|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:19:09 GMT 9
Lê Văn Duyệt (1764 - 1832) ĐỂ TƯỞNG NHỚ TẢ QUÂN LÊ-VĂN-DUYỆT (1764-1832) SAU 170 NĂM LTS: Gs Nguyễn-Phú-Thứ đã từng là giáo sư toán đệ nhị cấp, nhiệm sở sau cùng trước khi ông định cư tại Pháp là trường trung-học Nguyễn-Trung-Trực Rạch -Giá, Kiên-Giang. Khi đến Pháp ông tiếp tục ghi danh vừa học, vừa đi làm để trau giồi kiến thức và nghề nghiệp. Thế rồi, ước nguyện đã thành tựu toại ý, không khác loài sâu hóa bướm và trở thành nhà toán học. Ngoài ra, ông còn sưu tầm, nghiên cứu tài liệu để rút tỉa những kinh nghiệm sống thực và viết lên những tác phẩm về văn-hóa và nghề-nghiệp rất có giá trị, được các nhà khoa bảng Việt Pháp viết lời khen ngợi. Đặc biệt, ông còn viết cho các tạp chí ở Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu, để có cơ hội gần gũi với bà con đồng hương. Giáo sư Nguyễn-Phú-Thứ, vốn là một nhà mô phạm, nhà toán học, tin học và cũng là nhà văn nữa, đã được Gs thạc sĩ Vũ-Quốc-Thúc xem như người bạn trẻ quý mến trong ngành giáo dục, khi giới thiệu tác phẩm 4000 Từ Ngữ Thực Hành - Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý gồm quyển thượng và quyển hạ trên 1100 trang.
(Trích dẫn tác-phẩm “Tìm Hiểu Lăng Mộ, Đình Và Trường Học Có Tên Các Danh Nhân Việt-Nam Trong Hậu Bán Thế Kỷ XIX” của GS Nguyễn-Phú-Thứ sẽ ra mắt năm 2002)
Trong dân-gian chúng ta thường được truyền-tụng với câu: “Trâu chết để da, người chết để tiếng” cho nên để ghi lại những tiếng thơm cho hậu-thế noi gương, những bậc trí-thức ngày xưa không những có tài về văn-chương thi phú hoặc võ-nghệ anh hùng chống ngoại xâm mà còn có đức-tánh đáng kính-phục, lúc nào cũng đem khả-năng có được để phụng-sự cho đất nước và dân-tộc Việt-Nam. Đó là, các danh nhân như: Lê-Văn-Duyệt, Nguyễn-Đình-Chiểu, Thủ-Khoa-Nghĩa, Nguyễn-Trung-Trực, Thoại-Ngọc Hầu v.v... Để ghi lại công ơn các danh nhân đó, người hậu thế thường lập các lăng mộ, đình để cúng kiếng hoặc đặt các tên đường, các tên cầu và nhứt là các tên trường trung học: Lê-Văn-Duyệt, Nguyễn-Đình-Chiểu, Thủ-Khoa-Nghĩa, Thủ-Khoa-Huân, Thoại-Ngọc-Hầu, Nguyễn-Trung-Trực, Phan-Thanh-Giản v.v.Nếu chúng ta bắt đầu từ Gia-Định để đi về Miền Tây Nam Phần, thì sẽ thấy tên các danh nhân xin trích dẫn như sau: 1.- Ông Lê-Văn-Duyệt (Gia-Định): Lăng Lê-Văn-Duyệt ngày nay thuộc xã Bình-Hòa nằm ở bên chợ Bà Chiểu (Gia-Định), nơi đây lăng và miếu thờ Ông Tả Quân Công Lê-Văn-Duyệt, được dân chúng trịnh trọng gọi chung là Lăng Ông. Nếu du khách đến viếng lăng Ông, sẽ gặp 2 ngôi mộ của Ông và phu nhân của Ông trước tiên, kế đến bước vào chánh điện, thấy chân dung Ông được đặt giữa chánh điện, mặc áo cẩm bào, đội mão quan võ ngó thẳng về phía trước, bên trái thờ Ông Lê-Chất, Tổng trấn Bắc-Thành, bên mặt thờ Ông Phan-Thanh-Giản, Quan Kinh Lược Sứ Nam Kỳ. Phía sau bàn thờ của Ông có một bàn thờ lớn nữa, để thờ Khâm Sai Đại Thần Quảng Bình Tây Đại Tướng Quân, bên trái thờ Nam Kỳ Khai Quốc Công Thần, bên mặt thờ Quận Công Chi Thần Vị. Kế đến, còn thấy có tủ kiến thờ áo mão, hia.v.v... hai bên có tạc hai con Bạch Mã và Hồng Mã. Kế tiếp, chính giữa là hòm gỗ sơn son thếp vàng đựng tờ sắc phong của vua ban và thanh gươm. Ngoài ra, còn có thờ 18 loại binh khí bằng đồng bóng loáng như: gươm, phủ, việt, bát, lọng, dù v.v... Đặc biệt, trong chánh điện có đôi liễn như sau : Nam Triều quảng bá thinh danh, tỉnh biên tái kình thiên nhất trụ, Bắc chấn trường lưu nghĩa khí, diệu tinh linh hộ quốc thiên thu. xin tạm dịch là: Tiếng tăm xa khắp Nam triều, yên bờ cõi chống trời một cột, Miền Bắc nghe danh nghĩa khí, rỡ ràng thiêng liêng giúp nước ngàn thu. Đây là, đôi liễn nói lên công-nghiệp oai-hùng của Ông sống mãi mãi với đất nước và dân tộc Việt-Nam. Riêng về thơ văn để ca-tụng Ông Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt rất nhiều, không thể ghi hết lại được, nhân đây xin trích-dẫn bài thơ của Ông Nguyễn-Văn-Cuộc, nguyên giáo - viên hồi-hưu ở Long-An đã đăng trong tác-phẩm “Gia-Định Xưa Và Nay” của Ông Huỳnh-Minh như sau đây : Bà Chiểu có lăng ngài Tả-Quân, Một thời oanh liệt tiếng vang lừng, Phò vua, giúp nước tròn trung nghĩa, Cứu khổn phò nguy vẹn thủy chung, Bia tạc ngàn đời trang kiện tướng, Danh lưu muôn thuở đấng anh hùng. Hương xông, trầm tỏa, chuông ngân vọng, Tạo cảnh tôn nghiêm đáng kính sùng. Để biết thêm, xin trích-dẫn sơ-lược Tả Quân Quận Công Lê-Văn-Duyệt như sau: Ông Lê-Văn-Duyệt, sanh năm Giáp-Thân (1764) tại làng Hòa-Khánh, tỉnh Mỹ-Tho, xưa gần vàm Trà-Lọt. Nội tổ của ông là cụ Lê-Văn-Hiếu từ Quảng-Ngãi (Miền Trung) vào Miền Nam, được truy phong Quảng Tiến Chiêu Nghị Tướng Quân Hiếu Thuận Hầu. Sau khi cụ Lê-Văn-Hiếu qua đời, thân phụ của ông là Lê-Văn-Toại rời vàm Trà-Lọt đến cư ngụ tại Rạch-Gầm, gần rạch Ông Hổ nay thuộc làng Long-Hưng, tỉnh Mỹ-Tho. Lúc bấy giờ, anh em nhà Tây-Sơn và nhà Nguyễn-Phúc-Ánh tranh giành nhau, chúa Nguyễn thua bắt buộc phải chạy vào Miền-Nam. Đến năm Canh-Tý (1780), ông Lê-Văn-Duyệt được 17 tuổi và được chúa Nguyễn tuyển vào làm Thái-Giám, ít lâu sau thấy ông có võ giỏi và có tài trí hơn người trang lứa, nên được phong làm Cai-Cơ để coi 2 đạo quân để hầu cận, mãi đến năm Kỷ-Dậu (1789), ông mới trở thành hàng tướng lãnh, bởi vì ông đã trải qua những trận đánh oai hùng và lập nhiều chiến công lẫy lừng, đặc biệt ở cửa Thị-Nại trong đêm rằm tháng Giêng năm Tân-Dậu (1801), ông được ghi công là võ-công đệ nhứt trong thời trung-hưng nhà Nguyễn. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), chúa Nguyễn lên ngôi là vua Gia-Long và thăng chức ông làm Khâm-Sai Chưởng-Tả Quân Bình-Tây Tướng Quân hiệp cùng Lê-Chất đem bộ binh đánh Bắc-Hà. Tháng 10 thâu phục Bắc-Hà và đổi là Bắc-Thành. Năm 1804 ông dẹp yên mọi Đá-Vách ở Quảng-Ngãi. Đến năm 1812 ông được thăng chức Tổng-Trấn Gia-Định Thành, coi luôn 2 trấn Bình-Thuận và Hà-Tiên lúc bấy giờ, phụ tá gồm có các ông: Long-Vân Hầu Trương-Tấn-Bửu và Tịnh-Viễn Hầu Ngô-Nhân-Tịnh. Kể từ khi nhậm chức Tổng-Trấn Gia-Định Thành các nước lân bang như: Miên, Lào, Thái v.v... đều nể phục như cọp ở Đồng-Nai. Có một giai-thoại về tài-trí của ông được truyền-thuyết như sau: Nhân dịp vua Cao-Miên tức Chân-Lạp ngày xưa sang dâng phẩm-vật triều cống hằng năm, trong buổi tiếp đón, có những trò biểu diễn võ thuật góp vui, ông mật sai người con nuôi của ông là Lê-Văn-Khôi rất khỏe mạnh lại võ giỏi, ăn mặc như một binh-sĩ thường ra đánh cọp cho phái đoàn Cao-Miên xem. Sau một hồi biểu diễn, ông Lê-Văn-Khôi đã đánh chết cọp, ông bèn thét mắng và ra lịnh đem chém ông Lê-Văn-Khôi, vì cho rằng cuộc chơi sao lại giết cọp. Vua Cao-Miên tiếc một nhân tài giỏi, nên xin nhiều lần ông mới chịu tha và ông nói rằng: Ở nước tôi hạng võ sanh như thế này nhiều vô số kể, tiếc gì một người. Từ đó, nước Cao-Miên càng sợ nhiều hơn và tiếng đồn truyền sang các lân quốc. Sau 3 năm làm Tổng-Trấn Gia-Định Thành, vì tình hình đất nước, tháng 6 năm Ất-Hợi (1815) ông được triệu hồi về triều hết 5 năm và đến năm 1820, ông lại được trở lại làm Tổng-Trấn Gia-Định Thành thêm 12 năm nữa và ông mất tại Gia-Định Thành vào ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn, nhằm ngày 25-8-1832, hưởng thọ 69 tuổi. Theo những vị cao niên nói rằng: ngôi mộ tại Lăng Ông là ngôi mộ hình ông bằng sáp, còn hình hài cốt thật thì đem về an táng tại nơi quê cha đất cũ của ông ở làng Long - Hưng thuộc Mỹ -Tho. Sau khi mất được vài năm, người con nuôi là ông Lê-Văn-Khôi nổi lên chống triều đình Huế, bởi vì ông Tổng-Trấn Gia-Đình Thành mới là Ông Nguyễn-Văn-Quế và Ông Bố-Chánh Bạch-Xuân-Nguyên là những người tham-lam tàn-ác và biết vua Minh-Mạng không ưa người cha nuôi là ông Lê-Văn-Duyệt, nên mới lập công tìm cớ để khép tội lạm quyền và công quỹ lúc còn tại chức, đồng thời bắt giam những người thủ hạ trước kia của ông Lê-Văn-Duyệt cùng ông Lê-Văn-Khôi vào ngục thất. Ông Lê-Văn-Khôi cùng đồng bọn kết hợp với một số binh-sĩ để âm-mưu khởi loạn vào đêm 18 tháng 5 năm Quý-Tỵ (1833), giết được Ông Nguyễn-Văn-Quế và Ông Bạch-Xuân-Nguyên cùng chiếm thành để chống lại triều-đình Huế trên 2 năm, thì bị quân triều đình Huế chiếm thành, bắt giết tất cả 1831 người chôn tập thể một mả, gọi là mả ngụy, bởi vì lương thực và quân trang, quân dụng đã cạn. Vì việc này, Ông Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt, cựu Tổng-Trấn Gia-Đình Thành bị tội lây, vua Minh-Mạng (1820-1840) tức hoàng-tử Nguyễn-Phúc-Đảm con thứ ba lên ngôi) ra lệnh san bằng, xiềng-xích phần mộ. Mãi đến đời vua Tự-Đức (1847-1883) tức hoàng thái-tử Hồng-Nhậm con thứ hai vua Thiệu-Trị lên ngôi) mới được cứu-xét và truy-phong công-trạng của ông và ngày nay nơi Lăng Ông ở kế bên chợ Bà Chiểu khói hương nghi ngút, khách thập phương đến chiêm bái suốt ngày, đặc-biệt những ngày húy-kỵ hoặc những ngày mừng xuân đón Tết hằng năm, dân chúng đến để cúng kiếng và xin xăm rất tấp-nập đông-đảo khói nhang bay ngộp cả bầu trời. Ngoài ra, lấy tên Ông để đặt tên Trường-Học hay tên cầu đường để tưởng nhớ một danh nhân Việt-Nam. Trường hợp Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt giống như ông Nguyễn-Trãi, bị cái oan án được tóm lược như sau: Năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tôn (con vua Lê Lợi), đi tuần du phương đông, duyệt võ ở Chí Linh. Ông Nguyễn-Trãi, lúc bấy giờ đã về hưu tại Côn Sơn, bèn ra nghinh tiếp nhà vua. Vua Lê Thái Tôn thấy Bà Nguyễn Thị Lộ là thiếp của Ông Nguyễn Trãi, có nhan sắc lộng lẫy, lại có tài văn chương, bèn phong chức Lễ Nghi Học Sĩ, để rồi ngày đêm phải chầu hầu nhà vua. Đến khi đông tuần, xa giá về tới trại vải Lệ Chi Viên, thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, thình lình nhà vua nhuốm bịnh, lên cơn sốt dữ dội. Bà Thị Lộ hầu hạ thuốc thang suốt đêm, đến sáng, vua băng hà. Các quan hoảng hốt, vội vã đưa về kinh. Nửa đêm, về cung mới làm lễ phát tang. Triều thần buộc tội Bà Thị Lộ âm mưu giết nhà vua, đem Bà Thị Lộ thả trôi sông. Thảm trạng này xảy ra đúng lúc trong võ quan theo phe Lê Sát, sinh lòng đố kỵ, vì thấy ngày trước ông Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ trọng dụng, nhân cơ hội này, cáo buộc ông Nguyễn Trãi chủ mưu giết vua. Thế rồi, các quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển xử đại thần Nguyễn Trãi với án tru di tam tộc, giống như một giọt máu rắn trước kia bị thấm ba trang sách vậy. Mãi đến 22 năm sau ông Nguyễn-Trãi mới được vua Lê-Thánh-Tôn xét lại. Vua thấy có nhiều mơ hồ, oan ức cho một vị khai quốc công thần, liền truyền lịnh hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức cho ông Nguyễn-Trãi, tìm kiếm con cháu ông Nguyễn-Trãi cho làm quan và cấp tư điền để lo việc tế tự. Nhân nói về ông Nguyễn-Trãi, xin trích dẫn sơ lược tiểu-sử như sau: Ông Nguyễn-Trãi, sanh năm (1380) Canh Thân, con Ông Nguyễn-Long theo nghiệp bút nghiên, đã đậu tiến-sĩ năm 1374 dưới triều vua Trần-Duệ-Tôn, nhưng không được bổ-dụng, vì tội có vợ là Bà Trần-Thị-Thái là người hoàng-tộc, con gái của quan Chung-Túc Quốc-Thượng Hầu Trần-Nguyên-Đán, ông này là cháu bốn đời của Ông Trần-Quang-Khải, mãi đến năm 1402 ông được Hồ-Quí-Ly bổ-dụng làm Hàn-Lâm-Học Sĩ và đổi tên là Nguyễn-Phi-Khanh. Sau khi nhà Minh chiếm nước Nam, Ông Nguyễn-Phi-Khanh bi bắt đưa về Kim-Lăng bên Tàu năm 1407. Riêng ông Nguyễn-Trãi người thông-minh, học-hành giỏi, năm 21 tuổi nhằm năm 1400 Canh Thìn, ông thi đậu Thái-Học-Sanh và được bổ làm Ngự-Sử, nghe tin ông Nguyễn-Phi-Khanh bị đưa sang Tàu, ông Nguyễn-Trãi cùng em là Nguyễn-Phi-Hùng (người em cùng cha khác mẹ) theo cha để phụng-dưỡng, khi tới biên-giới, ông Nguyễn-Phi-Khanh bảo ông Nguyễn-Trãi trở về để: “Chống giặc cứu nước và trả thù mới là đại hiếu” đểmột mình Nguyễn-Phi-Hùng đi theo cũng đủ. Để rồi, mãi đến năm 1420 Canh Tý, ông Nguyễn-Trãi mới được yết kiến Lê-Lợi tại Lợi-Giang (thuộc Cẩm-Thủy, Thanh-Hóa ngày nay) và dâng: “Bình Ngô Sách” là một kế hoạch nhấn mạnh và đặt hàng đầu phép chiếm lấy lòng người và đánh vào tinh thần của địch, nghĩa là đặt yếu tố nhân hòa trên thiên thời và địa lợi, được ông Lê-Lợi tán thành. Từ đó ông Nguyễn-Trãi theo Lê-Lợi chống quân Minh đến khi toàn thắng, quân Minh phải xin hòa, rút quân về nước, nước Nam thoát khỏi cảnh ngoại xâm. Ông Nguyễn-Trãi đã nghe lời cha để cứu nước và báo thù cho cha và được vua Lê-Thái-Tổ tức Lê-Lợi gia phong chức tước Quan Phục Hầu, ban cho Quốc-Tính (tức là họ nhà vua) và chức Nhập Nội Hành Khiển là chức đứng đầu các quan văn... Mùa Đông Năm 2001 Pháp Quốc ******************************************************************* Sứ giả Anh yết kiến Lê Văn Duyệt tại thành Gia Định năm 1822Năm 1822, toàn quyền Ấn Độ nhân danh triều đình Anh gởi sang Việt Nam một phái bộ để điều đình việc giao thương. John Crawfurd cầm đầu phái bộ, khi về nước đã cho ấn hành bản nhật ký cuộc du hành tới nước ta, mà khi ấy họ còn gọi là nước Cochin China (Giao Chỉ gần China).
(Theo John Crawfurd, Journal of an embassy from the Governor- general of India to the courts of Siam and Cochinchina, London, 1830.)
Ngày 29 tháng 8 năm 1822.
Hồi 6 giờ chiều qua, ông Finlayson và tôi xuống thuyền đi Sài Gòn. Phái bộ chúng tôi gồm cả thảy 33 người. Một chiếc thuyền đầy đủ tiện nghi nhất dành cho ông Finlayson và tôi, nhưng mưa xối xả suốt đêm làm chúng tôi không thể lợi dụng được ánh trăng và ngắm phong cảnh của vùng đất đang đi qua. Khi trời vừa sáng, ở hai bên bờ sông, chúng tôi thấy mở ra những cánh đồng rộng rãi, nơi đâu cũng thấy trồng lúa, và chỗ nào cũng thấy xóm làng trù mật. Khoảng 8 giờ, đã nhìn thấy thành phố Sài Gòn nằm trên hữu ngạn hay bờ phía tây sông ...
Ngày 2 tháng 9 năm 1822.
Mọi việc chuẩn bị đã xong từ đêm trước cho cuộc tiếp kiến của chúng tôi. Theo ý các quan, một danh sách bằng chữ Hán ghi tên tặng phẩm trên một tờ giấy màu hồng, theo đúng phong tục ở đây. Mọi chi tiết đều được tiên liệu cho cuộc hội kiến và cả nghi thức mà chúng tôi phải theo khi được giới thiệu. Tuy nhiên, không khỏi phải nói nhiều về những sự việc sẽ được mô tả sau đây. Mọi sự đã sẵn sàng, khoảng 7 giờ 30 tôi yêu cầu cho cáng hay voi để chuyên chở phái bộ. Việc ấy chưa sẵn sàng, và tôi ngỏ ý gián tiếp là nếu không có thì chúng tôi đi bộ. Tôi làm thế vì hiểu rằng chúng tôi không thể đi một bước mà thiếu phương tiện xứng đáng, nên chỉ sau 10 phút, 5 con voi được đưa đến. Sự việc này chắc là của mấy ông quan cấp thấp muốn làm áp lực trên chúng tôi, và tôi sẽ không gặp chuyện gì để quan Tổng trấn biết hết sự thể ? Khoảng 8 giờ, chúng tôi rời công quán để vào thành, có 13 tùy viên theo chúng tôi, nhưng chúng tôi phải để lại những lính hầu người Ấn ở nhà. Ông Finlayson mang theo thư của Toàn quyền (Ân Độ). Một số lính tùy tùng cầm giáo đi chân đất, và một số kỵ mã cưỡi những con ngựa nhỏ mà hung hăng, giống như kiểu ngựa Ấn Độ đi theo đám rước. Mất độ 20 phút, chúng tôi tới thành, bên cạnh là hào nước thẳng tắp mà trú quán của chúng tôi ở đầu phía kia, hai bên hào là hai con đường bằng phẳng. Một số rất đông lính cầm giáo từ trong thành ra, đứng hai bên đường đón, đặc biệt ở trước cửa công thự nơi chúng tôi sẽ được tiếp kiến. Chúng tôi không rời khỏi lưng voi cho tới khi còn không đầy một trăm bước trước cửa công thự. Công thự này mở rộng cửa phía trước, rất dài ở mặt tiền song không sâu lắm, hoàn toàn làm bằng gỗ, không có chỗ nào được đánh bóng hay sơn phết. Đây là một dinh thự đơn sơ nghèo nàn, không như các ngôi nhà của người Hoa mà ngày hôm trước chúng tôi đã thăm bên phía Sài Gòn (sau là Chợ Lớn), đem so sánh với dinh thự này thì đây mới là những lâu đài thực sự. Phong tục của Việt Nam là ngồi trên những tấm phản rộng, cao hơn mặt đất độ 1 bộ rưỡi, hoặc trên bục cao chừng 8 hay 9 đốt tay từ mặt đất. Các bục cao đặt ở phía trước, bục thấp đặt ở phía sau. Trên sàn hay trên bục bao giờ cũng được trải chiếu. Ngay chính giữa sảnh đường có đặt một bục cao, có lẽ cao hơn thường lệ, quan Tổng trấn ngồi trên đó. Chúng tôi tiến lên trước mặt ông và cúi đầu chào, không thấy ông cúi đầu đáp lại. Chúng tôi được chỉ tới ngồi trên mấy cái ghế đặt bên tay mặt ông Tổng trấn. Bên tay trái ông là nơi ngồi của vị phó Tổng trấn, một ông già mặt mũi sáng sủa ở khoảng bảy mươi tuổi. Phần còn lại của các quan dưới quyền Tổng trấn thì ngồi phía sau chúng tôi trên một bục khác. Ngồi đầu hàng này là ông Quản Binh (Ong-kwan-beng), một vị quan võ đã đứng điều đình mọi việc với chúng tôi (phải chăng là Trần Văn Học, NĐĐ). Nghe nói Tổng trấn già là một hoạn quan, nhưng nếu không biết trước thì có lẽ chúng tôi không thể nhận ra. Tất nhiên ông hoàn toàn không có râu; nhưng tuy người Việt Nam thích để râu mà râu họ thường rất thưa thớt. Tiếng nói của ông hơi nhỏ và dịu như tiếng phụ nữ, song không quá độ đến mức có thể gây nghi ngờ.
Ông là nhân vật đã dự phần đặc biệt vào các cuộc chiến và cách mạng ở Việt Nam. Khi chúng tôi đến yết kiến thì ông ở độ tuổi 58. Ông có phong cách linh lợi và thông minh. Thân mình hơi thấp chứ không cao, song ông tỏ ra hoạt động và không có khuyết tật gì, tuy nhiên hàm răng không còn nguyên vẹn và đã mất nhiều cái. Các quan lại khác đều mặc đồ gấm hoa sang trọng. Trái lại ông Tổng trấn tỏ ra ít quan tâm và coi thường việc ăn mặc, ông chỉ mặc một áo dài bằng nhiễu đen trơn màu và chít chiếc khăn đồng màu.
Ông bắt đầu hỏi chuyện chúng tôi là cuộc hành trình xa xôi bao nhiêu. Sau khi chúng tôi trả lời câu hỏi đó, ông liền đi ngay vào chính vấn đề và nói rằng người nước Anh sẽ được hoan nghênh vào buôn bán ở Việt Nam theo đúng luật lệ của xứ sở này; rằng thuế nhập khẩu không nặng, đối với nước nào cũng ngang nhau. Chúng tôi trả lời đó là điều chính vị Toàn quyền (Ấn Độ) mong muốn và không hứa gì khác. Ông Tổng trấn nói thêm, nếu người Việt Nam sang buôn bán bên liên hiệp Anh tức phải chịu theo luật lệ Anh, còn nếu chúng tôi đến Việt Nam thì cũng phải tuân thủ như vậy. Tôi liền đáp lại là tình hữu nghị và sự thông cảm giữa các quốc gia sẽ không thể thực hiện ngoài những nguyên tắc ấy. Sau đó, ông Tổng trấn nhận xét và hứa cho phái bộ chúng tôi một chứng chỉ đặc biệt để ra kinh đô, ông giới thiệu chúng tôi với vị Quan quản Tượng đứng đầu ngoại vụ (có lẽ là chức vụ Thương Bạc, NĐĐ). Rồi ông nhận định rằng chỉ có quốc vương mới trao đổi thư từ với quốc vương, thế thì vua nước Anh có thể viết cho Vua nước Việt Nam, và ông Toàn quyền (Ân Độ) thì có thể viết thư cho Quan quản Tượng mà thôi. Cũng như mấy lần trước, chúng tôi giải thích là vua nước Anh ở một nơi rất xa xôi không thể trực tiếp trao đổi quốc thư với các vị quân vương phương Đông, do đó, việc này đã được ông Toàn quyền ở Ân Độ chủ yếu phụ trách. Ông trả lời đây là lối hành sự hoàn toàn trái ngược với tập quán của Việt Nam, sự thể sai nguyên tắc này sẽ ngăn cản phái bộ trên bước đầu của công cuộc kết thân giữa hai triều đình. Rồi chúng tôi tiến dâng lên ông Tổng trấn một ít tặng phẩm của Toàn quyền ở Ấn Độ cùng với một tờ kê khai vật phẩm bằng chữ Hán được một thư lại đọc to lên. Sau khi nghe đọc bản danh sách tặng phẩm, quan Tổng trấn nói là rất cám ơn ông Toàn quyền Ân Độ về sự lịch thiệp đã gởi quà tặng, nhưng vì cuộc thương thuyết còn dở dang, nên ông chưa có thể nhận tặng phấm đó. Tuy nhiên quan Tổng trấn hy vọng sau này sẽ có nhiều thương quyền Anh tới thăm thành phố Sài Gòn, lúc ấy sẽ trao đổi tặng phẩm lại. Chúng tôi không từ chối giữ lại tặng phẩm, nhưng sự thể ấy làm nổi bật sự so sánh của chúng tôi đối với tính tham lam của các quan chức Xiêm La trong trường hợp tương tự.
Chúng tôi liền hỏi khi nào có thể từ biệt Sài Gòn. Thời điểm liền được ấn định. Ông Tổng trấn trả lời là mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng để chúng tôi ra đi được thuận lợi. Chúng tôi rất muốn ông Tổng trấn mở xem bức thư của Toàn quyền Ân Độ, dù chỉ vì tò mò, nhưng ông chỉ nhìn qua, ông không rút thư từ phong bì lụa ra, rồi lịch sự hoàn trả lại tức khắc. Như để làm chúng tôi vui lòng, ông bảo sẽ đem thư trả về nơi lưu trú của chúng tôi. Cho thêm phần trịnh trọng, ông ra lệnh cho lấy ba con voi trang sức đẹp đẽ rước trả bức thư ấy. Trong khi chuyện vãn, ông Tổng trấn hỏi tuổi người theo tôi (Finlayson) và tuổi tôi. Những người hầu Ân Độ của chúng tôi và y phục của họ đã làm ông rất chú ý quan sát, cũng như là đối với mọi người khác trong suốt cuộc viếng thăm của chúng tôi. Người Việt Nam hoàn toàn xa lạ với người dân nước Hindustan (Ân Độ), và không có một người nào thuộc dân xứ đó cư ngụ tại Sài Gòn. Con người, hình dáng, cử chỉ, quần áo của người Ấn đã gây được sự tò mò chú ý hơn là đối với chúng tôi.
Sau khi uống trà, chúng tôi được mời đi xem một cuộc đấu hổ–tượng. Chúng tôi lại lên voi và đi về hướng bờ thành, nơi có đấu trường. Ông Tổng trấn đi ra một cổng khác và đã tới trước chúng tôi bằng cáng. Khi sàn đấu còn trống chỗ, một võ sĩ ra hô to cuộc đấu khai mạc. Với lễ hội đặc biệt này, tác giả đã thấy có sự chuẩn bị sạch sẽ trong bóng và trang hoàng rực rỡ. Một võ sĩ ra biểu diễn dương oai trông thật man rợ. Anh uốn mình ra sau, phưỡn bụng lên, hai tay chống nạnh và trong tư thế kỳ cục thế, anh đã hò hét thật lâu và cao giọng. Một con hổ đuoc đua trình diện ngay trước mặt đấu trường và được dẫn tới góc một hàng rào. Mọi người đều hô vang cổ võ cuộc biểu diễn. Con hổ bị trói ngang thân và buộc vào một cái cọc vững chắc bằng một sợi thừng dài khoảng 27–28mét. Mõm hổ đã bị khẩu lại, nanh vuốt bị dứt bỏ. Hổ có tầm cỡ khá lớn và coi bộ rất hung hăng. Không dưới 46 con voi, voi đực thật đồ sộ, được dẫn ra theo đuôi nhau. Bỗng một con voi xông vào đánh hổ. Voi thứ nhất này tiến lên, với vẻ lộ rõ can đảm cao, và chúng tôi nghĩ là với bộ điệu quyết liệt như vậy thì voi ta sẽ hạ địch thủ hổ trong giây lát. Bằng một gắng sức ban đầu, voi lấy hai chiếc ngà tung hổ lên tầm cao vút và tung hổ ra xa tới gần 20 bộ. Dù bị thế, hổ thu mình lại, nhảy phóc lên lưmg voi và hất luôn người quản tượng đang ngồi trên cổ voi. Voi ta kêu rống lên, vội chạy ra xa, hổ đuoi theo tới hết mức thừng buộc phải ngừng lại. Tuy không bị thương tích gì, voi chạy trốn kêu rống thảm thương và không có cách gì làm cho nó trở lại đấu với hổ nữa. Sau đó một chút, chúng tôi thấy một người bị trói có hai sĩ quan dẫn đến trước mặt ông Tổng trấn. Đó là chú quản tượng của con voi thua trận. Anh ta bị đem vào một góc và chịu đánh một trăm roi. Để chịu hình phạt này, anh ta phải nằm úp mặt xuống đất, một người ngồi lên cổ và vai anh, một người khác ngồi lên ngang hông anh, sau đó là một loạt roi mây vụt xuống. Khi xong, hai người khiêng anh ta đi, một người cầm đầu, một người cầm chân, hình như anh ta hết cử động. Trong khi thi hành hình phạt đó, ông Tổng trấn thản nhiên xem cuộc đấu voi hổ tiếp diễn, coi như không có gì xảy ra. Mươi mười hai con voi nối tiếp nhau vào húc hổ, nó bị chết hẳn sau nhiều lần bị các cặp ngà voi tung lên cao rồi ngã xuống. Trước đây, tôi không hề tưởng tượng nổi sức mạnh của những con vật kinh khủng đến thế. Có những con voi ném tung con hổ ra xa tới 30 bộ, sau cái ngã như vậy hổ như hết sống không còn kháng cự được gì. Chúng tôi không thế nghĩ tới mà không sợ hãi đứng trước cảnh tượng những con voi hành hạ phạm nhân bị tội tử hình. Trong trường hợp ấy, tôi nghĩ chỉ một cái húc và tung cao, như tôi vừa tả, đã đủ để tiêu diệt một mạng người.
Sau cuộc đấu hổ voi, chúng tôi được xem một cuộc tập trận giả, đây là một đàn voi công phá hàng rào phòng thủ. Một tường ngăn dài từ 40 đến 50 bộ bằng vật liệu nhẹ, bên trên chất đầy cỏ khô, bên trong bày ra cảnh bố phòng của nhiều lính cầm giáo mác. Khi cỏ khô vừa bắt lửa, nhiều tiếng pháo nổ vang, cờ phất lia lịa, trống đánh giồn dập và một khẩu pháo bắt đầu nhả đạn. Khi ấy, đoàn voi được thúc tiến lên. Chúng liền bỏ tính rụt rè bình thường vẫn có, dù khi ngọn lửa còn cháy, tường thành giả chưa bị đốt hết, chỉ cần một chút gan lì là có thể băng qua được chướng ngại vật đó. Sau cuộc biểu diễn trò ấy, ông Tổng trấn cho gọi chúng tôi lại gần để nói chuyện. Ông muốn biết ngày giờ chích xác cuộc lên đường của chúng tôi, và khi nghe chúng tôi nói đã định vào sáng mai thì ông rất ngại là cuộc viếng thăm của chúng tôi chỉ có hai ngày thì quá ít không xem thêm được phố phường và nhất là ông không kịp cho chúng tôi coi một đêm hát bội. Chúng tôi lấy cớ là gió mùa sắp tới và chúng tôi ao ước được ra đi bình an tới Huế. Khi biết chúng tôi xin đi không trì hoãn, ông nói là mọi sự sẽ chuẩn bị sẵn sàng trước lúc khởi hành một giờ như ý định của chúng tôi. Lệnh được ra ngay tại chỗ để chuấn bị cho chúng tôi khởi hành đúng hẹn. Nhân đó, chúng tôi thấy được cách giải quyết sự việc như thế nào tại Việt Nam. Ông Tổng trấn đích thân truyền lệnh, với giọng nói to cao của người cầm quyền và có 12 hay 14 vị quan dưới quyền đứng trước mặt ông nhận lệnh. Khi ông ra lệnh xong, theo phong tục địa phương, họ liền quì gối lạy 4 lần, mặt họ cúi xuống trên hai bàn tay chắp lại để sát đất. Quan Tổng trấn lại hỏi phải cần tiếp tế gì cho chúng tôi và cả thủy thủ đoàn nữa, ông bảo chúng tôi kê rõ mọi khoản để nhu cầu được đầy đủ cung ứng. Chúng tôi trả lời là không còn thiếu thốn gì nữa và xin cảm tạ sự đãi ngộ quảng đại ấy. Sau khi cám ơn ông Tổng trấn về việc tiếp đón lịch sự và hào hiệp mà ông đã dành cho chúng tôi, chúng tôi cúi đầu từ giã và trở về trú quán. Khi chúng tôi đi vào dinh Tổng trấn cũng như khi trở về, có rất đông dân chúng theo chúng tôi. Thái độ của họ rất sinh động và vui vẻ, chứ không có gì là khiếm nhã. Quân lính tháp tùng chúng tôi không phải can thiệp ngăn cản họ khi họ không chen lấn vào đoàn rước phái bộ, nhưmg khi họ chen lấn thì roi mây quất xuống lia lịa và họ liền rút lui lẹ làng với tiếng cười khúc khích. Khi vừa về tới trú quán, một vị quan lớn dem đến cho chúng tôi lời chúc tụng của ông Tổng trấn cùng nhiều tặng phẩm. Đó là một con trâu, một con heo, một mớ gà vịt, gạo và trái cây. Vị quan lại cho chúng tôi biết là ông Tổng trấn dù không công khai nhận tặng phẩm nhưng ông muốn được biếu riêng mấy khẩu súng và chiếc thiên lý kính mà chúng tôi đã đem tặng ông. Tôi kính cẩn đáp lại là rất sung sướng được gởi lại những thứ đó. Tuy nhiên, mấy thứ đó không được lấy vội, vì ông Tổng trấn yêu cầu là sau khi chúng tôi về tới thuyền hãy gởi tặng ông mấy khẩu súng thật tốt. Một khoảng khắc sau, một đám rước long trọng đem đến cho chúng tôi một con heo quay với một mâm xôi lớn, một món quà biếu nữa của ông Tổng trấn. Như vậy là hợp với phong tục của xứ này và đã làm tăng thêm tình hữu nghị./.NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU Trích "Lê Văn Duyệt với Vùng Đất Nam Bộ - tạp chí Xưa & Nay - VHSG Tả Quân Lê văn Duyệt trong hồi ký của John White và John CrawfurdPatrick . J . Honey …Người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất việt Nam là ông John White, tới Sài Gòn năm 1819. Ông ta rất khâm phục thành Sài Gòn thời ấy [2]. Theo lời ông White ghi chép lại thì “Đi ngược dòng từ Vũng Tàu trở lên, đây là mô đất cao đầu tiên, so với mặt nước sông thì cao hơn chừng 20 thước. Trước đây Sài Gòn là một vùng đồi, có rừng cây bao phủ, nhưng tổ phụ nhà vua Gia Long đã cho san bằng ngọn đồi và đào hào sâu chung quanh, lấy nước sông qua các ngòi lạch dẫn vào hào. Chung quanh thành là một bức tường dày đắp bằng gạch, cao chừng 6, 7 thước. Thành hình chữ nhật, nhưng gần như vuông, mỗi bề độ ba phần tư dặm (khoảng hơn một cây số). Đứng đầu thành này có quan Tổng trấn, hồi ấy là Tả quân Lê Văn Duyệt, dưới trướng có nhiều võ quan khác. Bên trong thành, vườn hoa ngoạn mục, ở giữa là cung điện nhà vua, có hàng rào cao vây quanh. Cung điện là một tòa nhà lớn, một chiều chừng 30 thước và chiều kia khoảng hơn 20 thước, làm bằng gạch, có hành lang bốn phía. Sàn nhà cao hơn mặt đất, lát gỗ, có cầu thang bắc lên cửa chính vào cung điện. Mái nhà lợp bằng ngói tráng men bóng lộn, đắp rồng phượng có màu sắc sặc sỡ. Hoàng Đế không hề vào thăm đất Sài Gòn từ khi bình xong nội chiến và vì thế cung điện không có ai ở, chỉ dùng để cất giữ ấn tín nhà vua và các văn thư. Trong thành có đủ chỗ để đóng tới 50 ngàn quân một cách dễ dàng…”
Nhân vật xuất chúng bấy giờ hiển nhiên là Lê Văn Duyệt. Ông White đã tỏ ý rất kính phục Tả quân ngay sau lần hội diện đầu tiên. Ông có ghi lại như sau: “ Dáng diệu và phong độ của ông này ( Lê Văn Duyệt) có vẻ uy nghi lẫm liệt. Ông có vẻ một đại thần đầy kinh nghiệm nhưng vẫn giữ được đức độ cương trực của con nhà tướng. Tính tò mò muốn hiểu biết và cách thức ông lựa vấn đề đem bàn tỏ ra ông là người có đầu óc phóng khoáng, luôn luôn muốn trau dồi kiến thức. Những lời bàn chính đáng của ông trong nhiều vấn đề tỏ ra ông có một khả năng tự nhiên rất mạnh và tầm kiến thức rất rộng. Chiến sự, chính trị, tôn giáo và những phong tục tập quán của các nước Âu Tây là những vấn đề mà ông bàn cãi đến một cách chăm chú… Khi óc tò mò của ông đã được thỏa về những đặc điểm ấy, thì ông tỏ vẻ khâm phục trí thông minh, tài khéo léo và sức mạnh của “ Olan” ( Hòa Lan) mà nói đến Hòa Lan tức là ông muốn nói đến Âu Tây. Rồi ông xúc động, như thể lòng tự ái bị tổn thương, ông than phiền về tình trạng tương đối còn thô lậu dã man trong đất nước ông” . Xuống dưới nữa, John White viết: “ Sau khi gặp gỡ bậc vĩ nhân đó, ai cũng phải cảm thấy tiếc rằng lịch sử đã không xui khiến để ngôi báu lọt vào tay ông, vì ông mới là người biết dùng quyền lực để bồi đắp sự vinh quang và hạnh phúc của dân tộc, hơn hẳn ông vua độc tài thuở ấy…”.
Đối với những quan lại khác mà ông gặp thì John White chỉ tỏ ý khinh bỉ. John White kể lại rằng họ có những bộ điệu ta đây, làm ra quan trọng, nhưng cư xử như những đồ phàm tục, luôn luôn ngữa tay xin rượu Tây và uống cho đến khi say túy lúy và cãi nhau om xòm. Bọn quan lại này luôn luôn xin quà, bất cứ cái gì họ xin được của người Mỹ là họ đem về nhà. Trong sự giao dịch hành chánh thì họ vừa bất lực vùa tham nhũng, họ đớn hèn đến nỗi có thể đương kiểm tiền của người, mà ăn cắp mấy đồng nhét vội vào tay áo. Khi vị Khâm sai Lê Văn Duyệt không có mặt tại Sài Gòn thì vị quan quyền chức này có cái thói xấu là hay ném pháo để dọa khách khứa và mua tích trữ những số đường lớn để cho giá đường lên cao rồi đem bán cho khách ngoại quốc. White còn tả hệ thống quan liêu rất phức tạp của rất nhiều viên chức. Ai muốn tới buôn bán cũng phải đút lót những viên chức ấy.Nếu không chịu lễ lạc một phần tử nào trong cả guồng máy ấy thì tức thời công việc không những bị đình trệ mà bị những hậu quả trái ngược rất rõ rệt.
…Phái bộ mà toàn quyền Anh ở Bengale gởi qua Thái Lan và Việt Nam để mở liên lạc thương mại với hai nước này đã tới Vũng Tàu vào năm 1822. Ông trưởng phái đoàn này , John Crawfurd , sau này được bổ làm toàn quyền Tân Gia Ba, đã qua Sài Gòn nhưng chỉ ở lại đất Việt mấy ngày. Không như thuyền trưởng Mỹ White đã tới Sài Gòn trước ông ít lâu, Crawfurd cũng qua thăm cả Trung kỳ, đáp tàu men theo bờ biển tới Tourane [3] rồi từ đó dùng đường bộ lên kinh đô Huế. Crawfurd đã giữ một tập nhật ký về chuyến công du này và tôi muốn được trình bày cùng quý vị về những cảm tưởng và ý kiến mà ông đã phát biểu trong tài liệu đó.
Để tàu ở lại Cần Giờ là nơi tất cả thuyền bè ngoại quốc phải tới khai báo với viên chức hữu trách, Crawfurd và phái đoàn của ông lên Sài Gòn bằng những con thuyền nhỏ được cử ra để chở phái đoàn của ông lên Sài Gòn. Từ Sài Gòn, chính quyền địa phương đã phái bốn con thuyền và bảy viên quan ra tiếp phái đoàn Anh. Chất lượng những con thuyền này có thể được lượng định bởi thời gian đi ngược dòng sông lên Sài Gòn mất tất cả 10 giờ đồng hồ [4] . Mỗi con thuyền được chèo bởi 40 thủy thủ, người nào người nấy đều mặc quần áo đỏ và đội những nón lá có điểm thêm lông gà trống.
Bài của Crawfurd mô tả thành phố Sài Gòn cũng tương tự như Sài Gòn của John White. Tuy nhiên, Crawfurd đã nói thành phố này hồi đó gồm hai thị trấn, cái bây giờ gọi là Chợ Lớn thì hồi đó gọi là Sài Gòn, cái bây giờ gọi là Sài Gòn thì hồi đó gọi là Bến Nghé [5]. Một trong những thói tục kỳ lạ ở đó mà White đã không nhắc tới là tục trả lộ phí sang sông. Nhận thấy chỉ đàn bà con gái là phải trả tiền đò, còn đàn ông con trai được miễn tiền, Crawfurd bèn hỏi nguyên do thì được biết rằng tất cả trai tráng được coi như làm việc cho chính quyền nên được miễn đò phí.
