|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:02:55 GMT 9
Dòng Mekong êm đềm: Lào Trương Văn Tân Tân Sơn Nhất Khởi hành từ Tân Sơn Nhất, tôi bay đi Vinh rồi theo đường bộ sang Lào. Chương trình là như vậy. Chuyến máy bay Hàng không Việt Nam đi Vinh của tôi sẽ khởi hành lúc 1:00 pm. Tôi đến phi trường sớm hơn thường lệ chỉ vì lo vẩn vơ chuyện khó dễ giấy tờ ở cửa khẩu. Đi sớm một chút bị cù cưa cù nhày thì cũng còn thì giờ. Ngồi ở phòng đợi nhìn qua cửa kính phi trường, đã 12:30 pm nhưng vẫn chưa thấy tăm hơi của chiếc máy bay. Một lúc sau mới nghe tiếng của một nhân viên nữ thánh thót tuyên bố cho biết là vì lý do kỹ thuật máy bay đến trễ. Đến 1:15 pm, giọng oanh vàng một lần nữa lại cất lên cho biết chuyến đi bị hủy vì thời tiết xấu, xin thành thật cáo lỗi cùng quý khách. Hành khách nhốn nháo, tiến về phía quày tiếp tân nhao nhao phản đối. Cái lý do kỹ thuật và thời tiết xấu là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Trước đó ba mươi phút, chuyến bay đi Vinh của hãng JetStar vừa mới khởi hành kia mà. Dự báo thời tiết các tỉnh miền Trung là trời thỉnh thoảng có mưa, hơi âm u. Không lẽ nào bão miền Trung bất thần ập tới không kèn không trống! Hay là, Hàng không Việt Nam muốn thách thức trí thông minh của hành khách? Tôi gia nhập vào đám đông hành khách, cũng lóng ngóng phản đối cho có lệ, "Làm ăn cái kiểu gì kỳ thế!", "Chiếc JetStar vừa bay đi Vinh 30 phút trước, bão bùng gì nhanh thế!", "Xin lỗi quý khách, chúng tôi chỉ biết vậy, chiều nay có chuyến bay đi Huế và Hà Nội, quý khách nào muốn đổi vé thì xin xuống tầng 1 quày bán vé số 4". Chịu vậy. Ai cũng biết Hàng không Việt Nam bịa chuyện nhưng phải kiên nhẫn chấp nhận, cũng như muôn ngàn chuyện thường ngày khác xảy ra trong cuộc sống người dân. Những mánh khoé, khôn vặt xuất hiện để ứng đối với những chuyện bịa trở thành một thói quen trên đất nước nghèo khó này. Tôi theo thông tin trên mạng cuả dân Tây ba-lô, rồi từ đó sắp xếp chuyện đi Lào. Từ Vinh, tôi sẽ theo xe khách đi đến thị trấn Phonsavan tỉnh Xieng Khouang (đọc là Xiêng Khoảng), điểm đến thứ nhất của tôi. Máy bay đi Vinh một ngày một chuyến. Xe khách từ Vinh đến Phonsavan thì hai ngày một chuyến. Cái kiểu hủy chuyến bay đổ lỗi cho ông trời của Hàng không Việt Nam làm tiêu ma chương trình đi Lào của tôi. Tôi bối rối lắm không biết làm sao. Cũng như tôi cũng đã từng bối rối nhiều lần trước những việc đột xuất mỗi khi đi du lịch bụi. Mỗi lần đều phải tùy cơ ứng biến. Tôi tần ngần nhìn quanh, sau cùng đi theo một anh hành khách tóc húi cua, người phản đối mạnh nhất trong đám hành khách bị bỏ rơi. Tôi hỏi "Anh tính sao?", anh trả lời dứt khoát "Tôi đổi vé đi Huế anh à... Ra ngoài đó gặp bạn chơi một hôm rồi đi Vinh. Anh phải quyết định nhanh không thì hết vé bay". Vâng, phải quyết định nhanh, ở lại Sài Gòn hay là ra Huế rồi tìm đường đi Vinh. Một ý nghĩ táo bạo chợt thoáng qua. Hay là ta đổi hướng, không đi Lào nữa, ra Hà Nội, đến Lào Cai rồi đi xe lửa đến Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Bỗng chốc, tôi lại có quá nhiều lựa chọn. Càng thêm hoang mang. Bay ra Huế rồi đi Lào, hay Hà Nội sang Vân Nam, Trung Quốc? Trong lúc chen lấn, chờ đợi ở quày đổi vé tình cờ tôi đứng cạnh một cô gái. Cô nói giọng Huế, nhỏ nhẹ hỏi tôi đi mô. Không bỏ qua cơ hội, tôi bắt chuyện hỏi thăm tình hình gần xa và xe cộ đi Lào ngoài ấy. Cô gái làm việc trong ngành du lịch nên cũng lắm thông tin. "Ồ... nhiều xe đi lắm. Đến Huế rồi ra Đồng Hới theo đường số 8 đi sang Savanakhet""Không, không... tôi đi Xieng Khouang""À... Xieng Khouang phía trên, vậy chú phải đi Vinh. Xe đi Vinh từ Huế cũng nhiều lắm. Chú đến Huế hỏi thăm thì biết ngay". Tôi nói đùa "Vậy cô đi Huế, tôi đi theo được không?", cô ta cười "Không, tôi đi Đà Nẵng". Tôi đổi vé bay ra Huế, ngay chiều hôm đó có chuyến xe đi Vinh. Tôi đến Vinh lúc 1 giờ sáng. Phía bên kia đường nơi xe dừng là một khách sạn gần bến xe sang Lào, đúng như thông tin trên mạng của dân Tây ba-lô quốc tế. Tôi đập cửa vừa mặc cả vừa nài nỉ anh quản lý mở cửa cho qua đêm. Từ Vinh đến Phonsavan Năm giờ sáng đã phải choàng dậy. Những tiếng kèn xe khách từ bến xe gần đó thỉnh thoảng lại vang lên một cách vô cớ làm giấc ngủ ngắn lại càng ngắn hơn. Tôi vội ăn bát cháo nóng ở ngõ vào bến rồi tìm chiếc xe khách "quốc tế" đi Phonsavan. Trời chưa sáng, nhưng trong ánh đèn vàng vọt của bến chiếc xe nào cũng có chữ "VIP" thật to. Nói theo kiểu xe khách về miền Tây Lục tỉnh là xe khách "chất lượng cao", có nghĩa là xe đi đúng giờ, không ngừng rước khách giữa đường, không nhồi nhét, có nhạc êm dịu thư giãn. Chiếc xe đi Lào của tôi là của một công ty Lào, tài xế Lào, hành khách Lào thêm một cặp Tây ba-lô trẻ người Đức. Chiếc xe khởi hành đúng 6 giờ sáng, từ Vinh đi theo đường số 7 hướng Tây Bắc. Vinh đến Phonsavan dài 300 km, nhưng 2/3 trong địa phận Việt Nam. Bác tài người Lào lái cẩn thận, không có thói chạy "bạt mạng", bóp kèn inh ỏi như dân ta. Chiếc xe đi qua những vùng quê của tỉnh Nghệ An. Những địa danh quen thuộc như Nam Đàn (quê hương Hồ Chí Minh), Đô Lương (cải cách ruộng đất) xuất hiện. Xa xa là đồi núi bắc Trường Sơn, có lẽ cũng là địa điểm xuất phát của đường mòn Hồ Chí Minh xưa kia. Trong vùng phụ cận của thị trấn Đô Lương, chiếc xe chạy ngang nhiều xứ đạo. Những ngôi nhà thờ cổ kính, có phần hoang phế đứng sừng sững giữa cánh đồng cằn cỗi, nổi bật giữa đám nhà dân lụp xụp, ẩn hiện trong màn sương sớm của miền quê yên tĩnh. Quá trưa, chiếc xe đến cửa khẩu quốc tế Nặm Cấn, biên giới Việt Lào. Chúng tôi làm thủ tục xuất nhập cảnh. Như một thông lệ, những người mang hộ chiếu Việt Nam và Lào phải lót tay 10.000 đồng cho nhân viên hải quan Việt Nam. Hộ chiếu Tây được miễn tiền "mãi lộ" dường như họ e dè, nhưng phải chịu đội sổ, bị xử lý sau cùng và người mang hộ chiếu không được ban tặng cái nhìn thân thiện. Ai không có tiền 10.000 dùng tiền có mệnh giá cao hơn đều được thối lại sòng phẳng. Giả dụ mỗi chuyến xe có 50 người khách, mỗi ngày xe qua lại cửa khẩu 10 chuyến, thì thu được 5 triệu. Tôi thấy có chừng 5 nhân viên, nếu không cống nạp cho quan trên, cùng nhau chia đều thì mỗi người có 1 triệu/ngày (lương công nhân nhà máy là 1 - 2 triệu/tháng), chưa kể tiền linh tinh đóng góp của những xe tải chở hàng qua biên giới. Khắm khá lắm! Ở cái cửa khẩu heo hút khỉ ho cò gáy này, chuyện "bồi dưỡng" không còn phải thụt thò, thấp thỏm như ở thành phố mà trở nên một quy luật công khai bất thành văn. Người nhận và người cho cùng nhau hân hoan và thông cảm! Sang địa phận nước Lào, cảnh quan bỗng nhiên thay đổi. Rừng núi bắc Trường Sơn trùng điệp nhưng không hùng vĩ. Chiếc xe leo dốc dọc theo những con đường ngoằn ngoèo đi lên vùng cao, phía dưới là những vực sâu xanh rì cây lá. Nhà cửa lụp xụp thưa thớt. Trong xe, những bản nhạc Việt êm dịu bây giờ được đổi sang nhạc Lào sôi động. Cái điệu nhạc "lum vong" "chách bùm, chách bùm bùm" giống như điệu lai giữa bolero và chachacha, vui vui quê quê là lạ, cứ mãi đeo đuổi tôi suốt chuyến đi Lào. Chiếc xe chạy ròng rã 9 tiếng đồng hồ trên đoạn đường 300 km với những khúc đường đèo cực kỳ hiểm trở và cuối cùng đến trung tâm thị xã Phonsavan lúc 3 giờ chiều. Phonsavan là tỉnh lỵ của tỉnh Xieng Khouang, nhỏ như cái huyện làng của ta, mới thành lập sau 75 vì tỉnh lỵ cũ đã tan tác bởi bom Mỹ. Ở đây chỉ có hai con đường chính, một đường ngang và một đường dọc. Những căn phố dường như được xây cất vội vàng nổi lên giữa một cánh đồng bằng phẳng mà xa xa là những ngọn núi thấp bao quanh. Tôi phóng mắt nhìn về phía cuối con đường hun hút nối liền với đồi núi đằng xa. Con đường độc đạo mù bụi làm tôi chợt tưởng đến những con phố trong phim miền Viễn Tây của Mỹ. Tôi đang đứng trên cao nguyên Xieng Khouang mà tiết trời cũng lành lạnh như thành phố Đà lạt. Cánh đồng Chum Khu vực này nổi tiếng nhờ Cánh đồng Chum. Trong chiến tranh Việt Nam, đây là căn cứ địa của quân Pathet Lào, vùng bị bom ác liệt nhất trong cuộc "chiến tranh bí mật" của Mỹ (Secret War, 1960-1975). Những căn phố phần lớn là quán ăn hay là nhà khách. Những vỏ bom lớn nhỏ, đủ kiểu đủ loại bây giờ trở thành những vật trang trí nơi cửa ra vào (Hình 1). Tôi lẽo đẽo vác ba-lô theo cặp người Đức đi vào một nhà khách phía bên kia đường mà hai người bạn đồng hành này cho biết là nơi trú ngụ rất đáng tin cậy. Hình 1: Những vỏ bom Mỹ trở thành vật trang trí. Ông chủ nhà khách trông nhỏ người, còn trẻ khoảng 25 - 30 tuổi, nước da ngâm đen có dáng dấp một người dân tộc, nói tiếng Anh tạm được. Sau một lúc mặc cả, tôi lấy căn phòng trên lầu với giá 100.000 kíp/đêm (1 USD = 8.000 kíp, 1 kíp = 2 đồng VN). Ở đây không đòi hỏi phải xem giữ hộ chiếu gì cả. Ông chủ tự giới thiệu "Tôi tên là Moa. Ông gọi tôi là Mr. Moa. Tôi người Mong (Hmong), không phải người Lào""Vâng, hê-lô Mít-tờ Moa", tôi cười cười trả lời. Người Hmong có 500.000 người (8 % toàn thể dân số Lào 6,8 triệu người) sống ở vùng cao Xieng Khouang. Tôi nói với Mít-tờ Moa muốn mua cái tour viếng Cánh đồng Chum ngày mai. Anh ta nhanh nhẹn cho tôi xem cái sổ hóa đơn thu tiền có một bản sao carbon với số tiền 300.000 kíp cho một cái tour đã bán. "Ông là khách trú ngụ tại đây, tôi giảm giá 50 % còn 150.000 kíp". Tôi nghĩ cái anh Hmong vùng núi này cũng lắm trò ma giáo, mới vừa chào hàng đã giảm nửa giá. Còn cái bản sao carbon chân giả thế nào, muốn viết bao nhiêu thì chả được! Trời còn sớm, tôi lững thững đi dọc theo con phố. Cách nhà khách vài căn nhà là một văn phòng du lịch. Ông chủ tiệm trạc tuổi trung niên, lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Ông nói tiếng Anh không bằng Mít-tờ Moa hàng xóm nhưng biết đôi chút tiếng Việt nên chúng tôi giao lưu bằng tiếng Việt Anh lẫn lộn. Ông xưng là Pao, nhưng không bảo tôi phải gọi ông là Mít-tờ Pao. Trên chiếc áo côm-lê, ông trân trọng cài cái nút hình Kaysone Phoumvihane, lãnh tụ Pathet Lào và sau 75 cũng là vị thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Ông Phomvihane, có cha người Việt mẹ Lào và vợ Việt, đã trở thành một anh hùng dân tộc và hình được in trên giấy bạc. Ông Pao hiền lành bán cho tôi cái tour đi Cánh đồng Chum với giá phải chăng 110.000 kíp. Tôi xin ông cái nút hình vị Thủ tướng. Ông nhã nhặn từ chối vì phải mua tận Luang Prabang. "Hồi xưa, ông là bộ đội Pathet Lào à?", tôi tò mò hỏi, "Vâng, tôi đánh Mỹ, "bang bang" với máy bay Mỹ ở trong rừng đấy...", ông vừa nói vừa giơ tay chỉ chỏ về phía rặng núi xa xa. "Sao ông nói tiếng Việt được?" - "Hết chiến tranh tôi đến Hà Nội học tập chính trị, bây giờ nghỉ việc làm du lịch". Ông khoe "Năm rồi tôi đến Vinh tham gia cuộc họp về kinh doanh du lịch rồi đi ra Cửa Lò tắm biển". Ông tươi cười một cách hồn nhiên, cho tôi xem một số ảnh chụp tại Vinh và Cửa Lò với đồng nghiệp và các cô Việt Nam xinh xinh trong chiếc áo dài tha thướt, luôn miệng bảo "quá đẹp quá đẹp" bằng tiếng Việt. Tôi không biết ông nói bãi biển đẹp hay các cô đẹp. Nhưng thôi, cứ cho là bãi biển đi. Lào là một nước không bờ biển, nhìn được biển là một niềm mơ ước của nhiều người Lào. Bãi biển Cửa Lò mà tôi đã từng viếng thăm chỉ có vẻ đẹp của một cô con gái nhan sắc trung bình nhưng là "giai nhân" trong ánh mắt người Lào. Sáng hôm sau tôi đi Cánh đồng Chum. Người ta phỏng đoán có chừng 2000 cái chum đá rải rác trên 65 địa điểm của cao nguyên Xieng Khouang. Bom chưa nổ của Mỹ vẫn còn là nỗi lo ngại chính trong vùng này nên chính quyền địa phương chỉ mở ra ba địa điểm được xem là an toàn cho du khách tham quan. Những cái chum có hình dạng giống nhau và chiều cao từ 1 đến 2,5 m trở thành một đối tượng khảo cổ học từ thời Pháp thuộc và người ta dự đoán nó có số tuổi 2000 từ 2500 năm. Chiếc xe đưa đoàn du lịch chúng tôi đến ba địa điểm này cách Phonsavan 10 km. Đây là những vùng thảo nguyên rộng lớn, cằn cỗi, hoang vu, xa xa là đám rừng thưa. Đây đó rải rác những lỗ bom to bằng cái ao. Từ trên nhìn xuống là thung lũng, thấp thoáng những căn nhà dân. Những cái chum đá to nhỏ khác nhau, đứng nằm ngổn ngang, có cái đứng trên mặt đất nhưng phần lớn chìm một phần thân xuống đất vì sức nặng của thời gian (Hình 2). Có cái còn nguyên vẹn, có cái đã vỡ, thủng đáy, ít có cái nào còn nắp toàn vẹn. Có những cái chum bị cây mọc xuyên qua vỡ ra nhiều mảnh. Nó làm tôi nhớ lại những cây rừng cổ thụ mọc qua và bấu lấy những bức tường của thành quách Angkor trong chuyến đi Campuchia vài năm trước. Nhưng ở đây chum vẫn là chum, không so được với kỳ quan Angkor Wat và không tạo được cái hoang vu của một phế tích, hay cái huy hoàng của một quá khứ khiến người xem phải xúc động bàng hoàng. Đến địa điểm thứ hai, thứ ba thì mọi người bắt đầu ngáp dài vì đã chán nhìn chum. Cánh đồng Chum vẫn chưa là một Di sản Thế giới, nhưng theo anh hướng dẫn hy vọng năm 2010 sẽ được công nhận. Hình 2: Cánh đồng Chum Theo truyền thuyết địa phương, đây là những bình chứa rượu khao quân của một vị vua thời cổ đại. Xem ra thì thuyết này không đứng vững. Hai ngàn cái chum rượu chỉ làm một đoàn quân say khướt, còn sức đâu mà đánh đấm để cùng nhau ca khúc khải hoàn! Những nhà khảo cổ thời Pháp thuộc cho đây là nghĩa trang khổng lồ, một cái chum là một quan tài. Một điều lạ khác của Cánh đồng Chum là không bị bom Mỹ tàn phá, mặc dù trong chiến tranh Việt Nam, Lào là một nước bị dội bom nhiều nhất và tỉnh Xieng Khouang là nơi có mật độ bị bom cao nhất nước. Nghe đâu hơn 2 triệu tấn, nhiều hơn lượng bom sử dụng ở thế chiến thứ hai. Chum nằm lẫn với bom, nhưng không một cái chum nào bị bom làm sứt mẻ! Thần linh bảo hộ? Những điều bí ẩn, lạ lùng của Cánh đồng Chum là một điểm hấp dẫn du khách, cho hướng dẫn viên có nhiều chất liệu thêm thắt và để người xem phải ngẩn ngơ suy nghĩ. Cần gì phải tìm thêm những chứng cớ khảo cổ. Hãy để yên Cánh đồng Chum, cho chúng ta cùng tiếp tục hoang mang và cho cái phố núi Phonsavan càng phồn vinh nhờ những đồng đô-la đi tìm bí ẩn của du khách thập phương. Ở một góc đường của thị xã, một trung tâm thương mãi cao 6, 7 tầng đang được xây cất do tiền đầu tư của một công ty Việt Nam trên một mặt bằng rộng ít nhất 10.000 m2. Gần đó là một cái nhà lồng chợ tăm tối, nhếch nhác với những quán xá đưa ra thụt vào như cái hàm răng khểnh. Hy vọng trung tâm này sẽ thay đổi bộ mặt của Phonsavan. Nhờ khách du lịch Tây ba-lô, những người dân tộc như Mít-tờ Moa cũng làm ăn khá giả, một điều khó tưởng tượng khi so với các dân tộc Mường, Dao, Tày chân chất vẫn sống cuộc đời nghèo khó ở những bản làng Tây Bắc Việt Nam bên kia biên giới. Anh ta khoe chiếc xe Toyota Landcruiser mới toanh, có ghế da, gắn màn hình tivi nhỏ với giá cực rẻ 40.000 đô. Hỏi ra mới biết chính phủ Lào chỉ thu 1 % thuế xe. Anh ta mang giấc mộng du học Mỹ quốc, dành dụm tiền bạc để đi California và đang được thân nhân bảo lãnh giấy tờ. Tôi trở lại văn phòng ông Pao mua vé xe đi Luang Prabang. Tôi muốn đi ngay đêm ấy để tranh thủ thời gian. Ông Pao bảo không có xe đêm và phải đi đến 9 - 10 tiếng mặc dù Phonsavan chỉ cách Luang Prabang 280 km đường bộ. Tôi lầm bầm xe cộ gì mà chạy chậm như rùa ấy! Chiếc xe khách khởi hành đúng 7 giờ sáng ngày hôm sau. Con đường đi đến Luang Prabang là con đường đèo ngoằn ngoèo xuyên qua rừng núi trùng điệp, phía dưới là thung lũng xanh tươi hoặc là những hố sâu thăm thẳm. Mỗi 20 - 30 m là một khúc quanh, cứ như thế kéo dài đến Luang Prabang (Hình 3). Hình 3: Con đường đèo hiểm trở đến Luang Prabang. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ tại sao không có chuyến xe đêm và phải cần thời gian để đi qua đoạn đường chỉ vài trăm cây số. May là con đường bằng phẳng không bị ổ gà, ít xe và không gặp những trận mưa dầm nhiệt đới. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe tải chở hàng cung cấp cho vùng cao nguyên chạy ngược chiều, ì ạch leo dốc. Địa thế hiểm trở và cô lập của cao nguyên Xieng Khouang biến nơi đây thành thiên đàng của du kích chiến. Trong chiến tranh, chính quyền Mỹ không thể làm gì hơn ngoài việc dội bom và hăm he dội cho đến khi tất cả trở lại "thời kỳ đồ đá", Trường Sơn đông lẫn Trường Sơn tây! Chiếc xe sàng qua sàng lại theo những khúc quanh, hàng ngàn lần. Chưa bao giờ tôi đi trên một con đường có nhiều khúc quanh đến thế. Thật là một kỷ lục phải ghi vào trong sách Guinness thế giới! Trong xe, thỉnh thoảng có người la lên sắp sửa nôn oẹ, anh lơ xe đã quá quen thuộc, trong tay lúc nào cũng cầm một chồng bao nhựa sẵn sàng tiếp cứu. Tiếng nhạc với điệu "lum vong", "chách bùm, chách bùm bùm" lại vang lên, đệm theo những lời ca "thủm thủm, thon thon", càng lúc càng gay gắt. Con gà tre của một vị hành khách nào đó ngồi phía sau thỉnh thoảng nổi hứng, lạc điệu gáy "ó ò ...".
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:05:56 GMT 9
Luang Prabang và Mekong Bác tài phải là một tay lái xe điêu luyện, kiên nhẫn đưa chiếc xe chầm chậm đi qua những con đèo hiểm trở, những làng mạc thưa thớt, tiêu điều, từ độ cao 1.500 m đi đến đồng bằng Luang Prabang. Tôi đến Luang Prabang lúc 5 giờ chiều, đúng 10 tiếng lái. Đây là cố đô của Lào và toàn thể thành phố đã được công nhận là Di sản Thế giới (Hình 4). Thành phố được bao bọc bởi sông Mekong hùng vĩ và một chi lưu của Mekong, sông Nam Khan. Nhà khách nơi tôi trú ngụ nhìn ra dòng Nam Khan trôi êm đềm, bên kia bờ là miền quê an bình lác đác hàng dừa xen lẫn cây thốt nốt cao cao. Hình 4: Một căn nhà cổ của người dân Luang Prabang Cách bờ sông Mekong một con đường là phố Sisavangvong dài và hẹp với chợ đêm (night market) nổi tiếng. Nó giống như phố Tây ở Đề Thám, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, nhưng đa dạng, trật tự hơn và chỉ dành cho người đi bộ. Người Lào thật ngăn nắp và sạch sẽ. Từ đầu phố đến cuối phố không một cọng rác. Đầu phố Sisavangvong là khu ẩm thực sang trọng với những nhà hàng có kiến trúc thời thuộc địa, bán một món ăn vài chục đô, nhưng hấp dẫn mấy ông Tây bà Đầm phong lưu luống tuổi. Họ ăn uống chẫm rãi, nói năng từ tốn. Trên cái bàn trải khăn trắng toát là những chai rượu vang nhập khẩu đắc tiền. Giữa phố là khu ăn uống trung bình bán pizza, hamburger, kwei-tiu (hủ tiếu) Thái với cái đám Tây ba-lô ồn ào, phì phèo thuốc lá. Cuối phố là những hàng quán trên đường bày bán vải vóc làm sarong màu sắc sặc sở, những món đồ lưu niệm Lào nhưng có dáng dấp "made in China". Tôi thấy một con voi làm bằng đồng đen nho nhỏ xinh xinh, hỏi bao nhiêu. Chị bán hàng nhanh nhảu ra giá "One hundred", tôi hỏi lại "Kíp?", "No, no, đô-la", chị ta nói tiếp "very old", ý muốn nói đồ cổ. Những món đồ đồng giả cổ, mà bọn trẻ con ở Angkor Wat chạy theo du khách nài nỉ bán năm, mười đô-la bây giờ là 100 đô tại quán hàng rong Luang Prabang. Ai bảo người Lào hiền lành, trong buôn bán họ cũng ma-lanh không thua ai! Rẽ vào một con đường nhỏ là một "xóm nhà lá" bán đủ loại thức ăn bình dân Lào kể cả món hột vịt lộn Việt Nam. Đang đi, bỗng nhiên tôi ngữi được mùi mực nước. Tôi rảo bước, nhìn dáo dác tìm kiếm cho ra cái nguồn thơm tho này. Từ đàng xa, một thiếu phụ gầy gầy quạt phành phạch trên cái lò than nhỏ, tỏa mùi thơm khắp muôn phương. Cái kiểu bán mực nướng này đúng là "truyền thống" của ta. Tôi đi tới dùng tiếng Việt hỏi cầu may "Bao nhiêu tiền đấy chị?", không ngờ người bán cũng trả lời tiếng Việt đặc sệt giọng miền Trung, "3.000 kíp 3 con". Tôi mua 3 con, vừa nhai mực vừa hỏi chuyện "Chị sang lâu mau rồi? Sao không ở Việt Nam, sang bên ni làm chi cực khổ quá?", "Em sang hồi năm ngoái. Không, bên ni làm ăn dễ, dân Lào hiền lành. Ở Việt Nam cực quá, bon chen quá, phải đi thôi"... Ba giờ sáng tôi giật mình thức giấc. Những tiếng nói phát ra từ cái máy phóng thanh nghe từ xa, có lẽ từ bên kia con sông Nam Khan, lúc văng vẳng lúc lồng lộng trong màn đêm. Nửa tỉnh nửa mơ, tôi cứ ngỡ là phòng thông tin thành phố đang tuyên bố chính sách đúng đắn và những thắng lợi tuyệt vời của Đảng và nhà nước, nhưng nghe kỹ lại thì là cái giọng kéo dài lê thê, lúc trầm lúc bổng ê a tụng kinh. Đúng là xứ Phật. Nhưng các ông sư thức quá sớm truyền giảng đạo pháp giữa cái giờ mọi người đang an giấc thì thật là cả một điều vô lý và phiền toái. Sáng sớm hôm đó, tôi đi thuyền ngược dòng Mekong vĩ đại viếng động Pak Ou cách Luang Prabang 25 km đường sông. Những làn gió mát lạnh thổi phần phật trên sông làm cho tôi tỉnh ngủ. Dòng sông chảy êm đềm mang phù sa đục ngầu như sông Tiền, sông Hậu ở vùng hạ lưu, nhưng cảnh quan ở đây thật hùng vĩ và hoang sơ. Trừ những chiếc tàu nhỏ hay ghe tam bảng chở du khách ngược xuôi, không một bóng dáng của những chiếc ghe chài to lớn, không có tiếng còi hụ điếc tai, tiếng động cơ bình bịch ồn ào liên tục trên vùng hạ lưu Campuchia, Việt Nam hay những hoạt động náo nhiệt như chợ nổi vùng Hậu giang. Không gian chìm đắm trong im lặng với trời mây sông nước… Dọc hai bên bờ lác đác vài căn nhà sàn trên bờ cao cao, lẩn khuất trong những bụi tre già rậm rạp và tàng cây xanh mờ mờ, hay đứng trơ trọi giữa những luống rau hình bậc thang kéo dài đến tận bờ. Giữa dòng sông thỉnh thoảng nổi lên một cồn cát dài hay cù lao lổm chổm những tảng đá thật to, phân chia sông thành hai dòng chảy (Hình 5). Xa xa, loang loáng trong ánh bình minh một chiếc thuyền con của ngư dân đang giăng câu bắt cá. "Yên ba thâm xứ hữu ngư châu". Đâu đó bên bờ, một đám trẻ con nghịch ngợm tắm sông nhảy đì đùng. Tôi chợt mỉm cười, nhớ lại thời thơ ấu tôi cũng là một đứa trong đám trẻ con kia, đã từng "ôm nước vào lòng" cùng trên một dòng sông. Hình 5: Dòng Mekong Pak Ou là một động thiên nhiên trong một núi đá bên bờ sông Nam Ou, một chi lưu khác của Mekong. Pak Ou gợi cho tôi hình ảnh của động Hương Tích chùa Hương, chỉ khác là rất nhiều tượng Phật cổ. Ở đây có gần 4000 tượng Phật lớn nhỏ khác nhau tạc theo điêu khắc Lào. Tiếc rằng, số lượng du khách quá nhiều làm mất đi sự tôn nghiêm của một nơi hành hương truyền thống. Nếu không có con đường sông Mekong hùng vĩ để chiêm ngưỡng, thì chuyến đi Pak Ou sẽ rất đơn điệu và phí nhiều thời gian. Mekong thật sự hấp dẫn hơn Pak Ou. Tôi trở về Luang Prabang thì đã quá trưa. Những tiếng "chách bùm, chách bùm bùm" của điệu "lum vong" lại nổi lên từ hai cái đám cưới được tổ chức ra đến tận giữa đường. Một người say sưa hát karaoke chúc mừng cô dâu chú rể, những cặp nam nữ say sưa nhảy theo điệu nhạc "chách bùm" mộc mạc. Trong cái nắng ấm của mùa đông xứ Lào, Luang Prabang cổ kính thật giản dị và thanh bình… Đêm hôm đó tôi đáp chuyến xe đêm đi Vientiane, thủ đô Lào, cách cố đô Luang Prabang 430 km về phía Nam. Anh quản lý nhà khách bán cho tôi cái vé xe VIP. Với số tiếng Anh giới hạn, anh người Lào lanh lợi này cam đoan với tôi đây là xe "chất lượng cao", có toilet trong xe, máy điều hòa, có ghế ngồi ngã lưng như ghế phi cơ, nước uống và thức ăn nhẹ được cung cấp miễn phí v.v... Trong đầu tôi tưởng tượng ra chiếc xe bus cao cao giống như những chiếc xe khách hoành tráng, sơn phết rất đẹp mắt của Trung Quốc đến từ Côn Minh tỉnh Vân Nam, nhẹ nhàng lướt trên đường phố Luang Prabang. Ừ! tại sao không? Tôi mừng rỡ, vừa trả 130.000 kíp cho cái vé vừa liên tục "Kop chai! Kop chai lai lai!" (Cám ơn! Cám ơn nhiều lắm!). Tôi đã quá mệt với chuyến xe đường đèo Phonsavan, trả thêm vài chục ngàn kíp đi xe VIP quả là đáng đồng tiền bát gạo! Anh ta kêu xe tuktuk (giống xe Lam trước 75) chở tôi ra ngoài bến xe. Trong cái tranh sáng tranh tối hoàng hôn, tôi giương to đôi mắt đi loanh quanh tìm chiếc bus "hoành tráng" có chữ VIP giữa cái đám xe khách viết chữ Lào loằn ngoằn. Tìm không ra, tôi vội đến chỗ bán vé, vừa chỉ vào tấm vé vừa bảo ông bán vé "VIP Vientiane. VIP Vientiane". Ông bán vé hiểu ý, trả lời "No VIP. VIP Vientiane in the morning!!!”. Ý ông nói là xe VIP chỉ đi buổi sáng, rồi chỉ cho tôi chiếc xe khách tồi tàn đi Vientiane tối hôm đó. Chuyến xe cuối cùng trong ngày. Biết đã bị phỉnh vài chục ngàn kíp (vài đô-la), tôi hơi bực mình, nhưng ít ra vé đi Vientiane là vé thật! Anh chàng quản lý nhà khách nói "lèo" nhưng vẫn còn lương tâm! Vientiane Loáng thoáng trong xe, ai đó xầm xì tiếng Việt giọng Bắc. Gần đến Vientiane, chiếc xe nổ lốp giữa đường, chuyện "thường ngày ở huyện". Mọi người bình an đến Vientiane lúc tờ mờ sáng. Tôi xách cái ba-lô tìm nơi trú ngụ. Những nơi theo lời chỉ dẫn trên internet thì đã đầy người mặc dù giá phòng gấp đôi Phonsavan. Cuối cùng tôi tìm được nhà khách thuộc Bộ Công Thương gì gì đó của chính phủ nhân dân Lào. Các nước "anh em" thật là giống nhau. Ở Việt Nam, Bộ Quốc Phòng, Bộ Bưu Điện kinh doanh khách sạn kiếm thêm tiền bỏ túi, thì nước anh em Lào cũng rập khuôn y hệt! Của công thì giá rẻ, nhưng cái phòng ở tận lầu 4, phải đi bộ lên xuống. Trong phòng muỗi bay vo ve... Trước 75, người ta thường gọi Vientiane là Vạn Tượng. Cái tên Hán Việt rất hay và phản ánh xứ Lào có hàng vạn, hàng triệu voi rừng. Bây giờ, voi rừng hiếm hoi vì chiến tranh, vì sự phát triển vô nguyên tắc của con người. Thủ đô Vientiane nằm trên sông Mekong gần biên giới Thái Lan, có dáng dấp một thành phố cỡ trung bình của Việt Nam, như thị xã Cần Thơ. Cuộc sống ở đây có vẻ nhàn nhả và thời gian ngắn dài không phải là vấn đề. Đã 8 giờ sáng ngày thứ Hai rồi mà thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua. Thủ đô vẫn còn im lìm trong giấc ngủ. Ngang nhà khách nơi tôi tạm trú, có một quán ăn nhỏ. Tôi thấy ông chủ tiệm vừa mới bỏ con gà vào nồi súp. Tôi ra dấu tỏ vẻ muốn ăn. Ông ta nhe răng cười, chỉ chỉ con gà rồi phủi phủi cái tay. Chưa xong! Hàng quán thế này, ở Việt Nam người ta đã chuẩn bị từ 4 giờ sáng. Tôi lủi thủi đi ra ngoài đầu đường tìm thấy một quán điểm tâm Tây chuyên bán cà phê, bánh croissant, bánh mì tây, giá phải chăng. Uống cà phê Lào cứ như là uống thuốc bắc, nhưng uống vài lần quen miệng cảm thấy ngon ngon. Phía bên kia đường là tòa nhà văn hóa Việt Nam cao ba tầng, đề tiếng Việt "Trung tâm Văn hóa Việt Nam", rất bề thế. Đến 9 giờ, đường xá mới bắt đầu tấp nập. Ở đây ít xe đạp, xe gắn máy, nhưng nhiều xe hơi, có lẽ vì thuế xe chỉ 1%. Người Lào thích xe pick-up (ute) Toyota, 4 chỗ ngồi, với khoảng trống phía sau để đồ đạc linh tinh. Xe nào cũng là xe đời mới với chữ Toyota mạ bạc thật to phía sau. Thỉnh thoảng, có xe "đại gia" BMW, Mercedes hay Lexus chạy ngang. Các cô gái Lào thủ đô dáng người nhỏ nhắn xinh xinh, dung nhan thanh tú, bới tóc cao, hay để tóc dài, mặc sarong kín đáo dài tận gót, nhưng lái xe gắn máy yểu điệu không kém gì phụ nữ ta. Cầm cái bản đồ du lịch Vientiane trong tay, tôi đi đến một góc đường chào anh lái xe tuktuk “Sabaidee bor?” (How are you?). Anh lái xe chỉ biết "one, two, three, four, five", tiếng Việt thì "một, hai, ba, ăn cơm, ăn phở". Đấy là vốn ngoại ngữ của anh ta. So với đồng nghiệp Campuchia thì giới lái xe tuktuk Lào và du lịch rất kém ngoại ngữ. Cánh lái xe ôm tại Angkor Wat (Campuchia) nói được tiếng Anh căn bản, thậm chí vài tiếng Nhật thông thường. Tôi muốn đi đông, tây, nam, bắc, nội thành, ngoại thành Vientiane. Chỗ xa nhất 25 km, chỗ gần nhất cách nhà khách vài trăm thước. Quơ tay, quơ chân, chỉ chỏ vào cái bản đồ một lúc thì cả hai cùng hội ý hiểu nhau, đồng ý giá cả. Rồi đi. Các chùa chiền, đền tháp của Vientiane cũng có ngàn năm lịch sử. Không may vì quá gần Thái Lan, trong quá khứ hầu hết những di tích lịch sử quan trọng bị quân xâm lược Xiêm tàn phá. Đền That Luang được thành lập vào thế kỷ 16, bị quân Xiêm tàn phá năm 1828 và được xây lại trong thời Pháp thuộc năm 1900 (Hình 6). Người ta tin có một sợi tóc của Đức Phật được chôn trong đền này. Đây là một biểu tượng của đất nước và dân tộc Lào. Các kiến trúc cổ phần lớn được trùng tu hay phục nguyên (Hình 7). Hình 6: Đền That Luang Hình 7: Một kiến trúc cổ được trùng tu với mái nhà đặc trưng Lào. Sự yếu kém quân sự của Lào dẫn đến sự mê tín vào sức mạnh của thần linh. Trước khí thế hung hản của quân xâm lược Xiêm, người Lào xây đài Thap Dam với con rắn bảy đầu ở trung tâm Vientiane với niềm hy vọng là sẽ được rắn thần bảo vệ chống quân Xiêm. Quân Xiêm vẫn dửng dưng càn quét. Quá thất vọng, dân Lào không đếm xỉa đến tượng đài và ngày nay chỉ là một phế tích không được trùng tu (Hình 8). Hình 8: Đài That Dam, cỏ mọc trông rất thảm hại. Chỗ xa nhất cách thành phố Vientiane 25 km là Công viên Phật với những bức tượng làm bằng xi măng cốt sắt vào thập niên 50 của thế kỷ trước. Công viên nằm cạnh sông Mekong mà bên kia bờ là Thái Lan. Gọi là Công viên Phật nhưng đây là một nơi hòa đồng tôn giáo có tượng Phật ngồi, Phật nằm, Quan thế âm Bồ tát, tượng thần rắn Hindu, thần nhiều tay v.v... Những bức tượng xi măng phơi sương nắng lâu ngày trở nên mốc thếch, xám xám đen đen không có mỹ quan của một công viên. Khải Hoàn Môn ở trung tâm Vientiane cũng làm từ xi măng cốt sắt mô phỏng theo Khải Hoàn Môn Paris được làm từ 50 năm trước nhưng vẫn còn một số công đoạn chưa hoàn thành! Những bức tượng và kiến trúc xi măng này còn quá trẻ để trở thành một di tích, và chắc cũng không thể là di tích trong tương lai vì xi măng không phải chất liệu tạo ra những hiện vật khiến người xem phải trầm trồ chiêm ngưỡng. Trên đường đi đến Công viên Phật, tôi đi qua một khu công nghiệp nhẹ của Vientiane, với những nhá máy làm bia, nhà máy dệt, làm quần áo, phân bón, nông phẩm, và quán xá bình dân bán thức ăn cho công nhân viên, xen lẫn với những cánh đồng lúa của miền quê Lào. Hãng la-ve "Con Cọp" có một nhà máy quy mô ở đây. Hãng đã có một thời vàng son tại Việt Nam trước 75, trở lại Việt Nam vào thập niên 90 nhưng thất bại. Tại Lào, la-ve Con Cọp chiếm được cảm tình của dân Lào và cái hình con cọp đen cố hữu xuất hiện khắp nơi với thương hiệu mới "Beer Lao". Cũng trên con đường này người ta thấy cuộc chiến ngoại giao gây ảnh hưởng khu vực của các nước hiện rất rõ và rất nghiêm chỉnh qua các hình thức viện trợ cho Lào. Chính phủ Lào xem chừng dễ tính, theo chủ nghĩa thực dụng "mại dô, mại dô", tứ hải giai huynh đệ, hể hả ai cho cũng nhận! Thái Lan viện trợ làm nhà máy sản xuất nông phẩm, phân bón. Việt Nam ta cũng có một nhà máy liên quan đến thủy lợi, lọc nước. Quy mô nhìn vào không thấy gì to, nhưng tấm bảng bên ngoài thì rất là bắt mắt. Chính phủ Nhật hăng hái nhất, từ trung tâm Vientiane đi ra ngoại ô thành phố nơi nào cũng thấy tấm biển kim loại khắc quốc kỳ Nhật và Lào trang trọng gắn vào bục xi măng với hàng chữ kể lể công trình làm bao lâu, tốn bao nhiêu tiền. Đất nước mặt trời mọc đã từ lâu là một nhà tài trợ hàng đầu cho Lào qua các viện trợ quốc tế, hoàn thành những công trình hạ tầng cơ sở to lớn như cầu cống, đường sá, sân bay, có một ảnh hưởng chính trị vô song. Tôi không thấy công trình viện trợ nào của Trung Quốc, nhưng người anh em xã hội chủ nghĩa này chắc cũng đang loay hoay không bỏ lỡ cơ hội tìm cách chen chân. Tình cờ chiếc tuktuk chạy dưới một gầm cầu của cây cầu rất dài bắc ngang dòng Mekong. Anh lái xe chỉ cây cầu rồi ngước mắt nhìn phía bên kia bờ bảo tôi "Thái, Thái... Nong Khai, Nong Khai". Tôi hiểu ngay cây cầu hữu nghị Lào - Thái do chính phủ Úc xây cất năm 1994. Một việc không hẹn mà gặp. Leo lên cầu phải trả lệ phí 3000 kíp. Phía bên kia cầu là tỉnh Nong Khai thuộc Thái Lan, thấp thoáng trong rặng cây xanh chạy dọc theo bờ Mekong là những mái chùa cao cao với hình dạng cong cong đặc trưng Thái. Người Thái chạy xe bên trái, người Lào bên phải. Chạy vào lãnh thổ Lào có địa điểm đổi bên. Trên cầu có đường sắt nối liền Nong Khai và một địa điểm ở ngoại ô Vientiane. Lào là một nước không có đường sắt và đây là đoạn đường sắt dài vài km duy nhất của cả nước. Về đêm con đường chạy dọc theo sông Mekong khá ồn ào náo nhiệt với khách du lịch, và những dòng xe xuôi ngược. Dọc theo bờ sông là hàng trăm quán ăn bình dân che bằng ván và tôn đơn sơ, giăng đèn bóng xanh xanh đỏ đỏ, bán các loại thức ăn Lào kéo dài chừng một cây số. Người bán thì nhiều, người ăn lại lưa thưa. Quán nào cũng trang trí giống nhau, bán cùng loại thức ăn. Vài con cá hay vài cái đùi gà nướng để trên cái lò than đã nguội lạnh từ lâu. Thỉnh thoảng một con ruồi hay vài con côn trùng bay ngang đáp xuống tận hưởng trước. Dân Tây ba-lô ăn tạp không dám bước vào, nên tôi cũng tránh xa. Cái dải đất "water front" dọc theo bờ Mekong này quả là một nơi đất vàng có thể phát triển thành những nhà hàng hay những căn hộ cao cấp. Nhưng người Lào có lẽ thấm nhuần triết lý "tri túc tiện túc". Cuộc đời ngắn ngủi, như vậy đã quá đủ rồi và không cần thiết phải làm thêm! Lào và Thái Lan có cùng một ngôn ngữ và văn hóa. Đất nước này đã từng bị người Xiêm tàn phá và đô hộ, nhưng ảnh hưởng Thái rất sâu đậm trong sinh hoạt hằng ngày của người Lào. Tôi không phân biệt được kênh truyền hình nào là Thái hay Lào. Nhạc pop Thái được giới trẻ Lào đặc biệt yêu thích. Việt Nam cũng bành trướng thế lực và không gian ngoại giao của mình qua sự giao lưu văn hóa, thương mãi, di dân và chính trị. Tiếng Việt là một ngoại ngữ, đứng thứ ba sau tiếng Anh và Pháp. Tôi thấy quyển tự điển Lào Việt dày hàng ngàn trang do một học giả Việt tại Lào biên soạn, được bày bán trong những hàng sách tại chợ Vientiane. Người Việt hầu như ở khắp nơi, từ cao nguyên Xieng Khouang đến đồng bằng Vientiane và kéo dài đến Hạ Lào. Có người ở đến ba đời, có người mới đến ba tháng. Họ hòa nhập vào cuộc sống rất tốt, linh hoạt và vẫn còn gắn bó với quê hương. Họ tham gia vào mọi hoạt động xã hội, thương mãi, chính trị của Lào. Họ có thể là một đại gia, nhà kinh doanh trung lưu, người sở hữu một sạp hàng trong chợ, cho đến một người bán chè ngọt ở ngõ hẹp Vientiane hay người bán mực nướng "chợ đêm" Luang Prabang. Con cháu của họ có thể còn thông thạo tiếng Việt, hay chỉ nói lơ lớ với chất giọng Lào. Cũng có thể họ lai và đã trở thành người Lào, không biết tiếng Việt nhưng vẫn còn thân nhân xa ở Việt Nam; như một phục vụ viên nhà hàng tôi gặp ở Luang Prabang bảo rằng còn bà ngoại ở Điên Biên Phủ mà anh ta thỉnh thoảng đi thăm. Sau những ngày lang thang ở Phonsavan, Luang Prabang, Vientiane, đến đâu tôi cũng nghe loáng thoáng hay oang oang tiếng Việt. Gặp người bản địa trong nhà khách, ngoài đường phố, địa điểm du lịch, chợ búa, quán ăn tôi nói tiếng Việt thì cứ 10 người có 2, 3 người hiểu. Làm con tính thống kê đơn giản, tôi phỏng chừng người gốc Việt và hiểu tiếng Việt có thể từ 500.000 đến 1 triệu người trên đất nước này (8 – 15 % dân số). Con số rất to khi so với người Lào chỉ có 4 triệu người (55 % toàn thể dân số, còn lại là các dân tộc ít người) và vẫn tiếp tục gia tăng. Chúng ta đang âm thầm làm cuộc "Tây tiến", hay sang Lào chỉ đơn thuần lập nghiệp vì "làm ăn dễ và người Lào bao dung"? Sài Gòn Tôi đáp chuyến bay Hàng không Việt Nam từ Vientiane, quá cảnh Phnom Penh trở lại Sài Gòn. Phi trường quốc tế Wattay do Nhật Bản xây tặng có một kiến trúc hiện đại, hoành tráng nhưng chỉ có 3 cổng lên xuống máy bay, có lẽ là một phi trường vắng khách nhất thế giới. Tôi nơm nốp lo sợ ông Hàng không Việt Nam lại hủy chuyến bay vì… thời tiết xấu. Chuyến bay không bị hủy, nhưng cũng không cho tôi nhiều thiện cảm. Mới bước vào khoang gặp ngay một nữ tiếp viên, tay thì phân phát giấy tờ nhập cảnh như một cánh tay robot, mắt không nhìn và chào hành khách, miệng thì bận rộn tập tành đàm thoại Anh văn với anh chàng phi công trẻ. Đến giờ ăn trưa, khay của tôi thiếu bánh mì. Tôi xin, và được một nam tiếp viên trả lời "Đã nói rồi mà! Chờ một chút có được không?". Tôi nghĩ trong tiếng Việt có nhiều từ ngữ rất lịch sự nhưng chưa được các anh chị tiếp viên tiếp thu đúng mức. Những tiếp viên trẻ này có lẽ xuất thân từ một giai cấp mới chưa được học tập lễ giáo và huấn luyện chuyên nghiệp, xem hành khách như một đối tượng phải miễn cưỡng phục vụ hơn là nguyên nhân sự phồn thịnh của một công ty. Chiếc phi cơ bay ngang vùng Đông Bắc Thái Lan, hạ cánh tại Phnom Penh sau 1 tiếng bay, và từ Phnom Penh về đến Sài Gòn chỉ có 25 phút. Cuối tháng 4, 2009 TVT
