|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 8:59:23 GMT 9
Hà Đông sư tử
Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quý Thường rất sợ vợ nhưng rất có lòng tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét om sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng. Tính của Trần cũng hào hoa, bằng hữu nhiều, nên ở nhà thường có yến tiệc. Để tăng phần hứng thú, long trọng của buổi tiệc, Trần chiều khách, mời kỹ nữ xướng ca. Liễu Thị trong phòng mượn điều này, điều nọ, quát tháo om sòm. Trần có lúc hốt hoảng, cầm gậy nơi tay bỏ rơi mất gậy. Bạn thân của Trần là Tô Đông Pha, nhân đó làm một bài thơ đùa cợt: Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền, Đàm không thuyết pháp dạ bất miên. Hốt văn Hà Đông sư tử hống, Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên. Tạm dịch: Ai hiền bằng thầy đồ Long Khâu, Đọc kinh thuyết pháp suốt đêm thâu, Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống, Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu. "Hà Đông sư tử" chỉ người đàn bà ghen dữ tợn. Tô Đông Pha dùng hai tiếng "Hà Đông" là mượn câu thơ của Đỗ Phủ: "Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu" (cô gái Hà Đông người họ Liễu) vì vợ của Quý Thường cũng họ Liễu. Và tiếng "Sư tử" do lời trong kinh Phật: sư tử là chúa loài thú, mỗi khi rống lên thì các thú vật đều khiếp đảm để vừa chỉ tính ghen dữ của Liễu Thị, vừa chỉ Quý Thường là một tín đồ đạo Phật. Tú Xương trong bài thơ vịnh cảnh lấy lẽ, có câu: Hậu hạ đã cam phiền cát lũy, Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 8:59:47 GMT 9
Lá thắm đưa duyên
Triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước được tuyển vào cung để làm cung nữ. Họ là những giai nhân bạc mạng, đi chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn tủi, sầu đau trong chốn thâm cung. Nhà vua có cả tam cung, lục viện, hàng ngàn cung nữ phi tần toàn bực diễm kiều, tài sắc cả. Mỗi đêm ngủ ở cung nào, nhà vua phải nhờ xe dê đưa đến. Xe dừng trước cung nào thì nhà vua vào cung ấy. Có những nàng hằng năm không được đoái hoài, đành chịu cảnh cô phòng giá lạnh. Đời Đường (618-907), đời vua Hy Tông có nàng cung nữ tuyệt sắc tên Hàn Thúy Tần sống cảnh lẻ loi buồn bực trong thâm cung, nên thường nhặt những chiếc lá đỏ (hồng diệp) rồi đề thơ lên trên lá, thả xuống ngòi nước: Nước chảy sao mà vội? Cung sâu suốt buổi nhàn. Ân cần nhờ lá thắm Trôi tuốt đến nhân gian. Nguyên văn: Lưu thủy hà thái cấp Cung trung tận nhật nhàn. Ân cần tạ hồng diệp. Hảo khứ đáo nhân gian. Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm lũy. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể Tướng Hàn Vinh tên Vưu Hựu vốn kẻ phong lưu tài tử, thơ hay, chữ tốt, chỉ hiềm một nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể Tướng họ Hàn. Đương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Hàn bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ mới vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng bẻ một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung. Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương, Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường. Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước, Gởi cho ai đó nói không tường. (Bản dịch của Phan Như Xuyên) Người cung nữ họ Hàn thường ngồi nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá trở vào của người không quen biết, mới đem cất vào rương son phấn. Ba năm sau, nhà vua sa thải một số cung nữ, trong đó có Thúy Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể Tướng họ Hàn để chờ thuyền trở về quê cũ, bỗng gặp Vưu Hựu. Hai người trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Tể Tướng họ Hàn thấy cả hai đều xứng đôi vừa lứa nên làm mối thành duyên giai ngẫu. Đêm tân hôn, Hựu chợt mở rương của vợ thấy chiếc lá của mình ngày xưa. Lấy làm lạ lùng, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được cho vợ xem. Thì ra cả hai lại giữ hai chiếc lá của nhau. Cho là thật duyên trời định. Cổ thi có bài: (*) Một đôi thi cú theo dòng nước Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy. Mừng bấy ngày nay loan sánh phụng Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai. Nguyên văn: Nhất liên giai cú tùy lưu thủy, Thập tải ưu tư mãn tố hoài. Kim nhật khước thành loan phượng lữ, Phương tri hồng diệp thị lương môi. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, có câu:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
hay: Dù khi lá thắm chỉ hồng,
và: Nàng rằng hồng diệp xích thằng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. "Lá thắm", "Hồng diệp" đều do điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:00:10 GMT 9
Lam Kiều
Lam Kiều là một cái cầu bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi tiên ở. Đời nhà Đường, triều Mục Tông (821-825), có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, lều chõng đi thi bao lần đều hỏng. Một hôm, Bùi thuê đò đi Tương Hán định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, sắc nước hương trời, con người đoan trang, thùy mị. Bùi sinh cảm mến, mong được giao duyên, mới mượn thơ thay lời, nhờ con nữ tỳ của giai nhân đưa hộ: Kẻ Hồ, người Việt còn thương nhớ, Huống cách người tiên chỉ bức mành. Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót, Xin theo loan hạc đến mây xanh. (Bản dịch của Phan Như Xuyên) Nguyên văn: Đồng vi Hồ Việt do hoài tưởng, Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình. Thắng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ, Nguyện tùy loan hạc nhập thành vân. Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mỉm cười. Nhưng thơ đi mà tin chẳng lại, Bùi rất lo lắng, băn khoăn. Nhưng khi đò sắp ghé bến, Bùi bỗng tiếp được thơ do con nữ tỳ của giai nhân đưa đến: Uống rượu Quỳnh Tương trăm cảnh sinh, Huyền Sương giã thuốc thấy Vân Anh. Lam Kiều vốn thật nơi tiên ở, Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh. Nguyên văn: Nhất ẩm Quỳnh Tương bách cảnh sinh, Huyền Sương đảo tận kiến Vân Anh. Lam Kiều tự hữu thần tiên quật, Hà tất khí khu thượng Ngọc Kinh. Bùi không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi; nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều đã thoáng mất. Nghiền ngẫm hai câu thơ cuối, Bùi không đến Ngọc Kinh, mà hỏi dò người, tìm đến Lam Kiều. Trời trưa nắng gắt, Bùi mệt mỏi, mồ hôi nhuễ nhoại. Ghé vào hàng nước, nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão chủ quán bảo người con gái đem nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng vẻ tựa Vân Kiều. Bùi hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều, tên Vân Anh. Bùi Hàng mừng rỡ, cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại cả hai bài thơ. Bà lão cười, bảo: - Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên em nó cho cậu đó. Bùi nghe nói lấy làm hớn hở. Nhưng bà lão cho biết là hiện bà có cái cối, song thiếu chiếc chày ngọc để giã thuốc Huyền Sương, nếu Bùi tìm được chày thì bà sẽ gả Vân Anh cho. Bùi Hàng bằng lòng. Nhưng đi tìm mãi khắp nơi mà không biết ở đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết. Tưởng hoàn toàn thất vọng, chàng đi lang thang. May mắn, một hôm, chàng gặp được tiên cho chiếc chày ngọc. Thế là duyên thành. Sau cả hai vợ chồng Bùi Hàng đều tu thành tiên cả. Những tác phẩm cổ văn của ta có nhiều đoạn dùng điển tích này: Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. (Đoạn trường tân thanh) Chầy sương chưa nên cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng? (Đoạn trường tân thanh) Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào?
"Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ gặp duyên tốt đẹp... như gặp duyên với tiên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:00:43 GMT 9
Đào yêu
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh Thúy Kiều sang thư phòng người yêu là Kim Trọng, khi chàng này sắp sửa không còn giữ vẻ đứng đắn, Kiều mới khuyên ý trung nhân, có câu: Rẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào! Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh. Đã cho vào bực bố kinh, Đạo tùng phu lấy chữ trinh làm đầu." Thưa rằng: "Đừng lấy làm chơi, "Yêu đào" nguyên lấy chữ "Đào yêu" trong kinh Thi. Thơ "Đào yêu" gồm ba chương:
I Đào chi yêu yêu, Thước thước kỳ hoa. Chi tử vu qui, Nghi kỳ thất gia. II Đào chi yêu yêu, Hữu phần kỳ thật. Chi tử vu qui. Nghi kỳ gia thất. III Đào chi yêu yêu, Kỳ điệp trăn trăn. Chi tử vu qui. Nghi kỳ gia nhân. Tạm dịch: I Mơn mởn đào non, Rực rỡ nở hoa. Cô ấy lấy chồng, Êm ấm cửa nhà. II Mơn mởn đào non, Lúc lỉu quả sai. Cô ấy lấy chồng, Êm ấm nhà ai. III Mơn mởn đào non, Lá xanh rườm rà. Cô ấy lấy chồng, Thuận với người nhà. (Bản dịch của Lê Văn Hòe) "Yêu đào" tức là cây đào non mơn mởn. Người ta ví một người con gái dậy thì đến tuổi lấy chồng với "Yêu đào". Trong "Đoạn trường tân thanh", đoạn Kim Trọng và Thúy Kiều tái hợp, Thúy Vân khuyên chị kết duyên lại cùng Kim Trọng, cũng có câu: "Đào non, sớm liệu, xe tơ kịp thì"
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:01:47 GMT 9
Động Đào Nguyên
Đào Nguyên còn gọi là động Bích. Đây là chỗ tiên ở. Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú. Định co người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng. Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản. Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường. Những bực phụ lão lại nói: - Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà Tấn. Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây. Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt. Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi, trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái Thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại. Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo chàng ngư phủ tìm lại động Đào Nguyên, nhưng hai người bị lạc đường đành phải trở về. Trong truyện "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự có câu: "Nào hay là khách Đào Nguyên đã về". Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du đoạn thuật lại lời Thúy Kiều nói với Kim Trọng trong khi nhà vắng, nàng lén sang chỗ ở của chàng, có câu: "Xắn tay mở khóa động Đào". "Động Đào" là động Đào Nguyên, Kiều dùng lối thậm xưng, đề cao chỗ ở của tình nhân như một cõi tiên; và nàng cũng vinh hạnh được vào... cõi tiên ấy. Trong "Tần cung nữ oán Bái Công văn" của Nguyễn Hữu Chỉnh (?) có câu: "Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc ngư phủ đã đưa vào động Bích". "Động Đào", "Đào Nguyên", "động Bích" đều do điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:02:13 GMT 9
Mười bài thơ đoạn trường
Thúy Kiều, con của viên ngoại họ Vương, người ở Bắc Kinh. Nàng yêu kiều diễm lệ, có một thái độ phong lưu, tính thích hào hoa, thích âm luật, sở trường về hồ cầm. Vốn đa cảm, giàu tình, nàng sáng tác bài "Bạc mệnh oán" để hát theo khúc hồ cầm, khi gảy lên nghe rất não nùng, ai cũng sa nước mắt. Một hôm, nhân tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng hai em đi tảo mộ và nhân tiện xem hội Đạp Thanh. Lúc trở vê, Kiều nhìn bên dòng nước có một nấm mồ hoang cô lạnh, hỏi ra mới biết đó là mồ của nàng ca nhi tên Lưu Đạm Tiên. Trước sống mua vui cho khách làng chơi, chết làm ma không chồng trong nấm mồ vô chủ. Kiều cảm động, rơi nước mắt, khóc cho kiếp hồng nhan. Về nhà, đêm khuya vắng vẻ, nàng cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm cõi lòng. Nghĩ phận người lại nghĩ phận mình, hay kiếp hồng nhan rồi phải chung mạng bạc! Nàng tựa ghế thiu thiu, rồi ngủ say lúc nào không biết. Giữa lúc ấy, thấy một thiếu nữ tiến đến chào và hỏi rằng: - Này chị Thúy Kiều, đương lúc ngày xuân phơi phới sao không hỏi liễu tìm hoa, mà lại chịu ngủ ở nhà như vậy? Kiều nghe nói, vội vàng đứng dậy, sửa áo đón mời, nhìn thấy thiếu nữ má đào, môi hạnh, dáng điệu như tiên. Sau khi hai bên cùng ngồi, Kiều vội hỏi: - Chẳng hay nương tử ở tại cung nào mà xe loan thình lình hạ cố đến đây? Thiếu nữ tươi cười đáp: - Thiếp đây nào phải ai đâu xa lạ, nhà thiếp ở phía tây cầu bên dòng nước chảy. Chiều nay chị đã vãng qua, sao mà mau quên như thế? Hôm nay, thiếp ở trong "Hội đoạn trường", trước mặt Giáo Chủ, thiếp có khen đến tài hoa của chị. Giáo Chủ rất vui mừng và cho biết rằng chị cũng có chân trong hội ấy. Rồi người trao cho thiếp mười cái đầu đề đoạn trường, bảo đem lại cho chị vịnh. Vậy yêu cầu chị thảo ngay để cho thiếp xếp vào tập "Đoạn trường sách". Kiều hỏi: - Em xin lãnh ý, nhưng xin chị cho biết Đoạn Trường Giáo Chủ là ai? Có thể đưa em đến yết kiến được không? Thiếu nữ mỉm cười đáp: - Lúc này chị không cần hỏi kỹ, một ngày khác, chị sẽ hiểu rõ đấy mà. Đoạn, nàng trao tập đầu đề. Kiều tiếp lấy, mở ra xem. Đây là mười đầu đề: Tích đa tài, Liên bạc mạng, Bi kỳ lộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiển lộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên, Khốc tương tư. Kiều xem xong, vui vẻ nói: - Đầu đề rất hay, vậy em xin thảo ngay. May bài của em chiếm khôi nguyên trong tập, thì khỏi phải phụ công chị giới thiệu. Vừa nói vừa viết thao thao bất tuyệt. Chỉ trong giây lát, đủ cả mười bài từ khúc theo lối hồi văn: I Tích đa tài Tờ oanh nỡ bỏ hoài, Hợp hoan ngày tháng phổ cho ai? Tương tư mình gác để ngày mai. Để ngày mai! Tiếc cho tài! II Thương bạc mạng Đêm đêm một mình lạnh, Nhà vàng nghe nói để A Kiều Một mặt nghe chừng khó hân hạnh. Khó hân hạnh! Thương bạc mạng! III Thương kỳ lộ Khúc đường quanh co thật khó đi, Đường khổ chưa bằng tâm em khổ! Một bước sai thời ngàn bước lỡ! Ngàn bước lỡ! Thương kỳ lộ. IV Nhớ cố nhân Tóc bạc nhưng tình vẫn chưa thân! Cần gì trước phải lên tận mây xanh! Cưỡi xe đội nón mới là chân Mới là chân! Nhớ cố nhân! V Nhớ cô hầu! Soi gương hồn biến đâu? Ta thấy ai vẫn còn than thở! Son phấn thôi đừng giễu cợt nhau. Giễu cợt nhau. Nhớ cô hầu! VI Xót thanh xuân Cành hoa giống mỹ nhân, Xuân sắc núi rừng, ôi đẹp đẽ! Muốn mượn mưa xuân tưới hoa thần. Tưới hoa thần! Xót thanh xuân! VII Than cảnh ngộ Giấc mơ tỉnh rồi đó, Đâu phải gặp ai cũng kêu thương. Chỉ vì lầu son lối cũ chưa tỏ. Lối cũ chưa tỏ! Than cảnh ngộ! VIII Khổ linh lạc Thân nầy hết đường bước, Lìa cành hoa rụng khắp đông tây. Nhạn lạc đàn bay quanh hiên trước. Quanh hiên trước! Khổ linh lạc! IX Mơ vườn xưa Hồn về cậy ai đưa? Cảnh cũ cúc tùng không thấy nữa. Bạch vân phương thảo lặng như tờ. Lặng như tờ! Mơ vườn xưa! X Khóc tương tư Nghẹn ngào đã nhiều khi, Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc. Đất cũ tình thâm luống sầu bi. Luống sầu bi! Khóc tương tư!