Theo Crawfurd thì nhà cửa của thương gia Trung Hoa trông đồ sộ hơn nhà cửa của người Việt nhiều. Đang khi ông đi thơ thẩn trong thành phố thì ba gia đình Trung Hoa loại khá giả nhất đã ra cửa mời ông vào chơi. Bên trong những ngôi nhà của họ trông thật rộng rãi, đồ đạc rất nhiều và tiện nghi cũng đầy đủ. Và Crawfurd lại càng lấy làm ngạc nhiên khi thấy họ đã làm những bữa ăn thịnh soạn để thết đãi không những ông và tuỳ tùng mà cả những quân sĩ Ấn và Việt theo hầu nữa. Những người Trung Hoa đó, tự giới thiệu là con cháu của những người đã di cư từ Trung Quốc sang từ hàng mấy thế kỹ trước, những người đó đã khiến Crawfurd rất cảm phục vì ông đã mô tả họ như những người “rất thông minh và lịch thiệp”.
Điểm đáng chú ý thứ hai trong bản tường trình của Crawfurd là khi ông mô tả phong độ Tả quân Lê Văn Duyệt, Crawfurd đã viết như sau về đức Tả quân: “ Ai cũng biết Tả quân xuất thân làm hoạn quan, nhưng nếu không được người khác cho biết thế thì chúng tôi đã không thể nào tự tìm hiểu được điều đó. Đã đành là ông hoàn toàn không có râu, nhưng râu ria người Nam kỳ là điều rất hiếm mặc dầu họ rất ưa để mọc ít nhiều. Giọng nói của ông thì cũng nhỏ nhẹ nhưng không tới độ khiến ta nghi ngờ. Là người đã đóng góp một phần quan trọng trong cuộc chiến và cuộc cách mệnh vừa qua ở Nam kỳ, ông là một nhân vật hoạt bát và thông minh. Ông cũng là một người nhỏ nhắn và mảnh khảnh nhưng trông vẫn khỏe và chẳng hề đau ốm gì trừ bệnh đau răng đã khiến cho ông bị mất gần hết hàm răng. Những vị quan lại khác thì bận những thứ quần áo lụa thêu thùa đủ kiểu, nhưng Tả quân thì trái lại, hình như hoàn toàn không để ý tới cách ăn bận và chỉ mặc một bộ áo dài thâm và vấn quanh đầu một chiếc khăn nhiễu cũng màu đen”.
Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho trình bày với phái đoàn Anh mấy trò giải trí trong thành. Theo nguyên văn của Crawfurd thì “ rất nhiều người Việt Nam đã tới xem cuộc vui này để được chứng kiến một vụ xung đột giữa hổ và voi. Con hổ này đã được buộc vào một sợi dây thừng lỏng dài chừng 30 thước cho nó có thể đi lại xung quanh một cột gỗ đóng dưới đất.
Mõm con vật đáng phàn nàn này đã được khâu lại trước cuộc tranh tài , môi dưới và môi trên sát hẳn với nhau để nó không thể mở mõm. Móng hổ đã bị rút bằng kìm để cho con vật không làm hại được voi. Tuy nhiên, con hổ đó, một con vật rất lực lưỡng, trông rất khỏe mạnh và giận dữ. Đối diện với hổ ở một khoảng xa là 46 con voi đực to lớn và trên cổ mỗi con voi đều có một anh quản tượng. Khi lệnh đánh được ban ra thì con voi thứ nhất bèn tiến lên hùng dũng và cứ trông con mắt của voi thì chúng tôi cứ tưởng nó sẽ đánh tan xác đối thủ của nó ngay. Vào vòng chiến, con voi bèn lấy ngà húc con hổ và ném hổ ta ra xa tới 6, 7 thước. Nhưng con hổ đâu chịu thua và nhảy lên mình voi định với đánh luôn cả anh quản tượng đang vắt vẻo trên đầu voi. Con voi sợ quá, co cẳng chạy mất. Con hổ đuổi theo cho tới khi bị thừng ngắt lại mới thôi. Con vật chạy trốn, tuy chẳng bị thương tích gì nhưng gầm lên một cách rất thảm thương và người quản tượng không làm được cách nào cho nó tái chiến. Sau đó ít lâu thì chúng tôi thấy một kẻ bị trói do hai sĩ quan đưa lên Tả quân.
Người đó là viên quản tượng xấu số và ngay lúc đó y bị phạt 100 trượng. Kẻ bị đánh bị nọc xuống đất, một người ngồi lên đầu, một người khác giữ chân anh ta và một số quân sĩ khác tiếp tay đánh cho đủ số 100 hèo. Hình phạt cử hành xong thì hai người khác đến khiêng kẻ bị phạt đi vì lúc đó anh ta đã chết ngất. Trong khi hình phạt này diễn ra thì Tả quân vẫn cứ nhìn cuộc đấu giữ voi và hổ một cách bình thản như chẳng có gì đặc biệt xảy ra.
Sau khi 10 hay 12 con voi đã tiến đánh con hổ thì con vật này mới chết, phần lớn là bị voi húc rồi quẳng xuống đất. Sức lực của những giống vật này thật vượt quá những gì tôi có thể tưởng tượng được. Có con đã ném được con hổ xa tới 10 thước khi hổ ta gần chết và không chống cự được nữa. Chúng tôi không khỏi kinh hãi khi nghĩ rằng chính những con vật đó có nhiệm vụ hành quyết những kẻ tội phạm bị án tử hình . Vào những dịp đó thì chỉ cần một cái ném như mô tả ở trên cũng đủ để giết tội nhân. Ai cũng bảo với tôi như thế” .
Đây là một trong những trò giải trí có thể xem được ở Sài Gòn vào thuở ấy. Lại còn một tập quán của người Việt, một tập quán đã mất đi từ lâu, đã được phái bộ Crawfurd chứng kiến khi đi chơi trong thành phố. Ở một đường phố, họ gặp hai người đang cãi nhau dữ dội. Cả hai đều ngồi dưới đất và một người thì níu lấy thắt lưng của người kia. Đó là một chị đàn bà đang giữ một anh hoạn quan và the thé tố cáo anh ta đã lấy đồ vật hay tiền bạc gì của chị ta. Hình như làm vậy tức là chị ta đã làm theo một thói tục của người Việt. Theo thói này thì khi ai muốn tố cáo một người khác lấy của mình bất cứ cái gì thì mình chỉ cần níu lấy thắt lưng của người đó. Và luật pháp buộc người bị níu phải chịu để cho người bắt giữ và không được kháng cự chi cả.
Phái bộ Anh không ở lại Sài Gòn lâu vì Crawfurd rất nóng lòng muốn ra Huế đề nghị liên lạc thương mại với vua Minh Mạng. Trước khi đi, ông ngạc nhiên thấy rằng Tả quân Lê Văn Duyệt đã từ chối những tặng phẩm mang lên biếu người, nói rằng nếu nhận những tặng phẩm thì người nợ phái đoàn Anh một món nợ và phải thúc giục vua Minh Mạng chấp nhận đề nghị của người Anh. Tả quân chủ trương rằng những đề nghị của phái đoàn Anh phải được cứu xét căn cứ trên chân giá trị của chúng và nhà vua có quyết định gì thì sự quyết định đó phải ở bên ngoài sự tán vào của những ông quan đã nhận quà biếu của phái đoàn Anh. Tả quân cũng cho biết rằng ông sẵn sàng nhận quà của phái đoàn Anh một khi cuộc đàm phán giữa hai nước kết thúc. Thái độ của Tả quân càng đáng kính phục khi ta nhớ rằng khi ấy các viên chức khắp châu Á xem những quà biếu như một quyền hạn và lắm lúc còn đòi khách ngoại quốc phải biếu xén họ….
Chú thích : [1] Xem : John Crawfurd, Journal of an embassy from the Governor – general of India to the courts of Siam and Cochin China . Henry Colburn, 1828, London . [2] Thành này gọi là thành Phiên An, rất kiên cố, đủ cả hào và lũy. Năm 1835, sau sự biến Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng cho san bằng thành này và xây lại thành khác nhỏ hơn ở gần rạch Thị Nghè ( nay là sở Ba Son). Nhưng thành xây sau này cũng bị phá đi khi Pháp chiếm được Gia Định năm 1859. Năm 1877, khi đào móng xây nhà thờ Đức Bà, người ta còn thấy di tích của thành Phiên An cũ, một lớp tàn tro dày chừng 30 phân (theo Lê Đình Chân, sđd, trang 159). [3] Tức Đà Nẵng ngày nay. [4] So với phương tiện thủy ngày nay thì vẫn còn quá nhanh. [5] Năm 1777, quân Tây Sơn vào đốt phá tan tành Nông Nại Đại Phố (cù lao Phố) ở Trấn Biên. Nhóm người Minh Hương bèn di chuyển xuống phía Nam ven hữu ngạn sông Sài Gòn mà lập thị trấn mới, tức Chợ Lớn ngày nay. Còn Sài Gòn là trung tâm hành chánh của Phiên Trấn và lưu dân khắp nơi tụ tập về sinh sống, nhỏ hơn Chợ Lớn nhiều. Qua nhiều đợt tiếp nhận dân nhập cư từ khắp nơi đổ về, Sài Gòn mới có bộ mặt như ngày nay. Trương Ngọc Phú chú giải Trích "Tả Quân Lê Văn Duyệt và Vùng Đất Nam Bộ - tạp chí Xưa & Nay"
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:26:09 GMT 9
Hoạn quan Nguyễn thị Chân Quỳnh23/05/2006 I.- Những hoạn quan ở nước ta * Đời Lý Lý Nhân Nghĩa Lý Thường Kiệt * Đời Trần . Phạm Ứng Mộng * Đời Lê Lương Đăng Hoàng Công Phụ Phạm Huy Đỉnh Hoàng Ngũ Phúc * Đời Nguyễn Lê văn Duyệt II.- Chức vụ và phẩm phục A/ Chức vụ B/ Phẩm phục * Đời Trần * Nhà Lê *Thời nhà Nguyễn III.- Đời sống * Tướng mạo và tính tình * Cung giám viện * Chùa Từ Hiếu * Nghĩa địa * Tháp Bồ Đề IV.- Chú thích Sử sách của ta chỉ chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ, nhưng xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung quốc. Theo các sách Chu lễ và Kinh lễ thì đời nhà Chu các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn, canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi là Tư nhân, hay Yêm doãn (yêm = thiến, doãn = trưởng quan) sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn. (Ở Việt Nam thường gọi là : nội thị, quan thị, nội giám, ông Giám, ông Bõ). Tuy tổng số có thể lên đến 3000 người, nhưng chỉ một số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua đến các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi vua muốn triệu ai thì chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem đèn đến treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô này thấy hiệu bèn trang điểm rồi trút bỏ xiêm y, viên nội giám dùng một cái áo choàng rộng màu đỏ bọc lại rồi ẵm đến tận cung vua. Sau đó viên này phải ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có sinh con trai thì đó là bằng chứng. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì từ cuối đời Hán hoạn quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn ban lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây cánh... Năm 1653, vua thấy hoạn quan lũng đoạn triều chính thái quá bèn ra sắc lệnh không cho những người này làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm không đuợc giao hảo với các đại thần, nếu không sẽ bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật này ít khi được áp dụng. I.- Những hoạn quan ở nước ta * Đời Lý Lý Nhân Nghĩa. Nói đến hoạn quan đời Lý ai cũng nghĩ ngay đến Lý Thường Kiệt nhưng viên hoạn quan đầu tiên được nêu tên trong sử lại là Lý Nhân Nghĩa. Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi, ba vương là Đông Chính, Dực Thánh và Vũ Đức mưu phản, đem quân mai phục trong Long Thành và ngoài cửa Quang Phục. Thái tử biết có biến sai vệ sĩ phòng giữ và sai bọn hoạn quan đóng các cửa điện, nhưng dùng dằng không nỡ quyết liệt với anh em. Nội thị Lý Nhân Nghĩa xin ra đánh, tâu : "Nay ba vương làm phản thì là anh em hay cừu địch ?...Tiên đế cho điện hạ là người có đức, có thể nối được chí nên lấy thiên hạ phó thác cho điện hạ, nay giặc đến tận cửa cung mà ẩn nhẫn như thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ?". Thái tử lẳng lặng hồi lâu nói : "Vì ta muốn giấu tội ác của ba vương cho tự ý rút quân để trọn nghĩa anh em". Sau thấy ba vương đánh gấp, thái tử liền ủy cho bọn Lý Nhân Nghĩa và cung quan là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu đánh dẹp. Hiểu giết được Vũ Đức, còn Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát. Đến tháng tư năm 1028, vua Thái Tông đi đánh phủ Trường Yên, cũng giao cho Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ kinh sư, phòng Khai quốc vương làm phản (1). Xem thế đủ biết Lý Nhân Nghĩa không phải loại hoạn quan nô bộc mà là người có quyền can gián vua và rất được vua tín nhiệm. Lý Thường Kiệt (1019-1105). Lý Thường Kiệt quê ở Thăng Long, húy là Tuấn, tự là Thường Kiệt. Người cha sung chức Sùng ban lang tướng. Năm Thường Kiệt 13 tuổi thì mồ côi cha. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy có chí bèn gả cháu gái là Thuần Khanh và dậy cho binh thư Tôn Ngô. Trước năm 1040 Thường Kiệt cũng được học đạo Nho. Nhờ phụ ấm, lúc đầu giữ một chức quan nhỏ là Kỵ mã hiệu úy. Năm 23 tuổi (1041) sung chức Hoàng môn chỉ hậu, khi ấy đã là hoạn quan. Có hai thuyết nói về việc Thường Kiệt tự hoạn : - Vì vua thấy Thường Kiệt mặt mũi đẹp đẽ nên cho 30.000 quan, bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ ; - Vua Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao lại tha về. Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận. Thuyết đầu có lẽ có lý hơn vì em ông là Thường Hiến cũng là hoạn quan, chẳng lẽ vua cũng bắt tự hoạn chỉ vì Thường Kiệt "thất lễ" ? Ông Hoàng Xuân Hãn còn vạch ra rằng từ khi bình Chiêm, tha Nùng Trí Cao đến khi bắt Thường Kiệt tự hoạn rồi lại trọng dụng chỉ vỏn vẹn có mấy tháng, thời gian hơi ngắn để làm đủ từng ấy chuyện. Vào cung chưa được một kỷ (12 năm) Thường Kiệt được thăng Đô Tri, coi tất cả mọi việc trong cung cấm. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Thường Kiệt sung chức Bổng hành quân quốc Hiệu úy, rồi Kiểm hiệu Thái bảo, một chức rất cao tại triều. Năm 1601, vua sai ông dẹp loạn ở cõi Tây nam, Man Lào. Năm 1069, vua Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, phong ông làm Đại tướng, cho em ông là Thường Hiến giữ chức Tân kỵ vũ úy. Thường Kiệt bắt được Chế củ, Củ dâng đất chuộc tội được tha về. Thường Kiệt thăng Phụ quốc Thái phó (chức thứ ba trong hàng Tể chấp) Đao Thụ Nam bình Tiết độ sứ (chức thứ hai trong hàng tướng) Thượng Trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (hàng vương). Sau lại thăng Thái Úy Đồng Trung Thư môn hạ Bình chương sự (chức thứ hai sau Thái sư Lý Đạo Thành) trông nom quốc chính. Năm 1072, Thánh Tông mất, Nhân Tông là con Ỷ Lan Thái phi lên ngôi. Lý Đạo Thành ở ngôi Tể tướng đã 18 năm, nay làm Phụ chính, tôn Thượng Dương Thái hậu lên chấp chính nhưng Thường Kiệt lại tôn phò Ỷ Lan, chia thành hai phe. Bốn tháng sau phe Thường Kiệt thắng, Lý Đạo Thành bị giáng chức. Năm 1073, vua Nhân Tông ban cho Thường Kiệt chức Đôn quốc Thái úy, Đại tướng quân, Đại Tư đồ coi việc văn võ kiêm cả chức cấm quan. Năm 1075, nhà Tống định thôn tính nước ta, Thường Kiệt biết ý đón đánh, Tống quân thất bại phải lui về. Năm sau nhà Tống sang báo thù, nhưng thủy quân không tinh nhuệ bằng quân Nam, lại thất bại lần nữa. Thường Kiệt không muốn chiến tranh kéo dài, dùng biện sĩ dàn hòa. Năm 1077 Tống lui binh, tổn thất binh sĩ, tiền của rất nhiều mà chỉ chiếm được có 5 châu miền rừng núi. Thường Kiệt lại dùng mưu kế chiếm lại 5 châu, khi thì dùng vũ lực, lúc xúi dân cướp phá, hoặc giảng hòa đòi đất... Khi đánh Tống, ông làm bài thơ khuyến khích quân sĩ, nay còn lưu truyền : Nam quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. dịch nghĩa : Sông núi nước Nam, Nam đế ở, Phận định nghìn xưa tại sách Trời. Như bọn giặc nào sang cướp lấn, Là thua tan hết lũ bay coi. (Đại Việt sử lược, tr. 159) Năm 1082, vua Nhân Tông trưởng thành, tự cầm quyền chính, cho Thường Kiệt ra trấn giữ Thanh Hóa trong 19 năm. Đến 1101, Thường Kiệt được triệu về kinh coi hết các việc trong ngoài cung điện. Năm 1104, Chiêm Thành quấy nhiễu miền nam, Thường Kiệt lúc ấy đã 85 tuổi, kéo quân vào, quân Chiêm vội lui, Thường Kiệt cũng không đuổi theo. Vua chế bài hát tán dương công trạng Thường Kiệt, lại ban thêm chức tước. Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất ở kinh đô, thọ 86 tuổi. Mộ táng ở làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Được truy phong Nhập nội điện, Đô tri Kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, cho thực ấp vạn hộ(2). * Đời Trần Phạm Ứng Mộng Sử chép năm 1253, vua Trần Thái Tông một hôm chiêm bao thấy thần nhân trỏ vào một người bảo có thể làm Hành khiển (chức Tể tướng thứ hai, chế độ nhà Lý dành cho hoạn quan). Đến năm 1254, một hôm đi chơi ngoài thành, vua gặp một người giống hệt người trong mộng bèn cho 400 quan tiền, bảo tự thiến để vào hầu, đặt tên là Ứng Mộng. Sau quả nhiên làm đến chức Hành khiển(3). Theo Samuel Baron(4) thì đời Trần có một trong ba hoạn quan danh tiếng tên là " Ong Ja Tu Lea " (" Ong Ja " trỏ vào người đáng kính) nổi tiếng vừa nhờ tài trí, thăng chức mau chóng, vừa vì cái chết bi thảm. Chính ông là người vua Trần đã thấy trong mộng và cho tiền để tự hoạn, sau làm quan càng ngày càng quyền cao, chức trọng, được mọi người kính nể, xu nịnh, sợ hãi còn hơn sợ vua. Do đó vua chán ghét, cuối cùng hạ lệnh xử tử bốn ngựa phanh thây, đem xác đốt thành tro, đổ xuống sông. Như thế thì " Ong Ja Tu Lea " hẳn là Phạm Ứng Mộng, song không thấy sử chép Phạm Ứng Mộng còn có tên là " Tu Lea ", và cũng không thấy nói Phạm Ứng Mộng bị xử tử. * Đời Lê Lương Đăng. Tháng giêng năm 1437, Vua Lê Thái Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc làm loan giá, nhạc khí, dậy tập nhạc và múa. Đến tháng 5, Nguyễn Trãi tâu : " Bọn thần sở kiến không giống nhau, thần xin trả lại mệnh ấy ". Lương Đăng dâng nhạc mới bắt chước quy chế của nhà Minh, định các nghi thức đại triều. Vua theo đề nghị của Lương Đăng, sai chép lại các nghi thức ấy treo ở ngoài cửa Thừa Thiên. Vua lễ yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy. Bọn hành khiển Nguyễn Trãi, Tham Tri hạ tịch Nguyễn Tuyển, Đào Công Soạn, Nguyễn văn Huyến, Tham nghị Nguyễn Liễu tâu : " Đặt lễ, làm nhạc, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ nhạc, cả nước chẳng nhục lắm ư ? Lễ nhạc của y không bằng cứ vào đâu, như đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay vua ra chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc vua ra, bên tả đánh chuông hoàng chung, rồi 5 chuông bên hữu ứng theo. Nay vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số nhà sư lần tràng hạt... Làm xe thì đằng trước có rèm, đằng sau mở cửa, nay mở cửa ở đằng trước, quy chế đời xưa như thế sao ?... ". Đăng tâu : " Thần không có học thuật, không biết quy chế đời xưa, nay làm ra chỉ biết hết kiến thức của thần, việc nên thi hành hay không là quyền ở bệ hạ, thần đâu dám chuyên ". Nguyễn Liễu nói : " Từ xưa chưa có hoạn quan nào chuyên phá hoại thiên hạ như thế ". Hoạn quan Đinh Thắng từ bên trong mắng ra : " Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước ". Bèn giao Liễu cho hình quan xét tội, xét án xong, tội đáng chém, vua đặc chỉ cho thích chữ vào mặt, lưu ra viễn châu(5). Vua coi chầu lúc ra lúc vào có đập roi dẹp đường bắt đầu từ đấy. Tháng 10, Lương Đăng thăng chức Đô giám. An phủ sứ Lạng Sơn, Bùi Cầm Hổ can : " Tiên đế thấy Lương Đăng biết chút chữ nghĩa cho làm nội nhân Phó chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài, không thẳng thắn, không thể gần gũi được mới cho ra làm văn đội. Thế mà nay cho lên chức quan to, xin bệ hạ nghĩ lại "(6). Lương Đăng làm quan to nhưng không tham dự triều chính, không kết bè đảng nắm giữ quyền uy, không giết hại ai, chỉ vì đặt quy chế lễ nhạc không giống với Trung Quốc mà bị các đại thần xúm nhau lại chê trách. Hoàng Công Phụ sinh quán ở Thăng Long, đẻ ra đã có khuyết tật. Năm 14 tuổi vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa tin dùng, uy quyền tột bậc. Năm 1739, Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ triệu sĩ tử vào thi ở phủ đường, cho Trịnh Tuệ đỗ Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh. Không đầy vài năm Tuệ làm đến chức Tham tụng đứng đầu các quan trong phủ chúa. Trịnh Giang mắc bệnh kinh quy, sợ sấm sét, Phụ sai đào hầm làm cung Thưởng Trì cho ở, không ra đến ngoài nữa, nói vì dâm dục quá nên ác báo. Rồi Phụ cùng Trịnh Tuệ và đồ đảng chuyên quyền, giết hại đại thần không kiêng kỵ sợ hãi ai, phủ dịch nặng nề, lòng dân oán thán. Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ở Hải Dương xui dân làm loạn, người các xứ Đông, Nam, Bắc theo rất nhiều. Năm 1740, Thái phi Vũ Thị, mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh, muốn triệt bớt uy quyền của Phụ, cho Doanh lập " Phủ đề nhiếp ". Phụ ghét Doanh sáng suốt, quả quyết, chỉ cho ở nhà nhỏ phía nam phủ chúa, lại cấm các quan không được dùng chữ " Bẩm " khi tâu với Doanh mà phải dùng chữ " Thân " (=Trình). Khi tin cáo cấp về Nguyễn Tuyển đến kinh, Phụ nghĩ Tuyển trước ở nhà mình, có quen biết, muốn thân đi vỗ yên, đem hết binh lính bản bộ theo, bỏ kinh thành trống. Bọn Nguyễn Quý Kính muốn ép Doanh lên ngôi. Nội giám Phan Lại Hầu lên tiếng hặc, Tào Thái đem sắc chỉ của vua đến, Phan đứng cạnh la trách. Đô đốc Đồng tri Trịnh Khuông mắng là vô lễ, sai giam ngục. Nguyễn Công Thái truyền ý chỉ của Thái phi, Khuê quận công Giáp Nguyễn Khoa (hoạn quan) lên lầu nổi hiệu trống, các quan lạy mừng Doanh lên ngôi. Năm 1761, Doanh đặc biệt thưởng công mười người phò lập mình, trong số đó có Giáp Nguyễn Khoa Khuê quận công được ruộng thái ấp để hưởng lộc. Không thấy sử chép số phận Hoàng Công Phụ ra sao(7). Phạm Huy Đỉnh ( ?- 1776) người xã Cao Mỗ huyện Thần Khê. Khi Trịnh Sâm còn là Thế tử, Chính phi của Trịnh Doanh là Nguyễn Thị Vinh, ngăn không cho Sâm ngồi cùng mâm với Thái tử Lê Duy Vĩ để giữ lễ vua tôi. Sâm căm giận Thái tử, sau khi lên cầm quyền, năm 1769, mưu với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái tử thông dâm với cung nhân của Trịnh Doanh, sai Đỉnh đem thân binh đi bắt. Thái tử biết, trốn vào tẩm điện của vua. Đỉnh đến Đông cung không tìm thấy, đi thẳng vào điện vua kể tội Thái tử, điệu về phủ Chúa. Sâm sai lập án, bắt vua ký, giáng Thái tử làm thường dân, giam lại. Năm 1771, lại vu cho bọn Trần Trọng Lâm, Nguyễn Hữu Kỳ...muốn cướp ngục đem Thái tử ra. Sâm sai tra tấn, Vũ Bá Xưởng đau quá nhận bừa. Thái tử bị ghép tội xử giảo. Năm 1773, Đỉnh thăng chức Thự phủ sự (Tể tướng) phủ Chúa. Lê Quý Đôn tuy tài giỏi, nhưng cả Trịnh Doanh và Trịnh Sâm đều không trọng dụng, phải kết giao với Đỉnh, sau được giữ chức Bồi tụng (Phó Tể tướng). Sâm lại nghe Hoàng Ngũ Phúc cho Đỉnh làm Hiệp đốc suất đạo Thanh Hoá, tước Công hai chữ (nhỏ hơn tước Công một chữ, như Bằng Công thì cao hơn Bằng Trung Công), phong là Đại vương. Năm 1776, Thự phủ sự Thiều quận công Phạm Huy Đỉnh mất ở Nghệ An, truy phong Phúc thần. Đỉnh là người có tính đố kỵ, hà khắc, thâm độc, nhiều lần gây ra những vụ án lớn như vụ giết Thái tử Duy Vĩ (8). Hoàng Ngũ Phúc (1713 - 1776) người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc. Lúc trẻ tự hoạn để được vào hầu trong cung. Năm 1740, giữ chức Tả Thiếu giám, tước Việp Trung hầu. Năm 1743, đề xuất 12 điều quân pháp, được Trịnh Doanh cho thi hành. Từ 1744 đến 1750, cùng Phan Đình Trọng dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu, thu phục lại Kinh Bắc. Cầu phải chạy vào Nghệ An. Phúc được phong Trấn thủ Kinh Bắc kiêm thống lĩnh Bắc đạo, tước Việp quận công. Năm 1751 đánh Nguyễn Doanh Phương, bắt được ở Lập Thạch, công bậc nhất, được phong Đại Tư đồ, Trấn thủ Sơn Nam. Đến 1765 được ban kim bài khắc bốn chữ " Dự quốc đồng hưu " (cùng hưởng yên vui, sung sướng với nước). Năm 1769 cùng Trịnh Sâm và Phạm Huy Đỉnh vu tội cho Thái tử Duy Vĩ rồi đem giết. Đến 1774, xin về hưu, được ban cho hiệu Quốc lão. Sau Sâm lại triệu ra phong Thượng tướng, sai đem 36000 quân thủy bộ đánh dẹp miền Nam, Phúc luôn luôn thắng trận, tiến đến Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan, chúa Nguyễn phải bỏ chạy. 1775 tiến vào Quảng Nam, chiếm được hai đồn Câu Dê và Trung Sơn rồi mới cho quân tạm nghỉ. Vì mắc bệnh tê liệt, được trở về Thăng Long. Trên đường về kinh sư, mất ở trên thuyền tại Vĩnh Dinh (Nghệ An) năm 1776. Hoàng Ngũ Phúc tư thế oai phong, quân lệnh nghiêm minh, hành quân rất có kỷ luật. Khi chiếm được Phú Xuân, Phúc thu nhặt những thứ quý giá dâng chúa Trịnh, còn thì niêm phong. Thuộc hạ Thế trung hầu Hoàng Đình Thể cướp của dân, Phúc sai Uông Sĩ Điển tra hỏi, đem trả lại dân rồi không bàn đến chuyện thưởng công đánh được Lũy Thầy. Với Nguyễn Nhạc, Phúc tỏ ra viên tướng biết quyền bính, thay triều đình làm tờ hiểu dụ, ban cho Nhạc mũ áo... Khi Phúc đi Nam chinh, Sâm mấy lần gửi trát thăm hỏi, đưa chỉ dụ khen, thưởng vàng bạc, quần áo đồ dùng, sâm quý vài mươi lạng, cho chạy ngựa trạm đem đến. Lại thăng cho làm Đại Trấn thủ Thanh Hoá... Phúc ốm nặng còn gửi khải về tâu bàn với Chúa khoan đánh Quảng Nam, hãy cho quân sĩ nghỉ ngơi vài năm, Sâm nghe theo. Khi Phúc mất, Sâm bãi chầu. Phúc có tiếng là người cẩn trọng, việc lớn nhỏ trong quân đều tự mình xem xét, dụng binh không cậy may rũi, xử sự quả quyết, trung tín, rất được lòng người. Nguyễn Hữu Chỉnh coi Phúc là quan thầy. Phúc không có con, nuôi người cháu là Hoàng Đình Bảo (tức quận Huy) làm con nuôi. Bảo lại lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Vây cánh, thuộc hạ của Phúc đầy triều, quyền uy lừng lẫy đến nỗi dân chúng đồn là Phúc muốn cướp ngôi để lập " Triều đình Hoàng thị " sau này truyền cho Bảo, đặt ra những lời sấm truyền : " Thổ sất vân yểm nguyệt " = con rể là đám mây che mặt trăng (chỉ chữ " tế " = con rể, tức Hoàng Đình Bảo). " Hoàng hoa nhật điệu hương " = hoa vàng càng ngày càng tỏa hương thơm (chỉ chữ " Việp ", tức Hoàng Ngũ Phúc). Còn có câu " Một lợn đuổi đàn dê " vì Bảo tuổi hợi (con lợn) còn Sâm và Khải đều tuổi mùi (con dê) ; Bảo trước tên là Đăng Bảo, có thể hiểu là "lên ngôi vua ", Phúc muốn tránh hiềm nghi cho đổi ra Tố Lý, sau mới đổi lại thành Đình Bảo. Phúc là một viên tướng lỗi lạc, chiến công, danh vọng nhiều, đối với chúa Trịnh tỏ ra hết lòng trung trực, duy có chuyện nhúng tay vào vụ giết Thái tử Duy Vĩ là một hành động không được quang minh. Sau khi chết được truy tặng Thượng đẳng Phúc thần(9). * Đời Nguyễn Lê văn Duyệt (1763 - 1832) sinh quán làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Năm 1780, Nguyễn Ánh biết Duyệt có khuyết tật, sung làm Thái giám nội dinh. Năm 1800, Duyệt dùng hỏa công đốt thuỷ trại Tây Sơn ở cửa bể Thị Nại, thu phục Qui Nhơn. 1812, làm Tổng trấn Gia Định cho đến 1816 thì về kinh. 1820 lại ra giữ chức Tổng trấn Gia Định cho tới khi mất. Duyệt là một viên tướng tài, giúp Chúa Nguyễn Ánh đánh Trịnh, dẹp Tây Sơn, biết quyền biến. Tuy có tính trực ngôn nhưng ngoại giao cũng khôn khéo. Khi sứ Xiêm đến Hà Tiên, năm 1820, không chịu trình quốc thư, lời lẽ có chỗ không hợp lệ, triều đình giao cho ông tuỳ nghi hành sự, ông bắt bẻ, sứ Xiêm phải nhận lỗi và nhất nhất vâng lời. Sứ Xiêm đem vàng bạc tặng, ông không nhận(10). Là một nhà chính trị xuất sắc, ông rất được lòng dân, người ta tôn xưng ông là Đức Thượng công. Cả hai vua Gia Long và Minh Mệnh đều biệt đãi ông. Khi cha ông tạ thế, năm 1827, triều đình không những gia phong chức tước, ban tiền bạc, còn sai quan đến tế và 300 lính hộ tang. Khi ông ốm ở Gia Định, cũng được tạm nghỉ việc để điều dưỡng, lại cho phép con ông là Kiêu kỵ đô uý Lê văn Yến đi thăm nom. Theo người Pháp thì khi vua Gia Long mất, ông có ý muốn tôn phò dòng chính thống, hậu duệ của Hoàng tử Cảnh, lại khi vua Minh Mệnh lên cầm quyền, ông khuyên can không nên bạc đãi những công thần người Pháp nên bị vua để bụng ghét. Sau khi ông mất, năm 1833, vua giao cho triều đình nghị tội mưu phản, san bằng ngôi mộ, dựng bia đeo xiềng mang hàng chữ " Quyền yêm Lê văn Duyệt phục pháp xử " (= tên hoạn quan Lê văn Duyệt chịu phép nước ở đây). Sau dân chúng đổ cho là vì xúc phạm đến mộ phần của ông nên Trời ra tai, nên đến 1835, vua Tự Đức cho ông phục chức Vọng các công thần Chưởng tả quan, Bình tây tướng quân, tước quận công và được thờ trong miếu Trung Hưng công thần. Lăng ông ở Gia Định (11). II.- Chức vụ và phẩm phục A/ Chức vụ Trên nguyên tắc, hoạn quan chỉ giữ những công việc hầu hạ trong cung. Michel Đức Chaigneau kể khi lên 8 tuổi được triệu vào cung gặp hoàng hậu và các phi tần của vua Gia Long, do một viên hoạn quan dẫn đường. Viên này mặc một chiếc áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản, cung kính đi sau một quãng chứ không dám đi ngang hàng. Lần thứ nhì, khoảng hai chục tuổi, sau khi ở Pháp trở lại Việt Nam, Michel Đức lại được vua Minh Mệnh triệu vào cung hỏi han chuyện nước Pháp. Michel Đức liếc thấy trong phòng có một bọn " đầy tớ " chừng 15-20 tuổi, đứng ở góc phòng, tựa lưng vào tường đợi lệnh. Hễ vua ra hiệu thì lập tức quỳ dâng điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút thử vài hơi...
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:26:33 GMT 9
Theo S. Baron, chúa Trịnh rất ưa hoạn quan. Những người này sau khi phục vụ độ 8 năm trong triều liền được cất nhắc ra giữ những chức quan trọng, có khi lấn át cả các đại thần có thực tài.
Riêng chúa Trịnh Khải thì sự liên hệ với quan hoạn không phải là ít. Nguyên mẹ Trịnh Khải là Dương thị Ngọc Hoan không được Trịnh Sâm ưa. Một hôm nằm mơ thấy thần nhân cho một tấm đoạn có vẽ đầu rồng, tỉnh dậy kể cho hoạn quan Khê Trung hầu Chu Xuân Đán nghe. Hầu cho là điềm sinh quý tử, có ý giúp đỡ. Khi Sâm cho đòi Ngọc Khoan (cũng có chỗ chép là Ngọc Hoàn) vào chầu, Hầu giả cách nghe nhầm đưa Ngọc Hoan tới, Sâm không nở đuổi về, sau trách mắng thì Hầu đem chuyện kể lại, Sâm nín lặng. Sau đó Ngọc Hoan có thai sinh ra Trịnh Khải nhưng Sâm vẫn không ưa, trù trừ không muốn lập làm thế tử, chỉ định cho hoạn quan Nguyễn Phương Đỉnh làm Bảo phó... Khi Trịnh Khải mưu cướp ngôi Trịnh Cán, Sâm sai Ngô Thời Nhậm cùng bọn hoạn quan Ngạn Trung Hầu, Đường Trung Hầu, Án Trung Hầu cùng tra án(12).
Người ta trách hoạn quan chỉ nhờ xiểm nịnh được lòng vua chúa, rồi nắm quyền chính, tác oai tác phúc...song ta đã thấy Lương Đăng làm quan to nhưng không hề tham dự quốc sự, gây bè đảng làm mưa làm gió, mà chỉ hoàn tất việc quy định mũ áo và lễ nhạc, song vẫn bị các đại thần chê trách.
Trong Vũ Trung Tuỳ Bút có Tả Chí Hầu cũng là hoạn quan có thực tài, hiểu thuật bóp gân xương, biết hát xướng, xem tướng, vẽ truyền thần giỏi.
Những hoạn quan tiến cống cho Trung Quốc có một số được sử sách nhắc đến :
Minh Thái Tổ bắt ta cống nộp sư sải, gái đẹp biết đấm bóp và hoà giả (hoạn quan), sau thả sư và gái đẹp về chỉ giữ lại hoạn quan và đãi rất hậu. Năm 1405, Minh Thành Tổ mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán, Nguyễn Trung, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân thuộc bọn Nguyễn Toán (13).
Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Trung Quốc không phải toàn bọn bán nước lập công mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An.
Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những văn nhân Giao Chỉ cất nhắc cho giữ chức Tri huyện hay Tri phủ, lập tuyển bọn trung quan (hoạn quan) lấy người ngay thẳng, trung hậu, mẫn cán, thông suốt, cho hầu nội cấm sảnh. Trần Vũ được tuyển vào hầu Tuyên Công, thăng chức Thái giám, sau cho đổi tên thành Vương Ngọc Cận, đi theo vua đánh Cao Hú (tức con Minh Thành Tổ, làm phản) có công to được ban đai ngọc, yên vàng, ngựa tốt, vàng lụa...lại đúc bốn quả ấn vàng khắc những chữ " Trung can nghĩa đảm " (lá gan trung thành, quả mật nghĩa khí), " Kim điêu quý khách " (quý khách đội mũ điêu vàng, tức mũ hoạn quan có con ve bằng vàng), " Trung thành tự lệ " (tự mài dũa lòng trung), " Tâm tích song thanh " (bụng dạ và hình tích đều trong sáng).
Theo Hoàng Minh thông ký có Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông) là người giản dị, khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết, giỏi về mưu mẹo, tính toán, rất sở trường những công việc xây dựng. Việc tu tạo thành Bắc kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ ra rất có công lao. Các tơ tào trong bộ Công chỉ việc theo kế hoạch của An mà làm. Bình sinh được vua ban cho thứ gì đều đem nộp lại kho công không sót một li (14).
Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mệnh thấy các hoạn quan đời trước chuyên quyền, lũng đoạn triều chính (có người nói vì vua ghét Lê văn Duyệt) nên năm 1836 hạ lệnh từ nay hoạn quan không được giữ những chức phẩm như các quan đại thần, làm quan cũng không được quá tứ phẩm. Sắc lệnh này được khắc bia đá để trước Quốc Tử Giám, đến năm 1918 vẫn còn ở cạnh Văn Miếu.
Vua lại đặt ra những chức tước riêng biệt dành cho hoạn quan :
Hạng Chức Lương tháng Bát gạo quan tiền Hạng nhất Thủ đẳng Quảng Vụ và Điển sự Thái giám 48 72
Hạng nhì Thứ đẳng Kiểm sự và Phụng nghi Thái giám 36 60
Hạng ba Trung đẳng Thừa vụ và Điển thảng Thái giám 36 48
Hạng tư Á đẳng Cung sự và Hộ Thảng Thái giám 24 36
Hạng năm Hạ đẳng Cung phụng và Thừa biện Thái giám 24 24
3 hạng trên có quyền xin chức Nhiêu phụ cho cha, và chức Miễn nhiêu cho an hem hay cháu trai, hạng 4 và 5 chỉ được xin Miễn nhiêu.
Vua Thành Thái không ưa hoạn quan nên thay thế bằng cung nữ. Khi vua ngự thiện (ăn) thì đầu bếp dâng mỗi người một món, đưa cho Thị vệ đem đến cho nội giám, những người này lại chuyển giao cho cung nữ quỳ dâng(15).
B/ Phẩm phục * Đời Trần Sách Toàn Thư chỉchép hoạn quan đời Trần mặc áo xanh và từ 1306 dùng quần hai ống chứ không dùng xiêm nữa.
Trong An nam chí lược (tr. 222) Lê Tắc viết cặn kẽ hơn :
Các nội quan Thượng phẩm đội mũ dương thường đính ong bướm vàng, mặc phẩm phục. Bình thường thì đội khăn nhung mầu tía xen mầu biếc, làm 6 tua kết sau khăn ; đai thắt ngang để tỏ vẻ quan quý.
Hạng Trung phẩm mũ áo sắc chế hơi giảm. Thường phục thì khăn kết tua mầu tía.
Hạ phẩm đội mũ dương thường tía, áo tía ; khăn ngày thường có tua đen, dát ngọc, vàng, đồi mồi.
Không dùng hốt.
Chắp tay lạy vua.
* Nhà Lê quy định y phục hoạn quan rất rõ ràng. Theo Lê triều chiếu lịnh thiện chính thì các chức Tổng Thái giám, Đô Thái giám, Quản đốc ty nội giám, tước quận công ăn mặc như sau :
- Vào chầu vua đội mũ cánh chuồn, mặc áo mầu hồng, bố tử thêu hổ báo (như các hoàng tử, vương tử tước quận công), đai dát đồi mồi bịt bạc, chân đi hia tất.
- Vào chầu phủ Chúa đội mũ ô sa(16) áo lam có vạt che sau, giây lưng kép dát ngọc.
- Đưọc đem theo hai người hầu.
- Khi đi đường khăn chít một, võng ba đòn sơn đen, yên ngựa sơn tía thếp thau.
Đi ra ngoài thành thêm một lọng mầu xanh, vẽ hoa xanh có ngù rủ.
- Áo mặc thường, bằng gấm vóc các mầu, hòm áo sơn son thếp vàng một vạch, hòm mũ sơn đen thếp chỉ vàng.
Cấm không được vẽ rồng, phượng, kỳ lân.
Mâm, án thư bằng tre đan, thếp chỉ bạc
Bát đĩa Tầu bịt thau.
*Thời nhà Nguyễn theo sắc lệnh của vua Minh Mệnh thì mũ áo hoạn quan như sau :
- Áo mầu lục cho các quan cao cấp, mầu lam cho những người chức thấp, bố tử mầu đỏ thêu hoa xanh lục.
Các Thái giám thời xưa đeo một vòng lụa trắng rủ xuống hai bên ngực đến tận thắt lưng, sau này chỉ đeo một thẻ bài ngà khắc rõ chức phận.
- Mũ Thái giám bằng phẳng ở trên đỉnh và hình bầu dục (khác với mũ các quan triều hình tròn và nóc khum khum) có dát vàng bạc theo chức tước và đính một quả bông.
Theo Hậu Hán chí, thời xưa mũ hoạn quan có tua vàng điểm một con ve sầu và một cái đuôi chuột, ngụ ý rằng ve sầu thanh khiết chỉ sống toàn bằng sương sớm, còn chuột thì có thể len lỏi vào tất cả những chỗ rất kín đáo trong thâm cung.
Viên hoạn quan mà Crawfurd đã gặp năm 1822 (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) tuy giữ chức " Governor " (Tổng trấn ?) nhưng ăn mặc rất đơn giản : áo lụa trắng trơn và khăn nhiễu cũng mầu trắng.
III.- Đời sống Hoạn quan có hai loại :
- Một loại sinh ra đã có khuyết tật hay bị tai nạn, như chó cắn, mà thành tật. Người xưa tin rằng những người này có số làm quan to.
- Loại thứ nhì tự hoạn hay do cha mẹ đem con ra thiến.
