|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:17:34 GMT 9
Nguyễn Quang Duy Một lựa chọn dân chủ trong quá khứ: Hoàng đế Bảo Đại - Thủ tướng Ngô Ðình Diệm 1 2 Trong bài “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954”, giáo sư Edward Miller trình bày những hoạt động của Ngô Ðình Diệm trong vòng một thập kỷ trước khi ông trở thành Thủ tướng vào tháng 7 năm 1954. Dựa trên những hoạt động tích cực này, Edward Miller kết luận ông Diệm thành công chủ yếu nhờ nỗ lực của chính mình và của những đồng minh người Việt, cũng như ông đã chủ động tìm cách nắm lấy quyền lực đúng lúc. Trong kết luận thứ hai của bài viết, Edward Miller nhấn mạnh “... Không có bằng cớ nào chứng tỏ rằng Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm nhờ một chiến dịch gây áp lực (với Bảo Ðại) do những quan chức Hoa Kỳ khởi xướng.” Bài tiểu luận này nghiên cứu những quan hệ giữa Hoàng đế Bảo Đại và Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Qua đây, độc giả nào quan tâm có thể thấy được nhiều điểm khác bài viết của Edward Miller về hai nhân vật lịch sử nói trên. Cũng như, vào năm 1954, việc Ngô Đình Diệm chấp chính là một chọn lựa dân chủ của Bảo Đại, với sự đồng thuận của tất cả các tôn giáo, các phong trào chính trị và đảng phái quốc gia tại Việt Nam. Và đến chết Bảo Đại vẫn tin rằng đây là một quyết định đúng lúc và đúng đắn, mặc dù sự chọn lựa này dẫn đến việc trưng cầu dân ý để “truất phế Bảo Đại, khai sinh Đệ nhất Cộng hoà”. Bảo Đại. Nguồn: www.wikimedia.org Ngô Đình Diệm. Nguồn: Chính Đạo Hoàn cảnh Việt Nam khi Bảo Đại cầm quyền Câu chuyện về cụ Phan Bội Châu đối đáp với Hội đồng Đề hình nói được hoàn cảnh “An Nam” lúc Bảo Đại vừa lên ngôi. Ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình đã xử án cụ Phan Bội Châu, Quan toà hỏi: “Ông phản đối chính trị của chính phủ bảo hộ, hay là chính trị của nước Nam?” Cụ Phan trả lời: “Tôi phản đối chính trị của chính phủ bảo hộ, chứ nước Nam có nước đâu và có chính trị đâu mà tôi phản đối?” [1] Nước Nam ở đây chỉ gồm một phần của Trung kỳ. Theo hoà ước Giáp Tuất (1874), miền Nam đã trở thành đất Pháp. Theo Hoà ước Giáp Thân (1884), miền Bắc và miền Trung vẫn thuộc chủ quyền nhà Nguyễn và dưới sự bảo hộ của Pháp. Trên thực tế Pháp đặt ra Phủ Toàn quyền, lần hồi tước hết chủ quyền của vua. Năm 1893, Pháp đã buộc Triều đình Huế chấp thuận cho Pháp toàn quyền giữ gìn an ninh và cai trị vùng cao nguyên miền Trung. Người Kinh không được phép lên làm ăn buôn bán và sinh sống ở đây. Nhà vua cũng không còn được thu thuế ở vùng này nữa. Đến năm 1897, Pháp bãi bỏ chức Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao quyền cho viên Thống sứ Pháp. Từ đó, ở Bắc kỳ, quan lại Việt Nam chỉ biết có Thống sứ chứ không còn biết đến triều đình nữa. Để dễ bề thống trị, Pháp đặt luật lệ riêng cho mỗi miền và cao nguyên. Đó là thời gian khi Bảo Đại vừa chấp chính. Trong thời gian Bảo Đại đang theo học ở Pháp, đại thần nhiếp chính Tôn Thất Hân đã ký với Pháp một hiệp ước. Theo đó, khâm sứ Pháp được chủ toạ Hội đồng Nội các. Pháp đảm trách thu thuế và kiểm soát tài chính. Từ đó triều đình không còn ngân sách riêng. Mọi quyết định chi tiêu của nhà vua cũng phải lấy phê chuẩn từ các công chức Pháp... Đó là “thời” của vị vua xưa nay vẫn bị khép là “bù nhìn”. Hoàng đế Bảo Đại và vị Thượng thư Bộ Lại Sau khi tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris và về nước, khi nắm được tình hình Bảo Đại đã bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia. Ngày 10-12-1932, Bảo Đại cho công bố một đạo dụ theo đó nước ta theo chế độ quân chủ lập hiến. Bảo Đại sẽ trực tiếp điều khiển nội các, và cho cải cách hành chính, giaó dục, tư pháp, cũng như muốn người Pháp thực thi đúng đắn Hoà ước 1884, để cho Triều đình một ít quyền hành trong khuôn khổ nền bảo hộ Pháp. Theo đó một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ... Những dự định cải cách này đã được ông Phạm Quỳnh, nguyên chủ bút Nam Phong, đề nghị từ trước qua bốn bài xã luận đăng trên báo France-Indochine ở Hà Nội, mà bài thứ ba nhan đề là “Tiến tới một Hiến pháp”. Vì đề nghị Phạm Quỳnh phù hợp với ước muốn cải cách, nhà vua đã chọn Phạm Quỳnh làm Thượng thư Nội các [2] mới thay thế Nguyễn Hữu Bài. Bảo Đại cho biết chính ông Charles [3] , có thể theo chỉ thị của chính phủ Pháp, đã đề nghị Phạm Quỳnh vào chức vụ này. Còn về Ngô Đình Diệm, Bảo Đại chọn vì: “... lúc ấy [Ngô Đình Diệm] làm tuần vũ tỉnh Phan Thiết, để đảm trách Bộ Lại. Vốn dòng dõi quan lại, anh ruột ông ta làm Tổng đốc tỉnh Faifo. Diệm năm ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh, liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ. Ngoài chức vụ Thượng thư Nội các, Ngô Đình Diệm lại còn là Tổng thư ký cho Hội đồng Hỗn hợp về Canh tân đã được ban bố năm trước bao gồm các thượng thư Việt Nam và hàng công chức cao cấp Pháp. Ngô Đình Diệm đã được Nguyễn Hữu Bài trước khi về hưu, tiến cử.” [4] Bảo Đại đặt hết niềm tin vào hai người Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm. Phạm Quỳnh đầy viễn kiến lại được người Pháp hổ trợ. Còn Ngô Đình Diệm thì kinh nghiệm, uy tín và ước mong cải tổ xã hội Việt Nam. Những cải tổ kể trên bị các phần tử bảo thủ, lạc hậu, thực dân trong chính phủ Pháp kịch liệt chống đối nên nỗ lực của Bảo Đại và hai ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm bị tê liệt hoàn toàn. Chỉ sau bốn tháng, Ngô Đình Diệm xin Bảo Đại được từ chức. Bảo Đại đã khuyên Ngô Đình Diệm như sau: “Quan Thượng, trẫm hiểu tinh thần trách nhiệm của quan Thượng. Sự liêm khiết ấy đã tôn vinh ông lên rất nhiều, nhưng cần phải chờ thời. Đất nước ta chưa sẵn sàng. Sau nữa, những năm sắp tới đây còn dành cho chúng ta nhiều biến chuyển. Trẫm biết ông và quan Thượng Nguyễn Hữu Bài vẫn có liên lạc chặt chẽ. Như thế, hẳn cụ Bài không quên nhắn nhủ ông những điều lo ngại của cụ. Chiến tranh khó có thể tránh được ở Âu châu, và như thế, sẽ có những hậu quả đối với Á châu mà Nhật Bản có thể là vai trò chủ chốt.” [5] Cũng cần biết, năm 1907, vua Thành Thái bị Pháp bắt vì liên lạc với Kỳ Ngoại hầu Cường Để đang ở Nhật. Pháp buộc nhà vua thoái vị và đày sang đảo Reunion [6] . Ngô Đình Khả, thân phụ Ngô Đình Diệm, lại là Thượng thư Bộ Lễ và tận trung không chịu cùng với các đại thần trong triều đình theo lệnh Pháp ký tên vào tờ biểu yêu cầu vua Thành Thái thoái vị. Vì thế đã bị người Pháp giáng chức và bắt về hưu không cho lãnh tiền hưu liễm. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Bảo Đại đích thân mời và Cường Để đã nhận lời hồi hương giúp nước. Ngày 30-7-1945, tại Tokyo, cơ quan thông tấn Domei loan tin Cường để đang trên đường về Việt Nam, do lời mời của Bảo Đại. Cường Để sẽ nắm chức Cơ mật Viện trưởng. [7] Báo Hưng Việt, ngày 3-8-1945, đã viết “... Theo Để, mục đích của ông là khôi phục lại độc lập cho Tổ Quốc, mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc chứ không vì ngôi đế vương.” [8] Nguyễn Hữu Bài và Ngô Đình Diệm đều có liên lạc mật thiết với Cường Để. Cả hai vẫn tiếp tục được Bảo Đại tin dùng. Có phải Nguyễn Hữu Bài và Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đại giao phó trọng trách (hay ngầm thu xếp) liên lạc với Kỳ Ngoại hầu Cường Để, nói riêng, và Nhật, nói chung? Bảo Đại đã từng giao trách nhiệm liên lạc các đảng phái quốc gia và Việt Minh cho các ông Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Phan Kế Toại để kêu gọi cộng tác hay kết hợp. Kỳ Ngoại hầu Cường Để là chú của Bảo Đại. Cho nên không có gì là lạ nếu Nguyễn Hữu Bài và Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đại giao phó trọng trách liên lạc với Kỳ Ngoại hầu. Còn Nguyễn Đệ là bí thư của Bảo Đại. Một chuyên viên kinh tế, có thể đã được Từ Cung Thái hậu giới thiệu. Nguyễn Đệ cũng quen biết Nguyễn Hữu Bài và là bạn thân của Ngô Đình Diệm. Sau khi Ngô Đình Diệm từ chức, Nguyễn Đệ cũng xin từ chức. Sau này khi Bảo Đại làm Quốc trưởng ông lại tiếp tục làm bí thư của Bảo Đại và được Bảo Đại hết mực tin dùng. Mặc dù có lúc Bảo Đại đã lo ngại Nguyễn Đệ là người của Toà thánh Vatican vì ông đã được Toà thánh giới thiệu. Trong hồi ký của mình, Bảo Đại cũng nhắc đến việc Bùi Bằng Đoàn được giao nắm Bộ Hình (tức Bộ Tư pháp). Ông này vốn là quan, có bằng luật khoa và đã 51 tuổi. [9] Qua nội các đầu tiên, Bảo Đại đã cho thấy ông là người sẵn sàng tham khảo ý kiến và dung hoà những quan điểm hoặc khuynh hướng khác nhau nhằm xây dựng nền tảng dân chủ, trong một thể chế quân chủ lập hiến. Nhật đảo chính Pháp Năm 1940, Nhật đánh Lạng Sơn, Pháp thua phải ký hiệp ước cho quân Nhật sang đóng trên lãnh thổ Việt Nam. Năm 1945, phe Đức - Nhật yếu thế, khối Đồng minh nắm chắc phần thắng. Quân Pháp ở Việt Nam bắt liên lạc với quân Đồng minh. Nhật biết được, đêm 9-3-1945, Nhật cho nổ súng tấn công quân Pháp. Chỉ trong vòng một đêm, cơ đồ thực dân Pháp xây dựng trong vòng trăm năm đã hoàn toàn sụp đổ. Ngày 11-3-1945, Đại sứ Nhật Marc Masayuki Yokoyama yết kiến Bảo Đại tường trình việc Nhật chấm dứt chủ quyền của Pháp ở Việt Nam và nhiệm vụ của ông là trao lại nền độc lập của Việt Nam. Bảo Đại rất ngạc nhiên đặt thẳng vấn đề Nhật công khai bảo trợ Hoàng thân Cường Để rồi kết luận: “... Còn tôi, tôi quan tâm đến dân tộc tôi hơn là quan tâm đến ngai vàng...” [10] Việc Bảo Đại tự ý thoái vị (25--8--1945), và chấp nhận bị truất phế (23--10--1955) đã chứng minh Bảo Đại là lãnh tụ “thờ ơ” quyền lực. Ngay chiều hôm đó, Bảo Đại cho triệu tập Hội đồng Cơ mật để thông báo, phân tích và thảo luận về tình hình mới. Bảo Đại yêu cầu tất cả các thượng thư đồng ký bản Tuyên ngôn Độc lập, do Phạm Quỳnh soạn từ gợi ý của Yokoyama, trong đó xác định “... kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp được bãi bỏ, và đất nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia...” [11] Ngày 19-3-1945, vua Bảo Đại báo cho thượng thư Phạm Quỳnh biết là từ nay, nhà vua tự tay đảm trách quyền lãnh đạo quốc gia. Phạm Quỳnh ý thức được tình thế mới, đã cùng toàn thể thượng thư lục bộ xin từ chức. Bảo Đại cho lập nội các mới. Như đã nói ở trên có thể Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đaị giao phó trọng trách liên lạc với Kỳ Ngoại hầu Cường Để và Nhật. Do đó Bảo Đại đã coi Ngô Đình Diệm là ứng cử viên số một để lãnh đạo chính phủ Việt Nam mới, và vì vậy Bảo Đại đã hai lần đích thân nhờ Đại sứ Nhật Yokoyama triệu hồi Ngô Ðình Diệm từ Sài Gòn về Huế thành lập chính phủ. Edward Miller, dựa vào Shiraishi, cho rằng Ngô Đình Diệm đã nhận được bức điện thứ hai trong hai bức điện mà Bảo Ðại gửi đi ngay, và đã tự ý từ chối lời đề nghị của Bảo Đại. Ông đã thắc mắc không biết vì lý do gì ông Diệm quyết định như vậy. Nhưng lại cho biết ông đã Diệm hối hận về quyết định này và cố gắng đảo ngược tình thế, nhưng quá muộn: Bảo Ðại đã mời học giả và nhà phê bình văn hoá Trần Trọng Kim lên làm thủ tướng. Vũ Ngự Chiêu, lại dựa vào Marakami, cho rằng tướng Nhật Tsuchihashi Yuitsui, Toàn Quyền Nhật tại Đông Dương, đã không muốn đưa Cường Để lên ngôi, với hy vọng sẽ lợi dụng tối đa hệ thống hành chính thuộc địa của Pháp. [12] Báo Thông tin, Hà Nội ngày 10-6-1945, đưa tin: “DIỆM, từ năm 1944, đã được coi như ứng viên chức thủ tướng trong một chính phủ do Nhật bảo trợ. Tuy nhiên, từ sau ngày Tsuchihashi được giao trách nhiệm cai quản Đông Dương, phe Cường Để bị loại. Bị Tokyo áp lực đưa Cường Để hồi hương, Tsuchihashi đã có lần tuyên bố: Cứ đưa hắn về đây. Ta sẽ lập tức tống cổ hắn vào Côn Lôn.” [13] Theo bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp dưới dạng hồi ký không được công bố của Đại sứ Nhật Yokoyama, Ngô Đình Diệm đã từ chối vì lý do sức khoẻ. Nhưng ít lâu sau thì ông được biết ông Diệm đã từ chối vì hai lý do: thứ nhất ông đã thề trung thành với Kỳ Ngoại hầu Cường Để và không muốn phục vụ Bảo Đại mà ông cho là thân Pháp; thứ hai là ông muốn lấy lại Nam Bộ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng mà lúc này Nhật chưa trả lại cho Việt Nam. [14] Trong khi đó, hồi ký Bảo Đại viết rất rõ: “...Trong óc tôi, người tiêu biểu nhất trong số này là Ngô Đình Diệm... Ba tuần lễ trôi qua, mà chẳng thấy tăm hơi Ngô Đình Diệm ở đâu. Trước thúc dục ngày càng khẩn thiết của tôi, Đại sứ Yokoyama trả lời là chưa tìm thấy vị Thủ tướng dự trù này. Sự chậm trễ ấy làm tôi suy nghĩ. Người Nhật rất thành thạo trong sự kiện xảy ra ở Việt Nam. Cơ quan tình báo của họ rất đắc lực, và họ biết chỗ và biết cách để tìm thấy nhân vật này. Về sau tôi biết được qua lời nói của Đại sứ Yokoyama là Ngô Đình Diệm không được cảm tình của của chính phủ Nhật.” [15] Trong Hồi Ký Trần Trọng Kim có hai lần nhắc đến việc này. Lần đầu ở Chương 3 khi vừa từ Thái Lan về lại Việt Nam, khi ông vừa nhận được thơ mời của Bảo Đại, ông gặp ông Diệm thì được ông Diệm cho biết đã không nhận được thơ mời. [16] Lần thứ hai Trần Trọng Kim nhắc đến việc này là ở Chương 4 khi ông vào gặp Bảo Đại. Trần Trọng Kim nói rõ ông có “hỏi ông Tối cao Cố vấn Nhật xem có tin gì về ông Diệm chưa. Trước thì cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông Diệm đau chưa về được. Ðó là lời Tối cao Cố vấn, chứ tự ông Diệm không có điện riêng xác định lại.” [17] Hồi ký của Trần Trọng Kim được xuất bản tại Sài Gòn năm 1969, có thể là hồi ký được nhiều người Việt đọc nhất. Khi hồi ký này được phổ biến các nhân vật lịch sử như Bảo Đại, Hoàng Xuân Hãn, Tùng Hạ, Phan Anh... đều còn sống và không có người nào đính chính. Đối chiếu hồi ký của Bảo Đại và Trần Trọng Kim có thể nói rằng Yokoyama đã thiếu thành thật khi báo cáo với người Pháp. Sau khi chính phủ Trần Trọng Kim đã được thành lập, Đỗ Mậu và Nguyễn Tấn Quê, hai cán bộ cùng tổ chức Đại Việt Phục hưng của ông Diệm, đã được ông Ngô Đình Khôi cử vào Sài Gòn để gặp ông Diệm và để tổ chức cuộc đón tiếp Kỳ Ngoại hầu mà ông Khôi tưởng sẽ trở về Việt nam. Nhờ đó Đỗ Mậu mới biết để ghi rõ trong hồi ký của ông như sau: “Ông Diệm mới trình bày việc người Nhật đã phản bội, không cho Kỳ Ngoại hầu Cường Để về nước và cắt đứt mọi liên lạc chính trị với chính ông... Lúc bấy giờ ông Quê và tôi mới thực sự hiểu rõ tình hình và trạng huống bi đát cua ông Diệm và của tổ chức chúng tôi. Sách lược nắm chính quyền bằng con đường thân Nhật của ông Diệm đã đi vào bế tắc và hoàn toàn thất bại, hệ quả chính trị của nó không những là mất đi những ưu thế phát triển mà quan trọng hơn cả, còn là sự tê liệt của tổ chức.” [18] Trong hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, một thành viên trong Uỷ ban Kiến quốc, có hình thức của một chính phủ lâm thời thân Nhật, cho biết ông cũng đã bị lãnh sự Nhật hăm doạ: “...Nhưng nếu ông tiếp tục hoạt động, chúng tôi sẽ bắt buộc phải nghiêm trị phong trào của ông...” [19] Đối chiếu các hồi ký kể trên có thể kết luận người Nhật đã không đồng ý với Bảo Đại để Ngô Đình Diệm đứng ra thành lập chính phủ. Thậm chí người Nhật còn tìm cách ngăn cấm mọi sinh hoạt chính trị của ông Diệm. Trong hồi ký, Đỗ Mậu cũng cho biết: “Công tác của tôi được ông Diệm giao phó là tổ chức một lực lượng quân nhân khố xanh trong khắp cơ binh thuộc xứ Trung kỳ, bao gồm từ Thanh Hoá vào đến Phan Thiết và các tỉnh cao nguyên. Về quân nhân khố đỏ thì do Thiếu uý Phan Tử Lăng đang phục vụ trong Mang Cá ở Huế phối hợp với ông đội khố đỏ Nguyễn Vinh phụ trách việc liên lạc và thông tin các cơ sở quân sự đóng tại Huế và Phú Bài.” Như vậy, nếu ông Diệm nắm quyền, lực lượng này sẽ là nồng cốt cho việc thành lập một lực lượng quân sự hay Quân đội Quốc gia. Điều này có lẽ người Nhật đã biết được. Sau khi Nhật đảo chính, đa số người Pháp ở Đông Dương vẫn được tự do và tiếp tục đảm trách những công việc hành chính trước đây. Người Nhật chỉ bắt một số ít các giới chức cao cấp người Pháp có liên hệ với phe De Gaulle và thành phần chống đối. Mục đích chính của cuộc đảo chính là tránh việc lực lượng Đồng minh đổ bộ, quân Pháp nội ứng sẽ nổi dậy. Trong đánh ra, ngoài đánh vào, sẽ gây thiệt hại khó lường cho quân đội Nhật. Lúc này Thế chiến Thứ hai cũng đã đến hồi kết thúc. Người Nhật biết rõ ván cờ khó có thể đổi chiều. Đảo chính là việc không thể tránh. Nhưng người Nhật muốn tránh mọi việc gây thêm ác cảm với người Pháp. (Thêm vào đó, cá nhân Đại sứ Yokohama lại có vợ là người Pháp.) Người Nhật cũng muốn tiếp tục lợi dụng hệ thống hành chính thuộc địa của Pháp. Do đó việc xử dụng những lực lượng Quốc gia chống Pháp, với chủ trương quá khích hay vũ trang, không còn được hổ trợ hay nằm trong chiến lược của Nhật tại Đông Dương. Đây có thể là lý do chính người Nhật đã không đồng ý với Bảo Đại để Ngô Đình Diệm đứng ra thành lập chính phủ. Và nội các Trần Trọng Kim là nội các của giới khoa bảng. Cũng vì lý do này, người Nhật chỉ trao trả lực lượng Bảo an cho chính phủ Trần Trọng Kim hai tuần lễ trước ngày Việt Minh cướp chính quyền. Thiếu một lực lượng quân sự để bảo vệ an ninh cho dân chúng và bảo vệ chính quyền là lý do chính khiến chính phủ Trần Trọng Kim đã tự giải thể ngay khi Nhật đầu hàng. Ngô Đình Diệm từ chối lời mời Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ cầm quyền không quá 4 tháng (17-4 tới 5-8-1945). Sau đó nhiều diễn biến dồn dập xảy tới, mà hậu quả đến nay vẫn chưa giải quyết được. Hai trái bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima (ngày 6-8-1945) và Nagasaki (ngày 9-8-1945). Liên Sô tuyên chiến với Nhật (ngày 11-8-1945). Ngày 15-8-1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Ngày 17-8-1945, tại Nhà hát lớn Hà Nội Việt Minh cướp diễn đàn của Tổng hội công chức. Ngày 19-8-1945, Việt Minh cướp chính quyền Hà Nội. Ngày 25-8-1945, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố cầm quyền. Quân Pháp quay lại Việt Nam. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ Bộ chấp nhận quân Pháp trở lại Việt Nam. Thương thuyết giữa Pháp và Việt Minh bế tắc. Ngày 19-12-1946, Hồ Chí Minh tuyên chiến với Pháp. Sau khi thoái vị, Bảo Đại đã nhận lời mời của Hồ Chí Minh ra Hà Nội làm “Cố vấn Tối cao” cho Chính phủ của họ Hồ. Nhờ đó Bảo Đại biết được Hồ Chí Minh chỉ lấy mình làm bức bình phong, để được quốc dân và Đồng minh công nhận sự “chính danh” của cái chính phủ tự phong này. Khi Hồ nhận ra việc Bảo Đại vẫn được quốc dân, các đảng phái quốc gia và Đồng minh tin tưởng mời ra chấp chính, Hồ đã yêu cầu nhà vua theo phái đoàn sang gặp thống chế Tưởng Giới Thạch. Rồi tìm cách bỏ Bảo Đại lại đây: một hình thức cho lưu đày viễn xứ. [20] Cũng nhờ thời gian làm “Cố vấn” cho Hồ Chí Minh, Bảo Đại mới thấu hiểu bề sâu của cung đình “cách mạng vô sản”. [21] Hồi ký Trần Trọng Kim cho biết khi ông gặp Bảo Đại ở Hồng Kông lời đầu tiên nhà vua đã nói với ông là: “Chúng mình già trẻ lớn bé mắc lừa bọn du côn.” [22] Sau ngày Việt Minh cướp chính quyền, Ngô Đình Diệm cũng bị bắt giữ một thời gian tại miền Trung, sau đó ông được đưa ra Hà Nội vào khoảng tháng 2 năm 1946 để gặp Hồ Chí Minh. Hồ đề nghị Ngô Đình Diệm giữ một chức vụ trong chính phủ đoàn kết Việt Minh nhưng Ngô đã không nhận. Trong thời gian này, Bảo Đại và Ngô Đình Diệm không được gặp nhau nhưng có thể đã được Hồ thu xếp giao cho một công việc mà cả hai đều đã không nhận. Điều này sẽ được đề cập trong một dịp khác. Một mặt, vì không thể thương lượng hay thoả hiệp với Việt Minh, một tổ chức cộng sản; mặt khác, vì cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để có phương tiện tài chính đối phó với Cộng sản, Pháp đã phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ là từng bước nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam. [23] Ngày 20-3-1947 Hội đồng Chính phủ Ramadier cùng Hội đồng Các chính đảng Pháp công bố Quyết nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam. Theo đó, chính phủ Pháp hướng về Bảo Đại như một giải pháp nhằm chấm dứt chiến tranh và từng bước trao trả độc lập thống nhất cho Việt Nam. [24] Người Việt quốc gia sau một thời gian ngắn tiếp xúc với Việt Minh, cũng nhìn ra cốt lõi và bản chất cộng sản của tổ chức này. Bắt tay với Việt Minh hay với Pháp đều đi ngược lý tưởng quốc gia mà họ hằng theo đuổi. Nhân sỹ và lãnh đạo các tổ chức Quốc gia đã nhanh chóng hướng đến Bảo Đại như tâm điểm, vừa chống Pháp, vừa chống Cộng sản, từng bước giành lại độc lập thống nhất cho Việt Nam. Hồng Kông trở thành một tụ điểm cho người Việt quốc gia. Bảo Đại lắng nghe từng cá nhân, từng tổ chức, tự nhận lãnh vai trò trọng tài, đứng trên các đoàn thể chính trị trong nước để dung hoà những quan điểm hoặc khuynh hướng khác nhau và tạo thế đoàn kết cho những người Việt quốc gia. Chung quanh Bảo Đại, nhân sỹ và lãnh đạo các tổ chức sinh hoạt như một quốc hội nhỏ. Họ đề đạt, họ chọn lựa những người đại diện và quyết định chiến thuật cho từng giai đoạn. Ngày 5-7-1947, Bảo Đại lên tiếng sẵn sàng chấp nhận vai trò nếu được dân chúng Việt Nam đặt tín nhiệm. Ngày 18-9-1947, nhà vua gởi lời kêu gọi dân chúng với mong muốn:”... đạt được độc lập và thống nhất, đúng như nguyện vọng của đồng bào, đạt tới những thoả hiệp do sự bảo đảm hổ tương, và có thể xác định với đồng bào là lý tưởng mà chúng ta từng dũng cảm chiến đấu trong cuộc kháng chiến gian lao, sẽ đạt được toàn diện...” [25] Ngày 7-12-1947 Cao uỷuỷ Bollaert ký Tuyên Ngôn Chung trên Vịnh Hạ Long với “cá nhân” Quốc Trưởng Bảo Đại, để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Sau đó Bảo Ðại sang Pháp xem xét tình hình rồi quay về Hồng Kông để tham khảo ý kiến của Ngô Đình Diệm, Trần văn Lý, Nguyễn văn Xuân, Phan văn Giáo... rồi cân nhắc nước cờ tới, từng bước đấu trí với người Pháp. Ngô Đình Diệm là một trong những người đã luôn sát cánh bên Bảo Đại trong thời gian nay. Edward Miller đã viết “... Ðiều quan trọng là kế hoạch Ngô Đình Diệm cổ vũ trong những cuộc gặp gỡ này phản ánh nhận thức về nền cộng hoà trong ông: kế hoạch nhằm xây dựng một hội đồng Việt Nam mới, trong đó uỷ nhiệm Bảo Ðại làm đại diện trong các cuộc thương lượng với Pháp, và kế hoạch cũng quy định là cựu hoàng có nghĩa vụ phải hội ý với hội đồng trước khi thực hiện bất cứ thoả thuận nào về vấn đề độc lập”. Edward Miller đã tham khảo hồi ký của Bảo Đại nhưng lại thiếu khách quan và công bằng khi viết như trên. Trong hồi ký, Bảo Đại đã thuật lại vắn tắt như sau “... Thierry D'Argenlieu đã nói là giải pháp Hồ Chí Minh đã thất bại. Nay gió đã đổi chiều. Trong số khách thăm viếng này, người thì đến để theo phò, người thì đến để thăm dò đường lối cho Pháp hay cho các nước khác. Bác sỹ Phan Huy Đán, Luật sư Đinh Xuân Quảng, cả hai đều thuộc phe xã hội, thêm đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng Trần văn Tuyên, đều từ Quảng Châu sang. Người em họ trung thành với tôi, Vĩnh Cẩn cùng người em khác trẻ hơn, là tay đá banh nổi tiếng Vĩnh Tường, và Phan Văn Giáo tạo thành cái nhân vĩnh viễn thân cận. Rồi đến quýuý vị khác khá danh tiếng như Bác sỹ Lê Văn Hoạch, thuộc nhóm Cao Đài, cựu phó thủ tướng Nam Bộ, Phạm Văn Bích, Ngô Đình Diệm trước tôi tưởng là tai mắt của Mỹ, Phạm Công Tắc, giáo chủ Tây Ninh, Lê Văn Soái, tướng Hoàoà Hảo, v.v... Tất cả các nhân vật đó đều đưa ra ý kiến và đồng nhất về chính trị, nhấn mạnh là tôi phải trở về, để đem lại hoà bình cho đất nước.” [26] Bảo Đại không cho biết lý do tại sao đã tưởng Ngô Đình Diệm là tai mắt của Mỹ. So với các nhân vật khác Bảo Đại chỉ coi Ngô Đình Diệm như một nhân sỹ hơn là một lãnh đạo tổ chức. Cũng cần biết lúc này tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Ngô Đình Diệm đã bị Việt Minh khủng bố và chưa tổ chức lại được, nếu không nói là đã tan rã. Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày 21-1-1947, và quyết định thay d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5-3-1947 mang lại một không khí mới. Bollaert chấp nhận một chính phủ Liên bang Việt Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung ương đó. Bảo Đại là người duy nhất Bollaert muốn giao cho nắm giữ chính phủ Trung ương này. Ngày 22-3-1948, Bảo Đại đã cử Ngô Đình Diệm về Sài Gòn gặp Cao uỷ Bollaert để tìm hiểu thái độ Pháp về việc thành lập một chính phủ trung ương lâm thời. Chuyến đi không mấy kết quả, ông Diệm rất thất vọng khi trở lại Hồng Kông. Bảo Đại đã kể lại như sau: "Theo Diệm, chúng tôi chỉ còn một cách: Đợi chờ, và để khẳng định thái độ cương quyết của mình, ông ta đề nghị lập một uỷ ban nghiên cứu, mà người ta đoán được dễ dàng là chẳng đi đến đâu. Đa số các nhà ái quốc ở Hồng Kông lại không đồng quan điểm với Diệm." [27] Bảo Đại viết tiếp "Để cắt ngắn những lập trường mâu thuẫn ấy, tôi đề nghị tập hợp một Hội nghị vào ngày 26 tháng 3 ở Hồng Kông khách sạn, để ra một thông báo, thành lập một chính phủ trung ương lâm thời, không phải để điều đình mà để dùng làm "Tạm ước sống còn" với nước Pháp, có tầm trách nhiệm hạn chế, nhưng thực hiện được tức khắc, hầu giúp cho hai bên cơ hội hiểu biết nhau và thoả hiệp bằng những sự việc cụ thể... Lập một chính phủ trung ương lâm thời, phù hợp với hoàn cảnh quốc tế là một điều vừa hữu lý, vừa cần thiết." [28] và "..., tôi cho Trần văn Tuyên giải thích rõ ràng hơn, với các đại diện chính trị và tôn giáo là nếu chính phủ trung ương lâm thời được uỷuỷ nhiệm đàm phán về bản thông báo, về thể chế thực hiện, thì tôi chịu trách nhiệm đàm phán về thoả ước nhất định, nhưng nhiệm vụ của tôi chỉ đóng vai trò trung gian, hay điều giải viên hạn chế có vậy mà thôi, chỉ có nhân dân mới có quyền quyết định tự do với đầy đủ ý thức để thiết lập thể chế mà họ bằng lòng chấp nhận, sau khi trật tự và hoà bình được vãn hồi." [29] Đa số đồng ý để Bảo Đại vận động thành lập Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời đứng ra thoả hiệp với Pháp. Trong hồi ký Bảo Đại cho biết một cách rõ ràng, Ngô Đình Diệm vẫn chính là nhân vật đầu tiên mà ông nghĩ tới: “Nay chỉ còn đi đến việc thực hiện. Nhưng ai sẽ là thủ tướng chính phủ trung ương đây? Diệm được mời, nhưng lại từ chối không chịu ký vào bản thể chế, nên không nhận...” [30] Cuối cùng Tướng Nguyễn Văn Xuân đã được chọn. Ông Nguyễn Văn Xuân là một người miền Nam, một công dân Pháp và đương kim Thủ tướng Nam Kỳ Cộng hoà quốc. Mục đích chính Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân chỉ để người Pháp chấp nhận hai từ độc lập, thống nhất trong các văn kiện sẽ ký sau này với Pháp. Dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ (Việt Nam) và cờ tam tài (Pháp), với sự chứng kiến của Quốc trưởng Bảo Đại, ngày 5 tháng 6 năm 1948 tại vịnh Hạ Long, ông Emile Bollaert, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, và ông Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam, đồng công bố bản Tuyên bố chung: “Nước Pháp long trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam; Việt Nam được tự do thực hiện nền thống nhất của mình.” [31] Đây là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng, lần đầu tiên Pháp chính thức công nhận Chính phủ Quốc gia Việt Nam (thống nhất ba miền Việt Nam) và cũng là lần đầu tiên lá Quốc kỳ vàng ba sọc đỏ được chính thức công nhận. [32] Trước đó, ngày 7-12-1947 Cao uỷ Bollaert đã ký Tuyên ngôn chung trên vịnh Hạ Long với “cá nhân” Quốc trưởng Bảo Đại, để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Sau đó Bảo Đại đi Pháp còn Ngô Đình Diệm trở về Việt Nam. Ngày 28-4-1949, Bảo Đại về nước lại có ý định mời Ngô Đình Diệm ra lập chính phủ. Trong hồi ký Bảo Đại đã không nhắc đến ý định này. Theo hồi ký Linh mục Cao văn Luận khi ông vào Huế: “Bửu Lộc đánh điện mời tôi lên gặp hoàng đế Bảo Đại, và ý chừng muốn nhờ tôi thuyết phục ông Ngô Đình Diệm ra thành lập một chính phủ qui tụ được những người quốc gia chân chính, có uy tín, có tài năng.” Trước khi gặp Bảo Đại Linh mục Luận có gặp Ngô Đình Diệm và được ông Diệm cho biết chưa phải lúc để ông tham chính: “Bên Tàu đằng nào thì Mao Trạch Đông cũng thắng Tưởng Giới Thạch. Mỹ muốn cho họ Tưởng thoả hiệp chia đất hay chia quyền với Mao cho yên chuyện Trung Hoa lục địa. Quân cộng sản Tàu thẳng tiến đến biên giới Bắc Việt Nam, quân Việt Minh được sự giúp đỡ trực tiếp của quân cộng sản Tàu, sẽ mạnh lên, quân Pháp sẽ gặp khó khăn, lúc đó thì cả Pháp và Bảo Đại sẽ lạy lục người nào đưa ra được một giải pháp quốc gia chân chính. Lúc đó ra cũng chưa muộn.” Khi Linh mục Luận yết kiến Bảo Đại chỉ nghe Bảo Đại than:” Lúc mới về nước tôi đặt nhiều hy vọng vào sự hợp tác của các nhân vật quốc gia chân chính. Tôi có ngỏ ý mời họ nhưng phần đông đều từ chối hoặc đòi hỏi những điều kiện quá lý tưởng không thể nào tạo ra được trong hoàn cảnh này.” Linh mục Luận không nghe Bảo Đại nhắc gì đến Ngô Đình Diệm. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đình Diệm cho đăng một tuyên bố trong đó ông hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée, là bản hiệp ước mà Bảo Đại đã ký với Tổng thống Pháp Vincent Auriol, trước khi Bảo Đại về nước. Linh mục Cao văn Luận cũng cho biết một lý do khác mà Ngô Đình Diệm mặc dù chấp nhận giải pháp từng bước giành độc lập mà Bảo Đại đang đeo đuổi nhưng đã từ chối cộng tác với Bảo Đại: “... thì chúng ta có thể dùng thoả hiệp vịnh Hạ Long làm bàn đạp để tranh đấu một cách ôn hoà, đòi hỏi thêm những chủ quyền khác mà người Pháp chưa chịu trao trả. Với ai thì được, nhưng với Bảo Đại thì không thể được. Dù có thiện chí đến mấy cũng vô ích thôi. Bảo Đại chỉ thích nghi lễ, hình thức, bề ngoài lại ham săn bắn, ăn chơi, không có tinh thần trách nhiệm đối với sứ mạng lãnh đạo của ông.” Chính Đạo (2004) cũng cho biết “... Tháng 3-1950, Giám mục Lê Hữu Từ tại Phát Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu Diệm đừng “chùm chăn” và “ngang bướng” nữa, cần yểm trợ Bảo Ðại.” [33] Trong phần chú thích của chuyên luận Cuộc thánh chiến chống cộng, Chính Đạo (2004) cũng đề cập đến lý do ông Diệm không cộng tác với Bảo Đại như sau: “Ngày 24-3-1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Ðại vì bản tính nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ chống cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của Bảo Ðại. Ðiều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt Nam sẽ được tương tự như Ấn Độ trong khối Liên hiệp Anh. Nhưng sự bảo đảm chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp... SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 1039.” [34]
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:20:43 GMT 9
Ngô Đình Diệm vận động Bảo Đại
Ngô Đình Diệm sang Nhật gặp Cường Để rồi sang Hoa Kỳ vận động sự ủng hộ của chính giới nước này. Giáo sư Edward Miller đã nhắc đến: “Thất bại trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục tiếp tục sang Châu Âu vào tháng 10 năm 1950. Sau này Ngô Đình Diệm kể lại là ông đã gặp Giáo hoàng ở Vatican; ông cũng sang Paris một thời gian ngắn, gặp gỡ các quan chức Việt và Pháp ở đó và gửi một thông điệp tới Bảo Ðại. Thông điệp này mang lời đề nghị làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam tới Ngô Đình Diệm, với điều kiện là ông có đủ thẩm quyền để cai trị các cơ quan hành chính vùng miền trong Việt Nam. Ðề nghị này có vẻ là bước lui của Ngô Đình Diệm, vì trong đó không ghi yêu cầu trước đây của ông đòi quyền tự trị lãnh thổ thì ông mới đồng ý phục vụ trong chính phủ của Quốc gia Việt Nam. Nhưng Bảo Ðại không ấn tượng với khả năng mềm dẻo mới có này của Ngô Đình Diệm, và chỉ trả lời chung chung.” Không thấy Bảo Đại trình bày việc này trong hồi ký của ông.
Tháng 6-1953, Linh mục Cao Văn Luận nhân chuyến đi Hoa Kỳ có ghé Paris và thăm Ngô Đình Diệm. Linh mục Luận đã hỏi ông Diệm “Lúc ni chính là lúc cụ phải về nước chấp chánh. Hồi trước, cụ đã tiên đoán giải pháp Bảo Đại sẽ thất bại hẳn rồi, chắc thế nào Hoa Kỳ cũng phải can thiệp. Mấy năm ni cụ đã tạo được uy tín với Mỹ. Tôi tưởng đây là lúc tình hình đã chín mùi rồi.” Đựơc ông Diệm trả lời: “Nhưng tôi sang Ba-Lê đã mấy tháng mà cũng chưa thấy Bảo Đại nói chi không lẽ lại phải đi năn nỉ cầu cạnh, nên đành phải chờ.”
Linh mục Luận suy luận: “... tôi đã cố tránh nhắc lại tên Nguyễn Đệ với ông Diệm, nhưng khi chia tay ông Diệm rồi, tôi thấy rõ sự hiềm khích giữa ông Diệm với Đệ trở thành một vấn đề đáng kể. Viên chánh văn phòng này hiện đang lãnh sứ mạng của Bảo Đại mở các cuộc tiếp xúc tìm người về chấp chánh. Vậy mà ông Diệm với Đệ lại không thể nói chuyện với nhau, như vậy làm sao để ông Diệm có thể vượt qua cửa ải này mà gặp Bảo Đại thu xếp việc nước. Tôi quyết định phải đi tìm gặp ngay Nguyễn Đệ.” Cũng cần biết trước đây Nguyễn Đệ và Ngô Đình Diệm là bạn rất thân, cùng tham gia Nội Các đầu tiên, ông Diệm từ chức ông Đệ cũng từ chức theo. Và đã có lúc Bảo Đại lo ngại ông Đệ là người của Toà thánh Vatican vì ông là người Công giáo, rất gần guĩ với Toà thánh và đã được Toà thánh giới thiệu.
Khi Linh mục Luận đến gặp ông Để cho biết: “... Nhưng hẳn cha cũng rõ, việc ông Diệm về nước hay không còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố, phần ở quốc dân, phần ở Đức quốc Trưởng, phần ở chính ông Diệm... Cha đã gặp ông Diệm và biết hết mọi chuyện rồi, thành thử con cũng xin thưa thật với cha: Đức Quốc Trưởng cũng như con đầu đã nghĩ tới ông Diệm, không phải bây giờ mà từ năm 1948, khi đón cha lên Đà Lạt. Nhưng kẹt cái là anh em họ Ngô xưa nay vốn kiêu ngạo quá lố. Dù con có muốn lo cho ông Diệm về đi nữa, thì chính ông cũng phải gặp Đức Quốc Trưởng mà trình bày với ngài. Không lẽ cha đòi con phải đưa Đức Quốc Trưởng tới lạy ông Diệm sao?” Cuối cuộc gặp, ông Đệ đồng ý: “Con xin hứa với cha nội trong mùa hè này, bằng mọi cách con sẽ thu xếp để đưa ông Diệm xuống Cannes gặp Đức Quốc Trưởng. Cha có gặp lại ông Diệm, xin cha nói rõ lòng con cho ông biết.”
Năm 1951, Ngô Đình Diệm trở về Hoa kỳ. Do cùng được Hồng y Francis Spellman, Ngô Đình Diệm đã sinh hoạt chung với Linh mục Trần văn Kiệm trong cùng một nhà dòng. Theo Linh mục Kiệm trong thời gian 2 năm tại đây ở ông Diệm có hai mục tiêu đeo đuổi. Mục tiêu số một ông nhằm là tìm nhân tài trong số các sinh viên du học tại Hoa Kỳ và Canada. Mục tiêu số hai là ông nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa kỳ.
Linh mục Kiệm cũng cho biết: “Mùa hè năm 1953, trung tuần tháng 6, ông Diệm gọi tôi mà nói: “Hoàng đế Bảo Đại mời tôi trở về nước chấp chính.” “... Tại sao Hoàng đế Bảo Đại kêu gọi chí sĩ Diệm sớm sủa như thế này?” Được hỏi Cụ trả lời rất dứt khoát: “ Được Mỹ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường tiến của Mạc tư khoa, Bắc kinh và Hà nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm ở Hoa kì . Việc tôi trở về sẽ không do Hoa thịnh đốn quyết định, nhưng sẽ tuỳ thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo Đại dàn xếp với Champ Élizée có hanh thông hay chăng.” Ít lâu sau ông Diệm có gửi cho Linh mục Kiệm một bức thư kể vắn tắt rằng: “công cuộc Hoàng đế Bảo đại điều đình với Pháp không xuôi xẻ.”
Trong hồi ký, không thấy Bảo Đại nhắc đến có ý định hay đã mời Ngô Đình Diệm trong 3 lần, năm 1949, 1951 và 1953 như được các nhân vật khác kể lại. Chỉ thấy Bảo Đại đã viết rất rõ lý do mình chọn Bửu Lộc: “Tôi chọn Bửu Lộc để dự trù trong việc ngoại giao quốc tế, sẽ họp trong năm 1954. Bửu Lộc đã ở cạnh tôi rất lâu mỗi khi tôi về nghỉ ở Pháp. Như vậy, ông ta thường có dịp học hỏi và quen biết với giới chính trị Pháp, và các nhân vật ngoại quốc khác.” [1]
Trong bài viết “Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào?” đăng trên Thông Luận số 191, Nguyễn Gia Kiểng, dựa trên 2 lá thơ, lá thứ nhất của ông Jacqué Bénet, bạn thân của ông Ngô Đình Nhu, gởi bà Nhu đề ngày 18-4-2004, và lá thứ hai đề ngày 20-4-1955, do ông Nhu gửi cho ông Jacqué Bénet, để chứng minh ông Diệm do người Pháp gây áp lực Bảo Đại đưa lên cầm quyền. Ông Kiểng đã viết bài này trong tinh thần hoàn toàn chủ quan, và vì một lý do nào đó không phổ biến hai lá thơ kể trên để người đọc có thể tự mình đánh giá. Theo ý kiến của người viết bài này, Bảo Đại, trái lại, luôn luôn cố gắng điều đình và thuyết phục người Pháp chấp nhận Ngô Đình Diệm. Có vô số tài liệu và chứng cớ chỉ thấy Ngô Đình Diệm không được hỗ trợ của Pháp. Trong bài ông Kiểng đề cập tới việc trực tiếp nói chuyện với ông Ngô Đình Luyện và được “ông Ngô Đình Luyện khẳng định là quyết định đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền hoàn toàn do ông Bảo Đại, chính phủ Hoa Kỳ hoàn toàn không có vai trò gì và chỉ biết đến ông Diệm sau khi ông Diệm đã nhậm chức Thủ tướng. Còn Pháp thì không những không giúp gì mà còn phá ông Diệm.” Nỗ lực của ông Jacqué Bénet, nếu có, chỉ là giảm bớt sự chống đối của chính phủ Pháp và tiếp tay với Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Ngô Đình Diệm – một lựa chọn dân chủ
Quyển Con rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị của Bảo Đại đã nhắc đến hàng trăm nhân vật Việt Nam và ngoại quốc, lần đầu được phổ biến bằng Pháp ngữ năm 1980. Sau nhiều năm nhiều người vẫn còn sống, không có người nào đính chính, như vậy đủ xác nhận mức độ trung thực của nó. Cũng như giới khoa bảng đối chiếu các diễn biến lịch sử với các tài liệu khác đã xác nhận quyển hồi ký lịch sử này có mức độ khả tín cao, nếu không nói là tuyệt đối. Quyển hồi ký đã được Nguyễn Phước tộc dịch ra tiếng Việt năm 1990. Càng ngày quyển hồi ký càng được giới nghiên cứu để tâm và không thể thiếu trong các công trình nghiên cứu về Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954. Trong hồi ký của mình, Bảo Đại đã viết rất rõ về sự lựa chọn Ngô Đình Diệm làm thủ tướng năm 1954. Cũng như đối với hầu hết các thủ tướng khác, công việc [lựa chọn] này gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đánh giá về Ngô Đình Diệm. Ý kiến của Bảo Đại như sau: “... Trước đây tôi đã dùng ông Diệm, tôi biết rằng ông ta vốn khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín, và tin vào đấng cứu thế. Nhưng trong tình thế này, không còn có thể chọn ai hơn. Thật vậy, từ nhiều năm qua, người Mỹ đã biết ông, và rất hâm mộ tính cương quyết của ông. Trước mắt họ ông là nhân vật có đủ khả năng đối phó với tình thế, vì vậy Washington sẵn sàng hổ trợ ông. Nhờ thành tích cũ, và nhờ sự có mặt của em ông, đang đứng đầu Mặt trận Đoàn kết Cứu quốc, ông được nhiều nhà quốc gia cuồng nhiệt ủng hộ, các vị này từng làm đổ chính phủ Tâm và chính phủ Bửu Lộc. Tóm lại nhờ cương quyết và cuồng tín, ông là người chống cộng chắc chắn. Đúng vậy, đó là người của hoàn cảnh.” [2] Như vậy Bảo Đại đã đã thăm dò nhiều khuynh hướng khác nhau: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Toà thánh Vatican, các tổ chính trị, các tôn giáo Việt Nam, trước khi tiến đến việc mời ông Diệm đứng ra thành lập nội các.
Giai đoạn thứ hai, Bảo Đại “cho vời đến Cannes các lãnh tụ của tất cả các phong trào chính trị và tôn giáo ở Việt Nam để hỏi ý kiến. Tôi cho họ biết cái gì đã xảy ra, rằng tất cả đều đã được xếp đặt trước, đến chỗ sẽ chia đôi đất nước. Tôi vạch cho họ sự cần thiết đặt một đường hướng mới, là gợi ý họ cho thay thế Hoàng thân Bửu Lộc bằng Ngô Đình Diệm, để cầm đầu chính phủ. Tất cả hoan nghênh ý kiến của tôi.” [3] Công việc này nhằm minh xác đánh giá cá nhân, chính thức xác nhận sự hổ trợ, để từ đó ông Diệm có được một chính danh, khả dĩ tìm kiếm được sự hổ trợ từ các tổ chức chính trị, tôn giáo, quốc dân và Đồng minh.
Giai đoạn cuối là chính thức thông báo, thuyết phục và tấn phong ông Diệm: “Đây là Chúa của ông đây. Ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó, để chống lại bọn cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.” [4]
Đối chiếu với hồi ký của Bùi Diễm, Bảo Đại đã chọn Ngô Đình Diệm là vì “chẳng qua là một chính sách dùng người mà ông Bảo Đại đã áp dụng từ trước đến nay: ông chọn người để đối phó với từng giai đoạn một, và ông vẫn tự tin có đủ khéo léo để chọn người đúng lúc và đúng chỗ.” [5] Thực vậy, trong hồi ký Bảo Đại đã kể lại khá rõ chính sách dùng người theo từng giai đoạn của mình.
Khoảng tháng 6 năm 1954, Bùi Diễm trực tiếp nêu câu hỏi: “Thưa Ngài, Ngài thấy ông Diệm thế nào?” Bảo Đại trả lời “Ông Diệm có thể là một giải pháp, nhưng theo anh, ông Diệm có được Mỹ ủng hộ không?” Bùi Diễm hỏi lại: “Thưa Ngài, sao Ngài không hỏi thẳng người Mỹ?” Bảo Đại đáp lại: “Có chứ, tôi sẽ tìm hiểu, nhưng nếu anh dò hỏi được thêm thì anh cho tôi biết.” [6]
Về việc tấn phong Ngô Đình Diệm, Bùi Diễm cho biết: “Vào cuối năm 1991, tôi có dịp trở lại thăm Cựu hoàng Bảo Đại tại Ba Lê. Trở lại chuyện cũ, tôi có hỏi ông về vấn đề này, thì ông trả lời rằng: vào thời kỳ đó, thái độ của Hoa Kỳ cũng không có gì rõ rệt cả, tuy nhiên ông đã quyết định chọn ông Diệm vì ông cho rằng trong số những nhân vật làm chính trị ở miền Nam lúc đó, ông Diệm rõ ràng là người ít dính líu tới Pháp trong những năm về sau này, nên có thể dễ được người dân ủng hộ hơn những người khác. Đây là một sự trớ trêu của lịch sử. Những diễn biến về sau này cho thấy khi bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Quốc trưởng Bảo Đại đã tự mình tạo những điều kiện đưa tới sự đào thải của chính mình và cả triều đại của nhà Nguyễn. Chắc chắn lúc đó ông không có một chút ngờ vực ông Diệm, một người đã từng làm quan trong triều đình cũ vào thập niên 1930. Ông cho rằng ông Diệm chẳng thể nào nghĩ đến việc lật đổ ông, vả lại bất cứ một Thủ tướng nào, nếu không còn hữu dụng nữa, thì cũng có thể bị thay thế. Tuy nhiên, trong dịp gặp lại tôi năm 1991, ông không hề tỏ lời oán trách ông Diệm.” [7]
Tại sao Bảo Đại trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm?
Ngô Đình Diệm đã nhận trọng trách lãnh đạo đất nước trong một tình thế cực kỳ khó khăn đó là đánh giá tình hình của Bảo Đại. Trong hồi ký, Bảo Đại viết: “Công việc không dễ dàng gì cho Ngô Đình Diệm. Việc ông đến Saigon chẳng được ai hoan nghênh. Cần phải động viên tinh thần mọi người cả nước đã rơi vào tình trạng hoang mang. Ngày 30 tháng 6 ông ta ra Hà-nội mà những điều ông ta thấy không ai có thể tưởng tượng được. Chống lại cộng sản chẳng ai nghĩ đến... Trái lại nữa người Pháp bắt đầu di tản trước tiên... Hàng trăm ngàn người đau khổ trong đó có những người Công giáo thuộc các giáo phận miền Bắc mà ông tin tưởng sẽ đứng bên cạnh ông, thì chỉ nghĩ đến chạy vào Nam. Thật đã quá chậm, không thể hành động gì được nữa. Diệm trở về Sài Gòn. Ngày 9 tháng 7, ông lập chính phủ không phải dễ dàng gì. Cuối tháng 6, cuộc hành quân bi thảm ở đèo An Khê, cả đoàn quân bị tan rã vì sa vào ổ phục kích rộng lớn của Cộng sản...” [8]
Nhiều người vẫn tin rằng việc Bảo Đại trao toàn quyền về chính phủ và quân sự là theo đòi hỏi của Ngô Đình Diệm. Thực ra, trong Hồi ký Bảo Đại đã giải thích khá rõ: “Sau Hội nghị Genève, tất cả mọi người đều xa lánh tôi. Người Anh, người Mỹ, người Pháp đều không biết đến tôi nữa. Không ai còn đến gặp tôi. Riêng có phái đoàn Việt Minh cử một người có tên là Văn Chỉ, đến xin gặp nói là đại diện của Phạm Văn Đồng... Chính là sau cuộc gặp gỡ này tôi đã trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm.” (Xin xem chú thích để biết toàn bộ cuộc gặp) [9] Trong cuộc gặp gỡ này Văn Chỉ đã chuyển lời thượng cấp, Việt Minh sẽ sẵn sàng làm theo lệnh Bảo Đại nếu được gọi. Với tấm lòng vì đất nước và kinh nghiệm với cộng sản, để tránh cho miền Nam lại lọt vào tay quân cộng sản, Bảo Đại đã từ chối cộng tác với Việt Minh, hiểu được tình trạng khó khăn ông Diệm đang phải đối đầu, nên quyết định trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm.
Trong quyển hồi ký, Từ làng Gôi Vị đến kinh thành Paris, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, phụ trách tổ chức Việt kiều ở Ba Lê, viết rất rõ về nhân vật Việt Minh Văn Chỉ này: “Mặt khác, chúng tôi gửi về trong nước những nhận định về tình hình ở Pháp, về thái độ của các đảng khác, về các phong trào của nhân dân Pháp. Việc này phải kín đáo, chỉ có tôi với anh Nguyễn Văn Chỉ cùng làm. Anh Chỉ hơn tôi khoảng năm tuổi. Hồi 1930, anh đã tham gia phong trào chống lại vụ án xử tử hình một số cán bộ trong cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh. Anh sang Pháp học lâu rồi, tiếng Việt nói không thạo, đi lại với anh em Việt kiều cũng không tiện lợi, mà lúc bí mật càng tốt. Anh Chỉ còn có thuận lợi là mang quốc tịch Pháp, nếu anh không làm gì phạm pháp, thì Chính phủ Pháp không có quyền bắt anh vì ý kiến về chính trị và cũng không có quyền trục xuất anh. Anh rất trung kiên, tận tuỵ. Suốt cả thời gian dài, cứ mỗi buổi sáng, anh đi mua mười mấy tờ báo lớn của Pháp, xem kỹ, chỗ nào cần chú ý, gạch chì xanh, gạch đỏ vào, dán lại rồi nhờ Trung ương Đảng Pháp gửi về Việt Nam. Cứ như thế, cần cù, chăm chỉ từ ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác. Ngoài ra anh không phải là đảng viên, nên có lợi thế trong việc quan hệ với các chính khách, các tổ chức ngoài Đảng Cộng sản Pháp, qua đó tập hợp được nhiều tin tức. Chúng tôi gặp nhau thường xuyên để trao đổi, nhận định tình hình để kịp chuyển về trong nước. ở các tỉnh cũng có một số anh em liên hệ được như thế.” [10] Bảo Đại đã nhớ cả tên của cán bộ điệp báo Việt Minh Văn Chỉ này chứng tỏ cuộc gặp gỡ với người này thực sự có một ảnh hưởng rất lớn đến quyết định tối hậu của Bảo Đại.
Việc đối chiếu hai quyển hồi ký đã cho thấy cuộc gặp gỡ với Văn Chỉ đúng là một sự kiện lịch sử dẫn đến việc Bảo Đại đã trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm. Khác với huyền thoại cho rằng đó là đòi hỏi của ông Diệm. Huyền thoại này đã được hầu hết các học giả (nếu không nói là tất cả) tin theo, trong đó có giáo sư Edward Miller.
Truất phế Bảo Đại
Vai trò Bảo Đại với đất nước đã chấm dứt từ khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho trưng cầu dân ý về một chế độ chính trị cho miền Nam. Trong bài viết “Truất phế Bảo Đại và khai sinh Đệ nhất Cộng hoà”, Lâm Lệ Trinh, nguyên Bộ trưởng Nội vụ (1955-59) thời Tổng thống Diệm, đã thuật lại đầu đuôi câu chuyện truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Theo bài viết này việc truất phế là một việc làm hoàn toàn ngoài ý muốn của ông Diệm. Ông Trinh còn cho rằng thậm chí lương tâm ông Diệm cảm thấy đã phạm tội khi quân. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý là 98,2 phần trăm dân chúng muốn truất phế nhà vua. Kết quả này bị nhiều người cho là gian lận. Bản thân ông Trinh cũng cho rằng kết quả kia là không hoàn toàn trung thực.
Trong hồi ký, Bảo Đại đã nhẹ nhàng chấp nhận kết quả cuộc trưng cầu. Nhà vua chỉ đưa ra nhận xét về cuộc chơi: “Sự trình bày khôn khéo, sự lựa chọn của cử tri đã được hướng dẫn một cách rõ ràng.” [11] Tận trong thâm tâm, Bảo Đại đã thấu hiểu việc ông Diệm làm là vì dân vì nước, nên đã rất thông cảm cho ông Diệm. Bảo Đại cũng sáng suốt nhận ra rằng “thời” của mình đã hết.
Mặc dù Bảo Đại thông cảm cho hoàn cảnh và việc làm của Ngô Đình Diệm mà Bảo Đại nghĩ là vì dân vì nước, chiến dịch truất phế Bảo Đại vẫn còn hằn nét đến ngày nay. Hãy xem lại một đoạn hồi ký của Đỗ Mậu để mường tượng lại chiến dịch này: “Năm 1955, với vị thế là cán bộ chính trị trung niên của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, với tư cách là chủ tịch phong trào Cách mạng Quốc gia của bốn tỉnh duyên hải khu vực Nam Trung phần, tôi đã hăng say hoạt động cho chiến dịch truất phế Bảo Đại mà tôi cho là không còn đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống cộng, và không còn đủ vóc dáng để khai mở một kỷ nguyên dân chủ cho đất nước nữa. Thật ra thì dân ý đang đòi hỏi và hướng về một cuộc thay đổi gốc rễ để đáp ứng với biến đổi mới của thời đại, và ông Diệm trên mặt chính trị không cần gian lận và trên mặt luân lý không cần dùng thủ đoạn vu khống hạ nhục Bảo Đại thì cũng có thể, một cách rất lương thiện và dân chủ, thắng phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý này. Nhưng những tài liệu do Bộ Thông tin Sài Gòn gởi ra cũng như những chỉ thị mật của Phong trào Cách mạng Quốc gia từ Huế gởi vào cho tôi đều chủ yếu tập trung vào việc lên án những tội lỗi của Bảo Đại: Bảo Đại bù nhìn, Bảo Đại dâm ô, Bảo Đại tham nhũng, Bảo Đại vô đức vô tài... Lên án không chưa đủ, chỉ thị còn bắt phải khơi dậy lòng căm thù Bảo Đại trong quần chúng nữa! Cả một chiến dịch bao trùm từ Cà Mau đến Bến Hải, chính quyền yểm trợ trên cả hai mặt nội dung lẫn phương tiện, hung hăng và rầm rộ tìm cách đạp Bảo Đại xuống bùn dơ của lịch sử. Cả nước được vận động để phỉ nhổ Bảo Đại như là một hiện thân xấu xa nhất, hơn cả Lê Chiêu Thống và Lê Long Đĩnh. Hai đài phát thanh Sài Gòn và Huế, phối hợp với báo chí trong gần một tháng trời, liên tục mạt sát Bảo Đại và thúc giục dân chúng quất roi và đốt lửa những hình nộm Bảo Đại. Chiến dịch to lớn của một nhân vật quốc gia chống cộng (theo Mỹ) để truất phế một nhân vật quốc gia khác cũng chống cộng (nhưng theo Tây) còn tàn độc và khủng khiếp hơn chiến dịch hạ bệ Bảo Đại của kẻ thù là cộng sản Việt Minh thời 1948, 1949, khi giải pháp Bảo Đại mới ra đời để đối phó với Hồ Chí Minh.” Nếu có một cuộc tham khảo rộng rãi ý kiến những vị trên 60 tuổi sẽ thấy được tuyệt đại đa số có một cách nhìn hết sức tiêu cực về vị hoàng đế cuối triều Bảo Đại.
Đó là chưa nói đến những tài liệu “lịch sử” của cộng sản “đổi trắng thay đen” theo từng nghị quyết. Vừa rồi giới sử gia “chính thống” mở chiến dịch “nhìn nhận và đánh giá lại vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử”, âu cũng là một điều tốt. Tuy thế, nếu chế độ cộng sản còn tồn tại, có lẽ phải cả trăm năm nữa vai trò của Hoàng đế Bảo Đại mới được đánh giá một cách công bằng, trung thực và khách quan, nếu không nói là chẳng bao giờ. Từ tư tưởng đến hành động, Bảo Đại là người quốc gia, không chấp nhận cộng sản, nếu không nói là tích cực chống cộng.
Kết luận
Bài tiểu luận này chỉ sử dụng một số những dữ kiện nhằm mục đích góp thêm vào công trình nghiên cứu của giáo sư Edward Miller. Trong chuyên luận của mình, Edward Miller có một số nhận xét và đánh giá sai về Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Một phần vì ông đã cố gắng chỉ ra nỗ lực tích cực của Ngô Đình Diệm và các đồng minh người Việt của ông Diệm. Phần khác, Edward Miller dựa nhiều trên các nghiên cứu khác, mà phần chính các công trình nghiên cứu này lại dưạ trên những tài liệu và tường trình chính thức mang nặng chính trị và tuyên truyền. Đó là chưa kể nhiều huyền thoại đã được thêu dệt về cá nhân ông Diệm. Cuộc sống trung dung và cởi mở của Bảo Đại lại cũng là những đề tài nóng hổi cho báo chí trong và ngoài nước trong một thời gian dài khai thác. Không ít tin tức báo chí nóng hổi này, do thiếu kiểm chứng, đã được đưa vào những công trình nghiên cứu.
Bài tiểu luận này dùng phương pháp đối chiếu các hồi ký để chỉ rõ Ngô Đình Diệm chấp chính là một chọn lựa dân chủ của Bảo Đại, với sự đồng thuận của tất cả các tôn giáo, các phong trào chính trị và đảng phái quốc gia tại Việt Nam. Muốn hiểu rõ và phân tích sâu hơn về hai nhân vật lịch sử Bảo Đại và Ngô Đình Diệm cần nghiên cứu về các yếu tố khác như gia đình, cá tính, giáo dục,... là giới hạn chưa được tiếp cận của bài viết này.
Qua quyển hồi ký Con rồng Việt Nam, Bảo Đại do nhìn ra được tài đức Ngô Đình Diệm, đã luôn luôn quý trọng, tin cẩn và xem Ngô Đình Diệm như ứng viên sáng giá nhất trong mọi giai đoạn. Bảo Đại đã chính thức chọn ông Diệm để mời lãnh đạo chính phủ tới bốn lần vào các năm 1933, 1945, 1948 và 1954, mặc dù ông này chỉ nhận hai lần vào năm 1933 và 1954. Một số nguồn tư liệu khác còn cho thấy có thể Bảo Đại đã có ý định – hay đã mời – Ngô Đình Diệm ra chấp chính trong ba lần khác nữa, và các năm 1949, 1951 và 1953.
Nhờ chính thống, có viễn kiến và cá tính, trong vai trò Quốc trưởng và trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, Bảo Đại đã thăm dò nhiều thế lực chính trị khác nhau: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Toà thánh Vatican, các tổ chức chính trị, các tôn giáo Việt Nam, trước khi đi đến quyết định mời một thành viên thành lập một nội các mới. Trong thời gian 1947-54, Bảo Đại luôn tìm cách kết hợp các tôn giáo, đảng phái, các tổ chức quốc gia, các cá nhân ưu tú chung quanh mình, tìm quyết định chung, để đồng thuận về nhân vật lãnh đạo chính phủ. Nhờ vậy, tất cả các nội các Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Bửu Lộc và Ngô Đình Diệm đều bao gồm nhiều đảng phái và tổ chức quốc gia. Sau nhiều năm nô lệ, rồi lại chiến tranh, và vẫn chưa hoàn toàn độc lập thống nhất, Bảo Đại đã thiết lập được một guồng máy dân chủ, bước đầu thực hiện tốt những chức năng của một thể chế Quân chủ Lập Hiến. Tạo được nền tảng của sinh hoạt dân chủ như vậy một điều không dễ. Phải là một bậc minh quân mới có thể làm được điều này. Bảo Đại cũng đã sửa soạn để tiến đến bước thứ hai: Quốc hội đề nghị ứng viên, Quốc trưởng tấn phong ứng viên. Nội dung này sẽ được bàn sâu hơn trong một dịp khác.
Người viết xin được dùng nhận xét của Hoàng đế Bảo Đại về Tổng thống Ngô Đình Diệm để tạm kết bài viết. Khoảng giữa năm 1992, trong một buổi nói chuyện của Bảo Đại tại một trường học ở Pháp, được nhà báo Phan Văn Trường ghi lại và dịch từ Pháp văn như sau: “Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía cộng sản đã được Liên Xô tích cực ủng hộ về mọi mặt nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để có thể ngăn chặn (endiguer) sự bành trướng của cộng sản. Việc ông ta lật tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là người yêu nước. Lúc trao quyền, tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, vì ông ấy rất mộ đạo, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả quyền lại cho tôi. Nhưng rồi ông ta đã chết khi thi hành nhiệm vụ. Dù sao thì ông ta cũng cố giữ những lời cam kết ấy mà không được.” [12]
Melbourne, Úc Đại Lợi, 27-10-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:21:17 GMT 9
Bảo Đại, 1990, Con rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước tộc xuất bản. Bùi Diễm, 2000, Gọng kìm lịch sử – Hồi ký chính trị, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai. Chính Đạo, 1997, Việt Nam niên biểu – 1939-1975 (Tập B: 1947-1954), Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. Chính Đạo, 2004, Cuộc thánh chiến chống cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. Hoành Linh, Đỗ Mậu, Hồi ký Đỗ Mậu, www.vnthuquan.net Edward Miller, “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954”, Hoài Phi, Vy Huyền dịch, www.talawas.org Linh mục Cao Văn Luận, 1969, Bên giòng lịch sử 1940-1965, Sài Gòn, www.vnthuquan.net Lâm Lệ Trinh, 2005, Truất phế Bảo Đại và khai sinh Đệ nhất Cộng hoà, www.lichsuviet.cjb.net LM An-tôn Trần văn Kiệm, 2005, Có phải Hoa Thịnh Đốn đã đưa Ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam?, (www.vietnamreview.com) Lê Xuân Khoa, 2004, Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh. Tị nạn. Bài học lịch sử, Tập I, Tiên Rồng xuất bản. Minh Võ, 1999, Ngô Đình Diệm: Lời khen. Tiếng chê, www.tvvn.org Nguyễn Khắc Viện, Từ làng Gôi Vị đến kinh thành Paris, (www.vnthuquan.net) Nguyễn Xuân Chữ, 1996, Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, Những Bài Học Quí Báu của Một Nhà Ái Quốc Liêm Chính, Nhưng Bất Phùng Thời, Nguyễn Xuân Phác và Chính Đạo hiệu đính, Nhà Xuất Bản Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. Nguyễn Văn Bường, Việt sử, Tủ sách Sử học Việt Nam, trọn bộ hai quyển, Sài Gòn. Nguyễn Gia Kiểng, 2005, “Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào?”, www.thongluan.org Vũ Ngự Chiêu, 1996, Phía bên kia cuộc Cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8-1945), Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. 2008 talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1]Nguyễn Văn Bường, Việt sử, trang 345. [2]Phạm Quỳnh giữ chức này mãi đến khi Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945. Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi (anh trưởng Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (người con trai độc nhất của ông Khôi) cùng bị Việt Minh bắt và bị sát hại ngay sau khi tổ chức này cướp được chính quyền. [3]Ông Charles là cựu Khâm sứ Trung Kỳ, thân thiết với Vua Khải Định và chăm sóc Bảo Đại trong thời gian ở Pháp cũng như khi Bảo Đại vừa về nước. [4]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 91. Nguyễn Hữu Bài là bạn thân của Ngô Đình Khả (cha Ngô Đình Diệm), lại còn là nhạc phụ của ông Ngô Đình Khôi (anh trưởng Ngô Đình Diệm) và là người đỡ đầu cho ông Ngô Đình Diệm. [5]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 93. [6]Nguyễn văn Bường, Việt Sử, trang 336. [7]Chính Đạo, Việt Nam Niên biểu, trang 236. [8]Chính Đạo, Việt Nam Niên biểu, trang 238. [9]Bùi Bằng Đoàn là thân phụ của Bùi Tín. Ông Tín là Đại tá quân đội cộng sản. Ngày 30--4--1975, vì là sỹ quan cao cấp nhất của quân đội Bắc Việt có mặt lúc đó tại Dinh Độc lập, Ông Tín đã được tướng Dương Văn Minh bàn giao chính phủ. Từ khi ông Tín ra nhập hàng ngũ dân chủ, công khai chống lại nhà cầm quyền cộng sản, sử học chính thống đã gạt bỏ dữ kiện này. [10]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 158. [11]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 162. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh cố tình Tuyên ngôn Độc lập một lần nữa. [12]Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc Cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8-1945), trang 81-82. [13]Chính Đạo, trang 226. [14]Lê văn Khoa, Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh. Tị nạn. Bài học Lịch sử, trang 424. [15]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 165. [16]Tôi nghĩ bụng ông Diệm và ông Chữ là hai người đã được tư lệnh bộ Nhật chú ý lâu ngày, và các ông ấy lại có tổ chức và đảng phái, sao người Nhật lại không nói gì hết? Ðang nghĩ ngợi như thế, thì chợt thấy ông Ngô Ðình Diệm đến. Ấy là lần đầu tôi gặp mặt ông Diệm vì trước kia tôi chỉ nghe nói thôi chứ không bao giờ gặp. Ông Diệm hỏi tôi: “Cụ mới về đây à? Cụ có biết tin gì không?”. Tôi đáp: “Tôi mới về, chưa biết gì cả, chắc có tin gì thì ông biết trước tôi. Người Nhật lạ quá, họ chẳng cho chúng tôi biết gì cả. Tôi vừa thấy trong bộ tư lệnh nói ở Huế các bộ thượng thư đã từ chức rồi. Vua Bảo Ðại gọi ông Hoàng Trọng Phu vào bàn việc lập chính phủ mới”. “Thế à? Sao người Nhật không cho tôi biết?” Ngồi nói chuyện qua loa vài câu, rồi ông Diệm đứng dậy nói: “Tôi phải vào tư lệnh bộ có chút việc, sáng sớm mai tôi lại về Vĩnh Long”… [17]Ngài nói: “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đã tuyên huỷuỷ hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.” Tôi tâu rằng: “Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những người đã dự định từ trước, như Ngô Ðình Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay thì phần già yếu bệnh tật, phần thì không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.” Ngài nói: “Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Ðình Diệm về, sao không thấy về.” Tôi tâu: “Khi tôi qua Sài Gòn, có gặp Ngô Ðình Diệm và ông ấy bảo không thấy người Nhật nói gì cả. Vậy hoặc có sự gì sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. Còn tôi thì xin ngài cho ra Bắc.” Ngàinói: “Vậy ông hãy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.” Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy người như bọn ông Hoàng Xuân Hãn đều bảo tôi trở lại. Tôi chờ đến gần mười ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông tối cao cố vấn Nhật xem có tin gì về ông Diệm chưa. Trước thì cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông Diệm đau chưa về được. Ðó là lời tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm không có điện riêng xác định lại. [18]Hoành Linh, Hồi ký Đỗ Mậu, Chương 2, Vào đường đấu tranh. [19]Nguyễn Xuân Chữ,Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ. Những bài học quí báu của một nhà ái quốc liêm chính, nhưng bất phùng thời, trang 251-252: Khi gặp nhân vật cầm đầu phái bộ Nhật, ông này còn ướm hỏi: “Ông không nhận vào triều đình Huế, tôi muốn mời ông về Hà Nội làm cố vấn cho quân đội Nhật, ông nghĩ sao?” “Sau năm, sáu năm ở Việt Nam, người Nhật thông suốt những vấn đề chính sự và quân sự có thể gấp trăm, nghìn tôi, nhận nhiệm vụ lớn lao ông đề nghị thì là tôi không tự biết tôi.” “Ông không nhận một chức vụ gì, sau khi về Bắc, ông sẽ làm gì?” “Tôi sẽ giở lại nghề thuốc của tôi.” Không hiểu vì lẽ gì, viên Lãnh sự bỗng nhiên đổi giọng: “Tôi tin lời ông. Nhưng nếu ông tiếp tục hoạt động, chúng tôi sẽ bắt buộc phải nghiêm trị phong trào của ông.” (Mais si vous continuez à vous agiter, nous serious obligés de sévir contre votre movement. Câu tiếng Pháp này là nguyên lời nói của lãnh sự). Trong hai cuộc đàm thoại giữa các tướng lãnh Nhật và với viên Lãnh sự, cũng như trong cuộc đàm thoại đã nói trên với viên Đại tá về chương trình, kẻ viết chỉ ghi chép lại những lời nói và những cảm tưởng riêng. Những lời nói, những hoạt động chính trị có thể có của bạn họ Ngô kẻ viết không thuật lại vì không nhớ rõ hoặc không biết. [20]Trong Hồi ký Bảo Đại cho biết đã nhận lời nhưng chỉ với lý do “... đi chơi một chuyến...” Khi phái đoàn về nước Hồ đánh điện báo cho vua biết “... Ngài có thể đi chơi nưã. ...” Khi Bảo Đại điện tín muốn về thì không được trả lời. Sau này Hồ gởi bác sỹ Phạm ngọc Thạch đến Hồng Kông tìm vua, qua Thạch nhà vua kiểm chứng và đoan chắc ngaì đã bị Hồ cho lưu đày viễn xứ. Hồ một mặt vẫn công khai coi Bảo Đại như “Cố Vấn Tối Cao”, mặt khác lại tung tin Bảo Đại đã trốn lại bên Tàu. ( Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, các trang 235, 241, 247 và 258). [21]Quan Cách Mạng là từ mà Hồ đã dùng để trìu mến gọi những người theo Hồ. Cụm từ này đã được Hồ xử dụng ngay cả trước khi nắm được chính quyền. [22]Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, [23]Trong thời gian này hầu hết các quốc gia bị thuộc, một cách hoà bình và uyển chuyển, từng bước cũng đã giành lại độc lập cho xứ sở của họ. [24]Giải pháp này được người Pháp và các học giả ngoại quốc gọi là “giải pháp Bảo Đại”. Trong hồi ký, Bảo Đại đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi người Việt nên đứng từ góc nhìn của người Việt xem đây là giải pháp của người Pháp, hay là “giải pháp của Pháp”. Gọi là “giải pháp Bảo Đại” là một điều hoàn toàn không chính xác. Vai trò của Bảo Đại chỉ là uyển chuyển lợi dụng giải pháp của Pháp để đòi người Pháp từng bước trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Cách nhìn ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, cách viết và bài viết. [25]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, các trang 288. [26]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 264. [27]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 310. [28]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 312. [29]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 313. [30]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 313. [31]Điều 1, bản Tuyên bố chung – Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 576. [32]Trước đây, Pháp có đối thoại với Việt Minh, đại diện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Với người Pháp nước này chỉ từ vĩ tuyến 16 trở lên. Ở miền Nam, Tháng 5 năm 1946, Nam Kỳ Cộng hoà Quốc đã chính thức được thành lập. [33]Chính Đạo, Cuộc thánh chiến chống cộng, trang 64 . [34]Chính Đạo, Cuộc thánh chiến chống cộng, chú thích 121, trang 403 . -------------------------------------------------------------------------------- [1]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 498. [2]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 516. [3]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 514. [4]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 514 Sau khi thảo luận với ông Foster Dulles để cho ông ta biết ý định ấy, tôi cho vời Ngô Đình Diệm và bảo ông ta: “Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.” “Thưa hoàng thượng, không thể được ạ.” Ông ta đáp. “Tôi xin trình ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu...” “Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.” Sau một hồi yên lặng cuối cùng ông ta đáp: “Thưa hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.” Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá tôi bảo ông ta: “Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.” Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên Thánh giá, ông nói với giọng nghẹn ngào: “Tôi xin thề.” [5]Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử , Chương 12, trang 146. [6]Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử , Chương 12, trang 144. [7]Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử , Chương 12, Chú thích 1, trang 146-147. [8]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 517-518. [9]Toàn bộ cuộc gặp đã được Bảo Đại kể lại như sau: “Thưa Hoàng thượng”, ông ta hỏi tôi, “Ngài nghĩ sao về Hội nghị Genève?” “Đó là việc giữa các anh và nước Pháp.” “Thưa Hoàng thượng, người ta đã cắt nước Việt Nam thành hai. Vua Gia Long, Đức Tiên đế đã từng thống nhất đất nước, và sau này, Ngài đã phục hồi lại được. Tôi nghĩ rằng Ngài khó có thể chấp nhận sự việc đã xảy ra tại Genève.” “Anh định đề nghị cái gì?” Tôi hỏi lại ông ta. “Thượng cấp của tôi đã bảo tôi đến nói với Ngài là họ sẵn sàng quên Hiệp ước Genève và các cuộc bầu cử, để định cùng Ngài bắt tay đi đến thống nhất đất nước.” – “Nhưng anh định thống nhất như thế nào?” “Thưa Hoàng thượng thật giản dị. Xin Hoàng thượng trở lại Sài Gòn, và gọi đến chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng làm việc với Ngài, theo lệnh của Ngài.” “Như vậy chính tôi sẽ đưa chế độ cộng sản vào Sài Gòn?” – “Thưa Hoàng Thượng, không phải chỉ có người cộng sản ở đây, đối với chúng tôi, Ngài là bậc quốc phụ của khắp toàn dân Việt Nam. Hẳn Ngài không thể quên đã có hằng ngàn người chết, đã hy sinh cho tổ quốc.” “Thế thì tại sao mãi đến giờ phút này, các anh mới tìm tôi? Các anh có thể làm như thế cách đây đã ba năm. Như thế các anh đã tránh được bao sự chém giết vô ích. Trong các bản tuyên bố của tôi, không bao giờ tôi đả kích cá nhân ông Hồ Chí Minh... Và đến bây giờ, khi tất cả đã được dàn xếp, các anh mới lại tìm tôi? Và các anh vẫn còn tiếp tục. Các anh ngày nay lại lao đầu vào cuộc chiến mới, làm xáo trộn tất cả đất nước, nhất là về địa hạt kinh tế, mà tôi đã dày công xây dựng từ từ 1949. Tất cả sự ấy, tại sao? Trong hy vọng lừa bịp để đặt nền móng cho một chủ thuyết không mấy thích hợp với tâm hồn người Việt chúng ta.” “Thưa Hoàng thượng, Ngài rất có lý. Nhưng xin Hoàng thượng đừng quên, Ngài đứng trên tất cả, Ngài là cha của toàn dân chúng tôi và Ngài có nhiều con đã phải hy sinh và chết cho đất nước.” Chính là sau cuộc gặp gỡ này tôi đã trao toàn quyền cho Ngô Đình Diệm. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 522-523). [10]Sau Hiệp định Genève vài tháng, tháng 11 năm 1954, hai ông Viện và Chỉ đã bị Cảnh sát chính trị bắt giữ trong vài tiếng đồng hồ để điều tra về các hoạt động của hai ông. Ông Viện cho biết:”Đối chiếu việc hỏi cung hai người, tôi và anh Chỉ biết rằng thực chất việc cảnh sát bắt chúng tôi hỏi cung không phải vì vấn đề Việt kiều mà là vấn đề nội trị của nước Pháp. Họ muốn dò xem tôi và anh Chỉ có quan hệ gì với Mendès France (là Thủ tướng Pháp đã ký Hiệp định Genève) trước khi Điện Biên Phủ thất bại hay không, nếu có thì họ sẽ tung ra trước dư luận rằng vì Chính phủ Pháp giao bí mật quân sự cho Việt Minh nên quân Pháp thua ở Điện Biên Phủ. Lẽ đương nhiên, chúng tôi không khai báo gì về chuyện này. Về sau cũng yên, không có vấn đề gì nữa.” Sự trợ giúp tình báo và chiến lược từ Đảng Cộng sản Pháp để dẫn đến chiến thắng của Việt Minh ở Đông Dương là một đầu đề chưa được quan tâm nghiên cứu. (Nguyễn Khắc Viện, Từ làng Gôi Vị đến kinh thành Paris,) [11]Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 539. Hai câu hỏi được chọn là: “Tôi truất phế Bảo Đại và chấp nhận nhận Ngô Đình Diệm là Quốc trưởng, với nhiệm vụ đặt nền móng dân chủ”, và “Tôi không truất phế Bảo Đại và không chấp nhận nhận Ngô Đình Diệm là Quốc trưởng, với nhiệm vụ đặt nền móng dân chủ.” [12]Minh Võ, 1999, NGÔ ĐÌNH DIỆM, Lời khen Tiếng chê. Nguồn gốc: Nguyệt san “Diễn Đàn Phụ Nữ” tháng 9 năm 1992.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:26:01 GMT 9
Edward Miller Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954 Hoài Phi, Vy Huyền dịch 1 2 3 Tóm lược: Bài viết này phản bác lại những diễn giải hiện có về Ngô Ðình Diệm bằng cách xem xét những hoạt động của ông trong vòng một thập kỷ trước khi ông trở thành lãnh đạo của miền Nam Việt Nam vào năm 1954. Ngô Ðình Diệm đã chủ động tìm cách nắm quyền trong những năm đó, và ông thành công chủ yếu nhờ nỗ lực của chính mình và của những đồng minh người Việt của ông. Cùng thời gian đó, ông và em trai là Ngô Ðình Nhu cũng phác thảo ra viễn kiến đặc biệt về quá trình hiện đại hoá, so rõ cho chúng ta thấy chiến lược xây dựng quốc gia ở miền Nam Việt Nam sau năm 1954.
