|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 11:11:35 GMT 9
Vụ Án: TRẦN VĂN VĂN, NGUYỄN VĂN BÔNG, TRẦN VĂN BÁ
(Nén hương cho sĩ khí Trần Văn Bá) Nhiều năm đã trôi qua nhưng một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời về hai vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn (1966) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (1971) cũng như án tử hình của nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp Trần Văn Bá (1985). Cả ba nạn nhân đều gốc Miền Nam Việt Nam. Vì những vụ này liên hệ đến lịch sử, đánh dấu ba giai đoạïn nhiễu nhương khác nhau của đất nước, nên người viết đã thu thập một số tài liệu, mong có thể giúp soi sáng phần nào một hồ sơ chứa đựng nhiều giả thuyết.
I - Dân biểu Trần Văn Văn và nhóm Caravelle. Trần Văn Văn là một tiêu biểu điển hình cho giới trí thức Miền Nam thời Pháp thuộc và trong giai đoạn đấu tranh dành thống nhứt và độc lập cho xứ sở. Ra đời tại Long Xuyên năm 1907, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mãi Paris (HEC) và sau khi trở về nước, hùn với kỹ sư Kha Vạng Cân lập ra hảng đúc kim khí Cân & Văn trước 1945. Kha Vạng Cân bỏ theo kháng chiến, được bổ nhiệm Bộ trưởng kỹ nghệ trong Chính phủ Hồ Chí Minh và về sau, thất sủng. Trần Văn Văn có lúc giữ chức Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch trong chánh phủ Bảo Đại và là một nhân vật cốt cán của đảng Phục Hưng do Trần Văn Hương thành lập. Ngày 26.6.1954, theo lời mời của Bảo Đại, chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước với chức Thủ tướng có toàn quyền chính trị và quân sự. Sau khi dẹp Bình Xuyên và giáo phái, truất phế Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955, bác bỏ ngày 20.7.1956 việc tổng tuyển cử hai miền quy định bởi Hiệp ước Genève, ông tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa ngày 26. 10.1956. Từ 1956 cho đến nửa năm 1959, tình hình an ninh trong xứ được vãn hồi tương đối nhờ những cải cách xã hội, tảo thanh của Quân đội quốc gia và vì một phần quân đội Bắc Việt rút về trên vĩ tuyến 17. Tuy nhiên một thời gian sau, Việt cộng xây dựng lại được cơ sở hạ tầng tại nông thôn với các cán bộ không tập kết. Ngày 26.1.1960, cách tỉnh lỵ Tây ninh lối 12 cây số, chúng chiếm đồn Trảng Sập, gây thiệt hại nặng về nhân mạng và võ khí cho sư đoàn 21. Mặt khác, sự lộng quyền của một số đảng viên Cần lao và chính sách đàn áp của Chính phủ bắt đầu gây bất mãn trong quần chúng. Nhóm Tự do Tiến bộ xuất hiện - gồm nhiều nhà trí thức đối lập - trong đó Trần Văn Văn là một người đầu đàn vì giao thiệp rộng, có uy tín và mưu trí. Sau nhiều tuần thảo luận và tiếp xúc trong vòng bí mật, sáng ngày 26.4.1960, hai ông Phan Khắc Sửu và Trần Văn Văn, âu phục chỉnh tề, bất thần đến trước cổng Dinh Độc Lập, đại lộ Thống Nhứt Sài Gòn, nhờ quân phòng vệ chuyển đến Tổng thống Ngô Đình Diệm một bản tuyên ngôn mang chữ ký của 18 nhân sĩ thưộc nhiều khuynh hướng chính trị, xong họ đi thẳng đến khách sạn Caravelle, ở trung tâm Saigon, họp báo. Báo giới ngoại quốc và các Tòa Đại sứ được mời tham dự nhưng không cho biết trước địa điểm, hẹn sẽ được hướng dẫn khi đến giờ. Caravelle được chọn vì an toàn. Để đánh lạc hướng cảnh sát, báo chí Việt được mời nhóm riêng tại một khách sạn Chợ lớn. Theo bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, hiện ở Virginia, tiết lộ, ông được giao phó thảo ra bản tuyên cáo (dựa vào các ý kiến thu thập trong nhóm Tự do Tiến bộ) với sự giúp đỡ của giáo sư Trần Văn Hương và ông Trần Văn Văn. Trần Văn Tòng, trưởng nam của cố dân biểu Trần Văn Văn, hiện giữ trong tay bản chính được (cố) ký giả Bernard Fall dịch ra ngoại ngữ để phổ biến. Nội dung văn kiện này chỉ trích quyết liệt các sai lầm của chính quyền Diệm về chính trị, hành chính, xã hội và quân sự, gây ra tình trạng bất mãn trong dân chúng, suy thoái của chế độ và làm giãm tiềm lực đấu tranh chống cộng. Tuy nhiên, ngoài việc đòi hỏi thực thi dân chủ và chấm dứt gia đình trị, những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn. 18 nhân vật ký tên bản tuyên ngôn gồm có : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui. Mười trong số đó là cựu ân nhân, đồng chí, bạn thân và Bộ trưởng từng hợp tác với ông Diệm. Cố vấn Ngô Đình Nhu mỉa mai gọi họ là « chính khách xa-lông, chính khách phòng trà ». Lời kêu gọi của các trí thức đối lập này, tiếc thay,không được chính phủ xét đến. Tuy nhiên, bản tuyên cáo báo động Caravelle có tiếng vang ở quốc ngoại và trong quân đội. Một chuỗi biến cố liên tiếp xảy ra sau đó: Cuối tháng 10.1960, Tổng thống Diệm cải tổ nội các vì có bất đồng nội bộ, bốn bộ trưởng ra đi: Nội vụ (Lâm Lễ Trinh), Quốc phòng (Trần Trung Dung), Thông tin (Trần Chánh Thành) và Tư pháp (Nguyễn Văn Sĩ) sau một thủ tục điều tra do các bộ này khởi xướng về những lạm quyền của đảng Cần lao. (đọc Hoàng Lạc & Hoàng Mai Việt trong tác phẩm Blind Design, Why America lost the VN War?, chương The Lottery scandal, trang 131, và trong hồi ức Đỗ Mậu « VN máu lửa, quê hương tôi », trang 259}. Lối hai tuần sau, ngày 11.11.1960. nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận : nhóm Caravelle không có liên hệ gì đến vụ mưu loạn nhưng cơ quan an ninh Nhà nước thừa cơ hội để câu lưu nhiều thành viên của tổ chức này tại trại Ô Ma (Aux Mares). Ngày 20.12.1960, Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập. Tháng 2.1961, lực lượng võ trang Giải phóng Miền Nam chính thức hoạt động. Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập và cuối cùng, ngày 1.11.1963, Quân đội lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, đưa Miền Nam Việt Nam vào một cuộc phiêu lưu hỗn loạn. Khi nhóm sĩ quan trẻ, mệnh danh « Jeunes Turcs », lên nắm quyền, vào năm 1966, Trần Văn Văn đắc cử dân biểu Quận 3 Saigon trong Quốc hội Lập hiến. Không thuộc đảng phái nào, cố vấn của Hội Liên Trường mà đa số đoàn viên là dân Miền Nam, Văn thường chỉ trích tại diễn đàn Nguyển Cao Kỳ, Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, và các hành vi lạm quyền của cảnh sát - công an do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy. Sau vụ Loan cho câu lưu bác sĩ Nguyễn Tấn Lộc vì lý do ông Lộc (gốc Nam) kỳ thị địa phương sa thải một số nhân viên người Bắc trong Bộ Y tế, cuộc tranh chấp Nam-Bắc nổ lớn. Tổng trưởng Kinh tế-Tài chánh Âu Trường Thanh cầm đầu năm tổng trưởng khác (gốc Nam) từ chức để phản đối: Nguyễn Văn Trường (Giáo dục), Trương Văn Thuấn (Vận tải), Trần Ngọc Liểng (Xã hội) Võ Long Triều (Thanh niên) và Nguyễn Hữu Hùng (Lao động). Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên không đồng ý về quyết định này. Dư luận cho rằng Trần Văn Văn giật giây, để đòi thay thế Nguyễn Ngọc Loan. Ngày 7.12.1996, vào buổi sáng, ông Văn bị hai kẻ lạ mặt đèo nhau trên chiếc Honda bắn chết khi xe hơi của ông trờ tới góc đường Phan Đình Phùng và Mạc Đỉnh Chi. Đài phát thanh Saigon tố cáo Việt Cộng chủ mưu vì bắt được Võ Văn Én. Trong một cuộc họp báo, với dáng người tật nguyền, mắt gần mù lòa, mặt rỗ chằng chịt, Én chịu nhận bản án tử hình và khai rằng MTGP sai y và một đồng chí về thành để thi hành nhiệm vụ: y lái xe (mới tập), còn tòng phạm ngồi phía sau thì cầm súng bắn. Trong nguyệt san Quê Mẹ, Paris, đầu năm 1986, chủ bút Võ Văn Ái ghi lại rằng hành vi và ngôn ngữ của Én làm cho dư luận nghi rằng đây là một sự dàn cảnh của cơ quan điều tra. Ba ngày liên tiếp 7, 8 và 9.12. 1966, Đài Hànội tố cáo « Dù khác chính kiến, dù không đồng quan điểm chính trị với ông Trần Văn Văn, chúng ta không bao giờ can dự vào việc ám sát ông Văn, đây là hành động dơ bẩn của bọn tướng lãnh khát máu ở Sàigon ». Bà quả phụ Trần Văn Văn (hiện sống ở Paris) vẫn ấm ức tin rằng Võ Văn Én chỉ là con chốt thí, con cò mồi, cho nên ngày 10.1.1967, bà đã gởi thơ xin Tổng thống Thiệu ân xá cho Én. Đây là cách gián tiếp tố cáo Kỳ-Loan mưu sát chồng bà. Trong bài « Nhớ lại cái chết bi thảm đầy nghi vấn của ông Trần Văn Văn » đăng năm 1978, trong số 58 nguyệt san Vì Nước, Paris, ký giả Hoàng Ngọc Giao ghi lại lời khai của C. trưởng ban Bài trừ Du đảng (một tổ chức của « Chính phủ ngưởi nghèo » của Nguyễn Cao Kỳ) thú nhận y được cấp trên chỉ thị giết Trần Văn Văn. Theo Giao, về sau , để phi tang, C. bị thủ tiêu trong một tai nạn xe hơi được sắp đặt (đọc Tuyển tập Trần Văn Bá). Đâu là sự thật ? Trần Văn Văn có phải là một nạn nhân của phe quân phiệt gốc Bắc? hay Côïng sản đã giết Văn để gây ly tán và nghi kỵ trong chính trường Miền Nam? hay vì CS Bắc Việt sợ Trần Văn Văn quy tụ được một lực lương quốc gia đa số gốc miền Nam có khả năng lôi cuốn quần chúng hơn tổ chức bù nhìn của chúng là Mặt trận Giải phóng miền Nam? Đầu tháng chạp 2004, tại Hoa Thịnh Đốn, Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận với tác giả bài này rằng nhóm Caravelle không liên hệ, trực tiếp hay gián tiếp, đến vụ đảo chính Tổng thống Diệm và cũng không hợp tác với chính phủ quân nhân trong giai đoạn đầu của « cách mạng ». Tháng 9.1965, Bác sĩ Viên là nhân vật đầu tiên và duy nhứt của cánh Tự do Tiến bộ nhận tham chánh trong chức Phó Thủ tướng của nội các Nguyễn Cao Kỳ, sau khi lấy ý kiến của các đồng chí trong nhóm Caravelle. Ông kể lại với người viết: Ngày 1.11.1963, khi hay tin đảo chính thành công, Trần Văn Văn liền điện thoại cho ông, « vừa nói vừa cười hô hố » : « Viên ơi, « thằng Minh Cồ», nó giết lão Diệm rồi, bây giờ nó không biết phải làm gì !! »
II - Bí ẩn quanh vụ mưu sát Gs Nguyễn Văn Bông. Khác với Trần Văn Văn thuộc một gia đình khá giả, Nguyễn Văn Bông có một thời niên thiếu cơ cực. Cha của Bông làm nghề thợ bạc, ly dị với mẹ Bông là một thợ may, cả hai đều tái giá sau đó và có con riêng. Bông sống với ông, bà nội, khi mới lên ba, tại làng Kiến Phước, tỉnh Gò công, nơi Bông ra đời năm 1931. Lúc 14 tuổi, để có tiền vào trung học, Bông lên Saigon xin một chân quét dọn và đánh máy trong trường Huỳnh Cẩm Chương, lao công ban ngày, tối đi học, để dành tiền mua một vé tàu hạng ba qua Pháp. Tại Paris, Bông phải làm bồi bàn (cùng với Nguyễn Ngọc Huy) tại tiêm ăn La Table du Madarins của « anh Mười » để sinh sống. Chàng học trò khó Nguyễn Văn Bông xuất sắc, lấy xong bằng Tú tài thì vào Đại học Sorbonne, theo ngành Luật và Chính trị học. Có một lúc, Bông làm phu khuân vác đêm tại Nhà Lồng Paris hay Les Halles, và bị bệnh lao, phải nằm nhà thương. Với tinh thần tự tin, tự lập, Bông thành công vẻ vang, Năm 1963, thay vì nhận chức phụ tá giáo sư tại Pháp, Thạc sĩ luật khoa Nguyễn Văn Bông quyết định trở về Việt Nam để đấu tranh và phục vụ. Trước khi hồi hương, Bông đã hứa hôn với nữ sinh viên Thu Vân tức là bà Nguyễn Văn Bông sau này, tác giả Mây Mùa Thu (MMT), vừa xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn. Đây là dịch bản tiếng Việt của hồi ký tiếng Anh Autumn Cloud (Capitol Books, VA, 2001). Tại trường Luật và Quốc gia hành chánh Saigon, Gs Bông dạy môn luật Hiến pháp và Khoa học chính trị. Sau ngày đảo chính 1.11.1963, Bông được bổ nhiệm Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chánh và lao mình vào chính trường với sự hổ trợ của Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ chính trị học, một đồng chí từ ngày ở Paris. Huy lãnh đạo đảng Tân Đại Việt (TĐV), Bông sáng lập Phong trào Quốc gia cấp tiến (PTQGCT) vào mùa xuân 1969, hai tổ chức hoạt động chặt chẽ với nhau và mang nhãn hiệu đối lập với chính phủ đương nhiệm. Trong hai năm 1970 và 1971, PTQGCT phát triển mạnh. Phần đông đảng viên và cảm tình viên là cựu sinh viên Quốc gia hành chánh nắm giữ những chức vụ cốt cán tại Miền Nam Việt Nam. Cương lĩnh PTQGCT cổ võ cho một nước VN thống nhứt dưới một chế độ dân chủ, với quyền bình đẳng giữa các công dân, tôn trọng nhân quyền, triệt tiêu nạn tham nhũng và cải tổ hành chánh. Về kinh tế, Phong trào chủ trương đẩy mạnh phát triển, cải cách điền địa, canh tân thuế vụ và khuyến khích đầu tư. Về an sinh xã hội, Phong trào đòi hỏi một chế độ quân dịch công bằng, giáo dục miễn phí và cưởng bách và sự phục hồi uy tín của giáo giới. Tháng 9.1971, PTQGCT và TDC đưa được vào Hạ viện 21 dân biểu, một lực lượng đáng kể. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử Gs Huy tham gia, với tư cách cố vấn, vào phái đoàn đàm phán với Bắc việt tại Paris. Uy tín của Nguyễn Văn Bông lên như diều. Bất thần, vào cuối 1969, xảy ra một vụ mưu sát: một trái bom nổ cạnh bên phòng làm việc của Gs Bông tại tầng hai Học viện quốc gia hành chánh. Ông Bông không bị thương tích nặng nhờ được che chở bởi một cái bàn viết khi ngã xuống. Nhưng lối một năm sau, ngày 10.11. 1971, Gs Bông không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần trong vụ mưu sát thứ hai, mặc dù ông được toán an ninh bảo vệ khá chặt chẽ. Vào giờ ăn trưa ngày vừa nói, kẻ ám sát thảy một trái bom dưới sườn xe hơi của Gs Bông, trên đường Cao Thắng, Saigon, nơi có đèn đỏ, làm xe nổ tung và gây thiệt mạng cho ông Bông, người tài xế và ba vệ sĩ. Trong hồi ký MMT, trang 148 và tiếp theo, bà Nguyễn Văn Bông ghi: Ngày hôm trước, 9.11, Tổng thống Thiệu gởi người anh là ông Nguyễn Văn Kiểu, đại sứ tại Đài loan, đên tận nhà để thảo luận. Khi ông Kiểu ra về, Bông cho (vợ) biết ông đã « chấp thuận làm Thủ tướng cho TT Thiệu », thay thế tướng Trần Thiện Khiêm. Chỉ 15 phút sau, báo chí điện thoại xin xác nhận tin này, ký giả Pháp Francois Nivolon của France Soir cũng gọi phôn để chia vui. Bà Bông ghi nơi trang 148 và 152: « Đến mùa thu 1071, ông Thiệu thấy rằng để nâng cao sự ủng hộ bên trong và chống trả hữu hiệu CS Bắc Việt, ông phải liên minh với một chính phủ liên hiệp mạnh. Anh Bông cũng có ý kiến như vậy, sự thật anh đã đúc kết một chương trình đối lập rộng lớn cho PTQGCT mà anh hy vọng các lực lượng chống Cộng sẽ quy tụ xung quanh...Vài tháng sau, hai thanh niên Việt Cộng bị bắt. Một trong hai người, có tên Nguyễn Hữu Thái, là lãnh tụ nhóm sinh viên trường Kiến trúc Đại học Saigon. » Sự việc đáng lưu ý là trong chương cuối cùng của hồi ký MMT, nhan đề « Những suy tư về cuôc chiến VN và thời kỳ hậu chiến », trang 270-276, bà Bông viết: "tháng 7.1971, Kissinger (K) qua Saigon vào lúc TT Thiệu lo tái tranh cử và trước khi K chuẩn bị viếng thăm Bắc kinh. Kissinger gặp vợ chồng Bông « lần đầu tiên » trong một buổi tiệc tại dinh của Đs Elsworth Bunker, sau khi K vừa viếng Thiệu và Khiêm trong ngày. Bữa sau, K gặp riêng Bông. Sau đó, - bà Bông viết - « báo chí Saigon suy đoán rằng anh Bông sẽ là vị Thủ tướng kế tiếp được Kissinger và chính phủ Mỹ hổ trợ. Mọi người VN lúc đó đồn rằng bất cứ vị lãnh tụ miền Nam nào mà không được Mỹ ủng hộ sẽ không thể tồn tại lâu được; ký ức về những gì đã xảy ra cho TT Diệm và người em vẫn chưa phai mờ. Cả hai ông đã bị giết chết trong một cuộc đảo chánh của các tướng lãnh miền Nam năm 1963 với sự chấp thuận của Mỹ. Vài tuần sau khi gặp ông Kissinger, vào khoảng 9 giờ tối, ngay lúc anh Bông đi dự tiệc, một người lạ điện thoại cho tôi biết tánh mạng anh Bông sẽ lâm nguy. Y nói anh Bông phải lập tức trở về nhà, xong y cúp điện thoại làm tôi quá run sợ. Đêm đó, ông Khương Hữu Điểu, giám đốc Ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ, mời anh Bông để gặp tại nhà một nhóm ngưới quan trọng, tất cả đang nắm những địa vị then chốt và được xem như những người trẻ chủ trương cải cách.» Như thế, tin đồn K và Hoa kỳ áp lực Thiệu thay thế Khiêm bằng Bông đã xảy ra lối hai tháng trước vụ hạ sát Bông ngày 10.11.1971. Trong hồi ký chót Ending the VN War, (Simon & Schuster. NY, 2001), chính K cũng đã xác nhận: Ngày 21.10.1972, tức là trước khi tiếp K qua hôm sau tại Dinh Độc lập Saigon để chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước Paris, TT Thiệu đã điện thoại tố cáo - với một giọng hằng học - K và phụ tá Alexander Haig tổ chứùc, theo tin tình báo, đảo chánh Thiệu. Trước đó, ngày 6.2.1972, trong một bức thơ riêng cho TT Thiệu, Nixon cũng đã viết không úp mở như sau: “Chúng tôi không muốn thấy tái diễn tại VN biến cố ghê tởm năm 1963” (ám chỉ vụ thảm sát TT Diệm). Điểm chót nên ghi: Như mọi người đều biết, Đảng Đại Việt đóng vai trò quan yếu chẳng những trong vụ biến loạn 1.11.1963 mà còn trong các vụ chỉnh lý và đảo chính liên hồi về sau. PTQGCT của Bông và đảng Tân Đại Việt của Huy cũng xuất phát từ đó và có nhiều đảng viên và cảm tình viên chẳng những trong chính giới, Quân đội mà còn trong Quốc hội năm 1971. Bs Nguyễn Lưu Viên kể với người viết: "Đầu năm 1975, quân đội rút vô trật tự khỏi miền Trung. Thiệu chấp nhận cho Trần Thiện Khiêm từ chức thủ tướng mà tướng Khiêm giữ từ ngày1.9.1969. Thiệu yêu cầu Khiêm đề nghị người thay thế. Trong danh sách nạp trình, Thiệu phê bình từng nhân vật. Đến tên Nguyễn Ngọc Huy, Thiệu gạch bỏ và cuối cùng, chọn...Nguyễn Bá Cẩn, không nguy hiểm." Năm 1997, trong môt buổi gặp gỡ tại Houston, tác giả bài này có hỏi TT Thiệu: "Trong chính giới, phía dân sự, tổ chức nào xem như đã “phản bội” ông?" Một phút suy nghĩ, Thiệu trả lời: “Nhóm Huy – Bông”. Vì họ không giữ lời giao kết sẽ giúp xây dựng đảng Dân chủ (của Thiệu) nếu Thiệu giao cho họ nắm Học viện quốc gia hành chánh (là lò đào tạo các cán bộ trong guồng máy cai trị). Về sau, Bông và Huy hoạt động chống Thiệu. Mộng của cả hai chắc chắn không ngưng nơi cái ghế Thủ tướng mà còn nhắm cao hơn nữa. Thiệu và anh là Nguyễn Văn Kiểu đều gia nhập Đại Việt nhưng Đại Việt có nhiều phe phái. Ngoài ra, Thiệu cũng là một đảng viên Cần lao. Sau 1980, tác giả bài này có dịp hỏi cựu Quốc trưởng Nguyễn Khánh tại Californie về tin Gs Bông là một trong số luật gia đã từng giúp thảo ra Hiến chương Vũng Tàu cho ông Khánh (văn kiện này, về sau, bị chính ông Khánh hô “đả đảo” khi sinh viên chống đối dữ dội). Tướng Khánh (cười) trả lời (vòng quanh): “ Ông Trần Chánh Thành không phải là người duy nhứt đã giúp tôi.” Gs Bông qua đời khi vừa 41 tuổi, để lại hai trai và một gái. Sau 1975, bà quả phụ Nguyễn Văn Bông nhủ danh Thu Vân (30 tuổi khi chồng bị ám sát) tái giá với Lacy Wright, một nhà ngoại giao Mỹ, nay đã về hưu tại Virginia. Bà lấy tên mới Jackie Bông Wright và hiện hoạt động hăng hái về xã hội, nhân quyền. Trong một buổi phỏng vấn có thu hình ngày 11.12.2004 tại Hoa Thịnh Đốn, bà Bông cho người viết biết thêm: "Tháng 9.1995, K, chủ tịch công ty tư vấn Kissinger & Associates và một phái đoàn viễn thông Mỹ viếng Ba Tây. Trong một buổi tiếp tân do đại sứ Lacy Wright tổ chức, khi biết bà đại sứ gốc Việt Nam, Kissinger nói: “Tôi lấy làm buồn khi gặp người Việt. Nước Mỹ đã bỏ rơi VN.” Để tưởng nhớ thầy cũ, sau 1975, Chi hội cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh định cư tại Ontario, Gia Nã Đại, đã chung tiền đúc tượng của Gs Nguyễn Văn Bông. Với sự đồng ý của “Bà Năm”, thân mẫu Gs Bông hiện sống ở miền Nam Californie, tượng này được an vị tại Trung tâm Cư sĩ Phật giáo thành phố Westminster. Ai giết Gs Nguyễn Văn Bông? Và vì sao? Jackie Bông Wright đưa ra một số giả thuyết và cho biết nhận định như sau: 1) Nhiều người nghi Quân đội là thủ phạm, vì Bông thường tố cáo Quân đội “tham nhũng và bất tài.” Phe quân nhân tại chức sợ bị thanh lọc và không dễ dàng rút lui. 2) Có dư luận cho rằng Trung ương tình báo Mỹ chủ mưu, vì Nixon lo ngại Bông sẽ cản trở kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh bằng cách kéo dài cuộc chiến. 3) Hồi ký MMT, trang 153 ghi: “Tôi còn nói với đại sứ Martin Herz (một bạn thân gặp ở Hoa Thịnh Đốn mùa hè 1972) rằng nhiều người khác nghi giáo sư Huy, người cộng sự chính trị với anh Bông vì Huy muốn anh Bông dang ra xa, bởi vì đảng của ảnh giờ đây rất mạnh và sẵn sàng đứng lên nắm quyền trong một dịp nào đó. Ông Huy không còn cần anh Bông nữa nên muốn thay thế ảnh. Ông (Huy) muốn thành lập một liên minh với quân đội, hoặc với các nhóm khác mà anh Bông chống, thành lập sau lưng ảnh. Một vài chính trị gia còn nói ông Huy có chương trình hành động được dấu kín: nắm lấy chính quyền bằng mọi giá. Ông Martin hỏi tôi có nghi ông Huy có dính líu gì trong cái chết của anh Bông không? Tôi trả lời: “Không. Tôi không tin rằng ông Huy có thể làm một việc khủng khiếp như thế.” 4) Sau hết, bà góa phụ Nguyễn Văn Bông nêu ra một số dữ kiện về chuyện Việt Cộng sắp xếp vụ ám sát ngày 10.11.1971: a) Năm 1976, báo Giải Phóng có đăng một bài của ký giả thiên tả Ý Tiziano Terziani phỏng vấn Nguyễn Hữu Thái và đồng bọn, chúng xác nhận chính chúng đã giết gs Bông. b) Một người chị ruột của bà Bông tên “chị Năm Lý”, theo kháng chiến từ lâu, cho biết CS giết Bông vì Bông được CIA ủng hộ. c) Một chị khác của bà Bông là bà bác sĩ Nguyễn Văn Tạo - hiện ở Paris - được anh chồng là tướng VC Nguyễn Văn Tây cho hay năm 1985 rằng các thủ phạm giết ông Bông đã được chính phủ Hà Nội tặng huân chương sau 1975. Đại sứ Bunker cũng xác nhận gíáo sư Bông là nạn nhân của Cộng sản. Cái chết của Trần Văn Văn và Nguyễn Văn Bông chứng minh thêm một lần nữa kỳ thị Nam-Bắc là một yếu tố không thể coi thường trong chính trường VN, không chỉ riêng trong Nam mà còn bên kia vĩ tuyến 17. “Hội chứng” này khi ẩn, khi hiện, có lúc nổ tung như trong giai đoạn Nam kỳ quốc của Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Măt trận giải phòng miền Nam (trước và sau 1975) và ngay cả trong cách dùng người của Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh... Các đảng phái chính trị có tiếng tại VN (Đại Việt, VN Quốc Dân đảng, Cần lao, Cộng sản..v..v..) cũng không tránh được tệ nạn đáng tiếc này. Thời hậu CS sắp đến, đây là một vấn đề thực tế, cần nghiên cứu để tìm giải pháp.
III – Cộng sản xử tử hình Trần Văn Bá. Sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, Trần Văn Bá là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỹ sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC, Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas (thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào sinh viên Việt chống cộng. Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung phong lãnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì mang một vết son lớn trên tráng, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ. Ăn bận xuềnh xòang, không thích cua gái, sống khắc khổ trong một căn gác nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà Lạt. Bá mê Adam Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion, Pour qui sonne le glas… Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức này bốn khóa, cổ võ xây dựng công đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội...Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ. Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi) giữ bình tĩnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông Đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu. Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào, chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc 6 giờ chiều, Đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng, tiền dư bạc thừa, quỹ đen, quỹ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước! Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mũi dùi. Dù thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hà Nội tại Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!” Tổng hội xoay qua đón tiếp, giúp đỡ và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi...”xà ngầu”), và phát ngôn không hùng hồn nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris. Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh. Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật của tôi.” . Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc làm, phải nhờ anh là kỹ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương!”. Bá cười: “Đó là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ, họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu, dân nghèo đã khuyến khích họ ” Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp họ? Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái: “Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.” Trong môt bức thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.” Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với (cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi của một cán bộ cao cấp CS. Vì bất cẩn hay vì bị gài bẫy? Ngày 8.1.1985, tại Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân Tối cao - sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương - tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng”. Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được triển lãm ở nơi đây. Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 - theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên ngoài. Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng 1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được “mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và Hoa kỳ. Tổng cọng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết. Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược. Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh” Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên. Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần - xác nhận lãnh tụ Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán binh Việt cộng. Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ cao cấp CS. Đồng minh của Mặt trận là kháng chiến Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn sàng giúp đỡ. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS. Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.” Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu, nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hão Lê Phước Sang (đọc bài Vụ án Yên Báy 84 của Trần Phổ Minh, trong Tuyển tập Trần Văn Bá). Triệu Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực cười khi y tuyên bố: “Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chữa cho họ được vì họ là những người tội đồ phản quốc”. Nơi đây, xin mở dấu ngoặc: thời Quốc gia, Mạnh là phó Biện lý Toà án Gia Định, cán bộ nằm vùng CS, được Trần Ngọc Liễng gởi gấm với Dương Văn Minh. Minh, trong 48 giờ đồng hồ phù du cầm quyền, trao cho Mạnh chỉ huy cảnh sát tại Thủ đô, Mạnh lẹ tay thả hết tù chính trị để lập công với Hà Nội nhưng sau đó, vẫn bị thất sủng, về sanh sống trong giới thầy cãi. Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng dùi cui khi lớn tiếng phản đối. Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng hòa muôn năm!” Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án 1) Tử hình: Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch 2) Chung thân: Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ. 3) từ 8 đến 20 năm tù: 13 kháng chiến quân còn lại. Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp. Ngày 4.1.1986. lúc 19 giờ 35, bà goá phụ Trần Văn Văn, 71 tuổi, mang biểu ngữ “Sauvez mon fils, Hãy cứu con tôi!” đến Toà Đại sứ CSVN, đường Boileau, Paris 16, xin gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng tên đại sứ này lánh mặt. Mười bốn hội đoàn thanh niên tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hà Nội. Trần Văn Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ cầu an được tổ chức khắp nơi. Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân. Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày 8.1.1985. Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này. Xác của các tử tội không được trả lại cho gia đình, theo Trần Văn Tòng nói với người viết bài. Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ quán Việt cộng để tỏ sự căm phẫn với bạo quyền Hànội. Hiện nay Lê Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết. Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30. Đây là vụ Yên Bái 84. Vụ đầu, kháng thực dân Pháp. Vụ sau, chống độc tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều. Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo hạt giống tốt. Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh. Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng, vì đã bịp được dân. Chống dân tộc Việt, ngày nay nhận thấy mặt trái Xã hội Chủ nghĩa, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này. Thảm bại chua cay!
