quân tình nguyện địa phương để bảo vệ các thành phố biên giới, ông được đề cử làm Đại Tá quân đội để chống nhau với người Pháp và dân da đỏ. Ông cũng là người đã trông coi xây dựng một pháo đài tại Weissport thuộc Carbon County, Pennsylvania. Năm 50 tuổi, Franklin đựơc đề cử làm ủy viên quân sự của địa hạt Northampton. Ngoài ra, ông còn được bầu làm Hội Viên Danh Dự của Hội Triết Học Edinburg và nhân viên Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc, một danh dự ít khi dành cho một người sống tại xứ thuộc địa. Chính khách nổi tiếng người Anh thời đó là William Pitt đã nói trước Viện Quý Tộc Anh (the House of Lords) rằng Benjamin Franklin là một nhà khoa học đáng được xếp ngang hàng với Isaac Newton. Oâng ta đã ca tụng Franklin là "một Danh Dự không chỉ dành cho nước Anh mà còn cho bản chất của con người" (an honor not to the English nation only but to human nature). 4- Nhà Ngoại Giao. Cuộc chiến tranh với nước Pháp đã khiến cho Anh Quốc phải chi tiêu quá nhiều. Anh Quốc liền bắt các xứ thuộc địa phải gánh thêm phí tổn. Tất cả các đất đai đều phải chịu thuế. Vì vậy Nghị Viện Philadelphia liền cử Franklin sang nước Anh năm 1757. Tới London, khi xin bãi bỏ thuế không được, Franklin liền đưa ra một đề nghị theo đó các đất đai chưa đo đạc được miễn thuế. Đề nghị căn cứ trên sự công bằng của ông đã được phê chuẩn. Đây là thắng lợi đầu tiên của ông tại nước ngoài. Franklin đã ở Anh Quốc và hoạt động như một đại sứ không chính thức và cũng là người phát biểu các quan điểm của lục địa châu Mỹ. Đầu năm 1760, sau khi cuộc chiến tranh với người Pháp và dân da đỏ chấm dứt, đã có một cuộc tranh luận lớn lao tại nước Anh. Người Pháp bị thất trận nên đã bằng lòng nhường lại cho nước Anh hoặc là một tỉnh thuộc Canada, hoặc là hòn đảo Guadeloupe trong quần đảo Tây Aán (West Indies). Vào lúc cao điểm của cuộc tranh luận, Franklin đã cho phổ biến một tập sách mỏng so sánh một cách sáng suốt tương lai vô bờ của xứ Canada so với sự không quan trọng của hòn đảo Guadeloupe. Việc làm này đã khiến cho tại châu Aâu và châu Mỹ, nhiều người đã đọc kỹ tập sách của Franklin. Vài sử gia tin rằng do ảnh hưởng của tập sách này mà nước Anh đã chọn Canada. Mùa hè năm 1762, Franklin trở về Bắc Mỹ. Ông được hoan hô nhiệt liệt và được bầu vào Nghị Viện Philadelphia. Vài năm sau Franklin lại sang nước Anh để tranh đấu cho việc ký kết văn kiện về Bưu Điện. Vào ngày 13 tháng 2 năm 1766, Franklin ra trước Hạ Viện Anh (the House of Commons) để trả lời 174 câu hỏi liên quan tới việc "đánh thuế mà không có đại diện". Các nghị viên Hạ Viện Anh đã chất vấn ông trong gần hai giờ và ông đã trả lời vừa vắn tắt, vừa rõ ràng. Kiến thức về các vấn đề đánh thuế của ông đã làm cho mọi người phải ngạc nhiên và danh tiếng của ông vì thế đã vang lừng khắp châu Aâu. Đạo luật về Tem Thuế (the Stamp Act) đã bị hủy bỏ sau đó và phần lớn công lao là của ông. Franklin đã là một người không những chỉ tranh đấu cho riêng miền Pennsylvania mà còn cho cả châu Mỹ. Vào năm 60 tuổi, Franklin được bầu làm hội viên ngoại quốc của Hội Khoa Học Đức Quốc tại Gottingen, và Hàn Lâm Viện Pháp Quốc chọn ông làm một trong 8 hội viên nước ngoài, lúc đó ông 66 tuổi. Khi các liên lạc chính trị giữa Anh Quốc và các thuộc địa trở nên xấu đi, Franklin vẫn muốn các thuộc địa châu Mỹ nằm trong đế quốc Anh nếu các quyền lợi của người dân thuộc địa được tôn trọng và bảo vệ. Ông sẵn sàng dùng tài sản của mình để bồi thường cho số trà bị phá hủy tại Boston (the Boston Tea Party) nếu chính quyền Anh hủy bỏ các thuế trà không công bằng. Nhưng người Anh đã làm ngơ trước đề nghị của ông, vì thế ông thấy mình không còn hữu ích nữa và ngày 21 tháng 3 năm 1775, Franklin buồn bã xuống tầu trở về châu Mỹ. Ông đã làm đủ mọi cách để giữ cho các thuộc địa châu Mỹ nằm trong đế quốc Anh trên căn bản thiện chí và tôn trọng lẫn nhau. Franklin về tới Philadelphia vào ngày 5 tháng 5 năm 1775, vào khoảng hai tuần lễ sau khi cuộc chiến tranh Cách Mạng bắt đầu. Ngày hôm sau, dân chúng Philadelphia đã chọn ông làm đại biểu phục vụ trong Quốc Hội Lục Địa Kỳ II (the Second Continental Congress). Ông Franklin ít khi tuyên bố tại Quốc Hội song ông là một trong các nhân vật tích cực và có ảnh hưởng nhất. Ông đã đề nghị Chương Trình Liên Bang (Plan of Union) trong đó có chứa đựng các ý tưởng căn bản dùng cho các điều khoản của Liên Bang Bắc Mỹ (Confederation). Franklin cũng giúp việc trong một ủy ban đi qua Canada để thuyết phục người Pháp tại đó tham gia vào cuộc chiến tranh Cách Mạng nhưng cuộc vận động này không thành. Năm 1776, Benjamin Franklin được đề cử cùng với Thomas Jefferson và John Adams thảo ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và ông cũng là một trong các nhân vật ký tên vào bản văn quan trọng này. Lúc bấy giờ, cuộc chiến tranh với người Anh chưa mang lại các thành quả tốt đẹp và vì Quốc Hội cho rằng việc đồng minh với nước Pháp có thể đưa tới thắng lợi nên Quốc Hội đã đề cử Franklin làm một trong ba ủy viên đại diện cho Hoa Kỳ tại nước Pháp. Cuối năm 1776, ở tuổi 70, Benjamin Franklin đã lãnh một nhiệm vụ quan trọng nhất trong đời ông. Oâng đã tới đất Pháp và được chào đón nồng nhiệt. Dân chúng Pháp đã mến phục ông vì lòng tử tế, cách phục sức đơn giản, cử chỉ bình dị, trí óc khôn ngoan và các lời nói sáng suốt cũng như cách đối xử lịch thiệp với cả giới quý tộc lẫn giai cấp bình dân. Các đám đông đã đi theo ông trên đường phố. Các nhà thơ đã làm các bài ca tụng ông. Chân dung và tượng của ông được đặt tại nhiều nơi. Mặc dù có tình cảm với ông Benjamin Franklin nhưng chính quyền Pháp thời đó còn rất do dự trong việc ký hiệp ước đồng minh với các thuộc địa Bắc Mỹ, vì một việc làm như vậy sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Anh. Tuy nhiên, với sự lịch thiệp, tài khôn khéo và tính kiên nhẫn, Franklin đã lấy dần được lòng tin tưởng của nước Pháp. Và cuối cùng vận may của ông đã tới khi đội quân Anh của Tướng John Burgoyne đầu hàng tại Saratoga. Thắng lợi của người Mỹ đã khiến cho nước Pháp ký kết hiệp ước đồng minh vào ngày 6 tháng 2 năm 1778. Sau đó, Franklin đã xếp đặt việc chuyên chở các sĩ quan, binh lính Pháp và súng đạn qua Bắc Mỹ. Franklin cũng mượn được tiền vay và xin được tiền tặng chuyển về cho Hoa Kỳ. Nhiều sử gia cho rằng nếu không có Benjamin Franklin, người Mỹ chưa chắc đã giành được độc lập. Năm 1778, Benjamin Franklin được chỉ định làm bộ trưởng tại Pháp. Ông đã giúp công vào việc soạn thảo Hiệp Ước Paris là thứ đã làm chấm dứt cuộc chiến tranh Cách Mạng. Hiệp ước này đã hứa dành cho quốc gia non trẻ Hoa Kỳ mọi thứ cần thiết và Franklin đã là một trong các nhân vật ký nhận Hiệp Ước Paris vào năm 1783, và từ hiệp ước này, nền độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được công nhận. Từ năm 1776 tới năm 1785, Franklin sống ở ngoại quốc và luôn luôn mang thắng lợi về cho đất nước. Ngoài ra, các vinh dự vẫn tới tấp đến với ông. Hàn Lâm Viện Y Học Paris mời ông làm hội viên. Ông cũng là nhân viên của Hàn Lâm Viện Mỹ Thuật và Khoa Học Boston, là một trong 24 nhân viên ngoại quốc của Hàn Lâm Viện Khoa Học, Văn Chương và Mỹ Thuật Padoue, hội viên Hàn Lâm Viện Lịch Sử Madrid, hội viên danh dự Hội Văn Chương và Triết Học Manchester cũng như tại Hội Vật Lý, Vạn Vật và Mỹ Thuật Orleans, tại Hàn Lâm Viện Khoa Học, Mỹ Tự và Mỹ Thuật Lyons. Hơn nữa, các tác phẩm của ông in tại các nước Anh, Đức, Pháp, Ý đã mang lại cho ông các danh vọng vô bờ. 5- Nhà Lập Quốc. Năm 1785, Benjamin Franklin trở lại Philadelphia và được cử làm chủ tịch của Hội Đồng thành phố này, rồi lại được bầu làm Thống Đốc Tiểu Bang Pennsylvania. Ông được bầu lại vào chức vụ sau này vào những năm 1786 và 1787. Ngoài ra, Franklin còn có công trong việc phản kháng chế độ nô lệ tại châu Mỹ. Năm 80 tuổi, Franklin vẫn còn hoạt động. Hồi đó các tầu biển chạy từ Falmouth ở nước Anh tới New York mất hai tuần lễ lâu hơn nếu không theo con đường London-Rhode Island. Các chủ tầu không biết tại sao như vậy, và đã đề nghị chỉ cho tầu đến Rhode Island mà không tới New York trong khi 2 nơi này chỉ cách nhau một ngày đường. Nhiều người đã cầu cứu đến Franklin. Ông liền tìm gặp các thuyền trưởng nên được biết rằng có một dòng nước chảy từ mạn dưới lên mà người ta chưa được biết rõ lắm, đó là dòng Gulf Stream. Franklin liền nghiên cứu dòng nước này : nào đo bề rộng, chiều sâu, đo nhiệt độ, sức chảy… Franklin khuyên các tầu bè nên lợi dụng dòng nước để cuộc hành trình được nhanh chóng hơn. Năm 1787, xứ Pennsylvania đã đề cử Benjamin Franklin, 81 tuổi, tới họp Hội Nghị Lập Hiến (Constitutional Convention). Các đại biểu đã gặp nhau tại Sảnh Đường Độc Lập và thảo ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Vào lúc này, Franklin là đại biểu cao tuổi nhất của Hội Nghị. Sức khỏe yếu kém và tuổi cao đã không cho phép ông tích cực tham gia vào các hoạt động nhưng sự khôn ngoan, hiểu biết của ông đã giúp cho Hội Nghị tiến hành. Franklin đã dàn xếp được các cuộc tranh luận về quyền đại biểu tại Quốc Hội của các tiểu bang lớn và nhỏ. Sự dung hòa của ông đã là nguyên do thành lập một quốc hội lưỡng viện. Dịp tham dự Hội Nghị Lập Hiến là lần phục vụ công ích cuối cùng của ông, song tuy cao tuổi, ông vẫn quan tâm tới các công việc quốc gia. Ông rất sung sướng khi thấy ông George Washington nhậm chức Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Ông đã hi vọng rằng gương mẫu của Hiệp Chủng Quốc Bắc Mỹ có thể dẫn tới một hiệp chủng quốc khác tại châu Âu. Benjamin Franklin qua đời tại Philadelphia vào đêm 17 tháng 4 năm 1790 vì bị sưng phổi, thọ 84 tuổi. Vào khoảng 20 ngàn người đã tôn kính ông trong buổi tang lễ. Ông được chôn trong nghĩa địa của nhà thờ Christ Church tại Philadelphia, bên cạnh vợ ông chết năm 1774. Benjamin Franklin được kể là một trong 6 công dân hàng đầu của nước Mỹ. Chân dung của ông xuất hiện trên các tem thư, tiền đồng và tiền giấy của Hoa Kỳ. Hai tổng thống Hoa Kỳ đã hãnh diện mang tên của ông: Franklin Pierce và Franklin D. Roosevelt. Thành phố Philadelphia cũng tưởng nhớ người Công Dân lừng danh nhất. Một sân vận động của Đại Học Pennsylvania đã được đặt bằng tên của ông, ngoài ra còn có Công Viên Franklin, Viện Franklin với bức tượng tạc ra do nhà điêu khắc James Earl Frase. Vào năm 1790, khi được tin ông Benjamin Franklin qua đời, Quốc Hội nước Pháp quyết định để tang ba ngày và Bá Tước Honoré de Mirabeau đã ca tụng "Nhà Hiền Triết mà cả hai lục địa đều cho là của mình" (the sage whom two worlds claims as their owns). Còn Quốc Hội Hoa Kỳ chịu tang một tháng để tỏ lòng kính cẩn một Công Dân đã có công lớn đối với Quốc Gia, với Khoa Học, với Tự Do và với Nhân Loại.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 4:39:05 GMT 9
William Edward Boeing William Edward Boeing (1881-1956) người sáng lập hãng máy bay Boeing Airplane Co William E. Boeing sinh năm 1881 trong gia đình buôn bán đồ gỗ. Sau khi học lái máy bay thủy phi cơ Curtiss năm 1914, ông nghĩ rằng có thể chế ra một máy bay tốt hơn. Với sự giúp đỡ của một sĩ quan Hải quân, kỹ sư George Conrad Westervelt và là người thiết kế cho hãng xe B&W, Boeing chế ra thủy phi cơ B&W. Tháng 7 năm 1916, Boeing thành lập hãng Pacific Aero Product và sau đó đổi tên thành hãng máy bay Boeing Airplane Co tháng 4 năm 1917. Trong thời chiến tranh, hãng đã sản xuất những máy bay tác chiến cho US Air Force và US Navy và những máy bay thương mại và cho đến ngày nay... Như huyền thoại công nghiệp máy tính Bill Gates, William E. Boeing cũng bỏ dở đại học. Bắt đầu sự nghiệp trong khi hoàn toàn không biết gì về cơ khí máy bay, William E. Boeing đã dựng lên một doanh nghiệp mà sau này trở thành nhà sản xuất máy bay đứng đầu thế giới. Sinh năm 1881 trong gia đình một doanh nhân công nghiệp gỗ giàu có, William E. Boeing nghỉ ngang Đại học Yale năm 1903 và theo đuổi con đường kinh doanh như cha. Với công ty gỗ tại bang Washington, Boeing làm ăn thành công. Vài năm sau, khi học lái máy bay tại Los Angeles, Boeing bắt đầu mê hàng không. Từ lần đầu tiên lái máy bay năm 1914, Boeing bị ám ảnh bởi giấc mơ tự mình chế tạo con chim sắt. Tin rằng có thể làm ra chiếc máy bay tốt nhất thời điểm đó, Boeing mời kỹ sư George Conrad Westervelt (người thiết kế cho hãng xe B&W) dựng bản vẽ mô hình thuỷ phi cơ. Từ thành công trên, Boeing quyết định thành lập công ty Pacific Aero Products và sau đó đổi tên thành công ty máy bay Boeing. Năm 1917, khi biết hải quân Mỹ cần máy bay cho Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt là thuỷ phi cơ, Boeing gửi máy bay của mình đến Florida để hải quân Mỹ thử nghiệm. Kết quả, đơn đặt hàng đầu tiên với 50 thuỷ phi cơ ra đời. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc và quân đội Mỹ giảm nhu cầu máy bay, William E. Boeing phải trở lại nghề mộc (sản xuất nhiều mặt hàng sinh hoạt, giường, tủ, thuyền...). Dù vậy, hàng không vẫn là đam mê lớn nhất của Boeing. Ông tiếp tục đổ dồn công sức và thời gian cho nghiên cứu máy bay, đặc biệt là máy bay dân dụng. Ngày 3/3/1919, ông cùng phi công Eddie Hubbard bay trên chiếc máy bay thương mại đầu tiên (được đặt tên B-1), từ Seattle (Mỹ) đến Vancouver (Canada), thiết lập tuyến bay thư tín quốc tế đầu tiên trên thế giới. Năm 1927, Boeing vượt qua tất cả đối thủ và giành được hợp đồng phát thư giữa San Francisco và Chicago. Để đáp ứng nhu cầu vận chuyển thư tín tăng nhanh, Boeing sản xuất máy bay vận tải 40-A và thành lập Boeing Air Transport (BAT). Cuối thập niên 1920, Boeing đã trở thành một trong những công ty đứng đầu Mỹ về sản xuất máy bay. Năm 1934, khi chính phủ Roosevelt thông qua luật chống độc quyền (cấm các hãng vận chuyển thư tín hàng không nằm trong cùng công ty sản xuất máy bay), hoạt động thư tín hàng không của Boeing bị huỷ và Boeing phải chia doanh nghiệp thành nhiều công ty nhỏ. Dù vậy, trước khi qua đời năm 1956, Boeing đã xây dựng được một vương quốc khổng lồ, đưa công ty mình bước vào kỷ nguyên hàng không phản lực, đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi Boeing tung ra hàng trăm máy bay ném bom B-17 Flying Fortress và sau đó là B-52 Stratofortress. Đến nay, Boeing vẫn là nhà sản xuất máy bay lớn nhất thế giới. Công ty không chỉ chế tạo máy bay dân dụng mà còn sản xuất nhiều sản phẩm kỹ thuật quân sự, từ máy bay chiến đấu F/A-18 Hornet, trực thăng AH-64 Apache đến tên lửa Harthingy... Ở lĩnh vực hàng không dân dụng, Boeing tiên phong tung ra dòng máy bay jumbo (khổng lồ) với các thế hệ 727, 737, 747... Ở lĩnh vực không gian, Boeing chính là nơi sản xuất tên lửa đẩy Saturn đưa tàu vũ trụ Apollo lên mặt trăng... Thế giới mới
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 4:42:12 GMT 9
Ernest M. Hemingway
Vietsciences- Phạm Văn Tuấn 1/ Tiểu sử Ernest Miller Hemingway là người con thứ hai trong số 6 người con của bác sĩ Clarence Edmonds Hemingway và bà Grace Hall Hemingway, chào đời vào ngày 21 tháng 7 năm 1899 tại Oak Park, gần thành phố Chicago, thuộc tiểu bang Illinois. Mẹ của Ernest là bà Grace, là một người ngoan đạo, có tài về âm nhạc nên đã muốn cho Ernest phát triển năng khiếu này nhưng đối với bà Grace, Ernest Hemingway là một nỗi thất vọng. Cậu thiếu niên này được học âm nhạc, tập hát và tập đàn hồ cầm (cello) nhưng mỗi khi mẹ đi vắng, Hemingway đã cùng các bạn chuyển căn phòng tập nhạc thành võ đài đấu quyền Anh. Bản tính ưa chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người của Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ernest Hemingway theo học trường trung học Oak Park và trong thời gian còn đi học, đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Cuộc sống thời trẻ tuổi này đáng nhớ vì Ernest cùng với gia đình trải qua những mùa hè tại miền bắc của tiểu bang Michigan, bên hồ Walloon. Chính tại nơi thiên nhiên này, Ernest Hemingway đã thừa hưởng ở cha hai thú vui là săn bắn và câu cá, và những kỷ niệm thời thơ ấu đã tạo nên các ấn tượng trong Ernest và phản ánh sau này qua nhân vật Nick Adams như trong hai truyện ngắn "Trại Mọi Da Đỏ "(Indian Camp) và "Giòng sông đôi đường" (Big Two-Hearted River). Tại trường trung học, Ernest Hemingway tham gia môn bóng bầu dục và quyền Anh và cũng do môn thể thao sau này mà Hemingway bị thương tại mắt trái. Đây là lý do mà Ernest Hemingway bị quân đội Hoa Kỳ từ chối, không nhận nhập ngũ. Môn quyền Anh đã là một sở thích lâu dài của Hemingway, là chất liệu để ông viết ra các truyện ngắn với những danh từ trong nghề. Năm 1917, Ernest Hemingway tốt nghiệp trung học và vì không muốn bước lên đại học, nên tới thành phố Kansas, làm phóng viên cho tờ báo "Ngôi Sao" (Star). Cuộc đời phóng viên trong nước đã không hấp dẫn Ernest Hemingway được lâu, bởi vì ông đang hướng về châu Âu là nơi đang xẩy ra cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Do ưa thích mạo hiểm, Ernest Hemingway đã tình nguyện tham gia vào Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý, làm tài xế xe cứu thương. Vì Hội Hồng Thập Tự đã đặt các trạm cấp cứu gần nơi trận tuyến, công việc của Hemingway là lái xe và phân phối cho binh lính các gói kẹo và thuốc lá. Hemingway đã ghi lại như sau : "mỗi buổi chiều và buổi sáng, tôi bỏ đầy đồ vật vào túi đeo và mang theo hộp đồ ăn cùng mặt nạ hơi ngạt rồi chạy ra chiến hào, như thế là đủ vui rồi". Vào ngày 18-7-1918, khi chưa tròn 19 tuổi, Ernest Hemingway đã bị thương vì các mảnh đạn trái phá tại mặt trận Fossalta thuộc miền Piave nước Ý, giáp với nước Aùo. Mặc dù các vết thương, Hemingway còn cõng một binh lính người Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Trên đường đi, Hemingway lại bị quân địch bắn 2 tràng đạn liên thanh, vào đầu gối và vào chân. Hemingway được chữa trị tại bệnh viện Milan, được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Các kinh nghiệm trên chiến trường, những đau khổ do các cuộc tàn sát gây nên đã cung cấp cho Ernest Hemingway những hiểu biết để sau này viết ra tác phẩm "Giã Từ Vũ Khí" (A Farewell to Arms, 1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Trong thời gian nằm dưỡng bệnh, Hemingway đã đam mê cô y tá người Mỹ tên là Hannah Agnes von Kurowsky. Hai người đã trao đổi với nhau một số thư từ nhưng vì cô Agnes cao tuổi hơn và muốn tận tụy với nghề y tá, nên mối tình của hai người dần dần phai lạt. Hemingway trở về Hoa Kỳ và nàng Agnes ở lại. Sau khi đã yêu một người Ý, nàng Agnes biên thư cho Hemingway, yêu cầu ông hãy quên đi những gì đã xẩy ra, thế nhưng Hemingway vẫn giữ mãi các bức thư tình trong suốt cuộc đời. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, Ernest Hemingway trở về Hoa Kỳ và sinh sống tại miền bắc của tiểu bang Michigan. Ông bắt đầu đọc sách, câu cá và viết truyện. Hemingway đã làm một số công việc bình thường tại Chicago và nhờ nơi này, làm quen với nhà văn Sherwood Anderson. Năm 1921, Hemingway kết hôn với cô Hadley Richardson rồi hai người dọn qua thành phố Paris vì Hemingway nhận chân phóng viên cho tờ báo Ngôi Sao Toronto (the Toronto Star). Do bức thư giới thiệu của Sherwood Anderson, Hemingway làm quen với các nhà văn lưu lạc người Mỹ như F. Scott Fitzgerald, Ezra Pound và Gertrude Stein. Cũng tại nhà của nữ văn sĩ Gertrude Stein mà Hemingway quen biết nhiều tác giả và nghệ sĩ, và cũng chính Gertrude Stein bình phẩm về giới nhà văn trẻ là một "thế hệ lạc lõng" (the lost generation). Đây là lời nhận xét đặc biệt mà về sau, Hemingway đã dùng trong cuốn tiểu thuyết chính đầu tiên, cuốn "Mặt Trời vẫn còn mọc" (The Sun also rises), xuất bản năm 1926. Danh từ "thế hệ lạc lõng" đã mang một ý nghĩa đối với các độc giả của Hemingway. Đó là các thái độ của thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt của các nhà văn trẻ bởi vì cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho đời sống hóa thành vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Vào năm 1927, Ernest Hemingway ly dị với người vợ thứ nhất, rồi cũng vào năm này, lại kết hôn với cô Pauline Pfeiffer, một nhà văn của tạp chí Vogue. Hai người dọn nhà qua Key West, thuộc tiểu bang Florida vào năm 1928. Một sự việc gây chấn động tới Hemingway vào năm này là cuộc tự sát của người cha, bởi vì ông Clarence Hemingway đã tuyệt vọng vì bệnh cao huyết áp và bệnh tiểu đường. Ý tưởng về tự sát đã phản ánh qua các bài viết của Hemingway, qua tư tưởng của nhân vật Robert Jordan trong cuốn tiểu thuyết "Vì ai, hồi chuông báo tử" (For Whom the Bell Tolls) xuất bản vào năm 1940. Hãng Phim Paramount Pictures đã mua bản quyền của cuốn truyện này với giá cao kỷ lục vào thời bấy giờ là 150,000 mỹ kim cộng thêm điều kiện do Hemingway đặt ra, là các tài tử chính trong phim phải do Gary Cooper và Ingrid Bergman phụ trách. Trong thời gian còn làm phóng viên nước ngoài tại thành phố Paris, Ernest Hemingway đã lưu tâm tới tình hình chính trị của nước Tây Ban Nha dưới triều đại Vua Alfonso-12. Hemingway đã thăm viếng xứ này vào mùa hè năm 1931 sau khi chế độ quân chủ bị lật đổ và ông đã tiên đoán rằng cuộc nội chiến sẽ xẩy ra vào năm 1935. Tới khi cuộc nội chiến bùng nổ thực sự, Ernest Hemingway bắt đầu viết và đọc các bài diễn văn từ năm 1936 để gây quỹ cho phe Cộng Hòa Tây Ban Nha. Năm 1937, Hemingway qua nước Tây Ban Nha để tường thuật về cuộc chiến bằng các bài viết cho Liên Hiệp các tờ báo Bắc Mỹ. Nhiều người trẻ từ Hoa Kỳ và từ các quốc gia khác cũng tham gia vào lực lượng Trung Thành (the Loyalists) để bảo vệ các lý tưởng dân chủ, nhưng cuối cùng nhà độc tài Francisco Franco đã thắng cuộc chiến. Vào năm 1940, Hemingway và Pauline đã ly dị nhau và Hemingway cưới nhà văn Martha Gelhorn. Hai người đi du lịch vòng quanh Trung Hoa rồi tới xứ Cuba định cư. Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Ernest Hemingway đã tình nguyện đóng góp với Hải Quân Hoa Kỳ bằng con thuyền đánh cá "Pilar" với công tác canh chừng các tầu ngầm Đức xuất hiện trong vùng biển Caribbean. Thế Chiến Thứ Hai diễn ra tại châu Âu đã lôi cuốn Ernest Hemingway, khiến ông trở thành một thông tín viên và trưởng ban châu Âu của Tạp Chí Collier. Do muốn tường thuật về cuộc chiến, Hemingway đã nhiều lần bay theo lực lượng Không Quân Hoàng Gia Anh trong các cuộc oanh tạc trên miền đất Pháp bị quân đội Đức chiếm đóng. Vào ngày 6-6-1944, Ernest Hemingway tham dự cuộc đổ bộ của quân đội Đồng Minh lên bờ biển Bắc Âu và có mặt khi thành phố Paris được giải phóng khỏi quân đội Đức Quốc Xã. Người ta còn kể lại rằng khi quân Đồng Minh tiến vào khách sạn Ritz tại Paris, họ đã thấy có tấm bảng ghi câu viết : "Ba đã chiếm khách sạn. Nhiều đồ uống dưới hầm rượu". "Ba" (Papa) là tên gọi vui đùa dành cho Ernest Hemingway. Sau một lần ly dị nữa vào năm 1944, Ernest Hemingway lại cưới cô thông tín viên của Tạp Chí Time tên là Mary Welsh. Sau chiến tranh, họ sống với nhau tại Venice rồi cuối cùng, quay về cư ngụ trong một nông trại gần Havana, thuộc xứ Cuba. Năm 1950, Ernest Hemingway cho xuất bản cuốn truyện "Qua sông và vào trong rừng" (Across the River and into the Trees) nhưng sáng tác này đã không thành công. Tới năm 1952, một tác phẩm khác của Hemingway đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, đó là cuốn "Ông Già và Biển Cả " (The Old Man and the Sea) và nhờ cuốn tiểu thuyết ngắn này, Ernest Hemingway được tặng giải thưởng văn học Pulitzer năm 1953. Vào tháng 1 năm 1954, Hemingway qua châu Phi để săn thú rừng và người ta đã loan tin ông bị tử nạn máy bay trong chuyến đi đó. Nhưng Hemingway đã sống sót, chỉ bị thương nặng về cột sống và nội tạng nhưng cũng nhân dịp này, ông được đọc những lời chia buồn thiện cảm. Cũng vào năm 1954, Ernest Hemingway nhận được Giải Thưởng Nobel về Văn Chương mà Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã trao tặng "vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Vào tuổi 60, chân dung của Ernest Hemingway với bộ râu bạc trắng, đã xuất hiện trên nhiều tờ báo và Hemingway vẫn còn là một con người mang nhiều sức sống. Người ta đã thấy ông đá các lon bia trống không lên cao trên con đường về nhà tại Ketchum thuộc tiểu bang Idaho. Nhưng, Ernest Hemingway thực ra không cảm thấy hạnh phúc. Ông đã điều trị và dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, thuộc thành phố Rochester, tiểu bang Minnesota. Ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Hemingway tự cảm thấy không còn duy trì được thứ sức mạnh của nam giới (the masculine vigor) nữa, một thứ hào hùng mà ông hằng vui hưởng. Vào buổi sáng Chủ Nhật, 2 tháng 7 năm 1961, Ernest Hemingway thức dậy sớm trong ngôi nhà tọa lạc tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho, đã nạp đạn vào khẩu súng săn hai nòng, đặt báng súng trên sàn nhà và đưa nòng súng vào đầu mình rồi bóp cò. Nhiều người danh tiếng trên thế giới đã tự sát, để lại mẩu giấy ghi rõ lý do, nhưng đối với Ernest Hemingway, đã không có lời trối trăn nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. Ernest Hemingway đã lập gia đình bốn lần, khi qua đời để lại ba người con trai. Ernest Hemingway dùng thể văn trong sáng, rõ ràng, với các câu văn phần lớn gồm danh từ và động từ, rất ít tính từ và trạng từ, lại dựa trên sự lặp lại và nhịp điệu để gây ra ấn tượng tác dụng. Hemingway đã mô tả một loạt các hành động bằng các câu văn ngắn, đơn giản, không dùng tới các lời phê bình theo tình cảm hay mang tính tu từ, ông tránh mô tả trực tiếp các cảm giác và tư tưởng của các nhân vật trong truyện và như vậy, tác giả chỉ cung cấp cho độc giả các sơ liệu của kinh nghiệm mà không đề cập tới quan điểm của người viết. Độc giả được cung cấp các tiếp xúc sát với thực tế. Hemingway đã quan niệm rằng nhà văn phải trình bày đề tài một cách chân thật do chính mình tham dự hay quan sát đề tài thật gần và cách làm như vậy mới chứng tỏ được hiểu biết chuyên môn của tác giả. Ông cũng dùng thể văn đối thoại đơn giản, tự nhiên và thể văn đặc sắc của Hemingway đã được nhiều nhà văn bắt chước trong Thế Kỷ 20. 2/ Tác phẩm: Novels: The Sun Also Rises (1920) The Torrents of Spring (1925) A Farewell to Arms (1929) Death in the Afternoon (1932) Winner Take Nothing (1933) Green Hills of Africa (1935) To Have and Have Not (1937) For Whom the Bell Tolls (1940) Across the River and Into the Trees (1950) The Old Man and the Sea (1950) Adventures of a Young Man (1962) A Moveable Feast (1964) Islands in the Stream (1970) The Dangerous Summer (1985) The Garden of Eden (1985) True at First Light (1999) Collections Three Stories and Ten Poems (poems) (1923) In Our Time (1925) Men Without Women (1927) The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories (1938) The Hemingway Reader (1953) The Snows of Kilimanjaro: And Other Stories (1961) The Nick Adams Stories (1972) The Complete Short Stories of Ernest Hemingway (1976) Anthologies Men at War: The Best War Stories of All Time (1942) Non fiction By-Line: Selected Articles and Dispatches (1967) Selected Letters 1917-1961 (1969) Hemingway on Fishing (2000) Anthologies containing stories by Ernest Hemingway Reading I've Liked (1946) Short stories The Snows of Kilimanjaro (1952) Books about Ernest Hemingway Ernest Hemingway and his World (1978) by Anthony Burgess
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 4:45:53 GMT 9
Mark TwainNhà văn khôi hài bậc nhất của Hoa Kỳ Vietsciences-Phạm Văn Tuấn Mark Twain (1835-1910) Các Cuộc Phiêu Lưu của Tom Sawyer (Mark Twain) Mark Twain là nhà văn khôi hài bậc nhất của Hoa Kỳ, là tiểu thuyết gia rất sáng tạo và hấp dẫn do nơi sinh của ông thuộc về miền đất được coi là trái tim của Hoa Kỳ, gần vùng biên giới và ngay tại bờ sông Mississippi và con sông lớn này đã nối hai miền bắc và nam. Mark Twain có tên thật là Sam Langhorne Clemens, chào đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1835 tại Florida, thuộc tiểu bang Missouri, và là đứa con thứ sáu. Cha của Sam là ông John Marshall Clemens là một luật sư, đã rời khỏi tiểu bang Virginia để sang định cư tại Missouri còn bà mẹ Jane Lampton Clemens là người từ tiểu bang Kentucky. Đây là một gia đình không giàu có nhưng cho các con được sống tự do, thoải mái. Vào thời kỳ đó, cả hai tiểu bang Missouri và Kentucky đều là tiểu bang duy trì chế độ nô lệ. Năm 1821, Missouri được nhận vào Liên Bang Hoa Kỳ. Khi lên 4 tuổi tức là vào năm 1839, gia đình của Sam Clemens dọn về Hannibal, một thị xã nhỏ nằm về phía tây trên bờ sông Mississippi. Hannibal cách thành phố lớn Saint Louis 120 dặm về phía bắc. Dân số của thị xã này vào khoảng 1,000 người, một nửa là nô lệ và những người da đen nào không có đủ giấy tờ đều bị bắt. Nhiều người nô lệ da đen bị bán cho các đồn điền thuộc phía Nam trong các tiểu bang như Louisianna, Georgia… Sam Clemens trải qua tuổi trẻ tại thị xã Hannibal, đã từng bơi lội trên sông, chơi đùa trong các cánh rừng hay trên các hòn đảo của giòng sông và đọc các cuốn truyện phiêu lưu mạo hiểm. Mississippi là một giòng sông rất lớn, nối miền bắc với các thành phố phía nam như Memphis và New Orleans, và do con sông Ohio hội nhập lại, người dân có thể đi tới Cincinnati và các thành phố khác thuộc miền đông. Từ các phong cảnh, kinh nghiệm và kỷ niệm với giòng sông này, tác giả Mark Twain đã viết ra nhiều tác phẩm danh tiếng. Năm 1847, người cha qua đời, Sam Clemens tới học nghề với người anh tên là Orion, người này có một nhà in và một tờ báo. Vào thời bấy giờ, thợ in không phải là một nghề kiếm nhiều tiền, Sam đã từng đi làm công tại nhiều thành phố như Keokuk hay New York, đã mơ tới xứ Nam Mỹ để đi tìm vàng, mơ tới các cách làm giàu nhanh chóng. Sam Clemens tới học nghề lái tầu với ông Horace Bixby vào năm 1857 và đã ưa thích nghề mới này hơn tất cả các nghề khác đã từng làm trước kia. Vào thời kỳ đó, thuyền trưởng lái tầu trên sông là một người đứng sau bánh lái và nhiều phong cảnh đẹp của giòng sông đã hiện ra trước mắt, thời gian khác nhau trong ngày lại có các cảnh trí khác nhau, với các khúc sông quanh co chứa nhiều phong cảnh thay đổi từ mùa này sang mùa khác. Các kinh nghiệm và kỷ niệm của quãng đời học nghề lái tầu này đã được tác giả Mark Twain mô tả trong cuốn truyện "Đời sống trên giòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi). Sam Clemens lấy được bằng lái tầu trên sông vào năm 1859 nhưng rồi Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ đã xẩy ra, khiến cho việc lưu thông trên sông Mississippi bị chấm dứt. Trong thời Nội Chiến, Sam Clemens đã tham gia vào Lực Lượng Quân Sự Miền Nam nhưng sau ba tuần lễ, đã đào ngũ, trốn đi theo nghề đào mỏ bạc tại tiểu bang Nebraska, rồi lang thang từ thị xã này qua thành phố kia và cuối cùng tới tiểu bang Nebraska, định cư tại thị xã Virginia City. Sam Clemens bắt đầu viết bài cho tờ báo Territorial Enterprise của thị xã này. Vào năm 1863, Sam Clemens dùng bút hiệu "Mark Twain", có nghĩa là "sâu 2 tầm", do từ các kỷ niệm lái tầu trên giòng sông Mississippi. Sau lần cãi nhau với chủ bút tờ báo, Mark Twain rời Nebraska và dọn qua tiểu bang California vào mùa xuân năm 1864. Từ năm 1865, danh tiếng đã tới với Mark Twain sau khi ông cho xuất bản cuốn truyện "Con Ech hay nhẩy của hạt Calaveras" (the Jumping Frog of Calaveras County). Khi công ty Tầu Thủy Thái Bình Dương (the Pacific Steamboat Company) khánh thành tuyến đường thủy giữa thành phố San Francisco và các hải đảo Hawaii, thời bấy giờ còn được gọi là các đảo Sandwich (the Sandwich Islands), Mark Twain được tờ báo The Sacramento Union phái đi làm phóng sự. Mark Twain đã viết một loại bài châm chọc các du khách. Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại (colloquial speech) vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài (humorist), chuyên chế riễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời và ông được xếp hạng cùng với các nhà văn như Bret Harte, Artemus Ward và Petroleum V. Nasby. Đây là các nhà văn rất nổi tiếng về các câu chuyện dân gian, viết bằng giọng văn có chứa đựng các thổ ngữ và nhiều chi tiết hài hước. Năm 1867, Mark Twain thực hiện một chuyến du lịch qua châu Âu và miền Đất Thánh Palestine bằng con tầu thủy Quaker City. Các bức thư kể về chuyến du lịch này, gửi cho tờ báo Alta California tại thành phố San Francisco và tờ báo New York Tribune tại thành phố New York, được gom lại và xuất bản vào năm 1869 thành cuốn truyện "Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài" (The Innocents Abroad). Qua cuốn này, Mark Twain đã chế riễu sự điên khùng của nhiều du khách Mỹ đã phải băng qua đại dương để đi coi các ngôi mộ của những người đã chết trong khi còn rất nhiều thứ đang sống, đáng coi hơn tại Hoa Kỳ. Tác giả Mark Twain cũng viết khôi hài về các cảnh nhìn thấy, về các tập quán nghịch lý của các quốc gia đã đi qua và so sánh Hoa Kỳ là một đất nước sống động, đang phát triển, trái ngược với châu Au là một miền đất đang thoái hóa, suy tàn. Tác phẩm của ông đã khiến ông nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng, đồng thời các nhà văn Miền Tây Hoa Kỳ không còn bị coi thường như trước kia. Do là một nhà văn nổi tiếng, Mark Twain kết hôn vào năm 1870 với cô Olivia Langdon, thuộc một gia đình giàu có và danh giá. Các kỷ niệm và cách tán tỉnh người đẹp của thời kỳ này được lưu dấu trong các bức thư mà Mark Twain viết cho Olivia và cho các bạn của cô nàng, rồi về sau thể hiện qua lối ve vãn của Tom đối với Becky trong tác phẩm "Tom Sawyer". Sau đám cưới 5 năm, Mark Twain rời gia đình về thành phố Elmira, thuộc tiểu bang New York, rồi dọn sang cư ngụ tại thành phố Hartford thuộc tiểu bang Connecticut vào năm 1871. Tại nơi sau này đã ra đời các người con của Mark Twain: con trai Langdon chết non vào năm 1872, sau đó là ba cô con gái Susy, Clara và Jean, chào đời trong các năm từ 1872 tới 1880. Vào năm 1874, gia đình Mark Twain dọn về một căn nhà sang trọng 19 phòng tại Hartford. Tại thành phố Hartford, Mark Twain đã làm quen được một số nhân vật trong giới văn học, trong số này có William Dean Howells là một tác giả danh tiếng và chủ nhiệm của nguyệt san "The Atlantic Monthly". Howells đã sớm nhận ra tài năng hài hước của Mark Twain, đã khuyến khích nhà văn trẻ phát triển biệt tài đó bằng cách cố vấn và trợ giúp bằng nguyệt san Atlantic. Trong 20 năm trường sống tại thành phố Hartford hay tại Quarry Farm gần thành phố Elmira, New York, Mark Twain đã viết rất nhiều và các bài viết được phổ biến qua các tạp chí văn học xuất bản tại hai thành phố Boston và New York. Sau cuốn "Sống thiếu thốn" (Roughing It) kể về cuộc đời của một người thợ mỏ và một nhà báo, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Mark Twain là "Thời Kỳ Vàng Son" (The Gilded Age, 1873). Tác giả đã viết cuốn này chung với Charles Dudley Warner, một người bạn và một nhà văn sống tại Hartford. Cuốn "Thời Kỳ Vàng Son" nói về các thập niên sau Cuộc Nội Chiến qua đó tác giả châm chọc tính ích kỷ và các cách kiếm tiền phổ thông của thời bấy giờ. "Các cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer, 1876) được coi là hồi ký của Mark Twain và tác giả mô tả Tom Sawyer, anh bạn Huck Finn và tên gian ác Injun Joe cũng như làng St. Petersburg nhờ các kỷ niệm sống tại Hannibal khi trước. "Đi nước ngoài" (A Tramp Abroad, 1880) được viết ra từ chuyến du lịch châu Au của tác giả vào năm 1878. Cuốn truyện này kể lại các chuyến đi qua các nước Đức, Thụy Sĩ và Ý và qua đó, tác giả đã pha trộn các truyền thuyết, chuyện kể, chuyện khôi hài và các nhân vật địa phương để chế riễu nhẹ nhàng các sách du lịch và nền văn hóa tại châu Au. "Hoàng Tử và kẻ nghèo" (The Prince and the Pauper, 1882) dùng khung cảnh nước Anh vào năm 1550, mô tả sự trao đổi nhân dạng giữa Hoàng Tử Edward-6 của nước Anh và đứa trẻ nghèo hèn tên là Tom Canty. Cuốn truyện này đã làm vừa lòng một số độc giả thuộc vùng Tân Anh Cát Lợi nhưng một số người khác lại bất mãn vì họ ưa thích loại truyện đã xuất bản trước kia. "Đời sống trên giòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi, 1883) mô tả về lịch sử, truyền thuyết, khung cảnh, con người của các con tầu thủy, của các thành phố dọc theo con sông Mississippi. Tác giả Mark Twain đã kể rõ về những ngày lái tầu của mình khi trước từ chương 4 tới chương 17. Các chương này trước kia đã được phổ biến trên nguyệt san Atlantic vào năm 1875 qua loạt bài "Thời xưa trên giòng sông Mississippi" (Old Times on the Mississippi). "Các cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn) được coi là tác phẩm danh tiếng nhất của Mark Twain, được xuất bản tại nước Anh vào năm 1884 và Hoa Kỳ vào năm 1885, và là phần tiếp của cuốn "Tom Sawyer". Cuốn truyện này mô tả các cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trốn nhà, là Huck Finn và một em nô lệ da đen tên là Jim. Tom Sawyer cũng xuất hiện lại trong một số chương với trò khôi hài cố hữu. Trong truyện, Mark Twain đã dùng thứ ngôn ngữ hiện thực (realistic language) thêm vào là nhiều loại thổ ngữ (dialects) làm cho sống động các nhân vật. Các lối hành xử thiếu đạo đức, lời nói vô hạnh nhất thời của nhân vật Huck Finn và cách dùng văn phạm thiếu thận trọng của tác giả trong tác phẩm, đã làm cho một số độc giả bất mãn. Thư viện công lập Free Public Library đã cấm cuốn truyện này vào năm 1885. Ngoài ra, một số độc giả còn phản đối Mark Twain vì cho rằng ông đã chấp nhận chế độ nô lệ, lời văn mang tính kỳ thị và đã dùng chữ "black person" (kẻ nô lệ dơ bẩn). Thực ra đối với thời bấy giờ, Mark Twain là một người tiến bộ về vấn đề chủng tộc và các chủ đề sâu xa viết về Huckleberry Finn đã bàn tới sự bình đẳng căn bản và khát vọng toàn cầu của mọi người thuộc mọi chủng tộc. Cuối cùng, tác phẩm "Người Mỹ trong Triều Đình của Vua Arthur" (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889) đã trình bày một nhân vật khác nhiều màu sắc. Đây là người đốc công trong xưởng kim loại từ Hartford, Connecticut, tên là Hank Morgan. Nhờ quỷ thuật, Morgan thấy mình được sống tại nước Anh vào khoảng năm 500 sau Tây Lịch, nên đã quyết định cải tổ xã hội Anh bằng cách đưa vào đó các lợi ích về kinh tế, trí thức và đạo đức của các năm 1800. Nhưng trước các cải cách và hoạt động từ thiện, đám đông quần chúng ngu dốt, cố vấn do giới Hiệp Sĩ và Tu Sĩ mê tín, đã nổi lên lật đổ Nhà Vua nước Anh. Qua các sự kiện xẩy ra trong truyện, tác giả đã gián tiếp chế nhạo các thái độ tôn kính của một số tác giả đối với các Hiệp Sĩ Bàn Tròn, đồng thời Mark Twain cũng đưa ra một số câu hỏi về giá trị của nền văn hóa đương thời tại Hoa Kỳ. Vào thập niên 1880, Mark Twain đã thiết lập và điều hành một công ty xuất bản cho riêng mình cũng như tìm cách đầu tư vào vài phạm vi thương mại khác, đặc biệt là việc chế tạo máy in do người phát minh tên là Paige. Trong các năm từ 1881 tới 1894, Mark Twain đã lỗ vốn gần 200,000 mỹ kim đầu tư vào thứ máy in kể trên, vì các thay đổi về kiểu mẫu, đặc tính đã đưa tới thất bại. Tháng 4 năm 1894, công ty ấn loát của Mark Twain phải tuyên bố phá sản rồi từ tháng 1 năm 1895, nhà văn bị ô danh vì không trả được nợ. Nhưng nhà văn đã tìm cách phục hồi tài sản bằng cách đi diễn thuyết, có khi thu được 1,000 mỹ kim mỗi lần và ông đã từng thực hiện nhiều chuyến đi được quảng cáo rầm rộ, tới cả các thành phố xa xôi thuộc An Độ, Nam Mỹ và châu Uc. Mark Twain kết bạn với các nhân vật danh tiếng, giàu có như Andrew Carnegie, William Rockfeller và được trao tặng các văn bằng danh dự tại Đại Học Yale vào năm 1901, Đại Học Missouri vào năm 1902 và Đại Học Oxford vào năm 1907. Tác giả Mark Twain là một nhân vật quốc tế, thường mặc bộ âu phục màu trắng mang vẻ phô trương, hút thuốc xì gà, với các bài nói chuyện hàm chứa nhiều chỉ trích xã hội một cách cay đắng và các bài văn này về sau được phổ biến qua các tác phẩm "Người ngồi trong bóng tối" (The Person sitting in the Darkness, 1901) và "Độc Thoại của Vua Leopold" (King Leopold 's Soliloquy, 1905). Sau khi đã phục hồi được các vấn đề tài chính vào năm 1898, Mark Twain lại gặp các thảm cảnh trong đời sống gia đình. Người con gái lớn nhất Susy qua đời vào năm 1896 vì bệnh đau màng óc trong khi cha mẹ và em Clara đang ở nước ngoài. Năm 1903, Mark Twain bán đi ngôi nhà thân thương tại Hartford vì những kỷ niệm về Susy. Tới ngày 5-6-1904, bà vợ Olivia cũng lìa đời vì bệnh tim rồi người con gái út tên là Jean, trước kia mắc bệnh kinh phong, cũng chết vào ngày 24-12-1909. Mặc dù các khó khăn tài chính và thảm cảnh gia đình trong các năm cuối đời, Mark Twain vẫn thu xếp để viết văn. Các tác phẩm cuối đời của ông gồm "Người Mỹ đòi quyền lợi" (The American Claimant, 1892) viết về một nhân vật không thực tế là đại tá Mulberry Sellers. Cuốn tiểu thuyết này được căn cứ vào vở kịch không thành công mà tác giả đã soạn ra cùng với nhà phê bình William Dean Howells vào năm 1883. Một tiểu thuyết trinh thám khác có tên là "Bi Kịch của Pudd'nhead Wilson" (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) bàn tới thành kiến chủng tộc (racial prejudice), một vấn đề quan trọng của xã hội Mỹ. "Nhớ về Joan of Arc" (Personal Recollections of Joan of Arc, 1896) là một cuốn tiểu sử (biography) dựa vào các tài liệu lịch sử. Mark Twain cũng kể lại những kinh nghiệm trong các chuyến đi diễn thuyết tại nước ngoài vào năm 1895, 1896 qua cuốn tiểu thuyết "Theo Đường Xích Đạo" (Following the Equator, 1897) trong khi cuốn truyện ngắn "Kẻ tham nhũng tại Hadleburg" (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899) đã chế riễu các nhà lãnh đạo tự phụ của một thành phố. Các tác phẩm của Mark Twain càng về sau, càng mất dần tính khôi hài của thời tuổi trẻ và bộc lộ cách nhìn bi quan hơn do tác giả nghi ngờ các loại tôn giáo, do tác giả nhận ra các động lực chính của con người là lòng ích kỷ. Đại Văn Hào Mark Twain qua đời vì bệnh tim vào ngày 21-4-1910, để lại nhiều bản thảo kể cả một cuốn tự thuật lớn và dở dang. Bản thảo của một tác phẩm bi quan xuất bản vào năm 1916 có tên là "Người xa lạ bí mật" (The Mysterious Stranger) đã mô tả cuộc viếng thăm của quỷ Sa Tăng tới một ngôi làng thuộc nước Ao vào thời Trung Cổ. Dù cho thất vọng trước cuộc đời, Đại Văn Hào Mark Twain vẫn nổi danh là một nhà văn khôi hài bởi vì ông đã nhìn thấy trong các hình ảnh rực rỡ và lãng mạn của xã hội, các tập quán và định chế giả hiệu, có gian ý, và ông đã dùng cách diễn tả quá đáng một cách hữu hiệu để công kích các thói đạo đức giả, các thái độ tự mãn của người đời, các bất công của xã hội. Ngoài các tác phẩm đặc sắc, một trong các đóng góp lớn lao của Đại Văn Hào Mark Twain là cách hành văn đặc biệt Mỹ, khác hẳn lối viết văn của các tác giả người Anh. Mark Twain là một trong các nhà văn Mỹ hạng nhất, một bậc thầy về ngôn ngữ theo hình thức tiêu chuẩn, chứa đựng thứ tiếng địa phương của Miền Tây Hoa Kỳ. Thể văn buông lỏng (loose rhythm of the language) trong các tác phẩm của Mark Twain đã cho người đọc cảm giác về lời nói thực sự (real speech) và lối hành văn hiện thực này đã ảnh hưởng tới nhiều nhà văn Mỹ khác, khiến cho Đại Văn Hào Ernest Hemingway đã có lần xác nhận rằng: "tất cả nền văn chương hiện đại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ … Huckleberry Finn" (all modern American literature comes from … Huckleberry Finn) Các Cuộc Phiêu Lưu của Tom Sawyer (Mark Twain) Bài đọc thêm Các tác phẩm của Mark Twain Fiction A Connecticut Yankee in King Arthur's Court A Horse's Tale Huckleberry Finn The Adventures of Tom Sawyer The Prince and the Pauper The Tragedy of Pudd'Nhead Wilson Non-fiction Life on the Mississippi Short Stories Italian with Grammar Italian without a Master A Telephonic Conversation Was it Heaven? Or Hell? A Helpless Situation The First Writing-machines The Five Boons of Life Edward Mills and George Benton: A Tale A Burlesque Biography The Californian's Tale A Dog's Tale Essays As Concerns Interpreting The Deity At The Shrine Of St. Wagner Concerning Tobacco The Death Of Jean Fenimore Cooper's Literary Offences How To Make History Dates Stick The Memorable Assassination On The Decay Of The Art Of Lying A Scrap Of Curious History A Simplified Alphabet Taming The Bicycle The Turning-point Of My Life William Dean Howells Poetry O Lord, Our Father
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:18:34 GMT 9