Hạng thứ nhất, khi đứa trẻ sinh ra thấy có tật, thì gia đình hay xóm làng liền khai trình xin cho lớn lên được sung chức nội thị. Khoảng 10 tuổi đứa trẻ được tiến cung, giao cho các hoạn quan già huấn luyện công việc chầu hầu trong cung.
Hạng thứ nhì thì từ triều Lý đã có lệnh nghiêm cấm : Năm 1162, xuống chiếu kẻ nào tự thiến xử 80 trượng, thích 23 chữ vào mặt.
Quốc triều hình luật thời Lê cũng chép : " Ai tự hoạn xử tội lưu, ai thiến hộ hoặc chứa chấp giảm tội một bậc, xã quan không phát giác xử tội đồ (giam cầm làm khổ sai)(17).
Sở dĩ có lệnh nghiêm cấm như thế vì hoạn quan có thể giữ những chức vụ trọng yếu, có nhiều quyền uy, giúp đỡ gia đình hay xóm làng được nên nhiều người ham. Lê triều chiếu lịnh thiện chính cho biết các nội giám sung chức Thái bảo, Thái sư, Thiếu sư, Thái phó, Thiếu phó với tước quận công thì 8 người con được phong là Quan viên tử, 7 người cháu được phong là Quan viên tôn(18).
Đọc đến đây hẳn ai cũng lạ : đã là hoạn quan sao lại có con ? Hiển nhiên trường hợp này xẩy ra đủ nhiều để có cả một đạo luật dành cho con cháu hoạn quan. Cương mục chẳng hạn chép năm 1480 khi Nghi Dân nổi loạn, nội quan Thị hậu Phó chưởng Đào Biểu tử tiết, gia sản bị sung công. Khi Thánh Tông lên ngôi, truy tăng Đào Biểu một tư, ban cho 5 mẫu tư điền để cúng tế, lại trả điền sản bị tịch thu trước cho vợ con(19).
Có lẽ những người này, như Lý Thường Kiệt, đã lấy vợ trước khi tự hoạn, hoặc cũng muốn có gia đình riêng, lấy một cung nữ đã bị thải hay lấy con nhà hàng phố rồi nuôi con nuôi. A. Laborde kể chuyện ở Huế xưa có một thiếu phụ lấy chồng hoạn quan nhưng ngây thơ không hiểu chồng mình bất bình thường, mãi đến khi chồng chết, đi cải giá mới rõ và đem chuyện mình tâm sự với một vài người bạn.
Cũng theo Laborde, có một viên Đội Thị vệ bị án tử hình vì ăn ở với một hoạn quan và...sinh ra một đứa con !
Chúa Trịnh dùng tới 4-5000 hoạn quan nhưng đến đời vua Thành Thái nhà Nguyễn vì không ưa hoạn quan nên số người hầu cận vua trước có 15 sau chỉ còn 9. Đến năm 1918 lại có lệnh cấm bổ dụng thêm hoạn quan mới, những người cũ cho tiếp tục giữ chức.
* Tướng mạo và tính tình dáng điệu ẻo lả như phụ nữ, và tính tình khó thương, ngạo mạn, vô lễ...dường như để bù lại những mặc cảm tự ty. Sau đây là hoạn quan nhìn qua con mắt các chứng nhân Việt cũng như ngoại quốc :
- Năm 1778, Chapman, một người do công ty Ấn độ của Anh gửi sang, đã gặp ở Huế một viên hoạn quan giữ chức " Quan Tam Quon ", quyền uy vượt cả viên " Viceroy " (Tổng trấn ?). Viên này có tánh hay hoạnh hoẹ, khinh người. Trước hết bắt Chapman phải đứng chờ ngoài cổng cả nửa giờ mới cho vào nhà. Vào rồi cũng không thèm ra tiếp ngay, chỉ ở trong nhà hỏi vọng ra mấy câu, mãi sau mới cho cuốn rèm lên và Chapman thấy dưới ánh nến vàng vọt một đống thịt lù lù, dị dạng, người có vẻ thấp lùn, má xệ xuống...Khi Chapman phàn nàn những người dưới quyền mình bị ngược đãi, viên Tổng trấn xin lỗi rằng ông không có quyền hành gì, mọi sự cứ điều đình thẳng với viên hoạn quan. Viên này tỏ ra rất vô lễ, chửi rủa và còn sai đem tặng vật của Chapman, một chiếc đồng hồ, ra trả lại nói rằng đồng hồ đã vỡ, trở nên vô dụng(20).
Ngày 2/9/1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức " Governor of Saigon " (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) và tả một cuộc gặp gỡ khá tường tận : " Giữa phòng, trên một cái sập cao hơn thường lệ, là viên " Tổng trấn " ( ?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi chào, ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó người ta chỉ cho chúng tôi ngồi xuống dẫy ghế bên phải ông ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì trong phòng, những người khác đứng đằng sau hoặc ngồi trên một cái sập khác. Viên " Tổng trấn " già là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu ớt như đàn bà, nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta có vẻ không quan tâm mấy tới y phục, chỉ mặc một áo lụa trắng trơn và đội một chiếc khăn nhiễu rộng bản cũng mầu trắng ". Crawfurd đem lễ vật ra tặng nhưng viên " Tổng trấn " từ chối nói rằng hai bên đang ở thế điều đình, tặng lễ vật bây giờ quá sớm, ông không thể nhận. Crawfurd rất phục tư cách viên " Tổng trấn " khi đem ông ta ra so sánh với các quan chức người Xiêm. Nhưng vừa về đến nhà thì thấy "Tổng trấn" sai người đem thực phẩm tới tặng : trâu, dê, lợn, gạo vv... và nhân thể cho biết lúc nẫy quan " Tổng trấn " không tiện nhận quà trước mặt công chúng nhưng ngài rất vui lòng nhận mấy khẩu súng và cái ống viễn kính mà Crawfurd định biếu(21).
Phạm Khắc Hòe, trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc kể rằng tháng 8 năm 1945, khi ông đi chào bà Từ cung để ra Hà Nội, thì đột nhiên một viên Thái giám già chạy đến trước mặt sụp lạy. Viên này mặt xanh như tàu lá, đầu bạc, cằm không râu, má nhăn nheo, miệng xệ xuống, mắt rưng rưng, cất giọng khàn khàn hỏi về số phận của mình sẽ được định đoạt ra sao? có được lĩnh lương tháng 8 hay không ? sau này sẽ làm gì ?... Hỏi ra mới biết viên này do cha mẹ thiến từ năm 12 tuổi, đời vua Thành Thái, đã gần 50 năm. Khi mới vào cung được học Tứ thư, Ngũ kinh, tập làm việc vặt, đến 20 tuổi sung chức Thừa Biện Thái giám, năm 1945 giữ chức Phụng nghi Thái giám. Nhiệm vụ chính là chuyển đạt mệnh lệnh của vua tới phi tần và khi vua ngự tới bà nào thì ghi chép ngày giờ cho đúng để phòng việc tranh chấp về sau. Từ khi vua Khải Định mất thì không phải làm việc này nữa, chỉ còn nhiệm vụ chầu hầu bà Từ cung, giúp đỡ các phi tần trong việc cúng bái, tu hành và liên lạc với bên ngoài.
Năm 1958, cụ Vương Hồng Sển đi thăm lăng Diên Thọ (Gia Long) nhằm ngày lễ Thanh minh, tình cờ được chứng kiến một buổi tế lễ và liếc thấy nơi gian nhà sau chỗ tế có một nhóm quan thị "rất đông", mặc áo màu lam, đang đứng chờ tế lễ xong thì chia phần, có người đã già sụm, kẻ còn sồn sồn, người nào cằm cũng nhẵn thín không một sợi râu.
Hoạn quan không phải người nào cũng xấu xí, ẻo lả. Trong Vũ Trung tuỳ bút, Phạm Đình Hổ cho biết Tả Chí Hầu, nội thị thời Trịnh Khương (Giang) "tướng mạo hùng vĩ, phảng phất giống Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc".
A. Laborde đã chụp được ảnh một viên hoạn quan 62 tuổi, một trong những người có địa vị quan trọng hồi đầu thế kỷ XX, trông coi một cái lăng, giữ gìn đồ thờ cúng và phát lương cho 9 người cung nhân già ở đó. Tiếc rằng Laborde không cho in ảnh viên hoạn quan mà chỉ cho biết mặt mũi viên này giống mặt bà già, vú cũng xệ xuống như ngực bà già.
* Cung giám viện Khi các hoạn quan không phải hầu chầu thì có quyền rút về Cung giám viện. Viện này gồm 9 gian, cũng là nơi ăn học của các nội giám tr
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:29:21 GMT 9
Cung giám viện Khi các hoạn quan không phải hầu chầu thì có quyền rút về Cung giám viện. Viện này gồm 9 gian, cũng là nơi ăn học của các nội giám trẻ và là chỗ trú ngụ của gia đình hoạn quan tới thăm. Năm 1918, viện đã đổ nát chỉ còn nhà bếp, một cái miếu thờ thần và cái cổng mang hàng chữ " Cung giám viện môn ". * Chùa Từ Hiếu Chùa xây trên một chiếc đồi nhỏ, trên đường đi đến lăng Tực Đức, khuất sau một lùm cây. Khung cảnh rất tĩnh mịch và tuyệt đẹp có suối chảy, có thông reo, chim hót, dế kêu. Bia dựng ở cổng chùa cho biết đây thuộc làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên, núi Ngự Bình ở phía Đông Nam, Hương Giang ở Tây Bắc. Chùa do thiền sư Nhật Định tạo dựng, sau có ba viên nội giám về hưu đến trú và xin được triều đình trợ cấp nhiều tiền. Đến 1893, các hoạn quan tự đóng góp tiền xây lại chùa, mở rộng ra và dùng làm nhà dưỡng lão cùng nơi thờ cúng những hoạn quan đã mất. Bia dựng ở chùa ghi : " Khi còn sống chúng tôi đến chùa tìm yên tĩnh, khi ốm đau chúng tôi về đây dưỡng bệnh và sau khi chết chúng tôi cùng được chôn cất với nhau ở đây. Dù sống hay chết, chùa cũng là nơi yên nghỉ của chúng tôi " (22). * Nghĩa địa Ngay cạnh chùa là nghĩa địa của hoạn quan. Những ngôi mộ ở đây được xây cất cân đối nhau chung quanh một cái sân gạch. Năm 1918, khi Laborde tới thăm, có tất cả 18 ngôi mộ nhưng chỉ có 9 ngôi đã xây, những cái kia còn để ngỏ. * Tháp Bồ Đề Trước cửa chùa có tháp Bồ đề do thiền sư Từ Hiếu xây từ năm 1896 với sự giúp đỡ của các hoạn quan, xin được tiền trợ cấp của Thái phi. Tháp dựng để chứa những pho tượng vỡ hay những quyển kinh đã cũ nát mà người ta không được vứt đi, phải để cho chúng tự mục nát dần. Tháp chỉ có một cửa ở từng thứ hai, muốn ném bỏ vật gì vào tháp phải bắt thang. Tháng giêng, 1994 IV.- Chú thích 1. Toàn Thư I, tr. 190. Đại Việt Sử lược tr. 117 chép là cửa Quảng Phúc, chứ không phải Quang Phục, nằm ở phía tây Long Thành, cửa Đại Hưng phía nam, cửa Tường Phù phía đông, cửa Diệu Đức phía bắc. 2. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt 3. Cương Mục V, tr. 30 và Toàn Thư II, tr. 25 4. S. Baron, tr. 64 5. Đến 1442, Đinh Thắng cũng bị giết vì trước khi chịu tử hình Nguyễn Trãi tỏ ý hối tiếc đã không nghe lời Đinh Thắng, Đinh Phúc. 6. Cương Mục IX, tr. 67 và Toàn Thư III, tr. 112-125. 7. Cương Mục XVII, tr. 31 và Tục Biên tr. 159 và Vũ Trung tuỳ bút. 8. Cương Mục XIX, tr.32 và Tục Biên tr. 329. Hoàng Lê nhất thống chí chép là Nguyễn Quang Đỉnh. 9. Tục Biên tr. 329-404, Cương Mục XIX, tr. 56-7. 10. Nếu Lê văn Duyệt đúng là viên "Governor" của Saigon mà Crawfurd đã gặp năm 1822 thì sự thanh liêm, không nhận lễ vật, chỉ là bề ngoài. (Xin xem phần III, Đời sống). 11. Đại Nam thực lục chính biên V, tr. 132. Laborde, " Les eunuques à la cour de Huê ", BAVH Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển. 12. Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 17. 13. Toàn Thư II, tr. 216. 14. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, tr. 254-56. 15. P. Pasquier, L?Annam d'autrefois, tr. 81. 16. Mũ ô sa kết bằng tóc có thêu chữ nổi màu đen (Lê triều chiếu lịnh thiện chính, 199). 17. Quốc triều hình luật, tr. 119. 18. Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr. 29. 19. Cương Mục X, tr. 63-4. 20. A. Lamb, tr. 112-18. 21. Crawfurd, tr. 216-17. 22. A. Laborde, " Les eunuques à la cour de Huê ". V.- Sách tham khảo : - BARON Samuel, Description du royaume du Tonkin, traduit par H. Deseille. - CHAIGNEAU Michel Đức, Souvenirs de Huế, Paris 1867. - CHAPMAN " The Chapman mission, 1778 ", trích trong The mandarin road to old Huế của A. Lamb, London, Chatto & Windus, 1970. - CRAWFURD John, Journal of an Ambassy from the Governor General of India to the Courts of Siam and Cochinchina. London: Henri Colburn, 1828. - HOÀNG Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Saigon, Viện Đại học tái bản lần thứ nhất, 1966. - LABORDE A., Les eunuques à la cour de Huế, Bulletin des amis du vieux Huế, N°2, 5è année, Avril-Juin 1918. - LÊ Quý Đôn, Kiến văn tiệu lục, Hà Nội : KHXH, 1977. - NGÔ Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, KHXH, 1993. - NGÔ Thì Chí, Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố. Saigon : Phong trào Văn hoá tái bản, 1969. - NGUYỄN Huyền Anh, Việt Nam danh nhân từ điển, Zieleks, 1981. - PASQUIER P., L'Annam d'autrefois, Paris : Société des éditions, 1929. - PHẠM Đình Hổ, Vũ Trung tuỳ bút, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch, Đông Nam Á tái bản. - PHẠM Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt bắc, Huế : Thuận Hoá, 1987. - TÔN NỮ Quỳnh Trân chủ biên, Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh : Văn hoá Thông tin, 1993. - TRƯƠNG Hữu Quýnh, PHAN Đại Doãn, Danh nhân lịch sử Việt Nam, I, Hà Nội : Giáo dục, 1987. - VƯƠNG Hồng Sển, Hơn nửa đời hư. Hồ Chí Minh : Tổng Hợp, 1993. 1. Đại Nam thực lục chính biên, Hà Nội, Viện Sử học, 1962-78. 2. Đại Việt sử ký tục biên. Hà Nội : KHXH, 1991. Dịch giả : Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hưng. 3. Đại Việt sử lược. Dịch giả : Nguyễn Gia Tường. Hồ Chí Minh, 1993. 4. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Hà Nội : Viện sử học biên dịch, 1960. 5. Lê triều chiếu lịnh thiện chính. Saigon. Trường Luật khoa, 1961. Dịch giả : Nguyễn Sĩ Giác. 6. Quốc triều hình luật, Hà Nội : Pháp lý, 1991. Dịch giả : Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhị.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 13:38:57 GMT 9
Tả quân Quận công Lê Văn Duyệt:Tả quân Quận công Lê Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thâu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng). Tiểu sử: Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 trong vùng thôn dã gần vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh, châu Định Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời, cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng (nay thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Sự nghiệp: * Chống Tây Sơn Lê Văn Duyệt trên mặt trước tờ 100 đồng in năm 1966 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.Khi Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy vào Nam có ngụ tại nhà thân sinh của ông là Lê Văn Toại, nhân đó ông được Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái giám năm ông 17 tuổi. Ít lâu sau Lê Văn Duyệt được phong làm Cai Cơ trông coi nội binh. Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của Nguyễn Phúc Ánh. Năm 1793 Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Thành, Võ Di Nguy và Võ Tánh theo Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông đã cùng Nguyễn Phúc Ánh và các tướng Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to trong trận này. Tháng 4 Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5 Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân. Tháng 5 năm 1802 sau khi lên ngôi, vua Gia Long phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân tiên phong đánh ra Bắc thu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, vua Gia Long đã thu phục được Bắc Hà. Đại thần nhà Nguyễn Tả quân Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định Thành hai thời kỳ: từ 1813 đến 1816. Năm 1813 ông lãnh chức Tổng trấn Gia Định Thành, kiêm trông coi luôn cả Bình Thuận và Hà Tiên. Đến năm 1816 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử. Lần thứ nhì từ năm 1820 cho đến khi mất. Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia Định Thành rất uy quyền, lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là "ông Lớn Thượng". Đương thời các nước lân cận đều sợ oai phong của Lê Văn Duyệt, gọi ông là "Cọp Gấm Đồng Nai", một trong ngũ hổ tướng từng là tổng trấn Gia Định Thành (bốn người còn lại là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Kiến Xương Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức và Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu). Lê Văn Duyệt đã thành lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và "Giáo dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương và nghề nghiệp. Thành Phiên An (tức thành Gia Định) do Lê Văn Duyệt cho xây đắp thêm, đến năm 1830 thì xong. Thành được xây bằng đá ong, thành cao và rộng nên khi Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, khởi loạn chiếm thành, quân triều đình vây đánh 3 năm mới hạ được. Hằng năm ông tổ chức hai lễ lớn: lễ triều kiến vua và lễ duyệt binh. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán vua Cao Miên phải sang chúc thọ vua Việt Nam tại thành Phiên An. Cứ ngày 30 Tết vua Miên phải có mặt tại thành để ngày hôm sau cùng Tả Quân trấn hành lễ chúc thọ tại Vọng Cung. Ngoài ra ngày mồng sáu tháng Giêng thì tổ chức lễ "xuất binh" để thị oai với các nước láng giềng và để nhân dân an tâm vì thời đấy người dân tin rằng đầu năm có diễn oai binh lực thì sẽ được bình an suốt năm vì tà ma quỷ mỵ đều sợ oai phong của Tả Tướng Quân. Khi còn tại vị, Lê Văn Duyệt cũng là người tiến hành thẩm vấn và tra khảo Nguyễn Văn Thành, Tổng trấn Bắc Thành. (xem thêm Nguyễn Văn Thành). Ông qua đời tại thành Gia Định vào đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (tức 28 tháng 8 năm 1832), thọ 69 tuổi. Đời tư: Lê Văn Duyệt là người ái nam ái nữ bẩm sinh chứ không phải tự hoạn để làm thái giám. Thuở trẻ, ông thích đá gà, nuôi gà chọi. Ngoài ra, ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu. Sau này, do ông lập được nhiều công lao, khi lên ngôi, vua Gia Long đã gả một người cung nhân tên là Đỗ Thị Phẫn (hay Phấn) về làm vợ ông, dù ông là người yêm hoạn. Vụ án Lê Văn Duyệt Minh Mạng làm án - Vua Minh Mạng và tả quân Lê Văn Duyệt vốn có nhiều hiềm khích và tư thù: Lê Văn Duyệt đã cho xử chém Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quí phi được vua Minh Mạng sủng ái. Lê Văn Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh khi vua Gia Long băng hà. Ông tỏ ý ủng hộ các nhà truyền đạo Cơ đốc Châu Âu làm nghịch ý vua Minh Mạng. Do từ tiền triều đã được hưởng quyền "nhập triều bất bái" (vào triều không phải lạy) nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng Lê Văn Duyệt nhiều lần vượt quyền, hoặc làm sai ý triều đình trung ương đặc biệt là sau khi vua Gia Long qua đời. Dù không ưa Lê Văn Duyệt nhưng vua Minh Mạng không dám làm gì Lê Văn Duyệt vì công lao và uy quyền quá lớn của ông với triều đình. Từ khi con nuôi ông là Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt, dù ông đã mất. Năm 1835, sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt ở Đô Sát Viện dâng sớ kể tội Tả quân, xin truy đoạt quan chức, vợ con phải giải về Hình bộ xét tội. Minh Mạng dụ cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Tả quân có sáu điều, được vua ưng chuẩn giao đình thần kết án. Án nghị Tả quân có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân. Bản án nghị có đoạn: “Sự biến Phiên An, hắn thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng trì, song hắn đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, phá bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như ông bà đời trước, ông nội bà nội, cha mẹ của hắn nếu được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt cả, mồ mả cha mẹ có tiếm dụng phong cáo trái phép nào thì đục bỏ bia đi”. Nghị án đưa lên, Minh Mạng ra dụ có đoạn rằng: “Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công. Vậy cho tổng đốc Phiên An (Gia Định) đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: “Đây chỗ tên lại cái lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước”. Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng và bị xiềng xích. Các ngôi mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Phục hồi danh dự Đến năm Tân Sửu (1841) vua Thiệu Trị lên ngôi, biết vua cha làm tội oan Lê Văn Duyệt, nên xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội cùng xiềng xích và cho xây đắp cả lại. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho tu bổ lại đền thờ cạnh mộ tại vùng Bà Chiểu, nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Khu mộ Lê Văn Duyệt vừa được "tân trang" vào đầu năm 2009.Đến năm 1841 vua Thiệu Trị xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội và xiềng xích, cho xây đắp lại mộ mà ngày nay còn thấy ở Bà Chiểu, quận Bình Thạnh, Sa`i go`n. Đến đời vua Tự Đức lại cho đắp mộ tại Gia Định cao rộng thêm và cho tu bổ lại đền thờ cạnh mộ, nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Năm 1848 Tả quân được truy phục Vọng các công thần, chưởng Tả Quân Bình Tây Tướng quân Quận Công và được đưa vào miếu Trung Hưng Công Thần. Trong đền thờ ở giữa là bài vị Khâm Sai Đại Thần, Quản Bình Tây Đại Tướng Quân, bên trái có bài vị Quận Công chi thần vị. Theo nhiều nhà nghiên cứu trước đây nhận định thì ngôi mộ thực của Tả Quân Lê Văn Duyệt nằm ở Tiền Giang: "Theo lời các cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp, còn hài cốt thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Huỳnh Minh, Gia Định xưa, NXB Thanh Niên in lại năm 2001, trang 53.) Mới đây (tháng 4 năm 2006), sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã đưa ra kết quả ngược lại. (Theo Wikipedia) LĂNG ÔNG BÀ CHIỂU Nơi thờ cúng Đức Thượng Công Tả Quân Lê Văn Duyệt thường được gọi là Lăng Ông, Lăng Quan Lớn Thượng, Lăng Ông Bà Chiểu. Nơi đây bao gồm cả lăng mộ lẫn miếu thờ Ngài, đã từng được coi là trung tâm hành hương thu hút đông đảo khách thiện tín, đã được chính phủ liệt vào hàng cổ tích và được mệnh danh là thắng cảnh tiêu biểu cho vùng Sài Gòn-Gia Định. Lăng miếu Đức Thượng Công tọa lạc trong một khuôn viên rộng và đẹp. Tới đây khách vãng lai sẽ được chiêm ngắm những công trình kiến trúc, trang trí mĩ thuật phong phú và độc đáo. I. VỊ TRÍ LĂNG ÔNG Cổng tam quan Lăng Ông Bà Chiểu Lăng Ông nay tọa lạc trên một khu đất rộng gần 2 mẫu Tây (18.502m2), nằm sát cạnh Hội Đồng xã Bình Hòa, phía Nam tòa hành chánh tỉnh Gia Định. Bắc giáp đại lộ Chi Lăng dài 100m, Nam giáp đường Châu Văn Tiếp dài 78m, Đông giáp đường Trịnh Hoài Đức dài 160m, Tây giáp đại lộ Lê Văn Duyệt dài 160m. Thực ra khu lăng miếu ngày nay chỉ còn chiếm một lô đất nhỏ, sánh với toàn thể giải đất từ cầu Bông trở lên do vua Tự Đức đã cấp cho làng Bình Hòa năm 1860 để làm của hương hỏa mà lo việc thờ cúng Đức Thượng Công. Giải đất hương hỏa kể trên rộng 161.589m2, xưa chung quanh là những con rạch nhỏ bao bọc. 30 năm trước, phía hữu lăng miếu có 3 hồ nước trồng sen làm tăng vẻ đẹp cho cả khu. Khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, làng Bình Hòa không còn được thu huê lợi của hơn 16 mẫu đất ấy để lo việc thờ cúng nữa. Người Pháp còn cho làm con đường chẻ đôi giải đất chạy từ cầu Bông tới tòa hành chánh tỉnh Gia Định ngày nay. Song tới ngày 23 tháng 3 năm 1882, người Pháp trao trả giải đất này lại cho xã Bình Hòa để lo việc thờ cúng Đức Thượng Công (2), nhưng xã Bình Hòa thâu huê lợi và sung vào qũy của xã. Hội Thượng Công Qúy Tế, thành lập năm 1914, đã đặt vấn đề khu đất hương hỏa phụng tự Đức Thượng Công với Hội đồng xã Bình Hòa, nhưng vẫn không đi tới đâu. Ngày nay, giải đất hương hỏa vua Tự Đức cấp cho việc thờ cúng Đức Thượng Công đã bị dân chúng chiếm ngụ kín hết; trong đó có cả một số công sở, như: Ty Y Tế Gia Định, Trường Huấn Nghệ, Trụ sở Hội đồng tỉnh Gia Định, cơ sở Dân Vận Chiêu Hồi, truờng nữ trung học Lê Văn Duyệt. Riêng 2 ngôi mộ của 2 cô hầu của Ngài Tả Quân nay vẫn còn tồn tại: một ở trong khu quân sự phía Tây lăng miếu, một ở bên kia đường Trịnh Hoài Đức, đối diện với cửa Đông lăng miếu. Ngày nay ít ai biết tới 2 ngôi mộ này, mặc dù cả 2 đều cũng được liệt hạng cổ tích. II. KHUÔN VIÊN LĂNG ÔNG Khắp vùng Sài Gòn-Gia Định, khó tìm thấy một nơi thờ cúng nào có khuôn viên rộng rãi và đẹp đẽ như tại Lăng Ông bà Chiểu. Nếu đi vào Lăng Ông từ cửa Nam trên đường Châu Văn Tiếp, khách sẽ đi qua một sân xi măng rộng 312m2, có tường bao quanh cao 1m, và sẽ đứng trước Cổng Tam Quan nổi tiếng. Cổng Tam Quan xây năm 1949, là một công trình kiến trúc rất mĩ thuật. Cổng lợp mái ngói âm dương, 2 tầng, có cột vuông chống đỡ, các cánh cửa hình chữ ‘song hỉ’ bằng sắt sơn màu đỏ. Chính giữa là 3 đại tự: Thượng Công Miếu (chữ nho). Kề bên phía trước là 6 cây thốt nốt cổ thụ rủ lá phủ lên mái Cổng Tam Quan tạo nên một đề tài mĩ thuật hấp dẫn các họa sĩ, các nhiếp ảnh gia. Từ lâu, Cổng Tam Quan đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho Sài Gòn-Gia Định. Qua Cổng Tam Quan, khách bước vào Huê Viên bao quanh bởi bức tường xây năm 1948, dài 500m, cao 1m20. Sát tường trồng bông giấy, cắt xén bằng phẳng. Tường bao quanh này có 4 cửa ra vào: ngoài Cổng Tam Quan ở phía Nam, còn có cửa Đông, cửa Tây và cửa Bắc. Các cánh cửa hình chữ Thọ bằng sắt, sơn toàn màu đỏ. Trong Huê Viên, khách bước đi trên những lối đi tráng xi măng hay lát đá chạy giữa những bồn cỏ xanh tươi, mát mắt. Hai bên lối đi trồng nhiều loại cây cảnh. Giữa những bồn cỏ cũng trồng những cây cảnh đủ màu sắc, cắt tỉa theo hình tháp nhọn, hình tròn hoặc hình chim, thú; chính giữa trổ lên một trụ đèn mắc 3 ống đèn điện dài. Để bảo vệ nạn ‘hái lộc’ làm hư cây cảnh, hằng năm, tới Tết Nguyên đán, Ban quản trị phải trưng sẵn hàng trăm chậu hoa để dân chúng ‘hái lộc’. Ngoài ra, Huê Viên Lăng Ông còn có nhiều loại cây to lớn, tàn lá xum xuê che mát khắp nơi: Ngay phía trong Cổng Tam Quan là 2 bụi trúc và rải rắc khắp Huê Viên có những cây me Tây, phượng vĩ, thốt nốt, dương liễu, kim điệp, bằng lăng, dầu, gồi, giá tị, điệp, gỏi, dừa. Cũng ngay bên trong Cổng Tam Quan đặt 2 khẩu súng thần công, đầu súng hướng ra ngoài. Đây là kiểu thần công đời Gia Long, do hãng đúc Nguyễn Trí Độ tặng vào năm 1964 nhân kỉ niệm 50 năm thành lập Hội Thượng Công Qúy Tế. Ngoài khu lăng mộ và khu miếu thờ ra, còn một số căn nhà phụ, như nhà gửi xe cạnh cửa Đông, Ty Bưu điện tại góc Đông Bắc (nay nhà vẫn còn, nhưng Bưu điện đã dời đi nơi khác), dẫy nhà trệt bỏ không nằm cạnh Ty Bưu điện dài 13m rộng 6m, và lầu kho xây cất lại vào năm 1961, gồm có 2 tầng: tầng trệt làm kho dụng cụ, tầng lầu làm rạp hát hoặc làm hội trường thuyết pháp và làm lễ tế chiến sĩ. Mặt tiền của tầng lầu được trang trí bằng những tấm cửa sắt uốn hình điểu, thú, hoa, lá và sơn toàn màu đỏ rất mĩ thuật. Tiếc rằng tầng lầu hơi cao, nên đứng từ dưới sân, khách vãng cảnh khó nhìn thấy rõ những nét mĩ thuật trang trí. Trong khuôn viên còn có bàn thờ Hậu Thổ nằm sát cạnh phía Đông khu mộ phần Đức Thượng Công. Bàn thờ Hậu Thổ là một tấm liếp vuông mỗi cạnh 2m, cao 0m.50, trên tấm liếp là bàn thờ hình miếng khánh cao 0.m80 đắp nổi 2 đại tự Hậu Thổ (chữ nho). Cũng như người Trung Hoa, người Việt tin mỗi khu đất đều có vị Thổ Thẩn làm chủ. Muốn xây nhà cửa hay chôn cất, trước hết phải sắm sửa lễ vật dâng cúng để xin phép Thổ Thần. Nếu không, Thổ Thần sẽ nổi giận, như thế rất có hại cho thợ xây cũng như cho người vào ở trong nhà mới. Trường hợp chôn cất ông bà cha mẹ mà không xin phép Thổ Thần thì con cháu sẽ mất phần phúc đức của ông bà cha mẹ. Có lẽ đó là lí do có bàn thờ Thổ Thần trong khuôn viên Lăng Ông. Ngày nay, cứ mỗi lần cúng tế Đức Thượng Công, ban cúng tế không quên dâng lễ vật cho Thổ Thẩn, còn khách thiện tín hằng ngày vẫn nhang khói cho bàn thờ này. Góc Tây Bắc khuôn viên còn được trang trí một cái đảnh (đỉnh) rất đẹp gọi là Đảnh Hòa Bình. Đảnh Hòa Bình xây dựng năm 1956, bằng xi măng, cao 0.m80, đặt trên cái bệ cao 1m, hướng ra đại lộ Chi Lăng-Lê Văn Duyệt. Những dòng chữ đắp nổi trên mặt đảnh nói lên mục đích của việc xây dựng : ‘Đảnh Kỷ Niệm Hòa Bình Năm Giáp Ngọ (1954) Do Đức Thượng Công Báo Trước Trong Linh Sám’. Đến năm 1966, Hội Thượng Công Qúy Tế xây thêm khải hoàn môn với mục đích trang trí cho Đảnh Hòa Bình. Khài hoàn môn kiến trúc với 4 cột xi măng vuông, trên đỉnh mỗi cột là một nụ sen, ở giữa có quả cầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 13:40:37 GMT 9
III. LĂNG ÔNG
Khách vãng lai bình thường khi đứng trước mộ phần Đức Thượng Công sẽ chỉ thấy ngôi ‘mộ song hồn’ tương đối bề thế, nhưng cổ kính và ảm đạm. Nhưng với một người muốn nghiên cứu học hỏi thì nơi ngôi mộ cỏ vẻ ‘trầm mặc trơ gan cùng tuế nguyệt’ này chứa đựng một lịch sử với nghi án của nó; thêm vào còn có cả vấn đề phong thổ của khoa địa lí, vấn đề phong tục luật lệ và những giá trị trang trí mĩ thuật.
Theo học giả L.Cadière, Lăng dành riêng để gọi phần mộ các vua chúa, của bà vợ đầu tiên của vua hoặc của bà phi sinh ra hoàng thái tử (như trường hợp mẹ vua Minh Mạng). Mộ phần của các hoàng tử, công chúa, các phi tần thì gọi là Tẩm. Các nơi chôn cất khác chỉ gọi là Mộ (3). Nhưng có lẽ vừa vì lòng kính trọng, vừa vì ưa đơn giản mà dân miền Nam gọi mộ phần của một số công thần danh tiếng thời nhà Nguyễn trung hưng là Lăng, như: Lăng Phú Trung (Võ Di Nguy), Lăng Nguyễn Văn Học (?), Lăng Phú Thành (Trương Tấn Bửu), LăngTả dinh Lê Văn Phong, Lăng Cha Cả (giám mục Bá Đa Lộc), Lăng Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng (cha của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức)…và Lăng Ông, tức là mộ phần Đức Thượng Công Tả Quân Lê Văn Duyệt tại ngã ba Bà Chiểu.
A.NGHI VẤN VỀ SỰ XÁC THỰC NGÔI MỘ:
Sau cuộc khởi loạn năm 1833 của Lê Văn Khôi, ngôi mộ của Đức Thượng Công bị gia hình, có dư luận cho rằng thân tín của Đức Thượng Công đã lén lút di hài cốt Ngài đi nơi khác. Riêng ông Huỳnh Minh trong sách Gia Định Xưa Và Nay thì lại bảo hình hài chôn cất tại Lăng Ông Bà Chiểu làm bằng sáp, còn thi thể thật của Đức Thượng Công táng ở làng Long Hưng, Định Tường (4).
Theo thiển ý, một khi lịch sử đã ghi rõ ràng mộ phần Đức Thượng Công ở vị trí Lăng Ông hiện nay đã bị án phạt bạt phẳng ngang mặt đất và dựng trụ đá hài tội thì không thể nghi ngờ nhục thể Đức Thượng Công được an táng ở một nơi nào khác (5). Bởi vì như thế là làm trái lệnh nhà vua, tức là phạm tội khi quân. Tội khi quân không phải là tội nhỏ.
Vả lại ông Huỳnh Minh ra sách Gia Định Xưa Và Nay vào năm 1973 và các người ông tiếp xúc để hỏi về lịch sử ngôi mộ cũng chỉ là các bô lão ở thời điểm 1973. Đang khi đó, cách nay gần một thế kỉ, ông J.Silvestre đã viết: ‘Lê Văn Duyệt được chôn cất tại Bình Hòa Xã, gần Sài Gòn, nhưng có vài người kể rằng còn có những lễ an táng đã được cử hành ở 2 nơi khác: ở Ông Hổ, trên Rạch Gầm, nơi người ta nói là chỗ Duyệt sinh ra, và ở Giồng Ông Tố, trên Nhà Bè một ít. Trong 2 nơi chôn cất sau này người ta đã chôn hình tượng Đức Thượng Công bằng sáp. Năm 1880, tại Bình Hòa, chúng tôi đã phỏng vấn cụ Nguyễn Trọng Phương, 86 tuổi, người đã từ 10 năm phục dịch đặc biệt Tả quân Duyệt trong thành Sài Gòn khi xẩy ra cái chết của Ngài, cụ đã quả quyết rằng thi thể Quan Tổng Trấn chôn ở Bình Hòa, trong di tích kỉ niệm mà mọi người dân Sài Gòn đều biết. Người ta cũng an táng phu nhân Ngài (chính thất) ở đó; còn các ngôi mộ khác, cụ Phương chưa hề nghe nói tới (6). Trong một chú thích khác J.Silvestre còn viết thêm: ‘Thánh Giêng năm 1881, theo lời chúng tôi yêu cầu, một người bạn đã về Long Hưng (chợ Ông Hổ, trên Rạch Gầm) để tìm những phần mộ vinh dự của Lê Văn Duyệt. Ông Chánh và Phó Tổng An Bỉnh cũng dự vào việc này và họ đã hỏi một số bô lão còn giữ kỉ niệm về “Ông Thượng’. Đó là tiếng người ta quen gọi Ông Duyệt, nhưng chẳng ai biết có lễ an táng nào khác hơn là lễ an táng ở Bình Hòa. Ở đó, chỉ có mộ phần gia đình Đức Thượng Công mà thôi’ (7).
Vậy chắc chắn thi thể Đức Thượng Công đã an nghỉ tại mộ phần hiện nay ở Lăng Ông Bà Chiểu. Ngôi mộ này có ngay từ năm 1832 là năm Đức Thượng Công từ trần và được tái thiết từ khi vua Tự Đức cho phép trùng tu vào năm 1849. Năm 1937, chính quyền cho xây hàng rào bên ngoài lăng mộ.
Sau vụ án Lê Văn Khôi ít lâu, phu nhân Đức Thượng Công là Đỗ Thị Phận buồn rầu quá cũng qua đời và được an táng cạnh Đức Thượng Công, cho nên người ta gọi đây là Mộ Song Hồn.
B.VỊ TRÍ NGÔI MỘ
Người Việt cũng như người Trung Hoa thường tin vào khoa địa lí. Khi tìm nơi cư ngụ, địa điểm làm ăn hay vị trí chôn cất, người ta phải chọn cho được thế đất ‘đắc địa’ mới mong được an lành, thịnh vượng, nếu không sẽ gặp xui xẻo, tai ương, khánh kiệt.
Theo khoa này, vũ trụ chi phối mặt đất rất chặt chẽ. Các vì tinh tú, các chòm sao được mô phỏng lại trên mặt đất: núi là mô phỏng các chòm sao, ao hồ là các tinh vân, biển là ngân hà. Những vì tinh tú đó cùng với khí thiên nhiên tạo nên ảnh hưởng tuyệt đối nơi các thế đất. Nhà Việt Nam học L.Bezacier nói: ‘Khí thiên nhiên gồm có khí hút (hít vào) là khí phát sinh, là khí sống, và khí xông lên (thở ra) là khí suy vi, khí tàn phá các sự vật, khí giết các sinh vật’ (8). Những sinh vật nằm trong vùng sinh khí thì rất tốt, còn kẻ chết chôn ở chỗ đặc biệt trong vùng sinh khí sẽ gây ảnh hưởng tốt cho con cháu. Hai khí thiên nhiên này biểu hiện trên mặt đất bằng những chỗ lồi lõm. Người ta còn gọi hai thứ khí thiên nhiên ấy là Thanh Long và Bạch Hổ. Hễ nơi nào có Long thì cũng có Hổ và điều kiện vị trí địa lí tốt phải có sự kết hợp như sau: tả Thanh long hữu Bạch Hổ. Nơi thuận lợi ở gần con rồng là nơi có nhiều sinh khí, nhất là miệng rồng. Càng xa về phía cuối thân rồng, sinh khí càng bớt đi. Tuy nhiên, nơi thuận lợi để an táng không chỉ xác định do sự hiện diện của con rồng và con hổ mà còn phải căn cứ vào sự xem xét những chỗ lồi lõm, những điềm chỉ và ý nghĩa những điềm chỉ. Những thế đất phải tránh như: thế đất hình bàn tay giao nhau sẽ đem tới sự chết cho con đầu lòng, thế đất hình cồn cát vây quanh mộ phần sẽ đưa tới sự bất hòa trong gia đình. Ngược lại, nếu trước ngôi mộ có thế đất nhô lên như một cái ghế, người con trưởng sẽ làm quan, nếu trước ngôi mộ là một ngọn núi dốc thẳng có cây cối hình thù như một con cờ mở ra sẽ có người con theo binh nghiệp…Việc chọn vị trí xem ra như thế không phải dễ dàng và người ta tin rằng chỉ những thầy địa lí mới có thẩm quyền về vấn đề này (9).
Khi tìm hiểu về ngôi mộ ĐứcThượng Công, chúng tôi đã hỏi chuyện vài vị bô lão. Theo ông Nguyễn Kim Kỳ, Phó Hội trưởng Hội Thượng Công Qúy Tế thì trước đây khi phố phường chưa mọc lên nhiều, người ta có thể nhìn bao quát toàn vùng và thấy ngôi mộ Đức Thượng Công nằm trên một gò đất cao, thế đất thoai thoải dấn về phía cầu Bông. Ông Kỳ cho ngôi mộ nằm chỗ ‘đắc địa’. Đức Thượng Công là cựu Tổng trấn mà an táng ở vị trí tốt như thế sẽ có ảnh hưởng thuận lợi cho sự an lạc của dân chúng vùng Sài Gòn- Gia Định. Còn theo cụ Nguyễn Văn Cứng, cựu Hội trưởng Hội Thượng Công Qúy Tế thì lăng miếu Đức Thượng Công nằm trên gò đất hình lưng quy (rùa); đối với khoa địa lí, vị thế này nằm ngay vào long mạch hợp với địa linh nhân kiệt, tài lộc đời đời vĩnh tế!.
C.MỘ PHẦN
Một ngôi mộ Việt Nam xây theo lối cổ thường gồm 3 thành phần chính: bia mộ, tường vây chung quanh, và mộ.
1. BIA MỘ
a. Khái niệm:
Bia mộ là một trong 3 thành phần chính của một ngôi mộ cổ Việt Nam. Nhờ có tấm bia người ta phân biệt được mộ phần của ai.. Bia thường đặt ở cuối mộ và để ngoài trời, tuy nhiên bia mộ những nhân vật có danh vọng thường đặt trong một nhà nhỏ gọi là bi đình.
Bia mộ cổ ghi 3 hàng chữ nho: hàng bên phải, hàng chính giữa và hàng bên trái. Nhưng cũng có bia chỉ có hàng giữa hoặc chỉ có hàng giữa và hàng bên trái hoặc bên phải. Hàng giữa viết từ trên xuống, chữ nét lớn, đề tên và tước hiệu người chết. Hàng bên phải viết từ trên xuống, chữ nhỏ, cao hơn hoặc ngang với hàng giữa, đề ngày tháng. Hàng bên trái viết từ trên xuống, chữ nhỏ, thấp hơn 2 hàng kia, viết tên người lập bia.
Cũng có khi, hàng bên phải đề ngày sinh, hàng bên trái đề ngày chết, giống như cách viết bài vị. Ngày tháng đề trên bia là ngày lập bia, không bắt buộc trùng hợp với ngày lập mộ.
b. Bia mộ tại Lăng Ông do quan Phụ chính đại thần Hoàng Cao Khải lập năm 1894:
Bia mộ tại Lăng Ông không giống quy định chung trên đây vì nhiều lí do. Theo phần tiểu sử, sau khi mất tại Gia Định, Đức Thượng Công được an táng tạì Bình Hòa, nơi ngày nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Chắc chắn lúc đó người ta đã dựng mộ bia. Năm sau khi Ngài qua đời, xẩy ra vụ khởi loạn Lê Văn Khôi. Loạn quân cầm cự được 3 năm thì thành Phên An bị quân triều đình hạ. Triều đình xử vụ khởi loạn và Đức Thượng Công bị phạt liên lụy. Vua Minh Mạng ra lệnh cho Tổng đốc Gia Định san bằng mộ phần của Đức Thượng Công và dựng trụ đá hài tội. Như thế, cả mộ, cả bia Đức Thượng Công đã bị phá hủy sau khi Ngài qua đời được 3 năm.