LÂM LỄ TRINH Xuân Ất Dậu, Thủy Hoa Trang, California)
THƯ TỊCH: 1-Tiểu luận “Vấn đề địa phương trong chính trường Việt Nam” của Lâm Lễ Trinh, trong tạp chí Thế Giới, Houston ngày 18.5.2001 và Nhân Văn Hải Ngoại, 6.2001 2-Ký ức “Mây Mùa Thu” của Jackie Bông Wright, Virginia, 7.12.2004 3-« Tuyển tập Trần Văn Bá » 14 mai 1945 – 8 janvier 1885, Paris. (gồm nhiều bài báo) 4-« Trần Văn Bá Tương hội » Paris, 2.8.1999 5-« Việt Nam máu lửa, Quê hương tôi », hồi ký của Hoành Linh Đổ Mậu, CA 1986 6-« Blind Design, Why America lost the VN War?» by Hoàng Lạc & Hà Mai Việt, 1996 7-"Bí mật Hậu trường chính trị Miền Nam, 1954- 1975” của Đặng Văn Nhâm 1999
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 11:13:40 GMT 9
Vụ Án: TRẦN VĂN VĂN, NGUYỄN VĂN BÔNG, TRẦN VĂN BÁ (Nén hương cho sĩ khí Trần Văn Bá) Nhiều năm đã trôi qua nhưng một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời về hai vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn (1966) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (1971) cũng như án tử hình của nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp Trần Văn Bá (1985). Cả ba nạn nhân đều gốc Miền Nam Việt Nam. Vì những vụ này liên hệ đến lịch sử, đánh dấu ba giai đoạïn nhiễu nhương khác nhau của đất nước, nên người viết đã thu thập một số tài liệu, mong có thể giúp soi sáng phần nào một hồ sơ chứa đựng nhiều giả thuyết. I - Dân biểu Trần Văn Văn và nhóm Caravelle. Trần Văn Văn là một tiêu biểu điển hình cho giới trí thức Miền Nam thời Pháp thuộc và trong giai đoạn đấu tranh dành thống nhứt và độc lập cho xứ sở. Ra đời tại Long Xuyên năm 1907, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mãi Paris (HEC) và sau khi trở về nước, hùn với kỹ sư Kha Vạng Cân lập ra hảng đúc kim khí Cân & Văn trước 1945. Kha Vạng Cân bỏ theo kháng chiến, được bổ nhiệm Bộ trưởng kỹ nghệ trong Chính phủ Hồ Chí Minh và về sau, thất sủng. Trần Văn Văn có lúc giữ chức Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch trong chánh phủ Bảo Đại và là một nhân vật cốt cán của đảng Phục Hưng do Trần Văn Hương thành lập. Ngày 26.6.1954, theo lời mời của Bảo Đại, chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước với chức Thủ tướng có toàn quyền chính trị và quân sự. Sau khi dẹp Bình Xuyên và giáo phái, truất phế Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955, bác bỏ ngày 20.7.1956 việc tổng tuyển cử hai miền quy định bởi Hiệp ước Genève, ông tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa ngày 26. 10.1956. Từ 1956 cho đến nửa năm 1959, tình hình an ninh trong xứ được vãn hồi tương đối nhờ những cải cách xã hội, tảo thanh của Quân đội quốc gia và vì một phần quân đội Bắc Việt rút về trên vĩ tuyến 17. Tuy nhiên một thời gian sau, Việt cộng xây dựng lại được cơ sở hạ tầng tại nông thôn với các cán bộ không tập kết. Ngày 26.1.1960, cách tỉnh lỵ Tây ninh lối 12 cây số, chúng chiếm đồn Trảng Sập, gây thiệt hại nặng về nhân mạng và võ khí cho sư đoàn 21. Mặt khác, sự lộng quyền của một số đảng viên Cần lao và chính sách đàn áp của Chính phủ bắt đầu gây bất mãn trong quần chúng. Nhóm Tự do Tiến bộ xuất hiện - gồm nhiều nhà trí thức đối lập - trong đó Trần Văn Văn là một người đầu đàn vì giao thiệp rộng, có uy tín và mưu trí. Sau nhiều tuần thảo luận và tiếp xúc trong vòng bí mật, sáng ngày 26.4.1960, hai ông Phan Khắc Sửu và Trần Văn Văn, âu phục chỉnh tề, bất thần đến trước cổng Dinh Độc Lập, đại lộ Thống Nhứt Sài Gòn, nhờ quân phòng vệ chuyển đến Tổng thống Ngô Đình Diệm một bản tuyên ngôn mang chữ ký của 18 nhân sĩ thưộc nhiều khuynh hướng chính trị, xong họ đi thẳng đến khách sạn Caravelle, ở trung tâm Saigon, họp báo. Báo giới ngoại quốc và các Tòa Đại sứ được mời tham dự nhưng không cho biết trước địa điểm, hẹn sẽ được hướng dẫn khi đến giờ. Caravelle được chọn vì an toàn. Để đánh lạc hướng cảnh sát, báo chí Việt được mời nhóm riêng tại một khách sạn Chợ lớn. Theo bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, hiện ở Virginia, tiết lộ, ông được giao phó thảo ra bản tuyên cáo (dựa vào các ý kiến thu thập trong nhóm Tự do Tiến bộ) với sự giúp đỡ của giáo sư Trần Văn Hương và ông Trần Văn Văn. Trần Văn Tòng, trưởng nam của cố dân biểu Trần Văn Văn, hiện giữ trong tay bản chính được (cố) ký giả Bernard Fall dịch ra ngoại ngữ để phổ biến. Nội dung văn kiện này chỉ trích quyết liệt các sai lầm của chính quyền Diệm về chính trị, hành chính, xã hội và quân sự, gây ra tình trạng bất mãn trong dân chúng, suy thoái của chế độ và làm giãm tiềm lực đấu tranh chống cộng. Tuy nhiên, ngoài việc đòi hỏi thực thi dân chủ và chấm dứt gia đình trị, những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn. 18 nhân vật ký tên bản tuyên ngôn gồm có : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui. Mười trong số đó là cựu ân nhân, đồng chí, bạn thân và Bộ trưởng từng hợp tác với ông Diệm. Cố vấn Ngô Đình Nhu mỉa mai gọi họ là « chính khách xa-lông, chính khách phòng trà ». Lời kêu gọi của các trí thức đối lập này, tiếc thay,không được chính phủ xét đến. Tuy nhiên, bản tuyên cáo báo động Caravelle có tiếng vang ở quốc ngoại và trong quân đội. Một chuỗi biến cố liên tiếp xảy ra sau đó: Cuối tháng 10.1960, Tổng thống Diệm cải tổ nội các vì có bất đồng nội bộ, bốn bộ trưởng ra đi: Nội vụ (Lâm Lễ Trinh), Quốc phòng (Trần Trung Dung), Thông tin (Trần Chánh Thành) và Tư pháp (Nguyễn Văn Sĩ) sau một thủ tục điều tra do các bộ này khởi xướng về những lạm quyền của đảng Cần lao. (đọc Hoàng Lạc & Hoàng Mai Việt trong tác phẩm Blind Design, Why America lost the VN War?, chương The Lottery scandal, trang 131, và trong hồi ức Đỗ Mậu « VN máu lửa, quê hương tôi », trang 259}. Lối hai tuần sau, ngày 11.11.1960. nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận : nhóm Caravelle không có liên hệ gì đến vụ mưu loạn nhưng cơ quan an ninh Nhà nước thừa cơ hội để câu lưu nhiều thành viên của tổ chức này tại trại Ô Ma (Aux Mares). Ngày 20.12.1960, Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập. Tháng 2.1961, lực lượng võ trang Giải phóng Miền Nam chính thức hoạt động. Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập và cuối cùng, ngày 1.11.1963, Quân đội lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, đưa Miền Nam Việt Nam vào một cuộc phiêu lưu hỗn loạn. Khi nhóm sĩ quan trẻ, mệnh danh « Jeunes Turcs », lên nắm quyền, vào năm 1966, Trần Văn Văn đắc cử dân biểu Quận 3 Saigon trong Quốc hội Lập hiến. Không thuộc đảng phái nào, cố vấn của Hội Liên Trường mà đa số đoàn viên là dân Miền Nam, Văn thường chỉ trích tại diễn đàn Nguyển Cao Kỳ, Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, và các hành vi lạm quyền của cảnh sát - công an do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy. Sau vụ Loan cho câu lưu bác sĩ Nguyễn Tấn Lộc vì lý do ông Lộc (gốc Nam) kỳ thị địa phương sa thải một số nhân viên người Bắc trong Bộ Y tế, cuộc tranh chấp Nam-Bắc nổ lớn. Tổng trưởng Kinh tế-Tài chánh Âu Trường Thanh cầm đầu năm tổng trưởng khác (gốc Nam) từ chức để phản đối: Nguyễn Văn Trường (Giáo dục), Trương Văn Thuấn (Vận tải), Trần Ngọc Liểng (Xã hội) Võ Long Triều (Thanh niên) và Nguyễn Hữu Hùng (Lao động). Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên không đồng ý về quyết định này. Dư luận cho rằng Trần Văn Văn giật giây, để đòi thay thế Nguyễn Ngọc Loan. Ngày 7.12.1996, vào buổi sáng, ông Văn bị hai kẻ lạ mặt đèo nhau trên chiếc Honda bắn chết khi xe hơi của ông trờ tới góc đường Phan Đình Phùng và Mạc Đỉnh Chi. Đài phát thanh Saigon tố cáo Việt Cộng chủ mưu vì bắt được Võ Văn Én. Trong một cuộc họp báo, với dáng người tật nguyền, mắt gần mù lòa, mặt rỗ chằng chịt, Én chịu nhận bản án tử hình và khai rằng MTGP sai y và một đồng chí về thành để thi hành nhiệm vụ: y lái xe (mới tập), còn tòng phạm ngồi phía sau thì cầm súng bắn. Trong nguyệt san Quê Mẹ, Paris, đầu năm 1986, chủ bút Võ Văn Ái ghi lại rằng hành vi và ngôn ngữ của Én làm cho dư luận nghi rằng đây là một sự dàn cảnh của cơ quan điều tra. Ba ngày liên tiếp 7, 8 và 9.12. 1966, Đài Hànội tố cáo « Dù khác chính kiến, dù không đồng quan điểm chính trị với ông Trần Văn Văn, chúng ta không bao giờ can dự vào việc ám sát ông Văn, đây là hành động dơ bẩn của bọn tướng lãnh khát máu ở Sàigon ». Bà quả phụ Trần Văn Văn (hiện sống ở Paris) vẫn ấm ức tin rằng Võ Văn Én chỉ là con chốt thí, con cò mồi, cho nên ngày 10.1.1967, bà đã gởi thơ xin Tổng thống Thiệu ân xá cho Én. Đây là cách gián tiếp tố cáo Kỳ-Loan mưu sát chồng bà. Trong bài « Nhớ lại cái chết bi thảm đầy nghi vấn của ông Trần Văn Văn » đăng năm 1978, trong số 58 nguyệt san Vì Nước, Paris, ký giả Hoàng Ngọc Giao ghi lại lời khai của C. trưởng ban Bài trừ Du đảng (một tổ chức của « Chính phủ ngưởi nghèo » của Nguyễn Cao Kỳ) thú nhận y được cấp trên chỉ thị giết Trần Văn Văn. Theo Giao, về sau , để phi tang, C. bị thủ tiêu trong một tai nạn xe hơi được sắp đặt (đọc Tuyển tập Trần Văn Bá). Đâu là sự thật ? Trần Văn Văn có phải là một nạn nhân của phe quân phiệt gốc Bắc? hay Côïng sản đã giết Văn để gây ly tán và nghi kỵ trong chính trường Miền Nam? hay vì CS Bắc Việt sợ Trần Văn Văn quy tụ được một lực lương quốc gia đa số gốc miền Nam có khả năng lôi cuốn quần chúng hơn tổ chức bù nhìn của chúng là Mặt trận Giải phóng miền Nam? Đầu tháng chạp 2004, tại Hoa Thịnh Đốn, Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận với tác giả bài này rằng nhóm Caravelle không liên hệ, trực tiếp hay gián tiếp, đến vụ đảo chính Tổng thống Diệm và cũng không hợp tác với chính phủ quân nhân trong giai đoạn đầu của « cách mạng ». Tháng 9.1965, Bác sĩ Viên là nhân vật đầu tiên và duy nhứt của cánh Tự do Tiến bộ nhận tham chánh trong chức Phó Thủ tướng của nội các Nguyễn Cao Kỳ, sau khi lấy ý kiến của các đồng chí trong nhóm Caravelle. Ông kể lại với người viết: Ngày 1.11.1963, khi hay tin đảo chính thành công, Trần Văn Văn liền điện thoại cho ông, « vừa nói vừa cười hô hố » : « Viên ơi, « thằng Minh Cồ», nó giết lão Diệm rồi, bây giờ nó không biết phải làm gì !! » II - Bí ẩn quanh vụ mưu sát Gs Nguyễn Văn Bông. Khác với Trần Văn Văn thuộc một gia đình khá giả, Nguyễn Văn Bông có một thời niên thiếu cơ cực. Cha của Bông làm nghề thợ bạc, ly dị với mẹ Bông là một thợ may, cả hai đều tái giá sau đó và có con riêng. Bông sống với ông, bà nội, khi mới lên ba, tại làng Kiến Phước, tỉnh Gò công, nơi Bông ra đời năm 1931. Lúc 14 tuổi, để có tiền vào trung học, Bông lên Saigon xin một chân quét dọn và đánh máy trong trường Huỳnh Cẩm Chương, lao công ban ngày, tối đi học, để dành tiền mua một vé tàu hạng ba qua Pháp. Tại Paris, Bông phải làm bồi bàn (cùng với Nguyễn Ngọc Huy) tại tiêm ăn La Table du Madarins của « anh Mười » để sinh sống. Chàng học trò khó Nguyễn Văn Bông xuất sắc, lấy xong bằng Tú tài thì vào Đại học Sorbonne, theo ngành Luật và Chính trị học. Có một lúc, Bông làm phu khuân vác đêm tại Nhà Lồng Paris hay Les Halles, và bị bệnh lao, phải nằm nhà thương. Với tinh thần tự tin, tự lập, Bông thành công vẻ vang, Năm 1963, thay vì nhận chức phụ tá giáo sư tại Pháp, Thạc sĩ luật khoa Nguyễn Văn Bông quyết định trở về Việt Nam để đấu tranh và phục vụ. Trước khi hồi hương, Bông đã hứa hôn với nữ sinh viên Thu Vân tức là bà Nguyễn Văn Bông sau này, tác giả Mây Mùa Thu (MMT), vừa xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn. Đây là dịch bản tiếng Việt của hồi ký tiếng Anh Autumn Cloud (Capitol Books, VA, 2001). Tại trường Luật và Quốc gia hành chánh Saigon, Gs Bông dạy môn luật Hiến pháp và Khoa học chính trị. Sau ngày đảo chính 1.11.1963, Bông được bổ nhiệm Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chánh và lao mình vào chính trường với sự hổ trợ của Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ chính trị học, một đồng chí từ ngày ở Paris. Huy lãnh đạo đảng Tân Đại Việt (TĐV), Bông sáng lập Phong trào Quốc gia cấp tiến (PTQGCT) vào mùa xuân 1969, hai tổ chức hoạt động chặt chẽ với nhau và mang nhãn hiệu đối lập với chính phủ đương nhiệm. Trong hai năm 1970 và 1971, PTQGCT phát triển mạnh. Phần đông đảng viên và cảm tình viên là cựu sinh viên Quốc gia hành chánh nắm giữ những chức vụ cốt cán tại Miền Nam Việt Nam. Cương lĩnh PTQGCT cổ võ cho một nước VN thống nhứt dưới một chế độ dân chủ, với quyền bình đẳng giữa các công dân, tôn trọng nhân quyền, triệt tiêu nạn tham nhũng và cải tổ hành chánh. Về kinh tế, Phong trào chủ trương đẩy mạnh phát triển, cải cách điền địa, canh tân thuế vụ và khuyến khích đầu tư. Về an sinh xã hội, Phong trào đòi hỏi một chế độ quân dịch công bằng, giáo dục miễn phí và cưởng bách và sự phục hồi uy tín của giáo giới. Tháng 9.1971, PTQGCT và TDC đưa được vào Hạ viện 21 dân biểu, một lực lượng đáng kể. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử Gs Huy tham gia, với tư cách cố vấn, vào phái đoàn đàm phán với Bắc việt tại Paris. Uy tín của Nguyễn Văn Bông lên như diều. Bất thần, vào cuối 1969, xảy ra một vụ mưu sát: một trái bom nổ cạnh bên phòng làm việc của Gs Bông tại tầng hai Học viện quốc gia hành chánh. Ông Bông không bị thương tích nặng nhờ được che chở bởi một cái bàn viết khi ngã xuống. Nhưng lối một năm sau, ngày 10.11. 1971, Gs Bông không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần trong vụ mưu sát thứ hai, mặc dù ông được toán an ninh bảo vệ khá chặt chẽ. Vào giờ ăn trưa ngày vừa nói, kẻ ám sát thảy một trái bom dưới sườn xe hơi của Gs Bông, trên đường Cao Thắng, Saigon, nơi có đèn đỏ, làm xe nổ tung và gây thiệt mạng cho ông Bông, người tài xế và ba vệ sĩ. Trong hồi ký MMT, trang 148 và tiếp theo, bà Nguyễn Văn Bông ghi: Ngày hôm trước, 9.11, Tổng thống Thiệu gởi người anh là ông Nguyễn Văn Kiểu, đại sứ tại Đài loan, đên tận nhà để thảo luận. Khi ông Kiểu ra về, Bông cho (vợ) biết ông đã « chấp thuận làm Thủ tướng cho TT Thiệu », thay thế tướng Trần Thiện Khiêm. Chỉ 15 phút sau, báo chí điện thoại xin xác nhận tin này, ký giả Pháp Francois Nivolon của France Soir cũng gọi phôn để chia vui. Bà Bông ghi nơi trang 148 và 152: « Đến mùa thu 1071, ông Thiệu thấy rằng để nâng cao sự ủng hộ bên trong và chống trả hữu hiệu CS Bắc Việt, ông phải liên minh với một chính phủ liên hiệp mạnh. Anh Bông cũng có ý kiến như vậy, sự thật anh đã đúc kết một chương trình đối lập rộng lớn cho PTQGCT mà anh hy vọng các lực lượng chống Cộng sẽ quy tụ xung quanh...Vài tháng sau, hai thanh niên Việt Cộng bị bắt. Một trong hai người, có tên Nguyễn Hữu Thái, là lãnh tụ nhóm sinh viên trường Kiến trúc Đại học Saigon. » Sự việc đáng lưu ý là trong chương cuối cùng của hồi ký MMT, nhan đề « Những suy tư về cuôc chiến VN và thời kỳ hậu chiến », trang 270-276, bà Bông viết: "tháng 7.1971, Kissinger (K) qua Saigon vào lúc TT Thiệu lo tái tranh cử và trước khi K chuẩn bị viếng thăm Bắc kinh. Kissinger gặp vợ chồng Bông « lần đầu tiên » trong một buổi tiệc tại dinh của Đs Elsworth Bunker, sau khi K vừa viếng Thiệu và Khiêm trong ngày. Bữa sau, K gặp riêng Bông. Sau đó, - bà Bông viết - « báo chí Saigon suy đoán rằng anh Bông sẽ là vị Thủ tướng kế tiếp được Kissinger và chính phủ Mỹ hổ trợ. Mọi người VN lúc đó đồn rằng bất cứ vị lãnh tụ miền Nam nào mà không được Mỹ ủng hộ sẽ không thể tồn tại lâu được; ký ức về những gì đã xảy ra cho TT Diệm và người em vẫn chưa phai mờ. Cả hai ông đã bị giết chết trong một cuộc đảo chánh của các tướng lãnh miền Nam năm 1963 với sự chấp thuận của Mỹ. Vài tuần sau khi gặp ông Kissinger, vào khoảng 9 giờ tối, ngay lúc anh Bông đi dự tiệc, một người lạ điện thoại cho tôi biết tánh mạng anh Bông sẽ lâm nguy. Y nói anh Bông phải lập tức trở về nhà, xong y cúp điện thoại làm tôi quá run sợ. Đêm đó, ông Khương Hữu Điểu, giám đốc Ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ, mời anh Bông để gặp tại nhà một nhóm ngưới quan trọng, tất cả đang nắm những địa vị then chốt và được xem như những người trẻ chủ trương cải cách.» Như thế, tin đồn K và Hoa kỳ áp lực Thiệu thay thế Khiêm bằng Bông đã xảy ra lối hai tháng trước vụ hạ sát Bông ngày 10.11.1971. Trong hồi ký chót Ending the VN War, (Simon & Schuster. NY, 2001), chính K cũng đã xác nhận: Ngày 21.10.1972, tức là trước khi tiếp K qua hôm sau tại Dinh Độc lập Saigon để chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước Paris, TT Thiệu đã điện thoại tố cáo - với một giọng hằng học - K và phụ tá Alexander Haig tổ chứùc, theo tin tình báo, đảo chánh Thiệu. Trước đó, ngày 6.2.1972, trong một bức thơ riêng cho TT Thiệu, Nixon cũng đã viết không úp mở như sau: “Chúng tôi không muốn thấy tái diễn tại VN biến cố ghê tởm năm 1963” (ám chỉ vụ thảm sát TT Diệm). Điểm chót nên ghi: Như mọi người đều biết, Đảng Đại Việt đóng vai trò quan yếu chẳng những trong vụ biến loạn 1.11.1963 mà còn trong các vụ chỉnh lý và đảo chính liên hồi về sau. PTQGCT của Bông và đảng Tân Đại Việt của Huy cũng xuất phát từ đó và có nhiều đảng viên và cảm tình viên chẳng những trong chính giới, Quân đội mà còn trong Quốc hội năm 1971. Bs Nguyễn Lưu Viên kể với người viết: "Đầu năm 1975, quân đội rút vô trật tự khỏi miền Trung. Thiệu chấp nhận cho Trần Thiện Khiêm từ chức thủ tướng mà tướng Khiêm giữ từ ngày1.9.1969. Thiệu yêu cầu Khiêm đề nghị người thay thế. Trong danh sách nạp trình, Thiệu phê bình từng nhân vật. Đến tên Nguyễn Ngọc Huy, Thiệu gạch bỏ và cuối cùng, chọn...Nguyễn Bá Cẩn, không nguy hiểm." Năm 1997, trong môt buổi gặp gỡ tại Houston, tác giả bài này có hỏi TT Thiệu: "Trong chính giới, phía dân sự, tổ chức nào xem như đã “phản bội” ông?" Một phút suy nghĩ, Thiệu trả lời: “Nhóm Huy – Bông”. Vì họ không giữ lời giao kết sẽ giúp xây dựng đảng Dân chủ (của Thiệu) nếu Thiệu giao cho họ nắm Học viện quốc gia hành chánh (là lò đào tạo các cán bộ trong guồng máy cai trị). Về sau, Bông và Huy hoạt động chống Thiệu. Mộng của cả hai chắc chắn không ngưng nơi cái ghế Thủ tướng mà còn nhắm cao hơn nữa. Thiệu và anh là Nguyễn Văn Kiểu đều gia nhập Đại Việt nhưng Đại Việt có nhiều phe phái. Ngoài ra, Thiệu cũng là một đảng viên Cần lao. Sau 1980, tác giả bài này có dịp hỏi cựu Quốc trưởng Nguyễn Khánh tại Californie về tin Gs Bông là một trong số luật gia đã từng giúp thảo ra Hiến chương Vũng Tàu cho ông Khánh (văn kiện này, về sau, bị chính ông Khánh hô “đả đảo” khi sinh viên chống đối dữ dội). Tướng Khánh (cười) trả lời (vòng quanh): “ Ông Trần Chánh Thành không phải là người duy nhứt đã giúp tôi.” Gs Bông qua đời khi vừa 41 tuổi, để lại hai trai và một gái. Sau 1975, bà quả phụ Nguyễn Văn Bông nhủ danh Thu Vân (30 tuổi khi chồng bị ám sát) tái giá với Lacy Wright, một nhà ngoại giao Mỹ, nay đã về hưu tại Virginia. Bà lấy tên mới Jackie Bông Wright và hiện hoạt động hăng hái về xã hội, nhân quyền. Trong một buổi phỏng vấn có thu hình ngày 11.12.2004 tại Hoa Thịnh Đốn, bà Bông cho người viết biết thêm: "Tháng 9.1995, K, chủ tịch công ty tư vấn Kissinger & Associates và một phái đoàn viễn thông Mỹ viếng Ba Tây. Trong một buổi tiếp tân do đại sứ Lacy Wright tổ chức, khi biết bà đại sứ gốc Việt Nam, Kissinger nói: “Tôi lấy làm buồn khi gặp người Việt. Nước Mỹ đã bỏ rơi VN.” Để tưởng nhớ thầy cũ, sau 1975, Chi hội cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh định cư tại Ontario, Gia Nã Đại, đã chung tiền đúc tượng của Gs Nguyễn Văn Bông. Với sự đồng ý của “Bà Năm”, thân mẫu Gs Bông hiện sống ở miền Nam Californie, tượng này được an vị tại Trung tâm Cư sĩ Phật giáo thành phố Westminster. Ai giết Gs Nguyễn Văn Bông? Và vì sao? Jackie Bông Wright đưa ra một số giả thuyết và cho biết nhận định như sau: 1) Nhiều người nghi Quân đội là thủ phạm, vì Bông thường tố cáo Quân đội “tham nhũng và bất tài.” Phe quân nhân tại chức sợ bị thanh lọc và không dễ dàng rút lui. 2) Có dư luận cho rằng Trung ương tình báo Mỹ chủ mưu, vì Nixon lo ngại Bông sẽ cản trở kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh bằng cách kéo dài cuộc chiến. 3) Hồi ký MMT, trang 153 ghi: “Tôi còn nói với đại sứ Martin Herz (một bạn thân gặp ở Hoa Thịnh Đốn mùa hè 1972) rằng nhiều người khác nghi giáo sư Huy, người cộng sự chính trị với anh Bông vì Huy muốn anh Bông dang ra xa, bởi vì đảng của ảnh giờ đây rất mạnh và sẵn sàng đứng lên nắm quyền trong một dịp nào đó. Ông Huy không còn cần anh Bông nữa nên muốn thay thế ảnh. Ông (Huy) muốn thành lập một liên minh với quân đội, hoặc với các nhóm khác mà anh Bông chống, thành lập sau lưng ảnh. Một vài chính trị gia còn nói ông Huy có chương trình hành động được dấu kín: nắm lấy chính quyền bằng mọi giá. Ông Martin hỏi tôi có nghi ông Huy có dính líu gì trong cái chết của anh Bông không? Tôi trả lời: “Không. Tôi không tin rằng ông Huy có thể làm một việc khủng khiếp như thế.” 4) Sau hết, bà góa phụ Nguyễn Văn Bông nêu ra một số dữ kiện về chuyện Việt Cộng sắp xếp vụ ám sát ngày 10.11.1971: a) Năm 1976, báo Giải Phóng có đăng một bài của ký giả thiên tả Ý Tiziano Terziani phỏng vấn Nguyễn Hữu Thái và đồng bọn, chúng xác nhận chính chúng đã giết gs Bông. b) Một người chị ruột của bà Bông tên “chị Năm Lý”, theo kháng chiến từ lâu, cho biết CS giết Bông vì Bông được CIA ủng hộ. c) Một chị khác của bà Bông là bà bác sĩ Nguyễn Văn Tạo - hiện ở Paris - được anh chồng là tướng VC Nguyễn Văn Tây cho hay năm 1985 rằng các thủ phạm giết ông Bông đã được chính phủ Hà Nội tặng huân chương sau 1975. Đại sứ Bunker cũng xác nhận gíáo sư Bông là nạn nhân của Cộng sản. Cái chết của Trần Văn Văn và Nguyễn Văn Bông chứng minh thêm một lần nữa kỳ thị Nam-Bắc là một yếu tố không thể coi thường trong chính trường VN, không chỉ riêng trong Nam mà còn bên kia vĩ tuyến 17. “Hội chứng” này khi ẩn, khi hiện, có lúc nổ tung như trong giai đoạn Nam kỳ quốc của Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Măt trận giải phòng miền Nam (trước và sau 1975) và ngay cả trong cách dùng người của Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh... Các đảng phái chính trị có tiếng tại VN (Đại Việt, VN Quốc Dân đảng, Cần lao, Cộng sản..v..v..) cũng không tránh được tệ nạn đáng tiếc này. Thời hậu CS sắp đến, đây là một vấn đề thực tế, cần nghiên cứu để tìm giải pháp. III – Cộng sản xử tử hình Trần Văn Bá. Sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, Trần Văn Bá là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỹ sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC, Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas (thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào sinh viên Việt chống cộng. Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung phong lãnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì mang một vết son lớn trên tráng, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ. Ăn bận xuềnh xòang, không thích cua gái, sống khắc khổ trong một căn gác nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà Lạt. Bá mê Adam Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion, Pour qui sonne le glas… Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức này bốn khóa, cổ võ xây dựng công đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội...Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ. Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi) giữ bình tĩnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông Đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu. Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào, chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc 6 giờ chiều, Đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng, tiền dư bạc thừa, quỹ đen, quỹ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước! Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mũi dùi. Dù thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hà Nội tại Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!” Tổng hội xoay qua đón tiếp, giúp đỡ và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi...”xà ngầu”), và phát ngôn không hùng hồn nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris. Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh. Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật của tôi.” . Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc làm, phải nhờ anh là kỹ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương!”. Bá cười: “Đó là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ, họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu, dân nghèo đã khuyến khích họ ” Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp họ? Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái: “Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.” Trong môt bức thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.” Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với (cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi của một cán bộ cao cấp CS. Vì bất cẩn hay vì bị gài bẫy? Ngày 8.1.1985, tại Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân Tối cao - sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương - tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng”. Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được triển lãm ở nơi đây. Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 - theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên ngoài. Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng 1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được “mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và Hoa kỳ. Tổng cọng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết. Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược. Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh” Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên. Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần - xác nhận lãnh tụ Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán binh Việt cộng. Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ cao cấp CS. Đồng minh của Mặt trận là kháng chiến Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn sàng giúp đỡ. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS. Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.” Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu, nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hão Lê Phước Sang (đọc bài Vụ án Yên Báy 84 của Trần Phổ Minh, trong Tuyển tập Trần Văn Bá). Triệu Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực cười khi y tuyên bố: “Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chữa cho họ được vì họ là những người tội đồ phản quốc”. Nơi đây, xin mở dấu ngoặc: thời Quốc gia, Mạnh là phó Biện lý Toà án Gia Định, cán bộ nằm vùng CS, được Trần Ngọc Liễng gởi gấm với Dương Văn Minh. Minh, trong 48 giờ đồng hồ phù du cầm quyền, trao cho Mạnh chỉ huy cảnh sát tại Thủ đô, Mạnh lẹ tay thả hết tù chính trị để lập công với Hà Nội nhưng sau đó, vẫn bị thất sủng, về sanh sống trong giới thầy cãi. Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng dùi cui khi lớn tiếng phản đối. Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng hòa muôn năm!” Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án 1) Tử hình: Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch 2) Chung thân: Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ. 3) từ 8 đến 20 năm tù: 13 kháng chiến quân còn lại. Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp. Ngày 4.1.1986. lúc 19 giờ 35, bà goá phụ Trần Văn Văn, 71 tuổi, mang biểu ngữ “Sauvez mon fils, Hãy cứu con tôi!” đến Toà Đại sứ CSVN, đường Boileau, Paris 16, xin gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng tên đại sứ này lánh mặt. Mười bốn hội đoàn thanh niên tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hà Nội. Trần Văn Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ cầu an được tổ chức khắp nơi. Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân. Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày 8.1.1985. Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này. Xác của các tử tội không được trả lại cho gia đình, theo Trần Văn Tòng nói với người viết bài. Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ quán Việt cộng để tỏ sự căm phẫn với bạo quyền Hànội. Hiện nay Lê Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết. Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30. Đây là vụ Yên Bái 84. Vụ đầu, kháng thực dân Pháp. Vụ sau, chống độc tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều. Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo hạt giống tốt. Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh. Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng, vì đã bịp được dân. Chống dân tộc Việt, ngày nay nhận thấy mặt trái Xã hội Chủ nghĩa, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này. Thảm bại chua cay! LÂM LỄ TRINH Xuân Ất Dậu, Thủy Hoa Trang, California) THƯ TỊCH: 1-Tiểu luận “Vấn đề địa phương trong chính trường Việt Nam” của Lâm Lễ Trinh, trong tạp chí Thế Giới, Houston ngày 18.5.2001 và Nhân Văn Hải Ngoại, 6.2001 2-Ký ức “Mây Mùa Thu” của Jackie Bông Wright, Virginia, 7.12.2004 3-« Tuyển tập Trần Văn Bá » 14 mai 1945 – 8 janvier 1885, Paris. (gồm nhiều bài báo) 4-« Trần Văn Bá Tương hội » Paris, 2.8.1999 5-« Việt Nam máu lửa, Quê hương tôi », hồi ký của Hoành Linh Đổ Mậu, CA 1986 6-« Blind Design, Why America lost the VN War?» by Hoàng Lạc & Hà Mai Việt, 1996 7-"Bí mật Hậu trường chính trị Miền Nam, 1954- 1975” của Đặng Văn Nhâm 1999
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:35:13 GMT 9
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và sự sa lầy của sử học Việt -Trung hàng ngàn năm nay Trương Thái Du Trong bài "Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn" tôi từng đề cặp sơ sài đến nghĩa của từ Giao Chỉ, và suy ra vị trí của Giao Chỉ ở từng thời điểm lịch sử. Từ Giao Chỉ có ý nghĩa rất lớn lao với lịch sử Việt Nam. Mọi tồn nghi sẽ được hóa giải cặn kẽ nếu làm sáng tỏ được Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là gì. Tóm tắt nội dung: tác giả đã dùng những kiến thức thiên văn của một người từng thực hành thiên văn trong nghề đi biển để giải mã các yếu tố thiên văn trong cổ sử và rút ra kết luận: a) Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. b) Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc hôm nay). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. c) Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ thời Hán trở về sau là đồng bằng sông Hồng (bắc bộ Việt Nam). d) Đóng khung bởi kiến thức thiên văn thời Tần - Hán, Nhật Nam nghĩa là vùng đất phía nam mặt trời, là bán cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo. 1. Nam Giao, một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa Trong Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa, chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đã có từ Nam Giao: "Thân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, bình trật nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách". Nghĩa là: "(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông". Nam Giao nằm trong một hệ thống địa danh gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà vua Nghiêu phái đến sẽ quan sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao rồi tổng hợp các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của thiên nhiên nhằm áp dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính là bốn trạm quan trắc thiên văn cổ xưa của loài người. Khảo cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu - Thuấn ở đâu, dù vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà kinh đô Nghiêu - Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo đạc (ắt phải có) càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng xa nhau. Tuy nhiên khi các trạm quá xa thì mối liên hệ giữa các trạm lại gặp nhiều trở ngại. Theo tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông - Tây hoặc Nam - Bắc sẽ cỡ 10 kinh - vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km. Do đó Nam Giao không thể xa hơn kinh đô Nghiêu - Thuấn 500 km, và lại càng không thể vượt khỏi dòng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam. Tôi xin trình bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa: Bằng các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách gần đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay. Xác định vĩ độ của Hà Nội: Chọn một trong 4 ngày Xuân phân, Hạ chí, Thu phân hoặc Đông chí. Dựng một cây cột thẳng vuông góc với mặt đất. Giữa trưa, khi bóng cột đổ dài đúng hướng Bắc - Nam ta đánh dấu đầu bóng cột trên mặt đất. Dễ dàng tính được góc kẹp giữa cột và cạnh huyền của tam giác vuông tạo bởi cột, bóng cột và cạnh huyền (là cạnh ảo). Vĩ độ V của Hà Nội sẽ là: a. Với ngày Xuân phân và Thu phân: V = Giá trị góc kẹp b. Với ngày Đông chí: V = Giá trị góc kẹp - 23 độ 27 giây. c. Với ngày Hạ chí: V = 23 độ 27 giây - Giá trị góc kẹp Dù tìm V ở ngày nào, nó luôn bằng 21 độ. Với cách làm tương tự, ta tính ra vĩ độ Sài Gòn là 10 độ 30 giây. Khoảng cách theo đường chim bay Hà Nội và Sài Gòn là: D = (21 độ - 10 độ 30 giây)x 111km = 1.165,5 km. Ở trường hợp Hà Nội và Sài Gòn, chênh lệch kinh độ nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả gần đúng. Khi kinh độ chênh lệch lớn người ta phải dùng thêm vài bài toán phụ trợ khác nữa. Tóm lại Nam Giao chính là một địa danh. Sau này kiến thức thiên văn của con người sâu sắc hơn, các dụng cụ quan trắc tinh tường hơn thì không cần thiết đi quá xa để đo đạc. Đài Nam Giao có thể dựng ở ngay kinh đô vương quốc. Vua dễ dàng cúng mặt trời trên đài, lần hồi Đài Nam Giao đã biến thành Đàn Nam Giao cho nghi thức tế trời. Vai trò trạm thiên văn của Nam Giao bị che khuất bởi hành vi tín ngưỡng. Hơn nữa chỉ cần một máy đo cao độ mặt trời, cùng với việc tra các bảng tính sẵn trong sách vở, mọi bài toán thiên văn phức tạp nhất đều có thể tính ra. 2. Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra khái niệm Giao Chỉ Nam Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng biên cương vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ phụ, còn có một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn giữa hai chữ Chỉ này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau có rất nhiều cách giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm viết năm 636 đã lần đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong từ Giao Chỉ. Cổ văn Trung Hoa có qui tắc "đồng âm thông giả", tức những chữ đồng âm đều có thể mượn và sử dụng lẫn lộn. Khi tìm nghĩa một chữ phải vận dụng ngữ cảnh đang xét chứ không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong những tài liệu khác ít liên hệ. Thượng Thư, tương truyền do Khổng Tử san định, là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: "Phía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ". Thượng thư còn được giải thích là sách trời. Đây chính là lý lẽ của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà thời Lý: Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Người Việt không còn lưu được quyển sử nào vào thời Lý, song chỉ qua bài thơ trên cũng thấy rõ quan niệm họ cho rằng mình là hậu duệ của Việt Thường quốc phía nam Giao Chỉ. Bởi Giao Chỉ không hề được Thượng thư xem là một quốc gia. Chắc chắn Lý Thường Kiệt hiểu Giao Chỉ đơn giản là một khái niệm nên mới cho lưu truyền bài thơ đó nhằm khích lệ tinh thần vệ quốc của quân dân. Từ Nghiêu - Thuấn đến đầu triều Chu lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt qua dòng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực vương quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào thời Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của Nam Giao vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao, nằm bên bờ bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông Chu trở đi, việc nước Sở hình thành và bành trướng về phương nam ắt phải xuyên qua Giao Chỉ và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một lần trong rất nhiều sách sử có nói về nước Sở. Chuỗi luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: "Phải chăng đất Sở, mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là một phần của vùng Giao Chỉ thời ấy?" Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc có dẫn quyển Hán Quan Nghi của Ứng Thiện chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương bắc) rồi tiến sang phương nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch nằm bên trái. Theo qui tắc "đồng âm thông giả" thì đất Sở mà Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là Cơ Sở của nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần Giao Chỉ (vùng đất phía nam đang khai phá) của vương triều Chu. Hùng Dịch đến Đan Dương lập quốc, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Nam. Tại Nam man truyện trong Hậu Hán Thư, sau khi nhắc đến ghi chép về Việt Thường quốc ở Thượng Thư đại truyện, Phạm Việp nói tiếp: "Nhà Chu suy, đến lúc Sở xưng bá thì Bách Việt triều cống Sở". Lôgic ở đây là Việt Thường quốc nằm trong Bách Việt. Nước Sở còn được gọi là nước Kinh. Người Sở có dòng máu Việt. Từ ngày Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng tiếm đoạt vương hiệu, Trung Quốc luôn coi nước Sở là man di. Không còn trong vòng cương tỏa của triều đình Đông Chu nữa, nước Sở bành trướng ra mãi và có thời làm chủ các chư hầu phương đông. Đó là lý do khái niệm Giao Chỉ bị mất tích trong một thời gian rất dài. Và đó cũng là lý do sử sách Trung Quốc khuyết đi những mô tả chi tiết về Việt Thường quốc và nhiều vùng khác thuộc Bách Việt từ Xuân Thu đến cuối Chiến Quốc. Sử nước Sở, sử của man di không đáng gọi là chính sử để truyền bá nên hầu hết đã bị nhà Tần đốt hoặc thất truyền. Khi Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ không thấy xuất hiện. Sử Ký, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN quân Tần cướp Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và Nam Hải khá rõ ràng, duy Tượng Quận đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà hai ngàn năm nay người ta chưa rõ nó ở đâu. Cũng vì nhà Tần quá ngắn ngủi, chiến tranh sau đó làm sách vở tiêu tán gần hết. An Nam chí lược của Lê Tắc bảo: "Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận". Một khi khái niệm Giao Chỉ bị xếp lại, hẳn nhiên phải có một khái niệm khác thay thế. Phải chăng đó là Tượng? Để mô tả thứ nào đó trừu tượng người ta hay dùng phép tượng trưng. Giai thoại "Thầy bói mù xem voi" đã mượn con voi nhằm nói về sự trừu tượng. Tôi chưa thể giải quyết thấu đáo vấn đề chữ Tượng như một khái niệm mới thay thế Giao Chỉ do không tìm được nhiều dẫn chứng thoả đáng. Tuy nhiên nếu tạm chấp nhận thời Tần Giao Chỉ là Tượng Quận, tiếp theo Tượng Quận là Nhật Nam sẽ hoàn toàn hợp lý, ít nhất là với tư duy ngôn ngữ trong giới hạn kiến thức địa lý xưa kia. Thậm chí chúng ta có thể bỏ qua chữ Tượng để đi đến từ Nhật Nam, như sự thay thế từ Giao Chỉ. Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: "Đất đai (nước Tần)... phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc". Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 giây, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đã biết trái đất hình tròn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quĩ đạo mặt trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nhìn thấy mặt trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc. Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Theo đúng nghĩa thì Nhật Nam xa lắm, vượt qua xích đạo và Nam Chí Tuyến, ở tận các đảo phía nam Indonesia, Papua New Guinea và Úc Châu hôm nay. 3. Sự lẫn lộn giữa khái niệm và địa danh Nhà Tần bỏ khái niệm Giao Chỉ và dùng từ Tượng Quận. Nhà Hán nối tiếp nhà Tần, và cũng như trường hợp nước Sở trước kia, Nam Việt của Triệu Đà đã chặn cương thổ vương quốc Hán ở phía nam 93 năm. Nam Việt bị diệt, sự lẫn lộn trong việc dùng từ Giao Chỉ vừa là địa danh, vừa là khái niệm bắt đầu diễn ra. Điều này thể hiện khi họ đặt tên khu vực mới chiếm được năm 111 TCN. Họ dùng khái niệm Giao Chỉ để gọi chung cho 9 quận mới. Giao Chỉ bộ là tên gọi theo khái niệm chứ không hề có ý nghĩa hành chính vì không có quan đứng đầu bộ. Trong ảnh hưởng của ngữ nghĩa cũ, họ bèn đặt tên khu vực đồng bằng sông Hồng là quận Giao Chỉ. Đây mới chính là địa danh, dù địa danh này mang tính khái niệm rất cao. Quận Giao Chỉ có quan trấn nhậm và là nơi liên giao phía nam nhà Hán với phương nam. Như vậy trải qua nhiều trăm năm bành trướng về phương nam của người Trung Quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển theo bước chân các đoàn quân đế quốc. Phải chăng đó là lý do để chữ Chỉ tồn tại thêm một dạng viết có bộ túc? Rắc rối xuất hiện ở chỗ tại sao lại có Cửu Chân chen giữa Nhật Nam (khu vực mà người Hán chưa biết, chỉ đoán mò) và quận Giao Chỉ. Theo tôi Cửu Chân nghĩa là nơi ở của mặt Trời, đại khái là Xích Đạo vậy. Cửu là số chín, số chín tượng trưng cho Trời thì khỏi phải bàn cãi. Chữ Chân chắc chắn là gốc, giống như "quy chân" là trở về gốc. Chân cũng có thể mang nghĩa là Trọng, như từ Trọng Hạ (giữa mùa hạ) đã dẫn trong sách Thượng Thư ở trên. Dịch Cửu Chân qua tiếng Việt hiện đại thì ý nghĩa sẽ sáng tỏ không ngờ: Chân Trời! Khái niệm Giao Chỉ, với chữ Giao đã đi song song cùng chữ Nam hàng ngàn năm, đến đây đã hoàn thành nhiệm vụ. Người Hán tưởng rằng họ đã đến được Xích Đạo (Cửu Chân), cũng chẳng sai nhiều vì từ ngày Xuân Phân đến Thu Phân, mặt trời gần như luôn ở trên đỉnh đầu cư dân vùng Thanh Hóa Việt Nam. Việc họ đoán bên kia chân trời (Cửu Chân) mặt trời chếch về phía bắc là hợp lý. Những người Trung Quốc đã đến Cửu Chân rừng thiêng nước độc xem ra khó có thể mang theo một chuyên gia thiên văn của triều đình (chỉ quen với thư phòng giữa kinh đô Hán). Dù sao ngữ nghĩa mới của từ Cửu Chân và Nhật Nam vẫn chỉ là khái niệm, thứ khái niệm sinh ra do ngành thiên văn học ngày càng chính xác hơn, thứ khái niệm cần phải có sau khi khái niệm Giao Chỉ đã hết tác dụng, đã biến thành địa danh. Thiên văn học của người Trung Quốc thời đó cần thêm nhiều dữ kiện thực tế để xác tín lý thuyết. Mà muốn có thực tế thì phải đợi, và quả là họ đã đợi hàng trăm năm đến ngày Mã Viện nam chinh. Khoảng trống ấy đã vô tình làm tan loãng tất cả ý nghĩa thiên văn trong tên gọi Cửu Chân và Nhật Nam, để rồi Cửu Chân và Nhật Nam mãi mãi mất đi tính khái niệm và đường hoàng trở thành địa danh trên bản đồ đại Hán. Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn. Cựu Đường Thư (của Lưu Hủ hoàn thành khoảng năm 924 đến 946) viết về vấn đề này rõ nhất trong thiên Địa Lý chí thứ 4: "Mã Viện đi qua Nhật Nam, qua Lâm Ấp, đến biên giới Tượng Lâm và Tây Đồ Di dựng hai cột đồng ghi công tích toàn thịnh của nhà Hán. Có vài chục người không thể về Hán (!?) bèn lưu lại dưới chân trụ đồng, đến thời Tùy đã thành hơn 300 nhà. Người Nam Man gọi họ là Mã Lưu Nhân". Có hai khả năng: Một là Lưu Hủ thực sự không biết mục đích Mã Viện dựng cột đồng là để đo cao độ mặt trời, lập bảng thiên văn và tính khoảng cách từ Tượng Lâm về kinh đô Hán. Hai là Lưu Hủ biết nhưng tuân thủ triệt để nguyên tắc bảo mật các bí quyết khoa học của triều đình Trung Hoa, viết chỉ để cho người biết đọc. Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại , vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc này, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 12, 2011 2:28:55 GMT 9
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm Sơ Lược Tiểu Sử Binh Nghiệp Đại Tướng Trần Thiện Khiêm Tháng 9/19 69 đến tháng 04/1975 Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH. Năm 1969? đến tháng 09/1969 Phó Thủ Tướng Tháng 05/1968 đến năm 1969 Tổng Trưởng Nội Vụ. Tháng 10/1965 đến tháng 05/1968 Đại Sứ VNCH tại Đài Bắc. Tháng 10/19 64 đến tháng 10/1965 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ. Tháng 07/1964 Thăng Đại Tướng. Tháng 01/1964 đến tháng 09/1964 TTQP kiêm TTMT QLVNCH. Tháng 12/1963 đến tháng 01/1964 Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Tháng 11/1963 Thăng Trung Tướng. Tháng 12/1962 Thăng Thiếu Tướng. Tháng 12/1962 đến tháng 11/1963 Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Tháng 02/1960 đến tháng 12/1962 Tư Lệnh SĐ21BB kiêm TL QK5. Năm 1958 đến tháng 02/1960 Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến. Năm 1957 đến năm 1958 Tu nghiệp khóa CH&TM cao cấp tại Hoa Kỳ. Tháng 08/1957 Đại Tá Xử Lý thường vụ Tham Mưu Trưởng BTTM. Tháng 07/1954 Thiếu Tá rồi Trung Tá TM Phó Tiếp Vận BTTM. Tháng 07/1948 Thiếu Úy SQ tập sự Vệ Binh Nam Phần. Năm 1946 đến năm 1947 Chuẩn Uý HSQ cao cấp Viễn Đông (Đập Đá) Trần Thiện Khiêm Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đã có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lãnh tụ miền Nam như Tổng thống Diệm, tuớng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v...đều là những người đã một phần chịu trách nhiệm để Cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên bình diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử thì thật là phiến diện. Do đó tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch sử Việt Nam. Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng thống Diệm ưa thích vì vậy Đại tá Khiêm đã được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 4BB. Thời gian này Đại tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại tá Nguyễn Khánh và Trung tá Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ cuối tuần nào , Đại tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại tá Khánh tại đồn điền trà J'Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung tá Thiệu đương là Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại tá Khiêm Tư lệnh SĐ 21BB từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng thống Diệm, và kể từ đó Đại tá Khiêm được Tổng thống Diệm tín cẩn tuyệt đối, thăng cấp Thiếu tướng và được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Liên quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng thống, Thiếu tướng Khiêm đã đề cử Trung tá Thiệu làm Tư lệnh Sư đoàn 5BB và Thiếu tướng Khánh làm Tư lệnh vùng 2 Chiến thuật. Tóm lại tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thới điểm này nếu có sự đề bạt của Thiếu tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng thống Diệm chấp thuận, ngoài ra TT Khiêm hơn hẳn các tướng lãnh khác là được cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Hòa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của TT Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác. Từ trước tới nay đã có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 nhưng nhiều sự kiện vẫn còn thiếu sót và không chính xác vì chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường thì không phải vậy, Trung tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham mưu trưởng nhưng không được các Tư lệnh quân binh chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay còn lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng trấn Sài Gòn mà thôi. Đến đây tiện giả xin trình bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1-11-63 để quý vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đã soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh. Khoảng đầu tháng 10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vì Thiếu tướng Khiêm được biết ông Ngô Đình Nhu đã có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu tá Giang vì Thiếu tá Giang đã từng là Chánh Văn phòng của Thiếu tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham mưu trưởng Liên quân Thiếu tướng Khiêm đã yêu cầu Nha An ninh quân đội đưa Thiếu tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng phòng An ninh Quân đội Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 20-10-1963 Thiếu tướng Khiêm chỉ thị Thiếu tá Giang qua gặp Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội để cho Đại tá Mậu biết là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu tướng Khiêm tạm giữ Đại tá Mậu vì ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu tướng Khiêm dặn Thiếu tá Giang nói với Đại tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu tướng Khiêm dễ dàng trình lên ông Cố vấn. Cũng trong thời gian này Thiếu tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu tá Giang về phía tướng lãnh Thiếu tướng Khiêm đã tranh thủ được hầu hết, chỉ còn có Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh vùng 4 là chưa hội ý, riêng Tướng Khánh và Đại tá Thiệu hoàn toàn đồng ý với Thiếu tướng Khiêm, ngoài ra các Tư lệnh quân binh chủng đã có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu tướng Khiêm. Nói tóm lại việc vận động, tổ chức cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu tướng Khiêm chủ động vì chỉ có tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng tin tưởng. Sáng sớm ngày 31-10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng; khi Thiếu tá Giang bước vào thì thấy Đại tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại tá Có xuống Mỹ Tho để bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn hiện do Đại tá Đạm là tư lệnh. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Giang đi với Đại tá Có là để Đại tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu tướng Tham mưu trưởng ký vì Đại tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu tướng Khiêm và Thiếu tá Giang. Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu tá Giang trở về Bộ Tổng Tham mưu và được Thiếu tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các tư lệnh quân binh chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh thì thiếu tá Giang phải giữ lại trong phòng họp Bộ Tổng Tham mưu chờ lệnh của Thiếu tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn thì Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung tướng Minh tự ý bắt Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dẫn đi đâu không rõ, sau đó Đại úy Nhung trở lại định bắt Đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Sư đoàn nhảy dù và ông Lê Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành, nhưng Thiếu tá Giang đã ngăn chặn kịp thời. Đại úy Nhung báo lên Trung tướng Minh và Trung tướng đến hỏi lý do cản trở Đại úy Nhung thì Thiếu tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm. Khoảng 2 giờ trưa ngày 31-10-63 Đại úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại tá Tung dẫn 1 đại đội lực lượng đặc biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tình trạng Đại tá Tung, ngay khi đó Đại úy Nhung chạy ra gặp Đại uý Triệu và yêu cầu Đại úy vào trình diện Thiếu tướng Khiêm, Đại úy Triệu nghe lệnh trình diện Thiếu tướng Khiêm nên Đại úy không nghi ngờ gì do đó mới bị chết thảm. Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm đã chủ động qua các diễn trình như: - Ra lệnh cho Đại tá Có điều động Sư đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ vùng 4 chiến thuật. - Lệnh cho Đại tá Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 điều quân về Sài Gòn để làm chủ lực tấn công Lữ đoàn phòng vệ Phủ Tổng thống và Dinh Gia Long. - Cô lập tất cả Tư lệnh Quân binh chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh. - Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư lệnh vùng 2 và Tướng Trí vùng 1 chiến thuật thi hành những biện pháp cần thiết. Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v...có mặt tại Tòa nhà chánh bộ Tổng Tham mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền vì tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong phòng làm việc của tướng Khiêm. Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng thống Diệm. Sau cuộc điện đàm Thiếu tướng Khiêm quay qua tướng Minh, Đôn nói "Tổng thống nói với các tướng lãnh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ý rồi sẽ trình lại Tổng thống sau" nhưng sau đó tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ý đến gặp Tổng thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4:30 chiều 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm tự ý điện thoại cho Tổng thống Diệm với đề nghị đưa Tổng thống cùng toàn thể gia đình ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều Tổng thống Diệm gọi cho tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ý đề nghị nói trên nhưng khi tướng Khiêm hội ý với tướng Minh, Đôn, Kim thì tướng Minh nói ngay "Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục". Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu tướng Khiêm mà thôi. Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đã nhận ra vai trò của tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1-11-63 thành công, nếu tướng Khiêm không được Tổng thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với tướng Minh, Đôn v.v...chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được vì trên cương vị Tham mưu trưởng Liên quân lại được sự tín cẩn của Tổng thống vì vậy các Tư lệnh Quân Binh Chủng đã không có phản ứng nên cách mạng 1-11-63 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của vùng 4, và Sư đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ đoàn Liên Binh phòng thủ phủ Tổng thống với dinh Gia Long. Sau cuộc cách mạng 1-11-63 thành công vai trò nổi bật là những tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng tướng Khiêm với chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của tướng Khiêm trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng hầu như bị lãng quên do đó cuộc chỉnh lý mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất mãn của tướng Khiêm. Người tổ chức, thảo kế hoạch do tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của tướng Khánh và tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư lệnh quân binh chủng. Tuy nhiên vì sở trường của tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên tướng Khánh được tướng Khiêm chỉ định coi như lãnh đạo cuộc chỉnh lý. Trên thực tế tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân, Thủ tướng v.v... Mục tiêu của cuộc chỉnh lý không ngoài mục đích của tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các tướng Minh, Đôn, Kim v.v...để trả thù lại sự vô ơn của các tướng đối với tướng Khiêm sau cách mạng 1-11-63 và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là tướng Khánh, tướng Thiệu v.v... Do đó ngay khi cuộc chỉnh lý thành công tướng Khiêm không muốn ở vị thế lãnh đạo nên đẩy tướng Khánh ra thay thế tướng Minh, đưa tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành hình thì tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đã gây dựng sự nghiệp cho mình là tướng Khiêm, nên tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền mặt khác loại bỏ những người thân cận của tướng Khiêm. Tiện giả còn nhớ câu của tướng Khánh nói với tướng Khiêm khi tướng Khánh tống tướng Khiêm đi làm Đại sứ tại Đài Loan như sau: "Anh phải dời VN trong vòng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh". Mặc dù sau khi tướng Khánh loại được tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Tồn, Trang v.v... Tuy nhiên, tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là tướng Thiệu, vì ngay khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống thì tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ tướng cho đến sát biến cố 4-1975. Xuyên qua những sụ kiện trình bày trên tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng hoà mà tiện giả nghĩ rằng nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đã nắm giữ một vai trò tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v...