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:16:38 GMT 9
Một Thoáng Phù Tang Trương Văn Tân Cứ mỗi lần trở lại Nhật Bản là tôi có thêm một ấn tượng khác, những ấn tượng này chồng chất lên nhau cho tôi một kết luận là một xã hội văn minh cần xuất phát từ những con người văn minh trong đó dân trí và "quan trí" phải được tôi luyện qua một thời gian dài. Nhưng quá trình "trăm năm trồng người" của Nhật Bản không phải là con lộ du kích "đi tắt đón đầu" mà là một con đường dài lắm chông gai. Thời du học vài thập niên trước của tôi tại Nhật Bản không cho một ấn tượng gì sâu sắc về đất nước Phù Tang này, có lẽ vì thời gian ở đây không đủ dài, cũng như vì chuyện học hành chỉ vùi đầu vào sách vở rồi phải tất bật kiếm sống, cộng thêm một chút ham vui của tuổi trẻ, đã chiếm hết thời gian để có cái nhìn phân tích khách quan về sự hùng mạnh của Nhật Bản trong vài trăm năm qua. Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận của người thân tại Nhật và internet, chuyến du hành Nhật Bản phần lớn bằng xe lửa siêu tốc Shinkansen đã đưa tôi đi qua hàng ngàn cây số, ngang dọc miền Tây Nam nước Nhật bao gồm ba đảo lớn Honshu, Shikoku và Kyushu. Trong vòng mười ngày, tôi đặt chân đến những thành phố lớn, thị trấn nhỏ, đi tham quan các di tích lịch sử, những khu du lịch thời thượng và đến tận vùng "hoang vu" quê mùa. Xe lửa siêu tốc Shinkansen Hình 1: Xe lửa siêu tốc Shinkansen (ảnh của tác giả). Với cái vé Japan Rail Pass giá đặc biệt cho du khách nước ngoài, người ta có thể dùng xe lửa các loại đi khắp nơi, kể cả xe lửa siêu tốc (bullet train) Shinkansen, với số lần sử dụng vô hạn định trong một thời gian được qui định trước. Có thể nói xe lửa Nhật là một hệ thống giao thông công cộng hoàn hảo bậc nhất thế giới. Giờ đi giờ đến được thiết kế chính xác từng phút và áp dụng nghiêm chỉnh từ xe vài toa chạy chậm ghé từng nhà ga ở vùng quê tới xe lửa siêu tốc Shinkansen đi xuyên qua các thành phố lớn nhỏ ở chốn phồn hoa đô hội. Xe lửa Shinkansen là một niềm tự hào của người Nhật. Hơn 44 năm qua (từ năm 1964), Shinkansen là một phương tiện di chuyển nhanh được thiết kế chạy trên đường ray cổ điển bình thường và chưa một lần xảy ra tai nạn. Từ đống tro tàn chiến bại của Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Nhật Bản đã có một tầm nhìn chiếc lược khôn ngoan là đối với một quốc gia đất hẹp người đông, Nhật Bản cần một hệ thống đường sắt mới (Shinkansen có nghĩa là "tuyến đường mới") cho xe siêu tốc để gia tăng sự di động của dân chúng giữa các thành phố lớn và cũng để kích thích nền kinh tế qua giao thông. Để thực hiện dự án mang tính cách mạng này chính phủ Nhật đã kiên nhẫn thuyết phục Ngân hàng Thế giới cho vay 80 triệu USD (không bị cắt xén vì tham nhũng!) để xây đoạn đường sắt đầu tiên Tokyo - Osaka (600 km) và khánh thành năm 1964 vài tháng trước Tokyo Olympic. Thời gian đi lại giữa hai thành phố này giảm từ 7 tiếng xuống còn 3 tiếng. Ở thập niên 1960, đây là một kỳ tích của thế giới. Trong bốn mươi năm qua, tốc độ của xe Shinkansen tăng từ 200 km/h đến 250 km/h, 280 km/h và bây giờ 300 km/h. Đầu xe bây giờ đa dạng hơn, không còn hình dạng "đầu đạn" nguyên thủy nữa mà trở nên dài ra hình mỏ vịt. Theo sự quan sát của tôi thì đường ray không thay đổi nhưng đầu xe đã được thiết kế nhiều dạng khác nhau để gia tăng hiệu quả khí động lực học làm giảm sức cản không khí (Hình 1) Đứng trên những nhà ga trung tâm như ga Tokyo, cứ năm mười phút là có một chuyến tàu Shinkansen đến hoặc đi, hay trên nhà ga tỉnh lẻ những đoàn tàu siêu tốc sầm sập chạy qua như mũi tên bay, chưa kịp chụp một bức ảnh thì tàu đã lao đi. Trong khoảng thời gian tôi du hành tại Nhật, công ty đường sắt Nhật Bản tuyên bố cho về hưu toàn bộ xe siêu tốc Shinkansen "Hệ Zero" đầu đạn tròn nguyên thủy. Chuyến xe cuối cùng không còn một chỗ trống. Hàng ngàn "fan" đứng đợi tại các nhà ga để từ giã chuyến xe cuối cùng và chụp hình kỷ niệm như là chia tay với một người thân và cũng để cảm tạ sự phục vụ tận tình của Hệ Zero trong 44 năm qua. Tình cảm người Nhật là như vậy. Lịch sử phát triển đường sắt gắn liền với sự phát triển đời sống của người dân và nền kinh tế Nhật Bản. Cùng một nhịp điệu phát triển với xe siêu tốc Shinkansen, những chuyến tàu chậm địa phương cũng được nâng cấp toàn bộ. Xe lửa Nhật cũng đã có một thời kỳ mông muội sơ khai. Nhớ lại vài thập niên trước, bàn cầu toilet của những chuyến xe lửa nhà quê lên tỉnh chỉ là một lỗ trống thông ra bên ngoài. Có nghĩa là những sản phẩm bài tiết cứ thế đi thẳng xuống đường ray, "gởi gió cho mây ngàn bay". Vì vậy trước khi tàu dừng ở ga, ông trưởng tàu lúc nào cũng ân cần dặn dò hành khách ráng kiên nhẫn ngừng lại những hoạt động bài tiết! Nhưng đây là chuyện của quá khứ. Những chuyến tàu liên tỉnh giờ đây đèn đuốc sáng choang, ghế bọc da đẹp hơn ghế cấp business hàng không, toilet có cửa tự động, sạch sẽ rộng rãi như một en-suit trong khách sạn. Kochi: Miền đất hào kiệt Tôi và người thân đến thành phố Kochi (tỉnh Kochi) trong một ngày nắng ấm. Kochi là một tỉnh phía Nam của đảo Shikoku rất phong phú về nông và hải sản; phía nam nhìn ra Thái bình dương, phía bắc có rừng núi vây quanh. Shikoku là đảo nhỏ nhất trong bốn đảo chính, Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku tạo thành nước Nhật. Mặc dù ở một địa thế không thuận lợi, nhưng miền đất Kochi (tên cũ là Tosa-han) này đã sản sinh ra hai nhân vật lỗi lạc khác giai cấp, sinh ra cùng thời, mang trách nhiệm lịch sử to lớn, cùng quyết định sự hưng vong và canh tân của Nhật Bản. Sakamoto Ryoma là một samurai trẻ tuổi mang ý chí cách mạng. Ông là một nhà thương thuyết tài ba đã hòa giải hai thế lực thù địch của hai tỉnh khác nhau (Satsuma-han và Choshu-han) cùng liên minh để tiến hành việc lật đổ chính quyền Mạc Phủ làm cuộc vận động Minh Trị Duy Tân (1867) lừng danh thế giới [1]. Ông bị tử thương trong cuộc mưu sát năm 33 tuổi. Cuộc đời bi hùng nhưng ngắn ngủi của ông được kịch hóa trong bộ phim tiểu thuyết lịch sử trường thiên và sẽ được phát hình trên kênh truyền hình quốc gia NHK vào năm 2010. Nhân vật thứ hai là Nakahama Manjiro. Manjiro xuất thân ngư dân, bị đắm thuyền ngoài khơi lúc 14 tuổi (1841) được tàu Mỹ vớt mang về Mỹ và được một người Mỹ nuôi cho ăn học. Do một sự ngẫu nhiên và may mắn, ông là người Nhật đầu tiên đến Mỹ và cũng là người Nhật nói tiếng Anh đầu tiên. Ông có tên Mỹ là John, người Nhật gọi ông là "John" Manjiro. Mười năm sau, ông tìm cách trở về Nhật giúp nước, hoạt động trong ngành ngoại giao, thông dịch và hàng hải trong buổi giao thời giữa Mạc Phủ và Minh Trị. Ông cung cấp những thông tin vô cùng quan trọng về Mỹ cho chính quyền Mạc Phủ đương thời. Ông viết ra quyển tự điển "Anh ngữ Đàm thoại" đầu tiên cho đại chúng Nhật và dịch sách hàng hải tiếng Anh. Trong những anh hùng của Minh Trị Duy Tân, ông chỉ là một bóng mờ "văn nhân" nhưng có công lớn trong quá trình duy tân đất nước. Ngày nay, người dân Kochi dựng tượng đài, bia đá, tổ chức ngày văn hóa, các giải thưởng mang tên hai ông để nhớ ơn hai người con Kochi lỗi lạc của dân tộc. Kochi: Dòng sông xanh Kochi nổi tiếng với những dòng sông lớn. Nói là sông lớn nhưng đó chỉ là những dòng chảy ngắn và nhỏ khi so với những chi lưu của dòng Mekong. Chúng tôi đến thăm dòng sông Shimanto. Người ta gọi Shimanto là "dòng sông xanh cuối cùng" của nước Nhật vì đây là dòng sông duy nhất không có đập nước. Từ thành phố Kochi đến Shimanto không hơn 120 km nhưng cũng phải vượt qua gần 50 cái đường hầm xuyên chân núi dài ngắn khác nhau, khi vài chục thước khi vài cây số. Dọc hai bên đường ô tô hay xe lửa là những thửa ruộng nhỏ vài chục mét vuông hay nhiều lắm vài hecta nối tiếp nhau bị ngăn chia bởi núi đồi. Địa hình của toàn thể nước Nhật cũng tương tự như vậy với 70 - 80 % bao phủ bởi rừng núi. Những cánh đồng ngút ngàn như đồng bằng sông Cửu Long không hiện hữu trên đất nước cằn cỗi này. Kỹ thuật đào đường hầm hay đào lòng biển của Nhật vì vậy đạt mức hàng đầu thế giới. Dòng sông này không phải là Vườn quốc gia (National Park) mà chỉ là một nơi bình thường với ngư dân sống lác đác dọc hai bên bờ. Sự hiện đại hóa của nước Nhật để lại rất ít những hình ảnh hoang vu như cảnh vật dòng Shimanto. "Dòng sông xanh cuối cùng" cũng là một con sông ngắn với dòng chảy êm đềm. Ngư dân ở đây vẫn còn giăng lưới bắt cá hoặc lươn, một việc bình thường ở Việt Nam nhưng lại là những cảnh quan hiếm thấy tại Nhật. Cuộc sống bươn chải, lao lướt của thành phố khiến người Nhật phải tìm đến những miền hoang dã như dòng sông Shimanto để hòa điệu cùng thiên nhiên, tìm về cái yên tĩnh và mộc mạc của nước Nhật 50 hoặc 100 năm trước (Hình 2). [img src=" vietsciences.org/lichsu/lichsucacnuoc/images/mothoangphutang02.jpg"][/img] Hình 2: Dòng sông xanh Shimanto (ảnh của tác giả). Chúng tôi thuê một chiếc thuyền đi dọc theo dòng sông. Dòng sông trong xanh trôi nhè nhẹ qua những cây cầu xi măng bắt ngang vừa đủ cho một chiêc xe hơi nhỏ chạy qua. Người dân ở đây gọi những cây cầu này là Chinka-bashi (Trầm hạ kiều = cầu chìm). Tôi tò mò hỏi ông lái thuyền sao gọi là cầu chìm, ông từ tốn trả lời "Dòng sông này mỗi năm ngập 2, 3 lần và ngập luôn cầu nên gọi là cầu chìm". Tôi hỏi tiếp "Sao không làm cao?", "Làm cao tốn kém lại không cần thiết, nếu ngập thì chỉ 2, 3 ngày là nước rút đi". Ông bảo vào năm 2005, một trận lụt khủng khiếp xảy ra, nước dâng cao 20 m chỉ cần thêm 1 m nữa thì tràn qua đê. "Anh có thấy cái nhà hai tầng xa xa đàng kia không?", ông nói, "Mực nước dâng cao qua khỏi nóc nhà đấy!". Cuộc sống hơi khó khăn vì lũ lụt thường xuyên nhưng ông bảo đây là quê hương và ông không muốn bỏ lên thành phố. Mùa Xuân, ngư dân giăng câu thắp những bóng đèn điện nhỏ để bắt lươn con về đêm. Những con lươn con sẽ được nuôi trong hồ cho đến khi trưởng thành. Món lươn nướng khoái khẩu và xúp lươn là một đặc sản trong vùng. Mùa Hè, dân thành phố kéo về đây để xem hàng vạn con đom đóm bay xung quanh bụi cây như những cây thông Christmas dọc theo dòng sông. Lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy đom đóm và không biết bây giờ còn ở vùng quê Việt Nam? Kochi: Ôn tuyền lữ quán Nước Nhật bị công nghiệp hóa và người Nhật bị "stressed" cao độ. Có dịp, họ ùa nhau đi tìm sự thư giãn nơi mà họ có thể "yukkuri dekiru" (được thoải mái). Khi đi du lịch họ trú ngụ ở nhà khách truyền thống gọi là "ôn tuyền lữ quán" (nhà khách với suối nước nóng). Những lữ quán này có phục vụ trọn gói với phòng ngủ chiếu tatami, tắm suối nước nóng, ăn tối và ăn sáng theo phong tục Nhật. An Nam ta có "tứ khoái", nhưng tôi nghĩ Phù Tang hơn ta một "khoái", có đến "ngũ khoái"! Cái khoái thứ năm là thú tắm suối nước nóng. Nằm trong vòng lửa Thái Bình Dương, nước Nhật từ Nam chí Bắc đầy nguồn suối nước nóng, rải rác khắp nơi. Những "ôn tuyền lữ quán" mọc lên ở những địa điểm du lịch tạo ra khu thư giãn cuối tuần hay ngày lễ cho dân thành phố. Đây là nơi những cặp vợ chồng son cũng như những cặp vợ chồng luống tuổi, cụ ông cụ bà, hay là một nhóm đồng nghiệp lui tới cùng nhau thoải mái trong bể suối nước nóng, rồi sau đó tận hưởng các món cá, mực sống sashimi truyền thống, cùng khề khà chén chú chén anh qua cốc rượu sake. Nơi chúng tôi trú ngụ là một "ôn tuyền lữ quán" nổi tiếng Kochi với cái tên rất nên thơ "Thành Tây Quán" (Joseikan). Các nghi thức hành xử (etiquette) trong bể nước nóng từ xưa đối với người Nhật đã trở thành một qui luật bất thành văn. Nhưng gần đây có lẽ lối thư giãn này hấp dẫn khách nước ngoài nên phải có "qui luật thành văn" phụ đề Anh ngữ, treo ở cửa ra vào. Rằng là bất kỳ nam phụ lão ấu phải hoàn toàn "như nhộng" không được mặc một thứ gì trên người kể cả đồ tắm; rằng là không được ồn ào, không được uống rượu, phải dội nước sạch sẽ trước khi ngâm mình trong bể; rằng là người có máu cao, mang thai chớ có liều lĩnh mà thọt cẳng vào. "Ôn tuyền lữ quán" nơi tôi trú ngụ thuộc hạng 5 sao nên ban quản lý càng chi tiết hơn về vệ sinh cá nhân. Rằng người nào có ghẻ nhọt thì không nên vào, nhưng ai mang bịnh trĩ thì cứ thoải mái không sao! Bể nước được đặt trong một khoảng không gian rộng rãi, nước suối được mang từ ngoài vào chảy róc rách, được pha với nước lạnh để điều chỉnh nhiệt độ khoảng 42 - 45 °C. Tôi tò mò tìm hiểu cái bảng phân tích treo bên cạnh bể; bảng liệt kê các chất khoáng chứa trong nước và các thứ bệnh như đau lưng, đau khớp, phong thấp, tay chân rỉ mồ hôi... mà nguồn suối này có khả năng trị liệu. Tôi từ từ ngâm mình vào nước, vừa lim nhim đôi mắt, vừa lắng tai nghe tiếng nước chảy để gia tăng sự đê mê trong bầu không khí đầy hơi nước, tận hưởng cái cảm giác râm ran của những làn nước nóng tưởng chừng như xuyên qua từng lỗ chân lông, đi vào từng thớ thịt. Bên cạnh cái bể lớn là cái bể nhỏ có cùng một nguồn nước nhưng treo thêm một cái bao rất to, hăng hắc mùi thuốc. Bảng phân tích cho biết cái bao này chứa 10 vị thuốc Bắc như đơn qui, trần bì (vỏ quít), cam thảo, quế, gừng..., chuyên trị năm ba thứ bệnh linh tinh khác. Kiểm điểm lại thì tôi thấy không bị mắc thứ bệnh nào, nhưng tiện chân nhảy vào cho mát da mát thịt. Sau khi tắm và ngâm trong suối nóng, tôi được trao cái áo yukata, một loại kimono nhẹ, mặc qua đêm và dùng cơm tối. Tôi súng sính mặc vào, choàng thêm một cái áo ngắn tay, ngắm tới ngắm lui, đi qua đi lại. Oai phong lắm lắm! Chỉ cần có thêm một búi tóc phía sau và cạo đầu chừa một chỏm tóc phía trước, bên hông vắt theo thanh kiếm dài katana là tôi biến thành samurai của thế kỷ 18! Triết lý nhân sinh của người Nhật tập trung ở chữ "hòa" (hòa hợp, hòa bình). Sự giao tế giữa con người hay giữa con người với thiên nhiên xoay quanh chữ "hòa". Ngay trong ẩm thực, tôi cũng cảm thấy cái "hòa" khi ăn một miếng sashimi chấm nước tương với wasabi rồi uống một ngụm nhỏ sake (Hình 3, 4). Cái cay nồng của wasabi xông lên mũi chảy nước mắt dường như được "hòa" dịu bằng cái cay của hơi sake hâm nóng. Thêm cái dư âm lâng lâng, sảng khoái còn phảng phất sau cuộc ngâm mình trong bể nước suối "hòa" lẫn cái ngà ngà của men rượu, "mượn ba chén dập dìu trăng gió" [2]. Hai ba cái "khoái" cùng hòa hợp một lúc tạo ra hiệu ứng cộng hưởng đồng loạt (synergetic) cho ta một cảm giác tuyệt vời, không thể nào dùng lời tả hết… Hình 3: Sashimi cá ngừ (katsuo), một đặc sản Kochi (ảnh của tác giả). Hình 4: Một phục vụ viên của Thành Tây Quán (ảnh của tác giả). Hiroshima: Bom nguyên tử Tôi từ giã người thân và từ đảo Shikoku vượt Đại kiều (cầu lớn) Seto được bắc trên năm hòn đảo nhỏ nối liền hai đảo Shikoku và Honshu đi đến thành phố Hiroshima bằng chuyến tàu siêu tốc Shinkansen. Mới hai ngày trước, bầu trời mùa Thu trong xanh ấm áp bao nhiêu, thì bây giờ ảm đạm lạnh lẽo bấy nhiêu. Tôi nhìn bản đồ tìm về hướng Công viên Hòa bình. Ngọn gió đầu Đông mơn man thổi, những chiếc lá vàng bay lả tả như cánh bướm dọc theo một bờ sông nhỏ trong thành phố. Trong khung trời lãng mạn này, bỗng nhiên xuất hiện quang cảnh hoang tàn của tòa nhà bị bom nguyên tử. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ trên không cao 600 m trên tòa nhà này, để trơ lại cái vòm sắt và những bức tường đổ nát. Sức nóng tỏa ra từ quả bom làm sạm đen bề mặt bức tường tưởng chừng như mới xảy ra, mặc dù đã hơn 60 năm qua (Hình 5). Hình 5: Tòa nhà bom nguyên tử -Di sản Thế giới (ảnh của tác giả). Bên kia bờ sông là Công viên Hòa bình với Nhà Bảo tàng Hòa bình lưu trữ hình ảnh, hiện vật và tài liệu về hậu quả của quả bom nguyên tử Hiroshima. Ở giữa công viên, người ta xây một cái vòm tưởng niệm bằng đá hoa cương đơn giản không cao lắm (Hình 6). Đứng nhìn từ xa, cái vòm đá này như bao trọn tòa nhà bị bom ở phía xa xa, như che chở những linh hồn vô tội. Trong vòm đá người ta khắc một hàng chữ Nhật để tưởng nhớ cũng như để nhắn nhủ đến hàng trăm ngàn vong linh chết oan ức: "Xin hãy ngủ yên, vì lỗi lầm này sẽ không bao giờ lập lại". Hình 6: Vòm tưởng niệm (ảnh của tác giả). Trong cái lạnh cuối Thu, Công viên Hòa bình vẫn không vắng người. Hàng ngàn khách tham quan từ các nơi trên thế giới, những đoàn học sinh tiểu học, trung học từ mọi miền đất nước nườm nượp kéo về đây. Một nhóm học sinh mặc đồng phục chỉnh tề tay cầm một tập sách nhỏ, đứng trước tượng đài tưởng niệm "Thiếu nhi tử nạn vì bom". Tôi khẽ nhìn vào tập sách dày trên dưới 20 trang, thì ra đó là tập lịch trình tham quan, bài ca, tư liệu học tập và bài tập được thầy cô chuẩn bị cho chuyến đi. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô, các cháu cúi đầu mặc niệm, sau đó đồng ca một bài tưởng niệm và tung hô hòa bình thế giới với tiếng nhạc đệm phát ra từ một máy cassette gần đó. Một cháu đại diện nhóm bước ra nói cảm tưởng của mình, sau đó là bài diễn văn ngắn của thầy hướng dẫn nói về ý nghĩa của chuyến đi. Mọi người đều trầm ngâm, không một tiếng nói chuyện cười đùa. Cuối cùng, các cháu mang những con hạc giấy origami xếp sẵn biểu tượng cho hòa bình được kết lại nhiều chùm đặt dưới tượng đài. Một buổi lễ ngắn nhưng thật là cảm động, đầy ý nghĩa. Trong Nhà Bảo tàng, hiện vật do hậu quả bom nguyên tử gây ra được trưng bày với lời giải thích tỉ mỉ và những hình ảnh kinh hoàng gây trên cơ thể con người khiến người xem không cầm được nước mắt hay phải nhắm mắt bỏ ra ngoài. Từ trung tâm bom nổ đến phạm vi bán kính 1 km, người ta chết tức khắc vì sức nóng. Nhiệt tỏa ra từ quả bom nóng đến độ làm mềm gốm sứ và tan chảy kim loại trong vòng bán kính 600 - 700 m. Ta có thể đoán sức nóng ít nhất phải trên 1000 °C. Toàn thể những tài liệu hướng dẫn, lời ghi chú, giải thích ở Nhà Bảo tàng, tôi không thấy xuất hiện những ngôn từ mang tính chất khiêu khích, hiếu chiến như "tội ác", "hận thù", "đế quốc" hay "xâm lược". Tôi chú ý đến bức hình của Albert Einstein chụp chung với nhà vật lý người Mỹ gốc Hung gia lợi, Leo Szilard, trong thời gian khi hai người cùng thảo bức thư đề nghị tổng thống Roosevelt làm bom nguyên tử (năm 1939). Bản copy của bức thư định mệnh này mang địa chỉ nhà riêng và chữ ký của Einstein được trang trọng để trong lồng kính. Có một đoạn quan trọng của bức thư được tô đỏ và dịch ra tiếng Nhật. Trong đoạn này Einstein nói đến khả năng làm một loại bom cực kỳ mạnh với sức tàn phá vô song chưa từng thấy và khẩn thiết đề nghị tổng thống Mỹ lập ra một chương trình chế tạo loại bom này. Đọc xong bức thư, Roosevelt không chần chừ do dự và chương trình cực mật Manhattan ra đời. Việc Einstein đề nghị làm bom nguyên tử là một thường thức lịch sử, nhưng khi đối mặt với bức thư định mệnh này, tôi sốc. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài thầm nghĩ Einstein không những là một thiên tài khoa học mà cũng là một con người đạo đức đầy tính nhân bản, ông tranh đấu cho công bằng xã hội, dân chủ, sự thật, nhân quyền suốt cả đời người. Là một người làm khoa học và hiểu rõ sức mạnh của công thức E = mc2, phương trình cơ bản cho việc chế tạo bom nguyên tử, Einstein thừa hiểu đây là một loại vũ khí hủy diệt. Nhưng động cơ nào đưa đẩy ông vào cõi vô minh, khiến ông có thể viết một bức thư khuyến khích các chính trị gia lao đầu vào cuộc thí nghiệm trên cơ thể con người bằng phương pháp thảm sát tập thể đồng loại, tàn phá môi sinh, chưa nói đến những cuộc chạy đua vũ khí hạch nhân cho đến ngày hôm nay? Tôi thật sự hoang mang, không tìm ra câu trả lời. Qua cửa sổ tầng hai của Nhà Bảo tàng, tôi nhìn thấy vòm tưởng niệm đá hoa cương và tòa nhà bị bom thấp thoáng đàng xa. Ánh sáng ban mai xuyên qua kẽ hở của những cụm mây dày mùa Thu làm rực sáng bãi cỏ xanh bên dưới; nổi bật lên những chiếc áo đồng phục màu vàng của đám trẻ con lớp mẫu giáo đang tung tăng theo cô giáo như đàn gà con theo mẹ. Tôi vừa xốn xang nhìn về một quá khứ kinh hoàng, vừa đăm chiêu chiêm ngưỡng một hiện tại an bình. Chưa bao giờ trong tôi lại nổi lên một tình cảm chán ghét chiến tranh đến thế... Hiroshima: Miyajima Hiroshima không phải chỉ có bom nguyên tử. Cách thành phố một giờ xe lửa và qua một con phà sẽ đưa ta đến đảo Miyajima. Đứng trên con phà, ta sẽ thấy cái cổng đền (tiếng Nhật gọi là torii) cao 15 m màu đỏ rực xuất hiện từ xa, đứng sừng sững như in trên nền màu xanh tươi của rừng núi phía sau. Đây là một kiến trúc đặc thù Nhật Bản và cũng là hình ảnh biểu tượng của đất nước Thái dương Thần nữ. Torii là cổng dựng trước những ngôi đền Thần đạo (Shinto). Kiến trúc những đền Thần đạo hay chùa Phật giáo mang một sắc thái đặc biệt Phù Tang. Với những nét chấm phá đơn giản, hình dạng và độ cong của mái ngói, chúng dễ dàng phân biệt được với những kiến trúc Trung Quốc (Hình 7, 8). Hình 7: Cổng torii trong sương sớm -Di sản Thế giới- (ảnh của tác giả). Hình 8: Đền Thần đạo tại đảo Miyajima (ảnh của tác giả) Cổng torii và đền Thần đạo của đảo Miyajima nổi tiếng từ xưa vì nó được xây trên bãi biển vào năm 1168 và bây giờ là Di sản Thế giới. Một vị tướng quân cai trị vùng này thời đó có một ý tưởng là xây một ngôi đền "nổi". Bãi biển là một nơi lý tưởng để dựng đền vì mỗi lần thủy triều lên, chân đền ngập nước và cho một cảm giác "nổi" trên nước. Tôi đến nơi này vào một buổi sáng sớm khi thủy triều còn thấp. Nhiều phó nhòm chuyên nghiệp với dụng cụ nhiếp ảnh đắt tiền kiên nhẫn chờ đợi nước triều lên và hoàng hôn xuống để chụp được những bức ảnh nhiều màu sắc mang sự hài hòa giữa kiến trúc của con người, rừng núi và bầu trời của thiên nhiên.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:18:19 GMT 9
Nagasaki: Thành phố lịch sử Từ Hiroshima tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về hướng Tây tiến về đảo Kyushu đến thành phố Nagasaki. Việc nối kết bốn hòn đảo chính bằng cầu hay đường hầm chạy dưới lòng biển là một kế hoạch manh nha từ thời Minh Trị Duy Tân. Đến ngày hôm nay, Nhật đã hoàn thành tất cả những kế hoạch này và đây là những công trình vĩ đại của lịch sử công nghệ xây dựng. Từ đảo Honshu qua đảo Kyushu một đường hầm dài gần 19 km xuyên qua lòng biển đã được thực hiện cho xe lửa siêu tốc Shinkansen có thể chạy đến 300 km/h. Nagasaki là một thành phố cảng ở phía Tây Bắc đảo Kyushu, nằm ở một vị trí chiến lược gần bán đảo Triều Tiên, đại lục Trung Quốc và Đài Loan (Hình 9). Nagasaki là cái nôi của nền khoa học kỹ thuật hiện đại Nhật Bản, mang một ý nghĩa lịch sử sâu sắc trong việc canh tân biến nước Nhật từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc ngang hàng với phương Tây ở thế kỷ thứ 19. Nagasaki là thành phố thứ hai bị bom nguyên tử. Khi người Nhật chưa hết bàng hoàng vì quả bom Hiroshima, thì ba ngày sau Mỹ bỏ quả bom thứ hai trên thành phố này. Hình 9: Sông Nakajima chảy ngang thành phố. Đàng xa là cây cầu đá Megane-bashi (cầu Mắt kiếng) lâu đời nhất do một nhà sư Trung Quốc xây vào thế kỷ 17. (ảnh của tác giả). Cũng như Hiroshima, Nagasaki đã hoàn toàn khắc phục hậu quả của vết thương nguyên tử và trở thành một thành phố hiện đại. Hiện nay, toàn tỉnh đang tham gia phong trào vận động chính phủ kéo tuyến đường xe lửa siêu tốc Shinkansen đến Nagasaki để tăng tốc nhịp độ kinh tế địa phương. Dù là một tỉnh ở cực Nam nước Nhật (có thể so sánh như Kiên Giang hay Cà Mau của ta), các cô gái Nagasaki cũng thời thượng không kém dân Tokyo. Một người bạn viết email hỏi tôi "Con gái Nagasaki có đẹp không?", không một chút do dự tôi trả lời rằng "Đẹp một cách thần thoại". Các cô gái trang điểm rất nhẹ, không nặng nề loè loẹt. Nhật Bản là nước có nhiều trung tâm giải phẫu thẩm mỹ cao cấp, nhưng phụ nữ Nhật dường như không thích chỉnh sửa bằng dao kéo. Ngược lại quí bà quí cô sẵn sàng trút hầu bao mua các loại mỹ phẩm Shiseido đắt giá để tạo cho những đôi mắt một mí Nhật Bản có một vẻ đẹp đặc thù, hay để làm nổi bật cái sóng mũi dọc dừa, cái cằm trái xoan, bằng sự điều hòa giữa các gam màu mỹ phẩm. Thời trang của các cô cho mùa Thu năm nay là đôi giày ống da cao đến gối, bó lấy đôi chân thon dài nhún nhảy, đi với cái mini-skirt trêu ngươi hay là cái quần short ngắn thật sát để lộ một phần đùi dài ít nhất 20 cm. Mỗi người mỗi kiểu. Các nhà thiết kế thời trang và công ty mỹ phẩm Shiseido quả là có nhiều sáng kiến moi tiền và phụ nữ Nhật cũng đáp ứng nhiệt tình, tiêu xài rộng rãi, đóng góp không ít vào nền kinh tế Nhật qua cái khoản chi tiêu làm đẹp. Ngược dòng lịch sử, trở về quá khứ. Từ thế kỷ thứ 16, Nagasaki trở thành một cảng quốc tế giao thương với người Trung Quốc và các thế lực Âu Tây đương thời như Bồ Đào Nha và Hà Lan. Cũng từ Nagasaki, các đội thương thuyền Nhật Bản vượt trùng dương buôn bán với Trung Quốc, Việt Nam (Phố Hiến, Hội An), Campuchia, Phillipines, Thái Lan và đến tận Indonesia và Mã Lai. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha sớm mang Kitô giáo đến truyền bá trên đất nước Thái dương Thần nữ và xây nhiều giáo đường trước khi chính quyền Mạc Phủ ra lệnh "tỏa quốc" (sakoku, tức là bế quan tỏa cảng), cấm đạo, trục xuất người Bồ Đào Nha và giết giáo sĩ. Số người Nhật theo Kitô giáo rất ít, nhưng không ở đâu trên nước Nhật dấu ấn của Kitô giáo đậm đà và sâu sắc như tại Nagasaki. Hàng chục giáo đường lớn nhỏ tại Nagasaki và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị nữ tu thường đi lại trên đường phố hay trên các phương tiện giao thông công cộng; một cảnh tượng hiếm thấy trong các thành phố Nhật Bản. Nhiều giáo đường trở thành Quốc Bảo (di sản quốc gia) được chính phủ hay các hội đoàn địa phương trùng tu liên tục (Hình 11). Người Trung Quốc cũng di dân đến Nagasaki từ thời mạt Minh và đến khi nhà Thanh thành lập số người Hoa gia tăng, mang theo tinh thần "phản Thanh phục Minh" chờ dịp lật đổ triều đình Mãn Thanh. Sự ngẫu nhiên lịch sử đã đưa đẩy Nagasaki trở thành giao điểm của hai nền văn hóa Đông và Tây, đi song song và bổ sung nhau, tạo thành một nét đặc thù văn hóa không tìm thấy ở các thành phố khác của Nhật. Hình 10: Một giáo đường tại Nagasaki (ảnh của tác giả). Trong buổi sáng đầu tiên lành lạnh của thành phố cảng này, tôi đi xe điện (tram, streetcar) tìm đến con đường lịch sử, Teramachi-dori (đường xóm Chùa). Gần 10 ngôi chùa cổ với số tuổi 300 - 400 năm được mang danh hiệu Quốc Bảo (di sản quốc gia), tọa lạc trên con đường hẹp và dài 2 km này. Chính quyền Mạc Phủ đương thời cho phép mỗi tông phái Phật giáo xây một ngôi chùa dọc theo con đường tiếp giáp với chân núi Kazarashira. Hai ngôi chùa Trung Quốc, Hưng Phước Tự (Kofukuji) và Sùng Phước Tự (Sofukuji) (Hình 11), ở đầu và cuối con đường có lẽ là hai ngôi chùa cổ nhất của Teramachi. Chùa được di dân người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) trong thời gian đầu lập nghiệp xây dựng với vật liệu mang từ Trung Quốc. Hòa thượng Ẩn Nguyên (Ingen) từ Phước Kiến đến đây truyền bá Thiền Tông (1654), lập ra trường phái thiền Hoàng Bá và trở thành một vị Đại Sư được tôn kính rất mực của Phật giáo Nhật Bản. Hình 11: Chùa cổ Trung Quốc, Hưng Phước Tự (ảnh của tác giả). Nagasaki: Nàng công nương họ Nguyễn Ở giữa con đường xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa này có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ "samurai" vài trăm năm trước [3]. Dựa theo thông tin của một ông bạn tại Nagoya, tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai. Đại Âm Tự là một trong những ngôi chùa lớn tại Nagasaki. Tiếc rằng, trận hỏa hoạn năm 1959 đã thiêu hủy toàn thể ngôi chùa. Chùa được xây cất lại nhưng không còn vẻ cổ kính như xưa. Tôi đi đến văn phòng chùa hỏi thăm địa điểm ngôi mộ cổ. Bà quản lý tử tế chỉ dẫn và nhanh nhẹn lướt qua một số tài liệu, in ra cho tôi một trang nói về phần mộ của dòng họ Araki. Thì ra, ngôi mộ được chỉ định là "Sử tích của thành phố Nagasaki". Tôi thầm phục cách lưu trữ tài liệu, phân loại và xử lý văn bản lịch sử của người Nhật. Chỉ trong vòng vài phút, một người quản lý bình thường của một ngôi chùa có thể tìm ra tên tuổi người quá cố qua đời vài trăm năm trước giữa hàng chục ngàn cái tên khác. Theo lời chỉ dẫn, tôi leo lên hơn 200 bực đá dọc theo triền núi, quẹo trái quẹo phải, đi qua hàng trăm ngôi mộ cổ được sắp xếp thứ tự theo từng gia tộc, phần lớn đã rêu phong, những chữ khắc vào đá cũng đã phai mờ. Ở mỗi phần mộ tôi nhận thấy có bia đá nhỏ khắc chữ "Thổ thần" giữ mộ. Một tập tục Trung Quốc ảnh hưởng đến phong tục của người Nagasaki. Tôi không thấy những bó hoa tươi, dấu vết hương khói hay sự lui tới thường xuyên của con người, chỉ có những làn gió vi vu thổi qua ngọn đồi làm không gian vốn đã u tịch lại càng đượm thêm một màu thê lương. Có lẽ, vì là mộ cổ con cháu của người quá cố đã ly tán khắp nơi, không còn ai còn nhớ đến quá khứ và trở lại chăm sóc mộ phần. Mộ phần nhà Araki cũng dễ tìm, trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật (?) Wakaku (từ Hán Việt: Vương Gia Cữu) (Hình 12, 13). Đứng trước ngôi mộ tôi chấp tay cúi đầu, hy vọng rằng sẽ có hài cốt của một công nương quyền quí nằm trong lòng đất này. Hình 12: Mộ phần dòng họ Araki (ảnh của tác giả). Hình 13: Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro và vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên (ảnh của tác giả). Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang copy từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku ông tự đặt thêm một tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san (anio = A Nương theo từ Hán Việt, có thể dịch là "cô nương"). Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm. Một pháp danh rất là Việt Nam. Cũng theo trang thông tin này, hơn hai trăm năm sau vào thời Minh Trị mộ phần của Akira Sotaro và Anio-san được con cháu đời thứ 13 cải táng và mộ phần hiện tại chỉ có đời thứ 3, thứ 12, 13 và 14 (Araki Sotaro là đời thứ 1). Cuộc đời của Araki Sotaro và công nương Việt Nam Wakaku sẽ có rất ít người biết nếu chỉ dựa vào bảng tiểu sử ở một nghĩa trang heo hút và tài liệu "đóng bụi" của Đại Âm Tự. Nhưng câu chuyện tình Nhật Việt này đã được mang ra trình bày và giải thích bằng hai thứ tiếng Nhật và Anh cùng với những mẩu chuyện khác về Nagasaki ở thế kỷ 17, 18 tại địa điểm tham quan lịch sử Dejima (đề cập ở phần sau). Tài liệu Nhật còn cho biết khi nàng Wakaku cập bến Nagasaki, một cuộc đón tiếp long trọng được tổ chức để đón cô dâu quí tộc đến từ Nam quốc xa xôi. Trang phục của cô dâu đã gây một ấn tượng đặc biệt cho người dân Nagasaki và từ đó về sau nó trở thành một tiết mục thời trang cho lễ hội (matsuri) hàng năm của thành phố đến tận ngày hôm nay. Trong khi đó, lịch sử Việt Nam không có một giòng chữ nào đề cập đến số phận của nàng công nương xa xứ họ Nguyễn. Phải công nhận rằng người Nhật có cách quảng bá lịch sử rất sáng tạo và khoa học. Ở những địa điểm du lịch, họ dựng bảng giải thích các di tích với hình ảnh, bản đồ, niên biểu, và lời dịch tiếng Anh rất chính xác, gần đây thêm tiếng Hoa và tiếng Hàn. Đối với những sự kiện lịch sử lớn lao đặc biệt là vào thời Mạc Phủ và Minh Trị Duy Tân, họ nghiên cứu, sưu tập tư liệu làm những bộ phim tập trường thiên chiếu trên kênh truyền hình quốc gia NHK để tôn vinh một thời đại, một vương phi hay một nhân vật samurai anh hùng. Vì tính chất hấp dẫn của những bộ phim samurai lịch sử này, phim chưởng Hong Kong hay Trung Quốc với những màn đánh nhau loạn xị, vô cảm nằm ngoài thị hiếu của khán giả và không bao giờ xâm nhập được vào thị trường tivi và điện ảnh Nhật Bản. Ngoài ra, kênh truyền hình giáo dục NHK [4] có những giờ lịch sử được trình bày sống động theo lối "kể chuyện cổ tích" xen vào những khúc phim miêu tả (re-enactment) hay phim tài liệu ngắn rất cuốn hút người xem. Nagasaki: Dejima Dejima là một địa danh lịch sử của Nagasaki và của Nhật Bản. Nói đến lịch sử cận đại Nhật Bản thì phải đề cập đến Dejima. Cũng không phải quá lời khi gọi Dejima là cái nôi của khoa học kỹ thuật cận đại Nhật Bản. Trong suốt thời kỳ "tỏa quốc" (bế quan tỏa cảng) của chính quyền Mạc Phủ, nước Nhật tự cấm vận chính mình không giao thương với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, chính quyền Mạc Phủ khôn ngoan mở ra một "cửa sổ" nhỏ để nhìn thế giới. Đó là Dejima (Hình 14). Hình 14: Mô hình toàn cảnh Dejima (ảnh của tác giả) Dejima là một hòn đảo nhân tạo rộng 15.000 m2 được chính quyền Mạc Phủ xây cất để cho người Hà Lan mướn và lập văn phòng của các công ty thương thuyền, nhà ở cho nhân viên. Người Hà Lan được phép đi lại vì họ chỉ buôn bán và không liên hệ đến các hoạt động truyền giáo. Trong những đoàn thương nhân này, có những vị bác sĩ đến đây để chăm sóc sức khoẻ của nhân viên và thủy thủ. Những sĩ phu yêu nước không phân biệt giai cấp từ Edo (Tokyo), Kyoto, Osaka, đã lũ lượt kéo về Nagasaki đến Dejima tìm gặp các vị bác sĩ này để "tầm sư học đạo". "Đạo" ở đây là Lan học (cái học của Hà Lan), có nghĩa là cái học của khoa học kỹ thuật Tây phương. Năm 1774 bộ sách y khoa về giải phẫu học tiếng Nhật đầu tiên và cũng là quyển sách khoa học đầu tiên, "Giải thể tân thư", ra đời dựa theo nguyên bản tiếng Hà Lan. Từ đó Lan học và phong trào dịch thuật lan rộng cả nước nhanh chóng như lửa rừng, đồng thời đẩy lùi cái học "ngũ thư, tứ kinh" vào bóng tối. Những môn học khác như thực vật học, dược học, nông học, vật lý, hóa học, toán học lần lượt được phổ biến. Thời thế tạo anh hùng. Vào đầu thế kỷ 19, những nhà Lan học lỗi lạc xuất hiện, lập trường học đào tạo nhân tài, đặt một nền tảng khoa học kỹ thuật cho cuộc vận động Minh Trị Duy Tân sau này. Ngày nay Dejima không phải là hòn đảo nữa vì xung quanh người ta đã lấp đất lấn ra biển. Trên địa điểm cũ những ngôi nhà xưa được phục nguyên và sinh hoạt của người Hà Lan được tái hiện theo tài liệu lịch sử. Bộ sách "Giải thể tân thư" và bộ tự điển đầu tiên Nhật - Hán - Anh - Hà Lan viết bằng tay được trưng bày tại đây cho thấy sự cầu tiến và kiên nhẫn của các nhà Lan học. Trong phòng triển lãm, tôi chú ý đến cái đồng hồ quả lắc, ống nhòm thiên văn, cây súng trường, khẩu súng lục chế tạo vài trăm năm trước mô phỏng theo Hà Lan, Bồ Đào Nha, được cải thiện cho thích hợp với người Nhật Bản. Tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi thấm sâu trong tư duy người Nhật đã giúp họ phát triển mọi mặt. Vào thế kỷ thứ 8, người Nhật Bản sang nhà Đường (Trung Quốc) du học, vay mượn Hán tự làm văn tự của mình và cách tổ chức hành chánh của triều đình nhà Đường để an bang trị quốc. Họ cải thiện Hán tự và dùng cho đến ngày hôm nay mà không mang một chút mặc cảm vay mượn. Trái lại, họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phong phú hóa Hán tự và hội nhập văn tự này vào ngôn ngữ khoa học thế giới. Kể từ khi Lan học xuất hiện, người Nhật đã dùng tiếng Hán để dịch những từ ngữ y học, khoa học tự nhiên và nhân văn. Những thuật ngữ như: vật lý, hóa học, số học, vi phân, tích phân, phương trình, quĩ đạo, lượng tử v.v…, hay trong khoa học nhân văn: kinh tế, chính trị, dân chủ, xã hội, chủ nghĩa, cộng sản, là những từ Hán Nhật mà sau này ông thầy Trung Quốc phải vay mượn lại "học trò" Nhật để bắt kịp thế giới. Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật. Hai ngày tại Nagasaki vẫn chưa đủ, nhưng đã đến lúc phải chia tay. Trước khi từ giã thành phố cảng lãng mạn này, tôi lững thững ra ngoài bến cảng nhìn Nagasaki lần cuối. Mây vẫn lướt thướt bay, sóng vẫn vỗ rì rào và núi vẫn sừng sững vươn lên. Một dãy sơn hà đã chứng kiến biết bao cảnh thăng trầm, biết bao tao nhân mặc khách, anh hùng hào kiệt đến đến đi đi. Ánh sáng bình minh của khoa học đã chiếu trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này và những con người Nhật Bản cầu tiến đã sớm thức tỉnh nắm bắt lấy cơ hội làm ra những trang sử oai hùng cho đất nước. Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa. Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình ca của một thời du học, "Nagasaki wa kyo mo ame datta" (Nagasaki trời hôm nay mưa cũng đã rơi)… Mùa Giáng Sinh 2008 TVT Phụ chú 1. Có một sự trùng hợp lịch sử thú vị giữa Việt Nam và Nhật Bản trong cùng một thời kỳ. Ở giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh tại Việt Nam và chúa Trịnh nắm hết quyền bính ở Đàng Ngoài biến vua Lê thành nhân vật biểu tượng, thì tại Nhật Bản chính quyền Mạc Phủ (tên chỉ một thời đại) do một Tướng quân (Shogun) cầm đầu cai trị cả nước Nhật cũng biến Thiên Hoàng Nhật thành bù nhìn. Chính quyền Mạc Phủ đi qua nhiều thời đại được truyền tay qua những Tướng quân lỗi lạc, kéo dài gần 300 năm từ hậu bán thế kỷ 16 đến Minh Trị Duy Tân năm 1867. Đây là thời kỳ hòa bình lâu dài nhất trong lịch sử Nhật Bản. Nhận thấy chính quyền Mạc Phủ không còn thích hợp với thời đại, phe bảo hoàng của các thế lực quân sự tại Satsuma-han (han: phiên, tương đương tỉnh, bây giờ là tỉnh Kagoshima, nam Kyushu), Choshu-han (tỉnh Yamaguchi, tây Honshu) và Tosa-han (tỉnh Kochi, Shikoku) liên minh làm cách mạng lật đổ chính quyền Mạc Phủ tại Edo (Tokyo), trao trả quyền lực lại cho Thiên Hoàng và mở đầu thời đại Minh Trị Duy Tân (1867). Tiếc rằng, Việt Nam không có một sự kiện tương tự. 2. Thơ Nguyễn Công Trứ. 3. Vào thời phong kiến, người Nhật cũng theo truyền thống "sĩ, nông, công, thương", nhưng "sĩ" của Nhật là giai cấp "võ sĩ" (samurai). 4. Có lẽ Nhật Bản là nước duy nhất trên thế giới có kênh truyền hình giáo dục hoạt động song song với kênh tổng hợp. Ngoài những tiết mục dạy bổ túc cho học sinh trung học, kênh giáo dục còn có những tiết mục nhân văn, xã hội, nghệ thuật, ngoại ngữ đàm thoại cho đại chúng. Hàng tháng NHK xuất bản những tập sách nhỏ giá rẻ để học viên có thể theo dõi chương trình học một cách hiệu quả. © vietsciences.free.fr và vietsciences.org Trương Văn Tân
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:23:53 GMT 9
Địa đàng phía đông: New Zealand Trương Văn Tân Khi chúng tôi bước ra phi trường quốc tế Christchurch, những làn gió lành lạnh mơn man thổi nhẹ tạo một cảm giác những ngày cuối thu hơn là ngày đầu hạ Nam Bán Cầu. Gọi là phi trường quốc tế nhưng qui mô và những hoạt động xung quanh giống như sân bay nội địa của một thành phố nhỏ. Gần bốn tiếng bay từ Melbourne, tôi không có cảm giác như vừa đặt chân đến một xứ khác vì kiến trúc nhà cửa từ phong cách thuộc địa "colonial" đến kiểu hiện đại, cách trang trí hình dạng quán xá trên đường phố, cung cách người New Zealand cũng không khác xứ Úc người Úc là bao. Có khác chăng là Christchurch tôi đang nhìn giống như thành phố Adelaide của Úc ở vài thập niên trước, khi tôi vừa mới đặt chân đến đây và khi nhịp điệu cuộc sống vẫn chầm chậm như mây trôi. Bắt đầu làm quen với Christchurch, bất giác tôi bắt lại được cái cảm giác nao nao lần đầu đến Adelaide, một thành phố Tây Phương đầu tiên tôi biết trên bước đường lập nghiệp. Tôi thầm nghĩ thật là chán khi phí tiền đi du lịch nước ngoài, thức khuya dậy sớm, bay lên đáp xuống, đến một nơi mà cũng chẳng khác nơi mình ở là bao. Nhưng khi đến văn phòng của công ty thuê xe, chất giọng phát âm tiếng Anh của người dân bản xứ mang lại cho tôi một cảm giác vui vui là sự dị biệt giữa Úc và New Zealand có thể bắt đầu từ đây. So với cách phát âm của người Úc, dân ở đây nói giọng rất gần với người Anh, chỉ khác khi phát âm "i" lại hóa thành âm "u", "six" thành "sux", "fish and chip" thành "fush and chup". Còn nữa, cái âm "e" trở thành "i". Đi hỏi đường trong một shopping centre, được bảo "you go to the lift" cứ mãi tìm cái thang máy (lift), hóa ra là "you go to the left". Cô phục vụ tại quầy hàng không bảo "chick un", hỏi lại vài lần mới biết là "check in". Anh nhân viên trong văn phòng thuê xe vui vẻ cho chúng tôi biết một mẫu tin liên quan đến du lịch "Hiện giờ tại Christchurch đang có dịch vụ hàng không mang khách lượn quanh xem một tảng băng hà đang trôi ngoài khơi gần thành phố. Dịch vụ kéo dài không lâu vì tảng băng đang tan chảy rất nhanh. Nếu ông bà muốn tham gia thì chúng tôi có thông tin hướng dẫn". Một tảng băng hà khổng lồ bứt đi từ Nam Cực từ đầu năm 2005 trôi giạt về phía New Zealand. Cho đến thời điểm nầy là tháng 11 2006, tảng băng đã đi hơn 13000 km với tốc độ trung bình 0,9 km/h. "Băng hà" là một từ rất ít được ai đề cập tại Úc nhưng ở đây là một từ thông dụng, nhất là càng đi về phía nam của New Zealand. New Zealand gồm Đảo Bắc (North Island) và Đảo Nam (South Island) có tổng số diện tích là 270.000 km2 (nhỏ hơn Việt Nam nhưng rộng hơn Lào), với dân số hơn 4 triệu người. New Zealand có thành phố lớn nhất là Auckland (ở Đảo Bắc) với dân số 1,4 triệu người, chiếm 1/3 dân số toàn quốc, thủ đô Wellington (ở Đảo Bắc, 400.000 người) và Christchurch (ở Đảo Nam, 300.000 người). Maori là dân bản xứ, một giống người Polynesian, đã có mặt tại New Zealand 1200 năm trước. Quá trình thuộc địa hóa New Zealand của đế quốc Anh ở đầu thế kỷ 19 đã gây ra những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa người Maori và chính quyền thuộc địa. Người Anh ngang nhiên chiếm đất hoặc lừa người Maori mua rẻ bán đắt. Người Maori đoàn kết chống lại, trước sức mạnh cơ giới của người Anh dân tộc Maori thắng ít thua nhiều nhưng cũng có lúc giáo mác thô sơ đánh thực dân Anh chạy làng không còn manh giáp... Sự dũng cảm của dân Maori đã làm cho chính quyền thuộc địa nhân nhượng rất nhiều trước những đòi hỏi chính đáng của họ. Cho đến ngày hôm nay người Maori vẫn kiên trì đòi hỏi chủ quyền đất đai, họ có một địa vị đặc biệt trong xã hội New Zealand và có đóng góp to lớn trong lĩnh vực văn hóa và chính trị. Kỳ nữ Kiri Te Kanawa, niềm tự hào Maori, là một danh ca nhạc viện (soprano singer) nổi tiếng thế giới. Ông Ngoại Trưởng Winston Peters của chính phủ hiện tại là người gốc Maori. Ở những cơ quan công quyền và đại học, chữ Anh và chữ Maori La-tinh hóa được dùng cùng một lúc trong văn thư và trên những tấm biển chỉ dẫn. Từ Christchurch chúng tôi lái xe dọc theo quốc lộ số 1 ven biển phía đông Đảo Nam đi theo hướng nam tiến về thành phố Dunedin. Phải gọi là "thành phố" vì Dunedin lớn thứ tư New Zealand, nhưng với dân số 120.000 và chỉ có ba con đường chính song song trong phố trung tâm, thì đối với tiêu chuẩn quốc tế, Dunedin chẳng qua là một tỉnh lẻ miệt vườn. Chúng tôi không mong đợi nhiều ở cái tỉnh lẻ nầy, nghĩ rằng chẳng qua là một trạm dừng chân qua đêm, nhưng Dunedin cho nhiều ngạc nhiên thú vị. Ngỡ ngàng trước vẻ hoang vắng của thành phố về chiều chúng tôi lơ ngơ đi lạc trong cái thành phố nhỏ bé nầy và ngẫu nhiên phát hiện Đại học Otago. Phát hiện ra một đại học trong một thành phố nhỏ như Christchurch hay Dunedin không phải chuyện khó. Trong cái thời đại "bán chữ" kiếm tiền ở các đại học của các nước nói tiếng Anh và sự cộng hưởng tương ứng của nhu cầu đi nước ngoài của dân châu Á, nơi nào có bóng dáng của những người trẻ tuổi da vàng tóc đen làm việc "part time" đứng bán ở siêu thị hoặc tụ tập ở Internet Cafe là có đại học xung quanh đâu đó. Cái tên Đại học Otago nghe quen tai nhưng không ngờ lại tọa lạc ở tận cùng phía Nam hun hút của quả địa cầu. Đây là đại học tổng hợp đầu tiên của New Zealand thành lập gần 150 năm trước có trường Y và Nha khoa nổi tiếng đào tạo những bác sĩ chuyên khoa cho New Zealand và cho cả thế giới. Vào những năm của thập niên 1860, mỏ vàng trong những vùng sâu lân cận đã thu hút người châu Âu, Do Thái, Trung Quốc đến đây. Thành phố được lập nên bởi người Scottish, trở thành hậu cần của những kẻ phiêu lưu đổ xô tìm vàng. Tên Dunedin (Edin on the Hill) là tiếng Scottish Gaelic cùng nghĩa với Edinburgh của tiếng Anh. Dunedin là một thành phố nhiều tự hào văn hóa và đã có thời từng là thành phố giàu nhất New Zealand. Cũng đúng thôi, trong số dân 120.000 thì đã hơn 20.000 sinh viên, chuyên gia nghiên cứu và giáo sư đại học. Dunedin không giàu về tiền thì cũng giàu nhờ tri thức. Dunedin nổi tiếng với những công trình kiến trúc bằng đá, tiêu biểu là tòa nhà đại học và nhà ga xe lửa [Hình 1 và 2]. Người Anh đến đâu cũng xây những thành phố với bố cục giống nhau; một khu trung tâm buôn bán, hành chánh rồi những khu dân cư tỏa ra. Họ cũng không quên xây Vườn Bách Thảo (Botanic Garden), Bảo Tàng Viện, Đại Học và Nhạc Viện. Hình 1: Đại học Otago Hình 2: Nhà ga xe lửa Dunedin Bờ biển New Zealand có cấu trúc rất lạ, nhiều nơi giống như bàn tay năm ngón xoè ra tạo ra những bán đảo dài và vịnh đi sâu vào đất liền với sóng nước lăng tăng êm đềm như mặt hồ. Dunedin nằm phía dưới cùng của bán đảo Otago. Con đường đi từ Dunedin dọc theo bán đảo là một con đường ven vịnh đẹp như thiên đường. Một con đường ngoằn ngèo dài hơn 50 km với cái "view" đáng giá vài triệu đô-la [Hình 3]. Hình 3: Bán đảo Otago Rải rác dọc đường lại là những căn nhà khiêm tốn nếu không nói là lụp xụp làm bằng gỗ hay fibro rẻ tiền. Tại sao không có những căn nhà hoành tráng tương xứng với cái "view" ngàn vàng!? Tò mò tôi hỏi một người địa phương, "Nhà ở đây bao nhiêu tiền một căn?", "$50.000 tiền New Zealand ($35.000 USD)". Cái máu đầu tư của tôi nổi dậy, "Hả... sao rẻ thế! Ừ, mà người nước ngoài có thể mua đầu tư được không?", "Tại sao không?". Người nầy nhanh miệng nói tiếp "À.... mà ông chỉ mua được nhà thôi nhé. Đất thì ông phải thuê từ các bộ tộc Maori vì họ sở hữu toàn thể đất đai vùng vịnh". Bây giờ tôi mới vỡ mộng. Như vậy sẽ không bao giờ có những tòa nhà tỷ phú, những chung cư cao cấp, những penthouses, những khách sạn năm sao tranh nhau nhìn ra biển, những đoàn du khách lũ lượt đến đến đi đi. Người Maori vẫn muốn gìn giữ cái vẻ hoang sơ ngàn đời đất đai của tổ tiên. Cái hoang sơ mà nhiều lần tôi phải bật miệng thốt lên "A hidden gem!!" (viên ngọc ẩn tàng). Giã từ Dunedin chúng tôi hướng về phía tây đi vào nội địa Đảo Nam tiến về phía Vườn Quốc Gia (National Park) Fiordland. Diện tích các Vườn Quốc Gia chiếm gần 1/4 Đảo Nam. Rừng núi, ghềnh thác, những thảo nguyên xanh tươi thay phiên nhau xuất hiện. Băng rừng hơn 120 km, nhìn lên là những ngọn núi đá sừng sững, nhìn xuống là những con suối trắng xóa ở phía dưới sâu, chúng tôi đến Milford Sound. Những chiếc xe bus chở du khách từ Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Đài Loan tấp nập xuất hiện. Ở đây những chiếc du thuyền lớn nhỏ nhộn nhịp chở du khách tham quan vịnh Milford dài và hẹp thông ra biển Tasman bên bờ tây Đảo Nam. Trời mưa tầm tả từ đêm qua. Hai bên bờ là những vách đá thẳng đứng cao vài ngàn thước, "Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất" [1], bàng bạc trong những cơn mưa. Lâu lắm rồi chúng tôi mới thấy một trận mưa to như vậy. Ở Úc, hạn hán trở thành thiên tai ở mức báo động đỏ. Bên kia bờ biển Tasman, người Úc đến thánh đường cầu Chúa để mưa rơi thì bên nầy bờ người ta lo ngập nước! Chiếc du thuyền vẫn chầm chậm đi trong mưa. Những cơn mưa đầu núi lất phất bay, lúc dồn dập lúc khoan thai, biến một vùng xanh tươi thành một màu xám xịt. Từ những vách đá cao vút nước dồn lại tạo ra nhiều dòng thác trắng xóa như trong tranh thủy mặc [Hình 4]. Thác lớn, thác nhỏ, thác cao, thác lùn, đua nhau ào ạt trút nước. Tiếng ầm ầm của hàng trăm ngọn thác đổ xuống mặt nước phẳng lì như một lời nhắc nhở đến uy lực của thiên nhiên, phá tan cái tĩnh mịch hoang vu của một góc núi rừng. "Sơn trung nhất dạ vũ. Thụ sao bách trùng tuyền" [2]. Đây là vùng đẹp nổi tiếng, vì mưa nên mây mù che lấp màu sắc rực rỡ của những ngày nắng tốt. Như một người con gái đẹp mang nhiều sắc áo, dù cho "mưa nhiều hay rất nắng" [3] tạo hóa dường như đã ban cho vùng đất nầy một ưu đãi đặc biệt. Trong vòm trời mù mưa, tôi lại thấy phong cảnh ở đây gợi lên một hình ảnh rất đậm chất Đông Phương [Hình 5]. Hình 4: Đầu cây trăm ngọn suối Hình 5: Milford Sound, một bức tranh thủy mặc Buổi chiều cùng ngày chúng tôi đến Queenstown. Nhìn từ xa, thị trấn tọa lạc theo đúng một vị trí mà các thầy phong thủy địa lý sẽ cho là "sơn hoàn thủy bão" (núi vây quanh, nước bao bọc). Có lẽ vì vậy mà vận khí của Queenstown lúc nào cũng rất là hưng vượng! Đây là một thị trấn du lịch nổi tiếng, gần đây lại nổi tiếng hơn vì là nơi được dùng làm bối cảnh trong phim "Lord of the Rings". Anh phục vụ khách sạn còn cho tôi biết thị trấn nầy là nơi chiếu phim của những đoàn làm phim quốc tế, nhất là các đoàn phim Bollywood (phim Ấn Độ sản xuất tại Bombay) chuyên làm phim tình cảm ướt át "cà-ri" đã lợi dụng phong cảnh nơi đây hàng chục năm nay. Queenstown hấp dẫn du khách quốc tế vì sông nước hữu tình, trước mặt là hồ xung quanh là núi, cũng là nơi trượt tuyết lý tưởng và có nhiều trò chơi mạo hiểm cho những người trẻ tuổi (hay trẻ trong con tim!) như bungy jump, gliding, kayak hoặc ngồi trên những chiếc thuyền phản lực lướt và quay vòng trên con sông hẹp [Hình 6] với vận tốc 85 km/h.... Hình 6: Shotover river Thị trấn không hơn 20.000 dân nhưng mỗi ngày ở những con phố chính xuất hiện hàng ngàn khách nhàn du. Những phục vụ viên tại các gian hàng bán đồ kỷ niệm phần lớn là người Nhật. Nghĩ lại thì cũng là điều tự nhiên vì lượng du khách Nhật Bản rất đông đảo. Điều ngạc nhiên là ở cái vùng sâu tỉnh lẻ nầy lại xuất hiện một nhà hàng Korean - Vietnamese! Tấm biển hiệu tiệm còn đề chữ "Hanoi" để quảng cáo cái thuần túy Việt Nam, hấp dẫn khách hàng. Thông thường, thức ăn Chinese thì đi đôi với Vietnamese; Japanese thì với Korean. Cái tréo cẳng ngỗng nầy làm tôi nghĩ đến những mối tình Hàn Việt. Dù sao tôi cũng mừng rỡ trong cái tình cảm "tha hương ngộ cố nhân". Chúng tôi đi vào kêu một tô phở, định bụng ăn ngon thì buổi tối trở lại ăn tiếp. Ông chủ Hàn đon đả chào khách, tôi làm quen hỏi nhỏ "Tôi thấy cửa hiệu đề chữ Hanoi, bà xã ông là dân Hà nội à?", "Ồ.... không. Người Hàn như tôi ấy!". Hơi thất vọng, tôi hỏi tiếp "Sao lại biết nấu đồ Việt?", ông ta xuề xòa "À... bà ấy học nấu phở từ một người bạn Việt Nam hồi chúng tôi còn ở Auckland đấy". Tôi hoang mang. Sau đó ông mang ra một đĩa giá và một miếng chanh. Tạm được. Rồi sau đó ông mang tô "phở" phảng phất mùi kim chi, có vài miếng thịt bò và.... một miếng cải bẹ xanh. Đổ nợ. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy tô phở Việt Nam bị biến hóa một cách thê thảm đến thế! Ngày hôm sau, chúng tôi viếng một "Thảo cầm viên". Anh bán vé trông có vẻ như dân Maori. Tôi mua vé và dần dà bắt chuyện "Anh là người Maori?", "Vâng". Tôi nói tiếp "Tôi đi lòng vòng từ Christchurch đến Queenstown mấy ngày nay, mà anh là người Maori đầu tiên tôi gặp. Đồng bào Maori đâu cả rồi?", "Ồ! Chúng tôi chỉ có nửa triệu người trên toàn quốc, phần lớn lại ở Đảo Bắc", "Vậy anh từ Đảo Bắc đến đây làm việc à?", "Vâng. Tôi học khoa kinh tế ở Massey University tại Auckland, đến đây làm "part time" kiếm chút tiền cho qua kỳ hè", "À... xin lỗi anh. Anh có nói được tiếng Maori không?". Anh ta tươi cười trả lời "Đương nhiên rồi". Ở đây nuôi những loại chim đặc thù của New Zealand gồm cả con kiwi, lại có một show văn hóa của người Maori. Con kiwi in trên những hộp sáp đánh giày tôi biết từ lúc nhỏ. Tôi ngỡ là to lắm nhưng thật ra chỉ bằng con gà, sống về đêm. Con kiwi có râu lún phún như râu mèo, di động rất nhanh nhưng không biết bay, đẻ một lần một trứng độc nhất, rất to tương đương với 1/4 trọng lượng của mình. Người New Zealand còn được gọi là "Kiwi" và họ rất tự hào với cái nickname nầy. Đi một vòng "Thảo cầm viên", chúng tôi trở lại xem show. Cái ban văn nghệ Maori chủ trì cuộc show có hai nam hai nữ, gồm cả anh bạn bán vé vào cửa. Anh bây giờ trần như nhộng, mặc cái váy cỏ cùng các bạn đồng nghiệp giơ tay dậm chân, thè lưỡi trợn mắt, không khác nào ông kẹ Việt Nam, đồng thanh la hét, nhưng nhịp nhàng bài bản, biểu diễn "vũ khúc" Haka [Hình 7]. Phải nói "võ khúc" thì đúng hơn, vì đây một kiểu nhảy truyền thống nâng cao sĩ khí giết giặc trước khi lâm trận của các chiến sĩ Maori. Haka dance bây giờ trở thành một điệu nhảy mở màn các trận đấu của đội rugby New Zealand "All Blacks". Hình 7: Haka dance Hai ngày tại Queenstown, trời mưa tầm tả, trời mưa mênh mang. Lúc đến, rặng Remarkables, nơi dùng làm bối cảnh trong "Lord of the Rings", chỉ là một dãy núi đá cằn cỗi không gì đặc biệt. Hai ngày mưa làm nhiệt độ hạ thấp, chỉ trong một đêm tuyết phủ trắng đầu núi tạo ra những đường vân bạc ngoằn ngèo gân guốc, biến rặng Remarkables thành một hình ảnh hùng vĩ lúc ẩn lúc hiện trong những đám mây vần vũ. Tuyết rơi đầu hè làm những dịch vụ văn hóa, du lịch sôi động hẳn lên. Ven những quốc lộ các đoàn làm phim không bỏ lở cơ hội tác nghiệp quay vội những thước phim của những ngày hè có tuyết. Không thiếu gì những khách du lịch như chúng tôi phải dừng xe lại ven đường đua nhau bấm máy hình chụp nhiều cảnh sắc mùa hè xen kẻ mùa đông. Những đám hoa dại lupins mùa hè nở thật đẹp bên đường, bên dòng nước [Hình 8], tương phản với rặng núi xa xa vừa được tuyết phủ đêm qua. Hình 8: Hoa lupins Từ Queenstown, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đến Vườn Quốc Gia Aoraki Mount Cook. Ở đây nổi tiếng nhờ ngọn Mount Cook cao nhất New Zealand (3754 m) và băng hà Tasman. Cô phục vụ trong khách sạn Queenstown bảo chúng tôi từ đây đến đó khoảng 250 km, con đường đơn điệu không có gì đặc biệt. Cô ta đã cho một thông tin rất sai lầm, hoặc đây chẳng qua là cái hội chứng "cảnh đẹp nhìn mãi cũng nhàm"! Thật ra con đường đến Mount Cook dẫn lên độ cao 700 m, đi dọc theo bờ hồ Pukaki là con đường tuyệt mỹ. Những dãy núi tuyết phân chia màu xanh của bầu trời và màu xanh biếc của mặt hồ tạo nên một hình ảnh cực kỳ diễm lệ [Hình 9]. Nước của hồ là do sự tan chảy của băng hà Tasman và những băng hà lân cận nhỏ hơn. Màu xanh ngọc bích của hồ gây ra bởi sự tán xạ của ánh sáng từ những bột đá do băng hà bào mòn. Băng hà Tasman lớn nhất, dài 29 km có nơi rộng hơn 3 km và dày 600 m. Băng hà là những dòng băng vĩnh cữu. Nhưng trước sự hâm nóng toàn cầu liệu những dòng băng nầy vẫn còn mãi mãi với thời gian? Hình 9: Hồ Pukaki Chúng tôi trở lại Melbourne trên một chuyến bay buổi sáng từ Christchurch. Chiếc phi cơ bay qua những rặng núi trùng trùng điệp điệp phủ đầy tuyết của cơn tuyết trái mùa. Bầu trời hôm đó rất quang đãng. Những tia sáng của ánh mặt trời bình minh phản chiếu lấp lánh từ những ngọn núi tuyết xa xa. Lòng tôi hơi chùn lại, có cuộc giã từ nào mà không khỏi bâng khuâng, nhất là khi phải giã từ một địa đàng kiều diễm xinh tươi để trở về một đại lục già nua cằn cỗi. Mùa Giáng sinh 2006 TVT Ghi chú: 1. Đường thi của Lý Bạch, "Núi xanh hai bên bờ đối diện cao vút". 2. Đường thi của Vương Duy, "Trong núi một đêm mưa. Đầu cây trăm ngọn suối". 3. "Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng" (Nguyên Sa)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:27:57 GMT 9
Hành trình về miền Viễn Tây nước Úc Trương Văn Tân Khi nói đến châu Úc, hình ảnh nhà hát Opera House và gần đó cây cầu Harbour Bridge của thành phố Sydney sẽ là những biểu trưng của xứ kangaroo "miệt dưới" (down under). Về thiên nhiên, người ta liên tưởng ngay những bãi biển cát trắng dài hàng chục cây số hay dãy san hô nằm trong lòng biển dài hàng ngàn cây số của tiểu bang Queensland. Tất cả những biểu trưng và kỳ quan này đều nằm bên bờ Đông Úc Đại Lợi. Nhìn vào bản đồ châu Úc, bên bờ Tây có một "tiểu" bang rất to chiếm hơn 1/3 tổng số diện tích toàn nước Úc. Đó là Western Australia (WA). Nó tiếp giáp với Ấn Độ Dương, dồi dào tài nguyên nhưng không thu hút được nhiều chú ý, nằm im lìm như chìm trong quên lãng. Chúng tôi bay từ Melbourne đến Perth. Perth là thủ phủ của miền Viễn Tây rộng lớn, được xây dựng hướng về Ấn Độ Dương lộng gió và dọc theo con sông Swan êm đềm. Tính theo tỷ số đầu người, có lẽ đây là một thành phố nhiều triệu phú và tỷ phú nhất nước Úc nhờ vào việc khai thác những tài nguyên thiên nhiên như kim loại và dầu khí. Nhưng mục đích của chúng tôi không phải để khám phá một thành phố khác do người Anh thuộc địa xây cất, mà theo đường bộ lái xe từ Perth đi dọc theo bờ Tây tiến về phía Tây Bắc để tìm hiểu những kỳ quan và tài nguyên ẩn tàng trong một khu vực rộng lớn, một nơi thậm chí có rất nhiều người Úc chưa bao giờ đặt chân tới trong suốt cuộc đời của họ. Vườn Quốc gia "Đỉnh tháp nhọn" Quốc lộ số 1 là một con đường vòng vĩ đại dọc theo bờ biển toàn châu Úc dài hàng chục ngàn cây số nối kết các thành phố chính ven bờ. Dù được gọi là Quốc lộ số 1, nhưng con đường thiên lý dọc theo bờ Tây châu Úc đi ngang nhiều Vườn Quốc gia (National Parks) và những vùng cực kỳ hoang dã. Có những đoạn đường thẳng tắp dài hàng trăm cây số tưởng chừng như tiếp giáp với đường chân trời. Người lái chỉ cần cài bộ phận có chức năng "cruise control", giữ vững tay lái, cơ hồ có thể nhắm mắt chạy theo một đường thẳng. Dọc hai bên đường là những bụi lau, các loại cây thấp mọc lưa thưa, tạo một cảnh quan đơn điệu giống nhau, lập đi lập lại một cách nhàm chán trên con đường chúng tôi đi qua gần 4000 cây số. Ở đây, không nhà cửa, không một bóng dáng con người. Thỉnh thoảng những con kangaroo to cao từ trong lùm bụi phóng chạy qua đường, đàn bò năm ba con đi hoang của một đồn điền chăn nuôi (cattle station) xa xôi nào đó, ngang nhiên đứng giữa lộ trố mắt nhìn trời, hay những con emu (đà điểu Úc) kiếm ăn lẩn quất, khi thấy bóng xe nhanh chân chạy thoắt vào bụi. Lại thêm những đám dê rừng lác đác hai bên đường. Những con dê này là hậu duệ của những đàn dê nhà đi lạc vào những thảo nguyên mênh mông dần dần biến thành dê rừng. Những cú thắng gấp để tránh những con vật đứng giữa xa lộ ngơ ngác nai vàng hay tùy tiện băng ngang đường, dù ngoài ý muốn nhưng cũng đủ làm giảm bớt cái đơn điệu của con đường thiên lý. Nhìn những xác chết của những con kangaroo hay con bò xấu số bị xe đụng và vết thắng của bánh xe in trên mặt đường đủ cho thấy cái nguy hiểm trên con đường độc đạo (Hình 1). Hình 1: Bảng đường cảnh báo. Trạm dừng chân đầu tiên cuả chúng tôi là Vườn Quốc gia "Đỉnh tháp nhọn" (The Pinnacles). Hàng chục ngàn đỉnh nhọn đá vôi "mọc" lên trong một vùng sa mạc cát vàng được hình thành bởi gió cát tạo ra sự mài mòn trong vài trăm triệu năm làm nên những cột đá với đường kính lớn nhỏ đủ kích cỡ, cao thấp khác nhau. Có cột cao hơn 5 m, có cột thấp hơn 5 tấc (Hình 2). Người ta có thể lái xe đi vào để chiêm ngưỡng các tác phẩm điêu khắc của thiên nhiên. Những cột đá thẳng đứng ngộ nghĩnh này hùng dũng chĩa thẳng lên trời làm tôi liên tưởng đến "linga", một biểu tượng linh thiêng của đạo Hindu trong quần thể Angkor tại Campuchia. Người Campuchia thời trung cổ từng đục đẽo hàng ngàn biểu tượng linga dưới đáy một dòng suối để tỏ lòng sùng bái "nguồn cội" của muôn loài. Dường như tạo hóa đã đặt "Đỉnh tháp nhọn" nhầm chỗ. Tại sao không phải ở xứ Ấn hay Campuchia mà lại ở xứ sa mạc cát vàng hoang vu không ai lui tới? Cứ tưởng tượng một rừng "linga" bằng đá thiên nhiên này nếu xuất hiện ở Ấn Độ chắc có lẽ sẽ có hội hè linh đình hằng năm như lễ tắm trên sông Hằng với các guru ngồi thiền huyền bí... Hình 2: Cột đá "linga". Di sản Thế giới "Shark Bay" Càng đi về phía bắc cái nóng nhiệt đới dần dần thay thế và đẩy lùi hơi hướm mùa xuân của miền nam ôn đới. Các rặng núi đá với những phiến đá trầm tích có nhiều hình thù lạ mắt nhưng vô cùng hùng vĩ. Ở một địa điểm được gọi là cánh Cửa sổ của Thiên nhiên (Nature's Window) (Hình 3), xuyên qua một cấu trúc đá trầm tích người ta có thể nhìn thấy một dòng sông nhỏ ở vực sâu bên dưới, lững lờ chảy về biển xa xa mang màu xanh ngọc bích với từng đợt từng đợt những ngọn sóng bạc đầu. Cái hùng vĩ thiên nhiên mang thêm chất huyền bí khi các nhà địa chất học khẳng định cái lằn ranh đi ngang bờ vực đá đã từng là mặt nước của dòng sông nhỏ bé kia vài trăm triệu năm trước. Quay lại thời thái cổ xa xăm, dòng sông này quả thật to lớn, địa cầu của chúng ta đang dần dần mất nước hay là đã có cuộc Đại Hồng thủy dâng cao nước biển mà Noah đã phải gấp rút đóng thuyền? Hình 3: Cửa sổ của thiên nhiên và dòng sông. Cách địa điểm này vài trăm cây số là khu vực Di sản Thế giới "Shark Bay" (Vịnh cá mập) với bãi biển cát trắng dài vô tận không một bóng người, được tiếp nối với những vách đá thẳng đứng, sừng sững với thời gian (Hình 4). Không biết cái tên "Shark Bay" từ đâu tới, nhưng vùng biển khơi hoang vu này không phải chỉ có loài cá mập mà còn là nơi tập hợp của những động vật biển khác như cá voi, cá heo, cá nược (dugong) sinh sống tìm mồi. Shark Bay là vịnh đi sâu vào đất liền tạo thành một cái "đầm" khổng lồ. Vì vậy độ muối của biển trong vùng vịnh cao hơn nước biển bình thường. Những gì khác lạ hơn cái bình thường, thường đưa đến những hệ quả nhiều ngạc nhiên. Các loại vi khuẩn có tên chung là "cyanobacteria" của thuở khai thiên lập địa vài tỷ năm trước vẫn còn sinh sống trong vùng. Loại vi khuẩn này là sinh vật đầu tiên xuất hiện trên quả đất và những hoạt động sinh học của chúng đã tạo ra khí oxygen làm nên khí quyển. Đây là nơi duy nhất trên địa cầu còn mang dấu tích của loài vi khuẩn của một thời mông muội hoang sơ. Sự hiện diện của chúng là lý do chính mang đến cái vinh dự "Di sản Thế giới" cho vùng Shark Bay. Vi khuẩn tập hợp trên những tảng đá trên bờ biển làm nên những mảng rong đen đúa không một chút thẩm mỹ, có lẽ chỉ hấp dẫn các nhà nghiên cứu sinh vật hay khảo cổ (Hình 5). Hình ảnh quả địa cầu của thời thái cổ vài tỷ năm trước được bao phủ bởi các mảng rong chứa khuẩn "cyanobacteria" đen xám xấu xí - tổ tiên của muôn loài - đến hình ảnh của quả địa cầu xanh tươi nhiều màu sắc và cực kỳ đa dạng ngày nay, không khỏi cho ta một cảm khái trước tài năng sáng tạo cuả Mẹ thiên nhiên. Hình 4: Một vùng biển ở Shark Bay. Hình 5: Mảng rong trên đá chứa vi khuẩn tồn tại từ thời tiền sử. Chúng tôi qua đêm trong một Caravan Park ở thị trấn Carnarvon hiền hòa nằm bên bờ đại dương lộng gió. Một trăm năm trước, đây là một cái cảng nhỏ người Anh dùng để di chuyển gia súc trong nội địa đến thủ phủ Perth cách 1500 km về phía nam bằng tàu thủy, rồi từ đó chở sang mẫu quốc Ăng-lê. Ngày nay Carnarvon có gia tăng dân số nhưng vẫn không quá 7000 người. Cái tên Carnarvon không thấy trên bản đồ thế giới nhưng lại là một viên ngọc ẩn tàng của vùng Tây Bắc nước Úc. Tôi lơ ngơ, tò mò hỏi cô quản lý trẻ ở Caravan Park, "Thị trấn này nhỏ ở cạnh bờ biển thời tiết mát mẻ nhưng sao ít cư dân vậy, chắc là không có gì đặc biệt để hấp dẫn du khách?". Cô ta trả lời, "Ồ...