Mãi tới năm Tự Đức thứ 2, vua mới sai quan địa phương bỏ trụ đá hài tội và cho hậu duệ Ngài được sửa sang mộ phần. Không có ai biết hậu duệ Đức Thượng Công có dựng lại bia mộ dịp tu sửa này hay không. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), vua truy phục chức tước cho Ngài và chắc là mộ phần lại được tu sửa và có thể đã dựng bia dịp này vì Ngài đã được phục chức tước.
Ngày nay, khi tới viếng lăng mộ Đức Thượng Công, người ta thấy một tấm bia dựng trong một ngôi nhà nhỏ phía Nam ngôi mộ, trên đề Lê Công Bi Đình. Tấm bia này do quan Phụ chính đại thần Hoàng Cao Khải lập năm 1894, nhân dịp ông vào Gia Định để tiễn chân Toàn quyền Đông Dương De Lanessan về Pháp. Bia bằng đá, khắc chữ nho và dựng trong một cái đình đề là Lê Công Bi Đình. Cái đình để tấm bia này là một ngôi điện nhỏ, mở trống, nằm ngang trước phần mộ Đức Thượng Công và phu nhân Ngài.
1/ Bia: Tấm bia này bằng đá đen, hình chữ nhật, đỉnh tròn bán nguyệt, ngang 0m70, cao 1m60. Đế bia có 4 chân, cao 0m40, ngang 0m88.
Mặt trước: trên cùng trang trí lưỡng long triều nguyệt chạm sâu trong đá, chung quanh có vẩn mây và ở giữa chạm nổi 4 đại tự Lê Công Miếu Bi (chữ nho). Dưới đế chạm 2 bông sen. Chính văn bia bằng chữ nho, khắc sâu trong đá. Nội dung Hoàng Cao Khải nói tới động lực thúc đẩy và trường hợp ông dựng bia tưởng nhớ Đức Thượng Công, tiểu sử và sự nghiệp, uy danh bất diệt, ca ngợi chính quyền Pháp biết tôn trọng tín ngưỡng của người bản xứ, nhắc tới phu nhân của Đức Thượng Công và cụ Phan Công Lương Khê (Phan Thanh Giản) cũng được thờ chung ở đây. Kí tên: niên hiệu, chức tước Hoàng Cao Khải.
2/ Nhà để bia: Tức Lê Công Bi Đình Lê Công Bi Đình
Nhà để bia nằm phía Nam mộ phần. Mỗi bề 3m80. Trên nóc trang trí đồ án lưỡng long triều nguyệt. Mái cong. Chung quanh trang trí bằng cách đắp nổi hình hoa lá, hình con dơi ngậm tiền. Mặt trước đề 4 đại tự Lê Công Bi Đình (chữ nho). Nền lát đá hoa, có bậc tam cấp bằng đá xanh. Hai mặt trước sau để trống.
Mặt sau của bia: là hình con lân chạm đá, chung quanh có mây.
Bia Hoàng Cao Khải khác một mộ bia thông thường rất nhiều. Có thể nói, Hoàng Cao Khải chủ ý dựng tại lăng miếu Đức Thượng Công một tấm bia để tuyên dương công trạng Ngài nhiều hơn là dựng một mộ bia đúng mẫu mực.
4 Phiên Âm LÊ CÔNG MIẾU BI
Sự hữu bất tương khai nhi tình vi chi chú viên giả, ý hảo chi tự nhiên dã, cảnh hữu bất cập tri nhi thần vi chi cách yên giả. Chánh khí chi hạo nhiên dã, dư ư Tả Quân Lê Công, sự hữu cảm yên, tuế Giáp Ngọ chi Xuân, qúy Đại Pháp Quốc, Tổng Thống Đông Dương Toàn Quyền Đại Thần, Đa La Đại Hiến phụng mạng hồi quốc, dư tống chi hành, tiết chú Gia Định.
Gia Định vi bản triều long hưng chi địa, tự thuộc qúy đại Pháp Quốc quản hạt, tam thập hữu dư niên, hĩ châu xa sở chí phong hội nhất tân giai đồ quảng tịch triền tứ nhật lệ, dục tầm cựu tích, kỉ ư bất khả biện thức, nhi Công chi miếu mạo khuy nhiên, độc tồn đống vũ sâm nghiêm, hương hỏa bí uất, kì mộ tắc thiết tứ chu hành giả, tị lộ chất chi, cư dân viết: Qúy đại Pháp quốc niệm Công công nhi biểu chi dã, y dị tai, Công chi huân danh, bưu bỉnh sự trạng hiển hách, giai tại Lục châu, khai thác chi thủy, hất kim tuế nguyệt dĩ lieu giang hà hữu dị, nhi phong thanh do tại, trở đậu bất thiêu vu thử kiến. Qúy đại quốc nhân hậu chi ý, cố vu kì hữu công giả, tuy cách thế dị sự do tưởng mộ nhi sung trọng chi dã.
Công tự Văn Duyệt, kỳ tiên Quảng Nghĩa nhân, tỉ Định Tường, niên thập thất khái nhiên hữu kì cổ trúc bạch chí tùng ngã Thế tổ Cao Hoàng Đế ư Gia Định chiến công thậm vĩ. Đại định hậu ưng phương thổ ủng tiết việt xử trí Xiêm Lạp, kinh lược Thanh Nghệ, lưỡng bình ác man, nhất trù tăng cừ, sở chí vô bất nhiếp phục, nhi tiền hậu phàm tái trấn Gia Định thủy chung kỉ nhị thập niên, kì di ái vưu thâm dĩ cửu. Công kí một, tinh anh chi sở bàn kết, giang sơn dữ vi a hộ, mỗi thiên âm dạ tịnh, kì mộ thoang hoặc văn nhân mã thanh, nhân giai kính nhi viễn chi, vị kì tự viết Công chi miếu, vị kì mộ viết Công chi lăng, tương dữ thi chú nhi hưởng tự chi phất thế.. Cổ kim lai anh hùng hào kiệt sinh đương lôi vũ thảo muội chi tế, phấn kì trí dũng lập đắc công nghiệp, tồn tắc vinh kì thân, một tắc thọ kì danh, tức thời sự biến thiên chi hậu nhi lưu phong dư liệt thượnh hữu hách hách nhiên tại nhơn giả. Cố như thủ phù, dư cửu văn anh phong túc sở, khâm ngưỡng. Kim nhật thân đổ kì trạng nhân dĩ tri qúy bảo hộ quốc chi ư bản quốc lễ tục vô biến, tín nghĩa hữu phù tương lai thăng bình đại cuộc hữu khả xác nhiên. Cứ vi thực tích giả thử tắc dư chi sổ thâm hỉ dã, nãi thỉnh ư qúy toàn quyền đại thần Sa Đại Hiến dĩ bi nhi chí chi. Đại thần hân nhiên tùng chi, viên lặc chư thạch dĩ thị bất san. Công phu nhân Đỗ thị, hậu Công nhi một, kim hợp tự yên. Phan Công Lương Khê, kinh lược Nam kì nhân, tư kì công diệc dĩ phối hưởng vu Công miếu vân.
Hoàng triều Thành Thái lục niên, thất nguyệt sơ nhất nhật. Phụ Chính Đại Thần, Thái Từ Thiếu Bảo, Võ Hiển Điện Đại Học Sĩ, Khâm Sai Bắc Kì Kinh Lược Đại Sứ Diên Mậu Tử Thái Xuyên Hoàng Cao Khải cung đề.
5/ Dịch nghĩa:
BIA DỰNG TẠI MIẾU THỜ ĐỨC LÊ THƯỢNG CÔNG
Việc có mà không nói ra làm sao hiểu được tình tiết bên trong, thiện ý tự nhiên mà có vậy. Hoàn cảnh mà không biết được thì đến thần thánh cũng đành xa cách. Chính khí thật là to lớn. Ngay như đối với Ngài Tả Quân Lê Công đây, tôi thấy có sự cảm kích.
Mùa Xuân năm Giáp Ngọ, ông Toàn quyền Đông Dương nhận lệnh về nước, tôi đi tiễn chân ông, nhân dịp được nghỉ chân ở Gia Định.
Gia Định là đất long hưng của bản triều, từ khi thuộc quyền cai trị của nước Pháp kể đã hơn 30 năm, xe thuyền kéo đến như gió hội về, bến đò, đường xá, chợ búa mở ra ngày một đẹp đẽ, dù có muốn tìm di tích cũ cũng không thể nhận ra được nữa; vậy mà chỉ có miếu của Ngài Thượng Công đây vẫn y nguyên tồn tại, trong miếu thì thờ phụng trang nghiêm, khói hương nghi ngút, ngoài mộ có hàng rào sắt chung quanh, khách qua đường kính cẩn tránh lối. Hỏi han thì cư dân nói rằng: Nước Pháp nhớ công của Ngài mà biểu dương. Ôi lạ lùng thay! Huân danh sự nghiệp của Công vẫn còn lẫy lừng, hiển hách, đều bởi từ ngày Ngài mở mang và gầy dựng ra một khu vực Lục tỉnh miền Nam đến nay, tháng ngày tuy đã trải qua, non sông từng đã thay đổi, song thanh danh của Ngài hãy còn lẫy lừng như xưa. Việc thờ tự Ngài vẫn còn đây mãi. Qúy quốc có ý nhân hậu đã nhớ đến công nghiệp của Ngài, tuy thời thế thay đổi, sự việc đã khác xưa, nhưng vì nghĩ công nghiệp của Ngài mà tôn sùng qúy trọng Ngài.
Công tên Văn Duyệt, gốc ở Quảng Ngãi. dời vào tỉnh Định Tường. Năm 17 tuổi, khảng khái, có chí lớn, sau theo vua Thế Tổ Cao Hoàng Đế ở tỉnh Gia Định, lập được nhiều chiến công rất lớn, đến khi thiên hạ đại định thì nhận mệnh vua mang cờ tiết việt xử trí việc Xiêm (Thái Lan), Lạp (Cao Miên); kinh lược Thanh, Nghệ; hai lần bình quân ác man; một lần dẹp loạn thầy sãi (sãi Kế, người Cao Miên nổi loạn ở miền Nam). Quân của Ngài đi đến đâu không ai không phục. Trước sau, Ngài làm Tổng trấn Gia Định đến 20 năm, được mọi rất thương mến. Khi Ngài mãn phần rồi, anh hồn của Ngài vẫn kết tụ nơi đây, núi sông cũng phù hộ. Thường khi đêm thanh vắng, trên mộ Ngài nghe tiếng người ngựa làm cho người ta phải kiêng sợ không dám đến gần, nên đã gọi nơi thờ Ngài là miếu, gọi mộ phần của Ngài là lăng, rồi kéo nhau tới cúng kiếng, phụng thờ.
Xưa nay, anh hùng hào kiệt sinh vào thời loạn lạc gió mưa sấm chớp, đem hết trí dũng lập công được công nghiệp, khi sống thì thân mình vinh hiển, khi chết để lại danh thơm. Dù sau này thời thế có đổi thay thì tiếng anh hùng vẫn còn hiển hách mãi.
Tôi đây được nghe tiếng của Ngài đã lâu nên có lòng ngưỡng mộ. Hôm nay thân hành xem xét tình trạng, nhân đó mà biết thêm rằng qúy quốc bảo hộ đối với phong tục, lễ phép nước ta không thay đổi, vẫn giữ tín nghĩa thủy chung để cho đại cuộc tương lai đuợc vững bền. Sự việc có thể xác minh, căn cứ câu chuyện là đúng thật nên tôi vui mừng xin ông Toàn Quyền Đại Thần Sa Đại Hiến cho phép dựng bia. Quan đại thần vui lòng nhận lời, vì thế cho khắc chữ vào đá để người đời sau không thêm bớt hoặc bỏ mất đi được.
Còn phu nhân của Ngài là Đỗ Thị, qua đời sau Ngài, nay cũng được thờ chung với Ngài. Ông Phan Công Lương Khê (Phan Thanh Giản) là quan Kinh Lược Nam Kì, cũng được tưởng nhớ công nghiệp mà thờ phối hưởng trong miếu này.
Niên hiệu Thành Thái thứ sáu, tháng Bảy ngày mồng một (01.8.1894).
Phụ Chíng Đại Thần, Thái Tử Thiếu Bảo, Võ Hiển Điện Đại Học Sĩ, Khâm Sai Bắc Kì Kinh Lược Đại Sứ, Diên Mậu Tử, Thái Xuyên Hoàng Cao Khải cung kính đề bia. (10).
2.TƯỜNG VÂY QUANH MỘ
Tường vây quanh ngôi mộ cũng là một phần của ngôi mộ cổ. Tường của những ngôi mộ thưòng có thể đắp bằng đất, đá ong hay hàng cây thấp. Tường vây quanh một ngôi mộ lớn thường xây bằng gạch, có hồ áo. Bức tường này xưa gọi là uynh thành. Nếu là tường kép thì bức tường phía trong gọi là uynh thành nội, bức tường bên ngoài gọi là uynh thành ngoại.
Về hình thù thì hoặc xây hình tròn gọi là viên thành, hoặc xây theo hình yên ngựa gọi là uynh thành kiều ngựa. Cũng có thể xây theo hình vuông hay hình chữ nhật thì gọi là uynh thành vuông hay khuông thành. Uynh thành của những ngôi mộ của các bậc đế vương cao 1m50 hay 1m80. Uynh thành của những ngôi mộ thường cao 0m40 tới 0m80, bề dầy khoảng 0m40. Trên mặt tường trang trí các đồ án mĩ thuật hoặc không trang trí gì cả.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 13:43:49 GMT 9
Theo thói quen xưa, người Việt tự do chôn cất người thân trong khu đất mình làm chủ; tuy nhiên về diện tích khu mộ, nhất là nơi các bậc vua chúa, quan quyền thì luật lệ quy định rõ kích thước, không được vượt quá. Lí do là vì người Việt cho nơi chôn cất là nơi linh thiêng, diện tích mộ phần có liên hệ trực tiếp với địa vị xã hội của người chết khi còn tại thế. Nhà Việt Nam học L.Cadière cũng xác nhận luật Việt Nam xưa quy định kích thước mộ phần của các vị đế vương, các thân vương, các bà hoàng, các bà phi và các đại thần. Kích thước của mộ phần phải tương xứng với phẩm hàm chức tước của người đó khi còn tại thế. Theo L.Cadière, Bộ Lễ triều Tự Đức quy định kích thước mộ phần của của các vị Quận Công, Quốc Công như sau: Uynh thành ngoại cao bốn thước một tấc (1m64), dài bốn trượng năm thước (18m), rộng ba trượng sáu thước 14m40. Uynh thành nội cao ba thước sáu tấc (1m44), dài 2 trượng ba thước (9m20), rộng hai trượng ba tấc (8m12). Cũng theo luật này, trên bia mộ một vị Quốc Công và Quận Công đề là Tẩm, không có bái đình (nơi để vái lậy), không có bình phong tiền, chu vi mỗi bên 12 trượng (48m) (11). Tường vây quanh mộ phần Đức Thượng Công thuộc loại tường đơn, không có uynh thành ngoại. Tường dài 14m50, rộng 12m, cao 1m50, dầy 0m80, màu xám đen ‘rêu phong’. Với kích thước này cho biết chắc chắn ngôi mộ là của một vị thuộc hàng tước Công, mặc dù không hoàn toàn chính xác như luật định của Bộ Lễ thời Tự Đức nêu trên. Bức tường vây phía ngoài Bi Đình và phần mộ Đức Thượng Công mà chúng ta thấy ngày nay không có liên hệ chính thức với mộ phần vì 2 lí do: Thứ nhất bức tường bên ngoài đó chỉ được phép xây vào năm 1937, đang khi bức tường vây quanh mộ đã được xây đồng thời với ngôi mộ từ năm 1849 là năm vua Tự Đức cho phép hậu duệ Đức Thượng Công được tu tạo lai mộ phần của Ngài. Thứ hai là khi Viện Khảo Cổ cho phép xây bức tường phía ngoài với điều kiện là không được xây theo kiến trúc của bức tường chính thức của ngôi mộ để có thể dễ phân biệt biệt.Thêm vào đó, bức tường ngoài này lại hở ra 2 lối đi ăn thông vào sân trước của miếu thờ, chứ không khép kín thành hình vuông như bức tường bên trong. Mục đích của Hội Thượng Công Qúy Tế khi xin bức tường này là chỉ muốn làm một hàng rào để giữ sự biệt lập và làm tăng phần uy nghiêm cho ngôi mộ. Chính vì những lẽ trên mà ta thấy bức tường ngoài cùng này đuợc xây theo lối mới: trang trí bằng những trụ hình con triện (balustrades) Tây phương, cách quãng trổ lên những trụ đèn hình đèn lồng với những con nghê bằng sành màu xanh ớ các góc. Chính giữa phía Nam là một khung cửa xi măng cốt sắt đúc hình chữ thọ (chữ nho), luôn luôn khoá kín. 3. NGÔI MỘ ĐỨC THƯỢNG CÔNG Mộ "Song Hồn" Bá tánh quen gọi ngôi mộ của Đức Thượng Công là mộ ‘song hồn’ vì bên cạnh Mộ Ông có thêm Mộ Bà. Chắc chắn ngôi mộ đã được xây dựng từ khi vua Tự Đức cho phép trùng tu vào năm 1849. Đây là phần kiến trúc cổ kính nhất của toàn cảnh Lăng Ông Bà Chiểu. Ngôi mộ song hồn này xây theo kiểu nấm trứng ngỗng nằm trên 2 tấm liếp. Tấm liếp dưới là một khối chữ nhật, cạnh Bắc Nam dài 4m50, cạnh Đông Tây dài 6m20, cao 0m40. Tấm liếp trên chia riêng thành 2 tấm cách nhau 0m50. Chiều dài mỗi tấm 4m, rộng 2m, cao 0m30. Trên mỗi tấm liếp là một nấm mộ hìng trứng ngỗng dài 2m50, rộng 1m50, cao khoảng 0m60. Đầu phía Bắc cao hơn đầu phía Nam. Nhờ vậy, ta biết đầu quay hướng Bắc, chân ở hướng Nam. Theo lệ xưa, ‘nam tả nữ hữu’ thì từ vị trí cửa mộ, Ông nằm bên tả, Bà nằm bên hữu. Toàn thể mộ phần sơn màu đen xám làm tăng phần cổ kính và uy nghiêm. 4. NHỮNG PHẦN PHỤ THUỘC a. Cửa mộ: Cửa mộ, rộng 4m, hai bên là hai cột trụ vuông, trên đầu cột đắp một nụ sen cao 0m90. b. Bình phong: Mộ Đức Thượng Công có 2 bình phong: bình phong tiền và bình phong hậu. Bình phong tiền: Nằm chắn phía ngoài cửa mộ sát bên bái đình, ngang 4m20. Mặt ngoài phù điêu hình con chim đậu trên cành cây la đà; phía dưới là con vật giống như con chó, chung quanh có mây nổi từng lớp. Mặt trong phù điêu một con hổ mẹ và một con hổ con, cũng có vẩn mây chung quanh. Bình phong hậu: Là phần tường vây quanh mộ phần ở phía Bắc, xây cao lên thành một tấm bình phong hình miếng khánh. Chính giữa phù điêu mặt con hổ, chung quanh có vẩn mây. c. Bái đình: Là nơi bá tánh đứng hành lễ nằm giữa cửa mộ, sát bên trong bình phong tiền. Bái đình là một cái sập cao 0m40, ghép bằng 6 tấm liếp xi măng cốt sắt, tô đá rửa, màu đỏ hung hung, dài 4m50, rộng 4m00. d. Nữ tường: Là bức tường nằm bên ngoài bình phong tiền, xây hình thước thợ, cao 0m80, trang trí bằng những cột trụ hình vuông. Đặc biệt hai bên cửa vào bái đình được trang trí bằng hai con lân bằng đá tuyệt đẹp. Con lân đực ở phía tả, con lân cái ở phía hữu. Dấu hiệu nhận ra con lân cái là có một con lân con nhỏ xíu ở dưới bụng lân mẹ. Do chấp nhận điều này mà ta có thể biết Mộ Ông bên tả, Mộ Bà bên hữu theo lệ ‘nam tả nữ hữu’. c. Những thứ linh tinh khác: Ngoài những phần phụ thuộc kể trên, khách vãng lai còn thấy một số những thứ linh tinh khác được dựng trong khu Lăng Mộ như 2 bàn đặt lễ vật ở trên đầu ngôi mộ song hồn, 2 kiểu đèn bằng đá theo kiểu Nhật Bản nằm hai bên Bi Đình, 4 giá xi măng cốt sắt khá cao dùng để treo nhang hương loại lớn hình xoắn trôn ốc vào những dịp lễ lớn, một cột cờ cao khoảng 10m dựng trước bái đình, 6 lư hương lớn bằng sành hoặc bằng sắt. Trần Vinh (1) Đây là bài 3, trích từ tập Sự Thờ Cúng Đức Thượng Công Tả Quân Lê Văn Duyệt Tại Lăng Ông Bà Chiểu, thực hiện năm 1974, để tại thư viện Hội Nghiên Cứu Đông Dương trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Nội dung không thay đổi, nhưng nay có sắp xếp và nhuận sắc lại. (2) Sở Trước Bạ Sài Gòn (Nam Kỳ thuộc Pháp) ngày 09 tháng 6 năm 1882. Tờ 79, hộc O, ngăn 1. (3) L.Cadière. Croyances et Pratiques religieuses des Annamites. IDEO., Hà Nội,1944.Tr.137,138. (4) Huỳnh Minh.Gia Định Xưa Và Nay. Tác giả xuất bản. Tr.43. (5)Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Quyển I I. Trung Tâm Học Liệu. Sài Gòn, !971. Tr.215. (6) J.Silvestre. Insurrection De Gia Định. Revue Indochinoise, tháng 7 và 8, 1915. Tr.21,22,23. (7) J.Silvestre. Insurrection De Gia Định. Bđd. Chú thích số 1. Tr.22. (8) L.Bezacier. L’Art Vietnamien. Editions De L’Union Francaise, Paris, 1955. Tr.40. (9) Xin đọc G.Dumoutier. Le Rituel Funéraire Des Annamites. Hà Nội, 1904. Tr.96-136. (10) Vũ Hiệp phiên âm. Tham chiếu bản dịch từ 1956 do cụ Nguyễn Văn Cứng (cựu hội trưởng Hội Thượng Công Qúy Tế) lưu giữ. (11) L.Cadière. Croyances Et Pratiques Religieuses Des Annamites. Sđd. Tr.149. Tác giả: Trần Vinh ************************************************ Lăng Ông Bà ChiểuSơn Nam Thời Tự Đức, chung quanh chợ Bà Chiểu là nhà cửa thưa thớt của dân trồng bắp, trồng khoai, Miếu Ông (thờ Lê Văn Duyệt) nhỏ bé xem cũng tương xứng, hài hòa. Nhưng khi thực dân xây dựng phố xá, dinh thự, Miếu Ông trở thành cơ ngơi lỗi thời. Chủ tỉnh Gia Định xuất công quỹ để trùng tu vòng rào; Kinh lược Bắc kỳ Hoàng Cao Khải dịp vào Nam năm 1894, đã dựng tấm bia đá nhằm ca ngợi sự chiếu cố của người Pháp, nay còn giá trị về kiểu thức hoa văn cổ truyền, do nghệ nhân miền Bắc thi công.
Bấy giờ, chợ Bà Chiểu, tuy là tỉnh lỵ, hãy còn thu hẹp quanh nhà lồng chợ. Đèn điện chưa phổ biến. Đặng Lễ Nghi trong tập truyện “Đối cổ kỳ quan", in năm 1910, đã ghi lời đồn đãi trong dân gian: ma quỷ thường hiện ra ở Cây da Ông Bổn, ngay đầu cầu Bông; gần lăng Tả quân, trên đường về cầu Bông, có anh chàng nọ một đêm bị ma nhát đến hai lần!
Hương chức hội tề làng Bình Hòa (bấy giờ vẫn gọi là Bình Hòa xã, như thời Tự Đức) vẫn không xuất huê lợi đất tự điền để cúng tế cho lăng miếu. Huê lợi này được nhân lên nhanh chóng, vì đất ruộng trước kia lần hồi trở thành đất thổ cư, cất chợ phố. Nhân sĩ và đồng bào Gia Định không còn tin tưởng vào thiện chí của người Pháp. Năm 1914, Hội Thượng Công Quý Tế ra đời, do 20 hội viên sáng lập, đứng đầu là ông Trương Văn Trạch, đặt dưới sự chi phối của hương chức làng Bình Hòa và chủ tỉnh Gia Định. Tài sản lúc đầu gồm mấy dãy phố do hội viên mua và cho thuê để lấy huê lợi cúng tế.
Ta hiểu cuộc vận động thành lập hội đã bắt đầu từ đôi ba năm, trước 1914. Theo cơ chế thời Tự Đức, đình làng và miếu đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của ban hương chức hội tề khá đông, trong số này đặc trách về tế lễ là hương quan (hiểu là quan hôn tang tế), thêm hương văn, hương lễ. Thực dân tách ra, hương chức hội tề chỉ có phận sự lo việc đời (gồm hành chánh, trị an, thuế vụ...); còn đình miếu thì giao cho một ban khác gọi “hương chức đình" lo thuần túy cúng tế. Danh sách hương chức đình do hương chức hội tề và các bô lão lựa chọn, trình lên cai tổng, rồi chủ tỉnh duyệt y. Lắm khi, chánh quyền gây khó khăn, e ngại hương chức đình là tổ chức trá hình của một hội kín với những điều huyền bí riêng mà nhà nước khó kiểm soát, lắm khi liên quan đến chuyện quốc sự.
Khi phong trào tôn quân ái quốc tan rã, xảy ra cơn khủng hoảng về hệ ý thức cứu nước thì phong trào cầu Tiên (hỏi tiên, cầu cơ bút) với những đàn tiên lại phổ biến khắp Nam bộ, thỉnh thoảng bà Triệu, tướng Trần Hưng Đạo hiện về, cho vài bài thơ kích thích lòng yêu nước. Hoặc vài anh hùng thời Cần Vương báo tin còn đang sống, rong chơi giữa chợ Bến Thành! (Trong thiên hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, học giả Đào Duy Anh cũng ghi nhận phong trào Thiện đàn ở đồng bằng sông Hồng, khá rầm rộ, tiên thánh Việt Nam giáng bút, nhắc nhở tinh thần tự cường, từ năm 1908).
Hội Thượng Công Quý Tế được thành hình, vì nằm trong cơ chế hương chức đình, mà nhà nước cho phép. Hơn nữa, Hội này chẳng dính dấp gì đến việc cầu Tiên, đồng bóng. Nó mang tính nghiêm túc, sau tám năm hoạt động mãn nhiệm kỳ. Ban Quản trị thứ nhì ra đời gồm những nhân sĩ thuộc giới trí thức, như Diệp Văn Cương (giáo sư trường Bổn Quốc, là thông ngôn khi vua Hàm Nghi bị bắt), Lê Văn Phát, Đốc phủ sứ (từng biên soạn vài công trình có chất lượng về cổ tích, phong tục Việt Nam), Nguyễn Kinh Đính, phụ trách Đông Pháp thời báo.
Lịch hội lễ không thay đổi, vẫn như lúc mới sáng lập gồm: lễ Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ (5 tháng 5), lễ Chánh Đán (Tết Nguyên Đán). Công tác lớn là xây dựng cơ ngơi Trung Điện và Chánh Điện nay còn thấy, vào năm 1925. Năm 1923, bà Nguyễn Kim Đính (Thạnh Thị Mậu) đứng ra lập Ban Công quả Phụ nữ, giới phụ nữ có thể vào Hội với danh nghĩa như là “cộng tác viên". Cũng nhiệm kỳ này Hội Quý Tế mở trương mục riêng ở Đông Dương Ngân hàng. Với nguồn thu nhập khả quan, Hội góp phần cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Bắc và miền Trung. Năm 1931, dự trù làm lễ kỷ niệm Đệ bách châu niên ngày tạ thế của Tả quân, nhưng hoãn lại vì nạn khủng hoảng kinh tế ở Đông Dương và thế giới. Sau thời kỳ khủng hoảng ấy, một Ban Quản trị khác ra mắt, với nhiệm kỳ khá dài, suốt 21 năm (1932-1953) công tác lớn là xây Nhà Hương (nơi khách hành lễ, nhận lễ vật), xây Đông Lang và Tây Lang (nay hãy còn thấy ghi số Á Rập năm 1937). Thi công trong 6 tháng, sau đó tổ chức lễ lạc thành, hát bội suốt bảy ngày đêm; đúng là thời kỳ vàng son, “phú quý sanh lễ nghĩa ". Gần cuối nhiệm kỳ đã xây cổng tam quan độc đáo, nay hãy còn sống động, làm biểu tượng cho đất Gia Định – Sài Gòn, vào tháng 5 năm 1949, theo đồ án của kiến trúc sư Võ Văn Tần. Xây thêm phòng khánh tiết, trải đá tảng trên đường ra cổng tam quan. Công việc này tiến hành thời chống Pháp, lúc thực dân tăng cường viện trợ vật chất và tài chính. So với trước 1945 thì Sài Gòn – Gia Định đông dân hơn, hàng tiêu dùng sau 1945 bán với giá tương đối rẻ. Nhắc lại: Phủ Thống đốc Nam kỳ chuẩn y bản sửa đổi điều lệ Hội năm 1944, cũng năm này, Phủ Toàn quyền Đông Dương đã chấp thuận cho Hội có tư thế pháp nhân (capacité juridique) được quyền quản trị động sản và bất động sản.
Nhiệm kỳ 1953-1961 đánh dấu giai đoạn phát triển mới. Nghiêm túc kiểm soát tiền bạc do khách thập phương tự nguyện đóng góp, bỏ lệ cúng tam sanh (trâu hoặc bò, heo, dê) để tránh hình ảnh sát sanh, khuyên người cúng nên thắp nhang ở mức tối thiểu, tránh lãng phí, giữ vệ sinh cho miếu. Ta nhớ đây là giai đoạn chuyển tiếp, khi thực dân Pháp rút đi, Mỹ can thiệp vào, viện trợ tiền bạc, của cải, hàng tiêu dùng trội hẳn thời Pháp. Với ngân quỹ dồi dào, cụ Nguyễn Văn Cứng, giáo sư trường Mỹ thuật Gia Định đã dốc lòng điểm tô miếu Tả quân. Đây là mỹ nghệ lai tạp (baroque), duyên dáng và kiểu cách, phố trương dưới ánh nắng những mång trang trí đắp sành sứ, khá hiện thực, dựa vào tư liệu sưu tập ở cố đô Huế do linh mục Cadière: quyển L'Art à Huế đã ghi lại vài kiểu thức long lân quy phụng, mai lan cúc trúc, thời nhà Nguyễn. Đối với Sài Gòn và cả Nam bộ, đây là tư liệu làm chuẩn mực. Ta thấy rực rỡ những thú, điểu, hồi văn, cổ đồ bát bửu. Nghệ nhân đã làm việc thận trọng, gắn và cắt hoàn chỉnh từng mảnh sành sứ. Dám tốn tiền, chú trọng chất lượng. Ở đây, chất lượng và khối lượng đều to lớn, rườm rà, khắp Nam bộ khó đình miếu nào sánh kip. Ngoài ra còn những bộ cửa sổ bằng sắt, chạm thủng bình hoa, trúc, chim cò, dành riêng cho miếu, xem như những bản duy nhất. Ban Quản trị nhiệm kỳ sau cùng ra mắt từ năm 1961. Năm 1971, tổ chức đi thăm viếng phần mộ nội tổ đức Tả quân tận xã Hòa Khánh (nay tỉnh Tiền Giang). Và năm này, Chánh điện được nới rộng, cất thêm cơ ngơi cao ráo, so với toàn bộ; đồ án do kiến trúc sư người Ấn là Mohamed Hamime thiết lập, khánh thành vào tháng 8 năm 1973.
Về công tác xã hội, Hội tích cực cứu trợ khi xảy ra thiên tai, bão lụt; đem trái cây cúng quá nhiều vào dịp lễ hội tặng cho tù nhân nhà lao Gia Định. Thành tích lớn nhất là xây được một trường trung học, nay là trường Võ Thị Sáu, trên phần đất trước kia là tự điền.
Mặt bằng của lăng và miếu rộng rãi, cây to bóng mát, đã là một dạng công viên. Ngắm những phù điều đắp sành sứ nhiều màu, khách tham quan hẳn nhìn nhận rằng mỹ thuật cổ truyền Việt Nam đã được đề cao, sáng láng, đầy vẻ mỹ lệ. Rất tiếc nhiều mảng phù điêu, đắp sành sứ, lại bố trí nơi quá cao, khó nhìn rõ chi tiết, ngoài tầm nhìn của đôi mắt bình thường.
Trước miếu là lăng, với kích thước dành cho đệ nhất công thần, theo cơ chế xưa. Lăng xây ô dước, đơn giản, như quả trứng bổ đôi, đầu người quá cố day vào miếu, mộ song hồn, bà bên cạnh ông. Còn hai phần mộ nhỏ, của hai cô hầu, lạc loài bên phía chợ Bà Chiểu và bên hông trường Phổ thông Trương Công Định. Mộ bia, có lẽ đã bị đập phá theo lệnh của Minh Mạng, không thấy dựng lại, sau khi phục hồi danh dự cho Tả quân thời Tự Đức; vì vậy không nơi nào ghi tên họ, ngày sinh, ngày mất. Bức tường vây quanh phần mộ, gọi Uynh Thành, rộng 12m, dài 14.5m, màu xám đen, xây vào dịp được giải oan thời Tự Đức (1849), theo cơ chế.
Vòng tường bên ngoài, với những chấn song bằng gốm, men xanh, xây sau này, để phân biệt với bức tường xưa của phần mộ.
Tham quan lăng và miếu, người hiếu cổ thấy vui lên, tin vào văn hóa truyền thống, triển khai trong tình hình xứ thuộc địa, đất mới, không có thời Đinh-Lê-Lý-Trần. Nhưng ban Quản trị làm việc kế tiếp nhau và biểu lộ cụ thể trình độ thẩm mỹ của mình, vừa trọng vốn dân tộc, vừa hiện đại hóa, không giẫm chân tại chỗ. Ngân quỹ dồi dào là một việc, nhưng làm được và làm đúng lại là vấn đề khác. Hội Quý Tế đã từng tập họp được nhiều nhân sĩ Sài Gòn - Gia Định, có trình độ Hán học, Tây học, hàng ngày tiếp xúc với bao tác động kinh tế, văn hóa của “Hòn ngọc Viễn Đông". Cảm tưởng chung của khách tham quan vẫn là khen ngợi.
Người thiết kế và những nghệ nhân thực hiện đồ án đều có trình độ cao, khá đồng bộ, không như những tranh tượng, phù điều ở vài đình chùa phía Lục Tỉnh còn phảng phất chút gì gọi là “đồ mã ", của “thợ mã " làm ra tạm bợ, cho vui mắt nhưng thiếu chất lượng.