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 12, 2011 2:43:11 GMT 9
Trung Tướng Lê Nguyên Khang Tên họ: Lê Nguyên Khang Ngày và nơi sinh 11/6/1931, Sơn Tây, Bắc Việt Học vấn: - Tú tài, 1951, Chu Văn An, Hà Nội - Tốt nghiệp, Khóa 1, Võ Bị Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, 1952 - Tốt nghiệp, Lớp Lục Quân Cao Cấp, Fort Benning, Ga., USA, 1956 - Tốt nghiệp, Khóa TQLC Trung Cấp, Quantico, Va. USA 1958 Chức vụ hiện tại: Phụ Tá Hành Quân Tổng Tham Mưu Trưởng, từ 5/5/1972 Chức vụ quá khứ: - Trung Úy, Biệt Đội Giang Thuyền 3, sau cải danh thành Đại Đội 3 Tuần Tiễu Sông Ngòi - Thiếu Úy, Trưởng Phòng 4, Tư Lệnh Nhóm TQLC. 1954 - Chỉ Huy Trưởng, Đại Đội Bản Doanh, Nhóm TQLC, 1956 - Đại Úy, tháng 5/1956 - Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 2 TQLC, 1957 - Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 3 TQLC, 1959 - Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 1 TQLC, 1960 - Tư Lệnh Lực Lượng TQLC, tháng 4/1960 - Thiếu Tá, 26/10/1961 - Chỉ Huy Trưởng, Lữ Đoàn TQLC, tháng 1/1962 - Trung Tá, 18/6/1962 - Tùy Viên Quân Sự, Sứ Quán Việt Nam, Manila, Philippines, 9/12/1963 - Chỉ Huy Trưởng, Lữ Đoàn TQLC, 26/2/1964 - Chuẩn Tướng, 11/8/1964 - Thiếu Tướng, 15/10/1964 - Tư Lệnh, Biệt Khu Thủ Đô, tháng 6/1965 - tháng 6/1966 - Trung Tướng, tháng 11/1967 - Tư Lệnh, Quân Đoàn 3, từ 10/6/1966 Tiếc Thương Người Nằm Xuống Tướng Lê Nguyên Khang Buổi chiều khi hết giờ làm chuẩn bị ra về, thì được Lâm đến báo tin là ông Tư Lệnh TQLC mình đã mất.[...] Chúng tôi biết bệnh ông từ lâu, ông bị ung thư phổi hết thuốc trị và chỉ chờ đợi có ngày này. Ông không còn đủ sức khỏe đến với anh em chúng tôi trong mỗi dịp ngày kỷ niệm binh chủng như trước, nhưng ông vẫn còn minh mẫn, gọi điện hỏi thăm, theo dõi từng bước chúng tôi đi.[...] Và sự thật thì không còn gì để mà hy vọng, ông đã mất, mất vào lúc 3 giờ 10 phút chiều ngày thứ ba 12.11.1996 tại Los Angeles, hưởng thọ 64 tuổi. Tôi tưởng tôi nghe lầm số tuổi của ông. Tôi hỏi lại bao nhiêu? 64 tuổi. Thì ra ông đã làm tướng từ khi vừa trên dưới 30 tuổi đời, còn rất trẻ và khá đẹp trai.[...] Vào lính năm 1963, ra trường năm 1965 với lon Thiếu Úy, không kinh nghiệm chiến trường, tôi đã "nướng" gần hết Trung Đội mình trong trận thử lửa đầu tiên khi xung phong qua cánh đồng trống tại An Quý Bồng Sơn, tôi là thằng điếc không sợ súng. Không hơn gì tôi, Liêm bạn cùng khóa, vị tân Thiếu Úy mới ra trường đã bỏ lại chiếc giò thân thương của mình tại đồi "10" khi dũng mãnh hiên ngang đứng chỉ huy Trung Đội mình. Vị Tư Lệnh thân yêu của chúng tôi đã có mặt tại chiến trường sau đó một ngày; ông đã đến bắt tay từng người tại vị trí chiến hào. Ông đã khiển trách bộ chỉ huy hành quân khi mở cuộc tấn công mà không sẵn sàng pháo binh cơ hữu yểm trợ. Lần ấy, sau khi về hậu cứ trong một buổi lễ khao quân chính tay ông đã gắn lên ngực tôi Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng, một bảo vật đầu tiên của người lính; và ông đã trách nhẹ tôi là "Cậu đánh giặc quá liều lĩnh và hơi sát quân", tôi gật đầu "Dạ" với niềm đau xót, vừa hãnh diện vừa đắng cay. Tôi chỉ là thằng sĩ quan quèn mới ra trường nhưng rõ ràng lời nói này đã làm tôi vô cùng xúc động, một kỷ niệm không thể nào quên được trong cuộc đời mình. Ông đã sống, đã chỉ huy và đã rất gần với các thuộc cấp của mình. Tháng tư năm 1966, trong buổi họp tại hậu cứ Tiểu Đoàn, ông đã đề nghị với vị Thiếu Tá Lê Hằng Minh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC là nên tìm một cái tên nào đó đặt cho đơn vị, như cái tên "Cọp Ba Đầu Rằn" của Biệt Động Quân vậy. Và danh từ "Trâu Điên" đã ra đời cho Tiểu Đoàn 2 lúc này vì những chiến tích mới đây tại Tam Quan Bồng Sơn...đơn vị được kẻ thù gọi là "các con của bà phước và húc như trâu...". Chuẩn Úy Cầu, Ban 5 Tiểu Đoàn được lệnh thực hiện ngay huy hiệu Tiểu Đoàn với tài họa sĩ của anh. Sau này các tên Quái Điểu, Sói Biển, Kình Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám, Ó Biển, Mãnh Hổ...cũng đã được ra đời. Tháng Năm 1966, sau nhiều biến cố liên tiếp của Phật Gíáo tại miền Trung, TQLC lại lên đường hành quân ra Đà Nẵng bằng chỉ thị thật rõ ràng của ông. Chỉ làm nhiệm vụ yểm trợ các lực lượng địa phương nhằm ổn định tình hình, cố gắng đừng làm mất lòng dân vì quân đội chỉ phục vụ cho dân và vì dân mà chiến đấu. Nếu có ai đó bảo rằng TQLC đã đàn áp Phật Giáo, cướp của đốt bàn thờ...thì đó chỉ là âm mưu tuyên truyền của kẻ thù.[...] Đoạn đường di chuyển hành quân từ Đà Nẵng ra Huế thật thê thảm vô cùng, đoàn xe cứ nhích lên từng đoạn một, phải bò lách qua những dẫy bàn thờ đầy dẫy tại các khu phố Lăng Cô. Bọn Cộng Sản đã xâm nhập và lạm dụng lòng tín ngưỡng của con người một cách thô bạo và trắng trợn. Cũng như Đà Nẵng, đơn vị chúng tôi đã ổn định trật tự tại thành phố Huế chỉ vỏn vẹn có vài ngày. Thừa nước đục thả câu, các Sư Đoàn Cộng Sản đã tập trung sát nách Quảng Trị và âm mưu cưỡng chiếm thị xã này... Lại lên đường... Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên đã bị lọt vào trận độn thổ phục kích của địch vào lúc 10 giờ sáng ngày 29.6.1966 tại cây số 23 phía Nam Cầu Phò Trạch, Phong Điền, Thừa Thiên. Cố Đại Tá Lê Minh Hằng bị tử trận cùng nguyên Trung Úy Son Xít. Nhưng bù lại xác địch cũng nằm ngổn ngang trải dài trên những ngọn đồi máu từ quốc lộ 1 về phía Tây tận dãy Trường Sơn... Đại Úy cố vấn Campbell đã bị bắt sống và vượt thoát trở về nhờ sự phản công của các lực lượng ta và đồng minh Huê Kỳ. Đây là một cuộc hành quân bị tiết lộ trước do các tên Cộng Sản nằm vùng bộ Chỉ Huy hành quân vùng I Chiến Thuật nhằm triệt hạ uy danh của Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên. Đám tang của vị Tiểu Đoàn Trưởng trẻ tuổi, tài ba, nghệ sĩ...được tổ chức thật long trọng tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp trước sự chứng kiến đưa tiễn của nhiều người...Và vị Tư Lệnh TQLC của chúng tôi đã khóc! Những giọt nước mắt long lanh lăn nhẹ trên gò cao qua làn kính trắng quả đã tô đậm thêm cho mầu cờ sắc áo của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn, người nằm xuống được vinh danh tiếc thương...Kẻ còn sống lại tiếp tục chiến đấu...Và Minh, Chinh, Kiệt, những người cùng khóa với tôi ở Tiểu Đoàn Trâu Điên này đã lần lượt nằm xuống...khi tuổi đời hãy còn rất trẻ. Ông đã hiện diện và sát cánh với anh em TQLC chúng tôi khắp mọi nơi, mọi thời điểm. Ngay cả những khi sau này khi ông không còn giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn nữa. Vào những ngày sôi động nhất của cuộc chiến Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 72...ông đã đến tận chiến trường với chúng tôi bằng con tim và khối óc. Ông đã thở bằng nhịp thở của từng người lính, từng cấp chỉ huy, từng đơn vị. Ông theo dõi từng trận chiến, hãnh diện và đau lòng về các thành tích và thiệt hại. Trận đánh Cửa Việt năm 1973...trong lúc chỉ huy, đơn vị tôi đã bị vây hãm tứ bề. Ông hỏi thăm về tôi, về thằng Tây Ninh là thằng nào?... Và chính ông đã ra lệnh cho bộ Chỉ Huy hành quân bằng mọi cách phải cứu nó về. Tôi nhớ ơn ông và thật sự tôi đã được trở về trong đường kẽ tóc. Ngày nay, sau một thời gian dài mất nước, còn lại gì sau cuộc bể dâu nghiệt ngã tan thương, người lính thực sự không còn nguyên vẹn hình hài, mất tích nơi rừng sâu biển động hay còn rên siết trong xích xiềng tù đầy bóng tối hoặc tha phương cầu thực xứ người. Nào mấy ai còn nhớ được tình chiến hữu ngày nào! Cuộc sống vật chất đã làm biến dạng hình hài. Họ - những cấp chỉ huy tối cao, những người lãnh đạo đất nước vẫn tiếp tục cuộc sống phè phỡn hưởng thụ - đoạn tuyệt với quá khứ, chính cái quá khứ đã tạo nên cuộc sống vàng son muôn đời của họ. Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi, thời gian được tính toán đo lường một cách chỉ ly theo vật chất lũy tiến hằng ngày. Nước mắt nhà tan cũng chẳng sao, ai còn, ai mất, ai tù đày...cũng chẳng ăn nhằm gì tới họ. Sống chui rúc vào cái vỏ sò khép kín được bọc bằng cái học bị "bác sĩ", "kỹ sư"... cho gia đình và chí con cháu họ. Sống một cách nhục nhã, ích kỷ, ươn hèn. Cựu Trung Tướng Lê Nguyên Khang, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, là một trường hợp điển hình quý hiếm, ông đã sống hết mình với anh em, với đồng bào... Và hầu như họ cũng dành trọn cuộc đời cho quê hương dân tộc. Ông quả xứng đáng là một danh tướng của QLVNCH. Từ nhiều năm nay, ông đã có mặt trong hầu hết các buổi sinh hoạt của các hội đoàn, của cộng đồn, ông đã đi nhiều nơi, nhưng không ngoài mục đích là đấu tranh cho một nước Việt Nam không Cộng Sản. Có chứng kiến được hình ảnh của ông với chiếc béret xanh mầu TQLC đội nghiêng nửa đầu, tay cầm lá quốc kỳ thân yêu vẫy mạnh trong đoàn người biểu tình tại Cali...Có nghe ông hát thật to, thật ngạo nghễ cùng đôi bàn tay vỗ mạnh nhịp nhàng bản nhạc "Cờ Bay, Cờ Bay" hay "TQLC Hành Khúc" trong mỗi lần kỷ niệm binh chủng tại Seattle, Washington D.C., Houston...Có nhìn thấy tận mắt Ông Bà cùng ăn, cùng ngủ với các chiến hữu của mình tại nhà anh chị Trung Úy Gừng ở Okhahoma City, của gia đình Hạ Sĩ Thành ở Sacramento ngay trên thảm nhà, trên bộ salon bình dị thoải mái...và có thuộc vào diện những người mới đến định cư với những lời hỏi thăm ân cần, một chút quà nhỏ tượng trưng của ông để sớm làm quen với cuộc sống...thì mới biết được tấm lòng bao la của vị cựu Tư Lệnh TQLC mgày nào và tại sao trái tim mình như muốn ngừng đập vì sự mất mát quá lớn lao này. Rồi đây trong những ngày họp mặt binh chủng sắp tới, chắc chắn rằng trong lòng mỗi cựu chiến hữu TQLC chúng tôi sẽ thấy xốn xang, nuối tiếc, thèm thuồng hình ảnh người anh cả của Sư Đoàn cắt nhẹ chiếc bánh sinh nhật kỷ niệm...Sẽ mất đi lời chỉ dậy ân cần cho một sự nghiệp đấu tranh còn tiếp tục. Sẽ không còn ai hỏi thăm lo lắng về gia đình Vô Đằng Phương, Nguyễn Văn Nhiều, Trần Văn Lượm... Về những hoàn cảnh nghiệt ngã của từng thuộc cấp ở quê nhà, sẽ không còn ai nhắc đến những người hùng của TQLC Việt Nam, Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng, Nguyễn Đằng Tống, Trân Ba, Trần Văn Hợp... Và các cây viết mũ xanh như Cao Xuân Huy, Huỳnh Văn Phú, Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Đăng Hòa, Trần Xuân Dũng...sẽ đau xót biết bao cho cái tang chung này. Vì lúc ông còn sống, đã từng nâng niu, hãnh diện về các tác phẩm của họ... Thôi mất hết rồi...Còn gì nữa hỡi các chiến hữu TQLC/VN.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 12, 2011 2:45:15 GMT 9
Trung tuong Nguyen Duc ThangNhững Giai Thoại Sạch của Tướng Thắng Bây giờ tôi xin kể hầu bạn đọc những chuyện đã trở thành giai thoại "sạch" của trung tướng Nguyễn Đức Thắng, đã khiến ông được liệt vào hàng tướng sạch hạng thứ tư, sau các tướng Trưởng và tướng Chinh. Cả 3 vị tướng "không ở dơ" này hiện đang tị nạn ở Mỹ. Xét về nhân dạng, tướng Thắng có bộ vó to cao như người Tây Phương, với cái cổ bò gắn liền vào cái gáy dẹp của một cái đầu cá trê, mà tóc luôn luôn hớt cao theo kiểu nhà binh gương mẫu. Trong thời gian nghỉ ngơi, không phải bận quân phục, ông thường ăn mặc rất giản dị, thường là chiếc áo sơ mi trần ngắn tay, và cái quần tây màu đậm. Tướng Thắng cũng giống như tướng Sáu Lèo, và bác sĩ Trần Kim Tuyến, thường mang dép lè phè khi trời nóng nực. Nhà của tướng Thắng nằm trong khu cư xá gần cầu Công Lý. Những khi ở nhà, nhàn rỗi, ông thường kê chiếc ghế vải ra hàng ba, nằm đọc sách, hoặc ngồi trên bờ tường hàng ba thấp, đưa lưng ra lối đi. Những lúc ấy, người ta thường thấy ông ở trần trùi trụi, đưa cái lưng to như tấm phản ra, và mặc chiếc quần đùi vải màu khaki của Mỹ rộng thênh thang, xệ xuống đến quá rún. Hằng tuần, vào buổi sáng Chúa Nhựt, ông thường lái chiếc xe du lịch, hiệu Ford 8, cũ mèm, đi xem lễ ở nhà thờ Tân Định. Những ai thường đi xem lễ nơi đây, cùng giờ với ông, hẳn đều để ý ông là người đọc kinh to tiếng nhất. Về phương diện ăn uống, tướng Thắng đã tỏ ra là một tay đệ tử của Hạ Hầu Đôn trong tiểu thuyết cổ điển Tàu. [...] Tôi không biết tướng Thắng có kham nổi một lúc 3 con gà và 3 con vịt quay hay không, nhưng tôi đã thấy, có lần ông ngồi trên xe Jeep, mà "quạp" một lúc bay luôn 3 ổ bánh mì thịt tổ nái. Cái chữ "quạp" bất hủ này tôi đã mượn của một anh bạn từng làm bí thư cho tướng Thắng khi ông ta giữ chức tổng trưởng bộ Cải Tiến Nông Thôn, thay thế cho ông Nguyễn Tất Ưng, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, dưới thời nội các chiến tranh của thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Một hôm rảnh rỗi, tôi lái xe tạt vào bộ Cải Tiến Nông Thôn, thăm ông bạn bí thư chơi. Lúc ấy đã gần 11 giờ rồi mà ông tổng trưởng Nguyễn Đức Thắng cũng chưa có mặt trong văn phòng. Tôi hỏi anh bí thư: - "Ngày nào ông tổng trưởng cũng đến trễ thế này à?" Anh bí thư đáp: - "Ừ, ngày nào cũng thế đấy! Hôm nào sớm nhất cũng phải 10 giờ rưỡi!" Ngưng giây lát, dường như được dịp xổ nỗi bất mãn đã chứa chất nặng chĩu trong lòng từ lâu, anh nói tiếp: "Đ. mẹ không biết mỗi sáng hắn phải vào Phủ (ám chỉ Phủ Tổng Thống) để chầu lãnh chỉ thị, hay phải ở nhà "trả bài học thuộc lòng" cho bà xã xong, rồi mới vào bộ?!" Anh hạ bớt giọng bực bội, kể lể thêm: "Ngày nào hắn cũng đến trễ thế đấy! Khi nào đến là hắn vào phòng bằng ngõ sau, bật đèn đỏ ở cửa lên liền, để báo cho mình biết rằng hắn đang bận làm việc, không ai được phép vào quấy rầy. Lắm khi đèn cứ đỏ như thế đến hết ngày. Ở ngoài này, mình không dám đi đâu cả. Có chuyện gì cũng không dám vào bẩm báo. Nhiều hôm mình bị đói gần chết, muốn xỉu luôn, mà không dám tự tiện bỏ đi ăn...Một lần, chờ mãi đến quá trưa, mình chịu hết nổi, làm gan mở đại cửa ra, thì thấy hắn đang ngồi gân cỏ lên "quạp" một ổ bánh mì thịt to tướng. Hắn ăn uống như thế mà chẳng cần biết gì đến ai cả. Nhưng tệ nhất là hắn chuồn về nhà lúc nào mình cũng đéo biết nữa. Hắn cứ để đèn đỏ như thế suốt ngày, rồi mở cửa sau chuồn thẳng. Trong khi ấy, mình ở ngoài này cứ ngỡ hắn đang mải làm việc, nên không dám bỏ về!"... Nhưng tất cả những chuyện kể trên đều chỉ phác họa chân dung của tướng Thắng, chớ chưa nói gì đến giai thoại sạch. Trong thời gian còn ỏ quê nhà, chắc bạn đã nghe đồn tướng Thắng là một trong số 4 ông tướng sạch! Vậy, tôi xin kể hầu bạn một số giai thoại của tướng Thắng, để tùy bạn phê phán. Ngày 23.2.1968, tướng Thắng được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Quân Đoàn 4, vùng 4 Chiến Thuật, kiêm Đại Biểu Chánh Phủ vùng 4, thay thế trung tướng Nuyễn Văn Mạnh. Vì vợ chồng tướng Mạnh đã tham nhũng, ăn hối lộ trắng trợn, lừng danh khắp vùng chiến thuật, đến nỗi quân đội Mỹ, không hiểu tiếng Việt, mà cũng biết được chuyện vợ chồng ông tướng này chuyên môn "thâu hụi chết" hàng tháng. Nay muốn tẩy uế cái dư luận thối tha dơ bẩn của vợ chồng tướng Mạnh để lại, chánh phủ tìm một ông tướng có tiếng sạch thay thế. Thực ra tướng Thắng là người đàng hoàng trong vấn đề tiền bạc. Có lần tướng Thắng đã cầm đầu một phái đoàn đi tham quan ngoại quốc. Trên nguyên tắc, tùy thời hạn, mỗi sĩ quan trong phái đoàn đều được đổi mỗi người một ít ngoại tệ để tiêu xài và chánh phủ cho riêng một ít tiền túi. Còn ông tướng trưởng phái đoàn thì có thêm một ngân khoản gọi là "ngân sách tiếp tân". Khi ra nước ngoài, tướng Thắng đã không xử dụng số tiền tiếp tân của chánh phủ cấp phát. Lúc về nước, ông đã đem trả đủ số tiền không chi tiêu ấy vào ngân sách cho chánh phủ! Khi trung tướng Nguyễn Đức Thắng về lam tư lệnh vùng 4, thay thế vợ chồng trung tướng Nguyễn Văn Mạnh, người ta còn được nghe thêm một vài giai thoại sạch của tướng Thắng như sau: Chuyện này đã xảy ra trong thời kỳ tướng Thắng lãnh chức vụ tư lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, kiêm đại biểu chánh phủ. Vùng này áp lực quân sự của quân CSBV cũng rất nặng nề, không kém gì các quân khu khác. Vốn là một sĩ quan to con, khoẻ mạnh, hiếu động, tướng Thắng thích tự thân xông pha với các chiến sĩ của ông trong những cuộc hành quân bình định đại qui mô. Những dịp này, nếu có đồng bào hay thường dân từ trong những vùng quê xa xôi, hẻo lánh, mất an ninh, bồng bế, dắt díu nhau đi ra, tướng Thắng thường làm gương cho binh sĩ là đi bộ, nhường xe vận tải chở thường dân, nhất là đàn bà và trẻ thơ. Hôm ấy là dịp tướng Thắng, tư lệnh vùng, đi thị sát lãnh thổ trách nhiệm và hội họp bộ tham mưu tại tiểu khu Rạch Giá. Như thế, tất nhiên vị tiểu khu trưởng kiêm tỉnh trưởng địa phương, theo lệ thường, phải khoản đãi quan khách một bữa ăn thịnh soạn. Bữa ăn đó thường diễn ra trong tỉnh đường và do công quỹ đài thọ. Nhưng tướng Thắng đã không dự tiệc, mà lại ra ngồi ngoài xe Jeep, gân cổ lên "quạp" ổ bánh mì thịt to tổ nái. Như thế các vị quan khách nhà binh cũng thình lình bị ăn một bữa "cơm tây tay cầm" hoàn toàn bất đắc dĩ! Trong thời gian ở quê nhà, tôi còn nhớ nhiều lần bộ Quốc Phòng cũng như bộ Tổng Tham Mưu phải ra thông cáo cấm chỉ việc dùng quân xa chở đàn bà, con gái, nhưng hiệu quả cũng không giảm bớt được bao nhiêu. Trong thời gian tướng Thắng làm tư lệnh Quân Đoàn 4, tư dinh của ông đóng tại một dinh thự nguy nga, rộng lớn, để lại từ thời Tây. Từ dinh ra đến cổng phải trải qua một khoảng sân trải sỏi rất rộng. Một hôm, bà tướng tư lệnh vùng đi chợ về bằng xích lô đạp. Tới đầu cổng bà tướng bước xuống xe, nhưng còn mấy xách tay, đựng thức ăn to lớn, nặng nề, bà đang loay hoay chưa biết phải xoay sở ra sao. Đường từ cổng dinh vào đến nhà bếp, sau dinh khá xa. Đúng lúc ấy, một chiếc xe Díp từ trong chạy ra. Bằng một hành động hoàn toàn tự nhiên, và đầy nhân tính, chú tài xế vội dừng xe, giúp bà tướng nâng những chiếc giỏ đựng thức ăn lên xe và chở luôn cả bà tướng trở vào. Khi chú tài xế lái xe trở ra, tướng Nguyễn Đức Thắng đã vẫy chú tài xế lại, và lạnh lùng ra lịnh chở bà và tất cả những giỏ đồ ăn bỏ xuống chỗ cũ!