ông không biết gì à! Thị trấn này quanh năm nhiệt độ khoảng 25 °C, bốn mùa đều là mùa Xuân, ít mưa. Dân ở đây phần lớn là người cao niên nghĩ hưu ở các nơi tập trung về đây sống an nhàn đến cuối đời". "Bốn mùa đều là mùa Xuân", nghe sao quen tai. Thủ phủ Côn Minh của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) được quảng cáo rầm rộ là nơi có "bốn mùa Xuân", nhưng Carnarvon khiêm tốn hơn, mai danh ẩn tích, không muốn người ngoài đến khuấy động cuộc sống êm đềm như những làn gió nhẹ thổi qua thị trấn mỗi ngày. Cô quản lý cho thêm thông tin, "Khách du lịch à? Tại ông không thấy thôi, họ là những người du lịch "ba lô" trong thị trấn này làm việc "part time". Tôi cũng là một khách du lịch có "working visa"[1] được phép làm việc kiếm tiền tại Úc". Bây giờ, tôi mới nhận ra chất giọng người Anh của cô. "Tôi đi nhiều nơi mới tìm ra thị trấn sống lý tưởng như nơi này. Có lẽ tôi tìm cách ở luôn tại Carnarvon". Tôi hỏi, "Cô muốn về hưu non à!?", cô nhoẻn miệng cười không trả lời. Vườn Quốc gia Cape Range Con đường tiến về phiá bắc vẫn đơn điệu. Khi chúng tôi vượt qua Đông Chí Tuyến (Tropic of Capricorn) [2], những tia nắng mặt trời trở nên gay gắt. Chúng tôi đến thị trấn nhỏ tên là Exmouth vào một buổi trưa nắng gắt nhiệt đới. Nơi đây là cái góc nơi gặp nhau bờ biển phía Tây và bờ biển phía Bắc của châu Úc. Vì địa thế chiến lược quân sự, vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Mỹ và Úc thiết lập những đài ăng-ten cao tương đương với tháp Eiffel của Pháp để liên lạc với tàu ngầm của phe ta và theo dõi tàu ngầm của phe địch. Thị trấn nhỏ này được thành lập vì nhu cầu sinh sống của những người Mỹ làm việc tại đây. Sau khi người Mỹ rút lui, thị trấn trở nên trung tâm của Vườn Quốc gia Cape Range với bãi biển cát trắng kéo dài lẫn trong màu xanh ngọc bích của biển. Vùng biển phía Tây và Tây Bắc nước Úc là những vùng biển tinh khôi, hoang vu ít tàu bè quốc tế qua lại. Đất lành chim đậu. Những đàn cá voi khổng lồ có tên là "whale shark", loại to và dài nhất của loài cá, tụ tập về đây tìm mồi sinh sôi nảy nở, đồng thời tạo công ăn việc làm cho dân địa phương với dịch vụ chở khách ra ngoài khơi xem đàn cá phì phèo phun nước, phóng lượn trên không. Chúng tôi theo một đoàn du khách lên chiếc du thuyền ra khơi để nhìn đàn cá. Dịch vụ du thuyền khá phổ biến và tấp nập khách nhàn du. Với cái giá $65 mỗi người, chủ tàu đảm bảo sẽ nhìn thấy cá, nếu không thấy cá thì lần sau trở lại sẽ được đi cho không, miễn phí! Cái kiểu quảng cáo "trớt quớt", có bao người du khách trở lại lần hai?! Cách bờ biển vài cây số, mặt biển yên tĩnh như mặt hồ và đàn cá cũng tấp nập không kém số người xem. Những người Tây phương điệu nghệ, mang theo vài chai rượu vang nhâm nhi từng ngụm nhỏ với các món nhắm như phô-mai, trái ô-live, con hào, bánh quy lạt được chủ tàu cung cấp, vừa nhìn hoàng hôn bừng đỏ cả bầu trời, vừa ngắm nhìn đàn cá phóng lượn. Tôi ngồi im lặng nhìn đàn cá vừa đủ chán để lấy "vốn" lại, rồi tôi quay sang nhìn người. Một cặp trai gái trẻ người Úc dường như mới quen nhau qua... internet, nên vẫn còn e dè "tương kính như tân". Người bạn trai chỉ trỏ ra vẻ sành đời, giải thích đủ chuyện trên trời dưới đất cho người bạn gái. Thỉnh thoảng anh ta quay sang nói chuyện với tôi, rủ rê ngày mai cùng đi snorkelling [3]. "Vùng biển này có nhiều san hô tuyệt đẹp. Không đi snorkelling nhìn san hô thì đến đây chỉ phí tiền ông ạ!", anh ta bảo. "Hai anh chị đang đi tuần trăng mật à...?", tôi giả vờ ngây thơ hỏi chuyện. Cô con gái đỏ mặt cười toe, anh con trai phủi tay như phủi ruồi đính chính, "Không, không... làm gì có chuyện đó. Ông nhìn sao mà nghỉ vậy? Mới biết nhau thôi mà...". Hai đàn ông người Anh, một già một trẻ, giống nhau như đúc, có lẽ cha con. Ông con cầm cái máy chụp ảnh to đùng hướng về đàn cá bấm máy liên tục, người cha ngồi yên nhìn thẳng không màng đến đàn cá ngoài khơi, cũng chả màng ăn uống, thỉnh thoảng cười bâng quơ. Hai ba anh tiếp viên chiếc du thuyền mang ra những cái đĩa to đầy ắp tôm luộc, đặc sản của Exmouth. Đây là phần ẩm thực bao gồm trong cái giá $65. Đám du khách nhanh chân ngồi quanh những cái đĩa, miệng nhai tay bóc vỏ. Một bà người Đức ăn không kịp thở, ăn không ngượng ngùng, ăn như chưa từng bao giờ thấy tôm, "kiên trì" trước cái đĩa tôm từ đầu đến cuối. Ánh hoàng hôn lặng lẽ buông xuống trên đường chân trời xa tắp, tiếp giáp với vùng biển xám nhấp nhô những đợt sóng phản chiếu tia nắng vàng trên bầu trời bảng lãng những vầng mây ửng đỏ (Hình 6). Một thiếu phụ trẻ đẹp nước da rám nắng, tay cầm ly rượu, ngồi xuống bên cạnh chúng tôi, tươi cười bắt chuyện, "Tôi là Janet, ông bà từ đâu tới? Singapore hay Nhật Bản?". "Không. Chúng tôi đến từ Melbourne, còn cô?", tôi hỏi. "Ồ... tôi là dân địa phương làm ăn ở đây. Tôi có một cửa hiệu nhỏ bán quần áo và dụng cụ snorkelling ở trung tâm shopping Exmouth đấy. Hôm nay, đóng cửa sớm dẫn mấy đứa nhỏ và rủ hai cô bạn cùng đám con ra biển khơi chơi cho thoải mái. Chúng tôi đều là mẹ độc thân!", cô cười cười nói nói. "Ông bà thấy đó, ở đây chả có gì ngoài biển và bờ biển. Bờ biển đẹp lắm. Ngày mai, ông bà có thời gian đến Sandy Beach tắm biển thì tuyệt vời. Những động vật biển như đàn cá voi kia, xem mãi cũng nhàm. Chỉ có cái này mới vui...". Cô chỉ ly rượu vang, rồi uống nốt ngụm cuối cùng. Tôi bình phẩm ở vùng Tây Bắc này cuộc sống quá chậm, người ta đi đứng như cuốn phim quay chậm, cung cách phục vụ khách hàng tốn thời gian dài gấp đôi; có phải vì thời tiết quá nóng hay con người ở đây bất cần thời gian? Cô gật gù đồng ý, "Tại ông không biết đấy chứ. Chữ viết tắt WA của bang Western Australia còn có nghĩa là "wait awhile" (đợi một lát nghen). Còn chữ Ex của Exmouth có nghĩa là extra. Vì vậy, ở đây phải "extra wait awhile" (đợi thêm một lát nghen)". Nói xong, cô ta nheo mắt cười xòa. Hình 6: Hoàng hôn trên biển. Trời sụp tối. Sau gần hai tiếng đồng hồ lênh đênh trên biển, chiếc tàu nổ máy, tăng tốc quay về bờ. Mọi người trong đoàn lục tục đi xuống bến, từ giã nhau. Janet nói vói theo, "Nhớ đi Sandy Beach nhé!". Tôi vẫy tay chào rồi quay sang nói với anh bạn trẻ có cô bạn gái mới quen, "Rất tiếc là không đi snorkelling với anh ngày mai được. Chúc hai anh chị đêm nay ngủ ngon và nhiều dzui dzẻ nhé". Anh ta hiểu ý, đưa một cánh tay lên co lại như màn biểu diễn cơ bắp của Mr. Universe, khoái chí nhe răng cười... Sáng hôm sau, chúng tôi lái xe xem mũi đất của cái góc chiến lược Tây Bắc của đại lục Úc, cũng là điểm khởi đầu của Vườn Quốc gia Cape Range, được tiếp nối bởi những bãi biển kể cả bãi Sandy Beach của người đẹp "mẹ độc thân" Janet. Bờ biển đầy cát trắng, những bãi cát trắng như tuyết kéo dài không dứt, lung linh dưới ánh sáng mặt trời (Hình 7). Cát ở đây cơ hồ có thể nấu chảy thành thủy tinh mà không cần phải qua một quá trình tinh luyện. Cảnh vật như bất động nếu không có vài người lác đác đang lặn hụp xa xa, hay những làn gió nhẹ làm xao động những bụi cỏ màu xanh nhạt, thỉnh thoảng xuất hiện những con cắc kè sa mạc vụt đứng vụt chạy, dáo dác tìm mồi. Hình 7: Sandy Beach.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:30:13 GMT 9
Pilbara: quặng sắt và thiên nhiên Quá trưa, chúng tôi từ giã bờ Tây xứ Úc, đổi về hướng đông đi vào nội địa tiến về vùng Pilbara. Trung tâm của vùng Pilbara là Vườn Quốc gia Karijini và khu vực khai thác quặng sắt Hamersley. Càng đi sâu vào nội địa, nắng càng gay gắt, cảnh quan càng hoang vu. Ở phía nam, bây giờ là tiết Xuân nhiệt độ 20 °C ôn hòa. Ở đây, nhiệt độ vượt hơn 40 °C. Máy lạnh của chiếc xe phải hoạt động tối đa. Các sinh hoạt của "sân sau" outback của nước Úc hiện rõ. Trên con đường thiên lý không một bóng xe, lâu lắm mới có vài chiếc "road train" ngược xuôi chở hàng hóa, thực phẩm, nhiên liệu cho các vùng sâu, hay bò cừu đến những bến cảng đi xuất khẩu. "Road train" là những chiếc xe tải siêu hạng, một phương tiện chuyên chở quan trọng và hiệu quả của vùng outback, kéo một lúc 3 chiếc rờ-mọt có chiều dài tổng cộng gần 60 mét. Việc dự trữ xăng cho xe và nước uống rất quan trọng khi lái xe trên những con đường này. Những trạm xăng thường cách nhau 150 -250 cây số. Đây không phải là những trạm xăng thông thường mà là "road house" (nhà bên đường) cung cấp xăng dầu, thức ăn, chỗ tắm rửa và qua đêm. "Road house" phải tự cung cấp nước từ những mạch nước ngầm và điện từ các máy phát điện. Chúng tôi tạm trú tại một "road house" giữa đường đi đến Karijini. Nhân viên của "road house" ở giữa chốn đồng không mông quạnh này là hai cậu người Anh thuộc nhóm Tây ba lô với "working visa" lang bang rày đây mai đó. Vừa mở cửa bước xuống xe, hơi nóng từ bên ngoài hắt vào như đứng trước một lò lửa. Tôi vừa nhận chìa khóa phòng vừa than phiền, "Trời nóng như thế này thì còn làm ăn nỗi gì?". Anh nhân viên vừa cười, vừa "triết lý", "Thời tiết nóng như thế này thì đã như vậy từ 20 triệu năm qua rồi ông ạ! Ở chốn này, từ thời tiền sử đến giờ vẫn y chang, không gì thay đổi". Tôi bật cười trước cái dí dỏm nhưng chính xác của anh chàng Ăng-lê, "Tại sao anh không chọn chỗ nào thoải mái làm việc như đồng hương của anh tôi gặp ở thị trấn Carnarvon đấy?". Anh ta phân trần, "Ông biết không, bên Anh rét mướt, trời u ám luôn. Nên hai đứa tôi ước mơ chọn một nơi ấm áp làm việc vài tháng kiếm thêm chút tiền, nào ngờ ở đây trời quá nóng không thích hợp với bọn xứ lạnh chúng tôi. À... mà nói nhỏ cho ông nghe, tụi tôi phải rời khỏi nơi này trước khi mùa Hè ập tới, nghe đâu nhiệt độ lên sẽ đến 50 °C. Hai tuần nữa tụi tôi sẽ dzọt đi Singapore trở về với văn minh". Vừa nói anh ta vừa rón rén ngoái cổ nhìn phía sau nhà bếp nơi bà chủ với cái dáng người phốp pháp trông khó tính đang làm việc. Nhận xong chìa khóa chúng tôi đi về hướng các dãy "phòng". Trong cái oi bức của nắng chiều, bụi đất thỉnh thoảng bị những ngọn gió nóng thổi tung lên mù mịt, chúng tôi nhìn nơi qua đêm, rồi nhìn nhau mà lắc đầu ngán ngẫm. Căn "phòng" qua đêm có vẻ như là một container chứa hàng xuất khẩu được tân trang thành phòng ngủ. Nó như một nhà tù 3 x 3 m không cửa sổ, vừa đủ để hai cái giường đơn, một cái tủ lạnh mini, một cái máy lạnh trên vách. Trong cuộc đời du lịch bụi, tôi chưa từng gặp một căn phòng nào thê thảm như thế này với giá cắt cổ $80/đêm. Pilbara là một vùng đất có diện tích rộng hơn 400.000 km2, to hơn cả nước Việt Nam. Tài nguyên chính ở đây là quặng mỏ, nhất là quặng sắt lộ thiên. Phía bắc Pilbara là một vùng biển rộng lớn chứa các mỏ dầu khí quan trọng. Gần đây, Trung Quốc vừa ký kết với chính phủ Úc mua khí đốt trong khu vực này trị giá vài chục tỷ đô la. Pilbara quả là nơi của "rừng vàng biển bạc". Hãy tưởng tượng một vùng đất tương đương với nước Việt Nam, từ đông sang tây, từ bắc chí nam chỉ chứa toàn quặng sắt và nhiều quặng kim loại khác. Có đến nơi này mới nhìn thấy đất nước Úc cực kỳ giàu có. Đất trong vùng Pilbara có màu đỏ sậm biểu hiện sự tồn tại của sắt, vì quặng sắt thường ở dạng oxit sắt màu đỏ. Oxít sắt có từ tính thì ở dạng màu đen. Nói chính xác hơn, quặng sắt là quặng oxít sắt. Người ta tinh luyện oxít sắt ở nhiệt độ cao biến oxít thành sắt ròng. Phần lớn quặng sắt ở Pilbara là quặng lộ thiên. Nó hiển hiện ngay trước mắt mọi người. Đó là những cục đá, phiến đá màu đỏ xen lẫn màu đen lấp lánh nằm lăn lóc dọc theo quốc lộ, trên những con đường mòn đi vào các địa điểm tham quan du lịch, hay là những tầng trầm tích trên vách núi, dưới vực sâu, trong dòng suối... (Hình 8 và 9). Hình 8: Một quả đồi bị cắt để làm đường, lộ ra các trầm tích oxít sắt. Hình 9: Con đường mòn màu đỏ chứa oxít sắt . Khu vực Hamersley là trung tâm khai thác mỏ sắt chất lượng cao nổi tiếng thế giới, kế cận là Vườn Quốc gia Karijini cũng lừng danh không kém với các kỳ quan thiên nhiên. Hơn nửa thế kỷ qua kể từ ngày khai thác quặng mỏ với quy mô lớn trong vùng Hamersley, sự cân bằng giữa việc khai thác quặng mỏ, nền kinh tế quốc gia, việc bảo vệ môi sinh, bảo tồn di sản thiên nhiên và văn hóa người Aborigine [4] không đâu rõ nét hơn qua sự tương quan giữa Hamersley và Karijini. Chính phủ Úc và chính quyền tiểu bang Western Australia đã rất thành công trong việc giữ cán cân thăng bằng giữa lợi ích kinh tế quặng mỏ trước mắt và lợi ích lâu dài trong việc bảo tồn thiên nhiên và văn hóa. Những kinh tế gia lý thuyết, những lý luận gia chính trị, những nhà lập pháp, đại biểu quốc hội, thậm chí các nhà lãnh đạo cầm cân nẫy mực "đầy tớ của nhân dân", nên chịu khó đặt chân đến chốn này để nhìn thấy tận mắt sự hài hòa giữa việc khai thác quặng mỏ và việc bảo tồn văn hóa và môi sinh. Tiền đầu tư của các tập đoàn khổng lồ như BHP Billiton, Rio Tinto đổ vào cho việc khai thác quặng sắt đã biến vùng khỉ ho cò gáy này, một trong những vùng hoang dã nhất trên quả địa cầu, thành những ốc đảo vô cùng trù phú. Tập đoàn lớn kéo theo hàng loạt công ty con làm những công trình ngoại biên như xây dựng, chuyên chở, thủy lợi, ẩm thực, tạo ra luồng sinh khí thu hút dân tứ xứ về đây lập nghiệp. Những thị trấn hậu cần như Tom Price hay Newman với dân số không quá 3.000 mọc lên để đáp ứng nhu cầu ăn ở, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa của gia đình nhân viên và công nhân quặng mỏ. Tôi tò mò tìm hiểu thêm cuộc sống người dân qua những tờ báo địa phương và không khỏi bị hoa mắt trước trị giá của các bất động sản. Một căn nhà 3 phòng ngủ rất bình thường có giá bán $700.000 - 800.000. Đẹp hơn một chút thì phải hơn một triệu đô. Gấp đôi những căn nhà có phẩm chất tương đương ở các thành phố lớn như Sydney và Melbourne. Tiền thuê nhà cao hơn các thành phố gấp 5 lần với giá trung bình $1.500 - 2.000 cho một tuần. Tôi ngỡ nhà báo in sai, hỏi một người địa phương thì mới biết đó là giá công ty (corporate rate) thuê cho nhân viên. Ngoài ra, đồng lương của một nhân viên lao động với tay nghề bình thường là $2.000 - 3.000/ tuần, cao hơn lương kỹ sư hay chuyên viên tin học cao cấp trong thành phố. Nhà ở đã có công ty chăm lo, công nhân ôm trọn gói tiền lương trừ đi khoản chi phí ăn uống, cứ làm việc mỗi 4 tuần thì sẽ được nghỉ 1 tuần và lại được công ty cho phụ cấp để bay về quê quán. Ô... đây quả thật là thiên đường của nền kinh tế thị trường có "định hướng xã hội chủ nghĩa"! Nhưng tiếc thay, đây không phải là thiên đường vui chơi. Một nhân viên quặng mỏ than thở với tôi, "Ông à! Chốn này chán lắm. Độc thân như tôi không tìm được bạn gái ở đây. Không có con gái, bạn ơi, không có gái!" (nguyên văn: no girls here, mate, no girls). Vườn Quốc gia Karijini Vườn Quốc gia Karijini nổi tiếng với vực sâu và hẻm núi (gorge). Những hẻm núi giao nhau tạo ra những vực sâu thăm thẳm, làm lộ ra vách núi màu đỏ rực trong ánh nắng ban mai (Hình 10). Dưới đáy vực đen ngòm là dòng suối nhỏ lấp lánh như muốn reo vui chào đón những tia sáng hiếm hoi của mặt trời. Từ trên đỉnh cao nhìn xuống, dưới chân là những con hạc trắng bay thành đàn trong hẻm núi tạo cho ta một cảm giác lạ lùng, cơ hồ ta như lơ lửng giữa trời cùng bay với hạc. Tiếng kêu oang oác của hạc gọi đàn phá tan sự yên tĩnh gần như tuyệt đối của một chốn thần tiên. Cũng tại nơi này, khoảng đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, vì phải tránh thời tiết xấu trong một lần đi công tác, chiếc máy bay của vua quặng mỏ Lang Hanthingy phải bay rất thấp qua các hẻm núi, ông tình cờ khám phá ra quặng lộ thiên với những tầng trầm tích màu đỏ đặc thù của oxít sắt đã trơ gan cùng tuế nguyệt hàng trăm triệu năm qua. Việc khai thác quặng bùng lên từ đó. Hình 10: Hẻm núi. Những hẻm núi cách nhau vài mươi cây số rải rác trong Vườn Quốc gia cho những vẻ đẹp hùng vĩ khác nhau. Người ta tạo vài con đường dọc theo vách đá đi xuống đáy vực sâu 200 - 300 mét. Ở đây, trong cái tĩnh mịch của thiên nhiên, ta chỉ nghe tiếng nước chảy róc rách, nhẹ nhàng xuyên qua những bụi cỏ lau còn đẫm ướt sương mai. Những tảng đá ở đáy vực vì năm tháng bị vỡ dọc theo khe nứt của các tầng trầm tích tạo thành những mặt phẳng to nhỏ khác nhau, vừa là các bậc thang thiên nhiên, vừa là đáy của con suối nhỏ, nương theo đó dòng nước lặng lẽ trôi. Tạo hóa không những là một nhà điêu khắc và kiến trúc sư tài ba tạo ra những hẻm núi kỳ vĩ ở cấp "vĩ mô", mà cũng là một chuyên gia viên nghệ tuyệt vời ở cấp "vi mô". Cảnh sắc thiên nhiên của một không gian nho nhỏ có con suối chảy, bóng cây râm mát, đây đó vài bụi cỏ, lau sậy tương phản với vách núi màu đỏ lởm chởm những lát trầm tích mỏng, vài con chuồn chuồn đủ màu sắc thoạt bay thoạt dừng, hiện ra như một bức tranh sống động với những gam màu hài hòa của một danh họa tài hoa (Hình 11). Hình 11: Một cảnh sắc dưới đáy vực. Chúng tôi bước theo những bậc đá, đi ngược lên dòng suối, cuối cùng đến một cái hồ nhỏ thiên nhiên xung quanh được bao bọc bởi những vách đá thẳng đứng như một cõi bồng lai cô tịch hoang liêu có những nàng tiên giáng trần thẹn thùng tắm suối thường được kể trong chuyện cổ tích của một thời thơ ấu xa xưa. Ngỡ rằng "Sơn trung bất kiến nhân", nào ngờ, nơi này cũng là một cõi bồng lai hiện đại với đám Tây ba lô đang thoát xác thành những nàng "tiên nữ" đầy đặn quyến rũ trong bộ bikini, sấp sấp ngửa ngửa nằm tắm nắng xung quanh bờ hồ hay đùa giỡn trong làn nước trong xanh (Hình 12). Cái thú tắm sông hồ thuở bé của tôi bỗng trỗi dậy, thúc dục tôi cởi phăng cái áo phông, mặc nguyên cái quần short biến thành "tiên ông" nhảy vào nhập bọn... Hình 12: "Tiên nữ" tắm suối. Port Hedland Karijini là điểm cuối cùng của cuộc hành trình về miền Viễn Tây xứ Úc. Chúng tôi lái xe hướng về thị xã Port Hedland ở phía bắc Pilbara để đáp phi cơ quay về Perth và sau đó Melbourne. Sau gần 4000 cây số khởi hành từ Perth và 8 ngày dọc đường gió bụi, đi qua những miền cực kỳ hoang dã của đại lục Úc, hai chúng tôi quyết định dừng chân tại một khách sạn 5 sao, cùng thưởng thức đặc sản địa phương, tôm hùm nướng kem phô-mai, con hào sống, vài chai bia lạnh để rũ sạch bụi đường. Những làn gió biển về đêm vẫn không hạ được cái nóng ban chiều còn vương vất trong không khí. Trước kia, tôi chỉ biết Port Hedland qua tivi như là một nơi giam giữ những thuyền nhân tỵ nạn từ Afghanistan, Sri Lanka, Iraq, Somalia, và những cuộc tuyệt thực, nổi loạn của họ để phản đối cách đối xử của chính phủ Úc. Một nơi cô lập như Port Hedland thật là lý tưởng cho việc nhốt người! Port Hedland liên quan trực tiếp đến những hoạt động khai thác quặng mỏ và là một cảng quan trọng xuất khẩu quặng sắt đến châu Á và khắp nơi trên thế giới. Mọi sinh hoạt ở bến cảng hơn 10.000 cư dân này chỉ dựa vào xuất khẩu quặng và khai thác dầu khí ngoài khơi. Đây chỉ là một thị trấn nhỏ nhiều bụi bậm công nghiệp, không gì đặc biệt. Trên bờ là những dịch vụ chuyên chở, tồn trữ quặng sắt. Cách bờ không xa là những đàn cá mập lởn vởn tìm mồi trong lòng nước biển đục ngầu. Hằng ngày, những đoàn xe lửa dài hơn 7 km, được ghi nhận là đoàn tàu dài nhất trong kỷ lục Guinness, và di động bằng 8 đầu máy để chuyển quặng từ khu vực Hamersley trong nội địa đến bến cảng. Ngày hôm đó, văn phòng du lịch địa phương cho biết sẽ có 4 đợt chuyển quặng cho 3 tàu Trung Quốc và 1 tàu Hàn Quốc. Quả nhiên, khi chúng tôi đứng ngoài bến cảng thì một chiếc tàu hàng khổng lồ dài hàng trăm thước của Trung Quốc vừa hụ còi vừa sầm sập lướt sóng chạy vào. Chúng tôi đến phi trường sớm hơn thường lệ vì không có gì làm khác hơn ngoài việc tránh cái nóng ban trưa gay gắt. Cái phi trường "nhà quê" tầng trệt chỉ có 3 cửa ra vào nhưng cũng được gọi là "sân bay quốc tế". Tại sao "quốc tế"? Không đùa đâu nhé! Một người địa phương nghiêm nghị bảo tôi, vì mỗi tuần có hai chuyến bay đi và đến từ Bali (Indonesia), cho nên "quốc tế"! À... bây giờ tôi mới nghiệm ra "nỗi buồn" ray rứt của người công nhân không bạn gái gặp ở Hamersley. Và ở bên kia bờ đại dương cách Port Hedland 2 tiếng bay là địa đàng Bali đang giang hai cánh tay dịu dàng, nồng nhiệt chào đón những người thợ mỏ cô đơn nhưng có lắm tiền hào phóng tiêu pha. TVT November 2009 (Đã đăng trên diendan.org) Phụ chú 1. Working visa: một loại visa du lịch dài hạn của Úc cho phép làm việc kiếm sống. 2. Đông Chí Tuyến: một đường vòng quanh Nam bán cầu, điểm cực nam mà mặt trời còn đứng bóng lúc chính ngọ. 3. Snorkelling: vừa bơi và vừa nhìn đáy nước với kính lặn và ống thông hơi. 4. Aborigine: người bản xứ sống trên đại lục Úc đã hàng ngàn năm.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:34:20 GMT 9
Đường Đi Đến Angkor Trương Văn Tân Chuyến đi Campuchia thăm đền Angkor Wat (Đế Thiên Đế Thích) là một sự kiện xảy ra gần như một ngẫu nhiên. Người nhà của tôi dự định đi Campuchia để viếng Angkor Wat sau chuyến về thăm Việt Nam. Tôi hơi lo vì Angkor Wat là một trong những căn cứ địa của Khmer Rouge trong thời kỳ chiến tranh. Sau chuyến công tác tại Hà Nội tôi bay vào Sài Gòn tìm đường đi Campuchia. Mục đích là thăm dò đường xá và độ an toàn tại Campuchia cộng với một chút hiếu kỳ muốn tìm hiểu cái kỳ quan thế giới “rất gần mà cũng rất xa” nầy. Những thông tin ở Việt Nam về du lịch Campuchia rất mơ hồ (xem Phụ Chú). Đối với những người sống ở nước ngoài quen với những sự chính xác rõ ràng như tôi thì cảm thấy rất là bất an. Người ta bảo tôi “ À… visa đi tới đâu thì xin tới đó ”, về cách đi thì “Đường bộ đi ngã Mộc Bài nhưng có nhiều ổ gà gây dằn xốc, đường sông đi ngã Châu Đốc”. Trước hai thông tin mong manh nầy tôi hơi chùn bước, nhưng lại nghĩ “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi…” mà thầy cô dạy lúc nhỏ, tôi bèn nhét quần áo đầy cái ba lô rồi đón xe đi Châu Đốc. Tôi đi xe khách “chất lượng cao” đến thị xã Châu Đốc lúc tờ mờ sáng. Như thường lệ, những người chạy xe Honda ôm tụm lại đón khách, giành giựt hành lý. Tôi hỏi một người đứng tuổi trông có vẻ “đàng hoàng” “Anh Hai ơi! Anh làm ơn chở tôi đến chỗ bán vé tàu tốc hành đi Nam Vang” “Rồi… rồi…, anh ngồi lên tui sẽ chở anh đến một khách sạn gần đây bán vé đi ngay Nam Vang sáng hôm nay”. Anh ta chở tôi đi gần nữa thị xã Châu Đốc đến một khách sạn. Ông chủ khách sạn lại chỉ đến một nơi khác, chúng tôi lại phải đi thêm nữa vòng thị xã còn lại. Có lẽ nhìn thấy cái dáng dấp Việt Kiều ngơ ngác của tôi, trên đường đi anh ta lại rủ rê “Tui chở anh đến Tịnh Biên rồi anh đi theo xe đến Nam Vang không cần visa gì ráo!! Người ta đi qua lại đường này nhiều lắm. Tiền xe hai chục đô Mỹ”. Tôi cảm thấy con đường này đầy “chông gai” quá nên từ chối. Sau nầy, tôi mới biết anh Honda ôm muốn kiếm ăn nên chở tôi lòng vòng thị xã vì từ trạm xe khách Châu Đốc đến nơi bán vé tàu thủy tốc hành đi NamVang cùng ở trên một con phố cách nhau 200m !!! Cuối cùng tôi bước xuống một chiếc tàu máy có thể chở 15 người. Trong tàu đã có 10 người Âu Châu cộng với hai người hướng dẫn du lịch Việt Nam với khả năng nói tiếng Anh trung bình. Chúng tôi được cho biết là tàu sẽ đến thị trấn Neak Loung (Campuchia) và từ đó đi đường bộ đến Nam Vang. Từ Châu Đốc đến Nam Vang khoảng 160 km. Sau khi người hướng dẫn Việt Nam giải thích lộ trình thì một hành khách đứng dậy phản đối đòi tiền lại, vì khi anh ta mua vé tàu ở Sài Gòn được bảo là tàu tốc hành nhưng đây là tàu chậm. Tôi vừa làm thông dịch vừa phải giảng hoà một cách bất đắc dĩ. Ông chủ tàu cắn răng trả lại mọi người số tiền sai biệt. Tôi tò mò hỏi anh nầy “Anh người nước nào?” “Tôi và cô bạn từ Israel” “Ồ... thảo nào anh là một tough negotiator”. Cả tàu cười ồ….. Anh ta phân trần “Chúng tôi đi du lịch “bụi” gần 3 tháng nay. Chúng tôi đến từ Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta không mặn mà gì với người đi kiểu Tây ba lô như chúng tôi. Người Việt Nam thân thiện hơn nhưng họ có những mánh nhỏ làm chúng tôi rất khó chịu…”. Tàu tiếp tục chạy dọc theo sông Hậu hướng về phiá kinh Sáng nối liền với sông Tiền. Cái mùi bùn cố hữu cuả dòng sông bây giờ đã được thay bằng cái hăng hắc thum thủm mùi mắm cuả thức ăn cá thoát ra từ những trại nuôi cá basa dọc theo bờ. Hai bên thuyền sông nước bao la. Đây là hai con sông lớn mà người Nam Bộ thường gọi là sông Cái. Khoảng cách hai bờ sông có nơi rộng đến 2 hoặc 3 km. Những hàng cây to bên kia bờ chỉ còn là một vệt xanh mờ mờ cao vài cm khi nhìn từ phiá bên nầy bờ sông. Người dân ở đây xây nhà sàn để tránh những trận lụt bất thường trong muà nước lớn. Trong vòng 20 năm qua, chính phủ đã dẫn những đường giây điện vào tận những vùng sâu vùng xa cuả miền Tây Nam Bộ nầy. Cũng có nhiều vùng đã có nước “phông tên” đúng tiêu chuẩn vệ sinh thay cho nước sông lắng phèn “truyền thống”. Nhiều nhà khá giả cũng có điện thoại, TV hoặc tủ lạnh như dân thành phố. Chạy được 5 km, tàu bỗng nhiên chết máy. Tôi bồn chồn không yên vì tôi vẫn chưa biết cách lấy visa vào Campuchia, chưa có re-entry visa trở lại Việt Nam lại thêm chiếc tàu “đình công” không chịu làm việc. Chừng nào mới đến Nam Vang? Đi Campuchia mà cứ ngỡ như là đi trong mơ! Hư hư thực thực. Một chút mạo hiểm cộng với một chút bất an. Những người bạn đồng hành Tây ba lô vẫn không mảy may nao núng. Dường như họ cảm thấy đây là phần vui cuả một cuộc chơi thú vị. Chiếc tàu cập vào một làng nhỏ bên sông. Mấy đứa trẻ đi theo mấy bà mẹ bồng con trong làng kéo nhau ra xem mấy ông bà Tây bị “mắc cạn”, chúng tôi nhìn nhau tay vẫy vẫy miệng lao xao “hello hello”. Đợi hơn 1 tiếng đồng hồ thì ba chiếc thuyền máy tam bảng tiếp viện “hùng dũng” tiến về phiá chúng tôi. Những chiếc tam bảng nầy chạy chậm hơn nên họ phải cắt ngắn thời gian bằng cách đi tắt vào những con rạch nhỏ để đến Vĩnh Xương. Nơi đây là ranh giới giữa Việt Nam và Campuchia. Trong những vùng sâu nầy, những chiếc cầu khỉ vắt vẻo trên không là phương tiện lưu thông chính qua sông. Những người đồng hành châu Âu bỗng nhiên rất thú vị với những cảnh cheo leo như thế nầy. Rồi họ tò mò chỉ vào những cái “box” được che bằng lá dừa hoặc những tấm tôn sơ sài thỉnh thoảng có người ngồi bên trong dọc theo bờ sông. Tôi lấp liếm “Oh!! bio-toilet” - “Whaat???”… Tàu đến Vĩnh Xương. Chúng tôi lên bờ làm thủ tục xuất cảnh Việt Nam. Tôi gặp ông Trung Úy trưởng phòng xuất nhập cảnh để hỏi thăm cách xin visa nhập quốc Campuchia và nài nỉ xin re-entry visa trở lại Việt Nam. Ông ta ôn tồn trả lời là qua biên giới làm visa nhập quốc rất dễ dàng và ở đây không có thẩm quyền cho re-entry visa, phải lên tận Nam Vang. Thái độ cuả ông làm tôi an tâm, khác với tâm trạng nơm nớp lo sợ khi đứng trước những người bạn đồng nghiệp của ông tại phi cảng Tân Sơn Nhất hay Nội Bài có cái bộ mặt hách hách với lối nhìn soi mói. Trời bỗng nhiên đổ mưa to. Chúng tôi phải đổi sang 3 chiếc ca nô đến từ phiá bên kia biên giới. Ban hướng dẫn Việt Nam trở lại Việt Nam, chúng tôi có người hướng dẫn mới vốn là người Campuchia gốc Việt. Anh ta hối thúc mọi người xuống ca nô, mặc dù trời mưa như trút nước sấm sét rền vang. Chúng tôi trở thành “người đi trong bão tố” một cách bất đắc dĩ…. Ba chiếc ca nô phóng ra giữa sông trong cơn mưa tầm tả với một tốc độ gần 50 km/h. Chiếc ca nô cuả tôi là chiếc đi cuối cùng. Gió thổi mạnh. Sóng đánh mạnh vào mạn thuyền nghe bì bạch, chiếc ca nô chồm lên chồm xuống theo nhịp sóng. Tôi có cảm giác như một cảnh trong phim “Indiana Jones and the Raider of the lost Ark”. Phiá trước mặt tôi là một bức màn trắng xoá mù mịt. Những hạt mưa đập mạnh vào mặt nghe ran rát. May là tôi chuẩn bị trước chiếc áo mưa mua 2000 đồng tại Sài Gòn không thì cũng thành chuột lột. Tôi vừa run nhìn bờ sông hiện ra mờ mờ trong cơn mưa vừa ước lượng khoảng cách để ca nô có lật giữa dòng thì phải bơi vào theo hướng nào…. Chiếc ca nô băng ngang biên giới đi được 15 phút thì cặp bến Campuchia. Chúng tôi lên bờ làm thủ tục và xin visa nhập quốc. Ngược dòng Mekong trên địa phận nước Campuchia Trời tạnh mưa. Ba chiếc ca nô tiếp tục cuộc hành trình ngược dòng Mekong. Quang cảnh hai bên bờ sông ở đây khác hẳn Việt Nam với những hàng cây thốt nốt xa xa, dân cư thưa thớt thỉnh thoảng mới có một ngôi làng với vài ngôi chùa Miên mái ngói đỏ cong cong lẫn trong những căn nhà sàn cuả dân. Sau 1 tiếng đồng hồ đi ca nô kiểu Indiana Jones, chúng tôi cập bến Neak Loung. Ở đây, người ta chuyển chúng tôi sang chiếc xe khách 15 chỗ ngồi hướng về Nam Vang cách đó 60 km. Sau những cơn dằn xốc, thắng gấp tránh ổ gà, cuối cùng chúng tôi đến Nam Vang lúc 6:00 pm, 5 tiếng sau giờ dự định. Tôi chia tay với những người bạn đồng hành Âu Châu “đồng cam cộng khổ” và chúc họ thượng lộ bình an. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Nam Vang nằm giữa ngã tư bốn con sông. Sông Mekong từ phiá Bắc đổ xuống chia làm sông Tiền và sông Hậu. Sông Tonle Sap với Biển Hồ ở thượng nguồn chảy vào Nam Vang từ hướng Tây Bắc. Thành phố Nam Vang nơi tôi qua đêm cũng không khác gì với những khu dân cư đông đảo ở Sài Gòn Chợ Lớn với những căn phố hai tầng lụp xụp và những hàng thức ăn cuả người Hoa bày bán bên lề đường. Thỉnh thoảng có những chiếc xe hơi hoặc xe gắn máy không bảng số thản nhiên chạy qua chạy lại. Đến Nam Vang, tôi muốn ăn một tô hủ tiếu Nam Vang. Cái từ “hủ tiếu Nam Vang” không biết từ đâu, nhưng hủ tiếu ở đây thì không khoái khẩu chút nào và cái văn hoá ẩm thực cuả thành phố Nam Vang thì quả là thê thảm….. Sáng hôm sau tôi dậy sớm để nhờ khách sạn nơi tôi trú ngụ làm re-entry visa trở lại Việt Nam. Tôi tiếp tục cuộc hành trình đến Angkor Wat cách Nam Vang 350 km theo sông Tonle Sap đến tỉnh Seam Reap. Chiếc tàu cánh ngầm đi Seam Reap chở gần 100 người, cộng thêm 30 người trên mui tàu vì không còn chỗ trong khoang!! Tàu chạy với tốc độ trung bình 70 km/h băng qua Biển Hồ mênh mông mà nơi rộng nhất cũng gần 30 km. Tôi cập bến Seam Reap buổi trưa. Cảnh tượng đón khách tại bến tàu Seam Reap cuả những người chạy xe Honda ôm cũng ồn ào náo nhiệt như ở Việt Nam nhưng có phần trật tự hơn. Những người trẻ tuổi làm những nghiệp vụ nầy biết tiếng Anh và tiếng Nhật cơ bản. Người Campuchia có vẻ thật thà và lúc nào cũng có thể nở trên môi một nụ cười. Tôi tạm trú ba đêm tại một khách sạn nhỏ ở thị xã Seam Reap với giá $6 USD một đêm có thêm phần giặt ủi quần áo miễn phí. Quần thể đền Angkor cách thành phố Seam Reap 5 km chiếm một diện tích gần 200 km2 với tổng số non 50 ngôi đền. Thời đại Angkor kéo dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15 (AD 805 – 1432) là một thời đại cực thịnh về văn hoá cuả dân tộc Khmer. Những ngôi đền được xây trong thời gian nầy. Thời đại nầy đã nhiều lần bị họa xâm lăng từ Siam (Thái Lan) và Champa (miền Trung Việt Nam ngày nay). Đặc điểm cuả những ngôi đền là tất cả được làm bằng đá từ mái đền đến những bậc thang. Ngươi Khmer cổ đã biết cách xây những cấu trúc đá, chồng những viên đá nặng hằng trăm kí-lô làm mái đền, cột đền, những khung cửa v.v… Phiá bên ngoài cấu trúc, những người thợ khắc Khmer tạc những hình thể to tát như mặt người ở đền Angkor Thom cao hằng chục thước, hoặc những chi tiết nhỏ vài cm trên những bức tường đá. Những bức tường đá nầy khắc lại những cuộc hành quân chống lại giặc ngoại xâm, cũng có những bức tường khắc những điệu vũ cung đình, những tượng Phật, những totem (rắn bảy đầu, Garuda = người đầu chim), thú vật (voi, khỉ), những vũ nữ với điệu vũ apsara. Đến cuối thời đại Angkor, quân đội Siam đánh phá liên tục vào Angkor, những vị vua Khmer sau nầy phải rút về phiá nam xây dựng một thủ đô mới mà ngày nay gọi là Phnom Penh (Nam Vang). Quần thể đền Angkor bị bỏ hoang trở thành một phế tích bao phủ bởi rừng già. Angkor Wat (Wat = temple) là tên cuả ngôi đền chính và lớn nhất cuả quần thể đền Angkor. Ngôi đền nầy lúc nào cũng là quốc huy Khmer xuất hiện trên quốc kỳ Campuchia qua các thời đại (Sihanouk, Lon Nol, Pol Pot, Hun Sen). Đây là một kiến trúc đối xứng bằng đá trông rất hùng vĩ được xây vào đầu thế kỷ thứ 12. Tượng Phật hoặc linga (dương vật) được thờ trong những gian phòng bằng đá. Những hành lang đá nối liền phần chính cuả ngôi đền chia những khoãng trống thành courtyards. Từ trên cái ban-công cao hơn 50 m nhìn xuống người ta nhìn thấy rừng già bao quanh. Angkor Wat Một trong những điêu khắc cho tôi nhiều ấn tượng nhất là những tượng của vũ nữ apsara khắc vào vách đá. Những nhà điêu khắc Khmer tạo ra bức tượng có thể bảo là đẹp hơn thần Vệ Nữ với những đường cong tuyệt mỹ và bộ ngực trần rất là phong phú… Không biết vô tình hay cố ý, du khách thường hay “sờ mó” vào phần ngực của những bức tượng. Lâu ngày phần nầy trở nên bóng loáng như được đánh “vẹc ni”! Ngày thứ 2, tôi viếng những đền lớn nhỏ với những lối kiến trúc khác nhau tùy theo tôn giáo (Phật giáo hay Hindu) hoặc thời đại. Những bộ mặt người qui mô được tạc xung quanh đền Angkor Thom và đền Bayon phải nói là một đặc sắc cuả nghệ thuật điêu khắc Khmer. Những khung cửa đối xứng vẫn còn giữ được sự chính xác sau gần 1000 năm. Vì là những kiến trúc bị bỏ hoang hơn 500 năm, có nhiều nơi bị những cây cổ thụ mọc xuyên qua những bức tường đá. Rễ cây một mặt phá hỏng những cấu tạo, một mặt ôm chặt lại những hình thể cấu trúc. Có thể nói đây là một hình ảnh có một không hai trên quả địa cầu nầy. Vũ nữ apsara Đền Bayon Những khung cửa đá đối xứng Tàn tích của sự hoang phế Hằng ngày có khoảng 8000 đến 10000 người tham quan, phần lớn từ châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan (xem Phụ Chú). Xe bus, minibus, xe hơi lớn nhỏ, xe Honda, xe kéo, xe đạp rần rộ qua lại từ sáng đến chiều. Tôi thường lẩn vào nhóm du khách Nhật để được nghe "ké" những lời giải thích cuả người hướng dẫn. Thỉnh thoảng có những đoàn khảo cổ học từ châu Âu hoặc Mỹ, họ dừng lại rất lâu từng nơi quan sát rất cặn kẻ và nghe người trưởng đoàn giải thích từng chi tiết một. Tôi nghĩ với tốc độ nầy thì phải ở lại Angkor ít nhất 1 tháng!! Quần thể đền Angkor bị mất mát rất nhiều vì sự bào mòn của thiên nhiên. Nhưng sự mất mát nầy vẫn còn rất nhỏ so với sự tàn phá cuả con người vì chiến tranh và trộm cắp. Tôi đau lòng khi thấy có nhiều hiện vật nằm lăn lóc trên mặt đất và có rất nhiều bức tượng bị chặc đầu. Những chiếc đầu nầy được bí mật chuyển qua Thái Lan trở thành những món đồ cổ đắt giá trên thị trường quốc tế. Tôi học đươc nhiều tiếng Khmer từ anh bạn trẻ lái Honda ôm cuả tôi. Tôi học cách đếm để giao dịch “mua bán”. Lạ thay, số đếm từ 1 đến 5 có âm hưởng giống tiếng Việt. “Mùi, Bi, Bay, Bún, Pram”. Có phải đây là một ngẫu nhiên hay là một số tiếng Nôm có cùng nguồn gốc với tiếng Khmer? Sau đó, tôi học cách chào xã giao “Arun susu đay. Sốc sốc bay, chia tế?” (Good morning. How are you?). Sau cùng, tôi học vài câu “nịnh nọt” “Anh đẹp trai” “Em đẹp lắm” v.v… Tôi trở lại Nam Vang và Châu Đốc sau 3 ngày tham quan Angkor. Với tầm vóc lịch sử và một nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ đại, Angkor quả xứng đáng là một kỳ quan thế giới. Campuchia là một nước bên cạnh Việt Nam, nhưng phải nói rằng là có bao nhiêu người trong chúng ta hiểu rõ nền văn hoá cuả nước láng giềng. Thậm chí cho đến bây giờ, không ít người vẫn nghĩ nền văn hoá Khmer còn một bước đi sau văn hoá Việt Nam. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Tôi về đến Sài Gòn như dự định sau chuyến đi “mạo hiểm” kiểu Indiana Jones nhưng rất đáng “đồng tiền bát gạo”. Ba tháng sau, tôi hướng dẫn Ba Mẹ tôi thăm Campuchia và trở lại Angkor lần thứ hai. Đến Châu Đốc tôi lại gặp ông Honda ôm hôm trước. Tôi phớt tỉnh Ăng-lê nhưng anh ta chẳng buông tha “À… tui gặp anh lần trước. Tui biết anh mà, tui biết anh mà… Anh muốn đi đâu tui chở anh đi”. Dường như, cái mặt của tôi có cái khuyết điểm là đi dâu cũng dễ bị người nhận diện. Tôi cứ làm ngơ, anh ta cứ lẽo đẽo đi theo. Tôi bực mình quay lại nói “Thôi đi bố…. Lần này tôi không cần anh nữa. Kỳ rồi nếu anh chỉ cho tôi Khách Sạn HC nơi bán vé tàu tốc hành thì đỡ tốn thì giờ cuả tôi. Tôi cũng cho anh tiền cà phê thôi…”. Anh ta tiu nghỉu bỏ đi. Tôi lại thấy thương hại anh ta và chợt nhớ lại lời phê bình cuả anh bạn Israel đồng hành hôm trước. Có phải chăng cũng vì miếng ăn khó khăn nên những “tiểu mưu” trở thành một cố tật trong cuộc sống người Việt Nam? Tôi và Ba Mẹ tôi đi theo chuyến tàu nhỏ tốc hành đến Nam Vang chỉ mất 4 tiếng. Trời hôm đó thật quang đãng. (Đã đăng trên www.erct.com, năm 2003) Phụ Chú: 1. Những sự kiện trong bài này được viết vào năm 2003, ở thời điểm này rất ít du khách từ Việt Nam. Hiện nay (2008), đường bộ từ Việt Nam đã được khai thông và có những "tour" trọn gói tiện lợi. Số du khách Việt Nam tăng lên hàng trăm lần. 2. Giá tàu thủy tốc hành từ Châu Đốc đến Nam Vang: $15 USD. Giá tàu thủy tốc hành từ Nam Vang đến Seam Reap: $20 – 25 USD. Phi cơ (Saigon – Seam Reap one way): $120 USD. Giá vào cửa Angkor: người Campuchia miễn phí, người nước ngoài $20 USD 1 ngày $30 USD 2 ngày. Tất cả là giá năm 2003.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:37:53 GMT 9