Các ban Quản trị thời trước đã lần lượt gởi gấm vào công trình kiến trúc mỹ thuật này chút gì gọi là quốc hồn, như là sự hiến dâng khiêm tốn của nhân dân Gia Định cho Tổ quốc, hướng về cố đô Huế và thủ đô Thăng Long.Có lẽ vì thông cảm được nỗi niềm ấy mà Ủy ban Nhân dân thành phố HCM ( Sai Gon), Vụ Bảo tồn Bảo tàng đã đề nghị lên Bộ Văn hóa, để rồi được công nhận, với danh xưng “Di tích Lịch sử – Văn hóa Lăng Lê Văn Duyệt, phường 1, quận Bình Thạnh" (di tích số 318). Trích "Lê Văn Duyệt với Vùng Đất Nam Bộ - tạp chí Xưa & Nay
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2010 8:33:14 GMT 9
Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh [/b] với chuyến kinh lược năm Mậu Dần lịch sử Vietsciences-Phan Đình Dũng Năm Mậu Dần lịch sử của xứ Đồng Nai: Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh với chuyến kinh lược năm Mậu Dần lịch sử[/center] Năm 1698, trở thành một mốc lịch sử quan trọng đối với vùng đất Nam bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Đó là khởi điểm cho một vùng đất chính thức hóa trong sự quản lý của một thể chế nhà nước mà cụ thể là sát nhập vào xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Tượng đài danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh Những ghi chép trong tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông, Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thư, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai tý xá, lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng 1.000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chính Châu trở vào Nam đến ở khắp nơi; đặt ra phường, ấp, xã, thôn; chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó, con cháu người tàu ở nơi Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập xã Minh Hương rồi ghép vào sổ hộ tịch”[1]. Mặc dầu sử sách ghi chép vắn tắt, song chắc chắn rằng những công việc mà thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực thi trong chuyến kinh lược đầy phức tạp, khó khăn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thiết thực cho công việc quản lý, phát triển vùng đất mới ở Phương Nam của đất nước. Với tầm nhìn chiến lược, định hướng phát triển bằng những cụ thể về hành chính, kinh tế, quân sự, chính sách an dân, hòa hợp với lợi ích dân tộc... Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lao to lớn trong việc hoàn tất về mặt pháp lý trước một sự thể: “Dân khai mở trước, nhà nước quản lý sau” ở vùng Đồng Nai - Gia Định, mở mang biên cương, lãnh thổ nước Việt trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động vào nửa cuối thể kỷ XVII. Vùng đất Đồng Nai - Gia Định vào thế kỷ XVI vẫn còn hoang sơ và một số tộc người bản địa sống thưa thớt. Từ cuối thế kỷ XVI, vùng đất này mới trở nên sôi động khi có sự xuất hiện của nhiều luồng di dân Việt từ vùng Thuận - Quảng tìm đến. Bên cạnh sự có mặt của lưu dân Việt, còn có sự có mặt của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên xin chúa Nguyễn cho phép định cư vào năm 1679. Từ khi có mặt trên vùng Đồng Nai từ thế kỷ XVI cho đến nửa thế kỷ XVII, lưu dân Việt là một nhân tố quan trọng cùng với sự có mặt của cộng đồng người Hoa là nhân tố tích cực góp phần tạo nên những cơ sở kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược, thiết lập bộ máy hành chính, phát triển vùng Đồng Nai - Gia Định. Huyện Phước Long với dinh Trấn Biên được nhắc đến trong việc thiết lập bộ máy của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 là tiền thân của tỉnh Biên Hòa trước đây và tỉnh Đồng Nai sau này. Thời bấy giờ, huyện Phước Long rộng lớn bao gồm những phần đất của các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, BÌnh Phước, một phần của Tây Ninh, Bình Thuận ngày nay. Có giả thiết cho rằng, Nguyễn Hữu Cảnh có dụng ý chọn mỹ từ khi đặt tên cho các vùng đất mới. Huyện địa đầu Nam Bộ là Phước Long với ý mong muốn nơi đây hưởng nhận phúc đức, vĩnh viễn sống trong cảnh sung túc. Ngoài ra, địa danh này còn một ẩn ý nữa là tôn vinh công ơn của các chúa Nguyễn, dòng họ Nguyễn Phúc khi chữ phước bắt đầu cho tên gọi. Đối với đất Đồng Nai, chuyến kinh lược năm 1698 dù ngắn ngủi nhưng những công việc mà Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện đã đem lại nhiều hiệu quả. Đất Đồng Nai chính thức có nền hành chính trong tổng thể chung của nhà nước do chúa Nguyễn quản lý. Việc thiết lập bộ máy hành chính đã làm thay đổi vị thế của cộng đồng cư dân Việt tại Đồng Nai. Qua chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh với việc khẳng định lãnh thổ, sắp xếp bộ máy hành chính thù di dân Việt từ thân phận lưu dân trở thành dân chính hộ, cộng đồng kiều dân Việt trở thành cộng đồng chủ nhân vùng đất mình đang sống. Người dân trên đất Đồng Nai ngày càng ý thức được về trách nhiệm của bản thân trên vùng đất từ nay đã thuộc quốc gia của mình và có ý nghĩa xây dựng và bảo vệ. Công việc thiết lập bộ máy hành chính đối với việc lập bộ đinh, bộ điền. Chắc chắn lần kinh lược Đồng Nai với những nhiệm vụ quan trọng này, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện nhiều công việc phức tạp, khó khăn như: tìm hiểu về thiên nhiên (địa lý, địa hình, đất đai, ao hồ, đường sá...), nhân văn (dân cư, mật độ phân bố từng vùng, thành phần dân tộc, xã hội...) để phân định ranh giới hành chính, thiết lập các đơn vị tương ứng để quản trị và đặt dựng các đồn tuần, cửa tấn để bảo vệ. Trước đây, người dân được tự do khai khẩn, trưng chiếm ruộng đất, chưa lập làng xóm thì Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành thiết lập phường ấp, xã thôn, ranh giới địa phận được chia cắt, quy định việc khai khẩn, chuẩn định thuế đinh, điền và lập sổ bộ, chấm dứt một thời lưu dân tự phát, tự quản đưa vào khung quy định của pháp luật. Không những khuyến khích những người dân vốn đã sinh sống trên vùng Đồng Nai - Gia Định khai khẩn ruộng đất, Nguyễn Hữu Cảnh còn chiêu mộ thêm dân từ Châu Bố Chính trở vào Nam đến ở và phân chiếm đất đai, tăng diện tích canh tác để việc vùng đất đầy tiềm năng kinh tế đi lên, tạo điều kiện phát triển thực lực của chúa Nguyễn về phía Nam. Nguyễn Hữu Cảnh còn xây dựng một lực lượng quân sự khá chính quy cho vùng đất mới. Mỗi dinh đều tổ chức lực lượng tinh nhuệ gồm cơ, đội thuyền thủy bộ có quân đội chính quy nhà Nguyễn và lực lượng địa phương để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chính thức quản lý. Một điều quan trọng không thể không nhắc đến của Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện trong chuyến kinh lược là thực hiện chính sách an dân, hòa hợp vì lợi ích dân tộc. Trên vùng đất Đồng Nai thời điểm lúc bấy giờ, ngoài số lượng dân Việt chiếm đông đảo còn có cả người Hoa, một số tộc người thiểu số. Sử sách cho chúng ta biết, đối với cộng đồng người Hoa - một thành phần dân cư đến khai khẩn sớm ở vùng Đồng Nai – Gia Định được Nguyễn Hữu Cảnh lập ra đơn vị hành chính riêng để ổn định, tạo thuận lợi cho họ yên tâm xây dựng cuộc sống. Ở dinh Trấn Biên, Nguyễn Hữu Cảnh đã lập xã Thanh Hà, cộng đồng người Hoa được ghép vào sổ hộ tịch. Từ đây, cộng đồng người Hoa trên vùng đất Đồng Nai với tư cách là một lưu dân kiều ngụ trên vùng đất khách xa lạ trở thành công dân của một quê hương đã bao dung họ trên hành trình đầy gian khổ để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp. Chính cộng đồng người Hoa cũng đóng góp nhiều nhân tài, vật lực với cư dân Việt khai khẩn, xây dựng và bảo vệ vững chắc vùng đất Đồng Nai - Gia Định trong những thời kỳ lịch sử. Với cương vị và nhiệm vụ được chúa Nguyễn giao phó kinh lược phương Nam, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã tỏ ra là một con người có tài thao lược, thực hiện xuất sắc ý định của chúa Nguyễn: nhanh chóng tạo nên sự ổn định, xác lập chủ quyền với vùng đất mới Đồng Nai - Gia Định. Những việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh cho thấy ông là một người có công trong việc khai sáng ra xứ Đồng Nai. Công lao to lớn ấy không chỉ là việc “tổ chức và sắp xếp lại giềng mối” mà còn thể hiện những chính sách về mọi mặt chính Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện: an dân, khuyến khích khai khẩn đất đai, ổn định xã hội... để không lâu sau đó, vùng rừng núi, sông rạch Đồng Nai trở mình, tràn đầy sức sống với phố xá, làng mạc trù phú. Những việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh là những nhân tố cơ bản, cần thiết thúc đẩy sự chuyển biến về kinh tế, xã hội, chính trị của đất Đồng Nai - Gia Định. Đồng thời, sau khi thiết lập bộ máy cai trị, bằng các biện pháp quân sự và chính trị, Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt nền tảng cơ bản, biến vùng đất mới của tổ quốc thành chỗ dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn tồn tại và đứng vững trong cuộc tranh chấp với Đàng Ngoài, chống lại phong trào Tây Sơn và cuối cùng thiết lập nên vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX. Thực hiện chuyến kinh lược phương Nam do chúa Nguyễn Phúc Chu sai phái vào năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh gắn liền tên tuổi của mình với vùng đất Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung. Với những công lao to lớn, chính Nguyễn Hữu Cảnh đã góp phần quan trọng trong tiến trình Nam tiến lịch sử thời các chúa Nguyễn. Là một danh tướng tài giỏi nhiều mặt, Nguyễn Hữu Cảnh đóng một vai trò quan trọng đối với việc mở mang lãnh thổ Việt Nam về phía Nam. Sau những năm cống hiến cho nước nhà, bôn ba trên trận mạc Nguyễn Hữu Cảnh mất vào năm 1700, để lại niềm thương tiếc không nguôi cho nhân dân. Đối với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, công ơn của Nguyễn Hữu Cảnh thật sâu đậm. Ông xứng đáng được nhân dân tôn kính là Đệ nhất công thần xứ Đồng Nai. Lịch sử khai phá của vùng đất này mãi mãi khắc ghi công lao của ông là “tiền hiền của các bậc tiền hiền” đã khai sáng cho một vùng đất. Người dân vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai ngưỡng vọng, tôn kính và ghi nhớ công lao của Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh. Tại thôn Bình Hoành dinh Trấn Biên (nay thụôc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà), người dân đã đồng tâm lập miếu võ trang nghiêm, tôn ông như vị Thành Hoàng đầy hiển linh, luôn giúp cho xứ sở bình yên, thịnh vượng. Hơn 310 năm tính từ năm Mậu Dần lịch sử ấy, vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung đã có nhiều thay đổi, biến chuyển và phát triển. Trong dòng chảy lịch sử của vùng đất phương Nam, nhân vật Nguyễn Hữu Cảnh đã để lại dấu ấn sâu đậm của mình. Phan Đình Dũng [1] Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. NXB Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa. 1972. Dịch giả Tu trai Nguyễn Tạo.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2010 8:37:36 GMT 9
Công nữ Ngọc Hoa, nàng là ai?(1) Vietsciences- Thân Trọng Thủy Trước khi Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc cho ấn hành cuốn “Nguyễn Phúc tộc Thế phả” (nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995) thì khi đề cập đến bốn người con gái của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên,hầu hết các tài liệu lịch sử vì không biết tiểu sử của hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa (hoặc có thể vì lý do khác) nên chỉ ghi là “khuyết truyện”. Tập san BAVH (2) ghi như sau: 1)-Ngọc Liên: [Mẹ là hoàng hậu(3)] Vợ của Nguyễn Phúc Vinh,con trưởng của Mạc Cảnh Huống, phó tướng, trấn thủ Trấn Biên,về sau đổi là Nguyễn Hữu Vinh.(4) 2)-Ngọc Vạn: (Mẹ là hoàng hậu) Không để lại dấu tích. 3)-Ngọc Khoa:(Mẹ là hoàng hậu) Không để lại dấu tích. 4)-Ngọc Đỉnh:(không rõ mẹ là ai) Lấy Nguyễn Cửu Kiều, Nghĩa Quận công, con của Lê Quảng, tước Quận công(4). Bà mất năm Giáp Tý (1684). Từ khi “Nguyễn Phúc tộc Thế phả” được xuất bản tại Huế (1995)thì tiểu sử hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa mới được công bố rõ ràng : * Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (con gái thứ hai của Sãi vương) Năm Canh Thân(1620 ) bà được Đức Hy Tông (Sãi vương) gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II.Về sau nể tình bà,vua Chân Lạp cho người Việt lập một dinh điền tại Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay). * Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (con gái thứ ba của Sãi vương) Năm Tân Mùi (1631) bà được Đức Hy Tông gả cho vua Chiêm Thành là PôRôMê.Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp. Sách “Dân tộc Chàm lược sử” cũng có ghi chép về cuộc hôn phối Việt Chiêm nầy. Sau khi “Nguyễn Phúc tộc Thế phả”được phát hành và sau khi đài truyền hình VTV ở Sài Gòn chiếu phim “Thời gian vĩnh cửu”(1996) - phim do đài truyền hình CV21 của Nhật và đài VTV của Việt Nam phối hợp thực hiện – thì năm 1997, trong sách Hội An do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành, ở chương 3 mục 1”Hai người đàn bà Hội An ở Nhật Bản”, tác giả Nguyễn Văn Xuân viết:”Sotaro, âm là Mộc Thôn Tông Thái Lang. Dòng họ nầy rất giàu có và đã sang ở Hôi An rất sớm,bằng cớ còn lưu lại là một bức thư ngắn bằng chữ nôm gởi cho chúa Nguyễn. Mộc Thôn là chủ một chiếc tàu riêng.Ông cư trú tại đây làm ăn và gây nhiều cảm tình mật thiết với chúa Nguyễn Phúc Nguyên.Ông được chúa Nguyễn tin cậy, giao cho nhiều trọng trách ở Hội An.Vào năm 1619 chúa Nguyễn lập cho ông một tờ thư xác nhận ông đã tự nguyện ở dưới gối (tức là làm chức quan trung thành với chúa ) Sau đó chúa cho ông lấy họ Nguyễn tên Đại Lương, cự danh Hiển Hùng.Chúa cũng mưu sự giao thông lâu dài ,tốt đẹp với Nhật Bản nên gả con gái là Ngọc Khoa cho ông.(cf Trần Gia Phụng/Ai đưa công chúa sang ngang) Trên “Đặc san Quảng Đà”năm Mậu Dần 1998 do nhà xuất bản Sông Thu ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ xuất bản tháng 6/1998, trong bài”Những nét đại cương về thành phố Hội An, mục”Hội An và giai thọai công chúa Ngọc Khoa”đưa ra cả hai thuyết về công chúa Ngọc Khoa như sau: 1.-Công chúa đã kết hôn với vua Chăm Pa là Po Ro Mê. -2- 2.-Công chúa kết hôn với một thương khách người Nhật Bản đến buôn bán nhiều năm tại Hôi An (1603 – 1619) tên là Araki Sotaro, tên Việt là Nguyễn Đại Lương. Bà đã theo chồng về Nhật năm 1620,gặp lúc Nhật cấm tàu buôn xuất dương,đành ở lại Nagasaki, lấy tên Nhật là Okakutome,gọi thân mật là Anio. Họ sinh hạ được một người con gái,đặt tên là Yasu. Sotaro qua đời năm 1636 và công chúa Ngọc Khoa cũng mất vào năm 1645; ngôi mộ của hai người đươc chôn cất trong khuôn viên chùa Daionji, nơi họ đã bỏ công sức xây cất và trùng tu. (Trần Gia Phụng/Ai đưa công chúa sang ngang). Trong bài viết trích dẫn trên, tác giả Trần Gia Phụng lập luận rằng bà vợ của thương nhân Sotaro chắc chắn không thể là công nữ Ngọc Khoa. Nhưng Trần Gia Phụng không xác định bà vợ đó là ai.Ông chỉ phỏng đoán rằng: 1.-Vì muốn tăng giá trị của người đàn bà ông yêu mến, Sataro có thể nói với gia đình hoặc với bà con rằng vợ của ông là công chúa hay gì đi nữa, làm sao ai biết được? 2.-Bà vợ của Sataro có thể là một người bà con trong dòng họ Nguyễn Phúc,có thể đã được Nguyễn Phúc Nguyên, khi ông còn là hoàng tử trấn nhậm ở Quảng Nam, tác thành cho hai bên lập gia đình với nhau. Biết đâu Nguyễn Phúc Nguyên nhận người đàn bà nầy làm con nuôi trong gia đình để làm tăng giá trị của cuộc hôn nhân? Dù thế nào đây cũng là một điều lý thú có thể nghiên cứu thêm bằng những tài liệu về phía Nhật Bản (Trần Gia Phụng/bài đã dẫn). Nhận xét: 1)- Về phiên âm tên Araki Sotaro: taro âm Hán Việt là thái lang.Theo phong tục Nhật Bản, thái lang là tên đặt cho người con trai trưởng.(Có vài tài liệu ghi là Sataro Araki ,đó là ghi theo kiểu người Âu, tên trước, họ sau).Tên Việt Nam của Sataro là Nguyễn Thái Lang, có lẽ là dựa theo chữ taro .Có vài tác giả gọi là Nguyễn Đại Lương, chắc là do nhầm lẫn vì chữ Thái và chữ Đại (Hán tự) chỉ khác nhau cái dấu chấm, còn chữ Lương là phần bên trái của chữ Lang. Araki Sotaro đọc theo âm Hán Việt là Hoang Mộc Tông Thái Lang.Tác giả Nguyễn Văn Xuân phiên âm là Mộc Thôn Tông Thái Lang e không đúng (Mộc thôn = Kimura) 2.- Như trên đã nói,tác giả Trần Gia Phụng phỏng đoán vợ của Sotaro có thể là một người con nuôi và ông gợi ý phải nghiên cứu thêm những tài liệu về phía Nhật Bản.Có lẽ ông muốn nói đến bản dịch bộ sách”Hòa văn ngọai thiên thông thư”(trong đó ghi chép những liên hệ của người Nhật đến buôn bán ở Hội An từ năm 1559 đến 1674, kể cả câu chuyện của Sataro) mà ta chưa có. Trong một bài viết của ông Đỗ Thông Minh, một cựu du học sinh ở Nhật Bản nhan đề là “Người Việt Nam đầu tiên ở Nhật Bản” tác giả có nhắc đến cuốn”Những Samurai của biển”(Umi no Samuraitachi)do Ichiro Shiaishi viết có ghi chép về cuộc hôn nhân Nhật Việt nầy. Chúng ta chờ đợi những phát hiện mới từ phía những tài liệu Nhật Bản nầy. 3)-Cũng trong bài viết”Người Việt Nam đầu tiên ở Nhật Bản”, tác giả ghi rõ ràng….”Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Hoa ,còn có tên là Vương Gia Cửu là người Việt đầu tiên đến định cư ở Nhật Bản. Một tác giả khác, ông Mai Thanh Hải, trong cuốn”Chuyện kín cấm thành”(nhà xuất bản Văn Hóa Thông TinVN, 2008), trong chương”Lấy chồng ngọai quốc”, trang 16 viết rằng…..”…Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có 5 con gái, cô lớn tên là Ngọc Liên,…..cô út là Ngọc Đỉnh….còn lại ba con gái nữa…..công nữ Ngọc Vạn gả cho vua Chân Lạp,…công nữ Ngọc Khoa gả cho vua Chăm Pa là PôRôMê,và công nữ Ngọc Hoa gả -3- cho một thân vương Nhật Bản đứng đầu các doanh nhân sang làm ăn buôn bán ở cửa biển Hội An.(Bà Ngọc Hoa không để lại tư liệu, hồi ức nào)” Còn nữa, Việt Sử Giai Thọai có dẫn lời của cụ Đào Trinh Nhất(5),cho biết Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có 5 con gái theo thứ tự là Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa, Ngọc Đỉnh và Ngọc Hoa. Không ai trong 3 tác giả trên cho biết xuất xứ của thông tin trên cho nên ta không biết cái tên Ngọc Hoa lấy ở đâu ra. Thế còn BAVH thì sao? BAVH năm 1933, cuốn 4 trang 268 , trong bài “Carnet d’un collectionneur”(sổ tay của một nhà sưu tập), đoạn nói về những vùng có kiều dân Nhật bản xưa ở Đông Dương(Anciennes colonies japonaises en Indochine) chép như sau: Parmi les armateurs japonais qui commerçaient avec l’Indochine, au XVIIe siècle, il convient plus spécialement de retenir les noms dedeux d’entre eux qui commerçaient avec l’Annam : Araki Sôtarô et Shichirôbei Eikechi. Sôtarô avait épousé en 1620, une jeune fille de la famille royale de Cochinchine. Elle s’appelait Amô et suivit son mari au Japon. Lorsque l’édit du Shogun interdit, en 1636, toute sortie du Japon des sujets japonais, ou toute entrée de ceux qui s’étaient expatriés, elle était encore dans ce pays. Elle mourut en 1645. Elle est enterrée au temple Daion-ji àNagasaki, et les descendants de son mari conservent un miroir qu’elle avait apporté d’Annam (1). (Trong số chủ tàu buôn Nhật Bản giao thương với Đông Dươngvào thế kỷ 17,đặc biệt ghi nhận hai người trong số họ đã buôn bán với An Nam: Araki Sotaro và Shichirôbei Eikechi. Vào năm 1620,Sotaro kết hôn với một tiểu thư thuộc hoàng gia…. BAVH không hề nhắc đến cái tên Ngọc Hoa , cũng không khẳng định tiểu thư đó là con gái của Chúa Nguyễn, mà chỉ nói chung chung :thuộc hoàng gia…. Trở lại thông tin của tác giả Mai Thanh Hải “Bà Ngọc Hoa không để lại tư liệu, hồi ức nào”, nếu ta hiểu ý ông muốn nói là “bà vợ VN của Sotaro không để lại tư liệu, hồi ức nào’’ thì e không đúng. Bởi vì qua những tài liệu đã phổ biến, ta đã nghe nói đôi điều về bà: - Bà là con của chúa Sãi,(hoặc là người trong hoàng gia) năm 1619 được gả cho một thương nhân Nhật Bản tên là Araki Sotaro. * Bà có tên Nhật là Wakaku, tên thân mật là Anio. * Bà theo chồng về Nhật năm 1620,định cư ở Nagasaki. * Bà mất năm 1645, sống lâu hơn chồng 10(hay 9?)năm và - thật hi hữu – bà chết cùng ngày cùng tháng với chồng. * Bia mộ chung của hai ông bà được chôn ở chùa Đại Âm Tự(Daionji), Nagasaki. - Hai người có một con gái tên là Yasu (Gia Tu). * Viện Bảo tàng Nghệ thuật Nagasaki còn lưu trữ chiếc gương soi của bà. * Hằng năm từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10, trong lễ hội Okunchi ở Nagasaki có một màn đám rước do hai em bé đóng vai Sotaro và Wakaku đứng trên mũi một chiếc thuyền buôn. (Okunchi là một lễ lớn, là niềm tự hào của Nagasaki). -4- Những điều nghe nói đó nay đã được tác giả Trương Văn Tân làm sáng tỏ thêm qua một bài ký sự viết sau lần trở lại thăm viếng Nhật Bản gần đây. Thiên ký sự (với hình ảnh minh họa) có tên là:”Một thoáng Phù tang” Trong đọan nói về “Nàng công nương họ Nguyễn” tác giả viết như sau:”…Tôi đi xe điện tìm đến con đường lịch sử Teramachi-dori( đường Xóm Chùa). Ở giữa con đường Xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa nầy có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, hàng chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ “samurai” vài trăm năm trước. …..Tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro(Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai …Trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật Wakaku(Vương Gia Cửu)…..Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang sao chụp từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku đã tự đặt thêm một cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san……Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm, một pháp danh rất Việt Nam. Cũng theo trang thông tin nầy, hơn hai trăm năm sau, vào thời Minh Trị, mộ phần của Araki Sotaro và Anio-san đã được con cháu đời thứ 13 cải táng và mộ phần hiện tại chỉ có đời thứ 3, thứ 12, 13 và 14(Araki Sotaro là đời thứ 1) Đọc bảng tiểu sử và tìm hiểu phần tiếng Nhật trên đó tôi có nhận xét sau: * Phần tiếng Nhật: về lai lịch,bảng tiểu sử ghi:”Vương Gia Cửu, một người con gái bà con bên ngọai của Quốc vương An Nam. Chính quyền Nagasaki đã dùng chữ musume =người con gái (thường)chứ không dùng chữ hime(chữ nầy dùng để chỉ con gái của tướng quân Nhật, vợ tướng quân Nhật hoặc dùng để dịch chữ “Princess”). - Phần tiếng Anh: Ở đọan viết bằng tiếng Anh, chữ relative được dùng để chỉ liên hệ giữa công nương Wakaku và quốc vương An Nam , chứ không phải dùng chữ daughter (During a trip to An Nam (Viet Nam) in 1619 Araki Sotaro was betrothed to Wakaku, a relative of the King of An Nam). Tôi bắt đầu tin rằng công nữ Wakaku chỉ là con nuôi của Chúa Sãi. Mãi đến khi tôi tình cờ tìm được một tài liệu của Hội Hữu Nghị Nagasaki – Việt Nam (Nagasaki-Việt Nam Frienship Association) thì sự thật đã sáng tỏ: -5- Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro và vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên (hình của Trương Văn Tân) Trong bài Sotaro Araki and Princess Anio (của Hội Hữu Nghị Nagasaki-VietNam) có đọan sau: There was a man in Nagasaki, Sotaro ARAKI, who lived from the late 16th century to the early 17th century. At first he was a samurai in Kumamoto not far south of Nagasaki, and moved to Nagasaki in 1588 and started living there on an estate. Japanese were quite active in those days, going down south and building many Japanese towns in Southeast Asia. * Sotaro, getting aboard a goshuin-sen (officially-licensed trading ship), went to visit the Philippines, Vietnam, Thailand, Cambodia and was said to have acquired a vast fortune from trade. In 1619 in what is now Hue, he met and married Wakaku, a woman of maternal bloodline of the Vietnamese King who adopted her as a daughter. Sotaro went home with his new bride, and built an emporium (trading house) in Motoshikkui-machi in Nagasaki. He was surely the first Japanese to have an international marriage and came back to Japan with a King’s daughter, albeit an adopted one. Princess Wakaku, while living in Nagasaki, was called Ani-o-san and was well-liked by the Nagasaki citizens… Xin tạm dịch đọan cần thiết:…”Năm 1619 tại nơi mà hiện nay gọi là Huế ,ông gặp gỡ và kết hôn với một người con gái thuộc dòng bên ngọai được Vua An Nam nhận làm con nuôi. Sotaro trở về nước với cô dâu mới, và gầy dựng một trung tâm thương mại tại Motoshikkui-machi,ở Nagasaki. Có lẽ ông là người Nhật đầu tiên kết hôn với người nước ngoài và trở về Nhật với một công nữ con Vua, cho dù chỉ là con nuôi….” - 6 - Đến đây có thể tạm kết luận như sau: Chúa Sãi có 4 người con gái được ghi vào sử sách và tiểu sử cũng khá rõ ràng. Ngoài 4 công nữ đó,Chúa còn một người con nuôi gả cho một thương nhân Nhật Bản thuộc dòng dõi võ sĩ đạo, giàu sang và có thế lực. Bà theo chồng qua sinh sống ở Nhật trong 26năm, được người Nhật ở Nagasaki quí mến. Khi bà chết, mộ bà được chôn cạnh mộ chồng ở bên trong một ngôi chùa tại Nagasaki, sau nầy con cháu đời thứ 13 đã cải táng đi đâu không rõ. Riêng về câu “thuộc dòng bên ngọai của vua An Nam” theo thông tin từ tài liệu Nhật bản thì nếu hiểu vua An Nam chỉ Chúa Sãi thì bên ngọai đây là chỉ họ Mạc. (Thương nhân các nước ghi ghé Đàng Trong, họ xem chúa Nguyễn là vua An Nam, hơn nữa “tại nơi mà nay gọi là Huế”giúp ta hiểu vua An Nam chính là Chúa Sãi) Chuyện của bà là một chuyện có thật và tên thật của bà là gì không còn cần thiết nữa. Đã có người gọi bà là Công nữ Ngọc Hoa, thôi thì ta hãy cứ tạm gọi bà bằng tên đó cũng được. Chú thích: (1)Tác giả bài viết thành thật cám ơn chị Quỳnh Chi đã giúp giải thích các từ tiếng Nhật trong bài nầy. (2)BAVH:Bulletin des Amis du vieux Hué=Tập san của Hội Đô Thành Hiếu cổ.(cf Généalogie des Nguyen avant Gia Long, năm 1920, trang 324). (3)Hiếu Văn hoàng hậu, tức là bà MạcThị Giai, con gái của Mạc Kính Điển,bà gọi MạcCảnh Huống là chú ruột. Con gái bà là Ngọc Liên lại lấy Nguyễn Phúc Vinh (tức Mạc Kính Vinh, con của Mạc Cảnh Huống) Vậy Ngọc Liên vừa gọi Mạc Cảnh Huống là ông chú vừa gọi là cha chồng. Chưa hết! Bà MạcThị Giai là chắt nội, cháu nội, cháu gọi bằng bác, là chị, là em của tất cả vua nhà Mạc trị vì từ 1527 đến 1625 4)Hai phó tướng nầy được cải họ, cho mang quốc tính. (5)Cụ Đào Trinh Nhất sinh năm 1899, con cụ Đào Nguyên Phổ,rể cụ Lương Ngọc Quyến. Cụ Đào Trinh Nhất là học giả, và là nhà báo lỗi lạc. Cụ là tác giả cuốn “Nước Nhựt Bổn-30 năm duy tân”.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:26:36 GMT 9
Tuệ Tĩnh -người mở đầu nền y dược cổ truyền dân tộc Nếu những kết quả nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học Việt Nam sau này không đưa thêm bằng chứng gì mới thì truyền thuyết địa phương và những công trình nghiên cứu chuyên môn khác cho phép khẳng định Tuệ Tĩnh là một nhân vật đời Trần. Ông chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương ngày nay). Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người. Năm 55 tuổi (1385), Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư, mất ở bên ấy, không rõ năm nào. Bia văn chỉ làng Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm 1697) cùng các tư liệu khác ở địa phương đều ghi như vậy. Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tư giác y thư (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Đường luật (nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị cũng dùng quốc ngữ. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác phẩm của ông thì Tuệ Tĩnh không những có vị trí trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học nữa. Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức sâu sắc về quan hệ giữa con người và sinh cảnh, đồng thời cũng tiêu biểu cho ý thức độc lập tự chủ. Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng không chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những sách nước ngoài. Chẳng hạn, ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông,v.v. Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc. Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc Việt Nam. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng, có tượng Tuệ Tĩnh. Câu đối thờ ông ở đền Bia viết, dịch nghĩa như sau: Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang. Giáo sư vũ ngọc khánh - đỗ thị hảo ******************* Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn ông (*). Sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (11-12-1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Nay là xã Hoàng Hữu Nam huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sống nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn và cũng qua đời ở đây vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở Khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc huyện Hương Sơn (cách phố Châu huyện lỵ Hương Sơn 4 cây số). Lê Hữu Trác là con thứ bảy của Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng. Dòng họ của ông có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Cha Lê Hữu Trác đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư. Năm Kỷ Mùi (1739) Lê Hữu Trác 20 tuổi thì cha qua đời, ông rời kinh thành về nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, thi vào tam trường, sau đó không thi nữa. Năm 1739 cũng là năm mở ra quy mô lớn của phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến, chỉ một năm sau (1740) nghĩa quân của Hoàng Công Chất đánh sát huyện ông. Chàng thư sinh trẻ tuổi Lê Hữu Trác đang mê mải đèn sách phải lánh đi nơi khác đọc sách. Có người thấy thế đã bảo ông "Binh lửa khắp nơi, con trai thời loạn há chịu già đời ở trong phòng sách mãi sao?" và khuyên ông nên theo nghề võ. Từ đó ông vừa dùi mài kinh sử vừa nghiên cứu binh thư. Sau nhờ ẩn sĩ họ Vũ ở Đặng Xá dạy vũ thuật âm dương (phép bói toán độn số), ông "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình" (Tựa "Tâm lĩnh"). Chiến tranh phong kiến đã gây đau thương chết chóc cho biết bao nhiêu gia đình làng xóm, nó không đem lại gì cho nhân dân, cho đất nước; đã làm cho Lê Hữu Trác chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên ông đã nhiều lần từ chối sự đề bạt của tướng nhà Trịnh. Ông nhận ra theo Lê hay Trịnh cũng là chí theo đuổi chiến tranh "cốt nhục tương tàn"; cái chí mạnh "xung Ngưu Đẩu" của ông cũng hóa "ngông cuồng" mà thôi. (Đọc bài thơ trong lời tựa bộ "Tâm lĩnh"). Cho nên năm 1746 khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới. Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi. Trong hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông đọc sách thuốc "Phùng thị cẩm nang" hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, muốn đem hết cái hiểu thấu về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc. ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu Lãn ông (ông lười) ý nói lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó. Giữa cảnh thiên nhiên tĩnh mịch của núi rừng Hương Sơn, sớm khuya mê mải đọc các sách thuốc: Y học nhập môn, Cảnh nhạc toàn thư, Nam dược thần hiệu (của Tuệ Tĩnh), Bảo sinh diệu toản yếu... thật là: Sá chi vinh nhục việc đời, Đem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền. (Bất can vinh nhục sự Bảo đao nhập cùng lâm. An bần - Y lý thâu nhàn) Hải Thượng Lãn ông muốn tìm thầy, tìm bạn để học thêm nhưng nơi núi rừng hẻo lánh "trên không có thầy giỏi để học, dưới không có bạn hiền giúp, chỉ một mình nói với mình, tự hỏi tự đáp mò mẫm tưởng tượng đủ thứ" (Lời tựa "Tâm lĩnh") để tìm ra chân lý. Sau ông nhờ một ông lang ở làng bên đi lại thân mật, giúp ông giải đáp những mắc mớ, vài ba năm sau ông đã chữa được một số bệnh thông thường trong gia đình và làng xóm. Mùa thu năm Bính Tý (1754) Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu (Nghệ An). Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Lãn ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức - Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải thượng Lãn ông. Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782) Lãn ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức cũng yếu lại là người chăm lo chữa bệnh cho trăm họ, nhất là ông đã quyết chí xa lánh công danh, theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm nên ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh với tâm trạng vừa lo lắng, vừa chán nản; mãi sau nghĩ đến bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, mà ông "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" (Thượng kinh ký sự), nên ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách, phần "con cái trong nhà cũng hết sức van nài", ông tạm làm vui từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường. Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng Lãn ông thấy nếu nhận thưởng chịu ơn thì khó lòng rời kinh đô trở lại Hương Sơn được, nên ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Thời gian ở kinh đô, Lãn ông muốn về thăm cố hương Hải Dương của mình, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Sau hơn 20 năm xa cách, được trở về mảnh đất "chôn nhau cắt rốn". Đang sống giữa quê hương, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Nhận được lệnh triệu, ông đành phải rời quê hương. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" (Thượng kinh ký sự). Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được, lại nóng lòng trở về Hương Sơn, Lãn ông đang tìm kế thoái lui, thì may có người tiến cử một lương y mới, ông liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Hải Thượng Lãn ông trở về Hương Sơn bằng đường thủy, nhưng sợ triều đình bắt trở lại ông phao tin đi đường bộ. Thoát khỏi kinh đô ông sung sướng như "chim sổ lồng, cá thoát lưới", lòng chỉ muốn "bay nhanh" về quê nhà: Lên đường từ giã long lâu Gươm đàn nửa gánh ra ngay đô thành, Ngựa quen đường cũ về nhanh, Quay thuyền khó lúc lênh đênh giữa dòng. Mây qua đường để bớt nồng Núi non mở mặt như lòng vì ai Xanh xanh một dải non đoài Giống non ta cũ chỉ vài hòn thôi. (Thượng kinh ký sự). Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn. Gần một năm sống giữa kinh đô phong kiến biết bao công danh phú quý lôi kéo, nhưng ông "thung dung" ra đi lại "ngất ngưởng" trở về, lòng trong không hề đục, chí lớn không hề sờn. Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" ghi lại tỉ mỉ chuyến đi kinh, tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khi bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. -------------------------------------------------------------------------------- (*) Hải Thượng Lãn ông: Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. Lãn ông nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng với danh lợi.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:27:42 GMT 9
Nhà bác học Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 2-8-1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)... Lê Quý Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà. Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn lận với họ những vấn đề sử học, triết học... Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Đó là các đợt Lê Quý Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế... Chính nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách". Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và một nghị lực làm việc phi thường, phải kể đến thời đại mà Lê Quý Đôn sống. Và ông là đứa con đẻ, là sản phẩm của thời đại ấy kết tinh lại. Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đều được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó. Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể ra như sau: - Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi. - Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại "bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến. - Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống Minh. - Kiến văn tiểu lục, là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở... - Phủ biên tạp lục, được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội. Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước. Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc. Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ, Lê Quý Đôn để lại có Quế Đường thi tập khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc. Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia". Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại để không ngoài ba điểm ấy". Đây là những tiêu chuẩn về thơ mà Lê Quý Đôn đề ra cho quá trình sáng tác của mình. Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong lòng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa: Thành cổ lộng Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm, Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt. Sóng biết đã rửa sạch nỗi hận cho vua Trần, Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh. Sau trận mưa bò vàng cầy bật gươm cũ, Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn. Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi. (Bản dịch nghĩa) 2002-08-13
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:28:46 GMT 9
Ngô Thì Sĩ - một tài năng và nhân cách cao đẹp Trên vách đá động Nhị Thanh tại làng Vĩnh Trại, huyện Thoát Lãng thuộc tỉnh lỵ Lạng Sơn (cũ), hiện còn bức phù điêu khắc đá, tạc hình một ông già ngôi, bên dưới khắc bài văn "tự tán": "Người là ai? khăn áo đạo sĩ, nét mặt nhà nho, Thân cao bốn thước, lưng nhỏ ba chét tay, Râu thưa, tóc mai trĩu, má hóp, lưỡng quyền gầy. Há không chốn tiêu dao mà làm tổ trong hang này? Văn dốt vũ dát, chính sự độn, việc "hành chỉ" tuềnh toàng, không một nét đáng ghi lại. Duy tính ưa suối đá, mà chí khí ở nơi hồ biển, Được hang động này thật thích hợp, để gìn giữ cái tuổi già lều lảo của ta..." Đó là chân dung thực của Ngô Thì Sĩ và cũng là những lời ông bộc bạch về con người mình - chỗ hay cũng như chỗ dở. Ông sinh ngày 15-10-1726, có hiệu là Ngọ Phong, quê làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Gia đình Ngô Thì Sĩ nổi tiếng thi thư. Ông nội là Ngô Trân, cha là Ngô Thì ức, em là Ngô Thì Đạo đều có tài văn học. Thuở nhỏ, vì cha mất sớm, Ngô Thì Sĩ được ông nội chăm sóc dạy dỗ. Ông học giỏi, nhưng thi cử lận đận, vì những ý tứ mới lạ và văn chương phóng khoáng của ông không hợp với các quan trường. Tiếng tăm ông lừng lẫy càng làm cho người ta thành kiến. ở các kỳ thi Hội, người chấm cứ tìm các bài văn đoán là văn Ngô Thì Sĩ để đáng hỏng. Chúa Trịnh biết việc này, đã cách chức một khảo quan là Trần Tổ (1752), nhưng thành kiến của quan trường vẫn không thay đổi. Đến năm 1766, Ngô Thì Sĩ mới đỗ được Hoàng Giáp. Ông liên tiếp làm quan ở nhiều nơi: Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, rồi cuối cùng là Đốc trấn ở Lạng Sơn, mất tại nhiệm sở ngày 22-10-1780. Ngô Thì Sĩ xuất thân từ một gia đình quan chức nhỏ, cái nghèo đeo đuổi ông từ thuở học trò cho đến khi đã thành một viên chức trong phủ chúa và cả khi đã thành một triều quan. ông đã từng có những giai đoạn mỗi tháng có đến mười lăm ngày bị "gạo củi bức bách..., túi rỗng, bếp lạnh" (Trách ma nghèo). Cũng đã từng phải đi vay để đáp ứng nạn gạo châu củi quế, "nhưng dần dần người ta chán vì thất tín nên một tiền cũng kiên quyết chối từ" (Nông đáp). Tình cảnh Ngô Thì Sĩ cũng là hiện tượng khá phổ biến của tầng lớp nho sĩ trí thức đương thời. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ vẫn rất tha thiết với đất nước, vẫn mang hoài bão "tri quân trạch dân" và họ trăn trở rất nhiều trước thời cuộc, Ngô Thì Sĩ cũng vậy. Hơn ba mươi năm làm quan, ông đã đề xuất nhiều vấn đề và trực tiếp đối thoại với phủ chúa. Đó là các đề nghị chấn chỉnh thi cử, sửa đổi chính sách thuế khóa, chiêu tập nông dân phiêu bạt về khai hoang, hạn chế việc nhà giàu chiếm đoạt ruộng đất, nghiêm trị bọn quan lại hà hiếp dân, phòng thủ biên giới... Ông đặc biệt thông cảm và dành nhiều ưu ái cho tầng lớp học trò và nông dân. Vào thời điểm bấy giờ, khi bộ máy quan liệu đã hết sức sa sút, một người có nhân cách cao đẹp như ông thật hiếm có. Ngô Thì Sĩ là một trí thức có nhiều hoài bão. Suốt đời, ông theo đuổi lý tưởng làm một người có ích cho dân cho nước. Trong chính trị, có thể ông không thành công, nhưng trong sử học, văn học, ông có rất nhiều đóng góp. Ông thực sự có vai trò người sáng lập Ngô gia văn phái. Ông là một nhà sử học lớn với các tác phẩm Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên, một phần Đại Việt sử ký tục biên. Lối chép sử của ông có tinh thần dân tộc, có nhiều phát hiện, và có phong cách khoa học. Ngô Thì Sĩ cũng là một nhà văn đa dạng về bút pháp và có một khối lượng tác phẩm khá lớn. Bảo chướng hoằng mộ cho ta thấy sự sắc sảo, giàu tinh thần phê phán của ngòi bút nghị luận, Ngọ phong văn tập thể hiện chất hiện thực, phong phú của ngòi bút ký sự. Anh ngôn thi tập thể hiện chất hào hoa đằm thắm của một tâm hồn thi sĩ giàu nhân ái, trung hậu... Song có lẽ nổi bật nhất ở Ngô Thì Sĩ là chất cận đại trong thi pháp của ông. Đó là chất văn xuôi, chất đời sống thường xuất hiện đậm nét ở mọi thể loại. Có thể gặp trong tác phẩm của ông những con số thống kê có thực, những cảnh thực, người và chuyện thực. Điều này là mới mẻ so với bút pháp ước lệ, khoa trương, tượng trưng của văn học thời Trung đại, Ngô Thì Sĩ cũng có thể xem là nhà thơ tình sớm nhất trong văn học Việt Nam. Có lẽ trước ông, không tìm thấy trong văn học nước ta nhà văn nào có cả một tập như tập Khuê ai lục nói về người vợ, người tình một cách thâm trầm da diết như vậy. Ngoài ra, thơ đề vịnh của Ngô Thì Sĩ cũng bộc lộ được tính cách hào hoa, tâm hồn phong phú và nhạy cảm của ông trước cảnh đẹp của quê hương đất nước. Trần Thị Băng Thanh
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:31:27 GMT 9
Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông. Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra. Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào). Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người). Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng "kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền... Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình. Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng về duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu dịch... ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ đại" (Đào Thái Tôn). Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm(1) xứng đáng là "cây đại thụ", nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ. Hoàng Điệp * Giai thoại về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm -------------------------------------------------------------------------------- (1) Còn có biệt hiệu là Tuyết Giang Phu tử.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:32:33 GMT 9
Nguyễn Trãi. Ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi: - Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo". Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân: - Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo". Giáo sư sử học Văn Tâm * Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc * Bình ngô đại cáo
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:33:25 GMT 9
Nhà thơ Lý Tử Tấn Lý Tử Tấn (sau đổi là Nguyễn Tử Tấn) hiệu Chuyết Am, sinh năm 1378, quê ở làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Ông thi đỗ Thái học sinh năm 1400, cùng khoa với Nguyễn Trãi, dưới triều Hồ Quý Ly, nhưng không ra làm quan. Sau khi Lê Lợi khởi nghĩa chống Minh, Lý Tử Tấn đã theo Lê Lợi và được giao giữ chức Văn cáo, tức là làm nhiệm vụ thảo công văn, giấy tờ, thư tín... Cuộc kháng chiến chống Minh kết thúc thắng lợi, vương triều Lê ra đời, Lý Tử Tấn lại có mặt trong công cuộc xây dựng vương triều mới. Ông làm quan tới chức Nhập nội hành khiển tri tam quán kiêm Nhập thị kinh diên, trải 3 đời vua: Lê Thái Tổ (1428 - 1433), Lê Thái Tông (1434 - 1442), Lê Nhân Tông (1443 - 1459). Lý Tử Tấn mất năm nào chưa rõ. Căn cứ vào bài tựa sách Việt âm thi tập, Lý Tử Tấn viết năm 1459, có thể suy đoán ông mất phải sau năm ấy, tức là ông thọ hơn 80 tuổi. Trong lịch sử văn học Việt Nam, tên tuổi Lý Tử Tấn gắn liền với bài Phú Xương Giang, ông viết để ca ngợi chiến công ngày 3-11-1427 của nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt 7 vạn quân Minh và bắt sống mấy trăm tướng lĩnh của giặc tại Xương Giang trong đó có Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Qua bài Phú Xương Giang người đọc không chỉ thấy ở Lý Tử Tấn một trái tim yêu nước thiết tha, một tinh thần tự hào dân tộc mà còn có một tư tưởng chính trị sâu sắc khi ông nói về sự thành bại trong việc giữ nước. Theo ông, muốn giữ vững nước, không cốt ở núi sông hiểm yếu, không cốt ở binh hùng tướng mạnh, điều căn bản là phải có con người, có chính nghĩa: Có đức công mới lớn Có người đất mới linh Giữ nước không cốt ở hiểm yếu Giữ dân không cốt ở hùng binh. Sở trường văn học của Lý Tử Tấn là làm phú. Bên cạnh Phú Xương Giang, ông còn có hơn 20 bài phú khác, trong đó Chí Linh sơn phú, Triều tinh phú, Quân chu phú, Hội anh diện phú... là những bài có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, phản ánh tình cảm nồng thắm đối với đất nước, lòng lo nước, thương đời của Lý Tử Tấn. Di sản phú của Lý Tử Tấn để lại được chép trong Hoàng Việt văn tuyển và Quần hiền phú tập. Lý Tử Tấn sáng tác khá nhiều thơ nhưng thất lạc cũng nhiều, hiện chỉ còn hơn 70 bài nằm rải rác ở các sách Việt âm thi tập, Tinh tuyển chư gia luật thi, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển. Lý Tử Tấn làm thơ trên quan điểm thi pháp của mình. Ông từng nói: "Tôi cho rằng phép làm thơ khó lắm thay! Thơ luật chỉ có 56 chữ, thơ tuyệt cú lại chỉ có 28 chữ, mà đủ mọi thể cách. Muốn thơ cổ kính, thanh đạm thì lại gần với thô; muốn đẹp đẽ, phong phú thì lại gần sự lòe loẹt; hào phóng thì dễ buông thả, thật thà thì dễ quê mùa. Cho nên lời ý giản dị đầy đủ, mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, trung hậu nhưng không thô kệch, cao siêu mà vẫn ôn hòa, đó là những điều rất khó có thể đạt được" (Tựa sách Việt âm thi tập). Nhận xét về thơ Lý Tử Tấn, Phan Huy Chú viết: "Thơ ông chuộng giản dị, phần nhiều có ý thơ cổ". Đọc thơ Lý Tử Tấn, chúng ta bắt gặp một tâm hồn thanh thản, ung dung, cao khiết, gặp một thiên nhiên trong mát với những hương vị của hoa trái, cua đồng, của trời, nước, nắng gió hiền hòa; tất cả, chỉ có thể tìm thấy trong thế giới tinh thần tĩnh tại á Đông xưa: Nắng hòe êm dịu xế tường vôi, Mềm mại chồi sen quạt gió trời. Sắc lẫn màu thu trời rợn bóng, ánh lồng vẻ núi nước trong ngời. Cua vàng gạch óng vào đăng sớm, Phật thủ da xanh nở múi rồi, Bình sẵn rượu ngon vui cứ uống, Đợi gì giậu cúc nhị vàng phơi. (Đầu thu - Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển). Là một trí thức yêu nước, một nhà văn hóa, nhà thơ học vấn rộng khắp, Lý Tử Tấn xứng đáng được hậu thế trân trọng ghi nhớ.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 21, 2011 9:38:58 GMT 9
Nguyễn An trở thành thái giám từ lúc nào?