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 12:35:53 GMT 9
Chronology VN 2809 BC - 258 BC Van Lang kingdom under Hung Voung dynasty. 257 BC Renamed Au Lac kingdom. 196 BC - 111 BC Vassal of China. 111 BC Annexed by China. 40 AD - 43 AD Brief independence under the Trung sisters. 544 AD - 602 AD Van Xuan independent under Le dynasty. 679 Creation by China of the protectorate general of An Nam. 939 Ngo Quyen defeated the kingdom of Nam Han; traditional date of Vietnamese independence. 965 - 968 Turmoil, divided into 12 feudal lordships under: Ngo Xoung Xi in Binh Kieu; Do Canh Thuc in Do Dong Giang; Tran Lam in Bo Hai Khau; Kieu Cong Han in Phong Chau; Nguyen Khoan in Tam Dai; Nguyen Nhat Khanh in Doung Lam; Ly Khe in Sieu Loai; Nguyen Thu Tiep in Tien Du; Lu Doung in Te Giang; Ngueyen Sieu in Tay Phu Liet; Kieu Thuan in Cam Khe; and Pham Bach Ho in Dang Chau 968 - 980 Renamed Dai Co Viet. 1010 Dai Viet Quoc (Great Viet Realm; Viet [Chinese: Yue]) is a geographic concept of a variable China/Vietnam location. 1558 - 1777/87 Division into north and south by ruling dynasties. Trinh line rules from Hanoi (Tonkin), the Nguyen line rules from Hue (Annam and Cochinchina). 1666 - 1884 Annam a tributary to China. 31 May 1802 Dai Viet Quoc (Great Viet Realm) restored after defeat of the Tay Son rulers. 1804 Viet Nam Quoc (Viet Nam Realm)(name authorized by China). 15 Feb 1839 Dai Nam Quoc (literally, "Great South Realm") (name not authorized by China). Sep 1858 French occupy Da Nang (Tourane) and Saigon. 18 Feb 1859 French occupy Saigon. 5 Jun 1862 Southern region (Cochinchina) ceded to France. 20 Nov 1873 - 15 Mar 1874 French occupy Hanoi and Haiphong in Tonkin. 15 Mar 1874 Tonkin a French protectorate by Treaty of Saigon. 27 Apr 1882 - 25 Aug 1883 French again occupy Hanoi. 25 Aug 1883 Annam and Tonkin become French protectorates by Treaty of Hué. 17 Oct 1887 Union of Indochina formed (Cambodia, Annam, Tonkin, and Cochinchina, and from 3 Oct 1893, Laos). Oct 1888 Hanoi, Haiphong and Danang are ceded to France. 1900 Koung-Tchéou-Wan (Kwangchowan) China leased territory administratively joined to French Indo-China. 16 Jun 1940 - 9 Mar 1945 Administration loyal to Vichy France. 22 Sep 1940 Japanese troops based in northern Indochina. 28 Jul 1941 Japanese troops based in southern Indochina. 9 Mar 1945 - 15 Aug 1945 Japanese occupation. 11 Mar 1945 Emperor Bao Dai proclaims the end of the French protectorate and the restoration of the independence of Vietnam (in full cooperation with Japan). 12 Jun 1945 Viet Nam Empire 25 Aug 1945 End of the empire; subsequently de facto division between North and South Vietnam. 2 Sep 1945 Independence proclaimed (Democratic Republic of Vietnam); controlling North Vietnam only. 6 Mar 1946 France recognizes the Democratic Republic of Vietnam (north) as a free state within the Federation of Indochina and French Union. Sep 1945 - Jan/Mar 1946 Allied occupation of French Indo-China by China above 16th parallel, and Britain below. 1 Jun 1946 - 14 Jun 1949 Autonomous Republic of Cochinchina (in the South). 21 Jul 1954 Division formalized by Geneva Accords. 5 Oct 1954 The last French troops leave Hanoi. 26 Oct 1955 Republic of Vietnam (South Vietnam). 30 Apr 1975 Republic of South Vietnam 2 Jul 1976 Unification as Socialist Republic of Vietnam. Empire (1675-1945) Champa/ Panduranga (1695-1822) Pulo Condor (1702-1705) French Indochina (1887-1956) Annam (1875-1955) Tonkin (1886-1955) French Cochinchina (1858-1946) North Vietnam (1945-1976) South Vietnam (1946-1976) Map of Ethnic Groups in Indochina Historical Maps of Vietnam Empire Capital: Hue (Hanoi 1010-1802) Imperial Anthem "Dang Dan Cung" Note: Although the monarchy dealt with imperial China as a tributary state, and the ruler was addressed by the imperial court as "king of An Nam," domestically a full imperial system was established, including era names. The information listed here (there sometimes is even more available) is as follows: personal name (ho [family name] + huy [tabooed personal name]) followed by temple name (mieu hieu), posthumous style (dang ton hieu), and era name(s) (nien hieu) initiated during the respective reign; some emperors are often referred to by the nien hieu (e.g., the Bao Dai emperor). Rulers (from 1806, Emperors [style Dai Viet Hoang De]); from 1884, imperial title translated by the French as King) 3 Aug 1675 - May 1705 Le Duy Hiep mieu hieu: Hi Tong / dang ton hieu: Chuong Hoang De nien hieu 31 Jan 1680 - May 1705: Chinh Hoa 22 May 1705 - Apr 1729 Le Duy Duong mieu hieu: Du Tong / dang ton hieu: Hoa Hoang De nien hieu May 1705 - 8 Feb 1720: Vinh Thinh nien hieu 8 Feb 1720 - 27 Apr 1729: Bao Thai Apr 1729 - Sep 1732 Le Duy Phuong dang ton hieu: (Hon Duc De) nien hieu Apr 1729 - Sep 1732: Vinh Khanh Sep 1729 - 7 May 1735 Le Duy Tuong mieu hieu: Thuan Tong / dang ton hieu: Gian Hoang De nien hieu Sep 1732 - 7 May 1735: Long Duc May 1735 - Jun 1740 Le Duy Thin (also called Le Duy Chan) mieu hieu: Y Tong / dang ton hieu: Huy Hoang De nien hieu May 1735 - Jun 1740: Vinh Huu Jun 1740 - 10 Aug 1786 Le Duy Dao mieu hieu: Hien Tong / dang ton hieu: Vinh Hoang De nien hieu Jun 1740 - 18 Feb 1787: Canh Hung (also reputed later to have continued to 31 May 1802) 1767 - 1769 Le Duy Mat (in rebellion) Aug 1786 - 30 Jan 1789 Le Duy Ky dang ton hieu: Man Hoang De nien hieu 18 Feb 1787 - 1789: Chieu Tong (also reputed later to have continued to 31 May 1802) 30 Jan 1789 - 31 May 1802 Rule extinguished by Tay Son rulers 1789 - 1790 Le Duy Chi (in rebellion against Tay Son rule) 31 May 1802 - 3 Feb 1820 Nguyen Phuoc Noan (b. 1762 - d. 1820) mieu hieu: The To / dang ton hieu: Cao Hoang De nien hieu 31 May 1802 - 14 Feb 1820: Gia Long 14 Feb 1820 - 20 Jan 1841 Nguyen Phuoc Hao (b. 1791 - d. 1841) mieu hieu: Thanh To / dang ton hieu: Nhan Hoang De nien hieu 14 Feb 1820 - 11 Feb 1841: Minh Mang 11 Feb 1841 - 4 Nov 1847 Nguyen Phuoc Toan (b. 1807 - d. 1847) mieu hieu: Hien To / dang ton hieu: Chuong Hoang De nien hieu 11 Feb 1841 - 9 Nov 1847: Thieu Tri 10 Nov 1847 - 19 Jul 1883 Nguyen Phuoc Thi (b. 1829 - d. 1883) mieu hieu: Duc Tong / dang ton hieu: Anh Hoang De nien hieu 5 Feb 1848 - 27 Jan 1884: Tu Duc 19 Jul 1883 - 2 Dec 1883 Regency Council - Tran Tien Thanh (to Sep 1883) (b. 1813 - d. 1883) - Nguyen Van Tuong (b. 1824 - d. 1886) - Ton That Thuyet (b. 1835 - d. 1913) 20 Jul 1883 - 23 Jul 1883 Nguyen Phuoc Ung Chan (b. 1852 - d. 1883) mieu hieu: Cung Tong / dang ton hieu: Hue Hoang De (often referred to by the nickname Duc Duc) 30 Jul 1883 - 29 Nov 1883 Nguyen Phuoc Thang (b. 1847 - d. 1883) dang ton hieu: Cung Tong Hoang De (often referred to as Hiep Hoa) 2 Dec 1883 - 31 Jul 1884 Nguyen Phuoc Hieu (b. 1869 - d. 1884) mieu hieu: Gian Tong / dang ton hieu: Nghi Hoang De nien hieu 27 Jan 1884 - 15 Feb 1885: Kien Phuoc 2 Dec 1883 - 2 Aug 1884 Regency Council - Nguyen Van Tuong (s.a.) - Ton That Thuyet (s.a.) - Prince Nguyen Phuoc Huong Huu, (b. 1835 - d. 1885) Gia-huong Vuong 2 Aug 1884 - 5 Jul 1885 Nguyen Phuoc Minh (b. 1871 - d. 1947) nien hieu 15 Feb 1885 - 18 Sep 1885: Ham Nghi (continues in rebellion to Nov 1888) 2 Aug 1884 - 5 Jul 1885 Regency Council - Nguyen Van Tuong (s.a.) - Prince Nguyen Phuoc Huong Huu, (s.a.) Gia-huong Vuong (to 21 Oct 1884) - Prince Nguyen Phuoc Mien Lam, Duke of Hoai Duc (b. 1832 - d. 1897) (from Nov 1884) 15 Jul 1885 - Jul 1885 Prince Nguyen Phuoc Mien Dinh, (b. 1810 - d. 1886) Tho-Xuan Vuong -Regent 19 Sep 1885 - 28 Jan 1889 Nguyen Phuoc Bien (b. 1864 - d. 1889) mieu hieu: Canh Tong / dang ton hieu: Thuan Hoang De nien hieu 7 Nov 1885 - 1 Feb 1889: Dong Khanh 1 Feb 1889 - 3 Sep 1907 Nguyen Phuoc Buu Lan (b. 1879 - d. 1954) nien hieu 1 Feb 1889 - 5 Sep 1907: Thanh Tai 1 Feb 1889 - 27 Sep 1897 Regency Council - Prince Nguyen Phuoc Mien Trinh, Tuy-Ly Vuong (b. 1820 - d. 1897) - Prince Nguyen Phuoc Mien Lam, Duke of Hoai Duc (s.a.) - Nguyen Trong Hiep (b. 1834 - d. 1902) (to 4 Sep 1896 [effectively Mar 1897]) - Truong Quang Dan (to Apr 1896) - Nguyen Than (from Apr 1896) (b. 1840 - d. 1914) - Bui An Nien (from Apr 1890) - Hoang Cao Khai (from Jul 1897) (b. 1850 - d. 1933) 29 Jul 1907 - 18 May 1916 Truong Nhu Cuong (b. 1843 - d. 19..) (president of the Regency Council) 5 Sep 1907 - 3 May 1916 Nguyen Phuoc Vinh San (b. 1900 - d. 1945) nien hieu 5 Sep 1907 - 18 May 1916: Duy Tan 18 May 1916 - 6 Nov 1925 Nguyen Phuoc Tuan (b. 1885 - d. 1925) mieu hieu: Hoang Tong / dang ton hieu: Tuyen Hoang De nien hieu 18 May 1916 - 13 Feb 1926: Khai Dinh 6 Nov 1925 - 10 Sep 1932 Ton That Han (b. 1854 - d. 1944) (president of the Regency Council) 8 Jan 1926 - 25 Aug 1945 Nguyen Phuoc Vinh Thuy (b. 1913 - d. 1997) nien hieu 13 Feb 1926 - 25 Aug 1945: Bao Dai Prime ministers 9 Mar 1945 - 7 Apr 1945 Pham Quynh 7 Apr 1945 - 19 Aug 1945 Tran Trong Kim (b. 1882 - d. 1953) The Trinh and Nguyen lords Note: The Trinh family ruled the North from the imperial capital at or near present-day Hanoi; the Nguyen (properly Nguyen Phuoc) family ruled the South (present-day Center) from their capital at or near present-day Hue. The official style of each ruler is chua, but the Trinh are assigned honorifics with the Sino-Viet royal style vuong. The Nguyen rulers not only acquired royal honorifics (thuy hieu) during their reign, but the full royal/imperial temple name and posthumous style, changing in time from Sino-Viet vuong (king) to hoang de (emperor) after the family became the imperial rulers after 1802. This record shows a limited choice of these often very long names and styles. Rulers - Trinh family - 1682 - 1709 Trinh Can "Dinh Vuong" 1709 - 1729 Trinh Cuong "An Do Vuong" 1729 - 1740 Trinh Giang "Uy Nam Vuong" 1740 - 1767 Trinh Doanh "Minh Do Vuong" 1767 - 1782 Trinh Sam "Tinh Do Vuong" 1782 Trinh Man 1782 - 1786 Trinh Khai "Doan Nam Vuong" 1786 - 1787 Trinh Bông "An Do Vuong" - Nguyen Phuoc family - 7 Feb 1691 - 1 Jun 1725 Nguyen Phuoc Chu "Chua Minh" (b. 1675 - d. 1725) mieu hieu: Hien Tong /dang ton hieu: Minh Hoang De 1 Jun 1725 - 7 Jun 1738 Nguyen Phuoc Tru "Chua Ninh" (b. 1697 - d. 1738) mieu hieu: Tuc Tong /dang ton hieu: Ninh Hoang De 7 Jun 1738 - 7 Jun 1765 Nguyen Phuoc Khoat (b. 1714 - d. 1765) mieu hieu: The Tong /dang ton hieu: Vo Hoang De 31 Dec 1765 - 1776 Nguyen Phuoc Thuan (b. 1753 - d. 1778) mieu hieu: Due Tong /dang ton hieu: Dinh Hoang De 1776 - 1777 Nguyen Phuoc Duong dang ton hieu: (Tan Chinh Vuong) The Tay Son Rulers Note: The rule by this family (family name Nguyen, changed from Ho) begins in 1776 in the Central part of the country, restricting the imperial Le line to a small area. On 22 Dec 1788 a brother of the Central ruler proclaims the Le rule extinct and assumes the imperial style. The two lines continue to rule, each in part of the country, until the "imperial" ruler unifies the country in 1793 and rules until Jul 1802. Ruler (title Vuong; from 1778, Thien Vuong; from Jun 1787, Trung Uong Hoang De) 1776 - Oct 1793 Nguyen Van Nhac (Ho Van Nhac) (b. c.1752 - d. 1793) nien hieu 1778 - Oct 1793: Thai Duc Rulers (title Dai Viet Hoang De) 22 Dec 1788 - 15 Sep 1792 Nguyen Van Hue (Nguyen Quang Binh) (b. c.1752 - d. 1792) mieu hieu: Thai To / dang ton hieu: Vo Hoang De nien hieu 22 Dec 1788 - 11 Feb 1793: Quang Trung 15 Sep 1792 - Jul 1802 Nguyen Quang Toan (Nguyen Trac) (b. 1782 - d. af.1802) nien hieu 11 Feb 1793 - Jun 1801: Canh Thinh nien hieu Jun 1801 - Jul 1802: Bao Hung 1792 - 1795 Bui Doc Tuyen -Regent Champa (Panduranga) Note: Vietnamese sources on Champa dry up at the end of the 17th century. The royal chronicle of Pangdarang (Pali: Panduranga) claims that the polity of this name is the true continuation of Champa, and there is some meager evidence that that is the case, at least for the final portion of the chronicle (which claims to deal with events beginning in 1000). Map of Champa Capital: Pangdarang (Vijaya 986 - 1471; Indrapura 860-986; Simhapura 4th - 860) Population: N/A 192 Champa Kingdom founded in the southern part of modern day Vietnam. 1145 - 1147 Annexed by Camodia. 1312 - 1326 Vassal of Annam. 1471/1697 Tonkin/Annam annexes the major portions of the Champa Kingdom. 1697 - 1822 Vassal of Annam. 1822 Kingdom extinguished and incorporated into Vietnam. Kings 1695 - 1728 Po Saktirai da putih 1728 - 1730 Po Ganvuh da putih 1731 - 1732 Po Thuttirai 1732 - 1735 Vacant 1735 - 1763 Po Rattirai 1763 - 1765 Po Tathun da moh-rai 1765 - 1780 Po Tithuntirai da paguh 1780 - 1781 Po Tithuntirai da parang 1781 - 1783 Vacant 1783 - 1786 Chei Krei Brei 1786 - 1793 Po Tithun da parang 1793 - 1799 Po Lathun da paguh 1799 - 1822 Po Chong Chan Pulo Condor Island 16 Jun 1702 British East India company founds settlement on the island of Pulo Condor off the south coast of southern Vietnam. 2 Mar 1705 Garrison and settlement destroyed. Factor 16 Jun 1702 - 2 Mar 1705 Allen Cathpoole (d. 1705) French Union of Indo-China Map of French Indo-China Capital: Hanoi (Saigon 1887- 1 Jan 1902) Currency: French Indochina Piastre (ICFP) Population: 21,599,582 (1935) (incl. Kwangchowan) Governors-general 16 Nov 1887 - Apr 1888 Jean Antoine Ernest Constans (b. 1833 - d. 1913) Apr 1888 - 31 May 1889 Étienne Antione Guillaume Richaud (b. 1841 - d. 1889) 31 May 1889 - Apr 1891 Jules Georges Piquet (b. 1839 - d. 1923) Apr 1891 - Jun 1891 Bideau (acting) Jun 1891 - 31 Dec 1894 Jean Marie Antoine de Lanessan (b. 1843 - d. 1919) Mar 1894 - Oct 1894 Léon Jean Laurent Chavassieux (b. 1848 - d. 1895) (acting for Lanessan) Dec 1894 - Feb 1895 François Pierre Rodier (acting) (b. 1854 - d. 19..) Feb 1895 - 10 Dec 1896 Paul Armand Rosseau (b. 1835 - d. 1896) Dec 1896 - 13 Feb 1897 Augustin Juline Fourès (acting) (b. 1853 - d. 19..) 13 Feb 1897 - Oct 1902 Joseph Athanase Paul Doumer (b. 1857 - d. 1932) Oct 1902 - Feb 1907 Jean Baptiste Paul Beau (b. 1857 - d. 1927) 18 Feb 1907 - Sep 1908 Louis Alphonse Bonhoure (acting) (b. 1864 - d. 1909) Sep 1908 - Jan 1910 Antony Wladislas Klobukowski (b. 1855 - d. 1934) Jan 1910 - Feb 1911 Albert Jean George Marie Louis (b. 1853 - d. 1917) Picquié (acting) Feb 1911 - Nov 1911 Paul Louis Luce Nov 1911 - Jan 1914 Albert Pierre Sarraut (1st time) (b. 1872 - d. 1962) Jan 1914 - 7 Apr 1915 Joost van Vollenhouven (acting) (b. 1877 - d. 1918) Apr 1915 - May 1916 Ernest Nestor Roume (b. 1858 - d. 1941) May 1916 - Jan 1917 Jean Eugène Charles (acting) Jan 1917 - May 1919 Albert Pierre Sarraut (2nd time) (s.a.) May 1919 - Feb 1920 Maurice Antoine François (b. 1874 - d. 19..) Montguillot (1st time)(acting) Feb 1920 - Apr 1922 Maurice Long (b. 1866 - d. 1923) Apr 1922 - Aug 1922 François Marius Baudouin (acting) Aug 1922 - Apr 1925 Martial Henri Merlin (b. 1860 - d. 1935) Apr 1925 - Nov 1925 Maurice Antoine François (s.a.) Montguillot (2nd time) 18 Nov 1925 - Jan 1928 Alexandre Varenne (b. 1870 - d. 1947) Jan 1928 - Aug 1928 Maurice Antoine François (s.a.) Montguillot (3rd time) 22 Aug 1928 - 15 Jan 1934 Pierre Marie Antoine Pasquier (b. 1877 - d. 1934) 15 Jan 1934 - Sep 1936 Eugène Jean Louis René Robin Sep 1936 - 23 Aug 1939 Joseph Jules Brévié (b. 1880 - d. 1964) 23 Aug 1939 - 25 Jun 1940 Georges Catroux (acting) (b. 1877 - d. 1969) 25 Jun 1940 - 9 Mar 1945 Jean Decoux (b. 1884 - d. 1963) 9 Mar 1945 - 28 Aug 1945 Yuichi Tsuchihashi (b. 1891 - d. 1975) 9 Mar 1945 - 15 Aug 1945 Takeshi Tsukamoto (acting for Tsuchihashi) Allied Military governors - above 16th parallel - 9 Sep 1945 - 6 Mar 1946 Lu Han (China) (b. 1895 - d. 1974) - below 16th parallel - 6 Sep 1945 - 28 Jan 1946 Douglas David Gracey (U.K.) (b. 1894 - d. 1964) High Commissioners 23 Sep 1945 - 5 Oct 1945 Jean Marie Arsène Cédile (acting) (b. 1908 - d. 1984) 5 Oct 1945 - 31 Oct 1945 Jacques Philippe Leclerc de (b. 1902 - d. 1947) Hauteclocque (acting) 31 Oct 1945 - 1 Apr 1947 Georges Thierry d'Argenlieu (b. 1889 - d. 1964) 1 Apr 1947 - 11 Oct 1948 Émile Bollaert (b. 1890 - d. 1978) 20 Oct 1948 - 17 Dec 1950 Léon Marie Adolphe Pascal Pignon (b. 1908 - d. 1976) 17 Dec 1950 - 11 Jan 1952 Jean de Lattre de Tassigny (b. 1889 - d. 1952) 1 Apr 1952 - 27 Apr 1953 Jean Letourneau (b. 1907 - d. 1986) Commissioners-general 27 Apr 1953 - 28 Jul 1953 Jean Letourneau (s.a.) 28 Jul 1953 - 10 Apr 1954 Maurice Dejean (b. 1899 - d. 1982) 10 Apr 1954 - Apr 1955 Paul Ély (b. 1897 - d. 1975) Apr 1955 - 21 Jul 1956 Henri Hoppenot (b. 1891 - d. 1977) Japanese Military Commanders in Indochina 7 Sep 1940 - 5 Jul 1941 Takuma Nishimura (b. 1889 - d. 1951) 1941 Shojiro Iida (b. 1888 - d. 19..) 1941 - 10 Nov 1942 .... 10 Nov 1942 - 22 Nov 1944 Kazumoto Machijiri (b. 1889 - d. 1950) 22 Nov 1944 - 15 Aug 1945 Yuichi Tsuchihashi Annam -Tonkin French Chargés d'Affaires (at Hué) 1875 - 1876 Pierre Paul Rheinart (1st time) (b. 1840 - d. 1902) 1876 - 1879 Paul Louis Félix Philastre 1879 - 1880 Pierre Paul Rheinart (2nd time) (s.a.) 1880 - 1881 Louis Eugène Palasme de Champeaux 1881 - 1883 Pierre Paul Rheinart (3rd time) (s.a.) 1883 - 1884 François Jules Harmand Residents-general (at Hué) 11 Jun 1884 - Oct 1884 Pierre Paul Rheinart (1st time) (s.a.) (provisional) Oct 1884 - 31 May 1885 Victor Victor Gabriel Lemaire 31 May 1885 - Jan 1886 Philippe hilippe Marie André (b. 1827 - d. 1887) Roussel de Courcy 18 Apr 1886 - 11 Nov 1886 Paul Bert (b. 1833 - d. 1886) Nov 1886 - Jan 1887 Paulin François Alexandre Vial (b. 1831 - d. 1907) (interim) 30 Jan 1887 - 23 Jan 1888 Paul Louis Georges Bihouard (b. 1846 - d. 19..) 1888 Étienne Antoine Guillaume Richaud (s.a.) Nov 1888 - 9 May 1889 Pierre Paul Rheinhard (2nd time) (s.a.) Annam Residents-Superior (at Hué) 1886 - 1888 Charles Dillon 1888 - 1889 Séraphin Hector (1st time) (b. 1846 - d. ....) 1889 Léon Jean Laurent Chavassieux (s.a.) 1889 - 1891 Séraphin Hector (2nd time) (s.a.) Oct 1891 - 1897 Ernest Albert Brière (b. 1848 - d. ....) 1897 - 1898 Jean Calixte Alexis Auvergne (b. 1859 - d. 1942) (1st time) Mar 1898 - 1900 Léon Jules Pol Boulloche (b. 1855 - d. 19..) 9 May 1901 - 1904 Jean Calixte Alexis Auvergne (s.a.) (2nd time) 1904 - 1906 Jean-Ernest Moulié 1906 - 1908 Fernand Ernest Levecque (b. 1852 - d. 19..) 1908 - 1910 Élie Jean-Henri Groleau (b. 1859 - d. 19..) 1910 - 1912 Henri Victor Sestier (b. 1857 - d. 19..) 1912 - 1913 Georges Marie Joseph Mahé 1913 - 1920 Jean François Eugène Charles 1920 - 1927 Pierre Marie Antonie Pasquier (s.a.) 1927 - 1928 Jules Fries 1928 - 1931 Aristide Eugène Le Fol 1931 - 1934 Yves Charles Châtel (b. 1865 - d. 1944) 1943 - 1940 Maurice Fernand Graffeuil 1940 - 1944 Émile Louis François Grandjean 1944 - Mar 1945 Jean Maurice Norbert Haelewyn (b. 1901 - d. 1945) Mar 1945 - 1945 Masayuki Yokoyama -Japanese Resident 22 Aug 1945 - Dec 1946? Jean Sainteny (b. 1907 - d. 1978) 1948? - 31 Jul 1951 Chanson (d. 1951) 1 Aug 1951 - Apr 1952 Raoul Albert Louis Salan (b. 1899 - d. 1984) 1953 - 195. Georges-Émile Le Blanc (b. 1896 - d. 1984) 195. - 195. Gabriel-Louis-Marie Bourgund (b. 1898 - d. 1993) Tonkin Residents-Superior (at Hanoi; subordinated to Annam until 1888) 1886 Paulin François Alexandre Vial (s.a.) 1886 - 1887 Jean Thomas Raoul Bonnal (b. 1847 - d. ....) 1887 - 1888 Post Abolished Apr 1888 - 1889 Eusèbe Irénée Parreau (b. 1842 - d. ....) 1889 - Oct 1891 Ernest Albert Brière (s.a.) 1891 - 1893 Léon Jean Laurent Chavassieux (s.a.) 1893 - 1895 François Pierre Rodier (s.a.) 1895 - 1897 Post Abolished 1897 Léon Jules Pol Boulloche (b. 1855 - d. 19..) 1897 - 1904 Augustin Julien Fourès (s.a.) 1904 - 1907 Jean-Henri Groleau (b. 1859 - d. 19..) 9 Mar 1907 - 1907 Louis Alphonse Bonhoure (b. 1865 - d. 1909) 1907 - 1909 Louis Jules Morel (b. 1853 - d. 19..) 1909 - 1912 Jules Simoni 15 Dec 1912 - 8 Jun 1915 Léon Louis Jean Georges Destenay (b. 1861 - d. 1915) 1915 - 1916 Maurice Joesph Le Gallen 1917 - 1921 Jean Baptiste Édouard Bourcier (b. 1870 - d. 19...) Saint-Gaffray 1921 - 1925 Maurice Antoine François (s.a.) Monguillot 1925 - 1930 Eugène Jean Louis René Robin 1930 - 1937 Auguste Eugène Ludovic Tholance (b. 1878 - d. 1938) 1937 - 1940 Yves Charles Châtel (s.a.) 1940 - 1941 Émile Louis François Grandjean 1941 - 1942 Edouard André Delsalle (b. 1893 - d. 1945) 1942 - 1944 Jean Maurice Norbert Haelewyn (b. 1901 - d. 1945) 1944 - 9 Mar 1945 Camille Auphelle (b. 1908 - d. 1945) Mar 1945 - Aug 1945 Kumao Nishimura -Japanese Resident 18 Aug 1945 - 22 Aug 1945 Pierre Messmer (acting) (b. 1916) 22 Aug 1945 - 1946 Jean Sainteny (b. 1907 - d. 1978) Mar 1946 - 1946 Jean Valluy (acting) 1946 - 17 Aug 1946 Jean Crépin 17 Aug 1946 - Feb 1947? Louis Morlière c.1948 Yves Digo 19.. - Nov 1950 Marcel Alessandri (b. 1895 - d. 1968) 24 Nov 1950 - 29 Dec 1950 Pierre Boyer de la Tour 29 Dec 1950 - 10 Feb 1951 Raoul Albert Louis Salan (acting) (b. 1899 - d. 1984) Feb 1951 - 8 May 1953 François de Linarès May 1953 - 1955 René Cogny Crown Representaive for Tonkin (Kinh Luoc Bac Ky) 188. - 18.. Nguyen Huu Do 1890 - 1897 Hoang Cao Khai Cochinchina Sep 1858 - 9 Mar 1945 Map of Cochinchina Capital: Saigon Population: 4,616,000 (1936) 1689 Annexed by Annam from Cambodia. Sep 1858 French occupy Da Nang (Tourane) and Saigon. 18 Feb 1859 French occupy Saigon and the three southern Vietnamese provinces of Bien Hoa, Gia Dinh and Dinh Tuong. 13 Apr 1862 Territories ceded to France. 1864 French colony of Cochinchina. 1867 Provinces of Chau Doc, Ha Tien and Vinh Long added. 15 Aug 1887 Part of Union of French Indochina. 21 Dec 1933 Spratly Islands are annexed to French Cochinchina. 28 Jul 1941 Japanese troops based in French Cochinchina (de facto occupation). 9 Mar 1945 - 15 Aug 1945 Japanese occupation (see under Indo-China). 15 Aug 1945 - 1946 Nominally part of Empire of Vietnam. 6 Sep 1945 - 28 Jan 1946 British occupation (s.a.). 4 Jun 1949 Cochinchina formally ceded to State of Vietnam by France. Military governors - in Tourane (Da Nang) - Sep 1858 - 1859 Charles Rigault de Genouilly (b. 1807 - d. 1873) 19 Oct 1859 - 23 Mar 1860 Théogène François Page (b. 1807 - d. 1867) - in Saigon - 18 Feb 1859 - 1859 Charles Rigault de Genouilly (s.a.) 1859 - Mar 1860 Jean Bernard Jauréguiberry (acting)(b. 1815 - d. 1887) Mar 1860 - 6 Feb 1861 Théogène François Page (s.a.) 1 Apr 1860 - 6 Feb 1861 Joseph Hyacinthe Louis Jules (b. 1813 - d. 1878) d'Ariès (acting for Page) 6 Feb 1861 - 30 Nov 1861 Léonard Victor Joseph Charner (b. 1797 - d. 1869) 30 Nov 1861 - 16 Oct 1863 Louis Adolphe Bonard (b. 1805 - d. 1867) 16 Oct 1863 - 4 Apr 1868 Pierre Paul Marie de La Grandière (b. 1807 - d. 1876) 4 Apr 1868 - 10 Dec 1869 Marie Gustave Hector Ohier (b. 1814 - d. 1870) 10 Dec 1869 - 9 Jan 1870 Joseph Faron (acting) (b. 1819 - d. 1881) 9 Jan 1870 - 1 Apr 1871 Alphonse Jean Claude René Théodore (b. 1811 - d. 1886) de Cornulier-Lucinière 1 Apr 1871 - 16 Mar 1874 Marie Jules Dupré (b. 1813 - d. 1881) 16 Mar 1874 - 30 Nov 1874 Jules François Émile Krantz (b. 1821 - d. 1914) (acting) 30 Nov 1874 - 16 Oct 1877 Victor Auguste, baron Duperré (b. 1825 - d. 1900) 16 Oct 1877 - 7 Jul 1879 Louis Charles Georges Jules Lafont (b. 1824 - d. 1908) Governors 7 Jul 1879 - 7 Nov 1882 Charles Le Myre de Vilers (b. 1833 - d. 1918) 7 Nov 1882 - Jul 1885 Charles Antoine François Thomson (b. 1845 - d. 1898) Jul 1885 - Jun 1886 Charles Auguste Frédéric Begin (b. 1835 - d. 1901) Jun 1886 - 22 Oct 1887 Ange Michel Filippini (b. 1834 - d. 1887) 23 Oct 1887 - 2 Nov 1887 Noël Pardon (acting) 3 Nov 1887 - 15 Nov 1887 Jules Georges Piquet (acting) (s.a.) Lieutenant governors (subordinated to the Governors-general of Indochina) Nov 1887 - Apr 1888 Jean Antoine Ernest Constans (b. 1833 - d. 1913) Apr 1888 - 1888 Auguste Eugène Navelle (b. 1846 - d. ....) 1888 - 1889 Post Abolished 1889 Augustin Julien Fourès (1st time) (b. 1853 - d. ....) 1889 - 1892 Henri Danel (b. 1850 - d. ....) 1892 - 1895 Augustin Julien Fourès (2nd time) (s.a.) 1895 - 1897 Alexandre Antoine Étienne Gustave (b. 1851 - d. 1908) Ducos 1897 - 1898 Ange Eugène Nicolai (b. 1845 - d. ....) 1898 - 1901 Édouard Picanon (b. 1854 - d. 1939) 1901 - 1902 Henri Félix de Lamothe (b. 1843 - d. 1926) 1902 - 1906 François Pierre Rodier (s.a.) 1906 - 1907 Olivier Charles Arthur de Lalande de Calan 29 Jun 1907 - 9 Jan 1909 Louis Alphonse Bonhoure (b. 1864 - d. 1909) 1909 - 1916 Jules Maurice Gourbeil 1916 - 1920 Maurice Joseph La Gallen (b. 1873 - d. 1956) Jun 1918 - Feb 1920 Georges René Gaston Maspéro (b. 1872 - d. 1942) (acting for La Gallen) Governors-general (subordinated to the Governors-general of Indochina) 1920 - 1921 Maurice Joseph La Gallen (interim) (s.a.) 1921 - 1926 Maurice Cognacq 1926 - 1929 Paul Marie Alexis Joseph Blanchard de la Brosse 1929 Auguste Eugène Ludovic Tholance (b. 1878 - d. 1938) (acting) 1929 - 1934 Jean-Félix Krautheimer (b. 1874 - d. 1943) 1934 - 1939 Pierre André Michel Pagès (b. 1893 - d. 1980) 1938 Henri Georges Rivoal (b. 1886 - d. 1963) (acting for Pagès) 1939 - 1940 René Veber (b. 1888 - d. 1972) 1940 - 1942 Henri Georges Rivoal (s.a.) 1942 - 1945 Hoeffel 9 Mar 1945 - 15 Aug 1945 Minoda Fujio Commissioners 23 Sep 1945 - 5 Oct 1945 Jean Marie Arsène Cédile (acting) (b. 1908 - d. 1984) 1945 - 1948 .... 1948 Albert Torel (acting) (b. 1895 - d. 1987) 1948 - 1949 .... South Vietnam Map of South Vietnam Hear National Anthem "Thanh niên Hành Khúc" (Call to the Citizens) (14 Jun 1948-30 Apr 1975) Constitutions (26 Oct 1956 [suspended Nov 1963]; 1 Apr 1967-Apr 1975 [in Vietnamese]) Capital: Saigon Currency: South Vietnam Dong (VNR); from 22 Sep 1975 Viet Nam South Dong (VNS) Population: 19,370,000 (1973 est.) Ethnic groups: Vietnamese 80%, Chinese, Montagnard, Khmer, Cham, Malay, others 20% (1970) Religions: majority Buddhist, Roman Catholic 10%, Cao Dai, Hoa Hao, animists, others (1970) 1 Jun 1946 Autonomous Republic of Cochinchina. 8 Oct 1947 South Vietnam 27 May 1948 Vietnam 14 Jun 1949 French associated state (State of Vietnam). 21 Jul 1954 Division formalized by Geneva Accords. 26 Oct 1955 Republic of Vietnam (South Vietnam) 27 Jan 1973 Paris Peace Accords. 30 Apr 1975 Republic of South Vietnam (North Vietnamese forces occupy Saigon). 2 Jul 1976 Unification with North Vietnam as the Socialist Republic of Vietnam. President of the Consultative Council 4 Feb 1946 - 30 May 1946 Beziat Presidents of the Provisional Government 1 Jun 1946 - 10 Nov 1946 Nguyen Van Thin (b. 1884 - d. 1946) CDP 15 Nov 1946 - 7 Dec 1946 Nguyen Van Xuan (1st time) (b. 1892 - d. 1989) Mil 7 Dec 1946 - 8 Oct 1947 Le Van Hoach (b. 1896 - d. 1978) 8 Oct 1947 - 27 May 1948 Nguyen Van Xuan (2nd time) (s.a.) Mil President of the Central Government of Vietnam 27 May 1948 - 14 Jun 1949 Nguyen Van Xuan (s.a.) Mil Chiefs of state (title Quoc Truong) 14 Jun 1949 - 30 Apr 1955 Bao Dai (b. 1913 - d. 1997) Non-party 30 Apr 1955 - 26 Oct 1955 Ngo Dinh Diem (acting) (b. 1901 - d. 1963) FNS Presidents 26 Oct 1955 - 2 Nov 1963 Ngo Dinh Diem (s.a.) CLP 2 Nov 1963 - 30 Jan 1964 Duong Van Minh (1st time) (b. 1916 - d. 2001) Mil (chairman Revolutionary Military Committee) 30 Jan 1964 - 8 Feb 1964 Nguyen Khanh (1st time) (b. 1927) Mil 8 Feb 1964 - 16 Aug 1964 Duong Van Minh (2nd time) (s.a.) Mil 16 Aug 1964 - 27 Aug 1964 Nguyen Khanh (2nd time) (s.a.) Mil 27 Aug 1964 - 8 Sep 1964 Provisional Leadership Committee - Duong Van Minh (s.a.) Mil - Nguyen Khanh (s.a.) Mil - Tran Thien Khiem (b. 1925) Mil 8 Sep 1964 - 26 Oct 1964 Duong Van Minh (3rd time) (s.a.) Mil (chairman Provisional Leadership Committee) 26 Oct 1964 - 14 Jun 1965 Phan Khac Suu (b. 1905 - d. 1970) Mil 14 Jun 1965 - 21 Apr 1975 Nguyen Van Thieu (b. 1923 - d. 2001)Mil;1968 NSDF (chairman National Leadership Committee to 31 Oct 1967) 21 Apr 1975 - 28 Apr 1975 Tran Van Huong (b. 1903 - d. 1982) 28 Apr 1975 - 30 Apr 1975 Duong Van Minh (4th time) (acting) (s.a.) Mil 30 Apr 1975 - 2 Jul 1976 Huynh Tan Phat (b. 1913 - d. 1989) NLF Chief of the Provisory Government 26 Mar 1946 - 30 May 1946 Nguyen Van Thin (s.a.) CDP Prime ministers 13 Jun 1949 - 21 Jan 1950 Bao Dai (s.a.) Non-party 21 Jan 1950 - 26 Apr 1950 Nguyen Phan Long (b. 1888 - d. 1960) DLP 27 Apr 1950 - 6 Jun 1952 Tran Van Huu (b. 1896 - d. 1984) Non-party 6 Jun 1952 - 17 Dec 1953 Nguyen Van Tam (b. 1895 - d. 1990) VNQ 12 Jan 1954 - 16 Jun 1954 Pham Buu Loc (b. 1914 - d. 1990) Non-party 16 Jun 1954 - 26 Jun 1954 Phan Huy Quat (1st time)(acting) (b. 1909 - d. 1979) DVP 26 Jun 1954 - 26 Oct 1955 Ngo Dinh Diem (s.a.) FNS 4 Nov 1963 - 30 Jan 1964 Nguyen Ngoc Tho (b. 1908) Mil 8 Feb 1964 - 29 Aug 1964 Nguyen Khanh (1st time) (s.a.) Mil 29 Aug 1964 - 3 Sep 1964 Nguyen Xuan Oanh (1st time) (b. 1921 - d. 2003) Mil (acting) 3 Sep 1964 - 4 Nov 1964 Nguyen Khanh (2nd time) (s.a.) Mil 4 Nov 1964 - 28 Jan 1965 Tran Van Huong (1st time) (s.a.) Mil 28 Jan 1965 - 15 Feb 1965 Nguyen Xuan Oanh (2nd time) (s.a.) Mil (acting) 16 Feb 1965 - 8 Jun 1965 Phan Huy Quat (2nd time) (s.a.) DVP 19 Jun 1965 - 31 Oct 1967 Nguyen Cao Ky (b. 1930) Mil 31 Oct 1967 - 17 May 1968 Nguyen Van Loc (b. 1922) Mil 28 May 1968 - 1 Sep 1969 Tran Van Huong (2nd time) (s.a.) 1 Sep 1969 - 4 Apr 1975 Tran Thiem Khiem (s.a.) Mil 4 Apr 1975 - 24 Apr 1975 Nguyen Ba Can (b. 1913) DCP 28 Apr 1975 - 30 Apr 1975 Vu Van Mau (b. 1914 - d. 1998) FNR 30 Apr 1975 - 2 Jul 1976 Nguyen Huu Tho (b. 1910 - d. 1996) NLF French High Commissioners 14 Aug 1945 - 27 Apr 1953 the Commissioners of French Indochina Commissioners-general 27 Apr 1953 - 21 Jul 1956 the Commissioners of French Indochina Commanders U.S. Military Assistance Command in Vietnam (MACV) 8 Feb 1962 - 20 Jun 1964 Paul D. Harkins 20 Jun 1964 - 22 Mar 1968 William Childs Westmoreland (b. 1914 - d. 2005) 22 Mar 1968 - Jun 1972 Creighton Williams Abrams, Jr. (b. 1914 - d. 1974) Jun 1972 - 29 Mar 1973 Fred C. Weyand (b. 1916) Party abbreviations: CDP = Cochinchinese Democratic Party; CLP = Can Lao Party; DCP = Dan Chu Party (Democracy Party); DLH = Dan Lap Hien (Constitutional Party; DVP = Dai Viet Party; FNR = Forces for National Reconciliation; FNS = Front of National Salvation (coalition); NLF = National Liberation Front of Vietnam (communist "Vietcong" front); NSDF = National Social Democratic Front (anti-communist, conservative-centerist, pro-Van Thieu, est.1969); VNQ = Viet-Nam Quoc Dan Dang (Vietnamese Nationalist Party); Mil = Military North Vietnam 2 Sep 1945 Democratic Republic of Vietnam proclaimed. 9 Sep 1945 - 6 Mar 1946 Allied (Chinese) occupation (see under Indo-China). President of the Indochinese Communist Party (from May 1951, Vietnam Workers' Party) (officially dissolved 11 Nov 1945, continued in secret to May 1951) Oct 1930 - 2 Sep 1969 Ho Chi Minh (b. 1890 - d. 1969) (Nguyen Ai Quoc) First Secretaries (top party post from 2 Sep 1969) 1941 - 1 Nov 1956 Truong Chinh (b. 1907 - d. 1988) 1 Nov 1956 - 10 Sep 1960 Ho Chi Minh (s.a.) 10 Sep 1960 - 20 Dec 1976 Le Duan (b. 1908 - d. 1986) Chairman of the Committee of Liberation of the Vietnamese People ("Viet Minh") 25 Aug 1945 - 29 Aug 1945 Ho Chi Minh (s.a.) DCSD (in rebellion from 13 Aug 1945) Chairman of the Provisional government 29 Aug 1945 - 2 Mar 1946 Ho Chi Minh (s.a.) DCSD Presidents 2 Mar 1946 - 2 Sep 1969 Ho Chi Minh (s.a.) DCSD;1951 DLDV 3 Sep 1969 - 2 Jul 1976 Ton Duc Thang (b. 1888 - d. 1980) DLDV (acting to 23 Sep 1969) Prime ministers 2 Sep 1945 - 20 Sep 1955 Ho Chi Minh (s.a.) DCSD;1951 DLDV 20 Sep 1955 - 2 Jul 1976 Pham Van Dong (b. 1908 - d. 2000) DLDV Party abbreviation: DCSV = Dang Cong San Viet Nam (Communist Party of Vietnam, communist, only legal party; Vietnamese Communist Party [DCSV] was original name, from Feb 1930-Oct 1930. Successive names were: Indochinese Communist Party [DCSD], Oct 1930-May 1951, which was officially dissolved 11 Nov 1945 and merged into League for the Independence of Vietnam -"Viet Minh"-, although continued it in secret to 1951); Vietnamese Workers' Party [DLDV], May 1951-Dec 1976; and again DCSV from Dec 1976. Post of president of the party was abolished after death of Ho Chi Minh) Socialist Republic of Vietnam 2 Jul 1976 Occupation of the South of Vietnam then forming the Unification as Socialist Republic of Vietnam. Map of Vietnam Capital: Hanoi (Phong Chau 2809-258 BC; Co Loa 257-111 BC and 939-965 AD; To Lich 544-602; Hoa Lu 968-980; La Thanh 1980-1010; Hanoi 1010-1802; Hue 1802-1945) Currency: Dong (VND) Population: 84,402,966 (2006) First Secretary of the Vietnam Workers' Party (DLDV) 2 Jul 1976 - 20 Dec 1976 Le Duan (b. 1908 - d. 1986) General Secretaries of the Communist Party (DCSV) 20 Dec 1976 - 10 Jul 1986 Le Duan (s.a.) 14 Jul 1986 - 18 Dec 1986 Truong Chinh (b. 1908 - d. 1988) 18 Dec 1986 - 27 Jun 1991 Nguyen Van Linh (b. 1915 - d. 1998) 27 Jun 1991 - 29 Dec 1997 Do Muoi (b. 1917) 29 Dec 1997 - 22 Apr 2001 Le Kha Phieu (b. 1931) 22 Apr 2001 - Nong Duc Manh (b. 1940) Presidents 2 Jul 1976 - 30 Mar 1980 Ton Duc Thang (s.a.) DLDV;1976 DCSV 30 Mar 1980 - 4 Jul 1981 Nguyen Huu Tho (acting) (s.a.) DCSV Chairmen of the State Council 4 Jul 1981 - 18 Jun 1987 Truong Chinh (s.a.) DCSV 18 Jun 1987 - 22 Sep 1992 Vo Chi Cong (b. 1913) DCSV Presidents 23 Sep 1992 - 24 Sep 1997 Le Duc Anh (b. 1920) DCSV 24 Sep 1997 - 27 Jun 2006 Tran Duc Luong (b. 1937) DCSV 27 Jun 2006 - Nguyen Minh Triet (b. 1942) DCSV Chairmen of the Council of Ministers 2 Jul 1976 - 18 Jun 1987 Pham Van Dong (s.a.) DLDV;1976 DCSV 18 Jun 1987 - 10 Mar 1988 Pham Hung (b. 1912 - d. 1988) DCSV 10 Mar 1988 - 22 Jun 1988 Vo Van Kiet (1st time) (acting) (b. 1922) DCSV 22 Jun 1988 - 8 Aug 1991 Do Muoi (s.a.) DCSV 8 Aug 1991 - 24 Sep 1992 Vo Van Kiet (2nd time) (s.a.) DCSV Prime ministers 24 Sep 1992 - 25 Sep 1997 Vo Van Kiet (s.a.) DCSV 25 Sep 1997 - 27 Jun 2006 Phan Van Khai (b. 1933) DCSV 27 Jun 2006 - Nguyen Tan Dung (b. 1949) DCSV Territorial Disputes: Cambodia and Laos protest Vietnamese squatters and armed encroachments along border; after years of Cambodia claiming Vietnam had moved or destroyed boundary markers, in 2005, after much domestic debate, Cambodia ratified an agreement with Vietnam that settled all but a small portion of the land boundary; establishment of a maritime boundary with Cambodia is hampered by unresolved dispute over offshore islands; in 2004, Laotian-Vietnamese boundary commission agrees to erect missing markers in two adjoining provinces; demarcation of the China-Vietnam boundary proceeds slowly and although the maritime boundary delimitation and fisheries agreements were ratified in June 2004, implementation has been delayed; involved in a complex dispute over the Spratly Islands with China, Malaysia, Philippines, Taiwan, and possibly Brunei; Paracel Islands occupied by China but claimed by Taiwan and Vietnam; the 2002 "Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea" has eased tensions but falls short of a legally binding "code of conduct" desired by several of the disputants; Vietnam continues to expand construction of facilities in the Spratly Islands; in March 2005, the national oil companies of China, the Philippines, and Vietnam signed a joint accord to conduct marine seismic activities in the Spratly Islands. Party abbreviation: DCSV = Dang Cong San Viet Nam (Communist Party of Vietnam, communist, authoritarian, government party; known as Vietnamese Workers' Party DLDV to Dec 1976)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 9:00:19 GMT 9
Tưởng nhớ Phan Anh
Hoàng Xuân Hãn
Sau những năm các phong trào thanh niên cách mạng bùng nổ, 1929-31, chính quyền thuộc địa thấy cần phải nới rộng trung học và đại học tại Đông Dương. Dân ta hiếu học, đã hưởng ứng ngay.