Thúy Kiều viết xong 10 bài, trao lại thiếu nữ. Xem qua, thiếu nữ tấm tắc khen rằng: - Quả thực mỗi chữ khác gì ôm mối hận. Nếu đem vào tập "Đoạn trường", chắc rằng sẽ đoạt giải nhất. Đoạn thiếu nữ đứng dậy, từ giã. Kiều nói: - Hôm nay chị đã có lòng chiếu cố, đôi ta ắt có tiền duyên, sao lại nỡ vội vàng như vậy? Vả lại lần này ly biệt, biết bao giờ lại được gặp nhau. Thiếu nữ nói: - Nếu chị tình thâm mà thiếp cũng không tình bạc, thì sông Tiền Đường đó, ta sẽ hẹn về sau. Nói xong đi thẳng. Kiều chạy theo giữ lại thì bỗng có trận gió làm khua động bức mành. Nàng sực tỉnh, mới hay là giấc chiêm bao. Về sau, Kiều phải 15 năm lưu lạc, thân thế lắm nỗi đoạn trường. Cuối cùng trầm mình dưới sông Tiền Đường, ứng như điềm mộng. Truyện trên viết theo Thanh Tâm Tài Nhân. Cụ Nguyễn Du dựa theo, viết thành quyển "Đoạn trường tân thanh" bằng thể lục bát. Đoạn này, Nguyễn Du diễn tả:
Này mười bài mới, mới ra, Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên vẩy đủ mười khúc ngâm. "Mười khúc ngâm" tức 10 bài "đoạn trường" đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:02:42 GMT 9
Khúc Hậu Đình Hoa
"Hậu Đình Hoa" nghĩa là "Hoa ở sân sau". Đây là một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát của Trần Hậu chủ đời Hậu Trần, thời Nam Bắc triều (420-587). Trần Hậu chủ (583-587) tên Trần Thúc Bảo, là một ông vua nổi tiếng tài tử phong lưu. Hậu cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nhân tuyệt sắc. Trong số đó có hai nàng là Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa được nhà vua sủng ái. Hai nàng Quý Tần và Lệ Hoa chẳng những có sắc đẹp lộng lẫy, người mẫn tiệp lại có tài thi phú, thường cùng Hậu chủ cùng các bực thi văn tài danh trong triều xướng họa mỗi khi có yến tiệc linh đình. Vì yêu người đẹp tài hoa nên Hậu chủ phải tổn phí nhiều tiền của, cho dựng trước điện Quang Chiếu ba tòa lầu lớn. Ba tòa lầu này dùng toàn bằng gỗ trầm hương. Cửa lớn, nhỏ đều dát toàn ngọc ngà, rèm châu, trướng gấm lộng lẫy. Ba lầu ấy đặt tên là Lâm Xuân, Kết Ỷ và Vọng Tiên (có bản chép là Vọng Xuân). Dưới lầu, trồng toàn cây quý, hoa lạ, ngào ngạt mùi hương. Lại chất đá xây thành núi gọi là núi Nghinh Phong; tháo nước làm thành hồ gọi là hồ Ngoạn Nguyệt. Hằng đêm, Trần Hậu chủ bày yến tiệc, họp các mỹ nhân uống rượu tại lầu Lâm Xuân cùng với các học sĩ ngâm thơ xướng họa. Một khi có những bài thơ hay, thích, nhà vua cho chép lạai thành tập và phổ vào khúc đàn để những cung nữ hát xướng suốt đêm, nên được gọi là Trường Dạ Ẩm. Những bài thơ, những khúc nhạc lả lướt ấy được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa. Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Chính Trần Hậu chủ cũng làm một khúc hát Hậu Đình Hoa: Nguyên tác là: Lệ vũ phương lâm đối cao các Trân trang điểm chất bản khuynh thành, Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến, Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh. Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ, Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình. Nghĩa: Bóng rợp hương thơm chốn lâu các, Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi. Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước Trước màn chào đón mỉm môi cười, Má hồng tựa đóa hoa đầy móc Cây ngọc sân sau chiến sáng ngời (Bản dịch của Phan Thế Roanh) Suốt đêm ngày, Trần Hậu chủ bỏ cả việc triều chính, say sưa bên cạnh Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và những mỹ nữ ca hát bên tiệc rượu làm cho đất nước càng suy đồi. Vua nhà Tùy (589-617) là Văn Đế thừa dịp nhà Hậu Trần suy vi, sai tướng Lý Uyên và Dương Tố đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say khươt trên lầu Kết Ỷ. Quân Tùy đánh phá, đột nhập thành. Quân Hậu Trần chạy tán loạn. Có người phải lấy nước đổ vào mặt Trần Hậu chủ cho tỉnh dậy và yêu cầu ra hàng để cứu quân lính khỏi chết oan. Hậu chủ nói: - Sau lầu, trẫm có đào sẵn giếng sâu. Đoạn, Hậu chủ dắt Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và độ mươi mỹ nhân khác đến giếng, ôm nhau nhảy xuống tránh nạn. Quân Tùy lùng tìm nhà vua trong nội cung không thấy, liền ra sau điện Cảnh Dương, thấy có giếng sâu và có tiếng người thì thầm ở dưới, liền cho thả dây xuống dò. Bỗng thấy dây nặng, chúng lấy làm lạ, kéo lên. Thì ra hai nàng tiên tuyệt sắc Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa nắm đầu dây ấy mà lên. Một tên lính già chỉ hai nàng nói: - Trần Hậu chủ chết và mất nước cũng vì hai ả này ta chẳng nên mó đến. Quân Tùy nghe nói liền đâm chết cả hai người đẹp vứt xác xuống giếng, lấp đá lại. Giếng ấy về sau gọi là giếng "Son Phấn". Riêng về Trần Hậu chủ, có sách nói là được cứu sống, nhưng sau thấy quân sĩ giết mấy hai nàng Khổng, Trương nên buồn rầu, sinh bịnh nhớ thương mà chết. Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát "Hậu Đình Hoa" ấy, vì có tính cách ủy mỵ, dâm dật. "Hậu Đình Hoa" chỉ về khúc ca vong quốc. Đỗ Mục, một thi hào nổi tiếng đời nhà Đường (618-907), nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya, hơi sương mù như khói tỏa trên mặt nước. Bãi cát chiếu sáng lồng trong ánh trăng xanh. Bấy giờ trong quán, khách còn đang say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để mua vui cho khách. Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông đưa sang, Đỗ Mục xúc cảnh sinh tình: Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha, Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia. Hận nước gái buôn không biết rõ, Cách sông còn hát "Hậu Đình Hoa". (Bản dịch của Quốc Ấn) Nguyên văn: Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa, Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia. Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa". Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu: Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ, Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa. Thừa ân một giấc canh tà, Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:03:08 GMT 9
Gương vỡ lại lành
Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa. Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa: - Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý. Nếu tình duyên chưa dứt thì còn có ngày được gặp nhau. Đoạn, bẻ tấm gương làm đôi, mỗi người giữ một mảnh hẹn nhau đến ngày thượng nguyên sẽ đem gương đến kinh đô bán để tìm nhau. Bấy giờ, giặc đánh vào đế đô. Từ chạy thoát, còn công chúa bị tướng giặc là Việt Công bắt ép làm vợ. Đến ngày rằm tháng giêng, Từ đem mảnh gương ra chợ bán, thấy có người cùng bán một mảnh gương giống của mình. Lấy hai mảnh gương ghép lại thì liền nhau như một. Từ bèn gởi cho người bán gương, nhờ đem về cho chủ mảnh gương ấy và kèm theo một bài thơ: Người đi gương cũng đi, Gương về người chưa về. Chị Hằng đâu chẳng thấy, Chỉ thấy ánh trăng lòe. Nguyên văn: Cảnh dữ nhơn câu khứ, Cảnh quy nhơn vị quy Vô phục Hằng Nga ảnh, Không lưu minh nguyệt huy. Nhạc Xương công chúa đọc thơ khóc rống lên. Việt Công hỏi, công chúa thuật lại cả. Việt công lấy làm cảm động, thương tình bèn cho cả hai người tái hợp. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du có câu: Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:03:33 GMT 9
Giấm chua
"Giấm chua" để chỉ đàn bà ghen. Hoàng đế nước Kim rất yêu quý hai nàng cung phi là Lệ Cẩm tây cung và Ngọc Sương ái phi. Hoàng hậu lấy làm ghen tức nhưng vì thấy nhà vua quá sủng ái hai nàng, nên đành phải câm lặng. Khi nhà vua lâm trọng bịnh, trước giờ lâm chung, trối lại với hoàng hậu cùng quần thần là khi nhà vua chết, phải chôn sống hai nàng ái phi theo vua. Vài hôm sau, nhà vua chết. Hoàng hậu tuân theo di ngôn của nhà vua, nhưng bà lại nghĩ rằng: nếu chôn hai vị phi tần tuyệt sắc nguyên vẹn này thì khi xuống âm cung, nhà vua lại cũng âu yếm say sưa hai nàng như trước. Cái cảnh giao hoan này như diễn ra trước mắt hoàng hậu càng làm cho máu ghen thêm sôi sục hơn nữa. Bà quát tháo ầm ĩ, truyền cung phi thị vệ khoét đôi mắt, xẻo mủi, cắt đôi má mơn mởn của hai nàng Lệ Cẩm và Ngọc Sương. Làm như thế cốt để xuống âm cung, nhà vua sẽ ghê tởm mà không dám nhìn đến nữa. Nhưng, hoàng hậu ngắm nghía thấy hai nàng còn đẹp. Mất mắt, mất mũi, mất má đào nhưng nước da hai nàng vẫn trắng nõn nà, thân hình cân đối, diễm lệ làm bà vẫn còn ghen. Bà mới nghĩ ra một cách làm hủy hoại tiêu mòn nhan sắc của hai nàng mới hả lòng. Bà đem ngâm hai nàng vào chum giấm chua rồi mới cho chôn theo nhà vua. Bấy giờ, hoàng hậu mới yên tâm. Trong "Lư phu nhân truyện" có chép: Đời nhà Đường (618-907), Phòng Huyền Linh làm đến chức Tể Tướng, có vợ là Lư Thị. Ông một niềm yêu mến vợ vô cùng, không lấy một tì thiếp nào cả. Người ngoài cho thế là tại ông sợ vợ ghen. Vua Đường Thái Tông muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho hoàng hậu gọi nàng vào và bảo: - Theo phép thường, các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một người mỹ nhân. Lư Thị nhất quyết không bằng lòng. Vua nổi giận, gắt: - Nhà ngươi không ghen thì sống, ghen thì chết. Đoạn sai người đưa cho một chén giấm, giả làm chén thuốc độc, phán rằng: - Nếu vậy thì phải uống chén thuốc độc này. Lư Thị không ngần ngại chút nào, cầm chén uống ngay. Vua thấy thế, nói: - Ta cũng phải sợ, huống chi là Huyền Linh. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn nói về Kiều khi ở với Thúc Sinh, nàng biết chàng đã có vợ nên lấy làm lo cho thân phận mình mà tha thiết nói với Sinh: Như chàng có vững tay co, Mười phần cũng đắp điếm cho một vài. Thế trong dầu lớn hơn ngoài, Trước hàm sư tử gửi người đằng la. Cúi đầu luồn xuống mái nhà, Giấm chua lại tội bằng ba lửa hồng. "Giấm chua" chỉ sự ghen tuông của người vợ cả.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:03:58 GMT 9
Cái "gia gia"
Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.) vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương, vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân từ đức hạnh, được các chư hầu và dân chúng kính phục. Văn Vương lại có một người tôi tài giỏi là Khương Tử Nha phò tá làm cho chính trị trong nước ngày càng hưng vượng. Văn Vương chết, truyền ngôi cho con là Cơ Phát, lấy hiệu Võ Vương. Sau Võ Vương nghe lời quần thần, hội chư hầu đem binh phạt Trụ mong cứu dân chúng thoát cảnh lầm than. Bá Di và Thúc Tề là con vua nước Cô Trúc nghe thấy, ra nắm dây cương ngựa của Võ Vương, nói rằng: - Cha chết chưa chôn mà đã chăm việc chinh chiến, thế có gọi là hiếu được không? Bầy tôi giết vua để cướp nước, thì có gọi là nhân được không? Võ Vương bảo: - Vua Trụ hoang dâm vô đạo, sát hại lê dân làm giận lòng người, trái ý trời. Nếu ta thủ phận, ngồi nhìn sự hà khắc của vua Trụ thì muôn dân còn trông cậy vào đâu! Hơn nữa, giang san có riêng gì của vua Trụ, ngày xưa vua Thành Thang chẳng chinh phạt vua Kiệt nhà Hạ để dựng nên nhà Thương đó sao? Bá Di, Thúc Tề chẳng nghe, cho Võ Vương là bội chúa. Những cận thần của Võ Vương tức giận, muốn giết cả hai. Tử Nha can: - Không nên. Hai ông là người nghĩa. Đoạn, bảo quân lính đẩy hai ông ra. Sau Võ Vương thắng trận, Trụ Vương thiêu mình, lập thành nhà Chu, các chư hầu đều thần phục. Bá Di, Thúc Tề lấy làm hổ thẹn, coi thóc gạo cũng là của nhà Chu mà không ăn nữa. Hai ông lên ẩn ở núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn, và làm bài hát "Thái Vi" (hái rau vi) rằng: Lên núi Tây Sơn chừ, ta hái rau vi. Kẻ bạo thay bạo chừ, biết phải trái gì. Thần Nông, Ngu, Hạ đã qua chừ ta biết đâu mà quy y. Đành chịu vậy chừ, vận mạng ta suy. Nguyên văn: Đăng bỉ Tây Sơn hề thái kỳ vi hĩ, Dĩ bạo dịch bạo hề bất tri kỳ phi hĩ. Thần Nông, Ngu, Hạ hốt yên một bề ngã an thích quy hĩ. Vu ta tồ hề mạng chi suy hĩ. Nhưng một hôm có người bảo hai ông: - Đất bây giờ là đất của nhà Chu, thiên hạ là thiên hạ của nhà Chu, hai ông đã chê, không ăn cơm gạo nhà Chu mà hái rau vi của giang san nhà Chu thì có khác gì. Hai ông cho là có lý nên từ ấy nhịn ăn mà chết. Tương truyền, hai ông vì uất ức, oan hồn chưa tan nên biến thành một loại chim, thường gào thét một giọng bi thảm: - "Bất thực Túc Chu gia... Bất thực Túc Chu gia" Người ta bảo đó là chim Đa Đa do âm "gia gia" mà ra. Trong bài "Qua đèo ngang tức cảnh" của bà Huyện Thanh Quan, có câu: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Nguyễn Công Trứ có làm bài thơ "Vịnh Di, Tề": Danh chẳng màng, lợi cũng chẳng mê. Ấy gang hay sắt hỡi Di, Tề? Gặp xe vua Võ tay dừng lại, Thấy thóc nhà Chu mặt ngoảnh đi. Cô Trúc hồn về sương mịt mịt, Thú dương danh tạc đá tri tri. Cầu nhân chẳng đặng nhân mà chớ, Chẳng trách ai chi, chẳng oán chi.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:04:25 GMT 9
Hồ Than Thở
Hồ nằm về phía đông bắc thành phố Đà Lạt (khoảng 5 cây số). Nơi đây trước kia là một vùng hoang vu, giang sơn của những loài thảo mộc, cầm thú nhưng đã mang một sự tích bi hùng do lòng ái quốc của đôi trai tài gái sắc nước Việt. Cuối thu năm 1788, quân Thanh lấy cớ ủng hộ ngai vàng vua Lê sang xâm chiếm Việt Nam. Khắp trời Nam, tiếng loa rộn rã thúc giục các chàng trai tráng hiên ngang nhập ngũ dưới bóng cờ Tây Sơn để tiến ra Bắc Hà, quét sạch quân xâm lược. Lời hịch chiêu mộ đã đến tai Hoàng Tùng, chàng tráng sĩ đất Viễn Hương. Hoàng vốn dòng dõi danh gia thế phiệt. Ông cha trước kia vì không chịu nổi chế độ hà khắc của quân Minh (đời nhà Hồ) nên đã bồng bế, gồng gánh nhau tìm đường sống tự do. Đến đây, thấy cảnh hoang vu tịch mịch, non xanh, nước biếc, hợp với lòng phóng khoáng, ẩn dật của mình nên chọn làm nơi di dưỡng. Và, đặt tên Viễn Hương để ghi dấu cho một hoàn cảnh mới, cho con cháu sau này nhớ việc hồi hương. Trước tiếng gọi của núi sông, chàng họ Hoàng cương quyết ra đi. Nhưng trước khi lên đường, Hoàng hẹn gặp người yêu là Mai Nương để cùng đôi câu tiễn biệt. Biết đâu chiến sĩ "một ra đi là không trở về". Mai Nương là con một vị thổ ty sơn cước. Nàng đẹp và duyên dáng; vì may mắn được Hoàng cứu thoát tai nạn nên người ân trở thành bạn tình, rồi nhận lời gá nghĩa kết duyên. Đôi bạn định xuân sang khi hoa đào khoe sắc thắm thì sẽ xin gia đình cử hành hôn lễ. Nhưng hôm nay ... nơi hẹn của Hoàng được định trong rừng Kỳ Ngộ, bên bờ suối Dịu Hiền. Gặp nhau, sau khi nói qua cho Mai Nương biết ý định của mình, Hoàng Tùng đau đớn ngồi trầm lặng. Bên nước, bên tình, dù con người khí khái thế mấy cũng không khỏi quyến luyến, bâng khuâng. Sự trầm lặng của Hoàng làm cho Mai Nương hiểu lầm. Nàng tưởng người yêu hoài nghi lòng trung trinh của nàng. Dịu dàng, nàng hẹn với chàng là hôm sau cũng giờ này, tại đây, nàng sẽ có quà tặng người bạn tình anh dũng trước khi xách kiếm ra đi. Nhưng hôm sau... Mai Nương đến trước giờ hẹn. Nàng ngồi bên dòng suối than thở cho duyên kiếp bẽ bàng. Rồi muốn cho người yêu hiểu lòng nàng để dứt mối băn khoăn, nàng thấy chỉ còn cái chết mới để cho chàng yên tâm rằng Mai Nương của chàng bao giờ cũng là vợ của chàng, dù sau này chàng vinh quang trở về hay đã ngã gục giữa chiến trường... Nghĩ vậy, nàng khóc lóc một lúc, gọi tên người yêu mấy lần, đoạn nhắm mắt nhảy xuống dòng nước. Hoàng Tùng đến đúng giờ hẹn. Nhưng lạ thay, chàng ngơ ngác không tìm ra chỗ cũ. Thì ra, cảm lòng người liệt nữ, chim muông cây cỏ trong rừng đều khóc, nước chảy xuống nơi Mai Nương tuẫn tiết làm thành một giếng sâu, và hai bên đầu suối bít lại. Nơi Mai Nương trầm mình bỗng biến thành một hồ rộng rãi, im lặng bên rừng Kỳ Ngộ. Sau khi xác nàng nổi lên, dân làng hiểu chuyện lấy làm cảm động, đặt tên hồ này là hồ Than Thở để ghi lại phút cuối cùng của người sơn nữ đã hy sinh cuộc đời cho người yêu yên tâm, làm tròn nghĩa vụ. Một thi sĩ thương xót cho cảnh ngộ của đôi trai tài gái sắc trung trinh, nên diễn thành một bài trường ca nhẹ nhàng, ai oán: Nhớ thuở ấy lòng đau khôn xiết, Ngó non sông dân Việt lầm than... Cảnh bày: Nước loạn, nhà tan. Giặc Thanh giày xéo tan hoang cõi bờ. Rửa hận nước phất cờ vung kiếm. Đấng anh hùng họ Nguyễn Quang Trung Ra tay ngang dọc vẫy vùng, Thề đâu chịu đội trời chung phen này? Hịch chiêu hiền đó đây rộn rực, Trống mộ quân tập kích quân thù. Một phen giành lại cõi bờ, Một phen dựng lại cơ đồ nhà Nam. Hoàng Tùng vốn trang anh tuấn, Quyết ra đi rửa hận non sông. Tấm thân coi tựa bông hồng, Mong sao một tiếng anh hùng còn ghi... Thảm một nỗi biệt ly cắc cớ Cùng Mai Nương đâu nỡ chia tay? Ra đi ngàn dặm nước mây, Biết đâu còn lại có ngày thấy nhau? Chàng tần ngần lòng đau khôn tả, Nàng héo hon tấc dạ khôn khuâỵ Hết nhìn nhau lại cầm tay, Hỡi khuôn thiêng thấu nỗi này chăng? Nàng thổn thức hẹn chàng gặp lại, Suối Dịu Hiền sẽ lại cùng nhau Chân tơ kẽ tóc gót đầu Bên rừng Kỳ Ngộ đôi câu tạ từ. Nào có ngờ xót xa nỗi ấy, Luống e chàng áy náy khôn nguôi. Chiến trường biên ải xa xôi, Chữ trinh thiếp có vẹn mười cho không? Càng canh cánh bên lòng thắc mắc Thà nén tâm gạt phắt thường tình. Cho chàng thỏa chí bình sinh, Diệt thù thỏa nguyện tâm tình nước non. Bên dòng nước, Mai Nương lén bước Từ tinh sương, rảo trước bóng chàng. Đoái nhìn rừng thẳm mênh mang Thảm nghe dòng suối thở than não nề... Rồi một phút như mê như tỉnh, Gọi Hoàng Tùng lanh lảnh xa đưa. Gọi rồi đôi mắt lệ mờ, Tấm thân gieo nặng dưới hồ nước sâu. Bỗng gió thảm mưa sầu dồn dập, Khắp núi đồi: Chim khóc, muông than Hoa rừng tràn lệ chứa chan, Đất trời như cũng thảm thương não tình. Chàng thất thểu đinh ninh lần tới Tìm tình nương chân mỏi, mắt mờ. Bốn bên vắng lạnh như tờ, Mênh mông hồ rộng, nước lờ đờ trôi... Đôi hàng lệ: "Mai Nương ơi hỡi! Vì đâu mà chín suối xa chơi? Âm dương cách biệt đôi nơi, Lệ sầu như nước xanh trôi lững lờ. Khôn thiêng em hãy đợi chờ. Mặt hồ Than thở bây giờ là đây Mai Nương nàng hỡi có hay?"
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:04:53 GMT 9
Nghiêng nước nghiêng thành
Đời Vũ Đế nhà Hán (140-86 trước D.L.), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua, Lý Diên Niên được nghe vua thường than thở: - Trẫm lập đền Minh Quang, kén hai ngàn mỹ nhân ở vùng Yên Triệu. Nhỏ nhất 15 tuổi, quá 30 tuổi sa thải cho lấy chồng. Thế mà, trong chốn dịch đình có trên 10 ngàn mỹ nhân vẫn chưa thấy ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc. Lý Diên Niên có một em gái sắc đẹp tuyệt trần, thường ra vào hầu hạ Bình Dương công chúa. Một hôm, nhân dịp múa hát chầu Vũ Đế, Lý Diên Niên hát: Phương bắc có giai nhân Tuyệt vời đứng riêng bực, Một liếc, người nghiêng thành. Hai liếc, người nghiêng nước. Lẽ nào không biết được Người đẹp thành nước nghiêng, Người đẹp khó tìm gặp. Nguyên văn: Bắc phương hữu giai nhân Tuyệt thế nhi độc lập. Nhất cố khuynh nhân thành; Tái cố khuynh nhân quốc Khởi bất tri Khuynh thành dữ khuynh quốc Giai nhân nan tái đắc. Nghe hát, Hán Vũ Đế thở dài, than: - Thế gian lại có người đẹp đến thế chăng? Bình Dương công chúa nhân đứng hầu bên cạnh nhà vua liền tâu: - Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa. Nhà vua truyền đòi người đẹp vào cung, xem mặt. Quả là một bực giai nhân tuyệt sắc, lại giỏi nghề múa hát, làm cho nhà vua càng mê mẩn tâm thần, liền phong làm phu nhân. Từ ấy, nhà vua chỉ say sưa đắm đuối bên mình nàng, không còn tha thiết đến một ai nữa. Năm sau, nàng hạ sinh được một con trai. Một hôm, nàng lâm bịnh nặng, Hán Đế đến tận giường bịnh thăm hỏi. Nàng kéo chăn che kín mặt, tâu: - Thiếp đau từ lâu, hình dung tiều tụy, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp chỉ xin gởi lại nhà vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp. Hán Đế ngậm ngùi bảo: - Phu nhân bịnh nặng không thể qua khỏi được thì hãy giở chăn cho ta nhìn mặt, há chẳng làm cho ta được thỏa lòng sao? Nàng vẫn che kín mặt, từ tạ: - Theo lẽ quân thần, phu phụ, đàn bà mặt không sạch, không được ra mắt quân phụ. Vậy thiếp xin nhà vua tha thứ cho. Nhà vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói năng gì, vẫn giữ chặt lấy chăn. Vũ Đế tức quá, đứng phắt dậy ra về. Nhiều người sợ nhà vua giận, nên có ý trách nàng. Nàng trả lời: - Đàn bà là kẻ chỉ hay lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình duyên sẽ phai nhạt, và tình yêu sẽ kém. Nhà vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc mạnh. Nay ta đau, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ ta là kẻ xấu xa. Nhìn mặt ta, nhà vua sẽ chán thì khi nào còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa.