Lê Thanh Hoa Muốn tìm hiểu nhân vật đặc biệt này, trước hết hãy lược qua về lịch sử hoạn quan triều Minh, một lực lượng mà các sử gia Trung Hoa đánh giá là đông hơn cung tần mỹ nữ. Một câu nói của vua Khang Hy đời Thanh thường được các nhà nghiên cứu trích dẫn, ghi rằng: “Thời Minh có chín nghìn cung nữ thì nội giám có tới mười vạn người, ăn uống không đủ nên có người bị chết đói.” Theo sử sách Trung Hoa, hoạn quan có mấy nguồn gốc như sau: Những tội phạm chịu nhận hình phạt bị thiến bộ phận sinh dục. Triều đình chủ trương tìm các thanh thiếu niên tuấn tú của các chư hầu bắt về thiến để dùng làm hầu cận ở hậu cung. Một số người tự thiến để được vào cung (từ khi hoạn quan lên hương, được trọng dụng). Nguyễn An là ai? Minh sử có ghi rằng vào những năm cuối của Minh Thái Tổ và mấy năm đầu của Minh Thành Tổ, Trương Phụ thường đi sứ sang nước ta. Phụ bắt triều đình nhà Hồ phải cống nạp những người tài và nam nhân tuấn tú. Phụ đem những người này về Tầu bắt phải bị thiến để sung vào lực lượng hoạn quan. Những hoạn quan gốc Việt Nam do Trương Phụ bắt về nổi tiếng có Phạm Hoằng, Vương Cẩn, Nguyễn An, Nguyễn Lăng. Tài của Nguyễn An sẽ được đề cập sau. Trong số những người đặc biệt ấy, có người được vua Anh Tông nhà Minh tặng biệt danh “Bồng Lai Cát Sĩ”. Sách chép rằng Phạm Hoằng nhã nhặn, bình tĩnh, thanh nhã, có văn tài, thông tuệ hơn người. Thành Tổ rất thích, biết Hoằng có thể đào tạo được, phá lệ cho Hoằng đọc sách trong cung. Sau Hoằng phục vụ mấy đời hoàng đế, hết thảy các đế đều sủng ái. Anh Tông là người sủng ái Hoằng nhất, đã tặng Hoằng biệt danh siêu phàm thoát tục: “Bồng Lai Cát Sĩ”. Theo tài liệu biên khảo của các nhà nghiên cứu lịch sử Đài Loan, tổng kiến trúc sư Nguyễn An đã chỉ huy lực lượng cả triệu nhân công thực hiện công trình xây cất suốt 17 năm. Phí tổn về nhân lực và vật liệu thật lớn lao. Trong số những nhân công này có cả 7 ngàn người Việt Nam. Một số tài liệu khác được biết thêm: Nguyễn An sinh năm 1381 (Tân Dậu) và mất năm 1453 (Quí Dậu), thọ 72 tuổi. Là kiến trúc sư đời Trần Thuận Tông, bị sứ Tầu bắt (người tài) đem về thiến để dùng làm hoạn quan. Trong sách “Thủy Động Nhật Ký” của Diệp Thịnh thời Minh có viết: “Nguyễn An cũng gọi là A Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc. Trong các công trình xây dựng kinh thành Bắc Kinh và 9 cửa lầu, 2 cung 3 điện, 3 phủ 6 bộ đều có nhiều công lao to lớn.” Sách “Chính Thống Thực Lục” đời Anh Tông ghi: “Ngày 10 tháng 2 năm Chính Thống thứ 6 (1441), 2 cung 3 điện hoàn thành, vua ban thưởng cho Nguyễn An 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm lụa, một vạn quan tiền.” Minh Sử cũng ghi: “Nguyễn An người Giao Chỉ, đầu óc minh mẫn, kỹ thuật tài giỏi hơn người, vâng mệnh vua Thành Tổ xây dựng thành trì, cung điện và các dinh thự của các phủ, bộ, mắt đo bụng nhẩm tính toán đâu vào đó, kết quả đều đúng kế hoạch dự trù, Công bộ chỉ biết tuân theo đó mà chấp hành.” Sách Kinh Kỳ Ký Thắng (tác giả Dương Sỹ Kỳ) đời Minh có ghi thuật công trình kiến trúc quần thể cung điện hoàng đế ở thủ đô Bắc Kinh, đặc biệt ca ngợi biệt tài của Nguyễn An trong công trình tu tạo Cố cung. Tuần san Sử Địa Cái Thế xuất bản ở Thiên Tân, số đề ngày 11 tháng 11 năm 1947, sử gia lừng danh của Trung Hoa là Trương Tú Dân đã đặc biệt viết nhiều bài ghi ơn công lao của Nguyễn An, trong đó chủ yếu nhắc nhở: “Dân thành Bắc Kinh ngày nay nên kỷ niệm Nguyễn An, vị công trình sư đời nhà Minh, người An Nam.” Trong bộ sử The Cambridge History of China, phần sử nhà Minh, có ghi lại nhiều chi tiết về việc kiến trúc thành Bắc Kinh, trong đó còn có chú thích Nguyễn An (Juan An - mất năm 1453) bằng chữ Nho nữa. Chúng tôi lược dịch một phần nói về vai trò của kiến trúc sư trưởng Nguyễn An như sau: “... Công trình xây dựng thành đô Bắc Kinh đòi hỏi sự động viên một lực lượng đông đảo thợ giỏi về thủ công và lao động, thường được lấy từ những đơn vị quân binh hoặc những tội phạm khó trị bị kết án khổ sai, cũng như việc trưng dụng vật liệu xây cất từ khắp nơi trong nước, kể cả những nơi xa xôi như An Nam vừa mới được sát nhập. Số lượng nhân công không biết đích xác, nhưng ước lượng phải lên tới hàng trăm nghìn người. Kiến trúc sư trưởng là một thái giám người An Nam tên Nguyễn An (mất năm 1453), ông này cũng còn đóng vai trò quan trọng trong công trình tái thiết Bắc Kinh sau đó dưới thời vủa Anh Tông.”
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:10:47 GMT 9
Quản Cơ Thành và Khởi nghĩa Bảy ThưaBùi Thụy Đào Nguyên Tượng đài Trần Văn Thành tại Châu Phú, An Giang Trần Văn Thành (? [1] - 1873) còn được gọi là Trần Vạn Thành (theo triều Nguyễn) [2] , Quản Cơ Thành (khi làm Chánh Quản cơ), Đức Cố Quản (tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương gọi tôn). Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873) trong lịch sử Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa diễn ra trong bối cảnh triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước (Hòa ước Nhâm Tuất 1862) với thực dân Pháp, và các cuộc khởi nghĩa tại Nam Kỳ lúc bấy giờ bị dập tắt hay bị suy yếu. Mặc dù vậy, khởi nghĩa Bảy Thưa vẫn hình thành và kéo dài khá lâu (6 năm) ở đồng Láng Linh (Châu Phú), và đã gây tiếng vang trong và ngoài tỉnh. Đây là cuộc khởi nghĩa mang đậm màu sắc tôn giáo vì thủ lĩnh Thành (là một trong số đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) và đông đảo nghĩa quân đều là người theo đạo Lành (còn có tên là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương). I. Thân thế và sự nghiệp: Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) [3]. Ông trưởng thành và hoạt động dưới triều đại Thiệu Trị và Tự Đức, từ khoảng năm 1840 đến 1873. 1,1 Thời loạn đầu quân giúp nước: Năm 1840, Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam. Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Dưới thời Thiệu Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy ở Láng Cháy (Tri Tôn). Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam. Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. Cuối năm Đinh Mùi (1847), xét thấy tình hình biên giới Tây Nam đã ổn định, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số binh sĩ, trong đó có cơ biền của Trần Văn Thành. Trước khi về lại quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm vật cùng một tờ chiếu khen là "Quản cơ tinh binh". 1.2 Giải ngũ về quê góp phần khẩn hoang, tu học: Giải ngũ, Trần Văn Thành cùng gia đình đến cư ngụ tại khu vực chùa Huê Viên (còn gọi là chùa Vườn Bông, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân). Năm 1849, Trần Văn Thành gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) sáng lập năm 1849 [4]. Từ 1851, khi Đoàn Minh Huyên bị bắt buộc phải đến tu tại chùa Tây An (Châu Đốc), nghe lời thầy, ông mang vợ con rời Cồn Nhỏ (Bình Thạnh Đông) đến vùng Nhà Bàng sau này [5], rồi đến Láng Linh (Châu Phú) lập trại ruộng để lo việc khẩn hoang [6]. 1.3 Nước nhà bị ngoại xâm, trở lại quân ngũ: Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ. Sau khi đi Pháp chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thất bại, năm 1865, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải lùng bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương), và ông Giản đã phái Trần Văn Thành thực hiện nhiệm vụ này, nhưng ông chỉ làm cho lấy có [7]. Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867. Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp, đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá. Ngoài ra, ông còn can dự vào việc giết viên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti ở Vũng Liêm. Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm [8]. 1.4 Tổ chức kháng Pháp ở Láng Linh: Láng Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc huyện Châu Phú tỉnh An Giang). Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa) [9], lại ít có kênh rạch thông vào... Theo lời kể của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú). Đó là địa điểm thuộc Cốc Ông Cậy hiện nay, nằm cách chùa Nam Long khoảng 500 mét, băng qua rạch Cốc nhỏ. Chùa Nam Long trước đây là nơi cư trú của ông bà Thành để điều động cuộc khởi nghĩa. Dựa vào bài vị, cách bày trí, cùng hiện vật đào được tại nền chùa đã chứng minh cho điều ấy [10]. Xung quanh Hưng Trung doanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... (xem thêm bản đồ chiến khu Bảy Thưa). Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ. Trần Văn Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867, và lấy tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình [11]. Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp. Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao [12]. 1. 5 Bị tấn công và mất: Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích. Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng. Họ nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường phía sau. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đỉa. Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân [13] dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc. Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó. Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật: Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"... Nhà văn Sơn Nam kể: Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên cạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng... (Nói về miền Nam, bản điện tử). Trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm. Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đội Văn (Pháp ghi là Vang, giữ hậu tập, tử trận trong trận Hưng Trung) về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 902) thì ông không tử trận. Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873". Về cái chết của ông, đến nay vẫn chưa được làm rõ. 1.6. Đánh giá: Nhà văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau: Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến... Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh. Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì: -Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu "ống lói". -Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân Pháp. -Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra "bất chiến tự nhiên thành". Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là "chiến đấu không thỏa hiệp" Sau trận đánh, theo Sơn Nam, viên chủ tỉnh Pếch cũng đã nhận xét rằng: cai tổng Lý Mun và phủ Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng trong trận này, quả là mất tinh thần. Quân Bảy Thưa gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín của Trần Văn Thành khá lớn. Pếch cũng thú nhận là không chiến thắng hoàn toàn vì phần lớn nghĩa quân rút lui an toàn. Cánh quân do chủ tỉnh Châu Đốc hẹn hợp đồng không đến kịp để chận nút [14]. Nho sĩ Cao Văn Cảo, người cùng thời, có làm bài thơ chữ Hán tưởng niệm Quản Cơ Thành. Vô danh dịch như sau: Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn. Trời đất biết cho lòng sốt sắng, Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn. Đền thờ tỏ dấu dân trong nước, Thơ vịnh nêu tình khách viết văn. Những đứa phản thần qua đến cửa, Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn. Năm 1909, một tu sĩ trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông có viết tập thơ Nôm thể lục bát có tên là "Trần Quản Cơ dữ Gia Nghị Binh", kể về khởi nghĩa Bảy Thưa, trong đó có nhiều câu nói đến tinh thần "an bần, lạc đạo", lòng quả cảm và tiết tháo của ông, trích hai đoạn ngắn: Thân ngài (Trần Văn Thành) chẳng quản rách lành, Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời. Người trung đứng giữa mặt trời, Đắng cay bao quản vận thời chớ than. Trích cò le át la vang, Đậu khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng... Và: An Giang có một ông (Trần Văn Thành) đây Chữ dạ ngay thầy ái quốc ưu dân. Thà thua xuống láng xuống bưng, Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần... Hiện nay, vào các ngày 20, 21, 22 tháng 2 (âm lịch) hàng năm, một số nơi trong tỉnh An Giang đều có tổ chức lễ trọng thể để "Kỷ niệm ngày Quản Cơ Thành hy sinh và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa". II. Vợ, con: 2.1 Nguyễn Thị Thạnh (1825-1899), vợ Quản Cơ Thành, là người ở rạch Sa Nhiên, thôn Tân Quy Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay là phường Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc). Bà là người vợ nhân hậu, đảm đang, văn võ đều khá giỏi. Trong công cuộc kháng Pháp của chồng, ngoài việc lo cơm nước, thuốc men và động viên binh sĩ; bà còn cùng với hai người con gái là Trần Thị Hè và Trần Thị Nên đi vận động mọi người đóng góp tiền của lương thực, tham gia đào kênh (kênh Bà Dâu), khẩn ruộng, trồng dâu nuôi tằm dệt vải,...tạo nguồn vật dụng và lương thực cho căn cứ. Ông Thành và bà có tất cả 6 người con: ba trai, ba gái, theo thứ tự sau: Trần Văn Nhu, Trần Thị Hè, Trần Văn Chái, Trần Thị Nên, Trần Thị Núi và Trần Văn Trạng. Trừ trai út mất năm 7 tuổi, hai trai còn lại đều khá danh tiếng: 2.2 Trần Văn Nhu (1847-1914), còn gọi là Cậu hai nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai), người lập ra Bửu Hương tự (tức chùa Láng) và cũng là người kế truyền mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sau khi cha mất. Lúc khởi nghĩa Bảy Thưa bị đánh dẹp (1873), mẹ ông cùng ông và những người thân tín khác, bị Pháp truy nã rất gắt nên phải lẩn trốn nhiều nơi. Năm 1897, ông Nhu trở về căn cứ cũ lập Bửu Hương tự (nay là Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành), phát "lòng phái" để thu nhận tín đồ. Ông Nhu mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3 âm lịch năm 1914. 2.3 Trần Văn Chái (1855-1873), bị thương ở bắp đùi rồi bị quân Pháp bắt khi cùng chiến đấu với cha tại bản doanh Hưng Trung. Sợ con không thể chịu nổi sự tra tấn của đối phương sẽ khai báo bí mật của nghĩa quân, bà Thạnh (vợ Quản Cơ Thành) liền nhờ người đưa thư khuyên con nên tự vẫn để tròn khí tiết [15]. Không rõ Trần Văn Thành và Trần Văn Chái được chôn cất ở đâu. Trong khu mộ của dòng họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự thuộc xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), không có phần mộ của hai người. III. Thông tin liên quan: Trong phát biểu bế mạc Hội thảo cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa và lễ hội văn hóa truyền thống huyện Châu Phú ngày 9 tháng 12 năm 2009, có một vài tồn nghi đã được giải đáp như: - Trần Văn Thành và Trịnh Quang Nghị là hai người khác nhau. Ông Nghị là cậu ruột danh sĩ Nguyễn Thông, và là thuộc tướng của Tán lý Nguyễn Duy. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (ngày 24 tháng 2 năm 1861), ông này cùng Phan Văn Đạt khởi nghĩa ở vùng Vàm Cỏ. -Dinh Hưng Trung là nơi đặt bản doanh của Khởi nghĩa Bảy Thưa, nay là khu vực chùa Nam Long thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú; không phải là nơi Dinh Sơn Trung do giáo phái Nguyễn Long Châu xây cất năm 1947, hiện đang tọa lạc tại xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, An Giang [16]. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn nghi chưa giải quyết được, như cần làm rõ thêm về cái chết của Quản Cơ Thành, về ngôi mộ ở rạch Thủ Điềm (thị xã Sa Đéc) được cho là của ông, về địa danh Bảy Thưa hay Bãi Thưa, v.v... Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu. Chú thích: [1] Sách Lịch sử địa phương An Giang và một số sách khác không ghi năm sinh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu, năm sinh của ông trong khoảng 1818 đến 1821. Th.S. Nguyễn Thị Hoàng Phương (Kỷ yếu, tr. 6) ghi ông sinh năm 1917, còn Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (Tập 4, tr. 161) ghi ông sinh năm 1820. [2] Có ý kiến cho rằng "chỉ vì do phát âm gần giống nhau mà viết sai" (theo PGS. TS. Trần Hồng Liên, Kỷ yếu, tr. 106). [3] ?Theo ThS. Nguyễn Hữu Hiếu (Kỷ yếu, tr. 10). Phạm Văn Sơn (tr. 208) và Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (Tập 4, tr. 161) ghi tổng An Lương lúc bấy giờ thuộc quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc. Có tác giả cho rằng gốc gác ông là từ miền Trung vào (Kỷ yếu, tr. 106), từng định cư ở Sa Đéc, sau lên Bình Thạnh Đông lập nghiệp (Kỷ yếu, tr. 127), [4] Tục truyền vào năm 1849-1850, ở miền Tây Nam Kỳ dân chúng bị bệnh dịch hoành hành làm chết nhiều người. Lúc đó có Đoàn Minh Huyên "phát phù trị bệnh", được dân chúng sùng tín xem ông như là một vị Phật. Nghe danh, Trần Văn Thành đã xuống Xẻo Môn (Chợ Mới, An Giang) để xin gặp và rồi trở thành người đầu tiên được Đoàn Minh Huyên nhận làm đệ tử, và được thầy gọi là "chú Xả" (Xả theo nghĩa "xả thân", "xả bỏ") . Và người Pháp đã lầm khi nói Quản Cơ Thành là người lập ra "đạo Lành", thực tế đạo này do Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) sáng lập. Về sau, đạo Lành mới có thêm tên khác là Bửu Sơn Kỳ Hương (theo Nguyễn Hữu Hiệp, "Kỷ yếu", tr. 52-53 và 56). [5] Theo Giảng Nhà Láng, trích: "Kêu Đức Cố, Thầy nêu rõ việc: Ta ở đây, lịnh cho ở quyết/ Nhưng ta còn nhiều việc phải lo / Chú Xả nghe, tôi đã dặn dò/ Hiệp huynh đệ chung lo xây cất/ Trước trại ruộng, sau là tư thất/ Vô Nhà Bàn xây cất dùm tôi/ Việc cần lo, lo sớm cho rồi/ Chừng xong việc chắc tôi về đó"...(trích lại trong Kỷ yếu, tr. 63). Lần hồi về sau nơi đây hình thành nên hai làng là Hưng Thới và Xuân Sơn; nay xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên (theo Vương Kim, tr. 133). [6] Năm 1851, Phật Thầy Tây An tổ chức 4 đoàn khẩn hoang, và Trần Văn Thành đã chỉ huy một đoàn đến vùng Láng Linh (theo ThS. Nguyễn Hữu Hiếu, Kỷ yếu, tr. 14). [7] Theo Nguyễn Văn Hầu (tr. 383-384), Quản cơ Thành và đã gặp thủ lĩnh Dương, rồi trở thành bạn bè vì chung chí hướng ("Đã biết đó lo đền nợ thủy thổ/ Đây cũng lòng ái quóc ưu dân" [trích thơ Quản cơ Thành]). Cùng quan điểm với Quản cơ Thành, thủ lĩnh Dương sau đó đã dùng chiến thuật "yểm kỳ tức cổ" (giấu cờ im trống) một thời gian. [8] Theo Đồng Tháp nhân vật chí do Hội Khoa học lịch sử Đồng Tháp biên soạn, thì cùng rút về Láng Linh lập căn cứ chống Pháp còn có Chánh lãnh binh Nguyên Hương (nguyên thành thủ úy Hà Tiên) và các bộ tướng như Quản Bạch, Kim Chung...Đến khi Láng Linh thất thủ, Quản Cơ Thành hy sinh, các ông này đã trốn về quê ở thôn Tịnh Thới, tổng An Tịnh (An Giang) tiếp tục chống Pháp (dẫn lại theo TS. Nguyễn Hữu Hiếu, Kỷ yếu, tr. 18). [9] Cây trát thưa hay cát thưa (dân gian gọi tắt là "thưa") là một loại cây ưa mọc ở vùng đất thấp, chịu được mùa nước nổi, cội to (khi lớn), lá nhỏ mà dài (xem ảnh). Ca dao địa phương có câu: Bãi bồi mọc những cát (hay trát) thưa/ Thương em đi sớm về trưa một mình. Theo Nguyễn Hữu Hiệp và Liêm Châu, tên cuộc khởi nghĩa viết là Bãi Thưa (theo nghĩa bãi đất mọc nhiều cây thưa) mới đúng. Do cách phát âm của người nông thôn miền Nam, mà tên Bãi Thưa lần hồi thành ra Bảy Thưa (theo Kỷ yếu, tr. 79 và 92). Hiện nay ở Láng Linh còn rất ít loại cây này. [10] Theo ThS. Trần Văn Đông, sau khi dinh Hưng Trung bị tàn phá, ông Đạo Cậy đã đến đây dựng cốc tu hành, nên người dân còn gọi nơi này là Cốc Ông Đạo Cậy (Kỷ yếu, tr. 83). Hiện nay ở đầu cầu sắt số 13 (ngang UBND xã Bình Phú) có một dinh thờ mang tên là Dinh Hưng Trung (xem ảnh), nhưng theo Võ Thành Phương thì đây chỉ là sự trùng tên. Và nơi dinh thờ ấy tọa lạc khi xưa có một đồn quân ở đấy hay không, thì chưa thể khẳng định được (Võ Thành Phương, Kỷ yếu, tr. 25). [11] Trong bằng phong cho Nguyễn Kế Trung làm chức Chánh Đề đốc, có câu liên quan như sau: "An Giang tỉnh, Gia nghị cơ, Trần Vạn Thành cai quản hợp đồng"...(dẫn lại theo Trần Thị Thu-Võ Thành Phương, Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873). NXB TP. Hồ Chí Minh, 1991). Vậy Gia Nghị là phiên hiệu của một đội quân ở An Giang thời Nguyễn, giống như "Gia Trung cơ", "Gia Thuận cơ" ở Gia Định... Giảng Nhà Láng có đoạn: "Trong cơ vệ, mộ quân đã đủ/ Ông trở về chịu chức Quản cơ/ Đạo nghĩa quân khai trống phất cờ/ Lấy danh nghĩa Binh cơ Gia Nghị". [12] Theo quyết định số 473 không đề ngày do Đô đốc Ohire ký vào tháng 8 năm 1868, thì ai bắt được Trần Văn Thành sẽ được thưởng 1.000 france, viên chức nào bắt được sẽ thăng cấp bực (dẫn lại theo Liêm Châu, Kỷ yếu, tr. 94). Không bắt được, đầu năm 1873) Pháp sai Tôn Thọ Tường mang thư đến chiêu hàng, nhưng ông Thành từ chối, quyết đánh tới cùng (theo TS. Trần Thuận, Kỷ yếu, tr. 31). [13] Đây là cánh quân mạnh nhất do Tri phủ Trần Bá Tường (em ruột Trần Bá Lộc) chỉ huy, có Phó quản Hiếm (trước kia là quân Bảy Thưa) cầm đầu một toán quân nhỏ theo hỗ trợ. Nhưng thực ra, viên chủ tỉnh Long Xuyên tên là Pếch (Emile Pueh) mới là người chỉ huy chính, có đại úy Guyon làm trợ lý (theo Sơn Nam, tr. 70). [14] Lược theo Sơn Nam, Lịch sử An Giang, (tr.68-72). [15] Sách Hỏi đáp lịch sử (Tập 4, tr. 164) kể:..."Bà Thạnh bèn nhét một con dao kèm theo một bức thư giấu bên trong đòn bánh tét. Năm ngày sau khi nhận thư, người con tự tử trong nhà ngục Châu Đốc". Nhà văn Sơn Nam cho biết khi ấy Trần Văn Chái mới 18 tuổi, và cũng vừa mới hứa hôn. Trong bức thư phúc đáp cho mẹ chồng (khuyên bớt sầu thảm, và nên lấy chồng khác), lời lẽ của người con gái này rất thống thiết (tr. 72). [16] Theo kết luận của cuộc hội khảo đã nêu, thì dinh Sơn Trung ở xã Vĩnh An (Châu Thành, An Giang) không phải là nơi đặt bản doanh của khởi nghĩa Bảy Thưa; song nhiều tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn tin rằng đây là một căn cứ hết sức quan trọng. Và người ta đã góp công góp của xây dựng mới lại ngôi thờ (lạc thành năm 2005), đồng thời phục dựng một lò rèn, sau khi tìm thấy ở đây một số xỉ sắt được cho là của một lò rèn của nghĩa quân Bảy Thưa. Hàng năm, vào các ngày 20, 21, 22 tháng 2 (âm lịch), nơi đây đều có tổ chức lễ trọng thể để "Kỷ niệm ngày Quản Cơ Thành hy sinh và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa". Sách tham khảo: -Nguyễn Văn Hầu, Đức Cố Quản hay cuộc khởi nghĩa Bảy thưa, Nhà xuất bản Tân Sanh, Sài Gòn, 1956. -Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (Tập I), UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2003. -Sơn Nam, Lịch sử An Giang, Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang, 1988. -Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập Thượng). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1962. -Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhà xuất bản Long Hoa, Sài Gòn, 1965. -Nhiều tác giả, Kỷ yếu Hội thảo cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa và lễ hội văn hóa truyền thống huyện Châu Phú (trong bài gọi tắt là Kỷ yếu). Phòng Văn hóa Thông tin huyện Châu Phú (An Giang) xuất bản, 2010. -Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992. -Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử (Tập 4) , Nhà xuất bản Trẻ, 2007. -Phan Văn Kiến, Lịch sử địa phương An Giang. Nhà xuất bản Giáo dục,
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:14:51 GMT 9
Nhớ Nguyễn Thông ___________ Bùi Thụy Đào Nguyên (Viết nhân ngày mất Nguyễn Thông 07-7-1884) Với nhân cách cùng tâm tư ấy chẳng bao giờ xa cũ; vẫn sẽ luôn là tấm gương, là ánh đuốc cho mỗi người hôm nay soi rọi lại mình, để rồi biết sống tốt hơn nữa cho đất nước, cho đồng bào... Nguyễn Thông ( 1827- 1884). Ông tự Hy Phần, biệt hiệu Đôn Am , người làng Bình Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Gia Định; nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An . Thân phụ là Nguyễn Hanh người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng bà Trịnh Thị A Mầu nguyên quán ở Thừa Thiên, sinh hạ được hai trai là Nguyễn Thông và Nguyễn Hài. Anh em hơn kém nhau hai tuổi, cùng học với cha ở nhà từ bé. Năm Nguyễn Thông (NT) lên mười thì mẹ mất, mười bảy tuổi thì cha mất. Gia đình lâm cảnh khó khăn, NT phải làm lụng vất vả để kiếm sống. Rất ham học nhưng không có thầy, NT đành phải cùng em tự học. Sau đó, ông muốn ra trường lớn học nhưng chẳng hiểu sao phải quay về.May mà khi đó Nguyễn Nhữ Hiền vừa được bổ vào làm phủ ở Tân An, nên hai anh em Thông đến viên quan này thọ giáo.Dù ham học vậy, nhưng cũng chẳng được lâu vì thầy dạy phải trở về kinh. Khoa 1849 (năm Kỷ Dậu, triều Tự Đức) NT đỗ cử nhân, vào thi hội bị đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Đọc bài thi, cảm văn tài của ông, nhiều người khuyên nên tiếp tục học để thi khoa sau. Nhưng nhà nghèo quá nên không thể đeo đuổi, NT đành nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh An Giang. Sáu năm sau, năm 1855 ông ra Huế làm việc ở nội các, tham dự soạn sách nhân sự kim giám (gương vàng soi việc người). Theo lời tự thuật của NT, năm 1856 khi ở tại Huế, ông có nhờ Phan Thanh Giản dạy thêm cho mình. Do lắm công việc, nên thầy chỉ dạy bằng miệng, không có sách vở. Nhưng nhờ NT có trí nhớ tốt nên việc học cũng đạt nhiều kết quả. (Theo tự điển wikipedia tiếng Việt cho biết Nguyễn Thông cũng có theo học trường của thầy Võ Trường Toản tại Gia Định ) Thế rồi ba năm sau (1859) quân Pháp đánh thành Gia Định, Nguyễn Thông tình nguyện tòng quân và đã giúp việc đắc lực cho Thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp. Năm 1861 đại đồn Chí Hòa bị mất, kế đến tỉnh Biên Hòa bị chiếm, cậu của ông là Trịnh Quang Nghi (có chiến đấu ở trận Chí Hòa) và bạn ông là Phan Văn Đạt đang cùng nghĩa binh chống quân Pháp ở Tân An và Gò Công. Ông tham gia phong trào ấy nhưng rồi bị giặc đàn áp dữ dội, Phan Văn Đạt bị bắt giết,Trịnh Quang Nghi chạy sang Trương Định, còn ông may mắn được thoát nạn. Năm 1862, ba tỉnh miền Đông phải nhượng cho Pháp, nhờ Phan Thanh Giản đề cử NT được bổ làm Đốc học Vĩnh Long. Về Vĩnh Long, ông vẫn liên lạc với cậu Trịnh Quang Nghị, đồng thời liên lạc với các sĩ phu yêu nước, trong đó có những sĩ phu dời gia đình từ miền Đông sang " tị địa" Những điều nghe thấy lúc này giúp ông dễ dàng viết lưu lại cho đời mấy bài ký về Phan Văn Đạt, Trương Định, Hồ Huân Nghiệp trong "Kỳ xuyên văn sao". Riêng đối với địa phương Vĩnh Long, Nguyễn Thông đã lưu lại những dấu ấn thật đậm đà. Văn Thánh Miếu đẹp đẽ, tôn nghiêm mà ta có được cho đến ngày hôm nay chính là nhờ công lao khởi xướng của ông. Ông lại cùng Phan Thanh Giản đôn đốc việc dời mộ nhà giáo nổi tiếng ở lục tỉnh bấy giờ là thầy Võ Trường Toản, từ Chí Hoà đưa về cải táng tại BảoThạnh (Ba Tri, Bến Tre này nay), vì lẽ đức nghiệp của ông thầy chung không thể để cho giặc xâm lược làm ô uế... Và khi ba tỉnh miền Tây cũng bị mất (1867), NT nhận chỉ ra Bình Thuận làm Án Sát rồi Bố Chánh tỉnh Quãng Ngãi. Ở những nơi ấy , ông cho lập nhiều trang trại, thu nạp dân Nam kỳ ra đấy ngụ cư , vận động nhân dân địa phương khẩn hoang, làm thủy lợi, trồng cây vv...và dốc sức diệt tệ nhũng lại, cường hào . Thấy NT làm được nhiều việc, bọn xôi thịt, hủ lậu cấu kết nhau gièm pha ông . Cộng thêm ông bị tên Lê Doãn vu cáo; cả tin , triều đình ra lệnh cách chức, bắt giam và xử đánh roi ông . May mà nhờ bạn bè, nhân dân hết sức minh oan, ông mới được giảm tội ... Năm 1873 , do nhiều bệnh, NT xin cáo quan về nghỉ ở Trại Núi ( Bình Thuận ), lập thi xã , mở trường dạy học . Năm 1876 , ông ra Huế làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám , rồi lại về Bình thuận giữ chức Phó sứ Điền nông kiêm Đốc học.Bấy giờ bệnh của ông ngày càng nặng, bởi những trận đòn tra khảo năm xưa cùng tâm trạng luôn lo âu vì nạn dân , nạn nước ...nên vào năm 1878 , NT xin nghỉ dài hạn tại Phan Thiết . Dù vậy, thường ngày ông vẫn cùng quan lại địa phương sốt sắng giải quyết việc cho dân . Nơi đây ông lập một nhà học lấy tên Ngọa Du Sào (Tổ nằm chơi ) . Năm 1881, NT được lệnh ra Bình Thuận đảm đương trọng trách cũ và ông đã qua đời tại đấy ( ngày 7/7/1884 ),hưởng dương 57 tuổi . Tác phẩm của ông gồm : Ngọa Du Sào thi tập , Ngọa Du sào văn tập , Kỳ xuyên công độc văn sao, Việt sử cương giám khảo lược , Nhân sự kim giám ... Tất cả cho thấy NT không những là nhà thơ mà còn là nhà văn hóa , một người yêu nước, yêu dân tiêu biểu của Nam bộ ở nửa thế kỷ XIX * Từ những gì vừa kể phần nào giúp ta hình dung, NT sống vào thời kỳ phong kiến Việt Nam có nhiều biến cố. Nổi bật là cuộc đối đầu giữa dân tộc ta với thực dân bên ngoài. Là cuộc sống quá đổi bần hàn của người dân, vì giặc ngoại xâm, thiên tai gây mất mùa triền miên; vì nạn sưu thuế cao và bọn tham quan cường hào khiến loạn lạc xảy ra nhiều nơi ( các cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Dương, Lê văn Khôi, Nông Văn Vân , Lê Duy Cự vv..) Trước thực tại rối ren đó, một số quan lại yêu nước như Nguyễn Tư Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông ...cùng những trí thức nặng lòng với non sông như Hồ Huấn Nghiệp , Nguyễn Hữu Huân, Phan văn Trị , Học Lạc vv...sinh lòng ngao ngán bởi một triều đình chỉ giỏi nghi kỵ, bóc lột, đàn áp...nhưng lại tỏ ra hèn nhát, bất lực, không đoàn kết được dân tộc .... Cho nên , mặc dù có nhiều cuộc kháng chiến anh dũng của những Trương Định, Nguyễn Trung Trực,Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân ...và một số trung thần dốc sức chống đỡ như Tôn Thất Hiệp, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu ...Nhưng cuối cùng, đất nước ta cũng mất dần vào tay ngoại xâm . Có thể nói đa phần, những áng thơ văn của NT đều bộc lộ nhiều nỗi đau xót này . Xin trích một ít để ta cùng cảm thông những gì luôn nung nấu nơi tim ông : ...Quê nhà khói lửa mù xông Biết bao cay đắng trong lòng bà con ... (Ngày tết năm Đinh Mão, 1867 ) Mịt mù khói lửa trời Nam Biết anh đâu nhỉ để bàn nỗi riêng ? (Gửi Hồ Huấn Ngiệp ) Chiến địa trời Nam máu hãy tanh Mười năm yên ngựa nhớ Mai Đình Ai hay mường mán nơi mưa khói Có khách giang hồ thích dạo quanh (Ở xứ Bình Hòa, gặp Hà Lăng ...) Quặn thắt hơn vì triều đình cứ mãi nhân nhượng . Nên phía Nam thực dân mặc sức thao túng, hoành hành . Còn phía Bắc, thêm nhiều cuộc nổi dậy : ...Quân ra Bắc, lương đem qua núi Tướng Nam về ngại nói việc binh Ngâm thơ ngoài ải một mình , Nằm nghe mưa nhỏ xung quanh mái thềm ! (Đọc Thu hoài của Tùng Đường ) Bên cạnh, thiên tai cùng sưu thuế cao càng đẩy dân tình thêm khốn đốn , lầm than : Khe lạnh , mưa tràn , nước lụt lui Khôn tìm bờ bến- nước phăng trôi Ruộng bồi mép biển thành ao hết , Vườn quế chân non hóa bãi bồi ! (Ghi cảnh Lệ Giang -Giản Chi dịch ) ...Thời tiết thường thay đổi luôn Mùa màng được mất khó lường đón ra Huyện quan dù có quen ta Thuế sưu nếu thiếu , chẳng tha chút nào ( Trích "Trồng Trọt" . Lê Thước & Phạm Khắc Khoan dịch ) Song song những tình cảm thâm sâu dành cho dân , cho nước . Ở NT ta còn nhận ra một trái tim bình dị, đôn hậu, nhiều khăng khít với xóm làng. Sau đây là một đoạn thơ ông làm khi rời nhà đi "tị địa" : ...Người thì khuyên gắng uống ăn Người thì bịn rịn nói toàn nhớ thương Rượu đưa gượng uống vị lòng Đầm đìa đôi má ròng ròng lệ sa ... ( Thuật mối cảm hoài ) Trái tim ấy cũng không hề thiếu nghĩa tình đối với người vợ trẻ mà ông phải bỏ lại, để rảnh tay lo việc quân, việc nước : Màn the mộng quyện lệ đầm Tóc xanh ai để lược trâm biếng cài Sóng xuân e cánh đào trôi Chi đôi trăng sáng, lẻ loi thuyền về (Đưa vợ Ngô Vũ Khanh về Nam . Thanh Xuân dịch ) Nặng lòng với cả nấm mồ quạnh quẽ của người em còn ở nơi đất khách : Nạn giặc bao giờ hết , Nấm mồ ngày cách xa Một chung trên nhúm cỏ, Dòng lệ lúc chiều tà ... ( Từ biệt mộ người em . Phạm Thiều dịch ) NT cũng làm nhiều thơ nói về bằng hữu . Nhất là đối với những người làm được nhiều việc cho nước, cho dân mà bị gièm pha hoặc ở nơi thường khi mịt mù khói lửa : ...Bị tạm trích, danh kia vẫn chói Tiếc mình chưa vạch thói gièm pha Bá Lăng ông có đi qua Làm thinh chớ nói mình là cựu quan (Mừng ông Trần Tử Mẫn ...) Hùm beo từng ở từng ở Ba Phan Mịt mù đường tới miền Nam xa vời Chiến tranh nên vắng bóng người, Lại thêm xâu thuế tháng ngày mòn hao Dân tình dân tỉnh tính sao, Gió xuân gởi tới khi nào giặc yên ? Nhớ nhau, ngày tới trăng lên Hai nơi ta, bạn nỗi niềm giống nhau (Phụng họa "Thuật hoài" của Tuần phủ họ Bùi ) Cho những ai vì "nghĩa lớn" phải vong thân . Như các bài viết về Phan văn Đạt, Trương Định, Hồ Huân Nghiệp,Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy vv... Xin dẫn 2 bài : Gió tây thổi một đêm lấp ngõ Trại đóng quân, đại thọ đổ rồi Trí mưu đầy đất chôn vùi, Ba quân sùi sụt khóc người cựu ân Nhận dấu áo mà chôn tướng kĩnh Thịt xương tan chính khí còn đây Mỗi năm bạn cũ nhớ ngày, Thăm mồ rưới rượu , nhớ ai ngậm ngùi (Điếu ông Nguyễn Duy ...) Gió táp , mưa sa , máu chiến trường Ngậm ngùi năm ấy, cảnh thê lương Đành rằng một tướng theo ông Phó Ai ngở bè tiên có bác trương Lửa địch thiêu cây trơ nhánh trụi Sấm xuân dục trúc nẩy chồi non Lo đời , thầy Giả tơ vò khúc Ngoảnh cổ bao lần phía cố hương * ( Kính họa bài thơ"Gia định cố thành". Phạm Triều dịch ) Và ông cũng không quên cảm thán cho những dân lành vô tội ,phải bỏ mình vì lằn tên , mũi đạn : Trải năm tháng bao lâu ai rõ Mà mồ hoang bãi cỏ gần xa Ngôi thì đất lở phơi ra , Ngôi thành bụi rậm , ai mà ngó coi ... Cho cả những người còn sống nhưng kể như đã chết , vì bọn tham quan ô lại cứ bòn rút : Những nắm xương tuy nay yên chỗ Còn kiếp người đau khổ ai thương ? Tham quan ô lại một phường Nuôi thân bằng máu, bằng xương dân lành Tay dệt cửi mà mình rét cóng Chân đi cày mà bụng đói dài Dẫu còn thoi thóp chút hơi Xem ra chẳng khác bọn người cửu nguyên . ("Nghĩa địa làm phú". Hoàng Tạo dịch ) Vâng . Như tôi đã viết ở trên , nhân dân ta thời bấy giờ chịu lắm tai ách . Chỉ tính riêng điều vừa nói thôi, qua thơ NT, cũng đủ cho ta nhói tận đáy lòng .Đủ biết người xưa cho rằng quan tham cùng chính sách hà khắc, hãm hại người còn hơn cọp dữ; đâu phải là lời nói quá ... Ngẫm, càng thêm kính yêu ông, tuy thân làm quan ở nơi nhiều nghi kỵ , độc đoán, chính kiến, bè phái ...vậy mà NT dám thốt lên những lời lẽ tố cáo gay gắt như thế thật không dễ chút nào . Xin dẫn thêm đôi dòng để cùng chia sẻ một tâm hồn thanh cao , không bao giờ chịu lùi bước trước cái xấu : Đang độ thu về qua bến sông Dưới đê ruộng nếp đã đơm bông Dân cày vốn sợ quan đòi thuế , Báo trước họ tên, tránh bận lòng (Đi Tư Châu , ghé nhà ô. Nguyễn Tử Mỹ ) Hay gửi gắm tình ý qua bài "Thả chim đa đa" : ...Cành Nam nay thả mày về lại Bạn cũ gà rừng mặc sức chơi Bên suối uống ăn nên cẩn thận, Chút thân đừng để lọt tay ai ! Chính từ tấm lòng "khổ cùng cái khổ của dân" , "làm việc gì cũng phải hợp lòng dân"...cho nên khi vua Tự Đức cầu lời nói thẳng , ông mạnh dạn điều trần 4 việc nội trị : "Chọn nhân tài bổ làm quan , cải tiến việc võ lược , Sửa đổi thuế đất & thổ sản , chú trọng điều khoan hậu ." Cảm nhận , bản tấu này tính đến nay đã ngoài trăm năm , song vẫn còn nhiều giá trị .Tiếc là do khuôn khổ bài viết , tôi chỉ xin trích một điều cơ bản nhất. Biết đâu nó sẽ gợi được ít nhiều những gì cần làm cho công cuộc cải cách, mở cửa của ta hôm nay : Chọn nhân tài bổ làm quan "Thời xưa chọn kẻ sĩ , phải xem xét rõ ràng ,chắc chắn rồi mới bổ làm quan . Vì chức quan mà chọn người , không vì người mà chọn chức quan ... Thế mà nay những học trò sơ học non nớt , những con nhà quyền quí vênh váo , những bọn lại điển tầm thường ; không xét hạnh kiểm , không lường tài năng , chỉ căn cứ vào phẩm hàm của cha ông mà giao ngay cho trách vụ trọng yếu . Làm quan không có đủ tư cách mà cho giữ chức điều khiển , không trong sạch mà cho giữ quyền tài chánh , không giỏi phán đoán mà cho giữ việc can răn, quen thói nể nang mà cho làm việc điều bổ quan chức. Như thế muốn quan lại xứng chức , nhân dân thỏa lòng &chính sự mở mang , phỏng có được không ? Gần đây , có tệ bỏ chức nghiệp để đi cầu cạnh thanh danh , kết nhiều bè bạn để nhờ đề cử.Đã là thân nhơ bẩn mà muốn danh được đồn vang ...Thần trộm thấy, thói cầu cạnh thịnh hành thì đạo liêm sỉ bị tổn thất , phép lựa chọn càng thả lỏng thì quan lại kém cỏi ... Từ nay xin , mỗi lần chức vụ có khuyết thì Bộ Lại phải xét trước những người đáng được điều bổ . Phẩm hàm ngang nhau thì xét hạnh kiểm . Hạnh kiểm ngang nhau thì xét tài năng . Tài năng ngang nhau thì xét công trạng ...Sau khi đã nhận chức , nếu có người nào làm công việc không chạy hoặc làm điều tham ô , thì Bộ ấy phải chịu trách nhiệm . Có như thế, ở triều đình không có người bất tài, quan lại không có người lạm chức ..." Buồn sao những lời lẽ tâm huyết đó,cũng giống như nhiều đề nghị canh tân khác của Nguyễn Trường Tộ , Phạm Phú Thứ, Nguyễn Đức Hậu , Nguyễn Tư Giản , Bùi Viện ...đều không được nhà Nguyễn nghe theo . Hơn thế nữa chính vì tấm lòng này , NT lâm phải nhiều phen khốn đốn bởi bọn xôi thịt, hủ lậu, dốt nát ...Lời vu cáo của tên Lê Doãn khiến ông bị giáng chức , bị phạt roi đến nỗi phải lâm bệnh thổ huyết là một minh chứng ! Trước khi kết bài viết , tôi cho rằng cái độc đáo , cái thiết thực nhất mà ông đã để lại cho đời ; đấy là việc tổ chức , vận động đưa dân đi khai hoang , làm thủy lợi, trồng cây ...ở Quảng Ngãi và Bình Thuận .Điều này càng tỏ rõ NT là một nhà nho có đầu óc thực tiễn , tiến bộ , có hiểu biết , yêu dân và gần dân hơn so với nhiều nho sĩ cùng thời . Do giá trị này, tôi xin trích một bài trong chùm thơ mang ý nghĩa vận động "khuyến nông" của ông : Khuyên riêng nghề nông Cấy lúa thì cỏ phải cào Cỏ mà lên mạnh, lúa nào tốt tươi Ruộng cạn tát nước kịp thời Nước mà khôn cạn, ruộng đời nào nên Việc nông ta phải cần chuyên , Làm ăn sinh sống trước tiên không chờ Mẹ cha ai dễ nuôi cho Vợ con mong mỏi nương nhờ ta nay Thờ trên đỡ dưới khó thay, Thuế sưu cũng ở ruộng này mà ra Mấy lời khuyên bạn nông ta, Quyết tâm làm lụng chớ la nhọc nhằn (Lê Thước , Phạm khắc Khoan dịch ) Nhìn chung , do sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo , lại sớm sống gần gũi những người dân cần cù, lam lũ, thuần phác . Thêm nữa, nhờ NT có ý chí, rất ham học, có năng khiếu thơ văn, được đi nhiều và nhạy cảm trước những vấn đề chính trị, xã hội... Nên hầu hết trước tác của ông đều thiên về tả thực, giàu chất trữ tình, mang tính tố cáo cao .Nhờ vậy mà ta dễ dàng bắt gặp cái đẹp của những ý tứ, ngôn từ tinh tế , đậm đà tình cảm cao cả, không sa đà viễn vông hay sáo rổng ... Tuy đôi lúc trong thơ văn ông , cũng không tránh khỏi nỗi buồn hiu hắt của một nhà nho cảm thấy bất lực trước vận mệnh tồn vong của non sông , của dân tộc . Nhưng tôi đoan quyết với nhân cách cùng tâm tư ấy chẳng bao giờ xa cũ ; vẫn sẽ luôn là tấm gương , là ánh đuốc cho mỗi người hôm nay soi rọi lại mình, để rồi biết sống tốt hơn nữa cho đất nước , cho đồng bào... Bùi Thụy Đào Nguyên , biên soạn Chú thích Ông Phó: dùng điển Phó Duyệt cưỡi sao lên trời.Đây chỉ việc Nguyễn Tri Phương tử tiết .Bác Trương : dùng điển Trương Khiên đời Hán đi sứ Tây Vực.Đây chỉ các quan Khâm sai vào Gia Định.Thầy Giả: tức Thái phó Giả Nghị, người đời Hán. Tất cả đều có lòng lo giúp nước Tài liệu tham khảo -Nguyễn Thông, con người & tác phẩm.Ca văn Thỉnh , Bảo Định Giang biên soạn. Nxb Tp HCM, 1984.(Phần phiên âm chữ Hán , xin bạn đọc tìm trong tài liệu này ) -Từ điển văn học tập 2, nxb Khoa Học Xã Hội , 1984. -Từ điển nhân vật lich sử VN .Nguyễn Q.Thắng & Nguyễn Bá Thế .Nxb Khoa học Xã Hội . 1992 - Theo Web www.vinhlong.gov.vn viết về Nguyễn Thông. Không thấy ghi tên người soạn.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 22, 2012 8:11:33 GMT 9