Tác giả: Edward Miller là giáo sư khoa Lịch sử, trường đại học Dartmouth.
*
Ngô Ðình Diệm là ai? Trong nhiều thập niên sau vụ ám sát ông vào năm 1963, các sử gia và nhiều cây bút đã đưa ra những diễn giải rất khác nhau về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Mặc dù việc Ngô Đình Diệm là một nhân vật quan trọng trong lịch sử các cuộc chiến Ðông Dương là điều không ai phản bác – suy cho cùng, cuộc xung đột sau này trở thành “cuộc chiến tranh Mỹ” ở Việt Nam được bắt đầu bằng một cuộc nổi dậy chống lại chính thể miền Nam của Ngô Đình Diệm – nhưng người ta không nhất trí được rằng vì sao và làm thế nào mà Ngô Đình Diệm bước vào một vai trò chủ chốt như vậy. Trong thời gian Ngô Đình Diệm nắm quyền (1954-1963), nhiều người ở Việt Nam và những nơi khác trên thế giới đã mô tả ông là con rối của Mỹ, người đã được Hoa Thịnh Ðốn dựng nên và hậu thuẫn để phục vụ các mục đích của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Ngược lại, những bài viết kể từ thập kỷ 1960 trở đi lại nhấn mạnh vào sự thiếu thiện ý rõ rệt của Ngô Đình Diệm trong việc chấp nhận để Hoa Kỳ cố vấn, và thực tế là liên minh giữa ông và Mỹ cuối cùng đã sụp đổ. Nhiều học giả do vậy đã bác bỏ quan niệm cho rằng Ngô Đình Diệm chỉ là một sản phẩm của chính sách ngoại giao Mỹ, và đã mô tả Ngô Đình Diệm như một sản phẩm của “những truyền thống” tiền hiện đại, chẳng hạn như Thiên chuá giáo và Nho giáo. Nhưng giữa các học giả này không có sự đồng thuận về ý nghĩa và hậu quả của các phẩm chất “truyền thống” ở Ngô Đình Diệm. Trong một vài nghiên cứu sử học gần đây, Ngô Đình Diệm bắt đầu xuất hiện như một vị thánh – anh hùng dân tộc, người đã bị những đồng minh thất thường phá đám; trong một vài nghiên cứu khác, ông lại bị mô tả như một kẻ chuyên quyền cứng nhắc, người đã thất bại vì cố bám lấy những quan niệm lãnh đạo lỗi thời. [1]
Những diễn giả dường như khác hẳn nhau này về Ngô Đình Diệm – hoặc là bù nhìn của Mỹ, hoặc một người yêu nước đạo đức, hoặc một kẻ chuyên quyền phản động - thật ra khá giống nhau. Qua việc mô tả Diệm đơn giản và bằng phẳng, họ đều không công nhận những khía cạnh riêng biệt cũng như ngẫu nhiên trong tư tưởng cũng như hành động của ông. Dù người ta cho rằng Ngô Đình Diệm chỉ là người thừa hành các mưu đồ của Hoa Kỳ hay biểu thị những đặc tính văn hoá hay xã hội “truyền thống”, thì kết quả vẫn thế: trong cả hai trường hợp, khả năng ông tự làm chủ suy nghĩ và hành động của mình đều không được thừa nhận. Tóm lại, những diễn giải đang tồn tại về Ngô Đình Diệm đã tước đi của ông vai trò tác nhân lịch sử. Kết quả là, như một sử gia chỉ ra gần đây, các nghiên cứu sử học đã hạ vai trò của ông xuống thành “phiến diện”. [2]
Bài viết này nhằm khôi phục phần nào vai trò tác nhân của Ngô Đình Diệm qua việc xem xét phần sự nghiệp ít được nghiên cứu đến của ông: thập niên trước năm 1954 khi ông được cử làm Thủ tướng của phần đất mà ngay sau đó sẽ trở thành miền Nam Việt Nam. Nghiên cứu của tôi phản bác lại những quan điểm hiện có về Ngô Đình Diệm về hai mặt. Trước hết, bài viết bác bỏ những khẳng định rằng Ngô Đình Diệm đã trải qua thời gian cuộc chiến Việt Minh – Pháp 1945-1954 trong tình trạng tự cô lập về chính trị, và lặng lẽ chờ thời cơ. [3] Trong thực tế, Ngô Đình Diệm không hề lánh xa những cuộc xung đột đã xé nát Ðông Dương, và ông có liên hệ với hầu hết tất cả các nhân vật chủ chốt trong nền chính trị Ðông Dương khi đó. Do đó, thay vì mô tả ông như một nhân vật thụ động hoàn toàn hoặc phần lớn dựa vào sự ủng hộ của nhóm này hay nhóm khác, bài viết chỉ ra rằng Ngô Đình Diệm đóng một vai trò quan trọng và chủ động trong việc tạo dựng quyền lực cho mình.
Thứ hai, bài phân tích của tôi phản bác lại quan niệm cho rằng có thể coi tư tưởng và hành động của Ngô Đình Diệm vào năm 1945-1954 là bằng chứng cho cách nghĩ “truyền thống”. Như nhà học giả hậu thuộc địa Ronald Inden đã chỉ ra, những viện dẫn “truyền thống” thường bộc lộ xu hướng bản chất luận vốn ngấm sâu trong nền học thuật phương Tây khi nghiên cứu về Châu Á và người Châu Á. [4] Những ví dụ mà Inden phê phán được rút ra từ ngành Ấn độ học, nhưng lý luận của ông có thể áp dụng vào những nghiên cứu viết về Việt Nam nói chung và về Ngô Ðình Diệm nói riêng. Cũng như các học giả Ấn Ðộ học có xu hướng quy vai trò chủ động của người Ấn sang cho người Châu Âu hoặc cho những phẩm chất được coi là bản chất của đời sống Ấn Ðộ chẳng hạn như vấn đề đẳng cấp (caste) hay vương quyền thiêng liêng, các học giả về Chiến tranh Việt Nam cũng thường quy vai trò chủ động của Ngô Đình Diệm cho người Mỹ, hoặc cho những “bản chất” như Nho giáo hoặc Thiên chúa giáo. Bằng cách quy lời nói và hành động của Ngô Ðình Diệm cho những ảnh hưởng còn rơi rớt lại của cách nghĩ tiền hiện đại, nhiều tác giả đã bỏ qua nỗ lực thay đổi những quan niệm cũ thành những hình thức mới của Ngô Đình Diệm, cũng như việc ông quyết tâm đẩy mạnh một viễn kiến riêng biệt về việc làm thế nào để Việt Nam có thể trở thành một quốc gia hiện đại. [5] Ðương nhiên là viễn kiến về công cuộc hiện đại hoá Việt Nam của Ngô Đình Diệm chỉ nảy sinh dần dần, và vào năm 1954 thì nó vẫn chưa được hoàn thiện. Hơn nữa, đó là một viễn kiến hết sức riêng biệt, và nỗ lực của ông trong việc thuyết phục người dân miền Nam về tác dụng và ưu điểm của viễn kiến ấy đã thất bại thảm hại về mặt lâu dài, nhưng thất bại không nhất thiết là tầm thường hay không hợp lý. Ðể có thể có được cách hiểu lịch sử hơn và ít biếm hoạ hơn về vai trò của Ngô Ðình Diệm trong lịch sử các cuộc chiến Ðông Dương, chúng ta cần hiểu được bản chất ngẫu nhiên và đương thời trong quan niệm của ông, và phải xem xét bối cảnh lịch sử - Ðông Dương thời cuối thuộc địa – đã khiến ông có những tư tưởng đó.
Ngô Đình Diệm và cuộc truy tìm một “Lực lượng thứ Ba”, 1945-1950
Với nhiều người Việt quốc gia, khởi đầu của cuộc chiến tranh toàn diện giữa Pháp và Việt Minh vào tháng 12 năm 1946 đặt ra một lựa chọn quả quyết và khó khăn. Ý tưởng ủng hộ chế độ thực dân khiến các nhà hoạt động chống thực dân, chủ trương giành độc lập cho Việt Nam, cảm thấy ghê tởm; mặt khác, nhiều người quốc gia cũng chùn ngại trước ý tưởng ủng hộ Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh do những người cộng sản chi phối. Một số người từ chối hợp tác với Việt Minh vì lý tưởng; những người khác e ngại cộng sản vì họ đã có kinh nghiệm trong quá khứ. [6] Phải đối mặt với những lựa chọn chẳng hay ho gì như vậy, những người quốc gia này thường từ chối không chọn bên nào, và quyết định chờ sự xuất hiện của một “Lực lượng thứ Ba” - một đảng phái hay liên minh độc lập vừa chống thực dân vừa chống cộng. Từ giữa thập niên 1940, có rất nhiều nỗ lực thành lập Lực lượng thứ Ba ở Ðông Dương, nhưng tất cả đều thất bại vì những rạn nứt tư tưởng và chính trị đã chia rẽ vô số các đảng phái, giáo phái, và bè nhóm không cộng sản của Việt Nam. Kết quả là, nhiều nhà quốc gia đã đặt mình vào thế trung lập không mấy dễ chịu trong cuộc xung đột. Người Pháp chê nhóm lẽ-ra-hẳn-là Lực lượng thứ Ba này là những người “thiếu lập trường” (fence-sitter), còn Việt Minh thì chế nhạo họ vì đã “trùm chăn”.
Là một nhà quốc gia và một lãnh đạo Công giáo nổi tiếng, Ngô Đình Diệm là một trong những người lỗi lạc nhất thuộc nhóm thiếu lập trường. Nhưng đây là cách hiểu dễ gây sai lầm, vì nó ngụ ý rằng Ngô Đình Diệm ngại phải mạo hiểm chính trị. Ngô Đình Diệm sinh năm 1901 trong một gia đình Công giáo hết sức thành đạt. Cha ông, Ngô Ðình Khả là Thượng thư triều đình; anh cả Ngô Ðình Khôi là tổng đốc một tỉnh thời thuộc địa và một anh trai khác, Ngô Ðình Thục, trở thành một trong những vị tổng giám mục Công giáo đầu tiên của Việt Nam. Ngô Đình Diệm tiếp nối truyền thống gia đình, trở thành một viên quan trong triều, và lên tới chức tổng đốc khi còn đang trong những năm cuối tuổi hai mươi. Ông thành công không những nhờ tài cai trị hành chính mà còn nhờ sự đỡ đầu của Nguyễn Hữu Bài, một người Công giáo và lãnh đạo Hội đồng Thượng thư ở Huế. Mặc dù có một quá trình hợp tác lâu dài với chính phủ thuộc địa, vào thập niên 1920, Nguyễn Hữu Bài trở nên bất mãn với việc Pháp ngày càng xâm phạm các đặc quyền của Triều đình Huế, vì vậy ông ta đã tranh thủ Ngô Đình Diệm và các anh của Ngô Đình Diệm trong nỗ lực gây áp lực với Pháp để cải cách nhằm khôi phục lại chủ quyền của Việt Nam. Vào năm 1933, người Pháp cố gắng xoa dịu Nguyễn Hữu Bài bằng cách nâng Ngô Đình Diệm lên chức vụ Thượng thư Bộ Lại; nhưng nước cờ này đã bị đập lại khi Nguyễn Hữu Bài cố vấn Ngô Đình Diệm từ chức để phản đối việc Pháp không chịu khoan nhượng trong vấn đề cải cách. Việc từ chức của Ngô Đình Diệm đã tạo cho ông danh tiếng là một nhà quốc gia không thoả hiệp, mặc dù nó cũng khẳng định địa vị của ông như một lãnh đạo Công giáo nhiều tham vọng và quá khích. [7]
Dù có những nhận định ngược lại về Ngô Đình Diệm, sau năm 1933 ông không rơi vào cảnh bị quên lãng về mặt chính trị, mà vẫn rất tích cực tham gia vào tình hình chính trị triều đình ở Huế suốt thập niên 1930, dù ông không còn giữ chức vụ nữa và đang bị cảnh sát theo dõi. [8] Sau năm 1940, ông tăng cường hoạt động nhằm khai thác các cơ hội chính trị mới nảy sinh do việc Nhật chiếm Ðông Dương. Việc chiếm đóng của Nhật từ 1940-1945 rất kỳ lạ, vì Nhật cho phép một chính phủ thuộc địa Ðông Dương thân Vichy được tiếp tục tồn tại để đổi lại những đặc quyền đồn trú và được cung cấp lương thực. Một chính sách như vậy trái ngược hoàn toàn với thực hành của Nhật ở những nơi khác vùng Ðông Nam Á trong Thế chiến thứ Hai, và nó không phù hợp với các quan chức Nhật, những người tự coi mình là “lý tưởng” trong vấn đề giải phóng các nước đồng chủng Á Châu khỏi ách thuộc địa Châu Âu. Sự bất mãn của những người Nhật “có lý tưởng này” mở đường cho Ngô Đình Diệm, và vào năm 1942, ông đã bị cuốn vào nhiều nhóm mưu đồ chống Pháp. Vào năm 1943, Ngô Đình Diệm cử người liên lạc với hoàng tử Cường Ðể, một nhà hoạt động chống thực dân lâu năm và tuyên bố mình là kế thừa hợp pháp của triều Nguyễn; Cường Ðể sống lưu vong ở Nhật đã hơn hai thập niên, và có liên hệ với các sĩ quan và các nhà ngoại giao “có lý tưởng” ở cả Tokyo và Ðông Dương. Cũng trong khoảng thời gian đó, Ngô Đình Diệm lập ra một đảng chính trị bí mật được biết đến với tên Ðại Việt Phục hưng Hội. Hội này dường như chủ yếu hoạt động ở vùng quê hương của Ngô Đình Diệm thuộc miền Trung Việt Nam, và đảng viên hầu hết - thậm chí có thể toàn bộ - đều là dân Công giáo. Vào mùa hè năm 1944, sở mật thám Pháp biết được sự tồn tại của đảng Ngô Đình Diệm thành lập và bắt đầu bắt bớ đảng viên. Ngô Đình Diệm thoát khỏi bị bắt nhờ sự giúp đỡ của Tổng Lãnh sự Nhật ở Huế, người đã giúp ông ra khỏi thành phố bằng cách cải trang ông thành một sĩ quan trong quân lính hoàng gia. Ông được bay vào Sài Gòn và ở đó vài tháng dưới sự bảo vệ của quân đội Nhật. [9]
Trong một khoảng thời gian ngắn đầu năm 1945, có vẻ như mưu kế dùng người Nhật của Ngô Đình Diệm sẽ thành công. Vào cuối năm 1944, giới tướng lãnh Nhật quyết định rằng đã đến lúc phải hạ bệ chế độ thuộc địa Pháp ở Ðông Dương. Khi họ đang chuẩn bị một vụ lật đổ, các sĩ quan “có lý tưởng” người Nhật đề nghị đưa Cường Ðể lên ngôi và đặt Ngô Đình Diệm làm thủ tướng của chính phủ mới. Không may cho Cường Ðể, nhà chỉ huy tối cao Nhật tại Ðông Dương không đồng ý với lập luận của phe “có lý tưởng”, và ông ta đã phá huỷ kế hoạch trao trả “độc lập” cho người Việt. Kết quả là, khi vụ lật đổ xảy ra vào ngày 9 tháng Ba năm 1945, vị hoàng tử già vẫn ở lại Nhật và Hoàng đế Bảo Ðại đương vị vẫn được tiếp tục giữ vương miện. Bảo Ðại có thể biết rằng trước đó Ngô Đình Diệm đã liên minh với Cường Ðể; nhưng ông vẫn coi Ngô Đình Diệm là ứng cử viên số một để lãnh đạo chính phủ Việt Nam mới thay thế cho chế độ thực dân, và vì vậy ông đã triệu Ngô Ðình Diệm từ Sài Gòn về Huế. Ngô Đình Diệm phạm phải một tính toán sai lầm trầm trọng là đã từ chối đề nghị của Hoàng đế. Gần như ngay lập tức sau đó, ông hối hận về quyết định này và cố gắng đảo ngược tình thế, nhưng quá muộn: Bảo Ðại đã mời học giả và nhà phê bình văn hoá Trần Trọng Kim lên làm thủ tướng thế chỗ Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm đã để lỡ một cơ hội vàng ngọc, mặc dù không phải vì không cố gắng hay không quan tâm. [10]
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc lên nắm quyền bất ngờ của Hồ Chí Minh và Việt Minh không làm giảm quyết tâm theo đuổi tham vọng chính trị của Ngô Đình Diệm. Thay vì rút ra khỏi cuộc xung đột trong lúc Việt Minh và Pháp đánh nhau (giành quyền) quyết định tương lai của Ðông Dương, Ngô Đình Diệm cân nhắc xem làm thế nào có thể lợi dụng tình hình đương thời để xây dựng một phong trào mới mà cuối cùng có thể áp đảo cả hai đối thủ mạnh này. Ông hiểu việc xây dựng một Lực lượng thứ Ba có thể đứng vững được thì cần phải có thời gian, và lúc này, ông không thể trực tiếp thách thức Pháp hay Việt Minh. Vì vậy, ông chọn một vị trí trung lập bề ngoài trong cuộc xung đột, cùng khi đó, ông cũng cố gắng xây dựng và duy trì quan hệ với cả hai phía. Bằng cách này, Ngô Đình Diệm hy vọng có thể có thêm thời gian và mở rộng nhóm ủng hộ mình và gây thiệt hại cho cả hai đối thủ.
Nỗ lực áp dụng vị trí phi lập trường của Ngô Đình Diệm nhằm đạt được lợi thế chính trị tối đa được thể hiện rõ trong quan hệ của ông với Việt Minh vào cuối thập niên 1940. Bất chấp việc sau này ông nói ngược lại, những tiếp xúc của Ngô Đình Diệm với Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Việt Minh khác được mô tả là ve vãn nhiều hơn từ chối rất nhiều. Không lâu sau Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Diệm bị du kích Việt Minh bắt giữ ở miền Trung Việt Nam. Sau khi bị giam một thời gian tại một vùng núi hẻo lánh, người ta đưa ông ra Hà Nội vào đầu năm 1946 để gặp Hồ Chí Minh, người đề nghị với ông một chức vụ trong chính phủ đoàn kết Việt Minh. [11] Trong những năm sau này, Ngô Đình Diệm tuyên bố là mình đã bác bỏ đề nghị này ngay tức thì; ông cũng kể là đã thuyết phục Hồ Chí Minh thả mình chỉ đơn giản bằng cách nhìn thẳng vào mặt vị thủ lĩnh Việt Minh và hỏi một cách hùng biện: ‘Tôi có phải là người sợ áp bức hay sợ chết không?” [12]
Không có lý do gì để nghi ngờ việc Ngô Đình Diệm tuyên bố ông dùng những lời lẽ sắc bén và chua chát trong cuộc gặp đó, vì ông biết rằng quân Việt Minh bắt và xử tử người anh cả Ngô Ðình Khôi của mình mấy tháng trước đó. Mặt khác, khi câu chuyện được Ngô Đình Diệm kể lại về cuộc gặp này vào sau năm 1954 lược bỏ sự thực rằng ông đã sẵn lòng tham gia một chính phủ Việt Minh nếu như Hồ Chí Minh chỉ cần đồng ý với yêu cầu để ông nắm giữ một số mặt trong chính sách. [13] Tương tự, ông cũng không bao giờ công khai thừa nhận việc ông vẫn giữ liên lạc với các lãnh đạo Việt Minh trong ít nhất hai năm sau khi được Hồ Chí Minh thả. Báo cáo của tình báo Pháp thời kỳ này cho thấy rằng Ngô Đình Diệm duy trì các mối liên lạc này với hy vọng cuối cùng có thể thuyết phục một số lãnh đạo Việt Minh bỏ Hồ Chí Minh và quay sang với ông. Theo tin tức của chỉ điểm Pháp, những cuộc trao đổi này khơi dậy những quan tâm đáng kể trong hành ngũ lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong năm 1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm và cũng ngưỡng mộ anh của Ngô Đình Diệm là Ngô Ðình Thục, và thậm chí người ta còn rỉ tai nhau là Ngô Đình Diệm đã lôi kéo được tướng Nguyễn Bình, chỉ huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ. [14]
Cùng thời gian Ngô Đình Diệm đang có quan hệ tay đôi với Việt Minh, ông cũng tìm cách liên minh với các lãnh đạo và các nhóm phái chống cộng. Nỗ lực của Ngô Đình Diệm về hướng này dường như được khơi nguồn cảm hứng từ ví dụ về một liên minh Lực lượng thứ Ba tồn tại ngắn ngủi, được biết đến với tên Mặt trận Thống nhứt Quốc gia. Mặt trận này được hình thành đầu năm 1947 tại một hội nghị của các đảng chính trị và nhóm phái chống cộng tổ chức tại Nam Kinh, Trung Quốc. Sau một đợt hoạt động dấy lên vào mùa xuân và mùa hè năm 1947, mặt trận này bất ngờ sụp đổ do việc một trong những lãnh đạo chủ chốt bị Việt Minh ám sát và do những tranh đấu nội bộ giữa các thành viên. [15] Dường như Ngô Đình Diệm không tham gia vào việc thành lập mặt trận, nhưng khi mặt trận này tự tan vỡ, ông nhanh chóng chuyển theo sự nghiệp của Lực lượng thứ Ba. Vào giữa năm 1947, ông liên minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh đạo Công giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Ðại Việt Quốc dân Ðảng (thường được biết đến với tên Ðại Việt). Suốt mùa thu năm ấy, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn sát cánh bên nhau để thuyết phục những người chống cộng tham gia một tổ chức quốc gia mới với tên gọi Việt Nam Quốc gia Liên hiệp. Mặc dù sau này trở thành kẻ thù như nước với lửa, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn gắn bó với nhau vào năm 1947 vì họ có chung tham vọng xây dựng một phong trào Lực lượng thứ Ba tồn tại được. Những liên hệ của Nguyễn Tôn Hoàn trong đảng Ðại Việt và của Ngô Đình Diệm với những ủng hộ viên Công giáo trở thành một phối hợp mạnh mẽ, và trong một khoảng thời gian ngắn, dường như Liên hiệp sẽ thành công ở nơi mà Mặt trận Thống nhứt Quốc gia thất bại. [16]
Theo Ngô Đình Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn, mục đích của Liên hiệp là vận động ủng hộ cho một phong trào chính trị mới dưới sự bảo trợ của Bảo Ðại. Sau một thời gian ngắn giữ chức là người đứng đầu Ðế chế Việt Nam do Nhật bảo hộ vào năm 1945, vị hoàng đế này đã buộc phải thoái vị trong Cách mạng tháng Tám. Ông làm cố vấn cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của Hồ Chí Minh trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng vài tháng sau đó chọn sống lưu vong ở ngoại quốc. Năm 1947, Bảo Ðại sống ở Hồng Kông và bắt đầu xem xét các đề nghị của Ngô Đình Diệm, Nguyễn Tôn Hoàn và những người Việt Nam khác vì họ hi vọng là ông có thể chỉ huy một liên minh gồm những nhóm và bè phái không cộng sản vốn bị chia rẽ của Việt Nam. Nhưng cùng lúc đó, cựu hoàng cũng gặp gỡ các viên chức người Pháp. Họ tâng bốc ông làm “trung gian” giữa chủ nghĩa thực dân của Pháp và chủ nghĩa quốc gia của Việt Nam. Vào cuối năm 1947, sự xu nịnh này hình như đạt được ảnh hưởng cần thiết: vào tháng Mười Hai, Bảo Ðại trở lại Ðông Dương trong một thời gian ngắn và đồng ý trên nguyên tắc cho việc thành lập một chính phủ Việt Nam mới trong Liên hiệp Pháp. Sau đó Bảo Ðại lại quay về Hồng Kông để cân nhắc nước cờ tới và để nghe lời khuyên của nhiều nhà lãnh đạo người Việt khác nhau. [17]
Ngô Đình Diệm là một trong số những người đã sang Hồng Kông để cố vấn cho cựu hoàng. Bảo Ðại chưa quên việc Ngô Đình Diệm từ chối phục vụ dưới quyền ông trước đây; nhưng ông vẫn chăm chú lắng nghe Ngô Đình Diệm giục ông đòi hỏi Paris nhượng bộ thêm. Ngô Đình Diệm đặc biệt cao giọng cảnh cáo rằng các nhà quốc gia Việt Nam sẽ không chấp nhận với người Pháp điều gì ít hơn tình trạng mà Anh gần đây thừa nhận Ấn Ðộ và Pakistan. Bảo Ðại có vẻ tiếp thu những lập luận này; nhưng Ngô Đình Diệm sợ cựu hoàng vẫn bị ảnh hưởng các đề nghị của Pháp. [18] Vào tháng Hai năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo khác thuộc phe quốc gia gặp tại Sài Gòn để thảo ra một khung đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Sau đó Ngô Đình Diệm quay trở lại Hồng Kông vào tháng Ba để cố gắng thuyết phục Bảo Ðại ủng hộ kế hoạch này; ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam. Ðiều quan trọng là kế hoạch Ngô Đình Diệm cổ vũ trong những cuộc gặp gỡ này phản ánh nhận thức về nền cộng hoà trong ông: kế hoạch nhằm xây dựng một hội đồng Việt Nam mới, trong đó uỷ nhiệm Bảo Ðại làm đại diện trong các cuộc thương lượng với Pháp, và kế hoạch cũng quy định là cựu hoàng có nghĩa vụ phải hội ý với hội đồng trước khi thực hiện bất cứ thoả thuận nào về vấn đề độc lập. [19]
Không may cho Ngô Đình Diệm là tất cả các nỗ lực của ông đều vô ích. Tại một “Ðại hội mini” ở Hồng Kông vào cuối tháng Ba năm 1948, Bảo Ðại thông báo cho Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo người Việt khác là ông ta có ý định tiếp tục xây dựng chính phủ mới theo các điều khoản do Paris đưa ra. Vào tháng Sáu, cựu hoàng ký một thoả thuận thứ hai với các viên chức thuộc địa ngụ ý trao độc lập cho Việt Nam như một “nhà nước liên hiệp” trong Liên hiệp Pháp. Sau một số đàm phán nữa, các chi tiết về quan hệ Việt – Pháp rốt cuộc được ghi trong Hiệp ước Elysée ngày mùng 8 tháng Ba năm 1949. Hiệp ước này thiết lập một nền tự trị hành chính có giới hạn cho Việt Nam, nhưng cho Pháp toàn quyền về chính sách ngoại giao, kinh tế và quân sự. Chẳng bao lâu sau khi ký Hiệp ước, Bảo Ðại trở lại Ðông Dương và tuyên bố là quốc trưởng của một Quốc gia Việt Nam mới, độc lập trên danh nghĩa.
Việc thực thi “giải pháp Bảo Ðại” vào 1948-1949 khiến Ngô Đình Diệm cực kỳ thất vọng. Nhiều nhà lãnh đạo quốc gia chống cộng – bao gồm cả Nguyễn Tôn Hoàn và đảng Ðại Việt - chấp nhận hậu thuẫn cho Bảo Ðại và Quốc gia Việt Nam với hy vọng rằng nhà nước mới này sẽ là một phương tiện đưa dần Việt Nam tới độc lập. Nhưng Ngô Đình Diệm thì phẫn nộ trước cái mà ông coi là sự đầu hàng của cựu hoàng trước những đòi hỏi của người Pháp, và ông quyết định đã đến lúc mình cần phải lên tiếng phản đối trước công chúng. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đình Diệm cho đăng một tuyên bố trong đó ông hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée bằng cách nhắc lại đòi hỏi của mình cho quyền tự trị lãnh thổ cho Việt Nam. Ðồng thời, ông cũng gửi thông báo rằng ông không có ý định hợp tác với Việt Minh. Ngược hẳn lại với việc trước đây ông sẵn sang cân nhắc một thoả thuận với Hồ Chí Minh, giờ thì Ngô Đình Diệm kêu gọi một phong trào chống thực dân mới, dưới sự lãnh đạo của “những thành viên đã có những cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc” và đặc biệt là “những người kháng chiến” - một dấu hiệu rõ rệt cho thấy ông có ý định thách thức Việt Minh bằng cách lôi kéo một số ủng hộ viên, những người muốn bỏ Việt Minh để sang hàng ngũ của ông. [20]
Tuyên bố của Ngô Đình Diệm vào tháng 6 năm 1949 báo hiệu một thay đổi lớn trong chiến lược. Việc Ngô Đình Diệm công khai cắt đứt với cả Bảo Ðại lẫn Việt Minh không đơn thuần chỉ loại bỏ họ khỏi danh sách những đồng minh có thể trong tương lai. Ông cũng cho thấy ông có một viễn kiến khác cho việc thay đổi cuộc sống và xã hội Việt Nam. Bất chấp việc các nhận định (về ông) sau này khẳng định điều ngược lại, viễn kiến này không phải là một kế hoạch phản động nhằm khôi phục lại các thể chế và giá trị truyền thống. Thực vậy, Ngô Đình Diệm tuyên bố rõ ràng rằng ông coi viễn kiến của mình ít nhất cũng có tính cách mạng ngang với những đề nghị từ các đối thủ của ông:
“Thứ đến, nên biết rằng cuộc tranh-đấu hiện tại không phải chỉ là một cuộc chiến-đấu cho độc-lập Tổ-quốc về phương-diện chính-trị mà thôi, mà còn là một cách-mạng xã-hội để đem lại độc-lập cho nông dân và thợ thuyền Việt-Nam. Ðể cho tất cả mọi người trong nước Việt-Nam mới có đủ phương-tiện để sống xứng đáng với phẩm-cách con người, con người tự-do thực sự, tôi chủ trương những sự cải-cách xã-hội hết sức tân-tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn luôn được tôn trọng và được tự-do nẩy-nở.” [21]
Khi đó, những chi tiết cuộc “cách mạng xã hội” của Ngô Đình Diệm – bao gồm cả những điều liên quan đến vấn đề quyết định là thể hiện qua chính sách và thực hành - vẫn chưa rõ ràng. Ngô Đình Diệm cũng không đưa ra giải thích nào về nguồn gốc viễn kiến của ông, hay cho biết điều gì đã gợi cảm hứng cho viễn kiến ấy. Nhưng dù sao ông cũng đã tiến hành một bước quan trọng trong việc làm sáng tỏ một chương trình đặc biệt về hành động chính trị và chuyển đổi xã hội. Viễn kiến về tương lai Việt Nam này, mặc dù còn chưa chắc chắn và mơ hồ vào năm 1949, sẽ trở nên chắc chắn và rõ ràng hơn trong những năm sau đó, và trong nhiều khía cạnh, nó cho chúng ta biết được tất cả những quyết định và chính sách quan trọng của Ngô Đình Diệm cho đến cuối đời ông. [22]
Ngô Đình Diệm hy vọng rằng việc đăng tuyên bố ngày 16 tháng 6 của ông sẽ giúp thu hút dư luận công chúng có lợi cho ông. Nhưng về mặt đó, nước cờ này đã thất bại. Tuyên bố của ông được nhiều người đọc và được chú ý trên khắp Việt Nam, nhưng nó không mang đến một sự mến mộ mới của quần chúng dành cho Ngô Đình Diệm, cũng không gây tác hại gì cho “giải pháp Bảo Ðại.” Trên thực tế, hiệu quả tức thì lớn nhất của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của cả Pháp lẫn Việt Minh trong việc tìm cách lôi kéo ông. Kết quả là chẳng bao lâu sau, ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác, và đi tìm những đồng minh khác.
(Còn tiếp 2 kì)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:26:46 GMT 9
[1]Cả những người hâm mộ và những người chỉ trích Ngô Đình Diệm đều mô tả ông như một người theo các quan niệm và thực hành “truyền thống”. Trong thập niên 1960, tác giả từ cả hai phe đều coi việc Ngô Đình Diệm tôn sùng Nho giáo là bằng chứng của một lối suy nghĩ tiền hiện đại; ví dụ, hãy thử so sánh cuốn sách chỉ trích Ngô Đình Diệm gay gắt của nhà báo Denis Warner, The last Confucian (New York: Macmillan, 1963), với cuốn tiểu sử nhằm thánh hoá Ngô Đình Diệm của Anthony Bouscaren, The last of the mandarins: Diem of Vietnam (Pittsburgh: Duquesne University Press, 1965). Theo một số tác giả, thói quen Nho giáo “truyền thống” của Ngô Đình Diệm được căn cước Công giáo của ông củng cố thêm, khiến ông thiên về các hình thức chính quyền cổ điển; xem Bernard Fall, The two Viet-Nams: A political and military analysis, 2nd rev.edn (New York: Praeger, 1967), trang 236. Phân tích của các học giả kể từ khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào năm 1975 về Ngô Đình Diệm và các quan niệm của ông có tinh tế hơn, nhưng kết luận của họ về bản chất “truyền thống” trong niềm tin Nho giáo và Công giáo của ông cũng giống hệt những gì đã được viết trước đó. Ðể biết thêm về những phê bình Ngô Đình Diệm theo lối này, xem Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1993), trang 235; William Turley, The Second Indochina War: A short political and military history, 1954-1975 (Boulder, CO: Westview, 1986), trang 13; George Kahin, Intervention: How America became involved in Vietnam (Garden City, NY: Anchor, 1987), trang 93; và Stanley Karnow, Vietnam: A history, 2nd rev.edn (New York: Penguin, 1997), trang 229. Muốn biết thêm ví dụ về các nghiên cứu sau năm 1975 miêu tả sự tận tụy với “truyền thống” của Ngô Đình Diệm theo một cách thông cảm hơn, xem Ellen J. Hammer, A death in November: America in Vietnam, 1963 (New York: Dutton, 1987), trang 52; và Pham Van Luu, “The Buddhist crises in Vietnam, 1963-1966” (Luận án tiến sĩ, Ðại học Monash, 1991), các trang 102-103. [2]Philip E. Catton, Diem’s final failure: Prelude to America’s war in Vietnam (Lawrence, KS: University of Kansas Press, 2002), trang 2. [3]Ðể biết thêm về những ý kiến cho rằng Ngô Đình Diệm bị cô lập chính trị trong thập niên 1940 và 1950, xem John Mecklin, Mission in torment: An intimate account of the U.S. role in Vietnam (Garden City, NY: Doubleday, 1965), trang 31; Robert Shaplen, The lost revolution (New York: Harper and Row, 1965), trang 111; và Frances Fitzgerald, Fire in the lake: The Vietnamese and the Americans in Vietnam (Boston: Little, Brown, 1972), trang 82; George Herrings, America’s longest war: The United States and Vietnam, 1950 – 1975, 4th edn (Boston: McGraw-Hill, 2002), trang 59; và Ross Marlay and Clark Neher, Patriots and tyrants: Ten Asian leaders (Lanham, MD: Rowman and Littlefield, 1999), trang 119. [4]Ronald Inden, Imagining India (Oxford: Blackwell, 1990), đặc biệt từ trang 1 – 48. [5]Hãy xem tuyên bố của tác giả một cuốn giáo trình bán rất chạy về Chiến tranh Việt Nam: “Không nhận thức nổi mức độ tàn phá các giá trị và thể chế chính trị truyền thống mà Pháp và Việt Minh đã gây ra, [Ngô Đình Diệm] quay về với một vương triều Việt Nam đã không còn tồn tại. Ông ta không hề có kế hoạch xây dựng một quốc gia hiện đại hay huy động dân chúng của mình.” (Herring, America’s longest war, trang 59). [6]Vào mùa xuân năm 1946, một liên minh tiện thời và ngắn hạn giữa Việt Minh và các đảng phái không cộng sản ở miền bắc Việt Nam sụp đổ, gây ra một làn sóng xung đột và một chiến dịch tiêu diệt tàn bạo của Việt Minh. Xem François Guillemot, “Au Coeur de la fracture viêtnamienne: L’élimination de l’opposition nationaliste et anticolonialiste dans le Nord du Viêt-nam (1945-1946)” trong Le Viêt Nam depuis 1945: États, marges et constructions du passé, ed. Christopher E. Goscha and Benoît de Tréglodé (Paris: Les Indes Savantes, sắp ra). [7]Ðể biết thêm về việc Bài vận động cho việc bổ nhiệm cũng như từ chức của Ngô Đình Diệm vào năm 1933, xem Bruce Lockhart, The end of the Vietnamese monarchy (New Haven: Yale Council on SEA Studies, 1993), pp. 60-86. [8]Như trên, trang 87-92. [9]Ðể biết thêm về các mưu đồ Nhật Bản liên quan đến các nhà quốc gia người Việt trong thời 1940-1945, xem Ralph Smith, “The Japanese period in Indochina and the coup of 9 March 1945”, Journal of Southeast Asian Studies [JSEAS], 9, 2 (1978): 268-301; Kiyoko Kurusu Nitz, “Independence without nationalist? The Japanese and Vietnamese nationalism during the Japanese period, 1940-45”, JSEAS, 15, 1 (1984): 108-133; và Tran My-Van, “Japan and Vietnam’s Caodaists: A wartime relationship (1939-1945)”, JSEAS, 27, 1 (1996): 179-193. Việc Ngô Đình Diệm quan hệ với Nhật Bản trong thời 1943-1944 được Vũ Ngự Chiêu bàn đến trong “The other side of the 1945 Vietnamese Revolution”, Journal of Asian Studies, 45, 2 (1986): 299, 306. Về việc Ngô Đình Diệm cử người đến gặp Cường Ðể, xem Cường Ðể, Cuộc đời cách mạng (Sài Gòn: Nhà in Tôn Thất Lê, 1957), trang 137-138. Ðể biết về việc thành lập cũng như bị đàn áp của Ðại Việt Phục hưng Hội, xem François Guillemot, “Révolution nationale et lutte pour l’indépendance au Viêt-Nam: L’échec de la Troisieme Voie ‘Ðại Việt’, 1938-1955” (Luận án tiến sĩ, École Pratiques des Hautes Études, 2003), trang 206-207. Việc Ngô Đình Diệm trốn khỏi Huế vào mùa hè năm 1944 trong Nitz, “Independence without nationalist?” trang 117. [10]Ðể biết thêm về kế hoạch và hậu quả cuộc lật đổ của người Nhật vào tháng Ba năm 1945, xem Masaya Shiraishi, “The background to the formation of the Tran Trong Kim Cabinet in April 1945: Japanese plans for governing Vietnam”, trong Indochina in the 1940s and 1950s, ed.Takashi Shiraishi and Motoo Futura (Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Program, 1992): trang 113-141. Shiraishi chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng Ngô Đình Diệm nhận được bức điện thứ hai trong hai bức điện mà Bảo Ðại gửi đi ngay sau khi vụ lật đổ xảy ra, và cũng chứng minh rằng Ngô Đình Diệm tự ý từ chối đề nghị của Hoàng đế. Nhưng chúng ta không biết rõ lý do tại sao ông quyết định như vậy. Shiraishi trích dẫn các nguồn tư liệu Nhật gợi ý rằng Ngô Đình Diệm được các đồng minh lý tưởng hoá cố vấn nên từ chối vị trí thủ tướng trên cơ sở là kế hoạch giành độc lập ban đầu đã bị thay thế. Nhưng Stein Tønnesson dùng tư liệu của Pháp để biện luận rằng việc Ngô Đình Diệm từ chối là một thủ đoạn nhằm tăng cường lực đòn bẩy, và ông ta chứng minh rằng Ngô Đình Diệm đã tức giận khi nhận ra rằng Bảo Ðại không đưa ra lời mời lần nữa. Stein Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a world at war (Oslo: International Peace Research Institute, 1991), trang 285. [11]Chúng ta không biết rõ ngày tháng và hoàn cảnh cụ thể xung quanh việc Ngô Đình Diệm bị bắt giữ vào năm 1945. Theo tình báo Pháp, Ngô Đình Diệm bị bắt ở Phan Thiết trong khi đang trên đường ra Hà Nội với tư cách là một thành viên của một phái đoàn được uỷ nhiệm đại diện cho một liên minh của các nhóm quốc gia miền Nam Việt Nam. Xem “M. Ngo Dinh Diem, nouveau President du Conseil Vietnamien,” June 1954, Archives de la Ministère des Affaires Étrangères, Paris [MAE], Série Asie-Oceanie, 1944-1955, Sous-série Indochine, dossier 157. [12]Karnow, Vietnam, trang 232-233; cũng xem Marguerite Higgins, Our Vietnam nightmare (New York: Harper and Row, 1965), trang 157-158; và Shaplen, Lost revolution, trang 110. Một trong những trợ tá của Hồ Chí Minh sau này nói rằng lãnh đạo Việt Minh sợ rằng việc tiếp tục giam giữ Ngô Đình Diệm sẽ làm các nhà quốc gia quê Ngô Đình Diệm ở miền Trung Việt Nam xa lánh họ; George Boudarel and Nguyen Van Ky, Hanoi: City of the rising dragon, do Claire Duiker dịch (Lanham, MD: Rowman and Littlefield, 2002), trang 90 – 91. Luận điểm cho rằng Ngô Đình Diệm được thả là nhờ Linh mục Công giáo Lê Hữu Từ có trong Ðoàn Ðộc Thư và Xuân Huy, Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1945-1954: Những năm tranh đấu hào hùng (Houston: Xuân Thu, 1984), trang 117. [13]Ngô Đình Diệm trước đó đã từng công nhận rằng mình hẳn đã tham gia chính phủ của Hồ Chí Minh để đổi lấy việc được nắm quyền trong chính sách an ninh của Việt Minh; xem Ellen J. Hammer, The struggle for Indochina, 1940-1955 (Stanford: Stanford University Press, 1966), trang 149-150; và Memorandum of Conversation, Edmund S. Gullion, 8 May 1953, Foreign Relations of the United States [FRUS] 1952-1954, vol. 13 (Washington: Government Printing Office, 1982), trang 553-554. [14]Nguồn tư liệu Pháp được mô tả trong Trần Thị Liên, “Les catholiques et la République Démocratique du Viêt-Nam (1945-1954): Une approche biographique” trong Goscha and de Tréglodé ed., Le Viêt Nam depuis 1945. [15]Ðể biết thêm về việc thành lập Mặt trận, xem Guillemot, “Révolution nationale” trang 474-478; để biết về sự sụp đổ của nó, xem Jamieson, Understanding Vietnam, trang 210-213. [16]Guillemot, “Révolution nationale” trang 488-491. [17]Lockhart, End of the Vietnamese monarchy, trang 165-171; Hammer, Struggle for Indochina, trang 208-216. [18]Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952 (Paris: Seuil, 1952), trang 420. Bảo Ðại kể lại về cuộc gặp này trong Bảo Ðại, Le dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980), trang 190. Ðể biết thêm về quan điểm của Ngô Đình Diệm với các đề nghị của Pháp, cũng như việc Ngô Đình Diệm lo lắng về thái độ của Bảo Ðại vào thời điểm của cuộc gặp, xem Telegram, Hopper to Sec.State, 20 Dec, 1947, FRUS, 1947, vol 6 (Washington: GPO, 1972), trang 152-155. [19]Devillers, Histoire du Viêt-Nam, trang 425-429. [20]Ngô Ðình Diệm, “Lời tuyên bố của chí-sĩ Ngô-Ðình-Diệm ngày 16 tháng 6 năm 1949”, in lại trong Con đường chính nghĩa: Ðộc lập dân chủ: Hiệu triệu và diễn văn quan trọng của Tổng thống Ngô Ðình Diệm, tập 1 (Sài Gòn: Sở Báo chí Thông tin, Phủ Tổng thống, 1956) trang 221-222. [21]Như trên. [22]Ðiều quan trọng là bản tuyên bố ngày 16 tháng 6 năm 1949 dường như là tư liệu duy nhất do Ngô Đình Diệm viết trong khoảng thời gian trước năm 1954 và được chính quyền miền Nam Việt Nam xuất bản lại sau khi ông đã lên cầm quyền. Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:27:51 GMT 9
Bước lưu vong của Ngô Đình Diệm ở Mỹ, 1950-1953
Vào đầu năm 1950, không gian cho cuộc vận động chính trị của Ngô Đình Diệm giảm xuống trầm trọng do sự phát triển của tình hình ở cả Ðông Dương và nước ngoài. Vào tháng 2 năm đó, Việt Minh đã đạt được một đột phá về ngoại giao khi cả Trung Quốc và Liên Xô đều chính thức thừa nhận và ủng hộ Hồ Chí Minh và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong khi đó, việc phê chuẩn Hiệp ước Elysée sau một thời gian trì hoãn dài dẫn đến việc Mỹ và Anh chính thức hậu thuẫn cho Quốc gia Việt Nam và Bảo Ðại. Những thay đổi trên trường quốc tế này báo trước các lập trường chính trị ở Ðông Dương trở nên cứng rắn hơn. Với việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giờ đây nghiêng về khối cộng sản, Hồ Chí Minh và các đồng sự không còn muốn nhượng bộ để đạt được sự hợp tác với các phe nhóm quốc gia không cộng sản như trước nữa. Cùng lúc đó, Bảo Ðại và người Pháp cũng chuyển hướng sự chú ý sang Washington và những hứa hẹn viện trợ quân sự, với hy vọng sẽ giành được thế trên trong trận chiến. Kết quả của những phát triển mới này là giảm thiểu lực đòn bẩy mà Ngô Đình Diệm đã từng có trước đây với vai trò trung lập về danh nghĩa trong cuộc xung đột. Sự giảm thiểu lực đòn bẩy này trở nên rõ rệt khủng khiếp vào đầu năm 1950 khi Ngô Đình Diệm được tin là Việt Minh đã ra lệnh ám sát ông. [1] Với Ngô Đình Diệm, đã đến lúc phải cân nhắc những chiến lược khác và tìm kiếm sự ủng hộ của những nơi khác. Tháng 8 năm 1950, Ngô Đình Diệm rời Ðông Dương trong một chuyến đi dự định chỉ một vài tháng; nhưng ông đã ở nước ngoài tới gần bốn năm.
Hẳn Ngô Đình Diệm rời Việt Nam mà không hề có một kế hoạch lớn hay chiến lược nào; dường như ông đang dò tìm một số cách khác nhau nhằm thu được sự hỗ trợ của nhiều phe nhóm và chính phủ nước ngoài. Ði cùng Giám mục Ngô Ðình Thục, người luôn nhiệt tình ủng hộ các mục tiêu chính trị của em trai mình, Ngô Đình Diệm sang Nhật trước tiên. Với sự giúp đỡ của một trong những ủng hộ viên “lý tưởng hoá” của ông thời Nhật chiếm đóng, lần đầu tiên ông đã gặp trực tiếp đồng minh trước đây của mình là hoàng tử Cường Ðể, khi đó sống ở Tokyo. Sau này Ngô Đình Diệm nhớ lại đó là một cuộc gặp gỡ dễ chịu, và có lẽ họ đã hồi tưởng khá nhiều về các sự kiện năm 1945, nhưng họ cũng bàn đến một sự hợp tác mới. [2] Trước khi rời Việt Nam, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục tỏ ra quan tâm đến một âm mưu trong đó Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Ðại sẽ được thay thế bằng con trai ông là Bảo Long, đang ở độ thiếu niên, và bằng cách đó mở đường cho Cường Ðể trở về Ðông Dương làm nhiếp chính cho vị thái tử trẻ. [3] Cường Ðể có thể đã quan tâm đến kế hoạch đó. Thực vậy, một vài tuần lễ trước khi gặp Ngô Đình Diệm, vị hoàng tử này đã thử đáp tàu thuỷ sang Ðông Dương, nhưng bị nhà cầm quyền Pháp từ chối không cho vào. Ðó cũng là cố gắng hồi hương cuối cùng của Cường Ðể; ông mất tại Tokyo vào ngày 6 tháng 4 năm 1951, sau 36 năm sống lưu vong. Nhiều năm sau, khi Ngô Đình Diệm đã trở thành lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, ông sắp xếp đưa di hài của vị hoàng tử này về chôn tại quê ở Huế. [4]
Bây giờ xem xét lại, sự kiện quan trọng nhất trong thời gian Ngô Đình Diệm ở Nhật không phải là cuộc gặp gỡ với Cường Ðể, mà là việc quen được một nhà khoa học chính trị người Mỹ là Wesley Fishel. Tuy mới chỉ 31 tuổi, Fishel đã có tiếng là một chuyên gia về chính trị Ðông Á. Giống như nhiều nhà khoa học chính trị thế hệ ông, Fishel tiếp cận ngành mình bằng quan điểm nhìn từ trên xuống (top-down); cách tiếp cận này được thể hiện qua việc ông quan tâm đến giới tinh hoa chính trị Châu Á, đối tượng của phần lớn các nghiên cứu của ông. Fishel muốn nghiên cứu giới tinh hoa, nhưng ông ta cũng muốn làm cố vấn và gây ảnh hưởng tới họ. Như một đồng nghiệp của ông hồi tưởng lại, ngay từ khi mới bước vào nghề này, Fishel đã có thói quen gây dựng quan hệ cá nhân với các lãnh đạo Châu Á, những người, theo Fishel, có nhiều khả năng nắm quyền trong tương lai. [5] Fishel thấy Ngô Đình Diệm là một “nhân vật hết sức sắc sảo; Rõ ràng học giả người Mỹ này cũng gây ấn tượng nơi Ngô Đình Diệm, và cả hai đồng ý trao đổi thư tín. [6] Sau này, Fishel trở thành một trong những ủng hộ viên Mỹ nhiệt tình nhất của Ngô Đình Diệm, và Ngô Đình Diệm đã tận dụng tốt những quan hệ của Fishel trong giới học thuật và với chính phủ Mỹ trong và sau thời gian sống lưu vong.
Ngay cả trước khi gặp Fishel, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục đã quyết định rằng điểm dừng kế tiếp trong chuyến đi của họ sẽ là Hoa Kỳ. Cũng như Ngô Đình Diệm cố gắng khai thác cảm tình của những người Nhật “lý tưởng hoá” để giành sự ủng hộ của Tokyo vào đầu thập niên 1940, giờ đây ông hy vọng chuyển những tình cảm chống thực dân của người Mỹ sang thế có lợi cho ông. Vào đầu tháng 9 năm 1950, hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục vượt Thái Bình Dương sang Mỹ và đến Washington, nơi họ được tiếp đón ở Bộ Ngoại giao. Những quan chức gặp Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục quan tâm đến đề nghị sử dụng các chiến binh Công giáo làm nòng cốt cho một Quân đội Quốc gia Việt Nam mới. Nhưng Ngô Đình Diệm và khả năng ông trở thành một lãnh đạo không gây được mấy ấn tượng với người Mỹ; một quan chức tuyên bố sau cuộc gặp là Ngô Đình Diệm “quan tâm ngang bằng nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay vì giải quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay.” [7]
Thất bại trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục tiếp tục sang Châu Âu vào tháng 10 năm 1950. Sau này Ngô Đình Diệm kể lại là ông đã gặp Giáo hoàng ở Vatican; ông cũng sang Paris một thời gian ngắn, gặp gỡ các quan chức Việt và Pháp ở đó và gửi một thông điệp tới Bảo Ðại. Thông điệp này mang lời đề nghị làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Ngô Đình Diệm, với điều kiện là ông có đủ thẩm quyền để cai trị các cơ quan hành chính vùng miền trong Việt Nam. Ðề nghị này có vẻ là bước lui của Ngô Đình Diệm, vì trong đó không ghi yêu cầu trước đây của ông đòi quyền tự trị lãnh thổ thì ông mới đồng ý phục vụ trong chính phủ của Quốc gia Việt Nam. Nhưng Bảo Ðại không ấn tượng với khả năng mềm dẻo mới có này của Ngô Đình Diệm, và chỉ trả lời chung chung. [8]
Vào tháng 12 năm 1950, các cơ may của Ngô Đình Diệm xuống tới mức thấp nhất. Việc sang Nhật, Mỹ và châu Âu đều không mang lại cú tăng lực chính trị tức thì mà ông cần để hô hào ủng hộ cho một “Lực lượng thứ Ba”; nhưng nếu trở về Việt Nam, ông phải đối mặt với thế bị cô lập về chính trị và có thể bị ám sát. Vì vậy ông quyết định đổi hướng, cả về chiến lược và địa lý. Sau khi chia tay với Ngô Đình Thục vì đã đến lúc ông này phải quay lại Việt Nam, Ngô Đình Diệm lại vượt Ðại Tây Dương sang Mỹ; trong hai năm rưỡi sau đó, ông lặng lẽ tìm kiếm sự ủng hộ trong những cảm tình viên người Mỹ và đợi ngọn gió chính trị Ðông Dương đổi sang chiều có lợi cho ông. [9] Cũng như chuyến thăm lần đầu, không phải tất cả những người Mỹ gặp Ngô Đình Diệm trong thời gian ông sống lưu vong này đều có ấn tượng về ông. Các quan chức trong chính quyền Truman nói chung là thờ ơ, một phần vì họ có xu hướng tin rằng “giải pháp Bảo Ðại” là khả năng tốt nhất trong hoàn cảnh hiện tại; theo quan điểm của họ, thái độ chống Pháp của Ngô Đình Diệm thật ngây thơ và thậm chí còn nguy hiểm. Mặc dù Ngô Đình Diệm có một số cuộc gặp gỡ với Bộ Ngoại giao Mỹ trong năm 1950 và 1951, các quan chức trong bộ hầu như không để ý gì đến các đề nghị của ông. Họ quan tâm nhiều hơn đến việc thuyết phục ông giảm bớt quan điểm phê phán với các chính sách của Pháp. [10]
May mắn cho Ngô Đình Diệm là có một số người Mỹ khác có thiện cảm hơn với thái độ chống Pháp và niềm tin vào Lực lượng thứ Ba của ông, và Ngô Đình Diệm đặc biệt thành công trong việc tìm ra những người này. Danh sách những người Mỹ nổi tiếng đã gặp và thừa nhận sự ngưỡng mộ họ dành cho Ngô Đình Diệm vào đầu thập niên 1950 gồm có một Hồng y Công giáo La Mã, một Thẩm phán trong Toà án Tối cao Mỹ, và ít nhất là 6, 7 thành viên của Quốc hội, vô số các nhà báo, một số học giả quan trọng, và thậm chí cả William J. Donovan, người sáng lập đồng thời là tiền giám đốc Cơ quan Tình báo Chiến lược OSS. [11] Rất khó để phân loại nhóm người Mỹ hâm mộ Ngô Đình Diệm này. Mặc dù nhiều người trong số họ theo Công giáo, một số lớn khác lại không phải; Chẳng hạn, Wesley Fishel là người Do Thái. Tương tự, sức thu hút của Ngô Đình Diệm không chỉ giới hạn trong giới bảo thủ hay cấp tiến. Ngoài việc lôi cuốn được sự chú ý của những nhân vật bảo thủ nổi tiếng như Donovan, Ngô Đình Diệm cũng gây ấn tượng được với giới cấp tiến chẳng hạn như Nghị sĩ Mike Mansfield và nhà báo Gouverneur Paulding. Thực vậy, bảng danh sách của những ủng hộ viên người Mỹ mà Ngô Đình Diệm tập hợp trong những năm đầu thập niên 1950 thật đáng kể vì nó bao gồm cả phe cấp tiến lẫn phe bảo thủ, cũng như những phẩm chất phổ quát và không phân biệt đảng phái của nó.
Ðiều gì giải thích cho khả năng thu hút sự ủng hộ từ một nhóm người Mỹ danh tiếng khác nhau như vậy của Ngô Đình Diệm? Theo hầu hết tất cả những bài viết về Ngô Đình Diệm, một phần sức hút của ông với người Mỹ là chủ nghĩa chống cộng kiên định. Thời gian ngắn ông ở Mỹ trùng hợp với cao điểm của chủ nghĩa McCarthy, một giai đoạn mà uỷ nhiệm thư chống cộng là bắt buộc với bất kỳ nhà lãnh đạo nước ngoài nào muốn giành được sự ủng hộ của Mỹ cho sự nghiệp của mình. Nhưng nếu việc chống cộng cần thiết để cuộc vận động của Ngô Đình Diệm thu hút được sự ủng hộ của Mỹ vào đầu thập niên 1950, nó không đủ để bảo đảm cho cuộc vận động ấy thành công. Nếu chỉ chống cộng thôi thì Ngô Đình Diệm gần như không khác gì người Pháp và Bảo Ðại, những đồng minh chính thức của Mỹ.
Thay vì chống cộng, một số tác giả đã chỉ ra rằng căn cước Công giáo của Ngô Đình Diệm là nhân tố quyết định giúp ông thu hút những ủng hộ viên người Mỹ. Ðương nhiên là Ngô Đình Diệm dựa khá nhiều vào các mối quan hệ với Vatican của Ngô Đình Thục và các giám mục người Việt khác trong thời gian sống lưu vong; ông đã sử dụng những mối quan hệ này để giới thiệu ông với các nhân vật Mỹ nổi tiếng, và để ông trú ngụ tại các trường dòng Công giáo. Hơn nữa, ông không chống lại việc sử dụng danh tiếng lãnh đạo giới Công giáo người Việt của mình để giành sự ủng hộ của các đồng đạo người Mỹ. [12] Nhưng quan niệm cho rằng Công giáo là yếu tố chủ chốt giải thích cho khả năng giành được sự ủng hộ từ người Mỹ của Ngô Đình Diệm giỏi lắm cũng chỉ là phóng đại. [13] Mặc dù Ngô Đình Diệm bàn về các vấn đề tôn giáo trong thư tín và các cuộc trao đổi riêng tư, dường như ông không định thiết lập một quan hệ hợp tác Mỹ-Việt với tư cách một liên minh Cơ Ðốc giáo trong tương lai. Ngược lại, trong các cuộc trao đổi giữa ông và những người Mỹ không theo Công giáo, và đặc biệt trong những lời ông nhận xét trước công chúng trong thời gian lưu vong, Ngô Đình Diệm luôn tránh những tuyên bố và ngôn ngữ tôn giáo và ưu tiên những lý luận thế tục về một cam kết với hai mục tiêu chống cộng và chống thực dân. [14]
Thay vì nhấn mạnh vào tôn giáo, Ngô Đình Diệm quan tâm nhiều hơn đến việc thu hút những người Mỹ tin vào phát triển, hiện đại hoá và khả năng biến đổi (một xã hội) của nền công nghệ Mỹ. Ðặc biệt, ông tìm cách khai thác những quan tâm chính thức mới (của Mỹ) trong việc “hỗ trợ kỹ thuật” cho nước ngoài. Vào năm 1949, Tổng thống Harry Truman tuyên bố chương trình “Point Four” (Ðiểm Bốn), tăng cường đáng kể mức độ hỗ trợ phi quân sự mà Mỹ dành cho nước ngoài. Mặc dù Point Four là kế tục trực tiếp của Kế hoạch Marshal 1947 nhằm giúp tái thiết Tây Âu, nó có quy mô toàn cầu và bao gồm nhiều loại viện trợ rộng lớn hơn. Ngoài các chương trình tài trợ và trợ cấp ra, “hỗ trợ kỹ thuật” còn bao gồm cả việc cung cấp thiết bị, đào tạo và kiến thức chuyên môn. Như nhiều học giả đã chỉ ra, chương trình Point Four báo hiệu lòng tự tin mới của nước Mỹ về khả năng viện trợ và chuyên môn của Mỹ để định hướng cho những thay đổi kinh tế, chính trị và xã hội khắp thế giới. Là một chiến trường then chốt của Chiến tranh Lạnh, đối với nhiều quan chức Mỹ, Việt Nam rất cần sự giúp đỡ mà chương trình Point Four được thiết kế để cung cấp. Vào thời điểm Ngô Đình Diệm đến Mỹ vào năm 1950, một chương trình trợ giúp kỹ thuật nhỏ của Mỹ đã được thực hiện ở Ðông Dương, và sự trợ giúp kỹ thuật của Mỹ dành cho các Quốc gia Liên hiệp (Ðông Dương) đều đặn tăng lên. [15]
Trong khi nỗ lực định hướng hình thức và nội dung sự hỗ trợ kỹ thuật của Mỹ cho Việt Nam, Ngô Đình Diệm nhận được sự giúp đỡ quý giá từ người bạn của mình là Wesley Fishel. Fishel ở một cương vị rất thích hợp để giúp đỡ Ngô Đình Diệm trong vấn đề này, vì vào năm 1951, ông ta vào giảng dạy tại Michigan State College (không bao lâu sau đó, trường này đổi tên thành Michigan State University). Trong những năm 1950, dưới sự lãnh đạo đầy nhiệt tâm của Chủ tịch John Hannah, trường Michigan State quản lý những dự án giúp đỡ kỹ thuật do chính phủ tài trợ ở những nước như Brazil, Columbia và Nhật. [16] Không bao lâu sau khi vào trường, Fishel sắp xếp cho Ngô Đình Diệm làm việc ở đó như một cố vấn; việc này giúp Ngô Đình Diệm và Fishel có dịp hợp tác soạn thảo một dự án trợ giúp kỹ thuật cho Việt Nam. Lá thư năm 1952 mà Fishel đề đạt dự kiến lên trước US Mutual Security Agency (Cơ quan An ninh Hỗ tương Hoa Kỳ) mang ảnh hưởng của Fishel rất rõ, vì nó đưa ra hình dung một dự án tương tự như những dự án khác của Michigan State. Nhưng lá thư này cũng có những ý tưởng rõ ràng xuất phát từ Ngô Đình Diệm, chẳng hạn như điều kiện đòi chương trình này đặt căn cứ ở thành phố Huế quê ông. Phạm vi của dự án đề xuất - lớn hơn tất cả các chương trình hiện có ở Michigan States lúc đó – có vẻ cũng chủ yếu là do Ngô Đình Diệm hoạch định. Ông tuyên bố rằng Việt Nam cần sự giúp đỡ trong nhiều lĩnh vực khác hẳn nhau như “khoa học cảnh sát”, “vấn đề ngoại thương” và thậm chí “nghiên cứu về việc chọn theo các thể chế dân chủ”. [17] Giờ đây nhìn lại, đề xuất này chứng minh khả năng tiên đoán phi thường của Ngô Đình Diệm trong việc tìm cách định hướng hình thức và nội dung của cái sau này trở thành nguồn viện trợ khổng lồ Mỹ đổ vào giúp chính phủ của ông. [18]
Khả năng giành được sự hậu thuẫn của những ủng hộ viên có thế lực người Mỹ được thể hiện rõ trong một bữa tiệc trưa tổ chức nhằm vinh danh ông ở Washington vào ngày 8 tháng 5 năm 1953. Bữa tiệc này do Thẩm phán Toà án Tối cao William O. Douglas chủ trì; Douglas sang thăm Ðông Dương một năm trước đó và tin rằng nơi này cần có một Lực lượng thứ Ba. Douglas tổ chức bữa tiệc trưa này để giới thiệu Ngô Đình Diệm với những người Mỹ khác có cùng suy nghĩ như ông; khách mời gồm có các nghị sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy; số mệnh đã định sẵn là hai người này sẽ đóng vai trò then chốt trong quan hệ của Ngô Đình Diệm với Mỹ. [19] Ngô Đình Diệm gây được ấn tượng với hai Nghị sĩ này và những khách mời khác; ông mạnh mẽ lên án Bảo Ðại và viễn cảnh độc lập cho Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, và đãi thính giả câu chuyện ông gặp Hồ Chí Minh vào năm 1946. Sau này nhớ lại, Mansfield nói rằng ông ta rời bữa tiệc “với cảm giác rằng nếu có người nào có thể nắm được miền Nam Việt Nam, phải là ai đó giống như Ngô Ðình Diệm.” [20]
Như nhiều sử gia đã chỉ rõ, khả năng quan hệ của Ngô Đình Diệm với những người Mỹ như Fishel, Mansfield và Kennedy cuối cùng đã có kết quả. Ðặc biệt là sau năm 1954, các quan hệ cá nhân ông thiết lập được trong thời gian sống lưu vong đã giúp giành được và củng cố sự ủng hộ chính thức của Washington dành cho ông và chính phủ của ông. Nhưng vào tháng 5 năm 1953, ông chưa ở vào vị thế có thể gặt hái những lợi tức chính trị này, và những người bạn Mỹ của ông cho đến khi đó mới chỉ ủng hộ ông bằng những lời động viên và ủng hộ tinh thần. Vì vậy, ông chuẩn bị tìm kiếm những phương tiện khác để đạt được mục tiêu. Tại bữa tiệc trưa ở Washington, Ngô Đình Diệm tuyên bố mình sắp sang Pháp, và ông hy vọng cuối cùng sẽ quay lại Việt Nam. [21] Dĩ nhiên là cả ông và tất cả những người khác có mặt trong buổi trưa hôm đó có thể đoán trước được những sự kiện sẽ diễn ra trong 12 tháng tiếp sau đó và đỉnh điểm là, gần như đúng vào cùng ngày đó một năm sau, quân đội Pháp đã đầu hàng Việt Minh ở Ðiện Biên Phủ. Dù sao đi nữa, ngay cả khi Ngô Đình Diệm không lường trước được những sự kiện đó, thì ông cũng ở một vị thế thuận tiện để có thể khai thác chúng. Vào mùa xuân năm 1953, ông đã đặt kế hoạch cho cuộc trở về chính trị của mình; sức đẩy quan trọng không phải từ những người hâm mộ mới ở Mỹ, mà từ những ủng hộ viên trung thành của ông ở Việt Nam.
Người giữ anh/em [22] : Sự nổi lên của Ngô Đình Nhu, 1950-1953
Đã từ lâu, người ta cho rằng, trong thời gian sống lưu vong, Ngô Đình Diệm không nắm được các sự kiện và tư tưởng tại Việt Nam; việc ông sống tại các chủng viện và các dòng tu Công giáo ở Hoa Kỳ và châu Âu được coi là dấu hiệu chứng tỏ ông muốn rút lui khỏi các vấn đề của thế giới nói chung, và vấn đề chính trị nói riêng. Ngay cả trước khi Ngô Đình Diệm kết thúc thời gian sống lưu vong, một số quan chức Hoa Kỳ đã chế giễu rằng ông như người “Yogi bí ẩn”, người vừa “thoát ra khỏi nhà dòng bước vào một thế giới lạnh lùng” và vì vậy, không sẵn sàng cho những nhiệm vụ chính trị dễ gây nản lòng đang chờ đợi ông phía trước. [23] Những người đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông cũng thường đồng ý rằng ông bị cô lập trong thời gian sống lưu vong, và vì vậy họ thường tả ông đang bơi một cách vô vọng giữa biển cả của những mưu đồ sau khi ông trở về Sài Gòn vào đầu mùa hè năm 1954.
Một hình ảnh như vậy về Ngô Đình Diệm mở ra ít nhất hai điểm đáng tranh luận. Trước tiên, những diễn giải này đã không chú ý tới khả năng rằng, thời gian sống trong tu viện của ông có thể không bị cô lập như những gì mọi người thấy vào thời điểm đó, mà mang tính chiến lược nhiều hơn. Chúng ta biết rất ít về những hoạt động của Ngô Đình Diệm trong thời gian 1951-1954 khi ông sống tại các chủng viện và tu viện ở Hoa Kỳ và Bỉ, và giả thuyết rằng ông bị cô lập với thế giới bên ngoài trong thời gian ông sống ở những tu viện này là một giả thuyết không có bằng chứng. Trên thực tế, có nhiều khả năng các học viện này đã cung cấp cho ông những phương tiện khá an toàn để liên lạc với những đồng minh của mình ở Đông Dương, bởi vì chúng cho phép ông sử dụng mạng lưới quốc tế của Công giáo, những người có thể mang tin nhắn một cách an toàn mà không bị cảnh sát Pháp ngăn chặn. Ví dụ, ông Ngô Đình Diệm gặp nhà hoạt động Công giáo người Việt Trần Chánh Thành trong thời gian ông lưu lại một chủng viện ở Bỉ vào đầu năm 1954. Vì ông Thành là một phụ tá thân tín của Ngô Đình Nhu ít nhất là từ năm 1952, và vì ông Thành rốt cuộc trở thành một trong những nhân vật quyền lực nhất trong chính phủ Ngô Đình Diệm, có vẻ hợp lý để kết luận rằng ông là người đưa tin tức cho Ngô Đình Diệm khi ông qua lại giữa châu Âu và Đông Dương trong suốt thời gian quan trọng này. [24]
Thứ hai, những lập luận Ngô Đình Diệm bị cô lập cũng bị phá vỡ bởi có những bằng chứng cho thấy rằng ông đã kết hợp những hoạt động trong thời gian lưu vong của mình với những nỗ lực của những người ủng hộ ông ở Đông Dương, những người đang chuẩn bị cho cuộc trở về của ông. Trong những giải thích hiện có về đường đến quyền lực của Ngô Đình Diệm, một trong những thiếu sót rõ ràng nhất liên quan tới những trợ giúp quan trọng của anh em ông. Bên cạnh những trợ giúp như đã nói ở trên của người anh lớn, Giám mục Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm cũng nhận được giúp đỡ của ba người em là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện. Tuy Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện đều đóng vai trò quan trọng trong những thành công sau này của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là người có những đóng góp quan trọng nhất.
Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện là hai người em út trong những anh em họ Ngô, và là hai người hoàn toàn khác biệt nhau. Ngô Đình Cẩn là người sống xa lánh, hay gắt gỏng và là người ít học nhất trong các anh em; ông chưa một lần đi nước ngoài, và gần như cả đời mình, ông chỉ sống ở Huế. Trái lại, Ngô Đình Luyện là một kỹ sư phong nhã, theo chủ nghĩa thế giới, đã từng du học ở châu Âu và nói được vài thứ tiếng. Không ngạc nhiên mấy, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện giúp đỡ Ngô Đình Diệm theo những cách khác nhau. Đầu những năm 1950, Ngô Đình Cẩn bắt đầu xây dựng một hệ thống bí mật những người ủng hộ ở miền Trung Việt Nam; ông sử dụng tổ chức này để xây dựng và củng cố sự ủng hộ cho Ngô Đình Diệm ở phần này của đất nước, và đồng thời cũng mở rộng những ảnh hưởng cá nhân của ông ở đây. Trong khi đó, Ngô Đình Luyện làm đại diện cho Ngô Đình Diệm ở châu Âu. Sau khi Ngô Đình Diệm rời Hoa Kỳ đến Pháp tháng 5, 1953, Ngô Đình Luyện trở thành cố vấn chính và là đại diện riêng của Ngô Đình Diệm trong những cuộc thương lượng với Bảo Đại và những nhà lãnh đạo Việt Nam khác. [25]
Gia đình họ Ngô không thiếu những cá nhân có cá tính lạ thường và khó hiểu; tuy nhiên, so với mọi người, ông Ngô Đình Nhu được coi là người bất thường và bí ẩn nhất. Là người thứ tư trong sáu anh em, người ta nói ông cẩn trọng, sâu sắc và kín đáo. Ông không quê mùa như Ngô Đình Cẩn hay tao nhã như Ngô Đình Luyện, ông cũng có vẻ không quan tâm đến việc triều chính, điều mà Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm đã quá bận tâm. Quả vậy, là một người đàn ông trẻ, ông Ngô Đình Nhu có vẻ ham sách vở hơn làm chính trị. Những năm 1930 ở Paris, trước tiên, ông dành nhiều thời gian học về văn chương rồi sau đó học về chữ cổ và ngành quản thư tại École des Charte nổi tiếng. Cuối những năm 1930, ông trở về Việt Nam và làm việc trong ngành lưu trữ; đến 1945 ông giữ chức vụ trụ cột tại nơi sau này là Thư viện Quốc gia ở Hà Nội. [26] Sau Cách mạng tháng Tám, ông Ngô Đình Nhu tham gia nhiều hơn vào chính trị, đặc biệt trong những cố gắng của các anh em ông để vận động sự ủng hộ của những người Việt Nam Công giáo. Tuy vậy, cho đến khi Ngô Đình Diệm rời Việt Nam, ông vẫn tương đối mờ nhạt. Với người vợ trẻ của ông, Trần Lệ Xuân – sau này được thế giới biết đến là “Madame Nhu” nhiều tiếng tăm và tai tiếng – trong năm 1950, Ngô Đình Nhu vẫn sống khá ẩn dật ở thành phố Đà Lạt, nơi ông theo đuổi thú vui trồng hoa lan. [27]
Giống như những anh em của mình, ông Ngô Đình Nhu là người sùng kính đạo Công giáo và trung thành với Nho giáo. Tuy nhiên, giống như việc học vấn và sự nghiệp ban đầu của ông khác với những anh em khác trong gia đình họ Ngô, sự phát triển về tư tưởng và chính trị của ông cũng theo một lối khác hẳn. Ở Pháp, Ngô Đình Nhu chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết gia Công giáo Emmanuel Mounier. Trong những cuốn sách và các trang viết trên tạp chí Esprit của mình, Mounier phản ứng lại thời Đại khủng hoảng [28] và những đau khổ mà nó gây bằng cách phát triển một lý thuyết phê bình chủ nghĩa tư bản tự do; ông đặc biệt chế nhạo thiên kiến tự do với chủ nghĩa cá nhân, tranh luận rằng điều đó chắc chắn dẫn đến sự cô lập, bất hoà và bóc lột. Nhưng, là một người Công giáo bảo thủ, Mounier không đồng tình với chủ nghĩa Marx vì tư tưởng duy vật của nó huỷ hoại những gì mà ông gọi là những chiều kích “tâm hồn” trong bản tính con người. Thay vì [chọn theo] chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản, Mounier hướng đến một trật tự xã hội hậu tư bản, ở đó, cả những nhu cầu về vật chất của cá nhân và sự thịnh vượng chung đều được hưởng lợi – nhưng một trong hai điều này không trở thành trọng tâm độc nhất trong chính sách của xã hội. Thay vào đó, Mounier đề nghị đặt trọng tâm vào việc phát triển một con người toàn diện (la personne), mà ông định nghĩa là gồm cả những nhu cầu về tinh thần và vật chất. Nhấn mạnh của Mounier vào “con người” như lối thoát cho “cá nhân” là đề tài chủ yếu trong những bài viết của ông, và vì vậy ông đặt cho tư tưởng của mình là “chủ nghĩa nhân vị”. [29]
Khi Ngô Đình Nhu Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông trở thành một người say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tín lý của Mounier có thể được áp dụng ở Việt Nam. [30] Đặc biệt sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có khả năng là “con đường thứ ba” cho việc phát triển xã hội là điều hết sức thu hút Ngô Đình Nhu. Với Ngô Đình Nhu, việc Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản trở nên thích hợp với vấn đề chính trị của Lực lượng thứ Ba mà Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy ông anh lớn của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc những nhận xét và bài viết của Ngô Đình Diệm trong giai đoạn này nhắc đến những thuật ngữ của chủ nghĩa Nhân vị.
Sau năm 1950, Ngô Đình Nhu trở thành một trong những nhân vật đi đầu trong việc vận động những người Việt không theo cộng sản ủng hộ cho Ngô Đình Diệm. Đồng thời, ông cũng hăng hái trong việc đề xướng chủ nghĩa Nhân vị làm đường hướng cho việc phát triển chính trị và xã hội của Việt Nam. Tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam. Phát biểu với đa số những người không theo Công giáo tại buổi nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ngô Đình Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, đều phải cùng nhau có “một sự nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó. Những thế lực này bao gồm chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, cả hai tư tưởng đều đem lại “sự giải phóng giả trá” và chiến tranh liên miên. [31]
Những thính giả hôm đó không biết điều này: bài diễn văn của ông Ngô Đình Nhu báo hiệu cho những việc sắp xảy đến. Ngoài việc dài dòng, rắc rối và trừu tượng – những phẩm chất ở ông mà, trong thập niên tiếp theo đó, nhiều người Việt Nam đã được làm quen và cảm thấy khó chịu – bài diễn văn này chuyên chở những đề tài then chốt, mô tả đặc điểm của những diễn văn và tuyên bố của cả ông và Ngô Đình Diệm sau này về ích lợi và giá trị của chủ nghĩa nhân vị. Những đề tài này không chỉ nói đến những nguy hiểm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, mà còn nói đến sự quan trọng của lợi ích “phần hồn” thay vì chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, bài diễn văn cũng làm nổi bật niềm tin chắc chắn của Nhu rằng Việt Nam cần một cuộc cách mạng toàn diện:
“Đó là những điều đại cương, rất vắn tắt của một cuộc cách mạng chính-trị kinh-tế, nhắm đích đặt con người vào trung tâm của triển vọng thế giới. Tôi nói: cách-mạng, bởi vì chúng ta sẽ làm một việc vô cùng phí công nếu chúng ta gắng gỏi tô chữa những đường nứt nẻ ở một cái nhà đã lung lay, lúc cần phải thay đổi cả cơ cấu nội bộ của toàn thể cái nhà ấy.” [32]
Như Ngô Đình Diệm, từ đầu những năm 1950, Ngô Đình Nhu hiểu rất rõ rằng việc tạo ra một Lực lượng thứ Ba ở Việt Nam phụ thuộc vào nhiều điều hơn là chỉ hứa suông trở về với những truyền thống, giá trị và thực hành cổ xưa. Để có thể thành công, một phong trào như vậy phải đề xướng chuyển đổi và cách mạng – mặc dù không theo đường hướng cộng sản. Ngô Đình Nhu tin rằng chủ nghĩa nhân vị có thể tạo nên nền tảng cho một tư tưởng phổ quát mới, thu hút mọi người Việt Nam, không Công giáo cũng như Công giáo.
Nếu Ngô Đình Nhu coi mình là một triết gia, ông cũng biết rằng phong trào mà ông đang mường tượng cần rất nhiều công sức để tổ chức; như những gì xảy ra cho thấy, tài năng thật sự của ông nằm ở vai trò tổ chức chứ không phải ở vai trò thành lập. Có lẽ ngay từ đầu những năm 1950, Ngô Đình Nhu đã thành lập nòng cốt cho một đảng chính trị mới, sau này được biết đến với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường được cả người Việt và người Mỹ gọi là “Cần Lao”. [33] Vào giai đoạn đầu, tổ chức Cần Lao dường như hoạt động hoàn toàn trong vòng bí mật, và chúng ta hầu như không biết gì về những năm đầu tồn tại của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác. Sau năm 1954, sự tồn tại của đảng này được chính thức công nhận, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động việc ủng hộ một phong trào đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Việc Ngô Đình Nhu chọn tên cho đảng chính trị của ông bộc lộ nhiều điều. Đặc biệt, việc dùng chữ cần lao phản ánh quan tâm đặc biệt của Ngô Đình Nhu đến khả năng chính trị tiềm tàng của người dân lao động Việt Nam. Ngược lại với giả định của một số nhà quan sát, sự quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ) không bắt nguồn từ việc ông thán phục những thực hành tổ chức kiểu Lê-nin, mà chúng liên quan đến một số tư tưởng của phong trào công đoàn Pháp. Đặc biệt, ông ủng hộ khái niệm công đoàn, trong đó, công nhân được tổ chức thành từng nhóm như nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm rằng quyền lợi của họ không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc. [34]
Ngoài những hoạt động bí mật của đảng Cần Lao, Ngô Đình Nhu còn có những tổ chức khác công khai hơn. Những đề xướng này bao gồm việc thành lập liên minh với nhà hoạt động công đoàn Trần Quốc Bửu, một người tổ chức kỳ cựu, đã nhiều thời kỳ có quan hệ với nhóm Cao Đài và Việt Minh. Vào cuối những năm 1940, sau khi vỡ mộng với chủ nghĩa cộng sản, Trần Quốc Bửu theo một người tổ chức nghiệp đoàn lao động của Pháp; ông này đã chỉ cho ông những tư tưởng và những sách lược của phong trào công đoàn mậu dịch Dân chủ Thiên Chúa Giáo. Sau một chuyến đi ngắn đến châu Âu, Trần Quốc Bửu trở về Việt Nam năm 1949 và bắt đầu tổ chức công đoàn cho những công nhân thành phố và nông thôn một cách bất hợp pháp. Năm 1952, những thay đổi về luật lao động của Quốc gia Việt Nam cho phép ông Bửu hợp pháp hoá liên minh những công đoàn của ông dưới tên gọi “Liên minh Công nhân Thiên Chúa giáo Việt Nam” và là thành viên của Liên minh Công đoàn Mậu dịch Thiên Chúa giáo Thế giới có trụ sở tại Brussel. [35] Không rõ hai người này bắt đầu hợp tác với nhau khi nào và ra sao, nhưng vào năm 1953, Ngô Đình Nhu có những liên hệ thân thiết với Liên minh của Trần Quốc Bửu. Tháng Hai năm đó, Ngô Đình Nhu và các đồng minh của ông bắt đầu xuất bản tạp chí Xã hội ở Sài Gòn, mạnh mẽ ủng hộ Trần Quốc Bửu và liên minh của ông. Ngoài việc công khai ủng hộ chủ nghĩa công đoàn, tạp chí này cũng mạnh mẽ ủng hộ việc thành lập những tổ chức hợp tác công nhân và nông dân – một lập trường báo trước chính sách mà Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ thi hành một khi đã trở thành những lãnh đạo của miền Nam Việt Nam. [36]
Như những sự kiện cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 cho thấy, nỗ lực của Ngô Đình Nhu nhằm xây dựng sự ủng hộ rộng rãi của công nhân và nông dân Việt Nam cho mục đích cách mạng của ông sẽ bị thất bại về lâu về dài. Tuy nhiên, thất bại sau cùng không loại trừ khả năng của những thắng lợi tạm thời; việc anh em họ Ngô bị lật đổ sau này không có nghĩa rằng tư tưởng và dự định của họ đều luôn luôn không có hiệu quả, hay thất bại từ khi mới bắt đầu. Thật vậy, trong một thế giới chính trị bè phái và chia rẽ như ở Đông Dương vào những năm 1950, khả năng nắm quyền hành qua những tổ chức quần chúng và những mạng lưới bí mật của Ngô Đình Nhu là một công cụ hiệu nghiệm. Ngô Đình Diệm dường như hiểu điều này, và trong suốt thời gian sống lưu vong, ông trông cậy vào Ngô Đình Nhu để đặt nền móng chính trị cho cuộc trở về của ông. Như đã thấy, niềm tin Ngô Đình Diệm đặt vào người em trai của mình là hoàn toàn đúng; đến mùa hè năm 1953, Ngô Đình Nhu đã soạn ra những chiến thuật và chiến lược để đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền.
(Còn tiếp 1 kì)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:28:44 GMT 9
[1]Người Pháp đã dò tìm được lệnh ám sát này và thông báo với Diệm rằng họ không thể bảo vệ ông được. Xem Ðiện của Heath gửi Acheson, 28 July 1950, United States National Archives II, Record Group 59, State Department Decimal File 751G.00/7-2850. Phần tham khảo cho tư liệu USNA 2 là từ nhóm này và sẽ được trích dẫn với số Decimal File. [2]Bản dịch Thư tín, Ngô Ðình Diệm gửi Wesley Fishel, 3 June 1951, Michigan State University Archives, Wesley R. Fishel papers, Box 1184, Folder 33. Bức thư không gửi đích danh cho Fishel, nhưng nội dung và ngày tháng trong thư cho thấy rất nhiều khả năng là Diệm viết cho Fishel. [3]Ðiện báo, Gullion to Sec. State, 24 Jan 1951, FRUS, 1951, vol.6 (Washington: GPO, 1977), trang 359-361; cũng xem điện tín, Heath to Sec. State, 28 July 1950, USNÀ, 751G.00/7-2850. Theo Gullion, người lúc đó là Ðại biện (Chargé d’Affairs) tại toà Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn năm 1950 và có biết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục, âm mưu Bảo Long được dự định với việc Cường Ðể và Hoàng hậu Nam Phương đồng làm nhiếp chính; Nam Phương – không như chồng bà – theo Công giáo. [4]Ðể biết thêm về những nỗ lực cuối cùng của Cường Ðể nhằm chấm dứt cuộc sống lưu vong, xem Hammer, Struggle for Indochina, trang 275. Ðể biết thêm về việc Cường Ðể thừa nhận mình và Ngô Đình Diệm đã bàn bạc về việc Cường Ðể có thể đóng một vai trò chính trị ở Ðông Dương như thế nào, xem Memorandum of Conversation, Dallas Coors, 8 Jan 1951, USNA 2, 794.00/1-851. Việc đưa hài cốt ông về nước vào năm 1956 được đăng trên The Times of VN Weekly, 21 April 1956, trang 8. [5]Phỏng vấn Giáo sư Ralph Smuckle, Washington DC, Hune 2001. [6]Fishel kể lại việc gặp Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục ở Tokyo trong “Memorandum on Ngo Dinh Diem”, 28 Aug 1950, được đính kèm trong Báo cáo của Spinks gửi Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 2 tháng 9 năm 1950, USNA 2, 751G.00/9-250. (Cảm ơn Joseph Morgan đã cung cấp cho tôi một bản sao của tài liệu này.) Bản bị vong lục không có chữ ký, nhưng các văn bản khác của Bộ Ngoại giao cho thấy rõ Fishel là tác giả; xem bị vong lục tháng 1 năm 1951 trong chú thích 26. Người Nhật giúp tổ chức tất cả các cuộc gặp gỡ ở Tokyo giữa Ngô Đình Diệm, Cường Ðể và Fishel trong mùa hè năm 1950 là một nhà văn cấp tiến và phiêu lưu tên Komatsu Kiyoshi; xem bị vong lục của Fishel đã trích dẫn, và Demaree Bess, “Bright spot in Asia” trong Saturday Evening Post, 15 Sept 1956, trang 130. [7]Ðiện tín, Quyền Ngoại trưởng Mỹ gửi Toà Ðại sứ ở Sài Gòn, 28 Sept. 1950, FRUS 1950, vol 6 (Washington: GPO, 1976) trang 884-886. [8]Ðiện tín, Acheson gửi Sài Gòn, 16 Jan 1951, FRUS, 1951, vol.6, trang 348. Một tường thuật hơi khác về cuộc trao đổi này giữa Ngô Đình Diệm và đại diện của Bảo Ðại được ghi lại trong Memorandum of Conversation, William O’Sullivan, 15 Jan 1951, USNA 2, 751G.00/1-1551. [9]Cuối thập niên 1950, Ngô Đình Diệm giải thích tại sao ông quay trở lại Mỹ trong D.M.Coors, “Conversation with Mr. Ngo Dinh Diem, prominent Vietnamese Catholic leader,” 26 July 1951, USNA 2, 751 G.00/7-2651. [10]Như trên; cũng xem điện tín ngày 28 tháng 9 năm 1950 đã trích dẫn trong chú thích 29. [11]Joseph Morgan, The Vietnam lobby: The American Friends of Vietnam, 1955-1975 (Chapel Hill, NC: University of North Carolina Press, 1997) trang 1-14. [12]Ví dụ, trong một bị vong lục năm 1951 Ngô Đình Diệm viết cho một thành viên người Công giáo trong Quốc hội, ông tả về giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu ở miền bắc Việt Nam như một “vùng Lực lượng thứ Ba”, nơi dân chúng “hiểu những giá trị thật của phương Tây” và “không chống phương Tây mà chống thực dân”; Ngô Ðình Diệm, “Indo China” bị vong lục tháng 7 năm 1951, đi kèm trong thư của dân biểu Edna Kelly gửi Nghị sĩ Mike Mansfield, 20 tháng 7 năm 1951, University of Montana Mansfield Library, Mike Mansfield Archives, Series IV, Box 221, Folder 14. (Tôi cảm ơn Don Oberdorfer đã cung cấp cho tôi bản sao của bị vong lục này.) [13]Vào những năm 1960, người ta cho rằng sự ủng hộ Mỹ dành cho Ngô Đình Diệm chủ yếu là nhờ vị Hồng y nhiều thế lực Francis Spellman ở New York; Robert Scheer, How the United States got involved in Vietnam (Santa Barbara, CA: Center for the Study of Democratic Institution, 1965), trang 20-25. Những biện luận gần đây hơn theo hướng này ít cố tình gán ép hơn, nhưng vẫn duy trì quan điểm tôn giáo là cốt lõi sức hút của Ngô Đình Diệm với Mỹ; ví dụ, xem Seth Jacobs, “‘Sink or swim with Ngo Dinh Diem’: Religion, Orientalism and United States intervention in Vietnam, 1950-1957” (luận án Tiến sĩ, Northwestern University, 2000). [14]Ví dụ, trong hai bài phát biểu của Ngô Đình Diệm vào khoảng cuối thời gian ở Mỹ, Diệm chỉ nói thoáng qua một lần về đạo Cơ Ðốc; Ngô Ðình Diệm, “Recent development in Indochina” (Ðọc tại Hội nghị Thường niên lần thứ 5 của Hiệp hội Viễn Ðông, Cleveland, Ohio, 1 April 1953) và “Talk by Mr. Ngo Dinh Diem before Southeast Asia Seminar, Cornell University” (20 Feb.1953). Bản sao của cả hai diễn văn này đều có trong Thư viện Kroch của Ðại học Cornell. [15]Ðể biết bản tóm tắt của chương trình hỗ trợ kỹ thuật của Mỹ cho các Quốc gia Liên hiệp, xem pamphlet của Mutual Security Agency có tên “US technical and economic assistance to the Far East: A part of the Mutual Security program for 1952-1953” (Washington: MSA, March 1952). (Bản sao của pamphlet này có trong USNA 2, RG59, US State Department Lot Files, Box 1, Entry 1393.) Xem tường thuật kinh điển về chương trình Point Four và hậu quả của nó trong Robert Packenham, Liberal America and the Third World: Political development ideas in foreign aid and social science (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1973). [16]Paul L. Dressel, College to university: The Hannah years at Michigan State, 1935-1969 (East Lansing, MI: Michigan State University Press, 1987) trang 276-277. [17]Thư, Wesley Fishel gửi MacDonald Salter, 14 March 1952, MSUA, Fishel Papers, Box 1184, Folder 14. [18]Thư của Fishel mô tả đề xuất này hình như không giành được mấy quan tâm của Mutual Security Agency vào năm 1952; nhưng ý tưởng mà Ngô Đình Diệm và Fishel phác thảo cuối cùng đã được thực hiện qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật mà trường Michigan States thực hiện ở miền Nam Việt Nam sau khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền vào năm 1954. Xem John Ernst, Forging a fateful alliance: Michigan State University and the Vietnam War (East Lansing, MI: Michigan State University Press, 1998). [19]William O. Douglas, North from Malaya: Adventure on five fronts (Garden City, NY: Doubleday, 1953), trang 147-210; xem trang 180-181 để biết bức tranh cảm thông mà Douglas dựng lên về Ngô Đình Diệm như một khả năng “trung thực và độc lập” thay cho người Pháp. Giống Douglas, Mansfield và Kennedy cũng sang Ðông Dương và chuyển hướng ủng hộ cho mục tiêu thành lập Lực lượng thứ Ba. Những người Mỹ khác tham dự bữa tiệc trưa đó gồm có: Bill Costello, một phóng viên cho đài truyền hình CBS; Ray Newton, một quan chức trong the American Friends Service Committee (Uỷ ban Trợ giúp Những người bạn của Mỹ); Edmund S. Gullion, trong Phòng Kế hoạch Chính sách (Policy Planning Staff) của Bộ Ngoại giao, người đã gặp Diệm trước đây khi ông ta là Ðại biện toà Công sứ Mỹ ở Sài Gòn; và Gene Gregory, người cũng đã từng làm ở toà Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn, và là người đã giới thiệu Ngô Đình Diệm với Douglas sau khi Douglas đi Ðông Dương về. Tham dự bữa tiệc còn có Hoàng Văn Ðoàn, Giám mục vùng Bắc Ninh ở miền bắc Việt Nam. Tác giả có được thông tin này qua cuộc phỏng vấn Gene Gregory, thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2002 và qua thư Douglas gửi cho Ngô Đình Diệm vào ngày 8 tháng 5 năm 1953, có tại Library of Congress Manuscript Division (Phòng Bản thảo Thư viện Quốc hội Mỹ), William O. Douglas Papers, Box 1716. [20]Don Oberdorfer phỏng vấn Mike Mansfield, 28 tháng 8 năm 1998. (Tôi cảm ơn ông Oberdorfer đã cho phép tôi sử dụng trích dẫn này ở đây). Mansfield có lẽ định nói “Việt Nam” thì đúng hơn là “miền Nam Việt Nam”, vì vào tháng 5 năm 1953, miền Nam chưa tồn tại như một thực thể chính trị độc lập. Về bữa tiệc này, xem Memorandum of Conversation, Edmund S. Gullion, 8 May 1953, FRUS 1952-1954, vol 13, trang 553-554. Tài liệu này (trong cả bản được in và bản gốc trong Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ) ghi là vào ngày 7 tháng 5 năm 1953. Nhưng dựa vào những tài liệu khác cùng thời gian đó, tôi tin rằng bữa tiệc này thực sự đã diễn ra vào ngày 8 tháng 5; xem thư Douglas gửi Ngô Đình Diệm, trích dẫn trong chú thích 41, có ghi rõ cuộc gặp vào ngày 8. Cũng xem phần tài liệu kèm theo trong Thư, Kennedy gửi Dulles, 7 May 1953, USNA 2, 751G.00/5-753; thư này cho biết là vào sáng ngày 8 tháng 5, văn phòng Kennedy khẩn thiết đề nghị Bộ Ngoại giao trả lời tức khắc những câu hỏi về chính sách hiện thời của Mỹ ở Ðông Dương. [21]Xem Memorandum of Conversation trích dẫn trong chú thích 42. [22]Nguyên văn: “brother’s keeper”, trong Kinh thánh, Sách Sáng thế (Genesis) 4:9. [23]Xem Telegram, Dillon to State Dept., 24 May 1954, FRUS, 1952–1954, vol. 13, pp. 1608–9. [24]Xem Times of Viet Nam Weekly, 17 Mar. 1956, trang 7; Georges Chaffard, Indochine: Dix ans d’indépendance (Paris: Calmann-Lévy, 1964), trang 30. [25]Như trên, trang 27–30; và ‘Ngo Dinh Luyen’, tóm tắt tiểu sử, không rõ ngày tháng, MAE, série VLC, sous-série Sud-Viêtnam, dossier 22. Về Ngô Đình Cẩn, xem Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, 1940–1965 (Saigon: Trí Dũng, 1972), trang 180–9. [26]“Ngô Ðình Nhu”, trong Souverains et notabilités d’Indochine (Hanoi: Éditions du Gouvernement Généralde l’Indochine, IDEO, 1943), trang 62; “Curriculum Vitae of Mr. Ngo Dinh Nhu”, không rõ ngày tháng, Texas Tech University, The Vietnam Archive, John Donnell collection, Box 2, Folder 22, Box 2 [hereafter ‘Donnell papers’]. Ngô Đình Nhu dường như vẫn giữ công việc của mình tại Thư viện Quốc gia trong suốt quãng thời gian Hà Nội nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh; xem “Lịch sử đầy đủ về gia đình Cụ Ngô-Đ.-Diệm”, Saigon Mới, 23 tháng 6 1954. [27]Tác giả phỏng vấn Gene Gregory, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3, 2002. Một trong những phụ tá của Ngô Đình Nhu sau này nhớ lại đã tháp tùng ông, thay mặt Ngô Đình Diệm đi thăm một vùng Công giáo ở gần biên giáo Lào năm 1946; A. J. Langguth, Our Vietnam: The war, 1954–1975 (New York: Simon and Schuster, 2000), trang 87. Một nguồn tin Công giáo viết rằng Ngô Đình Nhu buộc phải trốn khỏi Hà Nội bằng đường biển đến giáo phận Phát Diệm khi chiến tranh nổ ra vào tháng 12, 1946 và từ đó đi đường bộ vào Huế; Ðoàn Độc Thư and Xuân Huy, Giám mục Lê Hữu Từ, trang 116. [28]Đây là thời kỳ kinh tế thế giới khủng hoảng trầm trọng, bắt đầu bằng việc thị trường chứng khoáng rớt giá ngày 24 tháng 10, 1929. Trước tiên, khủng hoảng xảy ra ở Hoa Kỳ rồi nhanh chóng lan rộng ra các nước châu Âu và mọi nơi trên thế giới. – ND. [29]Xem Emmanuel Mounier, Personalism, tr. Philip Mairet (London: Routledge and Paul, 1952), trang 17-19 (personalism) và 103-5 (social order). Cái nhìn của Mounier và những người Pháp theo chủ nghĩa Nhân vị có thể được phân biệt với chủ nghĩa Nhân vị Hoa Kỳ, phát triển ở Boston vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dưới quyền lãnh đạo trí thức của Borden Parker Bowne. Mặc dù cả hai nhánh của chủ nghĩa Nhân vị đều lấy cảm hứng từ thần học Công giáo La Mã. Những người Mỹ theo chủ nghĩa Nhân vị thường là những nhà tư tưởng vững vàng hơn là những người Pháp, là những người chấp nhận sự tồn tại độc lập của thực tế vật chất mặc dù họ tranh luận rằng nó không nên được nhấn mạnh quá mức. Xem “Personalism” trong The enclyclopedia of philosophy, ed. Paul Edwards, vol. VI (New York: Macmillan, 1967), 106-0, và “Personalism” trong The Cambridge dictionary of philosophy, ed. Robert Audi (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), trang 575. [30]Việc dịch Personalism là nhân vị, Ngô Đình Nhu theo cách của Cha Bửu Dương, một linh mục Công giáo và là một học giả, người đã đặt ra cụm từ này trong những bài giảng của ông những năm 1940. Xem Nguyen Trai, “The government of men in the Republic of Vietnam”, (bản thảo chưa xuất bản, 1962), trang 139; một bản sao của tài liệu này nằm ở Widener Library, Harvard University. Không rõ ông Ngô Đình Nhu có học với Mounier ở Pháp hay không; một số những phụ tá người Việt của ông cho rằng ông đã từng học với Mounier, nhưng ít nhất là một lần, Ngô Đình Nhu đã phủ nhận việc này. Xem “Nhu and Personalism”, một ghi chú không rõ ngày tháng, Donnell paper, Box 3, Folder 14. [31]Xem Ngô Đình Nhu, “Sự góp sức của người Công giáo vào hoà bình ở Việt Nam” (bài diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị Đà Lạt), được in lại trong Xã hội, tháng 2, 1953, trang 5, 14, 18-22. [32]Như trên, trang 21. [33]Thời gian và hoàn cảnh chính xác của việc thành lập đảng Cần Lao vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng dường như, chắc chắn nó được thành lập trước ngày Ngô Đình Diệm trở về vào năm 1954 sau thời gian sống lưu vong; ông nói với Wesley Fishel năm 1955 rằng nó được lập ra vào khoảng năm 1952. Xem Memorandum, Fishel gởi đến Collins, 7 tháng 3, 1955, FRUS, 1955-1957, vol. 1 (Washington: GPO, 1985), trang 111. [34]Khuynh hướng theo chủ nghĩa công đoàn của đảng Cần Lao và những người sáng lập sau này được các quan chức của đảng này thừa nhận: “Chương trình của Cần Lao Nhân Vị đi theo con đường của chủ nghĩa công đoàn, ủng hộ việc đồng quản lý công nghiệp quốc gia bởi đại diện của giới tư bản và lao động và sự tham dự của công nhân vào lợi nhuận và phát triển kỹ thuật của những ngành công nghiệp. Đảng đã nắm một vị thế mạnh trong việc ủng hộ cải cách điền địa cũng vì lý do này, là quyền sở hữu là quyền lợi của người công nhân”; Times of Vietnam Weekly, 25 tháng 2, 1956, trang 9. [35]Xem Edmund S. Wehrle, ‘“No more pressing task than organization in Southeast Asia”: The AFL-CIO approaches the Vietnam War, 1947–1964’, Labor History, 42, 3 (2001): 277–95; Times of Vietnam Magazine, 4 Mar. 1962, trang 18–19. Đáng chú ý là, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam không đả động đến việc họ liên kết với Thiên Chúa giáo; điều này rõ ràng phản ánh quyết tâm của ông Bửu trong việc thu hút những công nhân không theo Thiên Chúa giáo cũng như những người Thiên Chúa giáo, và việc bản thân ông cũng là một người Phật giáo. [36]Xem “Tổng liên đoàn Lao động V.N”, XH, tháng 2, 1953 trang 31, 34; “Bản kiến nghị của Liên-hiệp Nghiệp đoàn Trung Việt gởi Tổng liên đoàn Lao động V.N.”, XH, tháng 7 1953, trang 16; Dân Sinh, “Tìm hiểu tổ chức hợp tác xã”, XH, 15 tháng 9, 1953, trang 23; Dân Sinh, “Mục đích và phương pháp huấn luyện”, XH, ngày 10 tháng 11, 1953, 33-4 và Dân Sinh, “Màu sắc tổ chức hợp tác xã các nước”, trong cùng số, 28-9.
Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:30:06 GMT 9
Chiến dịch tranh cử thủ tướng của ông Ngô Đình Diệm, 1953-1954 Quyết định rời Hoa Kỳ đến châu Âu tháng 5 năm 1953 của Ngô Đình Diệm là một bước khởi đầu trong ván cờ chính trị mới. Mặc dù cuộc chiến ở Đông Dương vẫn ở thế bế tắc, ông và những đồng minh của ông nhận thấy có sự thay đổi chính trị mà họ hy vọng rằng sẽ có lợi cho ông. Nhờ vị trí thuận lợi của mình ở Sài Gòn, Ngô Đình Nhu nhận thấy rằng những nhà quốc gia không cộng sản đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc lập trong Liên hiệp Pháp của Bảo Ðại. Bốn năm kể từ ngày ký kết Hoà ước Elysée, Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, và với Paris, Quốc gia Việt Nam nhiều nhất là độc lập trên danh nghĩa. Đa số người quốc gia thất vọng với Thủ tướng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Tâm, một người có tiếng là thân Pháp và chuyên quyền. Cuối cùng, những người quốc gia đã nổi giận vì quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu tháng 5 năm 1953, một hành động vi phạm những thoả thuận trước đó với các Quốc gia Liên hiệp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. [1] Khi những bất mãn với Pháp và Bảo Đại tăng cao, anh em họ Ngô ý thức được rằng thời gian đã chín muồi để có thể đưa ra ván cược quyền lực mới. Khi lập kế hoạch, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều biết rằng phải đi những nước thận trọng. Họ cần phải làm cho Bảo Đại và chiến lược tìm độc lập qua nhượng bộ từng phần của ông ta bị mất uy tín; tuy nhiên, họ cũng phải tránh phê phán trực tiếp cựu hoàng, nếu không, e rằng Bảo Đại khi quá tức giận sẽ từ chối việc ứng cử của Ngô Đình Diệm ngay từ ban đầu. May mắn cho anh em họ, các sự kiện vào mùa hè 1953 đem lại chính những cơ hội mà họ cần. Đầu tháng Bảy, chính phủ Pháp đề nghị một vòng thảo luận mới với các Quốc gia Liên hiệp nhằm “hoàn thiện” nền độc lập của họ trong Liên hiệp Pháp. Nếu như người Pháp đưa ra đề nghị này vào năm 1949 hay 1950, nó có thể được coi là sự công nhận từng bước lập trường của Bảo đại; tuy nhiên, vào thời điểm năm 1953, các đề nghị thương thảo thêm dường như chỉ đổ thêm dầu vào nỗi âu lo của những người quốc gia về ý định chân thành của người Pháp. Trong hàng loạt những buổi họp với những lãnh đạo phe quốc gia vào tháng Bảy và tháng Tám, Ngô Đình Nhu khéo léo khơi gợi những mối lo âu của họ. Làm việc với Nguyễn Tôn Hoàn của Đại Việt – người, như đã nói ở trên, đã cộng tác với Ngô Đình Diệm một thời gian ngắn trong năm 1947-1948 trước khi Quốc gia Việt Nam thành lập – Ngô Đình Nhu đã úp mở ý tưởng triệu tâp Đại hội Đoàn kết không chính thức tại Sài Gòn vào đầu tháng Chín, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Ý tưởng về Đại hội nhanh chóng được nhiều người quốc gia, trước đây nổi tiếng theo phe Bảo Đại, ủng hộ; ngoài ông Nguyễn Tôn Hoàn của Đại Việt, những người này gồm có lãnh đạo Cao Đài Phạm Công Tắc, tướng Trần Văn Soái của Hoà Hảo, Tướng Lê Văn Viễn của Sài Gòn (Bảy Viễn Bình Xuyên) và một số nhân vật Công giáo quan trọng. Bên cạnh đó, một số nhóm trước đó đã ngừng ủng hộ Bảo Đại và Quốc gia Việt Nam (chẳng hạn Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng thuộc phe quốc gia, và một số tổ chức Phật giáo) cũng đồng ý tham dự Đại hội. Tướng Viễn bằng lòng để sự kiện này tổ chức ở Bình Xuyên, Sài Gòn. [2] Đại hội Đoàn kết ngày 5, 6 tháng 9, 1953 là một sự kiện hỗn độn. 55 đại biểu có mặt đã tham gia ký xác nhận bản tuyên bố phản đối mạnh mẽ chính sách độc lập từng phần của Bảo Đại. Tuy nhiên, ngay sau khi bản tuyên bố được ký, những người tham dự bắt đầu tranh cãi về những ẩn ý của bản tuyên bố này. Tướng Viễn e ngại rằng Đại hội sẽ vượt khỏi khả năng kiểm soát, nên chỉ sau hai ngày, đã quyết định kết thúc sự kiện này sớm bằng việc đóng hội trường. Phạm Công Tắc của Cao Đài, người trước đó đã phê phán nặng nề Bảo Đại trong những nhận xét công bố trước cuộc họp, giờ đây cùng với những thủ lĩnh của Bình Xuyên và Hoà Hảo gởi điện tín tới cựu hoàng để tái khẳng định sự trung thành của ba nhóm này đối với Quốc gia Việt Nam. Trong khi đó, Ngô Đình Nhu tuyên bố rằng Đại hội đã tạo ra một tổ chức chính trị mới với tên gọi Phong trào Đại đoàn kết và Hoà bình; tuy nhiên, ông cũng thận trọng tránh những lời tuyên bố gay gắt chống Bảo Đại và phủ nhận việc Đại hội đã chọn được lập trường chính trị chính thức. [3] Về việc xây dựng liên minh, Đại hội Đoàn kết là một thất bại. Tuy nhiên, vì với Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm, sự kiện này chủ yếu chỉ để chiếm lấy quyền hành từ tay Bảo Đại, nên trong trường hợp này, Ðại hội là một thành công rực rỡ. Từ Pháp, Bảo Đại muốn giành lại vị thế chính trị nên đã tuyên bố rằng một “Hội nghị Quốc gia” chính thức sẽ được tổ chức ở Sài Gòn vào tháng Mười năm đó. Những lãnh đạo cấp cao của Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên ngay lập tức đồng ý tham dự, cùng với đại diện của những nhóm quốc gia khác. Tuy nhiên, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông cố ý vắng mặt trong trong buổi họp ngày 12 tháng 10, 1953. Ban đầu, Hội nghị có vẻ nhằm đưa ra phê chuẩn như dự định ủng hộ Bảo Đại và chính sách của ông. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 10, các đại biểu bất ngờ phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham dự vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc “độc lập hoàn toàn”. Dù rằng sau đó các ủng hộ viên trung thành Bảo Đại đạt được một thoả thuận bổ sung vào những tuyên bố chống đối trước đó, rằng một Việt Nam độc lập sẽ không thuộc Liên hiệp “như trong hình thức hiện tại”, nhưng những tổn thất chính trị đã xảy ra. Mục đích của Hội nghị Quốc gia là để chứng tỏ sự ủng hộ của phe quốc gia dành cho Bảo Đại, nhưng thay vào đó, nó lại cho thấy mức độ bất mãn của những người này đối với Bảo Đại và chính sách của ông. [4] Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu không tham gia Hội nghị tháng Mười, vì hiển nhiên họ sợ rằng việc tham gia của họ sẽ kéo thêm sự ủng hộ cho Bảo Đại. [5] Tuy nhiên, ngay sau đó, họ khám phá rằng, kết quả bất ngờ của hội nghị buộc Bảo Đại phải thân thiện hơn với Ngô Đình Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Đầu tháng 10, trước khi Hội nghị Quốc gia khai mạc, Bảo Đại có một cuộc gặp riêng với Ngô Đình Diệm ở Paris; đó là cuộc gặp mặt trực tiếp đầu tiên của họ trong vòng bốn năm. [6] Sau khi Hội nghị tan rã, cựu hoàng càng trở nên hoà hoãn hơn. Trong cuộc gặp mặt lần thứ hai với Ngô Đình Diệm ở Cannes ngày 26 tháng 10, Bảo Ðại thăm dò khả năng bổ nhiệm Ngô Đình Diệm vào chức thủ tướng với việc thẩm vấn “giả định” về thiện ý phụng sự của Ngô Đình Diệm. [7] Cựu hoàng hoãn lại quyết định về Ngô Đình Diệm vài tháng sau đó; tuy vậy, đến cuối năm 1953, ván cờ của anh em họ Ngô rõ ràng đã giành phần thắng lớn. Uy tín và vị thế của Bảo Đại với toàn dân thấp đến mức kinh khủng. Thái độ chống Pháp kiên quyết của Ngô Đình Diệm, ngược lại, có vẻ rất hợp với phương hướng chung của chính kiến quốc gia ở Sài Gòn, và vì vậy nó dường như bỗng nhiên trở thành điều mà cựu hoàng không thể thiếu được. Những tháng sau Hội nghị tháng Mười, áp lực với Bảo Đại tiếp tục tăng lên, trong khi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu tiếp tục mở rộng lợi thế của họ. Tháng 12, 1953, Bảo Đại nhượng bộ những than phiền của phe quốc gia và cách chức Thủ tướng chuyên quyền Tâm. Bằng việc thay thế chính phủ của Nguyễn Văn Tâm với nội các lâm thời dưới quyền của Hoàng tử Bảo Lộc, một thành viên của hoàng tộc, Bảo Đại hy vọng kéo dài thời gian để tìm cách giành lại sự ủng hộ của thần dân. Thời cơ giờ đây là vàng bạc, và anh em họ Ngô đã không bỏ lỡ. Vào đầu tháng 3, 1954, sau khi Bảo Đại chấp thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Nhu và những đồng minh của ông xuất bản một bài viết ở Sài Gòn, trong đó, họ tuyên bố chiến thắng và đồng thời thúc ép nhượng bộ thêm. Nước cờ này khơi mào cho sự phân chia giữa phe phái những người quốc gia; trong khi một số thủ lĩnh theo Bảo Đại, một số nhóm trong nội bộ của Cao Đài, Hoà Hảo và Đại Việt lại công khai ủng hộ Ngô Đình Nhu và những đòi hỏi “cách mạng dân tộc chủ nghĩa” của ông. [8] Khi những đấu đá chính trị ở Sài Gòn tăng cao, tin từ miền Bắc vào giữa tháng Ba cho hay Việt Minh đã vây hãm căn cứ của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tin này, cùng với việc chính phủ Pháp đồng ý đàm phán về vấn đề Đông Dương tại hội nghị các Cường quốc ở Geneva, lập tức biến khả năng người Pháp rút khỏi Việt Nam thành điều sắp xảy ra. Tại Paris, Bảo Đại cảm thấy rằng ông đang hết những lựa chọn. Khi vị thế của người Pháp ở Điện Biên Phủ trở nên bấp bênh, cựu hoàng chuyển lời đến Ngô Đình Diệm qua người em út của ông là Ngô Đình Luyện. Điện Biên Phủ rơi vào tay Việt Minh ngày 7 tháng 5, 1954; vài ngày sau đó, Ngô Đình Diệm đến Paris để gặp Bảo Đại lần nữa. Theo những gì được biết sau này, Ngô Đình Diệm rất e dè; ban đầu, ông làm như không hề quan tâm đến chức vụ thủ tướng. Bảo Đại buộc phải để nghị Ngô Đình Diệm đến lần thứ hai, khẩn nài Diệm rằng “sự bảo vệ cơ đồ Việt Nam tuỳ thuộc vào việc này”. [9] Những sự kiện xảy ra ở Sài Gòn và Pháp trong suốt thời gian 1953-1954, và vai trò liên quan của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu là những mấu xích quan trọng giúp chúng ta hiểu con đường đến quyền lực của Ngô Đình Diệm và việc người Mỹ được cho là đã tham gia vào việc đảm bảo cho Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Từ lâu nay, mọi người quả quyết rằng những quan chức Hoa Kỳ đã bí mật áp lực Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm. [10] Tuy nhiên, sử gia David L. Anderson chỉ ra rằng, vào đầu năm 1954, những quan chức cấp cao của chính quyền Eisenhower chỉ “biết mơ hồ” về Ngô Đình Diệm, và những tài liệu chính thức của Hoa Kỳ không cung cấp bằng chứng những cáo buộc rằng Hoa Kỳ tổ chức chiến dịch ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, Anderson lập luận rằng quyết định của Bảo Đại được hình thành chủ yếu bởi niềm tin của ông rằng Quốc gia Việt Nam cần có sự ủng hộ của Hoa Kỳ để tiếp tục tồn tại, và Bảo Ðại cho rằng Ngô Đình Diệm là một lãnh đạo có khả năng nhất để bảo đảm được sự ủng hộ này. [11] Những khẳng định của Anderson ban đầu có vẻ chỉ có tầm quan trọng tương đối nhỏ, nhưng nó trở nên lớn dần trong những tranh luận sau đó về nguồn gốc và tiến triển của việc can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong thập niên 1950. Những bằng chứng ở đây cho thấy rằng giải thích của Anderson là đúng nhưng không trọn vẹn. Ngoài những lý do của tình hình thế giới, quyết định của Bảo Đại chủ yếu được hình thành bởi những tiến triển chính trị tại Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1954, những sự kiện xảy ra đã hợp thức hoá quyết định của Ngô Đình Diệm trong việc giành quyền độc lập “đúng nghĩa” từ người Pháp. Ngay cả trước khi người Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, lập trường của Ngô Đình Diệm về vấn đề độc lập hiển nhiên được ưa chuộng hơn khi so sánh với Bảo Đại. Hơn nữa, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông cho thấy một cách thuyết phục rằng Ngô Đình Diệm nắm giữ một tâm điểm chính trị tại Việt Nam. Như Bảo Đại sau này viết trong hồi ký của mình, sự kính mến của những người quốc gia dành cho anh em họ là phần quan trọng trong bàn tính chính trị của ông: “Từ những gì tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi vì quá khứ [của ông Diệm] và bởi vì sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người quốc gia thế lực nhất, những người đã hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng, cũng vì tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông là người ta có thể trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.” [12] Đến giờ này, các sử gia vẫn chưa tìm ra được một tài liệu bằng chứng nào cho việc Hoa Kỳ đã bí mật đưa Ngô Đình Diệm vào chức vụ thủ tướng vào mùa xuân 1954, nhưng cho dù có một âm mưu như vậy đã được ấp ủ và thi hành, nó cũng không ảnh hưởng nhiều đến quyết định của Bảo Đại. Vào tháng 5, 1954, Bảo Đại đã bị các sự kiện áp đảo và bị Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vượt mặt về chiến thuật. Ông hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc giao cho Ngô Đình Diệm chức thủ tướng với những điều kiện mà Ngô Đình Diệm đã đòi hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có “toàn quyền” trong mọi khía cạnh của chính phủ, quân sự và kinh tế. Ngày 16 tháng 6, 1954 – đúng năm năm kể từ ngày công bố bản tuyên ngôn cho một hướng đi khác đến “cách mạng xã hội” – Ngô Đình Diệm chính thức đồng ý thành lập nội các, và vì vậy trở lại với chính trường lần đầu tiên kể từ năm 1933. Với Ngô Đình Diệm, người đã cam chịu nhiều thất vọng chính trị qua gần một thập kỷ, đây là thời điểm hoàn toàn chính đáng cho sự trở lại. Chắc chắn rằng, Ngô Đình Diệm quá kinh nghiệm với những thăng trầm của nền chính trị Đông Dương để có thể tin rằng chiến thắng của ông là trọn vẹn, hay được bảo đảm thành công về mặt lâu dài. Ngược lại, ông biết rằng việc ông được bổ nhiệm không đem lại cho ông gì hơn một cơ hội để nắm lấy những nhiệm vụ to lớn và đầy đe doạ mà chính phủ Quốc gia Việt Nam đang đối mặt. Dù sao, Ngô Đình Diệm giờ đây đã có những mở đầu chính trị mà ông quyết tìm kiếm từ lâu, và ông phấn khích với những gì đạt được. “Thật thế, giờ phút này là giờ phút quyết định”, ông đã tuyên bố như vậy ngay sau khi quyết định bổ nhiệm được thông báo. [13] Như những sự kiện cho thấy, những quyết định trong hai năm 1954-1955 quả thật đã có những hệ quả sâu sắc cho Việt Nam và cho tất cả những cường quốc muốn gây ảnh hưởng ở đất nước này. Do bởi tính kiên trì, nhẫn nại, lập kế hoạch, tranh thủ cơ hội và dự phần không nhỏ của may mắn, cuối cùng Diệm giành được cơ hội để định hướng cho đa số những quyết định đó. Đó là vai trò của cả một cuộc đời, và ông đã đặt cược đến cùng. Kết luận Khi Ngô Đình Diệm về Sài Gòn vào ngày 25 tháng 6, 1954 với cương vị Thủ tướng [được chỉ định] của Quốc gia Việt Nam, nhiều người ở Việt Nam và khắp nơi nghĩ rằng nhiệm kỳ của ông sẽ sớm kết thúc. Quốc gia mà ông đang nắm quyền vẫn còn hoạt động chủ yếu theo mệnh lệnh của những quan chức thuộc địa Pháp, những người có thái độ từ cam chịu chấp nhận đến thù địch trước việc ông Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Trong khi đó, những quan chức Hoa Kỳ lại phân chia rõ rệt trong việc nên hay không nên ủng hộ ông. Nếu Ngô Đình Diệm không thể dựa vào ủng hộ của bên ngoài để giữ vững chức vụ, ông cũng không thể trông mong gìn giữ vai trò lãnh đạo đơn giản bằng việc lôi kéo các lực bẩy của quyền lực quốc gia. Quân đội Quốc gia Việt Nam được chỉ huy bởi những tướng lãnh thân Pháp, là những người rất nghi ngờ Ngô Đình Diệm. Uy quyền của Quốc gia Việt Nam đa số chỉ giới hạn ở những thành thị lớn của Việt Nam, và vùng nông thôn là những mảng độc lập không chính thức của các thủ lĩnh. Ngay cả ở Sài Gòn, quyền lực của Ngô Đình Diệm cũng bị hạn chế vì lực lượng cảnh sát địa phương đều thuộc quyền kiểm soát của Bình Xuyên. Chỉ vài tuần sau khi nhận chức, phạm vi quyền lực của ông lại bị thu hẹp bởi tuyên bố rằng người Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được thoả thuận ở Geneva, chia đôi Việt Nam thành hai miền nam bắc trước cuộc tổng tuyển cử năm 1956 – một cuộc tuyển cử được nhiều người dự đoán là phe cộng sản sẽ giành phần thắng. Bất chấp những việc xảy ra, vị thế của Ngô Đình Diệm không vô vọng như mọi người thấy. 18 tháng tiếp theo đó, ông tập hợp lại quân đội, dẹp tan những bè phái kình địch, trục xuất Bảo Đại và tuyên bố sự thành lập một quốc gia miền Nam Việt Nam mới mà ông giữ chức Tổng thống. Một thảo luận đầy đủ về việc Ngô Đình Diệm đã làm thế nào để có thể bất chấp những dự tính (của các phe phái khác) và củng cố uy quyền của ông trong thời gian 1954-1955 nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này; dù vậy, những lập luận được đưa ra ở đây cho thấy những gì mọi người biết về ông và những cách để ông giữ vững được quyền lực của mình sau năm 1954 cần phải được xem xét lại. Có ba điểm đặc biệt rõ ràng. Đầu tiên, vào thời điểm tiến đến chức vụ thủ tướng, Ngô Đình Diệm không hề thiếu những đồng minh tại Việt Nam như mọi người lầm tưởng. Ngoài những người Công giáo ủng hộ ông, ông còn có những ủng hộ từ những nhóm và những lãnh đạo không Công giáo quan trọng khác, phần lớn nhờ vào những cố gắng của các anh em của ông trong giai đoạn ông sống lưu vong. Những hoạt động của Ngô Đình Nhu trong suốt thời gian đầu những năm 1950 (như việc thành lập đảng Cần Lao và việc thu nhận những công đoàn lao động của Trần Quốc Bửu) đặc biệt quan trọng, bởi vì chúng đem đến những phương tiện để Ngô Đình Diệm có thể vận động sự ủng hộ trong suốt những tháng đầu tiên đầy xáo trộn sau khi ông lên nắm quyền. Thứ hai, trong năm 1954, Ngô Đình Diệm không hề chú ý đến Hoa Kỳ hay có khuynh hướng đi theo những lời khuyên của người Mỹ. Không có bằng cớ nào chứng tỏ rằng Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm nhờ một chiến dịch gây áp lực (với Bảo Ðại) do những quan chức Hoa Kỳ khởi xướng. Thay vào đó, ông nắm được chức thủ tướng là nhờ vào chuỗi tập hợp những vận may và việc ông cẩn trọng kết hợp tất cả những hoạt động của ông với hoạt động của những người ủng hộ ông ở Đông Dương. Vì Ngô Đình Diệm không lệ thuộc vào sự ủng hộ của người Mỹ hay theo những chỉ định của người Mỹ trước tháng 6, 1954, không có lý do gì để cho rằng ông lập tức dựa vào các quan chức Hoa Kỳ sau ngày đó. Lên nắm quyền nhờ vào những cố gắng cá nhân của ông và của các anh em ông, ông Ngô Đình Diệm không có khuynh hướng theo Hoa Kỳ về chính sách và chiến lược chính trị. Ngược lại, trở lại Sài Gòn với quyết tâm hơn bao giờ để đi theo quyết định của mình và để tiến hành những dự định nhằm củng cố và mở rộng quyền lực, chúng ta cần lưu ý đến xu hướng chỉ dùng những quyết định của riêng mình của Ngô Đình Diệm khi phân tích những sự kiện xảy ra sau năm 1954, và đặc biệt khi đánh giá quan hệ của ông với các quan chức Hoa Kỳ. Cuối cùng, những lời nói và việc làm của Ngô Đình Diệm trong suốt giai đoạn 1945-1954 cho thấy sự bất hợp lý khi cho rằng ông là nhân vật “truyền thống”, người không muốn hiện đại hoá và phát triển. Mặc dù ông có thiên hướng vận động ngầm, Ngô Đình Diệm nhận biết rằng thành công hay thất bại cuối cùng của thể chế mới của ông cần xoay quanh nhiều việc khác hơn là chỉ đặt những kế hoạch và phi vụ bí mật. Trong bài diễn văn đầu tiên của mình sau khi trở về Sài Gòn, Ngô Đình Diệm tái khẳng định rằng mục tiêu của ông là đề xướng thay đổi cách mạng ở Việt Nam. “Trước một thời cơ khẩn cấp, tôi sẽ hành động quyết-liệt. Tôi sẽ cương-quyết vạch ra một đường lối cứu-quốc. Một cuộc cách-mệnh toàn diện sẽ được thực hiện trong hết mọi ngành tổ-chức và sinh-hoạt quốc-gia.” [14] Trong những tuyên bố trước đó về những điều này, viễn kiến về cuộc cách mạng mà Ngô Đình Diệm đưa ra vào tháng 6 năm 1954 vẫn còn đang ở mức ban đầu và mơ hồ. Nhưng dù sao, nó vẫn là một viễn kiến, và ông đã đặt cược thành công của chính thể mới vào khả năng thi hành viễn kiến này của mình. Với sự giúp đỡ của Ngô Đình Nhu, hướng đi của Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên chi tiết và tỉ mỉ hơn vào thời gian sau đó. Đến năm 1957, chính thể đã công khai lấy chủ nghĩa Nhân vị làm tư tưởng chính thức và tuyên bố cuộc “Cách mạng Nhân vị” là mục tiêu tối thượng của chính sách quốc gia. Như cách chọn sử dụng những từ ngữ này cho thấy, quan điểm của Ngô Đình Nhu về nhân vị là nhận thức cơ bản cho tư tưởng mới này. Trong suốt thời gian đó cho đến năm 1963, anh em họ Ngô tiếp tục hoàn thiện tư tưởng mới này, và chúng có mặt cả trong những chính sách cột trụ của việc xây dựng quốc gia ở những lãnh vực như phát triển kinh tế, cải cách điền địa và an ninh quốc gia. Kết cuộc thì cuộc Cách mạng Nhân vị đã không được thực hiện. Như những người chống Ngô Đình Diệm (và thậm chí cả nhiều người ngưỡng mộ ông) cho biết, hệ tư tưởng của Ngô Đình Diệm về chủ nghĩa Nhân vị không chỉ phức tạp mà còn hết sức trừu tượng và thường quá dày đặc để có thể lĩnh hội được. Mặc dù nó cung cấp tài liệu và hình thành chính sách của chính thể, nó mang quá ít ích lợi khi dùng làm phương tiện để tạo ra sự ủng hộ cho những chính sách này. Tuy nhiên, khi nói rằng hướng đi của Ngô Đình Diệm không thực hiện được, không có nghĩa nó không quan trọng, hay cần gạt bỏ nó như đơn thuần chỉ là ảo tưởng vô vọng của một bạo chúa lạc hậu. Theo nhiều người Việt Nam và khá nhiều những người Mỹ phát hiện thấy, Ngô Đình Diệm có tài ghê gớm trong việc truyền cảm hứng cho những người gặp gỡ và lắng nghe ông; việc ông cũng có khi tẻ nhạt, độc đoán và thậm chí tàn bạo cũng không làm lu mờ đi khả năng này. Như nhiều nhà lãnh đạo khác, Ngô Đình Diệm kết hợp những tham vọng quyền lực và viễn kiến của mình bằng nhiều cách phức tạp và đôi khi mâu thuẫn nhau. Tháo gỡ những phức tạp về chính trị và tư tưởng của ông, vì vậy, là một bước quan trọng để đi đến việc xem xét lại và hiểu rõ hơn vai trò của ông trong cuộc đấu tranh lâu dài và rối rắm, để hình thành nên số phận Việt Nam hiện đại. Bản tiếng Việt: © 2007 talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1]Xem Hammer, Struggle for Indochina, pp. 281–6, 300–1. [2]Về những chuẩn bị cho Đại hội tháng 9, xem Guillernot, “Revolution nationale”, 628-32. [3]Những tài liệu chi tiết về Đại hội Đoàn kết được nói đến trong Telegram, Kidder gởi Bộ ngoại giao, 22 tháng 9, 1953, USNA 2, 751G.00/9-2253. Về những tài liệu được xuất bản, xem Tiếng Dội, 8 tháng 9, 1953; Le Monde, 8 tháng 9, 1953; và Donald Lancaster, The emancipation of French Indochina (Oxford: Oxford University Press, 1961), 275-7. Bảo Đại không hề nói đến Hội nghị tháng 9 trong hồi ký của ông, nhưng ông thừa nhận khước từ lời đề nghị tổ chức Đại hội của Ngô Đình Nhu và một số người khác vào mùa hè năm 1953; Bảo Đại, Dragon d’Annam, 312-13. Về những thông báo của việc thành lập Phong trào Công đoàn và Hoà Bình Quốc gia, xem Phong Thuỷ, “Ý nghĩa và giá trị cuộc Đại hội Đoàn kết ngày 6-9-53”, XH, 15 tháng 9, 1953, trang 2. [4]Chi tiết về những diễn tiến của Đại hội Tháng 10, xem Vietnam Presse, 31-36 (12-17 tháng 10, 1953) và Le Monde, 17-20 tháng 10, 1953. [5]Xem thư của Ngô Đình Diệm trên tờ Le Monde, 25-6 tháng 10, 1953. Những cố gắng của Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông để tạo một vị thế chính trị khác biệt trước Hội nghị tháng 10 được nói chi tiết trong “Press conference held by protagonist of ‘National Congress’ of early Semtempter 1953” của Sturm gởi Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, 16 tháng 10, 1953, USNA 2, 751G.00/10-1653 [6]Xem Telegram, Dillion gởi Dulles, 14 tháng 10, 1953, USNA2, 751G.00/10-1453; cuộc gặp diễn ra ngày 12 tháng 10. Đầu tháng 9, một nguồn tin của Hoa Kỳ mô tả rằng Diệm tự tin rằng ông và Bảo Đại đang sắp hoà giải. (Smith to Saigon and Paris, 14 tháng 9, 1953, USNA2, 751G.00/9-1453). [7]Hoàn cảnh của cuộc gặp lần thứ hai được tường thuật lại trong Vietnam Presse, 45 (27 tháng 10, 1953); xem thêm Le Monde, 28 tháng 10, 1953. Việc Bảo Đại chất vấn Diệm về tính sẵn sàng phục vụ được một tuỳ tùng của cựu hoàng tường thuật lại cho các quan chức Hoa Kỳ. (Telegram, Dillion to Dulles, 28 tháng 10, 1953, USNA2, 751G.00/10-2853) [8]Xem Guillernot, “Revolution nationale”, 627-34. [9]Xem Bảo Đại, Dragon d’Annam, trang 328. Bảo Đại hàm ý rằng những trao đổi với Ngô Đình Diệm xảy ra vào tháng 6, 1954; tuy nhiên, những nguồn tin đương thời cho thấy rằng Ngô Đình Diệm đã chấp thuận đề nghị của Bảo Đại trong cuộc họp trước đó vào giữa tháng 5 (Telegram, Dillion gời đến Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, 24 tháng 5, 1954, FRUS 1952-1954, vol. 13, trang 1608). [10]Những trình bày của thuyết này được tìm thấy trong Chaffard, Indochine, 19-20, 26-9 và Robert Scheer và Warren Hinkle, “The VietNam Lobby”, Ramparts, tháng 7, 1965, 16-24. Trong hồi ký của mình về Việt Nam, quan chức Hoa Kỳ Chester Cooper viết rằng một số người Mỹ kết luận rằng CIA đã ủng hộ ông Diệm từ mùa xuân 1953; Chester Cooper, The lost crusade: America in Vietnam (New York: Dodd, Mead, 1970), trang 120. Những cáo buộc về ảnh hưởng Hoa Kỳ cũng xuất hiện trong Townsend Hoopes, The devil and John FosterDulles (Boston: Little, Brown, 1973), trang 251; Marilyn Young, The Vietnam wars, 1945–1990 (New York: HarperCollins, 1991), trang 44; Kahin, Intervention, trang 78; và Jacobs, ‘“Sink or swim”’, pp. 100–16. [11]Xem David Anderson, Trapped by success: The Eisenhower administration and Vietnam, 1953–1961 (New York: Columbia University Press, 1991), 41–64, và đặc biệt là 52–5. [12]Xem Bảo Đại, Dragon d’Annam, trang 329. [Nguyên bản bằng tiếng Pháp; người dịch dựa trên bản tiếng Anh – ND]. [13]Xem Ngô Đình Diệm, “Tuyên bố khi nhận lập Chánh phủ (Ba-Lê, 16-6-1954)”, trong Con đường chính nghĩa, tập 1. trang 13. [14]Xem Ngô Đình Diệm, “Hiệu triệu quốc dân khi về tới Saigon, ngày 25-6-1954”, như trên, trang 16. Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 11:09:20 GMT 9
Nguyễn Lữ sáng lập Hùng Kê quyền như thế nào? (I) 03/12/2009 Hung Ke Quyen - Năm 2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hùng Kê quyền tạo nên một tiếng vang lớn trước sự chứng kiến và tham dự của hơn 70 môn phái võ thuật trên khắp thế giới. Người có công lớn nhất trong việc giữ gìn, truyền bá môn võ truyền thống độc đáo này chính là lão võ sư Ngô Bông (Quảng Ngãi) - người được giới võ học công nhận là truyền nhân chính hiệu của bài quyền... Một thế đá của gà chọi. Ảnh: Vothuat.net Hùng Kê quyền (nói nôm na là võ gà), bài quyền với những chiêu thức được hình thành từ thế giới gà chọi. Tương truyền rằng người sáng lập nên Hùng Kê quyền chính là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, người em út trong nhóm Tây Sơn Tam Kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ)... Sư tổ Hùng Kê quyền Theo sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao: "Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, tính nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông theo học văn nhiều hơn võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên đề môn miên quyền... Nguyễn Lữ được thầy giáo Hiến (thầy Trương Văn Hiến, một bậc trượng phu văn võ song toàn, từ xứ Nghệ An lưu lạc vào đất An Thái, nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, Bình Định) chân truyền cho môn miên quyền... Đất nước có chiến tranh thì việc tu luyện võ học, nâng cao khả năng phòng vệ để bảo vệ biên cương luôn là nhu cầu bức thiết và được đề cao. Theo yêu cầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lúc bấy giờ, phải làm sao trong thời gian ngắn huấn luyện cho các nghĩa quân Tây Sơn tinh thông võ nghệ theo phương châm: Yếu có thể đánh mạnh/Thấp có thể đánh cao/Nhỏ có thể đánh lớn/Ít có thể đánh nhiều. Và yêu cầu bức thiết đó đã khiến Nguyễn Lữ không thể thờ ơ. Chuyện kể rằng, khi 3 anh em nhà Tây Sơn bí mật chiêu mộ anh hùng hào kiệt về tụ nghĩa, một lần nọ lúc xem 2 chú gà chọi nhau vào dịp Tết, trong đó có một con nhỏ hơn đối thủ nhưng biết vận dụng yếu thế "nhỏ con" của mình để triệt hạ đối phương. Bằng thiên tư võ thuật của mình, Nguyễn Lữ đã thị sát, nghiền ngẫm, nghiên cứu các thế đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cái thế chống đỡ của con gà nhỏ thường chui luồn, xỏ vỉa để rồi tạo ra các thế lặn hụp, tránh né đến phản công. Cuối cùng ông đã chắt lọc, sáng tạo ra bài quyền mang tên Hùng Kê quyền. Cùng thời gian này, người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ vang danh với môn Nghiêm thương, Tứ Môn kiếm, Tứ Môn côn - những môn võ sử dụng binh khí rất đặc thù. Còn nữ tướng Bùi Thị Xuân lại nổi tiếng với bộ Tuyết Hoa Song kiếm và Song Phượng kiếm... Oai phong võ gà Ngay sau khi ra đời, Hùng Kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu quả của nó. Sự lợi hại của Hùng Kê quyền đã được các anh hùng hào kiệt trong giới võ lâm đương thời nể phục. Tương truyền, một võ sư Thiếu Lâm muốn khảo chừng uy lực của Hùng Kê quyền đã tìm đến Tổ sư bài quyền này khích bác: Đến như hổ báo kia đã hùng chưa mà kê dám xưng hùng? Các thế võ của bài quyền Hùng Kê do lão võ sư Ngô Bông biểu diễn. Ảnh IE Khi ấy Nguyễn Nhạc vốn đang chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà có rất nhiều hào kiệt, không muốn mất hòa khí đang gây dựng nên bảo em (Nguyễn Lữ) cố ý tránh né, nhưng vị võ sư nọ vẫn một mực muốn so tài. Cực chẳng đã, cuối cùng Nguyễn Lữ đành nhận lời giao đấu. Vào trận, trường quyền của vị võ sư như giông bão liên hồi phủ xuống nhưng Nguyễn Lữ vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại nhanh nhẹn trước một con gà lớn hung hãn nhưng chậm chạp. Suốt 1 canh giờ, quyền của vị võ sư không đụng được vào áo của Nguyễn Lữ. Vào khoảnh khắc khi đối thủ lộ sơ hở, Nguyễn Lữ với một chiêu duy nhất, ông đã làm cho đối phương bị "nốc ao". Đến lúc đó, kẻ thách đấu mới hoàn toàn tâm phục, khẩu phục... Cuối tháng 9/2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống tổ chức tại Chungji (Hàn Quốc), danh trấn giang hồ của Hùng Kê quyền một lần nữa lại được khẳng định qua sự biểu diễn điêu luyện của lão võ sư Ngô Bông - lúc ấy đã 76 tuổi - trước sự tham dự và chứng kiến của hơn 70 môn phái võ thuật toàn cầu. Thu Hiền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 7:52:35 GMT 9