Sau đó nàng chết. Vua Vũ Đế chôn cất nàng rất hậu, lại truyền họa sĩ vẽ hình nàng treo ở cung Cam Tuyền, phong cho anh em nàng quan tước cao. Ngày tháng qua nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt, và mối tình thương nhớ vẫn canh cánh bên lòng... mà nhà vua không tìm thấy thú vui, người đẹp nào bằng người đã khuất. Đời nhà Đường (618-907), vua Đường Minh Hoàng dắt Dương Quí Phi thưởng hoa mẫu đơn ở đình Cẩm Hương, sai người vời Lý Bạch đến bắt dâng ngay ba bài "Thanh Bình điệu". Lý còn say rượu nhưng cầm bút viết luôn ba bài. Bài thứ ba có câu: Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan, Thường đắc quân vương đới tiếu khan. Nghĩa: Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui, Để xứng quân vương một nụ cười. Chữ "khuynh quốc" để chỉ cái đẹp tuyệt với của Dương Quí Phi. Trong "Đoạn trường tân thanh", thi hào Nguyễn Du tả sắc đẹp nàng Kiều cũng có câu: Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. "Nghiêng nước, nghiêng thành" xuất sứ ở bài hát của Lý Diên Niên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:06:43 GMT 9
Khúc Nghê Thường Vũ Y
Theo truyền thuyết (sách "Dị văn lục") thì khúc vũ này do Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện về chế ra cho những người cung nữ múa hát. Nguyên một đêm Trung Thu, niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường (713-741), vua Minh Hoàng thấy trăng sáng, mơ ước được đặt chân đến đấy xem chơi. Có đạo sĩ tên La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện), người có phép tiên mới dùng giải lụa trắng, hóa thành một chiếc cầu đưa nhà vua đến Nguyệt điện. Trong điện bấy giờ sáng rực. Tiếng nhạc du dương. Những nàng tiên trong những xiêm y xinh tươi, lộng lẫy, uyển chuyển múa hát như đàn bướm đủ màu tha thướt, bay lượn bên hoa. Đường Minh Hoàng càng nhìn càng thấy say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì quên trở về. Nhờ ghi nhớ cách điệu nên khi trở về triều, Đường Minh Hoàng chế thành khúc "Nghê Thường vũ y" để tập cung nữ múa hát. Rồi cứ đến đêm rằm tháng tám, Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ xiêm y rực rỡ, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường để tưởng như sống trong cung Quảng Hàn, điện Nguyệt. Truyền thuyết này có tính cách thần thoại. "Đường thư" chép: Đường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài "Tây Thiên điệu khúc", đến khi trở về trần, còn nhớ mang máng. Nhằm lúc có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương, đem khúc hát Bà La Môn đến biếu, Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê Thường vũ y". Tài liệu này có phần thực tế. "Nghê" là cầu vồng. Tiếng miền Nam gọi là cái mống, do ánh nắng xuyên qua hơi nước trong mây nên phân thành bảy màu. Sách Tàu ngày xưa chỉ nhận có năm màu. "Thường" là xiêm, để che phần hạ thân của người. "Nghê Thường" có nghĩa là xiêm cắt bằng năm màu. "Vũ y" là áo dệt bằng lông chim. Hay có nghĩa là kiểu áo theo hình cách chim. "Nghê Thường vũ y", ta có thể cho đó là những vũ nữ mặc áo theo hình cánh chim, còn quần thì bằng lụa phất phới ngũ sắc. Những nhà sử học và khảo cổ học đã cho biết: đời Đường (và trước đời Đường), người Tàu đã có một khái niệm rõ rệt về địa dư vùng Tân Cương mà họ thường đến để mua bán và... chinh tây. Mặc dù người Tàu chưa từng chinh phục Ấn Độ nhưng sự bang giao về thương mại và chính trị đã có từ đời Hán (206-196 trước D.L.). Ấn Độ là nơi mà đạo Bà La Môn rất phồn thịnh. Lắm khi người Tàu và người Tân Cương lúc bấy giờ gọi phần đất Ấn Độ là Bà La Môn quốc. Bằng cớ là vào năm 629, lúc nhà sư Trần Huyền Trang (thường gọi là Đường Tam Tạng) đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, ghé nước Cao Xương. Vua nước này có viết một bức thư cho vị Khả Hãn Tây Đột Quyết, yêu cầu Khả Hãn hết sức ủng hộ Huyền Trang đi dễ dàng đến "Bà La Môn quốc". Vậy, ta có thể cho khúc "Nghê thường vũ y" là hình thức biến chuyển của khúc hát "Bà La Môn" đã có trước tiên ở phần đất Ấn Độ ngày xưa. Nó truyền sang Tàu ở đất Tây Lương do Tiết độ sứ Trương Kính Thuật đem dâng cho Đường Minh Hoàng. Đất Tây Lương chính là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc ngày nay của nước Tàu. Trước đời nhà Đường, Đôn Hoàng đóng một vai trò quan trọng về phương diện văn hóa và thương mại. Về mặt văn hóa, Đôn Hoàng chính là nơi các pháp sư Ấn Độ đến nghỉ ngơi, giảng đạo trước khi đi sâu vào đất Tàu. Về mặt thương mại, Đôn Hoàng là đầu cầu nối liền đường chở tơ lụa từ Tàu sang Ấn Độ, Ba Tư đến Địa Trung Hải. Ở đây là nơi tập trung các đoàn thương gia quốc tế chuyên chở hàng hóa trên lưng lạc đà tấp nập để trao đổi sản phẩm. Các nhà sử học gọi là "Đường tơ lụa" (Route de la soie). Con đường dài xa thẳm ấy phải trải qua nhiều nước nhỏ với những vùng nông nghiệp rải rác phì nhiêu. Những nước nhỏ này nay đã bị diệt vong. Nhưng từ đầu công nguyên, những nước này có một nền văn hóa khá cao, chịu ảnh hưởng Ba Tư, Ấn Độ và Trung Hoa. Nước đáng chú ý nhứt là nước Qui Tư. Nước này giỏi về âm nhạc và vũ khúc. Nhạc công đội khăn đen, mặc y phục bằng lụa đỏ, tay áo thêu. Bản nhạc của họ có nhiều tên thơi mộng "Trò chơi giấu kim thoa", "Người ngọc chuyền ly rượu", v.v... Khi hòa tấu, có bốn người biểu diễn ca vũ. Ở vùng núi nước Qui Tư có những ngọn suối đàn. Nước nhỏ xuống đá từng giọt phát âm bổng trầm. Mỗi năm một lần các nhạc sĩ đến lắng nghe để phổ thành nhạc. Phụ nữ nước Qui Tư rất đẹp. Gương mặt tròn, đều đặn. Y phục đặc biệt là nhiều kiểu, nhiều màu, thêu thùa khéo léo. Đàn ông mặc áo trắng viền xanh hoặc xanh viền trắng. Đàn bà mặc hai kiểu áo: tay rộng và tay chật. Áo trắng bâu xanh. Áo đen có thêu hình màu xanh trắng. Áo dài xanh viền vàng hoặc có sọc vàng. Phải chăng đó là những màu "nghê thường"? Vậy, căn cứ vào khoa khảo cổ và sử học, ta có thể cho khúc "Nghê Thường vũ y" là một ca vũ khúc Ấn Độ truyền sang. Trên con đường phiêu lưu bằng "con đường tơ lụa" trước khi truyền sang Trung Hoa, khúc ca vũ này đã bị các sắc tộc dọc đường biến cải ít nhiều. Và khi đến Trung Hoa thì nó được chấn chỉnh lại cho hợp với dân tộc tính Trung Hoa do một nhà vua phong lưu tài tử, ăn chơi rất mực. Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, có câu: Dẫu mà tay múa, miệng xang, Thiên tiên cũng ngoảnh Nghê Thường trong trăng. Trong "Bích Câu kỳ ngộ" cũng có câu: Đong đưa khoe thắm, đưa vàng, Vũ y thấp thoáng, Nghê Thường thiết tha.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:08:14 GMT 9
Trao tơ, gieo cầu
Đời nhà Đường (618-907), Tể Tướng Trương Gia Trinh có năm người con gái. Cả năm đều xấp xỉ ngang nhau. Mỗi người một vẻ, sắc nước hương trời. Họ Trương đương chọn khách đông sàng. Có danh sĩ là Quách Nguyên Chấn xin cầu hôn. Trương thấy là bực tài danh nên rất bằng lòng, nhưng không biết phải gả đứa nào. Cuối cùng Trương nghĩ ra cách, dạy năm người con gái của ông ngồi sau màn, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau. Những sợi tơ ấy lủng lẳng bên ngoài, không ai nhìn được bóng dáng của cô nào cả. Nếu Nguyên Chấn rút sợi tơ nào tất được kết duyên với cô gái ấy. Nhìn tới ngắm lui, Nguyên Chấn liền rút ngay sợi tơ đỏ, nhằm người con gái thứ ba. Người đẹp lộng lẫy và có đức hạnh. Tích gieo cầu: Cũng đời nhà Đường bên Tàu, nước Đại Huyền có công chúa Cửu Hườn, người có sắc đẹp lại văn võ song toàn. Vua cha đương kén chọn phò mã. Nàng tâu với vua: - Nhân duyên là do trời định. Vậy xin cha cho người lập một cái đài cao tại giáo trường, và truyền cho các sắc dân trong nước, bất kỳ xấu, đẹp đều phải dự kén phò mã. Riêng con có thêu một quả tú cầu; ngày ấy, con sẽ khấn vái trời đất rồi lên lầu mà quăng quả tú cầu ấy xuống giữa đám đông. Nếu ai lượn được thì sẽ kết duyên chồng vợ. Nhà vua cưng con, nghe cũng hữu lý nên bằng lòng. Nghe được tin nhà vua tuyển chọn phò mã bằng cách gieo cầu, các chàng trai, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, diện mạo tuấn tú hay xấu xa, dốt nát hay hay chữ đều tấp nập đổ xô đến trước đài. Họ hồi hộp, mong ngóng đón chờ... Có chàng Tiết Cường, con thứ tư của Tiết Đinh San, vì bị nạn tru di ba họ nên lưu lạc đến đấy. Chàng là người mỹ mạo tuấn tú, võ nghệ siêu quần. Thấy người đông đảo, chàng cũng đứng xem. Đến giờ lành, công chúa lên đài, quỳ trước bàn hương án, khấn vái, đoạn đứng lên, cầm quả tú cầu quăng xuống. Quả cầu nhào lộn trên không mấy vòng rồi sa trước mặt Tiết Cường. Mọi người đổ xô đến, lấn nhau chụp, làm té lăn sóng soài trên mặt đất. Tiết Cường đưa tay bắt lấy tú cầu, giữ chặt trong tay. Mọi người liền ào đến giựt lại. Chàng tay xô, chân đạp làm té nhào hết mấy người, rồi chen ra mà chạy, lại la lớn: - Ấy là nhân duyên trời định, may ai nấy nhờ, lẽ đâu làm điều vô lễ. Đoàn cấm binh liền đến can thiệp, xin rước phò mã. Bấy giờ họ mới tản ra, tiu nghỉu trở về. Cấm binh thấy Tiết Cường mỹ mạo tuấn tú, nức nở khen: - Thật là trời khéo xui vợ xứng chồng hết sức. Thế là ngay hôm ấy, nhà vua truyền cho công chúa cùng Tiết Cường làm lễ giao bôi hợp cẩn. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, có câu: Dù khi lá thắm chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. và: Nuôi con những ước về sau, Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. "Chỉ hồng", "Trao tơ", "Gieo cầu" đều có ý nghĩa chỉ duyên vợ chồng, do điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:08:43 GMT 9
Núi Vọng Phu
Núi Vọng Phu cũng có tên là núi Mẫu Tử, cao 2051 thước, trước kia thuộc tỉnh Darlac. Từ ngày quận Khánh Dương sát nhập vào tỉnh Khánh Hòa, núi Vọng Phu đã nghiễm nhiên trở nên ngọn núi chúa của quần sơn tỉnh này. Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời; bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn. Hai khối đá này tương tự hình người. Đứng xa ngoài 40 cây số vẫn còn trông rõ. Và, người ta có cảm tưởng như đó là một người mẹ đang bồng đứa con, phóng tầm mắt ra biển khơi đón chờ một người đi mà không bao giờ trở lại. Và, căn cứ theo truyện cổ tích, dân chúng địa phương mới đặt tên núi này là núi Vọng Phụ Người Thượng gọi là T.Yang-Mten. Tương truyền một thời xa xưa, có hai vợ chồng một bác tiều phu hiếm hoi con, nên bà vợ thường đi cầu tự khắp các đền chùa quanh vùng. May mắn, một ngày kia, bà hạ sinh được một cô con gái; qua năm sau lại hạ sinh được một cậu con trai. Vợ chồng tiều phu rất đỗi vui mừng, cám ơn Trời Phật đã nhỏ lòng thương đến. Hai chị em lớn lên trong tình thương của cha mẹ. Một hôm, hai chị em đang ngồi róc mía ăn. Vì giành nhau nhiều ít, đứa em sẵn có con dao trong tay, giáng một nhát lên đầu chị, máu tuôn xối xả. Kinh sợ và hối hận, đứa em bỏ chạy mất. Cha mẹ tìm khắp nơi vẫn không thấy. Vì nhớ con, hai ông bà ngày càng héo mòn rồi lần lượt theo nhau qua đời. Đứa con gái sống bơ vơ, không người thân quyến nương dựa, phải bỏ đi nơi khác tìm cách nuôi thân. Còn đứa em chạy đến bờ biển, gặp chiếc thuyền buôn sắp nhổ neo vào Nam, liền xin đi theo học nghề buôn bán. Thời gian trôi qua, nó khôn lớn lên và làm ăn khá giả. Bấy giờ lòng chạnh nhớ quê hương, cha mẹ càng nổi dậy nên nhứt định về quê. Nhưng, than ôi, khi về đến thì cha mẹ đã hóa người thiên cổ, chị thì bỏ đi biệt tích. Qua cơn xúc động, chàng sang một làng gần đó sinh cợ lập nghiệp. Chàng gặp một cô gái mồ côi, làm ăn lam lũ nhưng tính nết hiền lành. Cảm vì cùng cảnh ngộ, hai người đem lòng yêu nhau và thành đôi vợ chồng. Ở với nhau một thời gian trong cảnh gia đình thuận hòa đầm ấm, người vợ lại sinh được một trai. Không khí gia đình càng thêm mặn nồng.
Một hôm, người vợ gội đầu sau nhà, người chồng đi làm về, ra đứng xem. Vô tình, chàng thấy ẩn dưới làn tóc vợ có một vết thẹo, lấy làm lạ mới hỏi nguyên do. Người vợ thực tình kể lại kỷ niệm buồn mười năm xưa. Người chồng lặng điếng người khi nhận ra đó là người chị ruột của mình.
Người chồng hết sức đau khổ vì chàng vô tình đã phạm phải lỗi loạn luân. Nhưng chàng đành chôn sâu nỗi khổ tâm ấy tận đáy lòng, không dám cho vợ biết.
Thế rồi ngày hôm sau, lấy cớ đi buôn chuyến xa, chàng từ giã vợ con, giong buồm ra khơi, hẹn ngày trở lại. Người vợ có ngờ đâu lời hẹn về ấy hóa thành lời vĩnh biệt của chồng. Thời gian năm tháng trôi qua, chồng vẫn không thấy trở về mà âm tín cũng vắng bặt. Buồn rầu, đau khổ, nàng bồng con trèo lên đỉnh núi cao, trông ra ngoài biển cả, mỏi mòn tìm xem có thấy cánh buồm của chồng xuất hiện đâu không? Nhưng than ôi: Bao năm đâu quản gió mưa, Bồng con đứng đợi vẫn chưa thấy về, Thời gian phai xóa lời thề, Mẹ con hóa đá bên lề tháng năm. (Thơ của Bình Nguyên Lộc).
Từ đấy, những bạn thuyền đi biển, khi qua miền Trung, thấy buồm không căng gió, liền hát lên câu ca dao để mong nàng Vọng Phu giúp đỡ: Lạy bà cho thổi gió nồm, Chồng bà ở Quảng giong buồm theo vô.
Hay là: Lạy bà cho thổi gió đông, Cho thuyền tôi chạy cho chồng bà lên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:09:12 GMT 9
Trống cơm
Không ai biết trống cơm ra đời từ lúc nào. Chỉ biết đại khái là các cụ ta thường dùng nó trong những dịp tế lễ thần thánh, những buổi hát chèo. Nhất là trong việc đưa mạ Đó là một thứ trống mình dài và nhỏ, một loại trống Việt Nam hoàn toàn từ hình dáng, âm thanh cho đến cách biểu diễn. Khi tấu nhạc, nhạc công phải đeo dây trống lên cổ, để trống nằm ngang trước bụng và vận dụng 10 ngón tay khéo léo của mình trên cả hai mặt trống. Có một điều khác thường là người ta hay đính thêm nắm cơm nếp nhỏ trên mặt trống. Có lẽ cũng vì vậy mà chiếc trống ấy được mang một danh hiệu nôm na là "Trống cơm" chăng? Tuy vậy có một vài nơi thuộc tỉnh Bắc Ninh như làng Đình Bảng, làng Phù Đổng chẳng hạn, nhạc công không bao giờ đính cơm trên mặt trống.
Theo những nhà khảo cứu về nhạc cụ Việt Nam, dưới triều vua Lê Thánh Tông, đời Hồng Đức (1470), ba ông Trần Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh đã dựa trên nền tảng âm nhạc Trung Hoa, lập thành hai bộ nhạc cho triều đình Việt Nam. Đó là bộ Đồng Văn, chuyên đặt ra nhạc phổ, và bộ Nhã Nhạc chuyên dùng tiếng người để ca hát. Hai bộ nhạc này hoạt động dưới sự điều khiển của quan Thái Thường Quản Đốc, và chỉ chuyên dùng trong việc tế lễ ở triều đình. Nhạc cụ có nhiều thứ: một trống lớn, một kèn lớn, một long sinh, một long phách, một cây đàn có thể ba, bốn hay mười lăm dây, một sáo trúc, một trống mảnh một mặt và một cái sinh tiền.