Từ Thượng Hải đến Bắc Kinh Trương Văn Tân Tây Hồ Giang Nam Cổ Trấn Hàn San Tự Thượng Hải Bắc Kinh Vạn Lý Trường Thành Ẩm thực Văn Hoá Từ Quảng Châu tôi bay đến Thượng Hải và đi xe đến Hàng Châu. Hiện nay, Thượng Hải – Hàng Châu – Tô Châu là khu tam giác phát triển công nghệ thu hút nhiều tư bản nước ngoài chủ yếu là Nhật, Đài Loan và Đức. Hàng Châu là thủ phủ của tỉnh Chiết Giang. Tô Châu là một thành phố của tỉnh Giang Tô. Những thành phố nầy cách nhau non 200 km nhưng họ có tiếng nói địa phương hoàn toàn khác nhau. Khu vực nầy từ xưa còn gọi là “Giang Nam”, một vùng địa linh nhân kiệt sản sinh nhiều bậc anh hùng hào kiệt. Thời cổ đại đây là những vương quốc độc lập. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên (2300 năm trước), Tô Châu (Cô Tô) là thủ đô của nước Ngô (tỉnh Giang Tô ngày nay) và Hàng Châu là một thành phố của nước Việt (tỉnh Chiết Giang ngày nay). Thời Tam Quốc nơi nầy là trung tâm quyền lực của nước Đông Ngô dưới quyền cai trị của Tôn Quyền. Trở lại 2500 năm trước, Ngô và Việt là hai nước không đội trời chung. Ngô Vương Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn tranh dành thiên hạ. Thừa Tướng nước Việt là Phạm Lãi dâng người yêu của mình là Tây Thi cho Ngô Vương thực hiện “mỹ nhân kế”. Tây Thi là một trong “Trung Quốc tứ đại mỹ nhân” xuất thân từ một làng cách Hàng Châu không xa. Tương truyền Tây Thi có một sắc đẹp “Trầm ngư, lạc nhạn” (chim sa cá lặn). Từ khi được Tây Thi, Phù Sai bỏ quên việc nước, đắm say hoan lạc "Ngô Vương cung lý túy Tây Thi" [1]. Quân vương dùng quốc khố nhân dân xây cho nàng một "lâu đài tình ái" có tên là "Quán Oa Cung" trên núi Linh Nham để ngày ngày từ trên cao nàng có thể nhìn về cố hương Việt Quốc. Tiếc thay, một bậc anh hùng cái thế như Phù Sai cũng phải mềm lòng trước nước mắt mỹ nhân để cho nước Ngô cuối cùng bị diệt. Đến bây giờ người ta vẫn chưa rõ Tây Thi là một nữ gián điệp tài ba hay là một người tình cuồng nhiệt nhưng mối tình tay ba đầy bi kịch tính giữa Phạm Lãi, Tây Thi và Ngô Vương Phù Sai trở thành một thiên tình sử đẫm lệ Trung Quốc. Về sau, thi nhân đời Đường La Ẩn có lời biện giải cho Tây Thi: Gia quốc hưng vong tự hữu thời Ngô nhân hà khổ nộ Tây Thi Tây Thi nhược giải khuynh Ngô Quốc Việt Quốc vong lai hựu thị thùy? Tạm dịch: Quốc gia hưng vong cũng có lúc Người nước Ngô làm gì phải giận Tây Thi Nếu như Tây Thi làm mất nước Ngô Thì ai là người làm mất nước Việt đây? Người Trung Quốc có một câu nói “Trên là Thiên Đường, dưới là Tô Hàng” để diễn tả nét đẹp thiên nhiên, khí hậu ôn hòa và nhất là mỹ nữ của vùng Giang Nam (Tô Hàng). Trên mặt kinh tế, từ xưa vùng Giang Nam đã được công nhận là vùng quan trọng trong việc sản xuất lụa tơ tầm và trà. Từ 1500 năm trước, lụa Hàng Châu được di chuyển theo con đường Lụa (the Silk Road) để xuất cảng đến tận Âu Châu. Con kênh Kinh Hàng dài 1800 km nối liền Bắc Kinh và Hàng Châu được đào vào đời nhà Tùy (1400 năm trước) cho việc thông thương Nam Bắc. Sau nầy vua Càn Long nhà Thanh dùng con kênh nầy đến vùng Giang Nam 6 lần để ngao du thiên hạ và đi tìm mỹ nữ! Tây Hồ Hàng Châu có sông Tiền Đường, nơi mà nàng Kiều của Nguyễn Du đã gieo mình tự tử. Tây Hồ là điểm du lịch chính ở Hàng Châu còn có tên là Tiền Đường Hồ. Tôi nhập bọn với một đoàn du khách Hong Kong và Hàn Quốc đi dạo vòng quanh một phần hồ trên một chiếc tàu. Ngày xưa có lẽ Tây Hồ đẹp hơn bây giờ, vì một phần bờ hồ là thành phố Hàng Châu với những nhà cao tầng hiện đại nhô lên một cách rất "vô duyên". May thay, 2/3 phần còn lại của Tây Hồ vẫn còn liễu rũ, vẫn còn hoa sen, vẫn còn những tầng tháp cổ tọa lạc trên đồi núi xa xa. Dưới ánh nắng chiều hoàng hôn hay những đêm trăng rằm, khung cảnh thơ mộng của Tây Hồ in đậm trên nền trời là một mảnh thiên đường hạ thế, là một nguồn thi hứng bất tận của tao nhân mặc khách bao ngàn năm qua. Phong cách kiến trúc Trung Quốc đậm đà khái niệm “sơn thủy” mà Tây Hồ thể hiện được sự hài hòa giữa thiên nhiên và những công trình mỹ thuật của con người. Tây Hồ là một bài thơ, một bức tranh thủy mặc và cũng là một nơi có nhiều tình sử lãng mạn. Cô hướng dẫn viên tên Jin chỉ cho tôi ngọn tháp Lôi Phong bên bờ hồ kể cho tôi nghe chuyện tình “Liêu Trai” của con rắn trắng Bạch Xà và một chàng thư sinh. Chuyện kể rằng có một thư sinh họ Hứa cứu sống hai con rắn, một con màu trắng, Bạch Xà, và một con màu xanh, Thanh Xà. Để trả ơn, Bạch Xà biến thành một tiểu thư nhan sắc tuyệt trần kết nghĩa vợ chồng với chàng Hứa, nuôi nấng chàng ăn học, Thanh Xà biến thành tỳ nữ hầu hạ. Hai người ăn ở hạnh phúc hòa thuận. Một hôm, Hứa thư sinh tình cờ gặp một sư ông. Sư ông bảo chàng nguyên khí bất thường vì có yêu khí hiện ra. Sư ông mang chàng Hứa về chuà chữa trị. Bạch Xà đi tìm chồng, nước dâng theo làm lụt cả một vùng. Về sau, sư ông lập mưu bắt sống Bạch Xà chôn sống dưới tháp Lôi Phong. Tôi nghe câu chuyện mà phì cười và bảo cô Jin “Sư ông ở không đi phá hoại hạnh phúc gia đình thiên hạ. Còn tôi như chàng Hứa thì tôi sẽ ở với người vợ đẹp suốt đời dù tôi có chết vì nàng là hồ ly tinh hay rắn độc đi nữa!”. Có lẽ chưa bao giờ nghe ai bình phẩm như vậy, cô Jin thích chí cười vang bảo “Ông thật chung tình!!”. Cô ta lại kể chuyện Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài. Tôi hỏi “Tại sao Hàng Châu lại lắm chuyện tình mà chỉ toàn là chuyện không có happy ending?”. Cô Jin cười cười bảo “Trừ chiến tranh Ngô Việt giữa Phù Sai và Câu Tiễn 2500 năm trước, vùng Hàng Châu tương đối hoà bình từ xưa đến giờ. Vì vậy, người dân Hàng Châu rất phong lưu và lãng mạn”. Tôi chuyển đề tài "Người ta bảo phụ nữ Hàng Châu rất đẹp mà hôm qua đến giờ tôi chưa thấy người đẹp nào cả”. Cô Jin nhanh miệng “Vậy thì không phải ông đang nói chuyện với một người đẹp sao?”. Tôi bị hớ “Nói ra bây giờ thì sớm quá. Tôi chỉ muốn khen cô đẹp trước khi từ giã cô thôi…”. Cô Jin lại chỉ hai con đê gọi là Bạch Đề (đê ông Bạch) và Tô Đề (đê ông Tô). Bạch là Bạch Cư Dị và Tô là Tô Đông Pha. Bạch Cư Dị là một nhà thơ lớn đỗ tiến sĩ đời Đường (1300 năm trước). Khi Bạch Cư Dị được bổ làm Thứ Sử Hàng Châu, ông tiến hành đấp đê xung quanh Tây Hồ để hồ có thể chứa nước nhiều hơn, khi gặp hạn có thể dùng nước Tây Hồ để cứu hạn. Ông cảm thông và quan tâm đên nỗi khổ của dân. Khi ông rời chức vụ ra đi, người dân Hàng Châu thương nhớ ông vô cùng. Ông viết một bài thơ để lại trong đó có hai câu: Thuế trọng đa bần hộ, nông cơ túc hạnh điền Duy lưu nhất hồ thủy, dữ nhĩ cứu hung niên Tạm dịch: Thuế nặng nên còn nhiều nhà nghèo khó, nông dân còn đói vì ruộng bị khô. Tôi để lại hồ nước đầy, dùng nó cứu nguy những năm đói kém. Ba trăm năm sau cũng như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha là một tiến sĩ vào đời nhà Tống dược bổ làm Thứ Sử Hàng Châu một thời gian. Tô Đông Pha là một người phong lưu, lãng mạn và tài hoa rất mực. Ông vừa là một nhà thơ lỗi lạc vừa là một họa sĩ của trường phái mới đương thời [2]. Trong thời gian ở đây ông tiếp tục công trình của Bạch Cư Dị làm đẹp Tây Hồ bằng cách vét bùn trong hồ vừa làm đê vừa làm sâu hồ tăng thể tích chứa nước. Con đê “Tô Đề” băng ngang Tây Hồ dài gần 3 km có những tiểu kiều (cầu nhỏ) cong cong với chân cầu bán nguyệt. Một nhà thơ vừa là một kỹ sư xây dựng hẵn phải là một kết hợp thú vị. Bạch Đề và Tô Đề chia Tây Hồ thành ba phần: hồ trong, hồ ngoài và hồ sau. Tôi đi trên Tô Đề bước qua những tiểu kiều nhìn xuống dòng nước nhớ câu “Tiểu Kiều Lưu Thủy”. Tôi nhớ lại những thiên tình sử cô Jin vưà kể mường tượng nàng kiều nữ Hàng Châu lượt là xiêm y “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” [3] phải lòng một chàng thư sinh gặp trên những chiếc tiểu kiều. Hai người trao duyên gởi phận, rồi lại ngậm ngùi chia tay cũng trên những chiếc tiểu kiều… Tôi đi chậm lại để nhìn rõ kiến trúc con đê, tôi lại nghĩ đến mặt tích cực của Nho Giáo đã tạo ra những người có tầm vóc như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha tận tụy hết lòng cho dân. Những lời thơ đầy hào khí nhà Nho của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ thoang thoảng bên tai Kinh luân khởi tâm thượng Binh giáp tàng hung trung Vũ trụ chi gian giai phận sự Nam nhi đáo thử thị hào hùng (Kẻ sĩ) Tạm dịch Cách trị nước đã có trong tim Binh giáp dẹp giặc đã có trong lòng Trong trời đất tất cả đều là phận sự Làm trai như thế mới tài giỏi Tô Đề trên Tây Hồ Giang Nam Cổ Trấn Tôi từ giã cô Jin để đến thị trấn Zhouzhuang (Chu Trang) trên đường đến Tô Châu. Chu Trang là một trong những thị trấn nhỏ trên sông nước Giang Nam (Giang Nam Cổ Trấn). Theo anh Shao người hướng dẫn mới của tôi thì đây là một khu vực mà phương tiện giao thông chính là đường thủy. Vì vậy, trong những đợt cải cách hiện đại hoá vùng nầy bị bỏ quên, cách kiến trúc nhà cưả vẫn còn nguyên thể của 1000 năm trước. Người ta còn gọi những thị trấn nầy là "Venice of the Orient". Do phương tiện đi lại chính là những con rạch nhỏ, nhà nào cũng có một bến nước và một con đường nhỏ cho bộ hành trước nhà. Hai bên bờ con rạch được nối bằng những chiếc cầu đá với chân cầu bán nguyệt có từ hàng ngàn năm. Anh Shao hướng dẫn tôi đến hai căn nhà có liên hệ thân thuộc đến đại thần trong triều đình nhà Minh, làm tôi nhớ lại những căn nhà cổ của thương nhân người Hoa tại Hội An, nhưng những căn nhà ở đây hoành tráng và uy nghi hơn. Vùng nầy có thể mãi mãi đi vào quên lãng hoặc có nguy cơ bị hiện đại hóa với những toà nhà bê tông cốt sắt nếu không có bức tranh của nhà danh họa Chen Yifei (Trần Dật Phi). Ông Chen từ Mỹ trở về quê cũ Chu Trang tìm được cảm hứng trong vẻ đẹp ngàn năm của quê hương vẽ ra một loạt tranh "Hồi ức của cố hương" trong đó có bức họa "Song kiều" (Cầu đôi). Bức họa nầy lọt vào mắt xanh ông chủ tập đoàn dầu hỏa Occidental (Mỹ), Armand Hammer. Năm 1985, Hammer tặng Đặng Tiểu Bình bức tranh. Sự trân trọng của người nước ngoài đối với vùng sông nước hẻo lánh nầy khiến ông Đặng phải nhìn lại chính sách du lịch ở các vùng sâu vùng xa. Sau đó không lâu, Chu Trang và các vùng lân cận được nâng cấp thành di sản quốc gia mở cửa cho du lịch. Một đêm sáng ngày, những nông dân nghèo khổ bỗng nhiên có một nguồn thu nhập phong phú như kéo xe lôi, chèo thuyền, bán đồ lưu niệm cho du khách. Song kiều: Cầu đôi bằng đá (Zhouzhuang) "Hồi ức của cố hương": Tranh Chen Yifei (Nguồn:
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:41:05 GMT 9
Hàn San Tự Tôi đến Tô Châu thăm Hổ Khưu và Hàn San Tự. Tô Châu (Cô Tô) là thủ đô và trung tâm văn hoá của nước Ngô ngày xưa Hổ Khưu (Gò Cọp) là nơi chôn cất của Ngô Vương Hạp Lư cha của Phù Sai (2500 năm trước). Vì mộ phần của Hạp Lư được giữ bí mật nên cách đây hơn 1000 năm người ta vô tình xây cái tháp cao 50 m trên gò. Cái tháp nghiêng từ khi hoàn thành gây bởi khoãng trống của mộ phần Hạp Lư bên dưới. Người ta gọi đây là "Chinese Pisa Leaning Tower". So với Nam Hoa Thiền Tự ở Thiều Quan (Quảng Đông) và Linh Ẩn Tự ở Hàng Châu, Hàn San Tự nhỏ hơn nhưng cũng có một lich sử 1500 năm với gác chuông nổi tiếng từ ngàn xưa. Nhưng Hàn San Tự được nhiều người biết đến qua bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” (Đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều) của Trương Kế Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hoả đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền Tạm dịch: Trăng tàn, quạ kêu, sương đầy trời Nhìn những cây phong bên bờ sông, ánh đèn trong thuyền chài mà trong lòng buồn bã không ngủ được Chuà Hàn Sơn ở ngoại thành Cô Tô Tiếng chuông chuà nửa đêm vẳng đến con thuyền chở khách Trăng tà tiếng quạ kêu sương, Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ. Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. (Tản Đà (?) dịch) Chàng thư sinh Trương Kế lều chõng đi thi nhưng không được bảng vàng tiến sĩ đề tên, từ thủ đô Trường An buồn bã trở về quê cũ. Đến Cô Tô thì cửa thành đã đóng, chàng Trương đành qua đêm trên một chiếc thuyền chài. Ánh trăng, tiếng quạ, màn sương, cây phong, ánh đèn chỉ làm tăng thêm nỗi buồn "thi không ăn ớt thế mà cay"! Chỉ có tiếng chuông chuà mới làm chàng vơi đi nỗi buồn để thốt ra những dòng thơ bất hủ. Bây giờ tiếng chuông chuà nửa đêm không còn. Con sông trước chuà trở thành con kênh nhỏ và hàng cây phong cũng biết mất với thời gian. Bài thơ được viết lại bởi nhiều nhà thư pháp lừng danh và trưng bày xung quanh chùa. Bài thơ cũng được một vị vua nhà Thanh ngự đề, nhưng không may bị Hồng Vệ Binh đập nát trong thời kỳ "Cách Mạng Văn Hoá". Tôi đọc bài thơ theo âm Hán Việt làm anh Shao hoang mang "Âm Việt Nam sao mà giống tiếng Quảng Đông thế!". Tôi chợt nhớ đến âm Quảng Đông "Duỵt loọc, ú thề, xướng màn thín….." của một lữ khách Trung Quốc nhớ cố hương đọc trong một đêm khuya đã làm cho người mẹ tương lai của Hồ Dzếnh phải cười như chuột rúc trong đêm [4]…. Thượng Hải Khi Hàng Châu và Tô Châu đã là một thành phố ''ngựa xe như nước áo quần như nêm", thì Thượng Hải chỉ là một làng đánh cá. Thượng Hải thành lập gần 700 năm nay nhưng bây giờ là một siêu đô thị lớn nhất Trung Quốc và là một trung tâm thương mãi và văn hoá với dân số 17 triệu người (gần bằng dân số toàn nước Úc). Từ Tô Châu đến Thượng Hải tôi đi ngang một khu công nghiệp đồ sộ Kunsan phần lớn do tiền đầu tư từ các tư bản Đài Loan lập nên. Ở đầu thế kỷ 20, Thượng Hải là tô giới Anh nổi tiếng là nơi trụy lạc, buôn hương bán phấn, bài bạc ma túy nổi tiếng Viễn Đông. Đây cũng là nơi người Anh đã từng treo bảng "Cấm chó và người Trung Quốc" trước cổng ra vào của một công viên. Ở thập niên 60, Thượng Hải lại trở thành trung tâm của "bọn bốn người" phát động cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" cực đoan làm chết hằng triệu người và tàn phá không ít những di sản lịch sử của nhân loại. So với các thành phố cổ ở Trung Quốc, Thượng Hải chỉ là một thành phố "trẻ" ít có những di tích lịch sử. Thêm vào đó, theo chiều hướng "hiện đại hóa" những kiến trúc xưa bị đập phá vô nguyên tắc để thay vào những tòa nhà hiện đại mọc lên như nấm trong đám rừng "bê tông". Chỉ trong vòng 10 năm Thượng Hải chuyển mình từ một thành phố xe đạp thành một thành phố xe hơi. Xe Volkswagen (= People's car) sản xuất tại Thượng Hải với giá thành rất thấp và được đổi thành cái tên Trung Quốc "Đại Chúng" chiếm 25 % số lượng sản xuất xe toàn quốc và đang tiếp tục gia tăng. Những đường cao tốc mới xây trong vòng 10 năm nay tỏa ra như mạng nhện nối liền Nam Bắc. Những anh tài xế Trung Quốc phần lớn thuộc hạng "kamikaze" chạy "bạt mạng" trên xa lộ chèn nhau từng tấc đường không thua gì tài xế Việt Nam trên Quốc Lộ số 1…. Buổi sáng đầu tiên tại Thượng Hải tôi cùng một người bạn tản bộ trên Bến Thượng Hải (The Bund) dọc theo bờ sông Hoàng Phố. Bên nầy bờ sông là những tòa nhà lịch sử với số tuổi hơn 150 năm biểu tượng của Thượng Hải cũ. Bên kia bờ sông là Phố Đông (Pudong) với những tòa nhà chọc trời cao nhất nhì thế giới biểu tượng của Thượng Hải mới. Chúng tôi đi đến Phố Cổ nơi người ta bày bán những đồ giả cổ trong những tòa nhà xưa được Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố trùng tu và xây dựng thêm để thu hút du khách. Tôi đến Thượng Hải nhằm vào Tiết Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng) nên cả khu phố tràn ngập hằng trăm hằng ngàn chiếc lồng đèn đỏ treo cao cao ….. Viện Bảo Tàng Thượng Hải là nơi người ta có thể nhìn được lịch sử 5000 năm văn minh Trung Quốc qua những sưu tập lớn nhất thế giới về nghệ thuật và mỹ thuật cổ đại. Viện Bảo Tàng được thành lập năm 1952 và được xây lại cách đây 5 năm với 2 tầng ngầm và 5 tầng lầu với một diện tích 38 000 m2. Ở đây, người ta trưng bày hơn 120 000 hiện vật bằng đồng, sắt, vàng, gốm sứ, ngọc, hổ phách, tranh thủy mặc, thư pháp, tiền tệ. Có nhiều hiện vật từ thời nhà Hạ là vương triều đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc (4000 năm trước). Tôi nhìn thấy bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn và của Ngô Vương Phù Sai (2500 năm trước), cũng như cái vại bằng đồng bốn chân được chế tạo một cách tỉ mỉ cao gần 1 m với thành vại dầy 10 cm có thể chứa gần 100 lít rượu để Ngô Vương khao ba quân tướng sĩ. Bắc Kinh Sau Hàng Châu, Tô Châu và Thương Hải, tôi đến Bắc Kinh vào cuối muà Đông. Những cơn gió lạnh buốt thổi từ sa mạc Gô Bi làm cho cái lạnh –5 ºC rất khô nhưng dễ chịu. Với dân số 15 triệu người, Bắc Kinh là thành phố lớn thứ hai sau Thượng Hải. Sau 20 năm theo chính sách "mở cửa", xe đạp bây giờ phải nhường bước cho xe hơi. Tuy nhiên, trên những con đường chính tại Bắc Kinh 1/2 hoặc 1/3 mặt đường được dành độc quyền cho người đi xe đạp. Cũng như Quảng Châu và Thượng Hải, phương tiện giao thông công cộng chính là xe bus và xe điện ngầm. Bắc Kinh có hơn 900 tuyến đường xe bus chạy ngang dọc thành phố. Đại lộ Trường An là một con đường chính đi qua Quảng Trường Thiên An Môn, trung tâm shopping và ẩm thực Wangfuching (Vương Phủ Tỉnh). Dọc theo con đường nầy là những tòa nhà hành chánh của chính phủ, trung tâm thương mãi và những khách sạn cao tầng năm sao. Quảng Trường Thiên An Môn là trung tâm của Bắc Kinh nơi du khách dập dìu qua lại ngày đêm. Trước Quảng Trường, năm ba con diều giấy nhiều màu sắc bay thong dong trên bầu trời mùa đông Bắc Kinh làm tôi nhớ lại truyện "Con Diều Giấy" của nhà văn Lỗ Tấn. Nền trời trong xanh như mùa thu Tokyo nhưng không buồn bã như ông đã từng diễn tả vì đường phố Bắc Kinh ngày nay lúc nào cũng sinh động. Tôi dùng xe bus và xe điện ngầm như người dân Bắc Kinh để đến những điểm du lịch như Quảng Trường Thiên An Môn, Cố Cung (Tử Cấm Thành), Thiên Đàn (Temple of Heaven), Di Hòa Viên v.v… Thiên An Môn là cửa chính của Cố Cung nơi xuất phát đi tham quan các cung điện của vua chúa triều đình nhà Minh và nhà Thanh. Đây là những kiến trúc vĩ đại đối xứng xây dựng rất tốn kém với vô số chạm khắc trên gỗ trên đá cực kỳ tinh vi. Những mái ngói ở đây có màu vàng đồng nhất là màu biểu tượng của nhà vua. Cái hoành tráng và uy nghi của Cố Cung đã được ống kính của đạo diễn Bernado Bertolucci làm sống lại trong bộ phim nổi tiếng "The Last Emperor". Với giá "bao cấp" 15 cents US, dân chúng có thể đi lại trên tuyến đường xe bus dài 10 – 15 km. Quãng đường từ trung tâm thành phố Bắc Kinh đến Di Hoà Viên là 25 km chỉ tốn 50 cents. Di Hoà Viên và Viên Minh Viên là hai Ngự Viên dành cho vua được thành lập dưới đời Càn Long nhà Thanh (thế kỷ 18). Năm 1860, Liên Quân Anh Pháp tấn công Bắc Kinh tàn phá hai Ngự Viên nầy, những toà nhà bị đốt cháy đến hai tháng trời mới hoàn toàn bị thiêu hủy. Về sau, Từ Hi Thái Hậu lợi dụng công qủi Hải Quân nhà Thanh xây lại Di Hòa Viên để bà ta có nơi nghỉ mát mùa hè. Viên Minh Viên vẫn còn hoang phế cho đến ngày hôm nay. Di Hoà Viên Vạn Lý Trường Thành Những trận tấn công của những bộ lạc du mục phương Bắc là nỗi kinh hoàng của Hán tộc qua mấy ngàn năm lịch sử. Vì vậy, sau khi thống nhất Trung Nguyên Tần Thủy Hoàng huy động nhân dân làm sai dịch xây Trường Thành để ngăn chận những cuộc xâm lược của người Mông Cổ và người Kim (Mãn Châu). Xương máu đã đổ rất nhiều vào công trình to tát nầy. Vạn Lý Trường Thành có chiều dài là 6300 km. Sau nhà Tần, Trường Thành được tiếp tục gia cố trong khoảng thời gian 1500 năm kể từ đời Hán đến đời Minh. Khi người Mãn Châu xâm chiếm Trung Nguyên diệt nhà Minh thành lập nhà Thanh, Trường Thành mất ý nghĩa và trở nên hoang phế. Ở đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, Trường Thành được gia cố trở lại để đón những đoàn quân du khách đến "xâm lăng".. Mao Trạch Đông có viết "Bất đáo Trường Thành, phi hảo hán" [5]. Đến Bắc Kinh mà không viếng Vạn Lý Trường Thành thì quả là một điều thiếu sót. Gần Bắc Kinh dọc theo Trường Thành có nhiều cửa ải mà bây giờ là những điạ điểm du lịch. Cửa Badaling (Bát Đạt Lĩnh) cách Bắc Kinh 100 km là điểm gần nhất được "cận đại và thương mãi hoá" có cả dây cable lên xuống. Tuy nhiên cũng còn nhiều chỗ còn hoang sơ như Gubeikou (Cổ Bắc Khẩu) cách Bắc Kinh 200 km đường xe lửa. Tôi đến cửa ải Juyongguan (Cư Dung Quan). Cư Dung Quan là tên gọi từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, là một cửa ải yết hầu của Bắc Kinh. Những ngọn núi ở đây rất hùng vĩ và Trường Thành được xây dọc theo triền núi như con rắn khổng lồ lúc ẩn lúc hiện. Muốn đi lên đến đỉnh cũng phải bước hơn một ngàn bậc đá theo vách núi gần như thẳng đứng. Gió cuối đông thổi rất lạnh, nhưng trong người vẫn toát mồ hôi! Từ trên cao nhìn Trường Thành mới thấy đây là kỳ quan thế giới, người ta không khỏi thán phục trước một kiến trúc quân sự vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Người ta cũng không khỏi ngậm ngùi khi biết hàng trăm vạn sinh linh đã bỏ mình dưới chân Trường Thành và những cuộc ác chiến máu chảy thành sông cũng đã xảy ra ở chốn nầy. Ẩm thực Văn hóa ẩm thực Trung Quốc thật là phong phú vì người Trung Quốc có chủ trương "thực vi tiên" (ăn là trước nhất). Những hiện vật cổ đại dược khai quật phần lớn là những công cụ nấu ăn hoặc vại chứa rượu. Điều nầy cho biết sự cầu kỳ trong việc ăn uống của người Trung Quốc từ xưa. Tôi theo phương thức "Tây ba lô" đi vào những ngõ ngách để tìm chỗ ăn uống vừa rẻ, vừa ngon, vừa nhiều! Ở những quán ăn bình dân, một buổi ăn no bụng chỉ tốn trên dưới $1 USD. Những Food Court "sang trọng" hơn như ở trung tâm Wangfuching (Bắc Kinh), người ta bán thức ăn khắp mọi miền Trung Quốc (cháo thịt Quảng Châu, mì cay Tứ Xuyên, giò hầm Giang Nam, thịt dê Mông Cổ….) , sushi Nhật Bản, bibimbab kimchi Hàn Quốc với một giá bình dân. Món đặc sản Bắc Kinh là "vịt nướng Bắc Kinh" với một vài chai bia Tsingtao cũng không quá $10 cho một người. Thịt cầy cũng là món không thể thiếu trong thực đơn Trung Quốc. Trong tiệm vịt nướng, cô phục vụ mời tôi ăn món "Thần Tiên Cẩu Nhục Lẩu". Cái tên gì đâu chỉ nghe thoáng qua cũng đủ giật mình. Tôi tò mò hỏi "Thịt chó thật à?", "Thật mà!" cô ta vừa trả lời vừa chỉ hai người khách đang nhai ngồm ngoàm bên cái lẩu cầy thật to. Tôi không thuộc trường phái "mộc tồn" nên thoạt nhìn đã hơi "ớn lạnh", lại nói đuà "Thảo nào tôi không thấy con chó nào chạy lanh quanh trên đường phố Bắc Kinh", cô ta thật thà trả lời "Không, không! Chó chúng tôi nuôi không phải chó chạy ngoài đường…". Tôi cười cười lịch sự bảo "Hôm nay tôi ăn vịt, hôm khác tôi đến ăn cầy, được không?"…. Có lẽ thức ăn Quảng Châu gần gũi với khẩu vị người Việt Nam hơn. Tôi không quên được bát phở thịt bò vò viên thơm phức ăn với nước mắm và tương ớt trong một tiệm phở mì bên cạnh Công Viên Hoàng Hoa Cương (Quảng Châu). Ở Bắc Kinh, thức ăn dường như đã pha trộn với thức ăn Mông Cổ và Mãn Châu. Trong một tiệm ăn tại Wangfuching, những office ladies xinh xắn ăn sáng với một khúc "dầu chá quẩy" dài gần 50 cm chấm vào một tô sữa đậu nành vừa ăn vừa uống xì xụp một cách ngon lành. Phải nói là người Trung Quốc thích ăn vặt. Ở Quảng Châu cũng như ở Thượng Hải hay Bắc Kinh những hàng thịt nướng tấp nập khách ăn đêm. Tôi thấy có cả bọ cạp dài hơn 5 cm nướng với xì dầu (soy sauce grilled scorpion)!!! Văn Hoá Về món ăn tinh thần, trên đại lộ Trường An (Bắc Kinh) tôi tìm thấy 2 "department stores" 6 tầng bán sách đủ loại tấp nập người mua. Người Trung Quốc thích mua sách và đọc sách không kém người Nhật. Khi đến Hàng Châu tôi đã vào một nhà sách lớn tương đương với nhà sách Kinokuniya ở Shinjuku (Tokyo), nhưng khi bước vào "department store" sách nầy, tôi choáng ngợp với lượng sách bán ở đây. Sách được trưng bày nhiều nhất là sách quản lý kinh tế, phương pháp lãnh đạo, nguyên tắc làm giàu, kế toán. Best seller là những quyển nói về nhà tỷ phú Li Kashing (Lý Gia Thành) của Hong Kong. Sách về Mác - LêNin, tư tưởng Mao Trạch Đông được "tân trang" với bìa sách cứng trang trọng. Một loạt sách hoài niệm Mao Trạch Đông được xuất bản để kỷ niệm ngày sinh thứ 110 của ông. Những bộ sách cổ "Tứ Thư Ngũ Kinh", sách về tôn giáo, những bộ "Đường Thi" "Tống Từ" dày ngót một ngàn trang với những chú thích cho độc giả hiện đại cũng hấp dẫn nhiều khách hàng trẻ tuổi. Nhà sách có những tầng riêng cho khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, ngôn ngữ học. Đài Truyền Hình Trung Ương Trung Quốc (CCTV) có nhiều kênh phụ trách những tiết mục khác nhau về kinh tế, xã hội, quốc phòng, lịch sử, khoa học, nhạc kịch cho mọi lứa tuổi và sở thích. Tin tức và bình luận kinh tế được đặc biệt chú trọng trong phần thông tin mỗi ngày. Ngoài ra, trong chương trình thi văn có những buổi bình luận và tranh luận về những bài cổ thi hoặc giải thích ý nghiã của những chữ Hán cổ với những tương quan lịch sử và điạ lý. CCTV còn có một kênh nói tiếng Anh với những phát ngôn viên có lẽ là người Mỹ gốc Hoa. Ngoài những tin tức cập nhật, có chương trình phát hình giới thiệu văn hóa, xã hội Trung Quốc và chương trình dạy tiếng Hán cơ bản cho người nước ngoài. Tôi đặc biệt chú ý đến chương trình hằng đêm dành cho quốc phòng vì nhiều lý do. Một trong những lý do chính là người điều khiển chương trình là một nữ quân nhân với quân hàm Trung Úy Không Quân ăn nói có duyên, rất trẻ và rất bắt mắt….. Tôi có cảm giác như càng đi về phía Bắc các cô gái Trung Quốc càng cao và càng đẹp ra. Quần áo thời thượng đúng "mốt", yểu điệu bước đi, tóc dài lả lướt, "Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung" [6], chẳng hỗ thẹn là con cháu Tây Thi Bao Tự lừng lẫy một thời…. Wangfuching là nơi hẹn hò cũng là nơi khoe sắc áo. Chiều xuống có những cặp trai gái đứng hôn nhau ở một góc phố, hôm nầy đi ngang thấy một anh Tây với một cô Tàu, hôm kia một anh Tàu với một cô Tàu. Tây thì thoải mái, Tàu hơi ngượng nghịu. Một đêm tôi lững thững nơi nầy, một cô gái trẻ đẹp nhưng có vẻ già dặn chạy lại hỏi tôi bằng tiếng Phổ Thông là có muốn đi hát karaoke, vừa rẻ lại vừa nhiều cô đẹp. Tôi giả đò không hiểu, trả lời tiếng Anh. Tưởng đâu thoát nạn, không dè cô ta nói một tràng tiếng Anh lặp lại lời rủ rê. Tôi từ chối không dám phiêu lưu. "Chủ nghĩa thực dụng" của người Trung Quốc phản ảnh qua những công trình xây dựng và thẩm mỹ quan. Nếu cần, họ rất cầu kỳ. Nếu không cần, họ không màng đến chi tiết. Họ có thể đi từ một cực đoan nầy đến một cực đoan khác một cách rất thoải mái. Khu Wangfuching như Ginza của Tokyo là "thiên đàng của người đi bộ", ở đây thay vì trồng hoa người ta mang những chùm hoa plastic xanh xanh đỏ đỏ trang hoàng dọc hai bên phố cho… đẹp mắt. Nam Kinh Lộ là một khu phố sầm uất của Thượng Hải. Hai bên đường là những căn phố lầu hai tầng, phiá dưới là nơi buôn bán sang trọng, phiá trên là nhà ở mà cũng là nơi để những cây sào phơi quần áo kể cả nội y phụ nữ chỉa thẳng ra ngoài! Tôi không thể dung hoà được những vẻ đẹp của những kiến trúc cổ xưa với những cái "thực dụng" hiện tại, cũng như cái cung cách "phong lưu tài tử" qua những bài Đường Thi và cái thói "khạc nhổ" ngàn năm vẫn tồn tại trên đường phố. Trăm thấy không bằng một sờ… Hai mươi năm sau khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố chính sách "mở cửa" thực thi "xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Quốc" (= chủ nghĩa kinh tế thị trường tư bản) theo chủ trương "mèo trắng mèo đen" của ông [7], Trung Quốc đã có những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế và phát triển xã hội. Việc biến làng đánh cá Thẩm Xuyến gần Hong Kong thành một đô thị kinh tế có tầm cỡ trong vòng 20 năm thì phải công nhận là một kỳ tích có một không hai. Họ đã học hỏi nhanh chóng phương pháp phát triển kinh tế, tài chánh của tư bản Âu Tây. Xem CCTV, tôi cảm nhận họ cũng học được cách tuyên truyền rất tinh vi kiểu Mỹ. Lối tuyên truyền thô thiển của thời kỳ "Cách Mạng Văn Hoá" với lối nói con vẹt sáo rỗng không còn chỗ đứng trong xã hội Trung Quốc ngày hôm nay. Những biểu ngữ tôn vinh Đảng Cộng Sản không còn thấy trên đường phố, thay vào đó là những khẩu hiệu khuyến khích người dân cố gắng nói tiếng Phổ Thông (Mandarin) để thống nhất tiếng nói và yêu cầu tập thói quen văn minh làm sạch đường phố tránh khạc nhổ nơi công cộng.. Mặt khác, người Trung Quốc có một thái độ rất thực tiễn trong việc rút tỉa kinh nghiệm của 5000 năm văn hiến. Họ không nằm trên bề dày lịch sử tự hào suông để thoả mãn lòng tự ái dân tộc hẹp hòi mà họ phân tích những câu chuyện lịch sử vài ngàn năm trước để vận dụng sáng tạo vào những họat động chính trị hành chánh cho việc trị quốc và bang giao quốc tế ở thế kỷ 21. Chủ nghiã "anh hùng dân tộc" cũng không được đề cập trên sách báo. Về mặt chính trị nó đi ngược lại chủ trương đoàn kết 56 dân tộc trong cộng đồng Trung Quốc, phản ảnh một thực tế Trung Quốc là một đất nước đa dân tộc đa văn hoá và đa ngôn ngữ. Ngày nay, triều đình nhà Nguyên (Mông Cổ) và nhà Thanh (Mãn Châu) không còn xem là triều đình ngoại tộc. Hốt Tất Liệt, Khang Hy, Càn Long được đặt ngang hàng như những vị vua Hán tộc khác. Thậm chí, Thành Cát Tư Hãn cũng được xem là một anh hùng có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Có lẽ Trung Quốc là một nước duy nhất trên quả điạ cầu nầy có thể đồng hoá được kẻ xâm lược bằng nền văn minh lâu dài của mình. Trung Quốc đã đi qua những bước thăng trầm lịch sử từ thời kỳ vàng son "Thạnh Thế Đại Đường" đến thời kỳ đen tối "bán thuộc điạ" bị liệt cường Âu Tây và Nhật Bản xâu xé vào những ngày cuối cùng của triều đại nhà Thanh. Từ kinh nghiệm lịch sử, Trung Quốc sẽ không dừng lại ở vị trí hiện tại là một nơi sản xuất những đồ rẻ tiền bán cho thế giới mà họ chỉ dùng cơ sở nầy quyết tâm trở thành một cường quốc về khoa học kỹ thuật và không gian. Điều nầy thể hiện rõ qua câu nói của một chuyên gia ngoại giao Trung Quốc trong một buổi mạn đàm trên đài truyền hình Bắc Kinh; ông ta bảo "cuộc cải cách hiện tại là một cơ may duy nhất nước ta có kể từ cuộc "Chiến Tranh Nha Phiến" (1840)". Đọc lịch sử Trung Quốc và tham quan thực địa là một dịp để "ôn cố tri tân" và để "biết người biết ta". Không phải ngẫu nhiên, học giả Nguyễn Hiến Lê đã dành phần lớn cuộc đời của mình trong việc dịch thuật những kinh điển Trung Quốc. Trong chuyến du hành hai tuần nầy tôi học hỏi được nhiều điều, gọt bớt được nhiều thiên kiến. Người ta bảo "Trăm nghe không bằng một thấy", tôi đi thêm một bước nữa là "Trăm thấy không bằng một sờ"! March 2004 (viết lại February 2007) Chú Thích 1. "Ngô Vương trong cung mê mệt với Tây Thi" trong bài "Ô Thê Khúc" của Lý Bạch 2. Xem "Tô Đông Pha", Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản 3. "Gương mặt cô gái và hoa đào cùng rạng ánh hồng" (nói đến nét tươi thắm của người con gái) trong bài "Đề Đô Thành Nam Trang" của Thôi Hộ 4. Xem "Chân trời cũ" của Hồ Dzếnh. Người lữ khách Trung Quốc là thân phụ Hồ Dzếnh 5. "Chưa đến Trường Thành thì chưa phải là người hảo hán" 6. "Xiêm y tưởng là mây, dung nhan tưởng là hoa", một câu tán tụng sắc đẹp của Dương Quí Phi trong bài "Thanh Bình Điệu" của Lý Bạch 7. Đặng Tiểu Bình có lần tuyên bố "Không cần biết chú mèo màu trắng hay đen, miễn bắt chuột là được".