George Eastman (1854 - 1932) Nhà phát minh phim và máy ảnh Kodak Ngày nay tại khắp nơi trên thế giới, nếu mọi người được xem những hình ảnh thời sự trên các mặt báo, trong các tạp chí, nếu mọi sách giáo khoa chứa đựng nhiều tấm ảnh dẫn chứng cụ thể, nếu các bác sĩ có thể xem xét người bệnh bằng phim chụp do quang tuyến X và nếu mọi người giải trí nhờ những rạp chiếu bóng. . . thì tất cả các phát minh này đã được khai triển nhờ đức tính tận tụy của một thiên tài siêu việt trong ngành Nhiếp Ảnh, đó là ông George Eastman.Nhờ thiên tài sáng tạo của ông Eastman, cách chụp ảnh trước kia là một công việc phức tạp và khó khăn, đã trở nên dễ dàng và chỉ cần một động tác đơn giản là ấn vào một cái nút trên chiếc máy ảnh cầm tay, máy sẽ cơ động trong một phần trăm giây đồng hồ và người ta sẽ lấy được các hình ảnh rất trung thực. Phát minh của ông Geoge Eastman đã cải tiến ngành Nhiếp Ảnh, làm dễ dàng công việc ghi rõ hình ảnh của thế giới hiện tại để truyền lại cho thế giới tương lai. Phát minh của ông George Eastman còn giúp ích vào các công cuộc khảo cứu khoa học, từ việc nghiên cứu những đối tượng cực nhỏ như các vi trùng, các nguyên tử , tới các thiên thể cực lớn chẳng hạn các tinh vân khổng lồ. Ngành Nhiếp Ảnh còn được áp dụng vào Y Khoa, Kỹ Nghệ, Khoa Học, Giáo Dục, Nghệ Thuật và cả vào ngành Giải Trí. 1/ Thời niên thiếu. George Eastman là con của ông George Washington Eastman và bà Maria Kilbourn, chào đời ngày 12 tháng 7 năm 1854 tại làng Waterville, thuộc tiểu bang New York. Cha của George làm nghề ươm cây, đã bán lại cơ sở kinh doanh khi cậu bé George lên 6 tuổi, rời gia đình tới thành phố Rochester và mở một trường thương mại. Hai năm sau ông George qua đời, để lại một vợ, ba con gồm hai cô gái lớn và cậu trai út, tất cả sinh sống trong cảnh nghèo túng. Trong thời gian vất vả này, bà Eastman phải nấu cơm trọ để lấy tiên nuôi các con ăn học. Vào thời bấy giờ, cậu George là một học sinh rất chăm chỉ nhưng lại không giỏi hẳn về một môn học nào. Cậu là tay chơi dã cầu vào hạng khá. Cậu đã sáng chế được các món đồ chơi rất tỉ mỉ bằng những cây que đan cũ. Nhiều bạn học cùng lớp hỏi xin đồ chơi nhưng cậu nhất định không chịu tặng không. Cậu bảo bạn : "Nếu bạn ưa thích thứ đó, sao không mua đi? Giá chỉ có 10 xu thôi!". Và George đã bán được "sản phẩm" của mình. Cậu đã ghi lại số tiền kiếm được vào sổ tay, điều này chứng tỏ cậu có khuynh hướng về thương mại và suốt cuộc đời của cậu, George chỉ suy tính về các công việc chi thu mà thôi. Khi George lên 14 tuổi, gia đình Eastman lâm vào hoàn cảnh quá nghèo túng. Biết rõ cảnh khổ của mẹ, cậu xin thôi học, trở về giúp đỡ gia đình. Cậu tự nguyện sẽ đưa gia đình ra khỏi cảnh túng bấn. Cậu vận động và xin được chân tùy phái của một văn phòng bảo hiểm với số lương 3 mỹ kim một tuần lễ. Cậu làm việc rất cẩn thận và chu đáo. Xong việc tại sở, cậu George phải đi bộ hàng cây số để trở về giúp nhà làm các công việc vặt trong 6 hay 7 giờ nữa. Công việc tùy phái này kéo dài trong một năm trường, tới khi George xin được việc làm trong văn phòng của một hãng bảo hiểm khác. Nhờ óc sáng tạo, George được giao những công việc quan trọng hơn và lương bổng của cậu cũng tăng lên tới 5 mỹ kim một tuần lễ. Năm 1874, sau 5 năm làm việc tại hãng bảo hiểm, George Eastman được Ngân Hàng Rochester Savings nhận làm thư ký với tiền lương là 800 mỹ kim một năm. Tới lúc này, vì đời sống trở nên dễ chịu hơn, George bèn nghĩ tới việc giải trí. Cậu học tiếng Đức và tiếng Pháp, gia nhập hội thể thao và đôi khi còn mượn xe ngựa để mời vài bạn gái đi dạo chơi ngắm cảnh. Vào năm 24 tuổi sau một thời gian làm việc cực nhoc, George quyết định đi nghỉ hè để dưỡng sức. Do đọc các sách báo nói về miền Santo Domingo, George dự tính sẽ tới nơi này. Đây là lần đầu tiên đi nghỉ mát nên George phải bàn tính kỹ lưỡng chương trình du ngoạn với các bạn đồng nghiệp. Khi nghe George nói về những nơi sẽ viếng thăm, một người bạn tỏ lộ với George lời thèm muốn như sau : "Ước gì tôi được đi với anh ! Nhưng dù không được đi chăng nữa, nếu tôi được xem những hình ảnh do anh chụp và mang về thì cũng đủ vui thích rồi". Chính lời nói bất ngờ này đã dẫn dắt George Eastman vào ngành Nhiếp Ảnh. Eastman không định mang theo máy ảnh trong chuyến du ngoạn nhưng ông cho rằng lời nói của anh bạn là một ý kiến hay. Vì vậy ông đã bỏ ra 94.36 mỹ kim để mua một máy ảnh với dụng cụ đầy đủ. Vào thời bấy giờ, công việc chụp ảnh rất phức tạp. Nhà nhiếp ảnh phải dùng kính tráng một lớp thuốc và thứ kính này phải được chụp khi lớp thuốc còn ướt rồi rửa ngay sau đó. Vì thế khi bán máy ảnh, người ta cũng bán kèm những lọ thủy tinh đựng hóa chất, những khay, quặng (phễu), cân hóa chất và cả một chiếc lều vải dùng làm phòng tối. Khi nhớ lại các kỷ niệm xa xưa, ông George Eastman còn nói :"Nhà nhiếp ảnh tài tử không những chỉ cần một chiếc máy ảnh, mà còn cần tới cả một bộ đồ nghề trong đó chiếc máy ảnh chỉ là một phần nhỏ. Tôi cho rằng làm một anh thợ ảnh cần phải khỏe mạnh và còn phải can đảm nữa, vì mang bộ đồ nghề nhiếp ảnh chẳng khác nào mang bộ yên cương". Vì lý do riêng, Eastman không thể đi Santo Domingo được, ông liền dùng thời giờ nhàn rỗi vào việc tìm hiểu Nhiếp Ảnh. Khi đã hiểu biết tạm đủ về kỹ thuật, ông Eastman liền qua đảo Mackimac để chụp hình chiếc cầu thiên tạo. Eastman chọn một ngày nhiều nắng và mang máy ảnh ra xử dụng. Nhóm du khách thấy có thợ chụp ảnh liền sắp hàng trên cầu để được chụp. Họ coi Eastman đặt máy, ngắm nghía, vặn vật kính và theo dõi nhà nhiếp ảnh chạy lăng xăng từ lều ra máy với những tấm kính ướt. Hôm đó, trời nắng gắt nhưng nhóm người ưa thích được chụp ảnh vẫn kiên tâm đứng yên để Eastman làm đủ mọi động tác phức tạp. Tới khi Eastman rửa ra kính ảnh rồi, một người trong bọn hỏi mua thì ông Eastman trả lời : "những kính ảnh này không bán vì tôi chỉ là một người chụp ảnh tài tử". Tới lúc này, ông khách liền nổi nóng : "Anh điên hả? Tại sao anh bắt chúng tôi đứng hàng nửa giờ ngoài nắng trong khi anh chạy đi chạy lại lăng xăng, đáng lẽ anh phải treo tấm bảng ghi rõ anh là một người chụp ảnh tài tử chứ ?". 2/ Chế tạo kính ảnh. Các ngày nghỉ đã hết, Eastman khi trở lại ngân hàng thì đã thấu triệt được kỹ thuật của môn Nhiếp Ảnh thời bấy giờ. Do sự say mê chụp ảnh, Eastman thấy cần phải làm đơn giản các phương pháp rắc rối cũ. Ông tìm cách đọc các sách báo nói về Nhiếp Ảnh xuất bản tại nước Anh, rồi một tin tức đã khích động Eastman hơn cả là sự tìm ra kính khô. Nhờ phương pháp này người ta không cần phải chụp và rửa phim ngay tại chỗ và tốc độ thu hình trước kia từ 3 tới 4 giây, bây giờ được rút gọn còn 1 phần 25 giây. Ông Eastman đã theo đúng các công thức cho sẵn trong tờ tạp chí Anh để tự chế tạo kính ảnh. Lúc đầu ông chỉ dự tính chế tạo kính khô cho riêng mình dùng nhưng chẳng bao lâu, ông lại nẩy ra ý kiến chế tạo thật nhiều loại kính đó để bán ra ngoài. Ông tham khảo rất nhiều sách vở để tìm hiểu các phương pháp thí nghiệm và sản xuất. Ban ngày làm việc tại ngân hàng, đến tối ông bận rộn pha trộn và nấu thuốc ảnh trong bếp. Ông thường làm việc cho tới khi nào mệt lả. Có nhiều đêm, ông để nguyên cả quần áo mà ngả lưng trên ghế rồi ngủ cho đến sáng. Lòng lo sợ cảnh nghèo túng đã ám ảnh ông, nhất là khi gia đình ông lại gồm mẹ già và một người chị bị bại liệt nửa người. Ông Eastman đã làm việc không ngừng vì hai nguyên do : lòng yêu mến mẹ già và ý chí kiếm tiền. Vào tháng 4 năm 1880, ông Eastman thuê từng lầu thứ ba của một tòa nhà trên đường State trong thành phố Rochester, dùng làm nơi sản xuất kính ảnh sau khi đã xin bằng sáng chế để bảo đảm phương pháp chế tạo của mình. Eastman thôi việc tại ngân hàng khi Henry Strong, người khách trọ trong nhà của bà mẹ và cũng là nhà sản xuất roi đánh xe ngựa, bằng lòng bỏ ra năm ngàn mỹ kim làm vốn và hai người lập ra Công Ty Kính Khô Eastman. Lúc đầu, việc bán sản phẩm nhiếp ảnh chưa gặp khó khăn và mặc dù đã có 6 nhân viên, Công Ty Eastman vẫn phải mướn thêm người phụ giúp. Nhưng ít lâu sau, các người chơi ảnh phàn nàn rằng kính khô do Eastman sản xuất chưa nhạy lắm và các nhà buôn đã hoàn trả công ty một số kính ảnh bị hư hỏng vì lỗi kỹ thuật chế tạo. Trước tình thế này, vài người hùn vốn rút lui. Eastman và Strong quyết định qua nước Anh là nơi tiến bộ nhất về kỹ nghệ chế tạo dụng cụ nhiếp ảnh với hy vọng nhờ các chuyên viên tại nơi này tìm ra khuyết điểm. Sau khi trở lại Rochester, Eastman đã cải tiến phương pháp cũ và từ nay, ông đã thực hiện được các kính ảnh hoàn toàn tốt khiến cho không còn ai phải phàn nàn về sản phẩm nữa. Vào năm 1884, công việc chế tạo kính khô phát đạt, ông Eastman phải mở rộng thêm cơ xưởng. Ông dọn trụ sở tới một tòa nhà bốn tầng mà ngày nay là nơi chiếc tháp Kodak còn đứng sừng sững. Với mục đích làm giản dị ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman luôn luôn nghĩ tới cách chế tạo ra một chất liệu nào thay thế kính là thứ hay bị bể vỡ và nặng nề. Ông đã dùng giấy để thay thế với hy vọng lắp được cả cuộn phim vào máy để chụp hàng loạt. Đồng thời với việc nghiên cứu, ông Eastman còn khuếch trương công ty. Ông hủy bỏ giao kèo cũ và thành lập Công Ty Kính và Phim Ảnh Eastman (the Eastman Dry Plate and Film Company) với 12 người cộng tác. Eastman đã quảng cáo vào năm 1885 sản phẩm của mình như sau : "Ít lâu nữa, sẽ có một loại phim chụp ảnh mới dùng vào việc thu hình ngoài trời cũng như trong nhà, loại phim này vừa rẻ tiền, vừa tiện lợi để thay thế những tấm kính ảnh khô". Với sự trợ giúp của William Walker, Eastman đã tìm ra một loại giấy âm bản. Tuy sản phẩm này thành công trên thị trường nhưng phát minh của Eastman vẫn còn khuyết điểm. Vì giấy không đúng là chất làm nền hoàn hảo, nên khi in ra hình ảnh, người ta vẫn thấy rõ các sợi giấy. Eastman lại bắt tay vào việc tìm kiếm một chất mới để thay thế cho giấy. Ông đã dùng chất collodion nhưng chất này không bắt thuốc ảnh. Vì thế ông phủ một chất keo có thể tan được lên trên mặt giấy rồi tới lượt lớp keo thuốc ảnh không tan trong nước. Sau khi chụp xong, lớp keo thuốc ảnh được bóc ra khỏi giấy và dán vào một tờ keo trong khác rồi người ta mới bôi thêm một lớp collodion ra ngoài. Vào năm 1886, vì công việc tổ chức công ty quá bận rộn, ông Eastman phải thuê thêm các nhà hóa học phụ giúp việc nghiên cứu. Bất cứ lúc nào, đầu óc của ông Eastman cũng bận rộn về cách chế tạo các máy móc mới để giảm bớt nhân công và làm hạ giá sản phẩm. Sau khi thay thế kính ảnh bằng phim, ông nhận thấy số người dùng phim ảnh chưa có nhiều. Ông muốn theo đuổi một công cuộc kinh doanh lớn lao và muốn vậy, ông phải tìm cách hấp dẫn đa số quần chúng. Ông quyết định cung cấp đầy đủ vật liệu nhiếp ảnh với giá thật rẻ để mọi người đều có thể chụp ảnh được. Ông đã quảng cáo rầm rộ sản phẩm của mình và tìm cách khai thác thị trường thương mại. Để đại chúng hóa ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman tung ra thương trường chiếc máy ảnh Kodak đầu tiên vào tháng 6 năm 1888. Đây là chiếc máy ảnh kiểu hộp, nhỏ và nhẹ, có dây đeo, bên trong có lắp một cuộn phim giấy dài, đủ chụp 100 kiểu ảnh. Khách chơi ảnh chỉ việc bỏ ra 25 mỹ kim để mua máy có lắp sẵn "Phim Hoa Kỳ" rồi khi chụp xong, gửi máy ảnh về thành phố Rochester và tại nơi này, hãng Eastman sẽ tháo phim ra, rửa và in hình, tất cả chỉ tốn thêm 10 mỹ kim. Trong việc quảng cáo, Eastman đã nói : "Bạn chỉ cần bấm nút rồi chúng tôi sẽ lo tất cả các công việc còn lại". Đây là một cải cách mới, làm thay đổi hoàn toàn chính sách thương mại và ông Eastman đã áp dụng các phương pháp tân kỳ vào việc sản xuất đại quy mô để làm giảm giá hàng. Do cách quảng cáo đặc biệt, máy chụp ảnh Kodak của Eastman đã nổi tiếng trên khắp thế giới và ngành Nhiếp Ảnh bình dân được khai sinh. Không những thành công về phương diện thương mại, ông George Eastman còn đạt được một kết quả rực rỡ về phương diện kỹ thuật, đó là sự tìm ra loại phim dẻo và trong suốt. Loại phim này là kết quả của sự pha trộn rất nhiều chất khác nhau với nitrocellulose cho tới khi dung dịch đủ đặc để thành một lớp phim mỏng, trong suốt và không có hạt, đủ sức dẻo dai, làm nền đế để bôi các lớp thuốc ảnh lên trên. Vào tháng 8 năm 1889, loại phim Kodak trong suốt đầu tiên được bán ra thị trường và đã được các nhà nhiếp ảnh đón tiếp nồng nhiệt. Cũng nhờ loại phim này, nhà bác học Thomas Edison đã xử dụng để làm cuộn phim chiếu bóng đầu tiên, khai sinh ra kỹ nghệ điện ảnh. Với chủ đích làm giản dị ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman lúc nào cũng nghiên cứu, tìm tòi. Ông đưa ra các cải tiến liên tiếp khác nhau. Vào năm 1891, Hãng Kodak sản xuất loại phim cuộn khiến cho các người chơi ảnh có thể lắp phim vào máy ngay tại ngoài trời và từ đây, người ta không cần phải gửi máy ảnh trở lại thành phố Rochester để lắp phim nữa. Từ khi loại phim cuộn ra đời, một tình trạng khác hẳn đã xẩy ra. Trước kia người chơi ảnh phải là một thợ ảnh, họ phải biết tráng phim và rọi hình, hai công việc này bắt buộc họ phải học thêm kỹ thuật phòng tối. Ngày nay với loại phim mới, người chơi ảnh chỉ cần chụp sao cho đẹp, theo đúng theo các điều kiện ánh sáng, còn việc tráng phim và rọi hình đã có hàng ngàn hiệu ảnh lớn nhỏ đảm nhiệm thay họ. Vào năm 1895, một loại máy ảnh có thể xếp lại và bỏ túi, được tung ra thị trường rồi 5 năm sau, máy ảnh Brownie dùng cho trẻ em đã được bán ra với giá một mỹ kim. Việc chế tạo phim, giấy và máy ảnh đã trở nên một loại kỹ nghệ và Công Ty Eastman Kodak trở thành một hãng sản xuất sản phẩm nhiếp ảnh lớn nhất thế giới. 3/ Đóng góp vào cộng đồng. Từ xưa, ông George Eastman vẫn chỉ mong tìm ra các phương pháp làm giản dị môn Nhiếp Ảnh để đại chúng có thể hưởng lợi thì ngày nay, điều đó thành sự thật. Những đóng góp của ông Eastman vào ngành Nhiếp Ảnh thật là lớn lao. Charles Greeley Abbot đã phải nói rằng : "Đó là một cuộc cách mạng trong ngành chụp ảnh, được thực hiện nhờ lòng tận tụy của một viên thư ký ngân hàng chơi ảnh một cách tài tử". Do thiên tài sáng tạo, viên thư ký ngân hàng đã trở nên một tay cự phú. Nhưng dù thành công rực rỡ, ông George Eastman vẫn giữ lòng khiêm tốn, ít khi ông xuất hiện nơi công cộng hay có hình ảnh đăng trên báo chí. Vì luôn luôn hồi tưởng những ngày còn hàn vi, phải sống chật vật để sinh tồn, ông nghĩ ra các dự án thiết lập các quỹ hưu bổng, bảo hiểm và trợ cấp cho các công nhân của công ty. Ông Eastman đã đi trước các chủ nhân đương thời về những đức tính dân chủ và nhân đạo trong việc xây dựng kỹ nghệ bằng cách nâng đỡ giới công nhân theo cách chia lời cho họ tỉ lệ với số lương, vì ông biết rằng người công nhân có được tưởng thưởng xứng đáng thì sản phẩm mới tốt đẹp hơn. Ông Eastman cho rằng sự thịnh vượng của một tổ chức không những chỉ nhờ vào các phát minh và các bằng sáng chế mà còn cần tới thiện chí và lòng trung thành của giới công nhân. Khi tuổi đã cao, ông Eastman đành phải mướn các chuyên viên thay thế mình trong nhiều công việc nghiên cứu, nhờ vậy ông có dư thời giờ nhàn rỗi để đi săn bắn, câu cá, du lịch hay thưởng thức âm nhạc. Vào thời còn trẻ, ông Eastman không được học hỏi về Âm Nhạc trong khi ông rất ưa chuộng các vẻ đẹp và những âm thanh êm tai. Ông thường kể lại vào thời xa xưa, ông đã mua một cây sáo và tập thổi bài hát Annie Laurie trong hai năm trường. Dù rằng không có thiên khiếu về âm nhạc nhưng do lòng yêu thích nghệ thuật âm thanh, trong thập niên 1920 ông Eastman đã thảo ra nhiều kế hoạch thành lập tại thành phố Rochester một trường âm nhạc , một rạp hát và một ban nhạc hòa tấu, và dân chúng Rochester đã ủng hộ sáng kiến của ông. Ông George Eastman còn giúp đỡ các bệnh viện và trường y khoa tại Rochester, nhưng ngành chữa răng được ông chú ý tới nhất. Ông đã ủng hộ tài chính để thành lập tại thành phố của ông một bệnh viện nha khoa trị giá 2 triệu rưỡi mỹ kim. Có người hỏi tại sao ông ưu đãi các nhà thương chữa răng thì ông Eastman trả lời : "Tiền bỏ ra cho ngành này mang lại nhiều kết quả hơn bất cứ ngành nào khác. Về y học, chúng ta nhận thấy trẻ em sẽ tốt đẹp hơn, sức khỏe dồi dào hơn và năng lực tinh thần mạnh mẽ hơn nếu răng, mũi, cuống họng và miệng của chúng được chăm sóc chu đáo trong thời còn nhỏ". Từ lý do vững vàng này, ông Eastman đã tặng nhiều tiền cho các bệnh viện nha khoa của các thành phố London, Paris, Rome, Bruxelles và Stockholm, và hàng trăm ngàn trẻ em châu Âu đã ghi ơn ông George Eastman trong cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Ngoài việc giúp đỡ các công cuộc chống bệnh tật, ông Eastman còn chú ý tới nền giáo dục. Khi Viện Cơ Khí Rochester (the Mechanics Institute of Rochester) được thành lập vào năm 1887 và đang phải phấn đấu, ông Eastman đã tặng tiền cho Viện rồi ông còn tự đề nghị là một trong 10 người đỡ đầu cho Viện. Ngày nay Viện này được đổi tên thành Viện Kỹ Thuật Rochester (the Rochester Institute of Technology). Do việc thuê mướn một số kỹ sư tốt nghiệp từ Viện Kỹ Thuật Massachusetts, ông Eastman thấy được khả năng của các chuyên viên này và ông càng khâm phục Viện Kỹ Thuật đó. Rồi do lòng quý trọng, ông Eastman đã tặng cho Viện Kỹ Thuật đó một số tiền lớn tới 20 triệu mỹ kim với ẩn danh là "ông Smith". Người ta đã bàn tán rất nhiều về ông Smith và trong bài hát phổ thông của Viện, các sinh viên năm dự bị ngày nay còn ca tụng vị ân nhân bí mật của họ như sau : "Hoan hô, hoan hô, nhân danh sinh viên trường Kỹ Thuật và trường Boston, hoan hô, hoan hô ông Smith, vị ân nhân ẩn danh". Vào năm 1924, ông Eastman đã tặng hơn 75 triệu mỹ kim cho Viện Kỹ Thuật Massachusetts (M.I.T.), trường Đại Học Rochester trong đó có trường Âm Nhạc Eastman, trường Y Khoa, trường Nha Khoa, Viện Hampton và Viện Tuskegee là cơ sở nâng đỡ nền giáo dục của người da đen. Ông đã cắt nghĩa lý do tặng tiền rộng rãi này như sau : "Trước hết, sự tiến bộ của thế giới tùy thuộc vào Giáo Dục vì thế tôi đã chọn các Viện Giáo Dục. Tôi chỉ muốn đỡ đầu vài ngành mà thôi và tôi cho rằng với các Viện này, tôi có thể tìm thấy các kết quả nhanh chóng và trực tiếp hơn, hơn là để số tiền tản mát đi quá nhiều". Ông George Eastman là một nhân vật không thích tự quảng cáo. Thật là trái ngược khi một vĩ nhân của ngành Nhiếp Ảnh lại ít chụp ảnh hơn bất cứ một danh nhân nào khác trong thời đại của ông. Do ít người biết mặt, ông Eastman có thể dạo chơi trên đại lộ chính trong thành phố mà không mấy ai nhận ra được ông. Ông Eastman rất yêu thích và am tường về Hội Họa, ông thường đi thăm các phòng triển lãm của châu Âu và ông đã có một bộ sưu tầm tranh đáng kể. Nếu trong cuộc kinh doanh, ông Eastman là một tay cạnh tranh ráo riết và thực tế thì trong các cuộc du ngoạn, ông cũng là một người hoạt động tích cực. Ông thường tổ chức các cuộc đi săn lớn tại châu Phi, tự vẽ kiểu từng món đồ cắm trại và luôn luôn cải tiến các vật dụng sao cho nhẹ nhàng hơn, thu gọn được, và mỗi món đồ đều được dùng cho hai hay ba công việc. Ông lại là tay nấu bếp giỏi, luôn luôn nhận làm các món ăn đặc biệt cũng như món tráng miệng. Ông Eastman là một con người can đảm và giàu lòng tin tưởng. Trong một cuộc săn thú tại châu Phi, ông đã bình tĩnh quay phim một con tê giác xông tới tấn công ông và viên thợ săn đã bắn hạ con thú chỉ cách ông 5 bước chân. Có người lo rằng chỉ sơ sót một chút, ông có thể bị thiệt mạng thì ông Eastman bình tĩnh trả lời rằng : "Dĩ nhiên là tôi phải tin vào cách tổ chức của tôi chứ !". Ông George Eastman qua đời tại Rochester vào ngày 14 tháng 3 năm 1932, không vợ con. Ông là một người tiền phong trong việc khai thác các thị trường ngoại quốc. Ông cũng bỏ ra rất nhiều tiền dùng vào các công cuộc khảo cứu kỹ nghệ, vào các cách quảng cáo rầm rộ cũng như nghiên cứu ngành Tiếp Thị (marketing). Ông George Eastman xứng danh là một nhà phát minh thiên tài, một kỹ nghệ gia ngoại hạng, một nhà tổ chức sáng suốt, một công dân ái quốc và một con người giàu lòng bác ái, vị tha.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:26:27 GMT 9