Cũng trong thời kỳ này, những giàn nhạc giáo phường của tư nhân ra đời và bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong dân gian đi song song với hệ thống âm nhạc của triều đình. Nhạc cụ gồm có: một dùi nhịp bằng tre thường do bà cụ già đánh nhịp; một ống sáo, một cây nhị quyển, một trống cơm, một cây đàn đáy do bốn, năm nhạc công sử dụng; một phách; một sinh tiền, một trống con một mặt do ba nữ nhạc công trẻ tuổi vừa ca hát vừa giữ nhịp.
Ta nhận thấy những nhạc cụ trong hệ thống âm nhạc của giáo phường mới có trống cơm. Vậy có thể nó là một nhạc cụ cổ sơ của dân tộc, chính do hạng bình dân khi xưa sáng tạo chăng? Hình dáng trống cơm mộc mạc bao nhiêu thì tiết điệu của nó phong phú bấy nhiêu. Nghe "Trống cơm" nhứt định chúng ta không thể lẫn lộn nó với những bài ca ngoại quốc. Nó có giọng u buồn gợi tâm hồn người nhớ đến hình ảnh quê hương xa xôi hay nhớ đến một mối tình tan vỡ, một niềm tang tóc bi thương của một thành sầu vạn cổ ... Tục truyền rằng: Ngày xưa có một nho sinh rất nghèo, thi mãi không đỗ, túng cùng phải đi xin ăn. Hằng ngày, khi sang ngang nhà của một phú hộ thì có một cô bé ở chực sẵn đem cho cơm trắng canh ngon. Công việc đó cứ theo thời gian trôi qua một cách đều đặn. Suốt năm trời như thế, chàng nho sinh vô cùng cảm động nhưng không khỏi ngượng ngùng. Một hôm, chàng tỏ lời cám ơn cô bé và không nhận lãnh của cho nữa. Chàng lại từ giã, đi sang ở làng khác kiếm ăn. Cô bé thực thà cho biết việc làm của cô là vâng theo lời dạy của cô Hai, con gái của chủ nhà mà thôi. Ơn đó là ơn của cô chủ. Chàng cảm động, yêu cầu xin gặp mặt cô chủ để tỏ lời cám ơn và từ giã. Cô bé ở hẹn lại hôm sau, để xem cô chủ có bằng lòng không, rồi sẽ cho biết. Nếu cô chủ bằng lòng cho gặp mặt thì chàng cứ chờ tại chỗ này. Hôm sau, chàng vừa đến thì đã gặp ngay cô chủ nhà đứng đợi. Nàng rất đẹp. Chàng nho sinh cúi đầu, chấp tay xá nhưng nàng khoát tay vội nói: - Tôi đã hiểu ý chàng muốn nói gì rồi. Tôi ở đây lâu rất bất tiện, mà chàng cũng không cần phải nói ân nghĩa gì. Sở dĩ, tôi giúp chàng vì biết chàng lỡ vận và cảm thương người trong bước đường cùng mới ra nông nỗi, không lẽ chí của người con trai chịu cùng nhụt như vậy mãi sao? Đoạn, nàng trao cho chàng một cái bọc bằng giấy, nói tiếp: - Nay chàng từ giã đi, tôi xin tặng một số bạc và một cây thoa vàng để chàng tìm cách lập nghiệp. Một ngày nào thành đạt, chàng sẽ trở về quê. Chừng ấy... Nàng bỏ lửng lời nói, lại quày quả thoăn thoắt đi. Chàng nho sinh vô cùng cảm động. Theo lời người ngọc dặn dò, chàng cần phải tạo lấy một sự nghiệp, nhưng sự nghiệp gì? Chàng không duyên số với đường công hầu danh tướng thì chàng phải chuyển sang nghê khác. Bất cứ nghề gì cũng tốt đẹp cả miễn đừng làm điều gì phi nghĩa. Thế là chàng đeo đuổi môn âm nhạc, một nghệ thuật trong 7 nghệ thuật. Thời gian 3 năm, chàng đã thành tài và lãnh đạo một giáo phường. Chàng hớn hở, vui tươi vội quay về quê xưa mong gặp mặt người ân nhân yêu quý. Nhưng thảm thay, chàng vừa đặt chân về nhà nàng, thì gia đình nàng đương làm đám táng cho nàng. Nàng vừa chết trong một cơn bạo bịnh!
Chàng nhạc sĩ tài hoa vô cùng đau đớn. Chàng muốn đưa đám táng cho nàng. Chàng muốn khóc kể nàng. Chàng muốn để tang cho nàng. Nhưng phải làm sao để mọi người đừng biết việc làm của chàng đối với con người đã khuất?
Chàng liền xin cha nàng cho chàng đem phường nhạc của chàng đến để đưa vong linh người chết. Chàng sáng tạo một cái trống nhỏ dài, hai mặt trống có đính hai nắm cơm nhỏ, để nhắc lại kỷ niệm sâu xa cao đẹp là ngày xưa, nàng đã cho cơm chàng ăn. Sợi dây trống đeo lên cổ bằng vải trắng là chàng để tang nàng.
Lúc đưa đám chàng mang trống cơm lên cổ, để trống nằm ngang trước bụng, vận dụng mười ngón tay vỗ trên mặt trống, phát thành tiếng kêu bi ai, tha thiết: - "Tình tang, tang tình! Tình tang, tang tình!..."
Đó là tiếng khóc kể kín đáo của chàng đối với người yêu có một tâm tình cao thượng, thanh khiết. Đó là tiếng nức nở ở cõi lòng của một nghệ sĩ đối với mối tình đầu đã tan vỡ, mà chàng chỉ còn mượn lấy âm thanh của "Trống cơm" để tiễn vong linh nàng. Tục truyền là như thế. Ngày nay, trong những đám tang, người ta vẫn còn dùng "Trống cơm". Và, người ta vẫn còn hát "Trống cơm", nhứt là ở vài làng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Dưới đây là bài hát "Trống cơm" do ông Lý Tiến Thành, một danh ca quan họ ở làng Bái Uyên, tỉnh Bắc Ninh, hát; và nhạc sĩ Trần Văn Khê ghi lời: "(Tình bằng có cái) trống cơm (khen ai) khéo vỗ (ố mấy bông) nên bông (ố mấy...) "(Bông nên bông), một bầy (tang tình) con nít, (một bầy tang tình con nít ố mấy...) "(lội), lội, sông (ố mấy) đi tìm (em nhớ thương ai). (Đôi) con mắt (ố mấy) lim... "Dim, đôi con mắt (ố mấy) lim dim, một bầy (tang tình) con nhện (ơ... "(Ơ ố mấy) giăng tơ, giăng tơ (ố mấy) đi tìm (em nhớ) thương ai. Duyên... "Nợ (khách) tang bồng, duyên nợ (khách) tang bồng."
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:09:38 GMT 9
Kê Khang này khúc Quảng Lăng…
Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Ngụy (220-264). Kê Khang là một trong bảy người hiền này. Kê Khang (223-262) là một người có khí tiết cao khiết giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là người có biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, họa ... Một điều lạ hơn hết là mặc dù có tài như thế, nhưng ông không học qua một thầy nào. Từ nhỏ chí lớn, ông cố công tự học, rèn luyện mà nên. Kê Khang vốn họ Khuê, người đất Thượng Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiện Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán nên ông dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy Gần chỗ ông ở có núi Kê Sơn nên lấy núi Kê làm họ. Kê Khang cũng như 6 người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão Có kẻ nói: "Ba ngày không đọc "Đạo Đức kinh" thì miệng thấy hôi". Ông làm đến chức Trung Tán đại phu nhưng luôn luôn chê vua Thang, vua Võ, khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ của ông có giọng triết lý: Mắt tiễn hồng bay, Tay gẩy năm dây. Cúi ngửa tự đắc, U huyền thích thay (Bản của Nguyễn Hiến Lê) Nguyên văn: Mục tống phi hồng, Thủ huy ngũ huyền. Phủ ngưỡng tự đắc, Du tâm thái huyền. Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan đi trú ẩn, để hưởng cảnh tiêu diêu lúc về già. Nhưng thảm thay, ông muốn tránh khỏi điều phiền lụy ở cõi trần thì lại còn lận đận vì trần. Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thủy, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy giờ, nhà Ngụy suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn soán ngôi nên tìm mọi cách để trừ khử những kẻ nghịch với mình. Lúc ấy ở huyện Đông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn tâm giao. Chẳng ngờ Lữ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn là bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh lịch nên chiếm đoạt và bắt Lữ An hạ ngục. Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn con rể trong tông thất nhà Ngụy, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang khinh vua Thang, vua Võ, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình. Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác. Đánh lên khúc đàn nghe lưu loát, thảnh thoát như nước chảy (lưu thủy), mây bay (hành vân). Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả tiếng đàn của Kiều khi nàng gẩy cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ, có câu: Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân. Có người cho rằng đây là hai bản nhạc Lưu thủy và Hành vân, nhưng so với mạch văn thì không phải như thế. Lưu thủy, Hành vân đây là giải thích cái điệu lưu loát của khúc Quảng Lăng.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:10:06 GMT 9
Con "Quốc quốc"
Con "Quốc quốc" vốn là chim Cuốc. Tiếng "quốc quốc" do cách tá âm "cuốc cuốc" mà ra. Trong bài "Qua đèo Ngang" của bà huyện Thanh Quan, có câu: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu. Giọng thê thảm khiến khách lữ hành động lòng nhớ nhà, nhớ quê hương. Chim này không tự làm tổ lấy, đẻ trứng vào ổ chim Oanh. Chim Oanh ấp, nuôi cho đến lớn.
Sự tích chim Cuốc có nhiều thuyết. Có điển cho rằng vua nước Thục là Đỗ Vũ thông dâm với vợ một bề tôi là Biết Linh, Biết Linh dấy loạn. Vua Thục thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng. Đoạn này sách "Thành đô ký" lại nói: Vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết Linh biết chuyện, bày kế cho vợ nói khích Đỗ Vũ nhường ngôi cho Biết Linh rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước đi, để sống cho trọn tình chung. Đỗ Vũ nghe theo, giao nước cho Biết Linh nhưng vợ Biết Linh bây giờ bỏ Đỗ Vũ, trở lại sống cùng chồng. Buồn khổ, nhớ nước, sau thác, Thục đế hóa thành chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu mãi không thôi. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du đoạn tả về khúc đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe lúc tái hợp, có câu: Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên. Lại cũng có điển chép: Thục đế An Dương Vương của nước ta (207 trước D.L.?), vì con gái là Mỵ Châu bị lừa, trao nỏ thần cho chồng là Trọng Thủy nên phải thua trận và nhảy xuống biển tự tử. Vì nhớ nước nên hóa thành chim Cuốc, ngày đêm kêu lên những tiếng não ruột. Thuyết sau này e không đúng. Vì tiếng "Đỗ Quyên", "Đỗ Vũ" nguồn gốc vốn ở Trung Hoa. Thật không có tiếng gì kêu bi thảm, não ruột cho bằng tiếng chim Cuốc. Những buổi trưa hè nắng chang chang hay những đêm hè tịch mịch, tiếng chim Cuốc trong những bụi rậm hay trong bụi niễng dưới đầm vọng lên làm lòng người cảm thấy bi ai một cách lạ lùng. Nó gợi lên được sự nhớ nhung một thời oanh liệt xa xôi nào; có khi nó thúc giục và làm bừng dậy cái tinh thần ái quốc nồng nàn đương tiềm tàng trong lòng người dân thời nước mất nhà tan. Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển về chim Cuốc. Trần Danh An, một di thần nhà Lê (1428-1788), nghe tiếng Cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh, một công nghiệp dựng nước của Thái Tổ, tài đức Thái Tông... Hôm nay, Chiêu Thống hèn nhát, họ Trịnh chuyên quyền, lòng ái quốc thiết tha sống động trong tâm hồn thi sĩ; nhưng thi sĩ cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc nên đành gói ghém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ: Giá cô tại giang Nam Đỗ Quyên tại giang Bắc Giá cô minh gia gia Đổ Quyên minh quốc quốc. Vi cầm do hữu quốc gia thanh, Cô thần đối thử tình vô cực.
Nghĩa: Chim giá cô ở bờ sông Nam, Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc, Giá cô kêu gia gia, Đỗ Quyên kêu quốc quốc Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà Cô thần đối cảnh tình man mác. Bà huyện Thanh Quan khi qua đèo Ngang đã mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm trạng thầm kín của mình đối với công nghiệp của triều Lê đã mất: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Nhưng tiếng Cuốc ở đây lại càng lâm ly, não nùng hơn nữa. Đứng trước thành Cổ Loa, xưa kia nơi đây là cung miếu của vua Thục, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa kia tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì ngày nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã. ... Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt, Trăng mờ khắc khoải Cuốc kêu thâu (Bản dịch của Tiền Đàm) Nguyên văn: ... Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu, Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm. Tiếng Cuốc của quan Án Chu Mạnh Trinh tuy có não nuột thật nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi đát bằng tiếng Cuốc kêu của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Cụ Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng một người dân tha thiết yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một mối đau buồn uất hận của tác giả vì nỗi bất lực trước cảnh đen tối của thời cuộc. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm thôi thúc tác giả xông pha vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc: Khắc khoải sâu đưa giọng lửng lơ, Ấy hồn Thục đế thác bao giờ. Năm canh máu chảy đêm hè vắng, Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ. Có phải tiếc xuân mà đừng gọi? Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ? Ban đêm ròng rã kêu ai đó? Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ. Mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương Việt Nam. "Thục đế", "Đỗ Quyên", "Quốc quốc" đều do điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:11:31 GMT 9
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Bên Trung Hoa, tại vùng Trúc Giang có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một nàng thôn nữ tên Tần Thúy Hải. Cả hai yêu nhau thắm thiết, nguyện cùng kết tóc, se tơ cho đến ngày răng long tóc bạc.
Quan Diệp Nhược thường đi buôn bán nơi xa. Mỗi chuyến đi có cả hàng tháng. Và, mỗi chuyến đi như thế, chàng đều có hẹn ngày về với nàng. Đúng ngày, nàng Tần Thúy Hải đến đón người yêu. Lần nào cũng đúng hẹn cả.
Thời gian xa nhau không lâu nhưng họ đều cảm thấy dài đăng đẳng. Nỗi nhớ thương vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng vì sự nghiệp, họ đành phải chịu đựng và cầu mong ngày tái ngộ. Mùa thu năm ấy, ngô đồng vừa rụng lá, Quan Diệp Nhược lại phải từ giã, tạm chia tay cùng người yêu, lên đường sang Hồ Bắc buôn châu báu với mấy người bạn. Cũng như thường lệ, nàng Tần ra tiễn Quan hẹn ngày này tháng sau sẽ trở về. Nhưng chuyến này lại khác.
