|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:30:45 GMT 9
Lá Quốc Kỳ Việt Nam đầu tiên đã tung bay ở Thái Nguyên năm 1917Trần viết Ngạc Theo kiến thức hạn hẹp của chúng tôi, quốc kỳ đầu tiên của nước ta được quy định bằng văn bản còn lưu lại đến nay là vào năm Nhâm Tý, 1912. Trong cuốn tự truyện nhan đề là "Tự Phán" (1), viết năm 1929 tại Bến Ngự, Huế, Phan Bội Châu viết: "Xưa nước ta chỉ có Hoàng Đế mà không có cờ nước cũng là một việc đáng quái gở. Hội Việt Nam Quang Phục mới chế định ra quốc kỳ bằng cờ ngũ tinh, dạng huy thức dùng bằng cách ngũ tinh liên châu" (2) (TVN nhấn mạnh). Phan Bội Châu giải thích: "Nhân vì nước ta có năm địa bộ, sở dĩ dùng thức nầy để tỏ rõ cái ý năm đại bộ liên lạc làm một. Sắc cờ dùng hoàng địa, hồng tinh làm cờ nước; hồng địa bạch tinh làm cờ quân. Hoàng là để biểu thị nhân chủng ta. Hồng là biểu thị sắc nước ta: Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng. Quân kỳ sở dĩ dùng bạch tinh là tỏ rõ mục đích quân, cốt đánh đổ chính phủ người (da) trắng" (2). Trong tác phẩm Lương Ngọc Quyền, Đào Trinh Nhất cũng có nhắc đến cờ Ngũ tinh: "Cờ ngũ tinh có 5 ngôi sao... Đến năm 1917, ngọn cờ phấp phới trên tỉnh thành Thái Nguyên bảy ngày về tay cách mạng tức là cờ Ngũ Tinh" (3). Kẻ viết bài này, lúc giảng dạy, cũng đã "minh họa" đoạn mô tả Cờ Ngũ tinh của Phan Bội Châu trong Tự Phán nói trên. Tự nghĩ đã là "liên châu" thì dứt khoát 5 ngôi sao 5 cánh phải nằm theo một vòng tròn. Vậy là quốc kỳ do Việt Nam Quang Phục Hội chế định năm 1912 là 5 ngôi sao đỏ xếp thành vòng tròn trên nền vàng (xem ảnh) và quân kỳ là 5 ngôi sao trắng xếp thành vòng tròn trên nền đỏ! Thật đẹp biết bao! Người ta thường bảo: "Chí lớn gặp nhau". Chúng tôi nghĩ "Chí nhỏ cũng gặp nhau!". Quân kỳ trên mộ Lương Ngọc Quyến y hệt lá quân kỳ mà tôi làm đồ dùng dạy học (4). Cho hay lịch sử không thể vận dụng lô-gich để tái hiện. Minh họa của tôi trở thành "u họa". Gần đây, được xem một ảnh đen trắng của tờ "Quân dụng ngân phiếu", phát hành năm Nhâm Tý (1912) của Việt Nam Quang Phục quân (5), chúng tôi biết mình hiểu sai cách thể hiện ngôi sao (tinh) của Đông phương, nhầm lẫn với cách thể hiện ngôi sao của văn hóa Tây phương. Ngôi sao của Tây phương là ngôi sao năm cánh, còn ngôi sao của Đông phương là một chấm tròn. May thay, gần đây, giáo sự Nasu Izumi (Nasu Tuyền) của Đại học Quốc gia Okinawa đã gửi cho chúng tôi hai mặt của tờ "Quân dụng ngân phiếu" do Việt Nam Quang Phục quân phát hành năm 1912 (Nhâm Tý). Trên tờ Quân dụng ngân phiếu có vẽ quân kỳ. Đó là bốn ngôi sao trắng (chấm tròn) ở bốn góc nối kết với một ngôi sao trắng ở trung tâm bằng những vạch trắng. Chúng tôi đã dựa vào quân kỳ để phục hiện hình ảnh quốc kỳ: nền vàng, 4 ngôi sao đỏ ở bốn góc kết nối với ngôi sao đỏ ở trung tâm.Như vậy, cả quốc kỳ và quân kỳ Việt Nam đầu tiên được thiết kế năm 1912, mà quân kỳ được in trên tờ quân dụng ngân phiếu, đã được biết đến. Nếu cuộc khởi nghĩa năm 1916 do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo( Việt Nam Quang Phục Hội ), được sự hưởng ứng của nhà vua trẻ tuổi yêu nước Duy Tân ,thành công thì ngọn quốc kỳ Ngũ Tinh liên châu đã phấp phới trên kỳ đài kinh thành Huế. Một năm sau, 1917, quốc kỳ và quân kỳ đầu tiên của nước ta đã bay phần phật suốt 7 ngày đêm trên tỉnh lỵ Thái Nguyên từ ngày 30/8/1917 đến ngày 5/9/1917. Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn( Đội Cấn ) cùng nghĩa quân đã anh dũng hy sinh dưới ngọn cờ tổ quốc đầu tiên ấy. Tờ Quân dụng ngân phiếu do Việt Nam Quang Phục quân của nước Việt Nam Dân quốc, cho đến nay, là vật chứng duy nhất cho ta biết về quốc kỳ đầu tiên của nước ta được phổ biến ở nước ngoài và được kéo lên trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917. Đó là lý do để chúng ta biết thêm về nó. Phan Bội Châu kể lại trong Tự Phán: "... Ông Hoàng Trọng Mậu đi với ông Tô [Tô Thiếu Lâu] qua Hương Cảng tìm những người cách mạng đảng đã quen làm việc ấy, bí mật chế tạo, in thành phiếu khoán 4 món: mặt trước khắc một hàng chữ ở trên: "Việt Nam Quang Phục Quân Quân dụng phiếu" chính giữa lòng chữ lớn, in rõ số bạc 5$, 10$, 20$, 100$ là bốn món. Chữ số ở bốn góc cũng in như vậy. Mặt sau khắc giòng chữ, dùng hai thức chữ Hán và Quốc ngữ. Giấy bạc này là Việt Nam Quang Phục Quân lâm thời chính phủ thành lập, đem bạc thật thu hồi, cấp lời một thành hai, cấm mạo giả và lạm phát, ai phạm sẽ bị phạt nặng. Người ký tên là Phan Sào Nam, người kiểm phát Hoàng Trọng Mậu. Phiếu bạc này in bằng điện, tinh xảo in như bạc giấy Tàu". Nhân đây, người viết trân trọng cám ơn Giáo sư Nasu Tuyền, Đại học Quốc gia Okinawa, Japan đã cung cấp cho chúng tôi một tư liệu quý giá, qua đó biết được quốc kỳ đầu tiên của nước Việt Nam vào năm 1912 và đã tung bay ở Thái Nguyên năm 1917. Trần Viết Ngạc Một trang Tự phán 4 chữ cuối " NHAN VIẾT TỰ PHÁN " Chú thích: (1) - Nhan đề cuốn tự truyện của Phan Bội Châu viết ở Bến Ngự, Huế năm 1929 có nhan đề là TỰ PHÁN, không hề là PHAN BỘI CHÂU NIÊN BIỂU như nhiều nhà biên soạn nhầm lẫn. (2) - Tự Phán, nxb Anh Minh, Huế, 1956, trang 152, 153. (3) - Đào Trinh Nhất, Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1957, trang 102, 103. Dẫn lại từ Lý Tùng Hiếu, Lương Văn Can và phong trào Duy Tân Đông Du, nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, trang 244. (4) - Lý Tùng Hiếu, sđd, trang 312. (5) - Kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du, nxb Tân Văn, Đông Kinh (Tokyo), 2005, trang 118. (6) - Tự Phán, sđd, trang 134. Phan Bội Châu Trịnh Văn Cấn Lương Ngọc Quyến
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:24:44 GMT 9
CUỘC DÂN BIẾN Ở QUẢNG NAM NĂM MẬU THÂN (1908) QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ CỦA PHÁP *** Phan Văn Hoàng - Trần Viết Ngạc (Khoa Lịch Sử, trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh) Trung tâm lưu trữ của Pháp ở Aix-en-Provence (C.A.O.M) còn giữ nhiều tư liệu về cuộc dân biến năm Mậu Thân (1908). Nhờ những tư liệu gốc, trực tiếp và vô cùng quý giá này, chúng ta biết tường tận hơn biến cố làm rung động cả guồng máy cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Cũng nhờ nguồn tư liệu này mà chúng ta hiểu tại sao Pháp đàn áp mạnh tay với các nhà cách mạng nước ta đầu thế kỷ. Trước hết hãy đề cập đến các nguồn tư liệu chúng ta có hiện nay: 1. Mậu thân dân ký biến của Huỳnh Thúc Kháng (tù chung thân số 7455) 2. Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký của Phan Châu Trinh 3. Phong trào kháng thuế miền trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân (Nguyễn Thế Anh sưu tầm, phiên dịch) Cuốn đầu tiên, Huỳnh Thúc Kháng viết trong nhà ngục Côn Đảo. Trong hoàn cảnh bị giam cầm như thế, người tù chung thân, thẻ bài số 7455, không thể viết thẳng sự thật. Nhưng mục đích muốn lưu lại một tài liệu lịch sử, Mính Viên phải chọn cách viết gián tiếp, một loạt thông tin bậc hai mà người đọc phải đọc giữa hai hàng chữ, phải nắm bắt được thông tin thật sự của người viết qua cách viết, cách dùng chữ (ý tại ngôn ngoại). Cuốn Mậu thân dân biến ký không mang về được mà đành ném xuống biển. Về sau, sau ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính, Huỳnh Thúc Kháng viết lại với nhan đề mới là Trung Kỳ cự sưu ký rồi tự dịch ra quốc ngữ. Phan Châu Trinh thì chỉ muốn kêu oan (tụng oan)! Viết Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký, năm 1911, khi vừa đặt chân lên đất Pháp. Hy Mã muốn "kêu oan" với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Messimy và Toàn quyền Đông Dương sắp qua nhậm chức là Albert Sarraut để xét lại bản án của các thân sĩ Trung Kỳ, đặc biệt là bốn người bạn của ông đang thụ án tù ở Côn Đảo là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Tiểu La Nguyễn Thành và Hàn Hải Lê Bá Trinh. Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký vừa là biện minh trạng nhằm bào chữa cho các thân sĩ Trung Kỳ vừa là một cáo trạng đối với chính sách đàn áp thẳng tay của chính quyền thực dân với phong trào dân biến. Cả trong hai tính chất - biện minh trạng và cáo trạng - những gì Phan Hy Mã trình bày không thể phản ánh đúng sự thật hoàn toàn. Về nguồn tài liệu qua châu bản, đây phần lớn là các bản án do phủ Phụ chính triều Duy Tân phúc án và được Khâm sứ Trung Kỳ xét duyệt, phản ánh cái nhìn từ bộ máy cai trị đối với vụ dân biến. Đặc biệt khi xét xử vụ dân biến này, các quan lại Việt Nam đã sử dụng "Hoàng Việt luật lệ", vốn có xuất xứ từ bộ luật Gia Long, nên án phạt rất nghiêm khắc và nặng nề. Điều đáng chú ý là cả ba nguồn tài liệu trên đều thống nhất gọi các cuộc biểu tình ở các tỉnh miền Trung năm 1908 (Mậu thân) là dân biến chứ không phải phong trào chống thuế nhu chúng ta quen gọi. Dân biến là dân nổi dậy (như binh biến là quân lính nổi dậy). Các bản án của Phủ Phụ Chính đều khép những người tham gia lãnh đạo các cuộc biểu tình là "Khích biến lương dân" (xúi dục dân chúng nổi dậy) như: Bản án ngày 22.4.1908 xử Lê Tựu Khiết, Nguyễn Bá Loan Bản án ngày 29.4.1908 xử Lê Tuấn, Nguyễn Văn Bành Bản án ngày 13.6.1908 xử Đoàn Thuần, Trương Hữu Hoàn Bản án ngày 4.11. 1908 xử Nguyễn Văn Khoa. Bản dịch tiếng Pháp cuốn Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký của Phan Châu Trinh cũng lấy nhan đề là Manifestations de 1908 en Annam (Các cuộc biểu tình phản kháng năm 1908 ở Trung Kỳ) Còn các tài liệu lưu trữ của Pháp gồm những gì? Và các tài liệu đó đã cung cấp cho chúng ta những thông tin như thế nào về vụ dân biến ở Quảng Nam. Chúng ta có thể liệt kê như sau: 1. Về tình hình chính trị ở Trung Kỳ: Báo cáo của Dufrenil, thanh tra dân sự vụ Đông Dương, ngày 22 tháng 9 năm 1908 tại Huế. ( Note sur la situation politique en Annam Rapport du Dufrenil, le 22 Septembre 1908, Inspecteur des Services civils de l' Indo - Chine, 18 pages) 2. Báo Cáo gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa của các Toàn quyền Đông Dương Beau, Klobukowski cùng Picanon Tổng giám đốc Thuế quan và Công quản Đông Dương ngày 3.7.1908. 3 trang. ( Rapport au Ministre des Colonies. MM Beau, Klobukowski, Gouverneur Général de l' Indo - Chine, Picanon, Directeur Général des Douanes et Régies de l' Indo - Chine, le 3 Juillet 1908) 3. Công văn của Toàn quyền Đông Dương gửi Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế, đề ngày 8 tháng 5 năm 1908 tại Hà Nội ( Le Gouverneur Général de l' Indo - Chine p.i à Monsieur le Résident Supérieur en Annam à Hue. Hanoi, le 8 Mai 1908, No 902, objet : A.S des Affaires d' Annam) 4. Công điện của Toàn quyền Đông Dương Bonhoure gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, Hà nội ngày 2 tháng 4 năm 1908. Đóng dấu đến cùng ngày của văn phòng Bộ Thuộc địa, số điện tín 143. ( Dépêche télégraphique, No 143. Gouveneur Général de l' Indo - Chine à Colonies Paris, Hanoi, le 2 Avril 1908) 5. Báo cáo của Công sứ Vinh Destenay gửi Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế, ngày 23 tháng 4 năm 1908. ( Rapport à M. Le Résident Supérieur du Résident de Vinh, le 23 Avril 1908) 6. Đơn của bà Huỳnh Thị Lý, vợ của tú tài Mai Luyện và mẹ của cử nhân Mai Dị gửi Toàn quyền Đông Dương khiếu nại về việc bắt giữ Mai Luyện và Mai Dị cùng việc tịch thu tiền bạc của Thương hội Quảng Nam, đề ngày tháng 11.1908 7. Công văn của Công sứ Pháp Charles ở Hội An trả lời Khâm sứ Trung Kỳ về việc Huỳnh Thị Lý khiếu nại, đề ngày 13 tháng 1.1909 8. Những thông tin cung cấp cho Thanh tra Dufrenil, phụ tá Khâm sứ Trung Kỳ ( Thanh Hoá, ngày 16.5.1908) ( Renseigments fournis à Monsieur l� Inspecteur Dufrenil, adjoint au Résident Supérieur de l� Annam. ThanhHoa, le 16 Mai 1908) .... Trên đây là một số tư liệu chính và quan trọng,chưa phải là đầy đủ, song cũng xung cấp cho ta một số thông tin rất xác tín để hiểu hơn cuộc dân biến ở Quảng Nam. 1. Về nguyên nhân của cuộc dân biến Ngay khi cuộc dân biến đang phát triển, chính quyền thuộc địa các cấp, tiøm hiểu ngay tình hình thuế, xâu vì những người biểu tình thỉnh nguyện giảm xâu, thuế và phong trào công khai tự nhận là " xin xâu, xin thuế " Thanh tra Dufrenil, trong báo cáo "Về tình hình chính trị ở Trung Kỳ " viết ngày 22.9.1908, ngay sau khi cuộc dân biến bị đàn áp và lắng lắng dịu, cho rằng nguyên nhân vụ dân biến là thuộc về chính trị và cuộc dân biến đã được tổ chức cẩn thận và chỉ là màn dạo đầu : " Những tin tức thu lượm được dọc hành trình, những chỉ dẫn do chính những kẻ cầm đầu [dân biến] cung cấp, những lời trách cứ và đe doạ trên các bích chương...những thứ tịch thu được từ những phần tử nòng cốt cho thấy có một tổ chức nghiêm túc... tất cả chứng tỏ một cách chắc chắn rằng chúng ta đang đứng trước một kế hoạch đã được nghiên cứu từ lâu và những cuộc biểu tình mới đây chỉ là dấu hiệu báo trước cho một tình trạng trầm trọng hơn ". Theo viện thanh tra dân sự vụ này, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Phan Bội Châu và Cường Để xuất dương sang Nhật. Cường Để thuộc dòng trưởng của vua Gia Long nhiều lần được đề nghị lên ngôi báu. Quanh Cường Để là các sĩ phú " bất mãn " Đào Nguyên Phổ, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,...Dufrenil, cho biết trước tháng 3-1908, khi cuộc dân biến phát khởi thì : " Người ta có thể khẳng định rằng những người của Phan Châu Trinh [Phong trào Duy Tân và Duy Tân Hội] đã đi khắp các tỉnh Trung Kỳ " Người Pháp nghĩ rằng Cường Để là người đứng đầu một chương triønh quang phục trong vòng mười năm với sự ủng hộ tinh thần của Nhật Bản, Phan Bội Châu là người phụ tá đắc lực cho vị hoàng thân này. Phan Châu Trinh là người đại diện cho Cường Để ở trong nước. Điều này không đúng.Cường Để chỉ đóng vai trò Hội chủ danh nghĩa và Phan Bội Châu mới là người sáng lập Duy Tân Hội cùng với Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) Châu Thượng Văn, Đỗ Đăng Tuyển, Đặng Thái Thân... Còn Phan Châu Trinh là người cực lực chỉ trích Cường Để. Nhưng về tổng quan, người Pháp đúng khi cho rằng cuộc dân biến là kết quả tuyên truyền vận động " Khai dân trí, chấn dân khí " của Duy Tân hội và Phong trào Duy Tân. Sự kiện phế truất vua Thành Thái (1907) là ảnh hưởng gần nhất khiến dân chúng đông đảo tham dự cuộc dân biến. 2. Cuộc dân biến ở Quảng Nam đã được chuẩn bị từ lúc nào ? " Ngay từ năm 1906, những sứ giả bí mật [của phong trào Duy Tân] đã lui tới các tỉnh miền Trung, vào lúc đó người ta nhận biết những hoạt động của họ ở Biønh Định và vào tháng 10 � 1907 ở Quảng Nam " Tài liệu cho biết viên Công sứ ở Hội An đã cho theo dõi chặt chẽ một số cuộc họp khả nghi ở Tam Kỳ (1907) Một nhân vật Quảng Nam, nhưng hoạt động ở Biønh Định, cũng được canh chừng là Trần Cao Vân mà người Pháp cho rằng đã tham gia vận động, tuyên truyền tích cực và đồng thời là một trong những người lãnh đạo cuộc dân biến ở Bình Định. Tài liệu cũng ghi nhận những người lãnh đạo ở Quảng Nam và Quảng Ngãi đã đến ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi để phát động phong trào ở đây. Tài liệu cũng chỉ rõ một số những người lãnh đạo Phong trào Duy Tân [ và Duy Tân hội] " nguy hiểm nhất " không phải là những người trực tiếp tham dự cuộc dân biến. Ngoài họ, các thân hào, nhân sĩ cũng không cắt tóc để dễ dàng giúp đỡ cuộc dân biến bằng cách quyên góp, bằng uy tín của mình mà không " lộ diện " là đồng loã với " bọn duy tân " ! 3. Ghi nhận diễn biến, đánh giá và ban hành những chỉ thị cần thiết để đối đầu với cuộc dân biến ở Quảng Nam Ngay ngày 2 tháng 4 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương Bonhoure đã báo cáo với Bộ Thuộc địa ở chính quốc : " Khâm sứ Trung Kỳ đã báo cho tôi rằng từ hai hôm nay, dân Quảng Nam và Quảng Ngãi đã tụ họp đông hai, ba ngàn người tại các tỉnh lỵ để biểu tình và yêu cầu miễn thuế. Những người biểu tình không vũ trang và hình như chỉ đơn giản dùng áp lực số đông để đạt yêu cầu. Phong trào có thể do một số sĩ phu bất mãn và những kẻ tuyên truyền ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng Nhật Bản. Viên Khâm sứ đã khảo sát tại chỗ và theo dõi diễn biến. Tôi đã chỉ thị ông hãy yêu cầu Phủ Phụ Chính giải quyết nhanh chóng và kín đáo. Một số kẻ xách động đã bị bắt và sẽ do Nam triều xét xử. Viên Khâm sứ hy vọng sẽ nhanh chóng ổn định tình hình. Tôi sẽ luôn theo dõi tình hình. Bonhoure. " Toàn quyền Đông Dương Bonhoure, trong công văn gửi Khâm sứ Trung Kỳ ngày 8 - 5- 1908 cũng nhấn mạnh đến vai trò của sĩ phu duy tân vào cuộc dân biến và sự kiện đông đảo quần chúng đã hưởng ứng tham gia cuộc biểu tình nhiều ngày khắp các phủ huyện ở Quảng Nam và ngay tại Toà Công sứ ở Hội An. Toàn quyền Đông Dương cũng như viên Khâm sứ Trung Kỳ đều muốn Phủ Phụ Chính đảm đương vai trò xét xử và tuyên án các sĩ phu như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... để dân chúng không có cớ tiếp tục phản kháng chính quyền thuộc địa. Chúng ta cần thấy rõ mục tiêu các cuộc biểu tình phản kháng không phải là các quan lại người Việt mà họ luôn yêu cầu " các quan cùng dân đi xin xâu ", mà là các toà sứ các tỉnh và toà Khâm sứ ở Huế. Còn ở các tỉnh, việc xét xử giao cho án sát, bố chánh và sau đó bản án được phúc thẩm ở Phủ Phụ Chính, Khâm sứ là kẻ phê duyệt cuối cùng. Bản án Trần Quý Cáp đáng lý phải được Phủ Phụ Chính hoặc Cơ Mật Viện xét xử như được quy định viø Trần Quý Cáp là tiến sĩ (hoặc phó bảng như trường hợp Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, không di lý về Quảng Nam mà về Huế để Cơ Mật Viện xét xử). Án sát Khánh Hoà hai lần yêu cầu di lý Trần Quý Cáp về Huế nhưng hai lần Toà Khâm sứ và Cơ Mật Viện đều yêu cầu xét xử tại Khánh Hoà theo điều 309 và 321 Hoàng Việt luật lệ. * * * Tóm lại : Cần chính danh phong trào mà ta quen gọi là chống thuế Trung Kỳ 1908 là Phong trào dân biến,Cuộc dân biến năm Mậu Thân (1908) ở Trung Kỳ như Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng gọi Cuộc dân biến này là kết quả vận động tuyên truyền của những sĩ phu và cán bộ Phong trào Duy Tân (công khai) và Duy Tân hội ( bí mật) từ những năm 1906, 1907. Tại Quảng Nam các cuộc hội họp bí mật này đã bị theo dõi ( 1907 ở Tam Kỳ). Vậy không nên kết luận rằng cuộc dân biến này là tự phát và các sĩ phu nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp là vô can ! Toà Khâm sứ đã đề nghị xử tử hình Trần Quý Cáp và bắt Phan Châu Trinh từ Hà Nội là hai nơi không thuộc mười tỉnh Trung Kỳ có biểu tình " xin xâu " Như trong thư công sứ Quảng Nam gửi Khâm sứ Trung Kỳ trả lời về vụ khiếu nại của Huỳnh Thị Lý, người Pháp biết rõ Thương hội Quảng Nam lập ra ở Hội An không có mục đích buôn bán mà nhằm mục đích " bất hợp pháp " và cho dù có cổ đông là quan lại Việt Nam và cả Công sứ Pháp, Thương hội Quảng Nam vẫn bị giải tán, và tiền bạc bị tịch thu ! Việc công sứ Quảng Nam tham gia Thương hội Quảng Nam có thể đã làm cho các sĩ phu mất cảnh giác và để người Pháp có thể theo dõi những hoạt động " bất hợp pháp " nấp đằng sau Thương hội Quảng Nam. Người Pháp đã đàn áp các cuộc biểu tình một cách tàn bạo, chém giết thẳng tay những kẻ lãnh đạo trực tiếp và bắt giữ đầy ải các sĩ phu duy tân ra Côn Đảo, lên Lao Bảo... vì họ sợ những gì có thể tiếp diễn, mạnh hơn, không còn là bất bạo động... như họ đã theo dõi và nhận định. Chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn nếu ta theo dõi các tỉnh khác như Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An, Thanh Hoá qua tài liệu lưu trữ Pháp. Nội dung đó chưa được đề cập trong bài này. Có thể chúng ta mượn nhận định sau đây của Jean Ajalbert, một nhân chứng đã từng đi dọc Đường Cái Quan viết trong ký sự " Les destinées de l'Indochine-voyage-histoire-colonisation " rằng : Cuộc dân biến được tổ chức một cách thông thạo nhất, như là một cuộc diễn tập qua đó xứ Annam tổng ước các năng lực của miønh, kiểm điểm các lực luợng nổi dậy của họ " Phan văn Hoàng _Trần viết Ngạc
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:26:00 GMT 9
CUỘC DÂN BIẾN Ở QUẢNG NAM NĂM MẬU THÂN (1908) Trần Viết Ngạc Chỉ bốn năm sau khi Duy Tân hội thành lập, ba năm sau bài thơ Chí thành thông thánh và bài phú Lương ngọc danh sơn mà nhiều người nhận định là tuyên ngôn của sĩ phu đầu thế kỷ XX và hai năm sau Đầu Pháp chính phủ thư (hay thư gửi Toàn quyền Beau) của Phan Hy Mã, một phong trào nông dân kháng thuế đã lần lượt nổ ra khắp 10 tỉnh Trung kỳ từ Thanh Hóa vào đến Phú Yên vào năm 1908 mà Quảng Nam vinh dự lãnh vai trò tiên khởi. 1) Tại sao Quảng Nam? Tại sao phong trào chống thuế phát khởi đầu tiên ở Quảng Nam? câu hỏi này thật ra không khó trả lời. Nhìn lại nửa sau thế kỷ XIX, Quảng Nam đã ngăn chận được bước tiến của thực dân Pháp khi chúng muốn đánh chiếm Đà Nẵng để làm đầu cầu uy hiếp kinh đô Huế trong chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh (1858 - 1859). Sau đó, trong phong trào Cần Vương phát triển khắp cả nước thì Nghĩa hội Quảng Nam tuy chỉ tồn tại trong 3 năm (1885 - 1887) nhưng đã có những thành tựu đáng kể. Đó là tỉnh duy nhất trong toàn quốc đã thiết lập được một chính quyền cấp tỉnh với tỉnh thành mới là Tân tỉnh Trung Lộc. Nghĩa hội có lúc đã làm chủ được toàn tỉnh, bao vây và cô lập La Qua, Đà Nẵng và các thị trấn, huyện lỵ, khiến cho ngụy quyền nhiều lần cấp báo về Huế cầu cứu (1886). Sự hy sinh sau đó của Phan Bá Phiến và Hội chủ Nguyễn Duy Hiệu đã giúp cho Quảng Nam bảo toàn được một phần lớn nhân sự, dành sinh lực cho một cơ hội quật khởi về sau như Nguyễn Duy Hiệu mong mỏi. Đầu thế kỷ XX, trong khi ở miền Bắc Hoàng Hoa Thám còn tiếp tục duy trì cuộc chiến đấu, một cuộc chiến đấu không còn có triển vọng phát triển; ở Thanh Nghệ Tĩnh, thời gian chỉ mới mấy năm sau cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng chưa đủ để lực lượng yêu nước có thể hồi phục… thì Nam Ngãi đã có gần mười lăm năm để hồi phục và tiềm dưỡng sinh lực. Hơn thế nữa, tinh thần thời Nghĩa hội trong tầng lớp nông dân mà một số vốn là nghĩa quân đã trở về cầm lấy cày cuốc sau khi Nguyễn Duy Hiệu hy sinh vẫn còn được nuôi dưỡng. Một số nhân vật quan trọng của Nghĩa hội vẫn còn đó. Tiểu La Nguyễn Thành đã từng được kẻ thù đánh giá là người biết dụng binh, âm thầm cày ruộng, giáu chí nhưng vẫn không ngừng chuẩn bị phương lược, tụ họp bí mật ở "sơn trang" Nam Thạnh lực lượng nhân sự cho một ngày quật khởi. Còn đó Đỗ Đăng Tuyển ở Ô Da, Đại Lộc, tán lương quân vụ Nghĩa hội, mới ngoài ba mươi mà đầu tóc bạc trắng, lại giả vờ lúy túy khiến cho kẻ thù gọi là "lão túy ông", nhưng vẫn âm thầm liên lạc với Tiểu La và những đồng chí cũ cùng với các cựu nghĩa binh dưới quyền trước đây. Còn đó Châu Thượng Văn ở Hội An, người đã từng hiến một phần lớn gia sản để giúp Nghĩa hội… và cũng sẵn sàng đóng góp phần còn lại cho đại cuộc khi cần. Chính trong điều kiện nhân sự và tinh thần quần chúng như thế mà Quảng Nam nghiễm nhiên trở thành bản doanh của cả hai xu hướng cách mạng đầu thế kỷ và là nơi có đủ điều kiện nhất để phát động một phong trào phản kháng bất bạo động suốt 10 tỉnh Trung Kỳ. 2) Tại sao Đại Lộc? Cho đến nay, chúng ta có nhiều nguồn tư liệu để tiếp cận phong trào chống thuế 1908 và tùy theo phương thức tiếp cận, nhiều nhận định rất khác nhau về phong trào quần chúng lớn nhất trong lịch sử cận đại nước ta. Trước hết là những tác phẩm của những sĩ phu đã từng bị kết án vì phong trào đó như: - Mậu Thân dân biến ký, Trung kỳ cự Sưu ký của Huỳnh Thúc Kháng - Trung kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký của Phan Châu Trinh. Thứ đến là tài liệu của triều đình Huế và của thực dân Pháp: - Châu bản Triều Duy Tân về phong trào chống thuế - Tài liệu lưu trữ của chính quyền Pháp về phong trào chống thuế (Trung tâm lưu trữ tài liệu hải ngoại ở Aix-en-Provence (AOM) của Pháp) Jean Ajalbert trong cuốn Những số phận ở Đông Dương (Les destinées de l'Indochine) đã cho rằng phong trào này là một cuộc diễn tập. "Cuộc khởi loạn được tổ chức một cách thông thạo nhất - như là một sự thao diễn, một cuộc diễn tập, qua đó xứ Annam tổng ước các năng lực của nó, kiểm nghiệm các lực lượng phiến loạn của nó". Một số tác giả khác thì cho rằng phong trào sôi nổi và rộng lớn này chỉ là một cuộc nổi dậy tự phát của nông dân. Thực ra, nếu chúng ta theo dõi thật kỹ các bước phát triển của phong trào, so sánh các nguồn từ tư liệu và chịu khó phân tích những gì Huỳnh Thúc Kháng muốn thông tin cho chúng ta qua Trung kỳ cự sưu ký, chúng ta ít nhất cũng phải thừa nhận rằng đó là một phong trào mà những trình tự tiếp diễn đã được hoạch định trước một cách khôn khéo. Việc chọn Đại Lộc làm nơi xuất phát là một ví dụ. Đại Lộc là một huyện, ở tây bắc tỉnh Quảng Nam, không xa tỉnh thành La Qua và thành phố Đà Nẵng, nhưng lại nằm ngoài trục giao thông Nam-Bắc. Đại Lộc tiếp giáp với miền thượng du, cứ địa của đồng bào các dân tộc miền núi. Vốn là một vùng quan trọng của Phong trào Cần Vương mà tiềm năng về nhân lực chưa bị tiêu diệt, được những người lãnh đạo có năng lực như Đỗ Đăng Tuyển gầy dựng và nuôi dưỡng lực lượng yêu nước nên Đại Lộc sớm trở thành một địa bàn cách mạng của tỉnh Quảng Nam, đầu thế kỷ XX. Thực vậy, tầng lớp hào ly, vốn là chỗ dựa của guồng máy cai trị của thực dân và phong kiến, vậy mà ở Đại Lộc, họ trở thành đại diện cho nông dân ký vào các đơn chống thuế gửi lên huyện, tỉnh và công sứ! Nó chứng tỏ khí thế của phong trào quần chúng ở đây lên rất cao, trấn áp và lôi kéo tầng lớp hào lý đứng về phía nông dân. Theo những gì Huỳnh Thúc Kháng mô tả và gián tiếp thông tin, chúng ta có thể vẽ lại kế hoạch phát triển của phong trào chống thuế từ khởi điểm Đại Lộc. - Lý trưởng và "học trò", thành phần lãnh đạo trực tiếp đã họp ở nhà họ Trương, làng Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc nhân một bữa giỗ, làm đơn và bàn nhau lấy chữ ký của 108 lý trưởng của huyện Đại Lộc. - Tập hợp dân kéo lên huyện để yêu cầu quan huyện cùng dân lên tỉnh thành - La Qua, Điện Bàn - và từ tỉnh Thành sẽ trực chỉ tòa sứ ở Hội An. - Khi dân các huyện khác cùng đến vây tòa sứ ở Hội An lên đến cao điểm thì dân ở huyện, phủ nào sẽ vây huyện lỵ, phủ lỵ huyện ấy, lấy khẩu hiệu yêu cầu quan huyện, phủ cùng dân đi xin xâu. - Phong trào sẽ từ Quảng Nam lan ra phía bắc và tỏa dần về phía nam. Phong trào ở mỗi tỉnh sẽ do nhân sự ở tỉnh ấy phụ trách - Lãnh đạo của phong trào sẽ không công khai xuất hiện. Nếu cần chỉ có những người cầm đầu ở làng, tổng xuất hiện khi cần thiết mà thôi. - Phải giữ phong trào trong vòng hợp pháp và bất bạo động để địch không có cớ đàn áp bằng súng đạn. - Không gây phương hại đến tính mạng và tài sản các quan phủ, huyện, tỉnh. Mục đích của phong trào là làm tê liệt guồng máy Nam triều từ cấp xã đến cấp huyện, cấp tỉnh. 3) Diễn tiến. Vào một ngày đầu tháng hai Mậu Thân (1908), một số hào lý huyện Đại Lộc và tầng lớp trí thức nông thôn (Mính Viên gọi là học trò) đã họp nhau trong một bữa giỗ. Họ thảo đơn, dự định "lấy chữ ký các làng xã trong huyện, tới trình viên tri huyện chuyển đạt lên tỉnh cùng tòa sứ, xin giảm nhẹ sưu cùng các món thuế, chớ như hiện thời thì nặng quá dân không thể đóng nổi" (Trung Kỳ cự sưu ký). Rõ ràng công việc và các bước tiến hành theo trình tự từ xã đến huyện, tỉnh và cuối cùng là tòa sứ đã được vạch ra khá cụ thể. Đơn đã thảo và viết xong. Đã lấy chữ ký một cách thật mau chóng - 35 lý trưởng các làng. Việc tên lý trưởng làng La Đái dao động, lén (1) đi báo huyện sẽ là một cái cớ để những người lãnh đạo thúc đẩy tiến trình nhanh hơn. Không đợi lấy đủ 108 chữ ký của các làng, ngày 11/3 năm 1908, hơn 400 dân Đại Lộc đã kéo nhau đến huyện lỵ với lá đơn xin giảm sưu thuế và với yêu cầu "Nhờ quan đến xin giúp" (2). Quan đã bỏ chạy xuống tỉnh cấp báo (Tri huyện Phạm Văn Lãng). Vậy là dân ùn ùn kéo xuống tỉnh với khẩu hiệu xin sưu! Đến chợ Vĩnh Điện, đoàn biểu tình đã lên đến năm, sáu trăm người. Đến tỉnh cũng chỉ là một chặng dừng chân. Khi biết quan huyện đã đến tòa sứ, nhân dân Đại Lộc lại kéo nhau xuống tòa sứ Hội An, như đã dự kiến trong buổi họp! Trên đường từ Điện Bàn đến Hội An, nhân số đoàn biểu tình đã đông lên vì nhiều người đã gia nhập. Đến tòa sứ, đoàn biểu tình đã lên con số ngàn. Và ngay chiều hôm đó, những "học trò" đã từng tham gia buổi họp đầu tiên nay lại là đại diện của đoàn biểu tình là Lương Châu, Trương hoành, Hứa Tạo, Trương Tốn, Trương Côn, Trương Đính đã bị bắt. Đoàn biểu tình vây tòa sứ dù cho viên công sứ đã tiếp đại diện, nhận đơn và trả lời rất hợp lý là việc giảm sưu thuế phải do quyết định của Triều đình Huế và Toàn quyền Đông Dương. Phải vây tòa sứ vì đó là trung tâm cai trị cấp tỉnh của thực dân Pháp cho dù viên công sứ đe dọa và thực hiện lời đe dọa ngay chiều hôm đó là đày Lương Châu, Trương Hoành, Hứa Tạo đi Lao Bảo. Việc vây tòa sứ là "tiếng súng phát hiệu lệnh" cho dân các phủ huyện. Họ tiến thẳng về tòa sứ để tiếp ứng và khi số lượng đã quá đông trên một diện tích không đủ rộng là tòa công sứ ở Hội An, thì số dân còn lại ở các địa phương sẽ vây các phủ lỵ, huyện lỵ khắp toàn tỉnh. Trình độ tổ chức và khả năng kiểm soát phong trào, duy trì phong trào trong đường lối bất bạo động và ôn hòa đã được thể hiện rất rõ trong quá trình diễn tiến. Làm thế nào để duy trì cuộc biểu tình vây tòa sứ Hội An với một nhân số đông đảo có lúc lên đến một vạn người, trong thời gian hơn một tháng? (Giả định cuộc biểu tình là tự phát, ta sẽ thấy câu trả lời là bất cập). Huỳnh Thúc Kháng viết: "Nhân dân các phủ huyện trong tỉnh khoai mo, cơm gói, quần xách, áo mang kéo đi từng đoàn ra phố thay nhau kẻ ở người về, cơm tiền giúp nhau". Tự phát (!) mà hiệu quả đến như thế thì hơn hẳn có tổ chức nếu không nói là đã được tổ chức rất chặt chẽ! Và đến khi ở tòa sứ nhân số đã quá đủ và quá đông thì Huỳnh Thúc Kháng ghi lại lời bàn tán (chứ không phải là thảo luận hay mệnh lệnh). "Ở phố, tòa đã đông lắm, nay ở phủ huyện nào vây quanh phủ huyện ấy không phải kéo ra phố nữa". Và thật là kỳ lạ, lời bàn tán vô danh đó đã có hiệu lực như một mệnh lệnh được chuyển đi rất nhanh chóng và dân các phủ Điện Bàn, Tam Kỳ, Thăng Bình, các huyện Hòa Vang…đã kéo đến vây các phủ, huyện với yêu cầu rất ôn hòa "xin quan phủ huyện cùng dân đi xin xâu". Trong quá trình "dân biến" ở Quảng Nam chỉ có hai tên bị thiệt mạng, đó là Đề đốc Trần Tuệ (có tư liệu ghi là Sự) ở Tam kỳ và tên Chánh Sáu làng Gia Cốc, mà chỉ riêng trường hợp thứ hai là do dân bạo động. Trần Tuệ là đề đốc coi việc xây đắp đường sá "Thường đánh đập dân, nhất là ghét dân cúp tóc đã hành hạ dân, áp bức dân cho nên khi phong trào nổi lên, Đề Tuệ lén (chữ của Huỳnh Thúc Kháng) về ở trong phủ Tam Kỳ. Dân cả bảy tổng vây phủ "một hai xin viên phủ và ông Đề đem dân đi xin xâu". Đề Tuệ đã sợ quá mà chết. Khi viên đại lý Pháp ở Phủ Tam Kỳ đem Đề Tuệ ra khỏi phủ thì bị Trùm Thuyết (Trần Thuyết) kêu to "Dân ta xin quan đại lý giao ông Đề cho dân ăn gan". Toàn thể đám đông vây phủ đồng thanh lớn tiếng dạ vang lừng. Đề Tuệ ngồi trên xe, hộc máu, gục xuống, về đến tòa đại lý thì tắt thở. Tên thứ hai là Chánh Sáu (hay Quát) bị dân oán vì dựng nhà giam để dọa bắt nhốt dân đi xin sưu. Ban đêm dân vây nhà, Sáu trốn ra ngoài bụi bờ, dân đốt đuốc đi tìm. Tìm thấy, dân dùng đuốc đốt râu tóc rồi dìm xuống sông. Điều đáng cho chúng ta lưu ý ở đây là Đề Tuệ và Chánh Sáu chỉ là những tên ác ôn không phải là hàng quan phủ, huyện hay tỉnh mà phong trào chỉ nhằm mục đích hạ uy thế, làm mất uy tín trước dân và trước thực dân Pháp, làm cho guồng máy cai trị trở nên vô hiệu. Chúng ta có thể dẫn thêm nhiều ví dụ để minh chứng cho trình độ giác ngộ của dân chúng Quảng Nam lúc bấy giờ và cả khả năng tổ chức cũng như kiểm soát được phong trào. Tiếng "Dạ" vang lừng của dân bảy tổng Tam Kỳ không chỉ làm cho Đề Tuệ sợ mà làm rúng động cả guồng máy thống trị, làm cho viên khâm sứ Trung Kỳ và cả viên toàn quyền Đông Dương cũng run sợ. Hào lý nay đứng về phía nhân dân, guồng máy cai trị cấp phủ, huyện bị vô hiệu hóa hoàn toàn…đang đe dọa guồng máy thống trị trung gian của chúng. Và từ Quảng Nam, phong trào chống Huế đã nổ ra ở Thừa Thiên, Quảng Trị… cho đến Thanh Hóa ở phía Bắc và phát triển ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ở Nam. Đặc biệt ở Bình Định, phong trào đã diễn ra mạnh mẽ và làm chủ hoàn toàn ở các phủ huyện khiến các quan cai trị phải rút về ở tỉnh. Quảng Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phát khởi và làm gương cho phong trào ở các tỉnh như được khen ngợi trong một tờ truyền đơn chống thuế ở Nghệ Tĩnh: " Đáng yêu thay dân Quảng Nam! Đáng kính thay dân Quảng Nam! Đáng học thay dân Quảng Nam! Lòng họ chuyên nhất như thế, Chí họ kiên quyết nhẫn nại đến thế, Hành động họ sáng tỏ là thế…" Vụ chống thuế đã khiến bọn thực dân lo sợ và ra tay đàn áp, đày ải các sĩ phu yêu nước - dù chúng không có lấy một bằng cớ cụ thể rằng họ đứng sau cuộc biểu tình vĩ đại đó - đi Lao Bảo, Côn Lôn như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn Thành, Châu Thượng Văn… và chém giết thẳng tay các vị lãnh đạo trực tiếp phong trào như Trần Thuyết, ông Ích Đường… Trần Viết Ngạc. Chú thích : (1) Bằng một chữ "lén" Huỳnh Thúc Kháng gián tiếp thông báo cho người đọc rằng địa bàn nông thôn Đại Lộc đã hoàn toàn thuộc về Phong trào Duy Tân. (2) Những chữ trong ngoặc kép là nguyên văn của Huỳnh Thúc Kháng.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:28:16 GMT 9
Suy nghĩ thêm về các cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ XIX Trần Viết Ngạc * * Thành Phố HCM Việc nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX còn chứa đựng nhiều sai lạc và ngộ nhận. Có những sai lạc do vô tình, có những ngộ nhận do thiên kiến, có dụng tâm. Về loại thứ nhất, có thể nêu trường hợp "Chiếu Cần vương" của vua Hàm Nghi là một thí dụ. Vua thì có thể ban bố nhiều văn bản khác nhau: chiếu, dụ, sắc, chỉ... Mỗi loại có những thể thức văn bản khác nhau. Ví dụ mở đầu một tờ chiếu bao giờ cũng là cụm từ: Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chiếu viết... hoặc Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết...(1) Đối với dụ, mở đầu bằng hai chữ đơn giản: Dụ viết... Thế nhưng ít ai nhận ra sự mâu thuẫn trong nhan đề và nội dung văn bản của bản văn quan trọng này. Các tác giả sách Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (Nxb Văn học, Hà Nội, 1970) in văn bản này với nhan đề Chiếu Cần vương nhưng không lưu tâm đến chữ đầu là Dụ (trang 463). Cũng từ một nguồn tư liệu duy nhất là Trung-Pháp chiến tranh tư liệu, Lê Thước đã dịch và in trong phần phụ lục cuốn Bài ngoại liệt truyện của Phan Trọng Mưu dưới nhan đề "Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi" với hình thức mở đầu văn bản là "Dụ rằng..." Dụ, hay Dụ viết là hình thức mở đầu của một dụ (sắc lệnh của vua), chưa bao giờ là mở đầu của chiếu (tuyên cáo, thông báo cho toàn dân),(2) như đã trình bày ở trên. Các nguồn tư liệu gốc đều khẳng định là duï như Đại Nam thực lục ("Dụ Thiên hạ cần vương, "Dụ Cần vương"), Dậu Tuất niên gian phong hỏa ký sử, Đại loạn năm Ất Dậu: "Tôn Thất Thuyết lánh thân trốn khỏi Tống dụ ra giục hối thân hào" (Dậu Tuất niên gian...) "Dụ Hàm Nghi mới tống đạt các nơi, Mưu Tôn Thuyết đã vẽ bày đủ lối." (Đại loạn năm Ất Dậu) Trong bài viết ngắn này chúng tôi chỉ giới hạn về những sai lạc khi viết về các cuộc kháng chiến ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ XIX: - Truyền thuyết "Trương Định đề cờ". - Bài "Ngự chế" được một số nhà nghiên cứu cho là của vua Tự Đức. - Các cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kỳ mà tiêu biểu là cuộc kháng chiến của Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực có chống lại triều đình nhà Nguyễn không? 1. Truyền thuyết "Trương Định đề cờ Phan Lâm mại quốc, triều đình khí dân" là không đáng tin. Dù đã có kết luận của cuộc hội thảo về Phan Thanh Giản năm 1994 ở Vĩnh Long rằng sự kiện Trương Định đề cờ "Phan Lâm mại quốc, triều đình khí dân" là không đáng tin, trong tọa đàm về Phan Thanh Giản năm 2003 tại TPHCM vẫn có nhiều diễn giả dùng sự kiện này như chứng cứ để kết tội Phan Thanh Giản.(3) Ngay khi dẫn câu này, các tác giả cũng dùng sai chữ. Vũ Ngọc Khánh gọi ông là kẻ "mãi quốc" (bán nước) (Sic).(4) Thực ra買 mãi là mua, mại賣 mới là bán. Nếu quả thật có sự kiện đề cờ như trên, câu hỏi đặt ra là tại sao: - Các tài liệu gốc như Lãnh binh Trương Định truyện của Nguyễn Thông, Châu bản triều Nguyễn về Trương Định,(5) truyện Trương Định trong Đại Nam chính biên liệt truyện đều không hề ghi nhận sự kiện này. - Còn có thể dẫn các sự kiện phản chứng như vua Tự Đức đã ra lệnh cấp tuất cho vợ Trương Định và cho lập đền thờ Trương Định ở Bình Sơn, Quảng Ngãi. Việc tiểu sử Trương Định được đưa vào Đại Nam chính biên liệt truyện cũng minh chứng Trương Định không chống lại triều đình. Vua Tự Đức cũng đã phái Đỗ Thúc Tĩnh vào Nam để bí mật khuyến khích và ủng hộ các cuộc kháng Pháp. Khi Phan Thanh Giản yêu cầu vua Tự Đức xuống dụ yêu cầu Trương Định giải binh, chính Tự Đức đã bảo Phan Thanh Giản rằng sự phản kháng của Trương Định có lợi cho mưu đồ khôi phục lại giang sơn của triều đình! Chính vua Tự Đức đã sai thị vệ Thi đem một kim khánh tặng cho Trương Định.(6) Người đương thời hiểu Trương Định không ai bằng Nguyễn Đình Chiểu. Tương truyền Nguyễn Đình Chiểu khuyên Trương Định tiếp tục chiến đấu hơn là tuân lệnh triều đình đi nhậm chức Lãnh binh An Giang. Trong 12 bài thơ khóc Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu nhiều lần khẳng định tấm lòng trung trinh với vua: Chí dốc ra tay nâng vạc ngã, Trước sau cho trọn chữ quân thần. (bài 3) Năm dài những mảng ngóng tin vua, (bài 5) Dâng hộ nước Nam về một mối, Ngàn năm miếu vũ rạng công tôi. Trong bài Văn tế, Nguyễn Đình Chiểu cũng viết: Từ Bến Nghé mây mưa sùi sụt, Thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân; Đất Gò Công cây cỏ ủ ê; Cảm niềm thần tử hết lòng trung ái. 2. Về bài thơ được gắn nhan đề là "Ngự chế" mà nhiều người cho là của vua Tự Đức nhưng không dẫn được xuất xứ. Cũng trong cuộc tọa đàm "Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản", tháng 8/2003, GS Trần Văn Giàu và PGS Vũ Ngọc Khánh đều dẫn bài thơ "Ngự chế"(7) Khí dân, triều đình cửu, Mãi quốc, thế gian bình, Sử ngã, chung thân điếm, Hà gian nhập miếu đình. Nghĩa là: Bỏ dân, triều đình lỗi, Bán nước, miệng đời chê, Một đời ta nhục nhã, Mặt mũi nào vào miếu đình. Bài thơ trên có mấy điều đáng ngờ: - Về nhan đề, "Ngự chế" không phải là nhan đề của bài thơ. Bài văn, bài thơ, chiếu, dụ nào của vua lại không được gọi là ngự chế? - Phải chăng bài thơ này lấy ý từ câu "Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân"? và rõ ràng đã lặp lại lỗi từ ngữ mãi và mại. Có điều "mãi quốc" không còn gán cho Phan Lâm mà được đặt vào miệng của Tự Đức! - Chúng tôi, ngay tại buổi tọa đàm, đã yêu cầu dẫn xuất xứ của bài "Ngự chế" nhưng chỉ được đáp lại bằng sự im lặng. Sau đó, tại hội thảo về phong trào Duy Tân được tổ chức ở Quảng Nam, cùng năm 2003, PGS Vũ Ngọc Khánh cũng không thể trả lời về xuất xứ của bài "Ngự chế". Trong dụ "Tự biếm", vua Tự Đức đã nhận lỗi lầm về việc để mất đất và dân Nam Kỳ cùng nỗi vô vọng cùng cực trước cuộc xâm chiếm của thực dân Pháp mà nhà vua không có một kế sách nào để chống lại.(8) Nhà vua chẳng những tự nhận lỗi mà còn công bố cho toàn dân thiên hạ biết: "Để mất đất và dân Nam Kỳ là lỗi của tiểu tử này". Nhưng "mại quốc" (không phải là mãi quốc) là điều không thể gán ghép cho Phan Thanh Giản và vua Tự Đức. Những chứng cứ không có thực, tùy tiện bày đặt ra như thế sẽ chẳng tồn tại mãi được. 3. Có phải Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân chiến đấu dưới ngọn cờ quân chủ ? - Nguyễn Trung Trực lúc đốt tàu Esperance là Quyền quản binh đã cùng với Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang chỉ huy. Vua Tự Đức đã tưởng thưởng cho những chỉ huy và binh sĩ lập nên chiến công Nhựt Tảo và cấp tuất cho 4 người hy sinh. - Nguyễn Trung Trực được bổ làm Thành thủ úy Hà Tiên. Sau khi bị tử hình, vua Tự Đức đã sắc phong cho Nguyễn Trung Trực làm Thành hoàng làng Vĩnh Thanh Vân (tỉnh lỵ Rạch Giá). Cử chỉ này của nhà vua tương tự như đã cho lập nhà thờ Trương Định ở Tư Cung, Bình Sơn, Quảng Ngãi. - Trương Định là Phó lãnh binh và sau khi đại đồn Chí Hòa tan vỡ, ông trở thành thống lãnh quân đội của 3 tỉnh miền Đông. Lệnh của triều đình buộc Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và Khâm phái quân vụ Nguyễn Túc Trưng phải hội quân với Trương Định để chống giặc. Những cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kỳ "là để giúp đỡ cho trào đình" như của Trương Định gửi cho các nơi.(9) Phải chăng đã đến lúc chấm dứt những suy nghĩ áp đặt chủ quan đối với các cuộc kháng chiến chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX trên vùng đất mà các chúa Nguyễn đã dày công xây dựng và là đất khởi nghiệp của Nguyễn Phúc Ánh. Tư tưởng trung quân ái quốc ở Nam Kỳ vẫn còn sâu nặng vào đầu thế kỷ XX. Các học sinh Đông Du của Nam Kỳ đã lấy lễ quân thần mà bái yết Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và khi Phan Bội Châu cải tổ Duy Tân hội thành Việt Nam Quang Phục hội theo tư tưởng cộng hòa dân chủ đã gặp sự phản đối mạnh mẽ của các thành viên Nam Kỳ.(10) Phan Bội Châu đã kết luận: "...Tôi mới đề xuất nghị án giữa công chúng là đổi chủ nghĩa quân chủ [lập hiến] làm dân chủ. Đầu hết tán thành là ông Đặng Tử Mẫn, Lương Lập Nham, Hoàng Trọng Mậu cùng đồng chí Trung Bắc hai kỳ, thảy đại tán thành; chỉ duy một vài người Nam Kỳ phản đối. Nhân vì đồng bào trong Nam đối với Kỳ Ngoại Hầu tín ngưỡng rất sâu, não chất ấy chưa bỗng chốc mà đổi được...".(11,12) Hoàn cảnh lịch sử Nam Kỳ có thể giải thích tại sao tư tưởng quân chủ còn được bảo lưu lâu dài tại Nam Kỳ so với Bắc và Trung Kỳ. Quá trình lâu dài chống xâm lược Pháp đã làm phân hóa sâu sắc từ triều đình đến nhân dân. Những thất bại liên tiếp của nhà Nguyễn từ năm 1873 đến kinh thành thất thủ (1885) đã không tác động mấy đến nhân dân Nam Kỳ vì từ năm 1867, Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm và hòa ước 1874 thừa nhận đất Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp! Hình ảnh một triều đình bạc nhược với vua Hiệp Hòa, với Hồng Tham, Hồng Phì, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải... chỉ tác động đến sĩ phu và nhân dân Trung và Bắc. Nhân dân Nam Kỳ còn lưu giữ trong tâm trí mình một hình ảnh triều đình Huế với Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân... Ngọn cờ quân chủ ở Nam Kỳ chưa đến độ rách nát tả tơi như ở Trung và Bắc sau khi phong trào Cần Vương thất bại và cũng không chịu ảnh hưởng của các ông vua "xằng" chễm chệ trên ngai vàng ở Huế như Đồng Khánh, Khải Định. Ở Nam Kỳ chỉ có hạng tiểu nhân đắc chí như Huỳnh Công Tấn, Trần Bá Lộc... chứ chưa sản sinh ra những Cần Chánh điện Đại học sĩ, ba lần được tặng Bắc đẩu bội tinh như Nguyễn Thân, Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải... Nghiên cứu lịch sử Nam Kỳ trong thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phải thấy được độ "chênh" giữa Nam Kỳ với Trung và Bắc để khỏi phải áp đặt những tư tưởng của Văn thân Nghệ Tĩnh như Trần Tấn, Đặng Như Mai hay của sĩ phu Bắc Hà đầu thế kỷ XX đã gọi vua là "dân tặc"- khi bắt đầu chịu tác động của tân thư-(13) cho sĩ phu và nhân dân Nam Kỳ. T V N CHÚ THÍCH (1) Xem Tự Đức thánh chế văn tam tập, nguyên văn chữ Hán, bản dịch của Bùi Tấn Niên, Trần Tuấn Khải, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn) xuất bản, 1973. (2) Trong một dịp khác, tôi sẽ trình bày các văn bản Chiếu Cần vương 2 do Vũ Văn Tĩnh giới thiệu (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 140, 1971) và gần đây Chiếu Cần vương do nguồn của Argenlieu cung cấp là hoàn toàn giả mạo. (3) Vũ Ngọc Khánh. "Quần chúng cảm thông để lịch sử đỡ phần nghiêm khắc". Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, Nxb Đồng Nai và Tạp chí Xưa và Nay, 2006, trang 101. (4) Tlđd, trang 100. (5) "Tình hình ba tỉnh Nam kỳ". Tập san Sử địa, số 3, trang 7- 9, 1966. (6) P.Vral. Les premières années de la Cochinchine, q.II, 1874, trang 261. Dẫn theo Phù Lang Trương Bá Phát, Tập san Sử địa, số 3, 1966, "Nén hương hoài cổ, Trương Định". (7) Vũ Ngọc Khánh, Tlđd, trang 102. (8) Trần Viết Ngạc. "Góp phần tìm hiểu về vua Tự Đức qua dụ Tự biếm và một số châu phê", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2(73). 2009. (9) Nguyễn Thông. "Lãnh binh Trương Định truyện". Tô Nam và Bùi Quang Tung dịch, Tập san Sử địa, số 3, 1966. (10) Tiêu biểu là Nguyễn Thần Hiến. (11) Tự phán. Nxb Anh Minh, Huế, 1956, trang 146. Tiểu La cũng từng nhận xét "Kim tiền nước ta là ở Nam Kỳ mà khai thác ra Nam Kỳ là công đức triều Nguyễn làm..." (Tự phán, trang 35). (12) Mà vận động Nam Kỳ tất nhờ ở nơi nhân dân nhớ cũ (Tự phán, trang 72). (13) Theo tài liệu của Pháp từ "dân tặc" đã xuất hiện từ trường học cụ Cử Can, năm Giáp Thân (1904) nhân có khoa thi Hội năm đó. Notes sur l'agitation antifrancaise de puis dix ans et le parti nationnalis de annammite, trang 19. TÓM TẮT Do tính cách phức tạp của bối cảnh lịch sử Việt Nam cận đại (từ 1858), nhiều ý kiến sai lạc và ngộ nhận của một số nhà nghiên cứu đã tồn tại rất lâu và vẫn còn tiếp tục tồn tại nếu chúng ta không chịu khó gỡ dần. Ví dụ "Dụ Cần vương" của vua Hàm Nghi vẫn được gọi là "Chiếu Cần vương", "Hàm Nghi đế chiếu", dù là hai chữ mở đầu văn bản này ở các tài liệu gốc đã là chứng cứ cải chính hùng hồn. Trong bài viết ngắn này, tác giả kiểm chứng lại hai sự kiện "Trương Định đề cờ" và bài thơ "Ngự chế" (sic) được nhiều người cho là của vua Tự Đức. Cuối cùng tác giả khẳng định các cuộc chiến đấu của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ XIX "là để giúp đỡ cho trào đình".