William Faulkner (1897-1962) văn hào Mỹ, Nobel Văn chương năm 1949 Vietsciences- Từ Vũ Người là tổng-kết chính những khổ đau của họ I – NIÊN ĐẠI TRONG CUỘC ĐỜI VÀ SỰ-NGHIỆP W.FAULKNER Faulkner. chụp ngày 11 /12/1956 Prints & Photographs Division, Carl Van Vechten collection, LC-USZ62-42485 DLC Xuất-thân từ một gia-đình giầu có và danh tiếng gốc Ecosse (Anh-Quốc) đến lập-nghiệp tại miền Nam trong thời-kỳ Hoa-Kỳ lập-quốc . Gia-đình Falkner đã đóng một vai-trò đáng kể trong lịch-sử vùng Mississipi. Tên thật là William Cuthbert Falkner, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1897 tại New Albany, trưởng nam trong số 4 người con trai của ông Murry Cuthbert Falkner và bà Maud Butler . Ngày 22 tháng 7 năm 1902 gia-đình Falkner di-chuyển về Oxford, Mississippi, khi ông được năm tuổi, từ đó cuộc đời Falkner gắn liền với thành phố này. Oxford vào những năm đó với khoảng hơn 1800 dân-số và toàn vùng Lafayette khoảng 22.000 với gần 10.000 người da đen . 25 tháng 9 năm 1905 : ngày đầu tiên William Falkner đến trường. Tại đây ông đã gập cô Lida Estelle Oldham (sinh ngày 19-2-1896, con gái thẩm phán Lemuel Earl Oldham và bà Lada Allen) người sau này sẽ là vợ của Faulkner. Hè 1914 : William Falkner kết bạn với Phil Stone, con trai của « General » James Stone một chủ ngân-hàng như ông nội của Faulkner, sinh-viên luật tại Ole Miss and Yale. Ngay sau khi được đọc những bài thơ của Faulkner chàng luật-sư yêu chuộng văn thơ này đã phát-hiện ngay được tài-nghệ của người bạn trẻ, từ đó Stone đã theo dõi, gíúp đỡ, khuyến cáo, khích-lệ , cố-vấn Faulkner trong sự-nghiệp văn chương. Theo lời thuật lại cuả Stone thì chính ông ta đã đưa cho Faulkner đọc thơ của Swinburne, Keats, Conrad Aiken và Sherwood Anderson hay những nhà văn khác». Năm 1916, W.Falkner bỏ dở chương-trình trung-học, làm phụ-kế-toán tại ngân-hàng của ông nội ông, John Wesley Thompson Falkner (ngân-hàng First National Bank of Oxford thành lập ngày 4-10-1910 với số vốn 30 000 dollars). © The Cofield Collection Estelle Oldham 1913 Ole Miss Tòa án LaFayette, năm 1930, Trong truyện Sound and the Fury, tòa nhà này đóng một vai trò quan trọng chủ chốt trong cảnh kết cuộc cuốn truyện Photo by W.C. Odiorne Faulkner tại Paris © The Cofield Collection 10/12/1950, Faulkner lãnh giải Nobel văn chương cho năm 1949. Chụp chung với Faulkner có Dr. Gustaf Hellström và Envoy Ståhle © The Cofield Collection Tấm hình cuối cùng do Jack Cofield, J.R. Cofield’s son, chụp ngày 20/03/1962. © The Cofield Collection Faulkner được an tán trong nghia trang St. Peter tại Oxford ngày 7/7/1962 Mùa Xuân 1918 : Đệ Nhất Thế-Chiến đang xảy ra rất ác liệt , W.Falkner muốn trở thành một phi-công trong không-lực Hoa Kỳ nhưng bị từ chối vì tiêu-chuẩn kích -thước (chiều cao của ông chỉ được 1 thước 68). Phil Stone, lúc này cũng vừa hoàn thành chương-trình luật tại đại-học Yale, mời Faulkner về ở với ông ta tại New Haven.Theo lời kể của John, người em thứ ba cua W.Faulkner, lý do Faulkner đến New Heaven cũng vì thất vọng về cuộc đính hôn giữa cô Estelle Oldham, người yêu của ông và Cornell Franklin, một luật-sư trẻ tại Hawaï (dù rằng yêu Faulkner nhưng Estelle đã nghe theo lời khuyên nhủ của cha mẹ nhận lời xin cưới của Cornell Franklin để tương-lai cô chắc chắn được bảo đảm). Faulkner làm kế-toán trong một nhà máy sản-xuất vũ-khí tại Connecticut . 18-4 : Hôn lễ của Estelle Oldham và Cornell Franklin, vài tháng sau Estelle theo chồng đi Honolulu. 14-6 : William Falkner được cơ-quan tuyển-mộ Không-lực Hoàng-Gia Canada phỏng-vấn tại New York (lúc này ông đã vừa đổi tên, một cái tên có vẻ «gentleman» của một người Anh. 8-7 : W. Faulkner (tên có thêm chữ «u») được tuyển-nhận, ông bắt đầu tham-dự tập-huấn tại Toronto, chỉ sau 179 ngày được huấn-luyện (duy nhất ở dưới đất ), chiến-tranh cũng vừa chấm dứt, tuy nhiên W.Faulkner cũng được gắn quân-hàm thiếu-úy khi giải-ngũ vào cuối năm 1918. Năm 1919 : Trở lại đời sống dân sự tại Oxford, cùng lúc phải làm nhiều nghề khác nhau như : kế-toán, thợ sơn... để mưu-sinh , Faulkner vẽ, làm thơ, viết kịch… và cho đăng rải rác trên những tờ báo địa-phương như The New Republic, The Mississippian... 01-6-1920 : Lần đầu tiên trong văn-nghiệp Faulkner nhận được một giải-thưởng nhỏ trao bởi Calvin S.Brown, giáo-sư đại-học Missisippi . Mùa Thu năm 1920 : W.Faulkner ghi tên theo học lại chương-trình « đặc-biệt », năm thứ hai về sinh ngữ : Pháp, Tây-ban- Nha, văn-chương Anh , tại đại-học Mississipi nhưng cũng chỉ được 3 tháng sau, ngày 5 tháng 11, ông đã vĩnh-viễn tự cắt ngang đường học-vấn của mình. Sau này chính Faulkner đã kể lại : «Theo ý-nguyện cuả cha tôi, tôi ghi tên theo học chương-trình đại-học tại viện đại-học Mississipi, chương-trình đặc-biệt dành cho những cựu quân-nhân, một điều mà tôi không muốn.Tại đây tôi theo học các môn sinh-ngữ Âu-châu nhưng tôi vẫn không thích một chút nào, những kiến thức mà tôi lãnh-hội được là do tình cờ khi tôi đọc sách». Hè 1921 : Sau khi vừa hoàn-thành chu-trình tập thơ chép tay với nhan đề Vision in Spring «Ý-niệm thanh-xuân» Faulkner đã trao tặng tập thơ này cho Estelle Franklin nhân chuyến bà từ Honolulu trở về Oxford thăm gia-đình. Mùa thu 1921 : Faulkner đến New-York theo lời khuyên của Stark Young, một trong những văn-sĩ vùng Mississipi. Tại đây Stark Young tìm được cho Faulkner một việc làm trong gian hàng bán sách của cơ-sở thương-mại Lord & Talor dưới quyền Elizabeth Prall (bà Sherwood Anderson trong tương-lai). Tháng 12 năm này, Faulkner trở về Oxford làm việc tại cơ-quan bưu-điện của viện Đại-học Oxford như một nhân-viên tiếp-nhận thơ cho đến ngày ông từ-chức vào ngày 31-10-1924 . Cũng vào giai-đoạn này, trong vòng 2 năm, ông là một trưởng trại hướng-đạo (scout) nhưng bị nghỉ việc vì… rượu chè. 13-5-1924 : Phil Stone viết gởi cho nhà xuất-bản Four Seas Company tại Boston một bức thư đề-nghị ấn-hành tập thơ The Marble Faun (Động vật bằng đá cẩm thạch) , đề-nghị cuả Stone được chấp thuận.Tháng 12-1924 tác phẩm đầu tiên của W.Faulkner với bài tưạ của Phil Stone được nhà xuất-bản Four Seas Compagny cho ra mắt độc giả. Hãy đọc những giòng chữ dưới đây để hiểu được thái-độ không có vẻ bằng lòng cuả ông khi phải viết phần tự-giới-thiệu về mình cho nhà xuất-bản: « Sinh năm 1897 tại Mississipi. Cháu cố của đại-tá W .C. Faukner, người đã viết The White Rose of Memphis (1881)và Rapid Ramblings in Europe ( tái-bản 36 lần trong 30 năm )… Lớn lên tại Mississippi, từ đó đã là sinh-viên, thợ sơn nhà cửa, một người giang-hồ, thợ công-nhật, thợ rửa chén tại nhiều tỉnh trong vùng New England, bán sách cho Lord & Talor tại thành-phố New-York , nhân-viên ngân-hàng và bưu-điện. Thời kỳ chiến-tranh đã từng phục-vụ trong không-lực hoàng-gia Canada. Địa-chỉ hiện tại và tạm thời : Oxford, Miss ». The Marble Faun được viết vào mùa xuân năm 1919 ». W.Faulkner đã đề tặng tác phẩm đầu tiên này cho mẹ ông, bà Maud Butler Falkner. Tháng 11-1924 : Lần cư-trú đầu tiên cuả Faulkner tại New Orleans, trong dịp này ông đã gập lại cô Elizabeth Prall và ông chồng mới cưới của cô ta, Sherwood Anderson. Đầu năm 1925 , được tháp tùng bởi Phil Stone, W.Faulkner trở lại New Orleans (425.000 dân), tại đây ông đã giao-tiếp mật-thiết với các giới văn-nghệ-sĩ mà hoạt-động của họ rất tích-cực qua một diễn đàn văn-nghệ chung của họ : tạp-chí Double Dealer trụ sở đặt tại số 204 Baronne Street, qua tạp-chí này đã xuất hiện những bài viết đầu tiên của Hart Crane, Hemingway, Robert Penn Warren, Edmund Wilson,…Người bạn hàng xóm của Faulkner, nhà số 624 Orleans Alley, là môt họa -sĩ trẻ , William Spratling. Tháng 5-1925 : Faulkner hoàn thành tác phẩm Soldiers' Pay và gởi cho nhà xuất-bản Horace Liveright kèm theo lá thư gởi gấm của Sherwood Anderson. Trong cùng thời gian này, trên các báo Times Picayune, The Dial , Double Dealer, New Orleans Item, Dallas Morning News ….bài vở hoặc tên tuổi của Faulkner cũng luôn được độc-giả biết đến. 7-7-1925 : Cùng với một người bạn , hoạ-sĩ William Spratling, Faulkner rời New England trên chiếc tầu hàng West Ivis vượt đại-tây-dương đến thành-phố Gênes (Ý-Đại-Lợi), sau chuyến tham-quan các vùng Rapallo, Pavie, Milan, Stresa và một làng nhỏ tại Sommariva gần hồ Majeur, (trong khoảng thời-gian này ông đã gởi ít ra hơn 25 lá thư và bưu-ảnh tất cả được ký tên "Billy"cho bà M. C. Faulkner, mẹ ông), sau khi thăm viếng Thụy-Sĩ (Faulkner không thích nước này lắm) ông đến thủ-đô Pháp, Paris, vào giữa tháng 8, lưu-ngụ tại số 26 đường Servandoni Monparnasse. Trong bức thư gởi một người bạn Faulkner đã viết : «Vườn Luxembourg cách nơi tôi cư -trú vài bước, cả ngày tôi ở tại đây. Tôi viết, tôi chơi đùa với những trẻ nhỏ, tôi giúp chúng đẩy chạy những chiếc thuyền buồm nhỏ trong hồ nước. Trong bọn tôi, một ông gìa khòm cũng có một chiếc thuyền thả trong hồ chơi chung cùng đám trẻ, khuôn mặt ông ta trông thật say mê, chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một khuôn mặt « hạnh-phúc » như vậy. Sau này, khi đủ già để có thể tự tha thứ cho tôi lúc tôi không còn viết nữa, tôi sẽ đội một chiếc nón kiểu trái dưa hấu như ông ta và tôi cũng sẽ suốt ngày thả thuyền trong vườn Luxembourg này ». Faulkner viết trong một lá thư gởi mẹ ông : " Con vừa mới viết một câu truyện thật đẹp mà chính con cũng không ngờ được. 2000 chữ nói về vườn Luxembourg và cái chết. Tình tiết lờ mờ về một người đàn bà trẻ , nhưng đó lại có vẻ như những giòng thơ cho dù con viết văn xuôi …. ". Tại Paris, Faulkner có hội-diện với James Joyce hay không ? Khi được hỏi về chuyện này vào ngày 13-3-1957, Faulkner đã trả lời « Tôi có biết Joyce, biết ông ta là ai . Tôi cũng đã cố gẳng đến quán cà-phê nơi ông ta « trú đóng » để ngắm ông. Tôi nhớ lại rằng đó là văn-sĩ duy nhất mà tôi đã nhìn thấy tại Âu-châu vào thời-kỳ đó." Sau khi đã đi thăm các thành phố Rouen, Amiens và Compiègne tại đây ông gởi cho mẹ một tấm bưu-ảnh chụp cảnh lưu-niệm ngã tư nơi ký kết hiệp-định đình-chiến Đệ Nhất Thế-Chiến. Faulkner lấy tầu thủy đến New Heaven Anh-quốc ngày 6-10 nhưng ông chỉ ở tại Anh một tuần lễ (theo dự trù : 1 tháng) và trở lại Pháp ngày 15-10, lý do : " Nước Anh quá đắt đối với tôi ". Xuống tầu rời nước Pháp tại Cherbourg ngày 6-12 Faulkner trở lại Hoa-Kỳ ngày 25-12-1925. 25- 2-1926 : Tiểu-thuyết đầu tay của W.Faulkner dưới tựa đề Soldiers’ Pay (Sự trả giá cuả một người lính) được nhà xuất bản Boni & Liveright tại New-York cho ra mắt độc-giả . 30-4 : Tác-phẩm Mosquitoes (Những con muỗi) được nhà xuất-bản Boni et Liveright - New York cho ra mắt người đọc (truyện Mosquitoes được hoàn tất nơi nhà một người em của Phil Stone tại Pascagoula một hải-cảng nhỏ bên bờ biển Mississippi bên bờ vịnh Mễ-tây-Cơ) . 31-1-1929 : Tác-phẩm Sartoris được phát-hành bởi nhà xuất bản Harcourt & Brace tại New York 29-4-1929 : Cornel Franklin và Estelle Odham, ly-dị . 20-6-1929: Tại một nhà thờ nhỏ, College Hill Presbyterian Church, gần Oxford , W. Faulkner cưới Estelle Oldham làm vợ. Sau tuần trăng mật tại Pascagoula trở về Oxford tại đây Faulkner đi làm việc ban đêm tại trung-tâm điện-lực Oxford cùng lúc viết quyển tiểu thuyết As I Lay Dying (Khi tôi đang hấp hối). 12-4-1929 : Faulkner mua ngôi biệt-thự Rowanoak (đối với nhà văn đây là một biểu tượng cho ý-nguyện dừng chân vĩnh viễn tại Oxford hoặc một sự lưu-vong nội-tâm của ông). Sau thời gian tu-sửa, gia-đình Faulkner dọn về đây vào tháng 6-1930. Đây là nơi Faulkner cư-ngụ cho đến khi nhắm mắt. 30-4-1929 : Lần đầu tiên trong một tạp-chí có tầm mức quốc gia xuất-hiện một truyện ngắn của Faulkner , A Rose for Emily , truyện ngắn nổi tiếng nhất của tác giả tại Hoa-Kỳ. 6-10-1929 : Tác-phẩm As I Lay Dying (Khi tôi đang hấp hối) được nhà xuất-bản Cape et Smith tại New York cho ra mắt độc-giả với 2522 ấn-bản. 7-10-1930, The Sound and the Fury được nhà xuất-bản Jonathan Cape & Harison Smith-New-York cho ra mắt người đọc với 1789 cuốn . Khi những người hâm-mộ văn-chương quốc-nội (Hoa-Kỳ) không biết gì nhiều về Faulkner thì lần đầu tiên tại Stockhol, Thuy- Điển, Sinclair Lewis đề-cập đến W. Faulkner «người đã vượt thoát khỏi được những chiếc « váy phồng » của miền Nam (Hoa-Kỳ)» khi nhà văn này đọc bài diễn văn tiếp nhận giải-thưởng văn-chương Nobel. 4 tiểu truyện được Faulkner cho ra mắt người đọc trong năm 1930 là : A Rose for Emily – Honor - Thrift và Red Leaves. Tháng 2-1931 tiểu-thuyết Sanctuary (Đền đài) được Cape & Smith tại New York phát-hành, ấn-bản đầu tiên gồm 2219 quyển nhưng tính đến ngày 1-4 cùng năm Sanctuary đã bán được 6457 quyển. 21-7 : Cape & Smith tại New York cho phát-hành tác-phẩm These Thirteen (13 truyện) với 1928 quyển. Faulner đề tặng tác phẩm này cho vợ ông và Alabama ( tên con gái đầu lòng sinh thiếu tháng vào đầu năm này và đã chết không bao lâu sau). 26-10 : Lần đầu tiên trong sự-nghiệp văn-chương, Faulkner phải trốn lánh những nhà xuất-bản, đặc-biệt sau sự thành-công của Sanctuary. 4-11 :Faulkner trở lại New York để khám phá rằng ông là một "ông trùm" của văn-chương Hoa-Kỳ. Cũng trong dịp này ông đã gập rất nhiều nhân-vật nổi tiếng và một số nhà văn như Nathanael West, Dashiell Hammett et Lilian Hellman, ngay cả Sinclair Lewis (Nobel văn-chương 1930) và Dreiser cũng còn phải lấy « rendez-vous » mới có thể gập được ông. Trong một lá thư khác gởi cho vợ ông cũng báo tin «người ta sẽ mời anh làm viêc tại Hollywood với mức lương từ 500 tới 700 dollars một tuần». Trong thời gian lưu-ngụ tại đây ông cũng đã được hai tờ báo lớn The New York Herald Tribune (14-11 ) và The New Yorker (28-11) phỏng-vấn. 18-12 : Trở về Oxford sau 8 tuần lễ vắng mặt, Faulkner được Sam Marx, đại diện hãng phim Metro Goldwin Mayer, chính thức mời ông cộng tác. Năm này là năm Faulkner đã cống hiến rất nhiều cho độc giả, với 16 tiểu truyện được ông cho ra mắt : Dry September - That Evening Sun Go Down - Hair - Spotted Horses - The Hound - Fox Hunt - All the Dead Pilots - Carcassonne – Crevasse – Mistral - Divorce in Naples - A Justice - Mistral - Victory - Doctor Martino và Idyll in the Desert . 15-4-1932 : Faulkner ký với Metro Goldwyn Mayer một hợp-đồng làm việc 6 tuần-lễ với tư-cách là một người viết truyện phim với số lương 500 dollars một tuần. 7-5 : Ngày đầu tiên Faulkner đến Hollywood. Tại đây ông gập Howard Hawks, một nhà đạo diễn đang lên. Hai người rất hợp nhau vì cả hai đều thích phi-hành và đi săn. Trong suốt 19 năm, Faulkner và Howard Hawks đã thực hiện được nhiều bộ phim giá trị với sự thủ diễn của nhiều tài tử nổi tiếng tại Hollywood . Từ tháng 2 năm 1951 ngưng không hợp tác với Hollywood nưã. ( Xin đọc phần : Danh-sách phim được thực hiện với sự cộng-tác cuả Faulkner). 7-8 : Murry C. Falkner cha đẻ của nhà văn từ trần . 6-10 : Tiểu-thuyết Light in August (Tia sáng tháng Tám) được Harrisson Smith & Robert Haas tại New York phát hành. Trong năm 1932, Faukner cho ra mắt người đọc 8 tiểu-truyện đó là: Death-Drag - Centaur in Brass - Once Abroad the Lugger - Lizards in Jamshyd's Courtyard - Turn About - Smoke - Miss Zilphia Gant và A Mountain Victory. 25-3-1933 : Faulkner học lái máy bay với đại-úy Vernon Omlie tại Menphis , chắc chắn đây là lần đầu tiên trong đời Faulkner được thật sự lái máy bay. 20-4 : Smith & Haas tại New York xuất-bản tập thơ thứ hai và cũng là tập thơ cuối cùng cua Faulkner, A Green Bough, hầu hết những bài thơ trong cuốn này được làm vào những năm 1920 . 24-6 : Jill Faulkner, người con gái duy nhất của W.Faulkner và Estelle chào đời. 14-12 : Faulkner thật-sự là phi-công với văn-bằng số 29788. Trong năm1933, Faulkner chỉ cho ra mắt người đọc 3 truyện ngắn : There Was a Queen - Artist at Home và Beyond. 16-4-1934 : Tập thứ hai của bộ truyện Doctor Martino and Other Stories (Bác-sĩ Martino và những truyện khác) được nhà xuất bản Smith & Haas tại New York cho ra mắt người đọc. Trong năm 1934 , Faulkner cống hiến độc giả 11 truyện ngắn : Elly - Pennsylvania Station - Wash - A Bear Hunt - Black Music - Leg - Mule in the Yard - Ambuscade - Retreat - Lo! và Raid. 25-3-1935 : Smith & Haas tại New York phát-hành truyện The Pylon. 10-11: Dean, em út của Faulkner bị tử nạn máy bay, chiếc máy bay cậu ta mua của chính người anh (nhà văn). Faulkner đã viết một nửa quyển truyện Absalom, Absalom trong sự đau đớn cùng cực vì cái chết của người em này. Năm 1935, năm truyện ngắn được ông cho xuất-hiện , đó là : Skirmish at Sartoris - Golden Land - That Will Be Fine - Uncle Willy và Lion . 26-10-1936 : Truyện Absalom, Absalom được nhà xuất-bản Random House tại New York cho phát hành với 6 000 quyển. Cũng kể từ ngày này, tất cả các tác phẩm cuả Faulkner đều do nhà xuất-bản Random House phát-hành. Trong năm 1936, 5 truyện ngẳn của Faulkner được xuất hiện, đó là :The Brooch - Two Dollar Wife - Fool about a Horse - The Unvanquished và Vendée . Trong suốt năm 1937 Faulkner chỉ cống hiến với độc-giả 1 tác-phẩm, đó là truyện Monk. Mùa Đông năm 1937-1938 : Faulkner mua cùng một lúc Bois de Bailey (rừng cây của Bailey) vùng đất dính liền với khu biệt thự Rowanoak, và Greenfield Farm , một trang trại lớn cách Oxford khoảng 17 miles , trang-trại được giao cho John, người em thứ hai quản trị . 15-2-1938 : Xuất-bản truyện The Unvanquished (Những kẻ không bại trận). Bản quyền The Unvanquished được nhượng lại cho hãng phim Metro Goldwin Mayer với giá 25 000 dollars. 18-1-1939 : Faulkner, Marjorie Kinnan Rawlings, John Steinbeck,… đắc cử vào Viện Quốc Gia Nghệ-thuật và Văn-chương Hoa-Kỳ. 19-1 : Xuất-bản truyện The Wild Palms . Tháng 11-1939 : Xuất bản truyện Hand Upon the Waters . Hai tiểu-truyện cũng được Faulkner cho ra mắt người đọc trong năm 1939 đó là : Barn Burning và Hand Upon the Waters. 31-1-1940 : Caroline Barr, bà quản-gia, người da đen, của gia-đình Faulkner qua đời tại khu biệt thự Rowanoak. Trên tấm một bia cuả ‘’ Mammy ‘’ được khắc ‘’1840-1940 ’’. 1-4 : Xuất bản truyện The Hamlet. Truyện này được Faulkner đề tặng Phil Stone. Trong năm 1940, 5 truyện ngắn được xuất hiện : A Point of Law - The Old People - Pantaloon in Black - Gold Is Not Always và Tomorrow . Hai truyện ngắn được ra mắt độc giả năm 1941 đó là : Go Down, Moses và The Tall Men. 11-5-1942 : Xuất bản truyện Go Down, Moses , truyện này Faulkner đề tặng cho ‘’Mammy’’ Caroline Barr, bà da đen quản gia . Trong năm 1942, 3 truyện ngắn được Faulkner cho xuất hiện : Two Soldiers - The Bear và Delta Autumn. 29-4-1946 : Xuất-bản bộ truyện Portable Faulkner do Vicking Press tại New York phát-hành. Tháng 5 năm 1946 : Sau khi Faulkner đã từ chối không tiếp ‘’2 người Thuy- Điển đáng ghét ’’ mà một trong hai người ‘’người chẳng biết nói một câu tiếng Anh’’ chính là Ilya Ehrenbourg . (sau này Cowley đã kể lại là ông ta có nghe nói rằng tên Faulkner được đề cập đến trong số những nhà văn có thể được trao giải Nobel văn-chương trong khi đó báo chí tại Hoa-Kỳ không hề đề-cập xa gần gì đến chuyện này). Một truyện duy nhất được Faulkner cho xuất hiện trong năm 1946 đó là truyện An Error in Chemistry . Theo sự khẩn khoản yêu cầu của viện đại-học Mississippi vào những ng ày 14,15,16 và 17 tháng 4 năm 1947 Faulkner đồng ý gập gỡ các sinh-viên và trả lời những câu hỏi của họ. Một trong những sinh-viên đó đã ghi chép lại đầy đủ . Để trả lời câu hỏi ‘’Theo ông 5 nhà văn quan-trọng nhất hiện-đại là những người nào ?’’. Faulkner đã trả lời : 1 : Thomas Wolfe. 2 : Dos Passos. 3 : Heminway. 4 : Cather. 5 : Steinbeck. Nhưng sau đó vì một vị giáo-sư đã lên tiếng nhận-định về sự khiêm-tốn của Faulkner, nhà văn đã nói lại : 1 : Thomas Wolfe. 2 :William Faulkner. 3 : Dos Passos. 4 : Hemingway. 5 : Steinbeck. Trong năm 1947 chỉ xuất hiện duy nhất 1 truyện ngắn của ông : Afternoon of a cow. 11-7-1948 : Metro Goldwyn Mayer mua bản quyền truyện The Intrus với giá 50.000 dollars. 18-10 : Faulkner đến New York nhân dịp xuất bản truyện Intruder in the Dust ( Intrus), truyện này đã gây tiếng động lớn vì vấn-đề kỳ-thị mầu da được đề-cập trong đó . 24-11: Tờ báo New York Time loan tin chọn lựa Faulkner vào Hàn Lâm Viện Nghệ-thuật và Văn-chương. Nhưng nhà văn đã tự-cáo-lỗi buổi lễ tiếp-tân. Năm 1948 duy nhất truyện A Courtship được nhà văn cho ra mắt độc-gỉa :. 27-11-1949 : Xuất-bản truyện Knight's Gambit. Trong khi đó tại Stockolm, 15 trong tổng-số 18 vị thành-viên Hàn-Lâm-Viện Thụy-Điển bỏ phiếu đồng ý trao giải thưởng Nobel văn-chương cho W. Faulkner. 26-3 và 9-4-1950 : Hai lá thư ngỏ do Faulkner viết gởi đang trên tờ Commercial Appeal để biểu-lộ thái-độ của ông về sự kết-án quá ‘’giản-dị ’’ của toà-án Mississippi khi xử tên Leon Turner, kẻ đã giết 3 đứa bé da đen. 21-8 : Xuất-bản bộ truyện Collected Stories. 10-11: Công-bố quyết-định của hội-đồng giám-khảo Stockolm : Faulkner được trao giải Nobel Văn-Chương. Đấu tiên Faulkner từ chối không chịu tới Stockolm, sau đó vì những sự can thiệp của Bộ Ngoại-Giao Hoa-Kỳ, vị Đại-sứ Thụy-Điển tại Mỹ và chính những người trong gia-đình ông, ông đã chấp-nhận với lý do ông đi như thế là để con gái ông có dịp được du-lịch. 11-11 : Nhận-định về sự trao giải Nobel cho Faulkner, tờ New York Time đã viết : Sự loạn-luân và sự hãm-hiếp có thể là những sơ-sót thông thường lan tràn tại vùng Jefferson, Mississipi của Faulkner nhưng không thể xẩy ra tại những nơi khác cuả Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ …. Giới trí-thức Âu-Châu và toàn thế-giới đã thật phẫn-nộ khi được đọc những nhận định thiếu đứng đắn của báo giới Mỹ đối với Faulkner. 10-12 : Faulkner đọc bài diễn-văn của ông trước Hàn-Lâm-Viện Thụy-Điển . Bài diễn-văn được mọi người coi như hay nhất trong những bài đã được nghe trong các buổi lễ trao giải Nobel. 12-12 : Faulkner và con gái đến Pháp sau đó đi Luân- Đôn, Shannon, New York để trở về Oxford ngày 18-12. Tháng 2 -1951 : Nhà xuất-bản Levee Press de Greenville, Mississippi cho phát-hành Notes on a Horsethief. Tháng 3 : Tập truyện Collected Stories được giải thưởng National Book Award . 25-5 : Tổng-Thống Pháp Vincent Auriol quyết-định trao tặng huân-chương ‘’Légion d'honneur’’ cho W.Faulkner. 27-9 : Xuất-bản tiểu-thuyết Requiem for a Nun . 1-4-1954 : Xuất-bản The Faulkner Reader 2-8 : Xuất-bản truyện A Fable Sepulture South Gaslight là truyện ngắn duy nhất được Faulkner cho ra mắt độc-giả trong năm 1954. 1955 : Faulkner đại-diện chính-thức cho Hoa-Kỳ tại hải-ngoại trong những vấn-đề văn-hoá . Cũng trong năm này, ông đã bộc-lộ rõ rệt tư-tưởng của một người miền Nam ôn-hoà, tự-do trong những cuộc tranh-luận rất trầm trọng đang diễn ra về các vấn-đề điều-hợp giáo-dục giữa người da trắng và da đen . Cuối tháng 2 : Tại New York, Faulkner ký giấy chấp thuận để Camus cải biên thành kịch-bản truyện Requiem for a Nun. 20-3 : Faulkner cho đăng trên báo Commercial Appeal lá thư đầu tiên trong một loạt 4 lá thư ngỏ chống lại chính sách phân-biệt mầu da trong các trường học. 12-6 : Tại Oxford, nơi mà cuộc tranh luận gay go về vấn đề điều-hợp giáo-dục đang xẩy ra, Faulkner đã viết cho Else Jonsson (một người bạn Thuy- Điển) : ’’ Tôi cố làm điều gì có thể làm được. Tôi tưởng tượng đến ngày mà tôi sẽ phải rời bỏ quê hương để ra đi như những người Do-Thái phải rời nước Đức dưới thời Hitler. Tôi hy vọng sẽ không đến nỗi như vậy. Nhưng đôi khi tôi tự nhủ có lẽ phải có một thảm họa hay là một cuộc bại trận để làm cho nước Mỹ tỉnh ngộ….’’ 1-8 : Faulkner đến Nhật-Bản theo sự khẩn khoản yêu cầu của bộ Ngoại-Giao Mỹ để làm ‘’tăng sự thông-cảm giữa hai quốc gia (Nhật-Mỹ)’’ ; Trong dịp này ông cũng đã thông báo với những người hữu-trách Mỹ về vị trí của ông trong chuyến đi : "Tôi không tiếp xúc với họ (người Nhật) bằng tư- thế của một nhà văn Mỹ mà bằng tư-cách của một người đạt niềm tin vào con người, vào nhân-tính và những âu-lo về tương-lai của nhân-loại’’. 5-8 : Faulkner rời Tokyo đến Nagano để tham-dự một cuộc hội-thảo. (hành-vi và 2 bài phát biểu của Faulkner với nhan-đề : Ấn-tượng Nhật-Bản và Cho Những người trẻ tuổi Nhật đã được ấn-hành trong Faulkner at Nagano – Tokyo năm 1956 và tại Hoa Kỳ năm 1968 trong Lion in the Garden. 23-8 : Faulkner rời Nhật đến Manille ( Phi-luật-Tân) tại đây ông cũng phát biểu tại viện đại hoc Manille về « Giấc mơ Hoa - Kỳ » Những lời phát biểu này được đăng rải rác trên báo chí vào năm 1956 sau đó trong Lion in the Garden. 28-8 : Faulkner tới Ý (Italie) lưu-ngụ đến ngày 16-9 và tham dự vào những hoạt-động văn-hoá được tổ chức vào mùa Hè năm đó tại Italie. 6-9 : Faulkner, tại Rome (La-Mã), cho công-bố một bản thông-báo về vụ thảm-sát một đứa trẻ da đen tại Mississipi. "Nếu tại Hoa-Kỳ niềm bất-hạnh văn-hoá của chúng ta đã thấp hèn đến độ phải giết chết một đứa trẻ, bất kỳ với mầu da nào và dưới bất kỳ một lý lẽ nào, chúng ta không xứng đáng để sống sót được nữa và rất có thể chúng ta sẽ mất dạng trên trái đất này‘’ . 