Những ngày cuối đời của vua Duy Tân Võ Quang Yến Kiếp tái sinh may có gặp không ? Kiếp này đành phụ với non sông ! Thượng Tân Thị Lễ truy điệu vua Duy Tân tại chùa Vincennes Hội trưởng Hội Người Yêu Huế (tác giả) đứng ra đọc điếu văn trước di hài cua Duy Tân Chùa Vincennes Năm 1987, trong dịp di hài Vua Duy Tân trên đường chở về nước, quá cảnh qua Pháp, một lễ truy điệu đã được tổ chức sáng hôm thứ bảy 28 tháng 3, lúc 10 giờ, tại Viện Phật giáo Quốc tế còn gọi Chùa Vincennes, cạnh hồ Daumesnil, quận 12, Paris. Hoàng thân Georges Vĩnh San, người con trai thứ hai của Vua Duy Tân, cậy tôi lấy danh nghĩa Hội trưởng Hội Người Yêu Huế đứng ra đọc điếu văn. Là người Việt Nam, ai mà không biết ông vua ái quốc nầy. Nhưng một bài điếu văn đứng đắn cần phải có những chi tiết về đời sống của ông. Hồi ấy tôi chỉ có trong tay hai tập bằng tiếng Pháp : Hồ sơ Vua Duy Tân của tác giả Hoàng Trọng Thược, chỉ giới hạn vào giai đoạn ở Huế, và Vua Duy Tân (1907-1916) hay Hoàng thân Vĩnh San (1900-1945) của tiến sï luật học E.P. Thébault, tạm thời qua bản đánh máy. May gần đây, Hoàng thân Claude Vinh San, tức Nguyễn Phúc Bửu Vang, người con trai thứ ba của Vua Duy Tân tức Hoàng thân Vĩnh San, sau nhiều năm nhẫn nại tìm kiếm đã tỉ mỉ sưu tầm được một số tài liệu dồi dào rải rác khắp nơi và thu thập lại trong một cuốn sách thư tịch : Duy Tân, Hoàng đế Việt Nam 1900-1945 lưu đày ở đảo La Réunion hay Số mệnh bi thảm của Hoàng thân Vĩnh San có thể làm căn bản cho mọi khảo cứu sâu xa sau nầy trong các tài liệu lịch sử quốc tế. Vai trò chính trị của Vua Duy Tân - Hoàng thân Vïnh San tuy đã được bàn cải nhiều trong sách báo trong và ngoài nước, còn cần được tìm kiếm để hiểu biết sâu rộng hơn. Có thể chia làm ba giai đoạn đời sống vua Duy Tân – Hoàng thân Vĩnh San : thứ nhất là giai đoạn làm vua và chống Pháp ở Huế, đoạn nầy đã được lịch sử ghi nhận và ghi chép trong sử sách ; thứ nhì là giai đoạn lưu đày và kháng chiến ở đảo La Réunion, tôi đã có dịp trình bày trong một bài báo trước đây ; thứ ba là giai đoạn quân đội và chính trị vào buổi cuối đời, đây là giới hạn của bài nầy. Tháng 11 năm 1942, vài ngày sau khi cập bến ở Saint-Denis, chiếc khu trục hạm Léopard rời đảo La Réunion, đem theo một thủy thủ chuyên về vô tuyến điện : Hoàng thân Vïnh San. Sau 26 năm biệt xứ, ông không còn là một ông vua bị truất ngôi nữa mà là một công dân Pháp trên đường đi làm nghĩa vụ. Trong những năm lưu đày, mặc dầu chính quyền thuộc địa đã phế vị ông, ông luôn hướng lòng mình về nước Pháp vì những khái niệm độc lập, tự do, bác ái đã làm phấn khởi một người duy tâm như ông. Nước Pháp đã nuôi dưỡng không những trí thông minh của ông mà còn linh hồn, tâm tình ông. Ông đã có giải thích : "Nước Pháp đã giúp tôi đạt được tinh thần Danh dự và lòng Trung thành với một lý tưởng ". Không nản chí vì bị từ chối khi xin vào quốc tịch Pháp hay khi xin nhập ngũ, ông vô cùng phấn khởi khi bắt được lời kêu gọi của Tướng De Gaulle ngày 18 tháng 6 năm 1940. Trở nên linh hồn nhóm kháng chiến ở đảo La Réunion, ông hoàn toàn thỏa mãn lúc được nhận làm thủy thủ trên chiếc khu trục hạm Léopard. Nhưng sự việc không giản tiện. Duyên nợ của ông với đảo La Réunion chưa dứt. Ba tuần sau, nhân chiếc Léopard trở lại vài giờ ở đảo, người ta thả ông xuống đất. Thật ông vì sức khoẻ kém, không quen sóng biển, không chịu đựng nổi đời sống trên tàu, hay người ta sợ nhân ghé qua một hải cảng nào, ông bỏ trốn đi tìm tự do ? Không vào được hải quân, ông ngoảnh mặt về lục quân. Bắt đầu từ đây, trái với lúc trước, ông năng đi lại với Phủ Thống đốc. May cho ông, ông Capagorry, Thống đốc mới, rất hiểu ông và hai người trở nên bạn thân. Ông Capagorry giới thiệu ông với mọi quan khách ghé qua đảo, trong số ấy có Tướng Lelong cũng trở nên bạn thân. Tin cậy vào tình cảm thân Pháp của Hoàng thân, đánh giá cao tính cương trực của ông, lại được Tướng De Gaulle tin cậy, ông Capagorry ủng hộ hoàn toàn ước mong của ông và không đầy một năm sau, ngày 3 tháng 1 năm 1944, ông vào đồn Lambert với quân phục binh nhì để rồi thăng chức hạ sĩ quan một tháng rưỡi sau. Mặc dầu điều kiện nhập ngũ là ông không được trực thuộc một đơn vị nào ngoài đảo La Réunion, thời cơ đã giúp ông thực hiện mộng lớn. Một tiểu đoàn khoảng 1500 quân gốc xứ An Nam, trên đường giải ngũ về nước, hiện bị quân Anh giữ lại ở Moramanga bên nước Madagascar, khích động nổi dậy, không chịu phục vụ ai nữa, dù Anh, dù Pháp, theo Pétain hay theo De Gaulle. Tướng Lelong, Tư lệnh quân đội ở Ấn Độ Dương, nghĩ ngay đến Hoàng thân Vĩnh San. Khi Hoàng thân bước vào đồn ở Madagascar, mọi người bật cười : mảnh khảnh trong một bộ quân phục quá lớn, túi dết trên vai, với cái mũ képi tụt xuống quá mắt, ông lết bết trong đôi dày quá rộng, thật quả là anh lính quê. Tướng Lelong chỉ có thể phong ông đến chức chuẩn úy nhưng từ đây ông ăn mặc được chỉnh tề hơn. Còn bên phía quân binh thì lâu ngày chẳng ai nhận ra Cựu hoàng Duy Tân. Tuy vậy với tiếng tăm ông vua ái quốc, tự lấy mình làm gương, mặc dầu hết còn nói thạo tiếng Việt, ông thành công thuyết phục được quân binh lập lại trật tự trong hàng ngũ. Có phải từ đây mà bắt đầu nổi lên ý kiến đưa ông về ngôi cũ, thay thế lá bài Bảo Đại đang bị lung lay ? Không khi nào thoái vị, trong óc nhiều người, ông vẫn luôn còn là Hoàng đế Việt Nam... Ngày 29 tháng 8 năm 1944, ông đệ trình Phủ Thống đốc một bản tuyên ngôn phản kháng Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương, tỏ ra cử chỉ của một vị lãnh đạo : " Tôi, Hoàng thân Vïnh San, hậu duệ của Hoàng đế Gia Long, người khai lập Vương quốc An Nam, tuyên bố Đông Dương, đặc biệt dân tộc An Nam, là liên kết với nước Pháp qua khế ước mà danh dự và quyền lợi buộc phải giữ toàn vẹn... Tất cả những ai tha thiết với quyền lợi ở xứ An Nam không thể chấp nhận ý nghĩ từ bỏ cuộc bảo hộ của Pháp để mưu cầu một cuộc bảo hộ của Nhật chỉ có thể đem lại nô lệ và thống trị trong lúc Pháp dẫn đường đến giải phóng... " Khi chuyển bản tuyên ngôn nầy về Paris, ông Thống đốc Capagorry phê thêm vào Hoàng thân Vïnh San tình nguyện phục vụ ở mặt trận để tôn trọng danh dự của tổ quốc, một ông Hoàng An Nam luôn giữ lời hứa và luôn tin tưởng ở nước Pháp và ông hoàn toàn ủng hộ lời thỉnh cầu của Hoàng thân. Thông điệp không được trả lời. Trong những lá thư gởi cho bạn bè, Hoàng thân tỏ ra nóng lòng nhưng luôn theo dõi chiến trận và tin tưởng một ngày mai ông cũng sẽ được ra trận. Ông có lý luôn lạc quan vì ngày 5 tháng 5 năm 1945, ông đuợc gọi nhập ngũ, ở Pháp lục địa như ông hằng mong muốn. Có điều ngày 8, Đức quốc xã đầu hàng, hết còn mặt trận, tuy vậy ông cũng sung sướng được phục vụ nước Pháp trong quân đội. Ngày 10 tháng 6, ông gởi một bản hiệu triệu về dân tộc của ông qua làn sóng đài Tananarive : " Khi đồng bào thực hiện được một quốc gia trong tâm hồn, khi đồng bào đã tự tay mình xây dựng nên một Tổ quốc, lúc ấy đồng bào mới đi đến độc lập, một nền độc lập dành được mà không cần nhờ cận ai, do dân tộc ý thức được tầm quan trọng về nhiệm vụ mình chứ không phải đạt được từ những phân tranh của các cường quốc... " Đến Paris tháng 6, ông được bổ dụng ngày 20 tháng 7 vào Bộ Tham mưu D.I.C. số 9 ở bên Đức, theo nguyên tắc sẽ lên đường đi Viễn Đông để khôi phục lại tình thế nhằm vào lúc Nhật chắc sẽ phải đầu hàng. Ở Đức, ông phải đi thực tập khắp nơi, tập trận lục quân, chiến xa, liên thanh cũng như học tập thăm dò, quan sát từ máy bay,... để rồi bị bỏ quên nếu không thỉnh thoảng phải diễn thuyết trình bày tình hình Đông Dương cho những sĩ quan cao cấp sắp lên đường qua bên ấy. Qua thư gởi cho bạn bè, đặc biệt cho ông bạn rất thân là Etienne Boulé, giáo sư triết học, lúc đó điều khiển Phái đoàn Thông tin Đông Dương ở Radio-Tananarive, ai cũng thấy ông rất chán buồn và nản lòng cho đến đầu tháng 10 thì được triệu về Paris... Trong thời gian nhập ngũ của ông, nhiều biến cố đã xảy ra. Sau ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ hòa ước bảo hộ của Pháp, mời cụ Trần Trọng Kim thành lập một chính phủ thân Nhật rồi qua ngày 25 tháng 8 thoái vị và nhường quyền cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh. Khi thấy vua Bảo Đại trở thành Hoàng thân Vĩnh Thụy nhận chức Cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh, các nhà chức trách Pháp không tin cậy ở vị Cựu hoàng nầy nữa. Ngày 16 tháng 8, Tướng De Gaulle bổ nhiệm Đô đốc Thierry d’Argenlieu Cao ủy đồng thời chuẩn bị một đạo quân gồm có nhiều binh đoàn từ Pháp, Đức, Madagascar để tái chiếm Đông Dương dưới sự điều khiển của Tướng Leclerc. Với một sư đoàn thiết giáp, Tướng nầy đổ bộ Sài Gòn ngày 5 tháng 10 thay thế quân đội Anh đã được Đồng Minh ủy nhiệm tước khí giới Nhật ở miền Nam Đông Dương. Nhiều câu hỏi được đặt ra : Ai sẽ là đối tượng bên phía Việt Nam ? Nên thành lập một nuớc cộng hòa hay vẫn nên giữ chính thể quân chủ ? Cái tên Hoàng thân Vĩnh San luôn được nhắc đến. Ngay Đô đốc Decoux, Toàn quyền Đông Dương, cũng đã bày tỏ ý kiến : " Sự phục chế Hoàng đế An Nam sẽ trả lại cho dân tộc ông một yếu tố truyền thống trật tự và hoà bình. Đây không phải là một thí nghiệm mà là một sự tất yếu ". Người ủng hộ mạnh dạn nhất giải pháp Vĩnh San là ông bạn Boulé. Từ Madagascar, ngày 11 tháng 6, ông gởi về bộ Thuộc địa ở Paris một bản tường trình rất dài trong ấy ông kê tất cả những điểm tích cực : Hoàng thân là một người tin chắc dân chủ, thật tình bạn của nước Pháp, hoàn toàn tán thành Tướng De Gaulle, uy tín quốc vương hợp pháp vẫn còn nguyên vẹn, lại đã được giáo dục để nắm giữ những chức vụ cao cấp. Nhưng bộ Thuộc địa trả lời ngày 4 tháng 7 là tình thế Đông Dương không cho phép khai thác giải pháp Vĩnh San và, hơn nữa, yêu cầu ông Boulé chấm dứt mọi hoạt động trong chiều hướng nầy. Trong suốt mùa hè 1945, Hoàng thân Vïnh San theo dõi kỹ những sự kiện thời sự nầy. Trước yêu cầu khẩn khoản của bạn bè ở La Réunion và Madagascar, vào khoảng tháng 5, ông cho ra một bản gọi là Di chúc chính trị trong ấy ông tuyên bố những nguyên tắc lập chính phủ gồm có ba điểm chính : thống nhất ba kỳ, độc lập hoàn toàn và liên minh chặt chẽ với Pháp. Ông yêu cầu Pháp phải tỏ ra có thiện chí muốn thực sự giúp nước ông phát triển, cử chỉ trước tiên là xóa bỏ biên giới ba kỳ. Một nước phải thống nhất mới có được một lý tưởng, một linh hồn. Ông tin dân tộc ông ngả về dân chủ, tuy cũng nhận xét dân chúng chưa được huấn luyện để tự cai trị, một nước cộng hoà chỉ có thể thực hiện sau một thời gian giáo dưỡng cấp tốc. "Cần phäi trang bị cho họ một lý tưởng quốc gia lịch sử, trả lại cho họ lòng tự hào sẵn có từ thuở trước, cung cấp cho họ quan điểm trọng đại của sự thống nhất, một chương trình canh tân chính trị và xã hội có xu hướng xã hội chủ nghĩa ôn hòa liên hợp với truyền thống. Riêng phần tôi, tình thương sâu đậm nước tôi cấm tôi để thả lỏng cho bất cứ một phân tranh nội bộ nào. Tôi ước mong tất cả những người An Nam nhận thức lại mình có một Tổ quốc và ý thức ấy thúc đẩy đồng bào xây dựng một quốc gia xứng đáng với Tổ quốc ấy. Tôi tin tưởng đã làm đủ phận sự người An Nam của tôi khi nào tôi đã cống hiến cho những dân quê Lạng Sơn, Huế, Cà Mâu một tinh thần huynh đệ. Bất chấp sự đoàn kết ấy được thực hiện trong một chính thể cộng sản, xã hội, bảo hoàng, quân chủ, cốt yếu là tránh bị cắt xẻ. Người Pháp phải nhất quyết biết cho là bất cứ trong trường hợp nào tôi cũng hành động cho lợi ích dân tộc tôi cũng như cho lợi ích dân tộc Pháp". Theo nhà sử học Philippe Devillers, bản di chúc nầy đặc biệt được trung úy Bousquet mang sang Đông Dương, in và phát, được một số người ủng hộ, đứng hàng đầu có bác sï Nguyễn Văn Tân ở Sài Gòn, một sĩ quan gốc Việt là thiếu tá Paul Lang, người sáng lập Đảng Tự trị. Nhờ vậy, Hoàng thân Vĩnh San có lần đùa khoe : "Bộ tham mưu của tôi đã có sẵn tại chổ". Vẫn biết vào thời buổi ấy, bộ Thuộc địa không muốn nghe nói đến danh từ độc lập, nhưng những người theo dõi sát thời sự, kể cả các sĩ quan như Tướng Leclerc, đều hiểu thời đại thuộc địa đã qua và thống trị cũng như quản lý trực tiếp phäi nhường chỗ cho tự trị và hợp tác. Đằng khác, quan niệm chính trị mới là phải bảo đảm tiến triển của quần chúng bản địa với sự hợp tác và phương tiện của những người lãnh đạo cổ truyền. Theo họ, Hoàng thân Vĩnh San thuộc loại những người lãnh đạo nầy vì là người nối nghiệp trực tiếp và hợp pháp một dòng dõi nhiều quốc vương đã dựng lên nước An Nam từ đó thừa kế những truyền thống của cả một triều đại. Tư tưởng của Hoàng thân Vĩnh San thấy ra vượt quá bản tuyên bố của Tướng De Gaulle ngày 24 tháng 3 cùng năm 1945, theo phân tích của giáo sư Paul Mus, báo trước những nét chính của một cuộc xung đột. Trong bản nầy, người dân Đông Dương sẽ được đối xử như người Pháp, không chút kỳ thị, dễ dàng đạt đến mọi chức vụ, sẽ được hưởng thụ tất cả những quyền tự do dân chủ và nhất là một chế độ tự trị tuyệt đối nhưng trong một Liên bang năm nước với một chính phủ do một vị Toàn quyền chủ trì, nghĩa là thuộc Pháp. Với một cơ quan hành chánh trực tiếp, bộ Thuộc địa không rút ra được một bài học nào từ những diễn biến lịch sử, cũng như từ sự thao diễn các tư tưởng những năm sau nầy và muốn trở lại với chủ quyền của Pháp như xưa. Khi Hoàng thân trở về Paris, may cho ông, ông không phải làm việc với bộ Thuộc địa mà hồ sơ của ông được ông Thống đốc De Langlade ở Văn phòng Tướng De Gaulle theo dõi. Thiếu tá De Langlade trước đây đã tổ chức cục Action (Hành động) nhắm mục đích phá hoại và quấy rối quân đội Nhật ở Đông Dương, nhảy dù xuống bắt liên lạc với Tướng Mordant thân De Gaulle và sau đó làm người liên lạc giữa Đô đốc Decoux và Chính phủ Alger. Ông đã tìm hiểu Hoàng thân qua giáo sư Pierre Eugène Thébault, trong rất lâu là Đổng lý Văn phòng ông Thống đốc Capagorry và là bạn thân của Hoàng thân. Ông Thébault dặn kỹ : " Coi chừng, nếu các ông đặt lại Vĩnh San lên ngôi, các ông sẽ có một đối tượng trung thành, đáng tin cậy nhưng ông ta sẽ không phải là một ông vua vô tích sự : ông ta muốn tự mình cầm quyền, tự mình quyết định. Ông ta có cái chất thủ trưởng và muốn trở nên thủ trưởng... " Thành quả đầu tiên là Hoàng thân nhận được sắc lệnh, từ tay Tướng De Gaulle ký ngày 29 tháng 10 năm 1945, lần lượt phong Vĩnh San những chức Thiếu úy ngày 5 tháng 12 năm 1942, Trung úy ngày 5 tháng 12 năm 1943, Đại úy ngày 5 tháng 12 năm 1944 và Tiểu đoàn trưởng ngày 23 tháng 9 năm 1945. Ai cũng có thể tưởng tượng nỗi hân hoan của Hoàng thân, hãnh diện được ban thưởng sau những ngày đau khổ, đợi chờ. Và ông cũng không quên ơn những bạn bè đã luôn giúp ông trong suốt giai đoạn khó khăn. Ngày 14 tháng 12, ông được Tướng De Gaulle tiếp. Vị anh hùng giải phóng nước Pháp đã viết trong hồi ức : " Hoàng thân là một nhân vật đầy nghị lực. Ba mươi năm lưu đày không xóa bỏ ký ức một vị quân vương trong tâm hồn dân tộc An Nam". Theo ông Thébault kể lại, hai người rất mau thỏa thuận với nhau trên những quan điểm cốt yếu mặc dầu Tướng De Gaulle tuy tán thành sự thống nhất ba kỳ, chưa chịu dứt khoát chấp nhận. Bên phía Hoàng thân thì nhất quyết không chịu nhượng bộ về điểm nầy. Ông đã thấy trở về lại vai ngôi cũ của mình. Ông mơ thấy phấp phới ở Huế, Hà Nội, Sài Gòn song song lá cờ tam tài của Pháp và lá cờ Việt Nam với ba sọc tượng trưng cho ba kỳ. Ông tin tưởng ở một cuộc liên minh giữa hai nước, cả quân sự lẫn ngoại giao dù chỉ có tính cách tạm thời. Quân đội, hải quân, không quân sẽ tốn kém hằng tỷ bạc mà một nước nghèo không thể đòi hỏi thuế má ở dân chúng, trái lại cần xây dựng trường ốc, bệnh viện, cầu đường, đê đập. Ông tin cậy ở những nhà tư bản Pháp và không hề nghĩ cuộc hợp tác nầy có thể gây tổn hại cho nền độc lập đất nước. Dù sao, theo ông sẽ có những hiệp định ký kết giữa hai bên. Riêng về bản thân ông, sẽ không có lễ đăng quang, thụ phong, lên ngôi vì ông luôn còn là quốc vương... Trong hai buổi gặp gỡ Việt kiều trong khuôn khổ Hội Ái hữu An Nam ở Paris, có mặt các vị Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Võ Văn Thái , Trần Hữu Chương,... ông cố gắng trình bày quan điểm hợp tác với Pháp của mình. Trong buổi thứ nhì, với một bộ quân phục sang trọng lối dạo phố, vai mang bốn lon thiếu tá, ông báo tin đã "được người Pháp giúp đỡ thành lập một đạo quân toàn người Việt Nam, với mục đích sẽ đi tiền phong trong một cuộc hành quân tái chiếm Đông Pháp. Hiện nay đạo quân nầy do ông cầm đầu và tuyển mộ được một tiểu đoàn. Tiểu đoàn nầy được đem sang đóng ở Constanz, bên Đức". Linh mục Cao Văn Luận, người đã được ông cậy tổ chức hai cuộc găp gỡ đó, sợ Hoàng thân đã bị mắc mưu người Pháp muốn dùng ông như một lá bài. Hoàng thân đề xướng ra phong trào Cờ Tự trị, dự định tổ chức các Việt kiều thiện cảm với ông thành một đảng. Linh mục thấy quá rõ là nỗ lực của Hoàng thân sẽ thất bại : những thành phần ưu tú cho ông quá dễ dãi với Pháp, bắt đầu xa lánh ông. Huyền thoại ngày xưa của ông chỉ lôi cuốn được một số nhỏ người dễ tin, phần lớn là lớp lính thợ, lính khổ đỏ hay Việt kiều gốc lính thợ ở lại lập nghiệp trên đất Pháp. Nghe nói trong các trại, những đảng viên Cờ Tự trị có thể bị thủ tiêu … Không biết Hoàng thân đã cảm nhận gì vì hôm 17 tháng 12, trong bữa cơm tối với ông Thébault, trái với mọi khi, ông có vẻ buồn rầu, lo lắng, mang thêm một linh cảm đen tối. Ông sợ bị trúng một quả bom hay bị một lát dao khi trở về lại nước ông : ai có định mệnh nấy, không sao tránh khỏi ! Hoàng thân trách nước Anh chống việc ông trở về nước (một ý kiến sau nầy được Tướng De Gaulle chia sẻ) và còn thêm : "Tôi có linh tính sẽ không bao giờ lên lại ngôi vua"... Dự định qua Đông Dương với Tướng De Gaulle khoảng tháng 3 năm sau, ông xin về La Réunion thăm gia đình và bạn bè. Chiếc máy bay Lockheed Lodester, kiểu C-60, mang số F.BALV của Hệ thống Hàng không Pháp, chở sáu hành khách, ông là một trong hai quân nhân, hôm 26 tháng 12 năm 1945, lúc 18 giờ rưỡi, trên khúc đường bay Fort-Lamy đi Bangui, rơi xuống làng Bossako, huyện M’Baiki, tỉnh Lobaye, vùng Oubangui-Chari. Máy bay bị gãy hủy hoàn toàn, tất cả hành khách cùng ba phi công đều thiệt mạng. Một tai nạn hay có cuộc ám sát ? Ông Boulé, bạn thân của Hoàng thân nghi là có người muốn giết Hoàng thân, hứa màn bí mật sẽ được kéo lên sau khi ông mất, nay ông đã quá cố từ 1964 chẳng nghe nói gì. Hồ sơ tai nạn ghi nhận máy bay không tìm ra đường băng sân bay, chỉ còn ít xăng, bay lên phía bắc tìm chỗ ít cây để cho máy đậu xuống thì vì sương mù, chạm phải chòm cây. Các chuyên viên đặt câu hỏi tại sao có ít xăng trong máy, tại sao máy bay cất cánh chậm để đến Bangui vào lúc trời tối không liên lạc với nhau được qua vô tuyến điện ? Biết bao câu hỏi có lẽ sẽ không bao giờ được trả lời. Hoàng thân Vĩnh San mất đi vào tuổi 46 theo định mệnh như ông đã từng nói. Ván cờ của Tướng De Gaulle mất đi con cờ chính và Hoàng thân Vïnh San vĩnh viễn không trở lại ngôi vua như ông đã được linh tính báo cho biết. Trên mộ ông ở M’Baiki, một tấm bảng ghi những lời ông muốn : " Tôi ý thức đã phụng sự nước Pháp cũng như đã phụng sự nước tôi ". Sau nầy, chính phủ Việt Nam " chủ trương đưa hài cốt Duy Tân về Huế nơi 70 năm trước cựu hoàng dào dạt chí khí của người thanh niên yêu nước Việt Nam, đã rời ngai vàng đi chiến đấu", theo lời của giáo sư Phạm Huy Thông. Và hôm 6 tháng 4 năm 1987, hài cốt của Vua Duy Tân - Hoàng thân Vĩnh San đã được đặt vào ngôi lăng ở Huế đúng như mong ước của ông. Gần một nửa thế kỷ sau khi ông mất, ngày 5 tháng 12 năm 1992, trong bài diễn văn đọc nhân lễ khánh thành đại lộ Vĩnh San ở thành phố Saint-Denis bên đảo La Réunion, ông Thị trưởng Gilbert Annette đánh giá ông : “Với một tính cương trực không có chút điểm yếu, Hoàng thân Vĩnh San tiếp tục trung thành suốt đời với những phẩm giá như sự trung thực và sự bảo vệ những chính nghĩa. Nhân danh và trong lòng tôn trọng những nguyên tắc ấy , ông đã không ngần ngại gia nhập cuộc chiến đấu của nước Pháp Tự do và sẵn sàng đáp ứng tiếng gọi của Lịch sử nếu cuộc đời còn dành thì giờ cho ông ”. Trong lời đề tặng sách cho tôi, Hoàng thân Claude Vïnh San tức Nguyễn Phúc Bửu Vang viết : "Một khúc đoạn lịch sử, một chốc lát vĩnh hằng... Thân ái ". Lịch sử dù là khúc đoạn ngắn ngủi cũng sẽ tồn tại đời đời. Huế Xưa và Nay 81 (5-6. 2007) Một vài trong những sách, báo đã đề cập đến cuộc đời của Hoàng đế Duy Tân - Hoàng thân Vĩnh San : - Prince Vinh San : Message aux Francs-Maçons (1936), Revue mensuelle de Documentation et d’Information Maçonnique, 1938 - Prince Vinh San : Testament politique, Combat 16.7.1947 - Philippe Devillers : Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952, Ed. Seuil, Paris, 1952 - Paul Mus : Viet Nam, Sociologie d’une guerre, Ed. Seuil, Paris, 1952 - Amiral Decoux : A la barre de l’Indochine 1940-1945, Ed. Plon, Paris 1959 - Général De Gaulle : Mémoires de guerre III, Ed. Plon, Paris, 1959 - G.s.Pierre Eugène Thibault : Destin tragique d’un Empereur d’Annam, Paris, 1963 - Georges Chaffard : Les carnets secrets de la décolonisation, Ed. Calman Lévy, Paris, 1965 - Hoàng Trọng Thược, Dossier Empereur Duy Tân, Ed. Thanh Hương, 1984 - Nguyen Phuoc Buu Vang : Duy Tân, Empereur d’Annam 1900-1945, exilé à l’île de la Réunion ou le Destin tragique du Prince Vinh San, Azalées Ed. l’Harmattan, Paris, 2001. Cuốn sách thư tịch nầy cống hiến khá đầy đủ tài liệu sách báo, công văn, thơ nhạc, bên cạnh nhiều thư từ tư riêng và hình ảnh gia đình - Cao Văn Luận : Bên giòng lịch sử, Hồi ký 1940-1965 - Phạm Huy Thông : Duy Tân, một nhà vua, một con người, Đại Đoàn Kết 15.04.1987 - Nguyễn Đắc Xuân, Những bí ẩn về cựu hoàng Duy Tân, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, Huế 1988 - Bùi Trọng Liễu, De Gaulle và Duy Tân, Đoàn Kết các số 392, 393, 1987, Diễn Đàn Forum cập nhật 26.12.2006
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 7:54:45 GMT 9
Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung Bùi Minh Đức Vua Quang Trung đã qua đời cách đây (2008) đúng 206 năm . Vua Quang Trung mất nhằm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý tức là vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 dương lịch sau một thời gian bị “bạo bệnh” . Vua mất lúc mới 40 tuổi . ĐẶT VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG : Các tài liệu lịch sử đều ghi là vua Quang Trung đã chết vì “bạo bệnh” nhưng không có tài liệu nào nói rõ ra đó là bệnh gì . Riêng tác giả Hoa Bằng thì cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh “huyết vựng” . Vua Quang Trung đã được xem là một vị anh hùng dân tộc nên trong quá khứ đã có nhiều người quan tâm đến cái chết đột ngột của vị anh hùng áo vải đó . Cũng vì thế nên đã có nhiều người đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của vị Vua nầy . Tuy nhiên , từ trước đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào căn cứ vào Y khoa hiện đại để phối hợp với các sự kiện đã được ghi trong lịch sử để có thể cho chúng ta biết một cách chắc chắn hơn về bệnh trạng cũng như về nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung vào hồi đó . Và vì vậy , chúng tôi đã làm công việc đó . Chúng tôi đã dựa trên các hiểu biết của nền Y học hiện đại và phối hợp với các tài liệu lịch sử giá trị của ngành Sử Học Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay để suy diễn bệnh tình của vua Quang Trung trước giờ lâm chung . Mục đích của chúng tôi là “Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ khi xẫy ra bạo bệnh cho đến ngày qua đời” . Chúng tôi hy vọng bài khảo cứu của chúng tôi ngày hôm nay sẽ có thể đưa ra được lời giải đáp cho hai câu hỏi chính yếu về “CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” mà mọi người chúng ta hằng quan tâm là: 1/ Vua Quang trung đã bị bạo bệnh đột ngột trước lúc qua đời , vậy đó là “CĂN BỆNH “ gì ? 2/ Vua Quang trung qua đời nhiều ngày sau “bạo bệnh” , vậy “NGUYÊN NHÂN TỬ VONG” là gì ? THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG : I/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : Phương pháp làm việc của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu căn bệnh của vua Quang Trung là căn cứ vào những tư liệu có giá trị đích thực của Sử Học Việt Nam , những tư liệu có đả động đến bệnh trạng của Vua Quang Trung để suy nghiệm ra các triệu chứng khá “chắc chắn” của bệnh trạng của Nhà Vua hồi đó . Sau đó , chúng tôi đối chiếu các triệu chứng “chắc chắn” đó với một số các căn bệnh cũng có cùng những bệnh chứng đó trong Y Khoa ngày nay để có thể phỏng đoán được “bệnh trạng” của Nhà Vua là gì . Rồi từ “căn bệnh phỏng đoán” khá chính xác đó , chúng tôi lại sẽ quay ngược lại để biết thêm những “triệu chứng có thể” đã xuất hiện trên người Vua sau ngày bạo bệnh , căn cứ vào các hiểu biết của Y khoa tân tiến ngày nay . Độ chính xác của “căn bệnh phỏng đoán” của Nhà Vua trên thực tế chắc chắn sẽ không thể nào là 100% vì bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua từ bấy đến nay (đã trên 200 năm) nhưng chúng tôi tin rằng đó là “độ chính xác cao nhất có thể đạt được và có thể tin cậy được” căn cứ vào các tư liệu hiện hữu và các hiểu biết của Y khoa ngày nay Trong bài khảo cứu nầy chúng tôi cũng đã phải sử dụng đến các sơ đồ “Flow Charts” , nói nôm na là sơ đồ của “cái nầy đưa đến cái kia” về triêụ chứng và về căn bệnh . Chúng tôi cũng áp dụng lối lý luận bằng “phương pháp loại trừ” của logic theo Y khoa ngày nay theo lối “không có cái nầy thì sẽ không có cái kia” . Chúng tôi cũng đã sử dụng một số kết quả về thống kê của các bệnh tật theo các khảo cứu của Y học ngày nay và chúng tôi cũng sẽ luôn luôn dựa vào các kết quả thống kê cao nhất , khả dĩ nhất để lấy quyết định . Cũng trên đường đi tìm “bạo bệnh” của Vua Quang Trung , chúng tôi đã phải tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu cao cấp của các Chuyên Nghành trong Y khoa ngày nay . Chúng tôi cũng đã có cơ hội tiếp xúc được với nhiều Chuyên gia cao cấp , đi từ điạ hạt Nội Thần Kinh , Ngoại Thần Kinh qua Tai Mũi Họng và Nội thương cho đến Tim học . Và cũng vì thế , chúng tôi đã có nhiều cơ hội tiếp nhận được những kinh nghiệm lâm sàng trực tiếp từ các vị Chuyên gia hàng đầu trong các ngành đó . Nói tóm lại , chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những tư liệu Sử học mà chúng tôi sử dụng và cùng lúc đưa ra những kết quả về triệu chứng bệnh lý mà chúng tôi suy nghiệm được dựa vào những tư liệu đó . Chúng tôi cũng sẽ thử “tái xây dựng” hồ sơ bệnh lý của Vua Quang Trung theo nguyên tắc “SOAP” của các hồ sơ bệnh lý y khoa ngày nay : “S” (Subjective) là các triệu chứng chủ quan tự cảm thấy của bệnh nhân (phần Bệnh sử) , “O” (Objective) là các triệu chứng khách quan tìm thấy được trên người bệnh nhân (phần Triệu chứng) , “A” (Assessment) là kết luận về bệnh trạng đã được suy diễn ra (phần Định Bệnh Phân Biệt “Differential Diagnosis” và phần Định Bệnh Lâm Sàng “Clinical Điagnosis) và cuối cùng , “P” (Plan) là những quyết định thử nghiệm (Laboratory Tests) và điều trị (Treatment Plan) về căn bệnh đã được suy diễn ra đó . 2/ THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG : HỒ SƠ BỆNH LÝ TÊN VÀ HỌ : NGUYỄN HUỆ (VUA QUANG TRUNG) TUỔI : 40 GIỚI TÍNH : NAM NGHỀ NGHIỆP : Chỉ Huy Quân Đội . Tánh xông xáo , thích hoạt động . I/ BỆNH SỬ (HISTORY OF THE PRESENT ILLNESS) : A/ TƯ LIỆU CHỨNG MINH : Trước hết chúng tôi đưa ra vài tư liệu dính dáng đển khởi điểm của bạo bệnh của Nhà Vua . 1/ Theo “Đại NamThực Lục Chính Biên” , Tập II , Đệ Nhất Kỷ 1 (Tổ phiên dịch Viện Sử Học , Đào Duy Anh hiệu đính , tr. 159- 160) : “..Tây Sơn Ngyễn Văn Huệ chết . Nguyễn Huệ ngồi chơi buổi chiều , bỗng mơ thấy một ông già tóc bạc từ trên không xuống , mặc áo trắng , tay cầm gậy sắt , chỉ vào Huệ mà bảo rằng “Ông cha mày sống trên đất vua, đời làm dân vua , mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm ?” . Rồi đánh vào trán một cái . Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mói tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trng thư Trần Văn Kỷ . Nhân đó , ốm không dậy được , dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng “Ta sẽ chết đây! Thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được . Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên , khi Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An , dời dân vào Qui nhơn) , đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được . Ta đắp thành dày để làm kế Tấn Dương ngày khác cho mày . Sau khi ta chết , mày nên về đó . Nếu có biến cố còn có thể giữ được “ . Rồi Huệ chết” . 2/ Theo “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” , phần “Ngụy Tây Liệt truyện” : “Một hôm về chiều , Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm , kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống , tay cầm gậy sắt mắng rằng “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa , đời đời làm dân của chúa , ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm ?” Rồi lấy gậy đánh vào trán , bất tỉnh nhân sự lâu lắm . Lúc tỉnh dậy , nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ . Từ đó bệnh chuyển nặng , mời quan Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó . Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia Định , chiếm Bình Thuận , Bình Khang , Diên Khánh , thanh thế chấn động . Quang Trung nghe được lo buồn , bệnh ngày càng kịch liệt” . B/ BỆNH SỬ QUA CÁC TƯ LIỆU ĐÃ DẪN : Qua hai tài liệu trên , chúng ta có thể suy diễn được diễn tiến của bệnh trạng lúc khởi đầu như sau : “Bệnh nhân là một người nam , mới 40 tuổi . Bệnh nhân đang ngồi chơi buổi chiều , không vận dụng sức lực hay làm việc gì nặng nhọc , bỗng cảm thấy xây xẩm tối tăm , đầu đau như có ai cầm gậy sắt đánh vào trước trán và té xuống liền , hôn mê bất tỉnh . Sự việc xẩy ra rất đột ngột . Giờ lâu bệnh nhân mới tỉnh lại” . II/ TRIỆU CHỨNG CĂN BỆNH (SIGNS AND SYMPTOMS) : Xét theo bệnh sử , chúng ta có thể ngược dòng thời gian để suy nghiệm ra các triệu chứng của căn bệnh ban đầu của Vua Quang Trung . Chúng tôi đã có thể ghi nhận chín (9) yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là : -1/ “BỆNH NHÂN CÒN TRẺ” , chỉ mới 40 tuổi . -2/ “ĐAU ĐẦU DỮ DỘI , ĐỘT NGỘT” (Headache Severe , Sudden Onset) -3/ “XÂY XẨM” : CHÓNG MẶT (Dizziness) -4/ “TỐI TĂM” : MẮT NHÌN KHÔNG THẤY (Trouble of Vision) -5/ “HÔN MÊ NGẤT XỈU THÌNH LÌNH” (Sudden Loss of Consciousness , gọi tắt là L.O.C.) . -6/ “KHÔNG VẬN ĐỘNG SỨC LỰC” khi xẫy ra biến cố (No Physical Exertion) . -7/ “KHÔNG BỊ TỔN THƯƠNG TRÊN ĐẦU” , không bị va đập trên đầu trước đó (No Previous Head Trauma History) . -8/ “BỆNH NHÂN TỈNH LẠI : Bệnh nhân bị té xuống hôn mê bất tỉnh ,“giờ lâu mới tỉnh” (Recovering from Consciousness after an Interval). -9/ “BỆNH NHÂN KHÔNG BỊ HÔN MÊ DÀI NGÀY” (No Coma of long duration) . III/ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT (DIFFERENTIAL DIAGNOSIS) : Dựa trên các yếu tố đó , chúng ta có thể suy diễn ra các điều khác để tìm bệnh . Chúng ta lấy triệu chứng “Bất Tỉnh” (Loss of Consciousness) là triệu chứng quan trọng nhất của căn bệnh để làm điểm khởi đầu của lý luận định bệnh của chúng ta . Trong từ ngữ Y khoa , “Bất Tỉnh Mê Man” được gọi bằng từ ngữ chung là “Loss of Consciousness” , gọi tắt là “L.O.C.”. Nếu bất tỉnh nhẹ và tỉnh lại ngay liền , thì gọi là “Syncope” , nếu hôn mê nặng thì gọi là “Coma” . Thông thường , khi bệnh sử có ghi “LOC” đột ngột mà trước đó không có dấu hiệu tổn thương nào trên Não Sọ thì Y khoa ngày nay thường nghĩ ngay đến “NGUYÊN NHÂN NÃO BỘ” và nhất là nghĩ ngay đến “TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO” (Cerebro-Vascular Accident , gọi tắt là CVA) , còn được gọi là “BỆNH ĐỘT QỤY” (Stroke) . Hàng năm tại Hoa Kỳ có 730.000 trường hợp mới về “Tai Biến Mạch Máu Não” . Một LOC đột ngột thường do các nguyên nhân về Não Bộ như sau : - 5% là do U Bướu (Tumor) trên Não với các triệu chứng thần kinh suy sụp CHẬM RÃI (Progressive Neurologic Deficit) trong 68% các cas , và cũng có yếu liệt về thần kinh vận động (Motor Weakness) trong 45% các cas và có Nhức Đầu (Headache) trong 54% các cas , Động Kinh (26% các cas) . - 95% là do các MẠCH MÁU TRÊN NÃO bị nghẽn hoặc bị vỡ gây ra xuất huyết , chia ra như sau : - 80% là do NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemic Stroke , Arterial Occlusion) : vì Máu Đông Tại Chỗ (Thrombotic Stroke) trong 50% các cas và do Cục Máu (Embolic Stroke) trong 30% các cas . Phân tách thêm , người ta thấy có 41% các cas Nghẽn Mạch không biết lý do , 21% các cas ở các động mạch nhỏ , 11% các cas ở các động mạch lớn và 16% do Cục Máu từ Tim đến (Cardiogenic Embolie) như trong bệnh “Nhồi Máu Cơ Tim” (M.I. Myocardial Infarction) hay trong “Chứng Hẹp Lỗ Van Hai Lá” (Mitral Stenosis) hay trong “Chứng Loạn Nhịp” (Arrythmia) . - 20% là do XUẤT HUYẾT TRONG NÃO : - 14% là do “Xuất Huyết trong Não Bộ” (IntraCerebral Hemorrhage , viết tắt là ICH) - 6% là do Xuất Huyết Dưới Màn Nhện (Sub-Arachnoid Hemorrhage , viết tắt là SAH) . -A/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemia Stroke) thường bị “HÔN MÊ SÂU ĐẬM” và thường xẫy ra cho người LỚN TUỔI , trên 50 tuổi . . Triệu chứng khởi đầu cũng có thể thình lình nhưng “KHÔNG CÓ ĐAU ĐẦU” , không bị sốt . Bị yếu dần về thần kinh bắt đầu từ tay rồi lan ra các vùng khác , TĂNG LẦN từ từ từng bước một , từ vài giờ cho đến vài ngày (24 giờ-72 giờ) và thường về một phía . Tay chân có thể bị yếu dần và bị Liệt Tay Liệt Chân ở phía đối diện (Controlateral Hemiplegia) và cả tê tay tê chân . Thường là do “Nghẹt Đông Mạch Não Giữa (Middle Cerebral Artery) . -B/ XUẤT HUYẾT TRONG NÃO BỘ (Intracerebral Hemorrhage = ICH) : 14% các cas bị HÔN MÊ BẤT TỈNH (LOC) và thường được gọi là “Apoplexy” mà không có tổn thương do Va Đập nào trước đó . Bệnh nầy thường do “VỠ ĐỘNG MẠCH” trong khối chính của Não tạo thành “Cục Máu” còn gọi là “Khối tụ máu” (Hematoma) đè ép lên trên Não Bộ và gây nên các triệu chứng về Thần kinh Não bộ . Bệnh nầy thường xẫy ra ở người CAO TUỔI , phần lớn là đàn ông trên 55 tuổi và phần lớn do CAO HUYẾT ÁP (Hypertension) . Càng lớn tuổi càng dễ bị bệnh nầy . Có thể do sự “Vận động Sức Lực Quá Trớn” (Onset during Activity or Exertion) như khi đi đại tiện bị bón hay khi đang chơi thể thao như Tennis chẳng hạn . Bệnh nhân thường “BẤT TỈNH HOÀN TOÀN” (Coma) . Triệu chứng Thần Kinh Hỗn Loạn trong “Xuât Huyết Não” thường xẫy ra TỐI ĐA NGAY LẬP TỨC (Maximal at Onset) chứ không diễn tiến từ từ như trong bệnh “Nghẽn Mạch Máu Não”. Nếu tỉnh dậy cũng sẽ có Đau Đầu , Ói Mửa , Chóng Mặt , Bị Liệt chân tay và Suy sụp thần kinh từ từ (Neuro Deficit Progressive) và có thể bị Cấm Khẩu không nói được , bị bệnh Liệt Mặt (liệt Dây thần kinh số 7) , v.v.. -C/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN (Subarachnoid Hemorrhage = SAH) Đa số các “Xuất Huyết dưới màng nhện” (SAH) là do chấn thương trên Đầu . Số các cas “SAH” còn lại , không có dấu hiệu chấn thương trên Đầu , là do chứng “Tự Vỡ Mạch” (Spontaneous SAH) . 80% các cas nầy là do Vỡ Mạch Phình (Spontaneous Rupture of Aneurysm) và 5% là do Vỡ Mạch Máu Dị Dạng Bẩm Sinh (Congenital Arteriovenous Malformation) . Bệnh Xuất Huyết dưới Màng Nhện do “Tự Vỡ Mạch” thường xẫy ra ở “NGƯỜI TRẺ KHOẢNG 40 TUỔI” (20% các cas từ 15-45 tuổi) và xẫy ra “BẤT THÌNH LÌNH” (Sudden Onset) (30% các cas lúc đang ngủ) với các triệu chứng sau : 1/ “ĐAU ĐẦU ĐỘT NGỘT DỮ DỘI” (Severe Headache) (30% bị Đau Đầu về phía mạch máu bị vỡ) , 2/ “BẤT TỈNH” ngay sau khi đau đầu đột ngột dữ dội . Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại 3/ ÓI MỬA (Nausea and Vomiting) , 4/ CHÓNG MẶT (Dizziness) , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG (Vertigo) . 5/ CỔ CỨNG (Nuchal Rigidity hay Neck Stiffness) 6/ TÊ NỬA NGƯỜI (Hemiparesis) 7/ LIỆT NỬA NGƯỜI , còn gọi là “Bán Thân Bất Toại” (Hemiplegia) . Ngoài ra cũng có thể còn có : 8/ LIỆT NỬA MẶT (Facial Palsy) do liệt dây thần kinh Não số 7 (Facial Nerve) một bên 9/ Bệnh SONG THỊ (Diplopia) do liệt dây thần kinh Não số 3 và “CHỨNG SỢ ÁNH SÁNG” (Photophobia) 10/ Hỗn Loạn về chúc năng “NUỐT” do hỗn loạn của các dây thần kinh Não số 9 và số 10 . Thống kê ngày nay còn cho biết thêm các chi tiết sau : 50% các cas về “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” đã có triệu chứng báo hiệu (Warning Symptoms) , thường là từ 6 đến 20 ngày trước đó . Tra cứu các tư liệu Sử học còn lưu lại , chúng tôi cũng không thể xác định được trước đó Vua Quang Trung có cảm thấy triệu chứng gì báo trước của bạo bệnh hay không , ví dụ như Đau Đầu , Đau Mặt , Chóng Mặt hay Tê tay Tê chân , Yếu tay Yếu chân hay Mắt Mờ chẳng hạn . IV/ CHẨN ĐOÁN CĂN BỆNH VUA QUANG TRUNG (CLINICAL DIAGNOSIS) : Và như vậy , xuyên qua triệu chứng của các bệnh Xuất Huyết Mạch Máu Não trong trường hợp bị “BẤT TỈNH ĐỘT NGỘT , KHÔNG CÓ CHẤN THƯƠNG” và so sánh với các triệu chứng khởi đầu của căn bệnh của Vua Quang Trung qua các tư liệu đã nêu ra , chúng ta thấy căn bệnh lúc ban đầu của Vua Quang Trung trong quá khứ , rất có thể là : “BỆNH XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” (Subarachnoid Hemorrhage) DO CHỨNG “TỰ VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Aneurysm Rupture) V/ DIỄN TIẾN BỆNH TRẠNG (PROGRESS NOTES) : Căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” nầy của Nhà Vua , ngoài những triệu chứng chính ban đầu mà ta đã suy diễn ra được qua những tư liệu đã dẫn chứng , liệu còn có các triệu chứng phụ nào trên người Vua phù hợp với sự tiến triển của bệnh lý theo y khoa ngày nay hay không ? Chúng ta thử đi tìm thêm các triệu chứng đó và cũng sẽ dùng các tư liệu sử học để chứng minh bằng cách theo dõi diễn tiến của căn bệnh ban đầu cho đến ngày Vua qua đời . A/ Bài “Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân Công Chúa làm vào lúc Nhà Vua qua đời đã cho ta thêm đôi chút ánh sáng về bệnh tật của Vua trong thời gian nầy : “TỪ NẮNG HẠ MƯA THU TRÁI TIẾT , XÓT MÌNH RỒNG MỎI MỆT CHẲNG YÊN Xiết bao kinh sợ lo phiền , Miếu thần đã thỉnh , thuốc tiên lại cầu . Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước , Phương pháp nào đổi được cùng chăng ? Qua bài “Ai Tư Vãn” nầy , ta có thể rút ra thêm được các kết luận sau đây liên quan đến bệnh trạng của Nhà Vua : 1/“Từ nắng hạ mưa thu trái tiết” : Vua đau từ mùa hạ đến mùa thu mới mất . Khoảng thời gian có lẽ là TRÊN HAI THÁNG từ lúc phát bệnh đến giờ lâm chung . 2/“Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên” : Vua day trở trên giường bệnh . Y Khoa ngày nay gọi là “CHỨNG BỒN CHỒN” (Restless) , không thể nằm yên mà phải nhúc nhích qua lại . Đó là chưa nói đến những dư chứng thông thường của bệnh “Xuất Huyết Não” với những cơn ĐỘNG KINH (Seizures) , CO GIẬT (Convulsions) cũng như những CỬ ĐỘNG RUNG CƠ (Tremblements) , không kiểm soát được của tay chân . Tất cả đều khiến cho “Mình Rồng mỏi mệt chẳng yên” tức là di chứng “Bồn chồn” (RESTLESS) do suy yếu thần kinh của căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” Câu hỏi được nêu tiếp theo là những “dư chứng” nào khác còn hiện diện trên cơ thể con người của Nhà Vua sau cơn bạo bệnh? B/ “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” cho ta biết qua tình hình chung sau khi Vua ngã bệnh : “…Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mới tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ . NHÂN ĐÓ ỐM KHÔNG DẬY ĐƯỢC, dặn con là Quang Toản …” . Qua câu nầy của “Đại Nam Thực Lục Chính biên” thì sau khi bị cơn bệnh thình lình , Vua đã “KHÔNG THỂ NÀO ĐỨNG DẬY ĐƯỢC” . Nhà Vua đứng dậy không được có thể là do bệnh Liệt Bại Tay Chân , tức là bệnh “BÁN THÂN BẤT TOẠI” (Hemiplegia) hay bị bệnh “CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” (Vertigo) , và cũng có thể do cả hai bệnh chứng đó cùng xảy ra một lúc và đã làm cho Nhà Vua không thể nào đứng lên và bước đi ra ngoài được mà phải nằm suốt trên giường bệnh . -1/ “BÁN THÂN BẤT TOẠI” tức Liệt Tay Chân về một phía (Hemiplegia hay Hemiparalysis) và cả “KHÔNG CẢM GIÁC VỀ MỘT BÊN THÂN” (Hemiparesis) đều là những di chứng thường tình của Bệnh Xuất Huyết Trong Não Bộ (Intracerebral Hemorrhage) do rối loạn hệ thần kinh vận động và cảm giác . -2/ “XÂY XẨM MẶT MÀY” , “ĐỨNG LÊN BỔ XUỐNG” , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” đều là những di chứng thường đi theo với căn bệnh “Xuất Huyết Trong Não” hay “Xuất Huyết dưới Mà Nhện” . “Xây Xẩm Mặt Mày” (Dizziness) nhẹ hơn “Chóng Mặt Quay Cuồng” (Vertigo) . Chính cái “Chóng Mặt Quay Cuồng” “Vertigo” nầy mà người xưa khi nói về căn bệnh của Vua Quang Trung cũng đã nhắc nhở đến và đã gọi đó là “bênh Huyết vựng” hay “Huyễn vựng” hay “Huyết vận” như tác giả Hoa Bằng đã có ghi ra . Trong bệnh “Vertigo” , người bệnh thấy nhà cửa quay cuồng , bàn ghế quay cuồng , đứng không thể nào vững và thường ngã xuống và đầu có thể va đập vào bàn ghế gây thêm tổn thương Não . - 3/“ÓI MỬA” : Bệnh “Chóng mặt” hay “Huyễn Vựng” nầy thông thường “đi đôi sát nút” với triệu chứng “Ói Mửa” , thứ “Ói Mửa” mà người Huế gọi là “nhào đựng nhào đột” , hay thứ “Mửa ra mật xanh mật vàng” mà từ ngữ Y khoa ngày nay gọi là “Vomiting” . Nhẹ nhất là “Buồn nôn” , “Buồn Ói” hay “Muốn Mửa” , từ ngữ Y khoa gọi là “Nausea” . Nặng nhất là “Mửa” (Vomiting) . Mỗi khi mửa , “ăn bao nhiêu ra bấy nhiêu” . Hễ mỗi khi có sự chuyển động của đầu hay thân hình là có “Nausea” hay “Vomiting” ngay lập tức . Thông thường trong căn bệnh “Xuất huyết Não , Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” thường có “Nausea” và “Vomiting” đi song đôi với nhau . Hễ đứng lên ngồi xuống là sinh ra “chóng mặt quay cuồng” ngay và sẽ “ói mửa lộn nhào” , không thể nào đứng dậy hay ngồi dậy để làm việc gì được . Vua Quang Trung có thể đã phải chịu đựng những cơn hành hạ của “Chóng Mặt , Ói Mửa” như đã trình bày ở đây và vì vậy mà Ngọc Hân Công Chuá đã phải chạy khắp nơi để tìm Thầy chạy thuốc chữa bệnh cho Vua - 4/“NHỨC ĐẦU NHƯ BÚA BỔ” : Triệu chứng nhức đầu cấp tính khi xẫy ra Tai Biến Mạch Máu Não của Vua Quang Trung đã xẫy ra “THÌNH LÌNH” đúng như sách vở ngày nay đã ghi nhận . Vua Quang trung đã bị đau đầu dữ dội, “như có ai lấy gậy sắt đập vào đầu” . Sau khi tỉnh lại , các bệnh nhân của “Xuất Huyết Não” và nhất là “Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” như Vua cũng vẫn thường vẫn bị những cơn đau đầu ghê gớm hành hạ do sự đè nén (Mass Effect) của khối máu đọng trên Não Bộ . Khi lên cơn đau đầu đó , có người đã phải ôm đầu mà rên la . Và đó cũng là một di chứng của căn bệnh xuất huyết Não của Nhà Vua . -5/ “NUỐT KHÓ” : Nếu bệnh nhân đã bị hư một bán cầu Não thì rất có thể bệnh nhân đã có triệu chứng “NUỐT KHÓ” , “NUỐT SẶC” do triệu hỗn loạn về “Chức Năng Nuốt” . Đồ ăn sở dĩ nuốt được là nhờ hoạt động của các cơ co bóp của Thực quản dưới sự tác dụng của các dây Thần Kinh Não Bộ số 9 và số 10 . Khi Não Bộ một phía bị hư thì hoạt động của các dây thần kinh của chức năng Nuốt về phía đó cũng sẽ bị tê liệt và vì vậy sẽ phát sinh các rối loạn về Nuốt . Bệnh nhân sẽ bị “Khó Nuốt” và thường bị “Nuốt Sặc” do đồ ăn đi “lạc đường” (“Fausse Route”) vào khí quản , gây nên phản ứng Sặc là phản ứng tự vệ thông thường . Nếu rối loạn Nuốt khá nặng thì bệnh nhân có thể nuốt hít đồ ăn vào trong “cuống phổi” tức vào trong Khí Quản , và sẽ gây nên “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) , nguy hại đến tính mạng . Nói tóm lại , theo dõi bệnh tật của Vua , chúng ta có thể nhận thấy những dư chứng của căn bệnh của Vua trong những ngày trước khi lâm chung có thể là : - 1/ BẠI LIỆT NỬA NGƯỜI (Hemiplegia) - 2/ ÓI MỬA (Nausea , Vomiting) - 3/ CHÓNG MẶT (Dizziness , Vertigo) - 4/ ĐAU ĐẦU (Headache) - 5/ CỨNG CỔ , ĐAU CỔ (Meningismus) - 6/ ĐỘNG KINH (Seizures) - 7/ CO GIẬT (Convulsions) - 8/ CHỨNG BỒN CHỒN (Restlessness) - 9/ NUỐT KHÓ , NUỐT SẶC (Swallowing Problems) - 10/ THỊ TRƯỜNG KHIẾM KHUYẾT (Visual Defect) (Có thể) VI/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT PLAN) : Trong bài “AI TƯ VÃN” , Ngọc Hân Công Chúa đã viết : “Xiết bao kinh sợ lo phiền , MIẾU THẦN ĐÃ ĐẢO , THUỐC TIÊN LẠI CẦU . KHẮP MỌI CHỐN ĐÂU ĐÂU TÌM RƯỚC , PHƯƠNG PHÁP NÀO ĐỔI ĐƯỢC CÙNG CHĂNG ?” Chính Ngọc Hân Công Chúa , vợ Vua Quang Trung , đã cho chúng ta biết là ngoài chuyện cầu khấn các đấng Thần Linh ở các Am Miếu linh thiêng để cầu nguyện cho Nhà Vua , Bà cũng đã phải bôn ba mời Thầy tìm thuốc khắp nơi để chữa cho Vua trong ngay sau cơn bạo bệnh hòng mong bệnh tình Nhà Vua thay đổi , trở lại lành mạnh như cũ . Trong vấn đề chữa trị cho Nhà Vua , chúng tôi nghĩ là chứng bại liệt nửa thân khó lòng chữa chạy , bất cứ thầy thuốc nào , Đông hay Tây , cũng đều biết thế . Nếu có thể dùng thuốc để chữa chạy cho Nhà Vua là chữa chạy các chứng như : Ói Mửa , Chóng Mặt , Đau Đầu và Chứng động Kinh , Co Giật chẳng hạn . Ngay chuyện đút cho Vua ăn chắc các gia nhân lúc đó cũng đã phải rất cẩn thận , phải đút chậm chậm từ từ để khỏi gây ra “Chứng Sặc” . “Sặc” là một phản xạ tự nhiên của con người để tống bỏ ra ngoài các thức ăn đi lạc vào cuống phổi , không cho đồ ăn có thể vào phổi và gây ra “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) . Ngay trong Y khoa ngày nay , khi nuôi bệnh và cho bệnh nhân ăn sau khi bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” cũng phải đút đồ ăn cho bệnh nhân một cách từ từ vì sợ bệnh nhân bị “Viêm phổi Hít” . “Viêm phổi Hít” khi đã để xẩy ra sẽ là một vấn đề trầm trọng , cho dù có áp dụng các phương tiện tân tiến của thời nay như làm Nội Soi Khí Quản để hút đồ ăn đi lạc vào , xịt nước rửa khí quản để làm vệ sinh khí quản (Bronchial Toilette) cũng như dùng những Kháng Sinh đúng và mạnh để chận đứng nạn Nhiễm Trùng đáng sợ ở trên cơ thể những con người đang kiệt quệ sức khoẻ với hệ thống miễn dịch yếu kém . VII/ TIÊN LƯỢNG BỆNH TRẠNG (PROGNOSIS) : “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” và “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” còn cho ta biết là sau khi bị bạo bệnh , Nhà Vua đã TRỐI TRĂN dặn dò Thái tử Quang Toản về đường hướng phải làm trong tương lai . Vua cũng cho vời Trung Thư Trần Văn Kỷ và cả Trấn Thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về Phú Xuân để bàn bạc chuyện dời đô ra Nghệ An . Vua Quang Trung còn trối trăn căn dặn kỹ càng Trần Quang Diệu và triều đình : “Sau khi ta mất , phải trong một tháng lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi . Các ngươi phải phò Thái tử sớm ra Nghệ An để khống chế thiên hạ . Nếu không , bị quân Gia Định kéo ra , các ngươi không còn chỗ chôn đấy” . Trong “Lê Qúy Dật Sử” mà nhiều người cho là của Bùi Dương Lịch viết vào thời Tây Sơn , còn cho thêm chi tiết khác “Tuân di lệnh của Vua cha , để tang ngắn ngày, ba tháng là thôi mặc áo tang , sai sứ sang báo tang với nhà Thanh” . Như vậy ta có thể suy ra hai điều về tình trạng của hệ thống thần kinh của Vua mà Y khoa Pháp gọi là “Bilan Neurologique” và Y khoa Mỹ gọi là “Neurological Status” như sau : 1/ Nhà Vua còn đủ óc phê phán , suy tính đường lợi hại , trí thông minh của Vua vẫn còn tồn tại . Trung Tâm của thông minh , của Suy Nghĩ và Lý Luận là ở Vùng Trán . Như vậy Não Bộ Vùng Trán của Vua vẫn còn hoạt động . 2/ Nhà Vua vẫn còn năng khiếu Ngôn Ngữ (Speech . Language) để trối trăn , nói chuyện và bàn luận với quần thần . Như vậy , Trung Tâm về Ngôn Ngữ của Vua vẫn còn hoạt động . Trung tâm về Ngôn Ngữ thường ở bên phiá TRÁI của người thuận dùng tay phải (95%) và như vậy ta có thể PHỎNG ĐOÁN phía Não bên TRÁI của Nhà Vua vẫn hoạt động bình thường . 3/ Và vì vậy , chúng ta có thể suy ra , phía bên chảy máu Não của Vua Quang Trung là phía PHẢI và tử đó , có thể suy ra thêm là Vua bị bệnh BÁN THÂN BẤT TOẠI BÊN TRÁI và tay chân phía bên PHẢI có thể đang hoạt động bình thường . Lý do là vì các dây thần kinh vận động tay chân từ Não Bộ bên TRÁI còn tốt phải chạy TRÉO QUA phía bên PHẢI khi chạy xuống phía dưới Tủy Sống . Nếu Nhà Vua muốn cầm tay các cận thần mà dặn dò trối trăn thì có thể Nhà Vua vào hồi đó đã phải dùng tay PHẢI để cầm tay của kẻ cận thần đó . Cũng cần biết , theo thống kê ngày nay , thì TIÊN LƯỢNG về bệnh “Xuất Huyết Não dưới Màng Nhện” đã được đánh giá như sau : 30% chết ngay trong 30 ngày đầu , 30% các cas sẽ hồi phục với di chứng tàn tật nặng nhẹ khác nhau và và 50% các cas sẽ chết (vì trận xuất huyết lần đầu hay do xuất huyết tái phát) . VIII/ CHỮA TRỊ BỆNH “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” TRONG Y KHOA NGÀY NAY (TREATMENT PLAN OF SUBARACHNOID HEMORRHAGE IN MODERN MEDICINE) : Ngày nay , một khi đã định bệnh ra là bệnh nhân bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” , hoặc nói chung là khi đã nghi ngờ bệnh nhân bị Tai Biến Mạch Máu Não thì người ta thường làm các “THỬ NGHIỆM” cần thiết để chứng minh bệnh trạng và để ĐIỀU TRỊ cho chắc chắn . A/ THỬ NGHIỆM (CLINICAL TESTS) : Trong “Tai biến Mạch Máu Não” , ngày nay người ta thường dùng các thử nghiệm sau : -1/ CT Scan để biết Tai Biến Mạch Máu Não do Nghẽn Mạch hay Xuất Huyết (thường được dùng nhất trong Xuất Huyết Dưới Màng Nhện) -2/ Chọc Hút Dịch Não Tủy (để tìm máu trong dịch não) -3/ X-Quang Mạch Máu (để ìm vị trí mạch máu vỡ , sau khi chích chất cản quang vào dòng tuần hoàn) -4/ MRI gíúp xác định chính xác vị trí hư hại trong Não . Hình rất nhạy nên thường dùng trong bệnh Xuất Huyết Não do các mạch máu nhỏ . -5/ MRA (Magnetic Resonance Angiography) -6/ Transcranial Doppler -7/ Xenon CT Scanning : dùng để đo lưu lượng Máu trong Não . -8/ Carotid Duplex Scanning : dùng Siêu Âm để xác định xem động mạch cổ có bị nghẽn không -9/ Radionuclide SPECT Scanning : dùng chất phóng xạ để đo lưu lượng máu trong Não -10/ PET Scanning dùng để xác định sự biến dưỡng của các vùng trong Não -11/ Hình chụp mạch máu Não (Cerebral Angiography) để thấy tình trạng các mạch máu Não . B/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT) : Điều trị cấp cứu của bệnh Tai Biến Mạch Máu Não cần phải nhanh chóng vì những hư hại của Não sẽ xẫy ra trong vòng vài giờ sau khi bị tai biến . Ngoài cách sử dụng thuốc ra , trong vài trường hợp , ngày nay người ta phải dùng đến PHẪU THUẬT , chẳng hạn như trong : 1/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN : (Subarachnoid Hemorrgage) : Người ta làm Vi phẫu “Động Mạch Phình” hoặc Vi phẫu “Dị Tật mạch máu bẩm sinh” (Microsurgery for Aneurysm or Arterioveinous Malformation) và dùng kỹ thuật “Kẹp Mạch” (Clipping) . Kỹ thuật “Clipping” là “Tiêu Chuẩn Vàng” (Gold Standard) trong phép điều trị bằng phẫu thuật của bệnh “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” . 2/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH CỔ : Người ta làm Phẫu thuật trên Động Mạch Cổ , cắt bỏ lớp bên trong của động mạch nầy (Carotid Endarterectomy) để loại bõ nguyên nhân nghẽn tắt nhẽn . Người ta còn có thể làm phẫu thuật để “Tái tạo thông máu” và tái lập lưu lượng trong mạch máu , người ta làm “Phẫu thuật bắt cầu” (Shunt) . IX/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG (CAUSE OF DEATH) CỦA VUA QUANG TRUNG : Vua Quang Trung đã mất khoảng 2 tháng sau ngày bị “bạo bệnh” mặc dầu đã được triều thần hết sức chữa chạy . Vua đã mất ngày 16 tháng 9 năm 1792 (tức ngày 29 tháng 7 âm lịch) . Vua đã bị chứng bệnh gì để đưa đến tử vong ? Nói một cách khác , chứng bệnh tử vong của Vua có thể là những chứng bệnh gì ? A/ BỆNH TÁI PHÁT (RECURRENCES) : Chứng “Xuất Huyết Dưới màng Nhện” (Subarachnoid Hemorrhage) cũng như mọi chứng ”Xuất Huyết Trong Não” đều có thể tái phát . Thông thường các trường hợp tái phát thường dữ dội hơn , có thể đưa đến tử vong rất dễ dàng . Tuy nhiên , trong bệnh “Xuất Huyết Màng Nhện” thì bệnh tái phát tức “chảy máu lại” thường trong vòng một vài tuần sau đó . Theo thống kê , 15% đến 20% bị tái lại trong 2 tuần sau . Ở đây , Nhà Vua đã qua được đến gần hai tháng nên nguyên nhân tử vong khó có thể là trường hợp tái phát xuất huyết của bệnh . B/ VIÊM PHỔI HÍT (VIÊM PHỔI SẶC) (ASPIRATION PNEUMONIA) : Một bệnh nhân khi bị tê liệt nửa người do bệnh “Xuất Huyết Não” hay “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” thường có kèm theo những triệu chứng rối loạn thần kinh của các chức năng NUỐT , hay chức năng THỞ v.v.. . Rối loạn của chức năng ““NUỐT” thường dễ đưa đến “Sặc” và khi bị Sặc , thức ăn thường có thể “chạy lộn đường” (“Fausse Route”) vào Khí Quản . Do đó , hệ quả sẽ có thể là : 1/ TẮC NGHẼN PHẾ QUẢN (Obstruction of Bronchioles) với hậu quả tạo nên “Chứng Xẹp Phổi” (Pulmonary Atelectasis) , làm giảm lượng Oxygen trong Phổi và Máu . Ngoài ra , bệnh nhân bị Liệt Nửa Người thường nằm một bên , vị trí ít thay 13 đổi , ít di chuyển thân hình qua lại đều đều bên nầy và bên kia nên các “Cục Đờm” (Mucus Plugs) dễ bị ứ đọng trong các phế quản gây nên “Tắc nghẽn Phế quản” với hậu quả là “Chứng Phổi Xẹp” như đã nói ở trên . 2/ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG PHỔI , đưa đến “CHỨNG VIÊM HÍT” còn gọi là “VIÊM PHỔI SẶC” (Aspiration Pneumonia) . Sở dĩ có “Viêm Phổi Hít” là vì các mảnh thức ăn hít vào trong khí quản sẽ tác dụng như là Vật Lạ trong Khí quản (Bronchial Foreign Bodies) và sẽ là mầm mống sinh ra Nhiễm Trùng . Hệ thống Miễn Nhiễm trong cơ thể các bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường bị suy yếu nên vì thế sức đề kháng chống lại vi trùng cũng đã giảm thiểu rất nhiều . Vì vậy , “Viêm Phổi Hít” thường rất dễ dẫn đến “Tử Vong” (Death) . Về Triệu chứng của Viêm Phổi Hít , lúc đầu thường là Ho ra đờm xanh , Khó thở , Thở Khò Khè , có thể bị Sốt , Ớn Lạnh , Đau Ngực v.v.. Về Chữa Trị của “Viêm Phổi Hít” , trong Y khoa ngày nay như đã trình bày ở trên , người ta phải dùng Kỹ Thuật Nội Soi Khí Quản (Bronchial Endoscopy) để lấy “Vật Lạ” trong khí quản ra , phải Rửa Khí Quản (Bronchial Toilette) và chữa trị mạnh tay với các KHÁNG SINH phù hợp và với liều lượng đúng mức . Ngoài ra , phải cho bệnh nhân thay đổi vị trí nằm thường xuyên , phải hút đờm nhiều lần bằng ống hút mềm xuyên qua mũi . Khi cho bệnh nhân uống nước hay khi đút cho bệnh nhân ăn thường phải rất cẩn thận , đừng để bệnh nhân sặc và nên dùng các thức ăn mềm đã xay nhuyễn . Tốt hơn ết là làm lổ thông Dạ Dày với ngoài da (Gastrostomy) để có thể nuôi dưỡng bệnh nhân đúng mức và lâu ngày mà không gây nên chứng “Viêm Phổi Sặc” hay “Viêm Phổi Hít” nầy . Bệnh “Viêm Phổi Hít” thường khởi đầu bằng “Viêm Màng Phổi” rồi tiến dần đến “Tràn Dịch Màng Phổi” với Dịch bao quanh phổi , đưa đến “Mủ Màng Phổi” với Mủ bao quanh phổi và cuối cùng là tử vong do “CHỨNG SUY HÔ HẤP” (RESPIRATORY DISTRESS) và Chức năng Hô Hấp hoàn toàn bị suy sụp . Bệnh nhân sẽ không thở được nữa và Oxygen sẽ không còn vào Não Bộ . Con đường cuối cùng đưa đến Tử Vong (Road Map to The End) của những bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường là thế . Và vì vậy , theo chúng tôi , SAU KHI bị bệnh “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” suốt hai tháng trời , RẤT CÓ THỂ :VUA QUANG TRUNG ĐÃ QUA ĐỜI VÌ BỆNH VIÊM PHỔI HÍT (ASPIRATION PHEUMONIA) dẫn đến tình trạng :TRỤY HÔ HẤP(Respiratory Distress) X/ KẾT LUẬN (CONCLUSIONS) : Và như thế , dựa vào các hiểu biết của Y Khoa ngày nay phối hợp với các Tư liệu Sử Học có giá trị còn lưu lại , chúng tôi hy vọng là chúng ta đã có thể đi đến kết luận “KHÃ DĨ” cuối cùng để có thể TRẢ LỜI HAI CÂU HỎI mà hằng bao thế hệ người Việt Nam đã đặt ra về “Cái Chết của Vua Quang Trung” : “NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” : 1/ CĂN BỆNH CỦA VUA QUANG TRUNG : XUẤT HUYẾT NÃO , DƯỚI MÀNG NHỆN (SubArachnoid Hemorrhage) do “VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Rupture of Aneurysm) 2/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG CỦA VUA QUANG TRUNG : VIÊM PHỔI HÍT (Aspiration Pneumonia) dãn đến TRỤY HÔ HẤP (Respiratory Distress) Theo chúng tôi , hai câu trả lời trên là hai câu trả lời “KHẢ DĨ NHẤT” và “CÓ ĐỘ CAO TIN CẬY NHẤT” mà chúng ta ngày nay có thể suy diễn được từ các tư liệu Sử Học còn lưu lại và qua các hiểu biết của Y Khoa ngày nay (2008) về Căn bệnh và về nguyên nhân Tử Vong của Vua Quang Trung hơn 200 năm trước đây . B.S. Bùi Minh Đức
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 7:58:20 GMT 9
Hoàng thân Vĩnh San ở đảo La Réunion Võ Quang Yến Tấm thân vàng ngọc long đong, thế là xong ! Ngoảnh nhìn non nước, trời bể mênh mông. Sơn hà cách biệt muôn trùng ! Bài hát Nam bình Lẽ đăng quang vua Duy Tân Vua Duy Tân ngự giá Năm 1987, trong dịp di hài Vua Duy Tân trên đường chở về nước, quá cảnh qua Pháp, một lễ truy điệu đã được tổ chức sáng hôm thứ bảy 28 tháng 3, lúc 10 giờ, tại Viện Phật giáo Quốc tế còn gọi Chùa Vincennes, cạnh hồ Daumesnil, quận 12, Paris. Hoàng thân Georges Vĩnh San tức Nguyễn Phúc Bửu Ngọc, người con trai thứ hai của Vua Duy Tân tức Hoàng thân Vĩnh San, cậy tôi lấy danh nghĩa Hội trưởng Hội Người Yêu Huế đứng ra đọc điếu văn. Là người Việt Nam, ai mà không biết ông vua ái quốc nầy. Nhưng một bài điếu văn đứng đắn cần phải có những chi tiết về đời sống của ông. Hồi ấy tôi chỉ có trong tay hai tập bằng tiếng Pháp : Hồ sơ Vua Duy Tân của tác giả Hoàng Trọng Thược, chỉ giới hạn vào giai đoạn ở Huế, và Vua Duy Tân (1907-1916) hay Hoàng thân Vĩnh San (1900-1945) của tiến sï luật học E.P. Thébault, tạm thời qua bản đánh máy. May gần đây, Hoàng thân Claude Vinh San, tức Nguyễn Phúc Bửu Vang, người con trai thứ ba của Vua Duy Tân, sau nhiều năm nhẫn nại tìm kiếm đã tỉ mỉ sưu tầm được một số tài liệu dồi dào rải rác khắp nơi và thu thập lại trong một cuốn sách thư tịch : Duy Tân, Hoàng đế Việt Nam 1900-1945 lưu đày ở đảo La Réunion hay Số mệnh bi thảm của Hoàng thân Vĩnh San có thể làm căn bản cho mọi khảo cứu sâu xa sau nầy trong các tài liệu lịch sử quốc tế. Vai trò chính trị của Vua Duy Tân - Hoàng thân Vïnh San tuy đã được bàn cải nhiều trong sách báo trong và ngoài nước, còn cần được tìm kiếm để hiểu biết sâu rộng hơn. Ngày 20 tháng 11 năm 1916, chiếc tàu Guadiana khởi hành 17 ngày trước từ Cap Saint-Jacques, sau một chuyến vượt trùng dương không ngừng, cập bến Pointe des Galets ở đảo La Réunion lúc 7 giờ rưởi sáng. Chia sẻ số phận lưu đày của Hoàng thân Vĩnh San, lúc ấy 17 tuổi, có thân phụ Hoàng thân Bửu Lân tức vua Thành Thái, 37 tuổI, thân mẫu bà Hoàng Thị Định, hiền thê bà Hoàng thị Vàng tức Hoàng Quý Phi, em trai Hoàng thân Vĩnh Chuôn, em gái Công chúa Lương Nhân, hai bà Hồ Thị Nhân (có con trai 12 tuổi), Hồ Thị Mừng (có hai con 3 và 2 tuổi) vợ và thiếp của vua cha và những người phụ tá. Các nhà báo nhận xét chỉ có hai hoàng thân mặc âu phục, tất cả những người khác đều mặc đồ Việt Nam, các bà tha thướt trong những chiếc áo dài, vòng xuyến đầy người. Sau đó cả đoàn 14-16 người lấy tàu lửa, trong toa xe - phòng khách của ông Thống đốc đảo, về thành phố Saint-Denis. Tháp tùng có ông De La Vigne Sainte-Suzanne, đổng lý Văn phòng, thiếu úy Deroche và ông Trưởng ban bảo vệ. Đoàn đem theo khoảng 30m khối hành lý, trong số nầy chắc có bộ Sử ký Cách Mệnh Pháp của tác giả Michelet vì trước khi rời nước, ông Khâm sứ Charles phái ông thư ký riêng Lê Thanh Cảnh lại nhắn có thể cần bao nhiêu tiền, bao nhiêu sách cùng được, Hoàng thân Vĩnh San từ chối, chỉ yêu cầu bộ sách kia . Ngay từ khi mới đến đảo, Hoàng thân bị ốm và phải đi nghỉ ở vùng Hell Bourg một thời gian trước khi trở về lại Saint-Denis. Sau nầy ông đã phải thay địa chỉ ở nhiều lần, lúc nào cũng thuê nhà, chứ không có đủ tiền để mua như nhiều vị vua chúa các nước khác cũng bị lưu đày ở đây. Chính phủ Pháp trợ cấp cho ông mỗi tháng một số tiền khá nhỏ nhưng không khi nào ông chịu tự hạ mình phàn nàn hay xin tăng lương. Sống kham khổ không được bao lâu, ba bà mẹ, vợ và em gái của ông lại không chịu nổi khí hậu, xa xứ nên xin và được hồi hương. Bắt đầu từ đây, ông sống một mình nơi đất khách quê người vì bất bình với vua cha, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Nhưng may ông bẩm sinh rất cam đảm lại có nhiều nghị lực để đối phó với tình thế. Ông ghi tên đi học vô tuyến điện trước khi mở tiệm Radio-Laboratoire (Phòng thí nghiệm vô tuyến) bán hàng và chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài và đi học thêm sinh ngữ, luật học. Người ta bảo ông thành thạo tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Ông ít giao thiệp với người Pháp. Chính quyền hoàn toàn quên bỏ ông. Ông chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông thích trèo núi, đi câu, không ngần ngại bắt chuyện với những người ngồi câu bản xứ, phần nào cũng giúp khuây khỏa nỗi nhớ thuở chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm... Ông thích nghe nhạc, học đàn vĩ cầm, trở thành hội viên Hội Yêu Nhạc và chơi ở nhà với bạn hay trong ban nhạc cuối tuần hoặc khi gia đình có lễ lạt. Ông học cỡi ngựa, đua ngựa và thắng nhiều cuộc đua. Ở trường đua ngựa ông và Hoàng thân Vïnh Chuôn, người nhỏ con (1m51) và nhẹ cân (41kg), là hai nài kiện tướng, quần chúng thường hoan hô ông Vua Tàu. Ông học đánh kiếm và thuộc loại người đánh giỏi. Ông chú trọng về nghệ thuật quân sự. Trong suốt thời kỳ chiến tranh thế giới, ông luôn găm bản đồ trên tường tiệm hàng để theo dỏi chiến sự. Tiện dịp, ông hùng hồn giải thích chiến trận làm lóa mắt cử tọa kính cẩn ngồi nghe. Nói chung, ông được xem là một người tò mò, đụng chạm tới đủ mọi lãnh vực. Say mê văn chương Pháp, ông đọc sách nhiều, viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Ông có chân trong Hội Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật. Bà Hội trưởng Eléonora Revest đánh giá ông là một người có học thức, một nhà diễn thuyết hùng biện. Ông thích viết loại văn xuôi thơ mộng. Trong bài Tiếng nói của vạn vật, ông bắt đầu với những câu : “Tôi thích tiếng thì thầm của cơn gió nhẹ khi nó hát hay khóc trong các cành cây. Tôi thích những lời tâm sự du dương của gió với cây trong rừng, với sóng dưới biển, với sao trên trời. Nhưng hơn nữa, ru ngủ tôi, làm tôi say mê, khoái trá là tiếng gọi của đại dương, lời rên rỉ vạn năng vang lên trong cảnh đêm im lặng như một bài tụng ca vô tận...” Rồi ông kết luận : “Tiến lên Thượng đế, đấy là mục đích đời bạn và của mọi đời sống khác, bạn nên học yêu thuơng, đấy là bí quyết của hạnh phúc, bạn nên học đau khổ, đấy là bí quyết của sự thanh lọc, của cuộc tiến lên ánh sáng, đau khổ là chị em của vui sướng, hai mặt giữ thăng bằng, bổ sung nhau và tô điểm nhau. Bạn nên học tự biết mình và chế ngự những sức mạnh tiềm tàng và ẩn kín. Từ đấy, bạn khám phá ra bí mật của Vũ trụ và những quyền lực đã chi phối. Sự huy hoàng của sự nghiệp thần thánh së tiết lộ ra ngay trong lòng bạn và trong mọi mặt ”. Trong bài Variations sur une lyre brisée (Những biến tấu của một cây đàn lia gäy vỡ) được Giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion (1924), ông tâm tình : “Ở một vài đầu óc, nếp cũ hoài nghi, thói quen mỉa mai ngay cả chính mình, làm khó mọi chi phối xúc cảm. Trong cuộc phòng vệ có đạo đức, hoài nghi là mang một vỏ sắt, mỉa mai là vận dụng một cái khiên. Nhưng ta không thể luôn được bảo vệ; đến một lúc, khi ta tưởng được an toàn, khi ta lột bỏ áo giáp mà ta đã kiên cường chịu đựng với một nụ cười, đấy là khi ta rất nhạy cảm với một vết châm cũng như với một cái vuốt dù nhỏ nhẹ ”. Tuy hoạt động nhiều, ông có cảm giác trơ trọi và thấy cần có người bạn đường. Đã chính thức có vợ và không ly dị, ông chỉ có thể sống chung mà không cưới được người chia sẻ giường chiếu với mình. Vì vậy, con sinh ra phải mang tên mẹ. Các con ông thường gọi ông là Dede, biến âm của những danh từ Âu Mỹ Daddy, Papa. Khéo tay, tự ông làm đồ chơi cho con như những hình tượng trong truyện Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Cô gái đầu tiên chung chạ chăn gối với ông là Marie Anne Viale (sinh năm 1890, nay đã mất), sinh được một người con trai năm 1919, Armand Viale. Cô bạn thứ nhì là một thiếu nữ vùng Salazie, Fernande Antier (sinh năm 1913), đem lại cho ông tám người con, bốn trai, bốn gái : Thérèse (1928, đã mất), Suzy (1929), Solange (1930, đã mất), Georges (1933), Claude (1934), André (1935, đã mất), Roger (1938) và Ginette (1940, đã mất), đều mang họ Antier. Năm 1988, bà nầy đã có về thăm quê chồng. Vì một lý do riêng tư không rõ, ông rời bà Antier và sống với một cô gái vùng Saint-Benoît, Ernestine Maillot (sinh năm 1924), hiến cho ông mụn gái út, Andrée Maillot (sinh năm 1945). Phải đợi đến năm 1946, theo ý chí của ông và nhờ sự tận tụy của ông Roger Guichard lo việc giấy tờ, tòa án thành phố Saint-Denis mới chịu cho các con ông mang tên ông. Chỉ có năm người được hưởng vinh dự đó : Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée vì Armand Viale, đã trưởng thành, giữ tên cũ của mình. Nhưng toà thị chính đảo chỉ biết có một tên Vĩnh San nên lấy tên ấy làm họ. Vì vậy ta mới có những tên kỳ lạ Georges Vinh San, Claude Vinh San. Thật ra, vua Thành Thái đã có đặt tên cho các cháu, đúng theo thể thức triều đình nhà Nguyễn và Đế hệ thi của đức Thánh Tổ Minh Mạng. Trong bìa sách của mình, tác giả Claude Vinh San không quên ghi tên Nguyễn Phước Bảo Vang (Phước là một cách đọc trạnh chữ Phúc). Các con ông đều có rửa tội và được nuôi lên trong lễ nghi công giáo.Với một tấm lòng độ lượng và nhân ái, không có chút óc não bè phái, ông có chân trong Hội kín Franc-Maçonnerie (1927) thường xác nhận những nguyên tắc tình nghĩa anh em. Trong một thông điệp gởi cho Hội nầy, ông mở đầu : “Chúng ta đang trải qua những giờ phút nghiêm trọng. Khắp mọi nơi trên hành tinh của chúng ta, nhiều triệu chứng, có khi ít được nhận thức, chứng tỏ Nhân loại đạt đến một lúc mà sự sinh trưởng đòi hỏi nó thay đổi chiều hướng trong con đường tiến lên một mục đích chính ngay những triết gia vĩ đại nhất cũng khó lòng miêu tả một cách kiên quyết nếu họ ý thức khả năng sai lầm của chủng loại chúng ta ”. Rồi ông kết luận : “Hy vọng rồi một ngày, nhờ công tác của các bạn, Hội sẽ chiến thắng những hận thù giữa con người và giữa các nước đồng thời hợp nhất Nhân loại trong một tình huynh đệ trong sáng, không vết bằng cách bãi bỏ mãi mãi mọi tương phản giữa các giai cấp và các chủng tộc ”. Ăn nói tự do, không ngần ngại đề cao tinh thần dân chủ, giải phóng dân nghèo như trong những ngày nóng hổi cûa Mặt trận Bình dân năm 1936, ở một hòn đảo mà quyền hành nằm gọn trong tay một chính thể quý tộc 23 gia đình, ông được gán cho danh từ cộng sản, nhưng không chắc ông đã có ghi tên vào đảng. Trái lại, ông ngậm câm về quá khứ của mình, về những ước mong cho tương lai đất nước, về triều đại nhà Nguyễn. Chỉ có một lần, ngày 5 tháng 6 năm 1936, ông viết một lá đơn cho ông Bộ trưởng bộ Thuộc địa, kể lại cuộc khởi nghĩa năm 1916 và vai trò bất đắc dĩ của ông, trong mục đích xin được ân xá. “Tôi đứng trước trường hợp phải chọn giữa hai đường : hoặc mặc để ám sát người Pháp và rồi dự một cuộc trấn áp đẫm máu hoặc tố cáo những đồng bào của tôi và phàm một sự hèn hạ. Để thoát ra trường hợp đau xót ấy, tôi chỉ còn một phương cách : nhận làm chỉ huy cuộc khởi nghĩa...” Đơn không được trả lời hay bị từ chối cũng như đơn xin vào quốc tịch Pháp năm 1920, ba đơn xin được qua cư trú ỏ Pháp nội địa trước đây giữa 1929 và 1935 và sau nầy năm đơn xin nhập ngũ của ông, giữa 1936 và 1940. Có người tin ông bốn lần được đề nghị bí mật đưa về Việt Nam nhưng ông từ chối vì ông chỉ muốn trở về đường đường chính chính. Những đơn của ông đã được chuyển về Paris với kiến nghị bất lợi của chính quyền địa phương. Cũng dễ hiểu thôi : chính quyền nầy theo chính phủ Vichy mà Hoàng thân Vïnh San được kê vào bản những người thân Tướng De Gaulle. Hơn nữa, ông Thống đốc Pierre Aubert, qua mắt ông đổng lý Văn phòng Pillet, một người độc đoán, tham lam, cho những cuộc hội họp bạn bè ở tiệm hàng của ông nằm ở góc hai đường Jules Auber và Labourdonnais (gọi nhạo là “Hàn lâm viện góc phố ” của các nhóm Do Thái - Cộng sản - Gaulliste) có tính cách khả nghi và từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1942, ông bị bắt giam. Một ông vua đã từng nổi dậy chống chính quyền thuộc địa Pháp thống trị nước ông, bây giờ lại chạy theo ông tướng lưu vong muốn giải phóng nước Pháp khỏi cuộc chiếm đóng của Đức ! Có người xem trường hợp oái ăm nầy là một trong những mâu thuẩn trong đời Hoàng thân Vïnh San. Thật ra, ông chỉ tranh đấu dành tự do độc lập cho một quốc gia, một dân tộc, dù là Việt Nam hay Pháp. Tinh thần nầy ông có đã từ lâu, có thể ngay từ những ngày thụ giáo ông thái phó Eberhardt, tiến sĩ khoa học, ở kinh đô Huế. Rất tinh thông trong ngành vô tuyến điện nhờ đã tự học thêm, ông có viết nhiều bài kỹ thuật trong các báo chuyên môn và tiếp xúc với nhiều chuyên viên vô tuyến nghiệp dư các nước khác qua tín hiệu FR8VX. Ngay chính quyền địa phương cũng cậy ông dựng một đài thu-phát cho đảo. Nhờ có máy mạnh, ông đã bắt được những đài quốc tế, từ Delhi, Sài Gòn qua Tokyo, Melbourne, ngay cả những đài bên Mỹ. Ngày 18 tháng 6 năm 1940, ông nghe được lời kêu gọi của Tướng De Gaulle ở đài BBC trong chương trình Tiếng nói của nước Pháp. Lập tức ông nối liên lạc với nước Pháp Tự do và kiếm cách chuyển tin cho quân đội Pháp chưa đến đảo. Nhờ ông mà nhóm người kháng chiến ở đảo theo dõi được diễn biến của cuộc thế chiến thứ hai và nhất là những bước tiến của quân Đồng Minh. Ông trở nên linh hồn cûa nhóm kháng chiến ở đảo. Sau ngày giải phóng, chính phủ nước Pháp Tự do, qua đề nghị cûa ông Capagorry, Thống đốc mới, không quên công lao của ông và đã tặng thưởng ông Huy chương Kháng chiến với phù hiệu. Trong thư cám ơn Tướng De Gaulle, Hoàng thân viết : “Khi tiếp nhận tôi trong số những người, tháng 6 năm 1940, không chấp nhận nước Pháp bi hạ thấp vì thua một trận, ông đã làm vinh dự tôi, buộc tôi gắn bó nhiều hơn nữa, nếu có thể, với lời mà tôi thề từ lâu phụng sự một Tổ quốc đã thừa kế cho tôi một gia sản tinh thần ”. Ngày 28 tháng 11 năm 1942, khi chiếc khu trục hạm Léopard dưới quyền của ông thuyền trưởng Richard cập bến Saint-Denis mang cờ Croix de la Lorraine, ông tình nguyện nhập ngũ và ông phó thuyền trưởng Baraquin thấy ông có nhiều kiến thức về vô tuyến điện, nhận ngay ông làm hạ sĩ vô tuyến trong một thời gian ba tháng. Vài ngày sau, khi tàu rời bến, ông đã bận đồ thủy thủ rời đảo La Réunion, chấm dứt 26 năm biệt xứ và mở một trang sử mới cho đời ông. Nhớ Huế 21 : Chùa Huế (2004) Tượng đài sông Hương (2004) Netcodo (02.2006)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:11:17 GMT 9