Vận động hành lang tại DC Sứ thần Bùi Viện công tác 1873 (03/20/2012) Đấu tranh chính trị. Trong công cuộc đấu tranh cho dân sinh tại Hoa Kỳ và nhân quyền cho Việt Nam thì vận động hành lang là phương thức quan trọng và hữu hiệu nhất. Ưu tiên số 1 vẫn là vận động bầu cử. Con đường số 2 là tìm cách đạo đạt dân ý lên hành pháp và lập pháp. Con đường này đi trên hành lang của các văn phòng. Bìa sách về cuộc đời Bùi Viện. Mưu đồ hạnh phúc cho chính chúng ta, cho cộng đồng của chúng ta và quê hương bỏ lại là nghĩa vụ rất rõ rệt. Hãy làm người công dân Mỹ tử tế, nhiên hậu sẽ giúp cho cộng đồng vững mạnh và đồng hương ở quê nhà sớm có tự do dân chủ. Đầu tháng 3 năm nay 2012 người Việt tử tế tại Mỹ đã làm được một màn ngoạn mục. Hết sức ngoạn mục. Cùng nhau tham dự trực tiếp vào công việc vận động hành lang. 200 người đưa kiến nghị vào Bạch cung. 1000 người hỗ trợ bên ngoài. 500 người gặp các đại biểu tại quốc hội. Ở các nơi xa có 150 ngàn người đồng thuận ghi danh. We, the people. Chúng tôi là công dân. Thành quả vĩ đại. Thành quả đầu tiên. Bất kể vị tổng thống có xuất hiện hay không, bất kể nghị trình lẩm cẩm trục trặc ra sao. Vạn sự khởi đầu nan. Đối với tôi là rất OK. Không thắng, không bại, không hòa. Rất OK. Vào Tòa Bạch Ốc trình Thỉnh Nguyện Thư Nhân Quyền 2012. Trong cuốn nhật ký sử kiện tại Viện Bảo tàng Việt Nam chúng tôi sẽ viết như sau. “Công cuộc vận động hành lang cho nhân quyền tại Việt Nam đã thành tựu. Lần đầu tiên người Việt tại Mỹ đưa kiến nghị vào Bạch cung. 200 người tham dự. 3 người trình bày vấn đề, 4 viên chức Hoa kỳ ghi nhận. Phối hợp chương trình bên trong cũng là một cô gái gốc Việt.1000 người hỗ trợ bên ngoài. Hôm đó là ngày thứ hai, 5 tháng 3 năm 2012 Ngày thứ tư 7 tháng 3-2012 có 500 người vào quốc hội vận động với 50 thành viên lập pháp Hoa Kỳ. Mục tiêu căn bản: Nhân quyền cho Việt Nam.” Những hàng chữ đơn giản như trên chính là lịch sử. Sẽ không có những lời huênh hoang khoe thắng lợi. Sẽ không có những lời phàn nàn về sự sắp xếp lủng củng. Sẽ không có tên tuổi của phe phái. Sẽ không có những thở than bất mãn. Cũng không ghi lại những lời chống đối. Đó đơn thuần là tin tức lịch sử. Cuộc vận động đầu tiên. Đi vào chi tiết một chút, phải kể công đầu là anh Trúc Hồ phát động. Rồi đến anh Nguyễn đình Thắng tiếp tay. Mở đầu sự kết hợp hết sức tốt đẹp và hữu hiệu. Phương tiện truyền thông mạnh mẽ. Đề tài rõ ràng là một mẫu số chung để mọi người cùng hưởng ứng. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đủ cả. Bà con ta được hướng dẫn ghi danh. Bà con ta được tổ chức đưa về thủ đô. Và cuối cùng kết quả tốt đẹp. Không phải tốt đẹp vì đã có ngay kết quả nhãn tiền. Kết quả là sự hưởng ứng và sự họp mặt. Còn chuyện thành quả cuối cùng sẽ còn rất lâu hay bất khả. Nhưng đồng lòng và cùng gặp nhau. Đó là sự thành công. Lịch sử không cần ghi những điều ong tiếng ve, những lời xuyên tạc hay những giây phút trách móc than thở. Bởi vì hơn trăm năm trước đã có cuộc vận động hành lang của Việt Nam bất thành, cũng tại DC. Ai là người trách móc và than thở cho Bùi Viện.Thực vậy cách đây 139 năm, vào năm 1873 tiền nhân của chúng ta là ngài Bùi Viện, lúc đó bác chỉ có 34 tuổi đã xuất dương qua Mỹ tìm cách vào gặp tổng thống Hoa Kỳ thực hiện cuộc vận động hành lang lịch sử lần đầu tiên cho Việt Nam. Xin nhắc lại một chút tiểu sử của thiên tài nước ta qua tác phẩm của Phan trần Chúc. Sử ghi rằng ông Bùi Viện quê Tiền Hải, đất Thái Bình sinh năm 1839 đỗ cử nhân 1868 và làm phụ tá cho bộ trưởng Lê Tuấn. Dù là bộ trưởng bộ Lễ nhưng ông Lê Tuấn được cử ra Bắc dẹp loạn . Bùi Viện tuy là quan văn nhưng lại có óc tổ chức khoa học nên giúp việc dẹp giặc thành công. Niềm đau cửa Thuận. Đó là ngày đầu năm 1873 vua Tự Đức thăm cửa biển Thuận An. Hết sức tình cờ vua quan nhà Nguyễn gặp lúc đoàn thuyền của Đại Nam từ Bắc trở về. Tám thương thuyền chở tiền thuế, hàng hóa và binh sĩ vừa đến gần cửa Thuận. Hai chiếc thuyền của giặc Tàu Ô đuổi theo ăn hàng. Cả đoàn thuyền của Đại Nam không chống cự lại phải bỏ chạy. Hai chiếc sau cùng bị cướp bắn phá. Súng của Tàu Ô mạnh hơn. Súng của quân ta vô dụng. Quân Tàu là hải tặc thiện chiến trên biển cả. Quân ta không được huấn luyện nên hoàn toàn thất bại. Trận đánh đau thương xẩy ra trước mắt vua quan xứ Huế. Bùi Viện làm thơ trào phúng nhắc lại thảm kịch. Vua Tự Đức thay vì quở trách đã giao cho Bùi Viện tổ chức lại toàn bộ hải quân. Trong thời gian ngắn Bùi Viện xây dựng lại đoàn ngũ chỉ huy và thủy thủ. Tổ chức thành các đơn vị lớn nhỏ. Lập doanh trại và đồn lũy ven biển. Đóng các chiếc thuyền. Luyện tập binh sĩ. Tuyển mộ ngay các tên cướp biển để làm thành lực lượng phòng vệ. Lần đầu tiên nước Đại Nam có được một hệ thống hải quân khả dĩ có nề nếp. Các thương thuyền ra khơi buôn bán bắt đầu trông cậy vào chiến thuyền của ta bảo vệ. Ngày nay nếu phải tìm lại cho đúng vị thánh tổ của hải quân Việt Nam, người đó phải là “Đô đốc” Bùi Viện. Cần phải trả lại danh hiệu Trần Hưng Đạo cho bộ tổng tham mưu. Đức Thánh Trần xứng đáng là Thánh tổ của toàn thể quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tên của ông đã được đặt thành trại Trần Hưng Đạo, bản doanh của bộ Tổng tham mưu. Xuất dương cầu viện. Dưới triều Tự Đức, Pháp đang lấn chiếm Việt Nam. Tại Hoa kỳ Pháp Mỹ lại đang có chiến tranh vì tranh chấp trên xứ Mexico. Thời đó Hoa kỳ và Việt Nam là hai nước còn xa cách. Lần đầu tiên thuyền trưởng Mỹ John Briggs ghé đến Việt Nam năm 1803. Phải đến16 năm sau, năm 1819 một thuyền trưởng khác tên là John White, ghé Vũng Tàu rồi vào triều kiến vua Minh Mạng. Các quan trong triều có đãi tiệc. Nhưng Vua Minh Mạng không tiếp. Lý do thư của tông thống Andrew Jackson ghi là kính gửi bạn thân mến. Tổng thống Hoa kỳ chẳng biết sứ thần của ông sẽ gặp ai, thay vì thư gửi ghi là kính gửi Đại Nam Hoàng đế thì quốc thư chỉ ghi là Dear Good Friend. Mối bang giao vì thế không thực hiện được từ năm 1819. Tuy nhiên từ đó Việt Nam và nhất là ông Bùi Viện tìm hiểu biết rõ Hoa kỳ là nước trẻ trung và hùng mạnh tại Bắc Mỹ. Mùa Thu 1873, ông mới 34 tuổi, nhận lệnh vua Tự Đức qua Mỹ để vận động hành lang tìm đường cứu nước khỏi nạn xâm lấn của Pháp. Từ cửa Thuận An, chỉ có một mình, ông ra Bắc rồi từ đó đáp thương thuyền đi Hương Cảng. Rất may mắn Bùi Viện gặp được sứ thần của Hoa kỳ tại đất Cảng thơm là người Mỹ lai Tàu. Cả 2 người đều làm thơ chữ Hán, tưởng như gặp quý nhân. Sứ thần Hoa kỳ thấy nhà ngoại giao Việt Nam trẻ tuổi, yêu nước, quyết tâm nhưng hoàn toàn lạc lỏng với thế giới, ông bèn hết lòng giúp đỡ. Từ đó Bùi Viện qua Nhật, rồi từ Nhật qua Mỹ. Ông đến thủ đô Hoa kỳ vào năm 1874, lúc đó là nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Ulysses Grant. Vận động làm sao?. Lịch sử không ghi lại là vị tiền nhân xuất sắc của chúng ta đã ở đâu trên vùng thủ đô Hoa thịnh đốn. Đã gặp ai. Anh ngữ của ông ra sao. Ông học ESL ở đâu. Housing ra sao?. Xe cộ đi lại có ai giúp đỡ. Ông mặc quần áo và ăn uống như thế nào. Thời kỳ đó chưa có welfare, chẳng có Food stamp. Ôi, tiền nhân của chúng ta, tuổi trẻ, cô đơn nhưng lòng yêu nước tuyệt vời. Ông đã phải tìm cách gặp các dân biểu quốc hội, Ông phải dựa theo tin tức của bạn vàng là sứ thần Hoa kỳ tại Hồng Kông để tìm đường liên lạc vào Bạch cung. Không có miếng giấy trong túi, không có lá cờ vàng trong tay. Mất gần một năm trời. Sau cùng ông đã tìm được vào gặp tổng thống Hoa kỳ. Chúng ta bây giờ ngồi đây 139 năm sau, xin hãy tưởng tượng những khó khăn ghê gớm chừng nào để nhà ngoại giao khăn đóng áo dài của Việt Nam giãi bầy với tổng thống Mỹ xin viện trợ kinh tế, quân sự cho Việt Nam đánh đuổi quân Pháp. Dù tổng thống Hoa kỳ đồng ý nhưng vẫn rất quản ngại, ông đại sứ lưu động của Việt Nam xem ra chỉ có một mình. Quốc thư ủy nhiệm cũng không có. Đành phải ghi nhận để chuyến sau trở lại có thể chính thức trình ủy nhiệm thư. Đành vậy thôi. Sứ thần Bùi Viện phải trở về. Chuyến về ông gặp lại cố nhân là nhà ngoại giao Mỹ lai Tàu tại Nhật Bản. Khi về nước, Bùi Viện tường trình chuyến đi nhưng triều đình còn e ngại. Tuy nhiên năm 1875 ông lại sang Mỹ lần thứ hai với quốc thư. Tiếc thay, chính sự Hoa Kỳ thay đổi. Pháp Mỹ đã ký thỏa ước. Nước Đại Nam xa xôi không còn nằm trong viễn kiến của Hoa Kỳ. Sứ thần Bùi Viện thất vọng quay về. Với sở học từ Hoa Kỳ, Bùi Viện tái tổ chức hải quân và mở rộng hoạt động thương mại với ngoại quốc và trong nước. Chức vụ sau cùng của ông là thượng tướng tư lệnh hải quân đồng thời coi cả bộ tài chánh và thương mại. Binh đội hải quân của ông đã giữ yên hảỉ phận làm cho bọn Tầu Ô phải quay về cướp phá vùng Hải Nam. Sự nghiệp đang hiển hách thành công, Bùi Viện mất năm 1878, hưởng dương chỉ có 40 năm. Luận cổ suy kim Chúng ta có dịp ngàn năm một thuở, vận động được hai ngày tại Bạch Cung và tòa nhà Quốc Hội. Hai nơi tiêu biểu cho hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ. Thực hiện một cuộc thực tập đấu tranh chính trị tốt đẹp. Ngoạn mục thực sự là vận động thành công, nhưng tất cả chỉ mới là bước đầu. Kể từ khi mất nước 1975, cuộc vận động hành lang sau 36 năm mới có vẻ mở đầu ngoạn mục trên con đường còn dài. Nhưng lần này người Việt tại hải ngoại không cô đơn như tiền nhân Bùi Viện 139 năm về trước. Chúng ta thành công là nhờ biết phối hợp và đến với nhau. Không có lý do gì mà chê trách phàn nàn. Thi sĩ Hà Thượng Nhân, sau những năm ngục tù, nay đã ra đi và để lại một câu thơ đáng giá. Những mái đầu cất cao, không một lời than thở. Xin nhắc lại. Những mái đầu cất cao, không một lời than thở. Nghĩ lại mà coi, ngày xưa ông Bùi Viện chỉ có một mình. Mặc áo the thâm đất Thái Bình ông đã vào gặp tổng thống Hoa kỳ hai lần. Vốn Anh ngữ của ông không thể bằng nhạc sĩ Trúc Hồ và chắc thua xa tiến sĩ Nguyễn đình Thắng. Ông chính là mái đầu cô đơn, không một lời than thở. Ngài Bùi Viện ơi. Tôi nghĩ vừa khâm phục, vừa thương ngài hết sức. Giao Chỉ, San Jose.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 27, 2013 10:37:12 GMT 9
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác(1720 - 1791) Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn ông (1). Sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (11-12-1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Nay là xã Hoàng Hữu Nam huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sống nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn và cũng qua đời ở đây vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở Khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc huyện Hương Sơn (cách phố Châu huyện lỵ Hương Sơn 4 cây số). Lê Hữu Trác là con thứ bảy của Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng. Dòng họ của ông có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Cha Lê Hữu Trác đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư. Năm Kỷ Mùi (1739) Lê Hữu Trác 20 tuổi thì cha qua đời, ông rời kinh thành về nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, thi vào tam trường, sau đó không thi nữa. Năm 1739 cũng là năm mở ra quy mô lớn của phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến, chỉ một năm sau (1740) nghĩa quân của Hoàng Công Chất đánh sát huyện ông. Chàng thư sinh trẻ tuổi Lê Hữu Trác đang mê mải đèn sách phải lánh đi nơi khác đọc sách. Có người thấy thế đã bảo ông "Binh lửa khắp nơi, con trai thời loạn há chịu già đời ở trong phòng sách mãi sao?" và khuyên ông nên theo nghề võ. Từ đó ông vừa dùi mài kinh sử vừa nghiên cứu binh thư. Sau nhờ ẩn sĩ họ Vũ ở Đặng Xá dạy vũ thuật âm dương (phép bói toán độn số), ông "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình" (Tựa "Tâm lĩnh"). Chiến tranh phong kiến đã gây đau thương chết chóc cho biết bao nhiêu gia đình làng xóm, nó không đem lại gì cho nhân dân, cho đất nước; đã làm cho Lê Hữu Trác chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên ông đã nhiều lần từ chối sự đề bạt của tướng nhà Trịnh. Ông nhận ra theo Lê hay Trịnh cũng là chí theo đuổi chiến tranh "cốt nhục tương tàn"; cái chí mạnh "xung Ngưu Đẩu" của ông cũng hóa "ngông cuồng" mà thôi. (Đọc bài thơ trong lời tựa bộ "Tâm lĩnh"). Cho nên năm 1746 khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới. Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi. Trong hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông đọc sách thuốc "Phùng thị cẩm nang" hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, muốn đem hết cái hiểu thấu về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc. ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu Lãn ông (ông lười) ý nói lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó. Giữa cảnh thiên nhiên tĩnh mịch của núi rừng Hương Sơn, sớm khuya mê mải đọc các sách thuốc: Y học nhập môn, Cảnh nhạc toàn thư, Nam dược thần hiệu (của Tuệ Tĩnh), Bảo sinh diệu toản yếu... thật là: Sá chi vinh nhục việc đời, Đem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền. (Bất can vinh nhục sự Bảo đao nhập cùng lâm. An bần - Y lý thâu nhàn) Hải Thượng Lãn ông muốn tìm thầy, tìm bạn để học thêm nhưng nơi núi rừng hẻo lánh "trên không có thầy giỏi để học, dưới không có bạn hiền giúp, chỉ một mình nói với mình, tự hỏi tự đáp mò mẫm tưởng tượng đủ thứ" (Lời tựa "Tâm lĩnh") để tìm ra chân lý. Sau ông nhờ một ông lang ở làng bên đi lại thân mật, giúp ông giải đáp những mắc mớ, vài ba năm sau ông đã chữa được một số bệnh thông thường trong gia đình và làng xóm. Mùa thu năm Bính Tý (1754) Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu (Nghệ An). Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Lãn ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức - Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải thượng Lãn ông. Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782) Lãn ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức cũng yếu lại là người chăm lo chữa bệnh cho trăm họ, nhất là ông đã quyết chí xa lánh công danh, theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm nên ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh với tâm trạng vừa lo lắng, vừa chán nản; mãi sau nghĩ đến bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, mà ông "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" (Thượng kinh ký sự), nên ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách, phần "con cái trong nhà cũng hết sức van nài", ông tạm làm vui từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường. Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng Lãn ông thấy nếu nhận thưởng chịu ơn thì khó lòng rời kinh đô trở lại Hương Sơn được, nên ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Thời gian ở kinh đô, Lãn ông muốn về thăm cố hương Hải Dương của mình, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Sau hơn 20 năm xa cách, được trở về mảnh đất "chôn nhau cắt rốn". Đang sống giữa quê hương, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Nhận được lệnh triệu, ông đành phải rời quê hương. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" (Thượng kinh ký sự). Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được, lại nóng lòng trở về Hương Sơn, Lãn ông đang tìm kế thoái lui, thì may có người tiến cử một lương y mới, ông liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Hải Thượng Lãn ông trở về Hương Sơn bằng đường thủy, nhưng sợ triều đình bắt trở lại ông phao tin đi đường bộ. Thoát khỏi kinh đô ông sung sướng như "chim sổ lồng, cá thoát lưới", lòng chỉ muốn "bay nhanh" về quê nhà: Lên đường từ giã long lâu Gươm đàn nửa gánh ra ngay đô thành, Ngựa quen đường cũ về nhanh, Quay thuyền khó lúc lênh đênh giữa dòng. Mây qua đường để bớt nồng Núi non mở mặt như lòng vì ai Xanh xanh một dải non đoài Giống non ta cũ chỉ vài hòn thôi. (Thượng kinh ký sự). Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn. Gần một năm sống giữa kinh đô phong kiến biết bao công danh phú quý lôi kéo, nhưng ông "thung dung" ra đi lại "ngất ngưởng" trở về, lòng trong không hề đục, chí lớn không hề sờn. Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" ghi lại tỉ mỉ chuyến đi kinh, tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khi bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. -------------------------------------------------------------- (1) Hải Thượng Lãn ông: Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. Lãn ông nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng với danh lợi. Kết luận: Ông là nhà y học có học vấn uyên bác, nhà dược học nổi tiếng, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, nhà tư tưởng tiến bộ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo, có ý chí độc lập sáng tạo trong nghiên cứu. Phát huy truyền thống của Tuệ Tĩnh, ông đã sưu tầm phát hiện thêm 300 vị thuốc nam (Lĩnh Nam bản thảo) đồng thời tổng hợp thêm 2854 phương thuốc kinh nghiệm phổ biến cho nhân dân áp dụng "Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng". Ông cũng đã có những sáng tạo đặc sắc trong việc vận dụng lý luận y học vào thực tiễn Việt Nam. Cái quý nhất trong việc đào tạo lớp lương y mới, Lãn Ông chú trọng xây dựng y đức người thầy thuốc, ông thường nói "Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công" Những lời răn của Hải Thượng Lãn Ông "Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công... "Thường thấy kẻ làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha mẹ người ta ngặt nghèo, hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối, trời mưa, có bệnh nguy cấp; bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó chữa bảo là không chữa được, giở lối quỉ quyệt ấy nhằm thoả mãn yêu cầu, rắp tâm như thế là bất lương. Chữa cho nhà giàu sang, thì tỏ tính sốt sắng, mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo hèn thì ra ý lạnh nhạt, sống chết mặc bay. Than ôi, đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được... "Nghề làm thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn phải lấy việc giúp người làm điều hay. Cứu được một người thì khoa chân, múa tay cho mọi người biết) nhỡ có thất bại thì giấu đi. Thường người ta hay giấu các điều xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi những thói đó chăng, là vì tôi không theo con đường khoa cử nối dõi nghiệp nhà, chuyển hướng ra làm thuốc nên chỉ muốn hết sức làm những việc đáng làm, may ra khỏi hổ thẹn với đất trời, đâu dám e ngại sự chê khen, để phải hối hận với bổn phận... "Nghĩ thật sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng con người. sống chết trong tay mình nắm, họa phúc trong tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành động không thận trọng mà làm liều lĩnh học đòi cái nghề cao quí đó chăng". 8 tội người thầy thuốc cần tránh: - Có bệnh xem xét đã rồi mới cho thuốc, vì ngại đêm mưa vất vả không chịu thăm mà đã cho phương, đó là tội lười. - Có bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu được nhưng sợ con bệnh nghèo túng không trả được vốn nên chỉ cho thuốc rẻ tiền, đó là tội bủn xỉn. - Khi thấy bệnh chết đã rõ, không bảo thực lại nói lơ mơ để làm tiền, đó là tội tham lam. - Thấy bệnh dễ chữa nói dối là khó chữa, dọa người ta sợ để lấy nhiều tiền, đó là tội lừa dối. - Thấy bệnh khó đáng lẽ nói thực rồi hết lòng cứu chữa nhưng lại sợ mang tiếng không biết thuốc, vả lại chưa chắc chắn đã thành công, không được hậu lời nên không chịu chữa đến nỗi người ta bó tay chịu chết, đó là tội bất nhân. - Có trường hợp người bệnh ngày thường có bất bình với mình khi mắc bệnh phải nhờ đến mình liền nghĩ ra ý nghĩ oán thù không chịu chữa hết lòng, đó là tội hẹp hòi. - Thấy kẻ mồ côi goá bụa, người hiền, con hiếm mà nghèo đói ốm đau cho là chữa mất công vô ích không chịu hết lòng, đó là tội thất đức. - Lại như xét bệnh còn lơ mơ, sức học còn non đã cho thuốc chữa bệnh, đó là tội dốt nát. Hải Thượng Lãn ông đã đề ra 9 điều dạy trong "Y huấn cách ngôn" để rănn dạy người thây thuốc mà hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, thí dụ: - Phàm người mời đi thăm bệnh, nên tùy bệnh kíp hay không mà sắp đặt thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn mà nơi đến trước, chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt nơi hơn kém. - Khi đến xem bệnh ở nhà nghèo túng, hay những người mồ côi, goá bụa hiếm hoi, càng nên chǎm sóc đặc biệt; vì những người giàu sang không lo không có người chữa; còn người nghèo hèn, thì không đủ sức đón được thày giỏi, vậy ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời, còn những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc mà không có ăn, thì vẫn đi đến chỗ chết. - Khi chữa bệnh cho ai khỏi rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình cầu cạnh thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu lợi thường hay sinh chuyện. Cho nên nghề thuốc là nghề thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 4, 2013 4:46:12 GMT 9
Tư liệu về Hải Quận công - Tiến sĩ Phạm Đình Trọng trong gia phảPhạm Thị Hà Châu Nguyễn Đức Toàn Viện nghiên cứu Hán Nôm Phạm Đình Trọng(1714-1754), nhân vật lịch sử ở thế kỉ XVIII. Đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu 5 (1739) đời Lê Ý Tông. Là người có công với triều đình Lê-Trịnh trong việc bình ổn các cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Đàng Ngoài. Đặc biệt sự đối đầu giữa ông với Thủ lĩnh khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu lưu truyền thành một giai thoại. Đã có nhiều nhận định về tài năng đức độ của ông được các sử gia phong kiến ghi nhận. Là người xuất thân khoa bảng, nhưng sự nghiệp của ông vẻ vang nhiều trên con đường binh nghiệp, rất được chúa Trịnh Doanh tín nhiệm. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu gây chấn động, vì Hữu Cầu dũng mãnh hơn người, táo bạo quyết liệt. Quan quân triều đình đều sợ, duy ông không sợ. Chính sử còn ghi: “chỉ một mình Đình Trọng thề quyết chí giết cho bằng được, nên triều đình vững lòng dựa vào Đình Trọng. Đình Trọng cầm quân có kỷ luật, hễ trận nào Hữu Cầu gặp Đình Trọng liền bị thua. Các tướng lúc bấy giờ, Hữu Cầu chỉ sợ có Đình Trọng mà thôi”[1], “Trịnh Doanh nhận thấy Hữu Cầu vốn sợ Đình Trọng, nên sai Đình Trọng đi đánh”[2]. Khi làm Trấn thủ Nghệ An, ông theo chỉ dụ đề xuất cải cách sửa đổi các tệ hại cho dân vùng này[3]. Ông mất khi đang tại nhiệm lúc mới 40 tuổi[4], triều đình mất đi trụ cột. Năm 2010, đã có cuộc “Hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của tiến sĩ Phạm Đình Trọng”. Trên Tạp chí Hán Nôm cũng đã có 2 bài viết liên quan đến Phạm Đình Trọng[5]. Chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đã được tiếp cận tập gia phả của dòng họ Phạm, trong đó có những tư liệu Hán Nôm liên quan đến cụ tổ của dòng họ, Hải quận công Phạm Đình Trọng. Gia phả được biên tập, chép lại dưới thời Nguyễn, một số điểm nhầm lẫn cần được đính chính. Như: năm Tân Sửu bắt được Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển. Đúng can chi theo sử là năm Ất Sửu 1745; Nguyễn Hữu Cầu có hiệu là Quận He, bị chép thành Quận Hẻo, là hiệu của Nguyễn Danh Phương, người làng Hẻo, một thủ lãnh khởi nghĩa cũng bị bắt cùng thời gian ấy[6]; Hay chép Phạm Đình Trọng đỗ Tiến sĩ năm 16 tuổi; mất thọ 50 tuổi, trong khi ông đỗ năm 25 tuổi, mất năm 40 tuổi; Ngoài ra, gia phả biên tập dưới thời Nguyễn nên có tư tưởng bài Trịnh tôn Lê, có chỗ chép về chúa Trịnh bị thay bằng vua Lê. Tuy vậy, giá trị tư liệu của tập gia phả vẫn được ghi nhận. Có ý nghĩa bổ sung cho nghiên cứu về nhân vật lịch sử này. Chúng tôi xin giới thiệu và trích dịch trang nguyên văn phần chép về cụ Triệu tổ Hải quận công Phạm Đình Trọng. Trong gia phả, phần Tượng đầu đoán tụng ký và Văn tế của Trần Danh Lâm theo nguồn văn bản khác đã được Nguyễn Minh Tường, Đỗ Lan Phương giới thiệu[7], chúng tôi xin tham khảo lược dịch. Bài giới thiệu này bổ sung thêm về sự tích, hành trạng của ông, thêm bài văn tế theo dụ triều đình của Nguyễn Nghiễm, của tướng sĩ thuộc hạ bản doanh tế ông, thơ bình của Bùi Huy Bích, lời chế phong của Ngô Thì Sĩ, xin góp phần tư liệu cho nghiên cứu. Phạm gia phả chí tiền biên. Triệu tổ Hải quận công Phạm Đình Trọng. Người Khinh Dao, Giáp Sơn, Hải Dương. Là chắt của cụ Thừa tuyên Phạm Bỉnh Di thời Lê Hồng Đức. Cụ Phạm Bỉnh Di sinh ra cụ Phạm Đình Nguyên. Cụ Phạm Đình Nguyên thi đỗ khoa Hoành từ đời Quang Thiệu, quan làm Hàn lâm Học sĩ. Cụ Phạm Đình Nguyên sinh ra cụ Phạm Đình Giáp. Cụ Phạm Đình Giáp đỗ Hương cống đời Nguyên Hòa. Sau lại theo Trịnh Chiêu Tổ[8] đánh nhà Mạc, được ban chức Hữu Tham quân. Cụ Phạm Đình Giáp lấy vợ là con gái Lê chỉ huy người Khoái Châu, sinh ra hai người con trai. Người con trai lớn tên là Phạm Đình Bình. Năm Vĩnh Hựu 1 (1735), Phạm Đình Bình thi đỗ Hương cống, làm quan Hàn lâm. Triệu tổ là con trai thứ hai. Ban đầu, Lê phu nhân nằm mộng thấy thần Ngũ Hồ[9] vào nghỉ, từ đó có thai rồi sinh ra ông. Ông tướng mạo tuấn tú, nghiêm trang như thần. Thuở còn nhỏ khi chơi, ông thường tập bày các đồ tế lễ, tập tành lễ nghi. Lại thường tự ngâm nga rằng: “Trời chẳng già đất chẳng già. Năm hồ bảy miếu một mình ta”[10]. Quan Tham quân mỗi lần trông thấy thường lấy làm kì. Sau này, có một người Trung Quốc xem tướng cho ông, thấy tướng mạo trông giống tượng thần Ngũ Hồ, thầm cho là kì dị. Lại dò hỏi, biết rằng giờ ngày tháng năm sinh của ông đúng vào thời[11] gian miếu thần Ngũ Hồ xảy ra sự biến động lạ. Mới hay ông là do thần Ngũ Hồ giáng sinh. Khi 25 tuổi, ông tham gia kì thi tiến sĩ năm Vĩnh Hựu 5 đời vua Lê Ý Tôn[12] (1739). Khảo quan Nguyễn Trọng Quát xem văn ông đã dự biết triều đình tìm được người tài. Năm Cảnh Hưng 1 (1740), ông được ban chức Giám sát Ngự sử. Có hôm, vào trầu trở về, lưu nghỉ lại ở Kim Thành, xã Hoàng Xá. Có bắt được trùm giặc là Quận Gió[13] trốn dưới đống củi. Ông lệnh sai giải về nộp, được ban thưởng ba trăm quan tiền. Khoảng trong năm Ất Sửu (1745)[14], ông làm Hiệp đồng kiêm Phòng ngự sứ, lần lượt bắt được giặc Nguyễn Cừ, Nguyền Tuyển[15] ở núi Ngọa Vân. Khi đó, trong nước đạo tặc nổi lên như ong. Trong đó có Nguyễn Cầu[16] là ghê gớm hơn cả. Cầu là người ở Lôi Động, Thanh Hà, Hải Dương, tục gọi là Quận He[17]. Tương truyền đó là thần Hải Ngư thác sinh. Trước đây, Cầu cùng với ông cùng học với thầy Tiến sĩ họ Đặng ở Chương Đức. Nguyễn Cầu thường bài chiếm được hạng ưu, tính hay ngạo ngược tự phụ tài năng của mình, xem thường những người đồng lứa. Đặng Tiến sĩ vì thế thưa nhạt với Cầu mà lại quý trọng ông. Vì lẽ cả sự học và phẩm hạnh của ông đều tốt. Cầu do đó sinh lòng đố kị, dần thành ra đối địch với ông. Thường lấy văn từ để khiêu khích, nhưng ông chỉ coi sơ qua không để bụng. Khi vào kì thi Hương, Cầu không đỗ, nhưng thấy ông đoạt giải. Cầu lại càng bất bình không làm gì được. Sau ông lại lừng lững đỗ đại khoa. Cầu chất chứa lòng đố kị thành sự thù hằn, liền kết bè đảng làm loạn ở Nam Sách, đào phần mộ tổ tiên ông, bắt giữ mẹ đẻ của ông, lại muốn bắt được ông mới cam tâm. Cầu có dũng lực như thần, mỗi khi lâm trận thường cầm đao lên ngựa lao thẳng về phía trước không ai đương địch. Người đương thời thường gọi Cầu là Hạng Vương nước Nam[18]. Quan quân mỗi lần lâm trận đều bị Cầu đánh bại. Ông phụng mệnh thống lĩnh thủy quân đóng ở bờ biển Đông Triều, dùng kì binh, bày thế hiểm yếu, thề quyết không đội trời chung với giặc. Có hôm, ông ngồi trong khoang thuyền, Cầu liền lặn xuống nước bơi đến chỗ thuyền đậu rồi nhảy lên thuyền ông. Ông nhanh chóng đến cửa khoang hô lớn rằng: “Ta đã chém được đầu Quận He”. Các tướng sĩ nghe tiếng đều đã nhất loạt chạy xô lại. Cầu sợ, nhanh chân nhảy xuống nước, lặn xuống dưới mái chèo. Ông lệnh tướng sĩ cầm giáo đâm thẳng xuống nước. Cầu ngay lập tức liền trốn mất. Hôm khác, ông ghé qua bến sông, giặc Cầu bất ngờ đem quân đến vây. Ông dẫn thủ hạ gia sức đánh, giết chúng khá nhiều. Cầu mới phải rút quân về. Vua Hiển Tôn nghe tiếng, khen ông dũng tráng, chiếu phong là Dao Lĩnh hầu. Khoảng năm Nhâm Tuất (1742), ông được triệu về kinh làm chủ khảo thi Hội[19]. Việc xong, ông lại cùng Tuân Quận công lĩnh binh đi dẹp giặc. Vua Hiển Tôn chiếu hỏi về việc quân cơ, ông ứng đáp minh bạch đâu vào đấy. Nhà vua vui mừng, gia phong ba cấp, ban thưởng ba trăm quan tiền. Lúc bấy giờ, giặc Cầu chiếm cứ Đồ Sơn, với thuộc hạ 18 người đều xưng là quận công, tinh binh có hơn ba vạn. Lại xây nhà Hoàng ốc, dựng cờ Tả đạo[20]; đắp thành đào hào nghiễm nhiên lập nước chống nghịch. Nhân dân ven biển đều chấn động. Ông thống lĩnh quân tiến thẳng đến Kinh Môn. Lệnh cho ba quân tìm nơi cao hạ trại, ngầm lệnh cho thủy quân cắt lối biển tuyệt đường lương thực của giặc. Lại cho quân đặt pháo trên đỉnh núi bắn vào đồn giặc. Quân giặc không đề phòng, bị đánh bất ngờ mà tự vỡ tan. Cầu liền bỏ thành chạy về Kinh Bắc. Ông lại chỉ huy quân truy đuổi, đánh bại chúng ở Thương Giang. Nghe tin thắng trận, vua Hiển Tôn vui mừng, ngự bút viết bốn chữ đại tự “Văn võ toàn tài” ban cho[21], đồng thời thưởng mười lạng vàng. Ông lĩnh thưởng tạ ơn, luôn lấy việc bình giặc dã làm trách nhiệm[22] của mình. Khi ấy, giặc Cầu bị thất bại nhiều lần, binh lính ít, sức cùng kiệt, có mưu tính chạy trốn nơi xa. Một hôm, sai người đưa thư cho ông. Ông mở xem thấy có một vế đối: “玉藏一点出为主入为王/ Kĩ càng ngọc báu, khi đã lộ, ra thì làm chúa, vào thì xưng vương”. Tỏ cái lòng tự đại như vậy đấy[23]. Ông bèn trả lời lại rằng “土截半横顺者上逆者下/ Đất xẻ nửa bên, theo ý trời, thuận đấy là lên, nghịch đấy là xuống”. Có ý coi Cầu là giặc phản nghịch[24]. Cầu hổ thẹn. Năm Cảnh Hưng 10 (1749), Cầu trốn vào Nghệ An, kết bè đảng ở vùng Thanh Hóa. Ông cùng với một người trong họ là Viêm Thọ hầu Phạm Đình Sĩ[25] dẫn quân tiêu diệt chúng. Qua hơn mười trận giao chiến, mới bắt được Cầu ở Quỳnh Lưu, đóng cũi áp giải về kinh. Trong khoảng mười năm Nguyễn Hữu Cầu tác loạn đến giờ, ông rong ruổi chiến trường, nhung mã gian nan có thể thấy được. Sau khi khải hoàn, vì có chiến công mà được tăng lên chức Thượng thư Bộ binh, gia phong hàm Thiếu bảo, sắc phong Dương Vũ Tuyên Lực công thần, Hải Quận công, được ban ruộng thế nghiệp 150 mẫu. Ngày trước, ở châu Vạn Ninh có bến Hồng Đàm[26] là một nơi hiểm yếu của biển Đông, thường có thổ phỉ tụ tập bè đảng cướp bóc thương lái. Trải qua nhiều năm, Tổng đốc Quảng Châu cùng Trấn thủ Yên Quảng[27] nhiều lần hợp sức đánh, nhưng không trừ được. Ông phụng mệnh đi tuần tra vùng biển, dùng kế đánh úp tận sào huyệt, bắt sống kẻ cầm đầu thổ phỉ cùng đồ đảng 70 tên, đóng cũi áp giải về Quảng Đông. Ông lại đích thân đến tận Long Môn[28] cùng gặp mặt quan Trấn thủ. Người Trung Quốc thấy ông đều khen ngợi không ngớt, tiếc rằng ông tài lớn sinh ra ở nước nhỏ, bậc chính nhân quân tử mà phải phụng sự quyền thần[29]. Sau đó Tổng đốc Quảng Đông đem việc này tâu với vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh cũng khen ngợi, sai sứ ban cho ông mười lạng vàng và một trăm tấm lụa Tàu, đồng thời ban cho hàm Thượng thư. Do đó người đương thời thường gọi ông là Lưỡng quốc Thượng thư. Năm Cảnh Hưng 12 (1751), ông phụng mệnh đến cai quản đất Nghệ An, kiêm quản châu Bố Chính, cai trị dân chúng có nhiều công tích. Ông từng phân định một vụ tranh tụng[30]. Quan Tham tụng Kiều Quận công Nguyễn Công Thái[31], vốn là liêu hữu của ông. Khi Nguyễn công về trí sĩ, ông có thơ tặng Nguyễn công rằng: Khuê chương danh giá khắp Nam thiên, Gặp gỡ lòng ưa cá nước duyên. Vâng bổng hai vầng trên mặt biển, Rạng ngời tám cõi chiếu mây xuyên. Tể tướng vững ngôi triều đình trọng, Quy nhàn hương xã sướng vô biên. Xuất xử hành tàng thời xoay vận. Trụ nước cao trông bậc huân hiền.