Đến ngày hẹn, nàng Tần trang điểm, hớn hở vui tươi để ra đón người yêu. Nàng mỏi mắt trông chờ suốt ngày đêm mà không thấy bóng chàng trở về. Rồi ngày này sang ngày khác, mấy lần thu qua đông đến nàng mỏi mòn chờ đợi, nhưng người yêu xưa lại chẳng thấy về, tin tức cũng vắng bặt. Hay là chàng đã bỏ mình nơi đất khách quê người? Nàng quằn quại sống trong cảnh sầu thương, mong nhớ. Rồi, một ngày đông lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng cả vòm trời, nàng Tần trút hơi thở trên giường bịnh.
Theo tục lệ ở địa phương, những gái tiết trinh chết được hỏa táng thi hài. Lửa đã đốt cháy người trinh nữ, xương thịt nàng Tần đã trở thành tro bụi, nhưng khi người ta bới đám tro tàn lạnh lẽo ấy bắt gặp một quả tim đóng thành một khối long lanh như ngọc. Lửa không sao đốt cháy, búa đập cũng không tan. Ai cũng lấy làm lạ, cho đó là khối tình u uất của nàng vì tương tư thương nhớ người yêu, vì quá đau khổ nỗi duyên phận bẽ bàng... Tuy thân xác đã tiêu tan mà khối tình vẫn còn mãi mãi.
Nhưng rồi, một hôm Quan Diệp Nhược lại trở về. Sở dĩ chàng sai lời hẹn ước vì chàng gặp phải tai nạn bất ngờ. Ngày về giữa đường chàng bị giặc cướp cả tiền bạc, thuyền bè, làm chàng phải lênh đênh phiêu bạt, lại lâm trọng bịnh, tưởng là bỏ xương nơi đất khách. Cảm thương người yêu vì quá thương nhớ mình mà chết, Quan Diệp Nhược lấy làm đau đớn vô cùng. Chàng cầm lấy quả tim thành ngọc của người yêu mà khóc nức nở. Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống thì viên ngọc ấy lại tan ra hòa theo giọt nước mắt của chàng. Bên Việt Nam ta cũng có một truyện giống như trên. Trương Chi làm nghề lái đò. Một con thuyền bềnh bồng trên mặt nước, hằng ngày đưa khách sang sông. Chàng Trương vốn có tâm hồn nghệ sĩ. Những khi hoàng hôn vừa tắt sau dãy đồi xa, bóng đêm bao phủ khắp không gian, lửa cháy lốm đốm nổi theo dòng nước, thì chàng lại cất tiếng hát vang lên. Giọng chàng trong trẻo, thánh thót như giọng hót của sơn ca vào buổi bình minh.
Tiếng hát của Trương lại đồng vọng rót vào lầu tây của một quan Tể tướng, làm động lòng của nàng trinh nữ Mỵ Nương. Mỗi đêm, nàng đứng tựa bên lầu chờ nghe tiếng hát của chàng Trương. Một mối tình thầm kín, sâu xa giữa nàng tiểu thư, con quan Tể tướng với anh lái đò ngày càng thắm thiết, mặn nồng. Vắng tiếng hát của Trương Chi, Mỵ Nương bàng hoàng, nhớ thương, đau khổ. Nàng mang nặng một mối tình cảm. Rồi từ ấy, nàng mắc phải bịnh tương tư ngày càng trầm trọng, thuốc thang không chữa được. Chỉ mỗi lần có tiếng hát ngoài sông văng vẳng đưa vào thì bịnh của nàng mới đỡ được đôi phần.
Biết con gái say mê tiếng hát anh lái đò, quan Tể tướng cho đòi Trương Chi đến. Nhưng thảm thay, diện mạo của Trương Chi quá xấu xí, Mỵ Nương trông thấy chán nản, bịnh tương tư lại khỏi hẳn. Tưởng rằng đòi đến sẽ được hàn thuyên cùng người ngọc, không ngờ lại chán chường nỗi tủi nhục, Trương Chi lấy làm đau đớn. Về nhà, hình bóng yêu kiều của Mỵ Nương ám ảnh mãi. Trương lâm bịnh tương tư, thuốc thang chạy chữa không khỏi. Cuối cùng Trương chết trong tủi hận sầu đau vì mối tình tuyệt vọng. Ba năm cải táng, xương thịt của Trương đều tan rã, chỉ nguyên có quả tim còn lại đóng thành khối ngọc rất đẹp. Có người đem dâng ngọc quả tim của Trương cho quan Tể tướng. Thấy ngọc lớn và đẹp, Tể tướng cho tiện thành chén uống nước trà. Mỵ Nương lấy chén ngọc rót nước uống. Vừa nâng chén lên thì trong chén lại hiện ra một chàng lái đò vừa chèo đò vừa hát, giọng văng vẳng não nùng như phảng phất đâu đây. Nàng nhìn kỹ là hình bóng của Trương Chi đương hát trên sông vắng. Cảm mối tình tha thiết của Trương Chi, Mỵ Nương đau đớn, ôm chén ngọc, khóc nức nở. Nước mắt của nàng rỏ xuống chén ngọc làm chén ngọc vỡ tan hòa theo nước mắt của nàng.
Sử ta cũng có chép: Nhà Hậu Lê (1533-1788), vua Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem quân sang đánh Bắc Hà, vua cuối cùng nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Tàu cùng một số quan tòng vong. Chiêu Thống mong cầu viện vua nhà Thanh đem binh sang giúp mình mong dựng lại cơ đồ. Nhưng quân nhà Thanh vừa bị vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại tại trận Đống Đa, vua Càng Long nhà Thanh vỡ tan mộng xâm lược nên bằng lòng chịu hòa với Tây Sơn, do đó sự cầu viện của vua Lê bất thành. Vua nhà Thanh lại còn bạc đãi, sỉ nhục vua Lê đến điều, bắt các quan lại tòng vong như Lê Quỳnh, Trịnh Hiến cả thảy 10 người phải đổi áo gióc bím như dân nhà Thanh và còn đày họ mỗi người ở mỗi nơi. Vua Chiêu Thống lấy làm tủi nhục. Hoàng tử lên đậu chết, nhà vua càng buồn bã rầu rĩ hơn nữa nên lâm phải bịnh ngày thêm trầm trọng, rồi mất (1793). Khi vua Gia Long lên ngôi, năm 1802, sai sứ sang Tàu cầu phong, các quan nhà Lê nhân dịp dâng biểu xin đem hài cốt vua và hoàng hậu về nước. Vua Gia Khánh nhà Thanh bằng lòng. Trong lúc đào đất lên để cải táng mả vua Lê thì thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ còn có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Ông Trần Trọng Kim, soạn giả quyển "Việt Nam sử lược" chép đến đoạn này có lời phê: "Dẫu chuyện đó thực hư thế nào mặc lòng, nhưng tưởng đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, thì ai cũng ái ngại thay cho ông vua một nước phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể làm một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên trách vua quan nhà Thanh xử tệ bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước mình. Ấy cũng là một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được." Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh trước khi theo về Lâm Truy, nàng ngồi đối bóng với ngọn đèn khuya, nhớ đến mối tình đầu giữa nàng và Kim Trọng vì gia biến mà phải dang dở, bẽ bàng nên than thở: Biết bao duyên nợ thề bồi, Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì. Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:12:00 GMT 9
Trường Hận Ca
Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, sau này hay gọi là Đường Minh Hoàng, nhà vua thứ chín đời nhà Đường (618-907). Lúc thiếu thời là một người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quí Phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi), Lý Lâm Phủ, ... nên quốc chính ngày càng suy tệ. Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, quê ở vùng Nhiệt Hà là người rất thông minh, được nhà vua tin mến. Nhứt là đối với Quí Phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quí Phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận. Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quân Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau phải giết chết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức vua phải đem thắt cổ con người ngọc thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quí Phi là mầm sinh đại loạn. Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà vua đành giấu mặt, cắt lòng mà "hy sinh người yêu khuynh quốc". Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng. Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót. Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, người đời nhà Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhận chúc Hàn lâm học sĩ. Có lúc ông bị biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ thượng thư. Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài "Trường hận ca" (Hận tình muôn thuở). Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc, Ngữ vũ đa niên cầu bất đắc. Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành, Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức. Thiên sinh lệ chất nan tự khí: Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc. Hồi mâu nhất tiếu, bách mị sinh, Lục cung phấn đại vô nhan sắc. Xuân hàn tứ dục Hoa thanh trì, Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi. Thị nhi phù khởi kiều vô lực, Thỉ thị tân thừa ân trạch thì, Vân bấn hoa nhan kim bộ diêu. Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu. Xuân tiêu khổ đoản, nhật cao khởi. Tùng thử quân vương bất tảo triều. Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ, Xuân tùng xuân du, dạ chuyên dạ. Hậu cung giai lệ tam thiên nhân, Tam thiên sủng ái tại nhất thân. Kim ốc trang thành kiều thị dạ, Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân. Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ, Khả liên quang thái sinh môn hộ Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ. Ly cung cao xứ nhập thanh vân, Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn, Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc, Tận nhật quân vương khan bất túc... Ngư Dương bề cổ động địa lai, Kinh phá Nghê Thường vũ y khúc. Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh Thiên thặng vạn kỵ Tây Nam hành. Thúy hoa diêu diêu hành phục chỉ, Tây xuất đô môn bách dư lý. Lục quân bất phát, vô nại hà, Uyển chuyển nga my mã tiền tử, Hoa điền ủy địa vô nhân thâu, Thúy kiều kim tước ngọc tao đầu. Quân vương yểm diện cứu bất đắc, Hồi khan huyết lụy tương hòa lưu. Hoàng ai tán mạn phong tiêu tác, Vân san oanh vu đăng Kiếm các. Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành, Tinh kỳ vô quan nhật sắc bạc. Thục giang thủy bích, Thục sơn thanh, Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình. Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc, Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh. Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự, Đáo thử trù trừ bất năng khứ. Mã ngôi pha hạ nê thổ trung, Bất kiến ngọc nhan không tử xứ, Quân thần tương cố tận triêm y, Đồng vọng đô môn tín mã quy. Quy lai trì uyển giai y cựu: Thái dịch phù dung Vị ương liễu. Phù dung như diện liễu như my. Đối thử như hà bất lụy thùy! Xuân phong đào lý hoa khai nhật, Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì. Tây cung nam nội đa thu thảo, Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo. Lê viên đệ tử bạch phát tân, Tiêu phòng a giám thanh nga lão. Tịch diện huỳnh phi tứ thiểu nhiên Cô đăng khiêu tận, vị thành miên. Trì trì chung cổ sơ trường dạ Cảnh cảnh tinh hà dục dục thự thiên. Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng, Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cộng Du du sinh tử biệt kinh niên Hồn phách bất tằng lai nhập mộng. Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách, Năng dĩ tinh thành trí hồn phách. Vị cảm quân vương tuyển chuyển tư, Toại giao phương sĩ ân cần mịch Bài vân ngự khí bôn như điện, Thăng thiên nhập địa cầu chi biến. Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền, Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến. Hốt đăng hải thượng hữu tiên san, San tại hư vô phiếu diễu gian. Lâu các linh lung ngũ vân khởi, Kỳ trung sước ước đa tiên tử. Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân, Tuyết phu hoa mạo sâm si thị. Kim khuyết tây tương khấu ngọc quynh, Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành. Văn đạo Hán gia thiên tử sứ. Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh. Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi, Châu bạc ngân bình dĩ lỹ khai. Vân kế bán thiên tân thụy giác, Hoa quan bất chính hạ đường lai. Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử Do tự Nghê Thường vũ y vũ, Ngọc dung tịch mạc lệ lan can. Lê hoa nhất chi xuân đái vũ. Hàm tình ngưng thế tạ quân vương Nhất biệt âm dung lưỡng diễu mang. Chiêu dương điện lý ân ái tuyệt Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường. Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ, Bất kiến Trường An kiến trần vụ Duy tương cựu vật biểu thâm tình Điền hợp kim thoa ký tương khứ. Điền lưu nhất cổ hợp nhất phiến Thoa bích hoàng kim hợp phân điện. Đãn giao tâm tự kim điền kiên, Thiên thượng nhân gian hội tương kiến. Lâm biệt ân cần trọng ký từ, Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri, Thất nguyệt thất nhật Trường sinh điện, Dạ bán vô nhân tư ngữ thì, Tại thiên nguyện tác tị dực điểu, Tại địa nguyện vi tiên lý chi. Thiên trường địa cửu hữu thời tận, Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ. Tác phẩm này đã có nhiều người dịch ra quốc văn, có bản bằng Pháp văn của Georges Soulié de Morant. Dưới đây là bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên: Vua Hán ước mơ người quốc sắc, Bao năm tìm kiếm luống công toi. Họ Dương có gái hoa đương nở, Khóa kín buồng xuân, hận lẻ loi. Sắc đẹp trời sinh khôn bỏ phí, Ngai vàng một sớm được ngồi chung. Một cười khêu gợi trăm mê luyến, Xóa mất hồng nhan ở sáu cung. Xuân lạnh, Hoa thanh hồ sẵn đó, Suối tuôn dòng ấm tắm hoa khôi, Vua ban ân trạch, con hầu nịnh Sáng dậy phò nâng ẻo lả ngồi. Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt, Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào. Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn, Từ đấy nhà vua nhãng thị trào. Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt; Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình. Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối, Sủng ái từ đây thanh hầu thánh chúa, Anh em nhuần gội ơn mưa móc, Nhà cửa hàn vi rạng rỡ lây. Thiên hạ đem lòng mơ phú quý, Khinh trai trọng gái kể từ đây. Ly Cung cao tít lồng mây biếc, Tiên nhạc mê hồn vẳng bốn phương. Sớm tối ca êm hòa múa dịu Não nùng tơ trúc đắm quân vương. Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy, Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan. Thành khuyết xôn xao mù khói bụi, Xe rồng rong ruổi hướng tây nam. Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất. Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh. Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến: Mày ngài trước ngựa phải hy sinh! Hoa tai bỏ đất, không người nhặt, Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi. Đứt ruột quân vương đành giấu mặt. Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi. Bụi vàng tản mác đìu hiu gió, Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài. Chân núi Nga Mi buồn bã vắng; tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai. Nước non Ba Thục xanh xanh biếc, Sớm tối nhà vua trĩu nhớ nhung. Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm, Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng. Trời xoay đất chuyển quày long ngự, Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ. Mặt ngọc giờ đâu? Trơ tử địa, Mã ngôi ảm đảm đất bùn nhơ, Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo, Kinh khuyết vời trông tế ngựa về, Về tới, vườn ao như thuở trước. Vị ương lá liễu giống mày ai, Phù dung Thái dịch trông như mặt. Cảnh cũ tình xưa giọt lệ rơi! Đào lý nở hoa xuân gió thoảng, Mưa thu đổ rụng lá ngô đồng. Tây cung Nam nội đầy thu thảo, Phủ kín thềm hoang lá úa hồng. Con hát Lê viên sầu tóc bạc, Tiêu phòng thái giam hận răng long. Tối nhìn đom đóm bay le lói. Khêu cạn đèn khuya giấc chửa an. Dằng dặc năm canh rền trống điểm, Sông Ngân lấp lánh báo đêm tàn. Mái lầu thánh thót rơi sương lạnh, Đắp chiếc mền đơn, nhớ độ nào... Sống thác bao năm đằng đẵng biệt, Hương hồn sao chẳng hiển chiêm bao! Lâm Cùng may có tay phương sĩ, Một phép chiêu hồn dậy tiếng tăm, Thương cảm quân vương trằn trọc nhớ, Mới sai đạo sĩ cố truy tầm. Cỡi mây lướt gió nhanh như chớp, Lên tận trời cao xuống đất sâu. Bích Lạ, Hoàng Thuyền đi khắp chỗ, Mênh mông nào thấy bóng ai đâu! Chợt nghe ngoài biển nơi không ảo, Lơ lửng mơ hồ có núi tiên. Cung điện chập chờn mây ngũ sắc. Tiên nga tha thướt dạo trong đền, Mặt hoa da tuyết riêng nàng nọ, Phảng phất hình dung, tợ Thái Chân. Gõ cửa hiên tây vàng rực rỡ, Báo tin Tiểu Ngọc, nhắn Song Thành. Nghe tin sứ giả đời vua Hán Trướng gấm hồn mơ bỗng giựt mình. Dã dượi ngồi lên, thu vạt áo, Rèm châu bình lạc, mở lần ra. Tóc mây lệch nửa, nghiêng nghiêng mũ Bước xuống thềm loan, dáng thẫn thờ. Tay áo gió lay bay phất phới, Tưởng như đang múa Nghê Thường xưa. Âm thầm mặt ngọc lưa thưa lệ, In một cành lê điểm điểm mưa. Ngầm sầu ngưng lệ, tạ quân vương, Từ thuở âm dương biệt mỗi phương. Trong điện Chiêu Dương, ân ái tuyệt, Bồng lai tiên cảnh, tháng năm trường. Ngoảnh đầu trông xuống nơi trần thế, Chẳng thấy Trường An, thấy bụi mù. Gởi tỏ tình tâm trong vật cũ, Thoa vàng hộp đá kính dâng vua. Hộp đá thoa vàng đem bẻ nửa, Nửa thì giữ lại, nửa đưa trao, Lòng sao chỉ nguyện như vàng đá, Hạ giới thiên đình sẽ gặp nhau. Lúc sắp lui về còn nhắn nhủ, Nhắc lời thệ ước giữa đôi bên. Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện. Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền: "Trên trời nguyện hóa chim liền cánh, Dưới đất làm cây nhánh dính liền". Trời đất lâu bền rồi sẽ tận, Hận này muôn thuở vẫn miên miên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:12:28 GMT 9