19-9 : Họp báo tại Đại-Sứ-Quán Hoa-Kỳ tại Paris 12-17 tháng 10 : Faulkner đến Reykjavik , thủ-đô nước Iceland tại đây ông cũng lại họp báo, phỏng vấn… và thăm Tổng -Thống quốc-gia này như ông đã làm tại Phi-Luật-Tân. 14-10 : Xuất-bản quyển Big Woods . 10-11 : Tại Menphis, Faulkner nói chuyện do hiệp-hội Southern Historical Association tổ-chức tại Peabody Hotel. Ông đã phải nỗ-lực can-thiệp để những người da đen được vào tham-dự (trong số đó có 1 diễn-giả da đen) trong buổi họp này. Ngay ngày hôm sau, độc-giả báo Commercial Appeal được đọc bài diễn-văn của Faulkner dưới tưạ đề bằng những hàng chữ thật lớn ‘’Một cử-tọa hỗn-hợp (đen và trắng) nghe Faulkner kết-án về cái «nhục» của sự kỳ thị chủng-tộc‘’. Bài diễn-văn này được đăng lại trong Three Views of the Segregation Decisions (Atlanta,1956). Cũng chính trong tờ Commercial Appeal,ngày 20-10, dưới tựa đề ‘’Một độc-giả vùng Missisipi viết về một nhà văn đã quay lưng trước truyền-thống miền Nam ‘’ do một Edwin White de Lexington (Mississipi) nào đó viết phản-kháng lại diễn-văn của Faulkner. Lập-luận tối-cao để bảo-vệ sự kỳ-thị mầu da của người này là : ‘’Những phụ-huynh da trắng ở miền Nam không bao giờ chấp-nhận huỷ-diệt nòi giống của họ khi nhìn con cái họ lẫn lộn trong các trường học với bọn đen’’. Người ta có thể tưởng tượng ra được Faulkner ở trong tình-thế khó khăn nào khi ông đã công khai rõ rệt vị trí của ông về vấn đề kỳ thị mầu da trong trường học. Ông cũng bị chịu rất nhiều áp lực ngay cả những cú điện-thoại vô-danh gọi đến hăm-doạ. Những bức thư ngỏ của ông lại cũng không thể làm cho người ta hiểu được ông (ngay cả những người da đen - nhất là những người ở thành-phố) Trong năm 1955 , Faulkner cho xuất hiện 2 truyện ngắn : Race at Morning và By the People. Tháng 2-1956 : Trong khi tại trường Đại-Học Alabama áp-lực đang thật nặng-nề về chuyện thu-nhận sinh-viên da đen Autherine Lucy thì tại New York sau cuộc phỏng-vấn W.Faulkner (chắc chắn trong tình-trạng không được tỉnh táo lắm vì…rượu) , ký-giả Russel W. Howe của tờ Sunday Times tại New York đã viết đăng (4 tháng 3) : "ông ta sẽ tranh đấu cho Mississipi chống lại với cả nước Mỹ, ngay cả phải xuống đường bắn vào những người da đen ‘’ Những câu viết thật vô-lý cho dù sau đó Faulkner đã cố đính-chánh trong 3 lá thư ngỏ nhưng…những câu viết của R.W. Howe đã để người ta nhớ nhiều hơn là những lời đính-chánh của Faulkner. 18-3 : Tác-dụng của sự nóng giận, sợ sệt, mất mát, tai-nạn ngã ngưạ, bệnh-tật và rượu đã có hiệu-lực : Faulkner bị ói ra máu , bất-tỉnh phải vào bệnh-viện Baptiste Memphis . 18-4 : Faulkner từ chối lời mời tranh-luận với W.E.B.Du Bois, 88 tuổi, một lãnh-tụ da đen, về đề-tài ‘’Hãy tiến tới chậm rãi, ngay bây giờ‘’ (Avance lentement, maintenant) mà Faulkner đã cho đang trên tờ Life . "Tôi tin rằng giữa chúng ta không có vấn-đề nào để chúng ta phải tranh-luận. Cả hai chúng ta đều đồng-ý trước, về vị-trí mà ông đang đứng : đúng-đắn về phương-diện đạo-đức, hơp-pháp và đạo-đức. Nếu ông không hiển-nhiên nhận ra được vị-trí của tôi khi yêu-cầu sự từ-tốn và kiên-trì là đúng, chúng ta cũng sẽ chỉ tốn hơi sức trong cuộc tranh-luận này mà thôi ‘’. Từ tháng 2 đến tháng 6 - 1957 : Faulkner là «văn-sĩ thường trú» tại Đại-Học Virginia, tài trợ bởi cơ– quan Emile Clarck Balch. Những cuộc nói chuyện của ông với các sinh-viên, giáo -sư , vợ của các giáo-sư … được chọn lưạ, tập trung trong một cuốn sách với tưạ đề Faulkner at the University do Joseph Blotner xuất-bản năm 1959. 17-3 : Faulkner đến Athènes, Hy-Lạp cũng để tham-dự chính thức chương-trình văn-hoá của Bộ Ngoại-Giao Mỹ. Về câu hỏi :’’Ông có một thông điệp nào gởi cho dân Hy-Lạp không ?" Faulkner đã trả lời :’’Quê-hương ông là chiếc nôi của văn-minh nhân-loại và tổ tiên các ông là những người của tự-do. Ông còn muốn gì hơn nữa ở tôi, một chủ trại Hoa-Kỳ ?’’. Về Hy-Lạp, Faulkner đã tuyên bố : ‘’Nơi đây là nơi duy nhất mà tôi được biết, nơi mà người ta có được tình cảm của quá khứ thật xa xôi nhưng lại không mảy may thù hận…..’’. 28-3 : Faulkner được Hàn-Lâm-Viện Văn-Chương Hy-Lạp tặng huân-chương bạc tượng-trưng nguyên-tắc một người luôn ước-ao con người có tự-do. Sau đó Faulkner trở lại Hoa-Kỳ vào ngày 31-3. 1-5 : Xuất-bản truyện The Town - truyện được đề tặng cho Phil Stone ‘’ người đã chia xẻ 30 năm trời vui cười ‘’. 10-5 đến 30-8 : Triển lãm "The Literary Career of William Faulkner’’ tại thư-viện Đại-Học Princeton. Nhờ cuộc triển lãm này James B. Meriwether đã xếp-đặt được hàng ngàn trang viết tay của Faulkner để xuất-bản được tập sách The Literary Carreer of William Faulkner, công-trình tham khảo cần thiết cho mọi nghiên-cứu đứng đắn về Faulkner . 15-9 : Faulkner cho đăng trên tờ Commercial Appeal tại Memphis một lá thư ngỏ về vấn-đề kỳ-thị mầu da trong các trường học. 13-11-1959 : Xuất-bản truyện The Mansion 16-10-1960 : Bà Maud Butler Faulkner, thân-mẫu của nhà văn từ-trần, hưởng-thọ 88 tuổi. Tờ báo Commercial Appeal, trong bài viết về người quá-cố đã đề-cập đến tài vẽ của bà : Bà đã để lại gần 600 bức tranh vẽ cho các con và các cháu bà . Tháng 1-1961 : Faulkner hiến tặng tất cả những bản viết tay cho Fondation William Faulkner của viện Đại-Học Virginia. Từ ngày 2-4 đến 10-4 : Faulkner đến công-du tại Vénézuéla theo yêu-cầu của Bộ Ngoại-Giao Mỹ về vấn-đề văn-hoá. Mùa Xuân 1961 : The Transatlantic Review ấn-hành một bài viết của Faulkner bầy tỏ sự cảm-phục với Camus. Trong lá thư viết ngày 8-2-1960 cho phép công-bố bài viết này, Faulkner đã viết : Lẽ tất-nhiên, khi tôi viết bài này không một hậu-ý thương-mại, mà chỉ là một lời chào, một lời giã biệt cuả người với người, cả hai chúng tôi đều bị kết-án với chung nỗi kinh-hoàng’’. 11-6 : Tờ New York Times loan báo rằng Fondation Faulkner khuyến-khích những nhà văn Nam Mỹ và khích-lệ giáo-dục những người da đen vùng Mississipi. 27-11 : The Literary Career of William Faulkner, bộ tài-liệu kiểm-kê sự-nghiệp văn-chương của Faulkner do James B. Meriwether thu thập, sắp xếp và xuất-bản. 29-4-1962 : Faulkner từ chối lời mời viếng thăm tòa Bạch-Ốc của Tổng-Thống Kennedy. 4-6- 1962 : Tiểu-thuyết cuối cùng của Faulkner, tác-phẩm The Reivers được xuất-bản Ngày 6 tháng 7 năm 1962 : William Faulkner từ trần một cách đột ngột vì bịnh tim tại Byhalia, Marshall County (Mississipi). Xác ông được đưa về Oxford và an-táng ngày 7 . Khi chôn, ông là của gia đình, còn sau đó ông là của thế giời
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:39:36 GMT 9
John Steinbeck (1902-1968) Nobel 1962Vietsciences-Phạm Văn Tuấn John Steinbeck ra đời vào ngày 27 tháng 2 năm 1902 tại Salinas thuộc tiểu bang California. Cha của nhà văn là ông John Ernst Steinbeck đã tới định cư tại nơi này sau khi Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ chấm dứt. Bà mẹ của nhà văn tên là Olive Hamilton, là một giáo viên dạy tại nhiều trường thuộc khu vực Salinas. John Steinbeck đã trưởng thành trong miền thung lũng đẹp và trù phú này nên đây là nơi mà nhà văn đã tìm thấy nhiều chất liệu để viết ra các tiểu thuyết về sau. Vào tuổi thiếu thời, trí tưởng tượng của John Steinbeck đã được nuôi dưỡng do bà mẹ, một bà giáo, thường đọc cho con nghe nhiều cuốn truyện trong nền văn chương thế giới. Các tác phẩm của Dostoevsky, Milton, Flaubert, George Eliot, Malory, Thomas Hardy. . . đã gây hứng thú sâu rộng tới cậu bé John ham đọc sách, rồi về sau, John Steinbeck còn xác nhận chịu ảnh hưởng của Darwin, Marx và Bộ Thánh Kinh với bản dịch của Vua James. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Salinas, John Steinbeck ghi danh vào Đại Học Stanford nhưng rồi do bản chất ưa thích phóng khoáng, không chịu ép mình theo kỷ luật học đường, John Steinbeck đã không tốt nghiệp đại học. Trong 5 năm của thập niên 1920, John Steinbeck đã lãnh nhiều công việc làm, kể cả làm trong đồn điền Spreckles tọa lạc 10 dậm phía nam của Salinas và kinh nghiệm từ nơi làm việc này đã khiến cho tác giả John Steinbeck sau này viết ra tác phẩm “Về Chuột và Người” (Of Mice and Men, 1937). Vào năm 1922, John Steinbeck làm nhân viên hóa chất (bench chemist) tại cơ xưởng chế tạo đường củ cải (sugar-beet factory) gần Salinas và địa điểm làm việc này đã được nhà văn dựng thành cuốn truyện “Tortilla Flat” (1935). Sau đó John Steinbeck cùng người em Mary theo học khóa hè của cơ sở Hopkins Marine Station tại Pacific Grove, gần Monterey. Sự hiểu biết của nhà văn về sinh học biển (marine biology) đã bắt đầu từ nền giáo dục này. Từ khi bỏ ngang không theo đại học, John Steinbeck xuống tầu từ Los Angeles vào tháng 11- 1925, đi New York qua ngả Kênh Đào Panama. Tại New York, John Steinbeck làm công nhân xây dựng tại Madison Square Garden rồi chán nản trước nghề lao động, ông quay về miền tây, sống tại hồ Fallen Leaf, gần hồ Tahoe. Chính tại nơi có phong cảnh rừng thông, hồ rộng này, bắt đầu cuộc đời của một nhà văn viết tiểu thuyết. John Steinbeck phác thảo cuốn truyện “Ly Vàng” (Cup of Gold) và vào thời gian này, tác giả đã gặp cô Carol Henning, người nhận đánh máy bản thảo. Năm 1929, cuốn truyện “Ly Vàng” được xuất bản nhưng bán không chạy, nhất là vào thời gian này nền kinh tế của Hoa Kỳ bắt đầu xuống dốc với nhiều ngân hàng đóng cửa, nhiều cơ sở thương mại phải khai phá sản. Năm 1930, John Steinbeck kết hôn với cô Carol Henning, họ dọn về sống trong một căn nhà mùa hè của cha mẹ tại Pacific Grove và nhà văn bắt đầu sáng tác cuốn tiểu thuyết thứ hai có tên là “Nói với Thượng Đế không biết” (To a God Unknown, 1933). Tại Pacific Grove, John Steinbeck đã gặp Edward Ricketts, một nhà sinh học biển và ông này trở thành người bạn lâu năm và cũng là nhân vật “Doc” trong tác phẩm “Cannery Row” về sau. Vào thời gian này, John Steinbeck bắt đầu viết cuốn truyện “Mục Trường của Thiên Đường” (Pastures of Heaven), được xuất bản năm 1932 nhưng bán không chạy. Khi bà mẹ Olive Steinbeck bị bệnh nặng, bên giường của mẹ, nhà văn khởi tác cuốn truyện “Con Ngựa con Màu Đỏ” (the Red Pony) với phần đầu xuất hiện trên tạp chí North American Review. John Steinbeck chịu cảnh sống eo hẹp của nhà văn chưa thành danh cho tới năm 1935 khi tác phẩm “Tortilla Flat” được xuất bản, mô tả một cách khôi hài các cuộc phiêu lưu của nhóm người Mỹ gốc Mễ, ưa thích vui thú, uống rượu, ăn trộm, theo đuổi phụ nữ, đam mê âm nhạc và nhẩy múa . . . Cuốn tiểu thuyết này đoạt Huy Chương Vàng của Câu Lạc Bộ Commonwealth tại San Francisco và được Hollywood mua bản quyền với giá tiền $3,000. Kể từ nay, John Steinbeck cảm thấy vững tâm khi kiếm sống bằng cây viết. Vào năm 1936, gia đình Steinbeck dọn về sống tại Los Gatos, California, và nhà văn cho xuất bản cuốn truyện “Trong Trận Chiến không được thua” (In Dubious Battle) qua đó đề cập tới các loại bạo hành kinh tế, các cuộc đình công và con người trong các hoàn cảnh tranh chấp. Nội dung của cuốn tiểu thuyết này đã gây ra nghi ngờ về lý thuyết Mác Xít của tác giả đồng thời độc giả cũng phải chú ý tới nhà văn John Steinbeck. Kể từ thời kỳ này, các truyện ngắn của John Steinbeck dần dần được in trên các tạp chí có tầm quan trọng toàn quốc như Harper’s và Esquire rồi nhà văn được đề nghị viết một loạt bài cho tờ báo San Francisco News, liên quan tới các công nhân. Năm 1937, John Steinbeck cho ra đời cuốn tiểu thuyết “Về Chuột và Người” (Of Mice and Men). Đây là câu chuyện bi thương giữa hai công nhân di cư gắn bó với nhau. Cuốn tiểu thuyết này đã được Câu Lạc Bộ Sách Trong Tháng (Book-of-the-Month Club) chọn lựa và tác giả John Steinbeck được Hội Văn Học (The Best Literary Society) ca ngợi tại thành phố New York. Sau đó nhà văn tới sống tại Hạt Bucks (Bucks county) thuộc tiểu bang Pennsylvania để cộng tác với George Kaufman trong việc đưa tác phẩm lên sân khấu, với kết quả là tác phẩm “Về Chuột và Người” đã thành công theo kịch nghệ hơn là về mặt tiểu thuyết, đã giật được Giải Thưởng Phê Bình Kịch New York (the New York Drama Critic Circle ‘s Award) ngay từ vòng bỏ phiếu đầu tiên rồi sau đó kịch bản này được chuyển thành một cuốn phim hấp dẫn. Để viết ra các cuốn tiểu thuyết, John Steinbeck thường phải sống, làm việc và hiểu rõ về loại người mà nhà văn muốn mô tả. Vì vậy ông đã đi tới tiểu bang Oklahoma trong khi vở kịch “Về Chuột và Người” đang được trình diễn trên sân khấu Broadway. John Steinbeck tham gia cùng các di dân trên con đường hướng về California, cư ngụ với họ tại Hoovervilles, xin việc làm giống như họ, hòa đồng vào loại người trôi dạt này để hiểu rõ các đặc tính của họ. John Steinbeck đã thăm viếng nhiều trại di dân, quan sát hoàn cảnh làm việc của họ và mô tả các cảnh ngộ của những người thiếu may mắn này. Vào năm 1938, một tập các truyện ngắn của John Steinbeck xuất hiện với tên là “Thung Lũng Dài” (The Long Valley) rồi tiếp theo là cuốn truyện “Máu của họ thì Mạnh” (Their Blood is Strong) gồm những bài viết về các công nhân di cư, đăng trên tạp chí San Francisco Chronicle. Qua năm 1939, tác phẩm “Chùm Nho Uất Hận” (The Grapes of Wrath) đã gây ra sóng gió tại Hoa Kỳ và tại các nước khác. Ngay sau khi xuất bản, cuốn tiểu thuyết này đã trở thành “loại bán chạy nhất” (a best-seller). Nhà đạo diễn Darryl Zanuck đã mua bản quyền của tác phẩm, cho các thám tử tới Thung Lũng Trung Tâm (the Central Valley) để điều tra sự chính xác của câu chuyện trước khi cốt truyện được chuyển thành phim. Do đề cập tới sự thiếu công bằng, thiếu bao dung và cảnh bóc lột người lao động, cuốn “Chùm Nho Uất Hận” bị coi là một tiểu thuyết “cấp tiến” (a radical novel), đã bị Quốc Hội Hoa Kỳ lên án. Cuốn tiểu thuyết này cũng bị cấm đoán tại tiểu bang Oklahoma, bị phản đối dữ dội tại California cùng với các lời chỉ trích tác phẩm rải rác tại nhiều nơi. Tác phẩm kể trên đã gây nên sóng gió vì nhiều người đã quên rằng đây không phải là một bản tuyên ngôn chính trị, mà chỉ là một cuốn tiểu thuyết hư cấu, một sáng tác nghệ thuật mang cấu trúc tượng trưng và ẩn dụ (allegorical). Các kẻ chống đối đã không nhớ rằng tác giả muốn nói lên ý nghĩa của sự tự do của con người, đề cập tới tiềm năng của linh hồn và sự liên hệ giữa cá nhân với tập thể, với lương tri của tập thể này. Chủ đích của tác giả không phải là một công cuộc cải cách xã hội mà là một mục tiêu có tính tự nhiên phối hợp với nền đạo đức theo siêu nhiên và theo Thánh Kinh. Đồng thời với các lời phản đối, hơn nửa triệu ấn bản cuốn “Chùm Nho Uất Hận” đã được bán hết và tác phẩm này được dịch sang nhiều ngôn ngữ để phổ biến trên khắp thế giới. “Chùm Nho Uất Hận” đã trở thành một biến cố lịch sử và văn chương. Các danh dự dồn về phía tác giả kể cả Giải Thưởng Pulitzer và Giải Thưởng Sách Hoa Kỳ (the American Bookseller ‘s Award). John Steinbeck được mời làm hội viên của Viện Nghệ Thuật và Văn Chương Quốc Gia (the National Institute of Arts and Letters). Năm 1939, John Steinbeck cùng với người bạn Edward Ricketts tham dự một cuộc khảo sát sinh học biển (marine-biological) dọc theo bờ biển phía bắc của tiểu bang California, tới Vịnh California và cuộc hành trình này được mô tả trong cuốn truyện “Vùng Biển của Cortez” (The Sea of Cortez). Tháng 4 năm này, John Steinbeck qua xứ Mexico để thực hiện cuốn truyện phim tài liệu “Ngôi Làng bị bỏ quên” (The Forgotten Village). Nhà văn John Steinbeck đã mải mê tìm hiểu sự vật, bỏ quên tại Pacific Grove người vợ Carol. Năm 1942 bà Carol Henning đã nạp đơn xin ly dị với nhà văn và kết quả là John Steinbeck phải dàn xếp bằng số tiền $220,000 theo sau cảnh chia ly. Khi Hoa Kỳ tham dự vào Cuộc Thế Chiến Thứ Hai, John Steinbeck là phóng viên chiến trường vào năm 1943, đã viết ra tác phẩm và truyện phim “Câu chuyện của một đội phi hành trên Oanh Tạc Cơ” (Bombs Away : The Story of a Bomber Team) và tiểu thuyết kịch ngắn (play-novella) có tên là “Mặt Trăng lặn” (The Moon is Down), một tác phẩm rất phổ biến tại miền Bắc châu Âu và được truyền bá một cách lén lút tại các quốc gia bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Sau lần ly dị, John Steinbeck qua sống trong tiểu bang New York rồi vào năm 1943, ông kết hôn với cô Gwyndolen Conger, có hai người con trai sinh năm 1944 và 1946. Nhà văn cũng xin làm phóng viên tại nước Anh và vùng Bắc Phi cho tờ báo Diễn Đàn New York (the New York Herald Tribune). Cũng vào thời kỳ này, John Steinbeck viết cốt truyện cho cuốn phim “Suồng Cấp Cứu” (Lifeboat) của Hitchthingy và cuốn phim tuyên truyền “Huy Chương cho Benny” (A Medal for Benny) của Jack Wagner. Năm 1945, cuốn tiểu thuyết “Cannery Row” được xuất bản, trong đó vẫn mang đặc tính chỉ trích xã hội của tác giả. Nhà văn John Steinbeck sau đó đã dùng các tài liệu thu thập được trong chuyến đi khảo sát tại xứ Mễ Tây Cơ để viết ra cuốn tiểu thuyết “Ngọc Trai” (The Pearl), về sau được dàn dựng thành phim, đồng thời cuốn tiểu thuyết dài “Chuyến Xe Buýt bất thường” (The Wayward Bus) tuy được chọn làm Sách-trong-Tháng (Book-of-the-Month), thành công về mặt tài chính nhưng không nhiều về mặt nghệ thuật. Năm 1948 là năm pha trộn thành công và tai họa đối với John Steinbeck. Ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật và Mỹ Tự Hoa Kỳ (The American Academy of Arts and Letters) nhưng đồng thời cũng chịu đựng cuộc ly dị lần thứ hai và bị mất người bạn thân Edward Ricketts, chết trong tai nạn trên xa lộ. Trong nhiều năm, John Steinbeck thường viết các bài báo và các truyện phim, đặc biệt là phim “Viva Zapata!”, xuất hiện năm 1950. Cũng vào năm này, cuốn tiểu thuyết “Phía Đông của Vườn Eden” (East of Eden) được xuất bản. Đây là cuốn truyện khó nhất và quan trọng nhất của John Steinbeck, là cách tái tạo câu chuyện theo Thánh Kinh kể về Cain và Abel, lồng vào trong lịch sử của thung lũng Salinas. Cốt truyện diễn tiến với ba thế hệ của một gia đình sinh sống trong tiểu bang California từ thập niên 1860 tới Thế Chiến Thứ Nhất, đã mô tả các tranh chấp giữa hai thế hệ anh em, một người tử tế là Adam Trask trái ngược với người em hoang tàn Charles, đề cập tới điều thiện và điều ác, phản ánh cấu trúc biểu tượng (symbolism). Vào năm 1954, John Steinbeck cho xuất hiện cuốn tiểu thuyết “Ngày Thứ Năm ngọt ngào” (Sweet Thursday), một tác phẩm coi như kế tiếp cuốn truyện “Cannery Row”, với kết quả kém hơn so với những tiểu thuyết trước kia, vì thế vào năm 1961, Warren French cho rằng “ông Steinbeck có vẻ là một nhân vật được người khác viết ra nhiều hơn là chính ông viết”. Trước niềm bi quan của các nhà phê bình, John Steinbeck đã thắng lợi bằng tác phẩm “Mùa Đông Bất Mãn” (The Winter of Our Discontent). Trái với các chủ đề bất công kinh tế, phí phạm quốc gia, chịu đựng đau khổ ... của thập niên 1930, tác phẩm “Mùa Đông Bất Mãn” có khoảng thời gian là các năm thịnh vượng nhưng tác giả đã phân tích sâu xa và vững chắc các giá trị của con người trong một xã hội mà “người khôn khéo” (smart) móc túi các người khác trong khi mà hình ảnh của các chính khách và các nhà ái quốc được đóng hộp như các hộp xà bông, với tình yêu bị giảm giá thành một thứ đầu tư, với các tham vọng về bóc lột, khai thác kẻ khác. Tác phẩm “Mùa Đông Bất Mãn” của John Steinbeck đã gặt hái ngay được các thành công rực rỡ do Giải Thưởng Nobel về Văn Chương của năm 1962 mang lại. Dù cho được sống trong hoàn cảnh rất thoải mái về tiện nghi, dư thừa về tiền bạc, dù cho tuổi cao và các lời khuyên can của bạn bè, của bác sĩ điều trị, John Steinbeck vẫn tham gia vào một công trình thám hiểm lục địa châu Mỹ bằng chiếc xe tải có chở đồ dùng cắm trại, có ngăn kéo chứa đầy bản đồ. Kết quả của cuộc hành trình này là tác phẩm “Các Cuộc Du Lịch với Charlie” (Travels with Charlie), một cuốn tiểu thuyết chứa nhiều vui, buồn, hấp dẫn, mà chỉ có tác giả John Steinbeck mới có thể sống theo cách đó và viết ra thành một tác phẩm văn chương. Năm 1964, Văn Hào John Steinbeck được Tổng Thống Lyndon Johnson trao “Huy Chương Tự Do của Tổng Thống Hoa Kỳ” (The Presidential Medal of Freedom). Vào tháng 5 năm 1968, Văn Hào John Steinbeck bị nghẽn mạch tim (heart attack) lần thứ nhất tại Sag Harbor rồi lần thứ nhì tại thành phố New York. Văn Hào qua đời vào ngày 20 tháng 12 tại New York, một thành phố rất cách xa nơi sinh trưởng và nơi dàn dựng của nhiều tác phẩm văn chương lừng danh. Các tác phẩm của Văn Hào John Steinbeck là những cuốn truyện khai thác các đấu tranh của lớp dân nghèo, nói ra những lời chỉ trích các bất công trong xã hội, với nhiều nỗi thắc mắc trước cảnh sống và với cách khôi hài, tất cả đã hấp dẫn hàng triệu độc giả. Giống như Đại Văn Hào Shakespeare đã từng nói “ Tất cả thế giới đều là một sân khấu” (All the world ‘s a stage), Văn Hào John Steinbeck đã trình bày nhiều loại sân khấu bi-hài, bằng các tác phẩm mang các tên “Cannery Row”, “Mùa Đông Bất Mãn”, “Chùm Nho Uất Hận” ... Tác phẩm Fiction - Books (Alphabetical) Burning Bright Cannery Row Cup Of Gold East of Eden In Dubious Battle Of Mice and Men Pipe Dream Sweet Thursday The Acts Of King Arthur and His Noble Knights The Grapes of Wrath The Long Valley The Moon Is Down The Pastures of Heaven The Pearl The Red Pony The Short Reign Of Pippin IV The Wayward Bus The Winter of Our Discontent To A God Unknown Tortilla Flat Viva Zapata Zapata: A Narrative in Dramatic Form on the Life of Emiliano Zapata Books By Year Published Cup Of Gold - 1929 The Pastures of Heaven - 1932 To A God Unknown - 1933 Tortilla Flat - 1935 In Dubious Battle - 1936 Of Mice and Men - 1937 The Red Pony - 1937 The Long Valley - 1938 The Grapes of Wrath - 1939 The Moon Is Down - 1942 Cannery Row - 1945 The Pearl - 1947 The Wayward Bus - 1947 Burning Bright - 1950 East of Eden - 1952 Sweet Thursday - 1954 Pipe Dream - 1955 The Short Reign Of Pippin IV - 1957 The Winter of Our Discontent - 1961 Viva Zapata - 1975 The Acts Of King Arthur and His Noble Knights - 1976 Zapata: A Narrative in Dramatic Form on the Life of Emiliano Zapata - 1993 Non Fiction - Books Bombs Away Their Blood Is Strong - 1938 Sea Of Cortez (with Edwards F. Ricketts) - 1941 A Russian Journal - 1948 The Log from The Sea of Cortez - 1951 Positano. Salerno, Italy: Ente Provinciale per il Turismo - 1954 Un American a New York et a Paris - 1956 Once There Was A War - 1959 Travels with Charley: In Search of America - 1962 America and Americans - 1966 Journal Of A Novel: The "East of Eden" Letters - 1969 Working Days: "The Journals of The Grapes of Wrath" - 1989