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:45:42 GMT 9
Trung Quốc Du Hành Ký - Quảng Châu Trương Văn Tân Tôi đến Quảng Châu vào một buổi tối sau những ngày Tết Nguyên Đán Giáp Thân. Khi chiếc máy bay hạ cánh xuống phi trường Bạch Vân của thành phố Quảng Châu kết thúc chuyến đi dài 9 tiếng đồng hồ từ Úc tôi không có nhiều kỳ vọng vào Quảng Châu, vẫn nghĩ Quảng Châu là một thành phố tạp nham người xe lẫn lộn như những bức hình tôi thấy vài thập niên trước. Nhưng khi chiếc taxi chở tôi vào khách sạn ở trung tâm thành phố, tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Quảng Châu đã có những đường xe cao tốc trong thành phố, hai bên đường san sát những toà nhà cao tầng hành chánh, thương mãi hay là những toà nhà chung cư cho dân thành phố. Với những dòng chữ Hán dọc theo bên đường, những tấm biển quảng cáo neon đủ màu sắc, xe hơi chạy ào ạt trên những con đường cao tốc lập thể làm tôi có cảm giác như đang trở lại Tokyo nhưng với một bầu trời khoáng đảng hơn vì so với Nhật đường cao tốc ở đây rộng rãi và những toà nhà đồ sộ hơn. Tôi ngẩn ngơ không biết đây có phải là Quảng Châu, Trung Quốc, bởi vì sự tưởng tượng và thực tế cách nhau quá xa. Phạm Hồng Thái và Hoàng Hoa Cương Tôi đến Trung Quốc lần thứ nhất và Quảng Châu là thành phố Trung Quốc tôi đặt chân đến đầu tiên. Lâu nay tôi vẫn mong được đến thành phố nầy để viếng thăm Hoàng Hoa Cương nơi chôn cất liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Việc đầu tiên của sáng ngày hôm sau là tìm đường đến Hoàng Hoa Cương. Hoàng Hoa Cương nằm trên một con đường chính của thành phố có tên là Đường Tiên Liệt (Senle Lu: Tiên Liệt Lộ). Tên chính thức của Hoàng Hoa Cương là Công Viên Hoàng Hoa Cương một trong “Quảng Châu Bát Cảnh” của thành phố. Đây là nơi chôn cất 72 người liệt sĩ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng cầm đầu một cuộc khởi nghĩa không thành công chống triều đình nhà Thanh ngày 27 tháng 4 năm 1911. Toàn thể 72 người liệt sĩ bị giết hoặc xử tử. Những người nầy là những đảng viên trẻ và ưu tú của Quốc Dân Đảng. Mặc dù thất bại cuộc khởi nghĩa nầy dẫn đến Cách Mạng Tân Hợi thành công tại thành phố Vũ Xương gần 6 tháng sau đó (ngày 10 tháng 10 năm 1911). Chủ Tịch Quốc Dân Đảng là Bác Sĩ Tôn Dật Tiên tuyên bố sự cáo chung của nhà Thanh mở ra thời đại Trung Hoa Dân Quốc. Thật ra, Hoàng Hoa Cương là nơi an nghỉ của hơn 80 người anh hùng liệt sĩ thời Dân Quốc mà Phạm Hồng Thái là một liệt sĩ nước ngoài duy nhất được chôn cất ở đây. Hoàng Hoa Cương chiếm một diện tích 130 000 m2 với một cửa Tam Quan hùng tráng được khắc bốn chữ “Hạo Khí Trường Tồn” do Bác sĩ Tôn Dật Tiên đề. Đi qua cửa Tam Quan là bức tượng Nữ Thần Tự Do được mô phỏng theo Statue of Liberty của Mỹ. Từ cửa Tam Quan là một con đường 200 m dẫn đến tấm bia khắc tên 72 liệt sĩ. Mỗi ngôi mộ ở đây được xây cất theo nhiều phong thái khác nhau trông rất hùng tráng và uy nghiêm. Mộ của Phạm Hồng Thái ở phiá sau công viên tọa lạc trên một khoảnh đất khá rộng. Trước khi bước vào khuôn viên ngôi mộ có một tấm bia lớn viết bằng tiếng Hán lược thuật lại hành động anh hùng của ông. Ngày 19 tháng 6 năm 1924, sau khi viết bảng cáo trạng tố cáo tội ác của thực dân Pháp đến nhân dân toàn thế giới, Phạm Hồng Thái giả dạng ký giả vào Khách Sạn Victory tại tô giới Sa Diện để ám sát toàn quyền Merlin. Merlin thoát chết và Phạm Hồng Thái phải gieo mình xuống dòng Châu Giang tự tử. Cảm xúc trước hành vi anh hùng của Phạm Hồng Thái, Thị Trưởng Quảng Châu lúc đó là Hồ Hán Dân của Chính Phủ Quôc Dân Đảng đem thi thể Phạm Hồng Thái an táng tại Nhị Vọng Cương trong khuôn viên Hoàng Hoa Cương. Ngôi mộ được thiết kế để tấm bia quay về hướng Tây Nam là hướng của Tổ Quốc Việt Nam. Đến năm 1958, vì nhu cầu xây đường xe trong thành phố ngôi mộ được di chuyển đến vị trí hiện tại và được Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Quảng Châu trùng tu cho đến ngày hôm naỵ Tấm bia được viết bằng tiếng Việt phiá trên “Mộ Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái”, phần dưới tiếng Hán ghi là “Việt Nam Phạm Hồng Thái Liệt Sĩ Chi Mộ”. Tôi đứng trước ngôi mộ chắp tay lại vài giây để tưởng niệm một người anh hùng đã vì sự nghiệp giải phóng dân tộc bỏ mình nơi đất khách. Tôi có mua một quyển sách nhỏ giới thiệu Hoàng Hoa Cương bằng tiếng Hán trong đó hình ảnh và tiểu sử Phạm Hồng Thái chiếm hai trang. Kế bên ngôi mộ Phạm Hồng Thái có một ngôi mộ người Việt Nam nhỏ hơn trông rất đơn sơ qua đời năm 1967 có lẽ là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng không biết có liên hệ gì đến Phạm Hồng Thái. Mộ Phạm Hồng Thái Tôi đến công viên Hoàng Hoa Cương đúng vào buổi sáng một ngày thứ Bảy của những ngày sau Tết Nguyên Đán nên khách vãng lai khá nhiềụ Có những cô cậu học sinh đứng trước những ngôi mộ ghi ghi chép chép. Những cặp vợ chồng trẻ với con nhỏ quây quần bên nhau dưới những hàng cây cao rợp bóng. Những người trung niên thì tụ tập trước những sân trống của những ngôi mộ đá cầu lông hoặc tập nhảy những điệu nhảy Rhumba, Tango trông rất là điệu nghệ. Những người cao niên hơn thì tập Taichi hoặc cùng nhau ca những bài ca Việt Kịch (kịch Quảng Đông) với sư hỗ trợ của tiếng đàn Nhị hồ và tiếng sáo. Tôi đi lửng thửng thì gặp một nhóm ông bà cụ tụ tập rất đông đảo. Một bà cụ vừa ca vừa thách thức một ông cụ, ông cụ ca lại nhưng có vẻ đối đáp không lại bà cụ. Những người xung quanh vừa vổ tay vừa cười ra chiều thích thú. Tất cả tạo nên một cảnh sắc vui tươi nhộn nhịp và thanh bình chưa từng thấy. Ca được một lúc họ giải tán. Tôi tò mò hỏi bà cụ ban nảy bằng tiếng Phổ Thông (Mandarin) nhát gừng của tôi “Qúi vị làm gì mà vui thế??”, bà cụ nghe cái giọng trọ trẹ của tôi hỏi lại “Cậu từ đâu tớỉ Hong Kong? Singapore Malaysia” “Không! Từ Úc Châu”, bà ấy la lên “À… Tôi cũng có thân nhân ở Úc”. Thế là bà cụ nắm tay tôi ca một mạch gần 5 phút những câu chúc Tết “Kong hee fat choy, Vàng ngọc đầy nhà, Dồi dào sức khỏe, Trường thọ diên niên…..”. Người đi qua lại nhìn tôi không biết chuyện gì xãy ra. Tôi ngơ ngác hơi “quê”, nhưng đến thăm Hoàng Hoa Cương lại được một bà cụ chúc Tết “tràng giang đại hải” thì thế nào cũng có một năm may mắn, “phúc mãn đường” vậỵ "Tiếng bom Sa Diện" Tối hôm sau tôi cùng một người bạn Trung Quốc đi dạo một vòng “Quảng Châu by night” bằng xe hơi. Dòng sông Châu Giang chảy ngang thành phố Quảng Châu. Bên nầy con sông là trung tâm sầm uất, bên kia con sông nhà cửa ít hơn và trên đà phát triển với một tòa nhà đồ sộ của Trung Tâm Triển Lãm Thương Mãi Quốc Tế. Chúng tôi chạy sang bên kia bờ để nhìn thành phố về đêm với những toà nhà cao tầng rực sáng. Hai bên bờ người ta trồng những hàng dừa (palm tree) dài hơn 5 km đươc phản xạ bằng những ánh đèn màu xanh trông rất huyền ảo. Khi chúng tôi băng qua cầu để trở lại thành phố, một tấm bảng chỉ đường tình cờ đập vào mắt tôi với hai chữ Hán “Sa Diện” (Sa = cát, Diện = mặt) đọc theo tiếng Phổ Thông (Mandarin) là “Sa Mian”. Tôi bàng hoàng vì nơi đây đã xảy ra “Tiếng bom Sa Diện” của anh hùng Phạm Hồng Thái 80 năm trước. Tôi vội vã yêu cầu anh tài xế chạy theo hướng nầy để tìm Khách San Victory. Sa Diện thật ra là một hòn đảo nhỏ trên dòng Châu Giang. Ở đây con sông chia ra làm hai nhánh đổ ra biển. Sa Diện là một tô giới Anh dưới triều nhà Thanh. Nơi đây còn lại những tòa nhà với kiến trúc Tây Phương ở thế kỷ 18, 19. Khách Sạn Victory do người Anh xây cất là một toà nhà cao ba tầng chiếm một góc đường và bây giờ được đổi tên là Khách Sạn Shengli (Thắng Lợi). Phiá trước mặt là một con kênh thông với sông Châu Giang cách đó không xa. Khi nhìn Khách Sạn này tôi bỗng nhớ đến một đoạn Sử học thuộc lòng ở thời kỳ Trung Học; “Sau khi ném bom thất bại, Phạm Hồng Thái chạy ra khỏi Khách Sạn. Bọn mật thám Pháp vừa đuổi theo vừa bắn. Phạm Hồng Thái chạy theo hình chữ “chi” để tránh đạn và hướng về phiá sông Châu Giang rồi nhảy xuống sông trầm mình tự tử”. Khi chiếc xe rẽ theo góc đường dọc theo Khách Sạn chạy về hướng sông Châu Giang lòng tôi cảm khái vô hạn. Có thể đây là con đường thoát thân của Phạm Hồng Thái 80 năm trước. Ở con đường ngang nầy bây giờ xuất hiện một nhà hàng có tên là “Vietnam Cuisine” thấp thoáng những cô gái Trung Quốc mảnh khảnh trong chiếc áo dài Việt Nam tha thướt. Người bạn Trung Quốc nói nhỏ với tôi “Đây là khu vực nhà cao cấp cua newly-rich!!”. Cách Khách Sạn Victory không xa là Khách Sạn năm sao White Swan (Bạch Thiên Nga) cao 30 tầng là một trong những biểu tượng của thành phố Quảng Châu hiện đại.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:46:34 GMT 9
Viện Bảo Tàng Nam Việt Vương
Ngày kế tiếp tôi dùng xe điện ngầm đến thăm Viện Bảo Tàng lăng của Nam Việt Vương ngang Công Viên Việt Tú là công viên lớn nhất của thành phố Quảng Châu. Nơi đây là lăng của Văn Vương Triệu Muội (Zhao Mei) [1] là cháu nội của Vũ Vương Triệu Đà (Zhao Tuo). Triệu Muội là vua thứ hai của nước Nam Việt kế tục Triệu Đà. Lăng nầy tình cờ được phát hiện năm 1983 khi những chiếc xe xúc đất va vào một bức tường đá kiên cố dưới lòng đất trong một chương trình xây cất một trung tâm thương mãi tại khu vực nầy. Các chuyên gia về địa chất và khảo cổ được mời đến để tham gia vào việc khai quật hơn 1000 hiện vật cách đây hơn 2000 năm. Những hiện vật nầy phần lớn là những công cụ nấu ăn, vại chứa rượu, cốc uống rượu làm bằng đồng với những chi tiết điêu khắc rất là tinh vi. Sự phát triển đồ đồng có hơn 4000 năm trước. Điều nầy cũng dễ hiểu vì đồng có thể tinh luyện ở 1000º C trong khi sắt ở 1500º C. Những bộ dấu ấn bằng vàng của vua, thái tử, hoàng hậu và các bà phi cũng được trưng bày. Ngoài ra, có những hiện vật trang trí hoặc trang sức bằng ngọc được chạm khắc với một kỹ xảo tuyệt vời. Thi thể của Triệu Muội được bọc một khung có lát hằng ngàn ngọc lá. Bây giờ thi thể không còn gì mà chỉ còn một hàm răng của người đàn ông trên dưới 50. Ở một gian phòng khác người ta trưng bày những vị thuốc Bắc và những hạt mực để làm mực viết và vũ khí các loại. Có những thanh kiếm sắt dài hơn 1 m đã hoen rỉ, những mũi tên đồng bắn liên hoàn có thể là những mũi tên mà Triệu Đà dùng cho “nỏ thần” mà ông ta học được của An Dương Vương nước Âu Lạc.
Nhân vật Triệu Đà và nước Nam Việt là những sự kiện quen thuộc trong lịch sử Việt Nam. Cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc (2300 năm trước) tại Trung Quốc, Tần Vương Chính tóm thu sáu nước thống nhất Trung Nguyên (khu vực phiá Bắc sông Trường Giang) lên ngôi hoàng đế xưng là Tần Thủy Hoàng. Sau đó Tần Thủy Hoàng đem quân vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) thôn tính các nước Bách Việt. Cũng nên nói thêm là Bách Việt là khu vưc phiá nam trung lưu va hạ lưu sông Trường Giang, bây giờ là một phần của tỉnh An Huy, tỉnh Giang Tây (Dương Việt), tỉnh Chiết Giang (Ư Việt), tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt), Lưỡng Quảng (Quảng Đông/Quảng Tây) (Nam Việt); Bắc bộ và Bắc Trung bộ Việt Nam (Âu Việt và Lạc Việt). Quân Tần dừng chân ở Lưỡng Quảng. Triều đình nhà Tần giao việc quản lý Lưỡng Quảng cho một viên quan lại tên là Triệu Đà gốc người Hồ Bắc (Trung Quốc). Sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, loạn lạc nổi lên. Thừa cơ hội nầy, Triệu Đà thành lập cát cứ xưng vương lấy tên là Triệu Vũ Vương và đặt tên nước là Nam Việt bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay, thủ đô là Phiên Ngung (Panyu, Quảng Châu ngày nay). Sau đó, Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc (Việt Nam) của Thục Phán An Dương Vương sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt qua chuyện tình nổi tiếng Trọng Thủy Mỵ Châu.
Lúc bấy giờ tại Trung Nguyên, sau khi nhà Tần sụp đổ thì xảy ra một cuộc tranh hùng giữa Hán Vương Lưu Bang và Sở Vương Hạng Võ. Lưu Bang chiến thắng và thành lập nhà Hán. Sau khi lập quốc, ba đời vua Hán còn vướng bận với việc chống trả người Hồ (Hung Nô) phương Bắc, trong triều đình lại bị Lữ Hậu (vợ Lưu Bang) chuyên quyền. Trong thời gian nầy nước Nam Việt được để yên khoãng 100 năm. Trong suốt cuộc đời làm vua, Triệu Đà nhiều lần thách thức Hán Triều để củng cố nền độc lập nước Nam Việt. Triệu Đà làm vua đươc 67 năm thì đến Triệu Muội (15 năm) và 3 đời vua sau (13 năm). Khi Hán Vũ Đế lên ngôi, vị vua trẻ nầy dùng vũ lực hoặc chính sách hòa thân (gả công chuá làm thông gia) để bình định người Hung Nô. Sau khi rảnh tay với Hung Nô, Hán Vũ Đế cử quân đánh Nam Việt. Nước Nam Việt bị diệt. Nước Âu Lạc là một phần của Nam Việt nên đất đai Âu Lạc cũng bị nhà Hán thống trị. Thời kỳ Bắc Thuộc 1000 năm bắt đầu.
Có một chi tiết mơ hồ là khi tôi học lịch sử Việt Nam ở thời Trung Học, những sách giáo khoa Sử thường xem Triệu Đà như một ông vua Việt Nam. Thậm chí, trước 1975 ở Quận 5 Sài Gòn cũng có con đường Triệu Đà. Vì Triệu Đà là vua của vùng đất Lưỡng Quảng nên các sử gia “nghiệp dư” lại tiến thêm một bước nữa, tuyên bố “Lưỡng Quảng là vùng đất cũ của Việt Nam”! Khi đến Quảng Châu tôi thấy người ta dùng từ “Việt” rất nhiều chẳng hạn như “Việt Kịch” (kịch Quảng Đông) “Việt Ngữ” (tiếng Quảng Đông), Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng chữ “Việt” ở đây viết theo bộ Mễ (= gạo)粤 . Có lẽ truyền thống Bách Việt vẫn còn ảnh hưởng đậm nét qua ngôn ngữ và văn hoá người Quảng Đông. Chữ Việt bộ “Tẩu” (= chạy, thí dụ: Việt Nam) 越 vẫn dùng qua lại với chữ “Việt” bộ “Mễ” trong quá trình lịch sử Bách Việt mấy ngàn năm. Cuối thời Xuân Thu (2500 năm trước), không phải một cách ngẫu nhiên Việt Vương Câu Tiễn dùng chữ Việt bộ Tẩu để đặt tên cho vương quốc của mình (bây giờ là điạ phận tỉnh Chiết Giang là một phần của Bách Việt). Tôi sẽ nói về Việt Vương Câu Tiễn ở phần sau. Nam Hoa Thiền Tự
Trước khi đi Trung Quốc, một người đồng nghiệp trong cơ quan đề nghị với tôi nên thăm chuà “Nam Hoa Thiền Tự”, đến đây lạy Phật thì sẽ có nhiều “phúc đức”. Ngôi chùa nầy ở gần thị trấn Shaoguan (Thiều Quan) cách thành phố Quảng Châu 200 km về phiá Bắc. Chùa nầy được thành lập 1500 năm trước do một sư tổ người Ấn Độ (Bồ Đề Đạt Ma) đến Trung Quốc truyền đạo. Sư tổ đời thứ sáu Lục Tổ Huệ Năng sáng lập môn phái Thiền Tông là một nhà tư tưởng Phật Giáo được đặt ngang hàng với Khổng Tử và Lão Tử [2]. Đến chùa nầy phải đi bằng xe lưả. Không biết tôi có được cái may mắn hưởng nhiều “phúc đức” khi đến chùa Nam Hoa hay không nhưng tôi muốn biết kiến trúc của một ngôi chùa cổ và "thám hiểm" bằng xe lửa để thấy được sinh hoạt thật của người dân Trung Quốc. Nhà Ga và Xe Lửa
Khi tôi đến ga xe lửa Quảng Châu thì từ xa đã thấy người trùng trùng lớp lớp. Người ta về quê ăn Tết bây giờ trở lại thành phố làm việc. Hằng chục ngàn người di động như một dòng thác trước quảng trường nhà ga. Từ xa những mái đầu người như những đợt sóng màu đen nhấp nhô không dứt. Tôi không nghe người ta la hét hoặc chửi bới. Họ di động với mớ hành lý cồng kềnh trong trật tự theo một qui luật bất thành văn. Tôi ở giữa dòng người ngơ ngơ ngác ngác, vai đeo ba lô đi những bước ngập ngừng không biết phải tiến thoái làm sao….. Điều khổ tâm khi du lịch Trung Quốc là người dân không biết tiếng Anh, bảng chỉ dẫn tiếng Anh lại không có. Trung Quốc là một nước đa dân tộc và nói nhiều giọng địa phương. Chính phủ khuyến khích người dân dùng tiếng Phổ Thông mà cơ bản là tiếng Bắc Kinh để có sự thống nhất tiếng nói. Dù vậy, nhiều người ở vùng sâu vùng xa vẫn chưa nói thông thạo.
Tôi chỉ biết nói tiếng Phổ Thông “lắp bắp” nhờ những bài học tiếng Trung Quốc của đài truyền hình Nhật Bản NHK. Nghe thì “loạng choạng”, nhưng nhờ Hán Tự (Kanji) trong tiếng Nhật nên không đến nổi “mù chữ”. Nhờ vậy tôi có thể sử dụng xe bus hay xe điện ngầm để di chuyển trong thành phố. Tôi chỉ dùng tiếng Phổ Thông “ba rọi” của tôi khi ở thế thượng phong làm “chủ” như ở trong nhà hàng, hoặc khách sạn để pha trò! Trong trường hợp hỏi thăm đường xá ở nhà ga thì nên giả câm giả điếc là cách hay nhất. Nói tiếng Phổ Thông “lắp bắp” chỉ làm cho người ta hiểu lầm tôi là một nông dân vùng núi vừa đến thành phố! Người Trung Quốc quá đông nên họ không có thì giờ đứng lại tỏ thái độ thân thiện hỏi han kẻ "lạc đường" như người Úc hay đối xử lễ phép như người Nhật. Làm sao bây giờ? Cái máu hải hồ trong tôi bỗng nhiên bừng dậy khiến cho cái đầu trở nên thông minh một chút…. Để hỏi cách thức mua vé, tôi viết chữ Hán nơi đi nơi đến cộng thêm vài dòng tiếng Anh linh tinh vào một tấm giấy. Tấm giấy có công hiệu như một lá bùa, không cần nói một lời chỉ đưa tấm giấy cho một cô bé ở phòng “Chỉ Dẫn” là tôi sẽ được đối xử một cách lịch sự duyên dáng, đến nơi đến chốn.
Xe lửa là phương tiện di chuyển chính liên tỉnh trên toàn quốc, tiện nghi và sạch sẽ. Trên chuyến xe lửa tôi đi, sau khi sắp xếp chỗ ngồi cho hành khách các cô nhân viên biến thành các cô bán đồ kỷ niệm. Đồ kỷ niệm ở đây là một tấm card mạ vàng giống như credit card, một bên là hình Mao Trạch Đông, mặt bên kia là số tử vi của 12 con giáp với hai câu đối “Vạn sự như ý” và “Xuất nhập bình an”!! Cô nhân viên quảng cáo tấm card gần 10 phút đồng hồ với giọng lanh lảnh như một nhà hùng biện. Tôi thấy nhiều người mua, tôi cũng bèn mua một tấm đúng con giáp của tôi để lấy hên đầu năm và được Bác Mao phù hộ!! Về phần “giúp vui” thì Cục Đường Sắt Trung Quốc cho hành khách nghe nhạc yêu nước hay nhạc ca tụng Mao Chủ Tịch với những lời ca hơi lổi thời như “Mao Chủ Tịch vạn tuế vạn vạn tuế” hay là “Mao Chủ Tịch ở mãi trong con tim chúng ta”… Người Trung Quốc nhất là nông dân dường như vẫn còn mang nhiều hoài niệm với Mao Trạch Đông.
************
Kể từ ngày Triệu Đà thành lập nước Nam Việt lấy Phiên Ngung làm thủ đô thì Quảng Châu có một lịch sử hơn 2000 năm. Tên Phiên Ngung vẫn còn nhưng bây giờ là Khu Phiên Ngung trực thuộc thành phố Quảng Châu. Quảng Châu cũng là nơi có nhiều liên hệ đến lịch sử Việt Nam cận đại. Ngoài Phạm Hồng Thái, nhiều nhà cách mạng Việt Nam cũng đã dừng chân tại đây cho những hoạt động cách mạng chống Pháp. Ngày nay Quảng Châu là một trung tâm thương mãi và kinh tế quan trọng của miền Nam Trung Quốc. Trong suốt 4 ngày tại đây, tôi không tìm được bóng dáng một căn nhà ở. Bảy triệu dân thành phố Quảng Châu đã bị chung cư hoá. Có những chung cư 10 tầng cũ kỹ, mốc thếch như chưa bao giờ được sơn. Có những chung cư đồ sộ hiện đại 20, 30 tầng cho những người khá giả hơn. Nhưng có lẽ nhờ vậy, tôi không thấy “slums” với những con kênh đen ngòm vì nước thãi. Hệ thống giao thông công cộng thành phố như xe bus và xe điện ngầm vừa rẻ vừa nhiều nên không thấy những chiếc xe hai bánh chạy hỗn độn như trên đường phố Sài Gòn.
Tôi từ giã Quảng Châu bay đến Thượng Hải. Từ trên máy bay tôi nhìn xuống dòng Châu Giang. Con sông đã từng làm chứng nhân cho bao cuộc thăng trầm lịch sử, bây giờ như trẻ lại loang loáng trong ánh nắng bình minh, vẫn lững lờ trôi về biển…
Chú Thích:
1. Viện Bảo Tàng ghi là Muội, "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" ghi là Hồ
2. Xem "Kinh Pháp Bảo Đàn", Thích Duy Lực dịch và lược giải
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 7:50:38 GMT 9
Trở Về Ký Ức Trương Văn Tân Sakura, nhạc truyền thống Nhật Trở lại Nhật Bản lần nầy tôi được cái may mắn làm một du khách cùng với Ba Mẹ tôi gia nhập vào một đoàn du lịch cùng chu du Nhật Bản. Dù là một du khách hơi "bất đắc dĩ", tôi cũng tìm được thời gian để nhìn lại Tokyo, Kyoto, Osaka, những khu trung tâm như Ginza, Shinjuku, Ikebukuro, Shinagawa. Thành phố Tokyo được phát triển nhiều mặt. Nhiều địa danh mới với những tuyến đường xe điện, xe điện ngầm mới làm tôi ngạc nhiên đến bàng hoàng. Vào thập niên 60 toà nhà cao 30 tầng gần ga Hamamatsu-cho đã từng được xem là toà nhà cao nhất nước Nhật. Sau khi Keio Plaza Hotel cao gấp đôi được xây gần cửa Tây ga Shinjuku với thiết kế chống động đất, người Nhật xây hàng loạt khách sạn 5 sao cao tầng xung quanh những nhà ga chính như Shinjuku, Ikebukuro, Shinagawa làm thay đổi bộ mặt Tokyo. Những kiến trúc to lớn mà tôi biết được trong chuyến du lịch nầy như quảng trường Takashimaya Time Squares ở Shinjuku hay Rainbow Bridge màu trắng bắt ngang vịnh Tokyo với dáng dấp của Golden Gate Bridge ở San Francisco làm cho khung trời Tokyo trở nên khoáng đãng hơn phảng phất một không khí Tây Phương. Quảng trường Takashimaya Time Squares (Tokyo) Rainbow Bridge (Tokyo) Những gì tôi muốn tìm lại thì không còn hiện hữu, những gì tôi không mong đợi thì không hẹn mà gặp. Con đường, nhà ga của quá khứ không đẹp như bây giờ nhưng cũng đủ gợi trong tôi một niềm cảm xúc một sự bồi hồi khi trở lại chốn xưa. Ký ức của thời sinh viên bây giờ chỉ là những hình ảnh nhạt nhoà trước sự phát triển đô thị ồ ạt trong vài chục năm qua. Những con đường cũ đã thay hình đổi dạng. Cảnh vật cùng thay đổi với con người. Những bước đi thoăn thoắt của "daikon ashi" (1) đã biến mất trên đường phố, trong nhà ga mà bây giờ chỉ thấy những dáng đi thon thả dịu dàng của những office ladies cũng thời thượng không kém gì các bậc đàn chị trước kia. Những quán nhậu "akachochin" (2) với cái đèn lồng đỏ treo lủng lẳng trước quán, những tiệm mì ăn đứng "tachigui soba" (3) lần lượt biến mất với thời gian, hay trở thành "chain store" mà thức ăn mất dần đi cá tính vì phương pháp sản xuất hàng loạt. Khi tôi rủ anh bạn Nhật đi ra quán akachochin năm xưa, anh bạn nửa đùa nửa thật bảo tôi "Ồ… Tân-san! Sao lỗi thời quá! Nước Nhật đã đi vào thế kỷ 21 rồi làm gì còn akachochin nữa!". Câu nói của anh bạn làm tôi hơi "sốc" biết rằng mình bị đẩy vào thế hệ cũ tuy vẫn phải chấp nhận thời gian đã san bằng và khỏa lấp tất cả. Mà thật vậy, tôi đi từ Tokyo đến Osaka không còn thấy những quán lụp xụp với chiếc đèn lồng đỏ bán những món nhậu đặc biệt Nhật Bản của năm xưa. "Những ngày xưa thân ái" không thể nào thiếu cái món mì ăn đứng "tachigui soba". Cái thời sinh viên còn nghèo, không phải vì thích cái món nầy mà chỉ vì nó vừa túi tiền học trò. Nhưng ăn nhiều lần cũng ghiền lại cảm thấy ngon, mà nghĩ lại thì chỉ ăn toàn là bột qua nhiều dạng vật lý khác nhau. Thỉnh thoảng muốn ăn sang thêm 50 yen để có quả trứng sống bỏ vào tô mì. Sang thêm chút nữa thì thêm 50 yen được miếng tempura tôm. Cái tempura bột chiên thì nhiều nhưng con tôm thì chỉ bằng ngón tay út, nhiều lúc chỉ ngửi được mùi tôm nhưng chả thấy con tôm..... Trên những bước đường lưu lạc lang thang xứ người xứ ta tôi cũng có may mắn thử qua các món "sơn hào hải vị" Tây Tàu Việt Nhật đủ cả, nhưng tôi không bao giờ quên cái món tachigui soba với tô nước dùng đo đỏ trong trong nóng hổi có vị nước tương Nhật Bản, cái miếng tempura ăn xốp xốp dòn dòn với một chút ớt bột shichimi cay cay, một chút hành xắt mỏng, vừa ăn vừa bưng cái tô húp xì xụp. Cái món zaru soba cũng vậy. Đi vào quán ăn không đủ tiền ăn "gomoku ramen" (4) (mì thập cẩm) thì phải chọn lấy zaru soba. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao zaru soba phải để trên một phiến tre. Nhìn vào giống như cái giường trải chiếu nên anh em vui miệng gọi là soba "giường"! Một món ăn đơn giản nhưng cái vị cay nồng của wasabi trong chén nước chấm thì không bao giờ quên được. Chiếc xe bus đưa chúng tôi đến Kyoto. Con đường Gion Douri vẫn tấp nập khách nhàn du từ khắp nơi trên thế giới. Dòng sông Kamogawa vẫn lững lờ trôi qua cố đô ngàn năm yêu kiều nầy. Bờ sông như một công viên đường thẳng. Những cặp trai gái ngồi trên bãi cỏ dọc theo hai bên bờ với một khoảng cách đều đặn, đủ gần để chừa chỗ trống cho người khác nhưng đủ xa để còn có một chút "riêng tư". Dòng sông tạo một không gian tĩnh mịch dường như muốn chứng kiến những mối tình "cố đô" kéo dài từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Cố đô nào dù Huế hay Kyoto và con người của cố đô lúc nào cũng có một bản sắc riêng của nó. Giọng nói yểu điệu hoàng cung lên lên xuống xuống của người con gái Kyoto lúc nào cũng khiến cho lòng người rung động. Tôi bất chợt nhớ đến bài ca "Shiroi buranko" (Chiếc đu màu trắng) mà tôi có dịp nghe từ một cô bạn năm xưa vai sánh vai cùng đi dọc theo dòng Kamogawa. Thoang thoảng bên tai lời ca trong một giai điệu nhè nhẹ Kyoto "Boku no kokoro ni ima mo yureru" (Đến bây giờ con tim tôi vẫn còn rung động)..... Những danh lam, thắng cảnh, chùa chiền ở Kyoto ngày xưa êm đềm lãng mạn bao nhiêu thì bây giờ ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu. Số lượng khách du lịch quá tải đến độ chóng mặt đè nặng lên Kyoto. Cái mong manh, dịu dàng của Kyoto dường như muốn vỡ nứt trước sự ồ ạt của làn sóng du khách phần lớn từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong và thậm chí người Việt từ Mỹ. Ngôi chùa lớn nhất Nhật Bản: Todaiji (Đông Đại Tự, Nara-Kyoto) Kiyomizu-tera (Thanh Thuỷ Tự, Kyoto) với cấu trúc đa tầng bằng gỗ Tôi trở lại ngôi trường Đại Học cũ. Những cây tùng xanh mướt năm xưa trồng trước cổng trường bây giờ là những cây đại thụ một vòng tay ôm không hết. Thời gian cứ hững hờ trôi theo một đường xoắn ốc mà chu kỳ co dãn khi nhanh khi chậm nhưng lúc nào cũng muốn đi ngược lại nhịp điệu đời người. Một niên học mới lại bắt đầu. Nhìn những khuôn mặt trẻ trung hớn hở cười cười nói nói của những cô cậu sinh viên làm tôi cảm thấy mình già đi xen lẫn một chút ganh tị. Những biến chuyển xã hội của vài chục năm qua cộng với ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ vật chất Tây Phương tưởng chừng như chọc thủng được nền văn hóa truyền thống Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật Bản ngày nay có vẻ được "quốc tế hóa" hơn, thoải mái hơn, vui tươi hơn, nhưng sự cần cù, tỉ mỉ, khiêm tốn, lễ phép, kỷ cương, tinh thần tập thể vẫn là truyền thống được gìn giữ tuyệt đối. Trên xe điện người ta im lặng đọc sách báo hoặc chăm chú đọc và gởi những lời nhắn từ những chiếc điện thoại cầm tay. Không ai nghe một tiếng chuông điện thoại di động reo ồn ào ở những nơi công cộng kể cả những chuyến xe điện đông người. Trở lại Nhật làm một du khách nhưng lại nhớ đến cái tuổi học trò, lòng tôi bất giác bồi hồi. Tôi muốn đi lại tất cả những con đường xưa chốn cũ, đến nhìn lại từng nhà ga của một thuở xa xưa. Xin được làm người trên bến cũ Đợi tàu như thuở mới đôi mươi (Mưa trên Yamatesen, Nguyễn Nam Trân) Gió đầu Xuân mơn trớn trong cái lạnh khô và gắt rơi rớt của mùa Đông. Những cánh hoa anh đào mà người Nhật vẫn hằng yêu mến năm nay nở trễ hơn mọi năm vì những làn gió Đông còn lưu luyến trần gian chưa chịu từ giã ra đi. Người Nhật yêu hoa anh đào bằng một sự nhiệt tình. Hằng năm, họ mở hội chờ đợi từng ngày từng giờ để chuẩn bị cho ngày hoa nở như một kẻ si tình chờ ngắm người yêu... Tôi tình cờ đọc được một bài haiku treo trong nhà một người bạn. Sakura saku Haru no komichi o Kimi to yuku (Hoa anh đào khoe sắc Trên con đường nhỏ Của mùa Xuân Chậm bước cùng em ) Bây giờ tất cả chỉ là ký ức. Như một giấc mộng đẹp. (Tạp ghi sau chuyến đi Nhật March/April 2005) TVT Chú thích: (1) Daikon ashi: chân củ cải. Daikon: củ cải trắng, ashi: chân. Củ cải trắng Nhật dài 30 - 40 cm, hai đầu thon nhỏ ở giữa phình ra có đường kính 10 - 15 cm. Lúc xưa phụ nữ Nhật thường ngồi xếp theo kiểu Nhật làm cho bắp chân to ra như hình dạng củ cải trắng. (2) Aka: đỏ, chochin: đèn lồng. Những quán nhậu Nhật thường treo đèn lồng đỏ để gây sự chú ý người qua lại. (3) Tachi: đứng, gui: ăn, soba: mì Nhật màu xám. Một lối ăn nhanh (fast food) lâu đời tại Nhật. (4) Ramen: mì trứng màu vàng.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 6:50:23 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 7:18:33 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 4:01:17 GMT 9
7 danh thắng cổ nhất thế giớiNhững thành phố đông đúc, những khu mua sắm hiện đại và tiện nghi dần mất đi sự hấp dẫn, và người ta đổ đi tìm kiếm những cảm giác mới, những chuyến phiêu lưu mới ở những nền văn minh cổ xưa. Và ở những nơi như thế, những người ưa phiêu lưu, mạo hiểm lại được sống lại những giây phút quá khứ, tìm về với truyền thống và nguồn cội. Thành phố cổ nhấtKhông một nơi nào trên thế giới lại có lịch sử lâu đời hơn Damascus, thủ đô của Syria. Kể từ năm 3000 trước Công nguyên, thành phố này đã là thủ phủ của vùng Trung Đông và mang đậm màu sắc văn hóa cũng như lịch sử của Arab. Đến thăm Damascus thì không thể bỏ qua Bảo tàng Quốc gia, nơi du khách có thể đằm mình trong dòng chảy ngược thời gian về với những mốc lịch sử quan trọng nhất của thành phố. Nhà thờ hồi giáo Umayyad, một trong những di sản kiến trúc vĩ đại nhất còn sót lại từ thời Umayyad, những đền đài, những công trình kiến trúc độc đáo là những điểm nhấn đầy ấn tượng của thành phố cổ này. Khách sạn cổ nhấtHoshi Ryokan ở làng Awazu, Nhật Bản do nhà sư mang tên Taicho Daishi lập nên từ năm 717. Hoshi Ryokan nép mình dưới chân núi Hakusan trên đảo Honshu được bao phủ một không khí truyền thống hết sức cổ kính. Lối trang trí hài hòa cùng với quang cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ, Hoshi Ryokan là một nơi lý tưởng để nghỉ ngơi và tạm quên đi những căng thẳng, âu lo của cuộc sống thường nhật. Nhà hàng cổ nhấtThis little piggie ...: Chef Juan Maneiro of Casa Botín serves up a suckling pig slow-roasted in the restaurant's 18th-century woodstove. Stepping back in time: The brick-lined dining room is steeped in history. Nhà hàng Casa Botin, Madrid, Tây Ban Nha, được thành lập từ năm 1725. Nhà hàng này nằm ngay giữa khu thương xá cổ của thủ đô Madrid, và đã từng là nơi dừng chân yêu thích của đại văn hào Earnest Hemmingway. Đến nay Casa Botin vẫn giữ nguyên được những nét độc đáo và tập trung vào những lối trang trí cổ điển. Những bức tường gạch được tô điểm bởi những chiếc chảo đồng và tranh sơn dầu, cùng với hoa cẩm chướng đỏ nổi bật trên nền trắng muốt của khăn trải bàn. Heo sữa quay là món ăn nổi tiếng nhất ở nhà hàng này. Quán rượu cổ nhấtSean’s Bar, Athlone Ai-len mở cửa từ năm 900. Mặc dù, quán rượu đã được sửa chữa và thay đổi rất nhiều trong suốt hơn 1000 năm qua, nhưng nó vẫn lưu giữ được vẻ đẹp cổ điển của những ngày quá khứ. Danh thắng cổ nhấtHang Jenolan, Australia, 340 triệu năm tuổi. Đây là hàng động cổ nhất được phát hiện tính đến thời điểm hiện tại trên thế giới. Đến thăm Jenolan, du khách không khỏi ngỡ ngàng trước những kiến tạo của thiên nhiên, những khối nhũ đá đủ hình thù tuyệt đẹp. Hiện nay, hang này được mở cửa để đón du khách ở khắp mọi nơi. Công viên cổ nhấtCông viên Bakken ở Klampenborg, Đan Mạch xây dựng từ năm 1583. Đối với nhiều người dân ở xứ sở cổ tích này, Bakken không chỉ là một nơi giải trí mà nó còn là một biểu tượng của tinh thần dân tộc. Công viên Bakken ngày nay đã thay đổi nhiều so với hơn 400 năm trước, không chỉ còn là những tán cây, những bóng nắng im lìm mà luôn rộn rã tiếng cười vui, nô đùa của trẻ em. Nằm cạnh công viên Hoàng gia Dyrehaven, Bakken là tổng hòa của những nét đẹp cổ kính và hiện đại. Đây cũng chính là nét quyến rũ rất riêng của công viên cổ nhất thế giới này. Sân golf cổ nhấtHow's this for golf credentials?
...1567 - Mary Queen of Scots played on this course. ...1603 - James VI (her son, later to become James I of England) played here. ...1650 - Oliver Cromwell set up camp on the course. ...1811 - Hosted the first ever Woman's golf competition (played by local fisherwives). ...1874 - Hosted its first British Open Championship and for decades was one of only three golf courses, along with St. Andrews Old Course and Prestwick, to regularly host the tournament. Những người am hiểu golf đã quyết định trao cho sân golf Musselburg Links, Đông Lothian, Scotland danh hiệu sân golf cổ nhất thế giới. Musselburg Links được cho là nơi khởi thuỷ của môn thể thao quý tộc này. Mặc dù đây là một sân golf 9 lỗ với quy mô nhỏ, nhưng do hội phí thấp cùng với vị thế đẹp nên Musselburg vẫn là một địa điểm du lịch lý tưởng dành cho những người yêu golf. (Theo báo Quảng Ninh)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 26, 2011 2:26:17 GMT 9
Những thắng cảnh tuyệt vời nhất Bhutan Bhutan .Bhutan nằm đệm giữa hai nước lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, nhiều thế kỷ cắt đứt mối liên lạc với thế giới. Ngày nay, trong khi các quốc gia láng giềng phát triển và thay đổi rất nhanh, Bhutan vẫn kiên trì đi theo đường lối cũ: bảo vệ triệt để các di sản văn hóa và đời sống hoang dã cổ xưa.