Hoa đào năm ngoái …
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ. Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Đôi tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng ngùng, cúi mặt xuống. Đôi má hây hây đỏ như đóa hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu. Đoạn từ giã đi. Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xóa mờ hình bóng của giai nhân. Đào Hoa Trang vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến lòng chàng nho sinh chan chứa biết bao tình cảm mặn nồng... Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến. Thôi Hộ tìm đến Đào Hoa Trang. Cảnh cũ còn đó, nhưng con người xưa vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười, chào đón khách du xuân. Ngẩn ngơ, thờ thẫn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi: - Hay là nàng đã về nhà chồng! Từng bước một, chàng quay bước trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, chàng thảo mấy câu thơ trên cửa cổng:
Năm ngoái ngày này vẫn cửa trong, Hoa đào mặt ngọc đối vầng hồng. Mặt hoa nay biết đi đâu vắng? Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông. Nguyên văn: Khứ niên kim nhựt thử môn trung, Nhơn điện đào hoa tương ánh hồng. Nhơn điện bất tri hà xứ khứ? Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Đào cùng thân phụ đi viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng hiểu rõ tâm tình của khách du xuân năm ngoái. Nàng buồn bã thở dài, hối tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng. Rồi ngày này sang ngày khác, nàng thiếu nữ họ Đào vẫn tựa mình bên cửa cổng, mong đợi và hy vọng người khách hào hoa phong nhã xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều xuống, bóng người xưa chẳng thấy mà chỉ thấy vài cánh chim chiều bạt gió, lẻ loi từ ngàn phương kêu bạn đổ về bằng một giọng não nùng... Nàng âm thầm gạt lệ. Nhưng lệ vẫn trào lên khóe mắt, đẫm lên đôi má. Rồi đông qua xuân đến, hè lại thu sang, lá rơi rụng bay lả tả phủ đầy thềm. Trời thu hiu hắt. Cảnh sắc thu thêm giục khách sầu đau. Rồi mỗi khi xuân về, ánh thiều quang ấm áp, ủ ấp trên ngàn cây nội cỏ càng gợi lại nỗi nhớ nhung hình ảnh của ai làm dằng dặc cõi tâm tư. Nàng cảm thấy đời hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi từ ấy nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy, dung nhan võ vàng. Thân phụ ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc. Nhưng nào biết đâu: "Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng, tùng lai vô dược liệu tương tư" (Có thầy giỏi cứu được sự sống cho người, chớ không có thuốc chữa bịnh tương tư). Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già nghe và xin tha tội bất hiếu. Người cha xúc động đau khổ cho số phần đen bạc của đứa con gái duy nhứt của mình. Nhìn thấy đứa con nằm thiêm thiếp trên giường như chờ đợi tử thần, ông lão thương con nóng lòng, đâm liều chạy tìm người đã đề thơ trên cổng. Nhưng hạc nội mây ngàn tìm đâu cho thấy. Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu đuối. Trong giờ phút cuối cùng may được gặp chàng trẻ tuổi xa lạ đã gây sóng gió bão tố trong gia đình ông mà giờ phút này, ông cho là vị cứu tinh của gia đình, nên ông lại chạy kiếm nữa... Vừa ra khỏi cổng, bỗng chạm phải một người. Ông ngửng mặt nhìn. Đó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông, mặt mày giàn giụa nước mắt, cử chỉ hốt hoảng, chàng thư sinh thăm hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể. Nhưng kể chưa dứt câu chuyện, chàng thư sinh bỗng ôm mặt khóc. Ông lão lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi thì chàng thư sinh nói: - Tôi là Thôi Hộ, người đã đề bài thơ trên cổng... Chàng chưa dứt lời, ông đã mừng rú lên rồi lôi sền sệt chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng. Nhưng nàng thiếu nữ cũng vừa trút hơi thở cuối cùng. Nhìn nàng thiếu nữ nặng tình yêu đã vì chàng mà vóc liễu tiều tụy, dung nhan võ vàng, chết một cách thảm thiết, chàng cảm động quá, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng úp mặt vào mặt nàng, khóc nức nở! Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống mặt nàng thiếu nữ họ Đào, thì nàng bỗng từ từ mở mắt ra đăm đăm nhìn chàng, trên môi điểm một nụ cười tươi thắm. Nàng đã sống lại. Ông già họ Đào mừng rỡ. Chàng thư sinh họ Thôi hớn hở vui tươi. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả Kim Trọng sau khi về Liêu Dương hộ tang chú, quay trở lại vườn Lãm Thúy để tìm Kiều, có câu: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Đó là do điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:12:57 GMT 9
Tiếng đàn tri âm
Bá Nha, người đời nhà Tấn, làm quan Thượng Đại Phu. Một hôm đi sứ nước Sở trở về, đến sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu trăng thanh gió mát, ông bảo quân dừng thuyền lại để uống rượu thưởng trăng. Thừa hứng, Bá Nha đem đàn ra gảy. Nhưng bản đàn chưa dứt, dây đàn bỗng đứt. Bá Nha lấy làm kinh ngạc, nghĩ thầm: - Chỗ này núi cao, non thẳm, sông dài, lẽ đâu có người biết nghe đàn làm cho dây đàn vội đứt. Hẳn đây là quân trộm cướp chăng? Đoạn truyền quân lên bờ tìm bắt. Bỗng có tiếng một chàng trẻ tuổi vọng xuống: - Xin đại nhân chớ nghi, tôi là đứa trẻ đốn củi mộc mạc, thấy khúc đàn hay nên dừng chân nghe thử. Bá Nha mỉm cười, bảo: - Có lẽ đâu một tên tiều phu mà lại biết nghe đàn! Chàng tiều phu đáp: - Xin lỗi đại nhân! Đại nhân nói như vậy chẳng là lầm lắm. Thánh nhân xưa có nói: Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa có quân tử đến. Nếu đại nhân khi chỗ núi non rừng bụi không có người biết nghe dàn thì ở nơi sông vắng đêm khuya này chẳng lẽ có khách biết đàn. Nghe có chiều hữu lý, nhưng Bá Nha lại hỏi: - Ngươi bảo nghe được đàn, vậy ta đàn bài gì đây? - Dạ, đại nhân đàn bài Đức Khổng Tử than tiếc thầy Nhan Hồi. Bài ấy như vầy:
Khả tích Nhan Hồi mạng tảo vương, Giao nhân tư tưởng mấn như sương. Chỉ nhơn lậu hạng đơn biều lạc, Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương.
Bá Nha cho là hay, mời khách xuống thuyền đàm đạo. Nhưng nhìn thấy khách là một chàng trai trẻ tuổi, quần bô áo vải thì có vẻ xem thường. Bá Nha không nói gì, ôm đàn sửa dây gảy một bản hướng về ý cao siêu. Bản đàn vừa dứt, chàng tiều phu cười nói: - Hay! Hay! Ý đại nhân vọi vọi ở non cao (Nga nga hề chỉ tại sơn). Bá Nha lại gảy một bản đàn khác hướng về tình cảm mênh mang, khoáng đãng. Chàng tiều phu cười nói: - Hay! Hay! Ý đại nhân cuồn cuộn nơi nước chảy (Dương dương hề chí tại lưu thủy). Bá Nha lấy làm khâm phục, đứng dậy xốc áo xin lỗi và hỏi danh tánh. Chàng tiều phu xưng là họ Chung tên Tử Kỳ. Cả hai trò chuyện, lấy làm tương đắc. Bá Nha lại mời Tử Kỳ cùng theo mình về triều để hưởng cuộc sống giàu sang. Tử Kỳ thở dài, bảo: Vì còn cha mẹ già, phận làm con phải ở bên quạt nồng ấp lạnh, thần tỉnh mộ quang phụng dưỡng. Vì việc quan cần cấp, Bá Nha phải sớm về triều. Lại ước hẹn với Tử Kỳ là sang năm ngày này, tháng này, Bá Nha sẽ đem thuyền đến đón cả gia quyến của Tử Kỳ về triều, vậy chàng hãy chờ đợi tại đây. Đoạn hai người từ giã nhau. Rồi đến mùa thu năm sau, Bá Nha đem thuyền đến đón tại vàm sông Hán Dương cạnh núi Mã An. Bá Nha chờ đợi mãi nhưng không thấy Tử Kỳ đến. Buồn bã, Bá Nha lại ôm đàn gảy. Tiếng đàn hôm nay sao lại ai oán vô cùng. Lòng Bá Nha nghi hoặc một điềm bất thường xảy đến. Sáng lại, Bá Nha lên bờ, lần bước thăm hỏi nhà Tử Kỳ. Đến nơi mới hay Tử Kỳ vừa chết trong một cơn bạo bịnh. Chung ông lại cho biết rằng: Trước khi chết, Tử Kỳ lại trối phải chôn chàng bên mé sông Hán Dương, cạnh núi Mã An để chàng giữ lời hẹn với Bá Nha năm xưa là đến đó đón người. Bá Nha tìm đến mộ Tử Kỳ, bày đồ tế lễ, rồi lấy đàn gảy một bài ai điếu và khóc lóc thảm thiết. Đàn xong Bá Nha bèn đập đàn vào đá tan nát, thề trọn đời không đàn nữa vì đã hết bạn tri âm. Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Đồ Chiểu có câu: Than rằng lưu thủy cao san, Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn Kim Trọng yêu cầu Kiều đánh đàn cho nghe, có câu: Rằng: "Nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ". Cổ thi cũng có câu: "Bất tích ca giả khổ, Đãn thương tri âm hy" nghĩa là: "Không tiếc người hát khó nhọc, chỉ đau đớn người tri âm ít mà thôi". "Lưu thủy, cao san, tri âm, Chung Kỳ" đều căn cứ điển tích trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:13:27 GMT 9
Liễu Chương Đài
Liễu Chương Đài trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn ta nỗi lòng nhớ thương quê hương và tình nhân của nàng Kiều lúc ở lầu xanh, có câu: Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xôi ai có biết tình chăng ai? Khi về hỏi Liễu Chương Đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay! "Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ (tức là nàng Kiều). Sở dĩ có nghĩa ấy do điển tích ở tình sử: Đời nhà Đường, Hàn Hoành tuổi trẻ nổi tiếng là một người tài danh. Nhà nghèo kiết, lấy một nàng kỵ nữ họ Liễu ở Chương Đài. Mấy năm sau, quan Tiết độ sứ ở châu Thanh là Hầu Hy Dật mến tài, tâu vua xin Hàn Hoành làm người giúp việc. Bấy giờ, đương lúc nhiễu loạn, Hàn không dám đem Liễu đi theo, để nàng ở lại kinh đô, định chờ dịp tiện sẽ về đón. Nhưng trải qua ba năm trời, Hàn vẫn không về đón được. Nhân lấy vàng đựng vào một cái túi gởi về cho Liễu, kèm theo một bài thơ: Liễu ơi, hỡi Liễu Chương Đài, Ngày xưa xanh biếc, hỏi nay có còn? Ví tơ buông vẫn xanh rờn, Hay vào tay khác, khó còn nguyên xưa! Nguyên văn: Chương Đài Liễu! Chương Đài Liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, Dã ưng phan chiết tha nhân thủ. Liễu được thơ cũng đáp lại: Xanh non cành liễu đương tươi, Năm năm luống để tặng người biệt ly. Thu sang quyện lá vàng đi, Chàng về biết có còn gì bẻ vin! (Bản dịch của Trúc Khê) Nguyên văn: Dương liễu chi, phương chi tiết, Khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tùy phong hốt báo thu, Túng sử quân lai khởi kham chiết! Lời thơ trao đổi thành một điềm gở báo trước. Một thời gian, Hàn được trở về triều, tìm Liễu không thấy đâu cả. Dò hỏi tin tức, thì ra Liễu đã bị viên tướng Phiên rất có công trạng với triều đình tên Sa Tra Lợi thấy nàng có sắc đẹp nên cướp mất. Nàng bấy giờ được luyến ái hơn hết cả mọi phòng. Hàn buồn bã vô cùng, nỗi nhớ thương không sao khuây được. May có một tráng sĩ trẻ tuổi tên Hứa Tuấn thương xót tình cảnh của Hàn, tìm mẹo cứu được Liễu. Bấy giờ vợ chồng được xum họp đầm ấm như xưa.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 18, 2008 9:14:04 GMT 9
Tuyệt Diệu Hảo Từ
Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: "Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng". Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong. Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở với Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về. Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ. Khi về nước, nàng Thái Diễm có làm bài "Bi phẫn thi" dài 540 chữ, tả nỗi long đong của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ. Dục tử bất năng đắc, Dục sinh vô nhứt khả. Bỉ sương giả ha cô? Nãi lao thử ách họa! Nghĩa: Muốn chết mà không được, Muốn sống thêm vất vả. Hỡi trời xanh tội gì? Bắt ta gặp tai họa! Hồ phong xuân hạ khởi, Phiên phiên suy ngã y, Túc túc nhập ngã nhĩ. Cảm thời niệm phụ mẫu, Ai thán vô cùng dĩ! Nghĩa: Xuân hạ, gió Hồ nổi, Phất phất tà áo ta. Ào ào bên tai thổi, Cảm xúc sinh nhớ nhà, Cùng khổ thay nông nỗi. (Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê)
Một hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa: - Đây là bài văn bia đề một nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn, chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng văn hay đồn dậy xa gần... Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc. Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có người khắc cả 8 chữ vào đấy. Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: "Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu". Tháo hỏi Diễm: - Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không? Nàng thưa: - Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng hiểu ý nghĩa ra sao. Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng: - Tôi hiểu ra rồi. Tu giải: - Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. "Hoàng quyến" là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ "ti" với chữ "sắc" hợp lại thành chữ "tuyệt". "Ấu phụ" nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là "thiếu nữ". Chữ "thiếu" đứng bên chữ "nữ" hợp thành chữ "diệu". "Ngoại tôn" là cháu ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ "nữ" chắp với chữ "tử" thành chữ "hảo". "Tê cửu" là cái cối giã hành tỏi. Cái cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ "thụ" đặt bên chữ "tân" thành chữ "từ". Tóm lại, đó là ẩn chữ "Tuyệt diệu hảo từ", tức Thái Ung đã hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy. Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp.