Tại Hà Nội, các trường công tư đào tạo từng lớp thanh niên đủ kiến thức tài năng để dự học các trường đại học : khoa Y, khoa Dược và khoa Luật. Kết quả là kề trước cuộc đại chiến 1939 tại Âu Châu và nhất là cuộc đại chiến Thái Bình Dương, tại nước ta sẵn có một thế hệ thanh niên trí thức, có đủ tài cán chuyên nghề, nhiều lòng muốn phục vụ tổ quốc. Họ sau nầy sáp nhập với nhóm cách mạng bấy giờ hoặc đang bị giữ trong lao tù, hoặc đang náu tiếng với nhân dân, để gây một phong trào yêu nước vô song, từ bàn tay trắng mà chống nổi mọi cuộc ngoại xâm.
Chính Phan Anh thuộc thế hệ ấy. Sau khi tốt nghiệp luật khoa tại Hà Nội, Anh đã tới Paris, soạn các đề án về luật hiến pháp và ngoại giao, để tính đường tương lai giảng dạy luật khoa. Nhưng năm 1939, tình hình Âu Châu thành nguy ngập. Anh cùng các bạn du học phải trở về nước. Chẳng bao lâu, nhân Pháp bị bại trận, Nhật Bản tăng áp lực đối với Đông Dương. Chính quyền ở đây muốn lấy lòng trí thức, phải cho người bản xứ hành nghề luật sư. Nhờ vậy Phan Anh mới vào tập sự nghề luật sư tại một phòng cạnh nhà lao Hoả Lò, khá gần nhà tôi.
Tôi thuộc vào lớp hơi sớm hơn Anh. Năm 1936, tôi đã từ Pháp về dạy khoa toán tại Trường Bưởi, trường mới được mang huy hiệu " Lycée ". Bấy giờ hiếm giáo sư, cho nên tôi phải phục vụ nhiều lớp, nhiều trường. Chung quy tôi không có thời giờ tiếp xúc nhiều với thế hệ Phan Anh. Vả tình hình chiến tranh tại Âu Châu, tư thế quân đội Nhật bản tại Đông Dương thúc giục tôi phải để tâm hoàn thành và công bố công trình mà tôi đã ôm ấp trong gần mười năm : DANH TỪ KHOA HỌC. Bấy giờ lòng ái quồc nồng nàn của nhân dân, nhất là của thanh niên, đã bộc lộ. Một hôm Phan Anh tới tìm tôi và bày tỏ ý kiến của một nhóm trí thức trẻ muốn ra một tờ báo nguyệt san, đặt tên là THANH NGHỊ (1), hỏi ý tôi nên bàn luận thế nào và nhờ tôi cộng tác. Tôi đã đáp rằng:
« Bây giờ trăm mắt đổ xô vào hành động của thanh niên trí thức ta : quốc dân, chính quyền, thực dân Pháp và cả quan sát nhân Nhật. Tuy trong thực tế mình không có quyền chính trị, nhưng hãy cứ tự coi mình như con dân một nước độc lập. Đối với mọi việc đáng suy nghĩ, thì cứ nêu lên mà bàn với tư tưởng mới, thực tế. Chắc rằng toà kiểm duyệt cũng không cấm viết, mà độc giả sẽ dần quen với những suy nghĩ đứng đắn và trách nhiệm (Phan Anh rất đồng ý). Ví như tôi, tôi nghĩ một dân tộc độc lập phải có đủ danh từ để biểu diễn mọi ý về văn hóa. Vì lẽ ấy, tôi đã soạn một tập DANH TỪ KHOA HỌC và đang bàn, với anh em khoa học cho ra một tạp chí KHOA HỌC, nó bổ túc cho báo THANH NGHỊ của các anh. Nhưng cũng vì thế mà tôi không có thời giờ viết thường xuyên giúp Anh về khoa học. Trái lại, sở thích riêng của tôi là sử và cổ văn. Tôi nhận thày có nhiều khả năng góp phần mới. Nếu tôi có những điểm mới thuộc các đề tài ấy tôi sẽ đăng vào tạp chí của các anh » (2).
Từ đó, chúng tôi thành bạn thâm giao ; một lẽ nữa là các nội nhân chúng tôi là đôi bạn đồng môn và đồng nghiệp. Trong hơn bốn năm liền, thỉnh thoảng tôi rảo bước trên phố Trường Thi, quay sang phố Quán Sứ, đến góc phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, nhìn xuống một cửa sổ dưới thấp ; nếu thấy một cái đầu tóc cắt vuông đang cúi xuống bàn trên các hồ sơ, thì biết đó là Phan Anh đang làm việc. Tôi xuống, gõ cửa bước vào. Anh đứng dậy, mắt cười, rồi chúng tôi bàn tán chuyện nước nhà và chuyện thế giới. Mà thực vậy ! Tương lai chúng ta chắc chắn đổi nhiều ! Thế Pháp đã tàn. Thế Nhật đầu bùng sau xẹp. Đức chắc sẽ thua ; Mỹ đã tiến dần về phía tây, chiếm lại Phi-lip-pin, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ đổ bộ vào đất ta. Các nước thực dân cũ trên Đông Nam Á, như Anh, Mỹ, Hà Lan đều đã hứa độc lập cho các thuộc quốc mất vào tay Nhật. Nhờ hiệp ước " Cùng bảo-vệ Đông Dương " ký vào giữa năm 1941, mà hai quân đội Nhật và Pháp vẫn dung nhau trên đất nước ta. Tổng thống Mỹ doạ cất quyền của Pháp sau khi giải phóng Đông Dương. Trong những lúc được mời tiếp xúc hoặc với toàn quyền đô đốc Decoux, hoặc với thủ lĩnh kháng Nhật trung tướng Mordant, tôi chỉ nghe họ khuyên trí thức ta đừng nghe những lời hứa Anh Mỹ. Trong lúc ấy, họ không giấu nổi sự dự bị đón tiếp quân đồng minh. Phan Anh và tôi cùng nhau phân tích quân đội Pháp và quân Mỹ có thể đổ bộ cứu quân Pháp ở đây. Nếu quân Pháp không được cứu, thì chắc rằng Nhật sẽ đem Kì Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật Bản về và đảng Ngô Đình Diệm sẽ cáng đáng lâm thời vận mệnh nước trước lúc hoà bình. Nhưng nếu Mỹ đổ bộ cứu Pháp thì ắt Nhật ở đây sẽ thua. Bấy giờ cơ cấu thuộc quốc vẫn nguyên, mà mình không vũ lực, thì sẽ mất một cơ hội độc lập như đã mất cơ hội đại chiến trước : cuộc khởi nghĩa Duy Tân hỏng vì nội phản, việc tiếp nhập Phục Việt hỏng vì bất lực ; còn bản yêu sách độc lập của Nguyễn Ái Quốc trước nhân viên Hội Nghị Hoà Bình Versailles thì cũng chỉ có tính cách tượng trưng ". Trong phòng giấy nhỏ ở cạnh Hỏa Lò, tôi đã ngỏ những thắc mắc lo lắng ấy. Vào cuối năm 1944, tại.thành phố Hà Nội đã có những việc rải truyền đơn, hô khẩu hiệu cách mạng, kêu gọi dân đánh Nhật, đánh Pháp; ngoài đường lại có một vài vụ phá cột đèn, phá điếm điện thế. Tôi lại bảo Phan Anh:
« Mặc dầu Pháp đàn áp, nhưng đảng cách mạng vẫn còn tổ chức. Nghe nói Liên Hợp Quốc Cộng Trung Quốc và cố vấn Mỹ cung cấp vũ khí cho ta để đánh Nhật; nếu sự ấy là thật, thì may gì ta cũng sẽ dự phần chiến thắng Nhật, và có cơ đòi lại độc lập cho ta. Trong nhóm Thanh Nghị, nghe nói có người trong đảng. Vậy, ngoài tuyên truyền, mặc dầu là vũ trang. Cách mạng có thực lực cơ bản gì không ? »
Phan Anh chỉ cười mà đáp rằng : « Tôi cũng nghe như vậy ! »
Chúng tôi chẳng lấy làm lạ khi nghe tiếng súng nổ suốt đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, và rạng ngày sau các đài truyền thanh cho hay rằng quân đội Pháp tại Đông Dương đã bị Nhật giải giáp. Sự lạ là không thấy Mỹ phản ứng giúp Pháp và Nhật không đưa Cường Để về. Trái lại, chính phủ Nhật sai sứ thần tới Huế chuyển lời chính phủ Nhật Bản cho vua Việt Nam rằng chính quyền thuộc địa Pháp đã bị khử trừ, và nếu Việt Nam tuyên bố độc lập, thì chính phủ Nhật Hoàng thừa nhận. Hơn một tuần sau, chúng tôi mới được tin rằng Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập, quyết định tự cầm quyền với tôn chỉ " DÂN VI QUÍ " (3) và kêu gọi tất cả nhân dân hỗ trợ.
Ngày 23 tháng ấy, một viên lãnh sự Nhật tới đưa tôi ba bức thư, một gửi cho tôi ; hai thư kia nhờ tôi chuyển hộ. Những thư này do văn phòng vua ở Huế, nhờ sứ quán Nhật chuyển mời Vũ Văn Hiền, Phan Anh và tôi vào Huế để bàn cùng Bảo Đại nên thực hiện độc lập tương lai cho nước bằng cách nào. Sau khi gặp nhóm Thanh Nghị, Hiền và Anh bằng lòng cùng tôi đáp lời mời và cùng đi. Bấy giờ ở Huế, cũng như khắp nước, lòng ái quốc của nhân dân lên cực độ. Cho đến nhà Vua, cũng chịu ảnh hưởng chung. Vậy đã có thư mời nhiều trí thức, nhiều chính khách có tiếng, ngoài những người đang bị lao tù. Riêng được mời một số nhân vật mà quân đội Nhật đã giấu để khỏi bị công an thực dân bắt, nhất là Trần Trọng Kim và Ngô Đình Diệm. Nhưng quân đội Nhật không chuyển thư mời cho Diệm, vì Diệm chủ trì đưa Cường Để thay Bảo Đại, mà Nhật lại không muốn có chuyện xáo lộn trên đất Việt Nam. Tuy vậy, Kim, Hiền, Anh và tôi đồng ý rằng : " Thế Nhật Bản chỉ còn đứng được hơn một năm là cùng. Chính phủ nào bắt đầu từ bây giờ cũng chỉ có chừng nấy để củng cố thế độc lập của nước ta mà thôi. Vậy nên khuyên Vua mời Ngô lập chính phủ vì y được người Nhật tin và nhóm nhân dân " thân Nhật " ủng hộ ". Không ai bảo ai, những người được mời đều khuyên Bảo Đại như vậy. Đổng lý văn phòng vua bấy giờ là Phạm Khắc Hoè, tuy thuộc quan trường bảo hộ, nhưng có " óc tân tiến ", lại là dây liên lạc giữa Bảo Đại với thanh niên và nhiều chính khách yêu nước ở Huế. Hoè lại viết thư cho Diệm, nói Vua mời về lập nội các. Lần nầy Nhật chịu chuyển thư, nhưng Diệm từ chối, lấy cớ bệnh không về. Cuối cùng Trần Trọng Kim, tuy còn ốm, phải nhận lời Bảo Đại nằn nì tha thiết lập một chính phủ cách tân, trong ấy Phan Anh phụ trách bộ Thanh niên để tránh tiếng bộ Quốc phòng, vì ta chưa có bộ đội và không muốn để ai hiểu lầm và lợi dụng. Còn mục tiêu chung thì gấp rút trong khoảng một năm, tập cho quốc dân quen với tính cách độc lập tự tin, để đến khi hoà bình trở lại, Đồng minh không có cớ đặt ách ngoại trị vào cổ dân ta. Trong khoảng ba tháng, Phan Anh đã lập được tại nhiều tỉnh những thanh niên đoàn học tập vũ nghệ, và nhất là lập được tại Huế một trường võ bị cao cấp, gọi là trường THANH NIÊN TIỀN TUYẾN để một số sinh viên đại học cũ tập thành sĩ quan. Chính phủ lại yêu cầu quân đội Nhật trả lại những khí giới họ đã tịch thu, và thả ra những quân nhân người Việt, để họ huấn luyện thanh niên học tại các trường võ bị.
Tuy biết rằng chúng tôi chỉ nhận nhiệm vụ mang tính cách tạm thời với hi sinh, nhưng chính phủ và tất cả nhân viên say sưa với công việc, tranh thủ với thời gian. Nhưng thế Nhật tan chóng hơn mình đoán. Chính phủ toan từ chức để Vua có thời giờ họp những người cách mạng chống Nhật, phòng khi đối thoại với Đồng minh. Đầu tháng bảy, nguyên soái Nhật, trung tướng Suchi Hachi, báo tin muốn trao trả chính quyền Nam bộ, Bắc bộ và sự quản lí các công vụ Đông Dương cũ. Một nửa chính phủ ra Hà nội, đi cùng thủ tướng. Đến nơi, Hiền và Anh được các bạn Thanh Nghị cho hay rằng phong trào cách mạng chống Nhật đã bành trướng từ Cao Bằng đến vùng Bắc Kạn, Thái nguyên. Họ có tổ chức và có vũ khí Mỹ cho. Chúng tôi hơi yên tâm, nhưng cũng tự hỏi rằng vũ khí Mỹ đã cho có bằng khí giới Nhật sẽ cho khi Mỹ đổ bộ. Thủ tướng nhờ bắt liên lạc với nhân vật cao cấp trong phong trào để thương lượng lợi chung, nhưng rồi lại gặp một đảng viên rất trẻ chỉ biết tuyên truyền. Không đợi lâu được, chính phủ trở về Huế để lo việc tiếp thu chủ quyền Nam phần. Tôi phải ở lại Hà Nội, tiếp tục thu nhận cơ quan đại học. Trước lúc từ giã Phan Anh, tôi dặn các sự đã bàn : tôi sẽ đồng tình từ chức và khuyên những người cách mạng sẵn sàng lập chính phủ mới. Trần Trọng Kim trở về Huế, đề cử Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam phần. Trước khi rút lui chính phủ giúp Vua hiệu triệu người mới. Nhưng biến cục chiến tranh Thái Bình Dương giồn giập. Bom nguyên tử ném vào đất Nhật. Nhật hoàng ra lệnh cho quân đội mình đầu hàng. Có tin quân đội Anh và Trung Quồc sẽ vào Việt Nam nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Ở Bắc phần, khâm sai Phan Kế Toại từ chức, đảng VIỆT MINH kháng Nhật ra lệnh tổng khởi nghĩa. Lãnh tụ đảng, Hồ Chí Minh, về Hà Nội ; thực ra không mấy ai biết đó là ai. Những tin đồn "đoàn quân Việt Mỹ" sắp về, làm cho toàn dân say sưa phấn khởi. Hành động cuối cùng của Chính phủ Huế là giúp Vua, đại diện chính thức quốc tế của Việt Nam, đánh điện cho chủ tịch năm nước Đồng minh, yêu cầu nhìn nhận sự độc lập đã thành của nước. Rồi phái Hồ Tá Khanh vào Nam, Phan Anh ra Bắc để trấn tĩnh nhân dân và tra xét tình hình. Phong trào cách mạng không đáp lời mời hợp tác của Bảo Đại. Trái lại, ngày 21 tháng 8, yêu cầu vua thoái vị. Bấy giờ đã biết Hồ Chí Minh cũng là Nguyễn Ái Quốc, Bảo Đại bèn tuyên bố thoái vị (24-8), để chính phủ cách mạng dễ thương thuyết độc lập với Đồng minh. Trên đường ra Bắc và vào Nam, Phan Anh và Hồ Tá Khanh đều bị cách mạng bắt giữ rồi được thả ra.
Ngày 28 tháng 8, Hồ Chí Minh chính thức lập chính phủ cách mạng đầu tiên, trong đó ít ra cũng có ba bốn bạn Phan Anh trong nhóm Thanh Nghị. Trong Nam, nhờ quân Anh giúp, quân Pháp chiếm lại Sài Gòn rồi đánh lên miền Bắc. Những sĩ quan đầu tiên điều khiển cuộc Nam tiến là những cựu sinh viên trường Tiền Tuyến lập bởi Phan Anh. Quân Trung Quốc ồ ạt kéo vào Bắc việt để tiếp thu vũ khí quân Nhật. Những người Việt chống Pháp từ trước lưu vong, nay theo về, với danh nghĩa Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Họ được quân Trung Quốc hỗ trợ để tranh quyền với chính phủ lâm thời. Một mặt khác, quân Pháp đã được quân Trung Quốc bằng lòng cho ra Bắc thay thế mình. Muốn ngăn cản quân Pháp thì chính phủ lâm thời bất lực ; muốn điều đình để đợi thời thì phải có hoà khí bên trong. Vì vậy Hồ Chí Minh đã cấp tốc tổ chức bầu quốc hội, dành riêng cho các đảng quốc gia 70 ghế, và ngày 2 tháng 3, nhóm quốc hội giải tán chính-phủ " Việt Minh " lâm thời. Một chính phủ liên hiệp và kháng chiến được thành lập với một số nhân vật tựng trưng '' quốc gia " : Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (nội vụ), Nguyễn Tường Tam (ngoại giao), Vĩnh Thụy (tức là Bảo Đại, cố vấn) và Phan Anh giữ bộ quốc phòng, có lẽ vì Anh đã từng giữ bộ thanh niên dưới triều Bảo Đại.
Phan Anh tìm tôi để bàn chuyện. Anh cho biết rằng tình hình nước rất bối rối. Tại Trùng Khánh, Tưởng Giới Thạch đã bán rẻ Bắc kì cho Pháp và đành ép ta nhận các điều kiện Pháp đã đưa ra để đem quân ra Bắc. Anh Mỹ không bênh ta vì họ cần Pháp ở Âu Châu để chống Nga. Các người đảng quốc gia thì không tự lượng sức mình, cứ tưởng có thể mượn sức quân Tưởng ngăn Pháp đổ bộ. Nghe nói có hôm Lư Hán (tướng Vân Nam) toan bắt cụ Hồ, và có lúc cụ Hồ đã toan cùng Bảo Đại trao đổi chức năng, chủ tịch chính phủ và cố vấn, cho dễ điều đình. Anh nói : ''Chính trị phải thực tế. Chi bằng toàn dân đoàn kết, tuỳ sức mình mà kí với Pháp hiệp ước thuận lợi nhất để tồn tại và điều đình kiên trì về sau " .
Anh cũng đồng ý với tôi, chức vị bộ trưởng quốc phòng chỉ là tượng trưng. Bộ đội ở trong tay chủ tướng Võ Nguyên Giáp. Như thế là hợp lí trong trường hợp này. Bấy giờ chỉ có Việt Minh mới có điều kiện thực tế tổ chức gấp một bộ đội làm hậu thuẫn cho chính phủ chống thực dân, có phương tiện tổ chức du kích khắp thôn quê nếu quân Pháp muốn đặt đô hộ trở lại. Liền sau đó, ngày 6 tháng 3, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh (Quốc Dân Đảng) kí với Sainteny (cả ba tên đều là giả) hiệp ước để quân đoàn Leclerc đổ bộ lên Hải Phòng, đáp lại lời hứa của nước Pháp " nhận Cộng Hoà Việt Nam là một nước tự do, có chính phủ riêng, có quốc hội riêng, có quân đội riêng, và có tài chính riêng ; nhập phần Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Về điều thống nhất ba Kỳ, thì chính phủ Pháp cam đoan sẽ chấp nhận sụ quyết định của nhũng dân tộc sẽ được trưng cầu ý kiến ".
Quân Pháp đổ bộ liền lên bến Hải Phòng, mặc dầu một nhóm bộ đội Trung Quốc đột kích. Chỉ một mình Giáp và Phan Mỹ, em ruột Phan Anh, tiếp xúc với Leclerc. Bộ trưởng quốc phòng hoàn toàn ngoài cuộc ! Bắt đầu từ ngày 18-3, quân đội thiết giáp Pháp ồ ạt thị oai ở các đường Hà Nội. Bấy giờ ai cũng nhận thấy rằng chính phủ mình, cộng hoà hay quân chủ, quốc gia hay cộng sản, nếu không quân đội nghiêm túc, nhân dân ủng hộ, ngoại giao khôn khéo, thì cánh thực dân lập lại chế độ thuộc địa như xưa. Bấy giờ đã hay tin rằng đô đốc d'Argenlieu với đoàn cố vấn hành chánh không đồng ý " rộng rãi " với đại tướng Leclerc và tay mật vụ Sainteny. Hồ Chí Minh quyết định bước sang giai đoạn điều đình cấp tốc với chính phủ Pháp. Hiền và tôi đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt với Nguyễn Tường Tam và Võ Nguyên Giáp làm trưởng và phó chủ tịch (19-4 / 11-5-1946). Trù bị đây là trù bị cho hội nghị chính thức tại Paris định họp vào mùa hè năm ấy. Đã dự bị Nguyễn Tường Tam và Phạm Văn Đồng làm trưởng và phó phái đoàn, Vũ Văn Hiền và Phan Anh sẽ là chân quan trọng. Nhưng d'Argenlieu định phá hội nghị. Ông đã bịa ra Hội nghị trù bị để có thời giờ lập nước Nam kì tự trị, rồi họp một hội nghị Đà lạt thứ hai (1-8) với các nước Mên, Lào, Nam kì và xứ Mọi. Những chính khách Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội đều bỏ chức và trốn tránh sang Trung Quốc. Nguyễn Tường Tam không đi dự Hội nghị Paris nữa. Vũ Văn Hiền bị bệnh cũng không đi. Ngày 31 tháng 5, Phan Anh từ giã tôi, theo Chủ tich nước ta và phái đoàn điều đình lên máy bay đi Pháp, mặc dầu d'Argenlieu muốn hoãn chuyến đi này lại, vì tại Pháp chưa có quốc hội, chưa có chính phủ chính thức.
Khi Chủ tịch và phái đoàn ta tới đất Pháp, họ phải đợi ở miền nam nước Pháp, " du lịch " chung quanh Biarritz đến gần cuồi tháng 6, sau khi những đảng hữu thắng trong cuộc bầu cử 2-6 và G. Bidault thành lập chính phủ. Chủ tịch phải đợi đến 22-6 mới lên Paris và được tiếp đón long trọng. Còn các phái viên, như Phan Anh, thì lên Paris sớm, kẻ tham quan phong cảnh, người nối dây liên lạc. Phan Anh chú ý về sở học của mình là luật khoa. Muốn làm bớt uy thế của Việt Nam và tránh ảnh hưởng của các tả đảng Pháp, chính phủ Bidault quyết định hội nghị họp tại Fontainebleau. Hội nghị bắt đầu ngày 6-7. Chủ tịch đoàn là Phạm Văn Đồng, tổng báo cáo viên là Phan Anh. Phan Anh lại là chân lí luận chắc chắn, biện từ sắc bén ; thân hình thấp nhưng đầy đặn, đầu tóc vuông vắn. Bấy giờ, các nhà báo có kẻ chú ý đến Anh, và nói đùa Phan Anh là " một cái lon thuốc hút (pot à tabac) nhưng mà thuốc cay đậm ".
Rồi hội nghị nầy, cũng như hội nghị Đà Lạt, thất bại vì ta không thể chịu ách nặng Liên bang Đông Dương và nhất là không thể chịu để lìa tách Nam bộ. Phái bộ đành bỏ dở Hội đàm ra về. Xuống tàu Pasteur ngày 14-9, để chủ tịch chính phủ ta ở lại kí với M. Moutet, bộ trưởng hải ngoại, một " tạm ước " trước khi ra về. Ngày 19-9, cụ Chủ tịch xuống tàu binh Dumont-d'Urville đi Đông Dương, ngày 18-10 hội đàm với d'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh. Ngày 20-10 về đến Hà Nội. Trong gần 5 tháng, Chủ tịch đi vắng mà chỉ trở về với một tạm ước kém hiệp ước tháng 3 ! Trong nước, phái thực dân lấn áp dần dần : thành-lập Nam kì tự trị, chiếm các vùng dân tộc thiểu số, một vài điểm chiến lược hay kinh tế như tỉnh lị Lạng Sơn, Bắc Ninh, phủ Toàn quyền, toà Tài chánh, và tự thu quan thuế ở Hải Phòng.
Cụ Chủ tịch vẫn giữ thái độ trấn tĩnh. Nhưng các nhân viên, sau 5 tháng ở Pháp về với nhiều nỗi lo âu và thất vọng. Coi chừng mỗi người phải quyết đi vào một chí hướng. Tôi còn nhớ khi gặp thi sĩ Xuân Diệu. Đại biểu báo chí vừa về, anh ta bảo với mọi người : '' Có nhiều thể chế cộng hoà, ta phải liệu chọn ". Phan Anh, về hình thức vẫn là bộ trưởng quốc phòng, chắc đã được Giáp, nhất là Phan Mỹ, cho biết rõ tình hình nguy ngập về võ bị. Tôi phải đợi đến hôm cụ Chủ tich về, chiêu đãi thân sĩ, mới có dịp gặp lại Phan Anh. Tôi cũng được mời vì là nhân viên hội nghị Đà Lạt. Bước vào phòng khách, tôi thấy người kết cụm trò chuyện xôn xao. Trông sang một góc buồng, thấy Phan Anh ngồi một mình với một cuốn sách ở tay. Tôi liền bước thẳng tới. Anh đứng dậy, tươi cười bắt tay. Tôi đùa đọc câu Kiều:
" Chi bằng riêng một biên thuỳ ! "
Anh vội mỉm cười mà bảo:
" Chớ đọc nối câu sau ".
Chúng tôi đều biết đến câu sau : " Sức này đã dễ làm gì được nhau ". Tôi hiểu ý của Anh, nhưng tôi cũng đùa đáp:
'' Sao lại sợ ? Đó là lời phái đoàn ta phải nói với Pháp ! ".
Câu nói ấy là ngẫu nhiên, chứ bấy giờ tôi chưa biết lời tướng Salan đã bảo Hoàng Minh Giám sau khi ta từ chối mọi điều ức hiếp của Pháp, rằng : "Sự đã rõ ràng, chỉ còn cách đánh nhau giữa chúng ta !".
Tôi hỏi : '' Đọc sách gì thế ? "
Anh giở bìa sách. Tôi đọc : " LE ZERO ET L' INFINI ".
Tôi hơi ngạc nhiên, Anh liền bảo : " Không phải sách toán đâu ! Sách này hiện là best-seller bên Pháp, tôi mới mua về ". Tôi hỏi qua nội dung thì Anh chỉ cười không đáp. Vừa lúc ấy viên lãnh sự Anh, Trebor Wilson, là một người Anh đã làm lãnh sự nhiều năm ở Hà Nội, và người ta cho là một thám tử đặc sắc, đi lại gần chúng tôi, vì y đã biết tôi qua thư kí của y là một đàn bà người Anh và vợ bạn tôi là Hà Văn Vượng. Y chào Anh và tôi, rồi nhìn trừng trừng bìa sách của Anh, tủm tỉm cười và nói : " Bonne lecture ! ", nghĩa là " Đọc tốt nhỉ ! ". Bấy giờ tôi không hiểu câu khen bí mật kia. Sau tôi mới biết sách ấy có một tiếng giội lớn bên Âu Châu vì chỉ trích thâm trầm chế độ và tư tưởng của Staline trong các vụ giết các bạn hữu đồng chí (4).
Sau đó tôi gặp Anh, nói chuyện lâu. Anh cho hay rằng mình tưởng có thể tựa vào các tả đảng ở Pháp để dễ điều đình hơn. Nhưng họ còn khắc nghiệt hơn cả hữu đảng, vì trong khi tranh giành bầu cử, họ sợ mang tiếng đã phá sản quyền lợi quốc gia. Kết luận là sự nhượng bộ trước áp lực thực dân cũng không đủ ; sự hoà giải giữa các đảng phái trong nước cũng chỉ làm yếu tổ chức binh bị. Vì vậy một chính phủ mới được thành lập, thải những phần tử tượng trưng. Võ Nguyên Giáp trở lại bộ quốc phòng. Ấy vào ngày 3 tháng 11 năm 1946. Từ đó đến tháng 5 năm 1954, tôi không gặp lại Phan Anh nữa. Từ bấy giờ, cánh thực dân và cánh quân nhân nhất quyết lập lại chính quyền Pháp trên đất Việt. Họ dùng phép " làm trước cãi sau " mà lấn dần dần, để cho ta phản ứng lại thì ta thành khiêu khích. Bấy giờ họ sẽ dùng vũ lực là thanh toán " dễ dàng " vấn đề Việt Nam.
Ngày 20 tháng 11, vịn vào việc tranh chấp quan thuế ở Hải Phòng, tướng Valluy đã tàn sát và chiếm thị trấn: dân Hà Nội sợ bị tập kích như vậy, nên phần lớn tản cư. Tôi không biết Phan Anh đi về đâu. Hai bộ đội sợ nhau, nên hành động bảo vệ bị coi là hành động khiêu khích (5). Trong tinh thần ấy, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ từ tối ngày 19-12. Năm sau tôi mới biết Phan Anh đã lên Chiến khu Việt Bắc với Cụ Hồ. Hoàng Xuân Hãn (bài đã đăng Đoàn Kết số 431, 02.1991)
(Bài này lẽ ra còn một phần thứ nhì. Trên thực tế, phần chưa viết này ẩn tàng trong bài Cố Điện nói về thân sinh ông Phan Anh - chú thích của Diễn Đàn)
(1 ) THANH NGHỊ : nghị luận trong trẻo của kẻ trí thức. Một tháng ra một số từ 1-5-1941 ; rồi mỗi tháng ra hai số từ 1-5-1942. Trong báo KHOA HỌC 1-5-1942, có lời quảng cáo sau : " Báo Thanh Nghị do một nhóm thanh niên trí thức chủ trương, gồm có các giáo sư, luật gia, bác sĩ, dược sĩ, cùng các hoạ sĩ, nhạc sĩ, và văn gia... Trong số 1-5 có những bài : Lập hiến : Phan Anh ; Ấn Độ kinh tế và chính-trị : Vũ Văn Hiền ; Mặt trời mọc giữa ban đêm ở Pháp : Ngụy Như Kontum ; Vấn đề đi vay đối với dân quê : Vũ Đình Hoè ; quan niệm bài thơ : Đoàn Phú Tứ , Phạm Văn Hanh, Nguyễn Sanh; Công việc bảo vệ hài nhi ở các nước : bà Phan Anh ; \/ấn đề hồi môn : Phan Mỹ ; Kỷ niệm Phan Thiết : Đinh Gia Trinh ; âm nhạc lối hát ả đào : Nguyễn Xuân Khoát ; Đạo nghị định mới về luật thuê nhà : Đỗ Xuân Sảng ; Sự quan hệ giũa hai học thuyết Lão và Khổng : Đặng Thái Mai ; Công việc bài trừ bệnh lao bên Pháp : Bác sĩ Trịnh Văn Tuất ; Lược-khảo về thi hội năm Duy Tân thứ bảy : Nguyễn Văn Huyên ; Một nhà toán-học có tiếng, ông Cauchy : Hoàng Xuân Hãn ; và những bài về văn chương. Mỹ thuật và khảo cứu của các ông Tô Ngọc Vân, Đỗ Đức Thu, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Lô, Nguyễn Trọng Phấn, các bác sĩ Phan Huy Quát, Trần Văn Bảng, Đặng Huy Lộc... Chủ-nhiệm : Vũ Đình Hoè. "
(2) Tôi có viềt ba bài cho báo Thanh Nghị : 1 ) La Sơn phu tử (với bức thư của vua Quang Trung gửi mời Nguyễn Thiếp), 2) Nguồn gốc văn Kiều (hát phường vải và bài " văn tế Trường lưu nhị nữ " của Nguyễn Du). 3) Mai đình mộng ký (một áng văn thuộc Văn phái Hồng Sơn, tác giả là Nguyễn Huy Hổ, con Nguyễn Huy Tự, tác giả chuyện Hoa Tiên).
(3) DÂN Vl QUÍ : dân là quí nhất. Châm ngôn nầy trích từ sách Mạnh Tử, thiên Tận Tâm hạ. Nguyên cả câu là : Dân vi quí xã tắc thứ chi, quân vi khinh, nghĩa là : Dân là quí nhất rồi mới đến nhà nước, còn vua là nhẹ. Các nhà Nho lấy ba chữ đầu để khuyên vua phải yêu dân. Báo Le Constitutionnel (?) của nhóm Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn đã dùng cả câu làm biểu ngữ cho báo. Lúc bấy giờ, chúng tôi tưởng rằng văn phòng đã xui Vua dùng khẩu hiệu DÂN Vl QUÍ. Nhưng Phạm Khắc Hoè lại đổ cho " nhà Nho học " Trần Trọng Kim xui. Sự ấy không đúng, vì Kim cũng như chúng tôi, tới Huế hơn hai tuần sau khi tờ " Dụ DÂN Vl QUÍ " được ban ra.
(4) Tác giả sách này tên Arthur Koestler, gốc Hung, lấy quốc tịch Anh và viết bằng tiếng Anh. Những tiểu thuyết y viết liên hệ đến cá thể con người đối với những lí tưởng chính trị hiện hành. Cuốn " Cái không và các vô tận " (dịch ra tiếng Pháp Le zéro et l'infini) được dịch ra tiếng Pháp năm 1945.
(5) Devillers trong sách Histoire du Vietnam (3ème édition, Seuil, trang 352) có mách lại lời tướng Valluy đến Hải Phòng ngày 17-12 (hai ngày trước chiến-tranh) nói với hai đại diện Pháp ở Bắc, Sainteny và tướng Morlière rằng : " Les nhacs veulent la bagarre, ils l' auront ", nghĩa là : " Tụi nhà quê muốn chiến tranh thì chúng sẽ có chiến tranh ".