Vua Duy Tân với mối tình dang dở Võ Thu Tịnh Vua Duy Tân là một anh hùng cứu quốc của dân tộc ta. Trong lịch sử đông tây kim cổ chưa thấy có một vị vua nào trẻ tuổi, bỗng hy sinh ngai vàng bệ ngọc để dấn thân vào một cuộc khởi nghĩa giải phóng đất nước như vua Duy Tân. Mà cũng ít khi thấy một loạt có ba vị vua liên tiếp nhau, trong vòng ba chục năm (1885 đến 1916), nổi lên chống đuổi xâm lăng để nhận lấy cảnh lưu đày khổ nhục như các vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân nước ta! Thế mà sự nghiệp của các vị vua nầy, nói chung, của Duy Tân cũng như mối tình dang dở của nhà vua nói riêng, lại không được mấy người biết đến. Có lẽ một phần, cũng vì những tài liệu liên quan đến "cách mạng" trong thời ngoại thuộc đều bị tiêu hủy, không ai dám tàng trử. Chỉ gần đây Hoàng Trọng Thược, trong Hồ sơ vua Duy Tân, đã dày công sưu khảo, đưa ra ánh sáng một giai đoạn đen tối của nước ta mà các sách lịch sử chỉ nói phớt qua hoặc không hề đá động đến. Chúng tôi hết sức tán thành ý kiến của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh (bút hiệu Toàn Phong) được dẫn ra trong bài tựa của Hồ sơ vua Duy Tân: "Lần đầu tiên chúng ta có một hồ sơ đầy đủ về vua Duy Tân. Phải quảng bá sự sưu tầm của ông Thược đến đại chúng". Bối cảnh lịch sử Năm 1885, Bắc kỳ bị Pháp đánh chiếm. Trong triều Huế, các quan chia thành hai phe: phe chủ hòa có Trần Tiển Thành và Nguyễn Hữu Độ, phe chủ chiến có Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường ra mặt ngoại giao khéo léo với Pháp để Tôn Thất Thuyết ngầm huy động toàn dân kháng chiến. Với danh nghĩa phụ chính, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm hết quyền hành, triệt hạ những người chủ hòa. Trước đó, vua Kiến Phúc mất (ngày 7 tháng 4 năm Giáp Thân - 1884), em là Hàm Nghi 12 tuổi kế ngôi, Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart trách cứ triều đình ta sao không xin phép nước Pháp. Đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một đội pháo binh, từ Bắc vào Huế để thị uy. Triều đình phải làm lại lễ tấn phong Hàm Nghi, để Rheinart và Guerrier đến dự, Pháp mới chịu rút quân về Hà Nội. Vì phong trào giải phóng nổi lên khắp nơi, thống tướng De Courcy vừa sang đến Hà Nội, liền kéo 1000 quân vào Huế ngày 18 tháng tư năm Ất Dậu (1885) nói là để hội thương với ta, có ý nhân dịp nầy bắt Tôn Thất Thuyết là người đang ngầm yểm trợ kháng chiến. Thuyết biết được, cáo ốm không đến dự. De Courcy bảo ốm cũng phải nằm cáng mà sang sứ quán Pháp. Qua ngày 22 tháng tư Ất Dậu (5-7-1885), Pháp mở tiệc khao quân, để sáng hôm sau vây bộ Binh bắt Thuyết, thì vào 1 giờ đêm hôm ấy, Thuyết ra lệnh tấn công vào đồn Mang Cá và sứ quán Pháp. Cuộc tấn công thất bại, Pháp phản công, quân ta bị thua, Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở, dựng cờ kháng Pháp, xuống hịch Cần Vương, văn thân nghĩa sĩ khắp nơi hưởng ứng nhiệt liệt. Ở kinh đô (Huế) Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi và mãi đến mấy năm sau, (1888), Pháp mua chuộc được một cận vệ của Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc người Mường, mới bắt được nhà vua, đày đi Algérie. Cũng vào năm 1888, Đồng Khánh mất, Pháp đưa Thành Thái 10 tuổi, kế vị. Lớn lên Thành Thái tỏ ý tự lập, và thường phản đối chính phủ Pháp. Có lần vua định trốn sang Tàu, nhưng việc bại lộ, bị bắt lại. Từ đó, vì bị Pháp kiểm soát chặt chẽ từng hành động, Thành Thái làm ra vẻ mất trí để ngụy trang. Năm 1907, biết được Thành Thái liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở ngoại quốc, Pháp lấy cớ nhà vua bị điên, buộc các quan trong triều dâng biểu yêu cầu vua từ chức. Tất cả đều đồng ý, trừ Ngô Đình Khả (thân sinh Ngô Đình Diệm), không chịu ký. Sĩ phu miền Trung có câu: "Phế vua không Khả". (1) Pháp đặt hoàng tử Vĩnh San, con của Thành Thái, 8 tuổi, lên ngôi, vương hiệu Duy Tân. Duy Tân thông minh và có chí khí. Năm 1908, ở Trung Kỳ phong trào Duy Tân dân chúng nổi lên xin xâu, chống thuế, bị đàn áp dữ dội. Lúc đó vua mới 9 tuổi, mà đã phán với đình thần rằng: "Nếu trong nước hay có loạn là vì nhân dân bị thiếu thốn. Từ nay sắp tới, lương bổng của ta 500$ một tháng, ta chỉ lãnh 200$ thôi, giao cho các thầy 300$ đem giúp đỡ những kẻ nghèo khó". (2) Có lần vua hỏi Hồ Đắc Trung, thượng thư bộ Học: "Thày nghĩ sao về người Pháp đô hộ ta?". Trung tâu: "Chúng ta bị trị còn biết nói gì nữa! Xin Hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới" (3) Vào năm 1913, nghe tin Khâm sứ Mahé đem người đến đào mả vua Tự Đức để lấy vàng ngọc châu báu, Duy Tân tức tốc thân hành đến ngăn chận, nhưng tới nơi thì đã muộn, mọi việc đã xong xuôi. Ngày sau, Duy Tân viết thư cho chính phủ Pháp hạch tội và yêu cầu khiển trách những viên chức đã lộng hành, nhờ Toàn Quyền Pháp chuyển. Viên Toàn Quyền không chuyển, mà còn đích thân đem thư ấy vào cung đưa cho Hoàng thái hậu, mẹ đích của vua, Bà là con gái Cần chánh đại học sĩ Nguyễn Thân, tuy không có con, song vẫn có thế lực lớn trong triều. Bà đòi vua vào cung, buộc vua xin lỗi viên Toàn Quền Pháp. Bất đắc dĩ Duy Tân phải bấm bụng tuân theo. (3) Đầu năm 1914, Duy Tân họp các vị thượng thư, chỉ thị cho hai người phải qua Pháp trình Tổng thống Pháp một dự án sửa đổi bản hiệp ước Pháp-Nam Patenôtre đã bị Pháp vi phạm rất nhiều. Không vị nào dám nhận sứ mạng nầy. Thượng thư Huỳnh Côn lại đi mách với Hoàng thái hậu để Bà la rầy nhà vua một cách gắt gao. Về sau, trong một buổi học chữ Hán với thượng thư Huỳnh Côn, Duy Tân phàn nàn: "Không có ông thượng thư nào chịu nghe ta cả. Ta làm vua chỉ có hư danh thôi." Huỳnh Côn tức tốc đi mời Chủ tịch hội đồng và Thượng thư bộ Hình đến. Duy Tân lặp lại câu đã nói đó. Vừa Nguyễn Hữu Bài đi ngang qua, nghe được, tâu: "Ngài muốn đánh Pháp, nhưng Ngài lấy gì mà đánh? Ngài không có tài chánh mà cũng không có quân đội." Nhà vua làm thinh một chốc, rồi nổi giận la to lên: "Lúc nầy chính là lúc phải xúi dân nổi dậy, lúc mà nước Pháp đang lâm chiến". (4) Về mối tình dở dang của vua Duy Tân Sư bà Diệu Không, đã kể lại trong hồi ký "Vua Duy Tân và gia đình Hồ Đắc Trung" (chưa xuất bản), đại khái như sau: "Năm 1914, vua Duy Tân ra nghỉ mát ở cửa Tùng (Quảng Trị), thân sinh tôi là Hồ Đắc Trung theo hầu. Nhà vua lúc đó lối 15 tuổi, muốn có bạn chơi cùng lứa, nên truyền thân sinh tôi dẫn thêm anh chị em chúng tôi (hai anh tôi 15 và 16 tuổi, học sinh trường Albert Sarraut Hà Nội, chị tôi 13 tuổi, tôi 10 tuổi) cùng đi theo cho vui. "Mỗi buổi sáng, mặt trời vừa mọc, vua cho đòi đám trẻ đến để cùng đi ra biển bơi lội. Thân sinh tôi căn dặn chúng tôi phải giữ lễ vua tôi, không được tự do cười nói như đối với người thường, nhưng nhà vua lại rất dung dị, gọi các anh tôi bằng anh, gọi tôi bằng em. Ngài ít nói chuyện với chị tôi. Mỗi khi vui đùa cùng hai anh tôi và tôi, ở những trò chơi con nít, vua chỉ nhìn chị tôi mà không mời chơi. Khi nào Ngài cũng tỏ ra vui vẻ, song vẫn nghiêm trang. Chúng tôi rất mến Ngài, nhưng vẫn không dám cười đùa nhiều, sợ thân sinh chúng tôi quở. "Tôi còn nhớ một hôm chơi bắt còng (dã tràng) ở bãi biển. Ai bắt được nhiều sẽ được thưởng. Ngài bắt được con nào thì thả con nấy. Chúng tôi lấy làm lạ. Ngài bảo: "Bắt chúng lên cạn chúng sẽ chết, chi bằng thả cho chúng được tự do bơi lội, ta nhìn xem cũng vui rồi ". Thế là chúng tôi cũng đua nhau mà thả hết. Ngài lấy làm thích chí, khi thấy mấy con còng lội tung tăng, Ngài nói với hai anh tôi: "Ai bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta sẽ khổ sở, vì khi mất tự do là mất tất cả". Nói vậy rồi, Ngài thở dài kém vui. Nhưng sau đó, Ngài lại hồn nhiên như tuổi trẻ chúng tôi và lại vui đùa như cũ. "Mùa hè gần mãn, vua tôi bịn rịn lúc chia tay. Chị tôi ứa lệ nhìn Ngài. Ngài bảo nhỏ tôi: -Dỗ chị đi em, rồi sang năm chúng ta sẽ gặp nhau lại. "Năm sau gần đến hè, chị tôi xin đi theo chúng tôi ra cửa Tùng. Thân sinh tôi bảo: - Con đã lớn rồi, phải ở nhà với mẹ, không được đi nữa. "Thế là chị tôi phải ở nhà, khóc sưng cả mắt. Khi ra đến cửa Tùng, gặp lại chúng tôi, Ngài hỏi: -Sao thiếu mất một người? "Tôi tâu: -Mẹ chúng tôi bắt chị tôi ở nhà, chị ấy khóc quá sá. "Ngài nói: Thật là tội nghiệp cho chị ấy! "Mãn hè một tháng, một hôm có người thị vệ đến xin ảnh chị tôi đem vào nội cho hai ngài Thái hậu xem mặt. Một tuần sau, hai Ngài cho đòi thầy mẹ tôi vào chầu và sau đó, tôi thấy kiệu vua đệ ra nhà tôi một đôi bông tai và một đôi vòng vàng cho chị tôi, thầy mẹ tôi quỳ lễ bái lãnh. Đó là "lễ hỏi" của vua dành cho chị tôi. Chị tôi cũng ra lạy tạ ân vua hạ cố. "Vào khoảng tháng 12 năm 1915, một hôm thầy tôi ở triều về gọi mẹ tôi vào buồng nói rất khẽ và nghe tiếng ngập ngừng như đè nén hơi thở để khỏi bật ra tiếng khóc. Năm ấy tôi đã 12 tuổi mà cũng đã tinh ý, giả bộ xô cửa bước vào tự nhiên, thấy mẹ tôi mắt đỏ hoe và bảo tôi ra gọi chị tôi vào. "Trông thấy chị tôi, thân sinh tôi nói: - Con vào lấy đôi vòng và đôi bông tai ra đây để mẹ con đem vào Nội dâng lại cho vua vì Ngài Ngự muốn từ hôn, mặc dù chỉ còn hai tháng nữa là đem con vô Nội. "Chị tôi nghe nói điếng cả người, tưởng như trời sập cũng không bằng, lâu lắm mới chạy đi lấy đồ vàng đưa cho tôi đem vào, chớ không vô phòng thân sinh tôi nữa. Thân sinh tôi nói là Ngài Ngự có ban rằng: "Thầy hãy an ủi con gái của thầy và gả ngay cho người khác, đừng để cô ấy buồn tội nghiệp. Thầy nên hiểu vì tôi thương cả gia đình thầy, nên mới phải từ hôn với người mà ta mến từ hai năm nay". "Thân sinh tôi nói thêm rằng: Ngài Ngự bảo phải đưa ngay vào Nội một thiếu nữ khác mà tôi phải chọn lấy. Bà xem ai đáng giới thiệu không? "Mẹ tôi đáp: Có cô con gái ông Phụ đạo Mai Khắc Đôn, tuy không đẹp lắm, song có đức hạnh. Ông vào tâu xem. "Một tuần lễ sau, lễ hỏi nhà vua lại đem đến nhà ông Phụ đạo họ Mai. (5) Và ngày 30-01-1916, lễ "Nạp Phi" được tổ chức trọng thể tại bộ Lễ, đúng với kỳ hạn triều đình đã rao báo. (6) Vì sao có sự thay đổi đột ngột như thế ? Có phải do những chính biến đương thời chăng? Nguyên là từ năm 1912, kỳ bộ Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, do Thái Phiên phụ trách đã bắt đầu chuẩn bị bạo động đánh Pháp. Đến năm 1914, Pháp chiến tranh với Đức, đó là cơ hội thuận tiện để dân ta vùng lên tranh đấu cho độc lập nước nhà. Hàng chục ngàn lính Việt mà Pháp tuyển mộ để gửi sang "mẫu quốc", phần lớn đã được cách mạng ta kết nạp làm "nghĩa binh", sẵn sàng ứng tiếp lúc lâm sự. Tại đồn Mang Cá (Huế), Trần Quang Trứ (thư ký tòa Công sứ Pháp ở Huế) vận động viên đại tá lính Lê Dương (gốc người Đức) để nội ứng chỉ huy 3.000 lính mộ, lính khố xanh, lính khố vàng. Trong thành nội Tôn Thất Đề và đội trưởng Nguyễn Quang Siêu đốc suất các đội thân binh, thị vệ trấn giữ hoàng thành. Trần Đại Trinh điều động lính tập giữ tòa Khâm sứ Pháp quay súng giúp nghĩa quân. Một đội cảm tử Nam Ngãi hiệp cùng dân quân phụ cận kinh thành công hảm cho được tòa Khâm sứ. Ở các tỉnh Quảng Trị, Đà Nẳng, Hội An, Quảng Nam, Tam Kỳ, Quảng ngãi, Bình Định, ngoài các lực lượng chính thức (lính tập, lính mộ) đã kết nạp được, còn có nghĩa quân võ trang với vũ khí trợ giúp từ bên ngoài đưa vào. Cờ khởi nghĩa sẽ nền đỏ với 5 ngôi sao trắng, lấy ý nghĩa "Ngũ tinh tụ tĩnh" ở Kinh Dịch. Phan Bội Châu đang bị Long Tế Quang bắt giam tại Trung quốc đã bí mật gửi Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm liên lạc với lãnh sự Đức. Lãnh sự Đức biếu một vạn đồng bạc Xiêm và hứa nếu hoạt động có tiếng vang ra để chính phủ Đức được biết, thì sẽ có viện trợ chính thức nhiều hơn. (7) Thái Phiên và Trần Cao Vân giả làm người đi câu, vào hồ trong thành Nội dâng kế hoạch lên, vua Duy Tân đồng ý tất cả. Duy vua lo ngại Pháp sớm đưa 3.000 lính mộ ở Mang Cá (mà cách mạng đã kết nạp dược) xuống tàu sang Pháp, nên hạ chỉ hối thúc hành sự. Ngày khởi nghĩa định vào một giờ sáng ngày mồng 3 tháng 5 năm 1916, Thái Phiên và Trần Cao Vân điều động chiếm giữ kinh đô, và rước Duy Tân ra khỏi hoàng thành, thành công sẽ rước vua về trở lại. Nhưng trước đó một ngày, có tên lính khố xanh ta đã chiêu dụ được, bảo với anh nó là Võ Huệ làm lính giản ở dinh Án Sát Quảng Ngãi ngày ấy liệu mà xin nghỉ kẻo đây rồi sẽ có loạn. Án Sát Phạm Liệu sinh nghi tra hỏi, Huệ sợ nên khai ra. Phạm Liệu trình với công sứ De Tastes. De Tastes mật điện ra Huế. Khâm sứ Charles ra lệnh thâu tất cả súng đạn, tập trung hết thảy binh lính lại, và điện cho các tỉnh biết để đề phòng. Trần Quang Trứ, người có công lớn chiêu dụ lính ở đồn Mang Cá, thấy lệnh thu súng, cắm trại, biết việc đã bị lộ, liền đi đến bến Thương Bạc lúc 11 giờ đêm gặp vua Duy Tân đã cải trang theo lối thường dân, có Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu hộ vệ, xuống thuyền của Thái Phiên và Trần Cao Vân đến rước. Trứ liền đi vòng ra ngã sau vào tòa Khâm Sứ tố giác. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Thái Phiên và Trần Cao Vân định đưa vua đi tắt đường núi về địa điểm đã định là Bà Nà ở Quảng Nam, nhưng vua bị mệt, tạm nghỉ lại một ngôi chùa bên núi Ngũ Phong, gần vùng Nam Giao. Sáng sau, khi nhà vua đang sửa soạn lên đường, thì có Le Fol, Đổng lý văn phòng tòa Khâm, Sogny chánh mật thám Huế, Lanneluc, giám binh với 21 lính khố xanh và Trần Quang Trứ, còn bên ta có Võ Liêm, Tá Lý bộ Lễ và Hồ Hành, đội cơ, với một toán lính Nam triều, đến bắt. Duy Tân vẫn bình thản, đối đáp như khi còn ở trong triều. Gặp vua, Le Fol trịnh trọng cất mũ chào: - Tâu Hoành Thượng, Ngài ngự giá dạo chơi xong rồi chứ? Duy Tân nhún vai đáp: - Các ông chả hiểu được đâu! Trần Quang Trứ tiến đến hỏi: - Tâu Hoàng Thượng, tôi là người cùng Trần Cao Vân hội kiến Hoàng Thượng tối qua ở bên Thương Bạc, chẳng hay Hoàng Thượng có nhớ không? Vua nhìn Trứ một cách khinh bỉ: -Phải, ta nhớ mi, đồ phản quốc! Rồi vua ngoảnh mặt quay sang chỗ khác. Triều thần gặp vua, vừa mừng vừa tủi, năn nỉ vua trở về Nội, Duy Tân khẳng khái từ chối, thà chịu bị bắt, nhất định không quay lại hoàng cung. Lính dương lọng rước, Duy Tân không cho và đi bộ đến chiếc xe của Pháp đưa vua về giữ ở đồn Mang Cá. Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị còng tay dẫn về Huế tống giam, đến ngày 16- 4-1916, cả bốn vị bị chém tại An Hòa (cách Huế vài cây số). Tại các tỉnh cũng xảy ra nhiều việc thảm sát như thế: Ở Quảng Ngãi hai cụ Tú Ngung, cử Sụy cùng một số đông dồng chí bị tội tử hình, 200 người bị đày đi Côn Lôn. Ở Quảng Nam cũng rất nhiều người bị liên lụy, Phan Thành Tài và một số tử hình, hoặc đày đi Lao Bão, Thái Nguyên, Côn Lôn như y sĩ tân học Lê Đình Dương, Lý trưởng Lê Cơ, Tú tài Trương Bá Huy, Đỗ Tự.. Pháp khám phá nhiều tài liệu tổ chức chính phủ, quân nhu, quân phục, các ấn tín... Ở Quảng Trị, Khóa Bão bị tra tấn khốn đốn. Các tỉnh khác hưởng ứng chậm nên không bị đàn áp gì nhiều. Về bản án Duy Tân Khi còn trong ngục, Trần Cao Vân lo cho vua Duy Tân bị sát hại, nên viết thư trần tình cùng thượng thư Hồ Đắc Trung là người đang phụ trách thảo bản án xử vua. Thư viết trên cuộn giấy quyến hút thuốc, bí mật trao người chuyển đi, nhận lãnh hết công việc bạo động xảy ra đều do ông và Thái Phiên xúc sử. Cuối thư ông khẩn khoản Hồ Đắc Trung tìm cách cứu vua, có câu: "Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt! "Trời còn đó! đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho thánh thượng sinh toàn! " Sư Bà Diệu Không kể lại rằng: "Vì mảnh giấy ấy mà thân sinh tôi bị bắt giam mấy ngày ở tòa Khâm để điều tra. Nếu không nhờ vua Duy Tân khai giải cứu, ắt thân sinh tôi phải chung một số phận, với các ông Trần Cao Vân." Sư Bà thuật lại lời khai của vua Duy Tân khi bị Pháp cật vấn như sau: "Hỏi: Ngài nghĩ sao về mảnh giấy nầy? "Đáp: Ông Trần Cao Vân làm việc lớn không thành, sợ tội bị tử hình nên cầu cứu với ông Hồ Đắc Trung. "Hỏi: Vì lẽ gì trước kia Ngài từ hôn với tiểu thư nhà họ Hồ? "Đáp: Vì tôi thương ông ấy đông con, sợ ông ấy bị liên lụy. Vả lại, các đồng chí của tôi khuyên tôi nên tránh gia đình ấy để bảo mật. "Hỏi: Vì lẽ gì ông Trần Cao Vân lại bảo đưa mảnh giấy này cho ông Hồ Đắc Trung? "Đáp: Vì ông Hồ Đắc Trung hay cứu người như đã cứu 42 nhà cách mạng ở tỉnh Quảng Nam năm 1908 trong vụ dân "xin xâu" lúc ông ấy làm tổng đốc ở đấy. "Hỏi: Ngài có bảo đảm là ông Hồ Đắc Trung vô tội trong vụ khởi loạn nầy không? "Đáp: Tôi xin hoàn toàn bảo đảm cho ông ấy. "Thế là mấy ngày sau, thân sinh tôi được Pháp trả lại tự do. Triều đình ủy cho thân sinh tôi soạn thảo bản án Duy Tân. Nội dung bản án đại khái như sau: "Vua Duy Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông minh song còn cạn nghĩ, bị bọn người mưu phản kích thích lòng ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng thành thì tội Ngài rất nặng, song Ngài còn vị thành niên, tưởng không đáng trách mà nên thương tình. "Đứng về phía chính phủ Bảo hộ, thì Ngài can tội "phản nghịch", nhưng đứng về phía chính phủ Nam triều, thì Ngài là một ông vua biết thương dân và được lòng dân. Như vậy, luận về tội, thì quả thật Ngài có tội đối với chính phủ Bảo hộ, còn đối với nhân dân Việt Nam, thì Ngài không có tội gì cả. "Vậy nên xét tình mà truất phế Ngài và để cho Ngài được tự do trở về với danh vị một hoàng tử như trước. Như thế lòng dân mới khỏi oán thán chính phủ Pháp là khắc nghiệt... " "Bản án nầy được Pháp chấp thuận, nên tuy bị đưa đi đày ở đảo Réunion gần Phi Châu, Ngài vẫn giữ tước vị hoàng tử... "Về sau, thân sinh tôi gả chị tôi cho vua Khải Định, nên mới được tin dùng như trước. Tuy được gả cho vua mới, nhưng tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi... " (8) Năm 1925, Khải Định mất, thọ hơn 40 tuổi, Duy Tân từ đảo Réunion, gửi về hai câu điếu: "Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu, hát bội, bỏ hết trần duyên trong một lúc. "Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng, hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu". Về lá bài Duy Tân Vận hội ấy, phải chăng là cuộc hội ngộ ngày 14 tháng 12 năm 1945 với Đại tướng Charles de Gaulle để chọn "lá bài Duy Tân" giải quyết vấn đề Việt Nam: Tướng De Gaulle quyết định đặt Hoàng tử trở lại ngôi Hoàng đế Việt Nam, ba kỳ thống nhất, dưới một chính thể trung ương hoàn toàn tự do cai trị và tổ chức nền kinh tế của minh. Pháp đảm nhận phòng thủ biên cương cho Việt Nam trong một thời hạn nào đó sẽ được minh định, để cất gánh nặng cho ta việc tạo lập một quân đội khi Việt Nam chưa đủ phương tiện để duy trì và tăng cường nó. (9) Tướng De Gaulle sẽ đích thân đưa Hoàng tử hồi loan vào đầu tháng 3 năm 1946... chẳng may, trên đường về thăm gia đình ở đảo Réunion, Ngài tử nạn máy bay ngày 26-12-1945 gần Bangui thuộc Trung Phi". (10) Tai nạn hay có mưu sát? Một bạn thân của vua Duy Tân là ẸP. Thébault cho biết trước khi rời Paris để về đảo Réunion thăm vợ con, Hoàng tử Vĩnh San có tiết lộ rằng: "Nước Anh chống lại việc tôi về Việt Nam và họ đã đề nghị tặng tôi 30 triệu nếu tôi từ bỏ ý định ấy ". Nhưng các cuộc điều tra cho đến nay chưa ngã ngũ ra sao cả. (11) * Cuộc đời của vua Duy Tân đã bao lần dang dở. Dang dở vì đã hy sinh mối tình đầu để tránh mối họa tày đình có thể xảy ra cho toàn gia người mình yêu, dang dở vì đã hy sinh ngai vàng của mình cho tiền đồ chung của đất nước, nạn nhân muôn thuở của tình đời phản trắc, của định mệnh khắc khe. Nhưng đây là một trong muôn ngàn hy sinh khác của toàn dân đã đâng hiến trên bàn thờ Độc Lập cho đất nưóc chúng ta. Bà Nguyễn Thị Định, mẹ vua Duy Tân Anh chị em vua Duy Tân CHÚ THÍCH * (1)-Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53. (Sau đó, Ngô Đình Khả bị buộc tội lập giáo đường không xin phép, phải về hưu tại nguyên quán xã Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, không được lãnh hưu bổng). * (2)-Báo Cải Tạo ngày 22-1-1949. (Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân,.s.đ.d., tr. 75). * (3)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 373-374. * (4)-Huỳnh Côn, hồi ký, do Jean Jacnal ghi lại bằng tiếng Pháp, đăng trong Revue Indochinoise năm 1924 (Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., tr.95) * (5)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 102-106. * (6)- Nạp Phi: Trừ Gia Long và Bảo Đại, các vua của nhà Nguyễn tuy có vợ theo thứ bậc lớn nhỏ nhưng không bà nào được phong Hoàng Hậu. Vì từ Minh Mạng, sợ bị tiếm ngôi, nên đặt ra lệ "ngũ bất lập" là: Bất lập Hoàng Hậu, bất lập Đông Cung, bất lập Tể Tướng, bất phong Vương, bất tuyển Trạng Nguyên. Còn các bà vợ vua đều gọi là phi, phân thành 9 cấp: đệ nhất Giai Phi, đệ nhị Giai Phi... cho đến đệ cửu Giai Phi. (Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., tr.76) * (7)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 136-137. * (8)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 143-148. * (9)- Chỉ dẫn của hoàng tử Vĩnh San, cựu hoàng đế Duy Tân, trong Hồ sơ vua Duy Tân, s.đ.d., trang 253. * (10)- Lời tiết lộ của cựu Trung tướng Alain de Boissiau, con rể của Tướng de Gaulle, trong Hồ sơ vua Duy Tân, s.đ.d., trang 346. * (11)- Hoàng Trọng Thược, s.đ.d., trang 263. Đăng lần đầu 6/2005
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:25:20 GMT 9
Gặp Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Ngọc, tức ông Georges Vĩnh San Mathilde TuyetTran Danh nhân Việt Nam Ở nhà quê, các cánh đồng hoa dầu đang nở hoa dưới làn mưa xuân trải dài như những tấm thảm vàng rực rỡ, óng ánh. Mọi người tất tả gieo, trồng. Tôi cũng còn vài trăm củ khoai giống để trồng, nhưng vào một ngày mưa như hôm nay, đất sét ướt bám dính cả kí lô chung quanh đôi giày, và trơn tuốt luốt như các tuyến trượt tuyết...đã đến lúc tôi phải đi gặp gỡ ông Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Lộc: Ông Georges Vĩnh San. Lịch sử đối với tôi là trường học, sách vở, văn khố, phim, ảnh...cũ kỹ, xơ xác, xa xôi, vàng úa bởi bụi thời gian. Khi ở trung học, như những bạn thiếu niên đồng lứa, tôi học, các chương lịch sử cận đại thời nhà Nguyễn, mà không hiểu phải học thuộc lòng những điều này để làm gì ? Những ngày tháng năm sinh, những ngày tháng tử, những ngày lên ngôi... chẳng có quan hệ gì với tôi cả. Bốn mươi năm sau, tôi nhìn lại lịch sử nước tôi với con mắt khác. Vài người chế diễu công việc khảo cứu lịch sử và những bài tôi viết, cho rằng tôi trở thành "bảo hoàng". Không, lịch sử nhà Nguyễn là một phần của lịch sử Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đã gánh chịu chung một số mệnh, nhưng bi thảm hơn, vì hoàng tộc là hoàng tộc, họ còn có phương tiện, và dân...thì là dân, nghèo khổ và dốt chữ . Thời đại quân chủ chấm dứt tại Việt Nam năm 1945, với sự cáo chung của Bảo Đại. Chúng ta đang sống trong tư tường cộng hòa với các giá trị như Độc Lập, Tự Do, Bình Đẳng và Nhân Ái. Ba vị vua nhà Nguyễn bị áp giải đi đày bởi chính quyền thuộc địa Pháp dưới thời đệ tam Cộng Hòa Pháp là vua Hàm Nghi tại Alger (Algérie), Thành Thái và Duy Tân tại đảo La Réunion trong vùng biển Ấn Độ Dương. Lúc đi đày, Hàm Nghi mới có 18 tuổi, Thành Thái 37 tuổi (bị quản thúc đã 9 năm rồi) và Duy Tân 16 tuổi. Các vua còn trẻ, nhưng có can đảm chống lại sự thống trị của chính quyền thực dân thuộc địa. Đó là một giai đoạn lịch sử giao thời giữa hai luồng ảnh hưởng văn hóa đối nghịch, đó là ảnh hưởng của Trung Hoa và ảnh hưởng của Pháp, mà các thế lực ảnh hưởng của tầng lớp quan lại trong triều đình theo xu hướng Trung Hoa còn rất mạnh mẽ. Tiếng Hán của Trung quốc vẫn còn là chữ viết chính thức của nhà Nguyễn. Mãi cho đến năm 1920, các khóa thi cuối cùng là vào năm 1919, vua Khải Định mới bãi bỏ các kỳ thi chữ Hán (thi Hương, thi Hội, thi Đình), chính thức mở đường cho chữ "Quốc Ngữ“ viết theo mẫu tự la tinh, mà các giáo sĩ Bồ Đào Nha, rồi sau đó Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine và những nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã chuyển âm và phát triển từ đầu thế kỷ thứ mười bẩy. Sự can đảm của ba vua được dân chúng kính trọng và thương mến. Tiếc thay, cả ba vua đều bị phản bội và công việc kháng chiến không kéo dài được là bao lâu. Ngày nay, sự tưởng niệm ba vua không thể được coi là một công việc đánh lạc hướng dư luận, vì chính cùng một chiều hướng với tinh thần của Duy Tân, người ta biết phân biệt ai là bạn của dân tộc Việt Nam – và những người khác (những người Pháp yêu chuộng tự do và những người thực dân theo Pétain). Tướng Decoux là một trong những trường hợp lạ lùng đã từ chối không theo lời kêu gọi của phong trào nước Pháp Tự Do (France Libre), mà dọn đường cho quân Nhật vào Việt Nam, đem lại những hậu quả tang thương mà mọi người đều biết. Sự lùng bắt Hàm Nghi và Duy Tân xảy ra một cách bi thảm vì hai vua trẻ này đã rời khỏi cung điện và cấm thành để đi kháng chiến. Trong mục đích cứu vua Duy Tân khỏi bị Pháp xử tử, quan đại thần Hồ Đắc Trung, theo lời yêu cầu của những người phụ tá vua đã bị bắt giam vào ngục, giảm trách nhiệm của Duy Tân và đổ hết tội lỗi lên đầu các người phụ tá. Vì thế, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn văn Siêu của phong trào Việt Nam Quang Phục Hội bị xử tử chém đầu, Duy Tân bị truất ngôi và đi đày khỏi xứ. Các dấu vết của các vua, sau thời Tự Đức, còn tìm thấy ở Pháp, ở Algérie và ở đảo La Réunion. Những cuộc gặp gỡ các nhân vật, gọi là, có trong lịch sử, và những công việc tham khảo tại chỗ đưa lịch sử nước tôi về gần hơn, sống động hơn và hiện đại hơn. Ông Georges Vĩnh San và phu nhân, bà Monique, tiếp đón tôi niềm nở tại nhà riêng. Vừa trông thấy ông bằng xương bằng thịt, tôi thấy ông thật có tướng hoàng gia, có phẩm cách trang nghiêm nhưng khiêm tốn, nhất là hai tai to như tai Phật, dấu hiệu của sự tốt bụng và rộng lượng. Giọng ông rất trầm, đều đặn, và cách nói đơn giản, thành thật tăng thêm vẻ bình tĩnh, tự tin. Georges Vĩnh San là con trưởng của hoàng tử Vĩnh San và bà Fernande Antier, sinh ngày 31 tháng một năm 1933 tại Saint Denis thuộc đảo La Réunion. Ông bà Vĩnh San có bốn người con, ba gái một trai. Sau một thời gian sinh sống ở đảo, ông bà trở về hưởng hưu tại Pháp. Trước khi tôi có dịp đặt câu hỏi về tên của ông, thì ông đã than thở về cái sự rắc rối hành chánh này. Một sự luyến tiếc lớn, thổ lộ qua các câu...“ bà biết không, tôi truyền lại cái tên này (Vĩnh San) cho các con tôi và cháu tôi, nhưng năm mươi năm nữa, một trăm năm nữa, sẽ không ai biết đấy vào đâu...“ Hoàng tử Vĩnh San Khi bị giải đi đảo, vua Duy Tân trở lại thành hoàng tử Vĩnh San, bị chính quyền thuộc địa ghi chép trong sổ sách hành chánh một cách đơn giản chỉ với tước vị hoàng tử và tên gọi, hoàn toàn không cần biết đến tông tích của vua, cũng không cần tìm hiểu danh tánh cho đúng. Một người bạn Pháp cũng than thở là các tên họ vua chúa Việt Nam sao rắc rối quá và muốn tôi giải thích. Georges Vĩnh San đáng lẽ phải mang tên hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Ngọc Guy Georges. Nguyễn Phúc là họ của ông, xuất phát từ dòng nhà Nguyễn. Bảo Ngọc là tên gọi, Guy Georges là tên gọi theo tiếng Pháp. Ai là cha của Georges Vĩnh San ? Kể từ thời Minh Mạng, hoàng đế thứ hai, con của Gia Long, truyền lệnh đặt tên con trai của vua theo thứ tự các chữ trong một bài thơ của ông, thì dân chúng biết chữ theo dõi dễ dàng các đời vua kế nghiệp qua các tên họ . Minh Mạng cũng đặt cho mỗi con của Gia Long một bài thơ, dùng theo cách tương tự, coi như đặt ra các „phòng“ của dòng nhà Nguyễn. Bài thơ dùng cho dòng của Minh Mạng có tên "Đế Hệ Thi“ gồm có bốn câu như sau: Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quý Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thoại Quốc Gia Xương. Thí dụ: Tên gọi các hoàng tử gồm có hai chữ, chữ thứ nhất lấy theo thứ tự trong bài thơ, xác định thế hệ của người đó. Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lộc Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San Ông Guy Georges Vĩnh San tên là Nguyễn Phúc Bảo Ngọc Gia phả họ Nguyễn bắt đầu từ thời Nguyễn Bặc năm 970. Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công dưới triều nhà Đinh. Đầu thế kỷ thứ mười sáu, dưới thời nhà Lê Trang Tông, Nguyễn Kim xin vua Lê vào nam để tránh sự ám hại của họ Trịnh (Hoành sơn nhất đái, vạn đại chung thân, theo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm). Như thế, kể từ năm 1533, Nguyễn Kim khởi nghiệp dòng chúa Nguyễn. Trong vòng gần ba thế kỷ, các cuộc chiến tranh liên miên giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn gieo rắc nhiều khổ sở ai oán cho dân chúng, đồng thời làm suy yếu quyền lực của triều đình nhà Lê. Họ Nguyễn Phúc xuất hiện lần thứ nhất với sự chào đời của một hoàng tử, con của Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn thứ hai, ngày 16.08.1563. Một bà vương phi, nằm mộng thấy thần cho chữ „Phúc“, đặt tên đứa trẻ mới sinh là Nguyễn Phúc Nguyên (hoàng tử thứ sáu). Trở thành chúa Nguyễn thứ ba, Nguyễn Phúc Nguyên truyền lệnh đặt Nguyễn Phúc làm họ cho tất cả các thế hệ sau mình, để tránh nhầm lẫn với các dòng khác cũng mang họ Nguyễn. Có hai cách viết, ở miền Bắc viết "Nguyễn Phúc“, ở Huế và trong Nam viết "Nguyễn Phước“, phần thì do ảnh hưởng của tiếng nói địa phương, phần thì theo tục lệ tin dị đoan phải nói trại đi để tránh xui xẻo cho người mang tên. Thêm nữa, mỗi vua có cả thẩy năm tên. (Người ngoại quốc thường lẫn lộn và không hiểu vì thế) Một thí dụ: Tên tục: Nguyễn Phúc Chiêu Tên hoàng tử: Nguyễn Phúc Bửu Lân Tên hiệu: Thành Thái (niên hiệu) Tên miếu: Hoài Trạch Tên vua: Công Hoàng Đế Các nhà sử học và dân chúng gọi các vua bằng niên hiệu. Niên hiệu Tên tục Tên hoàng tử Thời gian trị vì Gia Long Nguyễn Phúc Noãn (Chũng) Nguyễn Phúc Ánh 1802-1820 Minh Mạng Nguyễn Phúc Kiểu Nguyễn Phúc Đảm 1820-1840 Thiệu Trị Nguyễn Phúc Tuyền Nguyễn Phúc Miên Tông 1841-1847 Tự Đức Nguyễn Phúc Thì Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1847-1883 Dục Đức Nguyễn Phúc Ưng Ái Nguyễn Phúc Ưng Chân 1883 Hiệp Hòa Nguyễn Phúc Thăng Nguyễn Phúc Hồng Dật 1883 Kiến Phúc Nguyễn Phúc Hạo Nguyễn Phúc Ưng Đăng 1883-1884 Hàm Nghi Nguyễn Phúc Minh Nguyễn Phúc Ưng Lịch 1884-1885 Đồng Khánh Nguyễn Phúc Biện Nguyễn Phúc Ưng Kỷ 1886-1888 Thành Thái Nguyễn Phúc Chiêu Nguyễn Phúc Bửu Lân 1889-1907 Duy Tân Nguyễn Phúc Hoảng Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907-1916 Khải Định Nguyễn Phúc Tuấn Nguyễn Phúc Bửu Đảo 1916-1925 Bảo Đại Nguyễn Phúc Thiển Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy 1926-1945 Guy Georges Vĩnh San thuộc vào đời thứ tám kể từ Gia Long, xuất thân từ giòng hoàng tộc chính và là hậu duệ của ba vua Dục Đức – Thành Thái – Duy Tân. Cha của ông là vua Duy Tân, ông nội là vua Thành Thái, ông cố nội là vua Dục Đức. Tất cả vua nhà Nguyễn đều xuất thân từ dòng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Trong suốt một thời gian 143 năm mười ba vua nhà Nguyễn đã vạch con đường định mạng cho cả dân tộc Việt Nam. Cần nói đến ở đây một điểm nhỏ, thời đại các chúa Nguyễn kéo dài khoảng 250 năm (1533-1777), cho đến khi Gia Long xưng Hoàng Đế năm 1802 thì các người kế vị của Gia Long, không phải chỉ là "vua“, mà là "Hoàng Đế“. Như Nã Phá Luân là Hoàng Đế, chứ không phải vua. Các chúa Nguyễn đã chiếm đất Chàm và đất Chân Lạp (miền Nam Việt Nam, từ Bình Thuận xuống đến mũi Cà Mau) và Gia Long đã thống nhất lãnh thổ Việt Nam (Đàng Trong luôn cả Đàng Ngoài), lập thành một "đế quốc“. Trong cách nói thông thường, thì người dân chỉ gọi đơn giản là "vua“: vua Hàm Nghi, vua Duy Tân... Nhưng sau khi Thiệu Trị qua đời, sự yếu đuối của Tự Đức (hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, 1847-1883) là một trong những nguyên nhân chính yếu đưa đến sự bảo hộ hoàn toàn của thực dân Pháp (tôi đang viết một bài riêng về đề tài này) và những biến động bi thảm trong triều đình nhà Nguyễn. Đáng tiếc thay, tấm gương của Gia Long – một chiến sĩ bền bỉ nhất, thông minh nhất và mạnh nhất lại không được các người kế vị noi theo. Một điều dễ hiểu là các vua, chúa đều cần người nối nghiệp nam phái và họ có tất cả mọi quyền lực. Họ có rất nhiều vợ, rất nhiều con. Có thể tôi còn nhầm lẫn trong các con số, nhưng thí dụ như Gia Long có 31 người con (13 trai, 18 gái), Minh Mạng có 142 người con (78 trai và 64 gái), Thiệu Trị có 64 người con (29 trai và 35 gái). Sự lựa chọn người lên ngôi nối nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi áp lực cũng như các ý đồ thâm hiểm của các bà vợ vua cũng như các quan đại thần. Vợ vua, có tước vị hay không có tước vị, thường là con gái các quan đại thần. Một cô thôn nữ vừa đẹp vừa thông minh, gặp gỡ một vị vua vừa mạnh mẽ vừa can đảm chỉ là một câu chuyện lãng mạn, khác thường. Tự Đức, người có danh tiếng là độc ác và nóng nảy, không có con nối dõi, nhận ba người cháu làm con nuôi: Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện. Dục Đức, ông cố nội của Georges Vĩnh San, là cháu nội của Thiệu Trị, con của Hồng Y, một người con của Thiệu Trị và anh em của Tự Đức. Lấy lý do là Dưỡng Thiện, người con yêu quí còn nhỏ tuổi, Tự Đức chỉ định Dục Đức nối ngôi, nhưng đồng thời trách Dục Đức là người „thiếu đạo đức“, và đặt ba quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chánh cho vua. Di chiếu của Tự Đức đồng nghĩa với bản án tử hình cho đứa con nuôi lớn nhất của ông. Ba ngày sau khi Tự Đức qua đời năm 1883, hai quan đại thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết, thực chất nắm tất cả quyền bính trong tay, đổi di chúc, phế bỏ Dục Đức, thay vào đó lập Nguyễn Phúc Hồng Dật, một người em, của Tự Đức, hàng chú của Dục Đức lên ngôi. Hồng Dật trở thành hoàng đế thứ sáu, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Dục Đức, hoàng đế thứ năm, bị giam trong học đường, rồi bị bỏ đói trong ngục cho đến chết. Dân gọi ông là "Vua ba ngày“. Trong cùng năm đó, dưới quyền lực của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước Quý Mùi ngày 23.07.1883 bởi Harmand, De Champeaux, Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp. Vua Hiệp Hòa có ý muốn chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và loại trừ hai quan đại thần lộng quyền. Nhưng, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã ra tay trước. Với sự đồng ý của bà Hoàng mẹ, bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, vua Hiệp Hòa bị bỏ thuốc độc chết, Tường và Thuyết đưa Dưỡng Thiện lên ngôi. Quan phụ chánh thứ ba, Trần Tiễn Thành, vì không đồng ý với Tường và Thuyết cũng bị giết chết. Dưỡng Thiện, tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của Tự Đức, lên ngôi hoàng đế với niên hiệu là Kiến Phúc, nhưng thật sự hoàn toàn không có quyền lực. Sau sáu tháng trị vì, đến lượt Kiến Phúc cũng bị loại trừ bằng thuốc độc, chỉ thọ được có 16 tuổi. Ba vị vua bất hạnh, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc để lại trong lịch sử một giai đoạn mà dân chúng gọi là „chín tháng ba vua“. Hai quan đại thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết chọn một hoàng tử nhỏ tuổi lên kế vị, hầu dễ chi phối: Ưng Lịch, 12 tuổi. Quan toàn quyền Rheinart không đồng ý với sự lựa chọn này, đòi triều đình Huế phải xin phép chính thức. Thống tướng Millot gởi đại tá Guerrier đem 600 quân lính và một đội pháo binh nặng vào Huế để hăm dọa triều đình. Cuối cùng triều đình nhà Nguyễn phải trình một văn bản xin phép viết bằng tiếng Hán và chấp nhận, lần đầu tiên trong lịch sử, là Guerrier và Rheinart đi vào cửa chính của cung điện, trước nay chỉ dành riêng cho hoàng đế, để tham dự lễ đăng quang của Ưng Lịch, lấy niên hiệu là Hàm Nghi. Đây là một hành động sỉ nhục nặng nề mà triều đình nhà Nguyễn buộc lòng phải gánh chịu. Trong khi đó, quan khâm sai Harmand và các tướng lãnh của quân đội Pháp Bouet, Bichot, Courbet, Millot, Brière de l'Isle, De Négrier, Coronnat, Duchesne tiếp tục tấn công miền Bắc (Tonkin). Các tỉnh Ninh Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh, Yên Thế (xem bài về Đề Thám, viết năm 2007), Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang lần lượt rơi vào tay chiếm đóng của Pháp. Đồng thời nước Pháp dùng thế lực ngoại giao để cô lập Việt Nam. Qua sự trung gian của Détring, một người Đức tại Trung Hoa, Pháp thành công trong việc thuyết phục Trung quốc cắt đứt tất cả mọi giúp đỡ quân sự cho Việt Nam. Hiệp ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung quốc được ký ngày 18.04.1884 bởi trung tá Fournier và Lý Hồng Chương (Trung quốc). Cũng qua hiệp ước này Trung quốc chập nhận sự bảo hộ của Pháp tại Việt Nam (Tonkin và Annam). Bị cô lập và dưới sức ép của chính quyền thực dân, triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước gọi là hòa ước Patenôtre, ngày 06.06.1884, bởi Patenôtre, Nguyễn Văn Tường, Phạm Thuận Duật và Tôn Thất Phan. Chính hòa ước này đã cho Pháp quyền thiết lập một chính quyền bảo hộ trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Kể từ đây nước Việt Nam bị chia làm ba Kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, cai trị bởi ba đơn vị hành chánh khác nhau, sự di chuyển và chuyên chở trong ba kỳ bị kiểm soát chặt chẽ, dân chúng muốn đi lại phải xin giấy thông hành. Để xóa tan một cách tượng trưng thời đại nhà Nguyễn và mối quan hệ lâu đời giữa Việt Nam và Trung quốc, Patenôtre và Courbet, tức tối vì không đem được bảo vật này về Pháp làm bảo vật chiến thắng, đòi hỏi triều đình nhà Nguyễn phá hủy chiếc ấn „Việt Nam Quốc Vương Chi Ấn“ của Trung quốc trao cho Gia Long năm 1804, khi Trung quốc công nhận Gia Long là hoàng đế của một nước Việt Nam thống nhất suốt từ Bắc chí Nam. Hai quan đại thần Tường và Thuyết ra lịnh nấu chảy chiếc ấn to mỗi bề khoảng 10 đến 12 phân, bằng bạc ròng bọc vàng nặng 5 kí lô 900 trước sự hiện diện của Patenôtre và Courbet vào ngày 30 tháng tám năm 1884. Thêm một lần nữa, một hành động nhục mạ nặng nề gây ra bởi Patenôtre và Courbet mà người dân Việt không quên được. Thời gian trôi qua, các trận đánh tiếp diễn. Sau khi bắt được Hàm Nghi vào tháng chín năm 1888, nhờ sự chỉ điểm của hai tên phản bội, Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc, tướng de Courcy dụ hàng được quan đại thần Nguyễn văn Tường. Hàm Nghi bị đưa đi đày ở Alger vào cuối năm 1888, nhưng nhà vua trở thành biểu tượng của phong trào „Cần Vương“ trong lịch sử. Nguyễn văn Tường và gia đình bị đem đi đày ở đảo Tahiti. Ông chết dọc đường áp tải, xác bị vất xuống biển. Tôn Thất Thuyết chạy sang Tàu, rồi chết già ở đấy. (Xem bài Thonac và một bí ẩn của vua Hàm Nghi – viết năm 2007). Hàm Nghi qua đời năm 1943 thọ 73 tuổi tại El Biar, . Đến lượt hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ được Pháp đưa lên ngôi lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Nhưng vua Đồng Khánh, vì thái độ hợp tác với Pháp, bị dân chúng khinh bỉ. Đồng Khánh cũng chỉ ở ngôi được có ba năm, qua đời ngày 28 tháng một năm 1889 vì điên loạn, được 25 tuổi. Sau này, hai hoàng đế Khải Định và Bảo Đại, hậu duệ của Đồng Khánh, cũng hợp tác với chính quyền bảo hộ Pháp. Sau đó, quan toàn quyền Rheinard chỉ định người kế vị là hoàng tử Bửu Lân, 10 tuổi, con của Dục Đức, đang còn ở trong ngục chung với mẹ, và cho hai quan đại thần Nguyễn trọng Hợp và Trương quang Đản làm phụ chánh. Nguyễn Phúc Bửu Lân trở thành hoàng đế thứ mười ngày 02.02.1889, lấy niên hiệu là Thành Thái. Nhà vua là ông nội của Georges Vĩnh San. Tám năm sau, 1907, thấy thái độ chống đối của Thành Thái, chính quyền thực dân hạ bệ Thành Thái và quản thúc nhà vua ở Vũng Tàu. Thành Thái có tất cả là 45 người con (19 hoàng tử và 26 công chúa). Lúc điểm danh các hoàng tử kế vị thì khâm sai Lévecque thấy thiếu mất một mệ. Cậu hoàng tử nhỏ, Nguyễn Phúc Hoảng, 7 tuổi, bị cận vệ đi lục và đem đến, nhem nhuốc, mồ hôi nhễ nhại, trình Lévecque. Cậu hoàng tử đang mải chơi bắt dế. Thấy vẻ xơ xác, sợ hãi của đứa trẻ, người Pháp nghĩ rằng, cậu ta sẽ trở thành một ông vua "dễ dạy“. Cậu bé Nguyễn Phúc Hoảng lấy tên hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San, và trở thành hoàng đế Duy Tân, cha của Georges Vĩnh San. Georges Vĩnh San: "Cha tôi sinh năm 1898. Ngài được 9 tuổi lúc đăng quang năm 1907. Nhưng trong ý nghĩ khởi đầu một thời đại mới, năm sinh của Ngài được sửa lại cho trùng hợp với năm bắt đầu của thế kỷ hai mươi, 1900, bởi vậy tuổi của Ngài được tuyên bố chính thức là bẩy tuổi." ... "Cũng như các anh chị em tôi, tôi mang họ mẹ, bà ANTIER, cho đến sau khi cha tôi qua đời ngày 16 tháng 12 năm 1945. Một quyết định của tòa án vào ngày 22 tháng 7 năm 1946 công nhận chúng tôi là con chính thức của hoàng tử Vĩnh San, nhưng đồng thời họ cũng làm ngơ trước truyền thống đặt tên của triều đình An Nam. Cần nhấn mạnh ở đây, là trong suốt khi sinh thời và cho đến khi qua đời, cha tôi xem như kết hôn chính thức với cô Mai thị Vàng, người được phong đệ nhất vương phi, con của quan Mai Khắc Đôn, một trong những phụ đạo của cha tôi. Hội đồng hoàng tộc ở Huế luôn luôn từ chối lời yêu cầu xin công bố văn bản ly dị của cha tôi. „ Khi cả hai vua Thành Thái và Duy Tân, cha và con, bị áp giải đi đày trên đảo la Réunion năm 1916, có ba bà trong hoàng tộc đi theo vua Duy Tân: bà Nguyễn thị Định, mẹ vua, bà Mai thị Vàng, vợ vua và bà Lưỡng Nam, công chúa em vua. Nhưng ít lâu sau, trong năm 1917, cả ba bà đều trở về Huế, bỏ lại Duy Tân một mình. .... „Năm 1916 cha tôi là một người trẻ mới 18 tuổi (tuổi thật) và Mai thị Vàng 17 tuổi (bà sinh năm 1899) ! Thời gian hai người chung sống với nhau rất ngắn. Nhưng Mai thị Vàng không thể có con. Thêm vào đó, cuộc sống trên đảo la Réunion rất cực khổ vào thời ấy. Cha tôi không được đón tiếp đàng hoàng và chỗ ở rất thiếu thốn. Chỗ ở của ông không có lấy một vòi nước tắm. Bây giờ, căn nhà được sửa chữa nhiều lần, làm đẹp, hiện đại hóa. Nhưng cha tôi không sống trong một khung cảnh tiện nghi như thế. Hơn nữa, cha tôi không hợp tính với cha của Ngài (Thành Thái) và muốn sống tự lập, Ngài tách ra khỏi gia đình, thuê một cái nhà khác. Lúc cha tôi quen biết với mẹ tôi, thì mẹ tôi còn rất trẻ, mới có 14 tuổi, thời ấy. Cha tôi không có tuổi thơ, cũng không có thời niên thiếu. Ngài không thể ra ngoài chơi bi, chơi trong các rãnh nước, gặp bạn bè tán ngẫu... như mọi thanh thiếu niên khác. Trên đảo, trong tình trạng lưu đày, thiếu thốn nhiều phương tiện, nhưng Ngài không còn mang cái gánh nặng hoàng tộc và tìm được tự do...dù bị kiểm soát. Nhiều lần, cha tôi bị cảnh cáo bởi viên toàn quyền, không nên ở ngoài quá khuya, vì vấn đề an ninh cho Ngài. Trong cách kể của Georges Vĩnh San, tôi nhận thấy một sự thông cảm sâu xa của một người con đối với cha của mình. Qua tuổi tác, kinh nghiệm và khoảng cách với thời sự nóng bỏng, người ta thường có những cái nhìn khác về quá khứ. "Cha tôi chơi vĩ cầm, nhưng cái đam mê của Ngài là truyền tin. Ngài thiết lập các thiết bị truyền tin nơi một chỗ khác, ngoài căn nhà ở của gia đình, và Ngài thường ngồi say mê trước cái máy truyền tin thâu đêm về sáng. Thường thường Ngài về nhà khoảng một, hai giờ sáng và nhờ mẹ tôi đi mua một tô mì tàu. Người tàu bán mì suốt ngày đêm, không ngơi nghỉ. Là một chuyên viên vô tuyến điện, Ngài sửa chữa tất cả các loại máy phát thanh, và đôi khi luôn cả máy chiếu phim. Năm 1940 cha tôi bắt được hiệu triệu kháng chiến của de Gaulle. Ngài bèn gọi tất cả các bạn hữu và nói rằng: „ Tôi không quen biết de Gaulle, nhưng nên theo ông, vì ông đi đúng hướng.“ Cha tôi rất thân thiết với nước Pháp, nhưng không phải một nước Pháp của Pétain.“ Hoàng tử Vĩnh San bị nhốt trong một trạm y tế, nơi mà người ta nhốt người điên, trong vòng 40 ngày bởi những nhân vật chính quyền theo chính phủ Vichy trên đảo. Nhiều nhà sử học đã viết về sự tham dự của hoàng tử Vĩnh San trong phong trào kháng chiến Pháp France Libre. Hoàng tử Vĩnh San được cấp huân chương kháng chiến Pháp. Cuộc gặp gỡ lịch sử của hoàng tử Vĩnh San với tướng de Gaulle diễn ra vào ngày 14 tháng 12 năm 1945 trong vòng khoảng một tiếng đồng hồ, nhưng nội dung của cuộc gặp gỡ này không hề được thông báo. Tướng de Gaulle cũng không hề có chỉ thị về cuộc gặp gỡ này cho bộ phận sĩ quan tùy tùng. Rất vui mừng về sự trở về Việt Nam, cùng với tướng de Gaulle, dự kiến vào tháng ba năm 1946, hoàng tử Vĩnh San đã thông báo tin này cho người thân cận. Cựu hoàng Duy Tân, với những ý tưởng mới, xứng với tên hiệu của ông, Duy Tân có nghĩa là „bước vào thời đại mới“, hy vọng rằng, con đường kế thừa nhà Nguyễn sẽ được tiếp nối với những cải tổ hiện đại. Tai nạn máy bay trên đường trở về đảo la Réunion, tìm thấy trên ngọn đồi La Lobaye cách M'Baiki 35 cây số ngày 25 tháng 12 năm 1945 (Giáng sinh), đã chôn vùi với hoàng tử Vĩnh San mọi ước mơ và hy vọng của triều đại nhà Nguyễn. Duy Tân, người thông thạo hai thứ tiếng, Hán và Pháp, hấp thụ hai nền văn hóa khác biệt, đã để lại bản di chúc chính trị, xuất bản năm 1947. Sau khi tai nạn xảy ra, thân xác của Duy Tân được chôn cất ngày 26.12.2945 bởi Hiệp hội công giáo tại M'Baiki, nước Cộng Hòa Trung Phi (Phi Châu). Georges Vĩnh San: "Năm 1993 tại San José ở Californie trong buổi ra mắt cuốn sách của ông Hoàng Trọng Thược“ với tựa đề „Hồ sơ vua Duy Tân“ và lễ tưởng niệm sau đó, khi tôi nhìn thấy nước mắt rưng rưng của những người tham dự buổi lễ, nỗi xúc cảm của tôi cũng dâng lên như họ, mà tôi cũng không che dấu được.“ De Gaulle rời chính quyền vào ngày 20 tháng một năm 1946, chưa đầy một tháng sau cái chết của vua Duy Tân. Về phía Pháp, hồ sơ Duy Tân được đóng lại. Bốn mươi hai năm sau, hài cốt của Duy Tân được bốc từ nghĩa địa ở M'Baiki và chuyển về Huế. Lễ quốc táng long trọng được cử hành ngày 06 tháng tư năm 1987 tại Huế. Georges Vĩnh San và các em tham dự buổi lễ trọng thể này tại cung điện hoàng gia tại Huế. Duy Tân an nghỉ vĩnh viễn tại An Lăng, nơi có mộ phần của cha là Thành Thái và ông nội là Dục Đức. Duy Tân, bị truất phế bởi Pháp, nhưng không bao giờ cáo vị, vẫn còn là hoàng đế, điều mà chính Duy Tân đã nêu lên. Bác sĩ Didier f*gNEN viết dưới tựa đề "Hoàng đế Duy Tân. Một niềm hy vọng lớn của Indochine – Général de Gaulle " trên trang trên mạng của Hội các Bác sĩ của Việt Nam ngày 10.10.2006 như sau: Đại tướng de Gaulle có nhiều cảm tình trân trọng đối với Ông, và quyết định sau khi đại chiến kết thúc, năm 1945, sẽ đem Hoàng tử về Pháp, hiện còn đang ở trên đảo La Réunion. „Nếu hoàn cảnh trở nên thuận tiện tôi ôm ấp một hoài bão bí mật. Đó là dự tính đem lại cho cựu hoàng Duy Tân những khả năng tái xuất hiện nếu người kế vị và cùng hoàng tộc với Ông là Bảo Đại, không thể theo kịp sự việc tiến triển. Đây là một nhân vật mạnh. Ba chục năm lưu đày không xóa mờ kỷ niệm của dân tộc Việt Nam đối với vị vương quyền này“, de Gaulle viết như thế. Đại tướngde Gaulle giải thích cho đại tướng de Boissieu rằng hoàng tử Vĩnh San chiếm một vị trí quan trọng vì ông muốn cân bằng thế lực của triều đình Lào và Cam Bốt khi tái lập lại ngôi vua ở Huế, một điều danh chính ngôn thuận, và ông cho rằng Bảo Đại quá mềm yếu và không được lòng dân. Ngày 25 tháng chín năm 1945, hoàng tử được thăng chức trưởng đơn vị. Cùng lúc hoàng tử có những suy nghĩ về tương lai của Việt Nam và đưa ra ba ý kiến chính yếu: - Thống nhất ba Kỳ (Tonkin- Annam- Cochinchine) - Độc lập tối cùng, sau một thời gian chuẩn bị, giao thời - Liên hợp chặt chẽ với nước Pháp trong khuôn khổ một Liên Hiệp Đông Dương (cùng với Lào và Cam Bốt), mà nước Pháp lãnh trọng trách bảo vệ quân sự và ngoại giao. Đại tướng de Gaulle đồng ý với chữ "tối cùng“ nhưng muốn thảo luận thêm về giai đoạn chuẩn bị giao thời. Ông tiếp hoàng tử Vĩnh San vào ngày 14.12.1945 và cả hai có vẻ cùng đồng ý về những điểm chính. Hoảng tử viết sau buổi gặp gỡ này: „Xong rồi, mọi việc đã được quyết định, chính quyền Pháp đưa tôi trở về ngai vàng Annam. De Gaulle sẽ đi cùng với tôi khi tôi trở lại nơi ấy, có thể là trong những ngày đầu của tháng ba 1946. Từ giờ đến đó, sẽ tổ chức thông báo dư luận của Pháp và Đông Dương; ngày mai đây, tại Huế, Hà Nội, Saigon, hai lá cờ sẽ phất phới bên nhau: lá cờ ba màu của Pháp và lá cờ của Việt Nam với ba sọc ngang tượng trưng cho ba miền“. Hoàng từ hãnh diện "sẽ trở về quê nhà của mình như khi de Gaulle trở về Bayeux“. Nước Pháp suy yếu và trở thành vô tổ chức sau thời gian bị Đức Quốc Xã chiếm đóng trong đại chiến thứ hai 1939-1945. Trong khi de Gaulle, Sainteny và Leclerc tìm kiếm và tìm thấy một giải pháp hòa bình về chủ đề một Việt Nam độc lập, tự do trong Liên Hiệp Pháp, thì lời tuyên bố thừa thãi và vụng về của đô đốc Thierry d'Argenlieu thành lập chính phủ Cộng Hòa Cochinchine (la république de Cochinchine) vào ngày 01.06.1946, gần sáu tháng sau khi de Gaulle từ chức, đã làm bùng cháy ngọn lửa chiến tranh, chỉ được dập tắt tám năm sau. Một cuộc tranh cãi về lịch sử bắt đầu từ đó và cũng chứa chấm dứt, trên câu hỏi là có phải đô đốc d'Argenlieu chỉ tuân theo mệnh lệnh của de Gaulle, hay d'Argenlieu tự ý quyết định, lãnh tránh nhiệm lịch sử, sau khi de Gaulle không còn quyền lực, năm 1946. Những người trung thành với trường phái chính ttị của de Gaulle đưa ra lập luận, de Gaulle, một khi đã rời khỏi chính quyền, đã không còn quyết định về nhưng vấn đề chính trị đang diễn ra hay sắp diễn ra, như ông đã có cùng một thái độ năm 1969. Hai chi tiết lịch sử khác làm tăng thêm một sự nuối tiếc cho một giải pháp hòa bình, đã không thực hiện được trong giai đoạn ấy: Sainteny là người có nhiều tình cảm thân hữu với chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại tướng Leclerc, một thiên tài quân sự, vậy mà lại chủ trương ưu tiên cho một giải pháp ngoại giao và chính trị ! Trận chiến Điện Biên Phủ bắt đầu ngày 13 tháng ba năm 1954 và chiến thắng mang tên đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày 15 tháng năm 1955 thì toán lính Pháp cuối cùng rời khỏi mảnh đất Việt Nam vĩnh viễn. Kể từ khi Rigault de Genouilly tấn công vào cảng Đà Nẵng năm 1847 thì công cuộc xâm lăng bảo hộ của chính quyền thực dân Pháp tại Việt Nam đã kéo dài 108 năm. Vinh San, một cái tên lịch sử đè nặng lên các hậu duệ của nhà vua, nhưng không thể bị quên lãng ! ©MathildeTuyetTran, France 01.05.2008 * với sự đồng ý của ông Georges Vĩnh San
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:33:37 GMT 9