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:31:10 GMT 9
NGUYỄN HỮU TUỆ (1871 - 1938) giữa đám than tro vàng mới quý ... *** Thái Vĩnh Trân & Trần viết Ngạc Tấm ảnh của ông Nguyễn Hữu Tuệ Ngày nay, đến đền Tiên Nga - một di tích lịch sử văn hóa [1] ở Quận Ngô Quyền, Hải Phòng, khách viếng thăm có thể chứng kiến một vị trí trang trọng trong đền có thờ các vị: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Tuệ, Nguyễn Thượng Hiền, Trịnh Văn Cấn, Lương Văn Can... Đó là những tên tuổi gắn bó với phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Chúng ta biết đến Phan Bội Châu là người sáng lập Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Tên tuổi Phan Châu Trinh gắn liền với xu hướng cải cách và phong trào Duy Tân. Nguyễn Thượng Hiền, một chí sĩ yêu nước nhiệt tâm. Lương Văn Can - đồng sáng lập ngôi trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trịnh Văn Cấn hay Đội Cấn, cùng Lương Ngọc Quyến đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên năm 1917... Trong số các bậc tiên hiền trung liệt đó, Lý Tuệ ít được biết và nhắc đến. Xuất thân không phải là một sĩ phu Nho học, và cũng không phải là người lãnh đạo một phong trào, người con của đất Hải Phòng Lý Tuệ đã ghi dấu ấn trong lịch sử bằng những đóng góp hết sức thầm lặng mà lớn lao: là người nhiệt tâm yêu nước, tranh thủ làm công dưới tàu ông đã che chở, giúp đỡ các nhà cách mạng và sinh viên xuất ngoại. Chính vì lẽ đó mà người viết muốn tái hiện lại hình tượng nhân vật lịch sử này, qua nguồn tư liệu rất hạn chế về ông.Lý Tuệ tên thật Nguyễn Hữu Tuệ (1871-1938) [2], sinh tại làng Gia Viên [3], trong một gia đình nhà nho. Ông mua chức lý trưởng nên thường được gọi là Lý Tuệ [4]. Khi trưởng thành, gia đình gặp vận hạn, Lý Tuệ phải đi làm thợ nề để kiếm sống [5]. Sau đó, ông xin làm nghề nấu bếp trên tàu biển[6]. Cũng như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Châu Trinh (1872-1926), hay Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925)..., Lý Tuệ sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đặt nền thống trị. Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu xã hội Việt Nam đã có những biến đổi, các giai cấp xã hội bắt đầu có sự phân hóa. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc ngày càng trở nên sâu sắc. Cùng với ảnh hưởng của sự xâm nhập phương Tây, các trào lưu tư tưởng mới - tư tưởng dân chủ tư sản, từ bên ngoài tràn vào được bộ phận sĩ phu yêu nước có xu hướng tiến bộ tiếp nhận. Trên cơ sở nhận thức đổi mới, các vị hiểu rằng có thể giành "độc lập dân tộc" bằng nhiều con đường khác nhau. Nổi bật là việc thành lập Duy Tân Hội (1904), phát động phong trào Đông Du vào năm 1905 do Phan Bội Châu khởi xướng. Là một đầu bếp, nhưng xuất thân trong một gia đình nhà nho, ở một làng khoa bảng ông sớm nhận thức và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng mới. Ông đã chủ động hòa nhập vào làn sóng đó bằng việc tham gia góp sức cho phong trào Đông Du. Trong Tự phán[7], hình ảnh Lý Tuệ xuất hiện khi cụ Phan đề cập đến lần xuất dương đầu tiên cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính vào năm Ất Tị (1905), tháng giêng: "Đến ngày 15 tháng ấy, hai người mang tới nơi, ông Trần Văn Bỉnh[8] trở về Nam, tôi với ông Tăng, ông Đặng lên xe lửa từ Hà Nội xuống Hải Phòng, đầu sẵn có bạn quen của ông Tăng nên tới đâu trơn lọt cả. Ngày 20 tháng ấy[9], xuống tàu buôn Tây ở Hải Phòng. Chiếc tàu đi từ Hải Phòng đến Mang Cai. Từ đây sắp xuống bắt đầu vào lịch sử đầu đuôi tôi xuất dương" [10]. "Buổi sớm ngày 22 tháng Giêng lên bờ, vào trú nhà một người thuyền hộ ở chợ Trúc Sơn, tên là Tiễn Lùng. Nhà này cũng là bạn quen của ông Tăng. Sắp đặt hành trang xong, tôi mừng quýnh, muốn phát cuồng, nghĩ rằng chim hồng ra khỏi lồng, ngày nay là ngày thứ nhất"... "Lúc đó, chủ thuyền toan đi Hương Cảng buôn, chúng tôi bèn đi thuyền của chủ ấy, ngồi tàu buồm đến Bắc Hải, trót sáu ngày, đổi sang ngồi tàu lửa Tây đến Hương Cảng. Chiếc tàu ấy là Ái Vu. Trong lúc vô ý được một người bạn rất tốt tên là Lý Tuệ. Ông nầy làm đầu bếp ở trong tàu, coi những việc cung cấp ăn uống cho hành khách, đi qua đi lại chăm liếc dòm ba người chúng tôi, có ý nghi không phải là khách tầm thường. Lúc tàu rảnh việc thì xoay lại nói chuyện với chúng tôi, nhưng chúng tôi chưa giám nói tình thật, chỉ tỏ ý ân cần, hẹn ông gặp nhau ở nhà trú Hương Cảng. Thượng tuần tháng hai, tàu tới Hương Cảng, có người khách sạn xuống bán vé. Chúng tôi mua vé Thái Yên khách sạn, mới hẹn với ông Lý Tuệ đến đây nói chuyện. Chúng tôi lên khách sạn nghỉ một đêm ngày. Ông Tăng lưu chúng tôi ở lại đây, còn một mình ông qua Thiều Quan, hỏi thăm cụ Tôn Thất Thuyết, cụ Trần Soạn[11]. Lại một ngày sau thì ông Lý Tuệ lên tìm chúng tôi ở khách sạn. Trong lúc nói chuyện ông rất hiểu đại nghĩa và rất chán nghề làm bồi dưới tàu. Chúng tôi mới đem chân tình việc đi này cáo với ông. Ông cảm động một cách lạ thường, xin hết sức giúp tân đảng, như đưa ngầm tiền bạc, gửi ngầm học sinh, cho đến thư tín ở trong ra, ở ngoài vào, rành một tay ông đảm nhận, trót mấy năm trời không sai suyển tý gì, mà lại tuyệt không nói đến trả ơn trả công. Tấm lòng trung thành càng lâu càng bền chặt. Em ông là ông Lý Tư cũng không kém gì ông. Nay tôi nghe 2 ông ấy bị đồ chung thân". Về cuộc gặp gỡ, Phan Bội Châu đã viết: "Than ôi! Áo vóc đai vàng, ở trong nước biết bao món ấy mà nhiệt thành nghĩa khí lại ở trong bọn nấu bếp làm bồi, cũng là việc đáng truyền vậy!" [12] Ngục trung thư[13] viết về Lý Tuệ: "Thượng tuần tháng Chín[14], tôi với Nguyễn quân Thức Canh từ bến đò Chế Giang ra đi. Cuối tháng ấy chúng tôi tới Hải Phòng, gặp được một người làm bồi dưới chiếc tàu Tây, tên là Lý Tuệ, tính giùm cho tôi cái kế thoát hiểm. Lý Tuệ là người có gan dạ, mưu mô, thâm hiểu nghĩa lớn. Về sau, ông ta ngầm giúp công việc kia khác cho đảng chúng tôi được nhiều lắm. Lúc này tìm cách đưa tôi xuất dương, ấy là bước đường thứ nhất của ông ta dấn mình vào quốc sự vậy. Thật là một người hăm hở làm việc nghĩa, gặp nạn coi chết như không. Tôi không ngờ lúc mình gió bụi xông pha lại được gặp người như thế. Nghe nói bây giờ ông ta đã bị đày, còn sống hay chết rồi không rõ" [15] Chỉ qua một đoạn ngắn, hình ảnh Lý Tuệ đã hiện lên rõ nét với những phẩm chất cao đẹp. Đó là người mưu mô, gan dạ, "gặp nạn coi chết như không", lại thâm hiểu nghĩa lớn và hăm hở làm việc nghĩa. Dường như, bên trong lớp vỏ bọc của một "bồi tàu Tây", Lý Tuệ sinh ra là để làm việc lớn, sẵn sàng phụng sự và hy sinh cho "đại nghĩa". Lý Tuệ không phải là một tên tuổi gắn liền với những yếu nhân của Duy Tân Hội, cũng không là người sáng lập, hay vận động cho phong trào Đông Du. Tuy nhiên, qua Tự phán, ông để lại dấu ấn của mình trong phong trào bằng những việc làm thầm lặng, nhưng đóng vai trò hết sức lớn lao. Ông đã đảm nhận việc liên lạc, bảo vệ cho số thanh niên trong nước ra nước ngoài du học với những việc "bí mật" mà cũng hết sức nguy hiểm nếu bị chính quyền thuộc địa và mật thám phát hiện: chuyển tiền bạc, giấu du học sinh, chuyển thư tín: "...thư in vài trăm bản, cậy ông Lý Tuệ lén đưa vào trong nước, tôi cũng ủy Đặng Tử Kính vào trong nước hiệp đồng với ông Tăng chia đường chạy khắp Nam Bắc, tuyên bố các món văn thư như trên kia đã kể..."[16] Ông đã trở thành "liên lạc viên" đáng tin cậy của phong trào Đông Du: "...Lương Văn Can còn gom góp tiền nhà được 250 đồng, giao cho liên lạc viên Đông du ở Hải Phòng là Lý Tuệ chuyên sang Quảng Đông để giúp Phan Bội Châu và các đồng chí qua cơn khốn cùng..."[17] Không chỉ Phan Bội Châu [18], nhiều nhà yêu nước, nhà cách mạng khi xuất dương cũng đã tìm đến Lý Tuệ như là một chỗ nhờ vả đáng tin cậy vì trong hoàn cảnh lúc bấy giờ "chính phủ Pháp không cho người Việt Nam mình có quyền tự do lai vãng. Phàm ai muốn ra xứ ngoài du lịch hay là buôn bán, nếu không được bảo hộ cho phép thì tất bị buộc tội ngầm thông với nước ngoài, mưu chuyện làm loạn"[19]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Lý cho biết: "Phan Châu Trinh đến Hải Phòng tìm những người đã giúp cho Phan Bội Châu xuất dương là Lý Tuệ và Lý Tư và nói thật cho họ. Sau đó ông ăn vận quần áo như công nhân làm dưới tàu và được Lý Tuệ đưa xuống tàu. Đến Quảng Châu Loan, ông suýt bị lộ, phải lên bờ, sau đó lại nhờ Lý Tuệ cải trang thành thương nhân Trung Hoa, xuống tàu tiếp tục đi..." [20] Đến Hương Cảng rồi, Lý Tuệ lại đưa Phan Châu Trinh đến Quảng Đông, vào nhà Lưu Vĩnh Phúc thì gặp Phan Bội Châu và Cường Để ở đó. Trong bài Cảm tưởng nhân ngày kỷ niệm cụ Tây Hồ năm thứ mười một[21] có đoạn do chính Phan Châu Trinh kể về hành trình xuất dương với sự giúp đỡ của Lý Tuệ: "May nhờ lão Lý Tuệ làm đầu bếp chiếc hỏa thuyền Ái Vu nhận tôi làm tên bếp phụ. Lão nhốt chặt trong khoang bếp tàu, khách và chủ trong thuyền chả ai biết mặt tôi. Hễ có ai đi gần, thời ngoảnh mặt vào trong bếp than đá một mực đốt than. Trót 12 ngày thuyền mạn về Hải Nam, Quảng Châu Loan, Bắc Hải, lão chẳng cho tôi ló cổ ra ngoài một phút, vì những nơi ấy có quân lính Pháp, mà cũng có thông ký, bồi bếp ta. Tôi đến thấu Hương Cảng thỏi thăm anh em, biết được anh mới về đây, nên vội đi cho gấp nên chẳng kịp thay đồ ăn mặc". Lời kể chân tình của Phan Châu Trinh đã cho thấy tinh thần xin "hết sức hiệu laocho tân đảng" và cả phong trào yêu nước của Lý Tuệ. Cái tâm và cái tình, sự cẩn trọng đầy trách nhiệm của Lý Tuệ trong hoạt động đã được ghi nhận qua lời kể của các chí sĩ. Dường như, Lý Tuệ đã đảm nhận một vị trí không thể thiếu trong hoạt động xuất dương: "Tôi lại chung thuyền với cụ về tới Hương Cảng, chờ thuyền Lý Tuệ sang"[22]. Bên cạnh Lý Tuệ, em trai ông là Lý Tư, cũng đóng góp hết sức tích cực cho phong trào. Cũng chính vì những hành động yêu nước tích cực của mình mà hai ông đã bị chính quyền thực dân bắt tội, đến lúc bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn dã man, cũng không hề cung khai [23]. Cảm kích trước nghĩa cử của ông, Phan Bội Châu đã đề tặng những dòng chữ trong ảnh chân dung của Lý Tuệ như sau [24]: "Nguyễn Hữu Tuệ quân chi chiếu tướng. Quân xu nghĩa nhược khát. Cấp nạn vong tử. Đầu thân quốc sự phàm thập niên. Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền dĩ cập Đông Độ chi thiếu niên giai quân mật tống. Sự tiết bị tù. Kỷ tử nhưng bất cải". Dịch nghĩa: Ông đến với việc nghĩa như người khát nước, gấp rút cứu nạn quên cả cái chết. Dấn thân vào việc nước trong mười năm. Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Phan Châu Trinh, Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền cho đến các thiếu niên Đông Độ đều do ông đưa đón. Việc bại lộ, ông bị tù. Nhiều phen tưởng chết nhưng chí không thay đổi. Nếu tính thời điểm Lý Tuệ bắt đầu dấn thân vào việc nước năm 1905, với khoảng thời gian suốt "mười năm" theo những dòng trên của Phan Bội Châu, thì có lẽ, ông bị chính quyền thực dân bắt giam cùng thời điểm với Phan Bội Châu (khoảng năm 1913-1914) [25]. Khi Phan Bội Châu viết Ngục trung thư, có ghi "Nghe nói bây giờ ông ta đã bị đày, còn sống hay chết rồi không rõ". Đến Tự phán, viết năm 1929, cụ Phan nhắc lại chi tiết Lý Tuệ và Lý Tư vẫn bị án chung thân. Một nguồn tư liệu cho biết mãi đến năm 1938 ông mới được mãn hạn tù, sau đó ông có vào Huế thăm Phan Bội Châu [26]. Do hậu quả của những trận đòn tra tấn và chế độ khắc nghiệt trong nhà tù, thêm tuổi già sức yếu,Lý Tuệ từ trần tại Hải Phòng ngày 26-10-1938 (4-9 Mậu Dần ) Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo Hội Ái hữu thương thuyền Hải Phòng [27] đứng ra tổ chức lễ tang cụ một cách trọng thể. Lê Quốc Trọng (Nguyễn Khắc Khang) [28] được phân công đọc điếu văn ca ngợi cuộc đời nhà yêu nước, kêu gọi mọi người noi gương cụ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đám tang trở thành một cuộc diễu hành của quần chúng, gây tiếng vang lớn. Phan Bội Châu có gởi ra câu đối viếng cụ : "Sống với giang san, chết với giang san, giữa đám than tro vàng mới quý, Buồn vì chủng tộc, vui vì chủng tộc, trước hồn thần thánh phách càng linh". Hiện nay, mộ của Lý Tuệ nằm ở nghĩa trang Phi Liệt, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tên của ông (Nguyễn Hữu Tuệ), được đặt cho một con phố ở Hải Phòng. Ông cũng được thờ trong đền Tiên Nga - nơi đã in dấu ấn hoạt động vì nghĩa cứu quốc của ông. Nguyễn Hữu Tuệ hiện nay chỉ còn có cháu ngoại là bà Ngô Thị Yên, 77 tuổi, nhà số 6, ngõ 94, phố Lê Lợi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng, tuổi đã cao [29]. Công lao và sự hy sinh, lòng nhiệt thành của Lý Tuệ đã được ghi nhận. Phan Bội Châu từng có quan niệm "bình thường hóa anh hùng". Ngoài những bậc anh hùng phi thường xuất chúng, thì con người, trước hết cần phải "lấy nhiệt thành làm chính" [30], rồi mới đến "kiến thức" và "nhân cách". Xét theo quan điểm này, thì Lý Tuệ cũng là một bậc anh hùng vậy! Một người anh hùng thầm lặng đã đóng góp không ngừng mệt mỏi cho hoạt động của Duy Tân Hội và phong trào Đông Du. Thế nhưng, một điều khiến chúng ta phải suy ngẫm là, tuy công trạng của ông đã được ghi nhận, nhưng sự biểu hiện vẫn còn chưa xứng đáng với một bậc anh hùng như Lý Tuệ. Mộ phần của ông hãy còn đơn sơ, nằm lặng lẽ trong nghĩa trang chung [31]. Thiết nghĩ, chúng ta cần có những tấm lòng, những hành động thiết thực hơn nữa để ghi khắc công lao của người xưa... Trời gió mưa xao xác canh gà, Vừa mới đến Bến Ngự, Sông Hương in dấu mới. Đất thần thánh, quê hương bóng hạc, Biết bao phen Hải Phòng, Hương Cảng tạc ngày xưa. (Phan Bội Châu) Tháng 6/2010 THÁI VĨNH TRÂN &TRẦN VIẾT NGẠC với sự đóng góp tư liệu điền dã của Lệ Cúc [1] - Ngày 9 tháng 2 năm 2007 đền Tiên Nga được UBND thành phố Hải Phòng ra quyết định số 242/QĐ-UBND xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa. Đền nằm ở địa chỉ số 53, phố Lê Lợi, Phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Ngoài ra, đền Tiên Nga còn phụng thờ đức Vũ Quận Quyến Hoa Công Chúa. Bà là nữ tướng lo việc quân lương giúp đỡ Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch đằng năm 938. Cũng ở ngôi đền này, nhân dân còn phối thờ đức Mẫu Liễu Hạnh Công Chúa, Đức Thánh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và một số vị thần khác. – Tư liệu do Lê Thị Lệ Cúc điền dã. [2] - Sở văn hóa thông tin Hải Phòng – Thư viện Thành phố, Nhân vật lịch sử Hải Phòng, NXB Hải Phòng, 1998, tr.193 ghi ông sinh năm 1870 mất năm 1937. [3] - Gia Viên còn có tên là làng Cấm, huyện Hải An, tỉnh Kiến An, nay thuộc TP. Hải Phòng. Đây là một làng khoa bảng, nhiều người học hành đỗ đạt, là cơ sở yêu nước, cách mạng. [4] - Xem thêm Phan Thị Hán – Đặng Đoàn Bằng, Việt Nam nghĩa liệt sĩ, NXB Văn học, tr.73. [5] - công nhân của bến Sáu Kho – nay là cảng Hải Phòng. [6] - Sở văn hóa thông tin Hải Phòng – Thư viện Thành phố, Nhân vật lịch sử Hải Phòng, NXB Hải Phòng, 1998, tr.193. [7] - Cuốn hồi ký của Phan Bội Châu, hoàn thành khoảng năm 1929, là tập tự truyện có giá trị lịch sử hết sức quan trọng đối với việc tìm hiểu về con người, cuộc đời hoạt động cách mạng và tư tưởng của ông, cũng như đối với việc nghiên cứu lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Là người đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm này, Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định: “Tập tự phán này, chính là cụ Phan tự viết chuyện cụ, đáng là tấm họa truyền thần chiếu ra cái phản ánh từng giai đoạn lịch sử nước nhà trong khoảng sau, bảy mươi năm qua…Cụ chép những việc làm, từ điều sở trường có thể tự tín và điều sở đoản có chỗ tự hối, chân tướng thế nào kể ra thế ấy, tuyệt nhiên không hề phô điều tốt mà che điều xấu tí nào`` (Xem Bài tựa của Cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Tự phán, NXB Anh Minh, 1956, tr.X) [8] - Một giáo dân ủng hộ phong trào. [9] - Tức ngày 23/2/1905. [10] - Tự phán, sđd, tr.45. [11] - Trần Xuân Soạn. [12] - Tự phán, sđd, tr.48,49. [13] - Phan Bội Châu viết tập sách này tại nhà ngục Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi vào ngục ba ngày. Ông nghĩ là không thể thoát chết nên viết sách nhắc lại cuộc đời hoạt động cách mạng của mình từ năm 17 tuổi. Nguyên văn chữ Hán của tác phẩm này hoàn thành vào 25 tháng Chạp năm Quý Sửu (1913) tức 20/1/1914. [14] - Trong tác phẩm này, Phan Bội Châu có đề cập đến lần xuất dương đầu tiên cùng với Tăng Bạt Hổ: "mồng hai tháng Giêng năm Ất Tị (1905), chúng tôi ra Hải Phòng để xuất dương". Như vậy, theo Ngục trung thư thì lần xuất dương thứ hai vào khoảng 9/1905 (năm Ất Tỵ), ông đã gặp gỡ và tiếp xúc với Lý Tuệ. Xem Ngục trung thư, trong Phan Bội Châu toàn tập,T.2, NXB Thuận Hóa, 1990. [15] - Ngục trung thư, sđd, tr 38. [16] - Tự phán, trong Phan Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những sử liệu mới, NXB Đà Nẵng, 2001, tr.91. [17] - Xem thêm Lý Tùng Hiếu, Lương Văn Can và phong trào Duy Tân, Đông Du, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005, tr.114. [18] - Theo Nhân vật lịch sử Hải Phòng, sđd, tr.193, Lý Tuệ đã che giấu Phan Bội Châu ở đền Tiên Nga � Hải Phòng và giúp ông sang Trung Quốc an toàn. Sự kiện này có lẽ diễn ra trong lần xuất dương thứ 2 của cụ Phan. [19] - Ngục trung thư, tr.30. [20] - Huỳnh Lý, Phan Châu Trinh, thân thế và sự nghiệp, NXB Trẻ, 2002, tr.5. [21] - 24.3.1936 -- trích bài của Phan Bội Châu đăng trên báo Tiếng Dân ngày 3.4.1937, trong Phan Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những sử liệu mới, NXB Đà Nẵng, 2001, tr. 97. [22] - trích bài Cảm tưởng nhân ngày kỷ niệm cụ Tây Hồ năm thứ mười một của Phan Bội Châu đăng trên báo Tiếng Dân ngày 3.4.1937 trong Phan Thị Kinh, sđd, tr 97. [23] - Xem thêm Nhân vật lịch sử Hải Phòng, sđd, tr.193. [24] - Ảnh này được thờ trong đền Tiên Nga. [25] - Theo Nhân vật lịch sử Hải Phòng, sđd, tr.193, ông bị bắt giam năm 1908, bị kết án 12 năm tù, hết hạn tù bị quản thúc. [26] - Tự phán, NXB Anh Minh, 1956, tr.49. [27] - Thuộc Công đoàn của Đảng? [28] - Lê Quốc Trọng (Nguyễn Khắc Khang) cũng là người làng Cấm (Gia Viên), tham gia các phong trào yêu nước cùng Lương Khánh Thiện, Hạ Bá Cang, Lưu Bá Kỳ, Vũ Văn Hiếu đấu tranh đòi Pháp thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh, chấn hưng nội hóa. [29] - Tư liệu do Lê Thị Lệ Cúc điền dã. [30] - Trong Hóa lệ công ngôn, xem Nguyễn Đổng Chi, Về quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu, trong Nhiều tác giả, Phan Bội Châu -Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2007, tr 185. [31] - Xem ảnh mộ Nguyễn Hữu Tuệ.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:40:45 GMT 9
Trường Lũy Quảng Ngãi Bùi Thụy Đào Nguyên Một đoạn Trường Lũy còn lại đến ngày nayTrường Lũy Quảng Ngãi (gọi tắt là Trường Lũy), hay Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định, Tĩnh Man trường lũy (gọi theo sử Nguyễn); đều là tện gọi của một công trình kiến trúc lớn, đa dạng, nhiều phần được làm bằng đá hoặc đất, chạy dọc theo miền thượng đạo Quảng Ngãi-Bình Định, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định) thuộc Việt Nam [1]. Theo nhiều nhà nghiên cứu gần đây, thì đây là một trường lũy dài nhất Đông Nam Á, và đã được các chúa Nguyễn cho khởi xây từ thế kỷ 17. Song, lúc bấy giờ chỉ là những đồn canh và đoạn lũy ngắn, phải đến sau 1819 (năm Lê Văn Duyệt xin dựng), thì nó mới thật sự trở thành một "trường lũy" có tầm vóc. Cho nên nói rằng Lê Văn Duyệt là người khởi công xây dựng Trường Lũy Quảng Ngãi như sử Nguyễn đã chép, xét cũng không có gì mâu thuẫn. 1. Nguyên nhân, năm khởi dựng: Trước triều đại nhà Nguyễn, vì nhiều nguyên nhân, một số dân tộc ở Đá Vách (Quảng Ngãi, phần đông là tộc người H'rê) đã nổi lên chống đối triều đình. Tuy nhiên, việc chống đối này trở nên quyết liệt hơn kể từ khi vua Gia Long lên ngôi. Sách "Quốc triều sử toát yếu" (phần Chính biên) chép: "Tháng 4 năm Quý Hợi (1803), Lê Văn Duyệt phá tan mọi Đá Vách. Ngài (Gia Long) hạ chiếu khen thưởng" [tr. 81]. Mặc dù vậy, vẫn không sao tiêu diệt được. Sách "Đại cương lịch sử Việt Nam" (Quyển I) có đoạn: ... "Bị đàn áp, quân Vách Đá rút vào rừng, rồi tiếng tục hoạt động suốt thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,...Nhiều binh tướng triều đình bị sát hại. Cho đến trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, những cuộc đánh phá của người Đá Vách vẫn tiếp tục, buộc triều đình Tự Đức luôn luôn lo lắng" [tr. 462]. Để chặn đứng nguy cơ "bị uy hiếp, tràn lấn của ác man Đá Vách", năm Gia Long thứ 18 (1819), Tả quân Lê Văn Duyệt xin đắp "lũy Bình Man" (nay gọi là Trường Lũy Quảng Ngãi, vì phần lớn lũy nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi) và được vua chấp thuận. Sách "Vũ Man tạp lục thư" (được khắc in năm 1898 dưới triều vua Thành Thái) của Tĩnh Man tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn, chép: "Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường lũy, nam giáp ranh giới huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định; bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ), tỉnh Quảng Nam. Dọc theo lũy có đào hào trồng tre, trước lũy là vùng Man, sau lũy có xây đồn"...[Dẫn lại theo Việt Nam thế kỷ XIX (tr. 216-217)] Tương tự, sách "Viêm Giao trưng cổ ký" (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, hoàn thành năm 1900, chép: Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn [tr. 194.]. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu gần đây, thì Trường Lũy đã được các chúa Nguyễn cho khởi xây từ thế kỷ 17. GS Phan Huy Lê nêu ý kiến: Theo ghi chép của sử sách thì người xây dựng đầu tiên là tướng Lê Văn Duyệt, sau đó là tướng Nguyễn Tấn, hai người đều quê Quảng Ngãi. Như vậy thì sử chép Trường Lũy chỉ xây dựng trong thời Gia Long - Minh Mạng, nhưng kết quả khai quật đã cho thấy các lũy này được xây dựng vào thế kỷ 17. Các mảnh gốm tìm được có xuất xứ từ nước ngoài, rồi có cả gốm sứ ở Quảng Ngãi, gốm Bát Tràng, gốm phía Bắc. Điều này cho chúng ta thấy lịch sử của Trường Lũy này không chỉ có dưới thời nhà Nguyễn. Lũy này có lịch sử lâu dài, là kết quả của sự xây đắp và tu bổ qua nhiều đời [2]. Tin theo đây, thì Tả quân Lê Văn Duyệt chỉ là là người có công tu sửa và bồi đắp thêm lũy cổ, và công việc này về sau còn phải làm nhiều lần. Tra trong "Viêm Giao trưng cổ ký" thấy có đoạn: Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy [tr. 195]. Tra trong "Đại Nam thực lục" (Tập 28), cũng thấy có thông tin đại ý như sau: Tháng 4 năm Bính Thìn (1856), "dân hơn 60 xã, thôn, trại, ấp ở ba huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa (nay là Tư Nghĩa), Mộ Đức ủy người về kinh (Huế) kêu xin, vì tình hình khổ quá, (mà) phải đi đắp đê dài..., công việc quá nặng, khó gánh chịu nổi". Tháng 3 năm sau (1857), bố chính Quảng Ngãi là Phạm Tỉnh lại tâu xin đắp "Trường lũy" một cách quy mô, tập trung ngót 2500 binh lính và huy động dân đinh ba huyện 3700 người. Tự Đức đồng ý, lại còn ra lệnh khẩn trương sửa đắp xong trong trong ba tháng [tr. 224 và 838] 2. Kích thước, địa thế, cấu tạo: Trường Lũy Quảng Ngãi, các tài liệu ghi không thống nhất. Theo "Đại Nam thực lục" thì lũy có chiều dài là 117 dặm, còn sách "Viêm Giao trưng cổ ký" thì ghi là 177 dặm [3]. Sở dĩ có sự khác biệt này, có lẽ là do độ dài của Trường Lũy ở thời điểm được ghi chép. Song, trong các công bố gần đây, độ dài của công trình vẫn còn nhiều khác biệt: -Sau nhiều năm nghiên cứu (2005-2010), tại Hội nghị thông báo khảo cổ học năm 2010 tại Hà Nội, đoàn khảo sát thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp, Viện Khảo cổ học (Hà Nội), đã cho biết độ dài của lũy từ Ba Tơ vào đến Bình Định là 300 km, riêng đoạn thành chạy trên đất Bình Định là 30 km. -Theo bài viết "Sức hút kỳ lạ từ Trường Lũy" trên báo Pháp luật thì Trường Lũy chỉ dài 133 km. -Theo TS. Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam), thì Trường lũy có chiều dài xấp xỉ 200 km. Về mặt địa thế, lũy nằm theo con đường thượng đạo Bắc Nam, nơi từng là lộ trình cho các cuộc hành quân lịch sử thời xưa. Như vào năm 1786, khi quân Tây Sơn kéo từ Thị Nại ra đánh lấy Phú Xuân, họ đã dùng con đường thượng đạo này để di chuyển mà không bị cản trở như ở hạ nguồn vì nơi đó có những cửa sông lớn chắn lối. Về cấu tạo, Trường Lũy đắp bằng đất và đá (to bằng đầu người), cao 2m, dày 1,5m, phía ngoài có hào sâu rộng trên 3m và một hàng rào tre gai. Khảo sát bờ Trường Lũy chạy qua La Vuông (Bình Định) còn khá nguyên vẹn, thì thấy lũy có dáng hình thang, chân rộng 4-5m, mặt thành 2-3m có thể đi lại tuần tra thuận tiện. Tuy đây là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối. Mỗi chỗ cắt ngang lại có một cổng, do một đồn bảo canh gác điều hành việc đi lại giữa cộng đồng người Việt và người H'rê. Song cái đáng chú ý của Trường Lũy không chỉ ở độ dài, mà còn vì công trình được đắp hoàn toàn trên một địa hình rất khó khăn và phức tạp, gần như theo địa hình, hướng thành không theo một hướng nào nhất định, khi thì trên đỉnh núi, khi thì sườn đồi, dọc theo suối. Phải là người uyên bác mới tính toán được vậy, và phải tốn biết bao công sức của bao thế hệ người Việt mới được vậy. 3. Lịch sử sơ lược: Sách "Viêm Giao trưng cổ ký" của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, đã kể về lịch sử của Trường Lũy như sau: Trường lũy người Man ở cách tỉnh thành 23 dặm về phía tây. Phía bắc lũy giáp huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ) tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp huyện Bồng Sơn tỉnh Bình Định. Lũy dài 177 dặm. Xét: Một dải dọc theo ranh giới xung quanh tỉnh thành trước nay thường có bọn ác man Thạch Bích ngang ngạnh hoành hành. Hồi đầu dựng nước đã lập ra 6 đạo binh lính bám sát địa phương để phòng thủ. Năm Gia Long thứ 3 (1804) lập ra 6 kiên cơ đạo Bình Man. Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn. Bên trong thiết lập 115 đồn bảo, mỗi đồn đóng 18 lính, tổng cộng 1.150 người. Lại lấy các xã thôn thượng du của 3 huyện đặt làm 27 lân theo binh lính của 6 Kiên cơ tiến hành phòng thủ...Mỗi lân đặt ra chức Cai lân, Phó lân để cai quản. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi 6 Kiên cơ thành 6 cơ Tĩnh Man, xây thêm đồn bảo vệ, thành 117 đồn. Năm thứ 17 (1836), trích cơ thứ 6 ra lập thành vệ Nhất Quảng Ngãi, tùy theo tình hình địa bàn mà bổ sung thêm cho 5 cơ còn lại để tiện cho kế hoạch ứng phó. Năm thứ 20 (1830), chuyển giao cho Lãnh binh của tỉnh quản lãnh công việc này. Sang đời Thiệu Trị, cắt giảm số đồn xuống chỉ còn 56 đồn, số lính của 5 cơ là 2.150 người, mỗi cơ đặt ra một viên Chánh Quản cơ và một viên Phó Quản cơ, mỗi đồn đặt một viên Suất đội, đóng ở các cửa tấn để phòng thủ, tất cả do viên Lãnh binh cai quản chung. Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy. Năm thứ 9 (1856), chia đặt ra 80 đồn, bổ sung thêm binh lính thành 8 cơ, chia thành 3 ban, cứ 2 tháng thay phiên nhau một lần. Năm thứ 10 (1857), đặt chức Tuần phủ 1 viên, về sau lại bãi. Năm thứ 16 (1863), đặt chức Tiễu phủ 1 viên, Phó lãnh binh 1 viên để khi có xảy ra việc thì cùng bàn bạc với nhau mà giải quyết. Năm thứ 17 (1864), lại đổi 8 cơ thành 6 cơ, mỗi cơ 10 đội, lại kén tuyển lính chiến thành 1 vệ, vệ có 12 đội, chiêu mộ 5 đội Nghĩa Hùng, 2 đội Tĩnh Man, đặt 3 đồn lớn Tĩnh Man, còn các cơ đồn khác tùy xét mà cắt giảm. Những nơi xung yếu thì do binh lính của cơ đóng giữ, nơi dễ dàng hơn thì do dân của các lân canh giữ. Hiện nay chỉ còn 47 đồn nhỏ, 3 đồn lớn, tổng cộng 50 đồn [tr. 194-195.]. 4. Vai trò của Trường Lũy đối với nhà Nguyễn: Trường lũy xưa, triều Nguyễn xây dựng mang tính chất phòng vệ, song hiệu quả không cao, vì "quân Đá Vách dùng lối đánh du kích ẩn hiện khó lường, mà quân triều từ nơi khác đến đóng giữ lâu ngày không quen thủy thổ", và vì họ đều có "tài nghệ chiến đấu" . Tướng Nguyễn Tấn trong "Vũ Man tạp lục thư", kể: Người Man ở tỉnh tôi, tính tình hung hãn, đi đứng chạy nhảy lanh lẹ, đến như luồng điện sáng, đi tựa ánh chớp. Dựa vào nơi hiểm yếu, bắn tên phóng lao, đó là môn sở trường của họ vậy...Trước đây quan binh đã từng bị chúng đánh thua, và chẳng phải là một lần mà thôi [tr. 219 và 220.]. Rút lại, theo GS. Nguyễn Phan Quang trong Việt Nam thế kỷ XIX, thì: Trải qua các triều vua từ Gia Long đến Tự Đức, "lũy bình Man" liên tiếp được củng cố, đồn bảo trên lũy liên tiếp được sửa đắp, tăng cường, nhưng triều Nguyễn vẫn không sao đè bẹp được cuộc đấu tranh của các dân tộc Đá Vách. Ngay tác giả "Vũ Man tạp lục thư" cũng đã thú nhật sự bất lực của Trường lũy: "...Kế sách phòng bị quá chu đáo, chặt chẽ, không gì lọt qua được, tuy nhiên không có gì tốt hơn là giữ được (lòng) người vậy" [tr. 220]. 5. Được trong và ngoài nước chú ý: Ngày 27 tháng 3 năm 2011, đoàn đại sứ các nước Châu Âu gồm: Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, Romania và Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam Sean Doyle cùng các nhà khoa học nước ngoài cùng UBND tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức hội thảo "Lịch sử quan hệ kinh tế và dân tộc" về di tích quốc gia Trường Lũy Quảng Ngãi. Tại hội thảo, tham luận của các nhà khoa học đều thống nhất rằng: -Trường Lũy không những chỉ có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quản lý nội địa; mà còn tạo điều kiện cho giao thương, mua bán giữa đồng bào miền ngược và miền xuôi, giữa miền núi và miền biển. -Công trình không chỉ có ý nghĩa lớn về giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, là đường ranh giới đảm bảo về sự ổn định và hòa bình, là nơi giao thương mà còn có giá trị lớn về mặt quân sự, là cơ sở để quản lý, tạo mối quan hệ hòa hợp, gắn kết giữa cộng đồng các dân tộc. Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi đã thống nhất giữ nguyên hiện trạng Trường Lũy trên cơ sở lấy Trường Lũy làm tâm, dọc theo hai bên lũy 500m là khu vực di tích. Theo kỳ vọng của ngành chức năng, với di tích Trường Lũy, không chỉ là việc nghiên cứu mà còn tạo ra cơ hội về du lịch. Những cư dân sống dọc Trường Lũy sẽ có cơ hội về công ăn việc làm Ngày 10 tháng 3 năm 2011, Trường Lũy Quảng Ngãi đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp Quốc gia. Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu. Chú thích: [1] Trường Lũy chạy dọc theo dãy Trường Sơn, đi qua địa phận 6 huyện thuộc Quảng Ngãi, gồm: Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ; và 2 huyện thuộc Bình Định, gồm: Hoài Nhơn, An Lão). [2] Trích trong bài viết "Giải mã Trường lũy dài nhất Đông nam Á" trên báo Thể thao Văn hóa. [3] nếu tính 1 dặm là 444,44m (số đo cổ được áp dụng thời Nguyễn) thì 117 dặm chỉ hơn 50 km. Nếu là 177 dặm thì chưa đầy 80 km. Sách tham khảo: -Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 28 (bản dịch). Nhà xuất bản Sử học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội hợp tác ấn hành, Hà Nội, 1962-1972. -Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002. -Cao Xuân Dục, Viêm Giao trưng cổ ký (bản dịch). Nhà xuất bản thời đại, 2010. -Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Doãn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. -Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:46:08 GMT 9
Hồ Hoàn Kiếm Nguyễn Dư Hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa và đền Ngọc Sơn là một cụm thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà có lẽ người Việt Nam nào cũng biết. Biết tận mắt hay biết qua sách báo, màn hình. Sự tích hồ Hoàn Kiếm Truyền thuyết kể rằng Lê Lợi được trời cho thanh bảo kiếm, đứng lên dẹp giặc Minh. Dẹp giặc xong, Lê Lợi lên làm vua. Một hôm, vua Lê Thái Tổ dạo thuyền trên hồ, bị một con Rùa Vàng lấy lại thanh kiếm. Từ đó hồ có tên là hồ Hoàn Kiếm. Truyền thuyết đẹp và giản dị. Chỉ có ba nhân vật là Lê Lợi, thanh kiếm và con rùa. Thế mà các văn bản cũng không thống nhất. Sách Tang thương ngẫu lục soạn từ đời Gia Long (1802-1819), kể chuyện Hồ Hoàn Kiếm như sau: "Hồ Hoàn Kiếm ở bên cạnh phường Báo Thiên, thành Thăng Long, thông với nước ngoài sông, hình thể rất to rộng. Hồ này là nơi đức Thái Tổ Hoàng Đế (triều trước) đánh rơi thanh kiếm. Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh gươm cổ. Khi làm vua, ngài thường vẫn đeo thanh gươm đó. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, chợt thấy một con ba-ba rất lớn nổi lên mặt nước, bắn nó không trúng. Ngài bèn lấy thanh gươm mà chỉ. Bất đồ, thanh kiếm rơi xuống nước mất, con ba-ba cũng lặn theo. Ngài giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp cái bờ ngang, tát hết nước để tìm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau nhân cái vết bờ ấy chia hồ ra làm hai: tả vọng, hữu vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, bỗng có một vệt sáng từ cái đảo trong hồ vọt lên cao, sáng rực tan ra rồi tắt, người ta cho là thanh bảo kiếm bay đi " (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, Đại Nam, tr. 181). Năm 1873, Phạm Đình Bách vẽ Bản đồ Hà Nội. Đến năm 1916 nhà nước bảo hộ Pháp cho in tấm bản đồ này, kèm thêm một trang ghi chú bằng tiếng Pháp. Lời chú không nằm cùng với bản đồ, nên không biết có phải chính Phạm Đình Bách là tác giả không? "Lorsqu'il était encore étudiant, le roi Lê Thái Tổ trouva un jour sur le bord du petit lac une épée et s'en empara. Plus tard, comme roi d'Annam, se promenant en barque sur ce même lac, une énorme tortue sacrée sortit de l'eau et vint à lui, saisi de crainte le roi voulut l'éloigner avec l'épée trouvée; la tortue la lui prit et disparut. C'était une tortue génie ( de là le nom de Hồ Hoàn Kiếm )". ( Trong thời gian còn đi học, một hôm vua Lê Thái Tổ bắt được một thanh kiếm tại bờ hồ. Sau này, khi ngài đã lên làm vua, một hôm bơi thuyền dạo chơi trên hồ, có con rùa rất lớn nổi lên và bơi về phía ngài. Nhà vua sợ, rút kiếm đuổi rùa. Con rùa đớp thanh kiếm và lặn xuống nước. Đây là một con rùa thần. Từ đó đặt tên hồ là hồ Hoàn Kiếm) (Hanoi, Les cahiers de l' Ipraus, 2001, tr. 98-99). Phạm Đình Bách (hoặc người nào khác) cho biết trước khi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi có theo học tại Đông Đô (Hà Nội ngày nay) và đã bắt được thanh kiếm tại Bờ Hồ. Hai chi tiết này không ăn khớp với chính sử. Theo cả hai bản Lam Sơn thực lục hiện có, bản do chính Lê Thái Tổ viết (Nguyễn Diên Niên, Lê Văn Uông, Lam Sơn thực lục, Ty Văn Hoá Thanh Hoá, 1976, tr. 239) và bản đã bị Hồ Sĩ Dương sửa đổi (Viện Sử Học, Nguyễn Trãi toàn tập, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr. 46-47), thì trước ngày khởi nghĩa Lê Lợi làm phụ đạo ở Khả Lam (Lam Sơn). Lam Sơn thực lục kể chuyện Lê Thận ở Mục Sơn (Thanh Hóa), làm nghề đánh cá, một hôm quăng lưới kéo lên được một lưỡi kiếm. Lê Lợi đánh đổi được lưỡi kiếm này. Một hôm khác Lê Lợi bắt được một chuôi kiếm ở gốc cây đa. Lắp lưỡi kiếm vào chuôi thì thấy vừa khít. Lê Lợi nghĩ rằng trời đã trao cho mình thanh bảo kiếm, từ đó mới nuôi ý khởi nghĩa. Chưa thấy văn bản nào khác của ta nói rằng Lê Lợi theo học hoặc có mặt tại Đông Đô trước ngày khởi nghĩa. Chung quanh hồ Hoàn Kiếm còn nhiều truyền thuyết khác. "Vua Lê Lợi khi mới khởi binh gặp được một ngọn gươm thần. Nhờ đó mà làm nên sự nghiệp. Sau ra chơi tại hồ đó, có con quái đón đầu thuyền. Vua lấy gươm đâm, con quái hả miệng nuốt mất ngọn kiếm. Vua Lê Lợi suy từ đó"(Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954). Diên Hương không đả động tới rùa thần mà chỉ nói tới một con quái nuốt mất gươm thần. Theo chính sử thì Lê Lợi làm vua được 6 năm (1428-1433), thanh thế đương thời rất lớn. Đến mấy đời vua sau Lê Lợi, nhà Lê mới bắt đầu suy. "Un beau jour de 1418, une tortue d' or surgie du lac lui tendit une magnifique épée. Il y vit un signe du ciel et partit libérer le pays. Sa mission accomplie, il revint sur les lieux de son initiation pour offrir un sacrifice de gratitude à la divinité lacustre. Au moment où la cérémonie commençait, un puissant coup de tonnerre retentit; l' épée jaillit de son fourreau, tournoya en l'air et retomba dans le bec de la tortue d'or qui s'enfuit dans les profondeurs du lac, appelé depuis lors le lac de l'Épée restituée (Hoàn Kiếm)". (Một ngày năm 1418, một con rùa vàng nổi lên trên mặt hồ và dâng (Lê Lợi) một thanh gươm báu. Ngài biết đây là mệnh trời bèn đứng lên giải phóng non sông. Khởi nghĩa thành công, ngài đến nơi được thần giúp để làm lễ tạ ơn. Đúng lúc cuộc lễ bắt đầu, một tiếng sét nổ vang trời; thanh kiếm của ngài tuột khỏi vỏ, quay vần vũ trên trời rồi rơi vào miệng một con rùa vàng. Rùa lặn sâu xuống đáy hồ. Từ đó hồ được gọi là Hồ Hoàn Kiếm) (Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 115). Ý kiến của Papin tương tự như lời chú của tấm bản đồ Phạm Đình Bách. Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu năm 1418, Lê Lợi và các đồng chí của ông đang gặp nhiều khó khăn ở vùng Lam Sơn. Lê Lợi không thể có mặt ở bờ hồ để nhận kiếm thần được. Trong một cuốn sách khác Philippe Papin lại kể rằng: "Il (le lac de Hoàn Kiếm) doit son nom à la légende selon laquelle Lê Lợi y aurait pêché une épée magique; muni de cette arme, il chassa les Chinois Ming et fonda, sous le nom de règne de Lê Thái Tổ, la dynastie des Lê postérieurs (1428-1788). Au cours de la cérémonie qu'il offrit à l'occasion de sa victoire, l'épée miraculeuse jaillit d'elle-même du fourreau et se métamorphosa en un dragon de jade qui disparut dans le lac. D'autres versions attribuent à une tortue le soin d 'offrir et de reprendre l'épée". (Tên (hồ Hoàn Kiếm) do truyền thuyết kể rằng Lê Lợi bắt được một thanh kiếm thần tại đây. Với thanh kiếm này Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh và lên làm vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lập ra nhà Hậu Lê (1428-1788). Trong buổi lễ mừng chiến thắng, thanh kiếm thần của vua Lê Thái Tổ bỗng tuột khỏi vỏ, hoá thành con rồng ngọc, rồi lặn biến trong hồ. Cũng có người cho rằng Lê Thái Tổ được một con rùa trao cho và lấy lại thanh kiếm thần) ( Docteur Hocquard , Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 232 ). Ở đoạn trên, Lê Thái Tổ trả kiếm cho Rùa vàng. Ở đoạn sau, thanh kiếm tự biến thành Rồng ngọc rồi lặn xuống hồ. Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1975, tr.39-40) tìm hiểu rất sâu xa ý nghĩa hồ Hoàn Kiếm: "Sử Lý-Trần hầu như chẳng nói đến hồ Gươm (…). "Chuyện "Trả gươm thần ", người Hà Nội nghe kể đã nhiều, song ý nghĩa câu chuyện thì chưa mấy ai đào sâu tìm hiểu. Trên đại thể, người ta cho truyền thuyết ấy kể việc Lê Lợi được gươm thần đề chữ "Thuận Thiên" từ nước : ý trời trao sứ mệnh cho người anh hùng đứng lên xướng nghĩa cứu dân, giúp nước, quét giặc ngoại xâm. Mười năm khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, người anh hùng lên làm vua, đi thuyền trên hồ, trời sai Rùa Vàng hiện lên lấy lại thanh gươm. Chủ đề bất tuyệt : "Chiến tranh và Hòa bình"… "Thực ra đấy là vang bóng của một mẫu đề thần thoại và một lễ tiết cổ xưa. Nếu về mặt chính trị-xã hội, thanh gươm là biểu tượng của quyền uy thì về mặt thần thoại-lễ thức, thanh gươm là biểu tượng của Tia chớp-Lửa. (…) Nhúng gươm xuống nước là nghi lễ biểu thị sự hòa hợp Nước-Lửa, một nghi lễ phồn thực. Lại vì gươm là tượng trưng của chớp lửa nên nghi lễ nhúng gươm xuống nước cũng là một nghi lễ chống lụt (…). "Sự tích hồ Gươm-gắn liền với một vị anh hùng lịch sử Lê Lợi-là sự diễn tả về mặt thần thoại một lễ nghi cổ xưa chung cho cả vùng Đông Nam Á : nghi lễ chống lụt và cầu mong sự hài hòa của non nước …". Đúng là thời Lý-Trần không có ai nói đến hồ Gươm vì nơi đây còn là vùng hồ ao đầm lầy. Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm theo truyền thuyết đến đời Lê Thái Tổ mới có. Chủ đề "chiến tranh và hòa bình", "nghi lễ phồn thực", "nghi lễ chống lụt" của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán thật là đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, một truyền thuyết dân gian mà có ba lối giải thích thuộc ba lĩnh vực khác nhau thì có nhiều quá không? Hay là qua biểu tượng Lê Lợi trả gươm thần, cũng như biểu tượng Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời sau khi dẹp giặc Ân, dân gian chỉ muốn ca tụng người anh hùng cầm gươm đánh giặc, giặc tan thì cất gươm đi? Từ giữa thế kỉ 17, Trịnh Tạc xây phủ chúa Trịnh riêng, tách ra khỏi cung điện của vua Lê trong thành Thăng Long. Vì hồ Hoàn Kiếm nằm về bên trái phủ chúa nên gọi là hồ Tả Vọng (Bùi Thiết, Từ điển Hà Nội-địa danh, Văn Hóa Thông Tin, 1993, tr. 393). Dưới thời các chúa Trịnh, thế kỉ 17-18, hồ Hoàn Kiếm có tên là hồ Thuỷ Quân vì các chúa Trịnh thường diễn tập quân thuỷ trong khu vực hồ (Bùi Thiết, sđd, tr. 435). Có thuyết nói rằng tên hồ Thuỷ Quân đã có từ đời Trần. Nhưng, bản đồ của Phạm Đình Bách (1873, đời Tự Đức) lại cho thấy hồ Hoàn Kiếm và hồ Thuỷ Quân là hai hồ khác nhau: -Lac de Thuỷ Quân sur lequel les marins du Roi s'exerçaient à la manoeuvre des armes (Hồ Thuỷ Quân là nơi lính thuỷ của nhà vua tập trận ). Một tấm bản đồ khác do Biệt Lam vẽ năm 1956, phỏng theo bản đồ năm 1866 và 1873, cũng cho thấy hồ Thuỷ Quân và hồ Hoàn Kiếm là hai hồ khác nhau, cách nhau khá xa (Hanoi, sđd, tr.80). Điều này có thể được hiểu là: Đời Trịnh, hồ Hoàn Kiếm được chia thành hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Đời Tự Đức (1847-1883), hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thuỷ Quân Bắt đầu từ năm 1884 nhà nước bảo hộ Pháp giữ lại hồ Hoàn Kiếm, lấp dần hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang thành phố Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm ngày xưa còn có tên là Lục Thuỷ, Hàng Hương (Hoàng Đạo Thúy, Đi thăm Đất Nước, Văn Hóa, 1978, tr. 55). Tháp Rùa Bảng chú bản đồ Phạm Đình Bách cho biết: - Đình chúa Trịnh: Pagode élevée sous les Lê à la mémoire des Trịnh (đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê để tưởng nhớ các chúa Trịnh). Đình chúa Trịnh nằm tại địa điểm tháp Rùa. Nguyễn Khắc Ngữ cũng đồng ý với Phạm Đình Bách: "Một trong những kiểu kiến trúc thời Lê còn để lại là tháp Rùa hồ Hoàn Kiếm" (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền, theo bài Tháp Rùa có từ khi nào? của Nguyên Thắng, Đoàn Kết, tháng tư, 1984). Bùi Thiết cho biết: "Tòa tháp tọa lạc trên gò Rùa xế về phía nam hồ Hoàn Kiếm, nên gọi là tháp Rùa. Nguyên là đình Tả Vọng do các chúa Trịnh dựng trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng, gọi là đình Tả Vọng. Cuối thế kỷ XVIII vì tin thuyết phong thuỷ, Bá hộ Kim nhận sửa lại đình Tả Vọng để nhân đó táng hài cốt cha mẹ xuống dưới; Việc không thành, nhưng đình Tả Vọng vẫn được sửa lại để có quy cách như hiện nay" (sđd, tr. 383). "Ngôi đình do các chúa Trịnh sai xây trên gò Rùa giữa hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) để làm nơi hóng mát và duyệt quân thuỷ. Vì đình nằm trong hồ Tả Vọng nên có tên gọi. Cuối thế kỷ XIX Bá Kim xin được xây thêm một tầng trên tòa đình Tả Vọng để có quy mô như tháp Rùa ngày nay" (sđd, tr. 393-394). Tiền thân của tháp Rùa là đình Tả Vọng. "Cái đình này làm từ đời Trịnh Căn (chúa thứ tư trong dòng họ Trịnh) là một lầu hai tầng, tầng trên là một cái lầu vuông bốn mái cong có đắp bốn con rồng bò quay đầu lại…Lầu quay lưng hướng nam theo ý nghĩa làm vua quay mặt về phương nam, không chầu lại vua, không thần phục vua Lê, vì vậy bên trên cửa có để ba chữ Tả Vọng Đình". (Chu Thiên, Bóng nước hồ Gươm, theo Nguyên Thắng, sđd). Nhưng, một bài Hồ Hoàn Kiếm khác của sách Tang thương ngẫu lục (sđd, tr. 32-33) kể rằng: "Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786), đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất. Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên? Sáng hôm sau, thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra tứ phía, rồi tự nhiên tắt ngấm. Sau đó ít lâu, nhà Lê mất nước". Nguyễn Khắc Ngữ nói rằng Tháp Rùa ngày nay có từ thời Lê. Phạm Đình Bách cho biết tại đảo Rùa có đình chúa Trịnh được xây dưới thời Lê. Bùi Thiết và Chu Thiên cũng đồng ý rằng các chúa Trịnh đã cho xây đình Tả Vọng trên đảo. Chỉ có Tang thương ngẫu lục là không nói đến công trình xây cất nào trên cái đảo giữa hồ Hoàn Kiếm này. Khó có thể cho rằng các tác giả Tang thương ngẫu lục quên cái đình chúa Trịnh hay cái đình Tả Vọng bởi vì trong bài có nói tới cái nhà Trung Hòa Đường trong phủ chúa Trịnh (nằm gần hồ Hoàn Kiếm) thì không thể không nói tới cái đình do chúa Trịnh xây trên đảo Rùa, nơi đang xảy ra điềm lạ. Hay là đình đã bị đổ nát, năm 1786 không còn dấu vết gì? Giả thuyết này cũng khó đứng vững bởi vì đình do chúa Trịnh xây thì không thể bị huỷ hoại ngay từ thời chúa Trịnh còn nắm quyền được. Hay là đình Tả Vọng được xây sau năm 1786 ? Sử chép rằng Nguyễn Huệ "phò Lê, diệt Trịnh", năm 1786 chấm dứt chế độ cai trị của họ Trịnh. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, lên làm vua, lập ra nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn. Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đều không quý mến gì các chúa Trịnh. Không thể có chuyện nhà Tây Sơn hay nhà Nguyễn (trong khoảng từ 1786 đến 1873) xây đình để tưởng nhớ chúa Trịnh. Tóm lại, qua hai bài Hồ Hoàn Kiếm của Tang thương ngẫu lục thì phải thừa nhận rằng đến cuối đời Cảnh Hưng (1786, tức là năm Nguyễn Huệ chấm dứt sự nghiệp các chúa Trịnh) trên đảo Rùa không có đình chúa Trịnh hay đình Tả Vọng. Nói cách khác, đình Tả Vọng hay đình chúa Trịnh không phải được xây tại đảo Rùa. Có thể tại một đảo khác, cũng nằm trong hồ Hoàn Kiếm. Đảo Ngọc Sơn "Hồ Tả Vọng tên cũ gọi Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn (…)" (Bài ký Đền Ngọc Sơn đế quân , soạn năm1843, Tuyển tập văn bia Hà Nội, quyển 2, Khoa Học Xã Hội,1978, tr. 68-69). "Phía đông thành Hà Nội, ở thôn Hà Thanh, huyện Thọ Xương có một cái hồ, gọi là hồ Hoàn Kiếm, trong hồ có một cái đảo, gọi là Ngọc Sơn, trong đảo Ngọc Sơn, có một đền thờ gọi là đền thờ Văn Xương. Tôi làm Án sát ở Hưng Yên, vừa đổi về, gặp ông Phương Đình dắt nhau qua chơi, ông nói với tôi rằng : hồ Hoàn Kiếm này đời xưa rất lớn, từ đời Lê trung hưng về sau chở đất về lấp làm đường xe chạy cho suốt đến Long Lâu ở Nhĩ Hà, nửa hồ bên hữu gọi là Hữu Vọng, nửa hồ bên tả gọi là Tả Vọng, núi trong Tả Vọng là đài câu cá. Đầu niên hiệu Gia Long, mới có miếu thờ Quan Võ đế (…). "Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật(…)" (Bài ký Sửa lại miếu Văn Xương, Tuyển tập văn bia Hà Nội, sđd, tr. 70-71). Bài kí thứ nhất được soạn năm 1843 nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn. Ít năm sau lại đổi chùa Ngọc Sơn thành đền thờ Văn Xương. Bài kí thứ nhì làm nhân dịp sửa đền thờ Văn Xương. Hai bài văn của hai người khác nhau, viết cách nhau vài chục năm, đều nói trong hồ Hoàn Kiếm có một cái đảo Ngọc Sơn, lớn khoảng ba bốn sào, là đài câu cá thời cuối Lê. Điều này chứng tỏ gián tiếp rằng không phải Tang thương ngẫu lục (1802-1819) bỏ quên công trình xây cất trên đảo Rùa mà chỉ vì đến năm 1843 và mãi vài chục năm sau, hồ Hoàn Kiếm vẫn chưa có xây cất gì trên đảo Rùa. Hai bài kí không nói tới đảo Rùa có lẽ chỉ vì đảo nhỏ và không có gì đáng nói? Hoàng Đạo Thúy cho biết: Đền Ngọc Sơn "đời Lê là cung nghỉ mát Thuỵ Khánh của chúa Trịnh". "Đứng ở Trấn Ba đình, nhìn xa về hướng nam, trong một khung cảnh đẹp, nổi lên ngọn tháp trên đảo Rùa. Mùa đông, gặp trời nắng, những con rùa bằng cái nia lên tắm nắng trên đảo. Xưa kia trên đảo có đình Tả Vọng. Cái tháp này, một nhà giàu phố hàng Khay xây từ năm 1884" (Đi thăm đất nước, sđd, tr. 55). Chúng ta được biết thêm cung Thuỵ Khánh, nơi nghỉ mát của chúa Trịnh tại hồ Hoàn Kiếm. Bùi Thiết gọi cung này là cung Khánh Thuỵ do Trịnh Giang (1729-1740) sai xây trên đảo Ngọc Sơn. Cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống cho người đốt năm 1787 để trả thù các chúa Trịnh. Về sau người ta xây đền Ngọc Sơn tại nơi đây. Bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, thuộc khu vực phố Bảo Khánh ngày nay, còn có cung điện Khánh Thuỵ do Trịnh Tùng (1570-1630) xây. Cung điện Khánh Thuỵ cũng bị Lê Chiêu Thống đốt phá trụi năm 1787 (Bùi Thiết, sđd, tr. 221). Bản đồ Phạm Đình Bách cũng có nói tới cung Khánh Thuỵ: Cung Khánh Thuỵ : Habitation des servantes du roi Lê Thái Tổ (emplacement de la rue Jules Ferry) (Cung Khánh Thuỵ: chỗ ở của các cung nữ của vua Lê Thái Tổ, nằm tại phố Hàng Trống ngày nay). Sách Hoàng Lê nhất thống chí (Văn Học, 1970, tr.191) kể chuyện vua Lê Chiêu Thống "ngầm sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt. "Thế là hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)". Lâu đài cung khuyết trong phủ chúa đã có từ 200 năm trước năm 1786, nghĩa là được xây vào khoảng năm 1586 ( đời Trịnh Tùng). Bùi Thiết phân biệt cung Khánh Thuỵ trên đảo Ngọc Sơn và cung điện Khánh Thuỵ tại địa điểm phố Bảo Khánh ngày nay và cho rằng cả hai nơi đều bị đốt năm 1787. Phạm Đình Bách chỉ nói tới cung Khánh Thuỵ ở phố Hàng Trống (thẳng góc với phố Bảo Khánh), có từ đời Lê Thái Tổ. Hoàng Lê nhất thống chí cho biết Lê Chiêu Thống chỉ sai đốt cung điện trong phủ chúa năm 1786, nghĩa là cung điện Khánh Thuỵ thôi. Rất có thể cung Khánh Thuỵ được Hoàng Đạo Thuý và Bùi Thiết nói tới, và cho rằng nằm tại đảo Ngọc Sơn, là do nhầm lẫn từ cung điện Khánh Thuỵ trong phủ chúa Trịnh mà ra. Đối chiếu các văn bản thì thấy đời cuối Lê, địa điểm đền Ngọc Sơn còn là đài câu cá, chỗ hóng mát. Đình Tả Vọng cũng là chỗ hóng mát, duyệt quân thuỷ của chúa Trịnh. Cho rằng đình Tả Vọng (đình chúa Trịnh) nằm trên đảo Rùa là chuyện khó hiểu. Đảo Rùa thời chúa Trịnh rất nhỏ (sẽ nói thêm ở phần sau), những lúc tế lễ, duyệt quân thuỷ thì tổ chức ra sao, chỗ đâu để chứa được vài chục người? Mỗi lần hóng mát, chúa Trịnh phải đi thuyền ra giữa hồ? Nếu đình nằm tại đảo Ngọc Sơn rộng lớn hơn, có cầu nối với bờ , thì sẽ rất tiện cho việc câu cá, hóng mát, hoặc tổ chức tế lễ, duyệt quân thuỷ. Đình Tả Vọng hay đình chúa Trịnh nằm trên đảo Ngọc Sơn chăng? Rất có thể Phạm Đình Bách và Bùi Thiết đã nhầm lẫn, xê dịch chỗ hóng mát, câu cá, duyệt quân thuỷù của chúa Trịnh từ đảo Ngọc Sơn sang đảo Rùa. Tháp Rùa ngày nay Bùi Thiết viết rằng Bá hộ Kim nhận sửa lại đình Tả Vọng vào cuối thế kỉ 18 và xây thêm một tầng vào cuối thế kỉ 19 thành tháp Rùa ngày nay. Khoảng thời gian giữa hai lần sửa và xây thêm dài quá, một người không thể làm được. Bùi Thiết viết nhầm mất một thế kỉ? Hoàng Đạo Thúy cũng nói đến tháp Rùa trong hoàn cảnh Hà Nội bị quân Pháp chiếm đóng kể từ năm1882. "Bang Kim biếu Tây cái tháp Rùa. Cái tháp này nhìn mãi cũng quen mắt, nhưng dưới thì cửa lối gô-tích, trên thì nóc vụn vặt, kiến trúc không ra lối gì". (Hoàng Đạo Thúy, Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội,1971, tr. 75). Ở một chỗ khác, Hoàng Đạo Thúy viết rõ là một nhà giàu phố hàng Khay xây tháp Rùa từ năm 1884 (Đi thăm đất nước, sđd). Trong chuyến đi công tác tại Bắc kì và Trung kì (từ tháng 1 năm 1884 đến tháng 4 năm 1886), bác sĩ Hocquard có chụp ảnh tháp Rùa nhìn từ phía tháp Hòa Phong (xem trang bìa sách Histoire de Hanoi, hoặc bản khắc trong sách Une campagne au Tonkin, tr. 249). Tấm ảnh cho thấy tháp Rùa thời đó giống tháp Rùa ngày nay. Diện tích đảo Rùa năm 1884-1886 rất giới hạn, chỉ rộng hơn mặt bằng của tháp mỗi bề độ 2 mét. Một nhà báo Pháp đã tả Hồ Gươm năm 1898 như sau: "Tout vert, tout tranquille, d'un charme discret, avec, au milieu, dans une île infiniment petite, sa vieille pagode d'un style étrange, et les arbres qui mirent dans ses eaux dormantes leurs frêles tiges, voici le "Petit Lac" ou "Lac de la Grande Epée". (Hồ Gươm xanh tươi, trầm lặng và duyên dáng, có cái tháp cũ kĩ, kiến trúc lạ kì, xây trên một hòn đảo nhỏ xíu giữa hồ, có những cành cây lả lơi soi bóng nước). (Les grands dossiers de l'Illustration, Le livre de Paris, 1987, tr. 93) Chắc chắn là thời chúa Trịnh đảo Rùa cũng chỉ nhỏ xíu như vậy thôi. Kiến trúc của tháp Rùa khá lạ kì, đặc biệt. "Dưới thì cửa lối gô-tích, trên thì nóc vụn vặt, kiến trúc không ra lối gì " (Hoàng Đạo Thúy). Tầng dưới cùng và tầng thứ nhì cùng có cửa lối gô–tích. Kiến trúc gô–tích thì phải chờ tới sau này người Pháp mới đưa sang nước ta chứ thời Lê, thời Trịnh thì làm sao có được? Như vậy thì hai tầng dưới cùng của tháp Rùa không thể là của đình chúa Trịnh hay đình Tả Vọng như Bùi Thiết cho biết được. Kiến trúc của tháp Rùa chịu ảnh hưởng kiến trúc Pháp. Người Pháp chỉ bắt đầu xây cất, thiết kế lại thành phố Hà Nội sau khi Triều đình Huế kí hòa ước Patenôtre ngày 6 tháng 6 năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của nước Pháp. Mấy cái cửa của tháp Rùa phải được ra đời sau hòa ước Patenôtre, nghĩa là tháp Rùa được xây trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 (lúc Hocquard về Pháp). Tháp được xây toàn bộ và cùng lúc chứ không phải được xây thêm tầng vào tháp Tả Vọng đã có từ trước. Tháp Rùa không phải là kiến trúc của đời Lê. Tấm ảnh còn cho thấy tầng dưới cùng của tháp Rùa có vẻ hơi cũ hơn các tầng trên. Nếu đúng như vậy thì tình cờ Hocquard đã chụp được lúc người ta vừa xây xong tháp Rùa, đang quét vôi. Các tầng trên đã được quét hai ba nước, tầng dưới đang chờ được quét thêm? Một kiến trúc nổi tiếng khác, có rất nhiều cửa lối gô–tích, là nhà thờ lớn Hà Nội (cathédrale Saint Joseph) cũng được người Pháp xây vào những năm 1884-1888. Kết luận Căn cứ vào một số sách và bản đồ, của ta và của Pháp, thì có thể tạm kết luận rằng: - Thời chúa Trịnh trên đảo Rùa chưa có xây cất. - Đình Tả Vọng (hay đình chúa Trịnh) nằm trên đảo Ngọc Sơn chứ không phải trên đảo Rùa. - Cung Khánh Thụy nằm trong phủ chúa Trịnh chứ không phải tại đảo Ngọc Sơn. - Tháp Rùa được xây toàn bộ trong khoảng từ tháng 6 năm 1884 đến tháng 4 năm1886. Về sau, hoặc là đảo Rùa được đắp thêm đất, hoặc là nước hồ Hoàn Kiếm bị cạn dần, nhờ vậy đảo Rùa mới trở thành lớn rộng như ngày nay. Đã có nhiều học giả nói đến hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa. Mỗi người thêm bớt một hai chi tiết. Có nhiều điều hay nhưng thỉnh thoảng cũng có chỗ nhầm lẫn. Mấy ai còn nhớ bài Hồ Hoàn Kiếm của thời mới cắp sách đến trường ? "Trong thành phố Hà Nội có một cái hồ gọi là hồ Hoàn Kiếm. Tục truyền rằng một hôm vua Lê Thái Tổ ngự ra câu cá ở bờ hồ, chỗ gần sở Đốc lý bây giờ, bỗng có một con rùa thật lớn nổi lên trên mặt nước. Vua lấy thanh bảo kiếm ném con rùa, thì nó lặn xuống, rồi nó đem thanh kiếm lên trả vua. Bởi thế mới đặt tên là Hoàn Kiếm…". ( Trần Trọng Kim, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng, 1948, tr. 94). Sử gia Trần Trọng Kim và đồng nghiệp đứng riêng một phe. Các ông cho rằng tên Hoàn Kiếm là do tích Rùa mang trả kiếm cho vua Lê Thái Tổ. Lê Lợi được trời cho thanh bảo kiếm để dẹp giặc. Dẹp xong giặc, lên làm vua, trời lại cho Lê Lợi giữ luôn thanh kiếm ! Cách trình bày này làm mất hết ý nghĩa cao đẹp của truyền thuyết. Nguyễn Dư (Lyon, 8/2002)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:48:28 GMT 9
Từ Hà Tiên, nghĩ về tinh thần dung hợp văn hóa của dân tộc trên con đường xuôi Nam. Trần Viết Ngạc Xin đừng ai hào hứng gọi cuộc xuôi về Nam của dân tộc là "mang gươm đi mở nước!" Nói như thế chẳng những không đúng với lịch sử và không giải trình được những sự kiện in dấu trên con đường Xuôi Nam".- Thuận Hoá "trở về với Đại Việt" (chữ của Lê Quý Đôn) như món quà sính lễ của chàng rể Chiêm Vương Chế Mân (1306). - Công nữ Ngọc Vạn về làm hoàng hậu của Chey Chetta II mở đầu cho sở dinh điền cuả người Việt ở Mô Xoài (1620) và khi trở thành Hoàng thái hậu đã nhờ ảnh hưởng của bà mà Campuchia chấp nhận cho chúa Nguyễn được thiết lập sở thu thuế ở Sài Gòn (Prey Nokor). - Nhờ sự giới thiệu của Chúa Hiền mà Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên đã vào khai phá vùng Mỹ Tho, Biên Hoà (1679). - Sau cùng, như một tưởng thưởng cho quá trình bền bĩ xuôi Nam, Mạc Cửu đã đem giang sơn dày công gây dựng về cho chúa Nguyễn và được phong chức Tổng binh Hà Tiên (1708) Những đóng góp của Huyền Trân, Ngọc Vạn, Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cữu ... phải chăng đáng xưng tụng hàng vạn lần hơn là các cuộc xung đột binh đao giữa các dân tộc láng giềng? Gọi cuộc mở đất tiệm tiến về phương Nam là Xuôi Nam là phù hợp với tinh thần hòa hiếu và dung hợp văn hoá của nhân dân Đại Việt. Trong một luận văn cao học viết về giao thoa văn hoá Chăm Việt (bảo vệ năm 1974 tại Đại học Văn khoa Sài Gòn), tác giả đã cho rằng trong ngôn ngữ Chăm không có vần V. Phải chăng trong lúc giao tiếp ChămViệt, những người lưu dân Xuôi Nam để làm vui lòng người láng giềng đã dần dần đánh mất vần V để phát âm đi dzề thay vì đi về, dzui dzẻ thay vì vui vẻ Tiến sĩ Phú Văn Hẳn không đồng ý với ý kiến không có vần V trong ngôn ngữ Chăm. Tuy nhiên, qua khảo sát cuốn Từ điển Chăm Việt (nxb Khoa học xã hội, 1995) mà tiến sĩ Hẳn là một người tham gia biên soạn, tôi chỉ đếm được vỏn vẹn 71 từ vần V trong một cuốn từ điển dày hơn 900 trang. Các vần khác, như vần T có đến hơn 900 từ. Trong khi đó, người Việt xuôi Nam lại tiếp nhận vần R (rung) vốn không thể phát âm chuẩn đối với cư dân đồng bằng sông Hồng. Ô Châu cận lục cho thấy ảnh hưởng văn hoá Chăm khá rõ nét trong buổi đầu của đất Thuận Hoá. " Nói tiếng Chiêm thì có thổ dân làng La Giang, mặc áo Chiêm thì có con gái làng Thuỷ Bạn". Tiếng Huế (pha nhiều tiếng Chiêm) được cho là không tao nhã, mặc quần như người Chăm thay vì mặc váy cũng bị phê phán (có nơi tiếng Huế, quần Chiêm thói càng bỉ ổi !). Tiếng Huế có nhiều tiếng Chăm như ni, tê, loi (thụi), mụ ...(muk để chỉ người phụ nữ lớn tuổi đáng trọng). Cuộc sống hoà đồng Chăm Việt ở vùng Thuận Hoá đã được ghi lại khá sống động như trong áng văn Thỉ thiên tự" do vị khai canh làng Câu Lãm (nay là Câu Nhi, Hải Lăng, Quảng Trị) là Bùi Trành viết năm 1429: "Một ngày kia bèn đi Nam. Lần đi ấy, giả thác là đi buôn, kỳ thực là để chọn đất. Gia nhân đi theo không ai biết được. Rồi nhân truyền điønh loan báo : "Đất Châu Ô, người Chiêm đã bỏ đi hết, nhân dân ta, ai không có nhà cửa điền sản, mà mộ được nhiều người đến xứ này canh phá, lập thành làng mạc thì được khởi trưng." Tôi bèn nhanh chóng hưởng ứng, đi kêu gọi được hơn 20 người ứng mộ bèn thôi ...() "Lúc đó, bèn đi viếng mộ tổ tiên, xin bốc đem quy trí, hẹn thượng tuần tháng sau, Giáp Tý lên đường. Sau đó tới Châu Ô. Do ngày trước đã bàn bạc với dân Chiêm xứ ấy xin cư trú rồi, nên đến Châu Ô chẳng cần phải nhiều lời. Nhân đó, mua cày bừa, dựng nhà ở, ít lâu xong xuôi. Bèn dựng một cái rạp tại nơi ở, sắm sửa heo xôi, cỗ bàn, sắp đặt dâng tế một lễ mời khách đến dự, rồi an tán kim cốt ra tay canh khẩn. Từ đó yên việc ăn ở, người Chiêm lũ lượt tới lui, tôi đã chân thành khoản đãi. Gặp lúc họ có biến cố gì, tôi đều tới lui giúp đỡ. Những lúc đó người Chiêm phần nhiều đem thổ cẩm biếu cho tôi. Tôi chẳng tiêu dùng. Lâu ngày thành cả gánh, đem gánh lên quan trình nạp. Quan trên cho tôi làm "đại đề" [1]. Luôn luôn đi khai phá vùng đất mới, người lưu dân Việt đều tâm niệm rằng đây là đất ruộng của "điền chủ" (chủ trước) chứ không phải là vùng đất hoang vu chưa được bàn tay con người khai phá ! Nguyễn Hoàng trong sắc lệnh sai Lương Văn Chánh từ huyện Tuy Viễn (Bình Định) đem lưu dân vào khai phá vùng đất tỉnh Phú Yên bây giờ (1597) cũng gọi là khai phá, "hoang điền, nhàn thổ" nghĩa là ruộng của cư dân Chăm đã bỏ hoang, nương vườn cũ không ai canh tác. Đó là thái độ tôn trọng người chủ cũ đã có công khai phá mà người đến sau được thừa hưởng. Ở Thừa Thiên Huế, trước đây có rất nhiều am thờ tiền chủ tức là người chủ Chăm. Lễ thuê đất (tá thổ) còn lưu giữ một vài nơi ở Phú Yên cũng nói lên tinh thần ấy [2]. Người lưu dân trên đất nước cũng lấy tín ngưỡng của tiền chủ làm tín ngưỡng của mình. Po Nagar, người Mẹ xứ sở của dân tộc Chăm được thờ ở Điện Hòn Chén (Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên Huế) dưới danh hiệu Y_Na hay Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi, Tháp Bà ở Nha Trang, Bà Chúa Xứ, Bà Đen là những thần bản địa được người Việt tôn thờ. Ở Thừa Thiên Huế rất nhiều nơi thờ Bà Dàng (Thai Dương phu nhân). Tập tục cúng bà Dàng vào cuối năm âm lịch ở Huế đã đi vào ca dao tục ngữ Hai mươi làm tốt Hăm mốt xỏ tai Hăm hai đeo hoa Hăm ba tế Dàng [3] Chẳng những tiếp nhận tín ngưỡng của chủ cũ, người Việt cũ bao dung, dung hợp tín ngưỡng của người Hoa nhập cư. Chùa Bà, Chùa Ông ở khắp nơi. Ở Hội An trong các chùa Hoa (người Việt gọi là Chùa Tàu) đến khi còn thờ cả Phục Ba Tướng quân Mã Viện ! (Vì danh xưng Phục Ba (Hàng Sóng), Mã Viện được xem là vị thần bảo hộ mậu dịch trên biển). Ảnh hưởng âm nhạc Chăm cũng có thể nhận ra trong điệu tán, tụng của các nhà sư ở Huế. Chúng tôi đã có dịp thu âm một bản nhạc lễ của người Chăm để minh chứng cho nhận xét này. Trong các bài văn tế tìm thấy ở Phú Yên, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần thường được tôn lên hàng đầu, trước cả tôn danh của vị thành hoàng tỉnh Phú Yên là Phù Nghĩa hầu Lương Quý Phủ (Lương Văn Chánh) thượng đẳng thần. Tinh thần dung hợp văn hoá là nền tảng cho sự hoà hợp và đoàn kết các dân tộc anh em. Người Việt không đề cao dân tộc mà xem lãnh thổ, địa bàn chung sống của các dân tộc là mẫu số chung, là yếu tố quan trọng nhất để đoàn kết. Người trong một nước phải thương nhau cùng ! Trong tinh thần đó, những lưu dân từ xa đến hay những cộng đồng dân cư bản địa đều đoàn kết để xây dựng quê hương. Châu Thượng Văn ở Hội An, Trần Tiễn Thành, Lâm Mậu, La Hối... và bao nhiêu người nữa đã xem đất nước này là quê hương chính của mình. Họ Mạc ở Hà Tiên cũng sống và còn sống mãi trong tinh thần dung hợp về văn hoá và đoàn kết dân tộc. Đó cũng chính là tinh thần cùng cách ứng xử nhân văn của dân tộc trên con đường Xuôi Nam. Trần Viết Ngạc [1] - Trần Đại Vinh _ Tín ngưỡng dân gian Huế, nxb Thuận Hoá Huế, 1995, trang 19 [2] - Người Kinh đem một mâm cơm cau trầu rượu và cua trứng, thịt heo luộc cùng một ít vàng mã để cúng vị tiền chủ ngay tại đám ruộng miønh đang canh tác. Trên mâm lễ còn có 4 hòn cuội, được sơn vôi một đầu. Sau lễ, hoá vàng bạc, đem 4 "ông mốc" cắm ở bốn góc ruộng. [3] - Trần Đại Vinh, klđd, trang 45
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 28, 2012 9:41:31 GMT 9
Ước chi... thời đó! Tuesday, April 24, 2012 Ngô Nhân Dụng Ðang tìm hiểu lý do tại sao, sau một ngàn năm Bắc thuộc, nước Việt Nam không thành một tỉnh của Trung Quốc, chúng tôi có dịp đọc sách sử cũ, thấy có mấy chuyện đáng kể lại trong lúc này.Cuốn Mân Thành Tạp Thảo của Lý Văn Phức kể chuyến đi Phúc Kiến của ông năm 46 tuổi. Mân Việt là tên của tỉnh Phúc Kiến thời xửa thời xưa; trong cùng lúc người Trung Hoa gọi nước ta là Lạc Việt. Ông Lý Văn Phức đi sứ sang Tàu bốn lần, chưa kể một lần sang Phi Luật Tân (đảo Lucon) và hai lần qua Bengal. Chuyến đi năm Tân Mão (1831) có lý do nhân đạo. Cả gia đình một người Trung Hoa tên là Trần Khải đi biển gặp bão, thuyền trôi dạt vào hải phận Việt Nam. Vua Minh Mạng sai cả một phái bộ dùng đường biển đưa cả gia đình này về nguyên quán. Lý Văn Phức phụ trách việc này, nhân đó có dịp gặp gỡ và đối đáp, đã “tranh đấu ngoại giao” với viên tổng đốc họ Tôn ở đó, về những vấn đề có tính cách nghi thức thù tiếp nhưng lại đụng chạm tới thể diện quốc gia. Ngay hôm đầu tiên, được đưa kiệu đến trước cửa ngôi nhà tạm trú, Lý Văn Phức đã lùi lại, không vào. Vì trên cửa là tấm giấy ghi: “Việt Nam quốc Di sứ Công quán.” Di là chữ người Trung Hoa gọi tên các giống dân “man rợ.” Quan địa phương chịu gỡ tấm bảng đi, ông mới bước vào. Ngày hôm sau, họ phải viết một tấm bảng khác: “Việt Nam quốc Sứ quan Công quán.” Sứ quan, chứ không phải Di sứ! Mấy ngày sau, Lý Văn Phức viết một bài “Biện Di Luận,” bàn luận về “Di.” Sau khi mô tả nước Việt Nam biển rộng sông dài, ra đến các đảo ở Ðại Hải; lại kể ra các phong tục tập quán, và nền giáo dục, thi cử ở nước ta không thua kém gì bên Tàu; ông hỏi: “Như thế mà lại gọi là Di được hay sao?” Lý Văn Phức lại lục lọi sách sử cũ Trung Hoa ra, trích dẫn nguyên văn: “Vua Thuấn vốn là người Ðông Di, Văn Vương vốn là người Tây Di; truyện sử có chép như thế.” Hai ông đế, ông vương được kính trọng nhất nước Tàu, cũng gốc người “sắc tộc thiểu số!” Chưa hết, Lý Văn Phức còn phân tích thêm để “nói móc” cho họ phải ngượng. Bài văn viết: Có phải các ông gọi một sắc tộc là Di vì cách ăn mặc và tiếng nói của họ hay không? Nếu vậy thì trong xứ Mân Thành này, quý vị ăn mặc không giống, nói tiếng nói không giống các tỉnh khác của Trung Quốc; quý vị có phải là Di hay không? Nói vậy là đụng tới một nỗi xấu hổ của người xứ Mân. Hai ngàn năm trước, cũng như Việt Nam, họ không hề thuộc vào nước Tàu. Triệu Ðà là ông tướng đầu tiên đánh chiếm Mân Việt. Bây giờ họ đã biến thành một tỉnh, bị đồng hóa thành người Trung Quốc! Còn chúng tôi, người Việt Nam thì vẫn là một nước độc lập! Bài Biện Di Luận được Lý Văn Phức viết, đem treo trước công quán, thầy giáo, học trò kéo nhau đến đọc, có người chép lại đem về nhà giữ. Ông kể lại, có một viên quan lo về giáo dục (huấn đạo) tên là Lý Chấn Nhân đã tự giật mũ, ném xuống đất, nói: “Chúng ta là Di mà lại còn gọi người khác là Di làm gì!” Chi tiết “giật mũ ném xuống đất” này quan trọng. Vì một trong những thứ mà người Trung Hoa đời thượng cổ tự hào hơn các giống Di, Ðịch, là họ biết đội mũ! Hậu Hán Thư đã kể công hai ông thái thú Tích Quang và Nhâm Diên dạy dỗ dân Giao Chỉ, Cửu Chân thay đổi trang phục, với việc “chế vi quan, lý” - tức là chế tạo ra mũ đội và làm dép để đi vào chân. Người Phúc Kiến vẫn quen quấn khăn chứ không đội mũ, đó là một phong tục cũng được Lý Văn Phức nêu ra trong bài văn! Ðọc tới đó, người ta phải thấy xấu hổ, giựt mũ ném xuống đất là phải! Lý Văn Phức xứng đáng làm một người đại diện cho nước Việt Nam ra nước ngoài, để bảo vệ thể diện dân tộc. Nếu ngày nay có người có tài trí và đảm lược như ông thì đỡ biết mấy! Mân Thành Tạp Thảo còn kể nhiều cuộc đối đầu lý thú giữa ông sứ thần nước ta với một quan tổng đốc Trung Quốc; nhưng còn một câu chuyện của một tác giả khác, sống trước Lý Văn Phức nửa thế kỷ, cũng đáng kể lại. Mùa Xuân năm Canh Tuất (1790) Quang Trung cử Phan Huy Ích làm sứ thần đưa một vị võ tướng giả đóng vai nhà vua sang Trung Quốc triều kiến vua Càn Long nhà Thanh. Trước đó một năm quân ta mới đánh Tôn Sĩ Nghị tơi tả ở trận Ðống Ða. Phái đoàn gồm 150 người, có cả một đoàn văn nghệ 10 nhạc sĩ và ca sĩ, bái biệt vua ở Nghệ An ngày 29 Tháng Ba (Âm lịch), đến Tháng Bẩy mới đến Bắc Kinh. Ngày 11 Tháng Bẩy, phái bộ được vua Càn Long tiếp tại nhà nghỉ mát ở Nhiệt Hà, làm thơ xướng họa với nhau. Ba ngày sau gặp lại gặp, Càn Long tặng cho “quốc vương giả” Phạm Công Trí và nhân viên sứ bộ nhiều món quà quý giá. Ðặc biệt, ông vua nhà Thanh nhờ phái bộ chuyển một món quà gồm “hai tấm đoạn,” đem về cho một vị trưởng đồn người Việt Nam, tên là Phạm Quang Chương. Ông Phạm Quang Chương đã làm gì mà được vua nhà Thanh tặng quà như vậy? Cuốn hồi ký Tinh Sà Kỷ Hành của Phan Huy Ích tường thuật chuyến đi, cho biết lý do. Trước đó ba ngày vị “đồn tướng” Phạm Quang Chương, trong lúc đi tuần trên biển, đã cứu được một chiếc thuyền của người Trung Hoa trong lúc họ đang bị cướp biển tấn công. Tin đưa về Bắc Kinh rất nhanh, Càn Long tạ ơn ngay. Ước chi lúc này có được những vị đồn trưởng như ông Phạm Quang Chương thời đó. Ông có thể cứu những ngư phủ Việt Nam bị cướp biển tấn công ngay trong hải phận nước mình. Mà bọn cướp đó lại là quân sĩ của những người ngồi kế vị trên ngai vàng các vua nhà Thanh ở Bắc Kinh, là đảng Cộng Sản Trung Quốc! Nghe tin 21 đồng bào đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi đi biển bị lính tráng Tàu bắt cóc từ Tháng Ba, bị tra tấn, bỏ đói trong hơn một tháng giam cầm mới được thả về, sau khi đã bị cướp hết thuyền bè, dụng cụ đánh cá, người Việt ở nơi nào cũng phải rớt nước mắt. Mà đây không phải lần đầu tiên ngư dân mình bị trấn lột, hành hạ như vậy. Bọn “cướp biển” mặc đồng phục Trung Quốc đã tung hoành như thế từ bao nhiêu năm nay rồi. Hàng ngàn đồng bào Việt Nam đã bị họ cướp, đánh, nhiều người còn bị giết. Ông Phạm Quang Chương ơi, cứu chúng tôi với! Ông Phạm Quang Chương ơi, ông ở đâu rồi? Tại sao những người lính Trung Cộng có thái độ và hành vi khinh thường dân Việt Nam như vậy? Phải hỏi những vị quan to trong Câu Lạc Bộ Ba Ðình để nhờ các ông bà giải đáp cho dân chúng tôi nghe. Trong mấy ngày qua, hai nước Philippines và Việt Nam đều phản đối bản “Quy hoạch bảo vệ hải đảo toàn quốc” của chính phủ Trung Quốc. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam chỉ nói một cách giản dị là nó “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.” Và yêu cầu Trung Quốc phải hủy bỏ ngay bản quy hoạch nêu trên, không có thêm hành động nào làm phức tạp tình hình ở Biển Ðông. Nói xong rồi, không có một hành động nào khác. Vẫn tụng đọc 16 chữ vàng mỏi miệng, chờ coi các “đồng chí anh em” sẽ làm gì tiếp thì lại nói thêm vài câu nữa! Chính phủ Philippines cũng phản đối Trung Quốc như vậy; nhưng họ còn làm nhiều hơn. Họ cho phép giới quân sự lên tiếng “Quân đội Philippines sẽ không lùi bước!” Philippines còn “kêu gọi các nước phương Tây và Châu Á tỏ rõ lập trường” về tình hình Biển Ðông, để cùng đối đầu với một “mối đe dọa.” Tức là đề nghị quốc tế hóa vấn đề Biển Ðông. Khi tổng thống Philippines tuyên bố nước ông sẽ “không gây chiến với Trung Quốc ở Biển Ðông” thì người ta hiểu rằng họ sẵn sàng chờ đợi nếu cần phải chống cự bất cứ một cuộc gây hấn nào, dù là chiến tranh! Trung Quốc yêu cầu Philippines rút con tàu khảo cổ đang vớt lên một con tàu đắm gần bãi đá ngầm Scarborough ở Biển Ðông, chính phủ Manila cương quyết từ chối. Có vị tướng lãnh nào ở Việt Nam được phép lên tiếng về vấn đề Biển Ðông hay không? Hay là các ông tướng còn đang lo các biện pháp đối phó với “Cơn sóng Ðoàn Văn Vươn” đang dâng trào; khi đồng bào Hưng Yên ào ào kéo nhau biểu tình đòi đền bù đất đai bị “cưỡng chế,” lại được đồng bào từ Bắc Ninh đến hỗ trợ? Không cần hỏi tại sao những người lính Trung Quốc ngang nhiên cướp bóc ngư dân Việt Nam, khinh rẻ mạng sống, tài sản của người Việt Nam. Nhà dột từ nóc dột xuống! Năm 1992 cả một đoàn lãnh đạo Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam xin phép kéo nhau sang triều yết Ðặng Tiểu Bình để xin được làm “đồng chí anh em” như cũ. Ðặng Tiểu Bình không thèm tiếp, còn không cho được đến Bắc Kinh. Bắt gặp gỡ ở Thành Ðô, tuốt muốt ở Tứ Xuyên, một tỉnh ở góc nước Trung Hoa vĩ đại. Ðặng Tiểu Bình còn đòi bằng được phải đưa cả ông Phạm Văn Ðồng sang gặp, dù ông cựu thủ tướng này không còn chức vụ nào nữa. Bởi vì chính ông Phạm Văn Ðồng là người đã ký lá thư năm 1958 công nhận bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, trong đó nói họ làm chủ cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa! Cứ như vậy mà cả sứ bộ Cộng Sản Việt Nam lục tục kéo sang chầu để xin giải hòa, thề từ nay ngưng không chửi bới “Trung Quốc xâm lược” nữa! Chẳng còn chút thể diện nào cả! Làm sao người ta không khinh được? Ước chi lúc này có được những nhà ngoại giao như Lý Văn Phức thời đó! Ước chi lúc này có được những vị đồn trưởng như ông Phạm Quang Chương thời đó! *********************** ( Gop y: Lý Văn Phức va Phạm Quang Chương ngay nai dang bi cai tao vi am muu dien bien hoa binh , phuong hai an ninh XHCN )
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 7, 2012 4:30:28 GMT 9
VÕ HỌC BÌNH ÐỊNH Ðào Ðức Chương "Mảng vui Hương Thủy, Ngự Bình Ai vô Bình Ðịnh với mình thì vô Chẳng lịch bằng đất kinh đô Nhưng Bình Định không đồng khô cỏ cháy Ba dòng sông chảy Bảy dãy non cao Biển Ðông sóng vỗ dạt dào Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh..." Câu ca dao trên là bức tranh phác họa miền Ðất Võ, xứ Bình Định. Ðó là miền đất cách Kinh thành Huế 407 cây số về phía đông nam, có ba mặt núi non hiểm trở. Phía tây dựa lưng vào dãy Trường sơn trùng điệp, phải qua đèo An Khê dốc đứng, vượt sông Ba rồi lên đèo Măng giang mới tới được vùng Tây nguyên. Phía bắc có dãy Thạch tấn nối từ Trường sơn ra tận biển, ngăn cách hai tỉnh Quảng ngãi và Bình Định, chỉ còn thông nhau qua đèo Bình đê. Phía nam có dãy Nam sơn, còn gọi là núi Bình san, với các ngọn như hòn Ông, hòn Bà (cao 1100 mét), hòn Am, hòn An tượng, ngăn cách Bình Định và Phú yên. Muốn vào nam phải vượt đèo Cù mông. Phía đông giáp biển, trải dài 100 cây số. Bờ biển lại gập ghềnh, lồi lõm với nhiều cửa như Thiện chánh, Cà công, Hà ra, Phú thứ, Ðề gi, Thị nại. Bình Định có hai con sông lớn chắn ngang. phía bắc là sông Lại giang, còn gọi là Lại dương, bắt nguồn từ hai vùng núi An lão và Kim sơn, đổ ra biển qua cửa An giũ. Phía nam cũng có một sông tương xứng: sông Côn, chia làm ba nhánh chảy vào đầm Thị nại. Ngoài ba dãy núi và hai sông chính, Bình Định còn nhiều nhánh núi tẻ ra từ dãy Trường sơn và có sông La tinh nằm vắt ngang giữa tỉnh. Núi, sông xen kẽ với đồng bằng, tạo cho miền này một địa hình phức tạp. Các nhà phong thổ học nhìn cuộc đất Bình Định như một cái ngai vàng khổng lồ. Tay vịn phía tả là dãy Thạch tấn. Tay vịn phía hữu là dãy Nam sơn. Lưng dựa là dãy Trường sơn, mặt quay về hướng đông lồng lộng trời cao biển cả. Rải rác đó đây là những ngọn tháp Chàm còn sót lại. Ở huyện Phù cát có tháp Phúc Lộc tục gọi là Phốc Lốc. An nhơn có tháp Cánh Tiên. Tuy Phước có chùm tháp Bánh Ít, tháp Thanh trúc ở Bình lâm, tháp Long triều ở Xuân mỹ. Qui Nhơn có tháp Ðôi. Bình khê có tháp Thủ thiện và chùm tháp Dương long. Những tháp cổ cao vút lên nền trời, trông như những cây bút khổng lồ "ghi tiếng anh hào vào mây xanh". Với bốn mặt núi sông biển vây phủ, lại thêm thiên tai bão lụt thường xuyên, người dân miền này muốn sinh tồn phải cần thích ứng với miền đất hiểm trở, đầy bất trắc. Ðấy là nhân tố để cho võ nghệ Bình Định nẩy nở. Rồi ngành dệt phát triển, nghề chạm cẩn tinh vi, lại có những đặc sản như bánh tráng, bún Song Thằng, nón Gò Găng, gốm Chợ Gồm, ngói Phú phong... Hải sản Bình Định thì quá dư dả, cần phải thông ra ngoài, tìm thị trường tiêu thụ hoặc trao đổi: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên (Ca dao) Thời trước buôn bán với "nậu nguồn" là quan trọng hơn cả. Lượt lên mang cá khô, mắm, muối. Chuyến về chở măng le, trầu nguồn, rễ nài. Vốn một lời mười. Tổ phụ của Nguyễn Nhạc là Hồ Lang, chuyên nghề buôn bán trầu nguồn. Ðến thời Hồ Phi Phúc, rồi Nguyễn Nhạc cũng nối nghiệp cha ông. Số người buôn bán hàng chuyến rất đông. Chở hàng ra Quảng, vào Nam, lên Tây nguyên đều có cả. Vì vậy võ nghệ cần được phổ biến và phát huy để hộ tống hàng hoá vượt đèo, qua sông, vừa chống chỏi với mãnh thú, vừa đề phòng nạn trộm cướp dọc đường hoặc ngay tại nhà. Không những đàn ông mà ngay cả đàn bà, trẻ con cũng phải học võ hộ thân và bảo vệ tài sản, đã trở thành một truyền thống: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định múa roi, đi quyền (Ca dao) Tuy vậy, dòng chảy của Võ học Bình Định cũng có những thăng trầm, qua các giai đoạn sau đây: THỜI KỲ MỞ MANG (1470-1558) Năm Canh Thìn (1470), Hồng Ðức nguyên niên, vua Chiêm là Trà Toàn đem quân đánh phá đất Hóa châu, và sai người sang Tàu cầu viện nhà Minh. Vua Lê Thánh Tôn tự cầm quân, đem đại binh 20 vạn quân đánh Chiêm thành, phá được kinh đô là thành Ðồ Bàn (Vijara) và chiếm đất đến đèo Cù mông. Từ đấy, miền nầy được sát nhập vào đạo Quảng nam, đặt tên là phủ Hoài nhơn gồm ba huyện là Bồng sơn, Phù ly và Tuy viễn. Dân các tỉnh Bắc kỳ, nhất là người Hà đông và các tỉnh miền bắc Trung phần vào đây lập nghiệp. Họ đến lấp vào chỗ trống vì có một số người Chiêm thành đã rút về phía nam. Ðể sinh tồn, họ góp nhóp vốn liếng võ nghệ của cố hương, pha trộn với các thế võ của người Chiêm, của dã thú, của gà đá... rồi sửa đổi, sàng lọc, ứng chế cho hoàn toàn thích hợp với hoàn cảnh, địa thế của quê hương mới. Ðầu tiên, hai thế võ được thông dụng là lối đánh bằng tay chân gọi là quyền và lối đánh bằng cây gọi là roi. Họ dùng khúc cây vừa làm đòn gánh vừa là vũ khí hộ thân. Gánh, có thể chịu sức nặng gấp ba lần trọng lượng của mang xách mà vẫn đi được xa. Ðòn gánh làm bằng gốc tre già, vừa chắc vừa dẻo, tiện cả hai mặt: gánh thì êm vì đòn nhún theo nhịp đi; đánh lại bền vì cây roi không bị gãy hay giập bể. Ðó là những năm tháng dài, hình thành một nền võ thuật mới mẻ, độc đáo, được cả nước quen gọi là võ Bình Định. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1558-1771) Từ cuối năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận hoá, lập nên xứ Nam Hà, cho đến năm Tân Mão (1771) Tây Sơn khởi nghĩa. Trong ngót hai thế kỷ, võ Bình Định đã tiến một bước dài, phát triển đầy đủ các môn binh khí và đi vào nề nếp. Sự kiện chàng Lía xảy ra trong thời kỳ này còn lưu lại một bài vè dài 1336 câu, chia làm 6 đoạn, đã phản ánh phần nào tình trạng võ nghệ ở Bình Định lúc bấy giờ. Kết hợp nội dung bài vè và lời truyền tụng của dân chúng về cuộc đời của Liá, nhân vật tiếng tăm ấy có tên thật là Võ Văn Ðoan, nhưng người đời quen gọi thân mật là chú Lía, quê nội ở huyện Phù ly nay là Phù mỹ, cha mất sớm, Lía theo mẹ về quê ngoại tại làng Phú lạc, tổng Thời hòa, huyện Tuy viễn, sau là thôn Phú lạc, xã Bình thành, quận Bình khê (nay đổi huyện Tây Sơn). Nhà nghèo, mẹ thường đau yếu, Liá lại còn nhỏ không làm ra tiền để nuôi mẹ. Nhiều lần Lía đến các nhà phú hộ xin bát cơm thừa hay xin được họ thuê mướn, nhưng bị từ chối và còn bị mắng nhiếc thậm tệ. Lía tự nhủ: "Dốc lòng cố giữ lòng thành, Mà trời chẳng giúp phải đành lòng tham" (vè chú Lía) nhỏ nhặt sắn khoai để cứu sống mẹ qua cơn ngặt nghèo. Một hôm, Lía vào trộm gà vịt của một nhà phú hộ, bị bắt qủa tang, họ trói và đánh đập tàn nhẫn trước khi giải cho hương chức để chịu một trận đòn thừa chết thiếu sống khác. Từ đấy Lía nuôi trong lòng mối hận thù kẻ giàu có và bọn cường hào ác bá. Có một hương sư, thương cho tình cảnh của Lía, bèn mướn chăn trâu. Ngày ngày Lía thả trâu ăn cỏ trên các sườn đồi. Nhân có các võ sư thường đem môn sinh đến mé núi dạy võ, Lía ghé mắt học lóm và tiếp thu rất nhanh, thấy đâu nhớ đó. Nhờ có sức mạnh phi thường, thêm năng khiếu về võ nghệ, lại thông minh sáng tạo, một hôm thấy con cá lóc nhảy từ dưới thấp lên ruộng cao, Lía học được ngay: Lía ta thấy vậy tức cười Khen con cá lóc vô hồi tài ba Chớ chi cá lóc dạy ta Học theo miếng đó, thiệt là mang ơn và chịu khó tập luyện thành thạo: Nhảy cao như Lía thiệt tài Nóc nhà nhảy khỏi ai ai cũng nhường Từ ấy bọn chăn trâu trong vùng tôn Lía làm "vua", chỉ có thằng Mướp không chịu phục, muốn đấu võ với Lía, ai thắng mới chính thức lên ngôi vị: Mướp ta cầm một khúc cây Ðánh nam đỡ bắc múa may loạn trào Nhưng hắn không đủ sức chống đỡ ngọn roi khốc liệt Ðường côn toàn vẹn trăm bề Múa lên giông tố tiếng nghe vù vù nên Lía đã lỡ tay đập vỡ đầu thằng Mướp chết ngay tại chỗ. Lía hoảng sợ, bỏ vào rừng trốn biệt. Bọn lục lâm từng nghe danh Lía, bèn mời về sơn trại. Sau đó Lía cầm đầu một đảng cướp nổi tiếng. Nhưng Lía chỉ đánh cướp những nhà giàu có mà gian ác hay những nhà của bọn tham quan ô lại. Nếu chủ nhà biết điều, nộp tiền của và không chống cự, Lía chỉ lấy hai phần ba của cải, một phần để lại cho chủ. Tài sản cướp được, Lía đem về sơn trại một nửa, nửa kia phân phát cho dân nghèo trong vùng. Lía cấm đàn em không được sách nhiễu dân chúng, cấm chận đường cướp giật bừa bãi hoặc thu tiền mãi lộ. Ðối với bọn cường hào có thành tích hà hiếp dân đen, Lía cho thủ hạ trừng trị làm gương. Nhờ thế tuy là tướng cướp, Lía vẫn được dân chúng ủng hộ và che giấu. Chính quyền địa phương tuy tốn nhiều thì giờ và công sức mà vẫn không dẹp được đảng cướp của Lía. Các nhà giàu trong tỉnh lo sợ, bèn mướn võ sư canh giữ tài sản và tập luyện võ nghệ cho gia nhân, tạo cho tỉnh nhà một số đông người rành võ nghệ và gây thành phong trào học võ. Nhưng rồi Lía cũng chán đời thảo khấu, nhất là biết được mẹ già qua đời vì buồn phiền về Lía, Lía buồn bã giã từ sơn trại ở vùng Phú Phong huyện Bình khê, đi về mạn bắc định tìm đến một nơi xa lạ, sống đời lương thiện. Thế nhưng, việc võ nghệ là nghiệp chướng đeo đuổi mãi. Trên đường ra Quảng ngãi, Lía phải qua Truông Mây dài độ vài cây số, hai bên mây rừng bao phủ dày đặc. Truông Mây, còn gọi là Hóc Sấu, nằm trên hai thôn, đầu bắc là Phú thuận, đầu nam là Vĩnh hòa, thuộc Tổng Hạ, huyện Bồng sơn phủ Hoài nhơn (còn có tên là phủ Qui Nhơn và Qui ninh), nay thuộc xã Ân đức, huyện Hoài ân, tỉnh Bình Định. Ðịa thế Truông Mây rất hiểm trở, phía đông và đông nam gặp nhánh sông Kim sơn chảy từ nam ra bắc, quanh năm nước xanh lè như màu lá, phía tây núi non trùng điệp và có hòn Núi Một tách ra, sừng sững như chiếc bình phong. Nơi đây Lía bị một bọn cướp chặn đường nên phải ra tay. Hàng chục tên cướp ngã gục. Chúng hoảng sợ, vội phi báo với chủ trại là cha Hồ và chú Nhẫn. Lại một phen Lía phải tỉ thí với hai tên đầu sỏ toán cướp: Cự đương một đánh với hai Tả xung hữu đột bụi bay mù trời Gặp ngọn roi thần của Lía, bọn chúng phải bái phục: Lía càng sung sức hoành hành Cha Hồ chú Nhẫn thất kinh đuối rồi Và rước về sơn trại rồi nhường chức thủ lãnh cho Lía. Trong thời kỳ này đã có những cao thủ thuộc giới nữ lưu: Mụ Mân khoảng độ bốn hai Làu thông võ nghệ ít ai sánh bì Ðến nỗi trình độ võ như cha Hồ chú Nhẫn hiệp sức lại vẫn không thắng nổi: Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai Ðuối tay kéo chạy như bay khác nào Nhưng khi gặp đường roi của Lía, mụ Mân không thể áp đảo được: Lía ta bình tĩnh đối đang Mụ Mân tuy giỏi khó toan vẫy vùng Rồi Lía dùng độc chiêu để hạ địch thủ: Cầm chừng mụ đánh một hồi Lía gạt đao gãy, đá bồi một chân Và cũng từ ngày được tôn làm chủ soái Truông Mây, Lía đã ra lệnh cho thủ hạ phải triệt để áp dụng tôn chỉ của mình. Truông Mây không còn là chỗ cướp bóc bừa bãi khách bộ hành nữa mà trái lại còn bảo vệ người qua đường khỏi bị ác thú hãm hại. Nhờ vậy đảng cướp được dân chúng có cảm tình, được nhiều người gia nhập và tiếng đồn về Lía vang dội khắp vùng: Lía ta nổi tiếng anh hào Sơn hà một góc thiếu nào người hay Bạc tiền thừa đủ một hai Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông Làm cho bốn biển anh hùng Mến danh đều tới phục tùng chân tay Mục tiêu đánh cướp của Lía nhằm vào những: Kẻ nào tàn ác lâu nay Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan Nhất nhì những bậc nhà quan Nghe chàng Lía dọa kinh hoàng như điên Nhà nào nhiều bạc dư tiền Mà vô ân đức, Lía đều đoạt thâu Có binh hùng tướng mạnh, Lía cho sửa sang sơn trại thành đồn lũy, luyện tập đàn em thành thạo các môn quyền, roi, đao, kiếm, siêu, thương, cung, ná... Lía nay ở chốn sơn trung Ngày đêm luyện tập ung dung chén nồng Từ một đảng cướp, Lía đã tạo thành một lực lượng vũ trang có tổ chức, biết tự túc tự cường: Lâu la mấy vạn tụ đông Võ rừng làm rẫy vun trồng bắp khoai Triều đình phái một đội quân đông đảo đến đánh dẹp Truyền cho mười vạn binh hùng Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng Lía đã đón quan binh bằng chiến thuật bất ngờ, nhanh như một đường roi bí hiểm: Lâu la kén đủ năm ngàn Thình lình cướp trại đánh ngang quân trào... Ðại tướng thoát trận thoát nàn Về trào chịu tội mất thành binh tan Lần này, không thể xem thường Lía như đám giặc cỏ, triều đình phải cử một tướng lĩnh tài ba: Ðô đốc võ nghệ vẹn toàn Quân binh hùng dũng chiến tràng đua tranh Lía bèn giục ngựa ra thành Quyết cùng đô đốc giao tranh so tài Ðôi bên xáp chiến cả ngày Bất phân thắng bại khen thay anh hào Nhưng rồi Lía không làm sao giữ nổi thành trong thời gian dài: Tính toan thành khó giữ nào Bởi chưng quân ít không sao chống kình Lía ngầm muốn tính bỏ thành Ngặt vì binh tướng trào đình phủ vây Lía đã dùng ngón võ tuyệt vời để thoát thân: Cơn nguy chuyển hết sức thần Dùng miếng "cá lóc" giậm chân nhảy liền Quân trào vây kín khắp miền Lía vọt ra khỏi rất nên kỳ tài Trên đây là những câu trích trong vè Chú Lía cho thấy võ học Bình Định ở thời kỳ này đã thịnh hành và đóng vai trò then chốt trong chiến đấu. Chàng Lía là một Robin Hood của Bình Định. Triều đình đã dẹp yên đảng cướp ở Truông Mây, nhưng tình cảm của dân chúng đối với chú Lía mãi mãi đi vào văn học: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 7, 2012 4:32:13 GMT 9