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2013 5:49:14 GMT 9
Ai giết Lê Lai? giặc Minh hay Lê Lợi?Hồ Ðắc Duy Tại sao "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư " không chép chuyện "Lê Lai liều mình "? Chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa là một hành động hy sinh vì đại nghiã rất đáng cho người đời sau ghi nhớ . Ở Thành Phố H.C.M ,đại lộ Lê Lợi chạy từ Nhà Hát Thành Phố đến Chợ Bến Thành, nối liền là đường Lê Lai chạy cho đến Nhà Thờ Huyện Sĩ. Trong nhân gian cụm từ " Hăm mốt Lê Lai,hăm hai Lê Lợi " cũng nói lên lòng kính trọng đối với ngày giỗ của hai vị anh hùng này. Những vị cao tuổi bây giờ , ngày xưa học tiểu học cũng đã từng học chuyện" Lê Lai liều mình cứu chúa" .Trong "sử ký lớp ba" do sử gia Trần Trọng Kim soạn, Nha Học Chính Bắc Kỳ ấn hành đã được dùng làm sách giáo khoa dạy trong các trường . Nếu không nghiên cứu thêm các sách sử khác mà cứ một mực tin theo như thế và lòng tin ấy vẫn kéo dài hằng mấy mươi năm ,có thể cho đến khi chết vẫn yên trí như vậy, không biết điều đó có thật đúng như vậy hay không? Với những người yêu môn sử học,có nghiên cứu thì thấy chuyện này lại khác. Nhiều nghi vấn được đặt ra: * Lê Lai cứu chúa ở trận nào, thời gian nào ? * Ông có bị quân Minh bắt không ? * Hay ông còn sống và sau đó chết vì tay Lê Lợi ? Về việc này mỗi nhà viết sử viết một khác. a. Theo Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức ) trong Ngự Chế Vịnh Sử Tổng Luận cuốn 5 trang 49 ".....Có lần vua Lê Thái Tổ tiến đóng ở Lạc Thủy bị quân nhà Minh vây sát, vua yếu thế, lén rút về ở núi Chí Linh, giặc Minh rút lui để trở lại tấn công xứ Mỹ-Lộng, sách Hà Đã. Trong tình cảnh nguy khốn, quân ít thế cô lại nhiều lần bị quân Minh vây hiếp, vua ban hỏi các tướng lãnh"trong các tướng có ai bằng lòng đem mình thay ta ra đánh ở Tây Đô để làm mồi nhử cho giặc bắt, trường hợp đó ta sẽ rảnh tay chiêu tập quân sĩ để sau này mưu đồ đại sự." Lê Lai liền tình nguyện đảm đương việc này bèn xuất binh đến thành Tây Đô khiêu chiến và mặc áo Ngự bào, tự xưng Bình Định Vương. Quân giặc trông thấy người mặc áo vàng tưởng là Bình Định Vương thật, bèn đem hết quân đến vây và bắt sống; đem về rồi giết ... Nhờ thế Bình Định Vương được nghỉ ngơi vài năm để lo tích dưỡng binh đội mà quân Minh không hề để ý đến. b. Theo Ngô Thì Sỹ trong Việt Sử Tiêu Aùn trang 298 thì " ... Trước Vương khởi binh ở Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt mãi, bèn mưu cùng tướng tá rằng ai có thể đem thân ra thay ta, để cho ta đi ẩn nấp, giấu tông tích mà cho quân nghĩ để mưu đồ cử binh lần sau. Lê Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy, Vương lạy khấn trời nói ; "Lê Lai đem thân mà thay chúa, nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành rừng núi, bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành dao cùn". Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương đã chết. Người Minh cũng tin là thật không lưu ý. Đến lúc này Vương rời đồn đến Mang Thôi, .... Lý Bân Phương Chính (tướng Minh) đem 10 vạn quân đến vây .Vương phục binh ở Thị Lang tập kích địch....". c. Theo Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí trang 332, chỉ nói Lê Lai vì nước bỏ mình... cho nên không riêng chép ra mà chỉ nhân thể chú phụ vào sau thôi - trong phần chú thích có ghi "Lê Lai là người làng Dụng Tú huyện Lương Giang. Lúc mới khởi binh bị tướng Minh vây chặt, vua hỏi các tướng bàn xem đổi áo đánh lừa giặc như việc Kỷ Tín ngày xưa, Lê Lai xin đi bèn mặc áo bào đem quân xông vaò hàng trận của giặc, đánh đuối sức và bị bắt , vua nhân dịp này trốn thoát. d. Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử "... Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh Sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư lương làm bữa ăn rất là khốn đốn. Hoàng Đế bèn hỏi các Tướng: "có ai dám bắt chước Kỷ Tín thời xưa không ?". Người ở thôn Dụng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua,xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh quân Minh, quân Minh mừng rỡ liền dồn cả lực lượng vây chặt Lê Lai, ông chống cự đến kiệt sức rối bị bắt, quân Minh dẫn ông về thành Đông Quan giết chết, chúng liền lui binh, ta thoát nạn... e. Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thấy viết " ... về Chí Linh lần thứ hai tháng tư năm Kỷ Hợi (1419) quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới bèn đem binh đến vây đánh, Vương bị vây nguy cấp lắm bèn hỏi các tướng rằng có ai làm được như Kỷ Tín ngày trước chịu chết cho vua Hán Cao không? Bấy giờ Lê Lai liều mình vì nước xin mặc áo bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô. f. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí lại viết " ... Lê Lai người thôn Dựng Tú huyện Thụy Nguyên, Thái tổ khởi nghĩa bị quân Minh vây hãm, các tướng bàn mưu cho một người mặc áo bào giả làm Bình Định Vương để đánh lừa giặc theo như việc cũ của Kỷ Tín nhà Hán, Lê Lai xin làm việc ấy vì vậy Thái tổ mới lén ra đi năm Thuận Thiên thứ nhất được tặng thái ký..." g.Trong Đaiï Việt Sử Ký Toàn Thư, cuốn thứ X có lẽ do Phan Phu Tiên viết là chính sau này các sử quan khác như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy nhuận sắc thêm thì chỉ có ghi theo biên niên các trận đánh mà ở đó Lê Lợi khốn đốn vì bị vây hãm và hết lương. 1. Mùa xuân tháng giêng ngày Canh thân, vua khởi binh ở Lam Sơn (1418) , ngày mồng 9 tháng ấy bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới uy hiếp vua ở Lam Sơn, vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy, ngày 13 dời quân đến núi Chí Linh. Ngày 16 giặc đi lối tắt đánh úp đằng sau vua bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Tháng 2 vua hết lương, không còn gì để nổi lửa gặp khi giặc lui quân bèn về đắp thành ở đất Lam Sơn. 2. Tháng 4 năm Kỷ Hợi (1419) vua đánh đồn Nga Lạc, tháng 5 đóng ở sách Đà Sơn, quân Minh tiến đánh vua phục kích ở Mường Chách... ít lâu sau dời sang Mường Thôi rồi lại về Vu Sơn. 3. Tháng 10, năm Canh Tý (1420) quân ta đánh nhau với quân Minh ở Mường Nanh. 4. Từ năm 1420 - 1422 lúc nào cũng có giao tranh với quân Minh. 5." Mùa đông tháng 12 năm Nhâm Dần (1422) quân ta bị giặc Minh vây ở Sách Khôi, vua bảo các tướng sĩ " giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào thoát. Đây chính là tử địa mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết. Vua nói xong chảy nước mắt, các tướng sĩ đều xúc động tranh nhau liều chết quyết chiến....Vua đem quân về đóng ở núi Chí Linh, quân lính hết lương, hơn 2 tháng chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi, vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưởi để nuôi quân sĩ...." Từ trận đó cho đến khi toàng thắng giặc Minh vào năm 1428 không có trận nào mà Lê Lợi bị vây khốn nữa. Theo như lời của vua Tự Đức có lẽ việc Lê Lai đổi áo bào cho Lê Lợi là trong trận ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418) hoặc tháng hai năm đó - xứ Mỹ công sách Hà Đã có lẽ là vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn. Theo Ngô Thời sĩ thì có lẽ hành động của Lê Lai được thực hiện trong trận tháng 5 năm Kỷ Hợi (1419) khi quân Minh tiến đánh Lê Lợi ở sách Đà Sơn. Còn Phan Huy Chú thì không ghi rõ địa điểm cũng như thời gian của việc này. Lê Qúy Đôn thì ghi "đóng quân ở Mang Cốc trong núi Chí Linh hơn 10 ngày hết lương..." và hành động mặc áo bào của nhà vua xưng là Lê Lam Sơn có thể vào mùa đông tháng 12 năm1422 trong khi đó Trần Trọng Kim thì ghi rõ là tháng 4 năm1419. Một điều đáng ngạc nhiên là sử gia các đời về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình cứu chúa .Trong khi nhóm sử thần đời Lê lại không ghi chuyện này.Trong Đại Việt Sử Ký Tòan Thư phần bản kỷ , quyển số 10, trang 27b chỉ thấy chép : "Ngày 13 tháng giêng năm Đinh Mùi (1427) giết Tư Mã Lê Lai , tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công nói năng khinh mạn " Điều này cho phép ta hiểu rằng chuyện Lê Lai đổi áo giả làm Lê Lợi là có thật nhưng ông đã may mắn thoát khỏi tay quân giặc để trở lại hàng ngũ kháng chiến .Nghĩa là ông vẫn còn sống cho đến năm 1427 tức là 8 năm sau mới bị Lê Lợi ra lệnh giết chết " Điểu tận cùng tàng" chim hết thì cung tên xếp xó; thỏ hết thì chó săn bị bắt ra làm thịt, việc giết công thần sau khi đã làm nên nghiệp lớn là việc thường xảy ra dưới thời đại phong kiến.Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Việt Vương Câu Tiễn giết Văn Chủng , Phạm Lãi nhờ trốn sang nươc Tề rồi vào đất Đào, cải tên là Đào Chu Công mới may còn sống sót. Theo nhận xét của các tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ,quyễn X ,trang 75b viết : "Thái Tổ từ khi lên ngôi đến nay,thi hành chính sự thực rất khả quan....song đa nghi hiếu sát là chổ kém ". Khi thành công trong việc giành lại độc lập - Lê Lợi đã giết chết nhiều công thần đã sát cánh cùng mình trong gian khổ chiến đấu. Ngày 10 tháng giêng Mậu thân ( 1428 ) giết Trần Cảo,Năm 1429 giết Trần Nguyên Hãn , Năm 1431 giết Phạm Văn Xảo ... vì lo rằng sau này họ có chí khác nên bên ngoài thì đối xử theo lẽ tiết hậu nhưng trong lòng lại rất ngờ vực. Lê Lợi đã ra lệnh giết chết Lê Lai cũng nằm trong ý đồ này Thêm một yếu tố xác định việc thanh toán này là trong danh sách ban biển ngạch công thần cho 93 người vào ngày 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429 ) không có tên của Lê Lai và suốt các đời vua Lê về sau trong các lần phục hồi công trạng cho các công thần bị hàm oan cũng không thấy có tên Lê Lai mà chỉ nói đến tên của Lê Lâm và Lê NIệm là con và cháu nội của Lê Lai mà thôi.Mãi cho đến năm Nhâm Tý (1672) Lê Gia Tông niên hiệu Dương Đức năm thứ nhất mới thấy phục hồi cho Lê Lai hạ .Lê Gia Tông hạ chiếu giảm bớt ruộng thế nghiệp của các công thần thời Lê sơ, ngoại trừ Lê Lai (sách Biên Niên Lịch Sứ Cổ Trung Đại Việt Nam trang 320 ) Giết một người đã chết thay cho mình ,để mình được sống mà bảo tòan lực lực lượng,đổi nguy thành an, sau này lên ngôi Hòang Đế ; giết mà còn tịch thu gia sản sau khi đã thề thốt nặng lời " Lê Lai đem thân mà thay chúa , nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành rừng núi , bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành dao cùn " quả Lê Lợi đã làm một việc thật là......... Nếu các tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chuyện" Lê Lai liều mình" và sau đó còn ghi việc Lê Lai bị giết thì khác nào bêu xấu Lê Lợi ,điều mà các vua Lê không lấy gì thích thú .Có thể các sử gia có chép chuyện "Lê Lai đổi áo" vì rằng đó là một sự kiện đáng tự hào, không thể không ghi, nhưng khi dâng vua xem thì e rằng vua hạ lệnh "biên tập " đi chăng ! Còn tại sao các sử gia như Lê Qúy Đôn, Trần Trọng Kim và ngay cả vua Tự Đức không ghi việc Lê Lợi giết Lê Lai vào năm 1427 là vì họ đã cho giặc Minh bắt và giết Lê Lai ngay lần cứu chúa vào năm 1419 rồi còn đâu nữa ! Chỉ có Ngô Thì Sĩ là không ghi ai đã giết Lê Lai , còn Phan Huy Chú thì chỉ nói khaí quát là "Lê Lai vì nước bỏ mình"... Trong sách Lịch Sử lớp 7 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ấn bản lần thứ 9 tháng 7/1996 đang được dạy tại các trường Phổ Thông, trang 69 viết: " Trước tình thế hết sức nguy hiễm, Lê Lai liền cải trang làm Lê Lợi chỉ huy một đội quân cảm tử xưng là chúa Lam Sơn, xông thẳng vào vòng vây của địch.Quân Minh dồn hết sức hướng về phía Lê Lai . Chúng bắt được Lê Lai và đội quân cảm tử đem giết hết." Một câu hỏi cần thiết phải đặt ra: Có nên sửa lại bài học lịch sử này hay không ? và nếu không thì phải giải thích chuyện Lê Lợi ra lệnh giết Tư Mã Lê Lai vào ngày 13 tháng giêng năm Đinh Mùi (1427 ) như thế nào ? Rất mong được các bật cao minh đóng góp ý kiến, nhất là các nhà sử học . ************** Lê Lợi và Lê LaiNguyễn Dư Thuở cắp sách đến trường, tôi được học bài "Lê Lai liều mình cứu chúa". Mấy chục năm sau, tình cờ đọc sử biết thêm chuyện "Lê Lợi giết Lê Lai". Chính sử không viết rõ hai ông Lê Lai là hai người khác nhau hay là cùng một người. Bán tín bán nghi, tôi tò mò đi kiếm sách đọc thêm. Xin đem những điều học thêm được ra bàn luận. Tài liệu viết về Lê Lợi và Lê Lai tương đối nhiều. Để cho dễ theo dõi vấn đề, đề nghị chúng ta cùng đọc lại mấy bộ sử theo trình tự thời gian. Sách đầu tiên viết về Khởi nghĩa Lam Sơn còn lưu truyền đến ngày nay là Lam Sơn thực lục (LSTL) của Lê Lợi, viết năm 1431. Con cháu công thần Lê Sát còn cất giữ được một bản sao chép sách LSTL này (Nguyễn Diên Niên và Lê Văn Uông, Lam Sơn thực lục, Ty văn hóa Thanh Hóa, 1976, viết tắt LSTLTH). Bài này sẽ dùng bản LSTL của dòng họ Lê Sát (gọi tắt là bản Lê Sát, được sao chép vào khoảng năm 1715) làm tài liệu gốc để đối chiếu với các sách khác. * Bản Lê Sát gồm hai phần viết khác nhau : - LSTL do Lê Lợi viết, dùng đại danh từ "trẫm". - Những lời chú do người khác viết, dùng đại danh từ "vua". Chuyện Lê Lai và mấy chuyện khác (Lê Thận được gươm thần, thần áo trắng v.v.) nằm trong phần chú, nghĩa là do người khác viết. 1) Chuyện Lê Lai cứu chúa trong bản Lê Sát như sau: (…) "Vua thoát nạn đi thẳng đến Trịnh Cao là đất giáp giới Ai Lao, đồn trú lại. Lương thực ít ỏi, tuyệt đường đi về Linh Sơn, Mường Cốc? Quân lính chịu khổ, đói rét vất vả hàng mười ngày liền, đào củ nâu ăn cầm hơi, tìm mật ong làm nước uống, người ngựa đều đói khốn. Vua hỏi ai là kẻ bề tôi tận trung, hết lòng lo việc nước. Lúc đó, có Lê Lai vốn người thôn Dựng Tú, tính cương quyết, nghiêm nghị và thẳng thắn, diện mạo khác thường, sức khỏe và chí khí hơn người, chỉ mình Lê Lai nói: - Tôi tự nguyện đổi áo, ngày sau bệ hạ nên nghiệp đế, có thiên hạ, nhớ đến công của tôi, cùng con cháu tôi muôn đời sau được chịu ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi vậy. Vua vái trời khấn rằng: - Lê Lai có công đổi áo, mai sau, Trẫm và con cháu Trẫm, con cháu các công thần tướng tá, nếu không nhớ công ơn ấy thì nguyền đền cỏ này hóa thành núi rừng, ấn báu này hóa thành cục đồng, lưỡi gươm thần này hóa thành đao mác thường. Vua khấn xong, Lê Lai cưỡi ngựa phi ra, thay vua cứu nước, tự xưng là vua Lê. Giặc Minh tưởng là thật, trói bắt về tâu lên vua nhà Minh. Do đó, tình thế hòa hoãn, Vua được tạm yên ". (LSTLTH, tr. 241). Lê Lợi tìm người hết lòng lo việc nước. Lê Lai tự nguyện đổi áo và bị quân Minh trói bắt về tâu lên vua nhà Minh. * 2) Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn Thư (TT), Khoa Học Xã Hội, 1968), bộ sử của nhà Lê do Ngô Sĩ Liên soạn năm1479, không chép chuyện Lê Lai đổi áo, thay vua cứu nước. * 3) Phạm Phi Kiến (đậu tiến sĩ năm 1623) chép trong sách Thiên nam Trung nghĩa thật lục : (…) "Lai bèn đem binh đến thành Tây (Tây đô), hô lớn khiêu chiến, tự xưng là Bình Định Vương. Người Minh vây bắt, gia cực hình. Sau vua phong hai con là Bá và Viện làm trung lang tướng. Khi vua lên ngôi, tặng Lai hiệu Thái thượng quốc công nguyên huân công thần; lại ban thụy Trung dũng đại vương; đưa tùng tự ở Thái miếu. Đến đời Gia Tông (Dương Hòa năm đầu 1635) cấp một trăm mẫu ruộng tế". (theo bài Những lời thề của Lê Lợi của Hoàng Xuân Hãn, trong Hoàng Xuân Hãn (HXH), tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 599-633). Hoàng Xuân Hãn cho rằng Phạm Phi Kiến đã dùng tài liệu khác ngoài LSTL, như phần phổ (dòng họ Lê Lai) để viết. Chưa chắc Phạm Phi Kiến đã dựa vào phần phổ của dòng họ Lê Lai vì Phạm Phi Kiến chép các mĩ tự của Lê Lai và tên các con của Lê Lai không giống LSTL của Lê Lợi và tất cả các bộ chính sử đời sau. Phạm Phi Kiến đã thêm chi tiết Lê Lai bị gia cực hình. Nếu cho rằng gia cực hình có nghĩa là giết chết thì, theo Phạm Phi Kiến, Lê Lai bị quân Minh giết tại Tây đô. * 4) Đến đời Vĩnh Trị (1676-1680), Hồ Sĩ Dương vâng lệnh vua Lê Hi Tông sửa đổi, trùng san LSTL của Lê Lợi. Sách LSTL trùng san của Hồ Sĩ Dương (gọi tắt là bản Hồ Sĩ Dương) (Nguyễn Trãi toàn tập (NT), Khoa Học Xã Hội, 1976) có nhiều điểm không còn giống LSTL của Lê Lợi. Hồ Sĩ Dương thay đổi bố cục của LSTL. Chuyện Lê Lai và tất cả các chuyện khác, trước kia được chép trong phần chú, bây giờ được đưa vào nằm trong LSTL. Quan trọng hơn nữa là Hồ Sĩ Dương đổi đại danh từ "trẫm" (vua tự xưng) thành "vua"(lời bề tôi). Vô tình hay cố ý, Hồ Sĩ Dương đã phủ nhận Lê Lợi là tác giả LSTL. Chuyện Lê Lai của bản Hồ Sĩ Dương như sau: "Bấy giờ quân ta mới thắng nhỏ, mà thế giặc lại đang lớn mạnh, vua liền vời các tướng lại nói rằng : - Ai có thể mặc áo hoàng bào thay ta đem năm trăm quân và hai thớt voi đi đánh thành Tây Đô, thấy giặc ra đánh thì tự xưng "ta là chúa Lam Sơn", để cho giặc bắt được, cho ta có thể ẩn náu nghỉ binh, thu nhặt binh sĩ mưu cử sự về sau ? Các tướng đều không dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai nói : - Thần nguyện đổi lấy áo bào. Ngày sau Bệ hạ thành nghiệp đế, có được thiên hạ, nhớ đến công thần mà cho con cháu muôn đời của thần được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước. Vua vái trời mà khấn rằng : - Lê Lai có công đổi áo, sau này trẫm cùng con cháu trẫm và các tướng tá công thần cùng con cháu họ, nếu không nhớ đến công ấy, thì xin điện cỏ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường. Vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cổng trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy binh mạnh xông ra đánh. Lê lai cưỡi ngựa phi vào trận giặc, nói rằng: Ta là chúa Lam Sơn đây ! Giặc liền vây và bắt trói đem vào trong thành xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng". (NT, tr. 50, 51). Hồ Sĩ Dương cho biết: - Lê Lợi đưa ra ý đổi áo. - Lê Lai bị quân Minh bắt trói đem vào trong thành (Tây Đô) xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng. Lê Lợi chủ động nghĩ ra kế hay. Cái chết và nơi chết của Lê Lai được xác định giống Phạm Phi Kiến. Như vậy là bản Hồ Sĩ Dương đã khác bản Lê Sát về cả nội dung lẫn hình thức. * 5) Đại Việt thông sử (1759, đời Lê Hiến Tông) của Lê Quý Đôn (gọi tắt là Thông Sử (TS), KHXH, 1978) chép trong phần Đế kỷ : " Lúc ấy, binh tướng của ta đương thời kỳ ban đầu, còn rất ít ỏi, thế mà quân Minh có tới hơn 4 vạn rưởi tên (…) Vua bèn hỏi các tướng: " Có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín thời xưa không ?". Người ở thôn Dậng Tú là Lê Lai khảng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê ở Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh. Tướng Minh mừng rỡ, liền dồn cả quân vây chặt Lê Lai, Lê Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết, chúng bèn lui binh, ta được thoát nạn". (TS, tr. 35). Lê Quý Đôn là người đọc nhiều sách, biết nhiều điển tích, đã thêm chuyện Kỷ Tín vào LSTL và cho biết rõ là quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết. Cái chết của Lê Lai lại một lần nữa được xác định, nhưng khác bản của Phạm Phi Kiến và Hồ Sĩ Dương. Tuy vậy, ở mục Liệt truyện của Thông Sử, Lê Quý Đôn lại viết: " Khi (Lê Lai) đã kiệt sức, ông bị địch bắt, xử cực hình. Sau đó giặc lui quân về thành Tây Đô, việc phòng bị của chúng mới hơi sơ hở, vua (Lê Lợi) có thời cơ, nghỉ binh, nuôi chứa nhuệ khí, để có thể trăm trận trăm thắng, và lấy được thiên hạ ". (TS, tr.157). Xử cực hình Lê Lai rồi sau đó quân Minh rút vào trong thành Tây Đô. Vậy Lê Lai bị xử cực hình ở đâu ? Nếu ở Đông Quan (như Lê Quý Đôn viết ở đoạn trên) thì chúng ta phải hiểu là quân Minh phải ở ngoài thành Tây Đô để chờ tin giết Lê Lai. Cứ cho là Tây Đô–Đông Quan–Tây Đô đi về mất độ 4, 5 ngày. Quân Minh phải đóng ở ngoài thành 4, 5 ngày, không đánh nhau, trước khi rút vào trong thành. Chuyện vô lí, chả lẽ quân Minh lại ngu xuẩn đến mức như vậy. Chỉ còn lại giả thuyết là Lê Lai bị xử cực hình tại trận hoặc trong thành Tây Đô. Đối chiếu hai đoạn viết của Lê Quý Đôn chúng ta không khỏi phân vân, bối rối. Lê Lai bị giết ở Tây Đô hay Đông Quan? Phải chọn một trong hai nơi chứ không thể chấp nhận cả hai được ! Phải chăng Lê Quý Đôn đã tham khảo cả bản Phạm Phi Kiến hoặc bản Hồ Sĩ Dương để viết rằng Lê Lai bị xử cực hình (tại Tây Đô) mặc dù chính Lê Quý Đôn đã phê bình bản Hồ Sĩ Dương là do "các nho thần đã vâng mệnh vua đính chính, chỉ căn cứ vào hiểu biết của mình, lấy ý riêng mà sửa chữa, thêm, bớt, sai mất cả sự thực, không phải là nguyên bản sách cũ" (TS, tr. 110), nên mới viết mâu thuẫn như vậy ? * 6) Đại Việt sử ký tiền biên (1800, nhà Tây Sơn) của Ngô Thì Sĩ (gọi tắt là Tiền Biên (TB), KHXH, 1997) chép cũng không rõ ràng, dứt khoát : "Lê Lai bèn đem quân đến thành Tây Đô khiêu chiến, tự xưng là Bình Định Vương. Giặc Minh dốc quân ra bao vây, bắt về xử cực hình. Từ đấy các nơi thuộc thành Đông Quan đều truyền tin là Bình Định Vương đã chết…".(TB, tr. 552). Lê Lai bị giết ở Tây Đô, nhưng tin lại từ Đông Quan được truyền đi. * 7) Việt sử tiêu án cũng của Ngô Thì Sĩ (Văn Sử, Hoa Kì, 1991, tr. 298) chép : "Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương chết rồi, người Minh cũng tin là thật, không lưu ý…". * 8) Lịch triều hiến chương loại chí (1821, đời Minh Mạng) của Phan Huy Chú (tập 1, Sử Học, 1960) sau lời án công nhận Lê Lai vì nước bỏ mình, có thêm lời chú : (…) "Lúc mới khởi binh, bị tướng Minh vây ngặt, vua hỏi các tướng, bàn xem có ai đổi áo đánh lừa giặc, như việc Kỷ Tín ngày xưa. Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân xông vào hàng trận của giặc, đánh đến đuối sức, bị bắt. Vua nhân dịp trốn thoát." (tr. 266). Ở đây, Phan Huy Chú chép lại việc Kỷ Tín của Lê Quý Đôn nhưng chỉ nói Lê Lai bị bắt, như bản Lê Sát. * 9) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1881) (gọi tắt là Cương Mục (CM), Giáo Dục, 1998), bộ sử của nhà Nguyễn lại thêm vài chi tiết mới, rõ ràng : " Vương chạy vào Trịnh Cao, rồi lui giữ núi Chí Linh. Quân Minh thường đến đánh úp: tình hình phía Vương khốn quẫn quá ! Vương phải nhóm họp các tướng, dụ bảo họ rằng: "Bây giờ ai có thể làm như Kỷ Tín xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cử sự về sau ?" Trong các tướng chẳng ai đáp ứng cả. Riêng có Lê Lai khảng khái xin vâng, tình nguyện trao đổi đồ mặc với Vương để đi chết thay. Lê Lai liền cho sắp xếp nghi trượng chỉnh tề, chính mình đem quân và voi, hướng ra phía địch, chỉ huy các tướng chia đường khiêu chiến. Tướng Minh lấy thêm quân bao vây Lê Lai. Lai chiến đấu kiệt sức, bị người Minh bắt và giết chết. Địch bèn rút quân về Tây Đô ". (CM, tập 1, tr. 770). Lê Lai biết trước là đi chết thay Lê Lợi. Hậu quả tất yếu là Lê Lai bị người Minh bắt và giết chết. Lê Lai chết ở đâu ? Cương Mục chép giống Thông Sử, chỉ cho phép suy ra là Lê Lai bị giết ở Tây Đô. * 10) Lịch sử Việt Nam của Uỷ ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam (KHXH, 1971, tr. 244) chép: "Quân Minh tập trung lại bao vây để bắt sống Lê Lai và tiêu diệt đội quân cảm tử. Nhờ đó, cuộc khởi nghĩa thoát khỏi một cơn hiểm nghèo. Hành động xả thân vì nước của Lê Lai đã trở thành một hình tượng anh hùng không bao giờ phai mờ trong ký ức của dân tộc ta". Đoạn trên thì Lê Lai bị bắt sống, đoạn dưới thì Lê Lai có hành động xả thân vì nước. Tuỳ người đọc muốn hiểu sao thì hiểu. Trên đây là 10 sử liệu quan trọng của ta. Có thể kể thêm Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (Trung tâm học liệu, 1949, tr. 219), Việt sử toàn thư của Phạm Văn Sơn (Khai Trí, 1960, tr. 360) nhưng 2 bộ sử này chép tương tự sử của nhà Nguyễn. Nhận xét đầu tiên là chuyện Lê Lai cứu chúa rõ ràng đã bị đời sau sửa đổi. Lúc Lê Lợi còn sống (1431), văn bản chỉ kể rằng Lê Lai bị quân Minh trói bắt về tâu lên vua nhà Minh. Hơn 200 năm sau, Phạm Phi Kiến (khoảng 1635) xướng lên rằng Lê Lai bị quân Minh gia cực hình. Hơn 300 năm sau, Lê Quý Đôn (1759) đi xa hơn một bước nữa, không những Lê Quý Đôn chép rằng Lê Lai bị quân Minh giết, ông còn ví Lê Lai với Kỷ Tín. Tiếc rằng Lê Quý Đôn đã chép Lê Lai bị giết lúc thì tại Tây Đô, lúc thì tại Đông Quan. Các sử gia đời sau thường dựa theo chuyện Kỷ Tín của nhà bác học Lê Quý Đôn để kể chuyện Lê Lai cứu chúa. Trở lại bản Lê Sát. Lê Lai bị quân Minh trói bắt về tâu lên vua nhà Minh nghĩa là gì ? Toàn Thư và Tiền Biên cho biết rằng từ trước cũng như trong thời kì Khởi Nghĩa Lam Sơn, nhà Minh đã nhiều lần đưa ra chính sách chiêu dụ để dụ dỗ vua quan của nước ta ra hợp tác với chúng. Có nhiều dấu hiệu tỏ rằng quân Minh chấp hành chính sách này. Cụ thể là vua Trần Quý Khoáng, cha con Hồ Quí Ly, Nguyễn Phi Khanh, Trần Nhật Chiêu…, các tướng Nguyễn Xí, Đỗ Bí của Lê Lợi, khi bị quân Minh bắt đều được đưa về Đông Quan, trước khi bị giải sang Yên Kinh. Quân Minh chỉ giết ai chửi mắng, chống lại chúng. Năm 1408 vua Minh xuống chiếu : " Còn nghĩ bọn thù chúng vốn là ngu dốt, hoặc bị bách vì cùng đói, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hoặc bị bọn gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình đáng nên thương, nếu nhất khái bắt tội cả, trẫm thật không nỡ. Ngày chiếu thư này đến nơi đều tha bỏ cả…". (TT, tập 2, tr. 235). Năm 1409, " Kinh lộ lần lượt đầu hàng, những dân còn sót lại bị bắt làm nô tỳ và chuyển bán đi tan tác bốn phương. Thượng thư Hoàng Phúc lại đặt quan chia nhậm từ Thanh Hóa trở ra bắc, người thổ nào có thể chiêu an, hoặc có công chém giết cướp bóc thì Trương Phụ đều cho làm quan ". (TB, tr. 535). Năm 1411 : "…Trong ấy nếu có người dũng cảm người kiến thức, có thể bắt được mấy người đem nộp, cũng cho quan to tước cao; những kẻ làm ác nếu biết gột rửa tâm trí, đổi lỗi sửa mình, không những là được khoan tha tội lỗi, lại cho làm quan nữa ". (TT, tập 2, tr. 214). Năm 1416 : " Nhà Minh chiêu dụ các quan cũ của triều trước, giả cách bổ đi các nha môn quân làm việc, rồi đưa về Yên Kinh giữ lại. Bọn đua chen vốn không phải là quan cũ, chưa được thực giao quan chức cũng hăng hái ra, trong nước trở nên trống rỗng. Ở vài năm thấy gian khổ thỉnh thoảng họ lại trốn về ". (TB, tr. 549). Năm 1420 : "Tam ty nước Minh kiến nghị rằng, quan lại quân dân Giao Chỉ người phạm tội vặt, từ tội chết trở xuống, xin đều cho nộp thóc để chuộc tội theo thứ bậc khác nhau, để trữ lương nơi biên giới. Vua Minh nghe theo ". (TT, tập 3, tr. 11). Năm 1426 : "… Vậy ban ơn mưa móc, cho đều được nhuần. Phàm quan lại nhân dân ở Giao Chỉ có can tội phản nghịch, đã kết giác hay chưa kết giác (phát giác) đã kết chính hay chưa kết chính (xử đoán) kể từ ngày chiếu thư này ban ra, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều tha bỏ cho cả…". (TT, tập 3, tr.22). Cùng năm 1426 :"…Xuống chiếu đại xá cho tội nhân ở Giao Chỉ là Lê Lợi. Phan Liên hàng, cũng cho quan chức…". (TT, tập 3, tr. 335). * Năm 1418, thanh thế Lê Lợi chưa nổi, nghĩa quân Lam Sơn còn rất ít ỏi, chưa mạnh. Lê Lai (Lê Lợi giả) bị trói bắt về tâu lên vua nhà Minh có nghĩa là quân Minh bắt ông tại Tây Đô, sau đó chúng đưa ông về Đông Quan chiêu dụ hoặc chờ ngày giải sang Yên Kinh như chúng đã từng làm với vua Trần Quý Khoáng, với cha con Hồ Quý Ly. Lê Quý Đôn cũng xác nhận chuyện quân Minh đưa Lê Lai về Đông Quan, nhưng theo Lê Quý Đôn thì Lê Lai bị quân Minh giết tại đây. Bản Lê Sát không chép Lê Lai bị giết tại thành Tây Đô, cũng không chép Lê Lai bị giết tại Đông Quan. Không có chữ nào nói rằng Lê Lai bị quân Minh giết. Bản Lê Sát còn có hai chi tiết khác chứng tỏ rằng Lê Lai không bị quân Minh giết : - Lê Lợi chép tên hơn 40 công thần bị chết trận, trong đó có tên hai con trai của Lê Lai là Lê Lộ và Lê Lâm, nhưng không có tên Lê Lai. - Lê Lợi lập danh sách 35 công thần tham dự cuộc khởi nghĩa được phong thưởng. Bên cạnh chức tước được phong Lê Lợi ghi cả công của mỗi người. Ông Lê Thạch được ghi là : Người đầu tiên ghi tên vào cuộc khởi nghĩa, làm quân hỏa thủ thiết kỵ đột. Lương nghĩa hầu, vì đánh Ai Lao mà trận vong. Ông Lê Lai được ghi là : phong làm Diên phúc hầu, nhập nội. Lộ Khả Lam, vì dịch bào thế quốc sự (vì đổi áo thay việc nước). Lê Lợi chỉ nói là Lê Lai có công đổi áo và không nói là Lê Lai bị quân Minh giết. Theo bản Lê Sát thì không có bằng chứng nào nói rằng Lê Lai bị quân Minh giết. * Toàn Thư (bộ sử của nhà Lê) không chép chuyện Lê Lai cứu chúa. Hoàng Xuân Hãn phân tích và phê bình sự thiếu sót này : " Sau khi đọc Thông sử, ta thấy hiển nhiên rằng chuyện Lê Lai hy sinh để Lê Lợi có thể trốn tránh trong cơn quẫn bách là chuyện thật, mặc dầu Toàn Thư, theo bản ngày nay còn đã bỏ sót. Vả về đời Lê Lợi, bản Toàn Thư hiện còn chép chuyện năm thì nhiều, năm thì ít, khiến ta có thể nghĩ rằng hoặc vì tài liệu đã mất nhiều trước đời Lê Thánh Tông, hoặc sử thần cẩu thả, hoặc bản đời sau khắc lại bớt xén nhiều ". (HXH, tập 2, tr. 612). Hoàng Xuân Hãn dựa theo Lê Quý Đôn để phê bình sử gia Ngô Sĩ Liên ! Hơn 200 năm sau Lê Lợi, Phạm Phi Kiến là người đầu tiên (theo các văn bản hiện có) chép rằng Lê Lai bị quân Minh xử cực hình tại thành Tây Đô. Chuyện thêm thắt này vừa hay vừa đẹp nên được nhiều sử gia đồng tình chép theo, nhất là từ khi nhà bác học Lê Quý Đôn ví Lê Lai với Kỷ Tín. Trên đây là chuyện "Lê Lai cứu chúa". * Bây giờ xin đề cập đến chuyện " Lê Lai bị Lê Lợi giết ". Toàn Thư không chép chuyện Lê Lai cứu chúa, ngược lại lại chép chuyện ông Lê Lai bị Lê Lợi giết: (Năm 1427, tháng giêng, ngày 13) "Giết tư mã là Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết". (TT, tập 3, tr. 30; TS, tr. 56). Ông Lê Lai bị Lê Lợi giết này là ai ? Toàn Thư không cho biết rõ. Tiền Biên, Cương Mục và các bộ sử sau này chỉ chép chuyện Lê Lai cứu chúa và không chép chuyện Lê Lợi giết tư mã Lê Lai. Thông Sử chép cả hai chuyện Lê Lai, một ông cứu Lê Lợi, bị quân Minh giết (chép theo Phạm Phi Kiến hoặc Hồ Sĩ Dương); một ông bị Lê Lợi giết (chép theo Ngô Sĩ Liên). Hai văn bản khác nhau được Lê Quý Đôn ghép lại, tạo ra lôgích có 2 ông Lê Lai khác nhau. Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn (Khởi nghĩa Lam Sơn, KHXH, 1977, tr. 154-158) nhận định : "Toàn Thư hoàn toàn không chép sự việc này (Lê Lai cứu chúa) và đến tháng 2 năm 1427 có chép chi tiết :" giết tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công ăn nói ngạo mạn" . Căn cứ vào chi tiết này có người phủ nhận việc Lê Lai hy sinh năm 1419. Thực ra không có căn cứ gì để cho rằng Lê Lai đã bị giết năm 1427 thì không thể có Lê Lai hy sinh năm 1419 vì rất có thể có hai người cùng tên họ, hay cùng tên khác họ nhưng được ban quốc tính nên thư tịch cũ chép thành cùng tên họ. Hơn nữa Lam Sơn thực lục tục biên (bản sao năm 1942) lại chép cả việc Lê Lai hy sinh cứu Lê Lợi và cả việc giết Lê Lai năm 1427. Điều ấy chứng tỏ lúc bấy giờ có hai người tên là Lai ". (Sách Lam Sơn thực lục tục biên này chép Lê Lai bị bắt đem về thành ở xã Dựng Tú). Bị vua giết mà vẫn còn được giữ họ vua (quốc tính) sao? Xã Dựng Tú thời Lê Lợi có thành không? Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn dựa vào Lam Sơn thực lục tục biên (bản sao năm 1942) để kết luận rằng có 2 ông Lê Lai, một ông bị giết ở Dựng Tú (?), một ông bị Lê Lợi giết? Theo Lê Quý Đôn thì có 3 ông Lê Lai: một ông bị giết ở Tây Đô, một ông bị giết ở Đông Quan và một ông bị Lê Lợi giết. Không những thế, Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn (sđd) còn đưa ra thêm mấy tài liệu tỏ rằng có nhiều ông Lê Lai tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn : - Nguyễn Ba Lai người huyện Đăng Cao cũng là Lê Lai. - Nguyễn Thận ở Mục Sơn cũng có tên là Lê Lai. - Lê Văn An ở Mục Sơn cũng có tên là Lê Lai. Đặc biệt ông Lê Lai này "đã lấy thân thay Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại ". Ông Lê Lai này không bị quân Minh giết chết. Tính tổng cộng ít ra cũng đã có bốn hay năm ông Lê Lai theo phò Lê Lợi từ ngày đầu! Thật khác xa với lời than của Nguyễn Trãi: "Thế mà : Nhân tài lác đác như lá mùa thu, Tuấn kiệt lưa thưa như sao buổi sớm…" E rằng có hiện tượng thấy người sang bắt quàng làm họ như người xưa thường nói! Hoàng Xuân Hãn phân vân tự hỏi : "Lê Lai (bị Lê Lợi giết) này là ai ? chắc cũng là một đại công thần.Trùng tên chăng? hay là kẻ khắc chữ lầm tên ?". (HXH, tập 2, tr. 608). Hải Dương và Hồ Khang (Lê Lợi và Thanh Hóa trong khởi nghĩa Lam Sơn, Thanh Hóa, 1988, tr.77) khẳng định: "Nghĩa quân Lam Sơn có 2 người tên Lê Lai. Lê Lai ( bị Lê Lợi giết) ở đây không phải là Lê Lai đã hy sinh anh dũng để cứu Lê Lợi ". Hai tác giả không cho biết dựa vào tài liệu nào. Nguyễn Diên Niên thì thắc mắc : (…) " Còn sự hy sinh của Lê Lai thì khác hẳn. Đó là sự hy sinh cao cả nhất, có thể nói là to lớn nhất trong quá trình khởi nghĩa. Không có cái chết của Lê Lai thì không còn cơ đồ nhà Lê. Ấy thế mà Toàn thư, bộ quốc sử của triều Lê không có một dòng nào chép về cái chết ấy. Thái độ đó phải được giải thích như thế nào ? Phải chăng sự im lặng này có quan hệ đến cái vị trí số 2 của Lê Lai sau Lê Lợi (trong Hội thề Lũng Nhai) và sự hy sinh của nhân vật số hai ấy để bảo tồn cuộc khởi nghĩa và người lãnh tụ tối cao ? Nhưng vấn đề này đã vượt ra ngoài công trình khảo cứu này". ( LSTLTH, tr. 100). Dường như Nguyễn Diên Niên không để ý đến chuyện Lê Lai bị trói bắt về tâu lên vua nhà Minh nằm trong bản Lê Sát do ông công bố. Tiền Biên và Cương Mục không chép chuyện tư mã Lê Lai bị Lê Lợi giết. Như vậy đỡ gây thắc mắc cho người đọc? Trong bản Thông Sử (chữ hán) được Lê Mạnh Liêu dịch, tên tư mã Lê Lai bị đục mất chữ Lai. Xoá tên như vậy thì người đọc sẽ không biết người bị giết là ai? Xung quanh chuyện ông Lê Lai cứu chúa còn mấy chi tiết khác cần được xem lại. Bản Lê Sát có 3 bài văn thề nằm ngoài LSTL, một bài bằng chữ hán, hai bài bằng chữ nôm (LSTLTH, tr. 201-203). Bài Thệ Từ , còn gọi là bài Thề nhớ ơn Lê Lai (HXH, tập 2, tr. 600) do Lê Lợi sai Nguyễn Trãi chép năm 1429 bằng chữ nôm, được đời sau sao chép, có đoạn chính như sau : "(…) Chúng bay cũng thời nhớ công Lê Lai hay hết lòng mà đổi áo cho trẫm chẳng có tiếc mệnh, mà chịu chết thay trẫm, công ấy cực cả thay. Trẫm đã táng Lê Lai trong đền Lam để mai sau thời cho con cháu Lê Lai ở hết lòng cùng con cháu trẫm (…)". Có lẽ Lê Quý Đôn đã dựa vào đoạn văn này để viết rằng : "Vua (Lê Lợi) cảm động vì lòng trung nghĩa của ông (Lê Lai), trước hết sai người ngầm tìm di hài ông, đem về mai táng ở Lam Sơn (…). Tháng 12 năm sau (1429), nhà vua sai Nguyễn Trãi viết hai bản thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để vào trong hòm vàng, lại gia phong cho ông hàm thái úy." (TS, tr. 157). Sai người ngầm tìm di hài có nghĩa là ngầm tìm, lén tìm trong lúc còn quân Minh. Đọc sử ai cũng thấy rằng từ ngày khởi nghĩa đến ngày toàn thắng, Lê Lợi luôn luôn phải lo nghĩ đối phó một mất một còn với quân Minh. Không biết đã có lúc nào Lê Lợi được rảnh rang để nghĩ đến chuyện sai người ngầm tìm di hài Lê Lai đem về táng ở Lam Sơn hay ở đền Lam chưa? Hoàng Xuân Hãn kết luận về bài Thề nhớ ơn Lê Lai như sau : "(…) Được nhận là xác thật, bài thề A (tức là bài Thệ Từ) khẳng định thêm một vài sự kiện lịch sử. Câu Lê Lai hay hết lòng vì trẫm mà đổi áo cho trẫm, xác nhận chuyện đổi áo. Câu trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam chứng thực sự Lê Lợi sai lén tìm di hài Lai về táng ở Lam Sơn mà ta thấy chép trong Thông sử. (…) Kết luận đoạn này là có nhiều phần chắc rằng bài A (bài Thệ từ) nhắc đúng lời Lê Lợi đã thề trước mặt các công thần về việc báo ơn Lê Lai và đã bắt mọi người thề theo". (HXH, tập 2, tr.613). Thế nhưng: Toàn Thư (tập 3, tr. 76-78) và Cương Mục (tập 1, tr.864-866) lại cho biết : "(Năm 1433, tháng 8) Vua về Lam Kinh. Tháng 8 nhuận, sao chổi mọc ở phương tây. Ngày 22, vua băng ở chính tẩm. (…) Mùa đông tháng 11 ngày 22, rước về chôn ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. (…) Tháng 12, các quan theo hầu về Tây kinh, dựng điện Lam Sơn". Điện Lam Sơn đọc nôm là Đền Lam Sơn hay Đền Lam. Điện Lam Sơn được dựng sau khi Lê Lợi chết, để thờ Lê Lợi. Chuyện Lê Lợi táng Lê Lai ở đền Lam không thể xảy ra được. Có nhiều khả năng, nếu không muốn nói là chắc chắn, là đời sau đã không nhắc đúng lời Lê Lợi, đã chép thêm chuyện táng Lê Lai ở đền Lam vào bài văn thề. Trừ phi ở Lam Sơn lại có hai hoặc nhiều đền Lam! * Tóm lại, chuyện Lê Lai cứu chúa có vài điều mờ ám, đáng nghi ngờ. * Cho rằng có hai hay bốn năm ông đại thần Lê Lai, trùng tên trùng họ, cùng theo phò Lê Lợi, là điều hơi khiên cưỡng, chỉ làm rắc rối thêm chứ không giải thích được những điều thêu dệt, thậm chí mâu thuẫn của các sử thần. Vả lại trong dân gian đã có con cháu một đại công thần cho biết rằng ông tổ của họ là Lê Lai "đã lấy thân thay Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại ". Có một ông Lê Lai cứu chúa không bị quân Minh giết ! Hay là ông Lê Lai cứu chúa này chỉ bị trói bắt về tâu lên vua nhà Minh. Ông "đã lấy thân thay Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại "? Quân Minh không chiêu dụ được ông. Ông được hưởng chính sách ân xá (hay được nghĩa quân Lam Sơn giải phóng?). Nhờ có công cứu chúa ông được phong tư mã, một chức lớn thời Lê Lợi. Năm 1427 ông phạm tội ăn nói ngạo mạn, bị Lê Lợi giết. Đối với quân Minh thì Lê Lợi "chưa từng giết bậy một người nào, bắt được viện binh của nhà Minh hơn 10 vạn người đều tha hết cả ", nhưng đối với các công thần, các nguỵ quan về đầu hàng, thì Lê Lợi lại "đa nghi hay giết, đó là chỗ kém" như Ngô Sĩ Liên đã đánh giá. Kháng chiến thành công, Lê Lợi đã bắt giam Nguyễn Trãi một thời gian. Trần Nguyên Hãn nhận xét rằng Lê Lợi là người "có tướng như Việt Vương, không thể cùng sung sướng được". (TS, tr.109). Lê Lợi sai người bắt Trần Nguyên Hãn khiến ông phải than trước khi tự tử :"tôi với vua cùng mưu cứu dân. Nay việc nghĩa lớn đã hoàn thành vua lại muốn giết tôi, hoàng thiên có biết xin soi xét cho" (TS, tr. 190). Phạm Văn Xảo cũng bị Lê Lợi giết. Giết hai ông rồi, "sau này vua Thái Tổ (Lê Lợi) hối hận, thương hai người bị oan " (TS, tr. 193). Rất có thể giết Tư mã Lê Lai rồi Lê Lợi cũng hối hận, cũng cảm động vì lòng trung nghĩa của Lê Lai nên đã cho tổ chức lễ thề nhớ ơn Lê Lai. Từ đây trở đi, Lê Lai được tẩy oan, được phong thưởng, truy tặng, được thờ. Con cháu Lê Lai được các vua đời sau khen tặng v.v. như chính sử ghi chép. Dân gian đặt câu " Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi " cũng không ngoài mục đích phục hồi danh dự cho Lê Lai bị giết oan, góp phần làm đẹp thêm trang sử. Giả thuyết trên đây cần được các nhà sử học lưu ý, nghiên cứu thêm ngõ hầu làm sáng tỏ chuyện ông Lê Lai cứu Lê Lợi và ông Lê Lai bị Lê Lợi giết. **************************** Nghe bàn chuyện Lê LaiNguyên Ðạo Cũng như Nguyễn Dư, hồi nhỏ học sử, ai cũng biết "kịch bản chính thống" là Lê Lai liều mình cứu chúa, giặc bắt được giết đi. Đùng một cái, tin được bắn ra "Có một Lê Lai mặc áo hoàng bào thế mạng Lê Lợi, bị quân Minh bắt; sau đó vài năm có một Lê Lai bị Lê Lợi giết vì ngạo mạn cậy công ". Người thấy lạ, kẻ bảo chẳng có gì đáng chú tâm, người xưa đã lý giải cả rồi. Muốn biết rõ, có lẽ chỉ còn trông mong vào những nhà nghiên cứu sử, bình tâm bàn bạc với nhau, xét dữ kiện, phê bình sách, nghiêm túc, khiêm tốn... Nhưng muốn có thảo luận trước hết phải có người nêu vấn đề ! Phải chăng, xưa nay, những tiến bộ của khoa học, rất nhiều khi xuất phát từ những thái độ "xét lại lập trường chính thống" của xã hội? Tại sao mâu thuẫn trong chuyện Lê Lai, được viết trong sách từ mấy trăm năm nay, đến bây giờ mới được nêu ra? Giá trị bài của Nguyễn Dư chính là dám đưa ra nghi vấn lịch sử này, cho mọi người góp ý. Người đầu tiên đáp lời là Nguyên Thắng ! Trước lập luận của đôi bên, Nguyễn Dư và Nguyên Thắng, dốt sử như tôi, quả thực điên đầu. 1 - "Kịch bản chính thống" Có một kịch bản: "Lê Lai bị người Minh bắt được, đem giết đi !". Đây là "kịch bản chính thống", theo sách vở nhà trường. Điều đáng tiếc là những người viết ra kịch bản này, dĩ nhiên phải là những nhà thông thái, những sử gia nghiêm túc, biết "cân nhắc từng chữ", đã quên đi chuyện sau đó có một Lê Lai bị Lê Lợi giết. Quên hay không biết ? Quả thật thông thái đến đâu, cẩn thận đến đâu đi nữa chắc cũng có chỗ sơ hở, đọc sách, luận bàn "chưa rốt ráo", "chưa tới nơi tới chốn". a - Ông Ngô Sĩ Liên cắc cớ, nói Lê Lai bị giết mà không nói rõ Lê Lai nào, trong khi trong triều, theo "kịch bản Nguyên Thắng ", nhan nhản đầy quan đại thần tên Lê Lai, "đó là chỗ kém" của Ngô Sĩ Liên ( !) b - Ông Nguyễn Trãi, văn chương, mưu lược như thần, vậy mà chỉ nói Lê Lai bị "xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng", sao không thêm câu "cho đến chết" ? Đã cân nhắc từng chữ, sao không nói toạc móng heo ra mà còn mập mờ: Lê Lai chết hay không chết? nói ra có gì đáng ngại? b - Người sau viết sử, không biết có đọc sách của Ngô Sĩ Liên không, mà cứ lướt qua nghi vấn: Lê Lai bị giết một hay hai lần ?... như vậy có nghiêm túc không? Đúng hay sai, phải giải quyết chứ? Phan Huy chú đã không nói tới việc có một Lê Lai bị Lê Lợi giết, chắc có lẽ ông không biết chuyện đó, nên nghĩ rằng ông Lê Lai "liều mình cứu chúa" đã bị quân Minh giết. Ngoài ra, ngôn từ xưa và nay chắc cũng có nhiều chữ đã đổi nghĩa. Ngày nay, chữ "bỏ mình vì nước" thông thường được hiểu là đã "chết vì nước", nhưng chữ "xả thân vì nước" không hoàn toàn cùng nghĩa. Vốn dốt chữ nho, tôi không biết chữ "bỏ mình" trong bài chế văn của Lê Thánh Tông (theo Nguyên Thắng) được viết nguyên văn bằng chữ Việt hay được dịch từ "chữ hán" nào? Và ngày xưa, phải được hiểu ra sao? Như vậy "kịch bản chính thống" quả có nhiều sơ hở, vì nó không lý giải rõ ràng dữ kiện "có một Lê Lai bị Lê Lợi giết"! Lẽ ra đâu đó cũng phải nói, dù cho khẳng định: "Có một Lê Lai bị Lê Lợi giết, nhưng người đó không phải là kẻ đã cứu sống Lê Lợi" ! 2 - Một hay nhiều Lê Lai? Bàn luận về sử phải chăng không cần xét đến giá trị các tài liệu có trong tay? Với tất cả những nghi vấn đó, "kịch bản Nguyễn Dư": một Lê Lai bị bắt nhưng không bị Minh giết, dù giải thích chưa được thỏa đáng, theo ý tôi vẫn là ít gượng ép nhất, ít vặn vẹo nhất, so với kịch bản: "cho xuất hiện cùng một thời gian dăm quan đại thần Lê Lai khác". Rất có thể, cùng thời đó, có nhiều người trùng tên Lê Lai. Nhưng khó tưởng tượng nổi trong một triều đình có ba bốn quan đại thần, cùng mang một tên, cùng có công trạng lớn đến mức độ được mang quốc tính, dám ngạo mạn với vua, công trạng đó lại không được nhắc nhở trong sử sách. Trong các trận đánh, lớn nhỏ, sao không thấy nói đến tên Lê Lai? Ngoài công "liều mình cứu chúa", có Lê Lai nào còn công trạng khác? Còn gì bình thường hơn khi ta hiểu rằng: Lê Lai trước, chịu hy sinh thế mạng cho Lê Lợi, với Lê Lai sau, bị Lê Lợi giết, chỉ là một Lê Lai? Cùng một tác phẩm ! cùng một tác giả ! Tại sao tác giả không nói là hai, mà mình cứ quả quyết là hai ? Nói ngược lại là không bình thường. Dĩ nhiên ta có quyền nói ngược Ngô Sĩ Liên, nhưng phải chưng bằng cớ ! Một bên là sử sách giấy trắng mực đen: "Giết tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết" , một bên là phân tách ngữ nghĩa : sách đời sau nói Lê Lai "bỏ mình" hay "xả thân", và "bỏ mình" có nghĩa là đã chết. Nhiều tài liệu được Nguyên Thắng nhắc tới, dẫn chứng sự hiện diện của nhiều Lê Lai, nhưng chưa thấy luận bàn xem những tài liệu đó đáng tin cậy đến mức độ nào? Nhất là những tài liệu được viết rất lâu về sau, có cả một bản tục biên được sao lại năm 1942... Hiện tượng "tam sao thất bổn" hay "râu ông nọ cắm cằm bà kia" có thể xẩy ra? Con cháu chép chuyện ông Tổ mình trong gia phả, hay đúc bia (vào giữa thế kỷ thứ 19 ! ) liệu có thể thêm bớt hoa hoè gì không? Thời xưa, có hay không chuyện thay tên đổi họ, hay thay đổi năm sinh, năm chết, nhất là khi ông tổ mắc tội với triều đình, hay mắc tội chết chém (vì dám ngạo mạn!) Với Lô Gích của Nguyên Thắng, dù không nói ra, hễ đã viết ra văn bản là đúng ! Này nhé, theo sách Ngô Sĩ Liên, đã có 2 Lê Lai, một "cứu mạng vua", một bị Lê Lợi giết). Năm 1942, có một bản sao của Lam Sơn Thực Lục tục biên, ghi có người tên Nguyễn Thận ở Mục Sơn, được ban tên là Lê Lai, vậy là ba Lê Lai. Sau đó, có bia tìm thấy ở Mục Sơn (cũng lại Mục Sơn!), có người húy là Lai được mang quốc tính vì "đem thân cứu chúa" (cũng lại "liều mình cứu chúa")... vậy là bốn Lê Lai... Có chuyện ông Lê Lai - Lê Văn An liều mình cứu chúa nhưng không bị Minh giết ! lại chết năm 1437... , "lấy thân thay Thái Tổ" (nhưng thay làm sao? có bị quân Minh bắt không? nếu có, làm sao thoát về được để sống cho đến năm 1437? Đúng là "kịch bản Nguyễn Dư" nhé !). Còn kịch bản "Lê Lợi bị "gặp nguy hai lần", được "hai ông Lê Lai" khác nhau "lấy thân thế mạng", Nguyên Thắng có cho là gượng ép không? Dù có thể có nhiều người tên "Lai ". Cùng thời với Lê Lợi và Lê Lai, Nguyễn Trãi không nói rõ là Lê Lai bị quân Minh giết. Thời sau, triều thần nhà Lê mới nói là Lê Lai bị quân Minh giết. Có ai nhớ câu chuyện "Thị Lộ và rắn báo oán " không nhỉ ? Phải chăng vì những chuyện "bóp méo lịch sử " thời Lê để giữ thể diện cho "Triều Đình sùng Nho giáo" này mà nảy sinh những chuyện "tiền hậu bất nhất " trong sách sử như chuyện Lê Lai ? 3 - Có thể nào đặt giả thuyết một cuộc giải cứu Lê Lai tại trận Tây Đô hay sau đó? Khi tài liệu sử đã không rõ ràng, dĩ nhiên chỉ có cách bàn luận xét đoán thực hư, đưa ra giả thuyết này nọ. Và đã bàn luận thế nào chẳng phải dựng lên kịch bản, lớp lang, chuyện trước chuyện sau? Dù nói ra hay không, trong mỗi bài viết đều tiềm ẩn "một kịch bản". "Kịch bản Nguyễn Dư" có ba điểm: 1-Lê Lai cứu chúa bị bắt. /2-Lê Lai thoát ngục trở về./3-Lê Lai bị Lê Lợi giết. "Kịch bản Nguyên Thắng" quả quyết: 1- Lê Lai cứu chúa bị bắt./2-Lê Lai không thoát ngục được, bị quân Minh giết./3-Có nhiều Lê Lai, một trong những Lê Lai đó bị Lê Lợi giết sau này. Điểm thứ nhất đôi bên cùng đồng ý. Điểm thứ ba chỉ là hệ luận của điểm thứ hai. Điểm thứ hai được đặt ra: Lê Lai có bị quân Minh giết hay không? Nếu không, bằng cách nào thoát ngục trở về? Lê Lai được giải thoát trong trận đánh úp Tây Đô, hay sau này, sau trận Tây Đô, trong điều kiện khác? Thực ra, được giải thoát trong trận Tây Đô hay không, tự nó, dữ kiện này cũng không quan trọng. Điều chính là Lê Lai có còn sống đến năm 1427 hay không? Trở lại giả thuyết Lê Lai được giải cứu trong trận Tây Đô. Một số câu hỏi lẩn thẩn có thể được đặt ra : Tây Đô được chiếm toàn bộ hay không trong một thời gian ngắn ? Lê Lai bị giam chỗ nào? Quân ta tấn công đến đâu? Có thể nào tưởng tượng có người giải cứu tù nhân để lập công trong lúc hỗn loạn? (...)Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay Gạo nước đón rước Người theo đầy đường... (Phú Núi Chí Linh) Nếu không coi bài này là tài liệu lịch sử chính xác, ít nhất nó cũng nói lên khí thế trận Tây Đô. Dĩ nhiên, nói chuyện "vượt ngục", "giải cứu tù nhân", có người sẽ cười nói là "chuyện tiểu thuyểt ! Lấy chuyện khác để so sánh: Lê Xí bị Minh bắt, "nhân ban đêm mưa gió, dùng mẹo đánh lừa kẻ canh giữ, thoát về được, vào ra mắt vua ở dinh Bồ Đề". Đấy ! Không cần ngoại công nội ứng, chỉ một đêm mưa gió mà vượt ngục được. Thế lúc quân ta tràn vào (đến đâu, chưa biết), trống trận ầm ầm, thành lũy tan vỡ, quân Minh nhốn nháo, tứ phía bủa vây, 500 lính Minh bị giết, bao nhiêu lính bị bắt, không biết có thể tưởng tượng một cuộc giải thoát tù trong điều kiện này không nhỉ? Hay là Lê Lai được giải cứu sau này, trong điều kiện khác? Dĩ nhiên, kịch bản "Lê Lai được giải cứu" có nghĩa là trước sau, ít ra cho đến năm 1427, chỉ có một Lê Lai cứu Lê Lợi sau bị Lê Lợi giết. Còn nếu tin theo Nguyên Thắng: Lê Lai không hề được giải cứu, đã bị Minh giết, thì chỉ còn cách dựa vào sách vở, ngôn từ, phân tách ngữ nghĩa, trưng bằng cớ, chứng minh có nhiều Lê Lai được ban quốc tính, chung sống cạnh Lê Lợi trước năm 1427. Như vậy cứ chứng minh là có nhiều Lê Lai vây quanh Lê Lợi, và tưởng tượng Lê Lợi ra lệnh: " Lê Lai 1 cưỡi voi ra thế mạng ta, Lê Lai 2 theo ta hộ giá, Lê Lai 3 đem quân ra đối đầu giặc...". Nghe những người trong "nghề đọc sách" luận bàn không hẳn là dễ, cũng lắm công phu đấy chứ nhỉ !...
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 6, 2013 9:33:04 GMT 9
Mộ Phan Đình Phùng(VienDongDaily.Com - 05/10/2013) Bài và hình: Trần Công Nhung “Tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, có một ngôi mộ rất to là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về hàng, để sửa sang phần mộ của cha ông mình, thì ngôi mả cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh mình, thì anh em trong nước ai cứu?... Tôi đã quyết làm cái công việc của vua ủy thác, dân trông mong tới cùng, thì dầu cho sấm sét búa rìu, quyết cũng không lay chuyển và thay đổi chí hướng được.” (1) (Phan Đình Phùng) Phan Đình Phùng Sau khi thăm đình Hoành Sơn(2), ngược về Đức Thọ đến QL8, tôi rẽ theo một tỉnh lộ chừng 2km thì gặp mộ Phan Đình Phùng nằm trên đồi cây bên tay trái. Một đường tam cấp lên cao dần, rồi mất hút trong bóng cây trên đỉnh đồi. Trời nắng to, người cũng đã mệt, chung quanh không có nhà ở, tôi dựng xe, nghỉ mấy phút trước khi lên đồi. Bia Ký Tuy hơn trăm tam cấp, song thế đồi thoai thoải nên từ từ một lúc cũng đến nơi. Cứ nhìn bóng mát lùm cây xanh phủ nóc nhà bia là cảm thấy nhẹ người. Đa phần đền chùa thường ngự trên đồi cao, đi muốn bá thở, mộ nhà ái quốc Phan Đình Phùng an vị trên đỉnh đồi Châu Phong, cây cối bao trùm mát mẻ, đẹp. Đường lên mộ khá rộng, tráng xi măng, cứ vài bậc cấp lại có một mặt bằng mươi bước chân, không phải lên dốc liên tục. Càng lên càng đi vào bóng mát cây xanh, khách không cảm thấy mệt. Lên tới nhà bia, nhìn xuống mới biết mình đã lên cao. Đồi Châu Phong, địa phận làng Đông Thái, nay là xã Tùng Ảnh. Phan Đình Phùng (1847- 1895) là nhà khoa bảng (3) có tiếng tăm và là vị anh hùng dân tộc thời cận đại. Khu mộ gồm hai phần, mộ ở gần đỉnh đồi và bia ở bậc dưới. Nhà bia cũng đơn giản 4 cột gỗ tròn to chắc nịch, đặt thẳng trên nền đá liếp xanh, đầu kèo có chạm trổ nhưng không tỉ mỉ lắm. Mái lợp ngói vảy cá hơi dày. Một nhà bia vạm vỡ như một hộ thần trấn đền. Mặt trước mộ. Bia mộ bằng đá Thanh, rộng 0.95 m, cao 1.59 m, dày 0.12 m, đầu bia hình bán nguyệt, trước và sau có phù điêu mặt hổ phù, diềm bia có hoa văn mây, hoa, lá. Bia được khắc hai mặt bằng chữ quốc ngữ nói về thân thế, sự nghiệp và ca ngợi sự hy sinh kháng chiến chống Pháp của ông. Bia cũng ca ngợi nhân dân 4 tỉnh Thanh, Nghệ, Hà, Quảng đã tích cực hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Nội dung bia do Viện Trưởng Viện Sử Học Trần Huy Liệu (4) soạn. Từ nhà bia lên mộ phải qua mấy chục bậc đá. Khu mộ, được đặt ở đỉnh đồi là nơi cao nhất, khoảng khoát, toát lên vẻ uy nghi cung kính. Mộ Phan Đình Phùng nằm theo hướng Đông Tây. Đế mộ hình vuông, ghép bằng 2 lớp đá Thanh, cạnh 5.28m, lớp trên nhỏ hơn. Mộ vuông vức cao chừng 1m, nấm mộ hình chóp nón, bốn mái cong cong, trên cùng gắn hình búp sen. Mặt trước mộ được khoét sâu một khung cửa vòm, xem như bia mộ, khắc hai dòng chữ, “Phan Đình Phùng – 1847- 1895.” Lư hương cũng dạng vuông, đơn giản chạm bằng đá. Tường rào khuôn viên mộ xây đá tổ ong, cao 0.80m, phía trong có xây một lớp phụ cao 30cm, làm cho chân tường thêm vững chắc. Khuôn viên mộ Nhìn chung, mộ cụ Phan như một Bảo Tháp trong chùa. Toàn khu mộ không có gì là nguy nga tráng lệ, không màu sắc lòe loẹt kiểu phô trương, mà bằng nét giản dị, chắc chắn, mạnh mẽ, thể hiện được chí khí của một người yêu nước. So với mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Quảng Ngãi (5)làm theo “mô típ” liệt sĩ ngày nay, màu mè giả tạo chỉ để khoe mẻ chứ chẳng ý nghĩa gì về tâm linh lịch sử (6). Mộ cụ Phan Đình Phùng có hai giả thuyết: a) Đây là ngôi mộ tượng trưng, vì sau khi ông mất, mộ được chôn ở rú Quạt, bị Nguyễn Thân phát hiện, cho người đào, đốt cốt lấy tro nhồi vào thuốc súng bắn xuống sông La (một nhánh của sông Lam). Nhân dân thương tiếc ông, đắp mộ tượng trưng trên núi để tỏ lòng tôn kính. b) Sau khi thi hài ông bị đốt, nhân dân đã thu thập được ít tro. Có người còn nói rằng, “Cái xác bị đốt là xác của một người khác; còn thi hài cụ Phan thì người ta đưa về mai táng trên núi.” Cả hai giả thuyết đều không thể xác minh, nhưng xu hướng chung thì cho đây là mộ tượng trưng. Năm 1965, khu mộ Phan Đình Phùng được tôn tạo lại khang trang như hiện nay. Phan Đình Phùng nổi tiếng từ nhỏ là người có chí khí và chăm học, năm 29 tuổi đỗ Cử Nhân và 30 tuổi đỗ Tiến Sĩ. Con đường làm quan của ông gặp nhiều chông gai trắc trở. Năm 1884 ông bị cách chức và đổi về quê. Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông đã tham gia ngay từ đầu và trở thành lãnh tụ của phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp trong hơn 10 năm trời (1885-1895), lấy khu căn cứ Vũ Quang làm đại bản doanh, đánh quân Pháp thất điên bát đảo. Ông mất vào ngày 28/12/1895 tại căn cứ địa Vũ Quang. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập nhà thờ để ghi nhớ công ơn của ông đối với đất nước quê hương. Đường lên Lăng mộ Trong chiến tranh Việt Pháp nhà thờ bị bom (1951) hư hỏng một phần, do không có điều kiện sửa chữa, nên đã bán ngôi nhà thờ cho chủ khác. Sau nhiều năm tìm kiếm xác minh, ngành văn hoá thông tin Hà Tĩnh đã chuộc về dựng lại trên nền nhà cũ để làm nơi thờ tự Phan Đình Phùng như trước đây. Hiện nay khuôn viên nhà thờ bao gồm hệ thống tường rào, rộng 500m2, xung quanh là khu dân cư. Trên hai cột nanh có khắc đôi câu đối bằng chữ Hán: “Công tại chiến trường danh tại sử Sinh nhi vi tướng tử vi thần” Nhà thờ xây tường gạch 3 phía, phía trước lắp hệ thống cửa gỗ kiểu “thượng song hạ bản” (bàn khoa), sườn nhà bằng gỗ lim, mít, 3 gian 4 vì kèo. Các đuôi xà ngang, kèo cột đều chạm nổi các hoa văn trang trí hình đao, dây lá…. Mái lợp ngói, bờ nóc đắp rồng chầu mặt nguyệt và hổ phù, các góc mái có gắn đao, đắp hình rồng hài hoà với kiến trúc của ngôi nhà. Nội thất có đặt bàn thờ Phan Đình Phùng với di ảnh chân dung, giá ngai, lư hương đồng, bình hoa sứ và ống hương bằng gỗ. Trước bàn thờ có đặt giá cắm binh khí gồm 8 loại khác nhau. Toàn bộ nhà thờ được tôn tạo phục hồi vào năm 2004 vẫn giữ được tính nguyên gốc của nó ban đầu Lúc lâm chung cụ Phan có bài thơ: Lâm chung thời tác Nhung trường phụng mệnh thập canh đông, Võ lược y nhiên vị tấu công. Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn, Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong. Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại, Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung. Trách vọng dũ long ưu dũ đại, Tướng môn thâm tự quý anh hùng. (Phan Đình Phùng) Lê Thước dịch: Nhà bia Làm trong khi sắp mất Nhung trường vâng mệnh, trải mười đông, Chiến sự nay còn tính chửa xong! Dân đói kêu trời tan ổ nhạn, Quân thù chật đất dậy đàn ong. Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ, Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng. Trách vọng càng cao càng mệt nhọc, Trướng môn những thẹn với anh hùng. Trần Công Nhung (1). Hoàng Cao Khải, khi ấy đang là kinh lược sứ Bắc Kỳ, vốn là người đồng hương và là thông gia với Phan Đình Phùng, liền gửi cho cụ một bức thư chiêu hàng bằng những lời lẽ hết sức thân mật, để khuyên bạn đừng chống đối tân triều (sau vua Hàm Nghi là Đồng Khánh) và Pháp nữa. (2). Đình Hoành Sơn QHQOK tập 15. (3). Đông Thái vốn là một làng nổi tiếng nhất trong tỉnh Hà Tĩnh, vì xưa nay có nhiều người đỗ đạt lớn, làm quan to. Khởi lên từ đời nhà Lê, phát một ông Quận công, nhà giàu có lớn, hay làm việc phúc đức, dân địa phương đều được nhờ cậy. Ông rất được sùng bái, người dân tôn ông là "Kiều Quận công.” Mấy đời sau, làng Đông Thái lại càng phát khoa cử, như như Quận công Hoàng Cao Khải, và hai tổng đốc Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu. Có câu liễn mừng thọ Hoàng Cao Khải, “Con cái một nhà hai tổng đốc, Pháp Nam hai nước một công thần.” Họ Phan thì từ ông Phan Như Tính, làm tổng đốc tỉnh Hải Dương chính là thầy dạy cụ Phan Đình Phùng cho tới các ông tiến sĩ Phan Đình Du, Phan Trọng Mưu, Phan Huy Nhuận... đều là người đồng hương và đồng thời với cụ Phan. Kể từ sau năm 1893 quân Pháp và tay sai Nam Triều tập trung lực lượng bao vây tấn công khu căn cứ Vũ Quang, Phan Đình Phùng đã bị thương sau đó hy sinh vào ngày 28-12-1895 thọ 49 tuổi. Thi hài ông được chôn dưới chân núi Qụat nhưng Nguyễn Thân đã tìm được mộ ông và cho đào lấy cốt đốt làm thuốc súng bắn xuống dòng sông La. Đấy là tương truyền, thực tế có người cho rằng Nguyễn Thân là người thấm nhuần đạo lý, lại là thông gia với cụ Phan, nên việc làm trên chỉ để qua mắt thực dân Pháp mà thôi. (4). Ông là tác giả chuyện "anh hùng Lê văn Tám" đốt cây xăng nhà Bè, chuyện phịa (do sử gia Phan Huy Lê xác nhận) hoang đường như chuyện Thạch Sanh nhưng là "Anh Hùng" của sử Việt. (5). Thiên Ấn niêm hà trang 185 QHQOK tập 6. (6). Đón đọc “Thành phố nghĩa địa” trong những kỳ tới. Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 14, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 26, 2014 9:25:29 GMT 9
Sự thật phũ phàng về Hiệp định Paris 1973Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay. Nguyễn Quốc Khải gửi RFA Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972. Ảnh tư liệu Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau. Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973. Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973 Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến. Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này. Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ. Khoảng cách chạy tội Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973.Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo. Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản. Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau: “We need a decent interval. You have our assurance.” Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp. Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: “We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971. Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này: “The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a d**n if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973. Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt: “ We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which – after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a d**n.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972. Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976. Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng: “Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam. Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010. Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval). Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng: 1. Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ. 2. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội). Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm. Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói: “We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971. Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972. Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu: 1. Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công. 2. Giữ lời hứa khi tranh cử. Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% - 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không. Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971: Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.” Kissinger: “No Question.” Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị. Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát. Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: “In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972. Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu: “I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any d**n thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973. image005-250.jpg Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh. Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris. Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán. Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam. Tại New Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu. Phục hồi Hiệp Định Paris 1973? Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH. Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976) . Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do chính họ dựng lên. Kết luận Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng nề những lỗi lầm đó. Đặc biệt GS Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận: 1. Planning Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam (1982). 2. No Peace No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001). Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Nếu Ông Hồ Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ trí thức, khôn ngoan đã không đi theo Cộng Sản để reo rắc đau thương triền miên cho đất nước trong một nửa thế kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh. Tài liệu tham khảo: 1. Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001. 2. Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012. 3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012. 4. Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History. 5. Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010. 6. Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997. 7. Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003. 8. Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999. 9. Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985. 10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977. 11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011. 12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 3:26:40 GMT 9
Tổng thống Thiệu ra lệnh khai hỏa ở Hoàng Sa*Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng - Gửi đến BBC từ Virginia, Hoa Kỳ (7 tháng 3/2017) --------------------------------------- Người dân chài làm ăn thường là cần cù, lương thiện nhưng khi người lính đội lốt dân chài đi đánh cá thì thật là nguy hiểm, dù đánh cá ở Scarborough, Kinsaku hay Hoàng Sa. Vào tháng 2 năm 1959 ngư thuyền Trung Quốc đưa người vào đánh cá trên Hoàng Sa. Không biết là dân chài thật hay dân chài giả, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho lệnh bắt giữ rồi trục xuất ra ngay. Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ngoại trưởng Foster Dulles không e ngại TQ trả đũa, cũng không ngăn chặn Tổng thống Diệm. Tới năm 1974, ngư thuyền Trung Quốc lại quay về Hoàng Sa, nhưng lần này có chiến hạm đi theo. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh 'mời' những tàu này ra. Khi chiến hạm cứ tiến vào, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã khai hỏa. Trận chiến kéo dài một ngày. Lập tức Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới sự lãnh đạo của ông Kissinger liền khẩn cấp can ngăn Tổng thống Thiệu hãy ngừng lại, đừng đụng độ với Trung Quốc thêm nữa! + Ý nghĩa của trận Hoàng SaQuân đội Mỹ vừa rút đi xong, Trung Quốc đã muốn tìm hiểu xem thực sự Mỹ có can thiệp trở lại hay không, Washington có thay đổi lập trường "ngăn chặn Trung Cộng'" hay không? Đó là lý do dẫn đến biến cố Hoàng Sa ngay đầu năm 1974. Đây là cảm tưởng chúng tôi có được sau khi hàn huyên với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về biến cố này. Một buổi chiều mùa Thu năm 1976 tại ngôi nhà bé nhỏ của gia đình ông ở vùng Surrey ngoại ô thành phố Luân Đôn, sau bữa cơm tối tôi ngồi nhâm nhi ly rượu và tâm sự với ông về những diễn biến trước khi sụp đổ. Khi tôi hỏi ông về trận Hoàng Sa và nhắc lại là đầu năm 1974 ông có chỉ thị cho chúng tôi phải báo cáo cho thật trung thực về tình hình viện trợ, chúng tôi đã trình bày là về tiếp liệu, quân nhu và quân cụ thì chúng tôi không biết rõ, nhưng về ngân sách dành cho Việt Nam thì sắp hết rồi vì Quốc hội Mỹ đang cắt xén rất mạnh tay. Tôi hỏi ông là tại sao ông biết đã đến lúc cạn kiệt rồi mà vẫn còn chống cự cả Trung Quốc. Ông không trả lời thẳng nhưng suy nghĩ giây lát rồi lẩm bẩm - chúng tôi không nhớ rõ nguyên văn nhưng đại khái ông nói: "Tôi còn định đi thêm bước nữa," rồi nhìn tôi và lắc đầu. Tôi muốn hỏi thêm 'đi bước nữa là thế nào,' nhưng thấy ông tỏ vẻ lơ đãng, ưu phiền nên nói lảng sang chuyện khác. Các bạn có thể xem thêm trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 25. Ngày nay, với những tiết lộ mới đây về mật điện của Bộ Ngoại Giao Mỹ vào chính ngày có hải chiến Hoàng Sa (19/1/1974) và tìm hiểu thêm qua nhân chứng thì chúng tôi đã có thể giải mã về biến cố này. Phân tích cho kỹ thì thấy ý nghĩa của trận Hoàng Sa thật là sâu xa: về thực tế, là để bảo tồn lãnh thổ, nhưng về mặt nguyên tắc, nó phản ảnh một cố gắng - hoàn toàn ngoài sức mạnh của VNCH - để ngăn chặn Trung Quốc khỏi tràn xuống Biển Đông. + Bối cảnh dẫn tới trận Hoàng Sa Ngày 22 tháng 6, 1972 trong một buổi mật đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai ở Bắc Kinh, Cố vấn Mỹ Henry Kissinger đã cho ông Chu biết rằng: "Nếu có một thời gian vừa đủ giữa lúc chúng tôi rút quân và những gì xẩy ra sau đó thì vấn đề gần như chắc chắn rằng có thể khoanh gọn, như chuyện nội bộ của Đông Dương" và "sau khi chúng tôi đã không còn can dự nữa thì …rất ít khả năng chúng tôi sẽ quay trở lại, rất ít khả năng." Cuối tháng 3/1975, toàn bộ quân lực Mỹ đã rút khỏi Miền Nam. Sau đó Quốc Hội Mỹ lấy cớ "Miền Nam đã có cả hòa bình lẫn danh dự" để cắt giảm viện trợ thật nhanh. Như vậy là ván bài Việt Nam đã được khoanh gọn, và tới đầu năm 1974 thì chắc TQ cho rằng "khoảng thời gian vừa đủ" đã chấm dứt: Bắc Kinh muốn trắc nghiệm xem Mỹ có quay trở lại hay không. Cho nên, ngay đầu năm, Trung Quốc đã lấn chiếm Hoàng Sa. Dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã, Hải quân VNCH vẫn chống trả. Ngày 18 tháng 1, Tổng thống Thiệu bay ra tận Đà Nẵng, lấy giấy ra viết tay thẳng cho Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải. Trên đầu trang ông viết: 'Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải': "Thứ nhất là tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lãnh thổ VNCH. Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ VNCH." Viết lệnh xong, ông Thiệu cất giọng: "Anh Thoại, đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng thì cho tôi biết ngay từ bây giờ." Dù bị mất Hoàng Sa và chịu nhiều tổn thất và thương vong, Hải quân VNCH đã gây tổn thất lớn cho đối phương như nhiều nguồn đã đề cập. Theo ông Thoại thì Hộ tống hạm lớp Kronshtadt 274 của Trung Quốc bị bắn chìm. Vì tàu này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm cả Đô đốc Phương Quang Kinh, Tư lệnh Phó của Hạm đội Nam Hải, bốn đại tá, sáu trung tá, hai thiếu tá, bảy sĩ quan cấp úy và một số đoàn viên. Ngoài ra, Trục lôi hạm số 389 và số 396 bị hư hại nặng. Dĩ nhiên phải "cẩn tắc" để "vô ưu" nên Trung Quốc đã chuẩn bị cho những bất trắc có thể xảy ra. Những tiết lộ mới đây cho biết Chủ tịch Mao đã sắp xếp để đưa một lực lượng quân sự lớn lao gồm hơn 40 chiến hạm để làm lá chắn cho Hoàng sa, phòng hờ Đệ Thất Hạm Đội can thiệp. + Trung Quốc tưởng niệm tử sỹ Hoàng SaBài học từ Hoàng Sa Sau hải chiến, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Không quân oanh kích để phản công Bây giờ thì chúng tôi lại cũng hiểu rõ về câu Tổng thống Thiệu nói "Tôi còn định đi thêm bước nữa." Tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết rằng sau trận hải chiến, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Không Quân VNCH bay ra Hoàng Sa oanh kích để phản công, nhưng rồi lệnh được rút lại. Tại sao như vậy? Ngày nay thì ta đã có chứng cớ và văn bản để trả lời. Trước hết về lệnh cho Không Quân ra khơi để phản công, chúng tôi phối kiểm với Đại tá Nguyễn Quốc Hưng, (Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ Tư lệnh Không quân, phụ trách toàn bộ 19 phi đoàn khu trục của VNCH) thì ông đã xác nhận là đúng. Ông kể lại nhiều chi tiết, tóm tắt như sau: vào 8 giờ tối ngày 19 tháng 1/1974, Tư lệnh Không quân nhận được mật lệnh của Tổng thống phải dùng phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E để oanh kích phản công địch trên đảo Hoàng Sa. Ngày hôm sau đoàn phi công đã cất cánh hai lần để ra khơi, một lần vào buổi trưa và một lần buổi chiều, mỗi lần gồm hai phi tuần. Nhưng vừa bay được khoảng trên một trăm dặm thì nhận được đặc lệnh phải quay trở về đáp và hủy bỏ ngay các phi vụ không kích này. Lý do là Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng kế hoạch oanh tạc và nhấn mạnh rằng sẽ không có "top cover" (yểm trợ trong trường hợp bị phi cơ của Trung Quốc từ Hải Nam lên không chiến) và cũng không có "rescue" (cứu vớt nếu bị bắn rơi). Trong số những quân nhân tham gia phi vụ không kích này, số nhân chứng còn sống hiện nay thì ngoài ông Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon) còn có các Thiếu tá Phạm Đình Anh (California), Đàm Tường Vũ (Arizona), Vũ Viết Quý (California), và Hồ Văn Giầu (Las Vegas). + Mật điện Bộ Ngoại Giao Mỹ (19 /1/1974): Can ngăn Tổng thống ThiệuMột chuyện thật lạ lùng: vào ngày 17 tháng 1/1974 (ngày 18 tháng 1 - giờ Sài Gòn) Bộ Ngoại Giao Mỹ do Ngoại trưởng Henry Kissinger lãnh đạo đã gọi điện thoại cho Đại sứ Martin ở Sàigòn và nhấn mạnh ý muốn của Bộ là "tình hình phải được hạ nhiệt" (cooling the situation). Tài liệu này được giải mật ngày 30 tháng 6, 2005. Dĩ nhiên là ông Martin phải thi hành ngay và đã cố vấn ông Thiệu. Ngày hôm ấy chính là ngày Tổng thống Thiệu bay ra Đà Nẵng để ra lệnh chống cự Hải quân Trung Quốc. Cùng ngày, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân VNCH bay ra Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để chỉ huy lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa. Ngày 19 tháng 1 là ngày có trận hải chiến, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại gửi mật điện can ngăn Tổng thống Thiệu đừng đi thêm bước nữa. Bức điện đó như sau: Ngày 19 tháng 1/1974 Người gửi: Ngoại Trưởng - Washington DC Nơi nhận: Tòa Đại sứ Sài Gòn Mật điện Bộ Ngoại Giao 012641 1. Xung đột quân sự tại Hoàng Sa đã đưa đến thương vong cho VNCH với hai chiến hạm bị tên lửa STYX của Trung Quốc bắn chìm. Chính phủ VNCH có yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm và cứu vớt các nạn nhân. Tình hình thêm phức tạp vì báo cáo là trên đảo Pattle (do VNCH đóng quân) lại có một nhân viên dân sự Mỹ làm việc cho Văn phòng Tùy viên ở Đà Nẵng. Chúng tôi không hiểu tại sao người này lại có mặt ở đó. 2. Bộ Ngoại Giao đã yêu cầu Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tránh khỏi khu vực này . Hai ngày trước đây (17 tháng 1) chúng tôi có bàn luận với Đại sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ ý muốn của chúng tôi là tình hình phải được hạ nhiệt… 3. Thông cáo của Bộ Ngoại Giao gửi cho báo chí về vụ này sẽ nói theo những điểm như sau: -- Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa nhưng hết sức mong muốn là sự tranh chấp được giải quyết trong hòa bình. -- Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu gì vào xung đột này. 4. Chúng tôi đang yêu cầu Tòa Đại sứ ở Sàigòn cố vấn chính phủ VNCH chỉ nên có những hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân (và người nhân viên Mỹ ở trên đảo) nhưng làm tất cả những gì có thể để tránh đụng độ trực tiếp thêm nữa với lực lượng Trung Quốc. Việc mà VNCH hay chúng ta không cần chút nào trong lúc này là đụng độ giữa Trung Quốc và Chính phủ Việt Nam về mấy hòn đảo, dẫn tới vai trò bất chấp của Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam. KHẨN - MẬTVề phản ứng của Mỹ và mật điện ngày 19 tháng 1, 1974, ta có thể nhận xét như sau: Vừa biết tin rục rịch là TT Thiệu đang sửa soạn ra lệnh chống trả chiến hạmTrung Quốc là Bộ Ngoại Giao đã can ngăn ngay. Chính phủ VNCH yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm và cứu vớt các nạn nhân (ngoài số tử thương còn 68 binh sĩ VNCH bị mất tích và bắt làm tù binh) nhưng bị từ chối. Đã không yểm trợ chiến đấu, đã ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tránh né khỏi khu vực giao tranh, lại còn tuyên bố cho rõ ràng là "Chính phủ Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa" và xác định (cho Bắc Kinh biết) là "Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu gì vào vụ xung đột này." Không đứng về phe nào thì tại sao lại khuyên can chính phủ VNCH "hãy hạ nhiệt," chỉ hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân thôi, nhưng làm bất cứ những gì để tránh đụng độ thêm nữa với lực lượng Trung Quốc về mấy hòn đảo? Ông Kissinger đã quên rằng chính ông đã từng soạn thảo lá thư để TT Nixon gửi TT Thiệu ngay trước khi ký kết Hiệp Định Paris nói đến lập trường vẹn toàn lãnh thổ của VNCH: "Nền tự do và độc lập của VNCH vẫn còn là mục tiêu tối cao của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ" (thư ngày 17 tháng 1, 1973). Như vậy là một cửa vào Biển Đông đã bắt đầu được mở rộng. Trước đó, từ 1960 tới 1973, Trung Quốc chỉ cho tầu đi tuần tiễu vùng biển giữa quần đảo Hải Nam và Hoàng Sa trung bình khoảng năm lần một năm. + Qua eo biển Đài LoanTrước Hoàng Sa, Mỹ đã mở một cửa nữa vào Biển Đông, đó là qua eo biển Đài Loan ở phía trên. Sau khi ông Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa Lục Địa vào tháng 10/1949, Hoa Kỳ nhất quyết bảo vệ độc lập của Đài Loan hay nước 'Trung Hoa Dân Quốc.' Bởi vậy mỗi lần Bắc Kinh đe dọa eo biển Đài Loan như vào năm 1954-1955 và 1958 thì Mỹ phản ứng rất mạnh (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 28). Nhưng từ 1971 thì khác. Ngày 29 tháng 7/1971: Kissinger bí mật đi Bắc Kinh và trong dịp này đã cho Trung Quốc biết là Mỹ không còn ủng hộ một Đài Loan độc lập nữa, có nghĩa là Đài Loan sẽ chỉ là một khu vực của Trung Quốc, và như vậy Mỹ sẽ hết bảo vệ khu này và sẽ rút hạm đội và phi đội ra khỏi nơi đây. Tháng 8/1971: sau cuộc họp, Mỹ tuyên bố hủy bỏ việc chống Trung Quốc gia nhập Liên Hiệp Quốc. Tháng 10, Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu 76 thuận, 35 chống (và 17 không bỏ phiếu) việc đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và chấp nhận chính quyền Bắc Kinh là chính phủ đại diện Trung Quốc. Tháng 10/1971: Mỹ rút khu trục hạm của Đệ Thất Hạm Đội ra khỏi eo biển Đài Loan. Tháng 2/ 1972: TT Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Sau cuộc họp Nixon - Mao tại Bắc Kinh, một thông cáo chung gọi là 'Thông Cáo Thượng Hải' (Shanghai Communique) được tuyên bố, gián tiếp quy định "Việc Mỹ rút toàn bộ khỏi Đài Loan là mục tiêu cuối cùng," và sẽ "từng bước giảm cả quân đội, cả những căn cứ Mỹ tại Đài Loan khi sự căng thẳng trong vùng bớt đi." + Trấn an Trung Quốc sau khi Miền Nam sụp đổNgày 1 tháng 12 năm 1975: ông Henry Kissinger đã sắp xếp để người kế vị Tổng thống Richard Nixon là Tổng thống Gerald Ford đi Bắc Kinh năm ngày và gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trước chuyến đi, ông Kissinger đã cố vấn Tổng thống Ford thật kỹ: "Ngài sẽ cố gắng hết sức để tăng cường dây liên lạc với Trung Quốc. Ngài (nên cho họ biết rằng) Ngài tin việc phát triển mối bang giao Mỹ - Trung là quyền lợi căn bản của chúng ta và Ngài sẽ theo đuổi việc này một cách mạnh mẽ trong những năm tới." Ngày 7 tháng 12/1975: Vừa từ Bắc Kinh về, TT Ford tuyên bố 'Học thuyết Thái Bình Dương' (Pacific Doctrine) kêu gọi bình thường hóa toàn diện quan hệ với Trung Quốc và cộng tác kinh tế trong toàn thể Á Châu. Dĩ nhiên, điều kiện để bình thường hóa toàn diện với Trung Quốc là việc Mỹ rút khỏi eo biển Đài Loan. Cuối tháng 5 năm 1975: chỉ một tháng sau khi Miền Nam sụp đổ, Hoa Kỳ đã rút đội phi cơ chiến đấu cuối cùng ra khỏi Đài Loan. Có nghĩa là từ đó những hạm đội Đông Hải của TQ từ phía bắc có thể theo con đường nhanh nhất tràn xuống phía Nam. Và từ phía nam những hạm đội Nam Hải có thể tiến thẳng vào Biển Đông qua ngã Hoàng Sa. Tương lai của vùng này trở nên đen tối. Trung Quốc chỉ cần mua thời gian để chuẩn bị, chờ cho tới khi có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa để ra tay: ba yếu tố này đã hội đủ vào năm 2008 (Các bạn xem thêm cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 26). Như vậy lịch sử sẽ phải ghi nhận rằng chính hai ông Nixon và Kissinger đã đơn phương và trong vòng bí mật, mở cả hai cửa vào Biển Đông cho Trung Quốc từ trên 40 năm trước đây. Hậu quả của mật điện Hoàng Sa ngày 19/1/1974 thật là lớn lao, nó dẫn đến tình trạng hỗn loạn tại Biển Đông ngày nay. Để mất Hoàng Sa và còn nhắn nhủ Trung Quốc rằng Mỹ không có dính líu gì vào tranh chấp hải đảo, rằng quân lực Mỹ đã được lệnh rút ra khỏi vùng này. Như vậy là Trung Quốc được tự do tung hoành. Từ tung hoành tới lộng hành. Cái kẹt là sau khi lộng hành với các quốc gia sở tại, Trung Quốc lộng hành với chính Mỹ. Cho nên Mỹ phải xoay trục để trở về với Biển Đông, nơi đó có tới bảy quyền lợi của Mỹ như đã được xác định bằng văn bản (Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 26). Trung Quốc lại là đối tác ngoại thương lớn nhất - tổng số xuất-nhập Trung-Mỹ lên tới $579 tỷ vào năm 2016. Mặt khác Mỹ phải cố gắng để thắt cho thật chặt quan hệ ngoại giao với các quốc gia trong vùng, nhất là với Việt Nam. Bây giờ, muốn trở về với Biển Đông Mỹ đi hàng đôi: một mặt thì tỏ ra mềm dẻo với Trung Quốc nhưng mặt khác lại luôn luôn chuẩn bị để đối phó bằng quân sự với Trung Quốc, dù dưới thời Tổng thống Obama hay Tổng thống Trump. Để đối phó, Mỹ đang tăng cường liên minh quân sự với một số quốc gia trong vùng, kể cả tiến tới đối tác chiến lược với Việt Nam. Tại sao như vậy? Đó là một chủ đề chúng tôi sẽ đề cập trong một bài khác. --------------------------------------------- Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016). Trường Sa đã đỏ lửa từ mùa Hè 1974Nguyễn Tiến Hưng “Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa, tại sao các ông phải thả neo chiến hạm ở Trường Sa?” Tướng John Murray, Chỉ Huy Cơ Quan Viện Trợ Quốc Phòng Mỹ ở Sài Gòn hỏi tôi trong một buổi Việt – Mỹ duyệt xét về tình hình viện trợ vào mùa Hè 1974, đặc biệt là tình hình chi tiêu của Quỹ Đối Giá, để có dữ liệu thông báo cho Bộ Tài Chính. Quỹ Đối Giá (Counterpart Fund) là nguồn tiền quan trọng nhất của viện trợ kinh tế Mỹ cho VNCH. Đây là một ngân khoản thu được khi nguồn tiền do ‘Viện Trợ Nhập Cảng’ được đổi ra tiền đồng Việt Nam. Quỹ này được cả hai phía Việt – Mỹ quản trị rất chặt chẽ. Đầu năm 1974, có tin dồn dập là Quốc Hội Mỹ sẽ đi tới việc cấm cả việc sử dụng Quỹ này để tài trợ cho ngân sách quốc phòng. Vài tháng sau thì tin đồn này thành sự thực. Tiếp theo là hành động bết bát của Nghị sĩ Dân Chủ Ted Kennedy: ngày 11/07/1974 ông đưa ra một Tu Chính Án để cắt 50% viện trợ kinh tế cho VNCH. Washington lập tức khuyến cáo chính phủ VNCH phải cắt chi tiêu ngân sách tối đa, nhất là chi tiêu quốc phòng, thí dụ như xăng nhớt và các căn cứ quân sự. Trong bối cảnh ấy, Tướng Murray đề nghị thu hẹp phạm vi hoạt động của Hải Quân VNCH, đặc biệt là ở Trường Sa. Nhưng mặc dù đang ở trong một tình cảnh nghiệt ngã, TT Thiệu đã quyết định ngược lại: không thu hẹp mà còn tăng cường sức mạnh của Hải Quân để chuẩn bị khai hỏa. Tổng thống Thiệu trong lễ khai trương một bệnh viện tại Sài Gòn hồi 3-1973Tổng thống Thiệu trong lễ khai trương một bệnh viện tại Sài Gòn hồi 3/1973Phát triển Hải Quân VNCHHiệp Định Paris (27/01/1973) được gọi là “Hiệp Định Da Beo” vì nó cho phép quân đội của Miền Bắc đóng lại ở Miền Nam, và đóng rải rắc khắp nơi như những đốm da beo trên bản đồ. Vì vậy, Lục Quân VNCH không được vận chuyển qua những đốm này, và Không Quân thì cũng không được bay trên bầu trời bao phủ nơi đây. Riêng Hải Quân thì lại không bị ảnh hưởng, vì vào lúc ký kết hiệp định thì trên mặt biển hoàn toàn không có chiến hạm của Bắc Việt thả neo, cho nên không có đốm nào cả, và vì vậy Hải Quân tiếp tục làm chủ được đại dương với sức mạnh bảo vệ các hải đảo. Theo như đánh giá của TT Thiệu thì việc phát triển Hải Quân VNCH là thành công lớn nhất của chương trình Việt Nam Hóa (Vietnamization). Có thể là vì ông đã tiên đoán rất đúng rằng Trung Quốc sẽ nhòm ngó Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Mỹ rút khỏi Miền Nam cho nên đã thuyết phục được Đô Đốc Hải Quân Mỹ, Emmo Zumwalt tích cực yểm trợ. Chỉ trong vòng có năm năm, các cơ xưởng của Hải Quân đã có thể dự trữ tới 64.200 vật liệu và phụ tùng để sửa chữa và bảo trì cho 1.429 tầu chiến – từ Khu Trục Hạm, Tuần Dương Hạm tới Dương Vận Hạm, Xà Lan chở dầu. Hệ thống tiếp liệu của Hải Quân còn được Bộ Quốc Phòng Mỹ đánh giá là lớn lao nhất và hiệu quả nhất Đông Nam Á. Khi quân viện bị cắt vào Hè 1974 thì khả năng hùng hậu ấy tuy bị suy giảm vì thiếu phụ tùng bảo trì và xăng nhớt, nhưng hoạt động bị ảnh hưởng nhiều nhất là công tác tuần giang: kiểm soát sông ngòi và sát ven biển. Hải Quân phải giải tán 600 giang thuyền, trong đó 240 giang thuyền thuộc quyền xử dụng của Địa Phương Quân, nhưng lực lượng và khả năng các loại hải hạm vẫn còn nguyên vẹn: 93 tầu biển và trên 1.300 tầu loại nhỏ. Ngoại trưởng Mỹ William Rogers (1969-1973) ký hiệp định hòa bình Paris tháng Giêng 1973Ngoại trưởng Mỹ William Rogers (1969-1973) ký hiệp định hòa bình Paris tháng Giêng 1973 Mỹ đề nghị rút chiến hạm khỏi Trường SaTrong bối cảnh quân viện bị cắt thật nhanh, Mỹ đề nghị rút chiến hạm khỏi Trường Sa và đóng cửa một số cơ sở của Hải Quân ở Vùng IV. Trở lại buổi họp với Tướng John Murray trên đây: ông nói: sở dĩ phải đề nghị như vậy vì đã nhận được chỉ thị từ Washington về vấn đề cắt giảm chi tiêu, thực tế nhất là tiết kiêm xăng nhớt vì giá dầu đã tăng lên gấp bốn lần sau cuộc chiến Do Thái – Ai Cập vào mùa Thu năm trước. Đây là vấn đề quân sự, nhưng lúc ấy vì một tình cờ chúng tôi mới biết được đề nghị của Tướng Murray vì nó liên hệ tới ngân sách viện trợ (là lãnh vực của chúng tôi). Trong một báo cáo gửi TT Thiệu, ông Murray đề nghị nên rút chiến hạm ra khỏi Trường Sa và đóng cửa bốn căn cứ Hải Quân ở vùng Đồng bằng Cửu Long, chúng tôi còn ghi lại rất rõ ràng: “Ngoài Xưởng Đóng tầu và Trung tâm tiếp liệu, chúng tôi thấy Hải Quân VNCH có bốn loại cơ sở: những căn cứ yểm trợ hành quân, yểm trợ chuyển vận, yểm trợ nhanh (immediate-support bases – ISB’s), và những cơ xưởng sửa tầu. Trong số này, chúng tôi thấy VNCH nên đóng lại những cơ sở sau đây để tiết kiệm tiền bạc và tăng hiệu năng: 1.Căn cứ yểm trợ hành quân ở Cần thơ; 2.Hai căn cứ yểm trợ hành quân tại Vĩnh Long, và Long Phú; 3.Hai căn cứ sửa tầu ở Cửu Long và Cần Thơ; và 4.Hai căn cứ yểm trợ nhanh ở Chợ Mới (An Giang)và Thuận An (Bình Dương).” TT Thiệu hành động ngược lại, ra lệnh bảo vệ Trường Sa Cố vấn Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ tại Paris, 1973Cố vấn Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ tại Paris, 1973 Tôi hỏi Tướng Murray tại sao nên rút chiến hạm khỏi Trường Sa? Ông Murray trả lời là vì hai lý do: –thứ nhất, nguyên tiền xăng nhớt cho hai chiến hạm ở đây đã tốn tới nửa triệu đôla một năm, một khoản tiền lớn lúc đó vì ngân sách quốc phòng đã cạn; và –thứ hai: thả neo ở Trường Sa là không cần thiết vì “Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa.” Họp xong, tôi vội vào Dinh Độc lập báo cáo với TT Thiệu. Ông nhìn tôi, lắc đầu và nói: “Bắc Việt không thể nào vào tới Trường Sa nhưng sau Hoàng Sa, Trung Cộng đã ngừng để nghỉ ngơi, tái phối trí, nhưng rồi sẽ tiến thẳng tới Trường Sa.” Chúng tôi cho rằng: sở dĩ ông nhất quyết như vậy – dù đã sắp hết tiền mua xăng – một phần cũng vì ông muốn bảo vệ kho tàng dầu lửa. Lúc ấy thì chưa ai biết được rằng khi ông ra lệnh khai hỏa ở Hoàng Sa vào đầu năm 1974 thì Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới quyền Bộ trưởng Henry Kissinger đã gửi chỉ thị cho tòa Đại sứ ở Sàigòn là phải can ngăn ông Thiệu “đừng có đụng độ thêm nữa với lực lượng Trung Quốc về mấy hòn đảo này.” (Kissinger là người đã tác động TT Richard Nixon cứu vớt Trung Quốc khỏi bị Liên Xô tấn công nguyên tử vào năm 1969, rồi mở cửa Bắc Kinh, đóng cửa Sàigòn, và giúp cho Trung Quốc trở nên một cường quốc như ngày nay). Quân Nam Hàn ra về tháng Hai 1973 Nhưng vấn đề không phải là mấy hòn đảo nhỏ bé hay bãi cạn mà cái gì nằm ở dưới những hải đảo, bãi cạn này. Bởi vậy TT Thiệu đã ra lệnh cho Hải Quân đưa những chiến hạm mạnh mẽ nhất tới Trường Sa để chuẩn bị khai hỏa. Rút tỉa bài học từ Hoàng Sa, rất có thể là ông cũng đã có kế hoạch sử dụng không quân ngay từ đầu cuộc chiến để bắn chìm tầu Trung Quốc chứ không đợi tới sau hải chiến. Nhắc lại về trận Hoàng Sa: cuối ngày hải chiến (19/01/1974) vào 8 giờ tối TT Thiệu ra mật lệnh cho Không Quân dùng phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E để phản công. Vì F5-E có trang bị bom tầm nhiệt nên chắc chắn những phi vụ này đã thành công vì chiến hạm Trung Quốc phun khói nóng, giầy đặc góc trời. Ngày hôm sau đoàn phi công đã cất cánh, nhưng vừa bay được khoảng trên một trăm dậm thì phải quay về ví áp lực từ Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng kế hoạch oanh tạc, nhấn mạnh rằng sẽ không có ‘top cover’ – yểm trợ trong trường hợp bị phi cơ của Trung Quốc từ căn cứ ở Hải Nam bay lên để không chiến, và cũng không có “rescue” – cứu vớt nếu bị bắn rơi (xem tường thuật của Đại tá phi công Nguyễn Quốc Hưng trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 25). Phản hồi lại giai thoại này, chúng tôi thấy rõ lý do TT Thiệu cương quyết như vậy là vì ngay sau lớp chiến hạm của Hải Quân là các công ty quốc tế đang hoạt động rất thành công trong việc tìm kiếm dầu lửa, dầu khí. Theo ước tính thì cuối năm 1975 sẽ có tới 20 giàn khoan hoạt động. Hai hãng Esso và Sunningdale lại còn dự định bắt đầu khoan dầu vào ngay tháng Tư 1975. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dự một sự kiện tháng 3/1973 Niềm hy vọng dang dởTriển vọng dầu lửa thì đã trở nên lạc quan ngay từ Hè 1974. Ngày 17/08/1974 hãng Pecten đào trúng dầu ở lô 08-TLD, đặt tên là HỒNG -X. Rồi giếng thứ hai, đặt tên là DỪA 1-X. Pecten rất vui mừng, quyết định tiến hành khai thác ngay lô 06-LTD, tìm thấy có dấu hiệu còn khả quan hơn nữa. Tin mừng cứ thế mà đến. Ngày 11/02/1975, hãng Mobil đào tới độ sâu 3.000 mét, thu được 430 thùng dầu/ngày cùng với 5.600 mét khối dầu khí. Bảy ngày sau, lại thu được 2.400 thùng dầu và 25.000 mét khối dầu khí. Kết quả này được liên doanh Mobil – Kaiyo đánh giá là rất có triển vọng. Mobil ước tính chỉ tới 1977 sẽ khai thác được lượng dầu thương mại khả quan tại mỏ này. Tin vui được gửi nhanh về Sài Gòn: biết đâu biết đâu đấy, chỉ trong vài ba năm sẽ có thể xuất cảng tới 1 tỷ đôla mỗi năm (tương đương 4,3 tỷ đôla năm 2020), triển vọng cho một Miền Nam trù phú có thể tự lực, tự cường mà không còn phải nhờ vả vào người đồng minh Hoa Kỳ nữa, đã thực sự tới. Ngày 24/02/1975 (chỉ trên hai tháng trước sụp đổ) Việt Tấn Xã từ Sàigòn loan tin: “Hôm nay, 15 giờ, thứ hai, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã rời Sài Gòn đi quan sát giếng dầu Bạch Hổ-IX được khoan cách Sài Gòn chừng 200 cây số về hướng đông nam trên thềm lục địa Việt Nam. Cùng tham dự với tổng thống hôm nay có Thủ tướng Chính phủ Trần Thiện Khiêm, ông Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng, ông tổng cục trưởng Dầu hỏa và khoáng sản Trần Văn Khởi và ông Tổng giám đốc Mobil Vietnam Peter Gelpke.” Trên chuyến bay ra khơi, xa xa khi nhìn thấy ngọn lửa cháy sáng rực trời từ những ống khí trên giàn khoan, vẻ mặt ông Thiệu tươi vui hẳn lên. Ông đăm đăm nhìn thật chăm chú. “Bao giờ thì mới thực sự có dầu,” ông quay lại hỏi tôi. “Thưa Tổng thống, theo Bộ Kinh tế ước tính dựa trên những thông tin của các hãng thăm dò thì muộn lắm là tới cuối năm 1977,” tôi trả lời. Trong bối cảnh chiến trường bắt đầu sôi động, kinh tế khủng hoảng, đồng thời lại liên tục nhận được những tin tức đen tối cúp viện trợ từ Washington, ngọn lửa nghi ngút thoát ra từ những ống dầu khí ngoài khơi đã chiếu rọi được một tia sáng hy vọng vào tâm trí người lãnh đạo Miền Nam. Trên giàn khoan, khi chuyên gia trình bày về khả năng sản xuất, ông Thiệu lắng nghe mọi chi tiết. Người chuyên gia kết luận rằng nếu có thêm sự khuyến khích thì các hãng có thể tăng phương tiện để khai thác nhanh hơn. “Khuyến khích làm sao,” ông nhìn tôi hỏi. Tôi trình bày rằng có thể xem xét lại hợp đồng rồi cho họ chia phần thật cao, hoặc nghiên cứu khía cạnh thuế má để cho họ ưu đãi nhiều hơn khi họ bắt đầu xuất cảng. Ông Thiệu đồng ý ngay: “Được chứ, được chứ.” Quân đội VNCH năm 1973 Ghi chú cho lịch sử về Trường SaHồi tưởng tới giai thoại này, chúng tôi xin ghi lại một chú thích cho lịch sử: khi tháp tùng TT Thiệu ra thăm giàn khoan như đề cập trên đây, chúng tôi có được nghe chuyên gia của hãng đào dầu thuyết trình về tiềm năng dầu lửa của Trường Sa tuy là lớn lao nhưng bị rò rỉ: “Mỏ dầu vĩ đại của các ông dính liền với mỏ dầu của Indonesia, cho nên các ông rất thiệt thòi nếu không gấp rút khai thác.” Indonesia là thành viên của OPEC. Thu nhập từ xuất cảng dầu chính là động lực phát triển kinh tế của nước này. Hoạt động khai thác đã bắt đầu ngay từ năm 1871 ở Bắc Sumatra, như vậy là lâu vào hàng nhất thế giới. Năm 1973/1974 khi giá dầu thô tăng lên gấp bốn lần, Indonesia được hưởng số ngoại tệ cũng tăng theo gấp bốn lần, quốc tế gọi là “oil bonanza.” Đang khi đó, Miền Nam Việt Nam điêu đứng vì bão tố siêu lạm phát đã ập tới. Miền Bắc thì không bị ảnh hưởng vì có Liên Xô cung ứng xăng dầu theo hiệp định giữa hai nước ký kết vào năm 1968. Dân gian ta thường nói: “nước ta có tiền rừng bạc biển.” Tiền rừng thì chẳng có là bao, vả lại khai thác gỗ quý mà xuất cảng thì lại phá hủy hệ sinh thái, nhưng tiềm năng bạc biển thì thật lớn. Cho nên, nếu những giếng dầu của Việt Nam thực sự nối kết với những giếng của Indonesia – như chúng tôi được nghe từ các chuyên gia – thì thật là thiệt thòi cho người dân Việt. Như vậy là Indonesia đã khai thác dưới lòng biển từ cả trăm năm rồi, bây giờ thì Trung Quốc khai thác – vừa ở dưới vừa ở trên mặt biển. Biển Đông trong câu chuyện hôm nayĐục nước béo cò: khi cả Việt Nam, cả Mỹ, và hầu hết các quốc gia trong khu vực đang chìm đắm trong cảnh điêu linh Covid-19, Bắc Kinh công bố thành lập hai huyện đảo để kiểm soát cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, rồi tăng tốc gây hấn ở Biển Đông. Philippines vừa cực lực phản đối việc Bắc Kinh tuyên bố một phần lãnh thổ Phi là thuộc về tỉnh Hải Nam. Nối kết Hải nam với Hoàng Sa, rồi Trường Sa, rồi Scarborough của Philippines thì “Vạn Lý Trường Thành trên biển” mà Trung Quốc quyết tâm thiết kế đã sắp hoàn thành. Đối với Mỹ thì khu vực này là rất quan trọng, vì không những nó nằm sát đường vận chuyển hàng hải quốc tế chính yếu mà còn là tuyến phòng thủ miền Tây của nước Mỹ – như TT Lyndon Johnson đã từng tuyên bố: “Nếu bỏ khu vực Biển Đông thì Mỹ tất phải rút về San Francisco.” Câu hỏi nhiều người đặt ra là tại sao Mỹ không phản ứng trước những hành động mới đây của Trung Quốc? Thực ra thì TT Trump đã phản ứng trong thời gian gần đây. Mặc dù mất ăn mất ngủ trong bốn tháng bị Hạ Viện với đa số Dân Chủ điều tra để bãi nhiệm – và truyền thông được cơ hội tấn công ào ạt, tiếp đến là nạn dịch Covid-19, ông cũng đã hành động khá mạnh mẽ trong vụ TQ – VN và TQ – Malaysia ở Biển Đông, cảnh cáo TQ không được dùng pandemic để gây rối loạn, cũng như vừa cùng Australia đi vào các đảo TQ đang chiếm đóng, và tàu Mỹ vừa đi qua Eo biển Đài Loan lần thứ hai trong tháng Tư này. Mặt khác, bầu cử đã sắp tới, ông Trump cũng không muốn làm mạnh để không có lơi cho mình. Lịch sử Mỹ đã chỉ ra rằng: cứ bốn năm, khi có cuộc bầu cử tổng thống thì chính quyền đương nhiệm phải tự kiềm chế những hành động có tính cách hiếu chiến, và tìm đủ mọi cách để mang viễn tượng hòa bình đến cho dân chúng Mỹ thì mới mong thành công. Điều này thì TQ cũng đã biết quá rõ. Cho nên, ta phải chờ sau bầu cử (3/11/2020) thì mới có câu trả lời rõ ràng hơn. TS Nguyễn Tiến Hưng Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975 Nguồn: Theo BBC-https://hung-viet.org/p22826a27709/truong-sa-da-do-lua-tu-mua-he-1974 ***************************************************** Thăm nhà cố tổng thống Thiệu và giai thoại đá Dao, núi Mặt QuỷApril 28, 2020 saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/tham-nha-co-tong-thong-thieu-va-giai-thoai-da-dao-nui-mat-quy/?fbclid=IwAR17aSzz8inBJa6pKutTbC2Uun7OKBcyVm8UInyGIiv8TnRAvSWr0iccBJgCÁT LINH 45 năm, dấu vết còn lại của vị cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và dư âm của một chế độ do ông trị vì vẫn gây cho người đời nhiều tò mò lẫn hoài niệm. Người có mái tóc không còn sợi xanh tìm về để xem “nơi ấy có còn như xưa?” Thế hệ hậu chiến tìm đến để được chạm vào một hình ảnh lịch sử và được bước vào những giai thoại. Ngôi nhà ở làng Tri ThuỷĐầu tháng Hai, cái nắng sáng ở Phan Rang đủ dịu để bật lên những giọt long lanh của một góc Đầm Nại. Gió cũng đủ nhẹ để làm lăn tăn dòng nước bên cây cầu lịch sử, cầu Tri Thuỷ. Chỉ một cây cầu này thôi, cũng mang nhiều giai thoại. Có người nói rằng ngày xưa, ông Thiệu và bạn bè đi học bằng đò rất vất và, phải bỏ lỡ nhiều buổi học vì trễ đò. Thế là ông luôn ước mơ có một cây cầu cho trẻ em không bị mất con chữ. Vì thế sau này (khi thành danh), ông Thiệu cho xây một cây cầu. Cho đến nay có lẽ nó cũng được sửa sang vài lần. Trong giai thoại khác, người ta nói “cậu bé Nguyễn Văn Thiệu ngày xưa phải bơi qua Đầm Nại đi học, chiều về dang nắng chăn bò chăn dê, và đứng trên đỉnh núi đá trập trùng phóng tầm mắt ra xa. Cậu đã nghĩ gì?” (trích của tác giả Hoàng Xuân). Qua khỏi cầu Tri Thuỷ, rẽ trái, chạy chừng năm phút, cổng vào làng Tri Thuỷ thấp thoáng. Chiếc cổng chào với dòng chữ “Làng Tri Thủy” không cầu kỳ nhưng với thôn Tri Thuỷ, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải này cũng đủ thấy được vẻ bề thế của nó. Có lẽ nó sẽ chỉ là một tên làng bình thường nếu nơi đây không phải là nguyên quán của cố Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, ông Nguyễn Văn Thiệu, và không phải là nơi còn lưu lại dấu tích của căn nhà ông mua cho song thân của mình. Rẽ vào con hẻm rộng, thoáng, không khó khăn để chúng tôi tìm được nơi muốn đến. “Tìm nhà ông Thiệu phải không? Chạy thẳng vào, căn nhà màu vàng nằm bên trái, là nhà “ổng” đó.” Một người dân nhiệt tình hướng dẫn. Hình như họ đã quen với hình ảnh những người chạy xe chầm chậm vào hẻm, và họ biết ngay muốn tìm gì. Ngôi nhà màu vàng nổi bật trong xóm vắng. Không có số nhà, cũng không bảng hiệu cho biết đây là di tích gia đình song thân ông Thiệu. Cũng đúng thôi…bảng hiệu sẽ ghi thế nào đây? Thôi thì người ta biết đến nó vì không quên nó; vì nó là lịch sử, mà lịch sử thì không thay đổi được. Cánh cửa sắt mục nát, mục từ cái khoá cho đến bản lề, mục từ hàng rào cho đến con ốc. Màu tường của cổng vào loang lổ, có nơi bể nát lộ cả khối đất đá bên trong. Nhìn từ bên ngoài, dấu tích thời gian đã hiển hiện rõ. Tuy là xơ xác, nhưng nó vẫn mang một vẻ uy nghi khác hẳn những căn nhà trong xóm. Cổng không buồn khoá, cứ như mở sẵn để khách bước vào. Sân nhà không khác gì một công trình dang dở với gạch vụn, chậu thau bể nát, giàn giáo sắt vứt lăn lóc. Màu gỗ của những khung cửa sổ và cửa chính hoàn toàn bay mất. Điều hiển hiện rõ nhất, lộ thiên nhất ở đây, là thời gian. Căn nhà không có ánh sáng, trừ ánh sáng trời. Nếu không có mùi cá kho nồng nặc trong không khí, không ai nghĩ nơi này có người đang sinh sống. Cánh cửa sắt mục nát, mục từ cái khoá cho đến bản lề, mục từ hàng rào cho đến con ốc. (Hình: SGN) “Có ai ở nhà không?” Tôi hỏi vọng vào trong. “Cô có chuyện gì?” Một phụ nữ nhỏ người, từ hướng bên hông căn nhà bước ra. Đã xem nhiều tài liệu, tôi nhận ra đây là bà Lê Thị Lê, người “trấn giữ” căn nhà từ 30 năm nay. Vài câu chào hỏi, bà xin phép tạm cất phần cơm đang dùng rồi tiếp tục câu chuyện. “Gia đình chồng tôi là ‘cách mạng’. Vì không có nhà nên nhà nước cho mình ở coi nhà coi cửa. Ở và phải giữ gìn, hư nhẹ thì mình sửa, hư nặng thì mình phải báo.”Bà Lê nói. Nói là thế, nhưng trong 30 năm qua, bà Lê chưa từng sửa sang bất kỳ chi tiết, từ cánh cổng sắt rỉ sét cho đến những bức tường mục rỗng. Tất cả những vật dùng hiện tại trong nhà là của gia đình bà. Khi gia đình bà được “tiếp nhận”, đó là căn nhà trống. Từ đó đến nay, chính quyền chưa từng đề cập với gia đình bà việc lấy lại. bà Lê Thị Lê, người “trấn giữ” căn nhà từ 30 năm nay. (Hình: SGN) Tuy ở nơi này 30 năm, nhưng bà Lê thừa nhận bà không biết nhiều về ông cố tổng thống, trừ “những gì nghe kể lại.” “Tôi nghe nói hồi đó gia đình ông ấy cũng khổ. Ngoài giờ đi học ổng phải đi bán cái gì đó…nói chung là gia đình khổ.”Nếu theo lời kể của bà Lê, thì lại là một giai thoại khác. Cũng theo bà, những người sống trong con hẻm này không biết và không nhắc về gia đình cũng như cá nhân ông Thiệu. Cứ như, một lịch sử đã bị xoá nhoà. Người đời nay nhắc lại như gió thoảng mây trôi. Được sự đồng ý của bà Lê, chúng tôi đi vòng ra sau căn nhà. Ngôi nhà được xây theo kiểu bốn mái, chia thành ba căn. Căn chính ở ngay phía trước, được xem như phòng khách là nơi thờ phượng. Trên bàn thờ cũ vẫn còn nguyên vẹn những hình ảnh trang trí bằng cách chạm khắc lên gỗ kỳ công. Hai phần bên mặt tiền nhà cũng có hai bình phong cùng kiểu bằng sứ men xanh. Nền gạch men xưa mát rượi bàn chân. Nếu ai muốn bước vào cảm nhận quá khứ, thì nền gạch này chắc chắn chính là cánh cửa đầu tiên. Trần nhà còn đó nét hùng vĩ với những cột nhà to, cứng cỏi đan xen vào nhau. Toàn bộ đổ nát. Những đống gạch vụn bám đầy bụi không ai buồn dọn. Hình: SGN Hai căn nhỏ ở phía sau và bên trái căn nhà chính. Hiện tại, nhà bên cạnh có người ở, nhưng căn nhà nhỏ phía sau thì nó không khác gì một…chuồng nuôi gia cầm. Toàn bộ đổ nát. Những đống gạch vụn bám đầy bụi không ai buồn dọn. Ánh nắng xuyên vào, vượt qua những “ô cửa trời” như hàng ngàn nhát dao xé toang bức màn quá khứ, lộ ra những tảng đá to ngạo nghễ, chắc chắn, minh chứng cho một bức tường khó đổ. Vì một lý do nào đó, không ai biết được, ngôi nhà màu vàng này chưa từng được tu sửa suốt 45 năm qua. Bà Lê, người ở đây 30 năm đã khẳng định bà không sửa bất cứ chi tiết nào. Nếu như thế, có lẽ chính những phần mục nát của căn nhà, hay những đống gạch hoang tàn người ở cố tình để lại, sẽ mãi là nhân chứng không cần ghi chép của lịch sử. Tạm biệt bà Lê cùng lời cảm ơn, chúng tôi rời xóm chài Tri Thuỷ. Nét bình yên cùng mùi biển mặn trong nắng chiều làm cho ngôi nhà màu vàng càng thêm tĩnh lặng. Giai thoại đá Dao và núi Mặt QuỷNhư đã nói ở trên, thế hệ hậu chiến của chúng tôi tìm về làng Tri Thuỷ vì sự kính trọng, tò mò, và khao khát chạm vào một phần lịch sử, cho dù chỉ là giai thoại. “Đá Dao kỵ Mặt Quỷ” được dân gian truyền tụng là một trong những giai thoại đó. Từ Làng Tri Thuỷ, chúng tôi đi ngược về Phan Rang, hướng ra thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi được người dân địa phương chỉ cho con đường đến núi Mặt Quỷ ở làng Tân An. “Khi chúng tôi đến đây ở thì đã có núi Mặt Quỷ. Kêu là núi Mặt Quỷ vì nhìn ngọn núi có hình thù như vậy. Phía bên kia đối diện là đá Dao, chĩa lên trời, theo hướng chém với núi Mặt Quỷ. Bây giờ đá Dao ngã rồi, chỉ còn núi Mặt Quỷ thôi.” Người đàn ông lớn tuổi, vốn là một cựu quân nhân thời Đệ nhị thế chiến nói. “Khi chúng tôi đến đây ở thì đã có núi Mặt Quỷ.” Hình: SGN Đá Dao, núi Mặt Quỷ và Đá Chồng là những địa danh gắn liền với những câu chuyện lạ lùng của vị cố tổng thống. Đá Chồng, được thế hệ sau biết đến với tên gọi Trùng Sơn Cổ Tự, ở gần thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Chính quyền Ninh Thuận đã cho phép xây một thiền viện lớn nơi này, đặt tên Trùng Sơn Cổ Tự, trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh. Đá Dao là tảng đá dựng đứng trên sườn phía đông của Đá Chồng. Mặt núi hướng ra biển, có hình lưỡi dao nhọn hướng thẳng về núi Mặt Quỷ. Có lẽ vì vậy mà giai thoại kể rằng ông Thiệu trong một lần đi xem phong thủy tại Tri Thuỷ, các thầy phong thủy cho biết nhà ông đối diện với núi Mặt Quỷ nên là điềm rất xấu. Nhưng nhờ có đá Dao “chém” thẳng vào Mặt Quỷ nên hòn đá này chính là “bảo bối” cho bổn mạng và sự nghiệp của ông. Thế nhưng không tài liệu nào cho biết lúc đó là thời gian nào. Một giai thoại từng được ghi chép bởi tác giả Bá Nguyễn: “Theo lời các cao niên vùng ven biển Bình Sơn, nơi giáp mặt với núi Đá Chồng thì vào một buổi chiều trời quang mây, nắng ráo, bỗng nhiên hòn Đá Dao vỡ làm hai rồi rùng rùng lăn xuống tông vào đá Mặt Quỷ, khiến 3 hòn đá chồng lên nhau bị lung lay dữ dội rồi cũng vỡ ra. Và trong vòng một năm sau, Nguyễn Văn Thiệu đã chính thức bị lật đổ.” Đó là thời điểm năm 1974. Theo bài viết của tác giả Hoàng Xuân: “Đột nhiên, vào một buổi chiều năm 1974, trong khi trời quang mây tạnh, không hề có sấm chớp (nói thêm, đất Phan Rang mang khí hậu bán sa mạc, lượng mưa và lượng sấm chớp đều ít nhất cả nước), đá Dao bỗng vỡ đôi ra trong một tiếng động lớn, rồi lăn xuống chân núi. Không biết có phải ứng với điềm trời hay không, nhưng chỉ một năm sau, chính quyền ông Thiệu sụp đổ.” bà Nguyễn Thị L., vợ của người cựu quân nhân ở làng Tân An, năm nay gần 80 tuổi. Hình: SGN Đem những chi tiết này hỏi người làng Tân An, bà Nguyễn Thị L., vợ của người cựu quân nhân kia, năm nay gần 80 tuổi nói: “Hòn đá Dao ngã thì một tháng sau là ‘giải phóng’. Nó tự ngã, không ai làm hết. Làng bên kia, Tri Khánh bị dịch, chết nhiều người. Họ nói do núi Mặt Quỷ rất ghét núi Mặt Quỷ. Cả làng qua kéo mà nó không ngã, mấy trăm người mà kéo không ngã.” Bà kể lại theo trí nhớ và cũng theo phần lớn “người ta kể lại cho tôi nghe.” Chào từ biệt hai ông bà, chúng tôi hướng về núi Mặt Quỷ. Đường đi không khó dù không phải đường trải nhựa. Hai bên đường không một bóng nhà. Mùi ngai ngái của rơm, phân bò, trộn lẫn với cái nắng trưa gắt như “dao” làm cho con đường đi vào núi Mặt Quỷ thêm kỳ bí. Mặt Quỷ là hai tảng đá, một to một nhỏ chồng lên nhau. Rõ nhất là tảng đá nhỏ, nằm phía trên, có hình dạng một gương mặt bị biến dạng với chiếc mũi thật to. Hình: SGN Không bao lâu, ngọn núi kỳ lạ có hình thù của quỷ đã ở ngay trước mắt. Trăm nghe không bằng một thấy. Mặt Quỷ là hai tảng đá, một to một nhỏ chồng lên nhau. Rõ nhất là tảng đá nhỏ, nằm phía trên, có hình dạng một gương mặt bị biến dạng với chiếc mũi thật to. Khuôn mặt của Mặt Quỷ góc cạnh, gần như hình vuông. Một vết lõm trên đó tạo ra hình dạng con mắt xếch, lạnh lùng. Để trèo lên và chạm mặt Mặt Quỷ, phải vượt qua những vách núi đá đã phủ đầy gai nhọn của cây dại. 45 năm, đá Dao, núi Mặt Quỷ, Đá Chồng nay là Trùng Sơn Cổ Tự, hay ngôi nhà màu vàng không có số ở Làng Tri Thuỷ, dù có bao nhiêu giai thoại xung quanh, sẽ mãi mãi là minh chứng cho một lịch sử. Những giai thoại đó chắc chắn sẽ không có lời giải đáp, cũng như câu nói cuối cùng của bà Nguyễn Thị L. trước khi chúng tôi rời đi: “Tôi nhiều lần gặp bà Nguyễn Thị Năm, chị của ông Thiệu đi chợ. Bà ấy rất bình dân, nói chuyện với mọi người bình thường.” Theo tài liệu lịch sử, cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có một người chị thứ tư, tên Nguyễn Thị Năm. Phải chăng, đây cũng có thể xem là một giai thoại?
|
|