Đi tìm dấu vết Bá Đa Lộc (Mgr Pigneau de Béhaine) Tuyết Trần Quê hương sản sinh con người Ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về quan hệ Việt-Pháp trong quá khứ, khoảng thời gian trước khi cái mốc Điện Biên Phủ, chiến thắng quân sự vào ngày 07 tháng 5 năm 1954, một trong những yếu tố quan trọng đưa đến sự kết thúc vĩnh viễn sự cai trị và bảo hộ của nước Pháp tại Việt Nam, thật là một công việc vào rừng hốt lá, càng đọc càng thấy thiếu hiểu biết. Vì một bài hát của Georges Villard viết lời - La petite tonkinoise - và Vincent Scotto soạn nhạc vào năm 1906 do Esther Lekain trình diễn, rồi Joséphine Baker hát lại năm 1930 làm cho bản nhạc trở thành nổi tiếng rộng rãi, với những câu õng ẹo vô duyên như "...c‘est moi qui suis sa petite, son Anana, son Anana, son Annamite... Il m‘appelle sa p‘tite bourgeoise, sa Tonkiki, sa Tonkiki, sa Tonkinoise..." nghe chói lỗ tai tức cả mình mà tôi bực bội phải tìm kiếm cho ra, tại sao thực dân pháp gọi miền Bắc là Tonkin, miền Trung là Annam, và miền Nam là Cochinchine. Từ thế kỷ thứ mười ba, Marco Polo đã ghi chép chuyến đi đến nước :Giao chỉ" năm 1292 theo phiên âm là "Caugigu", người Mã Lai đọc trại là "Kutchi", người Nhật đọc trại là "Kôtchi", người Bồ Đào Nha lại đọc trại là "Cauchi-China", để rồi trở thành "Chochichine", cuối cùng thành "Cochinchine". Còn cách gọi "Tonkin" là do phiên âm chữ "Đông Kinh" mà ra, vì người Trung Hoa phát âm chữ "Đ" thành chữ "T", để phân biệt với Bắc Kinh và Tây Kinh. Người Pháp viết theo phiên âm La tinh, bỏ chữ "h" vì trong mẫu tự Pháp, chữ h là chữ câm không được phát âm, cho nên miền Bắc bị gọi là Tonkin. An Nam là danh xưng của Trung Quốc đặt cho lãnh thổ và dân tộc Việt Nam suốt thời kỳ Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ. Nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866). Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, nhận lãnh danh hiệu An Nam Quốc Vương. Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945. Tuy thế, thực dân Pháp vẫn dùng danh xưng "Annam" để chỉ nước Việt và gọi người Việt là dân "Annamite" dù là ở miền nào đi nữa. Người Việt lại còn dặm thêm chữ tiếng lóng "dân Mít" để tự nói về mình ! Hiện tại, thật là một điều tốt, khi không có một vùng địa lý nào ở Việt Nam giữ những cái tên này. Cái tên Indochine là một sản phẩm do các nhà địa lý người Pháp đặt ra để chỉ chung ba nước Việt-Miên-Lào thành một khối thuộc địa, là phần đất địa lý nằm giữa Ấn Độ (Indo) và Trung Hoa (Chine) cho dân Pháp dễ hiểu-dù dân tộc Việt không có khi nào là dân "Indochinois" cả, bỏ qua sự thật cơ bản rằng Việt-Miên-Lào là ba nước khác nhau và ba dân tộc tự trị tự chủ khác nhau. Bây giờ, hễ ai nói đến "Indochine" và "Indochinois" là tôi bực cả mình ! Tôi lần mò đi ngược lịch sử từ thời Bảo Đại lên đến thời Gia Long, chưa đủ, phải học thêm đến thời nhà Lê, không quên bỏ qua thời Tây Sơn, để tìm câu trả lời cho câu hỏi "Người Pháp can thiệp vào Việt Nam từ bao giờ ? và tại sao ?". Ngày xưa, lúc còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, những bài học về sử địa đều là những bài học nằm lòng, ê a như con vẹt, trả bài véo von như con két, mà không hiểu tại sao mình phải học và cùng không hiểu các bối cảnh lịch sử chủ yếu và liên quan. Cũng như đi học trường mẫu giáo hát nghêu ngao "Frère Jacques..." một cách rất hồn nhiên ngây thơ. Giờ đây, tôi có cái thích thú ngồi học lại các bài học lịch sử, đi tìm lại những dấu vết về lịch sử Việt Nam trên đất Pháp. Cũng vì thế mà một ngày mùa đông, sáng sớm và ban đêm đều có sương mù ảm đạm, mưa nhè nhẹ dai dẳng suốt ngày, cái lạnh ẩm làm cho người ta mau mau đi tìm chỗ ấm áp khô ráo cho khỏe, tôi lên đường đi tìm dấu vết của Giáo sĩ Bá Đa Lộc -tức là Giám mục Monseigneur Pigneau de Béhaine- người đã giúp Nguyễn Phúc Ánh lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Kể từ năm 1801 khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Gia Long – cho đến năm 1955 khi người Mỹ giúp Ngô Đình Diệm mở một cuộc trưng cầu dân ý để lật đổ vua Bảo Đại, tên tục là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy – mười ba vua Nguyễn đã trị vì được 154 năm. Đường đi không xa lắm, nhưng lái xe chạy quanh co các đường quốc lộ và đường liên địa phương mãi cũng ê ẩm cả lưng. Tôi đến một vùng thôn dã, rải rác đó đây một vài cơ sở công nghiệp, thí dụ như một nhà máy làm đường nổi tiếng, một nhà máy làm xi măng, và một nhà máy chế biến thực phẩm. Các mảnh ruộng nho nhỏ không bị cải cách lại thành những cánh đồng mênh mông như ở các vùng khác, còn nguyên những bờ giậu xưa cũ, thường được dân chúng sử dụng làm đồng cỏ chăn nuôi bò, ươn ướt sương mù và mưa bụi, những con đường đất mòn nho nhỏ len lỏi dưới những hàng cây trơ cành trụi lá. Trên ruộng không một bóng người. Hoang vắng. Trên vỉa hè, cũng không một ai, không một con chó chạy rông, một con mèo hoang đi ăn vụng. Chỉ có xe cộ chạy qua lại hấp tấp, vội vã. Bản hướng dẫn ngôi nhà Bá Đa Lộc sinh trưởng © Tuyết Trần Thành phố nhỏ lưa thưa vài cửa hàng đèn điện sáng hiu hắt, vắng khách. Làng mạc mấy chục nóc nhà giàu nghèo to nhỏ lẫn lộn ẩn mình trong màn sương mưa xám đục. Dân ở vùng này chuyên nghề chăn nuôi bò, lấy sữa, làm phô ma, trồng trọt, đốn gỗ rừng để bán. Họ không hiếu khách lắm, có vẻ lạnh nhạt, nghi ngờ. Vùng này không phải là một vùng du khách tới lui nhiều dù là cũng có nhà cho du khách thuê. Có sách viết Origny-Ste-Benoite, gần thành phố Saint Quentin, là nơi sinh trưởng của Giáo sĩ Bá Đa Lộc, nhưng đúng ra là Origny-en-Thiérache trong vùng Picardie, gần thành phố Hirson. Cũng may là hai địa điểm này chỉ cách nhau mấy chục cây số đường làng hẻo lánh. Dù đã quen mắt với các cảnh làng mạc nước Pháp, nhưng nhìn khung cảnh nơi đây, trong thời đại này, đường làng cũng đã được tráng nhựa, đèn đường sáng vàng vọt mọi nẻo, nhà bê tông xám hay gạch nung đỏ mọc lên thay cho nhà tường bằng trụ gỗ trám đất sét và rơm rạ khi xưa, các bảng quảng cáo của nhà hàng, quán nhậu, tạp hóa, nhà thuốc tây sáng nhấp nhánh xanh xanh đỏ đỏ, tôi không khỏi tưởng tượng khung cảnh làng quê này mấy trăm năm trước, thời đại của đường đất, xe ngựa, và thầm nghĩ: Ít còn ai nhắc đến nhân vật lịch sử này. Người bạn Pháp đi cùng với tôi lắc đầu, khi tôi hỏi anh ta có biết đến tên Pigneau de Béhaine không. Anh ta cười bảo rằng: tôi không phải là người không thích học giờ Lịch sử, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói đến tên này, và cô là người đầu tiên nhắc đến. Ấy, tóc anh ta đã bạc trắng, và anh cũng là người cùng quê hương với Giám mục Bá Đa Lộc ! Giáo sĩ Bá Đa Lộc là ai ? Động lực nào đã đem con người này, xuất thân từ nơi làng quê hoang dã này, đến bỏ xác ở Việt Nam 208 năm trước đây ? Hoàn cảnh nào đã đưa đẩy Nguyễn Phúc Ánh gặp Bá Đa Lộc và cầu viện nước Pháp ? Rẽ vào làng Origny-en-Thiérache, trong thung lũng La vallée du Thon, tôi hơi thất vọng vì thấy nhiều nhà mới xây bằng bê tông, không cổ kính như trung tâm của thành phố Senlis. Làng Origny rộng khoảng 17 cây số vuông, có chừng 1.500 dân, mật độ dân số khoảng 94 dân trên một cây số vuông. Tự động, tôi chạy vào trung tâm làng, ngang qua Tòa Thị sảnh, qua chiếc cầu bắc ngang con sông nhỏ. Lúc tôi vào tiệm thuốc tây nằm trên con đường chính trong làng hỏi tìm căn nhà của Bá Đa Lộc thì cô bán thuốc há họng, lắc đầu không biết. May có bà chủ đứng sau lưng, nghe câu hỏi, bèn mỉm cười chế riễu cô gái trẻ: "Tôi biết ngay là cô không trả lời được" và nhìn tôi bà bảo "cứ đi đến nhà thờ là bà tìm ra !". Tìm nhà thờ thì dễ quá, cứ nhắm nóc chuông mà đi tới. Mỗi làng, dù chỉ có một hai chục nóc nhà, cũng có một nhà thờ to tướng. Nhưng vùng dân chúng sùng đạo nhất bên Pháp là các vùng Vendée, Alsace-Lorraine. Nhà thờ làng Origny mang tên Saint-Cyr-Sainte-Julitte xây theo kiến trúc thành cổ kiên cố, một tầng của tháp chuông duy nhất được xây theo kiểu tháp chuông của nhà thờ Đức Bà. Đến nhà thờ, tôi xuống xe, đi bộ vào con đường nhỏ bên tay phải, chừng một trăm thước, thì thấy hiện ra trong một góc bên tay trái một nóc nhà cổ kính, có ngọn thánh giá trên nóc, tôi biết ngay đây là ngôi nhà sinh trưởng của Giám mục Bá Đa Lộc. Căn nhà sinh trưởng của Bá Đa Lộc Ngôi nhà lớn, xây từ thế kỷ 16 bằng gạch đỏ và đá trắng, nằm sát cạnh nhà thờ trên một mỏm đất cao, cửa sổ lớn bằng kính trắng, vừa có vẻ nửa cổ nửa tân. Trên mặt tiền nhà có khắc biểu hiệu của Bá Đa Lộc. Tôi đi lên đi xuống cầu thang gần bên cạnh nhà, nhìn loanh quanh khung cảnh nhà quê im ắng. Cũng như mọi nơi, ngoài đường không một bóng người, chỉ có một con chó nhỏ, thấy người lạ, chồm lên khung cửa sắt đóng kín, sủa gâu gâu inh ỏi. Một người lạ vào làng là cả làng đều biết ! Ngôi nhà sinh trưởng của Giám mục Bá Đa Lộc, phía bên nội, được ghi nhận từ năm 1628 qua một văn tự bán nhà. Kiến trúc hiện tại đã được sửa sang thêm vào thế kỷ 18. Qua đến năm 1823 ngôi nhà được bán lại một lần nữa, một bản vẽ hiện trạng ngôi nhà được thiết lập và ngôi nhà trở thành trụ sở linh mục của nhà thờ ngay bên cạnh. Mấy chục năm sau, năm 1862, ngôi nhà lại trở thành hoang phế, không thể sử dụng làm nhà ở được, linh mục Jules Jardinier bèn mua lại và sửa chữa, trong mục đích biến ngôi nhà thành một địa điểm hành hương cho tín đồ. Mặt tiền căn nhà Bá Đa Lộc sinh trưởng Theo sổ sách ghi chép thì linh mục Jules Jardinier mua ngày 12 tháng 3 năm 1865 với giá là 3.525 quan Pháp(1). Ông cho tu sửa nhiều chỗ, mái nhà lợp bằng ngói bản thạch (ardoise), và thiết kế lại mặt phía đông bằng gạch nung đỏ và đá vôi trắng, thiết kế huy hiệu của Giám mục d' Adran còn tồn tại tới ngày nay. Linh mục Jules Jardinier đã phải chịu trả một phí tổn khoảng 20.000 quan pháp thời ấy cho các công việc sửa chữa và thiết kế. Người thiết kế là một nhà điêu khắc đá tên là André Lecompte. Nghĩa địa chung quanh ngôi nhà và nhà thờ cũng được dời đi chỗ khác, nhưng tấm bia mộ của cha mẹ Giáo sĩ Bá Đa Lộc còn được giữ lại làm hiện vật triển lãm hiện nay, dù đã bể và hư hỏng nhiều. Năm 1875 ngôi nhà được thừa kế lại bởi Hội đồng quản lý xây dựng nhà thờ, và được cho thuê để lấy tiền trợ giúp các bà nữ tu dạy học. Ba mươi năm sau, 1905, ngôi nhà lại bị bỏ hoang một lần nữa và bị dự tính phá hủy hoàn toàn vào năm 1910. Nhưng nhờ sự can thiệp kịp thời của André Salles, một người đã làm việc tại thuộc địa, ngôi nhà được Hiệp hội Địa lý Paris (Société de Géographie de Paris) mua lại năm 1911 và sau đó được bảo trì bởi chính quyền thuộc địa Đông Dương và trợ giúp tư nhân. Nhưng vì nhiều trở ngại hành chánh, ngôi nhà không được xếp loại là di tích lịch sử, cho nên không một cơ quan nào chịu bỏ tiền ra bảo quản ngôi nhà. Kiến trúc sư Bertoue ra công sửa chữa lại. Ngày 01 tháng 6 năm 1914, một viện bảo tàng tại ngôi nhà được khai mạc với sự trưng bày các hiện vật sưu tầm được của Hiệp hội Địa lý Paris. Năm 1953 ngôi nhà Bá Đa Lộc được Hiệp hội Địa lý trao tặng lại cho chính quyền địa phương làng Origny-en-Thiérache. Có lẽ, nhân vật lịch sử Giám mục Bá Đa Lộc đã chìm sâu vào quên lãng của nước Pháp, ít người biết Bá Đa Lộc là ai, cho nên ngôi nhà này không phải là một địa điểm thu hút du khách để đem lại nhiều nguồn lợi kinh tế cho làng, vì thế chính quyền địa phương không tha thiết lắm khi lai rai chỉ có một vài khách muốn đến thăm. Gọi là viện bảo tàng chứ muốn vào thăm không phải dễ, vì ngôi nhà này cửa đóng then gài im ỉm và người được cử làm quản gia ngôi nhà Bá Đa Lộc, một phụ tá của ông Trưởng làng, vừa là người bán bảo hiểm, không thích tiếp khách, lấy cớ là "vợ tôi không đồng ý mở cửa vì không có thì giờ", chỉ muốn mở cửa mỗi năm một lần, nhân ngày Bảo tàng toàn quốc. Tôi buồn cười nhớ đến chính sách bế quan tỏa cảng thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức khi xưa. Trong nhà có vài đồ đạc thế kỷ 16, hai bản sao bằng sơn dầu của hai bức tranh nguyên thủy do họa sĩ Mauperin vẽ Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh năm 1787, một bản sao bằng thạch cao bức tượng Giám mục Bá Đa Lộc, một tay nắm Hoàng tử Cảnh, một tay giơ bản hiệp ước Versailles 1787, bảo đảm viện trợ của nước Pháp cho vua Gia Long, do nhà điêu khắc Edouard Lormier (1847-1919) tạc năm 1901 và tặng cho viện bảo tàng làng Origny - tượng chính bằng đồng đặt trước nhà thờ Đức Bà năm 1902 không còn nữa, một bản sao tấm phướng phúng điếu của vua Gia Long tặng cho Bá Đa Lộc sau khi Bá Đa Lộc qua đời, vài hiện vật tượng trưng cho công nghệ làm rổ rá, công nghệ sản xuất chính của làng Origny-en-Thiérache thời ấy, và các hiện vật khác. Các nguồn sử sách chép rằng, Bá Đa Lộc - tên phiên âm Việt Nam của Giáo sĩ Pierre-Joseph-Georges PIGNEAU DE BÉHAINE (trong các sử liệu Công giáo ông còn được gọi là "Đức Thầy Vêrô"), sinh ngày 2 tháng 9 năm 1741 tại làng Origny-en-Thiérache, thuộc địa phận Aisne vùng Picardie phía bắc nước Pháp. Chính ra, ông ký tên là Pigneaux, nhưng sách vở chỉ viết là Pigneau, không có chữ x. Người ta kèm thêm vào họ của ông cái tên địa danh Béhaine, nơi gia đình ông có một sở hữu nho nhỏ, để xác định cho rõ xuất xứ địa phương. Vì thế tên ông trở thành PIGNEAU DE BÉHAINE. Giám mục Bá Đa Lộc là con của ông Georges Pigneau và bà Marie-Louise Nicaut, con trưởng của một gia đình có 19 người con. Theo cách đặt tên của người Pháp, khi đặt tên đứa con mới sinh, cha mẹ thường đặt theo truyền thống, ít nhất là ba tên, theo tên của những người trong gia đình thuộc thế hệ đi trước: con trai thì đặt theo tên cha, ông ngoại, ông nội, ông cố nội, ông cố ngoại, hay chú ruột, con gái thì cũng đặt tên theo tổ tiên người nữ, theo tên mẹ, bà ngoại, bà nội, dì, cô, theo thứ tự yêu thích(2). Trong ba tên của Giám mục Bá Đa Lộc thì tên của cha ông "Georges" đứng vào hàng thứ ba, như thế tên gọi của ông phải là "Pierre": Pierre Pigneau. Ông nội của Giám mục Bá Đa Lộc là Charles Pigneau (1659-1732), sinh thời là một thương gia, cố vấn của vua và quản lý vựa muối, tức là một nhân vật có địa vị khá cao trong xã hội. Vào thế kỷ thứ 17 thì muối còn là một thứ "quốc cấm", việc tích trữ muối thành vựa, mỗi thành phố lớn có một vựa muối, chuyên chở muối, phân phối bán muối và thâu thuế muối là độc quyền của các lãnh chúa và vua chúa. Qua hai tấm tranh vẽ ông nội Charles Pigneau và bà nội, người vợ thứ hai của Charles Pigneau, tên là Marie-Louise Montpellier (1665-1754), của Giám mục Bá Đa Lộc, người ta nhận thấy rằng, người đàn ông trong tranh đang tuổi trung niên, mặc bộ quần áo thương nhân, đầu đội tóc giả theo kiểu quý phái, ánh mắt nhìn năng nổ, soi mói, còn người đàn bà trung niên, bà nội, cũng còn đẹp, mặc quần áo sang trọng thuộc loại tầng lớp trưởng giả theo kiểu cuối đời vua Louis XIV. Các tấm tranh này, có thể đã được vẽ vào năm 1732 khi Charles Pigneau qua đời, cùng với hai tấm tranh vẽ Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh đã được triển lãm trong Hội chợ Thuộc địa tại Vincennes năm 1931. Hai tấm tranh trưng bày tại làng Origny vẽ Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh là do bà góa phụ Lesur, vợ của Charles-Louis Lesur, một người cháu của Giám mục Bá Đa Lộc trao tặng cho chính quyền ngày 16 tháng 8 năm 1855. Pierre Pigneau (Bá Đa Lộc) bắt đầu đi học ở thành phố Laon, cách làng Origny-en-Thiérache về hướng nam khoảng 60 cây số, sau đó tiếp tục học tại một chủng viện ở Paris rồi nhập Viện Giáo sĩ Truyền đạo Nước ngoài năm 1765, khi ông được 24 tuổi, và rời khỏi Paris ngày 09 tháng 9 cùng năm để đi thi hành nghĩa vụ truyền đạo tại Cochinchine. Chàng trai trẻ Pierre Pigneau đã từ một khung cảnh làng quê thôn dã, đến Laon, là một thành phố lớn thời Trung cổ đi học, rồi lại đến Paris vào chủng viện, tức là vừa có khả năng kinh tế để ăn học, vừa có tri thức, vừa có quan hệ xã hội cấp cao. Nhưng, thay vì tiếp tục con đường sự nghiệp trong nước Pháp, thì có lẽ dòng máu phiêu lưu, ham thích khai phá, chinh phục, năng động, tìm cái mới, cái lạ đã đưa Pierre Pigneau đi đến quyết định lên đường, đi đến một chân trời hoàn toàn xa lạ cách nước Pháp cả vạn dặm. Cá tính độc đáo của Pierre Pigneau được chứng minh sau này bằng cuộc đời của ông. Có người xuống tàu đi nhưng chết giữa đường, trên đại dương mênh mông. Nhưng ông, suốt đời, chạy hết nơi này đến nơi kia, trốn lên trốn xuống, lên tàu xuống tàu, đi hai lần Pháp-Việt qua lại, mỗi lần đi về mất cả mấy năm, lúc cần phải tự vệ, cũng biết múa gươm bắn súng như ai, biết cố vấn về quân sự, chiến tranh, ngoại giao, biết mộ lính, mua bán vũ khí, dạy học, quản lý, và không quên lý tưởng truyền đạo. Ông không phải là một người chỉ biết chắp tay bó gối cầu nguyện, so với thời nay, nhiều thanh niên đồng tuổi với ông, còn bám gấu cha mẹ. Nếu nói rằng các nhà truyền đạo là gián điệp thời xưa thì hơi gay gắt. Nhưng trong khi vua chúa Pháp còn mê mải bởi các trận chiến tranh giành đất giành người hay vì tam thê tứ thiếp, cản trở vì quyền thần, triều đình, hay hưởng thụ, thì Giáo hoàng đã gởi các giáo sĩ đi khắp nơi trên thế giới. Chính vì các giáo sĩ đi đó đi đây, biết cảnh biết người, tiếp xúc nhiều, có khả năng phán đoán và nhận xét một cách khoa học, được giáo dân tôn trọng kính nể, họ là những nguồn tin tức sống động và đáng tin cậy, và trên thực chất họ là những người đi khai phá. Theo truyền thuyết thì vào thế kỷ thứ hai, thứ ba... đã có các nhà truyền giáo đạo Thiên chúa theo chân các thương nhân đến Việt Nam, nhưng không có dấu tích lịch sử nào để lại. Mãi cho đến thế kỷ thứ 16, theo lịch sử chánh thức của triều đình Việt Nam (Khâm định Việt sử) thì từ năm 1533 đời vua Lê Trang Tông có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở Việt Nam. Giữa thế kỷ thứ 16 nhà Hậu Lê dần dần suy yếu, sau khi anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, năm 1558 Nguyễn Hoàng, con của Nguyền Kim, xin Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa ở phía Nam. Nguyễn Hoàng đem theo khoảng một ngàn quân sĩ, bầu đoàn thê tử, thu phục nhân tâm, kêu gọi anh hùng hào kiệt về giúp, và từ đó sáng lập ra cơ nghiệp nhà Nguyễn, tự xưng là Chúa Tiên. Đất nước, tuy dưới danh nghĩa triều Lê, nhưng trên thực tế đã chia ra làm Đường Ngoài (miền bắc) thuộc chúa Trịnh và Đường Trong (miền nam) thuộc chúa Nguyễn. Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng người Tây Ban Nha tên là Don Diego d’Averte đã đặt chân đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Hội Ái hữu Thiên chúa (La Compagnie de Jésus) thành lập một tổ chức truyền đạo tại miền Nam Việt Nam (la Mission de Cochinchine) năm 1615. Năm 1613 nhà thám hiểm người Anh tên là Richard Carwarden bị giết trên vùng biển Đà Nẵng. Năm 1614 những nhà truyền đạo dòng Tên theo chân các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến Việt Nam. Năm 1625, khi một giáo sĩ, sinh tại thành phố Avignon thuộc miền nam nước Pháp, nhưng gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia) ), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo hoàng, tên là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ) cập bến Hội An, thì việc truyền đạo Thiên chúa mới chuyển qua khúc quanh quan trọng. Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ (3). Sau này, thành phần thực dân Pháp "nhận quàng làm họ", cho Alexandre de Rhodes là người Pháp và cũng quên vai trò của các linh mục Bồ Đào Nha trong việc đặt ra chữ quốc ngữ luôn. Từ năm 1640 các thương nhân người Bồ Đào Nha, Anh và Hòa Lan đã tìm cách thiết lập một quan hệ thương mại tại các hải cảng về phía Bắc và Nam Việt Nam, và các giáo sĩ đi truyền đạo cũng theo thuyền thương nhân vào Việt Nam. Nhận thấy vấn đề ngôn ngữ bất đồng giữa người Pháp và người Việt Nam là cản trở chính cho công việc sinh sống và truyền đạo, Giáo sĩ Đắc Lộ bèn học tiếng Việt. Nhưng công lao của những người Việt đã dạy Alexandre de Rhodes học tiếng Việt và góp phần phiên âm tiếng Việt qua mẫu tự Latinh thì không một sách vở nào nói đến. Alexandre de Rhodes trở nên thành thạo ngôn ngữ, lịch sử và địa lý Việt Nam, và đi truyền đạo ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài tổng cộng 20 năm. Năm 1645 ông bị chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Vì thế khi trở về Paris năm 1649, được sự ủng hộ của Giáo hội Thiên chúa Pháp, Giáo sĩ Đắc Lộ đã vận động hai Giáo hoàng Innocent XI và Alexandre VII đồng ý thành lập Viện Giáo sĩ Truyền đạo nước ngoài Paris (Société des Missions Etrangères de Paris, viết tắt là MEP, các sách còn gọi là Hội Thừa sai), với mục đích đào tạo và đưa các nhà truyền giáo người Pháp đến vùng Viễn Đông. Bốn Giám mục được coi như là những người đã thành lập Hội Thừa sai là François de Laval Montmorency, François Pallu, Lambert de La Motte và Ignace Cotolendi. Trong lệnh truyền năm 1659 Giáo hoàng Alexandre VII đã ấn định nhiệm vụ của Hội Thừa sai là đào tạo và thiết lập một tầng lớp giáo sĩ địa phương, không hoạt động chính trị, chú ý đến văn hóa cổ truyền địa phương, và mọi quyết định đều phải được thông qua La Mã. Hội Thừa sai bắt đầu hoạt động năm 1660, Giám mục François Pallu được cử đặc trách miền Bắc, mà người pháp gọi là Tonkin, Giám mục Pierre Lambert de la Motte đặc trách miền Nam, gọi là Cochinchine. Từ thế kỷ 17 cho đến nay, Hội Thừa sai đã gới khoảng 4.500 giáo sĩ đến châu Á, nhất là các nước Xiêm La, Việt Nam, Cam bốt, Trung Hoa, Ấn Độ, Đại Hàn, Nhật, Mã Lai.... Năm 1651 Giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn tự điển Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum (tự điển Việt-Bồ-La) dựa theo cách phiên âm tiếng Việt qua hệ thống mẫu tự Latinh, trước đó đã được các giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý bắt đầu biên soạn, người Việt góp phần, do ông thay đổi và tu chỉnh. Cách viết này đã thay thế chữ Nho, giúp cho các giáo sĩ truyền đạo Pháp học tiếng Việt nhanh chóng, truyền đạo dễ dàng, và sau này đã trở thành chữ quốc ngữ. Gần đây cuốn tự điển "Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum" được dịch ra tiếng Pháp hiện đại và phát hành tại Pháp. Những nỗi thăng trầm khi thi hành nhiệm vụ Khi đặt chân đến Cochinchine năm 1767 thì Bá Đa Lộc, nhờ có khả năng giáo dục, được cử làm giáo sư trong chủng viện của Hội Thừa sai tạm đặt cơ sở tại Hòn Đất (gần Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay). Năm 1768 Bá Đa Lộc bị Mạc Thiên Tứ, Đô đốc Hà Tiên, giam cầm khoảng hai tháng vì bị buộc tội đã che chở cho một người thuộc hoàng tộc Xiêm La, kẻ thù của họ Mạc. "...Khoảng gần cuối năm 1769 nước Xiêm lại bị nội biến lây sang Cao Miên. Một người Xiêm lai Trung Hoa là PhaJa-Tak, tên Tàu là Trịnh Quốc Anh, cướp ngôi vua. Một hoàng thân Xiêm là Chang-Si-Sang trốn sang Hà Tiên nhờ các thừa sai Pháp giúp ông ta mua vũ khí và chiếm lại ngai vàng. Bị từ chối, ông hoàng chạy sang Cao Miên trên một chiếc thuyền đang chở lương thực cho chủng viện. Đây là việc tình cờ gây tai hại cho chủng viện: PhaJa-Tak (Trịnh Quốc Anh) mua được sự ủng hộ của Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích, 1706-1780, con của Mạc Cửu) ngày 19/1/1768 họ Mạc bắt giam các thừa sai mấy tháng, dẫn đến sự bùng nổ dân Miên đốt phá nhà thờ, sát hại người Việt ở Cảng Khẩu và Hòn Đất. Sau nhờ sự can thiệp của một người con Đô đốc họ Mạc, cơn chém giết bắt bớ đốt phá lắng dịu..." (trích Nhân vật Công giáo - Lê Ngọc Bích) Ngày 11 tháng 12 năm 1769, dù đã trở thành Linh mục Giám đốc chủng viện tại Hòn Đất, khi chủng viện Hòn Đất bị quân Cao Miên tấn công đốt cháy, ông phải rời khỏi Việt Nam cùng với Linh mục Morvan và 13 nhân viên chủng viện để đi đến Malacca (nằm ở phía tây của Mã Lai, cách Singapur khoảng 200 cây số) rồi từ đó xuôi về hướng nam đến Pondichéry (nằm ở vùng đông nam Ấn Độ trong vịnh Bengale, nơi đã có nhiều cơ sở thương mại và hành chánh của Pháp từ năm 1673 ), sau đó năm 1770 ông thành lập một chủng viện ở làng Virampatnam cách Pondichéry một dặm về hướng bắc. "Năm 1771, chủng viện có 39 học viên gồm 12 người Trung Quốc, 16 người Đàng Trong, 5 người Đàng Ngoài, 4 người Thái Lan, 1 người Cao Miên (?) và 1 người Mã Lai. Các học viên được chia thành 4 ban: ban thứ nhất là ban thần học và 3 ban còn lại học tiếng La-tinh, học văn chương và tôn giáo". (Trương Bá Cần, Công giáo Đàng Trong thời Giám mục Pigneau, Tủ sách Đại Kết 1992, tr. 36-37). Năm 1771 ông được Giáo hoàng Clément XIV tấn phong Giám mục Adran và được bổ nhiệm làm Giám mục Tông tòa phụ tá Giám mục Guillaume Piguel. Nhưng cũng trong năm ấy Giám mục Piguel qua đời ngày 21 tháng sáu, Bá Đa Lộc thay thế Piguel rồi được tấn phong tại Madras ngày 24 tháng 2 năm 1774 (Madras được đổi tên là Chennai năm 1996, là một hải cảng mằm trên bờ biển đông nam Ấn Độ tại vịnh Bengale), và ông lên đường trở lại Đông Dương ngày 12 tháng 3 1775 với chức vị Giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong. Thời ấy các linh mục giả trang làm đủ thứ nghề: thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thầy lang, bán thuốc thậm chí gánh nước thuê, người đi câu, lái buôn... để truyền đạo, và được sự trợ giúp tích cực của các thương nhân, thậm chí có lúc các giáo sĩ đào tạo chủng sinh trên các thương thuyền. Các chủng viện thời đó là nhà tranh vách đất thiếu thốn mọi thứ, thường bị di chuyển nơi này qua nơi khác, chủng sinh học đạo bằng tiếng Latinh, luân lý hay giáo sử, địa lý, toán pháp căn bản, và thiên văn học, nhưng việc học tập khó khăn vì thiếu sách vở và tự điển, và họ sống trong lo sợ bị cấm đạo. Việc truyền đạo thường gặp khó khăn vì lý do ngôn ngữ bất đồng, nhưng cản trở chính là sự đòi hỏi người muốn tin theo đạo Chúa phải từ bỏ tục lệ thờ cúng ông bà tổ tiên, không lấy năm thê bảy thiếp mà chỉ một chồng một vợ, ngoài những khó khăn hình thức khác, thí như xây nhà thờ, đúc tượng, đúc chuông, tổ chức hệ thống họ đạo trên dưới quy củ, mang tên thánh bằng tiếng Pháp... Về đến chủng viện Prambey Chhom trên một hòn đảo của sông Mékong ở tỉnh Kong-Pong-Soai, do Giám mục Piguel ra lệnh xây dựng từ đầu năm 1770, Bá Đa Lộc ra lệnh di chuyển chủng viện Prambey Chhom từ Cao Miên về Việt Nam. Trong khi đó, sau cái chết của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765, triều đình chúa Nguyễn ở Đàng Trong bị quyền thần Trương Phúc Loan lũng đoạn. Ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chiêu mộ tướng tài và quân lính, nổi lên năm 1771, kiểm soát vùng đất từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn. Cũng nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai đánh thành Phú Xuân. Triều thần chúa Nguyễn hoảng sợ, bèn mưu bắt Trương Phúc Loan đem nộp. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam. Năm 1775, Nguyễn Phúc Ánh mới 13 tuổi, sinh ngày 15 tháng giêng năm 1762, con của Hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và Bà Nguyễn thị Hoàng, cháu của chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), cùng với tôi chúa họ Nguyễn phải xuống thuyền chạy vào Gia Định. Nguyễn Nhạc nhân thời cơ đó mang quân hai đường thuỷ bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, để lại Nguyễn Phúc Dương. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Nguyễn Phúc Dương. Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, rồi xin đầu hàng quân chúa Trịnh, mặt khác cử em là Nguyễn Huệ, mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam đánh nhà Nguyễn ở Phú Yên. Sau khi thắng ở Phú Yên, Nguyễn Huệ đem quân đánh quân chúa Nguyễn lấy lại đất Quảng Nam. Tháng 3/1776 Bá Đa Lộc trở về đến Hà Tiên, được Đô đốc Mạc Thiên Tứ cho một khu đất khá rộng gọi là Cây Quao, xéo phía nam Hà Tiên, ông lập một họ đạo mang tên Pi-Nha-Lêu. Tại họ đạo nầy, Bá Đa Lộc thiết lập một chủng viện đặt dưới quyền điều khiển của Linh mục Morvan. Tháng 10/1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài, người Hoa, vốn là tướng của Nguyễn Huệ được cắt giữ thành Phú Yên khi Nguyễn Huệ ra Bắc, phản bội Nguyễn Huệ, làm vây cánh. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân Chính Vương, còn Thuần làm Thái Thượng Vương. Những trận đánh tấn công Gia Định của anh em Tây Sơn đều là những trận đánh lớn. Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Huệ đem thủy quân vào đánh Gia Định. Lý Tài thua trận cùng hai chúa Nguyễn chạy về Hóc Môn, rồi cầu viện Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ. Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử. Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh nhưng bị quân Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ, đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Phúc Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi. Năm 1778, nhiều toán cướp ở Cao Miên tràn vào đốt phá khu chủng viện, giết chủng sinh. Bá Đa Lộc cho dời chủng viện về Tân Triều (Đồng Nai).
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:40:01 GMT 9
Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc ÁnhNăm 1780 sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, các tướng họ Nguyễn lập Nguyễn Phúc Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định, lập triều đình, xây đắp lại thành Gia Định theo kiểu bát quái có tám cửa xây bằng đá ong. Do đó vùng này gọi là Tân Triều. Một quan hệ có tính cách thân hữu giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Ánh nảy sinh ra từ giai đoạn này và Bá Đa Lộc được phép hoạt động trên các vùng do Nguyễn Phúc Ánh kiểm soát. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Nguyễn Phúc Ánh lại mạnh lên. Nguyễn Nhạc sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận. Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Phúc Ánh bị đánh bật ra khỏi đất Gia Định bỏ chạy về Hậu Giang. Anh em Tây Sơn chiếm lại Nam Bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Phúc Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Phúc Ánh và suýt bắt được Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Phúc Ánh trốn ra đảo Phú Quốc. Bá Đa Lộc cũng phải chạy trốn sang Cao Miên cùng với chủng viện. Cuối tháng 10-1782, sau khi anh em Tây Sơn rút quân về Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh dần dần chiếm lại được Gia Định và Sài Gòn. Bá Đa Lộc đưa chủng viện về đặt tại họ đạo Mặc Bắc, Vĩnh Long. Ngày nay Mặc Bắc là một giáo xứ đông đảo trong địa bàn xã Long Thới, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh, giáo phận Vĩnh Long. Năm 1783 Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Sài Côn Gia Định và đón Nguyễn Phúc Ánh trở về. Tháng 2/1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân nam tiến, Nguyễn Phúc Ánh bỏ chạy về Đồng Tuyên, đến Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Phúc Ánh chạy ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Nhân có bão biển, Nguyễn Phúc Ánh chạy ra đảo Thổ Chu, rồi đầu năm 1784 tự mình sang Xiêm cầu viện. Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn thủy binh cùng ba trăm chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có ba vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn. Do tình hình ba vạn quân Trịnh đang rình rập ở phía bắc, ba vạn quân bộ Xiêm chực chờ ở phía tây, với hai vạn quân thủy Xiêm ở phía nam, Nguyễn Huệ ra quyết sách nhanh chóng, chủ yếu đánh tiêu diệt hai vạn quân chủ lực đường thủy của quân Xiêm. Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh một trận, tiêu diệt quân Xiêm vào tháng 1/1785. Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm - Xoài Mút. Quân Xiêm và Nguyễn Phúc Ánh thua to, chạy bộ về Xiêm La. Nguyễn Ánh một lần nữa chạy ra biển thoát thân. Bá Đa Lộc cũng phải chạy trốn ra các hải đảo ở vịnh Xiêm La. Chuyến đi Pháp của Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh Mặc dù thất vọng vì không thuyết phục được Nguyễn Phúc Ánh theo đạo, nhưng trước tình hình nhà Tây Sơn cấm đạo nghiêm ngặt, và để cạnh tranh ảnh hưởng với các nhà truyền giáo đến từ Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan, cho nên Bá Đa Lộc tiếp tục giúp đỡ quân Nguyễn Phúc Ánh qua cơn ngặt nghèo và đề nghị Nguyễn Phúc Ánh xin trợ giúp của triều đình Pháp. Nguyễn Phúc Ánh ưng thuận gởi Bá Đa Lộc làm sứ giả qua Pháp xin cầu viện và để làm tin, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Bá Đa Lộc một dấu ấn của vương triều chúa Nguyễn và đem theo Hoàng tử Cảnh, tên tục là Nguyễn Phúc Cảnh, năm tuổi rưỡi, sinh ngày 6 tháng 4 năm 1780 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và bà Tống thị Lan, con gái quan Chưởng doanh Tống Phúc Khuông (sau được truy phong là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu). Bá Đa Lộc, khi ấy 44 tuổi, khởi hành cùng với Hoàng tử Cảnh vào tháng 2 năm 1785 để đến Pondichéry. Nhưng tại đây ông gặp khó khăn phải chờ hơn một năm mới tiếp tục đi Pháp được. Ông và Hoàng tử Cảnh cập bến Lorient vào tháng 2 năm 1787. Đoạn đường đi mất đúng hai năm. Vua Louis XVI Nhiều bộ trưởng của triều đình Louis XVI chống lại một sự can thiệp ở Đông Dương, nhưng các nhân vật quan trọng Công giáo ủng hộ đề nghị của Bá Đa Lộc. Vua Louis XVI tiếp Bá Đa Lộc tại triều đình vào ngày 5 hay 6 tháng 5 năm 1787, trước sự hiện diện của các bộ trưởng và các nhân vật quan trọng. Bá Đa Lộc trình bày tình hình Đông Dương và những quyền lợi về kinh tế thương mại, vật chất, cũng như về việc truyền đạo Thiên chúa qua sự thuận tình của nhà Nguyễn. Hoàng hậu Marie-Antoinette Chính ra, vua Louis XVI ngần ngại dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quân sự tốn kém và nghi ngờ lợi ích sẽ thu hoạch được sau này, nếu đạt được mục đích quân sự. Một chi tiết đáng chú ý là thời ấy dân chúng đang oán ghét và dèm pha nặng nề ảnh hưởng chính trị của hoàng hậu Marie-Antoinette đối với triều đình vua Louis XVI và cách tiêu xài quá phung phí của bà, thí dụ như đề tài hoàng hậu mua một chuỗi kim cương đáng giá một triệu sáu trăm ngàn quan tiền vàng Pháp, trong khi các bộ trưởng đều than phiền là công quỹ quốc gia hao hụt trầm trọng. Triều đình Louis XVI chấp thuận can thiệp, một hiệp ước giữa vua nước Pháp và vua nước Việt Nam (người Pháp gọi Nam Kỳ là Cochinchine) được ký kết bởi công tước Montmorin, bộ trưởng của vua Louis XVI và Giáo sĩ Bá Đa Lộc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm 1787. Theo hiệp ước này, nước Pháp giúp Nguyễn Phúc Ánh giành lại ngai vàng, ngược lại, nhà Nguyễn nhượng tuyệt đối cho Pháp cửa bể Đà Nẵng, Côn Đảo và độc quyền thương mại tại Việt Nam. Tại Bắc Hà, từ năm 1782, khi Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết, Thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương, họ Trịnh ngày càng suy yếu. Năm 1786, lúc Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh còn lênh đênh trên biển, Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Quân Trịnh rệu rã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát. Xem như nhà Trịnh từ đó bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển tông. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Nguyễn Huệ lập Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam. Giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ yếu thế phải rút về Quy Nhơn. Trở về Việt Nam Tượng đồng Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh, Saigon (không còn nữa) Hình Nguyễn Tấn Lộc ( Vuong Cung Thanh Duong SaiGon @buu Dien SG) Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh lên đường trở về Đông Dương ngày 27 tháng 12 năm 1787 trên chiến thuyền La Dryade. Nhưng vì sự cản trở của các thế lực của chính quyền Pondichéry do công tước Conway lãnh đạo, và sự rối rắm của triều đình Louis XVI, nước Pháp đã không gởi quân cứu viện như đã hứa. Bị bỏ rơi, nhưng Bá Đa Lộc không tự bỏ rơi. Với số tiền 15.000 quan tiền vàng của gia đình và bạn bè cho ông, cộng thêm sự giúp đỡ của các thế lực thương mại, ông thực hiện điều mà triều đình Pháp không muốn thực hiện. Bá Đa Lộc mua vũ khí, súng ống, đạn dược, chiến thuyền và mộ binh để giúp Nguyễn Phúc Ánh. Khi ấy, Nguyễn Huệ phải giải quyết vấn đề chuyên quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh và sau đó của Vũ Văn Nhậm, giết Chỉnh và Nhậm, rồi lại rút quân về Phú Xuân. Trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia Định. Cuối năm 1788 đang chuẩn bị đánh Nguyễn Phúc Ánh thì Nguyễn Huệ được tin vua Càn Long nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân tiến vào biên giới chiếm đóng Thăng Long. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ. Nghe tin báo, Nguyễn Huệ quyết định chọn cách đánh thần tốc để chống quân nhà Thanh, đội tiếng phù nhà Lê để xâm lăng. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế kỷ nguyên là Quang Trung ngày 25 tháng 11 năm 1788, rồi ngày 22 tháng 12 năm 1788 (25 tháng 11 năm Mậu Thân) xuất quân tiến ra Bắc Hà, truyền hịch hẹn ba quân là ngày mồng bẩy Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn tết ở Thăng Long. Đêm mồng bốn Tết Kỷ Dậu 1789, cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, bị giết hàng vạn. Tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành mười ba gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là Gò Đống Đa. Sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu 1789, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị sợ hãi đã bỏ chạy trước. Lê Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị thoát sang bên kia biên giới. Trưa mồng năm Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long. Chỉ trong vòng sáu ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh. Hai trận chiến, trận Rạch Gầm - Xoài Mút chống quân Xiêm phía Nam và trận đại phá quân Thanh Ngọc Hồi - Đống Đa, ghi nên những trang sử oai hùng của nhà Tây Sơn. Trong khi đó tại Pháp, cuộc phá ngục Bastille xảy ra ngày 14 tháng bẩy 1789 đã mở đầu cho cuộc cách mạng đặt nền móng cho một chính thể dân chủ, mà hiện nay ngày 14.07 vẫn là ngày lễ trọng đại của nước Pháp. Mười ngày sau đó, ngày 24 tháng 7 năm 1789 Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh trên chiến thuyền Méduse cùng với khoảng ba trăm thủy quân, tám mươi pháo binh và năm mươi phụ binh người da đen, cập bến Bãi Dừa, Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) . Như thế là Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh đã mất bốn năm rưỡi để đi Pháp và về Việt Nam. Trong khi đó, tại Pháp, sau sự kiện cuộc cách mạng năm 1789, vua Louis XVI và gia đình tìm cách trốn ra nước ngoài nhưng không thành. Ngày 10 tháng 8 năm 1792 vua Louis XVI bị bắt tại cung điện Tuileries và bị Quốc Hội kết tội phản bội chính thể tự do, với 387 phiếu thuận và 334 phiếu chống án tử hình. Ngày 21 tháng 1 năm 1793 đao phủ Sanson chém rơi đầu vua Louis XVI tại quảng trường Cách Mạng, ngày nay là quảng trường Concorde tại Paris. Mười tháng sau đó, hoàng hậu Marie-Antoinette lên máy chém ngày 16 tháng 10 năm 1793 cũng tại quảng trường Cách Mạng. Thời vận Nguyễn Phúc Ánh đã đến Vua Gia LongBấy giờ Nguyễn Phúc Ánh đã tái chiếm Gia Định, từ năm 1788. Tình hình đã thay đổi thuận lợi, Bá Đa Lộc chuyển chủng viện từ Xiêm về Đàng Trong và chọn địa điểm là Lái Thiêu làm trung tâm của giáo phận Đàng Trong, lập Tòa Giám mục. Tháng 6/1792, Bá Đa Lộc chuyển chủng viện ra Tân Triều, kinh đô mới của Nguyễn Ánh tại Đồng Nai. Nguyễn Phúc Ánh ban cho Bá Đa Lộc một đội ngự lâm quân gồm 200 người và đặt Bá Đa Lộc là Đặc ủy viên của vua Pháp, làm cố vấn chiến tranh kiêm ngoại giao. Khoảng hai mươi sĩ quan Pháp, và hơn ba trăm năm mươi thủy binh, pháo binh tình nguyện ở lại huấn luyện quân lính và thủy quân Việt Nam, xây dựng thành lũy theo hệ thống của Vauban. Nhiều người trở thành quan dưới trướng Gia Long và được đặt tên Việt, như Jean Marie Dayot (Ông Trí) lãnh đạo đội thủy quân, Philippe Vannier (Ông Chấn) chỉ huy chiến thuyền le Dong Nai, De Forsans (Ông Lăng) chỉ huy chiến thuyền L‘Aigle, Jean-Baptiste Chaigneau chỉ huy chiến thuyền le Dragon, Julien Girard de l‘Isle-Sallé chỉ huy chiến thuyền Le prince de la Cochinchine, Laurent Barisy (Ông Mân) coi về huấn luyện, Olivier de Puymanel (Ông Tín) chỉ huy bộ binh, pháo binh và phụ trách xây thành, Desperles và Despiau, hai nhà giải phẫu và bác sĩ quân đội phụ trách về sức khỏe và thương binh, Théodore Lebuen, Guilloux. Vào năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền ở cửa Thị Nại để nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, thuận gió cho quân nam ra, Nguyễn Phúc Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Nguyễn Nhạc phải thu quân về Quy Nhơn. Vua Quang TrungTrước sự kiện này, Nguyễn Huệ chuẩn bị huy động hơn hai mươi vạn quân thuỷ bộ, chia làm ba đường đánh Nguyễn Phúc Ánh. Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Phúc Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên, cái chết đột ngột của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào tháng 9 năm 1792 khiến kế hoạch nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ sinh năm 1753, (sinh trước Nguyễn Phúc Ánh chín năm) mất ngày 15 tháng 9 năm 1792, thọ 39 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế. Thời đại hiển hách vủa vua Quang Trung chỉ kéo dài từ năm khởi nghĩa 1771 cho đến năm 1792 là được hai mươi mốt năm, làm vua được gần bốn năm. Năm 1799, Bá Đa Lộc lâm bịnh nặng trong khi hộ tống Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm Quy Nhơn, trung tâm của nhà Nguyễn Tây Sơn. Sau hai tháng lâm bệnh, ông mất ngày 9 tháng mười 1799 tại cửa Thị Nại - Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, thọ 58 tuổi. Lễ táng Bá Đa Lộc được cử hành trọng thể do Nguyễn Phúc Ánh chủ tọa và đọc điếu văn. Một lăng mộ của Bá Đa Lộc được Nguyễn Phúc Ánh cho xây dựng trong khu vườn thuộc giáo phận Chí Hòa, thuộc tỉnh Gia Định, cách trung tâm thành phố khoảng ba cây số, sau này dân chúng gọi là Lăng Cha Cả. Nhưng có sách viết rằng lăng mộ chính của Bá Đa Lộc nằm ở cửa Thị Nại, Lăng Cha Cả trong nam chỉ là mộ vọng. Năm 1801, hai năm sau khi Bá Đa Lộc qua đời, Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được Phú Xuân, lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long ngày 2 tháng 5 năm 1802, rồi tận dụng thời cơ nhà Tây Sơn suy yếu sau cái chết của vua Quang Trung, tiến ra Bắc, đánh quân Tây Sơn tan rã, làm chủ đất nước từ nam chí bắc. (4) Thời đại mười ba vua nhà Nguyễn bắt đầu Và để trả thù, Nguyễn Phúc Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, giã hài cốt thành bột và bỏ xương sọ vào vò, giam cầm trong ngục tối, và tru diệt các tướng lãnh Tây Sơn, gây ra cái chết thảm thiết của vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi thị Xuân. Bà Bùi Thị Xuân là một nữ tướng xuất sắc của vua Quang Trung, có tài luyện voi đánh giặc, được vua Quang Trung phong làm Đô Đốc, cùng chồng là Trần Quang Diệu, đã hết lòng phò tá Nguyễn Huệ, bị Nguyễn Phúc Ánh bắt năm 1802 cùng với chồng. Trần Quang Diệu bị Nguyễn Phúc Ánh xử lột da đến chết, bà Bùi thị Xuân, và đứa con gái nhỏ bị xử voi dày cho đến chết. Theo lịch sử Công giáo thì dưới thời vua Gia Long, Giáo Hội Công Giáo có 320.000 giáo dân, 119 Linh mục Việt Nam, 15 nhà truyền giáo ngoại quốc và 3 Giám mục. Ðiều đáng chú ý là tám mươi phần trăm các Linh mục và Giáo chức Việt Nam đều ở miền Bắc. Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh mất ngày 19 tháng 12 năm 1820, thọ 58 tuổi, làm vua được 18 năm, có 31 người con. Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm, sanh năm 1791 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và Bà Trần thị Đặng, lên làm vua lấy niên hiệu là Minh Mạng, chết năm 1840 thọ 49 tuổi, làm vua được 20 năm, để lại 142 người con. Họ Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng cho đến Bảo Đại, chín chúa mười ba vua, đã in dấu ấn lịch sử gần bốn thể kỷ (từ 1558 cho đến 1955 là 397 năm). Bảo Đại, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, vua cuối cùng của triều Nguyễn chết ngày 31 tháng bẩy năm 1997 tại Pháp, mộ chôn ở Paris. Tro xương của Giám mục Bá Đa Lộc được đem về Pháp năm 1983 và cất giữ tại hầm mộ của Viện Giáo sĩ Truyền đạo nước ngoài Paris. Sau này, khi Pháp xâm lược Việt Nam, họ viện dẫn hiệp ước Versailles 1787 để đòi triều đình Huế phải nhân nhượng điều này điều nọ. Nhưng hiệp ước Versailles không có giá trị pháp lý, vì triều đình Louis XVI đã không thực hiện các điều khoản cam kết để giúp Nguyễn Phúc Ánh (giả dụ là triều đình Pháp thực sự muốn giúp), và nhất là triều đình Louis XVI đã bị lật đổ hai năm sau đó (1789), trước khi Nguyễn Phúc Ánh đạt được mục đích của mình. Do đó, triều Nguyễn không có « nghĩa vụ » thi hành những điều khoản trong hiệp định Versailles 1787. Ngô Đình Diệm Bảo Đại Còn Hoàng tử Cảnh ? Năm 14 tuổi (1792) Hoàng tử Cảnh được lập làm Đông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận Công. Năm 1797, Hoàng tử Cảnh theo cha đi đánh quân Tây Sơn ở Qui Nhơn. Vua Gia Long đặt Bá-Đa-Lộc là Sư Phó, Ngô Tòng Chu làm Phụ đạo, và các thầy học khác, trong số này có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Phó tướng Tả quân Phạm văn Nhân, Đốc học Nguyễn Thái Nguyên, Nguyễn Gia Cát, Tiến sĩ nhà Lê. Ảnh hưởng của Bá Đa Lộc lên Hoàng Tử Cảnh không phải là nhỏ, vì Hoàng Tử Cảnh ăn ở chung sống với Bá Đa Lộc nhiều năm, được Bá Đa Lộc dậy dỗ theo đạo Thiên Chúa, cho nên có cảm tình với người Tây Dương, ra mặt che chở cho tất cả những người Âu, bảo vệ cho đạo Thiên Chúa. Khi ở bên Pháp, Hoàng tử Cảnh được Hoàng Hậu Marie Antoinette cho sửa đổi lại trang phục, thay thế quần lĩnh áo the và khăn vấn, và sai họa sĩ vẽ tranh kỷ niệm. Ngày 20 tháng 3 năm 1801, sau khi lấy được Thị-nại, Hoàng Tử Cảnh mắc bệnh đậu mùa, mất năm 22 tuổi, chỉ hai năm sau khi Bá Đa Lộc qua đời, an táng ở Bình Định, năm 1809 cải táng về Dương-xuân, và được truy tụng là Anh Duệ Hoàng Thái Tử. Hoàng Tử Cảnh kết duyên với Tống thị Quyên, sinh được hai con trai là Mỹ Đường và Mỹ Thùy. Năm Gia-Long thứ 16 (1818), phong cho Mỹ Đường là Ứng Hòa Công, Mỹ Thùy là Thái Bình Công. Sau khi Hoàng Tử Cảnh qua đời, có người tố cáo Mỹ Đường thông gian với mẹ đẻ là Tống thị Quyên. Lê văn Duyệt tâu kín. Vua Minh-Mệnh sai bắt người vợ của Hoàng Tử Cảnh giao cho Lê văn Duyệt dìm chết và cấm Mỹ Đường không được chầu hầu. Năm 1824 Nguyễn Phúc Mỹ Ðường dâng sớ nói có bệnh, xin nộp trả sách và ấn, về ở nhà riêng, làm thứ dân. Năm 1826, Nguyễn Phúc Mỹ Thùy bị quân lính ở Dực Chấn kiện, sắp giao xuống cho đình thần nghị tội thì bị bệnh chết, không có con (có sách viết ông có một con gái). Cuối cùng, con trai của Mỹ Ðường, Nguyễn Phúc Lệ Trung, bị bỏ tước hiệu Ứng Hòa Công, giáng xuống là Thái Bình Hầu. Kỳ Ngoại Thái Bình Hầu Cường Để tên húy là Nguyễn Phúc Vân, đích tôn dòng Hoàng Tử Cảnh, đời thứ sáu kể từ vua Gia Long (Mỹ Duệ Anh Cường Tráng...), được Phan Bội Châu tôn làm Minh chủ Việt-Nam Quang Phục Hội, và giúp Cường Để xuất du, sang Nhật hoạt động (1906). Tôi sẽ tiếp tục học hỏi về đoạn sau của lịch sử, tức là từ 1802, sau khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua trở thành vua Gia Long, cho đến chiến thắng Điện Biên năm 1954, buộc người Pháp phải rút hoàn toàn ra khỏi Việt Nam. Đã đăng tại Diễn Đàn Forum © Mathilde Tuyết Trần, Lataule 2007 Tôi chỉ là người học sử, nếu có sai sót xin vui lòng chỉ giáo. Xin cảm ơn trước. Liên lạc: tuyet999@aol.com CHÚ THÍCH (1) Quan tiền Pháp đầu tiên trong lịch sử nước Pháp là "quan cỡi ngựa" (Franc à cheval) từ thế kỷ thứ XIV vì có in hình vua Jean le bon (1350-1364) cỡi ngựa, bằng vàng nhuyễn nặng từ 3,8 đến 3,9g, tương đương với một chỉ vàng ròng hiện nay. Sau đó, vua Charles V (1364-1380) ấn định chính xác một quan Pháp nặng 3,826g. Đồng quan này được gọi là "quan đi bộ" (Franc à pied) vì in hình vua đứng trên ngai vàng có phủ trướng. Năm 1785 vua Louis XVI ấn định đơn vị tiền tệ một quan vàng (gọi là 1 livre tournois) nặng 0,29g vàng ròng, còn một quan bạc (gọi là 1 livre) thì nặng 4,45g bạc ròng. Từ năm 1879 đến năm 1928 một quan vàng Pháp được ấn định nặng 0,3225g, nhưng tiền vàng dần dần được thay thế bằng tiền giấy kể từ năm 1914, khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu. (2) Người bạn Pháp đi cùng với tôi mang ba tên: tên của ông nội là tên chính của anh ta, tên một người chú chết trận khi còn trẻ tuổi và tên cha. (3) Giáo sĩ Đắc Lộ Alexandre de Rhodes, con của Bernardin de Rhodes và bà Jeanne de Tolède, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1591, qua đời ngày 05 tháng 11 năm 1660 tại Isfahan, Ba Tư (Persian), cho nên không thể nhầm lẫn với Giáo sĩ Bá Đa Lộc sanh năm 1741, tức là 81 năm sau. (4) Các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử là Văn Lang , Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt ( từ thời nhà Đinh năm 968 đến đời vua Lý Thánh Tông năm 1054), Đại Việt ( từ thời nhà Lý đến năm 1804 , nhưng không liên tục vì nhà Hồ đổi thành Đại Ngu năm 1400, cho đến khi nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt. Nhà Nguyễn Tây Sơn cũng gọi tên nước là Đại Việt. Việt Nam được Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh ban hành là quốc hiệu chính thức. Nhà Thanh chính thức tuyên phong tên Việt Nam năm 1804. Theo các tác giả nghiên cứu khác thì tên gọi "Việt Nam" đã xuất hiện từ thế kỷ 14. Qua thế kỷ 15 hai chữ "Việt Nam" được tìm thấy trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi (1380-1442) và của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Vua Minh Mạng công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:43:14 GMT 9
Thonac – Đất lạ thành quen và một bí ẩn về vua Hàm Nghi Mathilde Tuyết Trần Pour Pierre Mới đầu tháng ba hoa xuân đã nở rộ. Năm nay xuân về sớm hơn những năm trước, cũng vì mùa đông quá ấm, vạn vật không có thì giờ nghỉ ngơi. Các chính khách mầu xanh nơi đây kêu gào bảo vệ môi trường đã quá ô nhiễm, làm cho tôi bật cười khi nhớ đến một bà chính khách mầu xanh khen nức nở trước ống kính săn hình của báo chí: "Ồ, con bò cái thật là đẹp", mà không biết rằng bà ta đang đứng trước một con bò đực. Trên mảnh vườn nhỏ của tôi lú lên những cụm hoa vành khăn,hoa thủy tiên, hoa báo xuân, hoa giọt sữa, hoa mẫu đơn. Trên cành thì hoa mận, hoa đào đua nhau nở rộ, làm những cây táo, cây lê vội vã trổ mầm xanh. Những chiếc lá mới, vừa đỏ vừa xanh, chợt nhú ra be bé trên những cành hồng khẳng khiu. Chim chóc kéo về hát ríu rít suốt chiều hôm sáng sớm, và hấp tấp nhặt những cành cây vụn làm tổ trên cao. Trời xuân đổi tiết luôn luôn, từ những đám mây đen khổng lồ kéo về cuồn cuộn đe dọa, từ những cơn gió chặt ngã cây rừng đuổi chó vào chuồng nằm im thin thít, từ những cơn mưa xuân dầm dề rả rướt suốt cả ngày làm mọi người bó gối chồn chân ngồi nhà không biết đi đâu, cho đến những làn nắng xuân ấm áp lóng lánh vàng làm cho trái tim tưởng đã cằn cỗi trở nên rạo rực muốn bay khắp bốn phương trời. Cũng vì trời mưa, đất sét trở thành bùn trơn tuột luột, sợ té gẫy lưng ngoài vườn, mà tôi đâm ra loay hoay dọn những thùng sách cũ. Mỗi lần dọn nhà, khổ nhất là đống sách. Thùng sách nào cũng nặng chình chịch, khuân vác xuống cầu thang, lên cầu thang bở cả hơi tai, xong rồi chất đống để một chỗ cả năm, vì còn nhiều việc khác cấp bách hơn. Nhưng sách vở, thư từ, hình ảnh quả thật là một kho tàng quý báu. Ngay cả những tờ lịch bóc. Tôi ngẩn ngơ từ suốt ngày hôm qua, thúc bách, hôm nay phải viết những dòng này, chỉ vì một tờ lịch cũ bóc ngày 05 tháng tám năm 1999, trên đó có vài câu thơ của nhà thơ Vũ Quần Phương Anh đứng bên cầu đợi em Đứng một ngày đất lạ thành quen Đứng một đời đất quen thành lạ Nước chảy... kìa em, anh đợi em. Tờ lịch này lại nằm trên một cuốn sách cũ bằng tiếng Pháp "Structure de la langue vietnamienne", bản dịch của cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam của Trương văn Chình và Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1963 tại Huế. Lật đại một trang như bói Kiều, tôi rơi vào hàng chữ: Tordu: cong queo, còng quèo, hay: cong queo còng quèo Déformé: méo mó, mẹo mọ, hay: méo mó mẹo mọ Tout petit: tí tẹo, tì teo, hay: tí tẹo tì teo Sournois: tâm ngẩm, tầm ngầm hay: tâm ngẩm tầm ngầm Phần tôi, đêm nay, trân trọng dán tờ lịch cũ vào nhật ký, rồi đi ngủ với những câu thơ, để ngày mai lên đường đi dạo mùa xuân. Làng Mai Đã mấy chục năm qua, tôi chưa có dịp đặt chân đến vùng đất lạ này, dù là khoảng cách không xa lắm. Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Đã bao nhiêu lần tôi muốn lên đường đi, nhưng vẫn ngần ngại. Không phải lúc nào cũng thực hiện được ngay điều mình muốn. Xuân này, trước khi đến Thonac, tôi muốn ghé thăm Làng Mai. Nếu tìm địa danh Làng Mai trên bản đồ nước Pháp có mà tìm đỏ mắt cũng không ra, đừng nói chi đến việc tìm ra bẩy xóm của Làng Mai - Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Mới, Xóm Trung, Xóm Mới Đầu Thôn, Xóm Mới Lưng Đồi và Xóm Đoài, rồi lại còn tên các chùa - Chùa Pháp Vân, Chùa Sơn Hạ, Chùa Cam Lộ, Chùa Từ Nghiêm. Cách dùng chữ "Làng", "Xóm" càng làm cho tôi tò mò, muốn biết cái làng Việt Nam ấy, trên đất Pháp là như thế nào. Trong trí tưởng tượng đơn giản của tôi thì có thể đó là một cái làng gồm bẩy xóm như ở Việt Nam quây quần với nhau. Làng Mai, tên chính thức tiếng Pháp là Village Des Pruniers (tiếng Anh dịch là Plum Village), làm cho tôi thắc mắc, nghĩ đến...hoa mai và ô mai, vì "Pruniers" là danh từ chung của một nhóm cây mận có nhiều loại khác nhau như là mirabelles, reine Claude hay quetsch trong vườn nhà tôi. Hỏi một người bạn cũ về hoa mai và ô mai, anh Trần Minh Khôi, thì anh chế diễu tôi chỉ háo ăn, rồi giải thích một cách say sưa: "Ô-Mai, còn có tên gọi là ô-môi hay xí muội (dân miền Nam gọi) có gốc cơ bản từ quả Mai của cây Mai bên Trung Quốc, tức là loại cây mai (mơ), đầu xuân đã nở hoa, có hai thứ trắng và đỏ. Thứ trắng gọi là "lục ngạc mai", nở hết hoa rồi mới nẩy lá, quả chua, chín thì sắc vàng. Giống Mai này có tên khoa học là Prunus Mume, thuộc họ Hoa Hồng (Rosaleal). Mai này tương cận với cây Mơ, có tên khoa học Prunus Armeniaca Lin (ở miền Bắc mình thường gọi) được ướp đường hoắc muối sấy khô, dùng làm thuốc hay để ăn. Sau này người Việt mình lại dùng một số quả khác biến chế theo cách đó nên mới có thêm các khái niệm đi kèm để phân biệt. Thí dụ: ô-mai me, ô-mai mơ, ô-mai sấu, ô-mai cam thảo, ô-mai tắc cam, ô-mai me tắc, gừng ô-mai v.v... (Oh, lecker !!! Ngon quá) Mai này hoàn toàn khác với cây Mai vàng chưng vào dịp Tết ở miền Nam VN. Đặc biệt trong văn học Trung Quốc, người ta thường nói đến Tùng, Trúc, Mai... là chính loại Mai này, chứ không phải là Mai vàng của VN. Còn trong văn học Việt Nam thì lạ, chỉ thấy gọi "tuổi học trò" là "tuổi ô mai"... mà chẳng thấy gọi "tuổi sồn sồn" như chúng mình là gì cả nhỉ... có nên gọi là "tuổi ô-hô" chăng " Chuyến này, tôi dành thời gian cho sự ham muốn được biết thêm vài điều mới lạ, dù đường xa, dù mưa xuân lấm tấm ướt đường, không chạy nhanh được, phần lớn thì giờ là ngồi trong xe ngắm cảnh, tôi ghé nhiều nơi, nhìn cho đã mắt những gì mình chưa thấy, như con nít thấy cục kẹo. Thậm chí, khi đi ngang qua Limoges, thành phố nổi tiếng khắp thế giới vì sản xuất đồ sứ men trắng hạng sang, mưa tuyết phủ đầy mặt đất, các xe đều bật đèn và chạy chậm hẳn lại, như lạc lõng vào một thế giới khác đang vẫn còn mùa đông ngự trị. Trên cao nguyên Ngàn Bò (dịch theo nghĩa đen của địa danh "plateau de Millevaches", nhưng các nhà ngôn ngữ học còn đang tranh cãi về nguồn gốc của "Millevaches": hoặc là ngàn suối "mille batz”, theo gốc "batz” - suối - hoặc là "au millieu de nulle part” theo gốc "vaque” mi - le - vaque - vacant, vide) không thấy một con bò nào cả, chỉ có tuyết rơi. Bởi thế mà đi hai ngày từ Paris mới đến thành phố Bergerac, cách Paris khoảng 600 cây số xuôi về hướng nam, để đến Làng Mai. Thành phố Bergerac là một vùng sản xuất rượu vang. Các loại rượu như Bergerac, Monbazillac, Pécharmant được các siêu thị và các nơi bán rượu xếp rượu vào khu "Sud-Ouest" (Tây Nam). Bergerac thuộc vùng thung lũng sông Dordogne, khu vực Périgord pourpre, cho nên các món ăn đặc sản của vùng này cũng chế biến từ thịt vịt, thịt ngỗng. Nhưng sợ thèm rượu ngon mà mềm môi, tôi không dám lang thang lâu ở Bergerac, mà chỉ nghỉ mệt qua đêm rồi sáng sau tôi tìm đến Xóm Thượng. Tên Việt Nam là thế, nhưng tên tiếng Pháp là chi hè ! Biết là không xa Bergerac nhưng đi lòng vòng từ sáng sớm, thắng gấp mấy lần, quay xe mấy lần mà tìm chưa ra Làng Mai. Ở vùng này, cũng như những vùng quê khác trên đất Pháp, lưa thưa nông trại và ruộng, vắng bóng người. Bergerac toàn là ruộng nho, nhìn đâu cũng thấy ruộng nho, nhưng đầu xuân thì những gốc nho khẳng khiu còn trơ trụi lá. Nhìn ruộng nho rất sạch, không một cọng cỏ dại, mặt đất như có ai cầm lược chải chuốt bằng phẳng, các gốc nho được uốn cùng về một hướng, tôi không khỏi phục công lao người làm ruộng, nhưng cũng tự đặt câu hỏi về mức độ sử dụng thuốc hóa học trừ sâu bọ và các loại cây dại, vì tôi biết thế nào là nhổ cỏ dại trong vườn nhà, chỉ sau ba bốn ngày nắng ấm, nhưng nhất là sau những cơn mưa, chúng trỗi lên từ đất một cách rất phấn khởi vui tươi, nhổ hết đợt này, mọc lên đợt khác. Đi loanh quanh một hồi, chợt tôi thấy một tấm bản nhỏ cắm ở một ngã tư đường ruộng chỉ hướng Meyrac. Một địa danh rất nhỏ không có tên trên bản đồ. Mừng quá, chạy thêm một chút nữa, thì lướt nhanh qua một cái gì có vẻ Á Châu bên vệ đường. Lật đật lùi xe lại. À, ra thế: "Village Des Pruniers". Eureka ! Làng Mai – Xóm Hạ Nhưng vào đến chỗ đậu xe, tôi hoàn toàn ngơ ngác không biết mình ở đâu ! Trước mặt là hai dẫy nhà ngang dài và thấp, ngó sang phía tay phải, đằng xa, thì thấy một cái chuông chùa, treo, không phải trên gác, mà là dưới mái ngói hai tầng, bốn góc uốn cong, trống trải bốn phía, như lơ lửng trong không. Toàn cảnh, im lặng, không có bóng người. Tôi nhẹ bước, len lén như con mèo ăn vụng, đi về khoản đất treo cái chuông. Một góc khoáng đãng hiện ra, tiếng chuông chùa chắc là phải vang xa lắm. Tiếng chuông chùa vang xa trong không gian của nước Pháp ? Thật là lý thú ! Tôi không khỏi nhớ ngay đến Giám Mục Bá Đa Lộc (1) và các giáo sĩ khác đã sang giảng đạo Thiên chúa để khai phá ở Việt Nam, thì bây giờ, ngược lại, các thầy cô đang giảng đạo Phật trên đất Pháp. Trước chuông, một khoảng đất lớn trồng toàn cây Mận (cây Prunus, gọi là cây Mận, cây Mơ hay cây Mai tùy ý), nhưng vùng này tiết trời còn lạnh, nên các cây còn đứng khẳng khiu, chưa trổ hoa. Loại cây này, hoa trổ trước, rồi lá mới nẩy mầm sau. Ngoài cái chuông, không thấy có chùa như trong trí tưởng tượng của tôi, một cái chùa như ở Việt Nam, hay ở vùng ngoại ô Paris, mà là những dẫy nhà thâm thấp, bốn năm cái, xây gần với nhau, cũ mới lẫn lộn, cái thì xây bằng đá, cái thì xây bằng bê tông, có thể gọi là "Làng". Thoang thoáng, trong một căn có một cánh cửa mở, bóng một sư cô nhỏ nhắn mặc áo nâu, đang bận tiếp một người khách. Đột nhiên, một người đàn bà Pháp, khoác chiếc áo nâu trên một bộ quần áo thường nhật, không biết từ đâu ra, tiến lại phía tôi chào hỏi. Bà cho tôi biết bà là tín nữ đến đây để học đạo và thiền, và tôi đang ở khu vực chùa dành cho Sư nữ và tín đồ nữ, (tức là Chùa Cam Lộ, Xóm Hạ trong địa danh Meyrac thuộc địa phận của làng Loubes-Bernac), rồi dắt tôi đi xem từng giảng đường, nơi thầy hành lễ và giảng đạo. Các giảng đường này khá lớn, trống trơn, không bàn, không ghế, chỉ có một cái bệ hai, ba tầng, trên có các vật dụng thờ tự ở một đầu, giảng đường lớn nhất có thể thâu nhận được 600 tín đồ hành lễ. Ngoài các giảng đường, có vài dẫy nhà để ở cho các sư cô và người đến học đạo. Bà dắt tôi vào bếp, rót cho tôi một ly nước trà nóng trong một bình thật lớn để sẵn, y như thói quen ở Việt Nam. Cái bếp cũng rất rộng, trống khoáng, nồi niêu xoong chảo rất to, để nấu cho cả mấy trăm người ăn. Tôi mới được biết là cả chùa đi vắng vì Thầy Thích Nhất Hạnh đang du hành ở Việt Nam ! Nếu có ai trách tôi rằng, ra ngõ không coi ngày, thì cũng đúng. Thấy sư cô một mình bận bịu, tôi không dám phiền lâu, rồi chào tạm biệt bà tín nữ người Pháp để đi tìm Xóm Thượng theo bà chỉ. Thật ra làng Mai không gần Bordeaux lắm, như mọi người thường nói cho qua chuyện, mà cách Bordeaux khoảng 85 cây số về hướng Đông, và cách Bergerac khoảng 25 cây số. Từ làng Loubes-Bernac, tôi tìm làng Thenac, cách đó mấy cây số lên đồi. Chạy một vòng quanh làng Thenac thì tôi thấy bảng chỉ địa danh Le Pey, nơi có Xóm Thượng, tức là chùa Pháp Vân, dành cho sư nam và tín đồ nam. Làng Mai Xóm Thượng cũng được xây dựng giống như Xóm Hạ (hay ngược lại), cũng có một chuông chùa dưới mái ngói, chung quanh treo biển "je suis chez moi, je suis arrivé", quang cảnh đẹp hơn, phóng khoát hơn, nhiều ánh sáng hơn, trong vườn có nhiều hoa hơn và suốt ngày lộng gió. Nhìn tuổi của những bụi cây tre cao lớn, các cây tre mọc chen nhau khin khít, trong khu vực làng, tôi nghĩ rằng Xóm Thượng có lẽ được thành lập trước Xóm Hạ. Những người thường quen sống trong những thành phố lớn đầy người, đầy xe cộ, đầy bụi bặm, hẳn phải yêu thích phong cảnh nơi đây, yên tĩnh và thơ mộng. Xóm Thượng cũng hoàn toàn trống vắng, thấp thoáng bóng hai sư nam đang nấu bếp cho bữa trai trưa. Tôi lên đường đi về hướng Thonac, cái tên đứng đầu trong danh sách các địa danh trong chuyến đi khảo sát lần này của tôi. Điểm hẹn THONAC Tôi hỏi Pierre, tại sao các địa danh ở vùng này đều chấm dứt bằng chữ .."ac". Pierre giải thích "ac", viết tắt của chữ la tinh " acum", có nghĩa là "nhà", hay "địa phận", mỗi địa danh đều hàm ẩn một ý nghĩa nào đó. Thonac là một làng nhỏ, nằm thơ mộng bên con sông Vézère, độ cao chênh lệch từ 67 mét đến 232 mét, hiện nay có khoảng 250 dân và vài chục nóc nhà, diện tích 11,62 cây số vuông, tức là rất thưa dân, trung bình có 20 dân cư trên một cây số vuông. Con đường chính chạy qua làng, uốn khúc quanh co theo dòng nước mầu xanh như lá cây của con sông Vézère. Nếu không để ý, thì lái xe chạy ngang qua Thonac mà không kịp biết. Tên làng Thonac xuất hiện lần thứ nhất vào năm 1382. Hiện nay làng Thonac thuộc về vùng hành chánh Aquitaine, khu vực Dordogne, tỉnh Sarlat-la-Canéda, huyện Montignac (so sánh với các cấp địa giới hành chánh Việt Nam như tỉnh, huyện, thành phố, quận, làng, xã). Trung tâm làng rất nhỏ, còn nhiều nét thôn dã, chỉ có vài quán ăn, tạp hóa, một khách sạn nhỏ, nhà thờ và nhà hành chánh của làng, đang được sửa chữa lại, vì trước kia đây là nhà ở và làm việc của linh mục cai quản nhà thờ. Trong gian phòng lớn của nhà hành chánh làng có một vòi nước Fontaine "Saint-Jacques-de-Compostelle”. Lúc trông thấy nhà thờ làng từ chỗ đậu xe, cách đấy mấy trăm thước, tôi ngạc nhiên, vì kiến trúc nhà thờ rất lạ, giống như một nhà thờ ở tận bên Mễ Tây Cơ trong các phim cao bồi bắn súng cưỡi ngựa. Nhà thờ cũng đang được sửa chữa lại. Tôi hồi hộp đẩy cánh cửa gỗ nặng nề kêu ken két bước vào bên trong. Nhà thờ tuy nhỏ, nhưng bầy biện ngăn nắp, sạch sẽ, không có mùi ẩm mốc như trong một số nhà thờ bị bỏ phế mà tôi đã vào thăm. Vị Làng Trưởng, ông Serge Richard, được dân bầu từ năm 2001, không ngại công sức làm đẹp làng Thonac lưu chân du khách viếng thăm làng lâu hơn, để cho làng của ông không chỉ trở nên "sống động" trong vài tháng hè chính trong năm. Ông than, mùa đông, không có đến một con mèo chạy qua đường. Năm 2003 làng Thonac được cho phép mang huy hiệu của gia đình Losse, mà ngày nay đã tuyệt dòng, đó là một huy hiệu có chín ngôi sao vàng trên một nền xanh nước biển dưới một vương niệm lãnh chúa, và hàng chữ : "1382 – Thonacum – 2002", một khoảng cách thời gian 620 năm. Làng Montignac, cách làng Thonac 6 cây số về phía thượng nguồn, đã có vẻ là một làng du khách, xinh xắn, đẹp đẽ, có nhiều nhà hàng với thực đơn hấp dẫn, có cầu cổ bắc ngang sông Vézère, có một căn nhà cổ xay bột bằng nước sông và những đường hẻm chật hẹp chỉ một người lọt qua. Thonac cũng là tên một con sông nhỏ, một trong hai mươi mốt sông phụ của sông Vézère, bắt nguồn từ làng Bars, dài khoảng 11 cây số, rồi đổ vào sông Vézère ở làng Thonac. Chính ra làng Thonac có điều kiện cơ sở để phát triển thu nhập kinh tế vì thung lũng sông Vézère là một trong những khu vực di tích lịch sử rất nổi tiếng chứa đựng nhiều hang đá thời tiền sử, đã được cơ quan UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, thí dụ như động thời tiền sử Lascaux – của thời đại Magdalénien, cách chúng ta khoảng 17.000 năm - với những hình vẽ thú vật rất mỹ thuật trên vách và nóc các hang đá, cách Thonac chỉ có 5 cây số, mà ai có dịp đi ngang cũng muốn vào xem. Sông Vézère dài khoảng 211 cây số, bắt nguồn từ làng Tourbière de Longéroux ở một độ cao 941 mét tại địa danh Puy Pendu, gần đỉnh núi Mont Bessou cao 977 mét, trên cao nguyên mang tên Ngàn Bò (Plateau de Millevaches) của rặng núi cổ Massif central thuộc vùng Corrèze, chảy ngoằn ngoèo qua hai vùng Limousin và Perigord, tạo ra một thung lũng rộng khoảng 3.736 cây số vuông, đem theo lượng nước của hai mốt con sông phụ, trước khi đổ vào sông Dordogne tại thị trấn Limeuil. Nước sông Vézère sói mòn vào vách núi hai bên, tạo thành những hang động lớn, nơi trú ẩn thiên nhiên cho người tiền sử thời đại Homo Erectus, từ 1,85 triệu năm cho đến khoảng 400.000 năm trước đây, đã biết sử dụng lửa, chế tạo các vật dụng và vũ khí bằng đá lửa cứng (silex) và gỗ, săn bắn thú rừng, ăn thịt, trái cây và các loại củ, rễ cây, lột da thú làm quần áo, để lại nhiều dấu tích tại nhiều địa danh hiện nay như Lascaux, Font-de-Gaume, les Combarelles, Castel-Merle, Laugerie-basse , Saint-Cirq, Bernifal, Cap-Blanc, Bara-Bahau. Ngang sông Vézère có nhiều cây cầu cổ từ thế kỷ thứ mười bốn bằng đá cổ. Dọc sông, có nhiều làng nhỏ với chục nóc nhà, cây cối xanh um vây phủ chung quanh. Còn trên sông thì người thích chèo thuyền sẽ được toại nguyện, vì độ nước chảy đủ mạnh, sông chảy loanh quanh, nhiều ngóc ngách, qua nhiều làng nhỏ ven sông. Thonac thuộc về hạ nguồn sông Vézère nên có thể chèo thuyền suốt năm, nhưng mực nước tốt nhất là từ tháng mười một cho đến tháng năm. Pierre mướn thuyền ở làng Montignac, chèo xuôi dòng Vézère ngang qua Thonac xuống làng Les Eyzies, tôi lái xe dọc sông đến chỗ hẹn, ngồi bên bờ sông nhìn bóng những gợn mây trắng phản chiếu trên mặt nước xanh trôi liên tục và nghĩ mông lung, chờ thuyền Pierre về. Lên lại bờ, anh ta cười toe toét, ba hoa diễn tả, cái thú chèo thuyền trên sông, gió mát hiu hiu, tiếng mái chèo xì xọt trong nước, núi, thành cổ, lâu đài, cây cối ngả nghiêng lươn lướt hai bên bờ. Chưa hết, tại sao tôi tìm đến Thonac ? Tôi muốn xem tận mắt ngôi mộ của vua Hàm Nghi trong nghĩa địa của làng và lâu đài của gia đình vua Hàm Nghi tại làng Thonac: château de Losse. Từ khi tình cờ được xem tận mắt nguồn của một con sông lớn, tôi đứng sững sờ nhìn nước nguồn dâng lên lặng lẽ từ lòng đất trong một cái hố khá tròn, rộng khoảng bốn sải tay. Thỉnh thoảng những bọt trắng tròn như bong bóng sủi lên mặt nước. Nước nguồn tràn đầy hố, rồi thoát ra cuồn cuộn thành một con suối nhỏ. Tôi biết rằng con suối này sẽ trở thành một con sông lớn trào ra biển cả. Ấn tượng mạnh mẽ ấy, làm cho tôi rất ham thích đi tìm nguồn sông, nếu có dịp, nhưng cũng háo hức đi tìm "nguồn" của nhiều sự việc. Đã có vài tác giả viết lẫn lộn lâu đài Losse với lâu đài Nauche, hay viết lâu đài Losse thành lâu đài Cosse mà lại ở Cannes, một thành phố lớn nằm bên bờ biển Địa Trung Hải phía nam nước Pháp, cũng như viết nhầm lẫn Thonac với Sarlat, thật ra làng Thonac cách thị trấn Sarlat khoảng 30 cây số, và lâu đài Losse cách lâu đài Nauche khoảng hơn 100 cây số đường núi. Vợ vua Hàm Nghi không phải sinh ở Marcelle. Tên của bà là Marcelle ! Hoặc viết một cách mơ hồ rằng Hoàng Hậu Nam Phương là "hàng xóm" của vua Hàm Nghi. Chính vì những thông tin không chính xác này làm cho tôi phải đi đến tận nơi, nhìn tận mắt. Gia đình đương kim chủ nhân lâu đài Losse, mua lâu đài Losse vào tháng tư năm 1999, đang biến lâu đài Losse trở thành một trọng điểm hấp dẫn du khách, trang trí nội thất bằng những bàn ghế tủ giả của thời thế kỷ thứ mười sáu và mười bẩy để gây dựng lại quang cảnh sống của Jean de Losse, sử dụng lâu đài làm phông cho nhiều phim về lịch sử hay chuyện thần thoại (Cinderella, Les Dames Galantes, Jacquou le Croquant), mỗi năm tiếp đón khoảng 30.000 du khách, có thể họ không muốn nhắc nhở đến giai đoạn quá khứ có liên hệ đến một vị Hoàng đế nước Việt Nam bị chính quyền thực dân đày đi Algerie. Chỉ khi dọc theo sông Vézère rời khỏi Thonac tôi mới có dịp hiểu một phần nào lý do tại sao vùng khúc sông này có rất nhiều lâu đài cổ. Không thông thạo chút nào về địa lý, phong thổ, và chỉ nhận xét theo cảm quan, thì tôi thấy đây là một thung lũng rất đẹp, rất xanh tươi, rất kín đáo, bốn hướng đều có núi vây bọc che chở, không nằm trên các trục giao thông chính, không hề bị tàn phá qua hai trận Đại Chiến, nhiều ánh sáng, có sông nước, có rừng thưa, còn nhiều di tích lịch sử rất xa xưa, làm tôi nhớ những mẩu chuyện đã đọc về các thầy địa lý phong thổ đi tìm đất cho Vua. Nhưng lý do nào đã đưa gia đình vua Hàm Nghi về nghĩa trang Thonac ?