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:34:01 GMT 9
Ba người Việt thám sát văn minh phương Tây Vĩnh Sính 05/11/2006 Hạm đội Baltic trên vùng biển Singapore Tảng sáng ngày 31-3-1905, từng chiếc khu trục hạm Nga từ từ ló dạng ở cửa biển vịnh Cam Ranh còn quyện sương mù. Những chiếc tàu này vượt cửa Bé vào vịnh trước để tìm nơi thả neo an toàn cho đoàn tàu 45 chiếc của hạm đội Baltic (Novikoff-Priboy, trang 95), tức hạm đội Thái Bình Dương II, dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Rozhestvensky. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ sau, hạm đội Baltic thả neo, "đậu thành năm hàng song song với những chiến hạm bọc sắt lớn án ngữ cửa vịnh" (Hough, trang 137). Sau 28 ngày vượt trùng dương từ đảo Madagascar thuộc Pháp, Cam Ranh là bến cảng nghỉ chân đầu tiên sau một hải trình dài 4.500 hải lý của hạm đội này. Cam Ranh cũng là trạm tiếp tế nhiên liệu và lương thực cuối cùng trước khi đoàn tàu khổng lồ này lên đường đi Vladivostock nhằm trợ chiến cho hạm đội Thái Bình Dương I đang chiến đấu với hải quân Nhật trên vùng biển Bắc Á đã hơn một năm. Cam Ranh còn là điểm hẹn với hạm đội Thái Bình Dương III của Đề đốc Nebogatoff hãy còn theo sau đó. Cam Ranh một thời từng là bến cảng khá nhộn nhịp của hải quân Pháp. Vào thời điểm năm 1905, quân cảng này đã "đượm vẻ hoang vắng điêu tàn". Nhưng dù sao Cam Ranh vẫn nổi danh là một "hải cảng thiên nhiên toàn bích, an toàn, rộng rãi, mặt nước phẳng lặng như tờ". Chiến hạm Nga tuy đã lỗi thời, nhưng những giàn cự pháo 12 ly và 10 ly trang bị trên tàu là lý do khiến nhiều người cho rằng hải quân Nga "chỉ có thể thua trận trong trường hợp khả năng pháo kích của họ quá tồi". Bởi vậy, sau khi hạm đội Baltic hạ neo ở Cam Ranh, báo chí ở Singapore, Manila, Malacca, Sài Gòn, Hồng Kông và những thành phố nhiều người Hoa sinh sống ở ven biển Thái Bình Dương không ngớt bàn tán về một trận hải chiến vô tiền khoáng hậu sắp diễn ra. Ngày 2-4-1905, đề đốc Pháp de Jonquières, Phó tư lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, dẫn tuần dương hạm Descartes ghé thăm xã giao hạm đội Nga. Nhưng khi de Jonquières trở lại ngày 22-4, tuy vẫn giữ thái độ hòa nhã, đề đốc Pháp yêu cầu hạm đội Nga phải nhổ neo trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Trước yêu sách đột ngột của chính quyền Đông Dương, đúng 1 giờ trưa hôm sau, Rozhestvensky ra lệnh nhổ neo và cho hạm đội Baltic "dàn thành đội ngũ ngoài cửa vịnh Cam Ranh". Quang cảnh hoành tráng của hạm đội Nga lúc bấy giờ được mô tả trên báo The Times (Anh) như sau : "Các chiến hạm Nga dàn thành một hình cánh cung dài như vô tận, trải dài từ mũi Valera sang tận mũi bên này của bán đảo Cam Ranh". Sau khi de Jonquières trịnh trọng tiễn chân soái hạm của Rozhestvensky ra đến cửa vịnh, nhằm tránh trách nhiệm cho Pháp là đã cho phép hạm đội Nga vào tiếp nhiên liệu và lương thực trong một thời gian khá lâu, ông đánh điện về sở chỉ huy với lời lẽ khôn khéo, tựa hồ như chẳng hay biết gì cả về tình hình chiến sự Nhật-Nga: "Hạm đội Nga đã rời bờ biển An Nam và đang tiến về hướng Đông. Không rõ sẽ đi đâu"! Sự thật thì sau khi tuần dương hạm của de Jonquières vừa đi khuất, Rozhestvensky lại đưa hạm đội của mình vào ẩn náu, lần này ở vịnh Vân Phong, cách cửa Bé không xa. Trên thực tế Rozhestvensky chỉ ra khỏi bờ biển Việt Nam vào ngày 14-5-1905, sau khi hạm đội Thái Bình Dương III của Đề đốc Nebogatoff bắt kịp và đã lấy thêm than đá. Những thương nhân Pháp cung cấp lương thực đủ loại cho hạm đội, từ trái cây, rau tươi, cho đến bột mì, đồ hộp hay thịt gà, thịt bò. Những hàng này bán "với giá cao kinh khủng, chưa nói những mặt hàng xa xỉ có lời lớn như rượu vang hay rượu mạnh". Bởi vậy, có thể hiểu tại sao chính phủ Đông Pháp đã chần chừ, không muốn nhanh chóng chấp hành lệnh trục xuất hạm đội Nga (Hough, trang 135). Thương nhân người Việt cũng thường mang thực phẩm ra bán bằng ghe (Novikoff-Priboy, trang 97). Đặc biệt vào đêm 16- 4-1905, biết thủy thủ Nga sẽ ăn mừng lễ Phục sinh, ghe thuyền của các thương nhân người Việt chở gà vịt, rượu đế ra bán cho tới khuya. Thủy thủ Nga nhận xét là các mặt hàng do người "An Nam" chở ra bán giá phải chăng, đặc biệt họ tấm tắc tán thưởng món rượu đế, khen là "mỹ tửu" giống rượu Vodka của người Nga. *** Có ai ngờ trong những ghe ra bán thực phẩm trên tàu Nga lúc ấy lại có chiếc ghe chở ba người giả dạng thương nhân để quan sát tận mắt văn minh cơ khí của phương Tây qua lăng kính là chiến hạm Nga! Đó là ba chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp trong chuyến Nam Du năm 1905. Trong tự truyện của mình, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại việc lên xem tàu Nga như sau : "Lúc đi ngang qua Nha Trang, được tin chiến hạm Nga đậu tại Cam Ranh, bèn giả khách buôn, thuê thuyền đánh cá, mua trứng gà cùng trái cây các thứ, lên thuyền Nga xem rất khoái. Đấy chẳng qua vì tính thiếu niên hiếu kỳ, chứ không có ý gì". Trong ba chí sĩ nói trên, chỉ có Huỳnh Thúc Kháng để lại cứ liệu về cuộc "thám sát" độc đáo này. Cũng dễ hiểu thôi, vì Trần Quý Cáp thì mất sớm, ba năm sau (1908), khi phong trào Dân biến ở miền Trung bột phát, cụ bị sát hại ở Khánh Hòa. Còn Phan Châu Trinh thì ít khi đề cập đến việc riêng tư trong các trước tác văn xuôi (hầu hết là chính luận), hay nếu có nhắc tới chuyện riêng chăng nữa thì cũng chỉ để làm sáng tỏ những công việc chung có liên quan tới đồng bào, đất nước. Cách đây khá lâu, khi đọc những dòng trên đây của Huỳnh Thúc Kháng, người viết không khỏi lấy làm lạ. Đã đành Huỳnh Thúc Kháng là người có trí nhớ tuyệt vời, hầu như chẳng bao giờ lẫn lộn, bởi vậy chúng tôi tin việc các cụ tự mình "tạo điều kiện" để lên quan sát chiến hạm Nga 100 năm trước đây. Tuy nhiên, vì sao một việc kỳ thú và có ý nghĩa như vậy mà từ trước tới nay ít thấy ai nhắc đến! Thắc mắc ấy cứ lởn vởn trong đầu. Chuyện mạo hiểm của các cụ khiến chúng tôi nhớ lại một mẩu chuyện tương tự xảy ra ở Nhật vào giữa thập niên 1850. Khi chiến thuyền của Đề đốc Perry (Mỹ) đến Nhật, Yoshida Shôin nhận thấy cần phải tìm hiểu về phương Tây nên đã táo bạo chèo thuyền nhỏ ra biển rồi tìm cách đột nhập lên tàu của Perry để tìm đường du học. Kế hoạch không thành, Shôin bị bắt và bị giao trả lại cho phía Nhật, rồi bị giam lỏng một thời gian. Qua những hành động quả cảm trong cuộc đời vỏn vẹn 29 năm, sau khi mất, Shôin được người Nhật xem là "người đi tiên phong của phong trào dẫn đến Minh Trị Duy tân". Một chi tiết ít được biết tới, nhưng cụ Ngô Đức Kế có thuật lại rằng khi quan tỉnh lên án đày Huỳnh Thúc Kháng ra Côn Đảo (1908) "có dẫn việc đi xem thuyền Nga mà bắt tội". Nhớ lại chuyện cũ, gần đây chúng tôi tìm đọc các sách nói về hạm đội Baltic thử xem có cuốn nào ghi lại thời gian hạm đội cập bến ở Cam Ranh hay chăng. Chúng tôi tìm được hai cuốn sách tiếng Anh, một cuốn đặc biệt nghiên cứu về hạm đội Baltic và một cuốn là hồi ký của một sĩ quan Nga trên hạm đội Baltic còn sống sót sau trận hải chiến với hải quân Nhật ở eo biển Đối Mã. Cả hai cuốn thuật lại khá chi tiết những sự việc xảy ra khi hạm đội vào đậu ở Cam Ranh. Hai cuốn sách đó là : Richard Hough, The Fleet That Had to Die (Hạm đội phải bị tiêu diệt-New York : The Viking Press, 1958) và A. Novikoff-Priboy, Tsushima (Eo biển Đối Mã) do Eden và Cedar Paul dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh (New York : Alfred A. Knopt, 1937). Những thông tin về hạm đội Baltic trong thời gian cập bến ở Cam Ranh trong phần đầu của bài viết này phần lớn dựa theo hai nguồn tài liệu đó. Căn cứ vào những thông tin này, chúng tôi mới biết chắc là có khá nhiều ghe thuyền của thương nhân người Việt ra bán thực phẩm cho thủy thủ và việc lên tàu cũng khá dễ dàng - một phần có lẽ do nhu cầu cấp thiết của thủy thủ người Nga về lương thực, đặc biệt là các thức ăn tươi. Do đó, có thể suy luận việc giả dạng làm thương nhân của ba nhà chí sĩ chắc hẳn cũng không mấy khó khăn, điều cốt yếu là cần phải có óc quả cảm, táo bạo và liều lĩnh thì mới dám nghĩ tới kế hoạch đó. Vậy trong bộ ba Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, ai là người khởi xướng việc này? Chắc hẳn người đó không phải là Huỳnh Thúc Kháng, vì như nhà nghiên cứu Huỳnh Lý đã nhận xét, Huỳnh Thúc Kháng "nhanh nhạy chốn trường ốc nhưng chất phác ở ngoài đời". Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp tính tình đã hăng say mà còn có tầm nhìn sâu rộng, đặc biệt Phan Châu Trinh là người "từng trải và nhạy bén" và chắc hẳn là nhân vật có đầu óc táo bạo nhất trong ba người. Chỉ cần xem một vài hành động của cụ Phan thì rõ. Ví dụ, chẳng bao lâu sau chuyến Nam Du, khi nghe tin Phan Bội Châu đã sang Nhật - và chính Nhật là nước đã thắng Nga, tiêu diệt hạm đội Baltic mà Phan Châu Trinh đã quan sát tận mắt - Phan Châu Trinh đã tìm cách lặn lội sang Quảng Đông để gặp Phan Bội Châu, rồi từ đó cùng sang Nhật trong khoảng hai tháng (vào năm 1906) để nhìn tận mắt đất nước mới canh tân sau Minh Trị Duy tân. Rồi cũng chính Phan Châu Trinh, sau khi được phóng thích từ lao tù Côn Đảo, đã tìm đường sang nước Pháp để tìm con đường giải cứu cho đồng bào. Tư tưởng táo bạo "Không vào tận hang hùm sao bắt được cọp" được thể hiện suốt cuộc đời xả thân vì đồng bào, vì nước quên mình của cụ Phan. Bởi thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu trên thực tế, chính Phan Châu Trinh là người đầu tiên ngỏ ý về cuộc "thám sát" văn minh phương Tây táo bạo ngay ở vịnh Cam Ranh 100 năm trước đây. Nhìn lại lịch sử nước nhà đầu thế kỷ 20, chúng tôi không khỏi có cảm tưởng là bánh xe lịch sử dường như chuyển mạnh từ năm 1905. Đã đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn số 739 ngày 10/2/2005.
|
|