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:42:40 GMT 9
Adam Smith (1723-1790) Nhà kinh tế học và tác phẩm "Tài sản quốc gia"Vietsciences-Phạm Văn Tuấn Trong công việc tìm hiểu bản chất con người, bản chất của thiên nhiên và Thượng Đế, các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học… đã biểu lộ niềm tin của mình qua các tác phẩm. Hình ảnh của bản ngã (the self) đã thay đổi trong văn chương, chẳng hạn từ thời Shakespeare qua các giai đoạn lãng mạn và thời đại Victoria, tới chủ nghĩa cá nhân hiện tại. Cho nên muốn hiểu rõ các tác phẩm văn học, cần phải hiểu thêm các tư tưởng triết học, các khuynh hướng trí thức quan trọng qua nhiều thế kỷ. Đã có sự liên hệ giữa cách suy tưởng lý thuyết với các hình ảnh diễn tả trong văn chương. Nhờ lý thuyết về Kinh Tế Học của Adam Smith (1723-1790), Charles thingyens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles thingyens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Các tác phẩm về phân tâm học của Sigmund Freud đã dọn đường cho James Joyce và Virginia Woolf. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chế độ tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga xẩy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Đế Quốc Xô Viết sau trận Thế Chiến Thứ Hai.
1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của Thế Giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" (the Wealth of Nations) và nền triết học về “tài sản” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.
"Tài Sản của các Quốc Gia" là tác phẩm đầu tiên viết về ngành chính trị kinh tế học (political economy), đã thảo luận sự liên hệ giữa tự do và trật tự, phân tích các phương thức kinh tế (economic processes), tấn công hệ thống trọng thương (the mercantile system) của nước Anh bởi vì hệ thống này đã giới hạn nền tự do mậu dịch (free trade).
Tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" đã trình bày các vấn đề căn bản của trật tự xã hội và sự tiến bộ của con người trong một xã hội mà cá nhân đi theo con đường tư lợi (self-interest), đã sản xuất ra các mặt hàng mà các người khác cần mua. Người bán và người mua gặp nhau tại thị trường rồi nhờ thị trường mà có sự hòa hợp xã hội.1/ Cuộc đời của Adam Smith. Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh Tế Học này. Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố Edinbug, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại. Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment). Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới "Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education) để quán triệt các nền triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó. Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học (rhetoric) tới ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Quý Ông" (Gentleman 's Magazine) đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Tô Cách Lan". Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo Sư Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo đức học (ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học. Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia". Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" (human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (self-preservation). Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia": “con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) … mà không ai biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường (market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”. Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (*)đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên. Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản. Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải trở về London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776. Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh đốt bỏ. Ông qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia". 2/ Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm "Tài Sản". Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là thời đại của Lý Trí (the Age of Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu sau Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ (The Glorious Revolution) tại nước Anh vào năm 1688 và chấm dứt trước Cuộc Cách Mạng Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời kỳ Khai Sáng đáng nhớ không phải bằng năm tháng, mà bằng tên của các nhà triết học danh tiếng như Montesquieu, Voltaire, Condorcet, Descartes, Diderot, Rousseau… tại nước Pháp, Emmanuel Kant tại nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học kiêm triết học Giambattista Vico và nhà luật học kiêm xã hội học Beccaria, tại nước Anh có John Locke, Edward Gibbson và Edmund Burke, tại Bắc Mỹ là Benjamin Franklin, còn đại diện cho miền Tô Cách Lan là David Hume và Adam Smith. Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng bị ảnh hưởng sâu đậm vì các khám phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định luật về sự rơi tự do của Galileo Galilei tại nước Ý, định luật về chuyển động và trọng lực của trái đất khám phá do Isaac Newton tại nước Anh… Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật của thiên nhiên. Do căn cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và thí nghiệm, các tiến bộ quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học, Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn, Cơ Học… và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng của triết gia người Anh là Francis Bacon theo đó "kiến thức là sức mạnh". Kiến thức vì thế được biên soạn thành các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết học cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học và họ tin tưởng rằng phương pháp khoa học có thể áp dụng vào công trình tìm hiểu bản chất của con người. Nhiều bộ môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học, Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị Học đã được các nhà triết học khai phá, họ so sánh lý trí với sự ngu dốt, với các điều mê tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm quyền của người dân, họ vạch ra các bất công xã hội và tấn công chế độ chuyên chế và phê phán giới cầm quyền, nhất là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman Catholic Church) đã duy trì sự ngu dốt vì quyền lợi riêng tư của nhà thờ. Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng không phải là những kẻ vô thần (atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế toàn năng nhưng mục đích của họ là trình bày rằng có thể điều tra được, tìm hiểu được số mệnh (destiny) của con người trên trái đất và họ không chịu chấp nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra. Các nhà lãnh đạo trí thức của thời kỳ này đã dùng các khẩu hiệu như giáo dục, làm sáng tỏ (clarification), phá vỡ điều huyền bí (demystification) trước các áp chế tinh thần. Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu xét sự vật của các nhà triết học đã thay đổi. Lý trí không còn được chú trọng mà thay vào là "cảm xúc" (feeling). Trật tự, kỷ luật và cách kiểm soát (discipline, order & control) đã bị thay thế bằng sự đam mê, tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality & spontaneity) và khi thời kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu. 1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch sử mới. Vào thời điểm này, cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng Pháp đang âm ỉ và tốc độ của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về năng lực hơi nước và một số khám phá khác. Vào lúc này tại nước Anh, đời sống kinh tế của người dân nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả ổn định, tiền lương của giới lao động thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại thương gồm cả nhập cảng và xuất cảng hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các giai cấp thống trị phản đối các đề nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được giành cho một thiểu số được ưu đãi, hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi chính trị của đa số dân chúng chỉ có về mặt lý thuyết. Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế cao, không cho đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và giờ lao động phải dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị Viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là thuyết "Trọng Thương" (mercantilism) với các niềm tin chính như sau: thứ nhất, các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy "vàng và bạc", và muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa, họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác, thứ hai, họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ, nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ. Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của thuyết "Trọng Thương" thì sai nhầm và có hại. Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh tế, nói chuyện với nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu phác thảo cuốn sách "Tài Sản" từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách thứ hai này được xuất bản. Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có tên là "Tìm Hiểu Bản Chất và các Nguyên Do của Tài Sản của các Quốc Gia" (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), gọi tắt là "Tài Sản của các Quốc Gia", hay "Tài Sản". Thực ra, tầm vóc bách khoa của bộ sách hai tập này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học. Có nhà phê bình đã gọi tác phẩm là "Bộ sách lịch sử và phê bình nền Văn Minh của cả Châu Âu". Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận về cách phân công lao động, tác giả đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa lao động sản xuất và lao động phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển kinh tế của châu Âu kể từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình chính sách thương mại và thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia, các phương pháp quốc phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn gốc và sự phát triển của các đạo quân tại châu Âu, lịch sử giáo dục vào thời trung cổ, sự phát triển các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các nguyên tắc thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue). Tại phần V của bộ sách, tác giả Adam Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của cách tổ chức xã hội: giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude state of hunters), giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic agriculture), giai đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal farming) và giai đoạn cuối cùng là sự liên hệ thương mại (commercial interdependence), và đi kèm với mỗi giai đoạn là các định chế (institutions) thích hợp với các nhu cầu của từng giai đoạn. Luận đề chính của tác phẩm "Tài Sản" được căn cứ vào niềm tin rằng "mỗi con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi " (self-interest) mà điển hình là lòng ham muốn tài sản (desire for wealth). Các động lực ích kỷ là căn cốt của các hành động của con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội (society's welfare), rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không ngừng, thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia. Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm bánh mì chỉ vì tư lợi của họ mà khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith còn cho rằng sự phân công lao động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. "Một bàn tay vô hình" dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể và về điểm này, Adam Smith đồng ý với Thomas Paine là "một chính quyền tốt nhất là loại chính quyền cai trị ít nhất". Trong cách phân phối lao động, Adam Smith cho rằng nên phân chia tiến trình sản xuất thành các khâu đoạn nhờ đó gia tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề của chủ nhân và công nhân, Adam Smith đã viết: "giới công nhân muốn đòi nhiều, giới chủ nhân muốn trả ít" và tác giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì lương bổng cao sẽ khiến cho người công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn và hưũ hiệu hơn, đồng thời tác giả còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề là sự can thiệp bất công vào quyền lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc, chọn nghề hay đổi nghề từ chỗ trả lương thấp tới nơi trả lương cao. Phần chính của tác phẩm "Tài Sản" là quyển IV có tên là "Về các hệ thống kinh tế" (Of Systems of Political Economy). Ở đây, tác giả cứu xét hai hệ thống: hệ thống thương mại và hệ thống nông nghiệp và phần nông nghiệp chỉ dày bằng 1/8 của phần thương mại. Adam Smith đã làm phát triển các nguyên tắc "tự do kinh doanh" (the principles of laissez-faire) và tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới tự do mậu dịch (free trade) bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền thương mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể phát triển toàn diện. Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách "Lịch Sử của Nền Văn Minh", Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng "Tài Sản của các Quốc Gia" có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế. Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương nên trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Nhà Kinh Tế Học Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người Cha của Nền Kinh Tế Mới" 3/ Những tác phẩm chính của Adam Smith Lectures on Rhetoric and Belles Lettres, 1748. The Theory of Moral Sentiments, 1759. (copies (1), (2) , (3)) * Lectures on Rhetoric and Belles Lettres (1762-1763; in 1958) Lectures on Jurisprudence, 1766. An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations , 1776. (Copy (1), (2), (3) , (4) , (5), French transl. - Vol. 1, Vol. 2) "Account of the Life and Writings of David Hume", 1777. "Thoughts on the State of the Contest with America", 1778. Essays on Philosophical Subjects, 1795 - gồm "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of Astronomy" "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Physics" "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics" "Of the External Senses" "Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the Imitative Arts" "Of the Affinity between certain English and Italian Verses" "Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review "Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review "Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions", 1748, 1758 "Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart, 1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:22:37 GMT 9
Holmes Welch (1921-1981): Cuộc hội thoại cách nhau 500 năm giữa Đức Lão Tử và các Thánh Tông đồVietsciences- Dũ Lan Lê Anh Dũng Holmes Welch (1921-1981) là một trong những người nỗ lực nghiên cứu đạo Lão ở Mỹ. Đậu cử nhân (1942) và thạc sĩ (1956), ông làm giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á (the Research Center of the East Asia) và là phó chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới (the Research Center of World Religions) tại Viện đại học Harvard. Năm 1956 Papers on China (Các bài viết về Trung Quốc) của Viện đại học Harvard đã in khảo luận đầu tay của Welch nhan đề Syncretism in Early Daoism (Sự dung hợp trong buổi đầu của đạo Lão). Năm 1957 Journal of Oriental Studies (Tập san Nghiên cứu phương Đông) của Viện đại học Hương Cảng đã in khảo luận của Welch nhan đề Chinese Daoism and the Celestial Master Zhang (Đạo Lão Trung Quốc và Trương Thiên sư)[1]. Sau đó Welch sang Đài Loan và Hương Cảng nhiều lần để nghiên cứu điền dã về đạo Phật, đạo Lão và nghi lễ đạo Lão. Năm 1957 ông xuất bản Split of Dao: Laozi and Daoism (Sự phân chia của Đạo: Lão Tử và đạo Lão).[2] Sách gồm bốn phần: vấn đề Lão Tử; Đạo đức kinh; phong trào Đạo giáo; Đạo Lão ngày nay. Welch đã giải thích một ít về Đạo đức kinh cũng như giới thiệu khái quát về lịch sử đạo Lão. Bách khoa thư Anh bộ mới (The new British Encyclopedia) thừa nhận rằng quyển sách đó là những giải thích tỉ mỉ đáng đọc nhất về Đạo đức kinh, và lần đầu tiên mới có người miêu tả phong trào Đạo giáo rõ ràng đến thế. Welch tích cực tham gia tổ chức ba cuộc hội nghị quốc tế đầu tiên về nghiên cứu đạo Lão, và khuyến khích công cuộc nghiên cứu đạo Lão khắp thế giới. Hội nghị thứ nhất tổ chức tại thành phố Bellagio, vùng Lombardy nước Ý. Sau hội nghị này Welch cho in trên History of Religions (Lịch sử Tôn giáo) của Viện đại học Chicago một khảo sát về hội nghị này với nhan đề Bellagio Conference on Daoist Studies (Hội nghị ở Bellagio về nghiên cứu đạo Lão). Sau hội nghị thứ hai, Welch hợp tác với Anna Seidel xuất bản Facets of Daoism – A Collection of Essays on Chinese Religion (Các khía cạnh của đạo Lão – Hiệp tuyển các khảo luận về tôn giáo Trung Quốc). Sách tập hợp chín bài viết của các học giả Pháp, Mỹ, Nhật và đã thúc đẩy xa hơn nữa việc nghiên cứu đạo Lão trên phạm vi quốc tế. Sau hội nghị thứ ba, Welch trở về Mỹ và có lẽ vì tuổi già, hôn nhân và gia đình hay là do công việc (?) ông đã tự tử. Học giới ngày nay luôn đánh giá cao và kính trọng những đóng góp của Welch vào việc phát triển nghiên cứu đạo Lão tại Mỹ cũng như trên thế giới.[3] Nghiên cứu Lão Tử Đạo đức kinh, Welch nhận xét rằng “Ngoại trừ Kinh Thánh chẳng có một quyển sách nào khác được dịch sang tiếng Anh nhiều như Đạo đức kinh của Lão Tử. – No other book except the Bible has been translated into English as often as Lao Tzu’s.”[4] Sau khi cung cấp một danh sách khá dài các bản dịch, Welch hỏi: Tại sao có nhiều bản dịch như vậy? Ngoài lý do vì bản kinh ngắn gọn, Welch suy luận: “Một lý do có ý nghĩa hơn để giải thích vì sao phương Tây có nhiều bản dịch đến thế có thể là giữa Đạo đức kinh và Kinh Thánh Tân ước chứa những điểm tương đồng. – A more significant reason for so many Western versions lies perhaps in the parallels between the Tao Te Ching and the New Testament.”[5] Welch đã dẫn ra mười lăm trường hợp minh chứng cho ý kiến của ông. Phỏng theo Welch, sau đây là mười điểm đối chiếu giữa hai pho kinh.[6] 1. Báo oán dĩ đức. (Lấy đức báo oán.) ĐĐK chương 63. “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” Luc. 6:27-28.[7] 2. Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. (Vì thánh nhân không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai tranh giành với mình.) ĐĐK 22. “… nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.” Mat. 5:39-41. 3. Cường lương giả bất đắc kỳ tử. (Kẻ dùng bạo lực sẽ chết bất đắc kỳ tử.) ĐĐK 42. “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.” Mat. 26:52. 4. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? (Để bảo tồn nguyên khí, ngươi có thể trở nên như trẻ mới sinh chăng?) ĐĐK 10. “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Mat. 18:3. 5. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên. (Vì vậy thánh nhân để thân mình ra sau mà thân lại đứng trước.) ĐĐK 7. “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Mat. 23: 12. 6. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. (Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.) ĐĐK 9. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi.” Mat. 6:19. 7. Danh dữ thân thục thân, thân dữ hóa thục đa? (Danh với thân cái nào quý hơn? Thân với của, cái nào trọng hơn?) ĐĐK 44. “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” Mat. 16:26. 8. Bất viết: … hữu tội dĩ miễn da? (Há người xưa chẳng nói rằng … có tội thời được tha thứ sao?) ĐĐK 62. “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Mat. 18:12. 9. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất. (Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.) ĐĐK 73. “Thế mà, không một con [chim sẻ] nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” Mat. 10:29. 10. Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. (Lời ta rất dễ biết, rất dễ làm.) ĐĐK 70. “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” Mat. 11:30. Sự tương đồng lạ lùng giữa hai quyển kinh chép cách nhau 500 năm như vừa dẫn trên quả nhiên rất thú vị. Nó gợi cho thấy rằng tôn giáo Đông Tây kim cổ dẫu có phần khác nhau nhưng tiềm tàng sâu thẳm bên trong vẫn có chung một chân lý. Khoa Tôn giáo đối chiếu (Comparative Religions) vì thế có công dụng giúp tín đồ các tôn giáo hiểu biết nhau hơn và xích gần lại với nhau hơn. Giáo dẫu có nhiều, có mới có cũ, nhưng Đạo trước sau duy chỉ có một mà thôi. Lãnh hội lẽ một đó sẽ góp phần xóa bỏ kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng và đồng thời cũng góp phần xây đắp hòa bình cho nhân loại. CHÚ THÍCH: [1] Trương Thiên sư tức là Trương Đạo Lăng (thế kỳ II, đời Hán). [2] Bản sách này được Beacon Press (Boston, 1965, 1967) in lại với nhan đề Taoism: the Parting of the Way và phụ chú chữ Hán là 道之分歧 Đạo chi phân kỳ. [3] Tiểu sử trên đây viết theo 陳耀庭 Trần Diệu Đình (http://www.eng.taoism.org.hk). [4] Taoism: the Parting of the Way. Boston: Beacon Press, 1967, p. 4. [5] Taoism: the Parting of the Way, p. 5. [6] Người viết không hoàn toàn sử dụng cách đối chiếu của Welch. Rải rác nhiều chỗ người viết đã chọn lại câu kinh trích dẫn khác hơn Welch. [7] Tất cả các câu Kinh Thánh dẫn nơi đây đều căn cứ theo bản dịch của Nhóm Phiên dịch các giờ Kinh Phụng vụ.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:30:57 GMT 9
Harry Elkins Widener (03/01/1885-15/04/1912) Widener Library của ĐH Harvard Ngày 16 tháng 4 năm 1912 Titanic chìm xuống Đại Tây dương. Trong số hơn 1200 người đã bỏ mình theo con tầu định mệnh có chàng thanh niên 27 tuổi. Nhưng chàng thanh niên con nhà giàu, ham hoc, yêu sách vở đó, nhờ nghĩa cử cao đẹp của người mẹ, một đại gia, đã trở thành bất tử ở Đại học Harvard, đóng góp to lớn vào sự phát triển của giáo dục và nghiên cứu tại một trong những đại học danh tiếng nhất thế giới nầy.