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:58:23 GMT 9
Ngôi mộ vua Hàm Nghi Lâu đài Losse (Thonac) Cổng vào nghĩa địa làng Thonac Bình thường, trong các làng mạc ở Pháp, nghĩa địa thường nằm trong khuôn viên của nhà thờ. Tôi đi thẳng đến nhà thờ làng Thonac, quanh một vòng: không thấy nghĩa địa đâu cả. Pierre tinh mắt, chỉ cho tôi xem các dấu vết còn sót lại chung quanh các gốc cây mận đang trổ hoa, nghĩa địa cũ bây giờ đã trở thành bãi đậu xe bên cạnh nhà thờ. Tôi vào khách sạn bên cạnh hỏi thăm, thì được biết nghĩa địa đã được dời lên một khoảng đất trên đồi, phía bên kia đường làng chính, không xa lắm. May mắn hơn nữa, tôi gặp được bà Christiane Salviat của Nhà Hành Chánh làng mời vào văn phòng, dù hôm nay là ngày không tiếp khách, cho xem bản đồ nghĩa địa. Nhà Hành Chánh Thonac Nhà thờ Thonac Mộ vua Hàm Nghi tại nghĩa trang Thonac Đường từ trung tâm làng lên nghĩa địa chỉ khoảng 2 cây số. Trời vừa dứt một cơn mưa xuân, ánh sáng mù mù ảm đạm, thật là hợp tình hợp cảnh. Trước đó, tôi đã phải chạy ra hướng làng Montignac để tìm mua nhang. Mộ của gia đình vua Hàm Nghi lớn nhất, dựa một chân tường, hướng về phía cửa chính. Lâu ngày không ai săn sóc chùi rửa, nắp đá tảng trên mộ đen thui, rêu xanh mọc đầy. Cái bình hoa duy nhất ở đầu mộ lưng lửng nước mưa. Không có hoa và cũng không có một chân nhang. Một bình hoa mầu xanh nhỏ bằng ny lông bị gió thổi nằm nghiêng trên đất. Ở đây toàn là mộ đạo Thiên Chúa. Trên mộ gia đình vua Hàm Nghi cũng có chạm một cây Thánh giá lớn. Trong hầm mộ có năm người yên nghỉ: Vua Hàm Nghi, bà Marcelle LALOË, Công chúa Nhu May*, Hoàng tử Minh Duc* và bà Marie Jeanne DELORME. Bia mộ vua Hàm Nghi (Thonac) Các hàng chữ khắc trên mộ như sau: S.M. HAM NGHI, Empereur d'Annam, Hue 1871 - Alger 1944 S.A.I. La princesse d'Annam, née Marcelle LALOË, 1884 – 1974 Nhu May, Princesse d'Annam, 1905 – 1999 Minh Duc, Prince d'Annam, 1910 – 1990 Marie Jeanne DELORME, 1852 - 1941 Bà Marie Jeanne Delorme, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1852 tại Besseyre, thuộc địa phận Loubaresse (Cantal), con của Jean Delorme và Francoise Esbras, qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1941 tại lâu đài Losse. Người làm giấy khai tử cho bà Marie Jeanne Delorme là công chúa Nhu May, lúc đó 36 tuổi, nghề nghiệp: nhà nông (2). Bà Delorme có lẽ được an táng trước nhất trong hầm mộ, vì tất cả những nhân vật khác đều qua đời sau bà. Người làng Thonac cho rằng bà Delorme là gia nhân của gia đình vua Hàm Nghi, nhưng thông tin này sẽ còn phải kiểm chứng lại nếu có dịp. S.A.I. có nghĩa là Son Altesse Impériale, danh xưng của vương phi, tước vị của bà Marcelle LALOË khắc trên mộ là Công Chúa, theo truyền thống nhà Nguyễn không lập ngôi Hoàng Hậu lúc bà còn sinh thời, và bà cũng không được truy tôn làm Hoàng Hậu sau khi qua đời, nhưng chữ "La princesse d'Annam" chỉ rằng bà là chính phi của vua Hàm Nghi. S.M. có nghĩa là Sa Majesté, danh xưng của vua chúa. Nhưng khắc ghi trên mộ vua Hàm Nghi là Empereur d'Annam (Hoàng đế An Nam) là không đúng. Vào cuối đời vua Tự Đức, triều đình Huế đã ký hết hiệp ước này đến hiệp ước khác với Pháp, mất dần chủ quyền, độc lập, tự do. Các cuộc nổi dậy chống lại Pháp thì được sử sách viết là "làm giặc" như Đề Thám (3), hay "nổi loạn" như phong trào Văn Thân ở Nghệ Tĩnh năm 1874, và bị quan quân triều đình đánh dẹp. Công việc ngoại giao cầu viện trợ Tầu cũng không xong, vì trung tá Fournier, đại diện Pháp, ký với Lý Hồng Chương bản Hòa ước Thiên Tân ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), nước Tầu rút hết quân đóng ở miền Bắc, và công nhận quyền cai trị của Pháp trên đất Việt Nam. Đến khi các quan Nguyễn Văn Tường, Phạm Thuận Duật và Tôn Thất Phan của triều đình Huế, ký với Patenôtre và Rheinart, bản Hòa ước Patenôtre vào ngày 13 tháng 5 năm 1884 thì nước Việt Nam mất hết chủ quyền và bị chia làm ba kỳ, mỗi kỳ có luật lệ riêng và sự giao thông giữa ba kỳ bị kiểm soát nghiêm ngặt bằng giấy thông hành. Patenôtre và tướng Courbet còn chưa hả dạ, muốn xóa dấu tích của Tầu đối với Việt Nam, làm áp lực để tịch thâu cái ấn Việt Nam Quốc Vương Chi Ấn, bằng bạc ròng mạ vàng, nặng 5 kí 9, hình vuông, cạnh to từ 10 đến 12 phân, của vua nhà Thanh phong cho người khai sáng nhà Nguyễn – vua Gia Long – năm 1804, đem chiếc ấn về Pháp làm chứng vật chiến thắng. Nhưng Nguyễn văn Tường và Phạm Thuận Duật, trước sự chứng kiến của Patenôtre và Courbet, nhất định cho nấu chẩy chiếc ấn lịch sử này, theo thông tin của l'Agence Havas viết vào ngày 30 tháng 8 năm 1884, không để cho Patenôtre đem chiếc ấn này về Pháp. (4) Đối ngoại thì như thế còn đối nội thì triều đình Huế rất lủng củng và chia rẽ vì hai chính kiến: đánh Pháp hay theo Pháp. Sau giai đoạn bốn tháng ba vua (Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc, 1883 – 1884), hai quan đại thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết chọn Ưng Lịch, mới có 13 tuổi, em của Ưng Đường (là con nuôi thứ hai của Tự Đức), lên làm vua. Nguyễn Phúc Ưng Lịch, tên húy là Nguyễn Phúc Minh, sinh ngày 3 tháng 8 năm 1871 tại Huế, con của Thuận Nghi Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hương Hội (Nguyễn Phúc Cai), đăng quang Hoàng Đế ngày 01 tháng 8 năm 1884 tại Huế, là vị vua thứ tám của nhà Nguyễn, lấy niên hiệu Hàm Nghi ngày 15 tháng 2 năm 1885, xưng danh Đại Nam Hoàng Đế, quốc hiệu là Đại Nam. Chính quyền thực dân Pháp ép vua Hàm Nghi phải đổi tước hiệu lại là Hoàng Đế An Nam, hạn chế tước vị và quyền lực (hư vị) của vua Hàm Nghi chỉ trên miền Trung (Annam), coi như một cách chấp nhận chính thức quyền bảo hộ và cai trị của Pháp trên ba miền của nước Việt (theo cách thức quản lý hành chánh của chính quyền Pháp thì họ áp đặt gọi miền Bắc là Tonkin, miền Trung là Annam và miền Nam là Cochinchine). Thời gian trị vì của vua Hàm Nghi chưa được một năm. Vì thái độ hống hách của tướng de Courcy, đã nhất định đòi đi cùng với 500 quân lính vào cửa chính để yết kiến vua Hàm Nghi mà Tôn Thất Thuyết tức giận, đem quân tiến đánh đồn Mang Cá vào nửa đêm về sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885. Quân Pháp đánh trả lại đến sáng thì kinh thành Huế thất thủ, quân Pháp tiến vào nội thành, chiếm đóng hoàng cung và tịch thu các vũ khí, báu vật, hơn mười triệu tiền giấy, vàng thỏi, bạc thỏi. (5) Vua Hàm Nghi được Tôn Thất Tuyết và Nguyễn văn Tường đưa ra khỏi cung điện, lên đường chống Pháp, nhưng ngay ngày hôm sau Nguyễn Văn Tường trở về đầu hàng Pháp, rồi hai tháng sau đó bị Pháp đưa đi đầy cùng với cả gia đình ở Tahiti. Hàm Nghi ban Hịch Cần Vương kêu gọi anh hùng các nơi chống Pháp. Vì sự phản bội của Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị chính quyền thực dân Pháp bắt vào tháng 9 năm 1888, rồi bị đưa lên đường đi đày vào cuối năm 1888. Hàm Nghi đến Alger (thủ đô của nước Algerie tại Bắc Phi) vào đầu năm 1889, rồi bị quản thúc tại Biệt thự Villa des Pins thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số, lúc đó Hàm Nghi mới được 18 tuổi. Trong suốt thời gian lưu đày ở Alger, vua Hàm Nghi chỉ được gọi là Prince d'Annam (Hoàng tử An Nam) và được lãnh một số tiền cấp dưỡng lúc ban đầu là hai mươi lăm ngàn quan Pháp một năm, trích từ ngân sách của Việt Nam để sinh sống (6). Theo khắc ghi trên mộ thì vua Hàm Nghi mất năm 1944 tại El Biar, Alger, thọ 73 tuổi, hài cốt vua Hàm Nghi được cải táng về nghĩa trang Thonac vào năm 1965. Vua Hàm Nghi được phong miếu hiệu là Hiến Tổ Chương Hoàng Đế. Ngày 4 tháng 11 năm 1904 vua Hàm Nghi, lúc được 33 tuổi, cưới bà Marcelle Aimée Léonie LALOË, con gái của ông François Laloë và bà Suzanne Ving, tại Alger. Bà Suzanne Ving là con gái của bà Aimée Souham. Bà Marcelle Aimée Léonie LALOË sinh ngày 02 tháng 7 năm 1884 và qua đời ngày 05 tháng 9 năm 1974 tại lâu đài Château de Losse trong làng Thonac, thọ 90 tuổi. Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Aimée Léonie LALOË có ba người con: Công chúa Nhu May sinh năm 1905, Công chúa Nhu Ly* sinh năm 1908 và Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910. Công chúa Nhu Ly không được an táng trong hầm mộ gia đình tại làng Thonac. Theo sự chỉ dẫn của ông Richard tôi rời Thonac, trực chỉ hướng Juillac, cách Thonac khoảng 60,70 cây số về hướng đông bắc, nhưng không dùng xa lộ mà chọn đường quốc lộ và đường làng, để dễ tìm hiểu và quan sát phong cảnh hơn. Đoạn đường từ Thonac đến Juillac xuyên núi, xuyên rừng, lên cao, xuống dốc, rất đẹp, có nhiều quang cảnh hùng vĩ. Mộ Hoàng Hậu Nam Phương (Chabrignac) Đến làng Chabrignac, cách Juillac chỉ vài cây số, đã có kinh nghiệm tìm kiếm, tôi và Pierre lái xe thẳng đến nghĩa địa nằm ở ven đường chính, trên một mỏm đồi cao nhìn xuống làng phía dưới, xem từng tấm bia, từng ngôi mộ. Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương, người vợ chính thức đầu tiên của Bảo Đại, rất dễ nhận ra, vì có hai cây tùng trồng hai bên mộ, nay đã cao và to phình. Ngôi mộ có vẻ mới được trùng tu lại, sạch sẽ, đơn sơ. Nắp đậy huyệt chỉ là một tấm bê tông phẳng phiu, có chạm nổi hình thánh giá và một tấm bia chìm đề hàng chữ " Sa Majesté Nam Phuong Impératrice d'Annam 1913 – 1963" . Trên nắp huyệt dựng một tấm bia khác đề rõ hơn một chút " Ici repose l'Impératrice Nam Phuong, née Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913 – 15.09.1963". Thật ra tên của bà là Nguyễn Hữu thị Lan. Tấm bia cũ, viết chữ Hán nôm, vẫn còn đứng ở đầu mộ. Làng Chabrignac rộng khoảng 1.000 mẫu, theo thống kê năm 2002 thì có khoảng 444 dân cư. Từ nghĩa trang xuống làng, chạy lòng vòng một quãng thì thấy nơi ở cũ của bà Nam Phương, một ngôi nhà khá to lớn, gọi là Domaine de la Perche, nằm khuất trong một khu vực có nhiều cây cối xanh tươi. Trở ra đường cái, tôi dừng xe trước một lâu đài nho nhỏ, đẹp giống như một lâu đài trong truyện cổ tích thần thoại Bạch Tuyết và bẩy chú lùn hay Công chúa ngủ trong rừng, đứng ngắm hồi lâu. Lâu đài này có bốn tháp hình tròn ở bốn góc, liên kết với phần giữa thành một khối, xây từ khoảng thế kỷ thứ XIV, XV, nổi bật trên một phần đất dọn dẹp rất sạch sẽ, không có cỏ dại mọc, chứng tỏ là có người ở. Gần đấy, hiện ra nóc chuông nhà thờ làng Chabrignac, cũng có vẻ Mễ Tây Cơ giống như nhà thờ làng Thonac. Bên cạnh nhà thờ, là một căn nhà rất lớn, nằm trên một khoảng vườn rộng, tường cao vây bọc chung quanh, cổng nhà rất oai nghiêm. Tôi và Pierre đang đứng tần ngần ngắm nhà thờ, bàn tán với nhau, thì một "ông tiên" hiện ra, thấy bộ tướng chúng tôi không phải là kẻ trộm cướp, ông vui vẻ trò chuyện trao đổi. Hóa ra, trời thương tôi thật, tôi đã thấy trước mắt lâu đài có bốn tháp tròn ấy của ông Tử Tước Vicomte de la Besse, cháu ngoại của vua Hàm Nghi. Lúc vua Hàm Nghi qua đời thì Tử Tước mới có bẩy tuổi. Chưa hết mệt, chúng tôi lại đi tiếp tục để đến thị trấn Vigeois, cách Chabrignac khoảng 30 cây số đường núi. Trên đoạn đường này, tôi đi ngang qua lâu đài của bà Hầu Tước Marquise de Pompadour, người tình rồi bạn thân của vua Louis XV tại thị trấn Arnac-Pompadour, một nơi thu hút khá nhiều du khách. Thị trấn Vigeois Lâu đài Nauche (Vigeois) Vigeois, nằm trên một độ cao 311 mét, có khoảng trên 1.200 dân, thuộc vùng hành chánh của thành phố Brive, cách Chabrignac khoảng 30 cây số về hướng nam. Lâu đài La Nauche nằm trong địa phận Simons của thị trấn Vigeois, là chỗ ở của gia đình Bá tước de La Besse. Người con gái thứ hai của vua Hàm Nghi mang tên Nhu Ly sinh ngày 22 tháng 7 năm 1908, kết duyên ngày 20 tháng tư năm 1933, với Bá tước François Barthomivat de La Besse (sinh ngày 3 tháng 2 năm 1905), qua đời ngày 9 tháng 7 năm 2005, thọ 97 tuổi, được an táng riêng rẽ trong nghiã trang của thị trấn Vigeois, chung trong hầm mộ với bà Marguerite Aglaé de la Besse Nauche de Leymarie (1804 – 1867), cũng không chung một mộ với chồng. Bà công chúa Nhu Ly có ba người con, hai gái một trai, Françoise, Philippe và Anne (tức là ba cháu ngoại của vua Hàm Nghi). Françoise Barthomivat de la Besse kết hôn với Jacques Matis de Bisschop, có ba người con. Philippe Barthomivat, Vicomte de la Besse. Sinh ngày 25 tháng 2 năm 1937, kết hôn với bà Jane Boardman, không có hậu duệ. Anne Alice Marie Barthomivat de la Besse kết hôn với ông Guy Dabat, có bốn người con. Lâu đài của Công Chúa Nhữ Mây: Château de Losse Người con gái đầu lòng của vua Hàm Nghi với bà Marcelle Aimée Léonie LALOË, mang tên, theo sổ sách hành chánh của Pháp ghi chép nguyên bản lúc bà qua đời là: Nhu-May, Suzanne, Henriette UNG LICH HAM NGHI D'ANNAM, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1905 tại El Biar (Algérie), cư trú tại " La petite maison de Losse" (căn nhà nhỏ của Losse), qua đời ngày 01 tháng 11 năm 1999 tại nhà thương của thị trấn Vigeois (vùng Corrèze), Pháp, thọ 94 tuổi. Bà công chúa Nhu-May, sống độc thân, không có hậu duệ, lúc sinh thời là nhà nông. Theo chữ ký của bà có bỏ dấu tiếng Việt trong văn tự còn được lưu trữ thì tên của bà là Nhữ Mây. Một cái tên rất lạ và rất đẹp. Trong các văn bản chính thức, bà ký tên là Nhữ Mây d'Annam. (7) Công chúa Nhữ Mây về Pháp mua lâu đài Losse vào ngày 6 tháng 8 năm 1930, lúc bà mới có 25 tuổi. Trong văn tự mua bán lâu đài Losse ký với các người bán là ông Marie Antoine Jules Maurice Challe, bà Marie Joseph Françoise Elisabeth Mercier và cô Françoise Marie Beausoleil, thì địa chỉ của công chúa Nhữ Mây khi ấy là Biệt thự Gia Long, El Biar, Algérie. Bà mua lâu đài Losse với giá là bốn trăm năm chục ngàn quan Pháp, trả làm hai lần, lúc giao lâu đài trả ba trăm ngàn quan tiền mặt, phần còn lại một trăm năm chục ngàn quan Pháp sẽ được trả trong vòng ba năm, với phân lãi là bẩy quan hai chục xu (tức là 7,2%). Lâu đài Losse (Château de Losse) được xây cất sát bờ sông Vézère, khởi đầu xây theo kiểu một thành trì nhỏ kiên cố thời Trung cổ, có hào nước rộng chung quanh và cầu treo để chống xâm nhập bằng người và ngựa, nền móng đặt từ thế kỷ thứ XIV, dần dần đến năm 1576 được sửa sang lại thành một lâu đài theo phong cách mỹ thuật của thời Phục Hưng (Renaissance) theo ý của chủ nhân lâu đài khi ấy là Jean II de Losse. Jean de Losse xuất thân gốc Hòa Lan. Lịch sử dòng họ Losse còn ghi được từ thế hệ Frénon de Losse, tử trận tại Montlery vào năm 1465. Sau đó, đến con của Frénon de Losse, cũng tên là Frénon de Losse, làm quan võ cho vua Louis XI. Cháu nội của Frénon de Losse, tên là Pierre de Losse, chết tại vùng Milan năm 1515 trong một trận chiến dưới quyền vua Francois 1er. Con của Pierre de Losse là Jean II de Losse, sau khi đã có nhiều công trạng, được phong làm Tổng Trấn vùng Périgord và Limousin (8). Truyền thêm được mấy đời con cháu thì người thừa kế của dòng tộc Losse tên là Jean Cirus Marie Adélaïde Timbrune de Valence, con của bà Louise de Losse, bán lâu đài năm 1807 cho Jacques Maleville, với giá là 500.000 quan. Sau đó, lâu đài Losse được bán đi bán lại nhiều lần, trải qua nhiều biến cố. Tới năm 1830 Joseph Mérilhou mua với giá 105.000 quan. Sau đó, ông Gouyon mua lâu đài Losse với giá 202.000 quan ngày 06.03.1880, tu sửa lại năm 1884, rồi bán lại cho gia đình Challe – Mercier vào ngày 20.03.1922 với giá là 290.000 quan. Họ chỉ ở đấy có tám năm rồi bán lại cho công chúa Nhữ Mây (9). Vùng đất thuộc lâu đài Losse rất rộng, khoảng 100 mẫu, lan tràn trên cả hai làng Thonac và Saint Léon sur Vézère gọi là "Terre de Losse" (Đất của Losse) gồm có sân rộng, lối vào, lâu đài, chuồng ngựa, nhà ở, xưởng thợ, kho chứa, vườn, rừng, đồng cỏ, ruộng nho và các loại bất động sản khác. Lâu đài Losse thuộc quyền sở hữu của công chúa Nhữ Mây được 46 năm, một thời gian khá dài, thì bà bán lâu đài năm 1976 (khi ấy bà được 71 tuổi, hai năm sau khi bà LALOË qua đời), chỉ giữ lại một ngôi nhà nhỏ trên vùng đất của Losse, gọi là "la petite maison de Losse" để ở cho đến khi qua đời, năm 1999. Cuối cùng, ngôi nhà này cũng được người thừa kế của công chúa Nhữ Mây bán cho một thương nhân địa ốc ở Antibes. Dấu tích còn lại chỉ là ngôi mộ của gia đình vua Hàm Nghi tại Thonac. Nghi vấn HÀM NGHI, thật hay giả Theo bài "Lần tìm dấu vết vua Hàm Nghi – Có một Hàm Nghi "Lê Lai"...đăng trên mạng, (10) ông Trần Hữu Thành đã tìm ra một khu mộ với ba mươi sáu mộ trong rừng núi Tà Lơn mà ông tin rằng đây chính là mộ vua Hàm Nghi thật, chôn cất cùng với các chiến sĩ Cần Vương bảo vệ vua. Trần Trọng Kim ghi lại trong sử rằng: "Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu. ... (Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông). Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân, hết sức giữ gìn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh." Sau khi Tôn Thất Thiệp bị bọn phản bội Tình và Ngọc đâm chết, vua Hàm Nghi bị chúng bắt giải về nộp cho Pháp, còn Tôn Thất Đạm tự thắt cổ chết, Trần Trọng Kim bình luận như sau: " Ông Tôn-thất Thuyết làm đại tướng mà cư xử ra một cách rất hèn nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con thì thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy." Còn ông Trần Hữu Thành tin rằng người bị đày sang Algérie không phải là vua Hàm Nghi thật, chỉ là vua giả, và ông đưa ra giả thuyết: Tôn Thất Thuyết đã phao tin mình ôm ấn tín sang Tàu cầu viện rồi cùng vua Hàm Nghi bí mật lánh vào Nam. Tôn Thất Thiệp cùng một số nghĩa quân hy sinh ở lại hộ giá vua Hàm Nghi "Lê Lai" để làm kế nghi binh. Tôn Thất Bình kể trong cuốn Triều đại nhà Nguyễn: "... Bọn Pháp hoang mang không biết là người trước mặt có thật là vua Hàm Nghi chăng, hay là tên Trương Quang Ngọc phỉnh lừa ...giữa lúc ấy có một cụ già chống gậy đến. Đó là Nguyễn Thuận, thầy dạy vua Hàm Nghi thuở thiếu thời. Vừa thấy thầy cũ, vua Hàm Nghi đột nhiên đỡ cụ và vái chào. Bọn Pháp lúc đó mới tin chắc đó là vua Hàm Nghi...." Sau đó, vua Hàm Nghi từ chối không muốn gặp lại Hoàng Thái Hậu, đang đau ốm. Những nhân vật có thể nhận diện vua Hàm Nghi như Nguyễn văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính thì đã bị De Courcy đem tầu chở đi đày ở Côn Lôn, nhưng cũng còn Đề đốc Lê Trực, người đã ra đầu thú Pháp và được tha cho về quê sinh sống. De Courcy thì đã bị triệu về Pháp vào cuối năm 1885, chính phủ Freycinet cử tướng Warnel và Paul Bert sang thay thế. Theo thiển ý, vào thời ấy không có các phương tiện thông tin bằng hình và phim ảnh hiện đại, cũng như các biện pháp kiểm soát nhân diện hết sức tinh vi như ngày nay, vua chúa thường ở ngày đêm trong cung cấm, chỉ có thân quyến và các quan đại thần kề cận mới biết chính xác mặt mũi, vóc giáng, giọng nói, còn thì ít ai được thấy vua, cho nên khi có biến, vua dễ đưa ra một người khác làm giả mình. Một người thầy, có nhiều học trò, cho nên chi tiết gặp thầy cũ không phải là một chi tiết "nhận diện" chính xác. Vua Hàm Nghi lại không muốn gặp mẹ, trước khi đi đày. Tại sao ? Trong thời đại của chúng ta, muốn "nhận diện" ai thật hay giả, trong trường hợp này, vua Hàm Nghi nào thật, vua nào giả, không phải là một điều khó khăn, hậu duệ vua chúa nhà Nguyễn còn rất nhiều, hơn nữa, các phương pháp tối tân để khảo nghiệm về gia truyền, thí dụ như cách khảo nghiệm theo ADN (Acide désoxyribonucléique), có thể cung cấp một kết quả chính xác. Hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ được xác nhận vĩnh viễn. Về đến nhà, sau một tuần lễ gọi là đi dạo mùa xuân, trước khi bước xuống xe, tôi nhìn vào đồng hồ trước tay lái, tôi và Pierre đã đi và về tổng cộng hơn hai ngàn sáu trăm cây số. © Mathilde Tuyết Trần, Lataule 2007 Ghi chú và tài liệu tham khảo: · * : Cách viết của Pháp, không có dấu tiếng Việt 1. Bài "Đi tìm dấu vết Bá Đa Lộc" của Mathilde Tuyết Trần, đã đăng trên www.diendan.org, www.vietsciences.org, www.vietducinfo.com, www.erct.comvà Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển của tỉnh Thừa Thiên – Huế số 1/2007 2. Văn khố lưu trữ 3. Bài "Đề Thám – Người anh hùng hay thằng giặc" của Mathilde Tuyết Trần, đã đăng trên www.vietsciences.org, www.vietducinfo.com, www.erct.com và Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển của tỉnh Thừa Thiên – Huế số 2/2007 4. Bài La Signature du Traité du 6 Juin 1884 avec l'Annam et la destruction du Sceau Chinois 30 aout 1884, trang 75 – 76 trong quyển Les Grands Dossiers de l'ILLUSTRATION L'INDOCHINE, Edition SEf*g, 1987 5. Bài Le Guet-apens de Hue – 7 novembre 1885 – trang 77-78 trong quyển Les Grands Dossiers de l'ILLUSTRATION L'INDOCHINE, Edition SEf*g, 1987 6. Triều đại nhà Nguyễn, Tôn Thất Bình, nxb Đà nẵng, 2000 7. Văn khố lưu trữ 8. Thonac – Sylvie Sudrie-Vidal, Octobre 2001 và Le Chateau de Losse – M.Segondat, 23 septembre 1979 9. Văn khố lưu trữ 10. Trang www.sgtt.com.vn của tờ Sai Gon Tiep Thi Online, 11. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim 12. Các trang trên mạng Internet
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 9:04:46 GMT 9
Đề Thám – Người anh hùng hay thằng giặc ?Mathilde Tuyết Trần Hình ảnh nghĩa quân Đề Thám ...hễ cái sức đã không đủ, thì không có cái lý gì là phải cả. Trần Trọng Kim – Việt Nam sử LượcĐề Thám Cái lý của kẻ mạnh, của thế lực. Đó là bài học lịch sử mà Trần Trọng Kim đã dạy lại đời sau ! Trong Chương XV - Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ - của quyển Cận Kim Thời Đại trong bộ Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim chỉ ghi lại vẻn vẹn trong một dòng về Đề Thám như sau: "Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết....Quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng Cao Khải đi đánh dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ." Theo lời giới thiệu trên báo chí Việt Nam, Claude Gendre là cháu nội của Jean Gendre, một người lính trong quân đội viễn chinh Pháp đã từng chiến đấu ở Việt Nam cùng thời với giai đoạn Đề Thám. Trên đường đi tìm lại kỷ niệm của ông nội, Claude Gendre đã "vấp" phải nhân vật lịch sử Đề Thám, làm cho ông say mê tìm tòi, rồi viết thành sách. Trong khi chờ đợi cuốn sách " Le Dê Thám -1858-1913– Un résistant vietnamien à la colonisation francaise " của tác giả Claude Gendre xuất bản vào giữa tháng tư năm 2007 tại nhà xuất bản L‘Harmattan (1), với lời tựa của ông Charles Fourniau, giá bán là 19,50 euros, đã được đặt mua tại một tiệm bán sách của một thành phố nhỏ, tôi lục lọi trong tủ sách nhà, moi ra được vài tài liệu có liên quan đến Đề Thám, mà tôi chưa có dịp sử dụng. Cũng may thay, tôi có dịp được trao đổi trực tiếp với Claude Gendre, chính ông đã có nhã ý gọi điện thoại cho tôi, nên khi viết bài này, trong đầu tôi đã có ý thiên vị tác giả. Ông cho tôi biết, Jean Gendre, nếu không bị thương và được chuyển về Pháp, có lẽ đã ở lại suốt đời tại Việt Nam. Ý thích của ông nội, vừa thích con người, vừa yêu mến cảnh, thích từ tiếng nói cho đến bữa ăn hàng ngày của Việt Nam, đã gây ấn tượng và gợi trí tò mò cho người cháu. Đến lượt Claude Gendre, sau khi đã qua thăm Việt Nam mấy lần, ông cũng nói với tôi rằng: "Comme mon grand‘père, je suis tombé amoureux du Viet Nam" (Giống như ông nội tôi, tôi đâm ra yêu mến Việt Nam). Claude Gendre không có vẻ bài bác ý định tôi dịch cuốn sách của ông ra tiếng Việt, nhưng trong khi chưa có quyết định cụ thể, vì phải tôn trọng luật lệ bản quyền của tác giả và nhà xuất bản, cho nên trong phạm vi bài bình luận này, tôi không được phép trích hay dịch nguyên văn của Claude Gendre viết trong sách. Cảm giác về thời đại Đề Thám Ngày xưa khi lái xe Honda lượn quanh trên con đường Đề Thám nằm trong quận một của thành phố Saigon, nay là thành phố Hồ Chí Minh, thông từ đường Trần Hưng Đạo ra bến Chương Dương của rạch Thị Nghè, tôi chỉ biết ngắn gọn, học trong những giờ Việt sử của trường, rằng Đề Thám chống Pháp nhưng bị quân Pháp tiêu diệt. Thế thôi, không biết nhiều hơn. Hôm nay, khi xem tấm hình lịch sử của các thế hệ cha ông thời đại Đề Thám, tôi chú ý đến một chi tiết làm cho tôi rất động lòng. Đó là những bàn chân trần, chân đất, không có giầy dép. Trong khi quân lính thực dân Pháp, mặc quân phục, đội mũ, mang giầy ống bằng da, trang bị súng gắn lưỡi lê dài nhọn, băng đạn đeo quanh bụng thì những người anh hùng kháng chiến chống pháp đầu đội trời chân đạp đất theo đúng cả hai nghĩa, đen và bóng. Vợ 2 của Cả Rinh (con nuôi của Ðề Thám) Vợ 3 của Đề Thám bị bắt Gia đình bên vợ của Đề Thám bị bắt ngày 5 tháng 3 năm 1909. Cha vợ của Đề Thám, mù cả hai mắt, phải giải về Nhã Nam bằng thúng do hai người khiêng. Trên những tấm hình ghi lại những "chiến thắng" của quân đội Pháp, được in và phát hành thành "cartes postales" bán tự do cho dân chúng, khi bị bắt, những người kháng chiến, trên mảnh đất quê hương của mình, bị gọi là "giặc cướp" (pirates), mặc áo vá nhiều mảnh bằng đủ mọi thứ vải, rách rưới, có người không có một mảnh quần, râu tóc lù xù, ốm yếu lòi xương. Những tấm hình người Việt đi lính cho Pháp chặt đầu người Việt chống Pháp. Những tấm hình đầu người bị chặt, đầy máu, mắt không nhắm, bỏ rọ treo lên cây đầu làng, làm cho tôi mất ăn mất ngủ, dù rằng ngày tháng trên hình khắc ghi năm 1908, tôi chưa được sinh ra đời. Những tấm hình người bị đóng cọc ngồi trên đất, trói chặt hai cánh khủy ra sau, rồi bị thắt cổ vào cọc, chết một cách rùng rợn thê thảm. Những tấm hình thi thể người bị xử tử xếp thành hàng. Lịch sử không được viết bằng mực mà bằng máu. Nhưng cũng có những tấm hình, may mắn thay, ghi lại những cái nhìn thẳng, kiên quyết, hiên ngang vào ống kính của kẻ thù đang chụp để giữ làm tài liệu. Không có gì vô lý cho bằng, những kẻ đi xâm chiếm nước khác, lại gọi những người kháng chiến chống xâm lăng là giặc. Đó là những tấm hình của giai đoạn "Đề Thám" mà tôi được xem. Kèm theo những tấm hình đầu nghĩa quân của Đề Thám bị chặt đứt, bỏ rọ treo lên cây và dưới đề tựa "Đầu người treo trên cây không phải là hiếm thấy", Jean Ajalbert, kể cho độc giả tờ "Lectures Modernes" vào ngày 10 tháng 9 năm 1903 một mẩu chuyện dựa theo cuốn sách của Dr. Hocquart, dưới hình thức một lá thơ viết cho một người cháu: " Sự dã man châu Á không phải là một câu chuyện thần thoại. Họ hành hạ xác chết. Người ta đã tìm thấy thi thể của Francis Garnier bị moi tim, da bụng bị cắt, đầu bị chặt, còn Rivière, hai cổ tay bị chặt đứt. Người ta đồn rằng, họ ăn trái tim phơi khô, vì họ tin rằng, họ sẽ trở thành can đảm như người anh hùng. Đầu người treo trên cây không phải là hiếm thấy, hay là những thi thể bị cây lao đâm xuyên qua miệng, hai chân hai tay bị chặt đứt, trói chặt bằng dây thừng quấn quanh ngực và cổ như một sợi dây chuyền, hay là những thi thể bị xâu với nhau như là một que thịt nướng. Cháu có thể tưởng tượng rằng những sự dã man ấy kích động quân lính. Cũng như thế, phản loạn hay giặc cướp, không tránh khỏi những cực hình. Họ chịu đựng cái chết với một sự can đảm lạ thường – kiên quyết. Chú kể cho cháu nghe một chuyện hành quyết trong bài "một làng ở Tonkin" (Une campagne au Tonkin): một khúc tre mỏng mảnh, cao khoảng 80 phân, được cắm vào đất. Theo lệnh ngắn gọn của viên quan, kẻ tử tù quỳ gối trước cọc. Hắn ta bị trói hai tay vào cọc bằng dây rợ. Cái cọc không chắc chắn, chỉ một cử động nhỏ là có thể làm trật cái cọc. Nhưng thằng giặc không có một cử động nào. Cái hòm được đặt cách kẻ tử tù vài bước, mà hắn ta chỉ cần ném một cái nhìn qua phía ấy sẽ thấy. Đao phủ bước gần lại, gươm nắm trong tay, với một cử chỉ nhanh nhẹn cởi nút áo của tử tù, kéo cổ áo xuống thấp, gằn ra phía sau, để phơi trần cái cổ và hai vai. Đao phủ kéo mái tóc dài ngược lên đầu, để lộ gáy. Người đàn ông sắp bị chém, không tỏ một cử động phản kháng. Ông ta chịu đựng bàn tay của đao phủ sửa soạn thong thả, không hấp tấp, xếp đặt tư thế để chém như một nhà điêu khắc đang nắn một bức tượng, cái đầu cúi xuống, chập vào ngực, hai đầu gối phải xòe doãi ra, với một sự chấp nhận bình thản làm xé trái tim người chứng kiến. người đao phủ xắn ống quần rộng lên tận đầu gối, nhổ một cụm nước bọt đỏ tươi mầu trầu, quét một vệt nước bọt đỏ lên gáy kẻ tử tù để làm dấu chỗ chém. Quan viên hất tay ra lệnh. Đao phủ nắm thanh gươm bằng hai tay, lưỡi gươm rộng bản lấp lánh sáng như một nửa vòng tròn trong không gian, cái đầu bay lên rồi lăn trên mặt đất, trong khi cái thân gục xuống phía trước, một dòng máu bắn ra từ các mạch máu bị cắt. Trong khi đao phủ chùi thanh gươm đẫm máu trên mặt cỏ, một người lính cắm lên chỗ hành quyết một tấm mộc nhỏ ghi bản án, rồi nắm chùm tóc của cái đầu đặt vào một cái rọ. Cái đầu bị chém đặt trong rọ, theo lịnh, sẽ được treo trên cây ở đầu làng bị cướp, để làm gương... " Sau đó, Jean Ajalbert, kể thêm về thực trạng của ông vào năm 1903: ".... Trước tiên, trong đám bồi phòng (boys), dấy lên mầm mống bóc lột người Âu Châu. Thật là định mệnh. Chúng ta đến một nước xa lạ, không hiểu một chữ. Đám bồi lợi dụng thế yếu. Chúng ta thuê bất cứ một ai làm bồi mà không có chỉ dẫn, bảo đảm. Làm sao tìm bắt được những thằng vô tích sự này sau khi nó đã ăn cắp ? Tại Pháp, chúng ta không kêu gào "ăn cướp" khi một người hầu phòng hút trộm một điếu thuốc lá của chúng ta. Nhưng ở đây, chúng ta kêu to lên "ăn cướp" chỉ vì một mẩu thuốc lá: đó là điều cần thiết để phòng ngừa ngày mai chúng nó sẽ lấy luôn cả hộp..." Dưới đề tựa " Qualités et défauts des Annamites" trong cuốn sách Les Annamites, (Challamel, 1906) tướng thực dân E. Diguet viết những dòng khinh khi miệt thị như sau: "...Để có được một huân chương, một mảnh bằng với con dấu đỏ, một chức quan tước huênh hoang, một địa vị làm cho chúng trở thành ngôi sao, chúng sẽ sẵn sàng phát huy cống hiến tất cả mọi tiềm lực và sức kiên trì dai dẳng trong nhiều tháng, nhiều năm. Vậy thì chúng ta có gì đâu phải than van ? Cái khuyết điểm đó của bọn bị bảo hộ giao trong tay chúng ta một công cụ đô hộ tuyệt vời..." Trong bài " Chiến lược của quân cướp" (La tactique des pirates) với câu nhập đề "Mọi người quân nhân đã từng chiến đấu ở Vietnam đều công nhận các chiến lược đã được quân cướp sử dụng từ năm...1891" đăng trong tờ La Revue des Deux Mondes ngày 15 tháng 11 năm 1891, một tác giả vô danh đã có những nhận định để diễn tả các căn cứ kháng chiến thời Đề Thám như sau: "... Mỗi một băng cướp xây dựng căn cứ để tàng trữ thuốc phiện, đạn dược, thực phẩm, kho sản xuất đạn, sửa chữa súng ống, cho đàn bà ẩn náu, nuôi gia cầm súc vật, tóm lại, mọi phương tiện để sống và chiến đấu cần thiết trong một phần đất hiểm trở, khó khăn nhất, hầu như bất khả xâm phạm. Thí dụ như những căn cứ ở Kẻ Thượng, phía bắc của Chợ Mới, hay là ở Núi Bà Do*; căn cứ cũ của Cai-Kin* trong núi Đồng Nai, hay căn cứ mới của băng Yên Thế, về phía Bắc của Hu-Thué*, vân vân. Địa điểm chính xác của những căn cứ này thì chỉ có bọn cướp mới biết. Muốn thâm nhập nơi đây phải len lỏi đôi khi qua những khu rừng rậm hoang dã bằng những vết mòn nhỏ chỉ là vết của thú rừng, chui vào những hành lang chật hẹp tạo bằng hai vách đá gra nít, trèo qua những đèo ải chỉ đủ cho một người lọt qua, hay là đi hàng giờ trong rừng, dọc theo một lòng suối, để tìm ra một vết dấu kín trong bụi rậm dẫn đến nơi ẩn náu ... Lãnh tụ những băng cướp không ngần ngại thành lập, đôi khi, những tạm cứ thứ hai trong các làng, ngay cả trong của vùng đồng bằng, nơi mà dân chúng hoàn toàn ủng hộ chúng: Cao-Thuong, Luoc Ha, Yên Thế, vùng của đảo Hai Sông, vùng núi Ba Vì, vân vân...dùng để làm nơi cư trú và kho chứa..." Mới đây, khi vào xem triển lãm trong Bảo Tàng Quân Đội tại Paris, tôi dừng chân lại trước một tủ kính trong một góc tường, ngắm đi ngắm lại mãi, không biết thật hay giả, hai bộ quần áo đại triều của Nguyễn Tri Phương, mà người Pháp còn đang trưng bầy là chiến lợi phẩm cho du khách coi chơi. Bao nhiêu là đồ cổ và những hiện vật lịch sử của Việt Nam đã bị đem qua Pháp giữ làm của riêng, thỉnh thoảng một số vật được đem bán đấu giá (nếu có tiền tôi đã ráng mua lại một món để dành cho con cháu!). Đề Thám của Claude Gendre Cảm giác đầu tiên khi cầm cuốn sách là tôi cám ơn tác giả trước hết vì cái tựa đề. Cái tựa đề của cuốn sách này đã trả lại danh dự của một người Việt Nam và khẳng định chỗ đứng lịch sử của một người anh hùng Việt Nam trong văn chương Pháp. Vì Đề Thám không phải là một thằng giặc theo nghĩa cướp của giết người, hay cướp nước của ai khác, như nhiều tác giả người Pháp đã viết nhan nhản, mà Đề Thám là một người không chịu cúi đầu khuất phục, chống lại sự đô hộ của chính quyền thực dân Pháp trong thời gian ấy. Cuốn sách của Claude Gendre có 12 chương, dài tổng cộng khoảng 200 trang, được minh họa bằng nhiều hình ảnh và bản đồ vẽ tay. Một số những hình ảnh này đã được phổ biến tự do trên mạng Internet hay in trong sách. Claude Gendre là người thích chú ý đến nhiều chi tiết và ông để ý tìm những hình ảnh lịch sử thích hợp. Bố cục của sách được viết theo thời gian của sự kiện và theo lý luận của dòng tư tưởng. Điểm mạnh của Claude Gendre là đã tìm ra một số sử liệu nguồn gốc Pháp mà người Việt Nam, và các nhà sử học chuyên nghiệp Việt Nam, không để ý đến cũng như không bỏ công sức tìm kiếm. Bốn chương đầu của cuốn sách giúp cho độc giả người Pháp có cái nhìn tổng quát, ngắn gọn về chủ đề, mà trong đó Claude Gendre lướt qua bối cảnh chính trị và quân sự của thời đại Đề Thám khi ông sinh ra đời, địa thế chiến lược của vùng Yên Thế, tông tích thật sự của Đề Thám, và tình hình Việt Nam sau khi vua Tự Đức qua đời ngày 17 tháng 7 năm 1883 Claude Gendre nhắc lại cô đọng các thời điểm 1624 khi Giáo Sĩ A-Lịch-Sơn-Đắc-Lộ ( Alexandre de Rhodes) sang truyền đạo tại Việt Nam, giai đoạn Gia Long thâu phục giang sơn với sự giúp đỡ của Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), giai đoạn của tên buôn bán võ khí Jean Dupuis (Đồ-Phổ-Nghĩa), hống hách ngang tàng, muốn dùng thuyền ngược sông Hồng Hà để chở võ khí bán cho Tàu và việc hai sĩ quan Pháp, Francis Garnier và Henri Rivière tử trận tại miền Bắc. Tuy ngắn, nhưng Claude Gendre đã thể hiện ngay tình cảm của ông qua cách nhìn, cách đưa ra vấn đề và sự nhận xét đúng đắn về sự cấm truyền đạo Thiên Chúa trong thời điểm ấy. Trong chương hai gồm có bẩy trang Claude Gendre đi tìm lại tông tích thật sự của Đề Thám và ý nghĩa của tên gọi "Đề Thám". Claude Gendre trình bầy năm dữ liệu khác nhau. Dữ liệu thứ nhất tìm được trong một bản báo cáo vào tháng 9 năm 1908 của Lacombe, một nhân viên quản lý, rằng cha của Đề Thám là một quan Án ở Làng Trung, tỉnh Quảng Yên, huyện Yên Thế, chết trong tù, bỏ lại một đứa con trai tên là Giai Thiêm. Đó chính là Đề Thám sau này, một người trăn châu ở làng Ngọc Cúc, gần Làng Trung, có vợ và có một con trai tên là Cá Trong*. Dữ liệu thứ hai là dữ liệu cho chính Đề Thám tự viết trong một lá thơ gởi cho Sở Quản Lý Cư trú Cao cấp của Tonkin ngày 5 tháng 8 năm 1908. Trong lá thơ này, Đề Thám trình bầy rằng ông nội của ông xuất thân là người Trung Quốc, chết khi người vợ có thai được ba tháng. Bà lấy chồng thứ nhì, người quê ở Yên Thế. Đứa trẻ đó, cha của Đề Thám, về sinh sống tại làng Ngọc Cúc, là nơi mà Đề Thám ra đời. Lá thơ này không có đề tên họ cũng như ngày tháng. Nhưng theo Alfred Bouchet, một người lính đóng ở Nha Nam*, Bắc Giang trong suốt bốn năm, có chụp ảnh chung với Đề Thám, và theo lời kể của một người già tên Hoan, thì Đề Thám là con của một người tên Quát, gọi là Phó Quát, làm lính cho Cai Ngui*, tên của Đề Thám là Giai Thiêm, sinh vào cuối năm 1858. Cũng theo Bouchet, Đề Thám không biết đọc biết viết, chăn trâu và làm công cho trưởng làng tên là Ba Phuc*, sức khỏe như sức của bốn người, ba trâu, lấy vợ tên là Thi Tao* và sinh một con trai tên là Cá Trong. Năm Hàm Nghi thứ nhất (1884) Giai Thiêm được 25, 26 tuổi đã bắt đầu đánh phá quân Pháp, lấy tên là Dê Dzuong*, trở thành "một kẻ thù cứng cựa nhất kể từ khi chúng ta chiếm đóng" (báo cáo ngày 27.04.1909 của tướng Geil lên Bộ Chiến Tranh và Thuộc Địa). Khi về chiến đấu dưới trướng của Cai Kinh* (Hoàng Đình Kinh), Giai Thiêm được phong làm Dôc Binh* và được Cai Kinh* nhận làm con nuôi, đặt tên là Hoàng Hoa Thám. Sau khi Cai Kinh qua đời năm 1888, Ba Phuc* nhận Hoàng Hoa Thám làm con nuôi và phong cho chức Dê Dôc*. Như thế, cái tên le Dê Thám*, thâu ngắn của Dê Dôc* Hoàng Hoa Thám ra đời. Cuốn sách của Alfred Bouchet đã cung cấp cho Claude Gendre rất nhiều trích dẫn cơ bản về số phận của Đề Thám. Sau đó Claude Gendre tả về địa thế chiến lược của vùng Yên Thế, một nơi núi rừng hiểm trở, với nhiều ngọn đồi cao khoảng 100 đến 150 mét, cây cối chằng chịt, trên mặt đất nóng ẩm đầy rẫy những rắn, những con đỉa hút máu, sâu bọ, kiến lửa, trăm chân và cào cào châu chấu, rồi những con cọp, beo, sói rừng, mèo rừng, bò rừng, nai...rình rập, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ ẩn náu và hậu cần, vì Yên Thế chỉ cách Hà Nội 60 cây số và gần vựa thóc của thung lũng sông Hồng. Đề Thám xử dụng cách đánh của những đảng cướp: dụ quân địch vào một nơi đã giăng bẫy sẵn để giết, nhưng nếu bị tấn công thì đột nhiên biến mất, không để lại dấu vết. Năm 1889 Ba Phuc* xây dựng thành Cao Thuong*, Đề Thám xây thành Huu Thuê* (hay Hu Thué*). Tình hình Việt Nam sau khi vua Tự Đức qua đời ngày 17 tháng 7 năm 1883 được tác giả trình bày ngắn gọn với sự kiện vua Hàm Nghi lên nối ngôi. Trong chương này, tôi tìm thấy một sự hài lòng vì tác giả đã nhìn nhận những đòn khiêu khích trịch thượng của tướng Pháp de Coursy đối với triều Nguyễn, trong mục đích muốn xâm nhập cấm thành để bắt cho được Tôn Thất Thuyết. Hậu quả ra sao, chúng ta đọc sử Việt Nam đã biết, Tôn Thất Thuyết phát động phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày đi Algerie. Đọc xong bốn chương tôi tiếc rằng tác giả không đưa ra nguyên nhân, dù chỉ một vài hàng cảm tưởng, tại sao triều đình Huế đã ký hết hiệp ước này đến hiệp ước khác, mất dần lãnh thổ và quyền lợi cho Pháp, cũng như tại sao chính quyền Pháp muốn chiếm Việt Nam làm thuộc địa, để cho đến năm 1884, ngay chính nhà sử học Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam Sử Lược: "...Ngài (vua Tự Đức) mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế. Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt. ...Hòa ước ký năm Giáp Thân là năm 1884, là hòa ước của Triều đình ở Huế ký với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần hòa ước năm 1884 cũng mất cả ý nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi." Nam Kỳ Lục Tỉnh đã mất từ năm 1867, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử vì không giữ nổi ba tỉnh phía Tây đất Nam Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ bị "bảo hộ" năm 1884. Thế là chính sách của Pháp chiếm đoạt toàn lãnh thổ Việt Nam làm thuộc địa đã hoàn tất: người ta chỉ còn nói đến Tonkin, Annam, Cochinchine và Indochine ! Bắt đầu từ chương năm Claude Gendre đi vào những hoạt động quân sự và mục đích tranh đấu của Đề Thám. Trong tám chương, phần cốt của cuốn sách, tác giả cung cấp cho người đọc những dữ liệu chưa được viết trong sử sách tiếng Việt một cách chi tiết, vẽ lên một cuộc đời đầy sôi động và cái chết bi thảm của Đề Thám. Kể từ Hịch Cần Vương ra đời, kể từ năm 1885 trở đi, có nhiều hoạt động chống Pháp lẻ tẻ tại nhiều nơi. Lực lượng của Đề Thám vào tháng chín 1889 gồm khoảng ngàn người trang bị với khoảng 500 khẩu súng. Doi Van*, một lãnh tụ kháng chiến của vùng đồng bằng ra đầu hàng quan Khâm lược Hoàng Cao Khải vào tháng 3 năm 1890, sau đó lại quay trở về Yên Thế tiếp tục tham dự phong trào Cần Vương, nhưng đến tháng mười lại ra đầu thú, nhưng bị Pháp chặt đầu tại quảng trường Paul Bert tại Hà Nội, đầu phơi trên cây còn xác thì vất xuống sông Hồng. Hai tướng Pháp, Godin và Godard, được lệnh đi đánh dẹp Ba Phuc* và Đề Thám. Ngày 22 tháng 12 năm 1890 tướng Winckel-Mayer đem 600 quân và 4 đơn vị pháo binh tấn công nhưng cũng không thắng hơn. Ngày 11 tháng 1 năm 1891 tướng Frey đem 1.300 quân tấn công, quân Đề Thám biến mất trong rừng. Cho đến năm 1894 các cuộc đánh nhau giữa Đề Thám và quân Pháp tiếp diễn. Chương sáu diễn tả sự "đầu hàng" của Đề Thám. Quân Pháp mỏi mệt vì con hùm xám Yên Thế luôn luôn thoát khỏi mọi sự tấn công của quân Pháp. Tướng Galliéni bèn giao trách nhiệm lại cho Tổng đốc Lé Hoan*, con nuôi của quan Kinh lược Hoàng Cao Khải, kẻ thù không đội trời chung của Đề Thám. Lần lượt, một số các lãnh tụ ra đầu hàng, trong đó có Phu Dang Phu*, tức Ba Ky*, đồng đảng của Lương Tam Kỳ. Ba Phuc*, đã 67 tuổi, về đầu hàng ngày 15 tháng 2 năm 1894. Trong khi Ba Phuc* tưởng rằng Đề Thám sẽ cùng về hàng với mình, thì trái lại, Đề Thám lại đứng trên quan điểm rằng sự đầu hàng của Ba Phuc* giải thoát cho Đề Thám mọi nghĩa vụ ràng buộc với ông ta. Quân của Ba Ky* và Ba Phuc* đi theo Đề Thám, người trở thành lãnh tụ cầm đầu của phong trào Cần Vương tại Yên Thế. Trong một buổi gặp mặt tại Luoc Ha*, nơi ở của Ba Phuc*, ông ta mời trà Đề Thám. Đề Thám đưa tách trà cho người hầu của Ba Phuc* uống, người này lăn ra chết sau khi uống xong tách trà. Lần sau, Ba Phuc* đến nhà Đề Thám. Hai người ngủ chung trong một căn, gần sáng Ba Phuc đặt một hộp thuốc súng dưới gậm giường của Đề Thám, châm ngòi lửa, rồi trốn ra. Đề Thám thoát chết, nhưng cho vợ con mặc đại tang giả vờ đưa quan tài đi. Quân của Muselier tưởng là đã thành công. Nhưng ngày 17 tháng 9 năm 1894 quân của Đề Thám bắt được hai người Pháp tên là Logiou và Chesnay. Qua trung gian của Giám Mục Velasco, Đề Thám thương lượng với Toàn quyền tạm thời Chavassieur các điều kiện "đầu hàng" và trả tự do cho Logiou và Chesnay. Đề Thám, gia đình và đoàn quân của ông định cư tại Phon Xuong*. Ông không được yên lâu, vì cuối năm 1895 tướng Galliéni gởi tối hậu thư đòi Đề Thám ra đầu hàng vô điều kiện, rồi đem quân tấn công Phon Xuong*, một lần nữa, Đề Thám biến mất trong núi rừng Yên Thế. Sau khi Phan Đình Phùng tử trận ngày 28 tháng 12 năm 1895 thì Đề Thám coi như trở thành thủ lãnh kháng chiến duy nhất của phong trào Cần Vương. Toàn quyền Armand Rousseau qua đời vì bệnh tật ngày 11 tháng 12 năm 1896, Paul Doumer đến thay thế. Trong chương bẩy Claude Gendre diễn tả ngắn sự gặp gỡ của Kỳ Đồng và Đề Thám, và sau đó, một giai đoạn chủ hòa của Đề Thám khi Paul Doumer làm Toàn Quyền ở Hà Nội. Nếu đã xác định rằng Đề Thám không biết đọc biết viết, thì lá thư ngày 13 tháng 11 năm 1897 của Đề Thám gởi cho Doumer để xin giảng hòa, phải do một người khác viết. Vì thế, tôi thấy những câu lịch sự sáo ngữ trong lá thư này không có gì là quan trọng. Nhưng các điều kiện chủ hòa do Đề Thám đưa ra thật là thú vị và chứng tỏ rằng Đề Thám là một người biết giá trị và sức lực của mình. Cũng vì thế mà tôi không tin rằng Đề Thám và 25 thủ hạ đã quỳ gối lạy Lé Hoan* ba lần. Đề Thám, năm đó 39 tuổi, cao 1,65 m, con mắt đen có cái nhìn sắc bén. Đề Thám đóng đô ở Phon Xuong* và có năm vợ, nhưng chỉ có bà vợ thứ ba tên là Thi Nho* là ông quý nhất. Bà Thi Nho* hạ sinh một gái tên là Thi Thé* (1900) và một trai (1908). Cá Trong*, 22 tuổi, con của bà vợ cả tên là Thi Tao*, cùng với hai người con nuôi của Đề Thám tên là Cá Rinh*, Ca Huynh*, cùng với 50 người đàn ông khác và gia đình cùng sinh sống với Đề Thám trong nông trại chiến lũy ở Am Dong*. Cơ sở sinh sống của Đề Thám dần dần phát triển, yên ổn. Nhưng năm 1902, một bác sĩ tên là Gillard, vì lợi ích cá nhân, đã huy động báo chí lên án Đề Thám và vu khống nhiều chuyện để gây khích động trong dư luận và guồng máy cai trị của Pháp. Nhiều vụ cướp bóc đã xẩy ra và quy tội cho Đề Thám. Trong chương tám Claude Gendre viết ngắn về phong trào Đông Du, ảnh hưởng của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, việc Cường Để sang Nhật cầu viện, và chỗ đứng của Đề Thám trong các mối quan hệ này. Nhưng các chương chín, mười và mười một là những chương then chốt của cuốn sách, cung cấp nhiều chi tiết từ các hồ sơ lưu trữ và sách vở của Pháp. Tác giả đã bỏ công viết tỉ mỉ về giai đoạn khó khăn nhất của Đề Thám, khi chính quyền thuộc địa, với sự trợ giúp và thừa hành đắc lực của các quan đại thần triều Nguyễn, như Hoàng Cao Khải, Lê Hoan, bắt đầu từ năm 1908, dốc sức cương quyết tiêu diệt Đề Thám và toàn bộ nghĩa quân Yên Thế, vì Đề Thám, không những chỉ là một tay súng nông dân-kháng chiến bám trụ kiên trì, ẩn hiện như ma trơi, mà trong nhiều năm tranh đấu với Pháp, Đề Thám đã đạt được một tầm mức chính trị quan trọng và có sức quy tụ người cùng chí hướng. Vụ Hà Thành đầu độc, dù thất bại và Đề Thám bị thiệt hại nhân sự nặng nề, 13 người bị chặt đầu, 4 người đi đày khổ sai chung thân, 26 người đi đày từ 5 đến 20 năm, 10 người vô tù, nhưng đã gây được xôn xao trong dư luận. Quân Pháp treo giải thưởng cho cái đầu của Đề Thám và bắt đầu một chiến dịch tảo thanh Đề Thám với nhiều mũi nhọn tấn công liên tiếp từ đầu năm 1909. Chính trong chiến dịch này, lần tấn công Don Dang* vào ngày 12 tháng 2 năm 1909, Jean Gendre, ông nội của Claude, bị thương cùng với 15 quân lính khác, sáu lính tử trận. Trong vòng năm năm, từ 1908 đến 1913, vợ, con, thân quyến, nghĩa quân của Đề Thám lần lượt bị giết, bắt sống, đi đày, chặt đầu treo rọ trên cây. Một số thủ lãnh mệt mỏi ra đầu hàng quân địch. Mất người vợ ba, cũng là một người bạn chiến đấu (Bà Đặng thị Nhu, theo sử liệu Việt Nam), Đề Thám cô đơn, len lỏi trong rừng Yên Thế, với vài cận vệ thân tín. Alfred Bouchet theo đuổi Đề Thám bén gót. Trong chương mười hai, tình huống sự thảm sát Đề Thám đã được Claude Gendre diễn tả chi tiết. Đó là giai đoạn mà Toàn quyền Albert Sarraut bắt đầu nắm quyền chính vào ngày 15 tháng 11 năm 1911 tại Việt Nam. Đến cuối năm 1912 quân đội thực dân biết rằng núi rừng Yên Thế che chở cho con hùm xám Yên Thế, nên không thể dùng chiến lược đem lực lượng quân sự tảo thanh và đánh thẳng được mà phải dùng cách đánh lén đánh ngầm bằng lực lượng cảnh sát cơ sở. Jules Bosc, Giám Đốc về Quan Hệ Chính Trị của Phủ Toàn Quyền, tìm sự góp sức của chủ đảng cướp Trung Hoa cũ – Lương Tam Kỳ - nhưng hắn ta đã già, cho nên giao cho con trai là Lương Văn Phúc lãnh nhiệm vụ, đang làm tri huyện trong vùng kiểm soát của cha. Ba thằng giặc cướp người Tàu gốc Guang Xi* (Tsan Tac Ky*, 51 tuổi, Ly Seng Wa* 37 tuổi và Tsan Fong Tsan*, 28 tuổi) nhận lệnh bắt sống Đề Thám để giải về đồn gần nhất, đồn Kep* hoặc đồn Nha Nam*. Một tên lính cũ của Đề Thám đã về đầu hàng quân Pháp tên là Ly Bac*(còn có tên là Chánh Tây) chơi nước đôi, phản bội Đề Thám, đưa bọn Tàu về chỗ Đề Thám. Chúng tìm cách đến gần Đề Thám, giả đò sẽ đem lại trang bị vũ khí và thề thốt trung thành với Đề Thám, trong khi quân Pháp cũng giả vờ bỏ ý định săn đuổi Đề Thám. Ông mắc mưu, cho ba tên phản bội người Tàu ở gần. Trong mọi tình huống chiến tranh, kẻ thù trước mặt không nguy hiểm bằng kẻ phản bội kề cận bên mình ! Vì một sự sơ hở của Bouchet mà Ly Bac* biết được ý định của ba tên phản bội, bèn báo động Đề Thám. Đề Thám nói với thủ hạ: "phải hạ ba cây cản trở chúng ta, trước hết là cây lớn nhất", ngầm ý sẽ tiêu trừ ba tên Tàu, nhưng Tsan Fong Tsan hiểu tiếng Việt, chúng bèn quyết định ra tay trước. Khoảng năm giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1913 chúng xông vào chỗ ngủ của Đề Thám, Đề Thám đang ngủ bị tấn công bất ngờ, thức dậy, nhưng không kịp trở tay bị chém chết bằng những nhát cuốc bổ vào đầu. Hai người cận vệ thức giậy chạy vào, cũng bị bọn Tàu bắn chết. Sau đó chúng chặt đầu Đề Thám, xẻo tai hai người cận vệ, đem theo ba khẩu súng về Chợ Gỗ nộp cho Bouchet. Bouchet đi với cận vệ đến tận nơi thảm sát để xác định sự việc. Thi thể cụt đầu của Đề Thám bị hành nhục nặng nề, gan, mật bị moi. Tên Ly Bac* moi mật Đề Thám, phơi khô, lận trong giây nịt quần để ngâm trà uống. Bouchet ra lệnh chặt đầu hai người thủ hạ thân tín của Đề Thám, để mang cả ba đầu về phơi ở chợ Nhã Nam, còn thân thể cả ba người bị đốt cháy, để tránh thờ phượng anh hùng. Lương Văn Phúc được thưởng 20.000 đồng, Lương Tam Kỳ được thăng Đề Đốc. Ly Bac* được thưởng một mảnh ruộng. Ba thằng Tàu giết người được thưởng tiền rồi đi về Thái Nguyên. Đề Thám, 55 tuổi đời, người đã làm cho quân Pháp điêu đứng mấy chục năm trời, không chết vì thua trận, mà chết vì bị phản bội. "Ở đây là đất ông Đề, Tây vô thì có, Tây về thì không." Trong những dòng sách sử, người đọc không chỉ tìm thấy những dữ liệu, ngày tháng năm hay địa danh, hoàn toàn khách quan, mà nhận thấy ngay con người viết sử, lấp lánh qua nhiều nét nhân cách đặc biệt tiềm ẩn trong văn. Qua Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim tỏ ra mình là người buông xuôi theo thời thế, chấp nhận mọi hoàn cảnh vì tự lượng không có sức để thay đổi. Qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư các tác giả chép sử "chép" đúng theo quân quyền, lạnh lùng, theo lệnh của người cai trị nước. Qua Hoàng Lê nhất thống chí, được ghi nhận là một cuốn lịch sử tiểu thuyết, Ngô Thời Chí bộc lộ nhiều tình cảm, không chỉ viết một chiều, trung thực, giúp người đời sau hình dung được hoàn cảnh lịch sử của những thế kỷ xa xưa. Qua "le Dê Tham", Claude Gendre cũng đã chọn một chỗ đứng cho mình: ông là người bênh vực, khâm phục và thương cảm Đề Thám. Dù cuốn sách của ông, trực tiếp, không phải là một "bản án chế độ thực dân Pháp", nhưng người đọc nhận thấy những bất công của thời kỳ thuộc địa qua ngòi bút của Claude Gendre. Tuy có thiếu sót, theo thiển ý của tôi, nhưng cuốn sách " Le Dê Thám" là một cuốn sách quý, giúp cho người Việt Nam có thêm một nguồn tham khảo đáng tin cậy. © Tuyết Trần, France 2007 Phụ chú: 1) Rất nhiều tên địa danh và tên người trong sách được viết không có bỏ dấu, hoặc thay đổi dấu, thí dụ như Cá Rinh hay Ca Rinh, cho nên tôi phải ghi chú bằng dấu *, và giữ nguyên cách viết của tác giả, vì không thể đoán mò, hay tự sửa lại được, thí dụ như tác giả viết là Cá Trong, thì tôi phải để nguyên như thế, tuy rằng tôi thầm nghĩ rằng: Cá Trong hay là Cả Trọng ?! 2) YÊN THẾ là một huyện ở phía bắc tỉnh Bắc Giang, có sông Sói, sông Thương chảy qua, diện tích gồm 301 km2, trong đó có 14 nghìn ha đất rừng, có 3 thị trấn: Bố Hạ, Nông trường Yên Thế, Cầu Gỗ, và 18 xã: Phồn Xương, Xuân Lương, Canh Nậu, Đồng Vương, Đồng Tiến, Tam Tiến, Tam Hiệp, Tiến Thắng, Tân Hiệp, Đồng Kỳ, Hồng Kỳ, Đồng Hưu, An Thượng, Đồng Lạc, Hương Vĩ, Đông Sơn, Tân Sỏi, Bố Hạ. Dân số năm 2003 có 91.700. Vùng Yên Thế trồng lúa, đậu tương, chè, cây ăn quả: vải, na, trám, cam (Bố Hạ), khai thác than (Bố Hạ), sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản. Các trục giao thông chính là quốc lộ 37, tỉnh lộ 244, 287, đường sắt Trại Cau – Kép. Mỗi năm có Hội Yên Thế vào ngày 26-4, tức ngày 10 tháng 3 âm lịch, tại xã Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, để tưởng nhớ đến Hoàng Hoa Thám - người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổi tiếng. Địa điểm tổ chức hội là xã Phồn Xương, nơi trước kia là đại bản doanh của nghĩa quân Yên Thế. Hội được tổ chức với rất nhiều trò vui như kéo co, đấu vật, đánh cờ người, thi võ...Di tích về Đề Thám còn lại là đồn Phồn Xương, Hố Chuối. Nhà văn Nguyên Hồng có viết cuốn tiểu thuyết lịch sử "Núi rừng Yên Thế” 3 tập, tập I in năm 1981, về cuộc khởi nghĩa của Đề Thám. Tài liệu tham khảo: Le Dê Thám (1858-1913) – Un résistant vietnamien à la colonisation francaise, Claude Gendre, Edition L‘Harmattan, Paris 2007 · Histoire de l‘Indochine 1885 – 1954, Philippe Héduy, Edition SPL – Henri Veyrier, 1983 · Archives de L‘Indochine, Jacques Borgé et Nicolas Viasnoff, Editions Michèle Trinckvel, 1995 · Les grands Dossiers de l‘Illustration – L‘Indochine. Histoire d‘un siècle 1843-1944. Editions Séf*g et L‘Illustration, 1987 · Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim · Việt Nam tranh đấu sử - Phạm văn Sơn. Institut de l‘Asie du Sud-Est, Paris 1987 · Triều đại nhà Nguyễn – Tôn Thất Bình. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000 · Các trang trên mạng Internet © Mathilde Tuyết Trần, Lataule 2007
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 2:59:32 GMT 9
“…cột đồng cũng như các tảng đá của người tiền sử ở Anh, là những biểu tượng tôn giáo của dân tộc Lạc. Nói cách khác, như các nhà khảo cổ đã tìm ra thì cột đồng cũng như trống đồng là tập tục của dân tộc Lạc…” “Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương” Đó là hai câu thơ vịnh sử của một nhà thơ Việt thời sau cảm khái về Hai Bà Trưng. Cột đồng, tục truyền do Mã Viện dựng sau khi đánh bại cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để làm biểu tượng cho chiến thắng của người Hán và sự khuất phục của người Việt, đã là đề tài của biết bao nhiêu bài thơ và câu đối giữa hai phe. Thời Trần, khi sứ thần Đại Việt sang Thượng Đô (Bắc Kinh hiện nay) đã bị quan nhà Nguyên đưa ra câu đối xách mé “Đồng trụ chí kim đài vị lục” (Cột đồng đến nay rêu vẫn còn chưa xanh) và ông đã trả lời một cách hào hùng “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng đến nay máu vẫn còn đỏ) để chứng tỏ rằng nếu cột đồng bày tỏ cái nhục thua trận của dân Đại Việt thì cái nhục đó đã được rửa bằng hai lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng liệu huyền thoại về cột đồng có thực hay không? Đại Việt Sử Ký toàn thư chép: “(Thắng được Hai Bà Trưng) Viện bèn dựng cột đồng để làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm châu. Viện có câu thề ‘Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt’ người Việt đi qua thường lấy đá chất vào thành như gò đống vì sợ cột ấy gãy. Mã Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi công đức của Mã Viện để tỏ ra mình là dòng dõi của Viện. Hiện hai sông Tả Giang và Hữu giang mỗi nơi có một cột”. Truyền thuyết được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký toàn thư có nhiều mâu thuẫn. Nếu Viện dựng cột đồng để làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán thì phải đặt tại phía nam chỗ biên giới huyện Tượng Lâm, huyện cực nam của quận Nhật Nam (nay là vùng Quảng Nam của ta) chứ không thể nào tại Khâm châu được vì lúc đó nước ta và vùng Lưỡng Quảng của Trung Quốc hãy còn bị sáp nhập lại thành Giao châu chưa phân ra. Vả lại nhà Hán, cũng như các triều đại sau của Trung Quốc, chưa bao giờ chấp nhận nước ta là một nước riêng biệt mà chỉ cho là một tỉnh phản loạn. Mỗi khi có dịp là họ lại tìm cách xâm chiếm. Thành ra việc đặt cột đồng tại Khâm châu là một chuyện hoàn toàn vô lý. Nhưng làm sao lại có huyền thoại về cột đồng Mã Viện để còn được lưu truyền đến nay? Hậu Hán thư - Mã Viện truyện, cuốn sách chép chi tiết nhất về Mã Viện đã không hề nhắc đến việc dựng cột đồng này. Thủy Kinh chú, một cuốn sách khác viết nhiều về những hoạt động của Mã Viện cũng chỉ chép rằng: “Viện đến Đồng Cổ thuộc Cửu Chân, ở đấy có nhiều trống đồng. Viện lấy trống đồng ở đó đúc ngựa đồng dâng lên Quang Vũ” chứ không nhắc đến việc đúc cột đồng. Phải đến cuốn Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm. Ngô lục viết: “Ở Tượng Lâm (nay là Quảng Nam), ngoài biển có một bãi nhỏ, sản xuất ra vàng mềm. Đi 30 dặm từ Bắc xuống Nam thì đến nước Tây Thuộc. Dân ở đó tự xưng là con cháu người Hán. Có cột đồng người ta nói là để phân cương giới cho nhà Hán”. Sau đó, Quảng châu ký cũng viết: “Mã Viện đến Giao chỉ, dựng cột đồng làm biên giới phía nam cho nhà Hán”. Nói rõ nhất về chuyện này là Du Ích Kỳ được chép trong Thái Bình Quảng Ký: “Ngày xưa Mã văn Uyên (tên tự của Mã Viện) chất đá làm bờ để đi đến Tượng phố dựng cột đồng để làm giới hạn miền cực nam”. Tiên biểu của Du Ich Kỳ nói rằng: ”Mã văn Uyên dụng hai cột đồng ở phía bắc bờ sông Thọ Linh. Ở đấy còn có hơn mười nhà là những binh lính còn sót lại. Họ ở bên bờ phía nam mà đối với cột đồng. Họ tự lấy họ là Mã và thông hôn với nhau. Nay có hai trăm nhà. Người Giao châu lấy lẽ họ là người lưu ngụ nên gọi họ là ‘Mã lưu’. Tiếng nói ăn uống vẫn như người Hoa. Núi sông rời đổi, nay cột đồng mất vào trong biển chính nhờ dân ấy mà biết được chỗ cũ”. Chùa Thành ở Lạng Sơn: Tương truyền chùa này xây trên cột đồng Như vậy là phải đến thế kỷ thứ tư, khoảng ba trăm năm sau cuộc chinh phục của Mã Viện, huyền thoại cột đồng mới bắt đầu xuất hiện. Cần lưu ý tại đây rằng tất cả những đoạn văn đầu tiên viết về cột đồng này đều đặt cột tại vùng cực nam của nước ta chứ không phải giữa biên giới ta và Trung Quốc. Ngoài ra vị trí của cột đồng thay đổi tùy theo biên giới phía nam của đế quốc Trung Hoa thời đó. Nếu trong Ngô lục vị trí của cột đồng còn ở huyện Tượng Lâm tức là vùng Quảng Nam hiện nay thì đến Du Ích Kỳ đời Tấn thì vị trí của cột đồng đã lên tuốt phía Bắc, đến vùng Quảng Bình (sông Thô Linh là sông Gianh hiện nay). Đó là vì triều Tấn, nước Lâm Ấp thành lập cuối thời Hán đã lấy mất toàn bộ vùng phía nam sông Gianh rồi. Càng về sau, vị trí của cột đồng càng dời lên phía bắc. Man thư đời Đường đặt vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện An Ninh tỉnh Vân Nam. Trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống đặt cột đồng tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu. Chính thuyết của Chu Khứ Phi này đã được Đại Việt Sử Ký toàn thư của ta lấy lại mà đặt cột đồng Mã Viện bên Trung Quốc. Việc Mã Viện dựng cột đồng như vậy có vẻ là một huyền thoại. Nhưng vì sao mà huyền thoại này xuất hiện, chúng ta cần phải tìm chứng tích không những trong sử mà còn trong khảo cổ học nữa. Trong sử Trung Quốc có hai cuộc chinh phục phương nam lớn nhất và để lại dấu ấn sâu đậm nhất cho đời sau là cuộc chinh phục Việt Nam của Mã Viện và cuộc chinh phục xuống vùng Vân Nam và Quý châu của Gia Cát Lượng. Chính những truyền thuyết về cột đồng đã bắt đầu xuất hiện sau những cuộc chinh phục này, đặc biệt là sau cuộc chinh phục của Gia Cát Lượng vào cuối thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên. Theo các nhà khảo cổ, vùng Tấn Ninh thuộc Vân Nam vốn là một trong những vùng hiếm hoi của Trung Quốc có trống đồng. Và chính nơi đây người ta cũng tìm được những cột đồng. Tuy rằng trên đất nước Việt Nam hiện nay người ta không tìm thấy được một cột đồng nào cả, nhưng trong quá khứ người ta cũng tìm thấy một vài cột đồng trong nội bộ nước ta. Sách Lĩnh Biểu lục dị chép: “Đời Đường Vy Công Cẩn làm thứ sử Ái châu (Thanh Hóa) thấy trong hạt mình có cột đồng, muốn chiếm đem bán. Nhân dân xem là vật thiêng, nếu bị hủy, họ sẽ bị diệt nên đã kiện lên đô hộ Hàn Uớc. Công Cẩn phải thôi”. Lại ở huyện Nam Đàn, Nghệ An tương truyền là có cột đồng trên núi Lam thành vì vậy nhân dân ở đó gọi là núi đồng trụ. Nếu những cột đồng này không phải do Mã Viện và Gia Cát Lượng dựng thì chúng do ai tạo ra? Theo các nhà khảo cổ thì cột đồng này là những biểu hiện của một tôn giáo thờ tự nhiên giống như những công trình đại thạch khí (megalith) như Stonehenge của Anh mà theo lời của A.W. McDonald thì: “Tại châu Á gió mùa. chúng liên hệ với chu kỳ tuần hoàn tự nhiên của sự phồn thực trên thế giới. Chu kỳ tuần hoàn này được coi như là kết quả của những tương tác giữa nước (mưa) và đất mà ra, tức là một quan hệ hài hòa giữa trời, đất, và thế giới dưới lòng đất, giữa người chết và người sống và giữa những giòng nước trên trời và giòng nước duới đất”. Thành ra, cột đồng cũng như các tảng đá của người tiền sử ở Anh, là những biểu tượng tôn giáo của dân tộc Lạc. Nói cách khác, như các nhà khảo cổ đã tìm ra thì cột đồng cũng như trống đồng là tập tục của dân tộc Lạc. Khi quân Trung Quốc chinh phục phương nam, họ đã tìm cách chiếm những biểu tượng thiêng liêng của tôn giáo người nam này thành ra của họ để củng cố sự thống trị của họ. Cột đồng trở thành biểu tượng của sự thống trị phương bắc. Lê Mạnh Hùng
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 4:46:03 GMT 9
Tìm thủ phạm “ám sát” văn hiến Võ Thị Hảo Những tâm hồn thấp kém thì không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do. (J.J Rouseau - 1762)Nhân đại lễ ngàn năm Thăng Long, Hà Nội (HN) được ngắm nghía đặc biệt kỹ. Chăm sóc nhiều. Khen chê cũng lắm. Nhiều người không khỏi hoang mang tự hỏi: Văn hiến Thăng Long, còn hay mất? Nếu mất, ai đã cầm nó trên tay và đánh mất? Bọn “người nhập cư” đã đánh mất lối thanh lịch Tràng An? Hay kẻ nào? Cần phải tìm địa chỉ để “bắt đền” chứ?! Quan niệm và ứng xử thế nào về khái niệm Người HN trong kỷ nguyên của “người nhập cư”? Liệu còn làm gì được không để cứu vãn nền văn hiến? Ta hãy ngắm xem văn hiến còn hay mất. Thân xác: đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn” Nếu đến HN từ các ngõ vào thành phố, đặc biệt là từ phía sân bay Nội Bài đến cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì, cầu Pháp Vân..., với lợi thế ngắm HN từ trên cao, nhiều người sẽ không khỏi băn khoăn: Lẽ nào, đây là nơi mà chúng ta vẫn tự hào là Thăng Long ngàn năm văn hiến? HN hôm nay trình diện dưới mắt kẻ qua người lại với vô số nhà cửa như một mớ “hộp diêm” hoặc các “quan tài” bằng bê tông lắp ghép bằng các mảnh vụn đủ mọi kích cỡ rồi được ném vô lối xuống mặt đất thành phố qua bàn tay của đứa trẻ chưa biết suy tính đến hậu hoạ ngàn năm. Những hộp diêm vô hồn ấy ngự ngạo nghễ trên đất HN. Chân của lũ hộp diêm cắc cớ ấy cắm sâu xuống đất, trơ gan cùng tuế nguyệt. Rồi đây, theo các dự án đã được duyệt, sẽ có tới khoảng mấy trăm cao ốc lừng lững dựng ngược dậy, như cọc bùa yểm linh khí, như chông lởm chởm, cắm vào mảnh đất nội đô vốn đã quá tải, vốn đã méo mó hình thù và vô cùng chật chội. Rồi đây, HN sẽ còn thêm rất nhiều “hộp diêm”, “quan tài” bê tông và toà cao ốc, những chung cư không linh hồn được xây nên. Có đặc điểm nguy hại mà những nhà quy hoạch không để ý. Mỗi lần họ không để ý là một lần bầu trời hoặc những gương hồ HN bị xẻo đi một miếng, mà toàn là những miếng lớn, không có cơ hội vá víu được. Đó là cho phép những toà cao ốc trấn yểm các ngã ba ngã tư thành phố. Cứ theo đà này, sẽ đến ngày một ngày không xa, người HN ngẩng đầu lên mà ngày không thấy trời, đêm không thấy trăng. Đến mặt trăng và mặt trời mà ngày càng xa lạ với con người, thì đương nhiên tầm nhìn của con người ngày càng chật hẹp và bức bối. Hậu quả là kiến trúc nội đô HN hiện tại không có cách gì sửa chữa được. Nó khủng bố thẩm mỹ của những kẻ hậu sinh, khiến cho thế hệ này đến thế hệ khác ngày càng xa lạ với văn hiến và nền văn minh. Tự động hình thành một tầm nhìn chật hẹp, manh mún, tạp nham nửa quê nửa tỉnh. Một số nhà chuyên môn còn gọi đó là hiện tượng phỉ nhổ kiến trúc, phỉ nhổ những con đường cây xanh, không khí mơ màng bốn mùa, phỉ nhổ những gương hồ quý giá... Hầu hết mỗi con đường mới tôn tạo đều như những con đê chắn đường thoát nước. Mỗi ngôi nhà mới xây tương tự một cái chốt khổng lồ làm thương tổn nền đất và mạch nước ngầm, đường dẫn nước thải . Nếu như năm 2008, mọi người đều quá hoảng sợ khi thấy chỉ sau ba ngày mưa mà HN đã thành sông biển và nhiều người chết đuối ngay trên mặt phố nội đô. Để phòng ngừa, Ngân sách đã phải chi một khoản tiền lớn đầu tư chống úng ngập. Hiệu quả sau khi bơm thêm rất nhiều tiền, hai năm sau, kỷ lục chuyển phố thành sông biển sau mưa ở HN nhanh hơn gấp nhiều lần. Sau trận mưa to kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ sáng ngày 13/7/2010, lượng nước mưa ấy không thể tự tiêu. Sau năm giờ đồng hồ các trạm bơm hút cật lực, giao thông HN mới khả dĩ nối lại. Bên cạnh các đền chùa miếu mạo mà hồn đã lìa khỏi xác, là những khu dân cư lộm nhộm đủ kiểu nhà, đủ kiểu người, đủ kiểu quần áo phơi phóng giăng mắc cơi nới điện mạng nhện lâu nay được điểm tô thêm một cái nốt mụn cóc: đó là tấm biển thô thiển đề “Khu dân cư văn hoá”. Hoàn thiện thêm bức tranh ấy, tiếng loa phóng thanh theo lối thời chiến ngày hai ba lần bất thần nổ ra trên đầu toàn thể cư dân, theo cách tuyên truyền áp đặt, buộc tất cả nam phụ lão ấu và khách nước ngoài đều phải nghe những nội dung tuyên truyền nghèo nàn, chủ yếu là mục chính quyền cơ sở tự khen mình, những bài hát chiến tranh đã cũ mèm, những nội dung thông tin xa rời sự thật, góp phần làm hỏng thẩm mỹ và tâm hồn nhiều thế hệ. Có thể gọi kiến trúc HN mấy chục năm qua cho đến hiện tại là đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn”. Loại ô nhiễm môi trường ở tầm vĩ mô. Dường như người Việt Nam, đặc biệt là HN, có một năng lực đặc biệt trong việc làm xấu đi những ân sủng do thiên nhiên ban tặng. Quy hoạch đô thị từ mấy chục năm nay vẫn là manh mún và chắp vá, luôn chỉnh sửa theo ý chí của nhiều vị lãnh đạo có khi chỉ mới tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở hoặc không có kiến thức gì về quy hoạch. Theo một số kiến trúc sư cho biết, năm 1972-1973, một đại diện của Hội Mỹ thuật đã đề nghị “nên vẽ một HN hình nắm đấm hướng về phía Nam để thể hiện ý chí “đánh cho Mỹ cút...”. Còn vùng HN mới xây và đang xây có duyên không? Có “văn hiến” không? Có một HN mới được tính từ khu Mỹ Đình và mở rộng ra các vùng lân cận ngoại thành HN, một chuỗi những khu đô thị vệ tinh sắp hình thành nay mai. Nhưng bằng vào tất cả những gì đã xuất hiện, lại đã thấy cái thẩm mỹ trọc phú, manh mún vụn vặt, vô hồn, bắt chước kiến trúc la liệt chung cư của một số TP biên giới của Trung Quốc mà bây giờ người ta đã nhận ra sai lầm và đang cố khắc phục mà không nổi. Bắt chước lối kiến trúc ấy nhưng lại kém xa về thẩm mỹ và về nhịp không gian thư giãn so với Trung Quốc. Những ngôi nhà chọc trời ganh đua mọc trên một diện tích chật hẹp là thứ kiến trúc đã bị nhiều nước tẩy chay, bỗng trở nên mới mẻ và thịnh hành ở HN và Việt Nam. Ta đã thấy kết quả tội nghiệp của việc nhặt nhạnh kiến trúc Trung Quốc Hàn Quốc, những toà nhà không linh hồn được đua nhau đẩy lên cao hết cỡ để kiếm lợi nhuận tối đa bất luận hậu quả thế nào. Sự tham nhũng gần như không bị ngăn cản của một hệ thống vận hành ráo riết khiến cho mỗi toà nhà cao tầng có thể biến thành những lò nướng người nếu có xảy ra hoả hoạn. Theo thống kê của ngành phòng cháy chữa cháy, khoảng 90% toà nhà cao tầng đã xây hiện nay không trang bị hoặc trang bị rất hời hợt về thiết bị báo cháy, chống cháy và thoát hiểm, nhìn chung là rất ít khả năng vận hành. Các nhà đầu tư và quản lý cao ốc đã kiếm rất nhiều tiền và còn tiếp tục móc túi người tiêu dùng bằng nhiều lối bội tín. Linh hồn: Đốt đuốc đi tìm bản sắc Trong phố HN mà chúng ta vẫn mơ mòng nựng tai mình bằng các mỹ từ: thanh lịch, ngàn năm văn hiến, hào hoa..., thì trớ trêu thay, lại cứ có những “hiện vật” nhỡn tiền giễu cợt đám mỹ từ đó, khiến cho người ta cứ phải hoang mang trăn trở. Nói chuyện Thăng Long, đương nhiên phải kể đến Hồ Gươm. Thiên nhiên đã hào phóng đeo chiếc nhẫn ngọc lục bảo quý giá ấy cho HN. Hồ Gươm còn duyên bội phần bởi là nơi duy nhất có các cụ rùa thiêng ngộp thở thỉnh thoảng lên phơi nắng, tha hồ cho lũ con cháu kẻ tưởng bở kẻ lo sợ, khấp khởi đoán già đoán non. Nhưng Hồ Gươm lâu nay lại là nơi chiếm hữu của những chúng nhân quần đùi áo may ô, đồ bộ, quần lửng nhàu nát mướt mồ hôi... của lũ lượt những người đi tập thể dục ngày vài ba bận dưới cái nhìn ngỡ ngàng của du khách. Văn hiến và thanh lịch đó chăng? Người HN xung quanh Hồ Gươm, quanh các dẫy phố cổ ăn mặc thế sao? Đâu rồi những bóng áo dài? Kể cả áo dài của những người xay thóc giã gạo và buôn thúng bán mẹt thuở trước? Cái thuở HN còn rất nghèo, còn rất quê mùa, chỉ là nơi ở của những người đánh cá trồng hoa trồng lúa nước và buôn bán vặt vãnh nhưng hễ bước chân ra khỏi ngõ, người ta coi việc ăn vận không tươm tất là một sự tự xỉ nhục. Thanh lịch đâu rồi? Khi những hậu sinh của họ lâu nay, trên môi luôn trề dài hai chữ “nhà quê “ để miệt thị những người không làm vừa mắt họ? Những người không làm vừa mắt họ thì quá nhiều. Có thể là những người lao động nhập cư dạt về thành phố kiếm sống và đang phục vụ nhu cầu thuê mướn của người thành phố với giá rẻ mạt và bị chính sách hộ khẩu đã lỗi thời gạt ra rìa xã hội. Cũng có thể là những chúng sinh thành công hơn họ kể cả về địa vị và tài chính do nỗ lực, do có ý chí và dám thay đổi nên nắm bắt được thời cơ... Cái từ nhà quê thường trực nhả ra trên môi nhiều người HN và cách nhìn kỳ thị ghen tị không những không làm cho họ thanh lịch lên mà còn thể hiện một sự tự ti thảm hại. Rất nhiều người từ nơi khác đến đã thốt lên: ở xa nghe phố Hàng Đào Hàng Ngang, tưởng tượng đó là dãy phố hào hoa đẹp đẽ, mang bản sắc HN ghê lắm, đến nơi mới biết trông chẳng khác gì dãy phố chợ quê với rất nhiều hàng rởm hàng nhái và chủ yếu là hàng Trung Quốc. Nhiều người, dù đã ở HN vài ba đời và kiếm được nhiều tiền nhưng vẫn nói ngọng và chửi tục, nhiều hộ gia đình dùng chung những “chuồng xí” thời đổ thùng cách đây vài thế kỷ và luôn đùn đẩy trách nhiệm vệ sinh cho nhau. Họ vận quần áo xộc xệch nhếch nhác đi quanh phố. Họ thà chen vai thích cánh cắn rứt nhau mười mấy người trong vài chục mét vuông, còn hơn là đồng lòng chung sức ra khỏi ngõ hẻm chật hẹp, tìm một lối thoát mới. Thử vào quán ăn, nhà hàng, công sở, đường phố nào ở HN mà xem, tai bạn thường khi sẽ chứa đầy những tiếng văng tục chửi thề miệt thị mang tính côn đồ. Thậm chí, HN là nơi gần như duy nhất trên cả nước cho phép tồn tại và nhiều người còn vui vẻ chấp nhận kiểu chủ quán ăn tha hồ chửi bới khách hàng. Miếng ăn phải trả tiền ở đây thực sự là mua miếng nhục. Thế mà người HN còn ngồi ăn, ăn đi ăn lại, và nhăn nhở cười! Đó là một dạng bạo lực tinh thần không thể chối cãi. Nhiều người Sài Gòn và khách nước ngoài lấy làm ngạc nhiên về điều này lắm, hỏi bạn bè rằng, có phải người HN lấy văng tục chửi thề và khạc nhổ làm đầu vị để khẳng định bản sắc không? Ta có thể tựa vào đám di tích văn hoá lịch sử của cổ nhân để lại để kể lể về bản sắc và hồn cốt dân tộc? Những chùa đình miếu mạo sau trùng tu tổn phí biết bao mồ hôi nước mắt của dân, đang nói lên điều gì? Theo nhận định của nhiều người trong giới báo chí và giới chuyên môn, thì cần phiên dịch lại cho đúng khái niệm. “Tôn tạo” cần được hiểu là “đổ tiền dân vào để phá nốt”. Đa phần các di tích đành ngậm ngùi lâm cảnh mất mát rất nhiều cổ vật, với những những đường nét, nghi trượng mới tạo nên bằng bê tông với những bàn tay thô vụng, đứng tẽn tò phô sự giả tạo trước khách thập phương. Sự hãi hùng quyền lực trong lề thói cầu cúng, không khí hối lộ và mua chuộc, tham lam khẩn thiết xin xỏ vật chất đã hoàn toàn thoán đoạt tín ngưỡng và tôn giáo thuần khiết. Thật đáng sợ khi vào các đền chùa đình miếu ở khu vực HN. Khấn lạy van vái quyền lực ở cõi dương khốn khổ nhục nhã thế chưa đủ, người ta hăng hái hối lộ cõi âm, dùng cả đến những hành vi bỉ ổi do đám buôn thần bán thánh xúi giục, nhét cả tiền vào tay các pho tượng thần phật để cầu lợi. Những hòm công đức mọc lên như nấm tại các đền chùa miếu mạo là thí dụ cực kỳ nhục nhã đối với sự xuống cấp của nhân cách sống, thế giới tinh thần và tín ngưỡng của HN và người Việt Nam nói chung. Rồng sẽ bay trên bầu trời nào? Liệu có còn thấy được rồng bay? Còn làm gì được nữa với một HN cũ – nhiều người nói vớt vát rằng nó cổ. Không nhúc nhích được. Không sửa chữa được. Định mệnh của những kẻ sinh ra và sống ở HN này là mở mắt ra là phải nhìn thấy cái xấu, cái vỡ vụn, cái quái thai hậu quả của một nền giáo dục và kiến trúc, văn học nghệ thuật được chăng hay chớ, thiếu thẩm mỹ cho đến nay đã phát tác đến đỉnh. Theo khảo sát của ngành du lịch thì hơn 85% du khách đến HN chỉ một lần, không quay lại. Những ưu điểm như cảnh sắc thiên nhiên phong phú tươi đẹp, giá sinh hoạt còn rẻ so với giá ở những nước phát triển, tàn tích của lối sống lộn xộn quê kiểng ở một xứ sở còn nhiều mông muội pha lẫn sự hối hả ban đầu của thời kỳ tư bản hoá còn có thể nhìn thấy ở VN không đủ kéo du khách trở lại bởi sự bẩn thỉu cổ lỗ của những phương tiện đi lại, sự thiếu linh hồn văn hoá và không giữ chữ tín của dịch vụ cùng tai nạn giao thông rình rập. Phác thảo bức tranh HNM Để mô tả bức tranh HN ngày nay, lại là những nét phác thảo “nhát gừng”, làm nhức mắt người xem. HN là: Là khoảng 700 cái hồ tự nhiên hồi đầu thế kỷ 20 nay đã bị ám sát gần hết, chỉ còn khoảng 44 chiếc, và đang biến thành ao. Là mấy dòng sông đẹp đựơc biến thành cống rãnh. Là phố cũ HN bẩn thỉu, nhếch nhác được tự an ủi thành phố cổ và mấy chục năm nay vẫn chưa biết nên bảo tồn và tôn tạo thế nào. Là hầu hết di tích gặp nạn trùng tu tôn tạo mà hồn lìa khỏi xác. Là một nền học thuật và văn hoá phong tục lễ nhạc dựa vào chữ Hán và văn hoá Trung hoa làm gốc và ngày nay nhiều người còn nô lệ tới mức khấn khứa cầu xin van vái cũng phải bằng chữ nho (chữ Hán), trong khi 99,9% thần phật ông bà cha mẹ tổ tiên ngự ở trên kia không biết lấy một chữ Hán bẻ đôi. HN là nơi nhiều người tham nhũng nhất nước. HN là nơi tỉ lệ người cân gian đong thiếu, trộm ngày cướp ngày, nói năng tục tĩu và nói xấu sau lưng nhau nhiều nhất nước và văn hoá thô tục được người ta sử dụng như một cách khẳng định cá tính và ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Những đường phố thơ mộng của HN xưa, nay là những dòng sông người ăn mặc xấu xí bởi áo chống nóng khăn bịt mặt vì quá ô nhiễm, như cả một thế giới khủng bố, một thế giới nặc danh, đi lại hết đờ đẫn là náo loạn trong tiếng động cơ xe rền vang và tiếng còi xé tai. Xê dịch như một đàn kiến đã bị tước bỏ lý trí. Những công trình chào mừng ngàn năm Thăng Long chủ yếu mang tính hình thức, chủ yếu đầu tư vào lễ hội và công trình xây dựng tốn kém đáng ngờ, mang tính đối phó ăn xổi ở thì... Cái đẹp và văn hiến Thăng Long, đương nhiên chưa phải đã chết. Nhưng khi cái đẹp chỉ còn rơi rớt đâu đó mà ngoi ngóp ngộp thở trong cái xấu, cái thô lậu, con người vin vào đâu để đảm bảo cho sáng tạo tương lai? Văn hiến là gì? Có thể có nhiều cách hiểu. Nhưng không thể quan niệm văn hiến như một mớ thư tịch, khuôn phép, trước tác ...đã định hình và được đóng thành khuôn mẫu. Văn hiến được xây dựng, bồi đắp từ các cư dân trong cộng đồng, luôn vận động và thích ứng để cuối cùng, phục vụ cho nền văn minh và chất lượng sống của con người. Về đại thể, văn hiến chỉ trạng thái phát triển của mỗi dân tộc. trạng thái đó bộc lộ khả năng khắc phục tình trạng sơ khai, thấp kém lạc hậu để vươn tới sự tiến bộ, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống tinh thần. Văn hiến còn bao gồm một nội dung hết sức quan trọng khác, là phải tạo môi trường đào tạo được những con người ưu tú cả về trí tuệ, phẩm cách, tài năng cho đất nước. Một khi nền văn hiến suy vi, đương nhiên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của con người. Ám sát văn hiến, cũng có nghĩa là một nền văn minh và tương lai bị ám sát. Lâu nay, người lạc quan nhất thì cũng nhận thấy rằng nền văn hiến HN đã suy vi tột độ. Thì phải có thủ phạm chứ. Nếu nhận diện không trúng thủ phạm, lại tự an ủi bằng cách đổ quanh cho nhau, thì nền văn hiến lại cứ bị “ám sát” tiếp. Ai?