VÕ HỌC BÌNH ÐỊNH ( tiep theo) Ðào Ðức Chương
THỜI KỲ CỰC THỊNH (1771-1802) Từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa ở Gò Tô đất Tây sơn đến năm Nhâm Tuất (1802), vua Quang Toản bị bắt ở huyện Phượng nhãn tỉnh Bắc ninh, nền võ học Bình Định mở ra một kỷ nguyên mới. Ðó là võ Tây Sơn. Tam kiệt Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc (?-1793) anh cả, Nguyễn Huệ (1753-1792) anh thứ, và Nguyễn Lữ (?-1788) em trai út, người làng Kiên mỹ đất Tây sơn, sau này là thôn Kiên mỹ, xã Bình thành, huyện Bình khê (nay đổi huyện Tây sơn). Họ Nguyễn Tây Sơn nguyên là họ Hồ, dòng dõi Hồ Qúy Ly. Ông tổ bốn đời là Hồ Phi Khanh ở huyện Hưng nguyên tỉnh Nghệ an. Năm Ất Tỵ (1655), Trịnh Nguyễn giao tranh lần thứ năm, quân Nguyễn tấn công Nghệ an. Hồ Phi Khanh cùng một số dân chúng bị quân Nguyễn bắt đem vào phủ Qui ninh huyện Tuy viễn để khai hoang. Ông đến ở làng Bằng châu (nay thuộc xã Ðập Ðá huyện An nhơn) được họ Ðinh đỡ đầu, gây dựng. Ðời con là Hồ Lang, dời về làng Phú lạc xã Bình thành. Ðời cháu là Hồ Phi Phúc, dời qua làng kế cận là Kiên mỹ. Nơi đây, ba anh em Tây Sơn ra đời, trước theo họ cha, sau đổi ra họ mẹ là họ Nguyễn. Lúc nhỏ, anh em Tây Sơn được học chữ Hán với thầy giáo Hiến, một bậc tài danh bất mãn vì chế độ thối nát, nạn Trương Phúc Loan chuyên quyền, tham tàn. Sau đó, anh em Tây sơn học võ với võ sư Ðinh Văn. Nhưng thường gọi là ông Chảng, người làng Bằng châu. Thầy võ là người bộc trực, gan dạ và ngang ngạnh nhất vùng, chẳng hề kiêng nể bọn cầm quyền. Ông tự phong "Chảng chảng ngang thiên". Câu ví von của người đương thời "Ngang quá ông Chảng" nay đã trở thành tục ngữ. Ba anh em được thầy yêu qúy, dạy cho nhiều thế võ bí truyền. Thấy được sự lợi hại của võ Bình Định, tam kiệt Tây Sơn đã đem võ thuật vào chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa và phát huy võ học Bình Định đến mức cực thịnh. Trong binh đội Tây Sơn, mỗi chiến sĩ là một võ sĩ. Sự huấn luyện quân đội, cơ bản là tập võ nghệ. Người lính phải biết sử dụng tất cả, hoặc một số các binh khí truyền thống sau đây: 1.- Quyền: lối đánh võ bằng tay chân, còn gọi là thảo bộ. Quyền gồm nhiều thảo bộ, chẳng hạn như : thảo bộ Phượng Hoàng, Tứ Hải, Thiền Sư, Ngọc Trản, Thần Ðồng, Lão Mai, Ðộc Thọ... Hễ quyền giỏi thì roi cũng giỏi. Vì vậy quyền là môn võ tối cần. Quân Tây Sơn đã dùng chiến pháp sở trường này trong khi xung phong giáp lá cà, thanh toán chiến trường. 2.- Roi: lối đánh võ bằng gậy, còn gọi là côn. Roi không nên lớn quá hoặc nhỏ quá, phải vừa cỡ tay nắm người sử dụng thì đường roi mới mạnh và nhanh. Có hai loại: roi trường và roi đoản. Roi trường là roi trận, dài khoảng 2,50 mét, đầu lớn là đốc roi, đầu nhỏ là ngọn roi. Người sử dụng roi trường ngồi trên ngựa và chỉ đánh một đầu. Roi đoản là roi đấu, dài "tề mi" tức là ngang lông mày người sử dụng (chừng 1,60 mét). Roi đấu cầm ở giữa thân roi nên có thể đánh cả hai đầu. Chẳng hạn đầu roi bổ xuống như trời giáng khiến đối thủ lo chống đỡ , nhưng đó chỉ là cú đánh hư. Trong lúc ấy, nhanh như chớp đốc roi thúc mạnh vào hạ thế đối thủ, đó mới là cú đánh thực. Ngày xưa, các võ sĩ thường vắt vai một khăn lông to và dài, gặp khi bất trắc, có thể dùng khăn thế roi, gọi là roi nhuyễn tiên, không phải là để đánh mà để "vung roi" che mắt đối thủ rồi xông vào hất tung binh khí. 3.- Song sĩ: hai cây gỗ cứng kẹp dọc cẳng tay, ló ra ở hai đầu. Khi đấm hay thúc cùi chỏ thì đầu nào của song sĩ cũng có thể ấn sâu vào cơ thể của đối thủ. 4.- Ðao: để chém và đâm. Nếu đao có lưỡi bè ra rất lớn thì gọi là đại đao. 5.- Kiếm: gồm độc kiếm và song kiếm, lưỡi dài nhưng không quá 1 mét. 6.- Siêu: giống như đao, nhưng cán dài. Thế võ kết hợp giữa kiếm và roi. 7.- Thương, giáo, mác, lao đều có cán dài, dùng để đâm, đánh và phóng. 8.- Xà mâu, đinh ba, bừa cào đều có cán dài nhưng đầu có nhiều nhánh, đường võ chậm chạp, ít thông dụng. 9.- Lăng, khiên: tròn dẹp, có tay nắm ở tâm điểm; dùng để che đỡ khi lâm trận. 10.- song chùy: hình cầu bầu dục, xẻ răng cưa như cạnh khế, có cán nắm, dùng để đánh, cũng ít sử dụng. 11.- Dây xích bằng sắt dùng để quất, lợi thế như một cây roi. 12.- Cung, ná, nỏ dùng để bắn tên khi đối thủ còn ở xa. Một đặc điểm của võ Tây Sơn là mỗi thế võ đều có bài thiệu đi kèm, tức là phần lý thuyết được diễn thành thơ có vần, có điệu cho dễ đọc, dễ nhớ. Người học võ, phải thuộc lòng bài thiệu, đọc đến đâu múa đến đó, lý thuyết ăn khớp với thực hành. Lối học võ này rất tiện cho việc luyện tập nhiều người cùng một lúc, được áp dụng trong trường huấn luyện quân đội của Tây Sơn. Thời ấy còn sáng chế ra điệu trống trận Tây Sơn. Người đánh, cùng một lúc sử dụng nhiều trống, tối đa 12 cái, và phải dùng thế võ côn quyền mới đánh được. Ðánh bằng dùi cả hai đầu, gọi là roi trống, vừa đánh cả hai bàn tay, cổ tay, cùi chỏ, vai... làm cho tiếng trống phát ra những âm thanh khác nhau, nghe rất hùng tráng. Lúc ra trận, dùng hai trống lớn, đánh theo võ nhạc trận, âm thanh vang xa, dồn dập, khích động. Chiến thuật của Tây Sơn là áp đảo đối phương từ tầm xa đến tầm gần. Xa thì có đại bác đặt trên mình voi. Khi cách mục tiêu chừng 100 mét thì dùng súng trường. Gần thì đến lượt cung nỏ, rồi hỏa hổ. Cuối cùng là xung phong cận chiến, dùng các thế võ để giải quyết chiến trường theo nguyên tắc "nhất nhân địch quần nhân". Như vậy, đội quân Tây Sơn không cần đông mà cốt ở tinh và dũng cảm. Binh đội gọn nhẹ, di chuyển nhanh chóng, thích hợp với lối tác chiến thần tốc. Ðánh nhanh đánh mạnh, hư thực không rõ, bất ngờ thọc sâu vào kẽ hở của địch quân. Chiếm mục tiêu thì dùng tượng binh làm lá chắn, vừa là pháo đài di động cho bộ binh tiến lên. Ðó là kỹ thuật tác chiến của Tây Sơn, ảnh hưởng bởi bản chất con nhà võ. Tương truyền các tướng Tây Sơn đều là những tay võ xuất chúng. Nguyễn Huệ sở trường về roi. Nguyễn Lữ xuất sắc về côn quyền, đã sáng chế ra Hùng Kê quyền, lấy từ các thế võ của gà đá. Võ Văn Dũng rất giỏi về đao, người đời có câu truyền tụng Phá sơn trung tặc, dị Thắng Văn Dũng đao, nan (Phá được giặc trong núi thì dễ, thắng được ngọn đao của Văn Dũng thì khó) Ðặng Văn Long (có sách chép là Mưu) lại quán thông cả cương quyền (ngạnh công) lẫn miên quyền (nhuyễn công) với đôi tay mạnh và cứng như sắt nên người đời thường gọi là Ðặng thiết tí. Bùi Thị Xuân thì không ai bì kịp về môn kiếm. Tóm lại, võ Tây sơn là võ truyền thống của Bình Định đã được tập hợp và tinh luyện để đưa vào quốc phòng. Võ trở thành chiến lược độc đáo của Tây Sơn, thời huy hoàng nhất của võ học Bình Định. THỜI KỲ ẨN MÌNH (1802-1867) Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh dẹp nhà Tây Sơn và lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Gia Long. Không những nhà vua trả thù dã man đối với Tây Sơn mà còn có cả một kế sách lâu dài, nhằm tận diệt tất cả những gì có liên quan đến Tây Sơn. Vì vậy võ Tây Sơn không còn được lưu hành nữa. Các nhà võ rút lui vào bóng tối, chỉ âm thầm truyền dạy cho con cháu. Các bài thiệu cũng phải dấu trong trí nhớ và chỉ truyền miệng trong phạm vi gia đình. Ðiệu trống Tây Sơn im bặt trong những ngày lễ hội đông người. Thời kỳ này kéo dài suốt các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và đầu đời Tự Ðức. Vì thế nền võ học Tây Sơn đã bị thời gian làm mai một rất nhiều. THỜI KỲ TRUNG HƯNG (1867-1924) Từ khi vua Tự Ðức lên ngôi (1847), quân Pháp luôn luôn tìm cách gây hấn với nước ta để có cớ xâm chiếm. Năm 1858, liên quân Pháp và Tây ban nha đánh chiếm bán đảo Sơn trà, Ðà nẵng. Năm 1859, thành Gia định thất thủ. Năm 1861, mất Ðịnh tường (Mỹ tho), đảo Côn lôn và Biên hòa. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam kỳ là Vĩnh long, An giang, Hà tiên. Trước tình thế khẩn trương, cần tăng cường quân đội để bảo vệ những phần đất còn lại. Ðối với Tự Ðức, đề phòng Tây Sơn không còn là việc thiết thực nhưng họa xâm lăng của Pháp thì sờ sờ trước mắt. Vì thế năm 1867, nhà vua cho thành lập trung tâm tuyển chọn võ quan ngay trên miền đất võ. Ðó là trường thi Hương võ Bình Định tại thôn An thành, tổng Thời đôn, huyện Tuy viễn phủ An nhơn, nay là thôn An thành xã Nhơn lộc huyện An nhơn và chỉ cách trường thi Hương Văn (tại Hòa nghi, xã Nhơn hòa) vài cây số xuyên qua các thôn Trường cửu, Quang châu dọc theo hữu ngạn nam phái sông Côn. Vốn sẵn truyền thống yêu thích võ nghệ, nay được nhà vua mở trường thi, tuyển chọn nhân tài, các mạch võ ẩn tàng hơn sáu mươi lăm năm qua, giờ đây bùng lên trổ hoa kết trái. Các lò võ ở Bình Định mọc lên như nấm. Những đêm trăng, trong sân nhà hay trên dãy gò hoang vắng, tốp năm tốp ba, võ sinh miệt mài tập luyện. Rồi kinh đô thất thủ (1885), vua Hàm Nghi bôn đào và xuống chiếu Cần vương. Võ Bình Định đã góp phần vào việc chống Pháp. Lãnh tụ phong trào Cần vương ở Bình Định, anh hùng Mai Xuân Thưởng, là một người văn võ song toàn. Trong bài Ðiếu Mai Nguyên Súy (soái) tức Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ đương thời, đã hết lòng khâm phục: Ðan tâm chỉ vị cứu lương dân Hoành sóc ngâm thi hữu kỹ nhân Nhất phó hung khâm hoành vũ trụ Tam niên cầm kiếm định phong trần... Tống Phước Hổ dịch: Lòng son chỉ muốn cứu lương dân Vung giáo, ngâm thi mấy kẻ bằng Một tấm lòng trung trùm vũ trụ Ba năm đàn kiếm sạch phong trần Dưới cờ khởi nghĩa của Mai nguyên soái, ở Bình khê có một dòng võ mà cả ba thế hệ gồm hàng trăm võ sĩ, võ sinh đã theo thầy đứng trong hàng ngũ nghĩa quân. Ðó là lò võ Lê Thượng Nghĩa, sư tổ của Hồ Tá Quốc. Hồ Tá Quốc đã ca tụng tay kiếm lợi hại của thầy trong việc cứu nước, qua bài tặng Lê công Thượng Nghĩa: Lão sư thân thủ nhược du long Lẫm liệt tu mi khí lực hùng Tích nhật Cần vương đồng tá quốc Tây trù trảm tận hiển hùng phong Ðào Văn dịch: Nhớ thầy dáng tựa rồng bay Ðường gươm nhát kiếm râu mày xứng danh Theo vua vì nước quên mình Dẹp tan lũ giặc đinh ninh lời nguyền Trong bài Trường Úc sơn quan đại chiến hậu, hựu đại thắng ư Cẩm Văn thôn hữu cảm (cảm xúc sau khi đánh lớn trên ải Trường úc, lại thắng lớn ở thôn Cẩm văn), sư tổ Lê Thượng Nghĩa cũng đã nói rõ, thắng lớn là nhờ áp dụng võ thuật vào chiến thuật: Binh nhung hào kiệt vũ Ngô câu Xung đột trùng vây trảm tặc đầu Trường úc, Cẩm văn tề báo tiệp Nghĩa binh thanh giá chấn toàn châu Việt Thao dịch: Diệt thù, hào kiệt múa gươm thiêng Xông phá vòng vây chém giặc liền Trường úc, Cẩm văn đều thắng lớn Nghĩa quân lừng lẫy khắp trong miền Tướng Ðặng Ðề, cũng người quận Bình khê (tức huyện Tây sơn), một tay võ nghệ nổi tiếng, đã chỉ huy mặt trận Thủ thiện, cho quân xung phong cận chiến, có trống trận yểm trợ tinh thần y như đạo quân Tây Sơn ngày trước, ông viết: Thủ thiện thôn trung bề cổ động Nghĩa binh phấn dũng vũ đao thương... Việt Thao dịch: Thủ thiện, trong thôn trống trận rền Nghĩa quân dũng cảm giáo vung lên Năm 1908, làng võ Bình Định lại một lần nữa góp phần chống Pháp trong phong trào Kháng thuế tại tỉnh nhà. Các võ sĩ ở An Vinh và An thái tham gia rất đông. Họ lãnh trách nhiệm trừng trị bọn tay sai của Pháp và những tên thổ hào dựa vào giặc để nhiễu hại dân lành. Căn cứ vào các châu bản triều Duy Tân trong quyển Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung năm 1908 của Nguyễn Thế Anh (xuất bản tại Sài gòn năm 1973) thì ở huyện Bình khê có Hà Khuê, Hồ Cường, Lê Lý, Lê Hữu, Lê Thức, Võ Nghiệp... đã lùng kiếm các viên chức đắc lực của chính phủ Bảo hộ để trừng trị, tiêu biểu có tên Vinh và Giao bị nịch sát. Ở vùng An Vinh (Bình Khê) và An thái (huyện Tuy viễn) có Nguyễn văn Khải lý trưởng An Vinh, đã chỉ huy toán bắt cóc bọn tay sai cho giặc, tiêu biểu có tên Uẩn đền tội, xác thả trôi sông. Ở huyện Phù cát có Nguyễn Hoành đã tổ chức ám sát hai tên gian ác là Bá và Tường do phủ phái tới. Ở huyện Bồng sơn có Ðỗ Dương, Nguyễn Ðiềm, Phạm Quế, Phan Thuần đem thủ hạ khoảng 50 người cầm đao côn đến huyện đường kháng cự với lực lượng đàn áp. Ngoài ra, toán võ sĩ còn thi hành bản án tử hình đối với thường dân đã tham tiền làm do thám hay chỉ điểm cho giặc, như trường hợp nịch sát tên thợ Cẩn để làm gương. Khoảng năm 1920, cả hai tỉnh Bình Định và Phú yên mất ăn mất ngủ vì nạn cướp Dư Ðành. Võ sĩ các phủ, huyện Bình khê, An nhơn, Tuy Phước, Phù cát được quan tỉnh điều động vào việc bắt cướp. Dư Ðành người làng Kiên ngãi, xã Bình thành huyện Bình khê, giỏi võ nghệ và có sức mạnh phi thường. Hắn có thể kẹp nách một con bò nghé, nhẹ nhàng như bồng một đứa bé. Người đương thời ví Dư Ðành "sức đương Hạng Võ, mạnh kình Trương Phi". Dư Ðành cầm đầu một toán cướp 11 tên. Hựu (quân sư), Phỉ, Cao, Ðen... toàn là những tên cướp tên tuổi. Chỉ có tay roi Hồ Ngạnh ở Thuận truyền là Dư Ðành né tránh, còn Bảy Lụt cũng là một tay quyền nổi tiếng ở An Vinh, bị Dư Ðành và đồng bọn phục kích đánh bất tỉnh để cảnh cáo làng võ đang tìm bắt chúng: Dư Ðành sức mạnh quá trâu Vùng lên đánh ngã cả xâu triều đình (Ca dao) Triều đình khiển trách quan tỉnh, tỉnh nạt xuống huyện. Quan huyện đổ cáu trút lên đầu làng xã. Khổ cho đám dân đinh phải canh phòng nghiêm nhặt suốt ngày đêm, lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn không tìm ra tung tích bọn cướp. Tình cờ, Dư Ðành bị bắt ở vùng Dương an, huyện Tuy Phước, lúc đang ngủ say dưới lòng tảng đá hàm ếch, thuộc núi Phước An. Người ta phải lập thế dùng ba khúc danh mộc "Kiềng kiềng ba khúc cán ngay yết hầu" (vè Dư Ðành) và có súng bắn thị uy, Dư Ðành mới chịu bó tay. Xét cho cùng, thời kỳ trung hưng đã trải dài trên nửa thế kỷ, nhưng làng võ Bình Định không thể có lại cảnh huy hoàng rực rỡ như thời Tây Sơn. Tuy vậy võ học Bình Định thời kỳ này cũng đã phục hưng được ý hướng tốt đẹp là dạy võ, học võ để ứng thí, cứu nước và giúp đời. THỜI KỲ NGOẠI NHẬP (1924-1945) Từ xưa Bình Định đã có câu truyền tụng: "Roi Thuận truyền, quyền An Vinh", và "Trai An thái, gái An Vinh" là những địa danh thuộc tỉnh, đã phát tích những dòng võ nổi tiếng và nối nghiệp cho đến bây giờ. Thôn Thuận truyền thuộc xã Bình thuận, quận Bình khê. Thôn An Vinh thuộc xã Bình an, cùng huyện. Còn An thái xưa là một thị tứ, nằm trong thôn Mỹ thạnh, xã Nhơn phúc, huyện An nhơn."Roi Thuận truyền" trước xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng đến đời ông Ba Ðề thì truyền cho Hồ Ngạnh. Hồ Nhu là tên thật của Hồ Ngạnh, sinh năm 1891, mất năm 1976, thọ 85 tuổi. Ông nguyên quán thôn Háo ngãi, xã Bình an, huyện Bình khê, trú quán ở Thuận truyền, xã Bình thuận cùng huyện. Cha là ông Ðốc Năm, một võ quan của triều Nguyễn. Mẹ cũng là con nhà võ. Ngay từ lúc bé, ông đã được cha mẹ dạy võ gia truyền. Lớn lên, ông học roi của cao sư Ba Ðề, học nội công của ông Ðội Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm. Ðường roi kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô cùng. Từ roi thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo. Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông đã vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nghe danh, học trò đến thọ giáo rất đông. Con trai chết sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, nay là võ sĩ Hồ Sừng. Học trò lớp lớn có ông Mười Mỹ (sinh năm 1912) ở Trường úc xã Phước nghĩa huyện Tuy Phước được riêng dạy ngón độc chiêu bí truyền. Học trò lớp sau có Ðinh văn Tuấn ở Qui Nhơn, đang độ sung sức, nối nghiệp làm vẻ vang cho lò võ Thuận truyền. "Quyền An Vinh" có từ lâu, nhưng cũng chỉ biết từ đời ông Hương mục Ngạc. Lò võ này còn có ông Năm Nghĩa, cũng là bạn đồng môn đồng khóa, nhưng sau lại chuyên về roi. Hương mục Ngạc học quyền Bình Định rồi học thêm quyền Tàu của ông Khách Bút. Sở dĩ ông nổi tiếng là nhờ tổng hợp được nhiều nguồn võ khác nhau, tạo nên tay quyền xuất sắc nhất trong làng võ Bình Định đương thời. Ông có ba người con là Bảy Lụt, Tám Cảng (nữ) và Chín Giác đều tinh thông võ nghệ. Ông dạy nhiều học trò, có người nổi tiếng như Hai Tửu. Bảy Lụt chẳng những xuất sắc về võ thuật mà còn gan dạ và có sức mạnh đáng kể, với tay không có thể vật ngã một con trâu đực đang sung sức. Bảy Lụt truyền nghề cho Phan Thọ. Sau này Phan Thọ còn học thêm võ trận Tây Sơn với ông Sáu Hà nên đã tiếp thu được cả tinh hoa quyền An Vinh từ mạch võ Hương mục Ngạc lẫn võ chiến của Tây Sơn. Hiện nay lò võ Phan Thọ ở thôn Thủ thiện huyện Bình khê vẫn đông học trò dù ông nay đã vào tuổi thất tuần. An thái cũng có những dòng võ nổi tiếng mà câu ca dao nói đến Hội Ðổ Giàn tại chùa Bà ở vùng này đã đề cập: Tiếng đồn An thái, Bình khê Nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo Nhưng đến năm 1924, một biến cố xảy đến cho làng võ Bình Định nói chung và dòng võ truyền thống của làng An thái nói riêng. Ðó là sự xuất hiện của môn phái quyền Tàu. Người sáng lập ra môn phái này là ông Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An thái. Tuy là người Tàu nhưng dòng dõi ba đời đều ở An thái, bà nội và mẹ ông đều là người Việt. Ở quê mẹ, gia đình và bản thân Tàu Sáu đã hấp thụ tinh thần thượng võ nên khi được 13 tuổi, ông được gửi về Tàu để học võ từ những cao sư Bắc phái Thiếu lâm. Sau 15 năm ròng rã tầm sư học võ, ông Tàu Sáu lúc bấy giờ đã 28 tuổi, trở lại An thái, mở trường dạy quyền Tàu, sở trường hai môn Hổ quyền và Long quyền. Ông dạy võ gần 50 năm, môn đệ rất đông, không bao lâu phái quyền Tàu Thiếu lâm của ông đã rải khắp miền đất võ và riêng ở An thái, võ quyền truyền thống đã bị quyền Tàu lấn át làm lu mờ. Có người vì thế sửa lại câu truyền tụng từ xưa ra "roi Thuận truyền, quyền An thái". Dân Bình Định đến với lò võ Tàu Sáu, có người vì xuất thân chuyên về quyền Tàu như Ðào Hoành, Hải Sơn; có người chỉ để bổ túc cho tay roi võ truyền thống được cứng cáp thêm như Mười Mỹ. Trong thời kỳ này, ngoài võ Thiếu lâm của Tàu Sáu còn có võ Thái cực đạo, võ quyền Anh cũng xâm nhập làng võ Bình Định và được người Pháp nâng đỡ để giảm bớt ảnh hưởng của võ truyền thống. Chính phủ Bảo hộ thường tổ chức những cuộc đấu võ đài đến chết mới thôi. Cảnh tượng ghê rợn, trên đài có một cỗ quan tài để sẵn. Các lò võ cố luyện cho gà nhà những cú đánh tàn bạo, độc hiểm để thủ thắng càng nhanh càng tốt, vì thế gây nên sự thù hằn, hiềm khích giữa các lò võ. Ðó chính là mục đích "chia để trị" của thực dân. Tuy nhiên vẫn có những nhà võ ý thức được điều đó. Họ khước từ những cuộc thách thức tranh tài, chỉ đóng cửa truyền võ để khỏi mất dòng và để tự vệ. THỜI KỲ TRẦM LẮNG (1945 đến nay) Cuộc chiến kéo dài 30 năm với vũ khí tối tân; côn, quyền, gươm, giáo không còn tính cách quyết định cho cuộc chiến nữa. Số người học võ để đi thi đã chấm dứt từ lâu. Học võ để phòng cướp hay làm mưa làm gió như Dư Ðành cũng không còn. Hội Ðổ giàn, tục Tranh Heo đã mai một từ khi khói lửa lan tràn. Số người học võ tuy dần dần giảm bớt nhưng tinh thần thượng võ đã trở lại với ý nghĩa chân chính. Trong ý nghĩa tìm về cội nguồn, tưởng nhớ đến người sáng lập võ Tây Sơn, năm 1960, nhân dân toàn quận Bình khê đã chung sức lập xong đền thờ Tam Kiệt Tây Sơn tại nền đình cũ đã bị phá hủy thời Việt Minh. Nguyên khuôn viên ấy là vườn nhà của gia đình ba anh em Tây Sơn. Vua Thái Ðức (Nguyễn Nhạc) lên ngôi, cho xây dựng thành một nhà từ đường khang trang. Khi Gia Long diệt Tây Sơn, ra lệnh san phẳng ngôi nhà. Sau dân làng lập ngôi đình làng Kiên mỹ tại đó và bí mật thờ Tam Kiệt Tây Sơn. Ðền thờ Tây Sơn có ba gian. Gian giữa thờ Quang Trung Hoàng đế. Hai gian bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh vương Nguyễn Lữ. Trước sân đền đặt tượng bán thân của vua Quang Trung và dựng bia ca tụng Ngài. Cũng từ năm 1960, hằng năm cứ vào ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, tỉnh Bình Định lại tổ chức trọng thể lễ Ðống đa. Trong ngày lễ hội có biểu diễn võ trận và trống trận Tây Sơn. Người xem hội từ các nơi đổ về đông nghẹt đường. Năm 1972, hội Võ thuật Bình Định được thành lập, thành phần sáng lập viên gồm có: các võ sư Hà Trọng Sơn, Huỳnh Liễu, Lý Xuân Tạo, Nguyễn Nghè, Nguyễn Thông, Nguyễn văn Thành, Thanh Hoàng, Thành Nở, Xuân Sơn Quảng và ba huấn luyện viên là Lý Thành Nhân, Nguyễn Thành Công, Xuân Trường Tịnh. Thanh Hoàng có tên thật là Nguyễn Bính, sinh năm 1935, người thôn An phú xã Phước lộc, huyện Tuy Phước được bầu làm Tổng thư ký. Tôn chỉ của hội là bảo tồn và phát triển võ Bình Định. Hoan nghênh các phái võ khác hội nhập vào làng võ Bình Định làm phong phú thêm cho nền võ học tỉnh nhà; nhưng cương quyết ngăn chặn các môn võ ngoại lai đang muốn đồng hóa võ truyền thống. Một điều quan trọng là từ năm 1972 hội võ thuật Bình Định được thành lập với đầy đủ các môn võ của Bình Định. Trước đó chỉ có Phân cuộc Quyền thuật Bình Định được thành lập mà thôi và trực thuộc vào Tổng cục Quyền thuật Sài gòn. Lại nữa, võ Bình Định cũng được phổ biến rộng rãi qua các võ đường ở Sài gòn và các tỉnh, như võ đường Sa Long Cương ở Sài gòn do sư trưởng Trương Thanh Ðăng người Bình Định tổ chức, dạy cả võ Bình Định lẫn võ Thiếu lâm. Thời kỳ này có những nhà sư nổi tiếng về võ Bình Định như Thượng tọa Bửu Thắng, tuổi ngoài 80, trụ trì chùa Quang Hoa huyện Tuy Phước, là tay roi chiến thượng thặng; sư Hạnh Hòa, khoảng ngũ tuần, trụ trì chùa Long phước, huyện Tuy Phước, một tay võ danh tiếng; sư chú Vạn Thanh, 30 tuổi, cũng ở chùa Long Phước, tay roi tay đao đang thời kỳ sung sức. Vào đầu thập niên 1970, một ngôi sao lóe sáng trên vòm trời võ học Bình Định: nữ võ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Chưa ai thấy cô thắng trên võ đài hay từng tranh tài cao thấp với ai, người ta chỉ thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung dịp lễ Ðống Ða biểu diễn các bài quyền như Lão Mai Ðộc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du là đã đủ khiếp. Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà võ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một dòng võ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh. Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai trò đứng đầu hàng võ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà võ. Học võ thì phải học luôn cả thuốc võ để tự chữa trị những chấn thương do đánh võ gây nên. Tuy nhiên trong trường hợp thương tích quá nặng thì phải tìm đến các thầy thuốc võ chuyên môn. Họ cũng trong đội ngũ làng võ Bình Định, vì phải xuất thân từ những lò võ danh tiếng mới học được các bài thuốc bí truyền. Một số danh sư về thuốc võ như : võ sư Hồ Ngạnh, Hoà thượng Huyền Ân trụ trì chùa Bích Liên huyện An nhơn, Lê Văn Chương ở thị trấn Bình Định, Minh Tân Phạm Hà Hải ở Qui Nhơn... tiếc rằng Hồ Ngạnh và sư Bích Liên đã qua đời, nhưng trong làng thuốc võ Bình Định còn biết bao danh sư khác nối tiếp được chân truyền. Ngày nay, lớp người trên dưới 60 tuổi đang giữ vai trò nòng cốt cho làng võ Bình Định, tuy không nhiều nhưng rải khắp nơi trong tỉnh. Ở Qui Nhơn có Ðinh văn Tuấn, tác giả cuốn Võ thuật Cổ truyền Bình Định; Kim Ðình gốc người Hoài nhơn; Nguyễn Lê Thanh. Ở Bình khê có Hồ Sừng (cháu nội Hồ Ngạnh), Phạm Thi, Phi Long. Huyện Tuy Phước có Thanh Hoàng (cựu Tổng thư ký hội Võ thuật Bình Định) ở Cầu Gành, Hồng Khanh, Minh Tinh (con võ sư Xã Hào) ở Trường úc, Ðào Văn Thanh ở Phước thuận và Trần Can ở ngả ba Diêu Trì, cả hai đều thuộc mạch võ của Hà Trọng Sơn; nhà chùa thì có các sư Hạnh Hòa, Vạn Thanh ở chùa Long phước, huyện An nhơn có Lý Thành Nhân (con võ sư Lý Xuân Tạo) ở Ðập Ðá, Vũ Lê Cang. Huyện Phù cát có võ sư Trần Diễn. Và các huyện phía bắc là Phù mỹ có Kim Hòa, ở Hoài nhơn có Nguyễn văn Chức, Nguyễn Thành Tín... Mạch võ Bình Định như một dòng sông, lúc uốn khúc, lúc bằng phẳng, khi vơi khi đầy, nhưng với khí thế của đất trời "ba dòng sông chảy, ba dãy non cao, biển đông sóng vỗ dạt dào, tháp kia làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh", dòng chảy ấy không bao giờ dứt. Ðào Ðức Chương Giai phẩm Xuân TÂY SƠN Mậu Dần 1998
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 29, 2012 5:54:38 GMT 9
Ra thăm Côn Đảo và suy ngẫm về cuốn Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng
VĨNH SÍNH Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn ! Phan Châu Trinh Ðất nước chơi vơi nòi giống khổ Thân trai nào sá chuyện Côn Lôn ! V.S. dịch Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng đã gom góp những bài thơ và chuyện của anh em bạn tù chính trị phạm và cùng tội trong 13 năm (1908-1921) bị đày ở Côn Đảo để viết nên cuốn Thi tù tùng thoại 詩囚叢話. Có thể gọi nôm na tên cuốn sách là Những bài thơ và những chuyện trong nhà tù Côn Đảo. Chính thiên tù sử này là lý do chúng tôi ra viếng thăm Côn Ðảo vào cuối tháng bảy năm 2002. Mấy ngày trước khi ra lên đường, chúng tôi đã nghiền ngẫm từng bài thơ cùng những lời giải thích súc tích của Mính Viên. Sau khi ra đảo viếng thăm tận mắt những nhà giam, nơi tù nhân đập đá ngày trước, v.v. rồi chiều tối về ngồi đọc lại từng chương, chúng tôi mới thấm thía ý nghĩa của cuốn sách. Thi tù tùng thoại quả là một tư liệu văn học và lịch sử hiếm có ! Thi tù tùng thoại đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng biên soạn bằng Hán văn và do chính tay tác giả dịch ra chữ quốc ngữ — một hiện tượng quá ư độc đáo. Nguyên tác Thi tù tùng thoại đã bị tịch thu và thiêu hủy khi cụ Huỳnh được trả tự do về lại đất liền năm 1921. Sau đó, trong thời kỳ làm báo Tiếng Dân ở Huế, cụ đã dựa theo ký ức viết lại cũng bằng chữ Hán, rồi tự mình dịch ra quốc ngữ. Theo cụ, bản dịch sang tiếng Việt “ tinh thần ý tứ không bằng nguyên văn, nhứt là về thi văn thì dịch mười phần không được năm, sáu; song không mất bản ý ”.1 Trước hết, chúng tôi xin trình bày về chuyến đi. * Chúng tôi ra thăm Côn Ðảo trong một chuyến đi hai đêm ba ngày do công ty Saigon Tourist tổ chức. Vào mùa đó vì sóng biển hãy còn lớn nên đường giao thông ra đảo bằng tàu thủy phải tạm ngưng. Phương tiện duy nhất là đi bằng máy bay trực thăng từ Vũng Tàu, mỗi tuần có một chuyến và mỗi chuyến chỉ đủ chỗ vỏn vẹn cho 25 người. Bởi vậy, du khách phải đặt mua vé trước cả tháng mới mong kiếm ra chỗ. Chuyến đi do Saigon Tourist phụ trách chính thức khởi hành từ sân bay Vũng Tàu và cũng chấm dứt tại đó. Hành khách tự lo phương tiện chuyên chở đến Vũng Tàu và tụ họp ở sân bay vào 7 giờ rưỡi sáng. Ðể kịp máy bay, hôm khởi hành, từ Sàigòn chúng tôi lấy chuyến tàu cao tốc cánh ngầm đi Vũng Tàu sớm nhất lúc 6 giờ 15. Sau khi tàu cập bến, tất tả tìm xe ôm, đến sân bay thì hành khách đã bắt đầu làm thủ tục kiểm tra và chúng tôi là người khách lên máy bay cuối cùng. Ngồi vào chỗ và thắt dây an toàn xong xuôi tôi mới thấy hú vía : suýt chút nữa thì tôi đã trễ giờ, bỏ mất chuyến đi mà chúng tôi hằng mong đợi bấy lâu nay ! Ðúng 8 giờ, máy bay cất cánh. Quạt máy bay đánh bình bịch. Vài khách yếu bóng vía đưa mắt nhìn nhau như có vẻ lo ngại. “ Ối giời ! Phi công ta lái ngon lắm ! ”, người khách trung niên ngồi ở hàng ghế trước nói như để trấn an những hành khách mới đi máy bay trực thăng lần đầu, trong đó có chúng tôi. Mà quả đúng như thế, người phi công đã lái rất đằm và vững vàng trong suốt chuyến bay, ngay cả khi lên xuống. Từ máy bay nhìn xuống đất liền trông rất rõ. Những cánh đồng xanh mướt, những dòng sông con nước — chi nhánh của sông Tiền và của quê miền Ðông đất đỏ — hiện ra mồn một. Lẫn trong tiếng quạt bình bịch liên hồi, từ dưới đất liền dường như đang vọng lên những lời ca rạo rực mà từ lâu đã lắng sâu trong ký ức của chúng tôi : Cây lúa non chờ từng cơn mưa nhỏ Cây lúa trổ chờ nước đổ trên nguồn ... Con nước trong về miền Ðông con nước đỏ Sông nước đỏ dào dạt vỗ quanh bờ... Trần Long Ẩn, “ Tình đất đỏ miền Đông ” Một giây phút trộn lẫn hư và thực, giữa quá khứ với hiện tại — một thoáng tình quê “ miền Ðông đất đỏ ” đậm đà ! * Chiếc trực thăng bay trên đất liền từ Vũng Tàu cho đến Trà Vinh, sau đó mới quay ra biển theo hướng Ðông-Nam. Khoảng 9 giờ 15, máy bay đáp xuống sân bay Cỏ Ống trên Côn Ðảo. Từ sân bay về đến khách sạn Saigon Tourist (khách sạn độc nhất trên đảo lúc bấy giờ) khoảng chừng 12 cây số. Chiếc xe ra đón đưa chúng tôi đi qua những con đường đất đỏ ven biển xanh. Côn Ðảo, nói chính xác, là một quần đảo gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ có tổng diện tích là 76 km vuông, đảo lớn nhất ngày xưa gọi là Côn Lôn nhưng ngày nay cũng mang tên là Côn Ðảo. Từ năm 1991, quần đảo được gọi chung là huyện Côn Ðảo, thuộc tỉnh Bà Rịa — Vũng Tàu. Dân số trên đảo hiện nay có khoảng 3.200 người. Khách sạn ở vào khoảng giữa bờ biển vịnh Ðông Nam (tức vịnh Côn Ðảo). Bãi tắm nằm ngay bên kia đường trước khách sạn cát mịn và không có đá ngầm. Về đêm thủy triều xuống rất nhanh, nước rút cạn khỏi bờ đến mấy trăm mét, để lại đây đó trên bãi cát còn ủng nước những con cá, con mực không kịp bơi theo nước thủy triều. Cầu lịch sử 914 Ðứng từ bờ biển ban đêm nhìn cảnh trăng lên, hay nhìn cảnh mặt trời ló dạng trên biển ở chân trời vào lúc tảng sáng phải nói là đẹp tuyệt vời. Một vùng trời nước mênh mông, không hổ danh là quần đảo tiền tiêu ở Ðông Nam của đất nước, “ nguy nga đứng trấn giữa biển Ðông ” (Ðại Nam nhất thống chí).2 Thật khó tưởng tượng là ngay bên cạnh bãi tắm thanh bình ấy là chiếc “ Cầu tàu lịch sử 914 ”, tương truyền nơi đây 914 tù nhân lao động khổ sai đã bỏ mình trong quá trình đập đá xây cầu vào cuối thế kỷ XIX. Ðến giờ ăn chúng tôi mới hay là trong số 25 hành khách đến Côn Ðảo lần này, ngoài chúng tôi ra chỉ có hai người khác là du khách, còn lại là công nhân viên đi công tác và những người tháp tùng bà Tổng Lãnh sự Cuba ở Sài Thành ra thăm đảo. Nhằm tiện việc dọn ăn 3 bữa mỗi ngày, nhà bếp khách sạn “ chủ động ” xếp 3 du khách chúng tôi thành một “ đoàn ” — ăn một lần và ngồi cùng bàn. Hai người du khách khác là hai bố con. Ông cụ người Nghệ, hồi còn trẻ “ vô ” Huế học trường nhà dòng Pellerin, năm 17 tuổi theo tiếng gọi của “ Mùa Thu rồi ngày hăm ba ” đi bộ đội, đánh Tây rồi sau đó đánh Mỹ trên nhiều chiến trường, nay đã nghỉ hưu. Cô ái nữ, sinh và lớn lên ở Hà Nội, theo cơ quan vào Nam công tác đã lâu nhưng vẫn giữ giọng nói và cung cách của cô gái Hà Thành. Tuy đã có gia đình nhưng vì chữ hiếu nên cô mới “ tranh thủ dàn xếp thời giờ đưa bố đi chơi để bố vui trong tuổi già ”. Nghe lời giải thích của cô, bất chợt chúng tôi thấy ấm lòng. Cô con gái đúng là biết chiều bố tối đa : trước bữa cơm trưa và cơm chiều, cô đặt trước với nhà bếp những món đặc sản để bố thưởng thức cho biết — nào cá hàm hương, nào bào ngư, nào ốc tai tượng, v.v. Cô có đặt cả món yến sào và vích nhưng những thứ này hình như nay thuộc dạng không được phục vụ. Món nào đắt hơn giá Saigon Tourist quy định cho bữa ăn của đoàn, dĩ nhiên chúng tôi trả thêm phụ thâu. Thức ăn toàn là đồ hải sản và rau ráng trồng trên đảo, ngoài món miến gà phục vụ buổi sáng thì hầu như không có thịt thà — đúng y chang tiêu chuẩn mốt dinh dưỡng trên thế giới bây giờ ! Điều khá kỳ thú thì những đặc sản ngày nay cũng na ná những sản vật của Côn Ðảo mà người xưa miêu tả trong Ðại Nam nhất thống chí : “ Ðảo ấy sản xuất yến sào, đồi mồi, vích, quế, cá hàm hương, trai [ốc] tai tượng, các thức đồ ăn, tuyệt không có gì khác ”.3 Ðầu bếp nghe nói tốt nghiệp lớp nấu ăn phục vụ du lịch ở Sàigòn nên cách bày biện thức ăn cũng rất mực trang nhã. Chương trình tham quan trên đảo cũng do Saigon Tourist xếp đặt, và 3 du khách chúng tôi đi thành một đoàn riêng. Ðịa điểm tham quan trước tiên của chúng tôi là “ địa ngục trần gian ” — những trại giam từ thời Pháp thuộc cho đến năm 1975. Hệ thống trại giam thời Pháp gồm có Banh (bagne) I, Banh II, Banh III, Banh III Phụ, “ Chuồng cọp ” (được gọi như vậy vì trên trần không có song sắt giống như chuồng cọp), và “ Biệt lập (cellule solitaire) chuồng bò ” có phòng giam thông với hầm phân bò. Nhà giam thời chính quyền miền Nam có các trại mang số từ 5 đến 9, Trại 7 còn gọi là trại Phú Bình hay “ Chuồng cọp kiểu Mỹ ”. Hệ thống nhà tù Côn Ðảo qua hai thời kỳ có tất cả 127 phòng giam, 42 xà lim, và 504 phòng “ biệt lập chuồng cọp ”. Sau khi tham quan khu trại giam, chúng tôi viếng thăm “cầu Ma Thiên Lãnh” ở dốc đèo Ông Ðụng trên núi Chúa — ngọn núi cao nhất trên đảo. Cùng với “Cầu tàu lịch sử 941”, “cầu Ma Thiên Lãnh” là nơi nghe nói hàng trăm tù nhân đã ngã mình. Ma Thiên Lãnh lấy từ tên một ngọn núi nổi tiếng ma thiêng nước độc, hiểm ác ở Triều Tiên trong truyện Tàu Tiết Nhơn Quí chinh Ðông. Nghĩa trang Hàng Dương, với diện tích chừng 20 ha, là nơi yên nghỉ của không biết bao nhiêu chí sĩ đã bỏ mình trên Côn Ðảo trong suốt hơn 110 năm tính từ lúc Pháp bắt đầu xây nhà tù trên đảo vào năm 1862. Nghĩa trang được chia làm 4 khu A, B, C, D; những phần mộ có hai loại: mộ có tên và mộ khuyết danh. Lần theo lối đi trong nghĩa trang, du khách bắt gặp bia mộ mang những tên quen thuộc như Nguyễn An Ninh, Lê Hồng Phong (khu A), hay Võ Thị Sáu (khu B). Mộ “ chị ” (ra Côn Ðảo ai cũng gọi như vậy) Võ Thị Sáu khói hương nghi ngút, người đến viếng đặt cúng dưới bia mộ chị rất nhiều gương và lược. Hỏi ra mới biết là khi bị bắt ở Bà Rịa chị chỉ có 17 tuổi, chính quyền thuộc địa đợi chị đến tuổi thành niên mới mang ra Côn Ðảo để hành quyết. Chị nổi tiếng linh thiêng. Trong dân gian trên đảo và hình như khắp miền Bà Rịa — Vũng Tàu quê chị, có nhiều chuyện kể về sự hiển linh của chị. Cô hướng dẫn viên cho biết là trước phần mộ chị nguyên có trồng cây dương, khi lớn lên thân cây đâm thành hai nhánh, một nhánh ngả về Nam một nhánh nghiêng về Bắc; nhưng đến năm 1976 cây dương đột nhiên khô héo có lẽ vì giấc mơ thống nhất Nam Bắc của dân tộc đã trở thành hiện thực. Ở gốc cây dương ngày trước, nay là cây lê-ki-ma đầy cành lá xanh tươi. Trong nghĩa trang có một loài hoa dại rất đẹp, sắc vàng và hồng rực rỡ, mọc khắp đó đây. Ðược biết hoa có tên là “ nữ hoàng ” vì hoa giống hệt như chiếc vương miện của các nữ hoàng. Ðiều lạ là hoa nữ hoàng chỉ thấy trong nghĩa trang Hàng Dương chứ không thấy ở nơi nào khác. Ngày thứ hai trên đảo, chúng tôi đi xem cảng Bến Ðầm nằm về phía Tây Nam của đảo. Trong cảng có trạm thu mua những hải sản mới đánh về để ngư dân khỏi mất công vào Vũng Tàu. Trò chuyện với một hai ngư dân đang ngồi nghỉ trên cầu tàu, được biết phần đông ngư dân là người Bình Thuận — một chi tiết khá lý thú vì 225 năm trước đây, khi viết về đường lối kinh doanh của chúa Nguyễn đối với các đảo ở biên thùy phương Nam, nhà bác học Lê Quý Ðôn cũng đã đưa ra nhận xét tương tự trong Phủ biên tạp lục : “ Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định số người, hoặc là người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương [Ròn], có ai tình nguyện thì cấp giấy sai đi, ... cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các cù lao ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu [đắm] và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm ...”