Trong số gần 80 thư viện lớn nhỏ của Đại học Harvard, Widener Library là thư viện tổng hợp có quy mô lớn nhất. Với 4 tầng hầm và 6 tầng trên mặt đất của tòa nhà đồ sộ, cổ kính, có trên 3 triệu rưỡi cuốn sách về các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, về văn học các nước, văn hóa, văn minh nhân loại.Thư viện nầy mang tên của một thanh niên tên là Harry Elkins Widener (1885-1912). Theo cách nói thời thượng ở Việt Nam gần đây thì người nầy là một “thiếu gia” với ý nghĩa là con nhà rất giàu có, với tài sản của gia đình thì hầu như mua được bất cứ thứ gì theo ý muốn. Ông nội và ông ngoại là bạn thân và cùng gây dựng cơ nghiệp trong những thập niên cuối thế kỷ 19 ở tiểu bang Pennsylvania. Trong giai đọan phát triển vượt bậc mà các nhà phân tích gọi là thời đại hòang kim của kinh tế Mỹ nầy, hai người bạn đã liên tiếp thành công trong các dự án đầu tư vào những ngành chủ đạo thời ấy như đường sắt, thép, dầu hỏa, v.v.. Riêng ông nội của Harry vào đầu thế kỷ 20 đã để lại một tài sản tính theo giá trị bây giờ lên tới một tỉ ruỡi đô la. Cha George Dunton Widener (16/06/1861 -15/04/1912) Ông nội Peter Arrell Brown Widener (13/11/1834 - 06/11/1915) Nhưng Harry từ nhỏ sống rất mẫu mực, rất chăm học, nhất là đọc sách. Tiền bạc cha mẹ cho dồn hết vào việc mua sách. Thú vui lớn nhất của Harry là thu tập sách, nhất là sách hiếm. Cha mẹ, ông bà, bà con cũng chiều theo ý muốn của Harry nên quà sinh nhật hay quà Giáng Sinh đều tìm mua những bộ sách quý làm quà cho. Năm 1903 Harry thi đỗ vào Đại học Harvard, theo học các ngành lịch sử, triết học và nghệ thuật. Từ đó anh càng mê sách hơn, vừa học vừa bỏ công sưu tầm sách và tranh, giao lưu thân mật với hầu hết các nhà sách, các công ty nhập khẩu sách ở New York và Philadelphia. Sau khi tốt nghiệp (năm 1907), Harry vẫn tiếp tục dành thì giờ đọc và thu tập sách. Lúc mới 25 tuổi đã nổi tiếng là người thu tập sách với số lượng đồ sộ và đa dạng. Ngày 10/4/1912, tại cảng Southampton (Anh Quốc), Harry Widener lên tàu Titanic cùng với cha, mẹ và người giúp việc. Hình như gia đình Widener đi chơi London, theo yêu cầu của Harry để anh tìm mua một số bộ sách, và lên con tầu định mệnh nầy để trở về New York. Tối 14/4, Titanic gặp nạn. Theo báo Boston Daily Globe ra buổi chiều ngày 16/4/1912, tờ báo được bày trong Phòng kỷ niệm Harry Elkins Widener ở thư viện, chỉ có 868 người được sống sót, và 1232 người đã chìm sâu xuống lòng Đại tây dương trong đó có Harry và cha anh. Phụ nữ được ưu tiên lên thuyền cứu hộ nên mẹ Harry và nguời giúp việc được cứu sống. Mẹ Harry, bà Eleanor Elkins Widener, trong nỗi đau mất chồng, mất con, bà suy nghĩ về khối sách, tranh ảnh, tư liệu đồ sộ của Harry và tìm cách chuyển kho tàng nầy thành tài sản chung của xã hội. Bà n ảy ra ý tưởng tặng khối sách và tư liệu nầy cho Đại học Harvard và kèm theo một số tiền lớn đủ để nhà trường xây dựng một thư viện hiện đại. Khởi công xây dựng năm 1913, đến năm 1915, The Harry Elkins Widener Memorial Library, tên chính thức của Thư viện Widener, ra đời. Gần 100 năm phát triển theo Đại học Harvard, thư viện Widener là nơi tri thức của nhân lọai được chuyển đến nhiều thế hệ trẻ để sau đó họ trở thành những người tài, những nhà lãnh đạo nắm giữ trọng trách trong nhiều lãnh vực không phải chỉ ở Mỹ mà tại rất nhiều nước khác. Phòng kỷ niệm Harry Widener được đặt ở khu trong cùng của tầng thứ nhất của Thư viện Widener. Trên bức tuờng chính diện là di ảnh được họa to của người thanh niên tuổi trên dưới 25. Vào phòng nầy có lẽ ai cũng thấy có một cảm giác hơi lạ. Thông thường, những ảnh, những tượng được trưng bày hoặc xây dựng ở những thư viện hay những tòa nhà có một bề dày lịch sử nhất định, thường là những ảnh, những tượng của những người có tuổi 5-6 chục trở lên, độ tuổi cần thiết để họ lập được những công trình mà người sau ghi nhớ. Harry Widerner có lẽ là một ngoại lệ khá hiếm. Thư viện Widerner là một truờng hợp cho thấy những người giàu có trong xã hội đã biết dùng tài sản đóng góp tích cực vào việc xây dựng đại học, góp phần phát triển đất nước. Trường hợp như người mẹ của thanh niên Harry Widener thật ra ta có thể thấy rất nhiều trong những đại học danh tiếng ở Mỹ, ở Nhật và nhiều nước khác. Trần Văn Thọ (Harvard và Waseda) Viết từ Đại học Harvard (Sẽ đăng trên Thanh Niên, số đặc biệt Tết Kỷ Sửu 2009) Phụ chú (Vietsciences) Tháng tư năm 1912 Harry Elkins Widener cùng với cha và mẹ xuống tàu RMS Titanic tại hải cảng Cherbourg, nước Pháp để đi đến Thành phố New York. Sau khi chiếc tàu chạm vào khối băng, cha anh để mẹ anh cùng với người hầu gái lên tàu cứu đắm, nên cả hai được tàu Carpathia vớt. Harry Elkins Widener và cha ở lại và cùng chịu đắm với tàu Titanic.
Tảng băng nổi trên biển
Tàu Titanic
Tranh của Willy Stöwer
Những người sống sót
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:13:01 GMT 9
Jacqueline KennedyVietsciences- Từ Vũ Người đàn bà này đã có nhiều dịp thân cận những nhân vật lớn nhất của lịch sử và không một người nào có thể thờ ơ, lãnh đạm được với bà : Từ Charles De Gaulle, Nữ Hoàng Elizabeth II...cho đến Nikita Kroutchev và còn nhiều người khác nữa . Jacqueline Bouvier Kennedy-Onassis đã từ giã cuộc đời hơn 10 năm nay nhưng hình ảnh bà ta vẫn mê hoặc mọi người và cũng vẫn làm chúng ta phải xúc động mỗi khi nhắc nhở đến . Dưới đây chuyện kể về hành trình của người đàn bà nổi tiếng nhất trong các vị mệnh phụ phu nhân của Hoa Kỳ. "Con gái của ba, con sẽ là một nữ hoàng." Đây là một câu mà John Bouvier, thường được gọi là Jack, đôi khi là Black Jack, vẫn luôn nói với con gái yêu qúy của ông ta, Jacqueline. Jacqueline sinh ngày 28 tháng 7 năm 1929 tại New York. và mang tên là Jacqueline Lee Bouvier, Lee là họ của mẹ bà.. Về phần người mẹ, bà Janet Lee, nuôi dạy cô con gái của bà theo những quy luật bà đặt ra, cũng chính bà đã tự thiết lập một "liên minh tương hợp" với cô con gái hơn là tình yêu thương. Cô bé Jacqueline được săn sóc bởi những vú em người Anh và được theo học tại những trường học danh tiếng, từ trường Chaplin School tại New York đến các trường Collèges Holton Arms và Vassar, sau đó tại các Đại Học Sorbonnes Paris và Washington. Ngay từ lúc còn nhỏ, cô bé luôn luôn ăn mặc như một cô công chúa nhỏ, theo lớp học múa, chơi tennis, có một con ngựa riêng và một điều gì rất nhẹ nhàng chung quanh cô. Gia đình Lee-Bouvier có một biệt thự để nghỉ hè rất khang trang và lịch sự nằm trên đường Ocean Drive, gần khu các tòa nhà tráng lệ của giới giàu sang nhất Hoa kỳ như Marble House, Breakers ... ở Newport, Rhode Island. Năm 1933, Lee, cô em kế chào đời. Hai đứa trẻ xung đột thường xuyên nhưng lại cũng rất thương yêu nhau, tuy nhiên điểm khác biệt của hai đứa trẻ đó là cô chị, Jackie - chứ không phải là Jac-line như cô ta muốn như thế - có một đức tính không thể chối cãi được : giầu nghị lực. Jack Bouvier rất khâm phục cô con gái lớn của mình, điều này đã làm cho bà vợ của ông bực bội vì trái ngược với ông chồng, bà ta lại yêu cô con gái nhỏ hơn. Phải khẳng định rằng, Jackie nổi bật và duyên dáng và chuyện thường xảy ra đối với những đứa trẻ có những năng khiếu đặc biệt : Jackie nhàm chán trong lớp học và cũng chẳng thích chiều lòng những người bạn đồng học. Như một tình nhân, Jack Bouvier nịnh nọt cô con gái của ông ta : "Con là người thông minh nhất, quyến rũ nhất trong những người đàn bà mà chính ngay cha cũng chưa bao giờ được biết."... Nhưng Jackie lại cũng rất cô đơn. Sự cô đơn này dù chọn lựa ít hay nhiều cũng đã thẳng thừng biến ra thành một sự phát vãng khi mà, sau một thời gian dài với cuộc sống tình cảm như một địa ngục, cha mẹ của hai cô gái nhỏ này đã quyết định phải chia tay . Cuộc li dị đã được chính thức công bố tại Reno, Nevada, vào năm 1940. Ngay từ những ngày đầu tiên khi họ lấy nhau, Jack đã chẳng quan tâm nhiều đến bà vợ, lang chạ hết cô này đến bà khác, uống rượu như hũ chìm và lại còn thêm tật cờ bạc . Sự chia tay của họ là một điều không thể tránh được, và Jackie, 11 tuổi, cũng biết như vậy nhưng cô bé lại cũng rất thường xuyên bào chữa tội lỗi cho người cha hầu như tự cô ta từ chối với chính mình về những điều tệ hại mà ông ta đã làm mà chỉ biết một điều là tình yêu của cha cô đối với cô. Thái độ gần như khiêu khích này của cô đã chỉ làm khích động thêm tình trạng gần như căng thẳng trong tương quan hiện hữu với mẹ cô để nhiều khi đã xẩy ra những xung đột thể lực giữa hai mẹ con. Vào thời kỳ này, có cha mẹ li dị nhau là một điều không được "bình thường" lắm. Cô bé đã cô đơn lại càng cô đơn hơn nữa . Cô tự vệ bằng cách sống với cái thế giới tưởng tượng của cô ta : Những hình ảnh biểu hiệu một đứa trẻ với cái nhìn vô cùng buồn bã... Đây chính là một thảm hoạ, sự sụp đổ của mối tình đầu tiên và cũng không thể ngờ vực được, mối tình lớn nhất của cô ta. Kể từ khi đó, cô bé đi vào cuộc đời với "hình ảnh đẹp của cô ta" đã có sẵn, như một tấm khiên chắn chống lại những bất công và những nỗi đau khổ mà cuộc sống của con người thường luôn phải hứng chịu. Không thể phủ nhận được một sự kiện là Jack Bouvier đã để lại dấu tích cho cô con gái ông ta, với hình dạng rất giống đến độ làm nhiều người phải ngạc nhiên. Jack Bouvier từng trải và biết rất nhiều về đàn bà qua chính ông ta, Jackie đã được học những bài học về sự quyến rũ, duyên dáng của một người nữ và Jackie cũng tự chứng tỏ là một cô học trò rất có năng khiếu. Dáng điệu của cô vừa giản dị nhưng cũng lại vừa kiêu kỳ, đường nét thanh lịch của cô ta rất tự nhiên nhưng điệu bộ lại thần bí gần như khó tả nổi , tất cả không phải là điều ngạc nhiên qua sự truyền dạy của người cha. Người con gái này vào một ngày sau đó đã không thể chịu đựng được một chút, dù cho chỉ một chút sự trễ hẹn mà vào thời đó là một "chiến lược" thông thường được áp dụng, cô cho rằng để người ta mong chờ là làm tăng thêm cường độ của một cuộc hẹn hò chỉ là một thái độ rởm đời ! Trong lúc đó, Janet, người mẹ chỉ mới được 34 tuổi, rơi vào một trạng thái âu lo dữ dội vừa về tương lai của chính bà ta và các cô con gái. Để chữa chạy bệnh trạng này, Janet đã sử dụng ... rượu và các loại dược phẩm suốt hai năm cho đến khi như một phép lạ xảy ra Janet gặp Hugh Dudley Auchincloss, một nhân vật không có gì là quyến rũ cho lắm nhưng ngược lại rất giầu có và hầu như rất tử tế với hai cô bé. Jackie đã thật nhanh nhẹn để tự mình trở thành một đồng minh của người cha ghẻ này, một thiệt thòi lớn lao đối với người cha ruột của cô bé. Vào năm 18 tuổi, như tất cả những thiếu nữ "trưởng giả", Jacqueline Bouvier chính thức hội nhập vào giới thượng lưu New-York. Nhân dịp buổi khiêu vũ đầu tiên của cô, một chiếc áo dài (robe) vải tulle trắng (có thể được mua lại vì Auchincloss tuy giầu có nhưng không thể là một kẻ hoang phí), cô thiếu nữ này đã thu hút biết bao nhiêu cặp mắt chiêm ngưỡng. Nhưng đúng theo "chiến lược" mà cô đã đặt ra cho mình, cô không quan tâm đặc biệt vào bất kỳ một người nào mà tự đặt vị trí của cô ta trên mọi người. Thời điểm của cô chưa đến . Cũng vào thời kỳ này cô ta tạm thời rời bỏ Hoa Kỳ và ghi tên theo học văn chương tại viện đại học lừng danh của nước Pháp: Sorbonne - Paris. Dù rằng với những hạn chế còn phải bắt buộc áp dụng sau thời kỳ chiến tranh nhưng cuộc sống tại Paris đã rất thích hợp với người thiếu nữ này. Vẻ duyên dáng của cô ta đã lôi cuốn biết bao nhiêu chàng trai đồng lứa của Paris trong thời kỳ đó nhưng tất cả những anh chàng ngấp nghé... đều phải hứng chịu sự... từ chối quyết liệt ngay tức thời. Jacqueline không phải là không biết cảm động trước những lời khen tụng nhưng cô ta lại chỉ có thể "yếu đuối" với những người đàn ông thực sự gọi là đàn ông chứ không hề động lòng đối với những chàng trai trẻ. Nhân dịp được trúng giải thưởng tổ chức bởi tờ Vogue, Jackie đã có thể còn kéo dài được những ngày lưu ngụ tại thủ đô ánh sáng và rất có thể định cư tại đây nhưng lần này thì cô ta đã ngả theo lời thuyết phục của bà mẹ và lựa chọn để trở lại Hoa Kỳ, một quyết định mà sau này cô đã phải chua cay hối hận. Năm 1951 Jacqueline ra trường với cấp bằng tốt nghiệp Văn Chương Pháp của đại học George Washington. Cũng trong năm 1951, nhờ vào những can thiệp của người cha ghẻ, Jackie vào làm việc cho tờ Times-Herald với tư cách là một phóng viên chụp ảnh. Trong những diễn biến này và như một sự vắng mặt của chính cô ta, Jackie đã hứa hôn với một người chủ ngân hàng trẻ, John Husted nhưng rất nhanh sau đó, cô đã từ hôn vì... trong cùng thời gian đó, trong một cuộc ăn tối tại nhà một người bạn chung, một ứng viên vào thương nghị viện, một ngôi sao đang lên của chính giới Hoa Kỳ, người ta đã giới thiệu với cô, John Fitzgerald Kennedy, 12 tuổi lớn hơn Jackie và không có vẻ gì là một kẻ si tình đẫn đờ như những người khác; nhưng cô con gái của Jack Bouvier , Black Jack , đã quyết định : Đây chính là người cô chọn lựa. Cô gạt bỏ ngoài tai những lời khuyến cáo, khuyên nhủ kể kể về đời sống tình cảm của J. F. Kennedy, bởi lẽ John gần giống như Jack Bouvier nếu không nói đến vóc dáng. Cũng như cha cô ta, John rất ưa thích được tháp tùng bởi những người đàn bà, và hiển nhiên, chàng trai này cũng chẳng nhiều tế nhị về chuyện này. Nhưng Jackie cương quyết : Cô sẽ chiến thắng và sẽ lấy anh chàng đào hoa này. Khi John, anh chàng "trúng số độc đắc" này, mời cô bạn trẻ đến Hyannis Port để giới thiệu với "bè phái" Kennedy, đối với Jackie đây không phải là một chiến thắng dể dàng cho cô ta. Mọi người đã ngắm nghiá, quan sát nàng với đầy vẻ ngờ vực; duy nhất chỉ một mình Joe, người cha chồng tương lai, chấp nhận Jackie. Người đàn bà trẻ, có học thức, đạo thiên chúa như những người trong gia đình Kennedy với một nhan sắc đặc biệt đã làm ông ta cảm xúc, đây chính là một người vợ hoàn toàn cho cậu con trai ăn chơi của ông, ông linh cảm là như vậy. Trong khi chờ đợi thì Lee, cô em gái, lấy chồng vào tháng 4 năm 1952. Một tháng sau, John Kennedy, hình như đã cắt đứt những liên hệ tình cảm mà chàng ta đã có cùng một lúc với nhiều người, cuối cùng rồi cũng ngỏ với Jackie : cầu hôn... bằng một bức điện báo (télégramme). Jacqueline Bouvier khi đó đang có mặt tại Âu châu để lấy hình ảnh cho tờ báo mà cô đang làm việc về biến cố đăng quang của Nữ Hoàng Elisabeth II (Anh Quốc), lẽ tất nhiên rất vui thích nhưng như một nhà chiến lược giỏi, cô đã vặn lại là để cô có thời giờ suy nghĩ và sẽ trả lời. Cuộc hôn lễ của họ đã diễn ra tại nhà thờ công giáo St. Mary, ở Newport vào ngày 12 tháng 9 năm 1953 như một biến cố của thế giới với 3000 người tham dự và là chủ đề số một trong năm của báo giới và các cơ quan truyền thông. Duy nhất chỉ một " đám mây mờ " trên bức tranh quá lý tưởng này : Jack Bouvier vì đã quá chén đêm hôm trước nên không còn đủ khả năng để tham dự vào nghi lễ. Vai trò người cha đã do Hugh Auchincloss thủ diễn, ông ta đã đưa cô dâu đến trước bàn thờ. Tuy chuyện quan trọng như vậy đã xảy ra nhưng Jacqueline Bouvier Kennedy vẫn còn đủ tình cảm để tha thứ cho người cha. Cặp vợ chồng mới cưới này thật đẹp đôi, thông minh, đầy tham vọng, và Jackie sẵn sàng vượt qua những chuyện điên rồ của tuổi trẻ mà John đã làm để giữ thể diện. Chính Jackie đã chẳng một lần tuyên bố rằng : "Tôi không tin rằng trên đời này lại có được những người chồng trung thành". Vị mật của tuần trăng mật diễn ra tại Acapulco đã rất nhanh để đổi thành cay đắng, và bà Kennedy mới mẻ này sẽ phải tăng cường thêm cái bức chắn đạn của bà để có thể phóng mình tiến tới như bà đã lựa chọn. Jackie đã sống sót qua sự đau khổ nhất mà bà đã chịu đựng qua sự tan vỡ của cha mẹ bà, bà cũng sẽ sống sót qua những khổ đau khác nữa. J. F. Kennedy là một người phóng đãng ngay từ khi mới chào đời và, như chính ông ta cũng đã tự thú , ông ta sẽ không thay đổi. Thêm vào những khó khăn đầu tiên này là sự mất mát một đứa con vì sẩy thai (1955-1956) . Một trong những người bạn của cặp vợ chồng này đã phải nói rằng : "Mới chỉ một năm sau ngày hôn lễ, Jackie đã thờ thẫn như một kẻ sống sót sau một thảm hoạ rớt máy bay". Người ta đã có ý nghĩ về một sự chia tay giữa Jackie và JF. Kennedy. Nhưng nếu cho đây là một điều quan trọng về tin đồn đãi này sẽ nhất định phải xảy ra là người ta đã không hiểu gì về vị "đệ nhất phu nhân tương lai" này. Năm 1957 là một năm thật sự đau đớn đối với Jacqueline, Jack Bouvier từ trần. Nhưng rất thường khi, sau một chuyến "đi " ảm đạm đau đớn lại được tiếp nối bởi một sự " đến " hoan hỉ vui sướng : ngày 27 tháng 11, Caroline Bouvier Kennedy ra chào đời và đây là một niềm hạnh phúc lớn cho cập vợ chồng này. Vào năm 1960, đúng 46 tuổi, JF Kennedy chính thức là ứng cử viên vào chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ. Vợ ông ta đó, hiện diện bên cạnh ông, như bà vẫn luôn luôn hiện diện. Kể từ ngày đó, Jackie đã chú trọng đến chính trị và bà đã bỏ phiều lần đầu tiên Người vợ kiểu mẫu nhận xét giản dị bề ngoài, người mẹ đáng nói gương - Caroline lúc này cũng đã có một cậu em trai, John-John, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1960 -, Jackie chinh phục nhanh chóng thiện cảm của những người Hoa Kỳ, sau đó tại khắp nơi trên thế giới khi đến thăm viếng qua khả năng ngôn ngữ của bà : đến New-York, trong vùng đông Harlem, Jackie nói tiếng Tây Ban Nha, đến Haiti Jackie sử dụng tiếng Pháp... hoặc tại Paris người ta đã được thấy đông đảo dân chúng Pháp tiếp đón với những lời chào đón : "Vive Jacqueline !" . Chính Jackie cũng là người đem lại cho toà nhà Bạch Ốc vẻ thanh lịch, qua khiếu thẩm mỹ, yêu chuộng nghệ thuật của bà . Jackie đã là một vị đệ nhất phu nhân trẻ tuổi nhất của Hoa Kỳ kể từ Frances Cleveland. Những người đàn bà Mỹ và thế giới vào thời này đã xem Jackie như một khuôn mẫu về thời trang, dáng dấp, cử chỉ điệu bộ Huyền thoại được nẩy sinh kể từ đó . Nhưng năm 1963 đến, năm của những bất hạnh lớn lao nhất. Đây là lần thứ hai, cặp vợ chồng này lại bị mất một đứa con, Patrick. Ngày 12 tháng 9, Jackie và John đã ăn mừng năm thứ 10 cuộc hôn nhân của họ, đây cũng là lần cuối cùng. Ngày 22 tháng 11 năm 1963 đã in sâu trong thâm tâm mọi người. John F. Kennedy đã bị ám sát chết khi ông đi qua , trên chiếc xe hơi mui trần , Elm Street tại Dallas. Ngày đó, Jackie đã biểu lộ phẩm cách và một sức mạnh vô biên, chính bà đã tổ chức cho tang lễ của người chồng, ngay cả trong những chi tiết thật nhỏ nhặt . Jackie goá chồng vào năm mới chỉ được 34 tuổi và Lee, lúc này đã lấy người chồng thứ hai là ông hoàng Stanislas Radziwild, ước muốn người chị cùng các con của bà về định cư tại New-York . Rồi cuộc sống thường nhật cũng trôi qua, công chúng cũng yên tâm và giới truyền thông cũng lại sẽ có những đề để đề cập đến Jackie... hơn nữa họ đã có những gì để có thể viết, có thể nói bởi lẽ Jackie đã cùng viết với một ký giả tên là William Manchester một quyển sách mà quyển sách này đã là đối tượng cho dư luận lúc đó - ngay cả với pháp lý nữa. Sau những rắc rối, Chân Dung của một vị tổng thống đã được xuất bản vào tháng 4 năm 1967 : Đây là một best-seller - quyển sách bán chạy nhất trong năm. Không bao giờ để phải bị lúng túng, không bao giờ để bị bất ngờ trước đối thủ, cất cao đầu và trực diện để đối phó : Đây là lối sống được thực hiện bởi Jackie Bouvier Kennedy. Bà đã nói về người chồng quá vãng của bà rằng : "ông ấy cứng cỏi như một khối đá" ; và chính bà cũng như vậy. Jackie đã đứng ra thành lập thư viện John-Kennedy và, dù cho nhiều sự bất hòa đã có từ lâu, nhưng Jackie vẫn tự giữ cho bà vị trí thân cận với "clan" Kennedy đặc biệt là với người em chồng Bob Kennedy. Nhưng vào ngày 6 tháng 6 năm 1968, đến lượt Robert Kennedy vĩnh viễn nằm xuống, nạn nhân của một cuộc mưu sát. Sau khi bị mất cha của những đứa con bà, lần này Jackie lại bị mất thêm một người, cùng với vợ ông ta, Ethel, là người đã luôn luôn hỗ trợ cho bà trong mọi tình huống. Jackie thật đau khổ và, đây là lần đầu tiên trong đời bà ta, đã tìm trốn bằng những liều thuốc ngủ, thuốc an thần và ngay cả rượu. Nhưng cũng lại rất nhanh chóng, Jackie vượt thoát vòng luẩn quẩn độc hại này và với sự kinh ngạc của tất cả mọi người, bà đã xuất hiện bên cạnh người đàn ông lớn tuổi nhưng đã biết kiên nhẫn chờ đợi bà, gíup đỡ bà, yêu bà theo kiểu cách của ông ta : Aristote Onassis. Con sói biển già này biết rất nhiều về đàn bà, mối liên hệ náo động giữa ông ta và Maria Callas đã cũng có nhiều sự chê bai của thiên hạ. Năm 1968, chính ông ta đã cũng từng tuyên bố khi đề cập đến Jackie : " Đây là một người đàn bà hoàn toàn không ai có thể hiểu nổi. Cũng có thể chính ngay cả bà ta nữa ". Jackie chưa được 40, trong khi đó ông ta đã vượt quá lục tuần; những lời chê bai bình phẩm và những phản ứng của gia đình Kennedy. Rồi " giao kèo mua bán " cũng được thoả thuận : Ngày 20 tháng 10 năm 1968, Ari và Jackie làm hôn lễ tại Skorpios, hòn đảo đầy ánh mặt trời của họ tại Hy Lạp.