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 4:47:03 GMT 9
Dân nhập cư đã “ám sát” văn hiến?
Một số người HN thường hay nói rằng, chúng tôi vốn thanh lịch lắm, chúng tôi làm nên nền văn hiến Thăng Long, chẳng qua dân nhập cư tứ chiếng đến đây bê nguyên những thói hư tật xấu của họ về làm xấu mặt thủ đô đấy thôi.
Có đúng không? Phải chăng người HN đã bắt được thủ phạm ám sát nền văn hiến Thăng Long và chỉ đích danh: dân nhập cư!
Vậy, dân nhập cư là ai?
Quan niệm về dân nhập cư càng ngày càng mở rộng nội hàm. Dân nhập cư bao gồm những người đến từ các địa phương trong cả nước và cả đến từ các quốc gia khác trên thế giới.
Ta hãy xét xem, có phải dân nhập cư là thủ phạm ám sát nền văn hiến không?
HN, vốn xưa là Đại La thành, dân cư thưa thớt, đánh cá buôn bán nhỏ và cày ruộng. HN năm 2010 dân số khoảng 5 triệu người. Và trong một tương lai gần, HN là thủ đô có tới khoảng 10 triệu dân.
Ta có thể nhìn rõ trong dân số hùng hậu đó, tỉ lệ cơ bản là người nhập cư.
Về cội nguồn, HN từ trước đến nay, là TP của người nhập cư. Ngay cả Lý Thái Tổ – tức Lý Công Uẩn – người sáng lập kinh thành Thăng Long lại càng đích thị là dân nghèo nông thôn từ ngôi làng heo hút Cổ Pháp, Tiên Sơn, Hà Bắc nhập cư về kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) rồi về HN. Đến Hồ Chí Minh – người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà – cũng là dân nhập cư. Và hiện nay, tỉ lệ những người nhập cư chiếm phần lớn trong hầu khắp các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền VN, chưa kể các tầng lớp văn nghệ sĩ và các nhà khoa học, nhà kinh doanh...
Chính bản thân người nhập cư, bằng mồ hôi nước mắt và máu của mình, đã làm nên HN, từ thuở bán khai, từ thuở Đại La thành, rồi cho đến khi Lý Thái tổ dời đô từ Kinh Hoa Lư về, năm 1010, đặt tên là Thăng Long thành.
Bởi thế, sẽ thậm vô lý, nếu quan niệm HN tách rời khỏi những người nhập cư và ngược lại.
HN là Kẻ chợ. Cội nguồn HN là Tứ chiếng. Động mạch nuôi sống kinh đô là hợp lưu của những dòng máu tứ chiếng. Bản chất của kinh đô là dung nạp. Là cái miệng phễu tham lam không đáy thu hút nhân tài tứ chiếng đem về xây dựng, tôn tạo nên nền kinh tế, nền văn hiến và cuối cùng là để tạo nên nền văn minh Thủ đô, tạo nên một kinh thành ánh sáng về mọi mặt, để làm đầu tàu cho cả nước đi tới tương lai tươi sáng.
Nếu một thủ đô, một thành phố, ngay cả một vùng nông thôn, mà không thu hút được người nhập cư, để thu hút tài năng, kinh nghiệm, sức sáng tạo của tứ xứ về làm giàu và làm vui cho vùng đất mình, thì đó là một xứ sở tù đọng và rất dễ chết yểu do bế quan toả cảng và tăm tối.
Đất thủ đô thời phong kiến là nơi tổ chức những cuộc thi đình và nhiều cuộc thi khác để chọn người tài. Nơi đây trong nhiều năm là cơ hội rồng mây của những hàn sĩ thức chảy máu mắt, dùng ánh sáng đom đóm để học hành tu luyện. Qua lối mở của cách quản lý nhân khẩu và cư trú, qua những cuộc sát hạch ngặt nghèo, người nghèo có năng lực cũng được ngang bằng cơ hội với những công tử, những phú hào trong việc được vua giao những trọng trách gánh vác sơn hà xã tắc và trở nên sang quý bằng kiến thức và ý chí.
Tiếp nối truyền thống đó, đất thủ đô trong chừng ấy năm cho đến ngày nay, đã vớt vát được nhiều học sinh nghèo thực sự có năng lực và bền bỉ. Bằng thi cử, bằng nỗ lực, họ đã có nhiều cơ hội gia nhập vào đội ngũ trí thức và tầng lớp kinh doanh, tầng lớp lao động công nghệ cao, làm nên dưỡng chất nuôi sống HN cả về tinh thần và vật chất.
Cần phải phân định rõ rằng, nếu nền văn hiến HN có bị suy vi, hay những tình trạng tồi tệ đó xảy ra ở bất kỳ nơi đâu tại VN và trên thế giới, thì hoàn toàn không chỉ do dân nhập cư, cũng không chỉ do dân sở tại( cần nói rõ là dân HN gốc là dân nhập cư sớm hơn so với dân HN mới nhập cư gần đây). Đổ tội cho dân nhập cư là đổ tội cho chính mình. Đó là một nhầm lẫn khiến cho tình trạng càng thêm thảm hại.
Và do nhầm lẫn về nhận định “thủ phạm”, nên gần đây, có một số biện pháp từ phía những người có trách nhiệm thể hiện một thái độ phân biệt đối xử rất rõ ràng với người nhập cư HN.
Cụ Lý Công Uẩn bị từ chối nhập cư
UBND TP HN hiện có dự án Luật Thủ Đô (DL) trình Quốc hội (đã soạn thảo đến lần thứ 4 – dự dịnh ban hành nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long nhưng có nhiều ý kiến phản đối nên tạm hoãn, dự định thông qua và công bố năm 2010). Trong bản DL có nhiều vấn đề bất cập.
Thứ nhất là, có cần phải ban hành luật Thủ Đô không?
Trước hết, ban hành Luật Thủ Đô là không hợp hiến. Theo ông Trần Thế Vượng, Trưởng Ban dân nguyện của Quốc hội, Hiến pháp không có quy định riêng về Thủ đô. Ý kiến của nhiều luật gia và đại biểu Quốc hội là có một số điều DL trái với Hiến pháp. Chẳng hạn quy định cho HĐND TP HN quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong khi Hiến pháp quy định chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Rõ ràng, nếu ban hành Luật thủ đô thì các thành phố khác cũng có cớ để xin ban hành luật riêng cho các tỉnh, thành phố của họ. Chẳng hạn, TP Sài Gòn, là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, đóng góp phần lớn GDP, họ có lý do để đề nghị ban hành Luật TP đặc thù? Điều này sẽ dẫn tới tình trạng khu biệt và cát cứ quyền lực, dễ bị lạm dụng.
Theo công bố của Bộ Tư pháp, trên thế giới rất hiếm nước có luật thủ đô, chỉ trừ một số nước theo mô hình Liên bang như Canađa, Ấn Độ... Cho một thủ đô, chỉ cần quy chế là đủ.
Thứ hai, DL có những quy định ngăn trở quyền tự do đi lại và tự do cư trú của công dân như điều 68, điều 55 của Hiến pháp và điều 5 Bộ luật lao động VN. Bên cạnh đó, những quy định này cũng vi phạm điều 23 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá mà VN đã gia nhập và ký cam kết thực hiện từ nhiều năm nay.
Theo DL, người nhập cư phải tạm trú liên tục 5 năm mới có hy vọng được chấp nhận thường trú HN, trong khi Luật cư trú quy định một năm là đủ điều kiện. Chưa kể một bất công khác: khoản 2 điều 19 dự thảo quy định về điều kiện làm việc tại HN phải có Giấy phép lao động do Sở Thương binh Xã hội của thành phố cấp. Đây là một điều khoản gây kinh hoàng cho những công dân đã thấm thía thế nào là thủ tục hành chính và nạn giấy tờ ở HN nói riêng và VN nói chung!
Trên thực tế, việc phân biệt đối xử ấy cũng sẽ không ngăn cản được dòng công dân nhập cư về HN do điều chỉnh tự nhiên của chuyển dịch cơ học dân số. Dẫu cho số người này sẽ họ bị bần cùng hoá do bị phân biệt đối xử, con cái của họ bị gạt ra ngoài lề xã hội không được vào các trường học, bệnh viện, các loại bảo hiểm và phúc lợi xã hội khác như đã từng xảy ra... Như thế, chẳng những không kiểm soát được mà còn là ngược đãi người lao động lương thiện và làm cho bộ mặt thủ đô càng nhếch nhác hơn.
Xét về phương diện hợp hiến cũng như hợp tình hợp lý, việc ban hành Luật thủ đô là không cần thiết, là xác định sai thủ phạm “ám sát” nền văn hiến và văn minh HN, gây phân biệt đối xử, nạn giấy tờ, nạn sách nhiễu, ảnh hưởng đến quyền con người và hạn chế sự phát triển tự nhiên của Thủ đô.
Để xây dựng một Thủ đô HN có văn hiến và văn minh, không thể dùng các biện pháp hành chính thô bạo, hẹp hòi, những luật lệ riêng biệt để hạn chế người nhập cư và ngăn trở cơ hội thi thố tài năng, cơ hội việc làm của những người nghèo trong cả nước.
Hầu hết các đế vương khởi nghiệp tại Việt Nam đều xuất thân từ con nhà nghèo và từ những miền xa tới, do tài năng mà “nhập cư” về kinh đô. Giả sử thời đó, các đế chế, hoặc những vị cai quản đất Hoa Lư, đất Thăng Long hay đất Huế...mà có chủ trương hạn chế người nghèo nhập cư như bây giờ, thì lịch sử VN đã không là những trang sử anh hùng quật cường như thế này.
Một so sánh có thể khập khiễng, nhưng không phải không có cớ để liên tưởng, dù là một giả tưởng hài hước. Nếu hồi cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11, tại kinh đô Hoa Lư, thời Lê Ngoạ Triều – vị vua nổi tiếng tàn ác nhất trong lịch sử VN – mà áp dụng những điều khoản hạn chế người nhập cư tương tự dự luật Thủ đô bây giờ, thì Lý Công Uẩn sẽ bị trục xuất ra khỏi nội đô Hoa Lư. Không có cơ hội Lý Công Uẩn vào kinh, lĩnh chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, có dịp lên ngôi vua khi Lê Ngoạ Triều chết. Thế càng không có chuyện dời đô, sáng lập kinh thành Thăng Long vào mùa xuân 1010!
Máu và nước mắt cùng trí tuệ, tài năng của dân tứ xứ đã để lại, đã hoà nhập cùng người HN bản địa để làm nên kinh đô này từ bao đời. Phân biệt đối xử, bạc đãi họ bằng những quyết định hành chính vội vàng, vi hiến là xoá bỏ cơ may duy nhất còn lại của HN, và quan trọng hơn, xoá bỏ điều kiện sinh tồn cốt tử của đất Kẻ chợ này.
Vậy thủ phạm “ám sát” nền văn hiến là ai?
Về trình độ văn hoá mà nói, thì trình độ cư dân HN hiện nay cao hơn rất nhiều so với cái thời còn gọi là Tràng An. Thời đó dân HN nội đô còn lội bùn, răng đen mắt toét, nhiều người mù chữ. Cái lối “giấy rách giữ lề”, ăn mặc cử chỉ thanh lịch, chỉ xuất phát từ trong số rất ít các nhà nho, nhà quan lại...
Số lượng người này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thế nhưng ảnh hưởng của lề thói ấy lại có sức lan truyền lớn đến xã hội, khiến cho những người mù chữ nơi thôn quê cũng tự thấy thuyết phục bởi cái hay, cái đẹp mà làm theo.
Cái hay, cái đẹp trong văn hoá và lề thói không phải bao giờ cũng đi cùng với cái tiện lợi và điều kiện vật chất. Chẳng hạn như thói quen mặc áo dài (có thể là áo tứ thân với nữ, áo lương khăn xếp với nam...) khi đi ra cộng đồng. Thời ấy, người dân VN còn rất nghèo, nhiều khi cả mấy người trong nhà mới chung nhau may được một manh áo lành, mà công việc lao động thì rất lam lũ, nặng nhọc, đường sá thì lẩy lội. Còn ngày nay, khi vải vóc và điều kiện mua sắm, điều kiện lao động, giao thông đi lại được cải thiện lên hàng vài chục lần, thì người HN và nhiều nơi trong cả nước lại ăn mặc xốc xếch, đồ bộ quăn queo, quần đùi áo may ô đi ra đường và đua nhau nói tục chửi bậy, đua nhau côn đồ lừa lọc.
Như thế, vấn đề nằm ở đâu?
Để trả lời câu hỏi này, cần những công trình khảo cứu nghiêm túc của các nhà chuyên môn để đề ra những biện pháp hữu hiệu cứu vãn.
Một điều mà mọi người đều thừa nhận, là chính những người có vị thế, có trách nhiệm, các chức sắc, các nhà quản lý văn hoá, các văn nghệ sĩ, trí thức trong xã hội, trước hết, phải có trách nhiệm trở thành những hình mẫu đẹp, thanh lịch, có trí tuệ, phẩm cách, ứng xử đẹp... Sự tuỳ tiện, tham nhũng, thiếu thẩm mỹ, kém văn hoá, tính vật chất thực dụng thô thiển ở nhiều người trong đội ngũ tầng lớp trên này đã khiến dân chúng tuyệt vọng, thậm chí còn muốn phá bĩnh như một cách đối phó hoặc xả bớt nỗi tức giận.
Cần phải thừa nhận một thực tế rằng, thủ phạm của việc ám sát văn hiến, trước hết nằm ở chính những người có trách nhiệm.Với cây quyền trượng trong tay, những người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến hoặc nhanh chóng ám sát văn hiến.
Để cứu vãn: cần cam kết một Khế ước văn minh
Với thời đại mang vận tốc chóng mặt như hiện nay, nếu để tính dã thú tự do khuynh loát, thì không khác gì ta mua chiếc máy bay phản lực rồi đặt một dã thú lên ghế điều khiển bay. Dã thú di chuyển với tốc độ máy bay phản lực, tác hại là khôn lường.
Nếu những người quản lý xã hội không kiềm chế được tính dã thú, thì mọi nỗ lực của cộng đồng sẽ bị vô hiệu hoá và mỗi ngày qua là lùi một bước trở về thời dã man. J.J.Rouseau, nhà văn, nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng ảnh hưởng đến cuộc Cách mạng Pháp 1789, ngay từ năm 1762 đã cay đắng mà viết rằng “Những tâm hồn thấp kém không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ thì nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do...”.
Một đất nước muốn phát triển, đạt đến mục tiêu hạnh phúc cho mỗi người, thì đất nước ấy không thể thiếu những nhà lãnh đạo và công dân có tri thức, có lương tri, có lòng cao thượng và văn minh. Sự tăm tối và giáo điều, sự nô lệ trong hành xử và tư tưởng, nhất là trong thời đại ngày nay, chắc chắn sẽ đưa đến thảm hoạ.
Nhiều kinh thành sở dĩ trở thành Kinh đô ánh sáng, chính vì trước hết, bao nhiêu thế hệ các điền chủ, các chức sắc, các nhà quý tộc và các tổng thống, các Thủ tướng, lãnh đạo chính phủ và các địa phương, thành phố sau này đã biết chịu học hành, rèn luyện, học cách thưởng thức cái đẹp, trau dồi nhân cách và thẩm mỹ, bổ sung và cập nhật kiến thức về văn hoá, khoa học,văn học nghệ thuật.
Trong cuộc đời của họ, nhiều người đã đầu tư phần lớn tài sản cho các công trình kiến trúc, nghệ thuật, bảo trợ sáng tác cho các hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà khoa học… có thực tài và sau đó, những công trình này lập tức trở thành tài sản quốc gia.
Họ hiểu rất rõ một chân lý: sự sang trọng và quý phái, trước hết và cuối cùng, chỉ là sự sang trọng về văn hoá và văn minh chứ không nằm ở tiền bạc. Trọc phú là một tình trạng đáng xấu hổ. Paris hẳn đã khác nếu các nhà chức sắc của Pháp chỉ quan tâm đến việc tiệc tùng, vui chơi giải trí, ăn nhậu hưởng lạc, làm nô lệ cho tiền bạc và không hiểu biết gì về văn học nghệ thuật...
Rõ ràng, trình độ văn hiến và văn minh của một địa phương nào đó tự nó quảng cáo hoặc tố cáo, tự nó phơi bày tầm nhìn, khả năng lường trước vấn đề, trình độ, trách nhiệm và thẩm mỹ của những chức sắc - những người có trách nhiệm - giai cấp lãnh đạo - tầng lớp trên của địa phương đó. Thực trạng ấy, dẫu có dùng các phương tiện vật chất để che đậy cũng không có tác dụng và càng che đậy chỉ càng thảm hại mà thôi.
Trụ đỡ cho văn hiến, hạnh phúc cho mỗi công dân cũng như của mỗi quốc gia, chính là mọi người phải cam kết một Khế ước văn minh và hành động. Trước hết từ phía những nhà quản lý rồi tới các công dân.
Trong quá khứ, cha ông ta rất cần cù lao động, nhưng đã để lỡ cơ hội đổi mới và phát triển để theo kịp đà tiến của những nước như Nhật Bản. Nhật Bản đã từ một nước kiệt quệ, phong kiến bảo thủ, lệ thuộc giáo lý Khổng Tử và Trung Quốc, trở nên một cường quốc đứng thứ ba thế giới về kinh tế, xã hội cũng như các phát minh sáng tạo, tự do dân chủ và phúc lợi cho người dân. Cũng nhờ thế, Nhật Bản là nơi có nền văn hiến bền vững thuộc loại nhất nhì thế giới. Có được điều đó là nhờ tinh thần khai sáng quyết liệt, mang tên “Thoát Á luận” mà Nhật Bản đã tận dụng rất hiệu quả trong những năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt tinh thần khai sáng này được hưởng ứng và nhân rộng trong giới trí thức và văn nghệ sĩ Nhật Bản, được sự thực hiện mạnh mẽ của vua Minh Trị.
Như thế, nhờ những cam kết văn minh, nhìn thẳng vào thực trạng của chính mình và nhận thức rõ những điều kiện và thách thức của thời đại mà Nhật Bản đã thoát khỏi cái vỏ chật hẹp, vươn mình lớn dậy thành người khổng lồ. Cũng chỉ cần một khởi đầu quyết liệt khai sáng như vậy, cả trăm năm nay, Nhật Bản đã vững bước tiến trên con đường phát triển, mang vận tốc nằm trong tốp các nước tiền phong nhất của thời đại.
Trong khi đó, rất nhiều nước trong phần còn lại của thế giới, cho đến nay, vẫn tiếp tục trong mớ bòng bong tự mãn của mình, chưa thôi bị giam hãm trong những chiếc “túi da” chật hẹp, luôn sợ hãi và chỉ trích kẻ khác chỉ để cố thủ, chỉ loay hoay cố gắng trong việc bắt chước, mô phỏng từ văn hoá tới công nghệ, bán sức lao động rẻ mạt hoặc cho thuê, bán đất đai tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Càng sợ hãi càng cố thủ, những đất nước phát triển theo kiểu ấy càng dễ mất danh dự, thời cơ, biến thành bãi thải công nghệ của các nước phát triển, hoặc bằng mọi giá cung cấp hàng hoá và sức lao động giá rẻ nhưng kém phẩm chất, mang tính lừa đảo, cho đến lúc bị thế giới tẩy chay.
Việt Nam đang cần một sự khai sáng quyết liệt. Một cam kết thực hiện Khế ước văn minh. Nếu không bắt đầu từ bây giờ, sẽ là quá muộn và tất cả chúng ta đều bị tổn thương, đều bị lụi tàn bởi tình trạng dã thú này, kể cả những người ở tầng lớp có quyền lực lớn.
Có những vận hội mới. Nếu biết tận dụng, sẽ vãn hồi nền văn hiến, đem lại văn minh, hạnh phúc và danh dự cho người Việt Nam.
Võ Thị Hảo
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 4:50:00 GMT 9
Lý Công Uẩn dời đô sang Tàu? Ngô Nhân Dụng Ðại lễ Ngàn Năm Thăng Long sắp khai mạc chính thức. Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản cho mở hội đúng ngày quốc khánh của Trung Cộng, với một bộ phim dài về Lý Thái Tổ trong đó ông vua khai sáng nhà Lý mặc y phục kiểu Tàu, bảnh bao như tài tử Hồng Kông. Bộ phim thực hiện ở bên Tàu, các vai phụ tuyển toàn dân Trung Quốc, phim do người Tàu sửa chữa kịch bản và dàn dựng, đạo diễn toàn bộ! Người ta không hiểu nổi tại sao quý quan cộng sản lại chọn bắt đầu kỷ niệm 1000 năm Thăng Long vào ngày quốc khánh Trung Cộng. Lý Công Uẩn đã chính thức dời đô trong tháng 7 âm lịch, chứ không phải đầu tháng 10. Nhà toán học Ngô Bảo Châu tháng 5 năm ngoái (2009) đã viết một bức thư gửi cho các đại biểu Quốc Hội Việt Nam, về chuyện cho Trung Quốc khai thác mỏ bô xít ở nước ta. Trong thư có đoạn: “Trung Quốc thực hiện chính sách ‘thực dân mới’... Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây: quan hệ hữu cơ vốn có của văn hoá Trung Quốc với văn hoá Việt Nam trở thành đô hộ văn hoá. Ðất nước, con người, văn hoá Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt thòi, còn bản sắc ta thì tồn tại được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hoá, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin quý vị lưu ý..”. Những nhận định của ông Ngô Bảo Châu về vấn đề “quan hệ hữu cơ vốn có” giữa Việt Nam và Trung Quốc và việc “giữ gìn bản sắc dân tộc” đang là một chuyện thời sự nhân vụ Lý Công Uẩn sang Tàu đóng phim. Thế kỷ 18, ông Lê Quýnh từ chối không chịu kết tóc bím và bỏ đồ Việt Nam để mặc y phục Tàu, dù chịu áp lực của nhà Thanh. Ông nói: “Ðầu tôi có thể chặt nhưng tóc tôi không thể đổi; da tôi lột ra được nhưng tôi không đổi áo”. Ngày nay, cộng sản Việt Nam đưa vua Lý sang Tàu mặc y phục, mũ mão giống y như tài tử đóng vai Tần Thuỷ Hoàng! Một dân tộc mất quặng mỏ, mất rừng, mất gỗ và mất môi trường sống trong lành cũng không nguy hiểm bằng mất cả linh hồn, khi bản sắc dân mình không còn nữa. Trước khi coi đầy đủ cuốn phim Lý Công Uẩn này, cả nước đã uất lên vì giận. Ðây là âm mưu cho Lý Công Uẩn dời đô một lần nữa, từ Việt Nam sang Trung Quốc! Một nhà giáo trong nước phê bình: “Từ trang phục cho đến cảnh quan, từ áo mão cho đến búi tóc, hình ảnh toát ra cho ta thấy: Ðây là một phim Trung Quốc; chẳng khác gì những phim lịch sử Trung Quốc khác mà đông đảo người Việt Nam quen xem”. Trên Blog Gốc Sậy, trích dẫn nhận xét của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên: “Ðây là một bộ phim Trung Quốc, không có gì để tranh cãi. Ðạo diễn Trung Quốc, biên kịch Trung Quốc”. Một độc giả góp ý trong blog: “Họ đã bôi nhọ lịch sử nước ta và coi thường dân trí” của người Việt Nam! Có người tố cáo ông Trịnh Văn Sơn, một người bỏ tiền làm phim, ngoài đời “rất tôn sùng Trung Quốc, toàn chê Việt Nam thôi”. Tên ba bố con ông ghép lại thành tên Tôn Trung Sơn, quốc phụ nước Tàu từ năm 1911. Tên công ty của ông Sơn là “Công ty Cổ phần Truyền thông Trường Thành”. Hình logo của công ty này là cảnh “Ðông phương hồng, mặt trời lên” trên ngọn núi. Những lời tố giác này cũng hơi quá đáng. Bao nhiêu lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã lấy tên Trung Hoa và đề cao thành tích của người Trung Hoa. Ông Ðặng Xuân Khu chẳng hạn. Việc ông đề cao cuộc Vạn Lý Trường Chinh khi chọn bí danh có khác gì việc ông Sơn chọn tên Trường Thành? Những người làm cuốn phim Lý Công Uẩn đã bênh vực các quan chức trong đảng, biện hộ rằng việc thực hiện cuốn phim này hoàn toàn là do sáng kiến tư nhân, đảng và nhà nước không can dự. Nếu cuốn phim có vẻ “Tàu” quá thì những người bỏ tiền làm phim chịu trách nhiệm, còn đảng cộng sản vô can. Các bộ trưởng, phó thủ tướng chỉ ủng hộ đem phim lên chiếu ti vi sau khi nhận được quá cáp mà thôi! Nhưng nếu điều này là sự thật thì cũng chính là mối nguy hiểm lớn hơn nữa! Người ta tự động ỷ lại vào Trung Quốc không cần Bộ Chính Trị yêu cầu. Vì người ta đã tập nhiễm thói quen ỷ lại, hướng về Bắc Kinh từ thời 60 năm nay rồi! Khi các nhà kinh doanh văn hoá tính làm một cuốn phim biểu hiện tinh thần tự chủ của dân tộc Việt Nam, mà họ chấp nhận giao phó cuốn phim đó cho người Trung Hoa làm hộ một cách không dè dặt, không do dự, thì trong đầu óc họ nghĩ ngợi thế nào? Họ phải quen sống với một nếp suy nghĩ nào đó, thì mới tự nhiên, không ngần ngại, nhờ ngay các nhà đạo diễn, những nhà viết kịch bản Trung Hoa làm giúp việc biểu hiện tinh thần dân tộc Việt Nam! Phải chăng họ coi người Trung Hoa và người Việt cũng vậy, không có gì khác nhau cả? Phải chăng vì họ đã nghe quen những câu hát “Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông” từ bao nhiêu năm nay rồi? Phải chăng vì họ vẫn thuộc lòng những câu thơ Hồ Chí Minh “Mối tình thắm thiết Việt Nam-Hoa; Vừa là đồng chí vừa là anh em” đọc khi tiễn đưa Lưu Thiếu Kỳ? (Hồ Chí Minh Toàn Tập, cuốn số 11, từ trang 64 đến trang 76). Ðã là đồng chí lại là anh em thì còn lo gì mà không nhờ “ông anh đồng chí” làm phim hộ? Mấy thế hệ người Việt Nam đã được huấn luyện từ khi là học sinh mẫu giáo là phải học tập Mao chủ tịch, noi gương Mao chủ tịch, ghi nhớ công ơn Mao chủ tịch, vân vân. Cái tinh thần đó đã được thấm nhuần trong các đồng chí như Trịnh Văn Sơn. Trên mạng Tuyên Quang Online, một bạn trẻ tên là Bạch Văn Cơ viết, từ năm 2007, xem lại lịch sử các phim ảnh thịnh hành, anh thấy: “Ðầu những năm 90: điện ảnh Ðài Loan. Giữa những năm 90: điện ảnh Hồng Kông, Hàn Quốc. Từ đó đến nay: điện ảnh Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Ðài Loan cùng ‘tổng tấn công’”. Khán giả Việt Nam có coi phim Ðài Loan, Nam Hàn, Hồng Kông cũng chỉ để giải trí, có thể vô hại. Nhưng khi một nước Việt Nam muốn làm cuốn phim kỷ niệm một năm đại lễ của dân tộc, mà lại phải đi cầu viện năng khiếu nghệ thuật của người Trung Quốc, giao khoán cho họ kể chuyện tổ tiên mình, thì đó là quốc sỉ. Nó cho thấy tinh thần nô lệ về văn hoá đã nhiễm vào đầu óc nhiều người quá rồi, đã thành một phản xạ, một tập quán tự nhiên. Từ khi Hồ Chí Minh tái lập đảng Cộng Sản năm 1950-51, ông nhập cảng tư tưởng Mao Trạch Ðông, cho vào cương lĩnh của Ðảng Lao Ðộng. Quá trình nô lệ văn hoá bắt đầu. Ðây là một giai đoạn nô lệ mới, khác với thời kỳ 1000 năm từ thế kỷ thứ nhất khi Mã Viện sang chiếm nước ta, vì do một đảng lãnh đạo nước Việt Nam tự nguyện theo người Hán. Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, còn Hồ Chí Minh dời bộ óc người Việt Nam sang bên Tàu, để được nhuộm đỏ theo tư tưởng Mao! Câu thơ Chế Lan Viên viết: “Bác Mao không ở đâu xa - Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” được lưu truyền, cho thấy Hồ Chí Minh rất hãnh diện được ví như một ông “Mao nội hoá”, một ông “Mao con”. Nếu không đồng ý với Chế Lan Viên thì chắc Hồ đã cấm không cho phổ biến hai câu thơ này! Mối hoạ đồng hoá từ giữa thế kỷ 20 bắt đầu với ông Hồ, người đã không ngần ngại tuyên bố không cần viết sách nào về chủ nghĩa Mác nữa, vì tất cả những gì cần nói đã có bác Mao viết hết rồi! Nhưng “Tư tưởng Mao Trạch Ðông” là gì? Ðó không phải chỉ là việc khai thác và áp dụng lý thuyết Mác xít mà thôi. Ðó chính là một sản phẩm của nền văn hoá độc đáo Hán tộc. Như Ngô Bảo Châu nhận định: “Ðất nước, con người, văn hoá Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn”, thì ta sẽ mất hết bản sắc của mình. Nói vậy chưa đủ. Phải nói: Nếu rập khuôn theo mô hình Mao chủ tịch thì người Việt Nam sẽ tự tiêu diệt bản sắc của nước mình. Vì Mao là một sản phẩm của văn hoá người Hán. Hai dân tộc Việt và Hán sống trong những điều kiện địa lý, lịch sử khác nhau, các kinh nghiệm, truyền thống văn hoá khác nhau nhiều lắm. Họ không thể bắt chước mình mà mình cũng không thể theo họ được. Tư tưởng chính trị Trung Hoa, mà Mao Trạch Ðông là một đại biểu sáng chói, thích hợp với một chế độ cường quyền tập trung, áp dụng trên một quốc gia quá rộng lớn và quá đông dân, so với nước Việt Nam ta. Việt Nam sống trên một “bán đảo” giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Ðộ. Từ 3000 năm trước dân mình lại sớm hoà nhập với nền văn minh của các sắc dân Nam Á và Nam Ðảo. Người Việt Nam có thể chấp nhận quyền bình đẳng Nam Nữ vì ảnh hưởng văn minh Nam Ðảo; có thể bao dung chế độ xã thôn tự trị; sống với nhau vừa tình vừa lý, vua quan và dân chúng gần gũi nhau. Người Trung Hoa không thể “linh động”, “xuề xoà” hoặc “chín bỏ làm mười” như vậy. Thời Nguyễn Ánh đã lầm lớn, khi Nguyễn Văn Thành sao chép bộ luật nhà Thanh soạn thành luật Gia Long, áp dụng ở nước ta. Những luật lệ đó khắc nghiệt, coi khinh phụ nữ, doạ nạt, đàn áp dân, để củng cố chế độ tập trung quyền hành của người Mãn trên nước Trung Hoa. Áp dụng lối cư xử đó vào Việt Nam, khiến dân chúng oán thán, nhất là dân Bắc Thành, nơi trước đó chỉ áp dụng đạo luật Hồng Ðức nhà Lê. Cho nên, hơn nửa thế kỷ sau khi người Pháp sang xâm chiếm, dân ngoài Bắc đã hờ hững không ai muốn chết để bảo vệ vua quan nhà Nguyễn. Một tên “gác dan tu viện” như Nguyễn Văn Phụng được các cố đạo Pháp đưa từ Ma Cao về, đổi tên là Lê Văn Phụng, cũng thu hút được nhiều người theo, vì dân đang chán chế độ và còn tưởng nhớ nhà Lê. Việc Hồ Chí Minh nhập cảng tư tưởng Mao Trạch Ðông vào dùng ở nước ta, ghi trong cương lĩnh đảng Lao Ðộng từ năm 1950, cũng sai lầm y như luật Gia Long vậy. Nó bắt người Việt Nam sống như lối người Tàu, gây căm thù, chia rẽ dân tộc, đối xử với nhau theo đường lối của các cố vấn Trung Quốc. Những cuốn sách gối đầu giường của Mao không phải là sách của Karl Marx. Mao thường mang bên mình bộ Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang, bộ lịch sử các triều đại Trung Hoa diễn tả theo quan điểm Tống Nho tôn quân quyền tuyệt đối. Tư tưởng Mao Trạch Ðông thích hợp với nước Trung Hoa lúc đó đang chờ một bạo chúa ra tay “bình thiên hạ” bằng cách “sát nhất nhân vạn nhân cụ” (giết một mạng người để cho vạn kẻ khác phải sợ). Nhưng chính sách, đường lối đó hoàn toàn trái ngược với phong tục, tập quán, nền nếp văn hoá của người Việt Nam. Hậu quả là sau khi học tập, bắt chước theo Mao Trạch Ðông người Việt sẽ bỏ mất bản sắc dân Việt. Cảnh nô lệ văn hoá bắt nguồn từ đó. Ngô Nhân Dụng
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 7:00:40 GMT 9
Hà Sĩ Phu Vừa nội xâm, vừa ngoại xâm - Phải làm gì trước? Bài 1: Về nạn ngoại xâm mới Trong khi báo chí đang nói rất nhiều về nạn NỘI XÂM, phải chống nội xâm để cứu nước thì nạn NGOẠI XÂM, sau nhiều năm nung nấu, đã hiện diện ngay giữa lòng đất nước chúng ta. Mất nước nhãn tiền. Việc mất trắng hàng loạt cao điểm quân sự trên đất liền, mất hai quần đảo và kèm theo là một vùng hải phận bao la chẳng những là mất lãnh thổ và tài nguyên mà còn đẩy Việt nam vào tư thế nhục nhã của một nước chư hầu mất khả năng tự vệ và họ bóp là chết. [1] Nhưng hiệu quả còn lớn hơn nữa của hành động thách thức rất côn đồ ấy là hiệu quả làm nhục, từ đó chúng ta sẽ mất hết sức mạnh. Nó chẳng những là cái tát vào mặt cái danh xưng Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, vào một “quân đội nhân dân anh hùng đã đánh thắng mấy đế quốc to” (của một nước tự nhận là cường quốc quân sự), vào mặt 84 triệu người Việt trong và ngoài nước mà còn xúc phạm cả lịch sử mấy nghìn năm chống ngoại xâm, làm cho tất cả những anh hùng dân tộc đã thành tên của các phố phường, trường học trên khắp đất nước này sẽ trở thành trơ trẽn. Cả câu nói của cụ Hồ (“Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”), và cái lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long sắp tới cũng chung số phận. Vậy mà cái nước bị làm nhục, cái đảng bị làm nhục không dám triệu tập đại sứ của họ, không có một hành động trả đũa ngoại giao tương xứng, không một đại diện có thẩm quyền nào dám lên tiếng, chỉ đẩy một nhân viên phát ngôn ra lặp lại mấy câu muôn thuở lấy lệ, và dặn dò cả dân tộc là đừng có nói điều gì thất thố ảnh hưởng đến 16 chữ “vàng” trong quan hệ tốt đẹp của hai nước! Không chịu để nhà nước dán băng keo vào miệng như một cháu nhỏ đáng thương trong trường mẫu giáo nọ, một số sinh viên, văn nghệ sĩ đã biểu tình ôn hoà phản đối hành vi xâm lược thì nhà nước lại đứng ra xin lỗi khéo kẻ xâm lược là “chúng tôi không cho phép họ biểu tình như thế”. Thật đáng khôi hài đến chảy nước mắt. Tự nhận “ra ngõ gặp anh hùng” mà các anh hùng cứ lúng búng trong xó bếp vậy sao? Phải đúc một dấu hỏi to bằng chừng nào trước toà nhà Quốc hội của chúng ta cho xứng đây? Được biết tình hình này, một số cựu chiến binh lão thành phẫn nộ: Họ dựa vào công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 chứ gì? Nếu cần dân Việt Nam sẽ xé toạc công hàm đó, gạch chéo lên công hàm đó: quyết định về lãnh thổ mà không có chuẩn y của quốc hội, không trưng cầu dân ý thì chẳng có giá trị gì, dân xé lúc nào cũng được. Dân chúng tôi không bị ràng buộc bởi công hàm đó! Nước là của dân, dân làm chủ nước, nước bị xâm phạm dân có quyền và có bổn phận phải lên tiếng. Lên tiếng qua các tổ chức và lên tiếng trực tiếp. Quyền yêu nước của mọi người dân là như nhau, dù là một dân thường hay ngài chủ tịch nước, không ai phải xin phép ai để yêu nước cả. Chỉ biểu tình ôn hoà chống kẻ xâm phạm bờ cõi mà phải xin phép mới được biểu tình thì đất nước ấy thật rất xứng đáng làm nô lệ, không có nhân dân anh hùng nào lại ứng xử như con giun như vậy. Dân Việt Nam quyết không chấp nhận sự nô lệ ấy. Kẻ xâm lược nghe được câu nhà nước khuyên dân như thế ắt cười thầm: Bọn này không đô hộ nó thì để làm gì? Bà mẹ Suốt là một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Khi ông Tố Hữu hỏi mẹ: Gan chi gan rứa mẹ nờ? thì mẹ trả lời : Mẹ rằng, cứu nước mình chờ chi ai? (“Mẹ Suốt”, thơ Tố Hữu) Đấy, chính người cộng sản khi yêu nước cũng nói như thế. Mẹ Suốt làm rất nhiều việc cụ thể mà còn tự động, không phải hỏi ai, thì sinh viên chưa làm gì, chỉ biểu lộ thái độ ôn hoà sao lại phải hỏi? Sợ mất lòng kẻ xâm lược ư? Việc biểu tình ấy chỉ hỗ trợ thêm sức mạnh cho nhà nước (nếu cùng một chí hướng chống quân xâm lược thì những sự lên tiếng ấy rõ ràng chỉ làm tăng sức mạnh cho nhau). Khi nói những điều này, ta không hề xúc phạm nhân dân Trung Quốc, không nhân dân nào được hỏi ý kiến một cách minh bạch lại đồng ý cho chính phủ mình đi xâm lược các nước láng giềng. Ta cần lên tiếng mạnh mẽ để nhân dân Trung Quốc biết được sự thật mà tránh bị kích động. Ta cũng không hề quên những giúp đỡ to lớn mà nhân dân Trung Quốc đã dành cho nhân dân Việt Nam, chỉ những người gây ra hành động sai trái mới chà đạp lên những kỷ niệm tốt đẹp giữa hai dân tộc. Kẻ ngang nhiên chiếm lãnh thổ nước khác để lập thành phố thì không e ngại gì, mà nạn nhân lại e phản đối sẽ làm “tổn hại đến quan hệ song phương” thì đấy là quan hệ gì vậy? Đất nước Trung Quốc đã từng chịu nỗi đau bị nạn ngoại xâm xâu xé, Người Trung Quốc ắt thuộc làm lòng câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (điều mình không muốn chớ làm cho người khác). Các nhà khoa học và chính trị Trung Quốc có thừa tư liệu lịch sử và pháp lý để biết đất nào của Việt Nam. Nhưng mình để họ khinh nên họ làm bừa (sách Trung Quốc đã có câu Kẻ tự trọng thì sẽ được người khác trọng, kẻ tự khinh thì sẽ bị người khác khinh), điều ấy khiến những người có trách nhiệm của Việt Nam không thể không xem lại tinh thần tự trọng dân tộc của mình đã có phần nào thiếu sót. Nhưng dân tộc Việt Nam thì quyết không để cho người ta khinh được. Chúng ta sẽ không quá khích, vì quá khích là phản ứng của kẻ yếu, nhưng phải công khai, đường hoàng cho xứng với các bậc anh hùng - anh thư thuở trước, hành động phải ngang hàng, phải tương xứng với tình hình và có hiệu quả. Người Việt có dám ngẩng mặt nhìn thế giới hay không là ở chỗ này chứ đừng quan tâm quá đến một chỉ số tăng trưởng GDP mà thực tế chưa đủ bù vào những món nợ lâu dài, bù cho tỷ lệ lạm phát và bù cho sự suy kiệt nhiều tiềm năng quý giá của dân tộc. 11-12-2007 2007 talawas [1]Trong mối nguy cơ cho an ninh tổ quốc còn phải lưu ý đến khối nước khổng lồ của đập thủy điện Sơn La, khi bị đánh phá sẽ cuốn phăng toàn bộ miền Bắc ra biển. Nhân sự của cấp lãnh đạo tối cao cũng là một cửa ngõ để tiến hành xâm lược. Người thực sự lo lắng đến an ninh quốc gia không thể không quan tâm đến những “quả bom” treo lơ lửng trên đầu ấy.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 7:02:04 GMT 9
Hà Sĩ Phu Vừa nội xâm, vừa ngoại xâm- phải làm gì trước? Bài 2: Dân tộc phải hồi sinh! 1. Mất nước là gì? Ngoại xâm là sự xâm lăng từ bên ngoài, nội xâm là sự xâm lăng từ bên trong, đối với một quốc gia. Nếu quốc gia ấy không chống cự nổi trước sự xâm lăng, dù từ bên ngoài hay từ bên trong, thì kết quả đều giống nhau: mất nước! Có người thắc mắc: trường hợp mất nước vào tay người trong nước là nghĩa làm sao? Xuất phát từ quan điểm Dân là gốc của nước thì ngày nay phải hiểu “mất nước” là tình trạng nhân dân bị mất quyền làm chủ đất nước của mình. Nước vẫn còn đó nhưng dân không làm chủ thì đấy là mất nước! Quyền làm chủ ấy bị mất vào tay người nước ngoài thì gọi là nạn ngoại xâm, mất vào tay kẻ thống trị độc tài trong nước thì đó là nạn nội xâm. Giặc ngoại xâm hay nội xâm đều cướp mất của dân quyền làm chủ đất nước, trong đó có quyền quan trọng nhất là quyền làm chủ đối với đất đai, lãnh thổ. Cả hai trường hợp đều do thiếu dân chủ, thiếu bình đẳng, hoặc là thiếu dân chủ giữa các quốc gia, hoặc do thiếu dân chủ trong nội bộ một nước. Trong thế giới văn minh ngày nay, đại bộ phận nhân dân đã được làm chủ đất nước của mình, song vẫn còn một số tập đoàn cầm quyền muốn tiếm đoạt quyền ấy của nhân dân mình hoặc nhân dân nước khác, làm cho nhân dân bị “mất nước từng phần”, chứ không còn khả năng gây ra sự “mất nước trọn gói” như ngày xưa nữa. 2. Chủ nghĩa đấu tranh giai cấp có hại cho dân tộc Chủ nghĩa tư bản đã và đang tồn tại ở rất nhiều quốc gia, nhưng chẳng bao giờ và chẳng ở đâu phải đưa ra khẩu hiệu “yêu chủ nghĩa tư bản là yêu nước”. Tại sao đến phiên “chủ nghĩa xã hội” lại phải đặt ra vấn đề “yêu chủ nghĩa xã hội là yêu nước”? Tại sao phải cố tình đồng nhất hai tình yêu ấy, cột chặt hai tình yêu ấy với nhau? Nguyên nhân rất đơn giản, vì trên thực tế hai thứ ấy không đồng nhất, không khớp được với nhau, nên phải dùng khẩu hiệu ấy để cố gò nó lại. Không ký sinh được vào chủ nghĩa yêu nước thì cái gọi là chủ nghĩa xã hội chẳng còn sức sống gì. Lúc đầu, sự kết hợp ấy có gây được sự cộng hưởng là do “… lúc ấy cái vòng kim cô Mác - Lê vẫn chỉ mới như một hào quang từ xa, chưa hiện hình tác quái…” [1] . Nhưng chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa đấu tranh giai cấp vốn tiềm tàng những mâu thuẫn cơ bản nên càng về sau càng xung đột. Đấu tranh giai giai cấp ắt phải tiến đến chuyên chính vô sản (Lenin). Trong khi chủ nghĩa yêu nước cần đoàn kết dân tộc và sự phát triển, thì chuyên chính vô sản vừa phá đoàn kết dân tộc vừa kìm hãm sự phát triển. Từ 1989, chuyên chính vô sản khắp nơi trên thế giới bị đào thải, gốc rễ là do nó chống lại chủ nghĩa yêu nước. Những nước cộng sản Đông Âu đuổi chủ nghĩa cộng sản đi chính là đuổi nội xâm để giành lại đất nước. Họ đuổi đi một chủ nghĩa có hại cho đoàn kết dân tộc và sự phát triển, chứ về con người họ càng đùm bọc nhau hơn, như dân Tây Đức và dân Đông Đức, không ai đánh đuổi ai cả. Chủ nghĩa đấu tranh giai cấp vốn coi những gì thuộc về giai cấp quan trọng hơn những gì thuộc về dân tộc, nên mới có xu hướng bỏ qua ranh giới dân tộc để “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Ảo tưởng này đã được các nước cộng sản lớn lợi dụng ngay, cái “gia đình các nước xã hội chủ nghĩa” đầy tính chất gia trưởng nên các anh cả chị hai lấn át các nước nhỏ để thu lợi. Về sau, khi quan điểm giai cấp đại đồng ấy bị phá sản, mọi nước trở về với chủ nghĩa yêu nước thì những “việc đã rồi” khó có thể đòi trở lại. Nếu không có cuộc chiến Bắc Nam về ý thức hệ và không có tư tưởng vô sản thì ông Phạm Văn Đồng chắc không dễ dàng nhường cho Trung Quốc quần đảo Hoàng Sa đâu. Khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Trung Quốc trở thành trụ cột xã hội chủ nghĩa duy nhất thì một lần nữa quan điểm cộng sản lại làm cho nước Việt Nam thiệt thòi nhiều trước một Trung Quốc vốn đầy tham vọng. “Nếu không vướng chủ nghĩa ấy tôi tin chắc rằng những người lãnh đạo Việt Nam ngày nay đã không chịu thế lép, mà cũng hiên ngang như Lý Thường Kiệt, như Quang Trung đã làm chứ không thua kém đâu. Chỉ bởi vì nếu không nương tựa vào Đại Hán thì một cái quái thai cộng sản, cô độc cỏn con, ngược dòng, đứng làm sao được trước dòng chảy văn minh toàn cầu này?... Mấy nghìn năm, Đại Hán đô hộ mãi vẫn không cướp được một tấc đất Việt Nam nào, ‘Nam quốc sơn hà’ một ly cũng không suy suyển. Bây giờ nhờ có cái gọi là chủ nghĩa xã hội quốc tế, họ có thể làm được cái việc ấy mà không tốn một phát tên, một viên đạn nào, có phải thế không? Thế thì trong việc giữ nước, thời kỳ này là mạnh nhất hay yếu nhất trong lịch sử? Nếu những người cầm quyền Việt Nam vẫn cứ đi nước đôi, cố nắm ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, tức là cùng một lúc cầm cả hai ngọn cờ, thì nguy cơ báo trước rằng ngọn cờ Dân tộc sẽ tuột khỏi tay, bởi ngọn cờ Dân tộc bao giờ cũng thuộc về những người yêu nước chân chính, không chấp nhận bất cứ một vòng kim cô nào chụp lên đầu Dân tộc!” [2] Không nghi ngờ gì nữa, chủ thuyết cộng sản rất có hại cho chủ nghĩa yêu nước, nó là một nguồn nảy sinh và nuôi dưỡng nội xâm, làm lợi cho ngoại xâm, khẩu hiệu “yêu chủ nghĩa xã hội là yêu nước” là một khẩu hiệu ngược. 3. Vừa nội xâm vừa ngoại xâm - phải làm gì trước? Muốn chống được ngoại xâm cần phải lo xa. Lo xa không gì bằng phải dẹp nội xâm trước hết, vì đây là nhân tố trực tiếp hay gián tiếp rước ngoại xâm vào. Nội xâm làm cho dân nghèo, dân khổ, dân oán. Ngay nội bộ cầm quyền cũng lục đục lo đối phó với nhau. Như vậy dân tộc bị tiêu ma sinh lực, tạo cơ hội cho ngoại xâm. Muốn chống nội xâm phải có một hệ thống chính trị dân chủ, bình đẳng, có luật pháp công minh, song đó đều là những yêu cầu mà một hệ thống chính trị có gốc là chuyên chính vô sản, với một đảng duy nhất cầm quyền vô thời hạn như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên khó lòng thực hiện được. Trong những nước xã hội chủ nghĩa này, mọi sự đoàn kết chỉ ở ngoài vỏ, giữ yên xã hội chủ yếu là bằng quyền lực. Các hội chứng dối trá, bạo hành, vô cảm đục ruỗng xã hội. Tất cả tai vạ đều trút xuống kẻ không quyền lực là dân thường, như thế họ không thờ ơ với đất nước sao được? Trong bài “Để cứu Trường Sa” tác giả Trần Khải đã có một câu chí lý: “Nếu không cho người dân quyền làm chủ thực sự, thì mảnh đất hình chữ S cũng sẽ là đất lạ!” (đất nước này không phải của dân?). Trong khi việc “Chống nội xâm, cứu nước” [3] còn bế tắc như thế thì tình huống ngoại xâm đã đến! Buộc phải tập trung “đối ngoại” đã, nhưng chống ngoại xâm khi nội xâm đang là quốc nạn thì quả thực vô cùng khó khăn. Khắc phục bệnh thờ ơ - vô cảm để người dân vào cuộc tranh đấu đã khó nhưng xuống đường rồi có thể lại bị chính nhà cầm quyền cản trở mới thật ngược đời (đáng lẽ nhà nước phải vận động, khuyến khích chứ?). Nhưng bế tắc tận cùng sẽ thấy lối ra. Quy luật xưa nay, khi đất nước bị bên ngoài xâm lăng bao giờ cũng gây ra hai hiệu ứng trái ngược: một hiệu ứng tích cực là làm cho tinh thần dân tộc thức tỉnh, dẹp oán thù, dị biệt nội bộ để lo cứu nước, còn hiệu ứng tiêu cực là làm cho kẻ cơ hội bám lấy ngoại bang, ve vãn để kiếm chác, kẻ yếm thế thì càng trùm chăn. Nhưng thật vui mừng khi thấy trong trường hợp xã hội ta hiệu ứng tích cực có lẽ mạnh hơn, ít nhất là trong lúc này. Sau các cuộc biểu tình sáng 9-12, một sinh viên đã viết: Sinh viên biểu tình, phải đâu chuyện lạ Nhưng nước mình khác nước người ta! Nếu quả thực đã hồi sinh được hồn dân tộc Thì thực tình, tôi cám ơn kẻ cướp Trường Sa … Một sớm mùa đông, nước non này ấm lại… [4] Nước non đã ấm lại vì xuất hiện nhiều nhân tố mới mấy chục năm nay chưa từng có, sinh viên biểu tình, có các văn nghệ sĩ và một số người đứng tuổi tham gia. Lần đầu tiên xuất quân mà họ chững chạc, đàng hoàng, khôn ngoan, linh hoạt, cứng dắn. Cô văn sĩ rất trẻ Lynh Bacardi (thế hệ 8x) nói: “Ðây, cuộc mở miệng đầu tiên của chúng tôi. Ðây, lần đầu tiên chúng tôi thực hiện một trong những quyền cơ bản của con người. Ðây, chúng tôi cảm nhận được nhiệt huyết sôi sục trên gương mặt nhau. Ðây, chúng tôi nhắc nhở cho chính phủ Việt Nam biết nhân dân Việt Nam còn tồn tại và biết họ cần làm những gì cho đất nước”.“Nếu chủ nhật tới và những chủ nhật về sau có buổi xuống đường, tôi xin lại được tiếp tục đứng bên cạnh các bạn.” [5] Nhà thơ Hoàng Hưng cũng tham gia biểu tình và phát hiện một vấn đề chính trị rất trúng: ”Rõ ràng là khi lòng yêu nước xuất phát từ đáy con tim chúng ta, không bị ai dắt mũi, ra lệnh, áp đặt, thì nó thực sự trở thành sức mạnh. Người dân thờ ơ với chính trị chỉ là do cái chính trị ấy không hợp với lòng dân, cái chính trị của ai đó độc quyền làm với danh nghĩa người dân.” [6] Rõ ràng là một thể chế áp đặt, thủ tiêu quyền làm chủ của dân thì cũng thủ tiêu luôn cái hồn dân tộc, nhưng hôm nay các bạn trẻ đã làm cho cái hồn đó hồi sinh. Cám ơn “kẻ xâm lược” như lời Thái Hữu Tình là phải lắm! Đọc thấy trên các trang Web dân chủ có thông báo ký tên phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ [7] , rất nhiều bạn bè quanh tôi ký tên ngay, không cần biết người đứng ra tổ chức là ai. Họ bảo: Ai đứng ra cũng được, việc này là chung của tất cả những ai là người Việt Nam, mọi ranh giới về chính trị, tôn giáo, đảng phái đều không còn nữa! Trong phong trào dân chủ đang có nhiều dị biệt nhưng đến việc này lại gần gũi nhau hơn. Hôm biểu tình có anh công an đã nói nhỏ với một sinh viên: nếu không vướng bộ quần áo này thì tôi đã đứng vào với các anh rồi. Tổ quốc đúng là mẹ hiền, vì chỉ có mẹ mới ôm được tất cả những đứa con xung khắc vào trong một vòng tay. Giả dụ trong cuộc biểu tình có một công an đứng ra ngăn cản, sinh viên có thể giãi bày: Ở đây chỉ có hai bên, một bên là những người Việt Nam giữ gìn lãnh thổ, phía bên kia là kẻ xâm lấn đất nước ta, vậy đồng chí thuộc bên nào?... Nói thế mà công an còn kiên quyết giải tán những người yêu nước ôn hoà thì chẳng ngượng với lương tâm lắm sao? Ví dụ thì còn nhiều, thực tế thật phong phú. Sự nghiệp chống nội xâm là việc căn bản của ta, còn phải làm dài dài. Nhưng việc chống ngoại xâm cấp thiết trước mắt bỗng dưng lại thành nhân tố tích cực, nó thức tỉnh, hoạt hoá xã hội, thêm người tốt, bớt người xấu, kéo mọi người lại gần nhau… Liên kết dân tộc càng mạnh thì càng có khả năng phân hóa nội xâm, cô lập ngoại xâm. Hai mặt trận chống nội xâm và chống ngoại xâm nhịp nhàng cùng một lúc lại hỗ trợ cho nhau mới hay chứ! Không buồn mà lại vui. Chủ nghĩa Mác đã dạy: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là ngày hội của quần chúng”, nhất là quần chúng trẻ dồi dào trí tuệ và sinh lực. Cứ vào thực tiễn sẽ thấy lối ra. “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi”. Hay thật. 12-11-2007 © 2007 talawas [1]Hà Sĩ Phu: “Phải có dân chủ mới giữ được độc lập dân tộc”: www.doi-thoai.com/baimoi1105_011.html[2]Hà Sĩ Phu, bài đã dẫn [3]Bùi Minh Quốc: “Chống nội xâm, cứu nước!”: www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11093&rb=0401[4]Thái Hữu Tình: “Dân tộc hồi sinh?” www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2318[5]Lynh Bacardi: www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11703&rb=0401[6]Hoàng Hưng: “Khi lòng yêu nước không bị áp đặt”: www.talawas.org/talaDB/binhluan.php[7]Tuyên cáo chống Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam: www.gopetition.com/online/15673.html
|
|