Bhutan không ồ ạt phát triển ngành công nghiệp du lịch. Mỗi năm, chỉ có một số lượng rất hạn chế du khách được nhập cảnh. Đây là nơi mà hạnh phúc được coi là giàu có, nơi túi nilon và thuốc lá bị cấm, và ai cũng mặc trang phục truyền thống. Bhutan nổi tiếng vì chính sự vô danh, bí ẩn và truyền thống của mình.******************** Bhutan nằm đệm giữa hai nước lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, nhiều thế kỷ cắt đứt mối liên lạc với thế giới. Ngày nay, trong khi các quốc gia láng giềng phát triển và thay đổi rất nhanh, Bhutan vẫn kiên trì đi theo đường lối cũ: bảo vệ triệt để các di sản văn hóa và đời sống hoang dã cổ xưa. Sau đây xin giới thiệu một số di tích và kỳ quan bật nhất của đất Bhutan. 1. Tu viện Tigers nest (còn gọi là Tu viện Taktsan) ở thung lũng Paro Được xây dựng từ thế kỷ 17 trên sườn núi, tu viện là một trong những nơi thờ cúng linh thiêng và có kiến trúc tuyệt vời nhất Bhtuan. Tigers nest cao 600 so với thung lũng Paro, đi hết 3 giờ mới tới nơi. Tu viện được xây trong khu vực mà Guru Rinpoche, người sáng lập Phật giáo Bhutan đã thiền trên lưng hổ. 2. Pháo đài Punakha Là một trong những pháo đài đẹp nhất Bhutan, ở nơi tiếp giáp của hai dòng sông Pho Chu và Mo Chu. Được xây dựng từ năm 1637, nơi đây là trụ sở của chính quyền Bhutan cho tới giữa thế kỷ 20. Thời gian, thiên tai như lũ lụt, hỏa hoạn, động đất đã tàn phá Punakha rất nhiều, nhưng pháo đài này mới được xây dựng lại như xưa bằng các vật liệu và phương pháp xây dựng từ thế kỷ 17. Là trung tâm hành chính của Punakha, pháo đài cũng là nơi tổ chức lễ hội xuân Tsechu kéo dài 5 ngày. Pháo đài Punakha Lễ hội xuân ở Punakha. 3. Tháp Kora ở Trashi Yangtse Chorten Kora với những con mắt uy nghiêm nằm giữa thung lũng Karmaling Xây dựng trong 12 năm kể từ năm 1740 bằng đá trắng, công trình đường bệ nằm tại thung lũng Karmaling, phía đông Bhutan. Đây là một trong những kiến trúc Phật giáo sớm nhất quốc gia này, được xây để xua đuổi tà ma, lưu giữ nhiều thánh tích Phật giáo. Truyền thuyết nơi đây kể rừng, cô bé gái 8 tuổi người Ấn Độ đã sang đây, tự nguyện xin được chôn sống trên công trình bằng đá để cầu nguyện trong thời gian xây dựng tháp. 4. Tháp Druk Wangyal Chorten và tháp Dochula ở Dochula Trên con đèo Dochula cao 3.100 m có tới 108 tòa tháp nằm rải rác, hướng về dãy Himalaya. Một trong những công trình"trẻ tuổi" nhất là tháp Druk Wangyal, do Thái hậu của Bhutan xây dựng năm 2004, là hậu cảnh tuyệt đẹp cho tháp Dochula có từ thế kỷ 14. Truyền thuyết kể rằng, tháp Dochula được xây để xua đuổi một con quỷ thường hay bắt người tại đèo Dochula. Đây là con đèo nối thủ đô Thimphu với miền đông Bhutan. Thimphu là thủ đô duy nhất trên thế giới không có hệ thống đèn giao thông. Một cây cầu truyền thống ở thủ đô Thimphu 5. Pháo đài ở Trongsa Là pháo đài lớn nhất Bhutan và có ý nghĩa rất quan trọng đối với người dân nước này, pháo đài Trongsa là nơi ở của các vị vua Bhutan từ năm 1907. Được xây dựng tại ngọn núi phía trên đập sông Mandge Chu, từ nhiều thế kỷ nay, pháo đài kiểm soát con đường giao lưu thương mại từ đông sang tây. Tháp canh Ta Dzong giờ được biến thành bảo tàng. Một ngôi nhà điển hình của Bhutan Cung điện Trongsa Dzong Theo DuLichVn
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 24, 2011 8:56:14 GMT 9
Đất nước chùa vàngNgôi chùa Shwe Dagon vĩ đại mạ vàng Ba bộ phim tài liệu dài “Mê kông ký sự, “Trung Hoa du ký” và “Những nẻo đường Trung Hoa” đã đưa đoàn làm phim của Đài Truyền hình TP.HCM (HTV) rong ruổi khắp các miền đất của 6 quốc gia: Myanmar, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan và VN (6 nước tiểu vùng sông Mê Kông). Cùng đi dọc dòng sông Mê Kông dài 4.880 cây số, phần lớn chảy qua các miền đất Phật như thế nên có thể gọi đó là “dòng sông Phật giáo” rồi thì đến với đất nước Myanmar, đất nước Chùa Vàng. Trên những nẻo đường mà chúng tôi đi qua ít nhiều đều mang dấu ấn Phật giáo, hay đạo Phật là tôn giáo lâu dài, giữ vai trò chủ thể văn hoá ở những quốc gia này. Nếu như Campuchia, Lào, Thái Lan là 3 quốc gia Phật giáo Nguyên thuỷ rất điển hình về sự sùng tín của Phật tử, về mật độ chùa chiền, về sự phổ cập tu hành của nam giới, về phong cách kiến trúc tôn giáo và về tỷ lệ áp đảo của dân chúng theo đạo Phật thì ở Myanmar, các mật độ được nâng lên thêm một bậc… Đất nước Chùa Tháp Cụm từ này dân ta vẫn quen dùng để chỉ đất nước Campuchia, một xứ sở dày đặc chùa chiền Phật giáo, với niềm kiêu hãnh về Angkor vĩ đại. Tuy nhiên nếu có dịp ghé thăm Myanmar, chắc chắn bạn sẽ gắn khái niệm này cho miền đất Myanmar huyền bí. Xưa nay người ta thường gọi Myanmar là “đất nước Chùa Vàng” vì ở Yangon có ngôi chùa Shwe Dagon vĩ đại mạ vàng và có rất nhiều chùa tháp mạ vàng lộng lẫy khác rải rác khắp đất nước. Thế nhưng hình ảnh kiến trúc thống trị ở đây không phải là “chùa vàng” mà là “chùa tháp”, vì số lượng tháp chùa ở xứ sở này vượt xa tất cả mọi quốc gia Phật giáo khác. Chúng nhiều đến nỗi rất khó có thể thống kê nổi. Chỉ riêng một ngôi chùa dưới chân đồi Mandalay ở cố đô đã có tới 730 toà tháp, hay một vườn tháp cổ ở ngoại thành phố này đã có tới trên 2.000 ngôi tháp. Người ta ví tháp chùa ở Myanmar như nấm mọc trong rừng, chúng tồn tại hàng ngàn năm nay trên khắp đất nước và vẫn còn đang tiếp tục “mọc lên như nấm” ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Có thể nói chùa tháp và tượng Phật là những vật thể nhân tạo nhiều vô kể ở đất nước này, nó cuốn hút sức lực và niềm đam mê của toàn xã hội. Ở Myanmar, chùa gắn liền với tháp, chùa chính là tháp, vì vậy mọi loại hình kiến trúc tôn giáo này đã trở thành một đặc trưng “rất Myanmar”. Việc xây chùa tháp là trách nhiệm tinh thần và ước nguyện của mọi tầng lớp, từ vua chúa, quan lại, nhà giàu cho tới các làng xóm dân cư. Việc xây chùa tháp cũng diễn ra liên tục, bền bỉ bằng tất cả niềm say mê và lòng tôn kính, là biểu hiện lý tưởng sống của con người, và cũng là cơ hội để thể hiện tài năng nghệ thuật của họ. Mức sống của người dân Myanmar còn rất thấp, thậm chí phần lớn là nghèo khổ song chùa chiền thì phải khang trang, lộng lẫy, vì đó mới là nơi lưu giữ tâm hồn của người dân, cũng là ngôi nhà thứ hai của họ. Không thể hình dung nổi biết bao tiền của đã được huy động và đóng góp tự nguyện để xây dựng chùa tháp và tượng Phật trong hàng ngàn năm qua, và vẫn đang được tiếp tục… Có thể nói biểu tượng của Myanmar chính là kiến trúc tôn giáo, và Đức Phật là vị lãnh tụ tinh thần tối cao của họ. Chùa vàng vĩ đại Shwe Dagon Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng thế giới, một di sản văn hoá khổng lồ của nhân loại. Trước khi tới Yangon, những người nước ngoài đều đã có khái niệm sơ bộ về kỳ quan này qua sách báo, phim ảnh hoặc lời kể. Điều đáng nói là khoảng cách giữa khái niệm và thực tế là rất lớn, điều này tạo ra niềm hứng thú và cảm phục cho mọi người như khi chính ta đang đứng trước Angkor vĩ đại. Shwe Dagon nằm trong khu phố quý tộc rộng lớn của thủ đô Yangon, như khu Ba Đình của Hà Nội, rất gần khách sạn lưu trú của chúng tôi. Từ khách sạn, thấp thoáng qua tán cây rừng, toà tháp vàng khổng lồ, cao 99m, rực rỡ vươn thẳng lên bầu trời, hiện ra trước mắt du khách như niềm kiêu hãnh về khả năng sáng tạo của con người. Không phải ngẫu nhiên, chúng tôi đã dành cho Shwe Dagon tới 2 cuộc viếng thăm, ghi hình: một vào ban ngày và một vào lúc hoàng hôn, bởi chỉ có thế mới khám phá được phần nào tầm vóc nguy nga tráng lệ của công trình, cũng như vẻ đẹp huyền bí của nó vào lúc chiều tà. Quần thể kiến trúc to lớn này toạ lạc trên đỉnh một khu đồi lớn với nhiều hệ thống bậc thang trải dài xuống tận chân đồi và một hệ thống thang máy hiện đại. Từ xa, chúng tôi đã thấy Shwe Dagon như một trái núi, và khi lên đến đỉnh đồi, tất cả đều bàng hoàng như lạc vào cung điện của Ngọc Hoàng vậy. Trước mắt chúng tôi là một quần thể kiến trúc vĩ đại, lung linh huyền ảo và vô cùng tráng lệ, với khoảng 1.000 đơn thể hoàn chỉnh, muôn màu muôn vẻ trên một sân nền bằng phẳng, sạch bóng sang trọng với ngôi tháp vàng cao lớn, lộng lẫy ở chính giữa như điểm trọng tâm của vũ trụ. Khách hành hương nhiều vô kể. Tất cả đều quần áo chỉnh tề. Công việc của họ là dâng hương hoa, lễ vật tại 1.000 đơn thể chùa, tháp quần tụ chung quanh ngôi tháp chính, trong đó có việc múc nước tắm cho các tượng Phật, rồi khoác lên trên cổ tượng Phật những vòng dây hoa lài tinh khiết, thơm phức với lòng tôn kính và mãn nguyện. Sau các nghi lễ cầu nguyện, họ tìm cho mình một chỗ trên nền sân rộng mênh mông, cạnh một toà tháp, một bức tượng hoặc một ngôi chùa nào đó để ngồi tụng kinh và lần tràng hạt. Không ai được đi giày dép trên sân chùa bóng sạch, luôn có người lau chùi liên tục này. Phật tử tới lễ chùa hàng ngàn người nhưng không phải mua vé. Khách du lịch nước ngoài mua vé với giá 5USD. Toàn bộ khuôn viên chùa vàng có kích thước hình chữ nhật, 214 275, cao hơn mặt bằng thành phố 20m. Từ 4 hướng chính có 4 dãy cầu thang có mái ngói che phủ. Dãy cầu thang dài nhất có 175 bậc, dãy ngắn nhất 104 bậc. Hai bên các dãy bậc thềm là hàng loạt các nhà nghỉ cho khách hành hương. Cổng phía Nam có một đôi tượng sư tử khổng lồ, cao 9m, hướng về trung tâm thành phố. Tháp chính cao 99m, thuộc trường phái kiến trúc tháp “Hạ Miến”, có hình thù vươn cao và tinh tế hơn kiến trúc tháp “Thượng Miến”. Tháp Hạ Miến thường được bao quanh bằng 2 hoặc 3 hàng tháp nhỏ. Tháp Thượng Miến được bao quanh bằng 4 toà tháp khá lớn ở 4 góc. Trong tất cả 1.000 đơn thể bao quanh tháp vàng trung tâm, có 72 ngôi chùa bằng đá có thờ tượng Phật bên trong. Xen giữa các ngôi chùa là vô số bức tượng và hình khắc sư tử, voi, thần Nát và quỷ dữ. Tầng nền dưới cùng là hàng loạt tượng quái vật mình người đầu thú, canh giữ 64 toà tháp cao 4m và các lối lên tầng trên. Tháp trung tâm là một tuyệt tác nghệ thuật, không chỉ to lớn mà còn rất cân đối về mặt tỷ lệ, chuẩn xác trong chi tiết, uy nghi, hài hoà trong hình dáng. Trong chiều cao 99m, có phần đỉnh cao 10m là bộ phận có cấu trúc rất công phu, gồm 7 vòng đai được dát vàng. Toàn thân 10m đó, ngoài phần dát vàng, toàn khối tháp còn được phủ kín bằng 9.300 lá vàng có kích cỡ 30cm 30cm với tổng khối lượng 500kg, và được trang điểm bằng hàng ngàn viên đá quý, hàng trăm viên kim cương, hồng ngọc (ruby) với hàng trăm chiếc chuông vàng. Trên cùng là lá cờ đuôi nheo, có búp tròn là một quả cầu vàng, đường kính 25cm. Riêng cờ đuôi nheo được làm hoàn toàn bằng vàng, khảm kín 5.448 viên kim cương, 2.317 viên đá quý. Đỉnh tháp treo tất cả 1.065 chiếc chuông vàng và 421 chiếc chuông bạc. Chùa Vàng Shwe Dagon là niềm kiêu hãnh của đất nước Myanmar, là thành tựu vĩ đại của con người trong công cuộc lao động và sáng tạo, là niềm vinh quang của thành phố Yangon. Đó là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo kỳ vĩ nhất trên thế giới, có thể sánh với Angkor ở Campuchia và cung điện Pôtala kỳ bí trên đất Tây Tạng. Trần Đức Tuấn( Tạp chí Văn hóa Phật giáo)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 6:53:27 GMT 9
Trước khi đi du lịch Việt Nam (VienDongDaily.Com - 09/12/2011) Khi đi du lịch ra ngoài nước Mỹ, chúng ta cần phải chuẩn bị rất nhiều thứ, trong đó có việc chích ngừa để tránh khỏi bị lây bệnh ở những quốc gia chúng ta đến thăm. Các thuốc chích ngừa cũng như các biện pháp phòng bệnh thay đổi tùy nơi chúng ta sẽ đến. Cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh Hoa Kỳ CDC có trang mạng (website) là www.cdc.gov, nơi đây có danh sách tất cả các nước trên thế giới. Gõ vào tên một nước, chúng ta sẽ có đầy đủ tài liệu về các loại thuốc chích ngừa cũng như biện pháp ngừa bệnh riêng cho mỗi nước. Trong phạm vi bài này, xin đề cập đến những thuốc ngừa và cách phòng bệnh khi đi du lịch đến Việt Nam. Thuốc chích ngừa và thuốc uống ngừa bệnh Bài viết này có mục đích cho quý độc giả tham khảo, không thể dùng thay thế vị bác sĩ. Tốt nhất là bạn nên đến gặp bác sĩ từ 4-6 tuần lễ trước khi đi vì bác sĩ là người quyết định bạn sẽ cần thuốc chích ngừa nào cũng như cho toa quý vị mua thuốc ngừa sốt rét, nếu cần. Ngoài ra chích ngừa sớm là điều cần thiết vì thuốc cần có thì giờ để có tác dụng để khi rời nước Mỹ là cơ thể của bạn đã có sẵn kháng thể chống bệnh. Ngay cả không có đủ 4-6 tuần, bạn cũng nên đến gặp bác sĩ để được chích ngừa, lấy toa thuốc cũng như được khuyên về cách phòng bệnh và biết những tin tức về sức khỏe ở Việt Nam. CDC khuyên bạn nên gặp những bác sĩ chuyên về Bệnh khi Du Lịch (Travel Medicine). Nếu không thể gặp bác sĩ, bạn có thể đến những Cơ Quan Y Tế Công Cộng, Phòng Chích Ngừa nơi bạn ở để được chích ngừa và có những tin tức mới nhất về dịch bệnh. Tại miền Nam California, bạn có thể đến: - Orange County Immunization Clinic, 1725 W. 17th Street, Santa Ana. Điện thoại: 714-834-8444 - Immunization for Travelers, 336 ½ W. Glendale, West Covina. Nếu bạn đi du lịch qua nhiều nước khác nhau, cũng cần nói cho bác sĩ biết. Những người ở lâu tại nước ngoài có thể cần phải chích ngừa thêm nhiều mũi thuốc nữa. Tại Việt Nam không có nguy cơ bị bệnh Sốt Vàng Da (Yellow Fever). Tuy nhiên chính phủ Việt Nam có thể đòi bạn xuất trình thẻ chích ngừa Sốt Vàng Da nếu bạn đến từ những nước có bệnh. Có thể xem danh sách các nước này trên trang mạng của CDC. 1. Những thuốc chích ngừa thông thường Có thể nhờ bác sĩ xem lại mình đã có chích đủ những thuốc ngừa thông thường chưa. Những thuốc chích ngừa này gồm có: cúm, thủy đậu (chicken pox), sốt tê liệt, sởi, quai bị và ban Đức (MMR), bạch hầu, uốn ván, ho gà (DTP). 2. Những thuốc chích ngừa cần thiết khi du lịch Việt Nam Gồm có: Viêm gan A, Viêm gan B, Thương Hàn (typhoid). Cần chích ngừa bệnh Viêm Não Nhật nếu bạn định thăm những vùng quê hoặc khi đang có bệnh dịch. Cần chích ngừa bệnh Chó Dại nếu bạn hay sinh hoạt ngoài trời nhất là ở vùng quê, hay đi xe đạp, cắm trại, đi bộ…. Những người ở lâu tại Việt Nam hay làm nghề thú ý sĩ hoặc những nghề liên quan tới dơi, thú ăn thịt… cũng phải chích ngừa bệnh Chó Dại. Trẻ em ở lâu cũng phải chích ngừa bệnh Chó Dại vì các em dễ chơi với thú vật nên dễ bị cắn. 3. Thuốc ngừa bệnh sốt rét Những vùng ở Việt Nam có bệnh sốt rét gồm tất cả những vùng quê, trừ vùng đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển phía bắc Nha Trang. Vùng đồng bằng Cửu Long có một vài trường hợp bệnh. Không có bệnh sốt rét ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Sài Gòn, Nha Trang và Quy Nhơn. Nếu bạn sẽ đến vùng có sốt rét, nên nói chuyện với bác sĩ về cách tránh sốt rét. Những cách tránh bệnh gồm có: - Uống thuốc chống sốt rét. - Bôi thuốc chống muỗi cắn, mặc quần áo dài tay chân. - Ngủ trong phòng có máy lạnh hay có màng lưới chắn, hoặc ngủ trong mùng. Cần biết rõ nơi mình đến là vùng có bệnh sốt rét hay không. Có thể vào trang mạng CDC nói trên để tìm bản đồ sốt rét ở Việt Nam và tìm hiểu về những loại thuốc chống sốt rét vì các loại thuốc này có thể có phản ứng phụ không hợp với bạn. Nhiều vùng ở Việt Nam có vi trùng sốt rét lờn thuốc, cần tìm hiểu bằng bản đồ nói trên. Bạn nên mua thuốc chống sốt rét trước khi rời Mỹ vì thuốc mua ở ngoài nước Mỹ không bảo đảm phẩm chất, có thể giả hoặc không nguyên chất, nên có thể nguy hiểm. Một điều cần biết là thuốc halofafrine (Halfan) thường được dùng ngoài nước Mỹ để chữa bệnh sốt rét. Tuy nhiên thuốc này có thể gây ra phản ứng phụ có liên quan đến tim rất tai hại và có thể gây tử vong. Không nên uống thuốc này. Những thứ nên đem theo 1. Những thuốc uống hằng ngày: Cần đem theo đủ số lượng thuốc vẫn uống hằng ngày. Giữ những thuốc này trong lọ nguyên thủy của chúng và đem theo trong hành lý xách tay, cần chú ý theo đúng luật an toàn nếu là thuốc nước. 2. Thuốc chống sốt rét do bác sĩ biên toa cho bạn 3. Thuốc chữa tiêu chảy mua tự do ngoài quầy như Immodium hay Pepto Bismol. Có thể xin bác sĩ cho toa mua thuốc trụ sinh trị tiêu chảy để mang theo. 4. Viên thuốc iodide hay bình lọc nước xách tay dễ dùng trong trường hợp không có nước sạch. 5. Kem chống nắng 6. Thuốc rửa tay tẩy trùng (hand sanitizers) 7. Đồ dùng tránh muỗi cắn như: quần áo dài tay chân, nón đội, thuốc xịt giết những côn trùng bay được (flying insect spray) để trị muỗi trong phòng, mùng có bôi thuốc permethrin. 8. Những thuốc khác: thuốc sốt và giảm đau như Acetaminophen hay Ibuprofen, thuốc trị dị ứng, thuốc ho, nghẹt mũi… Về bệnh tiêu chảy khi đi du lịch Du khách ở Việt Nam dễ mắc bệnh tiêu chảy nếu không quan tâm phòng ngừa. Nguồn gây bệnh thường là nước uống và thức ăn. Khi ở Việt Nam, chỉ nên uống nước đóng chai có nhãn hiệu đáng tin cậy hoặc nước đã đun sôi, chỉ ăn những thức ăn đã nấu chín còn nóng và ăn những trái cây do chính tay mình lột vỏ. Không dùng nước chấm, nước đá… vì chúng có thể làm từ nước không sạch. Thận trọng khi uống sữa hay những thức ăn làm từ sữa. Không nên ăn đồ biển chưa được nấu thật chín. Khi mắc bệnh, cần lấy lại lượng nước đã mất đi, do ói và tiêu chảy, bằng cách uống Pedialyte (nên đem theo) hoặc mua gói ORS (Oral Rehydration Salt, có bán ở các nhà thuốc) pha với nước đã đun sôi để uống. Sau đó có thể uống thuốc trụ sinh đã được BS cho toa mua từ trước nếu bệnh nặng hơn. Những bệnh nhiễm trùng khác có ở Việt Nam Những bệnh như sốt xuất huyết, chikungunya, filatiasis, viêm não Nhật, dịch hạch, cúm gia cầm, vẫn còn hiện diện nhiều ở Việt Nam. Cần tránh bị côn trùng hay muỗi cắn cũng như tránh đến những nơi nuôi hay giết thịt gà vịt. Ngoài ra nên tránh tắm hay bơi lội nơi sông lạch ao hồ vì có thể bị nhiễm những ký sinh trùng như schistosomiasis, leptosporosis. Sau khi về nhà Về đến nhà, nếu bạn thấy không khỏe, nên đến gặp bác sĩ ngay và nhớ nói mình mới đi du lịch Việt Nam về, nói rõ những thương tích hay chuyện bị thú vật cắn, để bác sĩ có thể định bệnh đúng. Nếu bạn đã đến viếng vùng có bệnh sốt rét, cần tiếp tục uống thuốc từ 7 ngày cho đến 4 tuần lễ sau, tùy theo loại thuốc. Bệnh sốt rét là một bệnh rất nguy hiểm. Nếu sau khi về nhà, bạn bị sốt cao hoặc triệu chứng giống như bị cúm, nên đi khám bệnh ngay. Lời từ chối trách nhiệm (Disclaimer): Những bài trong mục “Sức Khỏe” chỉ nhằm mục đích chỉ dẫn tổng quát, không thể dùng thay thế sự chăm sóc của bác sĩ hay nhân viên y tế. Độc giả cần tham khảo thêm với bác sĩ của mình khi bị bệnh.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 6:58:48 GMT 9
Những cuộn Thánh Kinh xưa 4.000 năm(VienDongDaily.Com - 05/12/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Nhà báo Hồ Sĩ Viêm vừa qua đời tại Quận Cam, Nam California, ngày 28-11-2011, hưởng thọ 83 tuổi. Trước khi mất, ông đã giao lại cho nhật báo Viễn Đông một khối lượng bài viết gồm hàng trăm bài, để đăng dần trên trang Thế Giới Quanh Ta mỗi Thứ Ba hàng tuần và để chọn lọc in thành sách. Quyển sách có cùng tựa đề Thế Giới Quanh Ta đã được Công ty nhật báo Viễn Đông ấn hành vào tháng 3-2011.----------- Những cuộn Thánh Kinh xưa tìm thấy ở vùng Biển Chết - ảnh: Israel Antiquities Authority, 1993 Sự kiện tìm ra những cuộn Thánh Kinh xưa trên 4.000 năm, đúng là một sự ngẫu nhiên, vô tình. Hôm đó vào năm 1947, một cậu bé 15 tuổi người Bedouin, tên là Muhammad adh-Dhib, thuộc một sắc dân du mục thường sinh sống trên sa mạc, đang chăn một bầy dê trên một sườn núi cạnh vùng Biển Chết. Mê say ngắm trời biển, cậu lãng quên không để ý gì đến bầy thú trong một khoảng khắc. Rồi... choàng tỉnh, như qua một giấc mơ, cậu đếm lại bầy dê, thì thấy thiếu một con. Ngoảnh đi, ngoảnh lại, tìm quanh quẩn không thấy đâu, cậu đã thấy lo lo, nhưng nỗi vui chợt đến, khi cậu nhìn thấy bên kia vách núi, cửa một chiếc hang đen ngòm, có lẽ là khá sâu. Cậu bắc tay lên miệng làm loa, hô lên mấy tiếng gọi dê, nhưng chỉ có tiếng của cậu vang vọng lại, còn dê vẫn im lìm. Thấy vậy cậu bé đành chịu khó leo lên đến tận nơi để tìm kiếm. Mới đầu vì choáng nắng, cậu thấy hang tối om và sâu hun hút, nên không dám bước vào. Cậu nhặt một hòn đá vừa tầm tay, thẳng cánh ném mạnh vào để đuổi dê. Quả thật có con dê nằm tránh nắng bên trong chạy ra, nhưng từ trong sâu cũng có một tiếng “choang” lớn vọng theo. Cậu bé ngạc nhiên lắm, vì biết rằng hòn đá của cậu đã được ném trúng vào một cái bình, hay cái vại bằng đất nung nào đó, nên nó mới có tiếng vỡ như thế. Tuy vậy, vì có một mình, nên cậu cũng không dám vào, mà đành đuổi đàn dê về nhà, để hôm sau rủ thêm một người bạn, để cùng đi thám thính cho thỏa tính tò mò. Qumran ở Bờ Tây, nơi tìm thấy những cuộn Thánh Kinh cổ xưa - ảnh: Effi Schweizer, 2007. Hôm sau hai cậu bé rủ nhau đi mang kèm theo vài bó đuốc để lỡ cần đến. Chiếc hang này cửa ra vào nhỏ, nhưng phía trong rộng lắm và hòn đá cậu bé vô tình ném vào đã trúng vào một chiếc bình bằng sành làm nó vỡ toang, lộ ra bên trong những cuộn giấy cổ xưa cuốn ngoài bằng vải gai. Chính ra, nếu không có hòn đá từ trên cao bay vòng xuống rớt trúng, thì dù có người vào thám thính, cũng rất khó tìm thấy những chiếc bình sành này, vì nó nằm kín sâu sau một tảng đá lớn nữa. Hai cậu bé liền nhặt vài cuộn đem ra ngoài sáng để nhìn cho rõ, thì thấy đây là loại giấy cổ xưa như làm bằng da và trên đó viết bằng một thứ chữ kỳ lạ. Tuy không hiểu là gì, nhưng hai cậu bé cũng cảm thấy có sự gì kỳ bí và đoán ra những cuộn giấy quá cũ kỹ này chắc cũng có một giá trị nào đó. Do vậy vài hôm sau họ xách vài cuốn đến chợ Bethlelem để hỏi một vị tu sĩ Hồi Giáo. Hai cậu bé này không thể ngờ rằng các em đã là người đầu tiên tìm ra tài liệu viết tay cổ xưa nhất của nhân loại và là một sự khám phá quan trọng nhất trong thế kỷ. Chẳng bao lâu, nguồn tin này lan rộng ra toàn thế giới và từ đó người ta đặt tên cho những cuộn tài liệu viết tay cổ xưa nhất này là “Dead Sea Scroll”, lý do chúng đã được tìm thấy ở hang động, cách Biển Chết có l dặm. Sau đó người ta còn tìm thêm được tại các thành cổ đổ nát Qumran và trong 11 hang động của những ngọn núi gần đó cũng những tài liệu viết tay cổ xưa có tới trên 4.000 năm. Tuy nhiên, nhiều tài liệu vì qua thời gian quá dài đã mủn nát thành những mảnh nhỏ ghép lại rất khó. Tra cứu tìm tòi các nhà bác học đã thấy những cuốn tài liệu này phần lớn viết bằng tiếng Hebrew, chữ chính của người Do Thái, ngoài ra một số viết bằng tiếng Hy Lạp rồi tiếng Aramaic, có lẫn thổ ngữ Nabataean. Sau thời gian dài nghiên cứu cặn kẽ, các nhà bác học xác định rằng thời kỳ viết những cuộn tài liệu này khởi đầu từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên và chấm dứt khoảng năm 70 đến 80 sau CN, năm đương thời với Chúa Jesus Christ, tức thời kỳ người Do Thái bị đuổi ra khỏi thành Jerusalem và khỏi mảnh đất quê hương của họ để tản mát lang thang trên khắp địa cầu trên thời gian dài gần 2.000 năm. Cuộn tài liệu viết tay cổ xưa có chép lại những mẩu chuyện đã xẩy ra từ 2.000 năm trước nữa và cũng chép lại hầu như toàn thể cuốn Cựu Ước Kinh, những câu sấm truyền của nhà Tiên tri Isalah, cũng như ghi lại những Giáo Điều trong Do Thái Giáo. Hiện nay những cuộn “Dead Sea Scroll” này đang được cất giữ tại một thư viện của người Do Thái tại Jerusalem và được gọi là Những Cuộn Thánh Kinh nơi vùng Biển Chết. Tại sao những cuộn Thánh Kinh này lại phải cất giấu ở những nơi thật hiểm hóc, khó tìm? Dựa theo những đồng tiền của Đế Quốc La Mã phát hành ngày đó được tìm thấy, các nhà khảo cổ đã suy luận rằng người Do Thái cổ hồi đó, bị sống dưới sự đô hộ của người La Mã, nhưng ý chí quật cường của họ không suy giảm. Họ âm thầm tổ chức cuộc chống đối, nhưng lo xa hơn, họ đã chở đi giấu trước những cuộn Thánh Kinh, hầu mong để lại cho hậu thế, khỏi bị quân thù đốt cháy. Vài dòng lịch sử của người Do Thái Theo Thánh Kinh, người Do Thái đầu tiên được đề cập tới là ông Abraham. Ông này mãi tới khi ngoài 100 tuổi mới sinh được một người con tên là Isaac và khi Isaac lớn lên lấy được một người con gái mà ông yêu quí có tên là Rebek'ah. Hai vợ chồng này sinh được hai người con trai, nhưng tính xung khắc nhau nên Isaac phải gửi một người con tên là Jacob sang ở với một người thân tại một miền thật xa có tên là Ha'ran. Hồi đó Đạo giáo chưa cấm đàn ông lấy 2 vợ, nên Jacob lấy cả 2 chị em và sinh được 12 người con. Trong số các người con này có một người tên là Joseph, tính nết hiền lành được Jacob yêu mến, nhưng cũng vì thế mà các người con khác ganh tÿ. Đồng thời Joseph còn thật thà thuật lại một giấc mơ, trong đó anh thấy mấy anh em phục lạy dưới chân mình. Từ chuyện đó họ càng thêm thù ghét Joseph. Cho đến một hôm Joseph được cử đi chăn cừu tại một chân núi thật xa nhà. Được dịp mấy người anh em khác kéo nhau tới, gây gổ, định giết Joseph. Bỗng một toán thương nhân chở hàng đi qua, các anh em này vội đổi ý kiến bán luôn Joseph làm nô lệ để lấy một số tiền. Họ trở lại nhà đem theo cái áo choàng của Joseph có tẩm máu cừu để cho Jacob tin tưởng là đứa con yêu dấu của mình bị thú rừng giết chết. Lúc đó Joseph mới có 17 tuổi, được đoàn thương buôn đem tới Ai Cập và tại đây họ bán cho một người có tên là Potiphar, là một vị quan cận thần của Vua Pharaoh. Biết thân phận mình, nên Joseph làm việc rất cần mẫn để được lòng chủ. Quả, anh ta đã được yêu mến, nhưng lại được yêu bởi bà chủ. Người đàn bà này thấy Joseph đẹp trai, khỏe mạnh, nên gạ chung chạ với mình. Joseph không chịu, do vậy bà ta tức giận, vu cáo với chồng là Joseph định hãm hiếp mình. Potiphar, nghe lời vợ tức giận quá, nên nhốt Joseph vào ngục. Thấy Joseph dễ thương, chính người cai ngục cũng yêu mến nên cất nhắc anh ta làm chủ của các tù nhân khác. Trong lúc đó lao ngục lại thêm hai người tù nhân mới. Một người người giữ trọng trách lo rượu cho vua, một người làm bánh. Cùng đêm đó hai người nằm mơ, hai giấc mơ khác nhau. Họ đang bàn tán thì Joseph đi qua chợt nghe thấy. Vốn được thần linh trợ giúp, nên Joseph đã hiểu ngay hai giấc mộng, nên anh ta nói với người làm bánh rằng, chỉ 3 ngày nữa ông này sẽ bị chặt đầu. Còn đối với người hầu rượu, Joseph cho hay trong bốn ngày nữa, ông này sẽ được Vua nghĩ lại, tha tội cho và cho giữ nhiệm vụ cũ. Nói xong anh ta còn dặn người hầu rượu, lúc đó hãy nghĩ đến Joseph, để xin tha cho anh ta. Ba, bốn ngày sau, quả nhiên mọi việc đều xẩy đúng như lời Joseph tiên đoán. Tuy nhiên khi trở lại chức vụ cũ rồi, người hầu rượu quên hẳn Joseph. Mãi hai năm sau, chợt một đêm nhà Vua nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Sáng dậy, ông cho vời một nhà thông thái để vào đoán mộng, nhưng người này suy nghĩ mãi không ra. Lúc bấy giờ người hầu rượu mới chợt nghĩ tới và tiến cử Joseph. Trước sân rồng, Joseph được nhà Vua kể rằng, Vua mơ thấy có 7 con bò thật béo, thật đẹp. Rồi sau đó lại thấy 7 con bò khác ốm tong teo, trơ cả xương. Nhưng rồi 7 con bò ốm đã ăn thịt cả 7 con bò béo. Joseph đã đoán rằng 7 con bò béo đã biểu hiệu cho 7 năm được mùa rất lớn tại Ai Cập còn 7 con bò ốm là biểu hiệu cho 7 năm tiếp đó thu hoạch mùa màng sẽ rất kém. Đoán xong, Joseph còn đề nghị với nhà Vua hãy chọn lựa những người giỏi để thu mua lúa vào những năm được mùa, hầu dự trữ cho 7 năm sau. Nghe vậy nhà Vua rất hài lòng và cắt cử ngay Joseph làm vị quan phụ trách vấn đề đó. Quả nhiên 7 năm đầu tiên, mùa màng của Ai Cập rất tươi tốt, số thu hoạch rất lớn, nhưng qua năm thứ 8 vì thời tiết xấu, nên mọi nơi đói kém, người dân không đủ ăn. Dĩ nhiên những điều tiên đoán của Joseph đều đúng hết, nên ông ta trở thành một nhân vật quan trọng kế cận với Vua. Lúc bấy giờ nhà Vua mới sai Joseph mở kho, phát chẩn thực phẩm cho dân chúng. Hôm đó, đứng nhìn đoàn người đến nhận phát chẩn, Joseph nhận ra 10 người anh mình. Nhớ tới giấc mơ ngày xưa, chính những người này đã phủ phục dưới chân, nên Joseph cho là Chúa đã định trước, đã có ý đưa mình đến Ai Cập, nên anh bỏ hết hận thù, trở lại yêu mến gia đình mình như xưa. Tuy nhiên, để hiểu tình cảnh gia đình mình hơn nữa và để thử lòng mấy người anh em, ông sai lính giam họ vào một phòng trong dinh với lý do nghi ngờ họ là những gián điệp. Hiện nay, Joseph to lớn hơn xưa và nhất là vì quyền uy quá cao và quần áo đẹp đẽ, nên không một ai nhận ra anh ta. Do đó, Joseph được biết cha già còn sống và một người em ở lại nhà trông nom. Đã có ý định, nên Joseph chỉ cấp phát cho ít lương thực, hẹn kỳ sau sẽ cấp phát nhiều, nhưng phải để một người khác ở lại trong nom cha, còn người em út tên là Benjamin phải lên theo. Quả nhiên, chỉ một thời gian ngắn, ăn hết lương thực họ lại kéo lên. Lần này, Joseph mới mời tất cả vào phòng mình và sau khi đuổi hết quân hầu ra, ông mới tỏ lộ chân tướng và mấy anh em đã ôm lấy nhau, mừng mừng, tủi tủi, trong niềm hạnh phúc tràn ngập. Ông đã tha thứ tất cả mọi điều lỗi xưa và vào tâu với vua mọi sự việc của gia đình mình. Quá yêu mến Joseph, nên nhà Vua hưởng ứng ngay sự xum họp của gia đình Joseph và cấp phát ngay ngựa, xe và binh lính về tận quê để đón gia đình. Gia đình của cụ Jacob hiện giờ đã quá lớn, nào ông bà, gia đình con và cháu chắt, tổng cộng tất cả đến hơn 70 người. Họ kéo nhau bắt đầu định cư tại Ai cập. Họ đều được gọi là Israelites, tức gia đình Israel, vì Chúa đã đổi tên ông Jacob thành Israel, ta dịch là Do Thái. Dân tộc Israel có sự hiện diện tại Trung Đông bắt đầu từ ngày đó và sẽ trải qua biết bao nhiêu sự thăng trầm, hợp tan, tan hợp suốt dòng lịch sử trên 4.000 năm. Hồ Sĩ Viêm
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 22, 2012 9:25:07 GMT 9
Tìm Hiểu Pháp Luật với Luật Sư Thiên Trang, Texas: Visa Vào Mỹ Vì Y Tế, Du Lịch... 03/05/2012
Disclaimer: Bài viết này chỉ nhằm cung cấp thông tin chung và không nhằm mục đích tư vấn. Mọi thắc mắc xin liên lạc trực tiếp với luật sư Nguyễn Lê Thiên Trang tại info@phamnguyenlaw.com hoặc điện thoại (713)789-8010
Ngày 01/19/2012 vừa qua, tổng thống Barack Obama vừa ban hành sắc lệnh cải tiến hồ sơ cấp visa du lịch và khuyến khích ngành du lịch nhằm tạo ra công ăn việc làm và tăng tưởng nền kinh tế Hoa Kỳ. Từ năm 2000-2010, con số khách du lịch đến Hoa Kỳ đã giảm từ 17% xuống còn 11%, giảm hơn 30% tỉ lệ kinh tế toàn cầu trong lĩnh vực du lịch. Song song với việc đảm bảo an ninh quốc gia, chính sách mới này sẽ tăng cao 40% số visa du lịch cho Trung Quốc và Brazil, đảm bảo rằng trong vòng 3 tuần kể từ ngày nộp đơn, 80% người nộp đơn xin visa xin du lịch sẽ được phỏng vấn & mở rộng chương trình Visa Waiver Program. Các đương đơn muốn hội đủ điều kiện xin visa để du lịch đến Mỹ cần phải đáp ứng một số yêu cầu cụ thể theo quy định của Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch. Các viên chức lãnh sự tại Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán sẽ xác định xem bạn có hội đủ điều kiện xin visa hay không. Luật pháp giả định rằng tất cả các đương đơn xin visa đi du lịch đều là người nhập cư tương lai. Vì vậy, đương đơn xin visa đi du lịch phải vượt qua giả định này bằng cách chứng minh rằng: - Mục đích của chuyến đi đến Mỹ là để kinh doanh, vui chơi hoặc trị bệnh; - Rằng họ có kế hoạch ở lại Mỹ trong một thời gian cụ thể và có giới hạn; - Có bằng chứng về nguồn tài chính để trang trải các chi phí tại Mỹ; - Có bằng chứng thuyết phục về mối quan hệ xã hội và kinh tế ở nước ngoài; và - Rằng họ có một nơi cư trú bên ngoài nước Mỹ cũng như các mối quan hệ ràng buộc khác đảm bảo họ sẽ quay trở về đó khi kết thúc chuyến đi. - Tài liệu thể hiện tất cả các điều nêu trên. Tùy thuộc vào hoàn cảnh cá nhân, đương đơn có thể cung cấp các tài liệu khác chứng minh cho mục đích của chuyến đi và xác định bản chất của các nghĩa vụ ràng buộc, chẳng hạn như quan hệ gia đình, việc làm, có tác dụng buộc họ phải quay trở về. Tài liệu cần thiết - Khi xin visa để đi du lịch chữa bệnh Ngoài tất cả các tài liệu yêu cầu đã nêu ở trên, các tài liệu sau đây cũng buộc phải có, đối với người xin visa để đi du lịch chữa bệnh tại Mỹ: Những người mong muốn đi du lịch sang Mỹ để điều trị bệnh cần chuẩn bị để trình bày những vấn đề sau, ngoài bất kỳ tài liệu khác mà các viên chức lãnh sự có thể yêu cầu: (1) Chẩn đoán y tế từ một bác sĩ địa phương, giải thích bản chất của tình trạng bệnh và lý do đương đơn yêu cầu được điều trị tại Mỹ. (2) Thư của một bác sĩ hoặc cơ sở y tế tại Mỹ, thể hiện sự sẵn lòng tiếp nhận điều trị ca bệnh này và các chi tiết về thời gian cũng như chi phí điều trị (bao gồm cả lệ phí trả bác sĩ, phí nằm viện, và tất cả các chi phí y tế liên quan). (3) Giấy cam kết về trách nhiệm tài chính từ các cá nhân hoặc một tổ chức nào đó sẽ trả tiền đi lại, chi phí điều trị và sinh hoạt cho bệnh nhân. Các cá nhân bảo lãnh thanh toán những chi phí này phải cung cấp bằng chứng về khả năng chi trả, thường dưới hình thức mẫu đơn của ngân hàng hoặc báo cáo về thu nhập / tiết kiệm hoặc các bản sao có chứng thực về các khoản hoàn thuế thu nhập. (4) Người đi du lịch sang Mỹ để điều trị bệnh cần phải có một giấy giới thiệu từ bác sĩ hoặc tổ chức liên quan đến việc điều trị bệnh đã đề xuất. Ở lại Mỹ quá hạn cho phép và mất tình trạng nhập cư hợp pháp. - Điều quan trọng là bạn phải rời khỏi Mỹ vào hoặc trước ngày cuối cùng bạn được phép ở lại nước này đối với bất kỳ chuyến đi nào, dựa vào ngày cuối cùng ghi trên Phiếu Xuất nhập cảnh của bạn, Mẫu I-94. Không rời khỏi Mỹ sẽ làm bạn mất tình trạng nhập cư hợp pháp. - Ở bất hợp pháp tại Mỹ quá ngày mà các viên chức Hải quan và Bảo vệ Biên giới (CBP) cho phép - thậm chí chỉ một ngày - sẽ làm cho visa của bạn tự động mất hiệu lực, theo điều khoản INA 222 (g). Theo điều khoản này của luật nhập cư, nếu bạn ở lại Mỹ quá hạn cho phép đối với trường hợp không di dân, visa của bạn sẽ bị tự động hủy bỏ. Trong tình huống này, bạn phải nộp đơn xin visa không di dân mới, thông thường là ở nước bạn cư trú.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 27, 2013 9:13:51 GMT 9