.4 Miếu An Sơn thờ bà hoàng phi Yến, thứ phi của vua Gia Long, cũng là nơi nổi tiếng linh thiêng đối với dân chúng địa phương. Theo lời thuyết minh của cô hướng dẫn, “ ngày xưa vua Gia Long phải bôn ba trong những ngày ‘tẩu quốc’, để bà hoàng phi cùng ông hoàng Cải ở trên đảo. Ông hoàng Cải chẳng may bị bệnh đậu mùa mất sớm, bà hoàng phi bị người đời trách móc. Bởi vậy mới có câu ca dao là : Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.” “ Cây cải ” là vì ông hoàng tên Cải, còn “ rau răm ” là gi ̀? Quên hỏi cô hướng dẫn, chúng tôi tự hỏi “ Hay bà hoàng phi có tên cúng cơm là Răm ? ” Bà hoàng phi Yến và chị Võ Thị Sáu là hai nhân vật được dân gian sùng bái nhất trên đảo. Xa xa là sở rẫy An Hải, nơi ngày xưa nhà chí sĩ Phan Châu Trinh ở non 3 năm. Cụ Phan “khi mới ra giam tạm ở khám trong banh... tham biện cho ra ở ngoài làng An Hải”. Phan “chính là một người đầu tiên trong bộ sử Côn Lôn quốc sự tù!”5 sau vụ Dân biến ở miền Trung (1908). Ở làng An Hải, cụ được “tự do..., mỗi tuần lễ, ngày chủ nhật, tới nhà giấy gardien-chef trình diện một lần mà thôi.”6 Sau Phan Tây Hồ tiên sinh, các cụ Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Ðặng Nguyên Cẩn cùng hàng chục thân sĩ khắp ba miền Bắc Trung Nam bị kết án chính trị đày ra đảo và giam ở Banh I. Hình của các nhà chí sĩ duy tân bị đày trong đợt này nay được trưng bày chung trong Nhà Bảo tàng lịch sử Côn Ðảo. Vì nghe tên tuổi của các vị tiền bối này từ ngày mới cắp sách đến trường và đọc thơ văn họ đã có mấy mươi năm nay, khi nhìn hình phóng đại của họ trên tường, chúng tôi không khỏi xúc động và có ảo giác như gặp người quen biết từ lâu. * Trong Thi tù tùng thoại, Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng cho biết là ngay buổi chiều ngày cụ cùng bảy thân sĩ khác mới bị đày ra tới Côn Ðảo, cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh đã tìm cách động viên bằng cách cho người ném lá thư buộc vào viên gạch qua khung cửa sổ nhỏ lưới sắt. Lá thư có nội dung như sau : “ Thoạt nghe tin anh em ra đây, dậm chân vang trời một tiếng ! Ðoạn, tự nghĩ rằng anh em vì quốc dân mà hy sinh đến phải ra đây, chắc là có trăm điều vui mà không chút gì buồn. Ðây là một trường học thiên nhiên, mùi cay đắng trong ấy, làm trai giữa thế kỷ XX này không thể nào không nếm cho biết...”.7 Ðiều đáng chú ý là vào khoảng thời gian cụ Huỳnh viết lại tác phẩm Thi tù tùng thoại nhằm đăng tải thành từng tiết trên báo Tiếng Dân, Sào Nam Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế cũng đã dựa trên ký ức để viết Phan Bội Châu niên biểu (tức Tự phán) — có lẽ cũng do gợi ý của Mính Viên chứ không ai khác. Trong bài tựa viết cho cuốn tự truyện của Sào Nam, cụ Huỳnh cũng đã nhận xét : “ Tập này cụ [Sào Nam] viết nguyên văn chữ Hán và tự dịch [miệng] ra quốc văn, tinh thần Hán văn mười phần thì bản quốc văn được độ năm phần (vì cụ không sở trường quốc văn và không thì giờ mà chữa, nên không được trơn), song chính ý thì không sai ”.8 Giỏi chữ quốc ngữ như cụ Huỳnh mà còn than là bản dịch quốc ngữ do chính tay cụ dịch về “ tinh thần ý tứ không bằng nguyên văn ”, huống hồ là cụ Sào Nam sống ở hải ngoại gần hai mươi năm trong thời kỳ chữ quốc ngữ vừa mới bắt đầu truyền bá trong nước, thì việc chênh lệch về văn chương giữa hai bản Phan Bội Châu niên biểu chữ Hán và chữ Việt cũng là chuyện dễ hiểu. Ðiều cần thấy rõ là đối với thế hệ của các cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Phan Châu Trinh (1872-1926), hay Phan Bội Châu (1867-1942), v.v. khi viết thơ văn — viết bằng văn xuôi hoặc văn vần —, Hán văn vẫn là ngôn ngữ các cụ quen dùng lâu ngày khi viết lách nên dễ diễn đạt hơn quốc văn. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà phần lớn thơ văn trong Thi tù tùng thoại đã được sáng tác bằng Hán văn. Hiện tượng tương tự cũng đã xảy ra vào đời Minh Trị ở Nhật Bản. Tuy ở nước Nhật ngày nay tương đối ít người viết sách bằng tiếng Anh các sách khoa học nhân văn và xã hội, nhưng vào thời Minh Trị có một lớp trí thức người Nhật viết tiếng Anh giỏi hơn tiếng Nhật về loại này. Nhân vật điển hình là Okakura Kakuzô (岡倉角三 Cương-Thương Giác-Tam ; 1862-1913), bút hiệu là Tenshin (天心Thiên-Tâm) và tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như The Ideals of the East (Lý tưởng Ðông phương ; 1903), The Book of Tea (Cuốn sách về trà ; 1906), v.v... Tenshin cũng đã viết những trước tác nổi tiếng của mình bằng tiếng Anh, có điều là những trước tác này do người khác dịch sang tiếng Nhật chứ không phải do chính tay Tenshin. Vì Thi tù tùng thoại do chính tay Huỳnh Thúc Kháng — vừa là một túc nho và cũng là một kiện tướng trên luận đàn chữ quốc ngữ — dịch từ Hán văn ra quốc văn, ngoài khía cạnh văn học và lịch sử, đối chiếu và phân tích nguyên bản với bản dịch cũng là một đề tài nghiên cứu ngữ văn lý thú nhằm tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa Hán văn và chữ quốc ngữ trong buổi giao thời. Thứ đến, Thi tù tùng thoại là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam về văn học sáng tác trong tù ngục. Cụ Huỳnh giải thích : “ Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương Ðông như sử duy tân khẳng khái của Nhật Bản, cách mạng sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu Tuất chánh biến, ở trong có chép nhiều thi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến năm 1908 về sau có nhiều thi của tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên ”.9 Trong Thi tù tùng thoại, Mính Viên đã ghi chép rất mực khách quan và có lớp lang, thơ văn cùng những mẩu chuyện “ tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thiệt, khởi đầu năm 1908 đến năm 1921 ”, của một số bạn chính trị phạm (ngày trước gọi là “ quốc sự phạm ”).10 Cách đây hơn 30 năm, bàn về ý nghĩa của Thi tù tùng thoại, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đã đưa ra nhận xét là độc giả “ chỉ cần đọc qua tập này, cũng có thể biết các diễn tiến cách mạng Việt Nam cũng như suy tư và tình cảm của các nhà cách mạng thời ấy, đặc biệt là của nhóm Duy Tân ”.11 Quả đúng như vậy, ý chí bất khuất, tinh thần lạc quan cũng như những thao thức tình cảm của các nhà nho yêu nước vào đầu thế kỷ XX được biểu lộ đậm nét qua thơ văn sưu tập trong sách. Phan Châu Trinh có lẽ là chí sĩ có tiếng nói dõng dạc nhất — trong đời thường cũng như qua thơ văn. Sau phong trào Dân biến miền Trung, cụ Tây Hồ bị bắt ở Hà Nội và đưa về giam ở Hộ Thành, Huế, vì bị tình nghi chủ xướng phong trào và tư thông với “ người bội quốc là Phan Bội Châu ”. Một hôm, người ta dẫn cụ ra khỏi nhà giam, đến cửa Thượng Tứ cụ mới biết là mình bị kêu án đày ra Côn Ðảo! Ngay trong giây phút đó, Tây Hồ tiên sinh đã khẩu chiếm bài thơ với lời lẽ khẳng khái hiên ngang như sau : Luy luy già tỏa xuất Ðô môn Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn ! Gông xiềng lẻng kẻng biệt Ðô môn, Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn, Ðất nước chơi vơi nòi giống khổ Thân trai nào sá chuyện Côn Lôn ! V.S. dịch Cụ Mính Viên căn tính ôn hòa điềm đạm, nhưng cũng khẳng khái, bất khuất (theo phong cách riêng của cụ) không kém một ai. Mặc dầu sống trong cảnh cá chậu chim lồng, cụ lấy thơ văn làm bạn lữ, lập một “ thi đàn ” nhằm biến lao tù thành một “ trường học thiên nhiên ” cho chính mình và cho bạn tù. Cụ viết : “ Ðến như cảnh tù, trăm đều tự do không còn một chút gì, đến cái xu xác cũng không phải của mình, chỉ lưa12 có một chút tự chủ về tinh thần mà muốn an ủy cho tinh thần thì ‘thi văn’ lại là món tu dưỡng rất thích hợp. Vậy tôi dám nói : ‘Ở tù mà dùng thi văn làm món di dưỡng tinh thần, không phòng hại gì mà sự bổ ích rất rõ ràng’. Trong trường học thiên nhiên 13 năm... cả bọn đồng thời với tôi, cả thân sĩ cho đến người dân, kẻ chết không nói, người còn mà được tha về, vẫn giữ được tấm lòng không thay đổi. Biết đâu không nhờ món nuôi tinh thần đầm thấm đó mà không tự biết ”.13 Cũng cần nói thêm là trước khi bị đày, cụ Huỳnh vì theo lối học cử nghiệp ngày trước nên không biết tiếng Pháp. Khi ra đảo, cụ “ mang theo một quyển Pháp Việt từ điển của Trương Vĩnh Ký, một quyển Lecture–langage, và một quyển mẹo (Grammaire)... Sau lại mua thêm một ít sách Lecture và sách mẹo, cùng một bản “ L’histoire nationale française ” cùng nhau nghiên cứu ”. Các cụ “ học bằng con mắt với cái não, nên nghe và nói tiếng Tây hay sai vận và không được lanh lẹ ; song đọc sách hiểu nghĩa, đặt câu và phiên dịch, biết được đại khái ”.14 Khả kính thay chí tiến thủ, tinh thần hiếu học, và thái độ lạc quan yêu đời của Huỳnh Thúc Kháng cùng các nhà nho duy tân vào đầu thế kỷ XX ! Về mặt tình cảm, Thi tù tùng thoại cũng có nhiều bài thơ khóc bạn, hoặc những bài nói lên lòng thương cha nhớ mẹ, quyến luyến vợ con rất cảm động. Cụ Huỳnh viết : “ Sanh ly đã khổ, lại dồn cái buồn tử biệt, người không phải cây đá, huống bạn chúng tôi là hạng người đa tình ”.15 “ Ða tình ” ở đây dĩ nhiên có nghĩa là “ nhiều tình cảm ”, chứ không phải là có nhiều quan hệ yêu đương. Lấy ví dụ, cụ Tập Xuyên Ngô Ðức Kế quê Hà Tĩnh, ở nhà còn ông bà cụ già, nhân có cai tù nhờ làm thơ gửi biếu cha già, cụ đã ký thác tâm sự của mình qua bài thơ có những giòng xúc động như sau : Vân hàm trân trọng ký diêu thiên, Vân thị giai âm đạt phụ tiền, Ngã diệc thần hôn tâm thái cấp, Vi quân đề bãi bội san nhiên. Tờ mây trân trọng gởi thăm nhà, Rằng chữ bình yên kính chúc cha, Chiều sớm ta cùng lòng mến ấy, Viết xong giọt lệ chứa chan sa !16 Bài thơ trên đây khiến chúng tôi liên tưởng đến những vần thơ tuyệt mệnh viết trong ngục Noyama (野山 Dã-Sơn) của Yoshida Shôin (吉田松陰 Cát-Điền Tùng-Âm ; 1830-59) — người đi đầu trong vận động lật đổ Tokugawa bakufu mà kết quả là nước Nhật đã hồi sinh qua sự nghiệp Minh Trị Duy tân. Tựa như thi đàn của Huỳnh Thúc Kháng cùng các bạn tù trên Côn Ðảo, trong ngục Noyama tù nhân cũng tổ chức một thi đàn do nhà thơ Yoshimura Zensaku (吉村善作 Kiết-Thôn Thiện-Tác) hướng dẫn. Shôin có bài thơ waka (和歌 Hòa-ca, tức thơ Nhật) gửi phụ thân nổi tiếng như sau : Oya omou Kokoro ni masaru Oya-gokoro Kyô no oto-zure Nan to kikuran Lòng thương nhớ cha mẹ Còn hơn thế nữa Là lòng cha mẹ thương con Tin dữ hôm nay [Cha mẹ tôi] sẽ đón nhận ra sao ? Dịch thơ : Tấm lòng con nhớ song thân, Làm sao sánh được tình thâm nghĩa dày, Khi nghe tin dữ hôm nay, Song thân sẽ nghĩ sao đây bây giờ ? V.S. dịch So với những giòng thơ của cụ Tập Xuyên Ngô Ðức Kế, ngôn ngữ diễn tả tình cảm trong bài thơ trên đây có vẻ tỉnh táo và hơi bị kiềm chế. Lý do là Shôin xuất thân trong một gia đình samurai (võ sĩ) nền nếp, đã quen kiềm chế những xúc động tình cảm. Người ta kể rằng hồi bé có lúc Shôin đang ngồi học, vói tay gãi chỗ ngứa sau lưng, bị bố cho ăn đòn một trận và quở trách vì “ đã là samurai thì mấy việc nho nhỏ như vậy phải tập chịu đựng cho quen ! ” Sở dĩ Shôin chỉ viết “ Song thân sẽ nghĩ sao đây bây giờ ? ” khi nghe tin mình bị hành quyết trong bài thơ tuyệt mệnh, chứ không nói “ Song thân chắc sẽ đau buồn lắm ”, v.v. chính là vì vậy. Tuy nhiên, lòng thương nhớ và lo lắng cho cha mẹ, gia đình, hay cho vận nước của những người tù quốc sự ở ngục Noyama hay ở Côn Ðảo thì chắc chắn là trên căn bản không có gì khác nhau. Ngoài ra, dẫu cách làm thơ tuy có khác, nhưng chắc hẳn thi đàn ở ngục Noyama cũng giống như thi đàn trong nhà ngục trên Côn Ðảo, nhắm mục đích là tu dưỡng tinh thần và ý chí của tù nhân. * Chuyến ra thăm Côn Đảo tuy chỉ có ba ngày, nhưng đã để lại trong chúng tôi không biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên. Ra đảo, chúng tôi mới thấm thía ý nghĩa của Thi tù tùng thoại. Quả là một cuốn sách hiếm có ở nước ta ! Viết lại xong vào thượng tuần tháng 11 năm 2010 Vĩnh Sính 1 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng,Thi tù tùng thoại (Saigon: Nxb Nam Cường, 1951), trang 8 [phần đầu trong sách không đánh số trang]. 2 Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Ðại Nam nhất thống chí, nguời dịch Phạm Trọng Ðiềm, người hiệu đính Ðào Duy Anh (Huế: Nxb Thuận Hóa, 1992), tập 5, trang 154-155. 3 Như trên, trang 155. 4 Phủ biên tạp lục, quyển 2, in lại trong Lê Quý Ðôn toàn tập, tập I (Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1977), trang 120. 5 Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây-Hô ̀Tiên-sinh lịch sử (Huế: Nxb Anh Minh, 1959), trang 24. 6 Như trên. 7 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng,Thi tù tùng thoại, trang 42. 8 “Bài tựa của cụ Huỳnh Thúc Kháng”, trong Tự phán – Lịch sử cách mạng của Phan Sào Nam do tay cụ tự viết (Huế: Nxb Anh Minh, 1956), trang x. 9 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại, trang 10 [phần đầu trong sách không đánh số trang]. 10 Như trên, trang 7. 11 Nguyễn Văn Xuân, “ Văn học miền Trung ”, tạp chí Tân Văn (Sàigòn), tháng 5-6 (1968). 12 Phương ngữ miền Trung, có nghĩa là “còn”. 13 Huỳnh Thúc Kháng, “Bài tựa sau”, Thi tù tùng thoại, trang 272. 14 Như trên, trang 143-144. 15 Như trên, trang 81. 16 Như trên, trang 69-70.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 8:40:25 GMT 9
Cát Tiên: thánh địa ở cực nam ChampaJa Karo Quần thể Cát Tiên nằm trên lãnh thổ của huyện Cát Tiên, phía tây bắc tỉnh Lâm Đồng, giữa Biên Hòa và phố Bảo Lộc. Đây là đất đai của Panduranga, tiểu vương quốc ở miền nam Champa. Từ ngã ba thị trấn Madagui vào khu vực Đạ Tẻ, theo tỉnh lộ 721 đi khoảng 40km vượt qua dốc Khỉ là tới thánh địa Cát Tiên. Thánh địa nằm trong một bồn địa nhỏ, các dãy đồi bát úp vây quanh thành một vòng cung gần như khép kín, nối với bồn địa lớn Cát Tiên bằng một hành lang hẹp. Dòng sông Đạ Đờng quanh co tạo thành một vòng cung lớn quanh Cát Tiên. Cát Tiên được biết đến qua “Vườn quốc gia Cát Tiên” đã được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Cát Tiên còn có một di tích nổi tiếng, đó là “Thánh địa Cát Tiên”, được công nhận di tích lịch sử quốc gia Viêt Nam năm 1997, và gần đây được Hội Di Sản Văn Hóa Việt Nam xúc tiến lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. Ai là chủ nhân của thánh địa Cát Tiên? Cho đến nay các nhà khoa Việt Nam đang tranh luận để xác định ai là chủ nhân của thánh địa này. Nếu như hầu hết các di tích đền tháp Champa được các chuyên gia người Pháp tìm thấy vào đầu thế kỷ 20, thì thánh địa Cát tiên ở tỉnh Lâm Đồng được xem là một thành tựu lớn của khảo cổ Việt Nam, tìm thấy rất muộn vào năm 1985, với 8 lần đầu tư khai quật, tìm thấy 12 gò đất có kiến trúc gạch cổ, 4 khu phế tích kiến trúc tháp thờ và 1 đền mộ xây chủ yếu bằng gạch. Vị trí Thánh địa Cát Tiên thuộc Panduranga. Thánh địa Cát Tiên là trung tâm tín ngưỡng chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Giáo, thờ ngẫu tượng Linga-Yoni với nhiều đền tháp, mộ tháp, đài thờ, máng dẫn nước, v.v. Quần thể Cát Tiên xây phần lớn bằng gạch, qua thời gian đã đổ nát, chỉ còn lại một phần dấu tích xưa. Nơi đây có hơn 1.100 hiện vật được tìm thấy qua các cuộc khai quật. Chúng được chế tạo bằng nhiều chất liệu khác nhau như vàng, bạc, thiếc, đồng, sắt, đá quý, gốm sứ, gạch ngói và đá. Các hội thảo khoa học tại Việt Nam đã được tổ chức để tìm hiểu, nghiên cứu và khẳng định giá trị văn hóa lịch sử của khu thánh địa này. Nhưng ai là chủ nhân của khu thánh địa Cát Tiên vẫn còn là một câu hỏi chưa có sự trả lời thống nhất trong giới khoa học Việt Nam hôm nay. Theo hội thảo khoa học về khu di tích Cát Tiên đã được tổ chức tại huyện Cát Tiên vào tháng 3 năm 2000, các nhà khoa học cho rằng Cát Tiên là thánh địa của một tiểu vương quốc cổ chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Về loại hình kiến trúc, Cát Tiên gần gũi với các kiến trúc Chămpa và Chân Lạp, đồng thời cũng có nhiều điểm tương đồng với hệ thống các di tích văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Nhưng về vấn đề chủ nhân của khu di tích Cát Tiên, có nhiều ý kiến trái chiều. Phế tích trong khu Thánh địa Cát Tiên Đến nay nhiều người chỉ biết đến Cát Tiên là quần thể kiến trúc của Bà La Môn Giáo có niên đại khá sớm còn tồn tại cho đến nay ở khu vực Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Ts. Lê Thị Liên (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho rằng: “Giá trị của các di sản ở đây không chỉ bó hẹp trong một vùng địa phương hay quốc gia mà còn phản ánh mối quan hệ trao đổi, tiếp nhận và cải biến văn hóa rộng rãi cả về không gian và thời gian với các nền văn hóa và văn minh láng giềng và trong khu vực…” Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, thánh địa Cát Tiên nằm trong không gian văn hóa xã hội Mạ có nghĩa là nó thuộc “vương quốc Mạ”. Cùng ý kiến với Gs. Trần Quốc Vượng, Gs. Lương Ninh thì cho rằng “chủ nhân Cát Tiên là dân bản địa vẫn tồn tại sinh sống từ xưa đến nay ở thượng lưu sông Đồng Nai, một bộ phận nói ngôn ngữ Nam Á, bộ phận mà ngày nay được gọi là người Mạ, họ không thể là Khmer, Chăm hay Phù Nam. Họ không có yếu tố Nam Đảo, yếu tố biển.” Theo Ts. Lê Đình Phụng (Viện Khảo cổ học Việt Nam): “Di tích này thuộc nền văn hóa riêng biệt, có nét tương đồng với các nền văn hóa xung quanh nhưng nét riêng vẫn mang tính nổi trội.” Di tích này có niên đại khoảng từ thế kỷ V-IX; một bộ phận nhóm người Môn-Khmer, chủ nhân vùng đất Nam Bộ-Tây Nam Bộ, những người làm nên nền văn hóa Óc Eo cũng là chủ nhân khu di tích Cát Tiên. Bộ Linga và Yoni trong khu di tích Theo Ts. Đông, “Thánh địa tồn tại vào khoảng thế kỷ 8- 10, chủ nhân của nó là ai xin để chúng tôi bàn cãi và tranh luận. Nhưng theo tôi đây là nơi cư trú của một cộng đồng rộng lớn, tôi chưa dám nói là của người Mạ, Stiêng hay không.” Ngược lại, Ts. Đào Linh Côn (Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ, Viện KHXH vùng Nam Bộ) có quan điểm khác biệt hơn: “Vấn đề chủ nhân của Cát Tiên, hiện nay và trong nhiều thời gian tới nữa vẫn không ai có thể đưa ra câu trả lời chắc chắn. Bởi cho đến nay, tuy các nhà khảo cổ đã khai quật nhiều lần ở rất nhiều địa điểm khác nhau trong khu vực này, vẫn chưa có thông tin nào về cốt sọ người cổ để xác định chủ nhân của di tích. Và sẽ là quá sớm để nói chủ nhân của di tích là người Mạ với chỉ một yếu tố vì nó nằm trong địa bàn cư trú của dân tộc Mạ”. Và cho đến nay vẫn chưa tìm thấy những bằng chứng mang tính mắt xích để có thể liên hệ Cát Tiên với các di tích được cho là của các tộc người hiện đang sinh sống trên vùng đất Lâm Đồng. Cùng có nhận định với Ts. Đào Linh Côn, Gs. Phan Huy Lê (Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam) kết luận: “Có lẽ còn lâu mới xác định được chủ nhân của di tích, vấn đề này không hề đơn giản.” Linga bằng đồng trong khu di tích Cát Tiên Thánh địa Cát Tiên nhìn qua sử liệu Champa Cát Tiện có vị trí địa dư nằm trên lãnh thổ của Panduranga, tiểu vương quốc miền nam Champa có thủ đô ở Virapura (Phan Rang) đã từng có mặt trên bia ký kể từ thế kỷ thứ VIII. Lãnh Thổ của tiểu vương quốc Panduranga chạy dài từ Aia Ru (Phú Yên) cho đến Biên Hòa nơi có bia đá Champa cuối cùng ở cực nam bao gồm cả cao nguyên ở phía tây mà người Chăm hôm nay gọi là Ndong Nai Ngaok, tức là Đồng Nai Thượng, nơi tập trung nhiều bộ tộc nói tiếng Mon-Khmer (Mạ, Stieng, Chik, Kaho, v.v.) được gọi chung là Kaho, tức là thần dân Champa đã từng đóng nhiều vai trò quan trọng trong triều đình Champa mà tư liệu hoàng gia Champa (1702-1810) thường lập đi lập lại nhiều lần. Cát Tiên nằm trên lãnh thổ Panduranga-Champa là một dữ kiện lịch sử không thể chối cãi. Tiếc rằng các nhà sử học Việt Nam không bao giờ nhắc đến biên giới chính trị của vương quốc Champa để xác định ai là chủ nhân của thánh địa Cát Tiên. Kể từ đó, những nhận định của các nhà sử học Việt Nam trở thành văn chương chính trị hầu xóa bỏ đi di sản Champa trên khu vực Lâm Đồng một trung tâm đã từng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành lịch sử Panduranga, một tiểu vương quốc ở miền nam Champa. Bia đá Biên Hòa viết vào năm 1436 YouTube clip: Thánh địa Cát Tiên Nguồn: Cát Tiên: thánh địa ở cực nam Champa. Ja Karo. Champaka.info. Monday, 22 April 2013 Tham khảo 1. Sakaya, “Ai là chủ nhân của Thánh địa Cát Tiên – Lâm Đồng”, Trung tâm Unesco nghiên cứu và bảo tồn văn hóa Chăm. chamunesco.com/index.php?option=com_content&view=category&layout=blog&id=43&Itemid=1302. Đào Linh Côn, “Thử tìm hiểu mối quan hệ của Cát Tiên với Óc Eo – Phù Nam và Chawmpa”, Trung Tâm Khảo Cổ – Viện KHXH vùng Nam Bộ. thanhdiacattien.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1942:hi-tho-v-di-tich-cat-tien-thang-12-nm-2008&catid=59:nghien-cu-trao-i&Itemid=11633. Lê Đình Phụng, “Di tích Cát Tiên – Lịch sử và văn hóa”, Viện Khảo cổ học. dinhphungkhaoco.blogspot.com/2013/02/tich-cat-tien-lam-ong-lich-su-va-van.html4. Lê Đình Phụng, “Khu di tích Cát Tiên – Lâm Đồng”, Viện Khảo cổ học. dinhphungkhaoco.blogspot.com/2013/02/cuon-sach-khu-di-tich-cat-tien-lam-ong.html5. Nguyễn Oanh, “Thánh địa Cát Tiên”, Báo ảnh Việt Nam. vietnam.vnanet.vn/vnp/vi-vn/13/5/5/44151/default.aspx
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 29, 2013 4:07:50 GMT 9
Giải mã nghệ thuật cổ ChampaJames Blake Wiener phỏng vấn – Hà Duy dịch Tôi rất vui mừng được chia sẽ kiến thức của tôi về nghệ thuật Chàm với Từ điển Bách khoa Cổ sử. Chúc Từ điển Bách khoa Cổ sử gặt hái được nhiều thành quả trong tương lai. James Blake Wiener phỏng vấn Trần Kỳ Phương (tiếng Anh) Chuyên gia Trần Kỳ Phương. Nguồn: Damau.org Người Chàm ở Trung bộ Việt Nam đã có những truyền thống nghệ thuật, kiến trúc đầy ấn tượng cách đây hơn 1700 năm. Vương quốc Champa được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 2 CN và đã tạo lập một chuỗi các tiểu quốc dọc theo vùng duyên hải, từ năm 192 đến 1832. Champa—nằm trên ngã tư giữa các nước Ấn Độ, Java và Trung Hoa—là một trung tâm giao thương sầm uất ở vùng Đông Nam Á và là đối thủ chính của đế chế Khmer hùng mạnh. Người Chàm chủ yếu được biết đến trong lịch sử là những thương nhân, thủy thủ và chiến binh, đồng thời họ cũng là những thợ thủ công thiện nghệ và kiến trúc sư tài năng. Trong cuộc phỏng vấn độc quyền này, James Blake Wiener của trang mạng Từ điển Bách khoa Cổ sử (Ancient History Encyclopedia) trao đổi với Trần Kỳ Phương–một chuyên gia lịch sử văn hóa Champa–về những đặc điểm độc đáo của nghệ thuật và kiến trúc Chàm. (Bản gốc tựa đề: “Deciphering Ancient Cham Art”, đăng trên trang mạng: <www.ancient.eu.com>, ngày 3/4/2013; và <www.kunstpedia.com>.) JW: Chào ông Trần Kỳ Phương, tôi xin gởi đến ông lời chào thân ái của Từ điển Bách khoa Cổ sử! Cám ơn ông giới thiệu cho chúng tôi về thế giới nghệ thuật và kiến trúc cổ Champa. Mặc dầu người Chàm đã hấp thụ ảnh hưởng nghệ thuật từ Java, Cambodia, và Ấn Độ, tôi muốn hỏi ông, những khía cạnh đặc sắc nào của nghệ thuật và kiến trúc Chàm có thể được nêu lên khi so sánh nó với các nền nghệ thuật láng giềng? Hơn nữa, làm thế nào chúng ta có thể định nghĩa và tiếp cận với mỹ học Chàm: nên chăng qua những lăng kính của nghệ thuật Hindu (Ấn giáo) cổ và qua những vệ tinh văn hóa của “Đại Ấn”? TKP: Nghiên cứu những đặc điểm địa lý của vương quốc Champa và của các nước láng giềng cho phép chúng ta hiểu được những khía cạnh độc đáo của nghệ thuật Chàm. Vương quốc Champa tọa lạc trên đại lộ hải thương gọi là “Con đường Tơ lụa trên biển,” và Champa cũng nằm giữa hai nền văn minh chính của Châu Á: Ấn Độ và Trung Hoa. Vương quốc này đã tích cực tham gia vào hệ thống hải thương quốc tế từ thế kỷ thứ 2 CN trở đi. Champa đã tạo được những mối quan hệ mật thiết với các vương quốc ở Đông Nam Á lục địa và với các đế chế hải đảo thuộc Indonesia hiện nay; kết quả là, nghệ thuật Chàm đã dung hóa/tiếp biến những xu hướng nghệ thuật đa dạng từ Đông Nam Á, Ấn Độ và kể cả Trung Hoa. Bản đồ Châu Á vào năm 800 CN bao gồm vương quốc Champa và các nước trong khu vực. Quan tâm về nền kiến trúc tôn giáo Hindu của Champa, nơi không có truyền thống xử dụng rộng rãi vật liệu đá trong xây dựng, trái hẳn với truyền thống kiến trúc của các nước láng giềng. Công nghệ xây dựng Champa nổi bật với việc xử dụng gạch, trong khi Khmer và Java thì nghiên hẳn về công nghệ xử dụng đá được minh chứng bởi các ngôi đền Angkor Wat hoặc Angkor Thom (ở Cambodia), và Borobodur hoặc Prambanam (ở Indonesia). Sự khác biệt về vật liệu xây dựng hàm ý những khác biệt về công nghệ cấu trúc cũng như những khác biệt về xử dụng nguồn nhân lực cống hiến vào các dự án xây dựng. Sự biến đổi giữa hai xu hướng tiếp cận này–sự xử dụng gạch hoặc đá–trong cấu trúc xây dựng có thể được giải thích bằng những hệ thống kinh tế đặc thù đã được tiếp biến bởi sự tương thích của các nền văn minh cổ ở Đông Nam Á. Công nghệ của Khmer và Java là những nền công nghệ của những xã hội nông nghiệp, tọa lạc tại những đồng bằng rộng lớn (như của Cambodia) hoặc tại những bình nguyên giàu đất khoáng, đất nham thạch (như của đảo Java). Trong những xã hội nông nghiệp này, các vị vua, chúa, thủ lĩnh có khả năng điều động dễ dàng một lực lượng nhân công phong phú để lao tác trong một thời hạn dài. Tùy thuộc vào ước nguyện của giới cai trị, nguồn nhân lực này được xử dụng để xây dựng đền đài bằng sa thạch hoặc các loại đá khác. Ngược lại, người Chàm nghiêng hẳn về nền kinh tế hải thương. Trong những xã hội thương mãi, khả năng điều động nguồn nhân lực cho những nhu cầu xây dựng các công trình tôn giáo trọng yếu đều bị hạn chế. Xây dựng một ngôi đền bằng đá đòi hỏi một sự tập trung các nguồn nhân lực để đục cắt và vận chuyển đá và cho tất cả các công đoạn khác của chính một cấu trúc đá. Trong khi, một ngôi đền gạch đã không yêu cầu một nguồn nhân lực hùng hậu như thế: với một số lượng nhân công khiêm tốn hơn, được tận dụng trong một thời hạn nhất thiết, có khả năng kiến tạo những ngôi đền có kích cỡ bề thế như nhóm tháp Dương Long (ở Bình Định), là một trong những ngôi đền Hindu bằng gạch cao nhất ở Đông Nam Á, 42 mét. Hình 1: Nhóm đền-tháp Dương Long, thế kỷ 12-13, Bình Định. [Ảnh: TKP] Bên cạnh những dị biệt này về vật liệu và công nghệ cấu trúc, các truyền thống nghệ thuật cổ ở Đông Nam Á cũng sở hữu những cá tính lỗi lạc trong sự đa dạng của những phương thức thể hiện. Điều này liên quan đến những thiết kế mặt bằng (bình đồ) và ý tưởng không gian của mô hình được ứng dụng cho từng nhóm đền-tháp. Mặt bằng trong kiến trúc Chàm thường bao gồm đơn thuần một hình vuông giản dị, trong khi những cấu trúc đá của Khmer và Java thường cầu kỳ và phức tạp hơn rất nhiều. Mô hình không gian kiến trúc Chàm, dựa trên nhiều khối vuông riêng rẽ, kết hợp đơn điệu, trong khi mô hình Khmer và Java đã phát triển toàn diện và kết hợp được phức thể của những dạng thức khác nhau. Tính đa dạng trong những thiết kế không gian và mô hình kiến trúc phản ảnh những dị biệt của tâm thức nghệ thuật: chúng là sản phẩm của “tri thức cộng đồng” đặc thù của từng nhóm sắc tộc và của xã hội cổ đại ở Đông Nam Á. Mặc dầu nghệ thuật Chàm và nghệ thuật Đông Nam Á tất cả đều được tiếp biến từ những nền nghệ thuật ở tiểu lục địa Ấn Độ, mỗi nền văn minh Đông Nam Á đều sở hữu ngữ pháp và tự vựng riêng để diễn đạt cá tính nghệ thuật và tư chất thẩm mỹ của chúng. Thiên về cấu trúc địa lý và tộc người, chúng ta có thể dễ nhận ra đâu là những khác biệt nổi trội giữa những vương quốc này: vương quốc Champa gần gũi với biển, trong khi vương quốc Khmer thuộc về nội địa. Cư dân bản địa sống trong vùng này thuộc về nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau cùng cộng cư trong mỗi vương quốc; ví dụ, cư dân Chàm cấu thành bởi hai ngữ hệ Austronesian/Nam Đảo (nhánh Mã Lai-Đa Đảo) và Austro-Asiatic/Nam Á (nhánh Môn-Khmer), trong khi cư dân Khmer đa phần thuộc ngữ hệ Nam Á. Thẩm mỹ tộc người của cư dân bản địa đã tinh lọc những nền nghệ thuật Hindu và Phật giáo đến từ Ấn Độ, đúc kết nên bộ từ vựng nghệ thuật riêng biệt và những cảm thụ nghệ thuật riêng tư cho mỗi nền nghệ thuật của Đông Nam Á. Hình 2: Thần Siva múa, đầu thế kỷ 10, sa thạch. Bảo tàng Điêu khắc Chăm-Đà Nẵng. [Ảnh TKP] JW: Lịch sử đã không thân thiện với các di tích và tác phẩm nghệ thuật Champa: những thế kỷ chiến tranh và sự quên lãng vô tình đã gây nên những tác hại rõ rệt tại các di tích như Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang, trong khi những tác phẩm trang trí thì đã bị mất đi vĩnh viễn. Ngày nay, hầu như các nghệ phẩm Champa tồn tại là những tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch hoặc bằng đồng thau, với một ít hiện vật được đúc bằng các loại hợp kim khác. Chúng ta biết gì về các loại hình nghệ thuật khác của Champa cổ như: hội họa, trang sức, đan, dệt, đồ gốm, hoặc ngay cả thư pháp? Có khả năng nào từ các nguồn ở hải ngoại hoặc từ các bi ký hiện tồn cho phép chúng ta phục dựng các loại hình nghệ thuật khác đã được chế tác trong thời vang son của vương quốc Champa (khoảng năm 600-900 CN)? TKP: Vâng, thời gian và chiến tranh–đặc biệt các cuộc chiến trong thế kỷ vừa qua–là nguyên nhân chính đã hủy hoại các nghệ phẩm Chàm. Ngoại trừ kiến trúc tôn giáo, chúng ta chỉ có thể nhận biết nghệ thuật trang sức, dệt vải, v.v., đã được chạm khắc chi tiết trên các tác phẩm điêu khắc hiện tồn. Để tìm hiểu về đồ trang sức và y phục của hoàng gia Champa qua các thời kỳ lịch sử, thì, một sự quan sát cặn kẽ là điều thiết yếu; thí dụ, vào triều đại Indrapura (hưng thịnh vào khoảng năm 875 CN), nghệ thuật kim hoàn đã đạt đến đỉnh cao khi người ta có thể tìm thấy các kiểu thức đa dạng của đồ trang sức bằng vàng đeo trên thân thể giới quý tộc, được chạm khắc trên các đài thờ. Vào năm 1903, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một bộ trang sức bằng vàng–bao gồm mũ, miễn, hoa tai, vòng đeo cổ, vòng đeo tay, đeo chân, v.v.–để trang điểm cho ngẫu tượng của một vi thần Hindu, thần Siva, tại Mỹ Sơn. Hiện nay, có khoảng hơn 200 bi ký Chàm đã được phát hiện. Những bi ký này có niên đại từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 15 CN, và chúng cung cấp những chi tiết thú vị bằng cả tiếng Chăm lẫn tiếng Phạn (Sanskrit); may mắn là, mặc dầu phong cách của minh văn đã thay đổi và phát triển qua thời gian, chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được rất nhiều thông tin về chúng. Các nhà khảo cổ học cũng đã phát lộ được nhiều lò gốm Chàm tại tiểu quốc Vijaya xưa kia (nay thuộc tỉnh Bình Định). Những lò gốm này được xác định niên đại từ thế kỷ 13 đến 15 CN. Rất ít người biết rằng gốm Chàm đã từng xuất khẩu đến hầu hết các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á, chúng còn được tìm thấy ngay cả ở Trung Cận Đông. Chúng có vẻ đẹp tuyệt vời: Gốm Chàm đơn sắc màu xanh nhạt và màu vàng nâu. Ngày nay, cộng cồng sắc tộc Chăm–sinh sống ở Nam Trung Bộ–vẫn sản xuất vải dệt cổ truyền với nhiều kiểu thức hoa văn độc đáo và các loại gốm thô làm theo kiểu không có bàn xoay. Họ cũng bảo tồn được các thể loại nghệ thuật truyền thống liên quan đến các nghi thức tôn giáo và lễ hội. Rất nhiều văn bản bằng tiếng Chăm viết trên lá cọ có niên đại từ thế kỷ 17 đến 19, vẫn còn được bảo quản. JW: Chúng ta biết được gì về những công nghệ đã giúp người Chàm xây nên những tổ hợp đền-tháp to lớn này? Đền thờ Champa không chỉ nổi tiếng vì những ngọn tháp gạch của chúng mà cũng vì những mảng điêu khắc trang trí được chạm thẳng vào gạch. Mong ông chỉ ra cặn kẽ? TKP: Công nghệ xây dựng của các tổ hợp đền –tháp Chàm rất diệu kỳ. Gạch được nung ở nhiệt độ khoảng 850 độ C, nên dễ hoàn tất. Để kết những viên gạch lại với nhau, người Chàm dùng một loại nhựa cây gọi là dầu rái, nó được lấy từ thân cây, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb. (loại cây này được trồng thành rừng phổ biến ở Trung Việt Nam và ở bán đảo Đông Dương.) Đền–tháp Chàm được xây chừa khoảng trống giữa hai vách tường dày; sau đó, chúng được xây dần lên cao, rồi hình thành một hàng gạch cuối nơi đỉnh tháp. Tường tháp rất dày–khoảng 1.5 -2.0 mét–tạo nên phần chịu lực tuyệt hảo để nâng đỡ mái tháp và làm vững nền móng kiến trúc. Người Chàm cũng rất kinh nghiệm trong việc kết hợp giữa gạch và sa thạch trên cùng một công trình; ở một vài tổ hợp đền-tháp, hai thứ vật liệu này vẫn còn kết chặt qua hàng ngàn năm! Sau khi đã hoàn tất việc xây dựng cho ngôi đền, những nhà điêu khắc Chàm chạm trổ các kiểu thức hoa văn trực tiếp vào tường ngoài của tháp gạch. Những kiểu thức hoa văn trang trí sáng tạo qua các thời kỳ đã hình thành các phong cách nghệ thuật khác nhau từ thế kỷ thứ 7 cho đến thế kỷ 16. Hình 3: Thánh địa Mỹ Sơn dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata. [Ảnh TKP] JW: Thưa ông, tôi nhận thấy rằng nghệ thuật và kiến trúc của Mỹ Sơn đã được chú trọng nhiều trong nghiên cứu của ông. Tại sao di tích này được chọn để xây và tại sao những triều vua kế tục lại ưa chuộng Mỹ Sơn, bảo trợ cho những ngôi đền tuyệt đẹp của di tích này? TKP: Mỹ Sơn là thánh địa hoàng gia nơi vị thần-vua (devaraja)–một hóa thần của thần Siva, đấng bảo hộ các vương triều Chàm và vương quốc Champa–được thờ phượng. Thánh địa này được khởi dựng dưới triều vua Bhadravarman I hay Phạm Hồ Đạt (380-413) vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4. Nó được dựng trong một thung lũng kín đáo với không gian thâm mật, dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata, được đề cập trong văn bia của đức vua. Đỉnh của ngọn núi thiêng có hình dáng lạ tựa như mỏ của chim thần Garuda–vị thần của sự bình an trong đạo Hindu. Ngày xưa, thương thuyền đi lại dọc theo bờ biển trông thấy ngọn núi này như một chỉ dấu để biết rằng họ đã đến gần cảng-thị quan trọng là Hội An–trung tâm thương mại chính của tiểu quốc Amaravati Champa. Người Chàm đã lập nên nhiều tiểu quốc hoặc “tiểu quốc cảng-thị” dựa trên cửa sông của những dòng sông chính ở miền Trung Việt Nam được xem như những vùng đất thánh. Mối tiểu quốc hay “tiểu quốc cảng-thị” của người Chàm được tổ chức dựa vào ba khuôn mẫu sau: Một trung tâm thương mãi tọa lạc ở cửa sông; Một trung tâm quyền lực hoàng gia–kinh thành–tọa lạc bên bờ sông về phái tây cửa sông; Một thánh địa hoàng gia tọa lạc dưới chân ngọn núi thiêng bên cạnh kinh thành. Thí dụ, tiểu quốc Champa Amaravati, ở vùng Quảng Nam ngày nay, được tạo lập bởi ba thành tố sau: Hội An–một khu phố cổ còn gọi là “Đại Chiêm hải khẩu”–là một trung tâm hải thương; Kinh thành Sinhapura Trà Kiệu–còn gọi là “Kinh thành Sư tử”–là một trung tâm quyền lực hoàng gia; Mỹ Sơn–xưa kia được biết phổ biến là “Srisana-Bhadresvara”–là một thánh địa hoàng gia Mỹ Sơn là di tích kiến trúc tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất của Champa, bao gồm khoảng 70 ngôi đền-tháp được xây dựng liên tục từ cuối thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13. Di tích này lưu giữ những kiến thức quan trọng về văn hóa nghệ thuật Chàm, phản ảnh lịch sử kinh tế và xã hội của vương quốc Champa. Di tích này đã hấp dẫn nhiều thế hệ học giả kể từ khi nó được tái phát hiện bởi các học giả người Pháp vào cuối thế kỷ 19. Mỹ Sơn đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO từ năm 1999. Tuy nhiên, những hiểu biết của chúng tôi về di tích này vẫn còn hạn chế vì thiếu những cuộc khai quật khảo cổ học hiện hành. Chúng tôi trông đợi vào những cuộc khai quật đầy hứa hẹn trong tương lai, tôi hy vọng sẽ phát quật được nhiều tác phẩm thú vị và thúc đẩy những nổ lực để bảo tồn di tích này. JW: Có phải những di tích như Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang cũng là những nơi hành hương không? Hơn nữa, tôi cũng băng khăng rằng liệu ông có thể giải thích kỹ hơn làm thế nào các cộng đồng nông nghiệp và thị tứ đã giúp phát triển của các di tích này? Chúng ta có đề cập qua ở trên và tôi tha thiết muốn biết thêm. TKP: Đúng vậy. Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang là hai thánh địa Hindu của hoàng gia–một ở phía bắc vương quốc và một ở phía nam–nơi giới quý tộc và thương nhân Chàm đã đến hành hương. Hai thánh địa hoàng gia này phản ảnh tín ngưỡng vũ trụ lưỡng nghi của các vương quyền Champa: những người hành hương tại Mỹ Sơn thờ phượng đấng thần-vua, Siva (Srisana-Bhadresvara), tượng trưng cho nguyên tố nam; trong khi tại Pô Nagar Nha Trang, những người hành hương thờ phượng nữ thần, Bhagavati (vợ thần Siva, hay còn gọi là “Yang Inư Pô Nagar là Thần Mẹ Xứ Sở”), tượng trưng cho nguyên tố nữ. Hình 4: Thánh địa Pô Nagar Nha Trang, nơi thờ Nữ thần Mẹ Xứ Sở–Yang Inư Pô Nagar. [Ảnh TKP] Vương quốc Champa nằm trên con đường hải thương quốc tế: người Chàm sở hữu bờ biển dài hơn một ngàn cây số, và nền kinh tế của vương quốc dựa vào nghề đi biển và thương mại đường dài. Cư dân Champa thường bận bịu quanh năm với các thương vụ và trao đổi hàng hóa. Hơn nữa, nền nông nghiệp của vương quốc tương đối kém phát triển vì đất canh tác chỉ bao gồm những cánh đồng nhỏ dọc theo các bờ sông ngắn. Tại thung lũng các dòng sông dài hơn–như sông Thu Bồn (Quảng Nam) hoặc sông Côn (Bình Định)–nơi đó đất đai trù phú hơn và gắn kết với những thương cảng lớn như Hội An (Cửa Đại) và Cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Người Chàm trồng lúa nước và các loại nông sản như đường mía và khai thác trầm hương. Một số lớn đền-tháp bằng gạch đã được xây dựng tại các khu vực này đó là kết quả của sự tập trung dân cư do các nguồn kinh tế cung cấp. Điều này giả định rằng ngay khi nguồn nhân lực được đầy đủ để tạo dựng các công trình tôn giáo, các vua Champa lập tức trưng dụng nguồn nhân lực này để xây dựng các đền-tháp hoành tráng và kỳ vĩ hơn. Nhìn chung, một xã hội nông nghiệp có khả năng cung cấp một nguồn nhân lực dồi dào và ổn định hơn một xã hội thương nghiệp, hay cá biệt, dựa vào sự nông nhàn giữa hai mùa lúa. (Xưa kia, người Chàm chỉ có một vụ mùa hằng năm.) JW: Thưa ông Trần Kỳ Phương, thật hân hạnh được trao đổi với ông. Từ điển Bách khoa Cổ sử kính chúc ông nhiều hạnh phúc trong công cuộc nghiên cứu. Chân thành cám ơn ông đã chia sẽ những hiểu biết của ông về một nền văn hóa thật thú vị. TKP: Vâng, thật là một vinh hạnh. Tôi rất vui mừng được chia sẽ kiến thức của tôi về nghệ thuật Chàm với Từ điển Bách khoa Cổ sử. Chúc Từ điển Bách khoa Cổ sử gặt hái được nhiều thành quả trong tương lai. Nguồn: Giải mã nghệ thuật cổ Champa. James Blake Wiener phỏng vấn – Hà Duy dịch. Tạp chí Da Màu, 18.06.2013 “Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2013 1:56:39 GMT 9
Cái Nhum, Vĩnh Long Nam Sơn Trần Văn Chi/Người Việt Cái Nhum, Quận Cái Nhum, là tên một đơn vị hành chánh cấp quận, thuộc tỉnh Vĩnh Long trước năm 1975. Sau năm 1975, tỉnh Vĩnh Long sát nhập với tỉnh Vĩnh Bình ( Tỉnh Trà Vinh ngày nay) thành tỉnh Cửu Long, thì Cái Nhum được sát nhập với huyện Long Hồ (Vĩnh Long) và được đổi thành Huyện Châu Thành. Sau một thời gian, Huyện Châu Thành lại được tách thành hai huyện như như cũ là huyện Mang Thít và huyện Long Hồ cho đến ngày nay. Từ ngày 26/12/1991, huyện Mang Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long. Rạch Cái Nhum Cái: từ cổ là con rạch. Nhum là loại cây cọ lùn (palmier nain) tên khoa học Chamoerops cocincin-ensis, thường mọc ở ven rạch, cọng có gai.