Để trà lời một người " bạn gái " đã muốn nói với Jackie rằng sự kết hợp này là một hôn nhân không tương xứng một chút nào, vị hôn thê mới đã trả lời : " Thà như thế cũng còn hơn là tôi phải biến sững thành một bức tượng đá ". Vị chủ tầu buôn lừng danh đã đối đãi với cô vợ trẻ mới của ông ta như một nữ hoàng, ông đã cho xây cất cho bà vợ này một ngôi biệt thự với 160 phòng , sự rộng rãi của ông không còn một giới hạn nào và bà vợ trẻ này đã xử dụng ...và cũng phải nói là...lạm dụng. Rồi cũng dần dần theo ngày tháng...người tỷ phú già này đã tự tìm lại cho ông hai chữ tự do, bỏ quên cô vợ bé bỏng người Mỹ để bùng cháy trong ngọn lửa tình đam mê của ông ta , Callas. Đối với ông ta, tình huống rất rõ rệt : " Jackie là một con chim cũng cần thiết sự tự do như sự an toàn. Tôi cống hiến cho bà ấy cà hai thứ đó. Bà ta có thể làm những gì mà bà ấy muốn , lẽ dĩ nhiên tôi cũng như thế. " Lẽ hiển nhiên không cần phải ngờ vực gì nữa, mọi việc đã diễn ra không có vẽ tròn vẹn như mọi người đã nghĩ. Và vào tháng Giêng năm 1973, sự bất hạnh đã xẩy đến : Alexandre, con trai của Aristote, đã tử nạn trong một tai nạn máy bay. Aristote Onassis, kẻ lão luyện già, bị hằn thấu dấu vết đau thương trong tận cùng xương tủy , đã ngã qụy. Buổi tiệc liên hoan đã chấm dứt cho ông ta vào tháng 3 năm 1975. Jack Bouvier, John Kennedy, Aristote Onassis. Ba lần thần chết đã đập vào Jackie để một ngày chính bà ta đã phải thốt ra : " Tôi đã sống qua những người đàn ông ". Cuộc sống tình cảm của Jackie cũng chẳng còn là những chủ đề lớn trên báo chí nữa. Mauric Tempelsman, cố vấn tài chánh và là một người bạn, đã đem lại cho Jackie sự yên ổn và niềm thanh thản. Họ đã sống chung với nhau suốt 14 năm. Mỗi ngày, cặp tình nhân đó bình thản dạo bộ tại Central Park, gần như những kẻ vô danh. Người đàn bà trước đây đã làm một khuôn mặt quan trọng trong lãnh vực thời trang của nữ giới nay không còn bận tâm đến bề ngoài của mình nữa; bà ta làm việc với tư cách một nữ giám đốc văn chương và đóng vai trò một bà ngoại bên cạnh 3 đưá con của Caroline cô con gái : Rose, Tatiana và Jack , 3 đứa trẻ luôn luôn tháp tùng bà ta và Mauric Tempelsman. Tháng 2 năm 1994, Jackie biết được rằng chứng bệnh ung thư hệ thống mạch bạch huyết đã lan tràn, hủy hoại cơ thể bà . Ngày 19 tháng 5, Jackie từ trần với sự hiện diện của những người thân thuộc. Sự ra đi này dù rằng quá sớm nhưng lại cũng tránh cho bà một bất hạnh lớn lao khác : cái chết bi thương của cậu con trai , John-John. Cho dù dưới một cái tên hơi xa lạ, Jacqueline Onassis, nhưng vẫn là Jacqueline Kennedy cũng đã trở về đoàn tụ với John Fitzgerald Kennedy, vị cố tổng thống trẻ tuổi nhất bị ám sát của Hoa Kỳ . Và Jackie cũng lại được nằm, lần này vĩnh viễn nằm bên cạnh người chồng và hai đứa con thân quý của bà trong lúc sinh tiền tại nghĩa trang quốc gia Hoa Kỳ - Arlington . Nói một cách khá ngược đời, đôi khi thì cái chết lại rất êm ái và cũng lại để bảo vệ, để đối kháng với những bất công nhiều lúc thật đau thương mà con người phải hứng chịu trong cuộc sống
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 1, 2012 5:30:35 GMT 9
Thống Đốc Romney: Ông Là Ai? 07/31/2012 Tác giả : Vũ Linh ...khả năng vận động tranh cử của ông vẫn không bằng tài nói mát tai của TT Obama...
Mặc dù đại hội hai đảng chưa tổ chức, nhưng ai cũng biết ứng viên của hai chính đảng. Tuần trước, ta đã có dịp nhìn lại TT Obama, bây giờ ta thử xét TĐ Romney.
Thống Đốc Mitt Romney sanh năm 1947, từ một gia đình nổi tiếng trong chính trị Mỹ. Ông thân sinh là George Romney, thống đốc tiểu bang Michigan từ 1963 đến 1969, dưới thời TT Johnson. Xuất thân là một đại doanh gia rất thành công, ông George Romney từng là Tổng Giám Đốc hãng xe lớn thứ tư của Mỹ, American Motors Company (AMC), là hãng sản xuất cái xe mà không có một quân nhân nào trên thế giới không biết đến: xe Jeep. Thập niên 80, AMC được bán cho hãng xe Pháp Renault, sau đó, Renault bán lại cho Chrysler, và bây giờ Chrysler vẫn tiếp tục sản xuất xe Jeep.
Năm 1962, ông Romney cha bỏ kinh doanh tham gia vào chính trị, đắc cử Thống Đốc Michigan. Ông theo đảng Cộng Hoà, nhưng có khuynh hướng ôn hòa, có thể nói là cấp tiến trong đảng, là cha đẻ ra thuế lợi tức của tiểu bang, ủng hộ mạnh phong trào đòi dân quyền cho dân da màu của thập niên 60, chống lại nhóm Cộng Hòa thiên hữu cực đoan của TNS Barry Goldwater. Ông có quan điểm ủng hộ cuộc tham chiến của Mỹ tại Việt Nam thời đó. Năm 1967, ông ra tranh cử tổng thống, chạy đua cùng cựu PTT Nixon. Ông dẫn đầu Nixon khá xa và có triển vọng đắc cử trong nội bộ đảng Cộng Hòa. Nhưng trước không khí chống chiến tranh Việt Nam, ông thay đổi quan điểm, bắt đầu chống việc Mỹ tham chiến. Ông cho rằng trước đây, ông đã bị các tướng lãnh Mỹ “tẩy não” khi ông viếng thăm Việt Nam nên suy nghĩ sai lầm. Câu chuyện này trở thành xì-căng-đan, ông bị tố không có đủ khả năng trí thức để lãnh đạo, rớt đài mau chóng, phải rút lui ra khỏi cuộc chạy đua. Kỳ bầu đó, Nixon thắng, nhưng bổ nhiệm ông George Romney làm bộ trưởng Gia Cư, và ông đã thi hành một chính sách rất cấp tiến, xây nhà hàng loạt cho dân lợi tức thấp. Ông mất năm 1995, để lại một gia tài lớn cho con, nhưng ông Mitt Romney đã mang hết tài sản này tặng cho từ thiện.
Ông Mitt Romney như vậy xuất thân từ gia đình “đại gia”, tốt nghiệp những trường lớn như Brigham Young và Harvard. Sau khi tốt nghiệp, ông Romney đi làm cho một công ty tư vấn về quản lý kinh doanh có tầm vóc quốc tế với chi nhánh tại nhiều nước, Bain & Company. Công ty phát triển mau chóng, nhưng đến giữa thập niên 80, bị đe dọa phá sản vì những tranh chấp cá nhân trong nhóm lãnh đạo công ty.
Năm 1984, một công ty mới được thành lập, lấy tên Bain Capital, và ông Mitt Romney được bổ nhiệm làm tổng giám đốc. Cần ghi nhận là hai công ty Bain & Company và Bain Capital khác nhau. Công ty đầu là công ty tư vấn về quản lý doanh nghiệp, trong khi Bain Capital là công ty chuyên đầu tư mạo hiểm, bỏ vốn vào các công ty có triển vọng nhưng nhiều rủi ro, đặc biệt là các công ty đang gặp khó khăn, hay mới thành lập. Trong thời gian này, Bain Capital đã cứu hàng trăm công ty khỏi phá sản hay giúp tung ra thị trường hàng trăm công ty khác, trong đó có những công ty ngày nay đã trở thành khổng lồ như Staples với 90.000 nhân viên, Home Depot, Dominos Pizza, Burger King..., tức là đã cứu hay tạo thêm hàng trăm ngàn việc làm.
Năm 1999, ông Romney từ chức TGĐ Bain Capital, nhưng vẫn là cổ đông lớn. Ông qua điều hành chương trình Thế Vận Mùa Đông (Winter Olympics) tại Salt Lake City năm 2002, đưa ra hàng loạt cải cách tinh giản hoá hệ thống tổ chức, cắt giảm chi tiêu, cứu chương trình này khỏi bị phá sản, mang lại thành công lớn cho Thế Vận năm đó. Ông làm ba năm cho chương trình này, với tư cách tình nguyện không ăn lương.
Sau đó, năm 2002, ông tranh cử và đắc cử Thống Đốc Massachusetts, làm một nhiệm kỳ đến cuối 2006 và không ra tranh cử lại. Trong bốn năm ngắn ngủi đó, ông đã thực hiện được hai chuyện: xoá bỏ 1,5 tỷ thâm thủng ngân sách tiểu bang bằng cách cải tổ hệ thống hành chánh tiểu bang và cắt chi tiêu mà không cần tăng thuế; thiết lập bảo hiểm y tế toàn dân đầu tiên của nước Mỹ. Trong bốn năm này, ông cũng không lãnh một đồng lương nào.
Năm 2008, ông ra tranh cử tổng thống, nhưng bị TNS John McCain hạ trong nội bộ đảng Cộng Hoà. Năm nay ra lại, và sau nhiều cam go, cuối cùng đã trở thành ứng viên của Đảng Cộng Hoà.
Dựa trên thành tích cải tổ doanh nghiệp, cứu Thế Vận, và cân bằng ngân sách tại Massachusetts, ông chỉ trích giải pháp của TT Obama, bành trướng hệ thống hành chánh thư lại, tăng chi tiêu để rồi đòi tăng thuế không thể là giải pháp đúng để giải quyết khó khăn kinh tế hiện nay. Bảo hiểm y tế của TĐ Romney được coi như là mô thức mẫu cho cải tổ y tế của TT Obama, nhưng ông Romney khẳng định mô thức của ông khác xa chế độ y tế của TT Obama, cũng như chỉ có thể áp dụng được cho Massachusetts chứ không thích hợp với tất cả 50 tiểu bang. Ông cam kết sẽ thu hồi luật cải tổ của TT Obama nếu đắc cử tổng thống.
Ông Romney chủ trương không đại xá cho những di dân bất hợp pháp, chống hôn nhân đồng tính, giới hạn phá thai, miễn thuế cho các đại công ty có cơ sở ở nước ngoài muốn mang tiền và cơ sở kinh doanh về Mỹ lại, không can thiệp quân sự ngoài nước Mỹ nếu an ninh của Mỹ không bị đe dọa, tiếp tục chính sách cứng rắn chống khủng bố cũng như chống các đe dọa nguyên tử như Iran và Bắc Hàn, ủng hộ mạnh mẽ Do Thái. Các chương trình an sinh xã hội như tiền già, medicare, medicaid cần được xét lại để cải tổ, tránh phá sản trong vài năm nữa.
Khối cử tri quan trọng nhất của TĐ Romney là giới trung lưu và thượng lưu, đàn ông Mỹ trắng, trong khi ông vẫn không tìm được hậu thuẫn trong khối dân da màu, dân gốc thiểu số Nam Mỹ hay Á Châu, giới trí thức trẻ, và phụ nữ. TT Obama vì không có thành quả gì đáng kể nên đã tìm cách kiếm phiếu bằng những biện pháp lấy lòng từng khối cử tri nhỏ như khối di dân (cấm không cho trục xuất những người ở lậu trong tuổi đi học), khối sinh viên (giới hạn lãi xuất trên tiền cho sinh viên vay), hay khối dân đồng tính (ủng hộ hôn nhân đồng tính). Tất cả những biện pháp lẻ tẻ, quyết định vài tháng trước ngày bầu cử, tuy lộ liễu như những cố gắng lấy phiếu, nhưng cũng rất hiệu quả.
TT Obama trong thời gian qua cũng tung hàng trăm triệu quảng cáo trên truyền hình. Dựa trên các quảng cáo của TT Obama, TĐ Romney trên căn bản có ba tội lớn: 1) giàu có, có tiền cất ở ngoài nước, 2) khi còn làm tổng giám đốc hãng Baine Capital chuyên sa thải nhân công, 3) cũng như chuyên mở công ty tại nước ngoài, mang jobs ra khỏi Mỹ. Đại ý, TT Obama muốn thiên hạ thấy ông Romney chỉ là một tài phiệt biết kiếm tiền và ngồi đếm tiền mà không thắc mắc sẽ có bao nhiêu người mất việc, và bầu cho ông thì sẽ còn nhiều người mất việc hơn nữa.
Đúng là TĐ Romney có nhiều tiền và một số được cất ngoài nước. Nhưng như vậy theo lý luận này thì “giàu” là cái tội sao? Giàu nhờ ăn cướp kiểu trùm mafia Al Capone thì quả là cái tội, nhưng giàu vì có khả năng và chịu khó cầy cuốc như Bill Gates, Warren Buffett cũng là tội sao? Còn chuyện cất tiền ở ngoài nước thì đúng ra phải là điều TT Obama nghiên cứu kỹ hơn và đặt câu hỏi tại sao và làm cách nào sửa đổi. Có phải tại vì thuế quá cao và thủ tục hành chánh quá rườm rà, do đó đã làm thất thoát một số tiền lớn cho Mỹ không? Và như vậy có nên tìm cách để chiêu dụ các tài phiệt mang tiền về để phát triển kinh tế đất nước thay vì sỉ vả họ, tăng thuế và đặt thêm luật?
Chuyện tố TĐ Romney là “nhà giàu” nằm trong chiến lược kích động đấu tranh giai cấp mới chứ thật sự không nghiã lý gì. Hình ảnh đảng Dân Chủ như đảng của người nghèo là một huyền thoại vô lý nhất mà vẫn được nhai lại không ngừng. Tất cả ứng viên tổng thống trong lịch sử cận đại đều là triệu phú hết, kể cả tất cả các ứng viên của đảng “nhà nghèo” như Obama, Kerry, Gore, Clinton, đến Johnson và Kennedy.
Cũng đúng là TĐ Romney trong lúc làm cho Bain Capital đã khuyến cáo các công ty bên bờ phá sản phải sa thải bớt nhân công. Nhưng chỉ trích điểm này là chú tâm vào khiá cạnh tiêu cực mà không nhìn vào hàng trăm ngàn người khác đã có việc làm. Ngay cả các chính khách Dân Chủ như thị trưởng Cory Booker, cựu Chủ Tịch đảng Dân Chủ Ed Rendell... và đến cả TT Clinton cũng đã phải lên tiếng bênh vực thành quả của Baine Capital và TĐ Romney.
Chuyện ông Romney chuyên mang jobs ra nước ngoài không đúng sự thật. Sau năm 1999, Baine Capital đầu tư mạnh vào một số hãng Mỹ mở chi nhánh tại nước ngoài, nhưng khi đó, ông Romney đã hết làm tổng giám đốc rồi vì mắc lo Thế Vận tại Salt Lake City, không có quyền quyết định gì trong Bain Capital nữa.
Qua những quảng cáo trên truyền hình và báo chí, người ta không thấy TT Obama quảng bá thành tích gần bốn năm của ông, mà chỉ thấy toàn là những đả kích chống TĐ Romney. Một cố gắng hăm dọa cử tri khiến cử tri phải lo sợ về một viễn tượng Romney làm tổng thống. Đó là chiến lược tranh cử tiêu cực mà ứng viên Obama đã từng lớn tiếng bác bỏ.
Năm 2008, ứng viên Obama trong bài diễn văn chấp nhận đề cử của đảng Dân Chủ tại Denver dõng dạc tuyên bố: “Nếu ra tranh cử mà không có thành tích gì thì phải tô vẽ đối thủ của mình như một người cần xa lánh” (nguyên văn: If you don't have a record to run on, then you paint your opponent as someone people should run from). Theo ông Obama, đó là chính trị của quá khứ phản ánh một thái độ giả dối gian trá (cynicism) và “các bạn đã đứng dậy, từng người một, để nói đủ rồi với cái chính trị của quá khứ đó”.
Cử tri Mỹ đã “mê” Obama vì những quan điểm tươi mát này. Nhưng điều hiển nhiên chính là TT Obama đang trở về cái chính trị của quá khứ mà ông từng đả kích, qua chiến lược mang con ngáo ộp Romney ra đe dọa cử tri. Thế mới nói chính trị gia nói dzậy mà không bao giờ là dzậy.
TT Obama tránh không đả động đến tôn giáo của TĐ Romney, nhưng không ít chính khách khác trong đảng Dân Chủ cũng như trong guồng máy vận động của TT Obama công khai đặt vấn đề ông Romney theo đạo Mormon, được nhiều dân Công giáo coi như một “tà giáo”. Đạo Mormon chủ trương kiêng rượu, thuốc lá, trà, cà phê, coi nặng tinh thần cộng đồng, và trước đây cũng chấp nhận đa thê.
Ông Romney là một chuyên gia kinh doanh và kinh tế, không phải là một tay hùng biện chính trị kiểu các mục sư da màu, lại càng không chịu hứa trăng hẹn biển gì nhiều, do đó, khả năng đọc diễn văn tranh cử thua xa TT Obama. Trên căn bản, ông chỉ cam kết hai chuyện mà ông cho là quan trọng nhất hiện nay: thu hồi luật Cải Tổ Y Tế của TT Obama và phục hồi kinh tế bằng cách cắt giảm chi tiêu và giữ mức thuế thấp cho tất cả mọi người. Không có những lời hứa đổi đời như đại đoàn kết dân tộc, thay đổi không khí chính trị Hoa Thịnh Đốn, hay những sáo ngữ vô lý như “tạo bình minh mới” hay “hạ thủy triều”.
So với TT Obama, ông Romney có nhiều kinh nghiệm chính trị và kinh tế, nên có đầu óc thực tiễn hơn, từ đó cũng dễ uyển chuyển thay đổi lập trường hơn. Như trước đây ông ủng hộ phá thai, bây giờ thì không.
Những thay đổi quan điểm này đã bị TT Obama tố cáo như là thái độ lươn lẹo bất nhất, nhưng quan trọng hơn những tố giác của TT Obama, những thay đổi đó khiến khối bảo thủ Cộng Hòa cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào ông Romney. Thăm dò dư luận cho thấy ông được hậu thuẫn ngang ngửa với TT Obama, nhưng một phần lớn hậu thuẫn ông Romney có chỉ phản ánh thái độ chống Obama chứ không phải là thái độ hậu thuẫn Romney.
Thật ra, chính khách có quan điểm chính trị nhất định, không thay đổi, có lẽ hiếm hơn tuyết rơi mùa hè, nhất là trong cái thể chế dân chủ mỵ dân kiểu Mỹ. Kiếm phiếu cử tri là điều quan trọng nhất, quan điểm hay hứa hẹn chỉ là phương tiện, có thể du di tùy nhu cầu. Cột báo này đã bàn nhiều về những “thay đổi” quan điểm của TT Obama.
Nói chung, TĐ Romney là một người bảo thủ nhưng ôn hoà, sẵn sàng tìm thoả thuận với đối lập để giải quyết vấn đề, như khi ông làm Thống Đốc Massachusetts, phải làm việc với một quốc hội cấp tiến nhất. Thái độ ôn hòa đó giúp ông đắc cử và thành công trong một tiểu bang cấp tiến nhất. Với thái độ này, người ta có thể hy vọng ông sẽ làm việc được với các nghị sĩ và dân biểu Dân Chủ nếu ông đắc cử tổng thống, khác với TT Obama đã quá cứng ngắc trong quan điểm cấp tiến của ông để trở thành tổng thống tạo phân hoá lớn nhất lịch sử cận đại Mỹ, làm tê liệt cả lập pháp lẫn hành pháp.
Những thăm dò dư luận mới nhất cho thấy ông Romney vẫn ngang ngửa với TT Obama. Ông Romney hơn TT Obama 1% theo Gallup, hơn 5% theo Rasmussen, hơn 1% theo CBS/New York Times, thua 4% theo NBC, thua 4% theo Fox. Tất cả đều trong sai biệt xác xuất nên không có bao nhiêu ý nghiã, chưa kể sẽ còn thay đổi hàng ngày trong ba tháng tới. Hành trình của TĐ Romney cam go hơn TT Obama rất nhiều. Chẳng những vì dân Mỹ thông thường khá nhẫn nại với tổng thống vì muốn cho tổng thống thời giờ, nhất là khi phải trực diện với khủng hoảng mà nhiều người coi như lớn nhất thế kỷ, mà cũng vì ông Romney vẫn chưa thuyết phục được cử tri vì khả năng vận động tranh cử của ông vẫn không bằng tài nói mát tai của TT Obama.
TĐ Romney vẫn có hy vọng thắng nếu dân Mỹ chịu khó nhìn kỹ vào thành quả của bốn năm Obama, chấp nhận trao trách nhiệm giải quyết khó khăn kinh tế cho một chuyên gia kinh tế, thay vì tiếp tục sống trong ảo vọng của những lời hứa hẹn và hẹn hứa. Kinh tế èo uột vẫn là ưu tư số một của dân Mỹ. Và theo các thăm dò mới nhất, giải pháp của TT Obama được coi là sai lầm. 55% cử tri cho rằng TT Obama đã làm Nhà Nước ngày càng to lớn và nặng nề, 75% cho là dân Mỹ lệ thuộc quá nhiều vào Nhà Nước, 64% cho rằng Nhà Nước là vấn đề chứ không phải là giải pháp. (29-7-12)
Vũ Linh
|
|