Tượng Ðại Phật lớn nhất thế giới tại Nhật Friday, June 21, 2013 3:25:15 PM Share on print Print Share on email Email Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel “Ðức tin luôn ở trong tâm hồn con người” Nhật không chỉ là một quốc gia có nền kỹ thuật công nghiệp cao mà đây còn là một đất nước có rất nhiều điểm rất đặc biệt về tôn giáo và văn hóa là những điểm thu hút lôi cuốn du khách đến đây thưởng ngoạn. Ngoài Thần Ðạo là tín ngưỡng dân gian trong suốt chiều dài lập quốc của xứ Phù Tang, Phật Giáo là một tôn giáo lớn khác đã hiện diện ở đây có hơn cả 1,500 năm. Một kỳ tích hiện đại của Phật Giáo Nhật là tượng Ðại Phật Ushiku cao nhất thế giới (cao 120m) tại tỉnh Ibaragi. Tượng Ðại Phật tại làng Ushiku, Nhật. (Hình: ATNT Tours & Travel) Có lẽ, nếu không có tượng Ðại Phật A Di Ðà tại ngôi làng Ushiku thuộc tỉnh Ibaragi này, tôi cũng không biết tỉnh Ibaragi nằm ở đâu trong xứ Nhật (cho dù tôi đã từng ở Nhật 9 năm và có những người bạn đã từng ở đây trước năm 1975 mà cũng ít ai để ý đến). Nhưng lần theo quá khứ thì mới biết Ibaragi là một tỉnh khá nổi tiếng, nơi sản xuất ra loại vải chuyên để dùng may áo Kimono, ngoài ra vào đầu thế kỷ 13 một cao tăng tên Thân Loan (1173-1262) đã có dịp đến nơi đây hành đạo trong suốt một thời gian dài (20 năm), ngài lập ra Tịnh Ðộ Chân Tông của Phật Giáo Ðại Thừa. Cũng cần nói một chút sơ qua đôi chút về Ðại sư Thân Loan, ông xuất gia từ thuở nhỏ lúc mới lên 9 tuổi vì gia đình không còn ai, bố mẹ mất sớm. Ông theo học thầy là Ðại sư Pháp Nhiên người sáng lập ra Tịnh Ðộ Tông. Tuy nhiên, giáo pháp của thầy đã không hoàn toàn giúp ông thoát ra khỏi các điều phiền não khổ đau của trần thế. Ông lập ra Tịnh Ðộ Chân Tông, cho rằng chúng sanh luôn cần đến sự giúp đỡ của Ðức Phật A Di Ðà. Một khi niềm tin vào Ðức Phật A Di Ðà đã trở thành đức tin thì chỉ cần Niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà là mọi người có thể thoát ra khỏi mọi điều phiền não bệnh tật khổ đau. Một điểm đặc biệt, sau khi trải dài những thăng trầm trên bước đường tu học, khi bị bắt buộc phải hủy bỏ tăng tịch của mình; Ðại sư Thân Loan đã sống cuộc đời bình thường như mọi người. Ngài lập gia đình với Ni sư Eshin là một thiếu nữ thuộc gia đình quí tộc Nhật. Cũng vì điều này mà các tông phái khác cho rằng ngài đã phạm vào giới luật Phật Giáo, nhưng ngược lại thì đại sư Thân Loan lại cho rằng tất cả mọi chúng sanh, kể cả nam nữ đều là đối tượng cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Ngày bố mẹ tôi mất, tôi đã có dịp đến chùa tụng kinh Tịnh Ðộ cho ông bà cụ. Ðọc đoạn kinh “Phật nói Kinh A Di Ðà” trong nghi thức Tịnh Ðộ, quả thực tôi không hiểu lắm vì có thể nhiều lý do như trình độ hiểu của cá nhân mình chưa đủ hay ngôn ngữ của mình không đồng điệu với ngôn ngữ trong kinh. Nhưng từ khi tôi đến đảnh lễ “tượng Ðại Phật Ushiku” thì sự hiểu biết thêm về Kinh A Di Ðà mở rộng thêm nhiều. Không biết Ðức Phật mở mang kiến thức cho đầu óc tôi thêm thoáng rộng hay chính những nhà thiết kế tượng Ðại Phật Ushiku giúp tôi thêm cơ duyên để hiểu thêm kinh. Tượng Ðại Phật Ushiku do các tín đồ tại ngôi làng Ushiku khởi xướng, tượng được thiết kế từng phần tại Ðài Loan và sau đó đem về Nhật để ráp nối trong suốt một thời gian 10 năm. Tượng Phật A Di Ðà đứng trên một đài hoa sen, cao tổng cộng 120m và nặng đến 4,000 tấn. Tượng được ráp nối bằng 6,000 tấm thanh đồng, màu sắc của tượng hiện tại là màu đồng nâu. Người ta ước lượng khoảng 80-100 năm nữa thì vì bị oxy-hóa, tượng Phật sẽ đổi màu nâu thành màu xanh như bức tượng Nữ thần Tự Do dựng ở cửa sông Hudson, New York. Khuôn mặt của tượng Ðại Phật Ushiku. (Hình: ATNT Tours & Travel) Khi đến gần ngôi làng Ushiku, vào ngày không bị sương mù, người ta có dịp nhìn ngắm tượng Phật cao vụt qua khỏi các lùm cây và các mái nhà. Nếu bạn có duyên lành, bạn có dịp ngắm phần ngực và đầu Phật hiển hiện trong mây. Không biết kể sao cho hết được cảm xúc khi gặp hình ảnh như thế. Dưới chân tượng là một khoảng không gian thoáng rộng, người ta trồng đủ các loại hoa dành cho bốn mùa xuân hạ thu đông. Các hàng cây anh đào thẳng tắp ở nhiều nơi trên các con đường dẫn đến chân tượng, mùa Xuân anh đào trắng hồng nở rộ vào Tháng Tư. Tháng Năm là tháng của hoa California poppy nở vàng cả thửa vườn dưới chân Phật. Tháng Chín, Tháng Mười là tháng của mùa hoa Cosmos hồng cả không gian Ðại Phật Ushiku. Từ bên ngoài bước vào tượng Ðại Phật, người ta cho đào một con rạch nhỏ, cho bắc một cây cầu gỗ để tín đồ niệm đủ bảy chữ “Na mu A mi da bu tsu” (có nghĩa là Nam Mô A Di Ðà Phật, tiếng Việt chỉ có 6 chữ) trước khi đi đến tượng. Niệm đủ danh hiệu Phật là người ta đã đi qua bến mê để vào cửa Phật. Tượng Ðại Phật Ushiku vốn được thiết kế để cho người thưởng ngoạn có thể có được cảm giác “khi con người qua đời” thì cái cảm giác ngay lúc đó như thế nào. Du khách sẽ đi vào tầng một dưới chân tượng. Tầng này được gọi tên là Hikari no Seikai (Thế giới ánh sáng). Khi cánh cổng tầng này đóng lại, không gian trở nên tối om. Tối đến độ không ai có thể trông thấy ai thì ngay lúc đó du khách sẽ nghe một âm thanh rất nhỏ nhưng vi vu bên tai bạn, dĩ nhiên âm thanh nói bằng tiếng Nhật, đại ý cho bạn biết khi rời trần thế, Ðức Phật A Di Ðà với “vô lượng quang”, vô lượng thọ” sẽ tiếp dẫn bạn về “Cực Lạc Quốc”. Sau đó, cánh cửa từ từ mở ra, bạn sẽ thấy một luồng sáng xanh blue chiếu thẳng đến một tượng Phật A Di Ðà đứng ngay giữa không gian. Chung quanh đó là các tượng chư Phật vây quanh, người ta design đủ màu sắc chắc cốt cho mọi người hình dung đến cảnh niết bàn hay “An Lạc Quốc”. Có lẽ tôi chấm “tầng một của Ðại Phật Ushiku” là tầng tuyệt hảo nhất, cũng nhờ tầng này mà tôi hiểu thêm được rất nhiều ý nghĩa trong “đoạn kinh A Di Ðà” trong nghi thức Tịnh Ðộ. Tôi tạm hiểu thế nào là “vô lượng quang”, “vô lượng thọ”, ”thế giới phương trên, dưới, đông, tây, nam, bắc”. Ôi! Chỉ đem cái trí của mình để tìm hiểu câu kinh, còn không tu không tập như tôi thì chỉ gây thêm phiền não. Biết thế mà sao vẫn không “thoát” được! Tầng hai là tầng “Chion Hodoku no Seikai” (Thế giới tri ân báo đức). Ở đây là nơi có trưng bày các tượng Phật A Di Ðà các loại lớn nhỏ khác nhau. Các tín đồ có thể mua tượng từ vài trăm đến hàng ngàn mỹ kim, sau khi được chùa tụng niệm thì các tín đồ có thể để lại đây nhờ chùa giữ lại. Hoa anh đào và Ðại Phật Ushiku. (Hình: ATNT Tours & Travel) Tầng ba là tầng “Rengezo no Seikai” (Thế giới đài sen) là nơi du khách có thể biết qua các hình ảnh kiến trúc tượng Ðại Phật từ lúc khởi đầu cho đến lúc hoàn thành. Một ngón chân cái của tượng cũng được trình bày ở đây để du khách có thể hình dung ra sự vĩ đại của tượng. Tầng bốn là tầng du khách có thể mua các vật kỷ niệm về tượng Ðại Phật Ushiku. Tuy không phải là một gian hàng lớn nhưng cũng đủ các món quà kỷ niệm cho du khách. Tầng năm là tầng cao nhất mà du khách có thể lên thăm. Từ đây du khách có thể ngắm cảnh làng Ushiku xuyên qua 3 cửa sổ ngay lồng ngực Phật. Bên dưới là nơi an nghỉ của các tín đồ Tịnh Ðộ Chân Tông. Ngoài ra, tầng này cũng trình bày các bức họa đồ vẽ về núi Linh Thứu và các nơi chốn “tứ động tâm” bên Ấn Ðộ-Nepal. Ðồng thời tại tầng năm, một “xá lợi Phật” cũng được một chùa Thái Lan (?) gửi tặng được thờ ở đây. Ðiều khác biệt giữa tượng Ðại Phật Ushiku so với các tượng Phật khác trên thế giới là du khách có thể đi vào trong lòng Phật. Ở đây có cả thang máy đưa du khách lên “lồng ngực” Phật ở độ cao 85m. Mỗi năm thế giới này lại có thêm những building cao hơn, những đền thờ to lớn hơn, những ngôi tượng tôn giáo cao hơn. Tôi có nhiều may mắn và cơ hội hơn mọi người được tận mắt ngắm nhìn các “thắng cảnh” đó. Nhưng những vĩ đại, kỳ tích đó thường cho tôi những nỗi buồn khi chứng kiến những cảnh nghèo ở Ấn Ðộ, Châu Phi hay ở các xứ vùng Nam Mỹ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 3, 2013 4:16:10 GMT 9
Đôi điều tai nghe mắt thấy trên đất LàoĐã nhiều lần muốn đi cho biết nước Lào, nhưng đến giờ tôi mới thực hiện được khi đã ở tuổi thất thập...Kể ra là quá muôn, nhưng còn hơn không! Điều thú vị là chuyến đi toàn bằng đường bộ, nên được ngắm ngía cái vùng "đất rộng người thưa" của nước bạn láng giềng đặc biệt. Thời gian ở trên đất Lào thực sự chỉ 5 ngày là quá ngắn để nói về đất nước và con người..., có lẽ chỉ đủ để ghi lại một vài cảm nhận dưới đây. Đất nước xanh, sạch, đẹp Đi đâu cũng thấy rừng và màu xanh cây cỏ, thích nhất là vùng đất mầu mỡ bạt ngàn từ Bắc xuống Nam dọc sông Mêkông. Bất giác mình liên tưởng đến đất nước Việt Nam- nơi mà đi đâu cũng thấy toàn người là người với núi đồi trọc lóc loang lỗ và nhiều vùng đất ngập trong bụi bậm và rác phế thải... Rừng Lào còn rất nhiều gỗ quý Có một điều đáng tiếc là, đến "đất nước triệu voi" nhưng lại chưa được thấy một con voi nào. Thay vào đó thấy rất nhiều ô tô các loai, không chỉ tại các thành phố và thị trấn mà tận các vùng nông thôn cũng thấy nông dân dùng xe ô tô đi làm đồng...trông giống cảnh một số vùng nông thôn Châu Âu vậy! Nhà cửa bên đường cũng khá khang trang sạch đẹp, ở đó người dân sống hiền hòa, thảnh thơi, không nhộn nhạo, bon chen...như ở Việt Nam. Có lẽ Lào là một trong những thiên đường còn sót lại giành cho những ai muốn sống một cuộc sống gần gũi với thiên nhiên. Một nhà dân cách Vientian hơn 600km về phía Nam Người Việt nên sang Lào học kinh nghiệm điều hành xe bus Hôm đi qua biên giới Thái lan lúc đầu mình rất ngại phải đi bằng xe bus của Lào đoạn từ Vientian đến Cầu Hữu nghị I. Nhưng khi đi mới biết đó là một tuyến xe bus hoàn hảo đến bất ngờ. Có thể nói, không chỉ xe mà cả tài xế và phong cách phục vụ đều đạt chuẩn châu Âu. Xe rất sạch, máy chạy êm, có điều hòa mát rượi, mọi trang thiết bị đều hợp thời và an toàn, cửa xe đóng mở hoàn toàn tự động rất thuận tiện cho hành khách khi lên xuống. Thật không ngờ người Lào rất có ý thức giữ trật tự, vệ sinh và nhường nhịn lẫn nhau khi đi xe, tuyệt đối không có cảnh chen lấn ồn ào và nạn cướp giật như xe bus ở Việt Nam. Cả chiếc xe đồ sộ với hơn 50 ghế ngồi và khách thường xuyên lên xuống tại các bến, nhưng chỉ có một người lái xe kiêm bán vé, thu tiền đồng thời nhận và trả hành lý cho khách nếu có hàng gửi kèm. Có lẽ đây là điều chưa từng thấy với ngành xe bus ở Việt Nam thì phải(?). Thiết nghĩ người Việt không cần đi đâu xa mất thời gian và tốn kém, hãy sang Vientian mà học người Lào vận hành xe bus! Người Việt ra nước ngoài tử tế hơn trong nước? Có lẽ "đất lành chim đậu" nên nhiều người Việt đã và đang sang định cư tại Lào, không chỉ ở thành thị mà tại nhiều vùng nông thôn. Trong chặn đi, chúng tôi đã dừng xe ăn trưa tại một quán ăn ven đường ở vùng Trung Lào cách cửa khẩu Cầu Treo độ 200 km. Quán ăn này của một gia đình người Nghệ An mới sang sinh sống được vài năm. Nếu không có mấy giòng chữ Việt trước quán chắc chúng tôi không thể biết họ là người Việt, vì trông họ rất giống người Lào Anh chủ quán cho biết, từ khi sang đây gia đình anh được chính quyền và nhân dân địa phương chào đón và tạo mọi điều kiện thuận lợi để sinh sống và làm ăn. Việc đăng ký cư trú vô cùng đơn giản và thuận tiện. Các quan chức chính quyền địa phương không hề có hiện tượng gây khó dễ hoặc vòi vĩnh tiền bạc... và anh này đã không quên so sánh: "...như thường thấy khi còn ở bên Việt Nam". Từ ngày bắt đầu mở cửa hàng được hơn một năm nay nhưng anh chỉ phải nộp thuế kinh doanh một lần với số tiền không đáng kể, ngoài ra chưa hề mất một thứ tiền thuế hay lệ phí gì khác. Nghĩa là mọi việc thật thuận tiện đối với họ tại nơi "đất khách quê người" chỉ cách xa quê mình vài trăm km! Đó không phải một vài trường hợp đơn lẻ mà là tình hình chung phổ biến đối với người Việt đang sinh sống tại Vientian và các nơi khác ở Lào. Trong chặng đường về, khi đi qua Pắc xế chúng tôi cũng đã chọn một cửa hàng ăn của người Việt khác mặc dù có người cảnh báo "Cửa hàng này bán đắt lắm!". Đó là một cửa hàng mà người chủ là hậu duệ của của một gia đình từ Nam Định di cư vào Nam hồi 1954 rồi sang Lào định cư. Bản thân ông chủ quán được sinh ra tại Lào nhưng nói tiếng Việt rất sõi, vì cả nhà vẫn sử dụng tiếng Việt với nhau và vợ chồng ông cùng con cháu hàng năm vẫn trở về thăm quê tận Nam Định. Ông tự hào khoe tấm ảnh to treo trên tường có đông đủ các thành viên gia đình, trong đó có người đang định cư tại Mỹ, Úc...; riêng cặp vợ chồng anh con trai thứ vẫn ở lại Pắc xế để kế nghiệp cửa hàng ăn của bố mẹ. Bữa ăn tại cửa hàng này đúng là có đắt hơn so với mặt bằng giá ở Lào. Nhưng đó là môt cửa hàng khá chuyên nghiệp. Qua những cuộc gặp gỡ trò chuyện với một số người Việt tại Lào, tôi lại nhớ đến những cộng đồng người Việt bên Đan Mạch và Châu Âu hay Châu Phi và nhiều nơi khác trên thế giới mà tôi đã từng biết và nhận thấy một đặc điểm chung là, hầu hết người Việt khi ra nước ngoài đều có cuộc sống tốt hơn và thành đạt hơn khi ở trong nước đồng thời họ cũng luôn gìn giữ tình yêu quê quê hương sâu đậm. Nói cách khác người Việt khi ra nước ngoài thường trở nên tử tế hơn so với trong nước. Vẫn biết "mọi sự so sách đều khập khiểng", nhưng đây là một cảm nhận được chia sẻ bởi rất nhiều người, từ kiều bào đến lưu học sinh và cả những người chưa một lần ra nước ngoài. Lý do tại sao thì vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Nhưng đó là một sự thật. Đường Trung Quốc tốt hơn đường Việt Nam Khi còn ở trong nước tôi cứ nghĩ đường sá ở Lào chắc phải kém hơn ở Việt Nam. Nhưng từ khi bước chân qua Lào ý nghĩ có đã nhanh chóng thay đổi. Những con đường mà xe chúng tôi đi qua nói chung đều khá phẳng, thậm chí phẳng hơn cả đường Láng-Hòa Lạc, và rất ít ổ gà, trừ một vài đoạn đang thi công sửa chữa. Có một nhược điểm tương tự với Việt Nam là hệ thống biển hiệu chỉ đường thường thiếu rành mạch, khó nhận biết từ xa, khiến người tham gia giao thông khó định hướng khi ngồi trên xe, nên thỉnh thoảng phải dừng xe để hỏi đường cho chắc ăn. Tuy nhiên, nhìn chung, với một đất nước có địa hình rừng núi, dân cư thưa thớt như Lào thì việc quản lý và duy tu bảo dưỡng một hệ thống đường bộ thuận tiện như vậy là rất đáng khích lệ. Riêng tuyến đường 13 nối Bắc và Nam Lào phải nói là một trong những tuyến đường đẹp của Đông Nam Á nhờ địa thế chạy dọc sông Mê công và xuyên qua cao nguyên Poloven rộng lớn. Những tuyến đường dẫn đến các cửa khẩu với Việt Nam cũng đang được cải thiện ngày một ngày hai, nhất là từ khi có thỏa thuận thông xe đường bộ giữa hai nước, những tuyến đường này ngày càng trở nên nhộn nhịp hơn. Điều này rất thiết thực cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại và du lịch, đặc biệt tạo điều kiện để nhân dân Lào có thể đến với bờ biển Việt Nam và thưởng ngoạn những thứ mà Lào không có. Một tuyến đường ở ngoại ô Vientian Tuy nhiên có một hiện tượng đáng buồn và đáng xấu hổ liên quan đến chất lượng các con đường mà người Việt Nam đã giúp xây dựng trên đất Lào cũng như trên đất Cămphuchia. Trong chuyến đi này chúng tôi nhiều lần nghe người dân Lào bông đùa với hai từ "đường Việt Nam", "đường Trung Quốc" để phân biệt những đoạn đường xấu và tốt trên đất nước của họ. Vậy đấy, khi chưa có ai khác để so sánh thì chất lượng những con đường do Việt Nam xây dựng tốt/xấu bạn Lào không mấy để ý. Nhưng từ khi người Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng xuống Lào và Campuchia thì những yếu điểm của công nghệ làm đường Việt Nam vốn không chỉ cẩu thả mà còn bị "ăn bớt" đã bắt đầu bộc lộ. Mong rằng các nhà quản lý Việt Nam hãy coi đây là bài học cuối cùng đối với họ. Dân gian nói: "Ăn trước trả sau, đau hơn hoạn" quả không sai. Cách làm đường như thế không chỉ ảnh hưởng xấu đối với giao thông mà chính là sự lãng phí vốn đầu tư không thể tha thứ, và giờ đây còn ảnh hưởng xấu đến uy tín của đất nước. Thay cho lời kết Một gia đình người Lào đi nghĩ cuối tuần tắm biển Quảng Bình Không biết có được mọi người chia sẻ không, nhưng với tôi, nước Lào là một kho báu, cả theo nghĩa đen và bóng, và giữ một vị trí địa chiến lược cực kỳ xung yếu đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh tăng cường bành trướng của siêu cường Trung Quốc. Ngược lại, người Lào cũng rất cần dựa vào Việt Nam, đặc biệt là nhu cầu như một cửa ngõ thông ra Biển Đông và thế giới. Cụm từ "quan hệ đặc biệt" là hoàn toàn chính xác đối với hai quốc gia dân tộc này. Và phải chăng đã đến lúc để hai nước "cụ thể hóa" mối quan hệ đặc biệt này theo hai hướng chính là "lên rừng và ra biển" như vốn đã có trong truyền thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân mà tôi thiển nghĩ không phải chỉ của người Việt Nam mà của người Bách Việt xưa, trong đó có cả các dân tộc Lào ?
|
|
|
Du Lich
Jul 23, 2013 18:30:36 GMT 9
Post by Vĩnh Long on Jul 23, 2013 18:30:36 GMT 9
Myanmar khác người ta kể07/04/2013 Yangon giống như Sai Gon những năm 80 thế kỷ trước, là mô tả mà tôi đọc được trên mạng. Nhưng thực tế đã thay đổi một cách ngạc nhiên. Hàng loạt thông tin trên các diễn đàn du lịch rải rác từ năm 2010 đến nay là hình ảnh một đất nước Myanmar nghèo khó, thành phố đầy xe hơi cũ, điện chập chờn, không kết nối với thế giới... Dù có vẻ càng gần đây càng được cải thiện, nhưng đỉnh điểm của nỗi hồ nghi được khẳng định khi chính công ty du lịch khuyên chúng tôi: “Không nên mang máy tính hay điện thoại theo cho mất công, vì internet không có hoặc rất chậm, điện thoại sóng chập chờn và không thể mua sim để xài tạm. Các anh chị cứ xem như mình tạm xa thế giới văn minh vài hôm để trở về quá khứ!”. Bắt kịp thế giới Những cảnh báo đó bị lung lay khi chuyến bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế Yangon, hành khách vào tận nhà ga bằng đường ống dẫn không thua kém bất cứ sân bay nào ở châu Á. Sân bay nhỏ cỡ Cảng hàng không Đà Nẵng, thoáng, nhìn rất tinh tươm, sạch sẽ và hiện đại, ngoại trừ dãy máy ATM không hoạt động được. Bạn chỉ có thể đổi tiền ở các quầy giao dịch, nhân viên cẩn thận kiểm tra từng tờ USD - nhăn một chút cũng không được hay có một con dấu bé xíu (cách mà các tiệm vàng ở Việt Nam hay làm dấu tờ USD của mình bán ra) cũng bị từ chối. Le lói một chút khả năng xài thẻ tín dụng khi mà ngay lối ra khỏi sân bay người ta đang dựng một bảng quảng cáo rất to: “Master Card - tổ chức đầu tiên kết nối với Myanmar”. Tòa thị chính ở Yangon Không phải chỉ có những người vốn chỉ biết về Myanmar qua các diễn đàn du lịch như chúng tôi, mà người từng đến Myanmar như Hồ Tấn Huy, hướng dẫn viên một công ty du lịch, cũng giật mình khi khách sạn ở Yangon thông báo chúng tôi có thể lấy mật khẩu để vào internet wifi. Vào mạng từ máy tính của khách sạn, dù kiểm tra email hay vào Facebook, tốc độ truy cập giống như đang ở bên nhà. Hôm lên Kyaithtiyo, một điểm hành hương linh thiêng của người Myanmar, nằm trên đỉnh núi cao hơn 1.700 m so với mặt nước biển, du khách vẫn có thể vào mạng dù phải trả 3 USD/30 phút. Tương tự, chuyện sóng di động cũng đã được cải thiện rất nhiều. Vinaphone, MobiFone, Viettel đều có thể roaming với mạng điện thoại của Myanmar, dù rằng từ Việt Nam gọi sang thì thường thấy đổ chuông mà không nghe được, nhưng chủ động gọi ngược lại thì rất ngon lành! Khách vãng lai không thể mua sim điện thoại địa phương để dùng, ngay như dân bản xứ hay người công tác tại đây muốn đăng ký sim cũng mất khá nhiều thời gian, nhưng tỷ lệ người sở hữu và sử dụng điện thoại di động đã tăng lên đáng kể. Không chỉ dễ dàng thấy trên phố mà trong các chương trình truyền hình đêm cuối tuần trên đài truyền hình của Myanmar cũng có những cuộc thi hát kiểu Tìm kiếm tài năng như ở ta và kết thúc tiết mục bao giờ cũng mời gọi khán giả tham gia nhắn tin bình chọn! Khiêng kiệu cho du khách xuống núi Tại Yangon, thành phố lớn nhất của Myanmar, có thể nhận thấy sự cởi mở, tìm kiếm và hào hứng với cái mới trên từng con đường. Thay cho thiên đường xe hơi cũ (Yangon cấm xe máy) là những chiếc xe đời mới xuất hiện ngày càng nhiều, những bảng quảng cáo rực rỡ cho chuyến lưu diễn của nhóm nhạc Michael Learns To Rock (chạnh lòng nhớ lại hồi Việt Nam mới mở cửa họ cũng sang làm rùm beng) và hội chợ xe hơi Nhật... Than Moe Tun, cư dân Yangon, phân bua khi chúng tôi gặp kẹt xe: “Chuyện này chỉ xảy ra 1 năm trở lại đây thôi, trước khi mở cửa Yangon chả khi nào kẹt xe!”. Nhìn thấy tương lai Quá nhanh! Đó là nhận xét chung của tất cả những ai đến Myanmar từ lần thứ 2 trở lên về những thay đổi ở đất nước này. Ngay bên cạnh khu chợ Bogyoke buôn bán đá quý và hàng thủ công mỹ nghệ là trung tâm thương mại Parkson đang được gấp rút xây dựng. Dọc theo trục đường lớn ở trung tâm Yangon, một khu đất vàng đã được rào lại và dựng bảng dự án của Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam. Chen lẫn với những thương hiệu toàn cầu đã nhanh chân vào xí phần, dạo quanh Yangon dễ dàng bắt gặp những tấm bảng quảng cáo hay văn phòng của: BIDV, Petro Việt Nam, Đạm Phú Mỹ... Du khách châu Âu đến Myanmar ngày càng nhiều - Ảnh: Trọng Phước Một doanh nhân Việt Nam đang đầu tư xây dựng nhà máy dược phẩm tại đây nhận xét Myanmar sẽ còn phát triển nhanh nữa vì hạ tầng giao thông “xương sống” của họ tốt hơn ta, mạng lưới giao thông công cộng phủ kín và khả năng tiếng Anh của người dân rất tốt. Không chỉ là nhận xét từ những nhà đầu tư lão luyện, chính những người dân Myanmar mà chúng tôi có dịp gặp đều tự tin và hào hứng với bức tranh tương lai của đất nước mình. Bây giờ ở bất kỳ đâu họ cũng đều có thể bàn luận sôi nổi về giải Ngoại hạng Anh, nhai trầu (cả đàn ông lẫn đàn bà) và nói về tương lai kinh tế, chính trị của đất nước mình một cách không e dè, lo lắng. Sự cởi mở của nền dân chủ mới có thể thấy rõ ở những gian hàng bán tranh vẽ hay tranh đá quý, người ta treo các bức chân dung bà Aung San Suu Kyi, thủ lĩnh phái đối lập chính, ở vị trí rất trang trọng. Bức ảnh được ưa thích nhất ở đây là tấm Tổng thống Mỹ Obama ôm bà trong chuyến thăm đến đây hồi tháng 11 năm ngoái. Thậm chí ở một số điểm du lịch, người ta để cả chồng những tờ tạp chí được xuất bản tự do ở đất nước này có trang bìa là tấm ảnh ấy để bán cho du khách muốn mua làm kỷ niệm. *** So với các điểm đến khác trong khu vực thì Myanmar chưa phải là lựa chọn hàng đầu của du khách Việt dù, chỉ cách có 2 giờ bay, phần vì những thông tin có từ lúc Myanmar chưa thay đổi, phần cũng vì nội dung du lịch đến xứ này khá đơn điệu: tham quan chùa là chính. Nhưng với những ai muốn tìm lại nét cổ xưa, hồn nhiên, dân dã, mộc mạc của quá khứ và muốn trải nghiệm một cuộc sống hiền hòa, tri túc, chưa bị những mặt trái của hội nhập và nền kinh tế thị trường làm biến dạng thì Myanmar là một nơi nên tìm đến. Nhưng phải đi ngay kẻo không còn kịp nữa! Làm du lịch kiểu Myanmar Có hai địa điểm nổi tiếng nhất là chùa Shwedagon và chùa đá vàng (Kyaithtiyo - nơi có hòn đá thiêng dát vàng nằm cheo leo trên vách núi tưởng chừng sắp đổ nhưng vững chãi cả ngàn năm nay). Nếu chùa Shwedagon rất dễ thăm viếng nhờ nằm ngay trung tâm Yangon, thì ngược lại chùa đá vàng cách Yangon khoảng 200 km. Đến nơi khách phải chuyển sang loại xe tải, mui trần vượt 11 km đèo dốc quanh co để lên đến bãi chuyển tiếp lưng chừng núi. Từ đây chỉ có dân địa phương mới được đi tiếp bằng xe tải lên đến gần chùa, tất cả du khách phải xuống đi bộ 4 km hoặc thuê 4 thanh niên địa phương khiêng kiệu lên đến nơi. Đây là một chính sách tạo công ăn việc làm cho cộng đồng dân cư còn khó khăn nơi đây. Dù một chuyến kiệu vã mồ hôi có giá 15 USD (hơn 300.000 đồng) chưa tính khoản bồi dưỡng thêm thường vào khoảng 150.000 đồng nữa cho 4 người. Hàng lưu niệm của Myanmar chủ yếu được chế tác từ gỗ và đá quý. Tượng Phật bằng gỗ thơm, vòng đeo tay bằng ngọc nhiều màu, tranh đá quý... rẻ hơn ở Việt Nam nhiều, nhưng phải trả giá. Giá bán các mặt hàng này trong khu bán hàng miễn thuế ở sân bay lại rẻ hơn ở các điểm du lịch. Trọng Phước
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 5, 2013 1:48:02 GMT 9
Từ Westminster-Orange County đến Westminster-London Friday, August 02, 2013 2:53:23 PM Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel Cho đến ngày hôm nay (năm 2013), có lẽ không có người Việt Nam nào trên toàn thế giới mà không biết đến khu “Tiểu Sài Gòn” (Little Saigon) trong thành phố Westminster thuộc Orange County của miền Nam California. Du khách Việt Nam từ khắp nơi đến du ngoạn Hoa Kỳ nếu mà chưa đến thăm khu Little Saigon này thì hình như ai cũng cảm thấy một chuyến du lịch Hoa Kỳ của mình chưa trọn vẹn, có một điều gì thiếu thốn trong chuyến đi. Little Saigon, thủ đô của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản, có điều gì hấp dẫn! Tòa thị chính của Westminster, Orange County, California. (Hình: ATNT Tours & Travel) Nếu không có các khu phố Little Saigon hiện diện trong thành phố Westminster thì chắc cũng chẳng có ai (kể cả người dân bản xứ) lưu tâm đến thành phố Westminster của quận Cam vì thành phố này cũng không khác gì các thành phố chung quanh nó. Westminster cũng không phải là thủ phủ của quận Cam (thủ phủ OC là Santa Ana) nên vào cuối thập niên 70 thành phố này vẫn còn là nơi xa lạ với người Việt tị nạn. Lần ngược về quá khứ, thành phố Westminster ra đời vào năm 1870 do vị Mục Sư Lemuel Webber của giáo hội Presbyterian khởi động. Ông là người đã xây dựng First Presbyterian Church of Westminster và cũng là người mua khu đất Stearns Rancho rộng hơn 6,500 acres. Thành phố Westminster of OC ra đời từ ngày đó, đến nay đã hơn 140 năm tuổi. Nhưng tại sao lại có tên Westminster! Lần tìm theo gia phả Mục Sư Lemuel Webber, được biết ông sinh ra tại Salem County của New Jersey. Nhưng căn cứ theo lịch sử giáo hội Presbyterian*, tôi tin rằng tổ tiên ông là người gốc Anh và tên Westminster City của Orange County không phải là ngẫu nhiên mà có. Ít nhiều người Mỹ gốc Anh họ luôn luôn có niềm tự hào về Vương quốc Bristain của họ. Họ có thể không đồng ý với các vị vua Bristain đã xua đuổi họ chỉ vì lý do khác biệt tôn giáo (Anh Giáo không thích các giáo phái Tân giáo nảy nở trên đất Anh), họ là những người tị nạn vì lý do chính trị tôn giáo nhưng không vì thế mà họ quên đi nơi chốn họ đã ra đời. Rất nhiều người trên trái đất này luôn hãnh diện, ngưỡng mộ tổ tiên và nơi chào đời của họ. Họ luôn nhớ đến Westminster of London đã có từ ngàn năm trước. Họ ra đi và mang theo cả tên “Westminster” sang tận các nơi phương trời xa. Mục Sư Lemuel Webber đã mang tên “Westminster” từ London sang tận Orange County của xứ Hoa Kỳ. Cũng như tên Little Saigon không phải tự dưng mà có, mà tên này được hình thành theo năm tháng trôi nổi lận đận của người dân miền Nam Việt Nam. Người dân miền Nam Việt Nam ra đi vì không chấp nhận cái “vô nhân bản” của bản chất cộng sản, nhưng không vì thế mà người miền Nam Việt Nam quên được nơi họ đã lớn lên, nhưng quan trọng hơn hết là vì nơi chốn đó đã cho họ hiểu được ý nghĩa đích thực của hai chữ tự do. Chính quyền Việt Nam Cộng Sản tìm cách “tẩy não” họ, tìm cách xua đuổi họ vào những ngày Cộng Sản mới chiếm đóng miền Nam. Nền kinh tế bao cấp phá sản, chính quyền Cộng Sản tìm cách đổi mới kinh tế mọi thứ mọi ngành để cứu vãn cái tan vỡ của chủ nghĩa cộng sản. (Người cộng sản đổi mới bằng cách làm lại những gì mà chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã làm từ 40 năm trước. Thời gian bốn mươi năm trôi qua đưa Nam Hàn [cùng thời với Việt Nam Cộng Hòa] vụt trở thành nền kinh tế lớn thứ năm thứ sáu trên thế giới, còn kinh tế Việt Nam bốn mươi năm trôi qua vẫn luẩn quẩn trong cái chuồng chim cu.) Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt-Mỹ tại Sid Goldstein Freedom Park, Westminster, California. (Hình: ATNT Tours & Travel) Mục Sư Lemuel Webber mất năm 1874, nhưng có lẽ ông cũng không bao giờ có thể ngờ được rằng thành phố nhỏ bé ngày xưa của ông bỗng dưng trở thành một tên tuổi được cả “thế giới người Việt Nam” biết đến. Hơn 30 năm nay thành phố Westminster of Orange County bỗng dưng được người Việt Nam tị nạn Cộng Sản chọn làm vùng đất hứa. Lượng người đổ dồn về đây đông đảo, tạo ra cả một sự sầm uất thịnh vượng cho thành phố Westminster. Con đường Bolsa, Westminster Blvd. chạy song song dài khoảng 1.5miles và là các con phố thị lớn cho người Việt. Mọi sinh hoạt lễ hội và các phong trào tranh đấu cho đất nước Việt Nam đều diễn ra nơi đây. Thương xá Phước Lộc Thọ trên phố Bolsa không phải là một thương xá lớn, không phải là Shopping Mall lớn nhưng lại là một “tọa điểm” du lịch cho người Việt khắp nơi khi đến thăm Little Saigon. Năm 1997 một đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam được dựng lên ngay công viên Tự Do (Sid Goldstein Freedom Park) của thành phố Westminster để nhớ đến công lao của những người chiến binh Việt-Mỹ đã chiến đấu cho sự tự do ở Việt Nam. Ngoài ra, khi đến du lịch ở Little Saigon du khách không những chỉ thưởng thức tất cả các món ăn Việt Nam đủ khắp ba miền Nam Trung Bắc mà du khách còn có dịp quan sát những sinh hoạt báo chí trên con phố Moran, những trung tâm dạy Việt ngữ, Viện Việt Học, phong trào Hùng Ca Sử Việt, những buổi văn nghệ thính phòng của người Việt Nam tại vùng quận Cam Cali, những quán café vỉa hè. Thôi thì đủ cả! Ðủ để người Việt không muốn ở quá xa thành phố này. Bây giờ chúng ta tạm chia tay với City of Westminster of Orange County, bạn hãy lấy một vé máy bay cùng tôi đến thăm Anh Quốc. Nước Anh kể ra thì cũng hơi phức tạp cho những ai không chú ý để phân biệt đôi chút về đất nước này. Khi nói England là chúng ta đang nói đến nước Anh có lá cờ màu trắng và hình chữ Thập màu đỏ ở giữa. Khi nói đến Vương Quốc Liên Hiệp Anh là chúng ta đang nói tới United Kingdom of Great Britain bao gồm các đảo England, Scotland, Wales, và một phần đảo Northern Ireland (Bắc Ireland) cộng thêm nhiều đảo nhỏ khác. Lá cờ cho Vương Quốc Anh là lá cờ màu xanh blue và có các hàng sọc chéo đỏ viền trắng cộng với hình chữ Thập đỏ ở giữa. Thành phố Luân Ðôn (London) nơi có con sông Thames lịch sử chảy qua được chọn là thủ đô cho cả England lẫn United Kingdom of Great Britain. London Eye bên kia sông Thames, đối diện thành phố Westminster của London. (Hình: ATNT Tours & Travel) Suốt từ thế kỷ 11, khu vực này đã từng trôi nổi theo dòng lịch sử Anh Quốc, nơi đã chứng kiến sự thống nhất England và Scotland vào năm 1707, sự ra đời của Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ireland vào năm 1800. Nhất là “City of Westminster”, một khu vực trung tâm cổ kính nhất về cả các mặt văn hóa, kiến trúc và lịch sử. Vì thế, Luân Ðôn là một thành phố du ngoạn không thể thiếu cho du khách khi đến thăm Âu Châu nói chung và Anh Quốc nói riêng vì sự cổ kính và tính cách lịch sử của nó. Một thành phố có chiều dài lịch sử lẫy lừng, có những thiên tài như nhà đại bác học Issac Newton, có thiên tài văn chương William Shakespeare, có thiên tài hải quân Nelson lừng danh trên thế giới thì làm sao người dân Anh không có niềm tự hào riêng của họ, họ đã đem tất cả niềm tự hào đó đến những vùng đất mới. Westminster of Orange County ra đời nhờ những người của giáo hội Presbyterian, nhưng thành phố nhỏ nhoi này trỗi dậy bừng sức sống lên không phải nhờ “Little Saigon” hay sao! Hai chữ “Sài Gòn” không phải chỉ là tên suông mà nó còn bao gồm tất cả những gì mà con người Việt Nam phía tự do hãnh diện có được và mang sang đây. (Từ 1975 đến 1985 chủ nghĩa “cộng sản” miền Bắc đem vào Nam những gì ngoại trừ hận thù và nền kinh tế chỉ huy bao cấp cộng sản phá sản. Văn hóa dân gian còn lưu những dấu tích “4V” [vào, vơ, vét, về] hãy còn rành rành ra đó!) Tượng Phó Ðô Ðốc Nelson trên thạch trụ giữa Trafalgar Square, thành phố Westminster, London. (Hình: ATNT Tours & Travel) Nếu bạn là người thích thú về các câu chuyện lịch sử, chính trị, và văn hóa của Vương quốc Anh thì City of Westminster of London có thể giúp bạn hiểu thêm rất nhiều về các điều đó. Trước hết phải nói đến tu viện Westminster Abbey, ngôi nhà thờ được nhà vua Edward the Confessor xây dựng từ năm 1042. Tôi cho là ngôi tu viện này tuy nhỏ bé hơn các ngôi nhà thờ khác ở nước Anh, nhỏ bé hơn Tòa nhà Nghị Viện Westminster (ngày xưa là Cung điện) nhưng lại có một giá trị tinh thần rất lớn với nước Anh từ cả ngàn năm nay. Các buổi lễ đăng quang lên ngôi của các vua và nữ hoàng Anh phần lớn đều được cử hành ở đây. Ngoài ra, đây cũng là nơi an nghỉ của Hoàng Gia Anh, các nhà bác học, chiến sĩ Vô Danh, và các nhân vật có công lớn với lịch sử Vương Quốc Anh. Cạnh ngôi tu viện là nhà thờ St. Margaret cũng cổ kính cùng thời với tu viện Westminster Abbey. Hiện tại nhà thờ St. Margaret vẫn còn hoạt động, có các thánh lễ vào ngày Chủ Nhật và các ngày lễ khác. Ngày nay, tu viện Westminster, nhà thờ St. Margaret, và cung điện Westminster được UNESCO xếp hạng di sản thế giới từ năm 1987. Tháp Victoria, tòa nhà Nghị Viện, tháp Big Ben, sông Thames và cầu Westminster, London.idge. (Hình: ATNT Tours & Travel) Nằm dọc theo sông Thames và sau lưng tu viện Westminster Abbey là Tòa nhà Nghị viện Quốc Hội Anh (nguyên thủy là cung điện Westminster) cổ kính, nổi tiếng với hai ngọn tháp: Tháp-chuông-đồng-hồ Big Ben phía Tây và tháp Victoria bên phía Ðông. Tên Big Ben từ năm 2012 cũng đã đi vào quá khứ lịch sử vì bây giờ tháp có tên mới, gọi là tháp Elizabeth II để kỷ niệm 60 năm trị vì của Nữ Hoàng Elizabeth II. Ðứng nhìn từ xa, không gian Tòa nhà Nghị viện bên con sông Thames cộng với cây cầu Westminster Bridge nối qua hai bên bờ sông tạo ra một cảnh quan hết riêng biệt cho thành phố London. Hình ảnh này gợi tôi nhớ đến hình ảnh êm ả, nhẹ nhàng, thơ mộng của Budapest và St. Petersburg. Thành phố Budapest nổi bật với tòa nhà Nghị viện Quốc Hội Hungary và cây cầu Charles Bridge bên dòng sông Danube. St. Petersburg của Russia thơ mộng với Cung điện Mùa Ðông và cây cầu mở Palace Bridge bên con sông Neva. Từ tu viện Westminster Abbey bạn hãy đi dọc theo đại lộ Parliament St., con đường này gần như là “Hành lang chính trị” của Vương Quốc Anh, trung tâm quyền lực hành pháp và lập pháp đều tập trung ở đây. Tu viện Westminster Abbey, di sản thế giới của UNESCO tại thành phố Westminster, London. (Hình: ATNT Tours & Travel) Ðịa chỉ số 10 Downing St. là dinh thự nơi thủ tướng Anh làm việc. Trước cửa dinh, bên kia đường, là nơi người dân Anh có quyền biểu tình tụ họp và la hét những khẩu hiệu cốt để các vị thủ tướng lắng nghe (nhưng có mấy ai nghe được!). Chung quanh con đường Downing St. là các tòa nhà chính phủ và các viện bảo tàng. Ngoài ra còn có Whitehall Palace gần đó, đây là cung điện của triều đại Tudors trị vì nước Anh từ thế kỷ 16, nhưng di tích cung điện này đã được trùng tu lại vì bị cháy gần như hoàn toàn. Ðến cuối đường Parliament St. là du khách chạm mặt với Trafalgar Square, một quảng trường không những nổi tiếng ở London mà còn nổi tiếng trên thế giới. Một thạch trụ cao vút giữa quảng trường, có tượng vị phó đô đốc hải quân tài ba nhất trong lịch sử Anh. Ðó là Horatio Nelson người đã chiến thắng trận hải chiến lịch sử để đời, ông đánh tan hạm đội liên quân Pháp-Tây Ban Nha của Napoleon trên vùng biển Trafalgar (nằm phía Tây Nam bờ biển Tây Ban Nha). Dưới chân thạch trụ là tượng bốn con sư tử lớn bằng đồng nằm bảo vệ thạch trụ làm tăng thêm sự uy nghi cho Trafalgar Square. Nơi đây cũng là điểm tụ họp biểu tình phản đối chính phủ của người dân Anh, nhưng đồng thời đây cũng là nơi hàng năm dân chúng Luân Ðôn tụ họp đón Giáng Sinh và Giao Thừa. Ngoài ra tòa nhà National Gallery sau lưng thạch trụ Nelson cũng là một điểm thưởng ngoạn nổi tiếng của London. Rời Trafalgar Square lững thững tản bộ dăm phút trên đường đến nhà ga Leicester Square, nơi có khu China Town. Ở gần cửa ngõ ra vào khu phố Tàu này, người ta dễ dàng nhìn thấy một nhà hàng công khai dành cho giới tính Gay nổi tiếng tên “Ku”. Ðây là nơi tôi thường làm điểm hẹn cho đoàn du khách vì tính cách “lạ” và dễ nhớ của nó. Nhưng chúng ta đã đi ra ngoài City of Westminster mất rồi, xin được quay trở lại. The “Mall” với hàng cờ vương quốc Liên Hiệp Anh & Bắc Ireland, con đường nối liền Trafalgar Square và cung điện Buckingham. (Hình: ATNT Tours & Travel) Từ Trafalgar Square, bạn hãy đi về phía Admirally Arch. Một con đường lớn thẳng tắp, hai bên là những hàng cây xanh cao và những lá cờ Vương Quốc Anh treo suốt cả con đường. Ðó chính là đại lộ “Mall” nối liền cung điện Buckingham với Trafalgar Square. Quả thực, đại lộ “Mall” này rất đẹp và toát ra được một không gian uy nghi giữa cung điện Buckingham và quảng trường Trafalgar. Tượng đài Victoria Memorial với bức tượng Nữ Hoàng Victoria uy nghiêm được dựng trước cung điện Buckingham để tưởng nhớ đến vị nữ hoàng đầy uy quyền trị vì vào thế kỷ 19. Chính Nữ Hoàng Victoria quyết định chọn cung điện Buckingham làm nơi ở cho Hoàng Gia Anh vào năm 1837. Ðây cũng là một trọng điểm du lịch của City of Westminster. Ðôi khi may mắn, du khách có dịp bắt gặp đoàn quân cận vệ của hoàng gia với các chiếc ngựa tứ mã rời khỏi cung điện, không biết Nữ Hoàng Elizabeth II có mặt trong đó hay không! Hay chỉ là các hoàng thân quốc thích hoặc là các vị nguyên thủ/đại sứ của nước ngoài được “xe hoàng gia” đưa đón mỗi khi các vị nguyên thủ/đại sứ đến yết kiến Nữ Hoàng Elizabeth II. City of Westminster of London chỉ lớn chừng đó thôi, nhưng cũng đủ làm bạn mỏi nhừ đôi chân cho một hai ngày dạo bộ. Còn Westminster of OC thì ra sao, đề nghị bạn thử đi bộ một vòng bốn góc đường Magnolia-Westminster Blvd.- Brookhurst-Bolsa-Magnolia xem sao! Không biết có ai đã thử đi bộ một vòng “Little Saigon” chưa? Nếu bạn đã đi, vậy thì đố bạn có bao nhiêu “business” của người Việt Nam chung quanh các con đường đó! Khu thương xá Phước Lộc Thọ trên đường Bolsa, Westminster, California. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt) London nếu không có City of Westminster thì London cũng sẽ mất đi rất nhiều các điểm di sản văn hóa thế giới của UNESCO mà không nơi đâu có được. Còn Westminster of Orange County nếu không có Little Saigon thì thành phố vẫn nhỏ bé ngủ quên bên cạnh Fountain Valley hay Huntington Beach. Con phố thị Bolsa sẽ không kẹt xe vào mỗi cuối tuần. Ðầu năm mới Tết Việt Nam cũng không có xe hoa chợ Tết, cũng không có quí vị “mặc áo dài Việt Nam” đi vận động tranh cử vào mỗi mùa bầu cử, không có các tiệm ăn khuya và cũng không có chợ đêm trước sân thương xá Phước Lộc Thọ mỗi dịp Hè về. Thế thì buồn biết mấy! Thôi thì “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời” nên yêu cả Westminster of Orange County vì trong đó có “Tiểu Sài Gòn của tôi”. ATNT Tours & Travel chuyên nghiệp về bán vé máy bay & tổ chức và hướng dẫn tours. Xin liên lạc ATNT TOURS & TRAVEL 9106 Edinger Ave., Fountain Valley, CA 92708 Tel: (714) 841-2868/(888) 811-8988 *Website: www.atnttravel.com/www.atnttour.com *Ðón nghe chương trình Radio VNR 106.3 FM mỗi tối Thứ Bảy từ 10:00PM-10:25PM.
|
|