Cái Nhum là nơi có họ đạo Thiên Chúa sớm nhất trong tỉnh (1731), có một chủng viện, nay thuộc xã Long Thới, huyện Chợ Lách.Nếu em có về thăm quê đất Vĩnh Ghé Cái Nhum dòng Mang Thít nước còn xanh? (Thơ của HL) “Cái” là từ cổ của người Phù Nam, nghĩa là con rạch. Ở miền Nam có những địa danh bắt đầu bằng chữ Cái, chỉ vùng nằm bên một con sông nhỏ, chảy ra một con sông lớn. Ðịa danh Cái Nhum được đặt từ tên của cây nhum thuộc họ của cây cau, cây dừa. Cái Nhum nằm cách tỉnh lỵ Vĩnh Long 17 km về phía Ðông Nam. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Cái Nhum là quận của tỉnh Vĩnh Long. Một góc thủ phủ của thị trấn Cái Nhum. (Hình: Panoramia.com) Lịch sử Cái Nhum Ngày 25 tháng 1 năm 1908, Pháp lập quận Cái Nhum, gồm có 2 tổng là Bình Thạnh với 3 làng và Bình Chánh với 5 làng. Ngày 18 tháng 12 năm 1916, quận Cái Nhum bị giải thể, nhập tổng Bình Thạnh vào quận Chợ Lách và tổng Bình Chánh vào quận Tam Bình cùng tỉnh. Ngày 18 tháng 5 năm 1955, chính phủ Ngô Ðình Diệm lập quận Cái Nhum, thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở tách ra từ quận Châu Thành, gồm tổng Bình Long với 9 xã, quận lỵ đặt tại Cái Nhum. Ngày 08 tháng 10 năm 1957, giải thể quận Cái Nhum, nhập địa bàn vào quận Châu Thành và quận Chợ Lách cùng tỉnh. Ngày 10 tháng 3 năm 1961, quận Cái Nhum được tái lập, gồm 2 tổng là Thanh Thiềng với 4 xã và Bình Thiềng với 4 xã. Ngày 31 tháng 05 năm 1961, đổi tên quận Cái Nhum thành quận Minh Ðức. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cái Nhum là huyện của tỉnh Cửu Long. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cái Nhum hợp với huyện Châu Thành Tây (trừ các xã Tân Ngãi, Tân Hòa) và các xã Hòa Hiệp, Hậu Lộc của huyện Tam Bình thành huyện Long Hồ. Ngày 18 tháng 3 năm 1994, thành lập thị trấn Cái Nhum trên cơ sở tách ra từ xã Chánh Hội. Rạch Cây Nhum/Cái Nhum Thời Pháp rạch Cây Nhum được người dân đọc trại thành rạch Cái Nhum. Theo thời gian, lòng sông rộng ra và sâu hơn nên cư dân gọi là sông Cái Nhum. Bấy giờ đầu vàm có bắc cây cầu tên cầu Số 9 do đó sông Cái Nhum còn gọi là sông Số 9. Sông Cái Nhum dài khoảng 9 km. Vàm sông giáp sông Mang Thít, ngọn sông ăn sâu quanh co vào đất liền về hướng Tây Bắc đến giáp rạch Cây Sộp (xã Hòa Tịnh), từ đầu vàm vào khoảng 4,5km, lòng sông rộng khoảng 70m, còn lại rộng trung bình khoảng 32m và sâu đến 9-10 m. Ðây là sông lớn và dài nhất, thuộc địa bàn huyện Mang Thít. Sông Cái Nhum vừa là sông mang nguồn nước tưới tiêu vừa là đường giao thông thủy huyết mạch của quận. Từ thị trấn Cái Nhum theo tuyến sông Cái Nhum có thể lưu thông hàng hóa, hành khách đến các xã Chánh Hội, Nhơn Phú, Mỹ An, Hòa Tịnh, Bình Phước... Ðặc biệt, theo tuyến sông Cái Nhum đến kinh Thầy Cai đổ ra sông Cổ Chiên là tuyến lưu thông đường thủy chính từ trung tâm quận Mang Thít đến thị xã Vĩnh Long. Ven hai bờ sông nhà cửa san sát với nhiều cây ăn trái. Phía sau bờ Tây Bắc của sông Cái Nhum là hương lộ trải đá thông xe hai bánh vào mùa khô lẫn mùa mưa đến tận tỉnh lộ 31, thông về thị xã Vĩnh Long. Sông Cái Nhum còn gắn liền với chợ Cái Nhum, thị trấn Cái Nhum, huyện lỵ Mang Thít, do đó nó có vị trí rất quan trọng cho việc giao lưu cũng như phát triển kinh tế xã hội của huyện. Cái Nhum có họ đạo lâu đời nhứt miền Nam Họ đạo Cái Nhum có lâu đời nhất ở miền Nam Việt Nam, được thiết lập vào năm 1731. Lúc đầu có ít người Công Giáo đến đây tìm đất đai sinh sống. Họ tìm thấy có nhiều nhà bỏ hoang nên vào ở trọ nơi đó. Như thế là giai đoạn đầu của họ đạo được thành hình. Khi được biết có một số người Công Giáo tập họp sinh sống trong xã này, Linh Mục Giuse Garcia dòng Phanxicô (1687-1761) thường thăm viếng, như chủ chăn ưu ái luôn bám sát vào đoàn chiên. Tiếp sau Cha Garcia là Cha Emmanuel De Valdehermoso đang truyền đạo ở vùng sông Cửu Long giữa những năm 1742 đến 1747. Có thể Cha đã lần lượt ở tại Cái Nhum, Cái Mơn. Những tháng cuối năm 1749 cho đến tháng 6, 1750, đúng vào thời kỳ triều đình Huế cấm truyền đạo Kitô bùng lên, và lúc này số tín đồ vào khoảng 600 người, một con số rất to đối với thời ấy. Có thể nói toàn trong làng đều là người Công Giáo (?). Cái Nhum tương tự như Cái Mơn, Bình Nhâm, Nhị Bình là những vùng có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao và là vùng có nhiều vườn cây ăn trái như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm do các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo mang giống từ Penang về. Trương Vĩnh Ký xuất thân trường dòng Cái Nhum Ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1837, tại chợ Cái Mơn, làng Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, mất ngày 1 tháng 9 năm 1898 tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi. Lúc nhỏ đi học chữ Hán, sau đó được một linh mục người Pháp đưa vào học trường Dòng ở Cái Nhum.... Có thể nói chuyện này đã góp phần định hướng những suy tư và chánh trị Trương Vĩnh Ký sau này... Trong lĩnh vực văn hóa, Trương Vĩnh Ký đã chứng tỏ có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, không chỉ trong khoa học xã hội mà cả trong khoa học tự nhiên. Ðặc biệt về hoạt động sưu tầm, biên khảo, phiên âm, phiên dịch, ông đạt những thành tựu đáng kể. Mặt khác, cũng có nhiều ý kiến phê phán, buộc tội họ Trương là đã cộng tác với thực dân, phản lại Tổ quốc, như Lê Thanh trong quyển Trương Vĩnh Ký, Trần Huy Liệu trong Lịch sử 80 năm chống Pháp, Phạm Long Ðiền và Nguyễn Sinh Duy trong quyển Cuốn Sổ Bình Sanh của Trương Vĩnh Ký... Nhiều ý kiến trái ngược nhau tùy thuộc vào chỗ đứng, cách nhìn và đánh giá khác nhau của từng người đối với nhân vật lịch sử này. Ðến cuối đời Trương Vĩnh Ký đã rơi vào hoàn cảnh nghèo nàn, túng bấn khi bị Pháp bỏ rơi cho nên ông cũng đã bộc lộ nhiều băn khoăn, khắc khoải. Hai câu cuối của bài thơ tuyệt mệnh như muốn gửi gắm tâm sự cho người đời sau, khi phẩm bình về sự nghiệp của ông: Cuốn sổ bình sanh công với tội Tìm nơi thẩm phán để thừa sai Ngày nay, chúng ta không ai phủ nhận toàn bộ những cống hiến của ông đối với văn hóa của dân tộc. Nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký đã có những sai lầm về chính trị, hoạt động chính trị của ông rất ngắn ngủi so với hoạt động văn hóa khá nhất quán của ông là phục vụ trung thành nước Pháp, như ông đã hơn một lần thừa nhận. Hãy suy ngẫm về trường hợp Trương Vĩnh Ký... Chu Thich Vĩnh Long Tỉnh lập năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trong Nam Kỳ lục tỉnh, gồm 3 phủ: Định Viễn, Lạc Hóa và Hoằng An (Bến Tre). Ngày 23-3-1862, quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long. Ngày 20-6-1867, quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Vĩnh Long (lần 2), Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi thành thất thủ.Bên dòng Mang Thít - Lần đầu đến thị trấn Cái Nhum (huyện Mang Thít, Vĩnh Long), ngồi cùng bạn bên dòng sông Mang Thít trong một đêm mà sao sáng hơn trăng, Đan bảo, đến Mang Thít mà chưa câu cá đêm thì chưa coi là đến Mang Thít. Phải thú thực, tôi là người không biết kiên nhẫn nên cái thú câu cá thường không ham. Nhưng phần vì nể Đan, phần vì nụ cười tinh quái của anh khi trao chiếc cần câu bằng kim loại thuôn dài, tôi găm mồi, thả câu. Mấy con châu chấu mua hồi chiều, vặt cánh cẩn thận vẫn còn thoi thóp thở hóa ra lại là món ăn khoái khẩu của những chú cá lóc to sụ kiếm ăn đêm. Đêm. Dòng Mang Thít hiền hòa và rộng thênh thang với những lùm cây lấp lóa dưới ánh trăng hạ tuần hai bên bờ. Cảnh đẹp liêu trai mà huyền ảo quá đỗi. Bất giác, tôi dường quên mất mình đang đi câu mà đắm chìm vào những mênh mang sông nước, vào những dề lục bình dập dềnh nối đuôi nhau, trôi trôi. Thấy tôi nhìn dòng nước mung lung, Đan lại hồ hởi kể. Về tuổi thơ anh gắn liền với những mùa lũ lên và xuống của dòng Mang Thít hiền hòa. Về những sớm chèo thuyền đi học, con nước chưa về kịp nên đến lớp trễ. Về những đêm trăng chống chèo chở mẹ đi hái bông điên điển để mai kịp buổi chợ sớm. Rồi anh cười, dòng Mang Thít quê mình nhỏ, trên Sài Gòn nhiều người không biết. Vậy nhưng, từ đây xuôi thuyền một chút là tới Bến Tre, Gò Công ngược lên chút nữa thì đụng Cần Thơ, Sa Đéc, rẽ vỗ hướng kia lại ra sông Tiền, ngay đoạn Mỹ Thuận… Nói chung, từ Mang Thít có thể đi mọi nơi. Bình minh trên sông Mang Thít. Đang mải mê câu chuyện về dòng sông thì cá cắn câu. Một chú cá lóc đi kiếm ăn đêm. Chiếc cần câu trĩu xuống vì sức nặng của con cá và những cái quẫy cong người, tung tóe nước. Bằng động tác khá thuần thục, Đan kéo nhè nhẹ chiếc cần men theo mớn nước và nhấc chú cá lóc kém may mắn lên thuyền. Nghe tiếng cá quẫy và tiếng động của nước, tôi đã mường tượng ra một chú lóc to nhưng vẫn phải bất ngờ khi thấy nó nằm ngay đơ trên mạn thuyền sau một hồi vùng vẫy. Con cá nặng đến 2 ký chứ không ít. Chỉ ai từng ngồi câu, ăn cá nướng ngay trên thuyền, giữa một đêm sông nước miệt vườn mênh mang mà yên bình mới cảm thấy hết cái cảm giác thanh thản sau khi trút bỏ mọi lo toan trên bờ. Giữa dòng nước êm êm, chiếc thuyền tắt máy, thả lái, buông theo dòng nước. Mấy nhánh lục bình đồng hành cùng chúng tôi từ lúc chập tối tới giờ mới chịu tách ra bởi đoạn này, dòng sông tự nhiên vặn mình tạo nên một cái cù lao nho nhỏ bên kia. Những phù sa bồi đắp được con người trồng cây, dựng nhà. Và, điện le lói lóe ra sau những gốc dừa phía xa xa. Chúng tôi đi giữa dòng sông mà như đi giữa bao la đất trời. Bất giác tôi nhớ đến dòng Đáy bên những nương dâu ngút ngát của xứ Đoài quê mình. Có lẽ, ở đâu trên khắp đất nước Việt Nam này, dòng sông và những mái nhà hai bên san sát đều là những hình ảnh đẹp đẽ, thân thương vô cùng. Trăng đã xuống thấp, bầu trời ngả về sáng lúc tinh mơ có thoảng hơi sương khe khẽ lạnh. Một vài thuyền hoa trái đi chợ nổi chạy ngược chiều, đẩy nước dập dềnh. Tiếng chào hỏi í ới trên sông buổi sớm cứ như trong một thế giới chuyện kể mà tôi từng nghe. Anh bạn nổ máy chạy ngược lại hướng chợ Cái Nhum. Bẵng đi một chập, tôi lên khoang mà bỗng giật mình, dưới lòng sông Mang Thít, một chiếc mâm màu lòng đỏ trứng gà đang lừ đừ tỏa ra thứ ánh bình minh nhiệm màu, tươi sáng. Dòng sông lúc này nhộp nhịp hẳn lên với rất nhiều thuyền bè xuôi ngược. Tiếng người, tiếng thuyền máy đuôi tôm, tiếng nước vỗ bờ làm xôn xao buổi đầu ngày vùng sông nước... Bài và ảnh: ĐOÀN XÁ
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2013 2:46:13 GMT 9
Công tử Vĩnh Long Công tử Lời và vụ hỏi vợ có 1 không 2 Như đã nói, năm 16 tuổi Công tử Lời được cha sắm cho 1 chiếc xe hơi hiệu DeLage mui trần với giá 5.000 đồng tiền Đông Dương bấy giờ, tương đương với giá 500 tấn lúa. Hồi đó ở xứ Cái Nhum chỉ có một mình Công tử Lời có xe hơi, cộng thêm với cái mã đẹp trai, con nhà giàu, nên cậu Bảy Lời là niềm mơ ước hàng đêm của không biết bao nhiêu cô con gái trong những gia đình danh gia vọng tộc xứ Cái Nhum, Long Hồ, Vĩnh Long. Mỗi lần Công tử Lời đưa xe ra đường, các cô gái quần là áo lượt thi nhau xin được quá giang xe của cậu Bảy, mong lọt vào mắt xanh của cậu. Nhưng Công tử Lời lúc đó chẳng thèm tơ tưởng gì đến chuyện trai gái yêu thương, trong mắt của cậu Bảy Lời lúc đó đám con gái con nhà khuê các, danh gia vọng tộc trong vùng hình như chẳng đáng giá bao nhiêu. Tuy vậy với tính tình phóng khoáng, cậu Bảy Lời sẵn sàng cho các cô gái quá giang xe, nhưng lần nào cho các cô nàng quá giang xe cậu Bảy Lời cũng tìm cách phá đám cho bõ ghét. Những bậc bô lão xứ Cái Nhum còn nhớ, một hôm cậu Bảy Lời đi đám cưới ở thị xã Vĩnh Long. Tình cờ đi chung đám cưới với cậu Bảy Lời có các tiểu thư con nhà khuê các ở xứ Cái Nhum. Khi phát hiện cậu Bảy Lời trong đám cưới, các tiểu thư xúm lại bắt chuyện. Đến lúc ra về, 4 cô tiểu thư xứ Cái Nhum nằng nặc đòi cậu Bảy Lời cho quá giang xe hơi về nhà, không chịu đi ghe. Nghe mấy tiểu thư đòi đi xe hơi của mình, cậu Bảy Lời vui vẻ đồng ý, mở cửa xe cho 1 cô lên ngồi phía trước, 3 cô ngồi ở ghế sau. Cả 4 cô tiểu thư chưa kịp yên vị trên xe thì cậu Bảy Lời bật công tắc nổ máy xe rồi đạp ga cho xe phóng vụt một cái làm các tiểu thư ngã chúi nhủi ra phía trước, mặt mày xanh như tàu lá nhưng chẳng dám hé răng than thở tiếng nào. Từ Vĩnh Long về Cái Nhum, cậu Bảy Lời cho xe phóng như bay khiến khăn choàng, áo dài của các tiểu thư tung bay phấp phới, tóc nhiều cô dựng đứng cả lên, cô nào cô nấy mặt mày méo xẹo như muốn khóc. Cuối cùng, một cô bạo gan năn nỉ cậu Bảy Lời chạy chậm lại, nhưng càng năn nỉ thì cậu Bảy Lời càng cho xe chạy hết tốc lực, khiến các cô ngồi im thin thít. Khi xe về đến chợ Cái Nhum, cả 4 tiểu thư áo xống xộc xệch vội vàng xuống xe, đứng xếp hàng chắp tay vái cậu Bảy Lời 1 cái thật dài rồi ai về nhà nấy, từ đó về sau chẳng cô nào dám xin quá giang xe của Công tử Lời. Cô Năm Võ Thị Phối, người vợ tảo tần chung thủy của Công tử Bảy Lời. Nhưng cuối cùng thì cậu Bảy Lời cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng, thương yêu và quyết tâm cưới bằng được một cô thôn nữ lớn hơn mình 2 tuổi về làm vợ. Người ta kể rằng, trong những chuyến đi chơi cùng đám bạn bè ở khu vực ngã tư Long Hồ, một hôm ghé nhà người quen thì cậu Bảy Lời bất ngờ chạm mặt cô Năm Phối (Võ Thị Phối), con ông Hương cả Tường của làng An Đức, quận Châu Thành (nay là huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long). Ông Cả Tường là người nề nếp gia phong, tuy không giàu có nhưng là người có học, nổi tiếng sống đạo đức, thanh liêm. Cô Năm Phối có 9 anh chị em, trong đó có 7 gái. Người ta nói cô Năm Phối không phải là người phụ nữ hương sắc đến mức tuyệt thế giai nhân, lại lớn hơn cậu Bảy Lời 2 tuổi, nhưng là một thôn nữ có khuôn mặt tròn ưa nhìn, nước da trắng trẻo và có đôi bàn tay, bàn chân rất đẹp. Nhưng trong con mắt cậu Bảy Lời, cô Năm Phối là một cô gái nết na, nhân hậu, đáng yêu và đáng để lấy làm vợ. Muốn là làm, sau khi hỏi thăm được thân thế của cô Năm Phối, một hôm Công tử Lời lái xe thẳng đến nhà cô Năm, xin gia nhân cho vào gặp ông Cả Tường. Khi giáp mặt vị nhạc phụ tương lai, Công tử Lời chẳng ngại ngùng, nói thẳng: “Thưa bác, con muốn cưới cô Năm, con gái bác, làm vợ”. Ông Cả Tường chới với, vì ngày xưa muốn đi hỏi vợ là cả một chuyện đại sự, cha mẹ người con trai phải nhờ mai mối đến dạm ngỏ, còn Công tử Lời đơn thân độc mã đến gặp người lớn xin hỏi vợ là chuyện xưa nay chưa hề có. Ông Cả Tường nhìn cậu thanh niên non choẹt, ăn mặc bảnh bao một hồi, rồi ông nghiêm sắc mặt nói thẳng: “Cậu còn trẻ, nên lo lập nghiệp. Hiện tại cậu còn xài tiền nhà. Tôi không ham rể giàu, không ham xe hơi, nhà lầu. Ít ra cậu cũng phải nói với gia đình nhờ mai mối, chớ có “phang ngang, bửa củi” như vậy là không phải lễ…”. Bị từ chối thẳng, cậu Bảy Lời về nhà suy tính kế` khác, quyết tâm cưới cho bằng được cô Năm Phối về làm vợ. Cậu Bảy Lời tập hợp 12 gia nhân, sắm 12 mâm lễ vật, sai họ chèo ghe 12 cây số lên nhà ông Cả Tường để hỏi vợ, nhưng cậu Bảy không đi theo đoàn ghe. Ông Cả Tường thấy chuyện động trời như vậy nên nhất định không tiếp. Thực hiện lời dặn của Công tử Lời, đoàn gia nhân ngay lập tức bèn giở chiêu ăn vạ: “Ông Cả không nhận sính lễ, về nhà chúng con bị Công tử Lời cho nghỉ việc”. Gần cả ngày đoàn gia nhân nằm ăn vạ tại nhà ông Cả Tường với 12 mâm sính lễ hỏi vợ khiến dân chúng trong làng hay tin kéo tới xem rần rần như xem hát bội. Bí quá, ông Cả Tường bèn xuống nước đồng ý nhận 2 mâm lễ rồi năn nỉ đoàn người lui về. Từ khi được ông Cả Tường nhận 2 mâm sính lễ, cậu Bảy Lời nghiễm nhiên xem mình đã là con rể trong nhà ông Cả, nên mỗi lần lái xe đi ngang nhà ông thì cậu Bảy đều ghé thăm, tặng quà. Nhiều lúc cậu Bảy Lời lái xe hơi đi săn ở miền Đông về thì đều cho xe ghé nhà “nhạc phụ tương lai” chia đôi “chiến lợi phẩm” săn được, dù là con nai lớn hay con heo nhỏ. Ông Cả Tường lúc đầu rất bực mình vì tính tình ngông nghênh, xốc nổi xem trời bằng vung của Công tử Lời, nhưng mỗi lần Công tử Lời ghé thăm ông Cả đều phải miễn cưỡng ngồi tiếp chuyện cậu thanh niên. Càng ngày ông Cả Tường càng phát hiện cậu Bảy Lời tuy sống phóng khoáng ngang tàng nhưng thắng tính, hỏi chuyện gì cậu Bảy Lời cũng đáp lại lễ phép, trôi chảy, kiến thức uyên thâm, chữ Pháp, chữ Hoa thông thạo khiến ông dần dần cũng thấy có cảm tình. Thế là năm 17 tuổi, năm 1928, Công tử Lời được ông Cả Tường chấp thuận cho hỏi cưới cô Năm Phối về làm vợ. Sau ngày về làm vợ của Công tử Lời, với bổn phận là cô con dâu út, tính tình chân thật, nết na, hiền dịu nên cô Năm Phối rất được ông bà Châu Xuyên thương yêu, tin tưởng. Người ta kể, năm ông Châu Xuyên bệnh nặng nhắm bề khó qua khỏi nên cho gọi con dâu út là cô Năm Phối đến bên giường bệnh. Ông Châu Xuyên đưa tận tay cô Năm Phối một cái va li bằng nhôm, kích thước to đến 30 x 40 x 10 cm và dặn dò: “Đây là tất cả gia sản của nhà ta. Tía mất rồi con ráng lo cho má con thằng Lời và đứa con sắp chào đời của nó. Con không được tiết lộ với ai. Nếu sợ không an toàn thì gởi cho chú Hai Xi, tá điền của tía, là người trọng tín nghĩa”. Cô Năm Phối mở va li ra thấy toàn tiền giấy 100 đồng hình bộ lư chất đầy va li. Cô hết sức bàng hoàng vì từ nhỏ đến lớn cô chưa được tận tay cầm tờ giấy 10 đồng, nói chi đến 1 va li tiền đầy ắp giấy bạc 100 đồng. Sau vụ giao chiếc va li tiền, mấy ngày sau thì ông Châu Xuyên qua đời. Lo tang lễ cho cha chồng xong, trong lúc chưa gửi tiền được cho người tin cẩn, cô Năm Phối đem chôn chiếc va li tiền trong bồ lúa rồi giăng mùng ngủ ngay trên đó để giữ chiếc va li. Sau này, nhờ chiếc va li tiền của ông Châu Xuyên giao lại mà cô Năm Phối đã nhiều lần cứu công tử Bảy Lời ra khỏi lao tù vì ông mang tội đi làm Quốc sự. 5 lần vào tù ra khám Trong lòng người dân Vĩnh Long, Công tử Lời không chỉ là người nhân ái, hay giúp đỡ tá điền, người nghèo khó mà còn từng 5 lần vào tù ra khám . Ngã tư Long Hồ, nơi Công tử Lời gặp được cô Năm Phối người vợ thủy chung con ông Hương cả Tường, cũng chính là nơi Công tử gặp được người thanh niên cùng trang lứa tên Nguyễn Văn Đại, thành viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội vào năm 1929. Năm 1930, nơi đây đã hình thành chi bộ Cộng sản đầu tiên tỉnh Vĩnh Long do ông Nguyễn Văn Thiệt làm bí thư (sau này ông Thiệt là bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long). Chính mối gặp gỡ này đã "giúp" công tử Lời gặp "lý tưởng" Cộng sản và tham gia vào phong trào cs. Trong lịch sử tỉnh Vĩnh Long do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản, kể lại sự việc đấu tranh đầu tiên của người dân tỉnh Vĩnh Long chống lại thực dân Pháp , có sự tham gia của Công tử Bảy Lời: “Ngày 2/6/1930, khoảng 2.000 (?) người gồm nông dân, tiểu thương, học sinh, thợ thủ công… từ Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm kéo về ngã tư Long Hồ, sắp thành đội ngũ, giương cao biểu ngữ “Tinh thần ngày Quốc tế Lao động 1-5 muôn năm!”, “Đảng cs Đông Dương muôn năm!”, “Đả đảo đế quốc Pháp và quan làng tay sai!”, “Giảm thuế cho dân nghèo!”. Ông Châu Văn Sanh (Công tử Lời) là người dẫn đầu đoàn biểu tình kéo về tỉnh lỵ Vĩnh Long trong tiếng hô vang, tiếng tù và, tiếng mõ inh ỏi. Khi đoàn biểu tình đến Văn Thánh miếu (nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long), cách dinh chủ tỉnh Vĩnh Long khoảng 2 cây số thì bị lính Pháp và lính người Việt chặn đường. Theo lệnh của quan chủ tỉnh Vĩnh Long, đám binh lính thẳng tay nổ súng vào đoàn người biểu tình làm 8 người chết tại trận, 60 người khác bị thương. Công tử Bảy Lời Châu Văn Sanh bị bắt tại trận và bị giặc và đưa về giam giữ”. Các tài liệu của tỉnh Vĩnh Long còn ghi rõ: trong cuộc đàn áp tại Văn Thánh miếu, Công tử Lời bị giặc đánh chảy máu đầu và bị lôi lên xe đem về giam ở nhà lao Vĩnh Long, sau đó chuyển lên giam tại Sài Gòn. Sự kiện trên khiến cô Năm Phối phải dùng tiền lo lót để ông được tha, khoảng 2 tháng sau khi bị bắt giam thì Công tử Lời được ra tù. Đó là lần thứ một công tử Bảy Lời bị bắt. Người ta nói phần nhờ cô Năm Phối chạy lo đút lót, phần do xuất thân từ tầng lớp điền chủ, lại là “công tử” ăn chơi có tiếng nên thực dân Pháp không thể tin cậu Bảy Lời là người cầm đầu đoàn biểu tình. Sau khi ra tù, Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động , cuối năm 1931 lại bị bắt. Hồi ký của ông Nguyễn Văn Nhung, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, có đoạn viết: “Tháng 7/1931, tôi ở chung khám lớn Sài Gòn với Tổng Bí thư Trần Phú, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Ngô Văn Chính và Châu Văn Sanh. Trần Phú bị đánh đến lao phổi nặng, tôi và Châu Văn Sanh nằm kế bên thay nhau chăm sóc cho Trần Phú, nhưng Trần Phú bị mệt và ho liên tục. Châu Văn Sanh có mặt lúc Trần Phú trút hơi thở cuối cùng, sau đó có dự lễ mặc niệm ”. Ông Nguyễn Văn Nhung cũng có nhắc lại một chuyện về Công tử Bảy Lời lúc ở Khám lớn Sài Gòn: “Công tử Lời gan dạ lắm. Năm 1931 Trần Phú bị bắt, bị tra tấn dữ dội, thêm bệnh lao phổi rất nặng nhưng giặc lại biệt giam không cho ai chăm sóc. Công tử Lời cảm phục nên đã bẻ khóa phòng giam của Trần Phú để vào chăm sóc cho ông, lén tiếp tế thức ăn, thuốc uống”. Lần thứ 2 Công tử Bảy Lời bị bắt, cô Năm Phối lại lặn lội từ Cái Nhum lên Vĩnh Long, rồi lên Sài Gòn tìm luật sư “chạy án” cho ông. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, quê Long Châu, Vĩnh Long, lại là giám đốc Nhà thương điên Biên Hòa, bày kế làm giám định sức khỏe cho “công tử” Lời và kết luận ông bị bệnh tâm thần. Sau này bà Năm Phối kể lại cho con cháu nghe vụ này bà tốn hết “3 sọt tiền bạc trắng” (khoảng 3.000 đồng tiền Đông Dương) để “công tử” thoát nạn tù. Đến đầu năm 1932 Công tử Bảy Lời lại được ra tù. Sau khi ra tù Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động một thời gian thì ông lại bị địch bắt lần thứ 3 vào ngày 3-7-1933. Sau gần một năm giam giữ, Công tử Bảy Lời bị đưa ra tòa xét xử tội làm quốc sự. Ngày 1-6-1934 Tòa kêu án Công tử Bảy Lời 10 năm tù giam và 10 năm đày biệt xứ. Nghe được hung tin, cô Năm Phối lại tiếp tục “gánh bạc trắng” đi chạy án, ông lại được tha. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc, Công tử Bảy Lời tích cực tham gia phong trào đòi dân chủ, dân quyền. Ông tiếp tục bị bắt giam lần thứ 4 tại Mỹ Tho. Lần này những kẻ bắt giam Công tử Bảy Lời chẳng thèm xét xử làm gì cho mệt mà thẳng thừng bắn tin cho gia đình mang tiền qua chuộc ông về. Những tư liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn ghi, lần thứ 4 đi chuộc ông về cô Năm Phối phải chi mất “2 thùng bạc sọ”, khoảng 200 đồng tiền Đông Dương. Những người thân trong gia đình của Công tử Bảy Lời còn nhớ rõ, tuy thân bị tù đày nhưng cậu Bảy Lời vẫn giữ nguyên bản chất “công tử” hay giúp đỡ mọi người. Trong tù, Công tử Bảy Lời hay gửi giấy ra nhờ gia đình mua bún, bánh hỏi, lạp xưởng, tôm khô, heo quay, thịt chà bông, phô mai…mỗi lần vài chục ký để gửi vô tù, mà phải là loại thượng hảo hạng. Gia đình hỏi ông có 1 mình cần gì nhiều thức ăn như vậy, Công tử Bảy Lời trả lời tỉnh queo: chia cho mấy bạn tù cùng bồi bổ sức khỏe . Sau vài lần Công tử Bảy Lời bị bắt giam, bà Đào Thị Bòi gom góp tiền của để thu xếp đưa ông sang Hongkong sinh sống để ông ngưng hoạt động cách mạng nhưng Công tử Lời nhất định không chịu đi, ở lại quê hương tham gia đấu tranh. Chiếc va ly nhôm đầy ắp giấy bạc 100 đồng do ông Châu Xuyên trao tận tay cô Năm Phối, sau này hết sạch vì lo lót chuyện tù đày và tiếp tế cho Công tử Bảy Lời. Lần thứ 5 Công tử Bảy Lời bị giặc bắt là vào năm 1940. Theo lời kể của ông Nguyễn Thành Thơ, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TPHCM, năm 1937-1939, theo yêu cầu cách mạng, Công tử Lời mở 1 tiệm sách ở thành phố Cần Thơ, tên nhà sách là Đời Mới, ở cầu tàu Lục Tỉnh đi lên phía tay trái, nay là đường Ngô Quyền, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Tại tiệm sách này, Công tử Bảy Lời bán sách cách mạng tiến bộ, sách nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thời kỳ này Mặt trận Bình dân Pháp cầm quyền nên các loại sách này được bán tự do. Vào thời điểm này, Công tử Bảy Lời rất nổi tiếng, giao du với nhiều nhà cách mạng như: Nguyễn An Ninh, Châu Văn Liêm, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Nhỏ…Khi nội các Daladier thay Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp thì ở Đông Dương, thực dân Pháp quay lại đàn áp dã man những người theo phong trào cs. Nhà sách Đời Mới ở Cần Thơ của Công tử Bảy Lời bị đóng cửa nên ngày 4-1-1940 ông thuê xe chở sách về quê nhà chợ Cái Nhum. Khi xe chở sách đi đến ngã tư Long Hồ thì bị chặn bắt quả tang trên xe có chở nhiều sách cấm và tài liệu tuyên truyền Cộng sản. Công tử Bảy Lời bị giặc đưa về Sài Gòn giam 1 thời gian, dù cô Năm Phối đã hết sức chạy chọt lo lót nhưng đến ngày 20-7-1940 ông bị tòa án Sài Gòn kết tội “vận động lực lượng bất hợp pháp để lật đổ chính quyền” với bản án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ. Sau khi bị tòa kết án, Công tử Bảy Lời bị đày ra Côn Đảo. Theo lời kể của bà Võ Thị Canh, em ruột của cô Năm Phối, 6 tháng trước ngày mãn hạn tù, Công tử Bảy Lời có gửi về gia đình 1 bức thư. Đây là bức thư cuối cùng ông viết từ nhà tù Côn Đảo, nên sau ngày Công tử Bảy Lời hy sinh bức thư của ông được bà Năm Phối cất giữ trong tủ sắt như một bảo vật. Bà Canh kể, bức thư cuối cùng của Công tử Bảy Lời viết bằng mực tím, nội dung tha thiết nhớ nhung vợ con, xin lỗi vợ vì mình nặng việc đại sự quốc gia nên đã không làm tròn trách nhiệm 1 người con đối với mẹ già, không làm tròn trách nhiệm người chồng, người cha… Trong bức thư, Công tử Bảy Lời còn cho gia đình biết sau khi về đến đất liền ông phải tiếp tục chịu án “lưu đày biệt xứ 10 năm” trên Long Khánh, Đồng Nai. Theo thông báo của chính quyền thực dân, ngày Công tử Bảy Lời được về đất liền là ngày 3-7-1943, nên cô Năm Phối và gia đình đếm từng ngày để mong gặp mặt ông. Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, nơi Công tử Bảy Lời cầm đầu đoàn biểu tình đầu tiên ở Vĩnh Long và bị giặc bắt lần thứ nhất. Càng gần đến ngày mãn hạn tù, gia đình, người thân và nhiều đồng chí cs của ông trong đất liền càng mong ngóng, trông tin, bởi trong Công văn của chúa đảo Côn Sơn gửi toàn quyền Đông Dương vào ngày 21/6-1943 báo cáo danh sách 17 tù nhân được trả tự do vào ngày 3-7 năm đó có ông Châu Văn Sanh, Công tử Bảy Lời. Nhưng Công tử Bảy Lời đã không bao giờ về được đất liền, quê mẹ. vào ngày 3/7/1943, cái ngày mà gia đình lẽ ra phải được gặp mặt Công tử Bảy Lời thì cả nhà ngất xỉu khi nhận được hung tin ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 27-6 tại nhà tù Côn Đảo, trước ngày mãn hạn tù 6 ngày. Công tử Bảy Lời hy sinh khi chỉ mới 33 tuổi, cái tuổi sung mãn nhất của người thanh niên đang xả thân vì nghiệp lớn. Sau này Công tử Bảy Lời được Nhà nước cs truy tặng Liệt sĩ cs. Về cái chết của Công tử Bảy Lời ở nhà tù Côn Đảo, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào xác thực vì sao ông hy sinh chỉ 6 ngày trước khi mãn hạn tù giam. Theo 1 vài tài liệu (chủ yếu qua những câu chuyện kể của những người từng biết Công tử Bảy Lời) thì có tin nói ông chết vì bị suy kiệt sức khỏe do mắc bệnh kiết lỵ quá nặng nhưng bọn cai ngục không cho chữa trị. Nhưng theo tin đồn và tài liệu của người Pháp để lại, có cơ sở (?) để tin rằng Công tử Bảy Lời chết do bị bọn cai ngục thủ tiêu theo lệnh quan thầy. Trong công văn của chúa ngục Côn Sơn gửi cho Toàn quyền Đông Dương ngày 21/6/1943 có đề cập đến việc phải thả tù nhân Châu Văn Sanh (tức Công tử Bảy Lời) vào ngày 3/7/1943, nhưng không hề đề cập gì đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật của công tử. Chỉ 6 ngày sau khi có công văn này thì Công tử Bảy Lời chết. Người ta đồn rằng, do biết chắc sau khi mãn hạn tù Công tử Bảy Lời sẽ tiếp tục hoạt động cách mạng chống lại chính quyền thực dân Pháp nên giặc Pháp đã lén lút thủ tiêu ông ? Nguồn tin này có cơ sở vì giặc Pháp liệt ông là thành phần ngoan cố, chống phá chính quyền Pháp bị bắt đã 5 lần nhưng vẫn không sợ, sau khi ra tù có thêm uy tín để tập hợp quần chúng đấu tranh nên chúng không cho chữa trị ? 1 tài liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn cho biết: Công tử Bảy Lời chết, Pháp đề cập đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật của công tử ,khong tính toán cho chữa trị trước, sau khi nhận được thư của Công tử Bảy Lời thông báo ông sẽ được tha về đất liền để chấp hành bản án 10 năm lưu đày biệt xứ thì cô Năm Phối vội vã đến Cảnh sát tỉnh Vĩnh Long để hỏi thăm chuyện đi đày biệt xứ. Tại đây cảnh sát trưởng trả lời Năm Phối: “Ổng không về đâu, bà đừng chờ đợi mất công. Đất nước này làm gì có chỗ cho ổng ”. Lúc đầu gia đình vợ con của Công tử Bảy Lời tưởng cảnh sát trưởng hù dọa. Nhưng sau đó chuyện Công tử Bảy Lời không bao giờ về tới đất liền gặp mặt vợ con đã thành sự thật. Công tử Bảy Lời chết để lại người vợ và 4 người con, cho đến nay người dân Vĩnh Long vẫn còn nhớ mãi ?
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2013 4:59:23 GMT 9
Thân thế Công tử Vĩnh Long Tên thật là Châu Sanh, tên trong giấy khai sinh là Châu Văn Sanh. Nhưng trong gia đình và trong tâm thức những bô lão ở đất Vĩnh Long, ít người nhớ tên cúng cơm khai sinh của ông mà người ta chỉ nhớ tên thường gọi của ông là Lời, Công tử Lời. Lời sinh ngày 3/4/1911 tại làng Chánh Hội, quận Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long, nay là thị trấn Cái Nhum, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, cách thị xã Vĩnh Long vài mươi cây số về hướng quốc lộ 53 đi tỉnh Trà Vinh. Theo các tài liệu lưu trữ, cha Công tử Lời tên là Châu Xuyên, sinh năm 1865, là người Hoa gốc ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Nghe đồn rằng, tổ tiên của ông Châu Xuyên chạy theo Long Môn tướng quân Dương Ngạn Địch rời bỏ quê cha đất tổ chạy về phương Nam xin chúa Nguyễn cho định cư ở Mỹ Tho để tìm cơ hội phản Thanh phục Minh, lần hồi tổ tiên của ông Châu Xuyên trôi dạt đến xứ Gò Công (tỉnh Tiền Giang ngày nay) để lập nghiệp. Hồi mới đến xứ Gò Công, tổ tiên của ông Châu Xuyên rất nghèo, làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Năm 1904 xứ Gò Công xảy ra trận lụt lớn khiến nhiều người chết thảm, nhiều gia đình tan nát, ly tán khắp nơi, xứ Gò Công trở nên nghèo khó. Lúc đó ông Châu Xuyên cùng mẹ đi khắp nơi kiếm sống, cuối cùng phiêu dạt về làng Chánh Hội. Xuất thân là nhà nghèo , nhưng nhờ biết khai thác thương mại ( bóc lột ?) dân lành miền nam nên làm giàu nhanh chóng : Ở nơi đất khách quê người, hai mẹ con ông Châu Xuyên rất nghèo, nghèo đến mức hàng ngày mẹ ông Châu Xuyên phải rang đậu phộng gói vào giấy để cho ông ra chợ Cái Nhum ngồi bán kiếm tiền trang trải cuộc sống. Chân dung cậu Bảy Lời lúc thanh niên. Người ta kể rằng, lúc đó do nhà quá nghèo, ông Châu Xuyên ngồi bán đậu phộng mà trong bụng rất thèm nhưng không biết làm sao, đành len lén mở bịch đậu phộng lấy mỗi bịch một hạt ăn cho đỡ thèm ( bản chất gian tham từ nhỏ ). Bán lục lạc được một thời gian, sẵn khéo tay nên ông Châu Xuyên tìm đất sét nắn lục lạc đủ hình thù của các con vật gắn vào que tra bán cho trẻ con. Từ những ngày bán đậu phộng, bán lục lạc ở chợ Cái Nhum, ông Châu Xuyên và mẹ dè sẻn nên dần dà tích lũy được một ít vốn và chuyển sang nghề kinh doanh, gặp ai bán món gì mà nhắm bán lại có tiền lợi nhuận là ông Châu Xuyên làm ngay. Sau nhiều năm buôn bán kiểu đó , cuối cùng ông Châu Xuyên mua một miếng đất cất một căn nhà ngay tại chợ Cái Nhum, kề bên dòng sông Măng Thít. Từ khi có nhà, ông Châu Xuyên vừa tiếp tục kinh doanh mua bán có lời ,vừa mở tiệm hốt thuốc Bắc gia truyền, chủ yếu là các loại thuốc trị bệnh ban, trị ho, thuốc xổ. Nhờ mát tay nên tiệm thuốc của ông Châu Xuyên ngày càng đông khách,và công việc kinh doanh mua bán khác cũng lời ghê gớm, nên chẳng bao lâu sau ông Châu Xuyên trở thành nhà tư sản giàu có trong vùng, mua thêm đất cát, mở mang điền sản, thuê người nghèo trong vùng ,....và trở thành một đại điền chủ khét tiếng trong vùng nghèo nàn này. Giàu có nhất vùng nhưng ông Châu Xuyên không bao giờ quên những ngày cơ cực lúc hàn vi, lúa ruộng thu của tá điền mỗi năm mấy chục ngàn giạ nhưng ông không bao giờ chi xài. Người ta kể rằng ông rất cần kiệm , ông Châu Xuyên tuy giàu có nứt đố đổ vách,dể dàng và cực kỳ nhanh chóng nhưng luôn luôn bên ngoài vẫn mang một đôi guốc gỗ có đóng thêm miếng cao su dưới đế để…đi cho lâu mòn. Một lần, con cháu thấy ông đi hoài có một đôi guốc, bèn lấy quăng xuống sông Măng Thít. Ông Châu Xuyên hay được liền ra bộ la mắng con cháu rất nhiều , và buộc người nào quăng đôi guốc xuống sông phải lội xuống nước vớt đem về trả lại cho ông. Tuy nhiên củng có người nói ông Châu Xuyên có khi cũng tỏ ra giúp đỡ vài người nghèo khó trong vùng ? Nhưng có Người nói, ông Châu Xuyên sống bần tiện lắm . Trong đời sống tình cảm, ông Châu Xuyên lại gặp trắc trở. Mọi người kể rằng, khi đã an cư lạc nghiệp ông Châu Xuyên cưới vợ và người vợ này sinh được cho ông ba người con thì bị bạo bệnh qua đời, khiến ông hết sức buồn rầu. Một thời gian sau ngày bà vợ lớn mất, ông Châu Xuyên đi mua bán làm ăn ở Mỹ Tho (Tiền Giang) thì gặp bà Đào Thị Bòi, một phụ nữ góa chồng, có hai con nhưng rất đẹp người, đẹp nết, khiến ông Châu Xuyên xao xuyến. Cảm thấy không thể thiếu vắng người phụ nữ hai con của xứ Mỹ Tho, ông Châu Xuyên cầu hôn và được bà Bòi chấp nhận về Cái Nhum làm người nâng khăn sửa túi cho ông, nhưng với điều kiện là ông Xuyên cũng phải bảo bọc, nuôi nấng hai đứa con riêng của bà Bòi như con ruột của ông. Ông Châu Xuyên nhận lời của bà Bòi, rước hai người con riêng của bà vợ kế về Cái Nhum, đặt tên theo thứ tự của nhà ông là Năm Thạnh và Sáu Lợi, vì trước đó đã có ba người con riêng của ông là Hai Tửng, Ba Tui, Tư Thìn. Sau khi chung sống với nhau, ông Châu Xuyên và bà Bòi cùng thương yêu chăm sóc con riêng của nhau như con ruột của mình. Đến năm ông lão Châu Xuyên 60 tuổi, bà Bòi lại bất ngờ sinh cho ông một người con chung đặt tên là Châu Sanh, chính là Công tử Lời. Người ta kể rằng, sở dĩ ông Châu Xuyên gọi cậu Sanh bằng tên Lời là có nguyên do, căn cứ vào việc ông Xuyên hay nói với bà Bòi rằng: “Năm đứa con của tui với bà là vốn liếng,nay tui đã 60 tuổi mà còn sinh thêm một đứa này, đây chính là lời”. Từ sự việc đó mà ông Châu Sanh có tên thường gọi là Bảy Lời, sau này người quanh vùng gọi chết danh là Công tử Lời. Phóng túng lúc thiếu thời Khi sinh ra từ người cha già con mọn , hơn nữa cậu Bảy Lời lại là con trai út trong khi anh chị đều lớn tuổi có gia đình riêng nên cậu rất được ông Châu Xuyênh và bà Bòi cưng chiều,lại thừa hưởng tiền bạc nhiều của cha và mẹ nên ngay từ nhỏ cậu Bảy Lời đã tỏ rõ tính khí bất thường .tiêu xài vô lối , tâm tính không hiểu được . Những tài liệu của gia đình ghi rằng, năm cậu Bảy Lời được 7 tuổi, một hôm cậu được người làm công cho gia đình ông Châu Xuyên dẫn qua sông Măng Thít để đi thăm một chành lúa. Tại đây cậu Bảy Lời đã vô cớ xông vào đánh một thiếu niên nghèo lớn tuổi gấp đôi và to con hơn. Khi nghe người làm công cấp báo chuyện cậu Bảy Lời đánh kẻ khác , ông Năm Thạnh (là anh thứ năm cùng mẹ khác cha với cậu Bảy Lời) vội vàng chèo ghe qua sông xem sự thể thế nào thì hởi ơi ,cậu Bảy Lời mặt mũi thâm tím vì bị đánh no đòn nhưng vẫn tửng tửng " quyết chiến" chứ không la khóc. Ông Năm Thạnh thấy phần quấy nên phải nhào vô can ngăn và lôi cậu bảy Lời xuống ghe đưa về nhà. Về đến nhà, bà Bòi gọi cậu Bảy Lời vào hỏi chuyện đánh nhau rồi nghiêm sắc mặt nói: “Sao con lại đi đánh lộn với người ta”. Tức thì cậu Bảy Lời trả lời mẹ: “Nó ăn hiếp mấy người khác, con không đánh nó sao được, phải đánh cho nó chừa cái tật ỷ mạnh ăn hiếp người khác”, khiến bà Bòi chỉ còn biết khuyên cậu từ nay đừng nên vô cớ gây sự với kẻ khác. Một chuyện khác: nhiều người kể rằng vào năm cậu Bảy Lời khoảng 10-11 tuổi,không như nhưng bé con trai , ngày nào cậu cũng hay la cà ngoài chợ Cái Nhum, hay ngồi ăn quà vặt như mấy trẻ em gái. Nhưng mỗi lần ăn quà thì cậu Bảy Lời lại không bao giờ ăn một mình mà còn rũ rê bạn bè ở chợ Cái Nhum đến ăn chung ?, lẽ dĩ nhiên là tiền ăn hàng đó cậu phải lấy tiền cha mẹ cậu ra trả cho người ta. ( Đúng là của thiên trả địa , cha cậu làm giàu không do sức lao động của mình một cách nhanh chóng nên sanh ra cậu để trả nợ .) Vốn cậu Bảy hay sai bảo ,nhờ vả kẻ khác,nhưng khác với gia đình là sau khi sai bảo xong cậu đều lấy tiền (dĩ nhiên là tiền cha mẹ cậu Bảy) trả cho họ. Ai hỏi tại sao thì cậu Bảy Lời nói nhờ người ta việc gì thì phải trả công cho họ, hơn nữa trả tiền công là tiền cha mẹ cậu Bảy để bạn bè có tiền ăn bánh cậu không phải bao trả ,hay giúp họ khỏi xin cha mẹ . Nhiều người còn nhớ rằng, chợ cái Nhum chỉ là một ngôi chợ làng, nên buổi chiều nhiều hàng quá bánh lâm cảnh ế ẩm. Cậu Bảy Lời có lối sống phóng túng ngang tàng ( hay cà tững ? ),nên Cậu Bảy để ý hông nói hông rằng, đi đến từng hàng ăn lấy mỗi thứ cho vào miệng cắn một miếng rồi bỏ , đi về. Những người bạn hàng nhân cớ này đem quà bánh bán ế đến nhà “bắt đền” ông Châu Xuyên. Dĩ nhiên là ông Châu Xuyên đã phải cắn răng xuất tiền đền bù cho những người bán hàng dù ông sống vốn dè xẽn, đây củng là cái hào phóng của công tử giúp cho người làm công cho nhà ông Châu Xuyên và con cháu của họ lại có thêm quà vặt bất ngờ để ăn khỏi mất tiền. Nhưng cậu Bảy Lời nổi tiếng tinh nghịch ( cà tững ) là lần gánh hát về chợ Cái Nhum. Ở xứ quê mùa này mỗi lần có gánh hát về diễn là người lớn, con nít bu coi đen nghẹt, nhưng ngặt một nỗi, người lớn thì có tiền mua vé vào xem hát, còn tụi con nít không tiền đành chịu đứng bên ngoài mà nghe với vẻ thèm thuồng. Nhưng nghe một hồi chịu không nổi, đám con nít bàn nhau xé màn vải che xung quanh rạp để ghé mắt vào lỗ thủng “coi cọp” cho đỡ ghiền. Ai dè ông bầu gánh hát phát hiện đám con nít xé màn coi cọp, bèn cho người lấy điếu thuốc lá đang cháy châm vào mắt mấy đứa nhỏ khiến tụi nó khóc la lùm trời. Chuyện ông chủ gánh hát bay đến tai cậu Bảy Lời, cậu Bảy nổi máu ( ?) , hạ quyết tâm dạy cho ông chủ gánh hát một bài học . Quyết phá hoại , làm cho đoàn hát và diễn viên phải khủng hoảng tinh thần, Cậu có sáng kiến đánh táo bạo là chế "bom sinh học " . Cậu Bảy Lời sai mấy đứa nhỏ đi bắt cào cào, kiến nẻ (loại kiến đen bóng ở vùng nông thôn miền Tây có rất nhiều, mang nọc đọc, mỗi lần chích là đau điếng người) đem bỏ vào hộp lon, sau đó lấy nước cống thật hôi thối, nước tiểu quậy chung với nhau đổ vào, lấy tờ giấy mỏng đậy lại rồi chờ tới lúc tuồng hát khai diễn thì đứng bên ngoài quăng vào. Y kế thi hành, trong lúc mấy trăm người đang say sưa xem hát, đào kép đang ca í ới thì đám con nít tung mấy lon kiến nẻ, cào cào trộn nước thối vào trong rạp khiến cả rạp hát náo loạn lên vì khán giả bị kiến cắn đau nhức, cào cào búng văng nước thúi tứ tung, đào kép chạy tránh quên cả diễn tuồng. Sau lần đó chẳng ai dám đi xem hát nữa, cả gánh hát chết đói phải rời đi nơi khác và hàng xóm không còn được xem diễn hát nữa nhờ tài khủng bố của cậu . Ngoài những cái cà tững của tuổi thơ phát triển sớm của cậu, cậu Bảy Lời còn nổi tiếng đánh lộn ở xóm. Những người già ở chợ Cái Nhum còn nhớ rằng, từ nhỏ đến lớn cậu Bảy Lời nổi tiếng sẵn sàng đánh lộn bất kể mạnh yếu . Chân dung bà Đào Thị Bòi, mẹ Công tử Lời. Lần nọ có gánh sơn đông mãi võ về chợ Cái Nhum bày hàng biểu diễn võ thuật và bán thuốc cao đơn hoàn tán. Tiếng thanh la, não bạt, chiêng trống vang lừng một góc chợ khiến đám con nít bu tới xem đông nghẹt. Phàm con nít có tính tò mò, hiếu kỳ, vừa xem vừa đưa tay sờ mó những đồ vật của gánh sơn đông nên bị tay chủ gánh chửi mắng nạt nộ. Lúc đó cậu Bảy Lời tình cờ đi qua, thấy vậy nóng máu cà tững ,cậu bước vào nói với chủ gánh sơn đông mãi võ: “Con nít có biết gì mà ông mắng tụi nó dữ vậy, nó thấy lạ thì nó sờ nó bóp nó thử, có mất của ông đâu? Mấy ông đừng ỷ thế có của ăn hiếp không cho tụi trẻ sờ bóp ”. Chủ gánh quay qua gây sự với cậu Bảy Lời: “Cậu là ai mà xía vô chuyện làm ăn của người khác, ăn hiếp con nít là sao, muốn quây phá hả ”. Nghe chủ gánh sơn đông mãi võ ăn nói phân trần như vậy, cậu Bảy Lời nổi máu cà tững chẳng nói chẳng rằng, xông vào hỗn chiến khiến cả chợ Cái Nhum xúm lại xem như xem hát bội. Cho đến khi mọi người chạy về cấp báo chuyện cậu Bảy Lời đánh người cho bà Bòi biết, bà mẹ huy động gia nhân ra can thiệp thì đám đánh nhau mới giải tán. Người ta còn kể rằng, ở chợ Cái Nhum thời đó hễ nghe có đánh nhau là bà Bòi thường sai gia nhân chạy ra xem có phải cậu Bảy Lời đánh lộn hay không để can ngăn, cứ 10 đám đanh nhau thì hết 9 đám là do cậu Bảy Lời cà tững nổi máu đánh kẻ khác. Nhiều người vẫn còn nhớ chuyện cậu Bảy Lời bày mưu cho một người cháu đánh bọn chủ Tây một trận bỏ ghét . Số là khi cậu Bảy Lời đã lớn, cậu có một người cháu tên Hòa là con của bà Sáu Lợi (chị cùng mẹ khác cha), Hòa tốt nghiệp Trường bá nghệ Sài Gòn với nghề gò đồng, thông thạo tiếng Pháp nên được nhận vào làm việc trong xưởng Ba Son (Sài Gòn). Hồi đó mỗi lần đi Sài Gòn chơi, cậu Bảy Lời thường gọi cháu Hòa và bạn bè ra ngoài ăn uống,lần này cậu Bảy trả tiền. Trong những lần ăn uống với cậu Bảy, ông Hòa thường than phiền chuyện chủ Tây bắt công nhân người Việt lao động liên tục so với chủ Tây . Dù chưa ai đánh đập ức hiếp , nhưng ông Hòa rất bức xúc, uất ức nên đem chuyện này “méc” với cậu Bảy. Nghe xong câu chuyện của người cháu, cậu Bảy Lời lại nổi máu cà tững ,bày kế cho cháu tìm cách đánh lại bọn chủ Tây một trận, nếu có bị đuổi việc thì cứ chạy về Cái Nhum cậu Bảy sẽ nuôi ăn ở, cho học nghề mới. Nghe lời cậu Bảy Lời, ông Hòa cùng các công nhân đánh bọn chủ Tây một trận bỏ ghét rồi về Cái Nhum học nghề thợ may, sau này trở thành thợ may ba Bùm nổi tiếng nhất vùng Cái Nhum. Những người già ở thị trấn Cái Nhum và tỉnh Vĩnh Long còn nhớ rằng, Công tử Lời sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu sang bậc nhất, sống trong nhung lụa, được cha mẹ và người thân cưng chiều, mọi người xung quanh cung phụng hầu hạ, nhưng cậu Bảy Lời không bao giờ muốn có cuộc sông đời thường. Mộ ông Châu Xuyên, thân phụ Công tử Lời. Chưa bao giờ nghe cậu Bảy Lời lớn tiếng với ai và có cách đối nhân xử thế với cha mẹ rất đúng mực ? Nhiều bậc bô lão kể lại rằng, khi cậu Bảy Lời đã trưởng thành trong khi ông Châu Xuyên ngày càng già yếu, là con út nên ông Xuyên thường phải miễn cưỡng sai cậu Lời thay mặt ông đi thu lúa ruộng trong nông dân, tá điền. Nhưng hễ sai cậu Bảy Lời đi thu lúa ruộng thì không biết cậu có đi hay không hay bận đi chọc phá kẻ khác mà lần nào cậu cũng về với hai bàn tay trắng, chẳng có hạt lúa nào. Ông Xuyên hỏi, cậu Bảy Lời đáp cà tững một cách tỉnh queo: “Năm nay thất bát, bớt lúa cho người ta nên tui không thu”. Nhiều khi cậu Bảy Lời đi thu lúa ruộng suốt mấy ngày không về nhà, gia đình lo lắng cho người đi tìm thì cậu nói là cậu có đi thu và thấy tá điền ngồi bệt trên nền nhà bằng đất nện ăn bắp nấu, mắm cá sặt . Mỗi khi mùa màng thất bát, đích thân cậu Bảy Lời đến gặp ông Châu Xuyên và bà Bòi khiêu kiện để" tranh đấu" xin bớt lúa ruộng cho nông dân, nên tá điền ai cũng cảm mến cậu Bảy. Người ta còn kể rằng, trong những lần đi thu lúa ruộng hoặc đi thăm ruộng, cậu Bảy Lời ăn mặc rất tươm tất. Nhưng mười lần như một, lúc về đến nhà thì trên người cậu Bảy Lời chỉ còn duy nhất chiếc quần cộc và chiếc áo ngắn tay. Ai hỏi, cậu Bảy Lời tỉnh bơ đáp: “tá điền, thôn nữ nghèo quá bị chủ điền boc lột không có quần áo để mặc nên tôi lột đồ bù lỗ cho họ hết rồi. Người ta không có quần áo lành lặn thì mình cho, về nhà cha mẹ mình may lại quần áo khác, cha mẹ tiền có thiếu thốn gì đâu”. Không chỉ cho quần áo thôn nữ , mỗi năm khi Tết Nguyên đán cậu Bảy Lời lại đi một vòng xem gia đình tá điền, thôn nữ nào túng thiếu thì về sai gia nhân mua một cây vải đem vô tận nhà cho họ may quần áo, cho luôn tiền mướn thợ may. Những ghi chép của gia đình của cậu Bảy Lời còn cho thấy,để chắc ăn mỗi khi may quần áo cho cậu Bảy thì bà Bòi phải dự phòng mua thêm nguyên một cây vải tốt hoặc một cây tơ tằm, may một lần 5- 6 bộ quần áo cho cậu. Nhưng quần áo vừa may xong là cậu chất vào va-li để…đi rong chơi, đi mấy ngày giang hồ về thì quần áo không còn bộ nào. Bà Bòi hỏi, cậu Bảy Lời cười, nói: “Qua cầu gió bay ,Cho hết rồi, mai má kêu tụi nhỏ đi chợ mua vải may quần áo khác cho tôi”. Nhưng hành động khiến nhiều người nể phục tính cà tững của cậu là mỗi khi nghe có tà điền bị bắt nhốt, đóng trăn vì khiếu kiện, không có tiền đóng thuế thân, cậu Bảy Lời thường xuyên lấy tiền cha mẹ đi đóng thuế cho tá điền hoặc sai gia nhân trong nhà đi đóng dùm để họ về lao động cho đất ruộng của gia đình cậu . Do " của thiên trả địa " về sự giàu có của gia đình và sự nghèo đói của dân tá điền . Người ta nói cậu Bảy Lời phải tỏ ra hết lòng giúp đỡ mọi người, sống trong giàu sang nhung lụa nhưng bản thân ông phải cho mọi người thấy ông rất cần kiệm , chí công vô tư ,giản dị không bao giờ ăn xài xa hoa lãng phí, không nhận bất cứ món gì của những người nông dân nghèo khổ cố biếu xén và cũng không muốn phô diễn sự giàu sang của mình (?) nên chỉ sắm xe hơi chạy hết tốc lực để hù gái quê thôi. Hồi ông Châu Xuyên còn sống, cứ mỗi năm tết đến là những người tá điền phải mang gà vịt ra biếu xén, nhốt chật một khoảng sân, gia đình ăn đến hết tháng giêng vẫn không hết gà vịt. Cho nên sau khi ông Châu Xuyên qua đời, cậu Bảy Lời phải tuyên bố bỏ việc biếu xén gà vịt lúc gần tết, cương quyết không nhận quà của tá điền nghèo nàn nữa. Sau khi ông Châu Xuyên qua đời, cậu Bảy Lời kêu bán căn nhà cũ lấy tiền mua một miếng đất trước mặt sông Măng Thít để cất một ngôi nhà một trệt một lầu. Tuy nổi tiếng giàu sang nhưng căn nhà của cậu Bảy Lời thiết kế rất giản dị như nhà sàn bác Hồ sau này, dù củng như bác Hồ dư sức cất lăng tẩm cho mình, cậu Bảy dư sức cất cả một dãy phố nhà lầu như những đại điền chủ miệt Gò Công, Mỹ Tho, Bạc Liêu thời đó vẫn làm. Tuy nhà cửa làm như đơn sơ nhưng bên trong nhà cậu Bảy Lời tất cả tủ, giường, bàn, ghế đều phải được đóng bằng gỗ quý như cẩm lai, gõ đỏ và điều đặc biệt là những phòng tắm trong nhà đều phải có bồn tắm như những căn nhà hiện đại hiện nay, điều mà vào thời đó chưa có đại điền chủ nào làm được. Những bậc bô lão ở xứ Cái Nhum nói rằng, hết thảy tá điền làm ruộng thuê ở trong điền sản của ông Châu Xuyên ai cũng thương cậu Bảy Lời, Công tử Lời xem tá điền như một chỗ dựa vững chắc, một nơi có thể bảo vệ sự giàu có của cậu và họ phải chia sẻ những lo toan, vất vả cho cậu. Còn hương chức trong làng, trong huyện ai cũng nể phục Công tử Lời vì tánh tính rộng rãi phóng khoáng, có cách cư xử đúng mực, lúc thì mời uống rượu, lúc cho tiền để xây dựng tu sửa chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ trong vùng. Họ còn nể Công tử Lời trước việc gì cũng tỏ ra hết sức bình tĩnh. Những người già ở chợ Cái Nhum kể, năm 16 tuổi cậu Bảy Lời được ông bà Châu Xuyên sắm cho chiếc xe hơi hiệu Delage với giá 5.000 đồng để đi đó đi đây cho tiện. Một hôm câu Bảy Lời lái xe từ Cái Nhum về Vĩnh Long chơi, đến gần ngã tư Long Hồ hiện nay thì sụp ổ gà, xe lăn xuống mương. Trong lúc cậu Bảy Lời bỏ xe đi bộ ra ngã tư uống cà phê để kêu người kéo xe lên thì xe đò Vĩnh Long- Cái Nhum đi ngang nhìn thấy xe cậu Bảy Lời lật nằm chỏng gọng dưới mương, bèn báo tin cho gia đình cậu Bảy. Cả nhà nghe hung tin chạy đến nơi xe lật mò tìm nhưng không thấy cậu Bảy Lời ở đâu, đang kêu khóc thảm thiết thì cậu Bảy lù lù xuất hiện, nhe răng cười hì hì như không có chuyện gì xảy ra. Những bậc lớn tuổi ở Cái Nhum và Vĩnh Long nói, cậu Bảy Lời từ nhỏ đã bộc lộ là một con người cương trực yêu công bằng, lẽ phải, giàu lòng nhân ái, không phân biệt sang hèn. Nhắc đến cậu Bảy Lời là người ta hay nhắc đến một con người sống rất cà tững và tỏ ra hết lòng với hai chữ “bao la, đại đồng”. Con người cà tững và thích bạo động như cậu Bảy Lời mà không đi theo cách mạng mới là chuyện lạ! Cho nên khi cậu Bảy Lời gia nhập cách mạng và trở thành đảng viên đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930, ông luôn phải đòi được sự chỡ che của những người tá điền một thời ông từng cố làm ra vẻ cưu mang, giúp đỡ ,....để có được một vỏ bọc hoạt động bí mật hết sức an toàn.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2013 5:06:37 GMT 9
Bạn tù của cố Tổng Bí thư Trần Phú Trong lòng người dân Vĩnh Long, “công tử” cà tững Lời không chỉ là người có vẻ nhân ái, hay giúp đỡ tá điền, người nghèo khó mà còn là người cộng sản kiên trung, từng năm lần vào tù ra khám nhưng nhờ bản chất cà tững nên vẫn giữ vững khí tiết cà tững . Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có lần về thăm quê Vĩnh Long, gặp cán bộ tuyên giáo, ông nói (đại ý): Nông dân chúng ta đi làm cách mạng, nếu có mất thì mất đầu và quần tà-lỏn, còn những người như “công tử” Lời, tú tài Nhựt (anh hùng Lê Văn Nhựt, Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc tỉnh Vĩnh Long năm 1945-1946) thì mất cả đầu và cả gia sản đồ sộ. Đến với cộng sản Ngã tư Long Hồ, nơi “công tử” Lời gặp được người vợ thủy chung con ông Hương cả Tường, cũng là nơi “công tử” gặp được người thanh niên cùng trang lứa tên Nguyễn Văn Đại, thành viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội vào năm 1929. Năm 1930, nơi đây đã hình thành chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long do ông Nguyễn Văn Thiệt làm bí thư (sau này là bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long). Chính mối duyên gặp gỡ này đã giúp “công tử” Lời bắt gặp lý tưởng cộng sản. Đây là đoạn trích trong lịch sử tỉnh Vĩnh Long do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản, có thể xem đây là phong trào Xô Viết Vĩnh Long: “Ngày 2-6-1930, khoảng 2.000 người gồm nông dân, tiểu thương, học sinh, thợ thủ công… từ Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm kéo về ngã tư Long Hồ, sắp thành đội ngũ, giương cao biểu ngữ “Tinh thần ngày Quốc tế Lao động 1-5 muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”, “Đả đảo đế quốc Pháp và quan làng tay sai!”, “Giảm thuế cho dân nghèo!”. Ông Châu Văn Sanh (“công tử” Lời) là người dẫn đầu đoàn biểu tình kéo về tỉnh lỵ Vĩnh Long trong tiếng hô vang, tiếng tù và và tiếng mõ. Đoàn biểu tình đến Văn Thánh miếu (nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long), cách dinh chủ tỉnh hai cây số thì bị lính Pháp và ngụy chặn đường, nổ súng vào đoàn biểu tỉnh làm tám người chết, 60 người bị thương. Châu Văn Sanh bị bắt và đưa về Sài Gòn…”. "Công tử" Lời trong một lần dạo phố. Ảnh: TƯ LIỆU Sự kiện trên khiến ông bị giam ở Sài Gòn hai tháng thì vợ ông, bà Năm Phối, đã dùng tiền lo lót để ông ra tù. Có lẽ xuất thân từ tầng lớp điền chủ, lại là “công tử” ăn chơi có tiếng nên thực dân Pháp không thể tin ông là người cầm đầu đoàn biểu tình. Ra tù, ông tiếp tục hoạt động cách mạng, cuối năm 1931 lại bị bắt. Hồi ký của ông Nguyễn Văn Nhung, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, có đoạn viết: “Tháng 7-1931, tôi ở chung khám lớn Sài Gòn với Tổng Bí thư Trần Phú, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Ngô Văn Chính và Châu Sanh. Trần Phú bị đánh đến lao phổi nặng, tôi và anh Sanh nằm kế bên thay nhau chăm sóc cho đồng chí Trần Phú. Anh Sanh có mặt lúc đồng chí Trần Phú trút hơi thở cuối cùng...”. Nhiều lần vào tù ra khám Lần bị bắt này, cô Năm Phối - vợ “công tử” lại lặn lội lên Vĩnh Long, rồi Sài Gòn tìm luật sư “chạy án” cho ông. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, quê Long Châu, Vĩnh Long, lại là giám đốc Nhà thương điên Biên Hòa, bày kế làm giám định sức khỏe cho “công tử” Lời và kết luận ông bị bệnh tâm thần. Sau này bà Năm Phối kể lại cho con cháu nghe vụ này bà tốn hết “ba sọt tiền bạc trắng” (khoảng 3.000 đồng tiền Đông Dương) để “công tử” thoát nạn tù. Vậy là đầu năm 1932 ông lại được ra tù. Nhưng rồi hoạt động một thời gian thì ông lại bị địch bắt lần thứ ba vào ngày 3-7-1934. Tòa kêu án 10 năm tù giam và 10 năm đày biệt xứ. Lần này bà Năm Phối lại “gánh bạc trắng” đi chạy án, ông lại được tha. Bia đặt tại Văn Thánh miếu, phường 4 (TP Vĩnh Long) ghi lại cuộc biểu tình năm 1930 do "công tử" Lời cầm đầu. Ảnh: TƯ LIỆU Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc, “công tử” Lời tích cực tham gia phong trào đòi dân chủ, dân quyền. Ông tiếp tục bị bắt giam lần thứ tư tại Mỹ Tho. Lần này địch bắn tin cho gia đình mang tiền qua chuộc. Người nhà ông kể, mất “hai thùng bạc sọ” khoảng 200 đồng tiền Đông Dương. Theo lời kể của ông Nguyễn Thành Thơ, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, năm 1937-1939, theo yêu cầu cách mạng, “công tử” Lời có mở một tiệm sách ở TP Cần Thơ, tên nhà sách là Đời Mới, ở cầu tàu Lục Tỉnh đi lên phía tay trái (nay là đường Ngô Quyền). Ông bán sách cách mạng tiến bộ, sách nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thời kỳ này Mặt trận Bình dân Pháp cầm quyền nên bán rất tự do. “Công tử” Lời rất nổi tiếng, giao du với nhiều nhà cách mạng: Nguyễn An Ninh, Châu Văn Liêm, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Nhỏ… Hy sinh tại “địa ngục trần gian” Khi nội các Daladier thay Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp thì ở Đông Dương, thực dân Pháp đàn áp phong trào dân chủ dã man. Nhà sách Đời Mới ở Cần Thơ của “công tử” Lời bị đóng cửa. Ngày 4-1-1940, “công tử” Lời thuê xe chở sách về Cái Nhum, bị địch bắt quả tang tại ngã tư Long Hồ với sách cấm và tài liệu cộng sản. Ngày 20-7-1940, ông bị tòa án Sài Gòn kết tội “vận động lực lượng bất hợp pháp để lật đổ chính quyền” với bản án năm năm tù và 10 năm biệt xứ. Ông bị đày ra Côn Đảo. Vợ, con trai, con dâu, con rể và cháu “công tử” Lời năm 1957. Ảnh: TƯ LIỆU Theo lời bà Võ Thị Canh, em bà Năm Phối (mẹ của bà Huỳnh Quan Thư, tác giả cuốn sách Công tử Lời - Nhân ái một tấm lòng mà chúng tôi đã đề cập ở bài trước), sáu tháng trước ngày mãn hạn tù, “công tử” Lời có viết thư về cho bà Năm Phối. Đây là bức thư cuối cùng ông viết từ nhà tù Côn Đảo, được bà Năm Phối cất giữ trong tủ sắt như một bảo vật. Bức thư viết bằng mực tím, nội dung tha thiết nhớ nhung vợ con, xin lỗi vợ vì mình nặng việc đại sự nên đã không làm tròn trách nhiệm một người con, người chồng, người cha… Trong thư còn nói sau khi về đất liền ông còn tiếp tục chịu án “biệt xứ” trên Long Khánh… Càng gần đến ngày mãn hạn tù, gia đình, người thân và nhiều đồng chí của ông trong đất liền càng mong ngóng, trông tin. Công văn của chúa đảo Côn Sơn gửi toàn quyền Đông Dương, đóng dấu ngày 21-6-1943, mang số 123, báo cáo danh sách 17 tù nhân được trả tự do vào ngày 3-7 năm đó, trong đó có ông Châu Văn Sanh. Thế nhưng đùng một cái, gia đình “công tử” nhận được tin ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 27-6, trước ngày mãn hạn tù sáu ngày... Ông mất khi đang ở tuổi 33, cái tuổi sung mãn nhất của người thanh niên đang xả thân vì nghiệp lớn. Sau này, “công tử” Lời được Nhà nước truy tặng là liệt sĩ. * * * Chuyện về “công tử” Lời còn nhiều điều lạ lẫm, thú vị, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách Công tử Lời - Nhân ái một tấm lòng. Nhưng trên hết, “công tử” Lời, tức “công tử” Vĩnh Long, là người giàu lòng yêu nước, dám xả thân vì độc lập tự do cho xứ sở, dù xuất thân từ gia đình địa chủ giàu có. Từng nuôi giấu cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh Năm 1936-1939, Tỉnh ủy Vĩnh Long xây dựng cơ sở cho Xứ ủy làm việc tại đất nhà “công tử” Lời ở xã Nhơn Phú, quận Cái Nhum. Năm 1939, ông Mười Tụy (bí danh của ông Nguyễn Văn Linh lúc ấy) cùng thư ký là ông Vũ Thiện Tấn đã từng sống ở đây để hoạt động cách mạng. Trong hồi ký Cuối đời nhớ lại, ông Nguyễn Thành Thơ, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, kể: “Không còn nhớ ai giao thơ cho tôi đi Cái Nhum, chỉ nhớ má tôi dặn: “Đi xe đến Trà Ôn, con đón tàu lục tỉnh chạy về Sài Gòn, đến Cái Nhum con lên bờ, hỏi nhà Bảy Lời ở đâu?”. Sáng hôm đó tôi đến nhà Bảy Lời… Tôi đưa thư cho Bảy Lời xem… Rồi tôi cùng Bảy Lời ra chợ, Bảy Lời thoăn thoắt mua hết món này đến món nọ rồi quảy giỏ hàng dắt tôi theo bờ rạch làng Nhơn Phú, có rất nhiều xẻo, rạch vào vườn nhà, nên phải vượt qua nhiều cầu tre… đến một vườn cây trái xum xuê, trong vườn có một nhà lá vách cặp nẹp sít sao rất đẹp. Ở đó có hai thanh niên, một người là Vũ Thiện Tấn, gặp tôi là ôm. Còn người nữa tôi còn nhớ lúc đó tên Mười Tụy. Tôi đưa thơ cho hai anh. Anh Mười mặc quần cụt đi chân trần đang làm bếp, nấu ăn rất ngon, dọn rửa chén bát… Không biết các anh bàn thế nào, hôm sau Bảy Lời đưa tôi và anh Thiện Tấn đến thẳng bến tàu lục tỉnh, xuống tàu mướn ngay cabin, cho ăn sáng và trưa rất ngon, đến Trà Ôn tiễn tôi lên bờ. Bảy Lời và Tấn ôm nhau tưởng chẳng rời ra được…”. NGUYỄN NGỌC
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 17, 2014 11:14:08 GMT 9
Con đường tơ lụa trên Biển Đông(Petrotimes) - Việt Nam mang trong mình lịch sử ngàn năm mở đất và mở nước. Mở đất là cương thổ, mở nước là biên đảo và còn có cả những chuyến hải trình vạn dặm của tổ tiên ta mà các bảo vật khai quật được từ những con tàu đắm dưới đáy Biển Đông đã phần nào nhắc lại nghị lực phi thường ấy. 1. Những phát hiện khảo cổ trong các con tàu chìm Rang Kwian (vịnh Thái Lan), Turiang (Malaysia), Padanan (Philippines) từ năm 1976 đến 1993 đã cho thấy phần nào bức tranh tuyệt đẹp về gốm cổ Việt Nam và phác họa lại con đường tơ lụa trên biển. Bức tranh đó càng rực rỡ khi khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm. Trong một bữa cơm trưa tại khuôn viên rợp bóng cây của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, TS Nguyễn Văn Cường đã nói với tôi đôi điều về con đường huyền thoại ấy vốn đã tưởng như chỉ còn biết đến không nhiều qua sách vở. Bình gốm hoa lam vẽ Thiên Nga, Kendi và đĩa được tìm thấy trong lòng con tàu cổ Cù Lao Chàm Ở ngoài khơi Hội An, cách Cù Lao Chàm 14 hải lý về phía đông bắc, một cuộc khai quật dưới biển với quy mô chưa từng có trong những năm 1997-2000 đã phát hiện được một khối lượng khổng lồ, khoảng 150.000 đồ gốm hoa lam hầu như còn nguyên vẹn như vừa mới ra lò trên một con tàu đắm, có niên đại khoảng giữa thế kỷ XV. Những đồ gốm này là sản phẩm của các lò gốm ở tỉnh Hải Dương, cho thấy con tàu này đã mua gốm từ một thương cảng nào đó ở Bắc Bộ và đang trên đường đi xuống phía nam đến các nước Đông Nam Á hải đảo để tiêu thụ thì bị đắm. Tàu nằm ở độ sâu 70-72m dưới mực nước biển. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Visal và Công ty Saga Horizon (Malaysia) đã tiến hành khai quật cùng với nhiều chuyên gia khảo cổ học của Anh, Séc và một số chuyên viên lặn bão hòa nước ngoài. Con tàu dài 29,4m, rộng 7,2m, trong lòng chia thành 19 khoang, gỗ đóng tàu là loại gỗ tếch còn tốt và các thanh dầm ngăn cách các khoang được ghép rất chắc chắn, dù đã chìm trong lòng biển 5 thế kỷ. Trong tàu cổ này còn có một số đồ gốm sứ Trung Quốc và Thái Lan là đồ dùng của thủy thủ đoàn. Một người tham dự cuộc khai quật hệ trọng này đã kể lại với tôi rằng, các chuyên gia ngồi trên mạn tàu và chỉ đạo cho thợ lặn lấy đồ trong lòng tàu đắm qua các camera hiển thị. Và tất cả những thước phim ấy hiện đều vẫn còn lưu. 2. Cố GS Trần Quốc Vượng từng nhận xét rằng, có một thời ở phương Tây đồ gốm chỉ được coi là đối tượng của nghệ thuật thứ cấp, nếu so sánh với kiến trúc và điêu khắc. Trong khi đó, ở phương Đông, nhất là ở Trung Hoa, từ xưa đồ gốm đã được coi là loại hình nghệ thuật cấp trưởng. Cũng đã từng có thời, từ nửa cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, giới Đông phương học Âu Tây chỉ coi Việt Nam là một “Trung Hoa bé tí xíu”, do vậy họ cũng coi đồ gốm sứ Việt Nam chỉ là một nhánh nhỏ của cây đại thụ gốm sứ Trung Hoa. Nửa sau thế kỷ XX, sau khi đi sâu nghiên cứu, bàn luận về công nghệ lò nung rồi sự diễn tiến về kiểu dáng và men, họ (Roxanna Brown, John Guy…) đều đã ngỡ ngàng nhận ra rằng, Việt Nam có lịch sử lâu dài nhất về sản xuất gốm tráng men ở Đông Nam Á. 80 năm trước, thế giới hiện đại vẫn nhầm tưởng rằng, dòng gốm hoa lam được sản xuất không nơi nào khác ngoài Trung Quốc. Nhưng sau khi L.R.Hobson phát hiện dòng minh văn ghi trên vai chiếc bình gốm hoa lam tuyệt đẹp cao 54cm trưng bày ở Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm 1933-1934 (có dòng chữ ghi rõ “Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút” – năm Đại Hòa thứ 8 – 1450 đời Lê Nhân Tông – thợ gốm châu Nam Sách họ Bùi vẽ chơi) – đã mở rộng cánh cửa cho một lĩnh vực nghiên cứu mới. Từ đó, người ta quan tâm tới một địa danh có tên là Nam Sách, ở đâu đó bên lưu vực sông Hồng thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, nơi có thể có những lò sản xuất gốm vốn nằm trong thái ấp của các đại quý tộc triều Trần. Họ gọi đây là “gốm An Nam” và coi đó là “một hiện tượng mới” trong lịch sử gốm phương Đông. Nhưng phải đợi 52 năm sau, những bí ẩn về nơi sản xuất chiếc bình gốm hoa lam đẹp nổi tiếng ấy mới được khám phá. Từ những thông tin của ông Mokoto Anabuky, Đại sứ Nhật Bản tại Hà Nội về chiếc bình Topkapi, các cán bộ Bảo tàng Hải Hưng (nay là Hải Dương), do ông Tăng Bá Hoành phụ trách, đã lần tìm và phát hiện ra di tích gốm Chu Đậu tại châu Nam Sách xưa, vào đầu năm 1983. Và cũng từ đó, người ta mới biết dòng gốm hoa lam cũng được sản xuất ở Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Làng gốm Chu Đậu (nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) là một trung tâm sản xuất gốm lớn nhất của nước ta, ra đời vào thế kỷ XIV và phát triển rực rỡ nhất vào thế kỷ XV-XVI. Chu Đậu thường sản xuất những dòng gốm cao cấp, gốm mỹ nghệ phục vụ cho tầng lớp trên, phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng và xuất khẩu ra nước ngoài. Dòng gốm Chu Đậu có sự kết hợp nhiều kỹ thuật trang trí như đắp nổi, chạm, dán ghép, khắc chìm. Men sử dụng với nhiều màu khác nhau hết sức phong phú: men trắng hoa lam, men nâu, xanh lục, men ngọc, men trắng vẽ tam thái hoặc kết hợp vẽ vàng kim trên men. Sự chuyển đổi kỹ thuật dùng bút lông để vẽ hoa văn bằng màu dưới men đã đem lại cho công nghệ gốm Việt Nam những nét mới mẻ và dẫn tới sự ra đời của gốm hoa lam. Gốm hoa lam hiện đã phổ biến và trở thành thuật ngữ quốc tế, dùng để chỉ những đồ gốm có men trắng được vẽ màu xanh cobalt dưới men. Sau khi có quyết định của Chính phủ Việt Nam, 10% hiện vật trong tàu cổ Cù Lao Chàm đã được lựa chọn và “chia phần” tương đối đều cho các bảo tàng: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 4.362 hiện vật cùng 779 hiện vật độc bản, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP HCM 4.362 hiện vật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam 4.362 hiện vật, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam 5.562 hiện vật, Bảo tàng tỉnh Hải Dương 5.562 hiện vật. Càng nghiên cứu, nghệ thuật của người xưa càng hiển lộ. Chủ đề trang trí có hình tượng con người, động vật, côn trùng, thủy tộc, hoa lá, phong thủy… kết hợp kỹ thuật trang trí nổi bằng bút lông với vẽ lam hay vẽ nhiều màu trên men. Mỗi loại hoa văn lại có nhiều bố cục, nhiều cách thể hiện, đa dạng chưa từng biết đến cho thấy tài khéo vô cùng của người thợ gốm xưa. Đó là một bút pháp điêu luyện tuyệt vời: khi thì tỉa vẽ thật chi tiết, khi thì phóng bút nhanh và thoáng. Lối thể hiện không gian ba chiều, luật viễn cận trong hội họa đều như được sử dụng rất nhuần nhụy và từ đó phô diễn một cách kỳ lạ, sinh động, đa dạng đời sống xã hội và cả thế giới của một miền nhiệt đới thế kỷ XV. 3. Theo GS Misugi Takatoshi (Nhật Bản), con đường tơ lụa trên biển hình thành rất sớm, từ khi kỹ thuật đóng thuyền buồm bọc gió vượt biển được xác lập từ đầu công nguyên và ngày càng phát triển khi kỹ thuật la bàn được phát minh, tạo điều kiện cho những thương thuyền cỡ lớn chuyên chở hàng lụa, hồ tiêu, hương liệu, trầm hương, sản phẩm sành sứ… thay thế dần các đoàn lữ hành bằng lạc đà trên lục địa đầy trắc trở và hoang vắng. Song song với sự hưng thịnh rực rỡ của nền văn minh Lưỡng Hà vào thế kỷ IX-XI, hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia… đã được đưa đến các xứ Ai Cập cổ đại để mua bán, trong đó có hàng “sành sứ An Nam”, đặc biệt loại bát chén men ngọc được người Vịnh Ba Tư rất ưa chuộng, xem là một dụng cụ để kiểm tra thuốc độc trong thức ăn (poisoning test) trong thời kỳ các nước và bộ tộc tranh chấp ác liệt và truyền thuyết đó vẫn được lưu lại cho đến ngày nay. Bản đồ mô tả con đường tơ lụa trên bộ và trên biển. Tại Việt Nam, các thương thuyền có thể cập bến hoặc xuất phát ở Luy Lâu, Hà Nội, Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, Cù Lao Chàm, Vijaya (Thị Nại), Óc Eo (vương quốc cổ Phù Nam) Tổ tiên chúng ta đã vượt biển như thế nào? Nhà hàng hải George Windsor Earl khen ngợi không tiếc lời trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ thứ XVIII như sau: “…Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết mọi cánh buồm tiến thẳng tới trước… Tôi nghĩ mấy người Việt đó đang lèo lái những con thuyền bé nhỏ mà cách thức để vượt sóng lượn gió thật là tài tình. Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào của toàn khu vực Âu châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa bão tố. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền họ lại không trang bị vũ khí và như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải tặc”. Còn bác sĩ John Crawfurd, người được Chính phủ Anh đề cử làm “lưỡng quốc” đại sứ tại hai kinh đô Bangkok và Huế năm 1822 nhận xét: “Nếu như người Việt Nam được phép tự do viễn dương thì người ta không thể tìm đâu ra được một sắc dân nào nữa ở Á Đông mà lại có đầy đủ những đức tính để trở thành các nhà hàng hải siêu đẳng như vậy… Tính họ không những cương quyết, năng hoạt động, tôn trọng hạn kỳ, mà lại luôn luôn vui vẻ chiều lòng khách hàng… Ghe tàu của họ được các nhà chuyên môn xét đoán và mô tả như là những loại thuyền tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á, kiến trúc rất chắc chắn, đủ sức hải hành ngay cả những khi thời tiết xấu nhất”. Thuyền trưởng John White, một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1820 thì kinh ngạc khi thấy những hải xưởng Việt Nam thời đó lại có đầy đủ vật liệu cho việc đóng những loại tàu lớn nhất như Frigate (tức loại chiến hạm chủ lực của Hải quân Hoa Kỳ sử dụng vào đầu thế kỷ XIX). Vũ Hữu San trong bài viết: “Khoảng trống văn học dân ta: những thành tích hàng hải” đã nhận xét thấm thía rằng, ngày nay, trong những buổi lễ lạt, đa số các vị được lên diễn đàn để nói thì hầu hết đều ca tụng những chiến công hiển hách của tiền nhân. Tuy vậy, qua hàng trăm, ngàn bài diễn văn người ta chưa thấy hoạt động hàng hải của tổ tiên được nhắc nhở tới. Trong những công trình dựng nước, mở nước, giữ nước trên vùng đất nước quê hương mà sông biển bao trùm khắp nơi, sự hy sinh vì nghĩa vụ với “thân xác tử sĩ chìm theo sóng nước” nhiều hơn số người “da ngựa bọc thây” gấp nhiều lần. 4. Mầm mống ngoại thương nằm trong lịch sử giao lưu lâu dài giữa Việt Nam và thương nhân từ nhiều nước đã đến buôn bán tại Việt Nam. Vậy mà mãi đến thế kỷ XX, người ta mới phát hiện gốm Việt Nam trong hàng hóa xuất khẩu tại Tây Á, lục địa và hải đảo Đông Nam Á, cũng như Nhật Bản. Vô số gốm hoa lam Việt Nam tìm thấy ở Đông Nam Á là thành phẩm của hoạt động mậu dịch đáng nể này. Qua đó Việt Nam dành được cho mình một vị trí bền vững trong lịch sử gốm hoa lam trong giai đoạn sớm. Còn ở Tây Á, sự có mặt của gốm đã gián tiếp cho biết Việt Nam có mặt trong các thương vụ buôn bán đường dài. “Sự có mặt của gốm hoa lam Việt Nam trong những sưu tập có uy tín cho biết chúng đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và khiếu thẩm mỹ của khách hàng sành sỏi và giàu có nhất thế giới” – Kerry Nguyễn Long trong cuốn “Gốm hoa lam trong bối cảnh xuất khẩu” đã viết như vậy. Còn Bùi Minh Trí trong cuốn “Gốm hoa lam Việt Nam” nhận xét: Một trong những tiêu chí đánh giá về sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật gốm Việt Nam thời kỳ này phải kể đến các bức vẽ về động vật. Đây là những đồ án đẹp được thể hiện rất cầu kỳ, sinh động, với bút pháp điêu luyện có thần, mang tính hiện thực cao. Có thể nói không quá rằng, những bức vẽ chim, cá có chất lượng cao so với đồ sứ thời Minh cùng thời, thì dường như đã vượt qua độ tinh xảo, chứng tỏ bước phát triển rất cao về nghệ thuật trang trí. Sự cầu kỳ của chiếc bình gốm vẽ hoa mẫu đơn dây ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, chiếc bát vẽ hoa sen dây ở Bảo tàng Hà Nội, chiếc đĩa lớn vẽ hoa sen dây và hai con sư tử vờn quả cầu lửa ở Bảo tàng Pusat Jakarta (Indonesia), chiếc bình dáng con tiện vẽ rồng là vật báu của gia đình tướng quân Togugawa (Nhật Bản) trước đây hay những chiếc bình hình dáng gần giống đàn tỳ bà vẽ hoa lá, chim phượng và rồng là những ví dụ điển hình hơn cả. Nhưng TS Nguyễn Văn Cường lại đưa ra một minh chứng khác mà anh cho rằng thuyết phục hơn cả. Đó là chiếc bình vẽ Thiên Nga được làm bằng chất liệu gốm men, cao 56,5cm, đường kính miệng 23,8cm, đường kính đáy 25,8cm, nặng 15,6kg, có dáng búp sen, miệng loe tròn, gờ miệng phẳng, thân phình thuôn dần xuống đáy – chiếc bình gốm có kích thước lớn nhất, có đề tài trang trí hoành tráng nhất trong số những hiện vật độc bản quý hiếm từ đợt khai quật tàu đắm Cù Lao Chàm. Anh nhắc tôi rằng, nó còn cao lớn hơn cả chiếc bình Topkapi nổi tiếng hiện đang “lưu lạc” ở Thổ Nhĩ Kỳ. Những đề tài trang trí ở đây đã thoát ra khỏi khuôn mẫu của đề tài kinh điển Trung Hoa, phóng khoáng hơn, sáng tạo hơn, đậm chất dân gian, hồn quê đất Việt vùng Đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, như một sứ giả về từ quá khứ, cho ta hình dung phần nào về vẻ đẹp của quê hương đất nước Việt Nam thời Lê Sơ thế kỷ XV, một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Và nó là một minh chứng tuyệt mỹ của con đường tơ lụa trên biển. Biển Đông che giấu trong lòng nước nhiều bí ẩn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Biển Đông đã từng có một con đường tơ lụa rất tấp nập. Việt Nam không chỉ là điểm trung chuyển mà còn là điểm đến, điểm xuất phát của nhiều chuyến tàu. Điều này phù hợp với nhận định ban đầu của
GS Misugi Takayoshi rằng, có những dấu hiệu cho thấy “người Chiêm Thành đi bằng Giao Chỉ thuyền” đã vượt biển đến các vùng đảo của Nhật Bản từ thế kỷ thứ II vì người dân tộc Chăm sống ở ven biển vốn có nghề đi biển theo hướng gió mùa rất thông thạo. Cho nên nhiều nhà khảo cổ trẻ tuổi Nhật Bản ngày nay vẫn thường xuyên đi tìm những mảnh vụn gốm sứ, hàng trang sức đang nằm dưới lòng đất ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu… để tìm lời giải đáp cho điều “bí ẩn” trong quan hệ Nhật – Việt vào thời kỳ mà con đường tơ lụa trên biển bắt đầu mới hình thành.N.H.M
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 17, 2014 11:27:58 GMT 9
Quân cảng Cam Ranh: Điều chưa được biết! Ít người nhớ rằng, cách đây tròn 10 năm, ngày 4/5/2002, những người lính Nga cuối cùng đã bước chân lên tàu Xakhalin từ biệt căn cứ Cam Ranh sau gần 1/4 thế kỷ có mặt tại nơi này. Cam Ranh đã được gửi lại cho Việt Nam, như một căn cứ nền tảng để trở nên hùng mạnh. Và dường như cho đến tận bây giờ, phần đông trong số chúng ta không thực sự biết gì nhiều về căn cứ ấy. 1. Ngày 23/4/2012, khi ba chiến hạm Mỹ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng để bắt đầu hoạt động giao lưu, trao đổi hải quân "phi tác chiến” với Việt Nam, một hãng thông tấn nước ngoài đã bình luận rằng, nếu các chuyến ghé cảng này được nói một cách công khai, thì có một khía cạnh hợp tác Mỹ – Việt khác ít được loan báo: Đó là chiến hạm Mỹ đã được gửi đến sửa chữa, bảo trì tại các cảng Việt Nam. Tàu Hải quân Mỹ đã có lần được gửi đến sửa chữa tại các xưởng đóng tàu Việt Nam. Gần đây nhất, vào năm 2012, chiếc USNS Rappahannock (T-AO-204) đã có chuyến đến bảo trì tại Nhà máy Đóng tàu Cam Ranh. Cán bộ vùng 4 Hải quân chụp ảnh lưu niệm với sĩ quan thủy thủ tàu khu trục Hải quân Nga tại Cảng Cam Ranh (năm 1982) Một thông tin thú vị trong không khí biến động thời cuộc không ngừng của Biển Đông. Cam Ranh đã âm thầm phát triển, trở thành một tổ hợp hải quân và không quân hùng mạnh, với các trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại có thể đánh trả mọi đe dọa chiến tranh với Việt Nam, như lời Trung tướng, Viện sĩ A.V Phêđôrôvích nhận xét. Lời Trung tướng A.V Phêđôrôvích hoàn toàn có cơ sở, bởi ông là một trong số những người Xôviết có mặt ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ trước và ông không xa lạ gì với căn cứ này. Giới chuyên gia quân sự đã thừa nhận vị trí của Cam Ranh có tầm ảnh hưởng to lớn tới bản đồ địa – chiến lược toàn cầu, cho dù họ có đứng ở các chân trời quan điểm nào đi chăng nữa. Năm 1888, Hải hạm của Nga mang tên "Tráng sĩ” trong chuyến đi vòng quanh thế giới đã cập cảng Cam Ranh, sau đó, nơi đây đã trở thành quân cảng của các nước lớn thay nhau đồn trú trong vòng gần 100 năm trở lại đây. Trong cuộc chiến Nga – Nhật 1905, hơn 100 chiến thuyền thuộc Hạm đội Thái Bình Dương số 2 của Hải quân Nga Hoàng đã từng tập trung tại Cam Ranh. Năm 1935, Pháp bắt đầu cho xây dựng căn cứ hải quân tại Cam Ranh. Năm 1940, Cam Ranh rơi vào tay Nhật Bản, trở thành bàn đạp để Nhật Bản tiến đánh Malaysia và các quần đảo thuộc địa của Hoà Lan (nay là Indonesia). Ngày 18/10/1946, Cam Ranh là nơi diễn ra cuộc hội kiến giữa ten Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp DArgenlieu. Cuộc gặp gỡ được tổ chức trên thiết giáp hạm Suffren, có các vị chỉ huy hải, lục, không quân Pháp và các nhà báo nước ngoài. Trong bữa tiệc trên chiến hạm Suffren, khi DArgenlieu bóng gió nói: “Thưa ngài Chủ tịch, ngài thật đang bị đóng trong cái khung”, Hồ Chí Minh đã mỉm cười và trả lời: “Nhưng mà ngài Đô đốc biết đấy, chính bức tranh làm nên giá trị cái khung”. DArgenlieu lại nói: “Chủ tịch thật quen với biển cả, có lẽ xin tặng Người danh hiệu “Người thủy thủ nhỏ” như quân đội Pháp đã quý mến tặng Napoleon cái tên “Người đội trưởng nhỏ!”. Hồ Chí Minh đáp lại: “Phải, người thủy thủ nhỏ của Hải quân Việt Nam”. Từ năm 1965 đến 1972, Mỹ đã xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự khổng lồ được coi là “bất khả xâm phạm” để làm cứ điểm tiếp liệu và khí tài quân sự cho chiến tranh, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương. Vào năm 1969,T Thong Lyndon B. Jhonson đã đến thị sát căn cứ này, và đó là chuyến thăm đầu tiên của một Tổng thống Mỹ khi tới Việt Nam. Lúc đó, căn cứ không quân của Mỹ ở vịnh Cam Ranh rất lớn, bao gồm hai sân bay cho máy bay phản lực và một sân bay cho máy bay trực thăng, mỗi sân bay có sức chứa hơn 100 máy bay. Người Mỹ còn tiến hành khoét núi Cam Ranh, xây dựng kho chứa máy bay trong lòng núi, nâng cấp đường băng lớn có thể cho máy bay ném bom chiến lược B52 cất và hạ cánh. Vào lúc cao điểm, sân bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới. Năm 1972, người Mỹ trao lại căn cứ này cho quân đội VNCH và 3 năm sau quân đội CS Việt Nam đã tiến đánh Cam Ranh. Khi Cam Ranh rơi vào tay CS đã phá hủy hoàn toàn các bến neo tàu, đường sá, sân bay, hệ thống đường dây tải điện cũng như các khu nhà ở. Hải quân Liên Xô tại Cam Ranh 1982 2. Chuẩn đô đốc E.I Prokôpievich, người cuối cùng lên cầu tàu thủy Xakhalin-9 rời Việt Nam năm 2002 trong cương vị Chỉ huy trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam Ranh nhận định, căn cứ quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa đã thu hút sự chú ý Liên Xôviết bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về mọi phương diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải quân. Nó cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines, Đông Hải, thậm chí tới tận khu vực vịnh Pécxích hay vùng bắc Ấn Độ Dương. Bán đảo Cam Ranh bọc trong mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại chiến hạm và tàu hộ tống, kể cả tàu sân bay. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, Hải quân Liên Xô đã vươn ra biển lớn, bắt đầu tiến hành trực ban chiến đấu trên các đại dương. Tàu chiến, tàu ngầm, máy bay hải quân được triển khai trên các đại dương nhằm mục đích bình ổn cục diện chung. Việc mở rộng quy mô cũng như vùng hoạt động của tàu thuyền và không quân trên biển yêu cầu phải có mạng lưới hậu cần kỹ thuật hải quân rộng khắp. Vì không có căn cứ quân sự ở nước ngoài nên Liên Xô đã xây dựng trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên lãnh thổ các nước có quan hệ thân thiện, đương nhiên Cam Ranh là một điểm sáng tô son. Cuối năm 1978, nhóm sĩ quan đại diện cho các tổng cục của Bộ Tư lệnh Hải quân và của Hạm đội Thái Bình Dương đáp máy bay sang Việt Nam để ngày 30/12 đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm phán xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật. Ngày 2/5/1979, Chính phủ LB CHXHCN Xôviết và Chính phủ CS Việt Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân đội Liên Xô – trong 25 năm. Ngay ngày hôm đó, thi hành lệnh của Bộ tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143 của Cục Tham mưu hạm đội Thái Bình Dương ngày 28/8/1980 đã thành lập Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350. Theo quy định trong Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể tập trung từ 8-10 tàu chiến Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy theo tình hình chiến sự cụ thể, số lượng máy bay và tàu chiến có thể tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng Liên Xô và Việt Nam. Tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Mùa Hè năm đó, tàu ngầm nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam Ranh, sau đó ít lâu, các máy bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh. Tháng 12/1979, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, Đô đốc X. Gorskốp tới Cam Ranh và ông đã dành hẳn một ngày để quan sát vịnh biển này, giống y như cách Tổng thống Mỹ Giônxơn đã tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước Nam” 10 năm về trước. Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8 năm đó quân số được bổ sung thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc. Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói chung trong việc cung cấp những dự trữ cần thiết cho các chiến hạm và tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển Đông trong tình hình chiến sự lúc đó của khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Và Cam Ranh trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, căn cứ duy nhất bên bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500 hải lý. 3. Từ mùa Thu năm 1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ tháng 8/1991 đến tháng 12/1991 được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và sau đó là hải đội tàu hỗn hợp 119. Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển khai trung đoàn không quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc Tu-142, phi đoàn máy bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiC25 khoảng 15 chiếc, hai máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài ra trung đoàn còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa và tiểu đoàn kỹ thuật. Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía CS ViệtNam, Chính phủ Xôviết đã quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. N.M Zariphôvich – Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp Liên Xô tại Việt Nam giai đoạn 1987-1989 đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một từ không bao giờ quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng nước ngoài thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng các công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị trong và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở sang bằng đường hàng không qua Mátxcơva hay Vlađivôxtốc theo hành trình Mátxcơva – Tasken – Karachi (đôi khi là Bombay) – Kancútta – Hà Nội – Cam Ranh. 4. Trên cơ sở Hiệp định ký giữa Liên Xô và CS Việt Nam ngày 20/4/1984, hai bên đã ký hợp đồng xây dựng cụm đài rađar số ba, là công trình viện trợ không hoàn lại. Tính chung từ năm 1984 đến năm 1987, Tổng Công ty Xây lắp Liên Xô do E.X Bôprênhép làm Tổng giám đốc đã xây dựng tổng cộng 28 nhà ở và công trình chuyên dụng các loại. Lúc đó tổng số người Liên Xô sống trong khu quân sự là 6.000 người, kể cả công nhân xây dựng. Theo thỏa thuận trong mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công trình xây dựng xong sẽ bàn giao cho phía CS Việt Nam sử dụng. Các hạng mục đầu tiên được xây dựng xong từ tháng 12/1987, sau đó các chuyên gia Liên Xô bắt đầu sử dụng theo hình thức thuê miễn phí. Có thể thấy rằng, về cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng ở Cam Ranh bao gồm: Khu nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong đó có chỉ huy sở đơn vị 31350 và doanh trại cho quân số biên chế của đơn vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng hợp lưu giữ và cấp phát vật tư, đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); Vùng bến nhỏ; Bể chứa ngầm thể tích 14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung tích 270 tấn dùng để chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa các loại vật tư khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt, một dùng cho chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất 24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của Việt Nam trên bán đảo… Khi từ biệt Cam Ranh, người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong đó có 50 chiếc ôtô và xe chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu mỡ các loại, vũ khí đạn dược cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật, bằng cả đường hàng không và đường biển. Đồng thời, người Nga bàn giao cho phía ViệtNam57 tòa nhà và công trình thuộc căn cứ, 85km đường dây tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công trình ngầm, 250m cầu cảng, sân bay và hệ thống quản lý kho. Những người Nga đã sống và làm việc như thế tại Cam Ranh. U.X Ivanôvích, Đại tá quân dự bị, cựu binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục ra vào khu quân sự vẫn do phía Việt Nam quy định. Theo thỏa thuận thì mỗi tháng chỉ cho phép 4 chuyến xe đi ra ngoài theo kế hoạch định trước với số lượng người hạn chế, chủ yếu là dành cho thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương. Còn đối với số nhân viên kỹ thuật của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật thì do “nhiều yếu tố” nên ra “vùng tự do” là vi phạm luật. Những người CS Nga đã ra đi, nhưng những hình ảnh của họ còn đọng lại mãi trong lòng CS Việt Nam. Năm 2007, Hội đồng Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã quyết định xây dựng tượng đài những người lính CS Nga ở Cam Ranh và đó là tượng đài của tình hữu nghị CS Việt – Nga. Nguyễn Huy Minh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 7, 2022 2:58:46 GMT 9
Tấm không ảnh của Đà Lạtwww.muctimsonden.com/2022/03/tam-khong-anh-cua-lat.html Có anh nào dân Đà Lạt tên Phú, cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo, gửi cho mình tấm không ảnh, lại khiến mình bay về miền quá khứ, nói như người Mỹ “back to the future”. Mình định không viết về Đà Lạt xưa vì toàn kể những kỷ niệm cá nhân, thấy bơ vơ quá nhưng lại có người liên lạc, gửi hình như thầm nói; viết tiếp. Có ông thần nào, người Sàigòn, yêu thích Đà Lạt nên cứ hỏi mình, rồi lượt gọt những từ phản động, rồi tải lên cho bà con ở Việt Nam đọc. Người Sàigòn còn chú ý đến sự tàn phá của Đà Lạt xưa nên mình kể tiếp.Mình có tấm ảnh này nhưng thiên hạ gửi lại xem kỹ hơn thì thấy có nhiều điểm khác chưa kể. Tấm không ảnh này cho thấy 3 con đường: bên trái là đường Hàm Nghi trên đồi, bị cây che khá nhiều, ở giữa là đường Phan Đình Phùng mà khi xưa, thời Tây được người Việt gọi là Đường Cầu Quẹo và bên phải có một đoạn đường Hai Bà Trưng, từ trường Thăng Long (Hiếu Học) đến dốc Hai Bà Trưng. Sau khi giải ngủ, ông cụ mình đi học trường này ban đêm, lấy bằng tiểu học để vô ngạch công chức của ty Công Chánh Đà Lạt, được thêm lương mua sữa cho con. Tối mình hay đi đón ông cụ đi học ra. Trường này, nếu mình không lầm có lần do thầy Chử BÁ Anh làm giám đốc, sau này, dọn về đường Hoàng Diệu, đổi tên thành trường tư thục Văn Học mà mình có học tại đây hai năm cuối trung học đệ nhị cấp, được thầy Chử Bá ANh cho học miễn phí. Như có huông nên sau đó, được học bổng đi tây. Mình đoán tấm ảnh được chụp từ trên máy bay, trước khi mình ra đời, vì thấy nhiều nơi khi mình lớn lên biến mất và những khu được xây cất thời mình còn nhỏ chưa được xây và sau Mậu Thân khi dân tình chạy giặc Việt Cộng, ở quê vào Đà Lạt. Nếu nhìn đường Hai Bà trưng từ bên tay phải sang thì thấy ít nhà cửa. Xa xa thấy dãy nhà của trường Thăng Long (Hiếu Học) xưa. Mình nhớ có học chung lớp hè với một cô nữ sinh trường Bùi Thị Xuân, ở khu chung cư này, tên Hoàng Lan thì phải. Khá xinh. Đối diện, trên đồi, có nhà của Hạnh, học chung khi xưa ở Yersin, mình có gặp lại một lần khi về Đà Lạt với con gái ga-ra STT, tên Phượng, chị của ca sĩ Lệ Thu bên Tây, có đến nhà mình một lần với Tú Anh, tại nhà con gái thầy Tạ Tất Thắng, thêm 1 trong hai chị em sinh đôi ở khu Nhà Chung. Cô chị thì nay ở Úc Đại Lợi. Có con suối chảy song song đường Hai Bà Trưng, chảy về suối Cam Ly. Thật ra con suối này có chỗ được chia làm hai nhánh, 1 gần đường Hai Bà Trưng và một gần đường Phan Đình Phùng. Khu nhà thầy Thành Bắp Sú, chú Hồng dưới đồi lên nhà thương Đà Lạt, chưa được xây cất, ngay cả mấy nhà gỗ, nơi ông người Tàu, bán xắp xắp ở bên hông rạp Ngọc Hiệp ở. Nói chung là phân nữa tấm ảnh bên phải là đất đai và nhà cửa của gia đình ông bà Võ Đình Dung. Ông này là thầu khoá có tiếng tại Đà Lạt khi xưa, người thầu xây cất nhà ga xe lửa Đà Lạt, và khu phố Hoà Bình (dãy nhà hàng Mekong, Việt Hoa và phía bên kia từ tiệm bánh mì Vĩnh Chấn đến phòng răng ông Trình). Theo mình đọc hay hỏi thiên hạ còn sống tại Đà Lạt thì từ Mã Thánh đến trường Việt Anh, toàn là đất và nhà của ông bà Võ Đình Dung. Như vườn ông Ba Đà, gần xóm mình. Có chị bạn, nhà ở đầu đường Hai Bà Trưng, nơi mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, hay đạp xe đạp chở người em trai mà bạn bè hay gọi Vinh Kennedy đến thăm cô sinh viên đại học Đà Lạt, từ Sàigòn lên ở trọ sau này cưới nhau, cho hay là bố mẹ mướn nhà của ông bà Võ Đình Dung. Chính ông bà Võ Đình Dung, đã hiến đất để xây chùa Linh Sơn và Linh Phong cho các phật tử Đà Lạt. Gia đình này có công xây dựng lên Đà Lạt khi xưa. Ông ta làm thầu khoán và nghị viên thành phố Đà Lạt dạo ấy nên biết rõ các khu vực được thiết kế, dành cho người Việt nên bỏ tiền ra mua hết đất đai và xây cất nên được xem là người giàu có nhất Đà Lạt. Đây là rạp hát LangBian (Lâm Viên), sau này bị đập phá, biến thành cây xăng Ngọc Hiệp. Bên tay phải là tiệm Đức Lập, có cái hẻm đi vào, có tiệm mì quảng Thanh Bình thì phải của ông bắc kỳ nấu đồ ăn miền Trung, ngon có tiếng tại Đà Lạt. Mình có ăn 2 lần. Nổi bật nhất là rạp xi-nê Ngọc Hiệp và rạp xi-nê LangBian. Giữa 2 rạp chiếu bóng nay là hai tiệm ăn của người Tàu tên Kim Linh và Như Ý. Sau này, rạp Xi-nê Lang Bian được phá bỏ để xây cây xăng Ngọc Hiệp, và dãy quán bên hông dãy phố Đức Tín, có quán mỹ quảng của ông bắc kỳ tên Thanh Bình thì phải. Mình nghe một chị nữ sinh Yersin cho biết là con trai của rạp Xi-nê Ngọc Hiệp và Ngọc Lan, mới qua đời. Mình có nhắn tin cho Võ Hoàng Đa, bạn rất thân với anh chàng này từ bé nhưng không thấy trả lời. Chỗ này, sau này họ xây một số nhà cửa trong hẻm này, đưa đến chiếc cầu nhỏ, băng qua vườn thiên hạ rồi đến đường Hai Bà Trưng, khúc trường Nữ Công Gia Chánh, không thấy trong ảnh. Hẻm này mình có học chung với Nguyễn Đình Tài, Lê NAm Sơn, Lê HÙng Sơn và Nguyễn Hùng. Mình có gặp lại Nguyễn Đình Tài, Lê HÙng Sơn và NGuyễn HÙng, còn Lê NAm Sơn thì nghe nói sau 75, làm CM30 nên bạn bè xa lánh, nay nghe nói ở Bảo Lộc, có tiệm mì rất nổi tiếng. Khu vực bên đường Hai Bà Trưng thì sau Mậu Thân thì thiên hạ cắm dùi xây nhà cửa nên khó nhận ra. Còn nay về thì chỉ biết tôi đi trong mưa sa. Theo tấm ảnh thì khách sạn và tiệm ăn Cẩm Đô chưa được xây cất vì cao 2-3 tầng nhưng không thấy bóng dáng. Tương tự phía Hai Bà Trưng chưa thấy khu nhà của tên học chung khi xưa Vy Nhật Tảo. Ngược lại thì thấy tiệm bi-da Hồng Ngọc, nhà của bác sĩ Đào HUy Hách. Khu Dốc Nhà Làng hình như chưa được xây cất luôn. Có thấy mấy căn nhà gỗ mà anh bạn học chung khi xưa ở đó, cho thiên hạ thuê làm tiệm hớt tóc Như Ý, chưa thấy tiệm giầy Hồ Út. Hôm trước, có đọc một bài viết của anh nào ở khu vực rạp Ngọc Hiệp, kể rất chi tiết các quán ăn, tiệm xung quanh. Ai tò mò thì lên tìm nhóm thân hữu Đà Lạt bắc Cali mà tìm đọc. Bên phải đường phan đình PHùng, cận cảnh, sau dãy tiệm Đức Tín thì có dãy phố có tiệm sách Minh Thu. Mình gần như mướn và đọc hết sách của tiệm này vào mùa hè. Mình nghe nói con gái của tiệm này, học chung hay quen với Chử Nhất ANh tại Virginia, Hoa Kỳ. Sau đó có tiệm Luồng Điện, của ông nội tên bạn học chung khi xưa tên Trần Trọng Ân. Mình có đến nhà hắn chơi bắn bi, xem hắn làm Sauce Mayonnaise. Phía sau có một con hẻm và vài căn nhà và đường đi ra ;hía sau vườn trồng rau. Hình như có một cô tên Bạch Tuyết, học trường Thành NGọc với mình. Lâu quá không nhớ rõ. Chán Mớ Đời Tên Ân này, nghe kể sau 75, làm công an, chửi bới bạn học khi lên văn phòng hắn, xin giấy đi đường chi đó rồi chết vì say rượu chi đó. Mình chỉ nhớ đi xem phim Độc Thủ Đại HIệp, Bambi với tên này. Hắn mê phim tàu lắm. Mình thì thích phim tây hơn. Sau này lên Grand Lycee thì hết chơi vì hắn học M1 còn mình học M2. Lâu lâu gặp mặt nhau thì cười một cái. Kế bên tiệm Luồng Điện là tiệm sửa xe đạp và Honda, tên gì mà bổng nhiên quên tên. À Công Thành. Ông chủ là em của bác Cháu, có tiệm bán xe Honda ở đường Phan Bội Châu, bà con chi đó với mẹ mình. Chị em bạn dì chi đó nên mỗi lần gặp là phải chào. Hình gia đình này có một người em có tiệm sửa và bán xe Honda ở đường Mình Mạng, chỗ gần Photo Đại Việt, gần dốc Nhà Làng. Có nhà cậu Lan, từng làm trưởng ty cảnh sát Đà Lạt. Hình như là nằm vùng cho Việt Cộng. Đại khái là khi xưa, bà cụ mình quen cả chợ Đà Lạt nên đi đâu cũng chào hỏi mà mình thì theo tục lệ xưa, phải cúi đầu chào đủ trò khi ra phố. Kể ra đây chắc ít ai còn nhớ những nhân vật này như bà Tư Bổ, bà Giáo Trình,… Lâu lâu, đi ngang qua đây, mình hay đứng lại nghe thiên hạ chửi nhau bằng giọng Bắc và giọng Huế. Số là đối diện tiệm Công Thành có một tiệm khác, cũng sửa chửa và bán xe đạp, xe Honda. Thường thiên hạ đi hỏi giá tiệm này rồi qua tiệm kia hỏi gía, ai mất khách thì chửi thề rồi cãi nhau như mổ lợn. Thiên hạ bu lại xem rất đông. Mình nhớ cô gái tiệm Tân Tiến, chửi giọng Bắc kỳ mê luôn. Mình học để khi chửi lộn thì sử dụng. Mình học tiếng Việt nhờ nghe thiên hạ chửi lộn ngoài chợ và ngoài đường. Mình rất mê nghe thiên hạ chửi nhau nhất là phụ nữ. Họ chửi rất bài bản, có vần có điệu nên mình phục phụ nữ từ bé đến nay. Họ làm thơ qua những câu chửi. Ai buồn đời thì tìm mấy bài chửi của mình ghi lại, giọng bắc, giọng Huế đủ thứ. Chán Mớ Đời Có tên bạn học, con tiệm vàng Kim Thịnh, chửi tiếng Huế nghe cực đỉnh. Hắn hay đọc bài của mình nên kể lại đây để hắn tưởng niệm lại những ngày tháng năm cũ đã khiến nhiều tên trong lớp nghe điếc con ráy. Nghe nói, sau này hai tiệm này, chuyên gia chửi ở đường Phan Đình Phùng làm sui gia, ký kết hiệp định tiệm sửa xe Honda, sinh đàn cháu mang tên Romeo và Juliet. Hôm nào buồn đời, mình kể chuyện tình của hai anh chị Romeo và Juliet đường Phan ĐÌnh Phùng. Kinh Dãy phố cuối bên tay phải có tiệm may của ông Ba Hoà, chuyên may liểng đám ma, nay con ông ta nối nghiệp. Khi xưa, lính ra trận chết nhiều nên ông này giàu có vì Đà Lạt ít ai may liểng đám ma. Bên cạnh tiệm ông này là tiệm bán gạo, tạp hoá chi đó của gia đình một nữ sinh Bùi Thị Xuân, tên Liên, tập Thái Cực Đạo ở Thao Trường. Con trai Đà Lạt dạo đó hay gọi Liên Thái Cực Đạo, rất Tom Boy. Mình có gặp lại cô này tại Virginia, khi cô nàng chở vợ chồng Chử Nhị Anh đi xem nhà để mua. Mình không nhớ cô này có đẹp hay không chỉ nhớ là khá đẩy đà khi mình gặp lại. Cạnh tiệm may của ông Ba Hoà, có con hẻm nhỏ mà người dân hay họp cho, thường được gọi là Chợ Nhỏ Phan Đình Phùng. Mình hay đi qua để về đường Hai Bà Trưng. Trong khu này có một tên học chung khi xưa ở Lycee tên Đào thì phải. Tên này lớn tuổi hơn mình, chở gái đi chơi khiến mình phục nức nở. Bố tên này có bồ hay sao ở Sàigòn. Mẹ hắn nhờ bà Dì mình, ở Sàigòn 20 năm, đi với bà ta xuống Sàigòn đánh ghen. Dạo ấy, dì mình, thợ may áo dài, từ Sàigòn lên, mướn chỗ may ở tiệm ông Ba Hoà. Kinh Đặc điểm ở khu xóm này là nhà nào cũng xây một cái tường nhỏ trước cửa nhà để khi mùa mưa đến, bị lụt thì nước không tràn vào nhà. Phía sau khu nhà này có con suối. Dân xóm này, cứ đem rác ra đổ dưới suối, làm nghẹt nên mùa mưa là nước không thoát được, tràn lên bờ. Chuyện rất dễ hiểu, chỉ cần mọi người đồng ý đừng đổ rác xuống suối thì không bị lụt khi trời mưa nhưng dân khu đó theo chủ nghĩa mackeno. Đối diện tiệm may ông Ba Hoà thì mình không để ý lắm vì ít khi đi phía bên đó. Chỉ nhớ có tiệm giò chả An Lộc, tiệm Tân Tiến, tiệm gì làm nệm ghế Salon của một tên học Yersin khi xưa tên Châu. Nhà của ông thầy Tường dạy mình Thái Cực Đạo. Ngoài ra có tiệm bán vật liệu xây cất, tên gì có chữ Ký phía sau, bổng nhiêu quên tên. Không biết có phải Lưu Hội Ký, tiệm này hình như ở đường Minh Mạng, đối diện tiệm vàng Kim Thịnh. Cứ ghi xuống rồi khi nào tìm ra sẽ bổ sung. Cạnh tranh với tiệm Đức Lập bên kia đường. Đối diện tiệm ăn Kim Linh và Như Ý thì chưa thấy dãy nhà phía sau có nhà Chú Cương, an ninh quân đội, bạn ông cụ mình. Thiên hạ hay gọi chú là Cương Đen, có lần chú được bổ sang Nhật Bản học về an ninh quân đội mấy tháng. Sau 75, đi tù rồi đi mỹ rồi về lại Đà Lạt và qua đời tại đây. Đây là tấm ảnh nghe nói được chụp năm 1936, vị trí rạp Ngọc Hiệp, chỗ đường Mình Mạng quẹo xuống đường Cầu Quẹo, sau được đổi lại thành Phan Đình Phùng. Có chú thích bằng tiếng tây “quartier indigène “ mình có kể theo tấm ảnh này rồi. Có anh nào, cựu học sinh Trần Hưng đạo, có kể rất chi tiết khu rạp Ngọc Hiệp nhưng không nói đến tiệm bảo hiểm Rồng Vàng của bác Nguyễn Đình Hoè, hay họ Võ thì phải, tay vợt số một bóng bàn của Đà Lạt khi xưa, nằm ngay góc con hẻm đi lên đường HÀm Nghi, chỗ tiệm phở Tùng. Mình có chơi với con trai của bác hồi nhỏ nhưng lớn lên thì quên. (Còn tiếp) Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen Nguyễn Hoàng Sơn ******************************* Những người hàng xóm nổi tiếngNguyễn Hoàng Sơn Mình ở cư xá của ty Công Chánh, ở đường Hai Bà Trưng, Đàlạt từ năm 1962 đến 1974 nên có nhiều kỷ niệm về thời còn bé ở khu này. Nhà mình nằm ở giữa đường Hai Bà Trưng và Thi Sách nhưng mình hay chơi với đám trẻ ở Thi Sách và Calmette hơn. Đám ở Hai Bà Trưng ít được bố mẹ cho chơi với mình, họ không cho mình vào nhà, chắc sợ cái mặt hơi gian gian, hay nhìn xung quanh của mình. Chán Mớ Đời Ở trên đường Thi Sách thì mình chơi với mấy tên như Đinh Gia LÀnh, học Yersin rồi qua Trần Hưng Đạo, thằng Hiệp con ông Tô, Khánh Ù, con ông Phúc, thổi kèn cho đội quân nhạc kèn đồng của trường Võ Bị,… qua thằng Lành (Bi), nay ở tiểu bang Washington, Hoa Kỳ thì mình quen thằng Nguyễn Đức Vinh, bạn bè hay kêu Vinh Kennedy, ở đường Calmette, số 33 thì phải vì nhà nó là căn thứ 2, hay 3 đi từ góc ngã 3 Thi Sách và Calmette. Căn đầu tiên là một biệt thự rồi đến nhà bà nào quên tên rồi mới đến nhà thằng Vinh Kennedy. Hình như hai tên này cùng đi hướng đạo Lâm Viên nên thân nhau. Tên này học trường Trần Hưng Đạo, em của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Mỗi lần đến nhà hắn là thấy hắn tập đánh đàn. Lớn lên một chút thì mới biết ông anh của hắn nổi tiếng trong giới du ca. Mình quen tên Vinh Kennedy học chung với anh bà con mình, tên Thành, con dì Ba Ca, ở trên số 4, thường được gọi là “Bồn Lừa” vì anh chàng này đá banh hay ở trường Trần Hưng Đạo. Mậu Thân thì gia đình dì Ba Ca từ Số 4, chạy xuống ở trú tại nhà mình nên mới quen biết nhau, đá banh với nhau. Dạo ấy trong xóm có màn đánh bóng bàn, ở nhà ông Nghi, trên đường Thi Sách, có phòng nhổ răng ở đường Minh Mạng. Trước khi đi Tây, mình ra đây trám răng và nhổ răng đủ trò. Hai tên Lành và Vinh dạy mình đánh bóng bàn, rồi sau này mình hạ chúng hết. Anh Toàn con ông Tô, nghe nói vô địch đôi trường Trần Hưng Đạo, mình cũng hạ nốt. Chán Mớ Đời Quen thằng Vinh Kennedy, mặt thằng này giống tây lai nên bạn bè kêu cái tên cúng cơm là Vinh Kennedy. Bố hắn làm chi ở nhà thờ Tin Lành ở đường Hàm Nghi. Quen tên này mới nghe đến Nguyễn Đức Quang, anh của hắn. Hình như mình chỉ gặp mặt anh chàng này có một hai lần ở nhà hắn. Tuy có gặp mặt một hai lần nhưng khi ai nói đến Nguyễn Đức Quang thì mình đều vỗ ngực kêu là hàng xóm khi xưa. He he he Trong những bài của Nguyễn Đức Quang, có lẻ bài “Việt Nam quê hương ngạc nghễ” là mình hay hát với đám bạn ngày xưa và “người anh Vĩnh Bình” khi nhớ đến vụ ông cụ mình, bị du kích vây quanh nhà ở quê, để xử tử vì không theo họ, may ông cụ trốn thoát đêm đó nếu không thì Sơn Đen không có mặt trên dương thế. Chán Mớ Đời Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang Lê sau bàn chân gông xiềng cuộc đời xa xăm Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang! Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian! (…) Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian Hỡi những ai gục xuống trỗi dậy hùng cường đi lên! Có lần mình đang chơi trên đường Thi Sách với đám con NÍt thì có một ông sinh viên Võ Bị, bận đồ xuất trại vào cuối tuần, đi ngang rồi hỏi cả đám nhà của chị Lệ Khánh. Mình biết chị Khánh là con cậu Mân, không nhớ cậu Mân bà con chi đó bên ông ngoại hay mệ ngoại của mình nhưng chắc cũng loại xa vì không thấy đi ăn kỵ bên gia đình này. Cậu mợ hay ghé chợ thăm bà cụ mình khi đi chợ. Cậu Mân, hình như là phó trưởng ty cảnh sát Đàlạt thì phải, hay chạy chiếc xe jeep của ty cảnh sát. Nhiều khi cùng làng với mệ ngoại mình cũng có. Cả đám kêu em biết, em biết rồi mình và thằng Đắc làm tài khôn, dẫn ông Võ Bị này lên đường Calmette, hình như nay Việt Cộng đổi tên Phạm Ngọc Thạch và nhà của cậu Mân, cách nhà Vinh Kennedy đâu 4 căn nhà, ở gần nhà dòng Domaine de Marie, nơi mấy bà sơ nuôi trẻ em mồ côi tây lai. Mình và thằng Đắc thay nhau gọi chị Lệ Khánh ơi có người hỏi thăm thì một hồi sau, thấy chị mở cửa lầu trên ra đứng ở Ban-công, nhìn xuống. Thằng Đắc chỉ ông Võ bị rồi nói có người tìm chị. Mình không quên giây phút này. Khi ông võ bị nhìn thấy chị Lệ Khánh thì bỏ đi. Lâu quá mình không nhớ, đọc báo thì thiên hạ khen chị ta đẹp nhưng theo mình nhớ cái mũi của chị tẹt lét. Sau này nghe nói lấy chồng về Sàigòn thì phải. Mình chưa bao giờ vào nhà cậu Mân nên không rành lắm. Lớn lớn, sang trường Việt thì được đám học chung nói đến tập thơ của chị Lệ Khánh “em là con gái trời bắt xấu”. Mình có mượn đọc cuốn tập thơ của chúng nhưng chả hiểu gì cả trong khi chúng chép lại theo để viết thư cho mấy cô trong lớp. Mình thấy thằng Sang viết thư cho gái, lấy cuốn tập mà nó chép theo đủ loại ra để lựa bài nào rồi viết nắn nót lại mấy câu thơ, thay lời để cho hợp với tâm trạng của nó đối với cô bạn học chung lớp: Sang đứng đợi suốt chiều mưa chúa nhật Lần sau nhé bận gì H cứ khất Xin sẵn sàng đứng đợi vạn mùa đông Bạn bè đi qua trao vội thiếp hồng Sang vẫn mặc để chờ H trọn kiếp Rồi hắn hỏi mình có hay không thì mình chỉ biết gật đầu như gà nuốt dây thung, miệng kêu u chau u chau, hay hay, thầm phục tên này, dám chờ đợi cô học chung lớp đến trọn kiếp. Kinh Nếu mình không bị tiếng sét ái tình trong đời khi sang Hoa Kỳ chơi thì chắc sẽ không bao giờ mượn sách thư viện sách việt ngữ để đọc thì ngày nay tiếng Việt mình cũng trả nhớ về không. Nói tiếng Việt chắc cũng ngọng ngọng như con mình. Chán Mớ Đời Mình ra thư viện gần nhà ở Luân Đôn, không ngờ họ có một tủ sách việt ngữ nên xem như nguyên năm đó mình đọc hết sách báo việt ngữ của thư viện này trong đó có cuốn “Thi Nhân Việt Nam” của ông Hoài Thanh. Có lẻ biết yêu nên mình bổng nhiên đọc thi ca thì thấy ngấm ngay đến khi lấy vợ thì chỉ biết tụng kinh Chán Mớ Đời. Tối thứ 7 vừa qua, có mấy người bạn đến nhà chơi họp mặt, ngồi nói chuyện với mấy bà bạn thì mới khám phá ra họ cũng quên khá nhiều tiếng Việt như vợ mình. Mình cứ kêu vợ mình ở Việt Nam lâu năm hơn mình, học chương trình việt, tốt nghiệp đại học Việt Cộng mà lại quên tiếng Việt nhiều hơn mình. Hóa ra cái bệnh trầm kha của người Việt Hải ngoại. Có chị bạn kêu “chánh địa” khiến mình buồn cười, nhắc chị ấy là “thánh địa” còn trong chùa thì phần chính là “chánh Điện”. Chị ta cứ nhớ mại mại nói lơi khơi lộn hai cụm từ với nhau. Cách tốt nhất để học tiếng Việt lại là đọc sách việt ngữ. Nói vậy chớ, mình đọc thư của cậu Võ Quang Tri, con ông Võ Quang Tiềm thì cậu này viết tiếng Việt còn rành hơn mình dù đi tây vào lúc còn học trung học. Xem như học trường Tây, ở bên Tây từ bé đến đại học, ở bên tây hơn 60 năm mà viết tiếng Việt rất chuẩn. Kinh Nhs . ******************************** www.muctimsonden.com/2022/03/mot-ky-uc-lat-uoc-xoa-bo.htmlMột ký ức Đà Lạt vừa bị xoá bỏ Mình định viết về tấm ảnh này từ lâu, về căn nhà đối diện hồ Xuân Hương của bà dược sĩ, kiêm dân biểu Nguyễn Thị Hai khi xưa. Không biết tác giả của tấm ảnh là ai, có thể chụp lén một cặp trai gái đang ngồi cạnh hồ Xuân Hương, nơi bệ xi-măng, xây tròn xung quanh những cây tùng, nhìn qua biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, mang tên Trang Hai.
Biệt thự, mình ước mơ một ngày được ở trong đó khi còn bé. Nay thì thất kinh vì họ đã cho dẹp bỏ, xoá hết tàn dư của chế độ cũ. Chắc để xây khách sạn cao cấp tại đây. Chắc sẽ dện cả chục tầng cao hơn mấy cây thông. Có người cho biết là để nới rộng đường Trần Quốc Toản vì giao thông Đà Lạt bị banh-ta-lông. Dần dần đồi núi Đà Lạt sẽ bị xén đất hết, trở thành đồng bằng. Chán Mớ Đời Khi xưa, đường Hai Bà Trưng, khúc lên đồi bệnh viện Nhi đồng, cư xá viện Pasteur là đồi. Nay về thấy họ xắn đất, để xây nhà nên mình hơi lo là một ngày nào đó, đất sẽ bị trùi vì nước mưa đọng lại, bao nhiêu đất trên đồi sẽ phủ hết phía dưới đường Hai Bà Trưng tương tự như khu vực mới bị lỡ đất ở xóm Bà Thái khi xưa. Đất Đà Lạt toàn là đất sét thêm hệ thống dẫn thoát nước mưa khá thô sơ. Lâu ngày, nước tụ sẽ đẩy đất ở dưới vì bị đọng nước. Gần nhà mình ở Cali, cách đây độ 15 năm có một cái tường talus xây cao độ 3 tầng lầu để chống giữ đất đồi bị trùi. Một năm bị El Nino đến thăm, mưa liên tu ti mấy ngày khiến đất bị trùi, kéo theo bức tường xi-măng dầy độ 30 cm và nhà cửa trên cao. Hồi nhỏ, mình mơ có một ngày sẽ làm chủ căn biệt thự của ông bác sĩ Sohier và căn nhà này. Không hiểu tại sao, dạo học Văn Học, mình hay chạy xe lòng vòng Đà Lạt, xem các biệt thự thay vì đi ngắm gái, đánh bi-da như xưa với mấy tên bạn. Bên cạnh biệt thự này, phía tay phải, ngay cầu Ông Đạo đi qua, có căn biệt thự của gia đình một cô bạn học chung năm xưa 11B tên Hà, và một cô khác tên Vy Thị Thu Thuỷ ở trọ. Mình có đến nhà vì muốn xem bên trong nhưng không được cho vô nhà, chắc họ sợ mình chôm đồ. Mặt mình rất là gian gian từ xưa đến nay. Ít ai mời vào nhà họ. Theo mình, kiến trúc biệt thự này không đẹp như các căn khác tại Đà Lạt ở đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương hay Huỳnh Thúc Kháng,… chắc không phải do ông kiến trúc sư tây vẽ. Cũng có thể chỉ là nhà nghỉ mát cho gia đình ở Sàigòn, lâu lâu lên Đà Lạt chơi nên không xây cất to lớn. Hình như mình có kể về ông tây này, đã thiết kế những căn biệt thự tại Đà Lạt xưa, rất đẹp. Sau này, thời đệ nhất Cộng Hoà, bổng nhiên có một thế hệ kiến trúc sư trẻ Việt Nam xuất hiện, thiết kế các công trình ở Đà Lạt rất đẹp, khá tân tiến và hiện đại cho vùng Đông Nam-Á thời ấy như chợ Đà Lạt, Giáo Hoàng Học Viện, trường Võ Bị Quốc Gia, viện đại học Đà Lạt,… Thường thì văn học và nghệ thuật nói lên tư duy của người dân, trí thức trong hoàn cảnh hiện tại và những viễn kiến cho tương lai. Việt Nam Cộng Hoà, thời ông Diệm như một thời đại khai phóng, mở đường cho một Việt Nam mới hiện đại, sau khi dành lại độc lập. Nhờ đó mà kiến trúc và nghệ thuật thời ấy khá mới mẻ, đầy sáng tạo. Cộng thêm các nhà trí thức và văn nghệ từ Bắc di cư vào nam, tạo ra một nguồn lửa văn học và nghệ thuật rất đặc biệt và còn ảnh hưởng đến ngày nay, vẫn tồn tại trong người Việt. Mình thấy tấm ảnh rất đẹp. Chụp trên đường Nguyễn Thái Học, gần đường lên Nhà Lao, nơi mẹ mình bị nhốt tại đây gần 6 tháng thời Tây. Cặp trai gái Đà Lạt trong tấm ảnh, chắc đang bàn về tương lai, sở hữu một căn nhà như biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, nằm trên đường Trần Quốc Toản mà khi xưa đi học, mỗi ngày đều chạy qua đây. Nhưng muốn đến căn nhà, phải làm sao qua hồ nước. Một thử thách của đời người. Bơi qua hồ hay đi vòng cầu Ông Đạo Trần Văn Lý. Có người cho biết là biệt thự mang tên “Trang Hai”, chắc mang tên tiệm dược khoa mang tên Trang Hai Dược Cuộc của bà Nguyễn Thị Hai. Tấm ảnh này có lẻ khi mới được xây cất thời Tây, trước năm 1922, cùng thời với khách sạn Palace. Khi tây về nước, người Việt mua lại rồi làm vũ trường, nhà hàng. Mình nhớ hồi nhỏ có vào đây một lần với ông cụ khi có bạn ở đâu đến chơi, ngồi ngoài vườn, uống nước cam vàng dưới mấy cây thông khiến mình mê căn nhà này. Thấy tên tiệm là “Au Cabaret”. Sau này bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, ở Sàigòn mua lại rồi cho xây thêm một gian bên tay trái, tương đối đẹp hơn trước. Thấy lạ, mặt tiền này hướng về hướng Bắc của Đà Lạt, có lẻ vì vậy mà họ xây cửa sổ cao hơn mấy cánh cửa ra vào, vì cái mái nhà và veranda che khuất ánh sáng. Hình này cho thấy sau khi được xây thêm một phần bên tay trái, cái lan-can trên lầu 2, được phá đi chỉ còn chỗ phòng ngủ chính đi ra veranda, để đứng ngắm hồ Xuân Hương. Dựa trên ảnh trên thì mình đoán căn nhà được nới rộng thêm về hướng BẮc, so với bức tường của nhà bếp. Do đó họ làm một dàn Pergola để nói hai phần mới và cũ. Hướng bắc thêm nhìn ra hồ nên họ làm cửa sổ sát trần nhà để có cái nhìn rộng hơn về hồ Xuân Hương. Phần bên trái được xây thêm, mình đoán là cửa ra ngoài, cũng là cầu thang lên lầu gần đó, có cửa sổ tròn, không biết có phải nhà tắm tại đây hay không. Có lẻ không có đất, địa thế trên đồi nên phần cho người làm ở và nhà bếp được xây dính liền. Thường thì mấy biệt thự lớn ở Đà Lạt, có xây phần của gia nhân ở phía sau như nhà của bác sĩ Lương ở đường Phan Chu Trinh thì phải. Cầu thang đi xuống đường Trần Quốc Toản, có lẻ được xây khi còn thời làm nhà hàng “Au Cabaret” để khách có thể đến thay vì đi vòng lên con đường phía sau lên kho bạc, nơi mà có vụ cướp xe ngân hàng của ông Nguyễn Tấn Đời, năm mình học 3ème hay Seconde thì phải. Mỗi lần chạy ngang con đường này, là mình hay liếc vào cổng căn nhà mộng mơ của tuổi trẻ. Họ cho phá xập hết căn nhà ít nhất cũng trên 90 năm vì năm 1932 có lũ lụt thì hình ảnh cho thấy chưa được xây. Đường Trần Quốc Toản chỉ là con đường nhỏ. Một di tích lịch sử của hồ Xuân Hương. Có người cho mình thấy tấm ảnh chụp trước năm 1932, thấy căn nhà hai tầng này. Xin cảm ơn. Mình viết theo ký ức nên nhiều lúc không chính xác, bác nào thấy sai thì cho biết để em cập nhật hoá. Đây tấm ảnh của một người tại Đà Lạt, mới gửi cho mình. Mình có tấm ảnh này nhưng không để ý. Hình này chụp trước năm 1932 vì cái đập-đê ngay chỗ Thuỷ Tạ (chưa được xây), đã thấy căn biệt thự có chấm đỏ. Cảm ơn người Đà Lạt đã chỉ cho. Theo giải thích thì năm 1922, khách sạn Palace được xây xong thì đã thấy căn biệt thự này rồi. Có thể là nhà của quản lý khách sạn Palace vì rất sơ sài. Theo chú thích của anh người Đà Lạt, tấm ảnh trên vào năm 1932, khi khách sạn Du Parc vừa được xây xong (chấm xanh đậm) còn chấm đỏ là biệt thư sau này mang tên Trang Hai, chỉ hai gian nhà như tấm ảnh nhà hàng “au Cabaret”. Xem tấm ảnh này thì hoá ra khu bị lũ lụt năm 1932, nằm phía bên kia cầu Ông Đạo. Mình lại đoán phía bên nhà hàng Thanh Thuỷ. Để hôm nào, mình rảnh sẽ sửa lại. Không nhớ bài nào. Chán Mớ Đời Nhìn từ bên kia hồ sang (đường Nguyễn Thái Học). Phía sau căn nhà này là đường chạy lên bưu điện. Vấn đề là nới rộng ra nhưng xe chạy vào chợ vẫn phải đi qua cầu Ông Đạo nhỏ bé, vẫn gây ùn tắc. Chán Mớ Đời Xong om Năm 1971-1972 mình đi bộ từ khu Hòa Bình tới Adran mỗi ngày cũng đi ngang ngôi nhà này và vài nhà khác trước khi leo lên những bậc thang Dalat Palace rồi xuống dốc xuống Adran, cũng mơ ước và thắc mắc ai là chủ những ngôi nhà trong mơ này. Nhờ Sony NguyenUsa - Hoàng Tử Bé Đà Lạt - Le Dalat Petit Prince'S Me, mới biết chủ ngôi nhà là dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ nhân viện bào chế Trang Hai, bà Hai cũng là dân biểu Nguyễn Thị Hai. Dược sĩ Hai cũng dính dáng xa gần với cô trình dược viên Nguyễn Thị Mai Anh (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Mai_Anh) là phu nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi cô lấy chồng, nghĩa là bà Hai là big boss và giàu có từ hồi bà Thiệu còn là con gái, hồi còn Tây mà đã làm chủ viện bào chế dược phẩm. (Dũng Le) Bùng binh hồ Xuân Hương ngày nay. Chắc chụp trước rạp xi-nê Ngọc Lan, chỗ quán phở ngày xưa, bãi đậu xe Honda cho khán giả xem xi-nê. Mình nhớ có leo lên đây với ông cụ một lần khi về thăm Đà Lạt. Đó là lần cuối mình đi chơi với ông cụ. Lần sau về thì ông cụ yếu. Xong om Năm 1995, khi mình thiết kế một dự án du lịch của tập đoàn Tân Gia Ba, phát triển khu Dankia. Tập đoàn này mướn công ty mình thiết kế khách sạn Equatorial ở Sàigòn. Mình có nghĩ về sự phát triển Đà Lạt trong tương lai. Theo mình thì Đà Lạt nên dời hệ thống hành chánh và kinh tế về Bảo Lộc, cũng thuộc tỉnh Lâm Đồng, cận Sàigòn, Long Khánh hơn là phải chạy thêm 150 cây số. Long Khánh, khi về Sàigòn, mình có chạy qua khi lên Đà Lạt, xa Sàigòn một tị, nên xây phi trường quốc tế để không gây kẹt xe tại sân bay trong Sàigòn. Du khách quốc tế hay nội địa từ phi trường ở Long Khánh, có thể lên Bảo Lộc nhanh. Phi trường Liên Khương nhiều khi bị mây mù nên khó đáp xuống, làm trễ nải du lịch. Trong khi đó, cho phát triển các trung tâm du lịch và khách sạn cho du khách đến Đà Lạt về phía Đức Trọng, Tùng NGhĩa hay Đơn Dương vì du khách có thể đi tắm biển ở Ninh Chữ, Cà Ná, Phan Thiết hay Nhà Trang. Sáng đi chiều về, hay ngược lại vẫn hưởng được cái lạnh của Đà Lạt. Rau cải trồng xung quanh Đà Lạt như ở Tùng Nghĩa,.. Du khách đến Đà Lạt bằng xe buýt điện từ Đức Trọng, Trại MÁt, Đơn Dương lên trong ngày rồi chiều về lại. Biến Đà Lạt thành một thành phố như ở Thuỵ Sĩ với những phong cảnh, kiến trúc như ở Thuỵ Sĩ, sẽ làm du khách mê và trở lại. Tha hồ mà cho mướn phong cảnh Đà Lạt để các hãng phim quốc tế ở Á Châu mướn, khỏi đi qua Thuỵ Sĩ. Mình làm việc hai năm tại Thuỵ Sĩ, thấy hao hao Đà Lạt nên nghĩ sau này, có về Đà Lạt, sẽ thiết kế theo khung cảnh Thuỵ Sĩ nhưng vẫn giữ tâm hồn của Đà Lạt. Các khách sạn sẵn có tại Đà Lạt thì trùng tu lại, nâng cấp lên, giá cao hơn. Ở Hoa Kỳ, muốn ngủ qua đêm các trung tâm du lịch, người ta phải đặt phòng trước cả năm hay 2 năm vì giới hạn phòng và giá rất cao, ít tiện nghi. Các trung tâm du lịch trên núi tại Hoa Kỳ hay âu châu, thường họ không cho xe cộ vào nhiều quá. Đậu phía ngoài rồi đi xe buýt chở vào. Chỉ có những người sinh sống ở trong thì có thể vào hay các khách sạn sang trọng, đắc tiền. Dùng tiền du khách để tu bổ lại Đà Lạt. Đà Lạt sẽ thu hút du khách ngoại quốc nhiều hơn như Hội An. Nếu mình không lầm, ngày nay chỉ có đường Minh Mạng là còn chút gì của Đà Lạt xưa, từ khúc Nguyễn Biểu đi xuống chỗ quẹo. Không gian vẫn còn chút gì của Đà Lạt khi xưa. Mai mốt, họ đập phá khu dinh tỉnh trưởng xong thì sẽ làm thịt luôn các khu phố xung quanh. Mình không rõ dự án xây khách sạn trên đồi dinh tỉnh trưởng, có thiết kế thêm về chỗ đậu xe cho du khách hay không. Mình chỉ nhớ là có lần ở Sàigòn, một anh bạn học cũ với đồng chí gái, dẫn mình đi ăn cưới con của một người bạn học cũ. Đến một nơi có đến 10 sảnh để tổ chức một lúc 10 đám cưới thì không có bãi đậu xe dưới hầm hay đâu cả. Phải chạy qua khu nhà dân, nhờ họ coi xe, trả tiền họ. Dưới hầm thì khó vì nước. Mình đọc tài liệu thì nước sông Sàigòn dâng mỗi năm mấy cm. Khi xưa, mỗi lần có chợ Tết, mình thấy kẹt xe hơi rất nhiều ở dưới chợ. Nay dân đông gấp 3, 4 lần và thêm xe cộ nhiều thì Chán Mớ Đời. Thật ra, người tây phương cũng lầm lẫn rất nhiều khi kiến thiết lại đô thị của họ sau đệ nhị thế chiến. Sau này, họ khám phá ra những lỗi lầm của họ nên đã thay đổi. Mình đi khắp âu châu khi xưa, nên có dịp viếng các trung tâm đô thị bị bom, chiến tranh tàn phá để xem thành phố nào đã tái thiết lại. Có lẻ chúng ta nên rút kinh nghiệm của họ để phát triển Đà Lạt thay vì đọc mấy cuốn sách cũ mèm từ 100 năm qua về thiết kế đô thị, để áp dụng kiến trúc xã hội chủ nghĩa sai lầm của thế giới vào Đà Lạt. Chán Mớ Đời Mình nghe nói là họ sẽ đóng cửa đèo Prenn để nới rộng con đường lên Đà Lạt để khỏi bị kẹt xe. Con đường đèo này, được xem là đẹp nhất Việt Nam. Adieu Đà Lạt. Làm như vậy để không phát triển Đà Lạt quá tải sẽ hết thu hút du khách. Du khách ngoại quốc đến Việt Nam, họ thích biển hơn là núi rừng vì xứ họ đã lạnh rồi. Hè chỉ muốn ra biển tắm nắng. Do đó muốn thu hút du khách thì Đà Lạt phải có đặc trưng về nét gì đó tương tự Hội An được thế giới biết đến vì Phố Cổ. Du khách nội địa thì chỉ đến vào các dịp Tết,… sau đó thì dân cư Đà Lạt ngáp ruồi, hay bị nhiễm Covid như mấy tuần lễ sau Tết nên chặt chém, làm 3 tháng sống 1 năm như các trung tâm du lịch gần biển ở âu châu. Các tỉnh ở Đức quốc, bị bom đạn trong thời đệ nhị thế chiến. Ngày nay, người đức họ cho xây lại như xưa với kỹ thuật ngày nay. Đi viếng mấy chỗ này rất đẹp. Ngay Luân Đôn bị Đức quốc Xã dội bom, mình làm việc ở Luân Đôn được hai năm, đi đến những nơi được xem bị bỏ bom thì thấy vẫn như xưa, không có gì thay đổi cả. Đà Lạt chỉ có xe buýt chạy bằng điện hay đi bộ trong thành phố. Trồng thêm hoa Anh Đào như ở Nhật Bản. Mấy phố như đường Minh Mạng, Hàm Nghi, Tăng Bạt Hổ sẽ như các thành phố nhỏ của Thuỵ Sĩ trên núi. Du khách trả tiền trước ở khách sạn nên không cần bán vé hay soát vé gì cả. Nay thì xong om. Chán Mớ Đời Đây là một thí dụ: thành phố Dresden của Đức quốc, khi xưa, quân đội đồng minh, dội bom gần như nát bấy nhưng họ vẫn xây lại như xưa thay vì huỷ bỏ, xây cái mới, rẻ hơn. Phố xá cho đi bộ, không có xe hơi chạy qua. Hình ảnh thành phố Dresden năm 1968 và sau khi thống nhất được Tây đức bơm tiền để sửa chửa lại hết để người đức trở về. Khi tường Bá Linh sụp đỗ thì người Đông đức bỏ chạy hết qua Tây đức. Hình ảnh năm 1983, đông Đức (cộng sản) đói không có tiền tu sửa lại đến khi thống nhất, Tây đức bỏ tiền kiến thiết lại. May là bọn tư bản không dãy chết nếu không thì những ngôi nhà cũ khi xưa của Đức quốc sẽ không bao giờ được xây sửa lại, làm viện bảo tàn tội ác tư bản. Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen Nguyễn Hoàng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 7, 2022 3:35:17 GMT 9
VIỄN CẢNH 2022: TUNG HOÀNH VỚI SÔNG CỜ ĐỎ: TRUNG QUỐC ĐANG VẮT KIỆT NGUỒN NƯỚC CỦA CHÂU Áwww.muctimsonden.com/2022/03/song-co-o-giup-trung-cong-lam-ba-chu.htmlDẫn Nhập _Các dân tộc sống trên lục địa Châu Á ở hạ lưu các dòng sông từ Tây Tạng và Trung Quốc chảy xuống, trên 1,6 tỉ người này đã phải gánh chịu hết cả thiệt hại kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và môi trường các hạ vực đã bị thoái hóa dần dần suốt nhiều thập niên qua trong khi Trung Quốc hưởng hết ích lợi nhờ thủy điện vì trên thượng nguồn họ xây hàng trăm con đập, tàng trữ hàng trăm tỉ mét khối nước, giam hãm 90% phù sa và thay đổi toàn diện dòng chảy môi sinh trên toàn lưu vực. Nhưng tham vọng Trung Quốc chưa dừng lại, Trung Quốc đã bắt đầu xây một đại công trình mang tên Sông Cờ Đỏ, dài trên 6.180 km để hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ nguồn không cho xuống hạ lưu sông Mekong, Salween và Brahmaputra. Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm tàng to lớn, với khả năng gây ra tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế. Việt Ecology Foundation Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù, đối với các quốc gia hạ nguồn. [1] Hình 1: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á: (1) Dương Tử, (2) Hoàng Hà, (3) Indus, (4) Sutlej, (5) Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, (6) Irrawaddy, (7) Salween, (8) Mekong. [nguồn: Bản đồ cập nhật của Michael Buckley, Meltdown in Tibet,Palgrave MacMillan 2014] [3] CƠ THỂ HỌC CÁC CON SÔNG LỚN CHÂU ÁCác con sông lớn như mạch sống của toàn Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng, còn được mệnh danh là Cực Thứ Ba của Trái Đất. _ Đông Tây Tạng: phía đông là khởi nguồn của hai con sông lớn hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc: (1) sông Dương Tử6.500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải – Shanghai, (2) sôngHoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa. _ Tây Tây Tạng: phía tây bắc, là (3) sông Indus và (4) sông Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi. Phía tây nam là (5) sông Yarlung Tsangpo là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông đổi tên là sôngBrahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, Ấn Độ Dương. _ Nam Tây Tạng: phía nam là ba con sông (6) sông Irrawaddy và (7) sông Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman. Riêng con (8) sông Mekong chảy qua nhiều quốc gia với nhiều tên khác nhau, từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá”, tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lan Thương Giang / Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng”, qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ”, xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn”, cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long với hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu đổ ra Biển Đông trước kia bằng chín cửa sông, nhưng nay chỉ còn bảy. [Hình 1] TÂY TẠNG KHÔ HẠN CHÂU Á CHẾTVà cũng dễ hiểu tại sao, bằng mọi giá Trung Quốc phải chiếm cho bằng được Tây Tạng – vùng cao nguyên chiến lược vô cùng quan trọng, giàu có về nguồn nước, phong phú về tài nguyên thiên nhiên – đó cũng là “định mệnh sinh học – biological destiny”của Tây Tạng, một quốc gia nhỏ bé với chưa tới 1,5 triệu dân bản địa (thống kê 1965, dân số gốc Tây Tạng 1,321,500; Leo A. Orleans, The China Quarterly Jul-Sep, 1966) và đang bị Hán hoá, người Tây Tạng nay đã trở thành thiểu số ngay trên đất nước mình. Phải chứng kiến tốc độ tàn phá sinh cảnh Tây Tạng, ngay nơi đầu nguồn, các con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc khai thác một cách triệt để với những đập thuỷ điện, cùng với nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện tượng biến đổi khí hậu với khí thải từ các nhà máy đốt nhiên liệu hoá thạch đang gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết tưởng như vô tận nơi cực thứ ba trái đất đang nhanh chóng bị đẩy lùi và tan rã. Cũng để thấy rằng, những con sông Châu Á từng nguyên sinh trong thế kỷ trước thì nay đã biến dạng suy thoái và không còn như xưa nữa. Cảnh tượng ấy khiến Đức Dalai Lama đang lưu vong phải thốt lên lời kêu cứu và ông đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng. Trong một lần gặp gỡ với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8/2009, Đức Dalai Lama nói rằng: "Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5-10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi."[nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009] Bắc Kinh xác nhận là sẽ xây thêm các con đập thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông xuyên quốc gia ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của ba quốc gia này. Khi các công trình hoàn tất, tổng công suất / total capacity của những con đập thủy điện trên Cao nguyên Tây Tạng sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam): 22.500 megawatts, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Hình 2: Bích chương của Hội Phụ nữ Tây Tạng:Hâm Nóng Toàn Cầu trên Cao nguyên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. [3] Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương Tây Tạng nhưng Đức Dalai Lama rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông nói tới vấn đề môi sinh rất sớm với tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và “phải làm sao giữ xanh hành tinh” này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [ngày 05.06.1986]: “Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này... Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau."[3] SÔNG CỜ ĐỎ / HỒNG KỲ HÀ 红旗河 MỘT KHỦNG LONG CỦA BẮC KINHTừ mấy thập niên qua, ai cũng đã biết Trung Quốc đã và đang xây thêmhàng trăm đập thủy điện trên khắp các dòng sông với những hồ chứa nước khổng lồ, ngăn chặn phù sa làm đảo lộn toàn hệ sinh thái, tác động đến sinh kế của bao nhiêu triệucư dân dưới nguồn. Nay tiến thêm một bước đột phá nữa, Trung Quốc đang có thêm một kế hoạch vĩ mô / mega project, vô cùng táo bạo – khai mở một con sông nhân tạo: Sông Cờ Đỏ / Red Flag River, lớn nhất thế giới xuyên lưu vực, kết nối với mạng lưới sông thiên nhiên của Châu Á, nhằm chuyển nước về hướng Bắc củng cố nền an ninh nguồn nước – cũng là nguồn an ninh lương thực của Trung Quốc. Với dự án Sông Cờ Đỏ dài 6.180 km này, Trung Quốc hàng năm sẽ giành thêm được 60 tỉ mét khối nước – có nghĩa là các quốc gia khác sẽ mất đi lượng nước sinh hoạt thiết yếu này. Không tham khảo với các quốc gia láng giềng,có thể nói Trung Quốc với hơn 1.4 tỉ dân đã đơn phương khai mào một trận chiếnmôi sinh không tiếng súng và sẽ gieo hoạ cho 1,6 tỉ người thuộc các dân tộc lân bang chung sống với họ trên lục địa Châu Á. Sông Cờ Đỏ có tham vọng chuyển 60 tỉ mét khối nước hàng năm tương đương với 21% lượng nước đầu nguồn hàng năm tại ba con sông xuyên quốc gia / transnational rivers: Mekong, Salween và Brahmaputra. Lượng nước quý giá này chính là nguồn sống, sinh kế của các dân tộc Nam Á, và Đông Nam Á vẫn phải dựa vào số nước ấy sẽ được chuyển tới vùng Tân Cương – Xinjiang phía bắc và tây bắc Trung Quốc. Dự án Sông Cờ Đỏ xuyên lưu vực này sẽ gây chấn động dư luận nơi các quốc gia lân bang – đặc biệt là Ấn Độ, quốc gia có dân số đông thứ hai chỉ sau Trung Quốc. Những nước dưới hạ nguồn sẽ phải rất quan tâm trước một viễn tượng có thể khó lường. Do Tây Tạng có nước chảy xuống là nhờ mưa và tuyết tan khi trời ấm, mức nước và lưu lượng sẽ cao nhất từ tháng hai cho đến tháng bảy, cho 70% tổng số nước cả năm, khi đó là thời gian tối ưu cho con Sông Cờ Đỏ dựa vào thế năng và động năng cao để chuyển dòng và chiếm đoạt nhiều nước nhất. Các nước hạ lưu cùng lúc đó lại đang vào mùa khô, vì thế sau khi Sông Cờ Đỏ hoạt động, hạn hán giáng xuống hạ lưu chắc chắn sẽ khắc nghiệt hơn nữa. Lúc đó họ chỉ còn biết dựa vào lòng tử tế của Trung Quốc, điều mà người Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ, Việt Nam đã từng được nếm trải. Vì thế Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc đã tiềm tàng một mối đe doạ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc đã tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ không bị ràng buộc có thể đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế. Riêng Việt Nam thì sao? Vẫn là sự im ắng “truyền thống” cho dù Sông Cờ Đỏ sẽ lấy nước sông Mekong từ ngay nơi đầu nguồn. Trung Quốc “vĩ đại” theo nhiều ý nghĩa, thể hiện cho tinh thần Đại Hán ấy trong quá khứ đã có Vạn Lý Trường Thành, là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nay với tiến bộ khoa học kỹ thuật, Trung Quốc còn thực hiện thêm những công trình mới có tầm vóc thế giới: đập thuỷ điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử lớn nhất thế giới, và nay Sông Cờ Đỏ sẽ là con sông nhân tạo chuyển dòng lấy nước cũng lớn nhất thế giới với chi phí tốn kém nhất thế giới. Đây là một đại công trình làm thay đổi cả diện mạo của lục địa Châu Á. Với sẵn nguồn nhân lực, với quyết tâm và có khả năng kỹ thuật cao, Bắc Kinh có thể dư sức thực hiện Dự án Sông Cờ Đỏ này. Nhưng với cái giá nào phải trả của các quốc gia lân bang thì không được Bắc Kinh quan tâm tới. Hình 3a: Sông Cờ Đỏ với Dự án chuyển nước vĩ mô “tam tung, tứ hoành / ba dọc, bốn ngang”; (a) đường đen mỏng: các dòng sông lớn; (b) đường đen đậm: Sông Cờ Đỏ và hai nhánh chính nối với các con sông thiên nhiên trong dự án chuyển nước nối lưu vực nam-bắc của Trung Quốc; (c) đường đen đậm đứt quãng gần: đường dẫn nước nam-bắc trong Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project; (d) đường đen đậm đứt quãng xa: trong kế hoạch thực hiện. [nguồn: Bản đồ của Genevieve Donnellon-May và Mark Wang trên The Diplomat Oct. 7, 2021, với thêm ghi chú tiếng Việt của người viết] Hình 3b: GS Vương Hạo (Wang Hao), Chủ tịch Nhóm Chuyên gia trong cuộc Hội thoại về “Sông Cờ Đỏ” – một dự án vĩ đại của Trung Quốc – đã ngạo mạn phát biểu: “Ít nhất trên quy mô ngàn năm / thiên niên kỷ, Dự án Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại những lợi ích vượt xa hơn là những tác hại.” LỊCH SỬ SÔNG CỜ ĐỎ VỚI “TAM TUNG TỨ HOÀNH” Dự án này được soạn thảo bởi “nhóm nghiên cứu S4679” của Đại học Thanh Hoa / Tsinghua ở Bắc Kinh – được so sánh như một Harvard của Đông phương; do giáo sư Vương Hạo / Wang Hao là kỹ sư trưởng của Viện Nghiên Cứu Tài nguyên Nước và Thuỷ điện của Trung Quốc. Sông Cờ Đỏ là một hệ thống thuỷ lợi với dòng chảy trọng lực / gravity flow water diversion system, lấy nước từ các con sông trên cao nguyên Tây Tạng [được mệnh danh là “nóc của thế giới” với độ cao trung bình 4.500 m trên mặt biển], dẫn vào một đường kênh chính / main channel đưa nước tới vùng Tân Cương / Xinjiang khô cằn – có khả năng “biến Tân Cương thành một California Made in China xanh tươi trù phú”, đồng thời cũng dùng con sông nhánh Chunfeng dẫn một lượng nước khổng lồ vào lưu vực Turpan tới vùng bắc Tân Cương. [Hình 3a,b] Công trình thuỷ lợi Sông Cờ Đỏ còn đem nước tới Tân Cương và các tỉnh phía tây bắc như Cam Túc / Gansu, Ninh Hạ / Ningxia. Các tỉnh này nếu có nguồn nước sẽ trở thành một vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước. Ước tính là lượng nước cung cấp cho các tỉnh tây bắc sẽ nhiều hơn lưu lượng nước hàng năm của con sông Hoàng Hà / Yellow River đổ ra biển. Dự án này sẽ tạo thêm được 13,3 triệu hectares diện tích canh tác ở Tân Cương và thêm 130.000 km2 các ốc đảo / oasis xanh tươi ở vùng tây bắc Trung Quốc. Ngoài những lợi ích về canh nông kể trên, Sông Cờ Đỏ còn bảo đảm an toàn nguồn nước cho Trung Quốc. Với Kế hoạch Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project, Trung Quốc tạo được một mạng lưới nước / water grid system có tên là “tam tung tứ hoành / 三纵四横 / ba dọc bốn ngang”: _ Tam tung / sanzhong / ba dọc: là 3 tuyến dẫn nước từ nam lên bắc; 2 tuyến trung và đông đã hoàn thành, tuyến tây đang triển khai. Khi tuyến phía tây này hoàn tất, sẽ có 17 tỉ mét khối nước được chuyển từ thượng nguồn sông Dương Tử sang sông Hoàng Hà ngay từ trên cao nguyên Tây Tạng, có khả năng phục sinh con sông Hoàng (Hà) đang bị cạn kiệt. _ Tứ hoành / siheng / bốn ngang: là 4 dòng sông chảy từ tây sang đông là: Hoàng Hà (Yellow river), Hoài Hà (Huai river), Dương Tử (Yangtze river) và Hải Hà (Haihe river) Hệ thống “Tam Tung Tứ Hoành” này sẽ bảo đảm cung cấp nguồn nước cho thủ đô Bắc Kinh và các thị trấn lớn vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc. Ngoài ra, Sông Cờ Đỏ còn có thêm hai kênh sông Hồng Duyên / Hongyan Hà dẫn nước đến Diên An / Yan’an phía bắc tỉnh Thiểm Tây / Shaanxi, và sông Mạc Bắc / Mobei dẫn nước vào Nội Mông và cả Bắc Kinh. Cũng qua kênh sông Mạc Bắc, Sông Cờ Đỏ cung cấp nguồn nước cho vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc, và qua nhánh sông Hồng Duyên cung cấp nước cho lưu vực Tứ Xuyên / Sichuan Basin. [Hình 3a,b] Đây là một bức tranh quy hoạch thuỷ lợi cực lớn –không chỉ tạo ra một hệ thống cấp nước mới cho vùng tây bắc Trung Quốc mà còn kết nối với hệ thống mạng lưới nước quốc gia để có "bảo đảm kép" về mặt chiến lược cung cấp nguồn nước cho Bắc Kinh và vùng bắc Trung Quốc. [1] VẪN BIỆN HỘ CHO TRUNG QUỐCRồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc. Họ vẫn chỉ biết dựa vào một con số đơn giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc. Và nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm % của con số 16% ấy thì nạn hạn hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc. Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất, lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần hơn con số họ cố ý trích dẫn. [nguồn: www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong]Và người ta vẫn có thể tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước “trên nguồn – dưới nguồn / upstream – downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng một quốc gia. Có cần nhắc với họ không là năm 2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam đã phải lên tiếng cầu cứu xin Trung Quốc xả nước từ con đập Cảnh Hồng / Jinhong để cứu đại hạn nơi ĐBSCL lúc đó, và cuối cùng cũng không đạt hiệu quả nào! Hình 4: trên, Hạn hán khắc nghiệt nơi ĐBSCL năm 2016, khiến Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đó phải lên tiếng cầu cứu Trung Quốc cho xả nước từ hồ chứa đập thuỷ điện Cảnh Hồng nhưng không đạt hiệu quả nào; dưới, Cái bắt tay “hữu nghị” của Tập Cận Bình – lúc đó là Phó Chủ tịch TQ và TT Nguyễn Tấn Dũng tháng 12/2011. [nguồn: trái, VN Express 3/11/2016] SÔNG CỜ ĐỎ VỚI TRÁI TIM BIỂN HỒ VÀ ĐBSCLTuy dự án Sông Cờ Đỏ S4678 không được công bố chính thức nhưng chắc chắn sẽ gây ra sự quan tâm rộng rãi. Cao nguyên Tây Tạng vốn được coi là một vùng sinh thái trù phú nhưng cũng rất mong manh và dễ bị tổn thương. Sông Cờ Đỏ chắc chắn làm giảm thêm nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia – trong đó có sông Mekong. Rõ ràng, Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại cho Trung Quốc một thứ “siêu quyền lực” bá chủ về nguồn nước / hydro-hegemony trên toàn Châu Á, với “quyền sinh sát tắt mở vòi nước” theo ý mình – nhất là khi Bắc Kinh muốn cho các nước nhỏ “một bài học” – vẫn nói theo ngôn từ của Đặng Tiểu Bình. Ngoài nước lớn là Ấn Độ, có đủ sức đối trọng với Trung Quốc, hầu như chưa có các quốc gia hạ nguồn nào khác chính thức lên tiếng – Riêng với Uỷ Ban Mekong Việt Nam – 23 phố Hàng Tre Hà Nội, cách ĐBSCL hơn 1.600 km, thì vẫn là sự im lặng hay hoàn toàn bị động. Vẫn với một khuôn mẫu hành xử bấy lâu, chưa bao giờ Bắc Kinh muốn chia sẻ thông tin / hay muốn thực lòng tham khảo với các quốc gia hạ nguồn về dự án Sông Cờ Đỏ S4679, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng huỷ hoại lâu dài đối các dòng sông xuyên quốc gia này. Theo ước tính của hai tác giả Genevieve Donnellon-May / Đại Học Singapore và Mark Wang / Đại học Melbourne, thì Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù, đối với các quốc gia hạ nguồn. [1] _ Tình trạng “đói lũ” ở ĐBSCL đã xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Lũ – mùa nước nổi xuống ĐBSCL, phụ thuộc chính vào lượng nước mưa từ thượng nguồn sông Mekong. Nếu mưa ít ở lưu vực trên / upper basin, kéo theo nạn thiếu nước trong hàng trăm các hồ chứa thuỷ điện, thì khi tới mùa mưa nước sẽ bị chặn lại trong các hồ chứa – thay vì lượng nước mưa ấy ồ ạt theo dòng sông xuôi chảy xuống hạ lưu. Hậu quả là sông Mekong sẽ thiếu nước, gây tình trạng hạn hán trên toàn hệ thống sông rạch. _ Do đó sẽ rất ngây thơ để bảo rằng 16% lưu lượng nước từ Trung Quốc là không đáng kể, và cho rằng các hồ thuỷ điện không tiêu thụ nước. Nhưng khi các hồ thuỷ điện thiếu nước, phải cần thời gian lâu để tích trữ lại lượng nước thiếu vào chuỗi các hồ chứa, những hồ chứa đập thuỷ điện đã “phá vỡ cả một chu kỳ điều hợp thiên nhiên kỳ diệu” của con sông Mekong. Không còn lũ cao / hay đỉnh lũ trong mùa mưa để con sông Tonle Sap có thể chảy ngược dòng vào Biển Hồ, tăng diện tích Biển Hồ lên gấp 5 lần (từ 2.700 km2 mùa khô tới 16.000 km2 mùa mưa). Biển Hồ được ví như một biển dự trữ nước ngọt thiên nhiên khổng lồ tiếp nước cho cả hai vùng châu thổ Tonle Sap / Cam Bốt và ĐBSCL / Việt Nam trong cả hai mùa mưa nắng. _ Một con sông sinh thái / river ecosystem không đơn giản chỉ có nước mà phải là một dòng chảy bao gồm các sinh vật / biotic (như cây cỏ, rong tảo, sò ốc tôm cá), những vi sinh vật / microorganisms cùng với những vật thể phi sinh khác / abiotic (như cát sỏi phù sa), tất cả cùng tương tác với nhau như một cơ thể sống. Tác hại của chuỗi đập thủy điện và nay với thêm Con Sông Cờ Đỏ không chỉ cướp nguồn nước mà còn huỷ hoại hệ sinh thái của con sông: chặn nguồn phù sa trong các hồ chứa – mà phù sa là yếu tố bấy lâu bồi đắp tạo dựng nên vùng đồng bằng châu thổ từ hàng bao ngàn năm. Nay cũng nguồn nước ấy khi xuống tới ĐBSCL do “bị đói phù sa”, đã dẫn tới một tiến trình đảo nghịch: thay vì bồi đắp, thì nay lại “ăn đất” gây sạt lở không chỉ các bờ sông mà cả suốt chiều dài 800km vùng ven biển. _ Rồi còn phải kể tới nạn đất lún do lạm dụng khai thác tầng nước ngầm, cùng với ảnh hưởng của “biến đổi khí hậu” hâm nóng toàn cầu, nước biển dâng, với các hiện tượng El Niño và La Niña khiến các vùng châu thổ là dễ bị tổn thương nhất – trong đó có ĐBSCL, và tất cả đã làm đảo lộn mọi dự đoán về thời tiết thuỷ văn để có thể kịp thời đối phó! TRUNG QUỐC VẪN LỐI HÀNH XỬ CÔN ĐỒTháng 2 năm 1972, khi TT Nixon viếng thăm Bắc Kinh, bắt tay với Mao Trạch Đông dọn đường cho một Trung Quốc mở cửa; rồi tiếp theo đó với chính sách “Đổi Mới” của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng vươn lên như một siêu cường, theo cái nghĩa “nước lớn bá quyền”, và chính Đặng Tiểu Bình đã từng giáng cho Việt Nam một bài học bằng trận chiến tranh đẫm máu nơi biên giới phía bắc (1979). Và rồi như một chính sách nhất quán, Bắc Kinh đã có một lối hành xử rất côn đồ từ Biển Đông (với Hoàng Sa Trường Sa và với Đường Lưỡi Bò), vào tới đất liền chiếm đoạt nguồn nước, luôn luôn hăm doạ và bắt nạt các “tiểu quốc / nước bé”, bất chấp mọi trật tự và luật pháp quốc tế. Bằng chứng là mới đây vào tháng 10/2021 Trung Quốc đã ngang nhiên từ chối ký một “hiệp ước chia sẻ nước / water sharing treaty” với các quốc gia hạ nguồn. [1] Chia sẻ thông tin, chấp nhận đối thoại chân thành, điều mà các chuyên gia thuỷ học Trung Quốc có thể dễ dàng làm nhưng đối lại vẫn là sự vô cảm. Không đối thoại, không có tham khảo, trên mọi dự án lớn liên quan tới toàn vùng, cho dù Bắc Kinh biết rằng cách hành xử ấy sẽ tạo nên những mối quan hệ căng thẳng nhưng họ vẫn bất chấp. Với Trung Quốc ngày nay, chỉ có một tiếng nói của sức mạnh. Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này. NGÔ THẾ VINH Mekong Delta 1995 – 2022 THAM KHẢO: _ What’s Behind China’s Latest Mega Hydro-Engineering Project. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 07, 2021. _ Red Flag River and China Downstream Neighbors. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 23, 2021. Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation May 01, 2018 vietecology.org/article/article/299 Mùa Xuân Tây Tạng và Câu Chuyện Những Dòng Sông. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Jan 20, 2017 vietecology.org/article/article/197 Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ, Miền Tây Đau Thắt Ngực. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Nov 7, 2015 vietecology.org/article/article/122
|
|