[32] Văn chương ông hùng vĩ, ngâm vịnh khá nhiều, đại lược được chép tường tận trong Hoàng Việt cổ văn[33]. Ở đây không chép hết được. Năm Cảnh Hưng 15 (1754), ông mất ở tại trấn sở. Vua Hiển Tôn thương tiếc, sai quan đến dụ tế, lệnh cho Tham tụng Nguyễn Nghiễm[34] soạn tế văn rằng: “Ô hô, núi Hoành Sơn có thể mài gươm, sông La Hà có thể rửa giáp. Non sông còn mãi mà ông giờ ở đâu!. Cổ nhân nghe tiếng khánh thì nhớ tưởng bề tôi giữ biên cương. Lòng ta thật cảm khái. Ông một thân khí đảm, bụng chứa giáp binh. Hơn mười năm sương tuyết xông pha, đốc sát chẳng từ gian khó. Trải trăm trận bạt núi băng sông, cơ đồ lớn còn ghi sách sử. Nghìn chung thấm nhuần chưa báo. Vạn dặm rong ruổi càng thêm. Mỗi bàn, trọng ký Trường Thành, còn hẹn tiếng trung nghĩa triều Đường[35]; Đồn xa Ngũ Trượng[36], báo đèn tàn tướng quân nhà Hán. Cửa dinh hàng liễu mượt mà, cờ mao quân lệnh truyền vang. Ta mới cảm hoài nỗi nhớ trong bài thơ “Thái dĩ”[37], ông sao nỡ bỗng chốc đã đến nơi ước hẹn. Nhớ ông phong thái hùng hồn, lẫm liệt giặc khiếp như gió lạnh. Nghĩ ông lòng trung son sắt, ngưỡng trông gương sáng trời cao. Buồn thay, tiếc thay. Nghĩa lớn quân thần trường tồn vạn cổ. Sai quan dụ tế, mong ông hâm hưởng”. Quan Đốc thị châu là Trần Danh Lâm[38] cũng đến tế[39]. Tướng hiệu trong bản doanh cùng trí tế rằng: “Ô hô ! Đời người như khách quán, thế sự tựa cờ bày. Bùi Tấn Quốc tu gì, ngoài bảy mươi còn thêm tuổi thọ[40]; Quách Phần Dương phúc lớn, hơn tám chục vẫn hưởng niên cao[41]. Ôi ! Tướng công ra đi, thực than thiên đạo chẳng công bình. Cội Cam đường mưa tưới, ba năm như còn thấy Thiệu công[42]. Liễu mảnh tuyết sương, bốn vách như tướng Chu còn sống[43]. Truy tưởng trần tích một thời, còn lưu muôn thủa tiếng thơm. Giáo yên cung áo, nhện giăng thêu loạn; Lầu thuyền đài các, chim chóc kêu thương. Thương thay ngậm nỗi sầu Tùng Nhạc, mênh mang niềm hận uất biển khơi[44]. Các chư tướng chan hòa giàn dụa, theo châu quận gần vái đài tinh. Khi năm xưa dưới trướng hạ đàm binh, vẻ ôn tồn như đó. Ngày hôm nay giữa dong quan đường đưa tiễn[45], thảng thốt sự đi xa. Hằng nhớ công đức bao dung, chịu khôn xiết tình chia sầu thảm. Lễ bạc một giỏ, nơi âm cách thấu đạt mồ sâu[46]”. Sau khi ông mất, người địa phương nhớ công đức lập đền ở núi Hương Càn huyện Kì Hoa[47], Nghệ An. Sau này, Kế Liệt hầu Bùi Huy Bích[48] kế quản trị lí Hoan Châu, yết kiến đền thờ ông và có đề thơ rằng: Văn võ toàn tài vượt quá phần. Từng nơi sử quán chép danh thần. Chưa bàn sau khuất còn lưu mãi. Mà lúc sinh tiền đã như thần. Một tấm lòng trung ngang vũ trụ. Mười năm đàn kiếm định phong trần. Làm sao cũng mũ nhà Nho ấy. Chỉ có tầm thường mấy tiểu nhân. Chúa Trịnh cũng sai quan trí tế, truy tặng ông là “Thái phó Thượng đẳng Phúc thần”, lệnh nhân dân lập đền ở huyện Giáp Sơn, lại đích thân soạn một đôi câu đối: “Cái thế anh hùng xưa nay ít. Công đức còn mãi đất trời lưu”. Năm Chiêu Thống 1 (1787) sắc phong là “Thượng Đẳng Cương Chính Anh Uy Linh Cảm Đại Vương”. Hàn Lâm học sĩ Ngô Thời Sĩ [49] khi thảo chế có câu: “Dải núi vươn anh khí, khôi giáp vọng ngời ngời. Quạt lông khăn lượt yên bể chướng, lễ thư tiết chế thực tướng tài. Đai ấm áo cừu, vững Hoành sơn trung tín dậu phên. Sự văn kinh võ vĩ, công tích còn lưu thư khoán, ơn sủng hoa càng tỏ nghi chương.” Các đời vua triều ta[50] có khen ngợi sống làm tướng, chết làm thần, ấy là nói về ông vậy. Ông thọ 40 tuổi[51], mai táng ở Kì Sơn Nghệ An. Nay từ đường phụng thờ ông tại Khinh Dao, Hải Dương, tức là nguyên quán của ông. Thế mạch trường lưu, hương hoa không dứt, con cháu sau này tuy có thiên chuyển nơi khác nhưng vẫn không mất, nối dõi làm bậc hào trưởng, rạng rỡ đời sau. Điều đó há chẳng phải là sự mở mang sau này tất phải nhờ người đi trước hay sao. Vợ cả họ Lý, húy là Thường, là con gái của Tham quân họ Lý ở Sơn Tây. Bà sinh hạ được một con trai tên là Đình Trực. Năm Cảnh Hưng 3 (1742) đỗ Hương Cống, được bổ Hàn Lâm Thị Giảng. Phái ấy được ghi chép vào Gia phả ở Hải Dương, con cháu đời đời kế tục đỗ đạt đăng khoa. Có một con gái tên là Ngọc Tường gả cho Tiến Sĩ họ Ngô ở Hoài Đức. Thọ 28 tuổi, mất năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740); Bà vợ kế họ Trần húy là Kiều, là thứ nữ của Thị Lang họ Trần người Thanh Hóa, là bào tỉ của Trần Danh Lâm, Đốc Thị ở Hoan Châu. Năm 18 tuổi về với Quận công ta, rất có đức vợ hiền, chăm sóc con đích như con mình đẻ ra. Gặp thời loạn giặc Cầu, Quận công 10 năm ở bên ngoài, phu nhân trị gia rất đáng khen. Bà sinh hạ được ba con trai, trưởng là Đình Long được ấm thụ hàm Hàn Lâm, làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. Con trai thứ là Đình Xương, năm Cảnh Hưng 15 (1754) đỗ Phó bảng[52], làm Đốc học ở Hải Dương, sau được thăng chức Binh Bộ Thị Lang. Hai phái ấy được ghi chép riêng vào Gia Phả ở Hải Dương. Con cháu nhiều đời đỗ đạt. Lại có một con gái tên là Ngọc Sính gả cho Cống Sinh họ Nguyễn ở Thanh Hà. Con trai thứ ba là cụ Thái tổ họ Phạm nhà ta. *** Kết thúc phần tư liệu về Phạm Đình Trọng, một nhân vật lịch sử, một danh tướng xuất thân khoa bảng thời Lê - Trịnh. Chúng tôi xin được dùng lại lời nhận định về ông trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau: Đình Trọng cầm quân đánh giặc, từng thống lãnh quân các đạo, đi đến đâu giặc đều tan vỡ. Nói về công đánh dẹp, Đình Trọng là người chiếm giải nhất. Trịnh Doanh viết lối "phi bạch" bốn chữ "văn võ toàn tài" ban cho, lại cho biển ngạch khắc chữ "đồng hưu công thần", phong cho thái ấp vài ngàn hộ. Đình Trọng là một viên tướng có Nho học, giữ vị vọng quan trọng, dầu ở nơi biên trấn mà sĩ phu không ai là không tưởng mến nghi phong thái độ[53]. Thư mục tham khảo 1. 范家谱志前编Phạm gia phả chí tiền biên. Tư liệu Hán Nôm sưu tầm 2. 皇越文选Hoàng Việt văn tuyển. Bùi Huy Bích biên tập. 3. Nguyễn Minh Tường. Phạm Đình Trọng và bài Tượng đầu đoán tụng ký (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(88) 2008; Tr.50-59); 4. Nguyễn Minh Tường–Đỗ Lan Phương. Bài Văn tế Phạm Đình Trọng của Tiến sĩ Trần Danh Lâm (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010; Tr. 51-57). 5. Ngô Đức Thọ. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại. Nxb Văn Hóa, 1997. 6. Văn bia đề danh tiến sĩ Việt Nam.Trịnh Khắc Mạnh. Nxb Giáo dục Hà Nội 2007. 7. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Viện Sử Học) Nxb Giáo Dục - Hà Nội 1998. 8. www.vietgle.vn/trithucviet/detail. 9. newvietart.com/index4.800.html10. hannom.org.vn/default.asp11. www.nomna.org/ - Vietnam 12. vi.wikipedia.org/wiki/Phạm_Đình_Trọng_(tướng_nhà_Lê-Trịnh)[1] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI [2] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XL [3] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI [4] Gia phả ghi ông thi đỗ năm 16 tuổi, mất thọ 50 tuổi. [5] Nguyễn Minh Tường. Phạm Đình Trọng và bài Tượng đầu đoán tụng ký (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(88) 2008; Tr.50-59); Nguyễn Minh Tường – Đỗ Lan Phương. Bài Văn tế Phạm Đình Trọng của Tiến sĩ Trần Danh Lâm (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010; Tr. 51-57). [6] Tương truyền Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Hữu Cầu ở Nghệ An, chúa Trịnh Doanh bắt được Nguyễn Danh Phương ở Lập Thạch. Trên đường giải Cầu về Kinh, gặp chúa Trịnh cũng giải Danh Phương về. Chúa Trịnh mở tiệc mừng công bắt Danh Phương hầu rượu, bắt Hữu Cầu thổi sáo. Về Kinh cả 2 cùng bị xử tử. [7] Hai tác giả này đều dựa vào nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích. [8] Chữ Chiêu 昭viết kiêng húy triều Nguyễn, bớt nét trong bộ Nhật日. Trịnh Chiêu Tổ tức Trịnh Căn. Văn bản viết dưới thời Nguyễn, mang quan điểm phong kiến bài Trịnh tôn Lê, nhiều chi tiết liên quan đến chúa Trịnh đều được gia phả thể hiện thay bằng vua Lê. [9] Ngũ Hồ: là năm hồ lớn nổi tiếng cảnh đẹp ở Trung Quốc là: Thái Hồ, Động Đình Hồ, Tây Hồ, Đan Dương Hồ, Nhạc Châu Hồ. [10] Nguyên văn chữ Nôm. [11] Chữ Thời 时viết kiêng húy thành chữ Thìn辰. [12] Chữ Tôn 尊viết kiêng húy của chữ Tông 宗. Theo năm sinh là 1714 thì năm ông thi 1739 ông phải 25 tuổi. Gia phả ghi 16 tuổi, theo đó dưới lại ghi ông thọ 50. [13] Quận Gió: nguyên văn chữ Nôm, có thể là một thủ lĩnh khởi nghĩa, chưa rõ là nhân vật nào. Nhưng giai thoại Việt Nam, thời Lê cũng có chuyện về một nhân vật trộm của giàu chia cho người nghèo, xưng là Quận Gió. Có thể Quận Gió là từ chỉ quân ăn trộm nữa chăng? [14] Nguyên văn là Tân Sửu, tra niên đại thì không đúng. Một năm 1721, Phạm Đình Trọng mới 7 tuổi; một năm 1781 là năm Cảnh Hưng 45, lúc ấy Phạm Đình Trọng đã mất hơn 30 năm. Theo chính sử thì Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển là năm Ất Sửu 1745. [15] Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển là hai thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa. Nguyễn Hữu Cầu lúc đầu đi theo Nguyễn Cừ, được Cừ gả con gái cho. [16] Nguyễn Cầu: tức Nguyễn Hữu Cầu là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa nổi tiếng thời Lê Trịnh. [17] Quận He: nguyên văn chữ Hán là Quận Hiểu. Chữ Hiểu có thể đọc là Hẻo, nhưng không chính xác vì Nguyễn Hữu Cầu hiệu là Quận He, nên phải đọc là He. Có thể Gia phả có chút nhầm lẫn, vì tương truyền Nguyễn Hữu Cầu thường được xưng là Quận He, vì Cầu có tài bơi lặn giỏi như cá He ngoài biển. Tương truyền là thần cá biển thác sinh. Còn Quận Hẻo là tên xưng gọi của Nguyễn Danh Phương, người làng Hẻo, cũng là một thủ lĩnh khởi nghĩa, sau cũng bị bắt cùng thời gian với Nguyễn Hữu Cầu. [18] Hạng Vương: tức Hạng Vũ, nhân vật lịch sử Trung Quốc, sức lực hơn người, có thể tay không nhấc đỉnh lớn. Diệt Tần đánh Hán, người ta quen gọi là Hạng Vương. [19] Theo Bia Văn miếu Hà Nội thì Phạm Đình Trọng tham gia chủ khảo kỳ thi Tiến sĩ năm Quý Hợi đời Cảnh Hưng thứ 4 (1743), bia Tiến sĩ khoa này dựng năm Giáp Tí Cảnh Hưng thứ 5 (1744). Có thể có nhầm lẫn, hoặc giả thời điểm nhận chiếu Nhâm Tuất 1742, đến khi thực hiện 1743 và kết thúc quá trình lập bia đề danh là 1744. [20] Hoàng ốc, Tả đạo: là nhà mái vàng, cờ cắm bên trái là những ngi thức lễ riêng dành cho Hoàng đế. Đây nói Nguyễn Hữu Cầu làm loạn, có ý xưng vương. [21] Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì chúa Trịnh Doanh ngự bút viết lối phi bạch bốn chữ Văn võ toàn tài ban cho, lại ban biển ngạch Đồng hưu công thần. Vì gia phả biên tập dưới thời Nguyễn nên tư tưởng bài Trịnh tôn Lê, tác giả chép là vua Lê ngự bút còn theo chính sử thì là chúa Trịnh Doanh viết. [22] Chữ Nhiệm 任viết kiêng húy khuyết 1 nét sổ trong chữ Nhâm壬. [23] Chữ Ngọc玉, có 1 chấm bên phải, nếu ẩn dấu chấm đi thì thành chữ Vương王, nếu thò dấu chấm lên đầu thì thành chữ Chúa主. [24] Chữ Thổ土, nếu cắt một bên để thuận thì là chữ Thượng上, nếu để ngược thì thành chữ Hạ下. [25] Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì Phạm Đình Sĩ là thuộc tướng của Phạm Đình Trọng. [26] Địa danh thuộc Trấn Yên Quảng, sau đổi là Quảng Yên, nay thuộc Quảng Ninh. [27] Yên Quảng: tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay. [28] Long Môn: địa danh vùng biên của Đại Thanh, sát biên giới An Nam. [29] Gia phả soạn vào thời nhà Nguyễn, có tư tưởng bài xích họ Trịnh. [30] Bài này đã được Nguyễn Minh Tường theo nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, giới thiệu trên T/c Hán Nôm,3/2008. Chúng tôi lược. [31] Nguyễn Công Thái, chữ Thái còn có âm đọc là Thể, người làng Kim Lũ, Hà Nội, đỗ Tiến sĩ năm 1715, chức Quốc Tử Giám Tế tửu, Đông các Hiệu thư, hành Thị lang các Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Lại. Một số tư liệu chép là tước Quảng Quận công. Là văn thần tể tướng hành Bồi tụng phủ chúa thời Lê Dụ Tông. [32] Nguyễn Minh Tường giới thiệu Tạm dịch trên T/c Hán Nôm,3/2008. [33] Tức Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích biên tập. [34] Nguyễn Nghiễm: người Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Là người có tài văn võ, được chúa Trịnh tin dùng, cũng là một bậc trọng thần đời Lê Trung hưng. Ông là thân phụ của Nguyễn Du. [35] Trung nghĩa Đường triều: nói tấm gương Nhan Chân Khanh đời Đường, làm quan ở ngoài biên ải mà trung thành không hàng giặc. [36] Ngũ Trượng: gò Ngũ Trượng, nơi tướng nhà Hán là Gia Cát Lượng thấy điềm sao sa, mang trọng bệnh mất ở trong quân thứ trên đường hành quân phạt Ngụy. [37] Thái Dĩ: Tên bài thơ trong Kinh Thi – Tiểu Nhã, nói về tướng quân Phương Thúc đời Chu Tuyên vương chinh phạt man di, trị quân nghiêm mật, uy danh lớn, đánh đâu thắng đó. Có ý ví với Phạm Đình Trọng. [38] Trần Danh Lâm: Người làng Bảo Triện, Gia Bình, Bắc Ninh, đỗ Tiến sĩ năm 1731, làm quan có nhiều công trạng, từng trấn giữ các địa phương, đánh dẹp họ Mạc. Công lớn được giao chức Bồi tụng, trong phủ Chúa. Gia đình dòng họ ông có nhiều người thi đỗ hiển đạt, như anh ông Trần Danh Ninh, con trai ông Trần Danh Án. Trần Danh Án có Bào tỉ là Kế thất của Phạm Đình Trọng [39] Bài này cũng được Nguyễn Minh Tường-Đỗ Lan Phương theo nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, giới thiệu trên T/c Hán Nôm,3.2010. Chúng tôi lược. [40] Bùi Tấn Quốc: tức Bùi Độ, được phong Tấn Quốc công. Xưa Bùi Độ nhà hàn vi, có vị tăng xem tướng bảo là sau tất chết đói phải sớm tu nhân hành thiện. Bùi Độ ra sức hành thiện tu nhân. Thời gian sau lại gặp lại vị tăng kia, xem tướng lại thấy ngạc nhiên vì thấy Bùi Độ có tướng làm Tể tướng triều đình. Sau quả nhiên như lời. [41] Quách Phần Dương: tức là Quách Tử Nghi, danh tướng đời Đường. Dù công cao tột bậc vẫn trung vua ái quốc. Có công dẹp loạn An Sử, không cậy công trạng, nhiều lần bị bãi vẫn không hai lòng. Thọ hơn 80 tuổi. Được phong Phần Dương vương. [42] Thiệu Công: Em Chu Công, có công giúp nhà Chu diệt Thương, bình định nội loạn được phong ở đất Yên, dân chúng nhờ ơn đội đức. Ông thường làm việc dưới gốc cây Cam Đường. Nhân dân lây đó làm kỉ niệm, cứ thấy bóng Cam Đường như thấy Thiệu Công ở đấy. [43] Tỏ ý nhớ tướng tài nhà Chu, cũng như Thiệu Công ở trên. [44] Tùng Nhạc: tức là chỉ núi Thái Sơn; Thương Minh: tức là nói biển khơi [45] Chấp phất执绋: có nghĩa là đưa ma, hoặc cầm dây dong áo quan tiễn đưa. [46] Cửu kinh九京: chỉ mộ của quan Đại phu thời Xuân Thu, sau cũng chỉ mộ nói chung, cùng nghĩa như Cửu Tuyền. [47] Chữ Hoa kiêng húy. [48] Bùi Huy Bích: người làng Định Công, Hà Nội. Đỗ Tiến sĩ năm 1770, sau thăng Nhập thị Bồi tụng, từng có thời gian làm Đốc đồng, Hiệp trấn Nghệ An. [49] Ngô Thời Sĩ: người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc Hà Nội. Đậu Hoàng giáp năm 1766, đời Cảnh Hưng, là văn nhân, sử gia nổi tiếng thời bấy giờ, cũng được các chúa Trịnh tin dùng, đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng. Là thân phụ của Ngô Thời Nhiệm. [50] Tức triều Nguyễn. [51] Nguyên văn gia phả ghi thọ 50 tuổi. [52] Đời Lê chưa có danh hiệu Phó bảng. Đây là lối chép đời Nguyễn. Hơn nữa ở đây có sự nhầm lẫn là, năm Cảnh Hưng 15 (1754) cũng là năm Phạm Đình Trọng mất tại nhiệm sở, theo lệ phong kiến cha mất là đại tang không được phép đi thi. Không rõ chi tiết này như thế nào, có thể con ông thi đỗ trước khi ông mất. Chúng tôi dịch theo nguyên văn để tham khảo. [53] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI Nguồn nguoihieuco.blogspot.com/2012/11/tu-lieu-ve-hai-quan-cong.html#ixzz2Y0rRh7KT
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 8:25:02 GMT 9
Vị vua Lê lên ngôi hai lần và lấy vợ Tâylichsuvn.net/forum/showthread.php?t=9910Cách đây vài chục năm, những phụ nữ Châu Âu đến nước ta được nhiều người gọi là “bà đầm”, ai đó lấy vợ người Âu sẽ được coi là chuyện lạ. Ấy vậy mà, gần bốn trăm năm trước, có một người Việt Nam sống ở Thăng Long đã “lấy vợ đầm”. Đúng ra, ông có ít nhất là sáu bà vợ, trong đó có một người là dân Hà Lan. Ông là vua Lê Thần Tông. Trong cuốn sách Tường trình về Đàng ngoài (còn có tên là Lịch sử vương quốc Đàng ngoài) của linh mục Alexandre de Rhodes, ghi rất nhiều việc về nước ta. Trong đó, có ghi chuyện người Việt Nam đầu tiên lấy vợ người châu Âu, là Lê Duy Kỳ, sinh ngày 19/11 năm Đinh Mùi 1607, con trưởng của vua Lê Kính Tông và bà Trịnh Thị Ngọc Trinh. Sau này, năm Kỷ Mùi 1617, Duy Kỳ lên ngôi vua với hiệu là Lê Thần Tông. Duy Kỳ là cháu ngoại của chúa Trịnh Tùng, được đưa lên làm vua lúc mới 12 tuổi, sống mũi cao, da trắng trẻo, lớn lên rất đẹp trai, thông minh, học rộng, giỏi văn chương, làm vua được 24 năm thì nhường ngôi cho con trai mới 13 tuổi là Lê Duy Hựu (hiệu là Chân Tông). Chùa Mật Sơn, phía Nam thành phố Thanh Hóa thờ 6 bà vợ của vua Lê Thần Tông. Ảnh HV “Lê Chân Tông lên ngôi, tôn vua cha làm Thái thượng hoàng, Hoàng hậu Trịnh Thị làm Hoàng thái hậu…” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thế nhưng, ở ngôi chỉ được 7 năm thì Lê Chân Tông ốm, chết, nên Thái thượng hoàng Lê Duy Kỳ trở lại làm vua. Đến năm Nhâm Dần 1662, Lê Thần Tông qua đời. Nối ngôi Thần Tông là con trai thứ của ông, tên là Lê Duy Vũ (hiệu là Huyền Tông), ở ngôi 9 năm thì ốm, chết. Kế vị cũng là một con trai nữa của Lê Thần Tông tên là Lê Duy Hợi (hiệu là Gia Tông). Lê Gia Tông ở ngôi 4 năm thì ốm, chết. Nối ngôi là con út của Lê Thần Tông, tên là Lê Duy Hợp (hiệu là Hy Tông). Như vậy Lê Duy Kỳ là người duy nhất trong số 108 vị vua chúa Việt Nam có hai lần lên ngai vàng làm vua. Cũng xin lưu ý bạn đọc, Lê Duy Kỳ (1607-1662) làm vua với hiệu Thần Tông, không phải là Lê Duy Kỳ (1765-1793) cũng làm vua nhưng với hiệu Chiêu Thống. Lê Duy Kỳ (Thần Tông) còn có một kỷ lục nữa là có tới 4 người con liên tiếp lên làm vua. Lê Duy Kỳ (Thần Tông) còn tạo ra kỷ lục đặc biệt nữa, là đã có ít nhất sáu bà vợ. Bà vợ đầu tiên tên là Trịnh Thị Ngọc Trúc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi việc này: “Vào năm Canh Ngọ 1630, niên hiệu Đức Long thứ 2, tháng 5, Vua lấy con gái Vương (Trịnh Tráng) là Trịnh Thị Ngọc Trúc, lập làm hoàng hậu. Trước, Ngọc Trúc đã lấy người bác họ của Vua là Cường quận công Lê Trụ, sinh được 4 con. Khi ấy Lê Trụ bị giam, Vương đem Ngọc Trúc gả cho Vua, Vua lấy vào cung. Triều thần là Nguyễn Trực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can. Vua không nghe mà nói rằng: “Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy”. Từ hôm ấy trở đi, trời mưa dầm ngày đêm không ngớt…”. Sau bà Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, ông Lê Thần Tông còn có 5 bà vợ nữa, và rất lạ, mỗi bà thuộc một dân tộc: bà vợ thứ 2 là người Thái, bà vợ thứ 3 là người Mường, bà vợ thứ 4 là người Hán, bà vợ thứ 5 người Lào và bà vợ thứ 6 người Hà Lan. Có thể vua còn có nhiều vợ khác nữa, chúng tôi chỉ nói tới sáu bà đã lưu lại hình dáng, là sáu bức tượng gỗ tạc chân dung các bà, bày tại chùa Mật Sơn, ở chân núi Mật, phía nam thành phố Thanh Hóa. Sáu pho tượng này, mỗi người một nét dung nhan khác nhau và thấy rõ trang phục của mỗi bà đúng theo y phục dân tộc của từng người. Đặc biệt, y phục, váy áo của pho tượng tạc bà người Hà Lan, dù là tượng thờ, cổ áo trong vẫn trễ xuống để lộ một mảng ngực. Tương truyền, ngôi chùa Mật Sơn do sáu bà vợ của vua Lê Thần Tông bỏ tiền công đức để xây dựng. Đó cũng là lý do sáu pho tượng của sáu bà bày tại chùa này. Việc sáu bà vợ cùng lòng cùng sức bỏ tiền công đức xây một ngôi chùa và lại cùng nhập thần vào những bức tượng ở bên nhau mãi mãi, cũng là một điều thật lạ lùng. Có thể coi đó là kỷ lục thứ tư của vua Lê Thần Tông! Cho đến năm 1959, những pho tượng các bà vợ vua Lê Thần Tông đã được rước về đền Nhà Lê chỉ cách chùa Mật Sơn chừng hơn cây số, thuộc địa phận phường Đông Vệ. Đền Nhà Lê đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp nhà nước. Những pho tượng thờ các vua Lê, trong đó có sáu pho tượng sáu bà vợ vua Lê Thần Tông, ngày nay vẫn ở đền Nhà Lê, mọi người có thể đến chiêm bái, thăm viếng. Vào khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, nhà sử học Charles Robequin có viết cuốn Le Thanh Hoa (Xứ Thanh Hóa), một cuốn sách nghiên cứu về lịch sử, địa lý, phong tục, ngành nghề, dân cư, đặc sản… của Thanh Hóa. Trong sách đó có ghi việc ông Lê Duy Kỳ là người Việt Nam đầu tiên lấy vợ người châu Âu. Việc Đàng ngoài có khá nhiều kiều dân châu Âu đến làm ăn buôn bán từ đầu thế kỷ XVII thì một số thư tịch cổ đã ghi. Ngay ở Thăng Long, phường Giang Khẩu (sau đổi thành Hà Khẩu), nay là khu vực phố Hàng Buồm, Nguyễn Siêu, bên cửa sông Tô nối với sông Hồng, trên bến dưới thuyền tấp nập, không chỉ có người Trung Quốc mà còn có nhiều người Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha… đến buôn bán, mở nhiều cửa hàng. Trong sách Tường trình về Đàng ngoài của linh mục A. de Rhodes cũng có nói đến việc người Hà Lan chiếm số đông và có ưu thế hơn những người châu Âu đến làm ăn ở Đàng ngoài. Sách đã ghi việc chúa Đàng ngoài đã cầu cứu các thương gia người Hà Lan khi ấy đã chiếm đóng Java (Indonesia), xin cung cấp cho một số tàu tròn… và người Hà Lan đã đồng ý ngay vì biết vua chúa Đàng ngoài cần những tàu đó để tiến đánh chúa Đàng trong. Mà, chúa Đàng trong những năm đó đã công khai tỏ ra thù địch với người Hà Lan… việc liên minh có tính quân sự của Đàng ngoài với người Hà Lan đồng thời với việc người Hà Lan đến miền Bắc Việt Nam làm ăn nhiều hơn. Đơn cử, công ty Đông Ấn của Hà Lan đã liên tục lập những thương điếm ở Phố Hiến, ở Kẻ Chợ… mở mang thêm nhiều cuộc làm ăn buôn bán với Đàng ngoài. Trong bối cảnh cuộc sống xã hội như vậy, vua Lê Thần Tông, một người rất đẹp trai, sống mũi cao, da trắng, thông minh, học rộng, giỏi văn chương, đã lấy các bà vợ người Mường, Thái, người Lào và người Hán, thì có thêm bà vợ người Hà Lan cũng là việc dễ hiểu. Chúng tôi từ nhỏ đã biết đến chùa Mật Sơn và đền Nhà Lê, có được thấy bức tượng các bà, rất đẹp và cao quý, mãi rất lâu sau này mới biết đó là những bà hoàng nhà Lê. Sáu bà hoàng hóa thân thành sáu bức tượng thờ, ở cùng với nhau mãi mãi, cũng là chuyện lạ trong đời sống dân tộc ta. Anh Chi ( Tạp chí Hồn Việt tháng 4/2009)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 8:26:57 GMT 9
Đại thi hào Nguyễn Du là chú vợ vua Gia Long
Tháng 12/2005, trong lần về Tiên Điền, Hà Tĩnh dự Lễ kỷ niệm 240 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, biết tôi là người Bắc Ninh, các cụ địa phương đã ngâm cho nghe đôi câu thơ - đối cổ:
Trai Tiên Điền tinh anh Hồng Lĩnh Gái Kinh Bắc thanh sắc Tiêu Tương.
Và tặng tôi cuốn "Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả".
Ánh sáng từ cuốn gia phả
"Cảo thơm lần giở" cuốn gia phả của gia tộc Đại thi hào Nguyễn Du, tôi như được lãng du về miền cổ tích và những trang tình sử thơ mộng. Cụ tổ 9 đời của Đại thi hào Nguyễn Du là Trạng nguyên Nguyễn Thiến (đỗ năm 1532) vốn quê xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay là Hà Tây); có người cháu nội là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, thời Lê Trung Hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam, giấu hẳn tông tích, đến sinh cơ lập nghiệp tại Tiên Điền, trở thành người khai sáng ra dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Đến đời thứ 6 thì dòng họ này đã nổi tiếng với tiến sĩ khai khoa Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp năm 1731 lúc 24 tuổi và Nguyễn Huệ (anh ruột Nguyễn Nghiễm, bác Nguyễn Du) đỗ tiến sĩ năm 1733.
Cụ Nguyễn Nghiễm làm quan thời vua Lê - chúa Trịnh lên tới chức Tể tướng - Đại tư đồ, tước Xuân quận công. Quan Tể tướng giỏi ca trù, hát xướng ra Thăng Long nhậm chức đã say mê giọng ca quan họ của các liền chị ở vùng Kinh Bắc nên cưới thêm bà ba Trần Thị Tần, quê Hoa Thiều, Hương Mạc, Từ Sơn và sinh ra Thi hào Nguyễn Du. Bà tư Nguyễn Thị Xuyên, quê Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc sinh ra Nguyễn Quýnh.
Nhưng thông tin đáng lưu ý nhất mà cuốn gia phả đã giục bước chân tôi đi điền dã là thân thế bà vợ thứ năm của cụ Tể tướng: "Nguyễn Trừ (1760-1809), anh trai thứ năm của Nguyễn Du vẫn lưu ở quê mẹ (con bà Trắc thất Nguyễn Thị Xuân; người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh).
Năm 1779, Trừ đỗ Tứ trường, thời Chiêu Thống được bổ Tri phủ Tam Đới, thời Gia Long được bổ Tri huyện Siêu Loại, thăng Tri phủ Kinh Môn, đổi làm Tri phủ Nam Sách. Năm Gia Long thứ 8 (1809), ông mắc bệnh và mất. Nguyễn Trừ có con trai Nguyễn Trù làm Tri phủ Vĩnh Tường; con gái Thị Uyên giỏi nghề thuốc được tuyển vào làm cung tần của vua Gia Long, rất được yêu quý".
Như vậy cụ Nguyễn Trừ là Quốc trượng nhà Nguyễn (bố vợ vua) và Đại thi hào Nguyễn Du là chú vợ vua Gia Long.
Đôi câu đối nối mạch cội nguồn
Trong ngôi nhà cổ làm bằng gỗ xoan, cột cái to vừa một người ôm, cấu trúc và hoa văn họa tiết kiểu cuối Lê, đầu Nguyễn, chúng tôi được 2 anh em cụ Nguyễn Thinh, 86 tuổi và cụ Nguyễn Thanh Bình, 67 tuổi, tiếp. Ngắm nhìn đôi câu đối cổ, nền gỗ sơn ta màu đen, chữ thếp vàng đã phôi pha treo hai bên bàn thờ cổ: Lưỡng triều danh tể tướng.
Nhất thế đại nho sư (Tể tướng uy danh hai triều đại. Nhà nho lừng lẫy nhất một thời), chúng tôi vô cùng mừng rỡ vì đây chính là những từ ngữ hàm súc nhất mà người thời Lê - Trịnh đã ngợi ca dòng họ Nguyễn Tiên Điền, ghi nhận công lao cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm là Tể tướng kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám và con trai trưởng là tiến sĩ Nguyễn Khản cũng được giữ chức Nhập nhị Tham tụng (tương đương Tể tướng), Tả tư giảng (dạy chúa Trịnh học lúc còn là thế tử) và Tế tửu Quốc Tử Giám.
Quan sát kỹ thì thấy ở đôi câu đối có 2 dòng lạc khoản:
1, Long Phi Mậu Thìn thu
2, Huân Mộc bái thư
Xét tên tự người viết Huân Mộc hàm nghĩa là "Tắm gội bằng nước cỏ thơm" thì có thể hợp với cụ Nguyễn Trừ (1760-1809) con trai thứ năm của Nguyễn Nghiễm. Vậy năm làm đôi câu đối này có lẽ là năm Mậu Thìn 1808, lúc cụ Nguyễn Trừ đang là Tri phủ Nam Sách.
Ngôi mộ quan Tri phủ Nam Sách bố vợ vua Gia Long
Chúng tôi cùng 2 cụ Thinh và cụ Bình ra viếng mộ cụ Tổ khai lập nên chi họ Nguyễn Tiên Điền tại Tiêu Sơn (Tương Giang) thì được đọc tấm bia đá cổ kích thước khoảng 30x50cm.
Mặt trước khắc: Cố Nam Sách phủ tri phủ Nguyễn Hầu, Nghệ An trấn, Đức Thọ phủ, Tiên Điền xã nhân dã
Mặt sau: Minh Mệnh thập nhất niên chính nguyệt cốc nhật phụng khắc ư Vĩnh Tường phủ công sở.
Những thông tin này kết hợp với ghi chép trong "Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả" thật phù hợp và đủ để kết luận: Đây là ngôi mộ cụ Nguyễn Trừ - cố Tri phủ Nam Sách quê ở xã Tiên Điền, phủ Đức Thọ, trấn Nghệ An do Tri phủ Vĩnh Tường (con trai Nguyễn Trừ) khắc năm Minh Mệnh thập nhất (ngày lành tháng giêng năm 1830).
Bức hoành phi do quan Chánh sứ của vua Càn Long tặng
Trong lúc vui nói chuyện, gia tộc cho biết thêm, năm xưa các cụ còn một bức hoành phi nữa, nhưng do đời sau gia cảnh khó khăn nên đã bán mất, may mà đôi câu đối mang nội dung quá hiển hách nên không ai dám mua về, nên còn lưu giữ, được treo ở nhà thờ tổ đến nay. Tôi bàng hoàng sững sờ, xúc động và mừng khôn xiết khi thấy 4 chữ thếp vàng rực sáng trên cao: Dịch thế Thư hương (đời đời vinh quang nhờ văn chương sách vở).
2 dòng lạc khoản là:
Bên phải: Càn Long Tân Tỵ, lạp tiền nhất nhật sách phong Chánh sứ Đức Bảo đề.
Bên trái: Minh Mệnh Giáp Ngọ... vọng phụng... ư Vĩnh Tường tân tu.
Đối chiếu trong gia phả thấy chép: "Tháng 12 năm ấy (Tân Tỵ) sứ nhà Thanh sang sắc phong, Nguyễn Nghiễm được sai đến Thiều Dao công quán thăm hỏi, ông có làm thơ tặng Chánh sứ là Đức Bảo và Phó sứ là Cố Nhữ Tu. Hai người rất khen trọng và có họa đáp. Đức Bảo lại viết 4 chữ Dịch thế Thư hương tặng ông".
Không còn nghi ngờ gì nữa, thông tin trong gia phả và bức hoành phi cổ thật trùng khớp, có thể kết luận chính xác rằng: Tại ngôi nhà cổ ở ngõ "Quan Phủ" thôn Hưng Phúc, xã Tương Giang, huyện Từ Sơn (xưa là Tiêu Sơn, Yên Phong, Kinh Bắc) do cụ Nguyễn Trừ (con trai Nguyễn Nghiễm, anh trai Đại thi hào Nguyễn Du) tạo dựng còn lưu giữ được một đôi câu đối cổ Lưỡng triều danh tể tướng. Nhất thế đại nho sư tạo tác năm Mậu Thìn 1808 và một bức hoành phi Dịch thế Thư hương do Chánh sứ của vua Càn Long và Đức Bảo viết tặng cụ Tể tướng Nguyễn Nghiễm vào trước tháng chạp năm Tân Tỵ (1761) một ngày.
Bức hoành phi này chắc năm 1761 Chánh sứ Đức Bảo viết tặng vào giấy hoặc lụa, đến năm Minh Mệnh Giáp Ngọ (1834) cháu nội cụ Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Trù làm Tri phủ Vĩnh Tường mới chuyển sang tân tu bằng gỗ sơn son thếp vàng như hiện treo ở nhà thờ họ Phạm.
Chúng tôi đã thông báo những tư liệu trên cho ông Đinh Sỹ Hồng, Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông Hồng đã cử 2 cán bộ là Lê Vân và Hồng Vinh ra Bắc Ninh cùng tôi về Tiêu Sơn thắp hương trước mộ cụ Nguyễn Trừ và chiêm ngưỡng, thẩm định các di vật văn hóa quý giá trên.
Gia đình cụ Thinh và cụ Bình rất phấn khởi khi được chúng tôi và cán bộ Bảo tàng Nguyễn Du khẳng nhận chắp nối dòng họ Nguyễn Tiêu Sơn vào dòng đại tông Nguyễn Tiên Điền và gia tộc đã nhờ thợ giỏi làm phiên bản bức hoành phi và đôi câu đối cung tiến về nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Hợi (10/11/2007).
Bản Truyện Kiều chữ Nôm ở gia đình hậu duệ cụ Nguyễn Trừ
Khi hỏi về sách vở của các quan phủ xưa, hậu duệ cụ Nguyễn Trừ cho biết: "Trước còn một cuốn gia phả, nhưng đến năm lụt 1971 thì thất lạc, may còn một cuốn Truyện Kiều nhưng cũng nát lắm rồi".
Chúng tôi mừng rỡ khôn xiết, run run mở ra xem, thấy đây thực là một bản Truyện Kiều cổ, khắc ván in trên giấy bản, có kích thước 12x17cm.
Cuốn Truyện Kiều chữ Nôm in theo cách khắc ván này bị mất hẳn 8 trang đầu, 7 trang cuối, các trang 9, 10, 11, 12 chỉ còn non nửa trang phía gáy sách. Nhận xét chung là bản Truyện Kiều sưu tầm được ở nhà cụ Nguyễn Trừ gọi là bản Tiêu Tương, hình thức giống các bản Kiều đời Tự Đức.
Bản Kiều này ở câu 1728: Tuồng chi những giống bơ thờ quen thân.
Câu 2066: Khen rằng khéo giống của nhà Hoạn nương.
Và câu 1988: So vào với thiếp Lan Đình nào thua, lại còn quý hơn các bản Kiều cổ đời Tự Đức vì không viết kị húy tên vua Gia Long là Chủng (âm Nôm là Giống) và cũng chẳng kị húy chữ Lan là mẹ vua Gia Long. Việc kị húy vua Tự Đức cũng không được thực hiện nghiêm chỉnh. Từ đầu đến trang 102 không kị húy chữ Thì, Nhậm (tên húy vua Tự Đức); chỉ từ trang 103 trở đi mới khắc kiêng húy hai chữ trên. Do vậy có thể suy luận bản Truyện Kiều này khắc vào cuối đời Thiệu Trị, đầu đời Tự Đức (1847-1848), nghĩa là vào hàng cổ nhất trong số các bản Kiều sưu tập được hiện nay.
Châu về Hợp Phố
Cụ Bình tâm sự: “Thời gian trôi qua, chiến tranh lưu lạc, các cụ chúng tôi về quê ngoại sống đã lâu. Trước, nhà có giữ bản gia phả, nhưng sau bị thất lạc. Bây giờ quay về, chẳng có bằng chứng gì, sợ bị mang tiếng thấy người sang bắt quàng làm họ, nên hàng năm đều tưởng nhớ, nhưng chẳng dám về”.
Chúng tôi trân trọng tặng gia tộc bản "Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn Gia thế phả", cụ Bình xúc động đón nhận và cho đánh máy tính lại toàn văn, sao nhiều bản, giao cho mỗi gia đình giữ một bản để "nối mạch cội nguồn".
Họ Nguyễn Tiên Điền có dòng dõi từ Trạng nguyên Nguyễn Thiến đời nhà Mạc ở Canh Hoạch, trấn Sơn Nam; trải nhiều đời ở Hồng Lĩnh - Lam Giang vẫn nối tiếp được truyền thống khoa bảng, văn võ toàn tài của tổ tiên mà dân Hoan Châu đã ca ngợi.
Bao giờ ngàn Hống hết cây Sông Lam hết nước, họ này hết quan.
Đến đời cụ Hoàng giáp Tể tướng Nguyễn Nghiễm lại gắn bó với vùng Kinh Bắc để sinh thành ra cho dân tộc Đại thi hào Nguyễn Du mà người xứ Bắc vẫn nhắc nhở trong câu thành ngữ “Trai Tiên Điền - Hồng Lĩnh, Gái Kinh Bắc - Tiêu Tương”.
Và nay, qua duyên may run rủi, chúng ta lại biết được tại Tiêu Sơn, Tương Giang, Từ Sơn, một nhánh của dòng họ Nguyễn Tiên Điền do Nguyễn Trừ (anh trai Nguyễn Du), lại là bố vợ vua Gia Long, từng làm Tri phủ Nam Sách, sinh con trai là Nguyễn Thích (Tri phủ Nguyễn Hưng, Nam Định), Nguyễn Trù (Tri phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) và con gái là Nguyễn Thị Uyên, sau này là cung tần của vua Gia Long, đã nối tiếp xứng đáng truyền thống vẻ vang của gia tộc
Nguyễn Khắc Bảo
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 13, 2015 3:43:46 GMT 9
Đặng Dung - vị danh tướng thời Hậu Trần, tác giả bài “Cảm Hoài” nổi tiếng.Đặng Dung là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An[2] (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất. Tongdohodang.jpg Theo Đặng Tộc Đại Tông Phả[3], ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Con trưởng của Bá Kiển là Đặng Bá Tĩnh đỗ thám hoa đời nhà Trần. Bá Tĩnh chính là ông nội của Đặng Tất. Con trưởng của Bá Tĩnh là Đặng Đình Dực chính là cha Đặng Tất[4]. Dưới triều nhà Hồ, ông giúp cha là Đặng Tất (? - 1409) cai quản đất Thuận Hóa[5]. Sau khi quân Minh (Trung Quốc) tiến chiếm nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (tức Giản Định Đế). Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); "vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.[6]. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự. Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung ông đã "vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng"[7]. Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tị (1413) ở khu vực Thái Gia[8]. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép: Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của (Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống (Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương) Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết[9]. Nguyễn Khắc Thuần kể tiếp: Tháng 11 năm 1413, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng nên Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay. Còn Đặng Dung cùng Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Trung Quốc). Dọc đường, Trần Quý Khoáng nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng lập tức nhảy xuống chết theo.[10] Trần Trọng Kim cũng cho biết tương tự: Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng. Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh...[11] Theo Minh Thực lục, thì: Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ mang quân đến trang Tra Hoàng, huyện Chính Hoà, châu Chính Bình (Quảng Bình); tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân nguỵ Lê Thiềm hơn 700 tên chạy đến sách Côn Bồ, Tiêm Man; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin cành lá mà leo lên nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ, bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn; lại truy kích đến sách Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa phương đều trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư, đi trên 20 dặm, nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô Chỉ huy Phương Chính mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, tại sách Tra Bồ Cán. Giặc lập trại tại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi, tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng, bị bắt cùng với em là Đặng Nhuệ. Bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn nguỵ của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, bị róc thịt lấy thủ cấp, áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đều bị xử chém để làm răn. (Minh Thực Lục quyển 13, tr. 1727-1728; Thái Tông quyển 147, tr. 2a-3b) ******************************************************* Viết về họ Đặng, ta cần nhắc đến Đặng Dung, người anh hùng lẫm liệt hy sinh vì nước, nhà thơ lỗi lạc còn để lại bài thơ “Cảm hoài” kiệt tác. Đặng Dung là vị danh tướng thời Hậu Trần, và là tác giả bài thơ Cảm hoài nổi tiếng suốt mấy trăm năm mà bất cứ một người Việt Nam nào có học vấn cũng đều thuộc nằm lòng từ những năm còn trẻ. Ông quê ở huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Đặng Dung là con của Đặng Tất. Đặng Tất là một tướng tài, đã khôi phục lại đất nước tới vùng Ninh Bình. Anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn Đặng Dung Dưới triều nhà Hồ, Đặng Dung giúp cha cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh từ Trung Quốc đến chiếm đóng nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, tức Giản Định Đế. Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, Giản Định Đế đem lòng ngờ vực, giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự. Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung, ông đã “vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng” (Nguyễn Khắc Thuần). Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tỵ (1413) ở khu vực Thái Gia (theo Minh Sử của Trương Đĩnh Ngọc thì trận đánh này xảy ra tại Ái Tử, nay thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Thuần). Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép: “Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của (Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống (Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương) Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết.” (theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ toàn thư, quyển 9, tờ 22-b). Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép tương tự và hạ bút viết lời tiếc rẻ: ''Trời nuông tha Trương Phụ!'' (Chính biên, quyển 12, tờ 39). Sử gia Trần Trọng Kim chép: “Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoáng thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống biển tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Cảm hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng. Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh...” (Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim). Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma! (Đầu bạc giang san thù chửa trả/ Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi!) Để lại cho đời bài thơ Cảm hoài Với bài thơ Cảm hoài, tên tuổi của Đặng Dung đã có chỗ đứng trong lịch sử văn học và trong lòng người đời sau. Cảm hoài là bài thơ tự sự của Đặng Dung khi ông đem quân giúp Trùng Quang Đế. Bài thơ thể hiện ý chí sắt đá của một người anh hùng nhưng không may là không gặp thời thế, công việc chưa xong thì tuổi đã già. Bài Cảm hoài viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú. Nguyên tác: Phiên âm Hán - Việt: Cảm hoài Thế sự du du nại lão hà? Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Trí chủ hữu hoài phù địa trục, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà. Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma. (Hoàng Việt Thi tuyển - Bùi Huy Bích). Dịch nghĩa: Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào? Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca. Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công, Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều. Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại, Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống. Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm, Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng. Bản dịch của Tản Đà: Việc đời man mác, tuổi già thôi! Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi. Gặp gỡ thời cơ may những kẻ, Tan tành sự thế luống cay ai! Phò vua bụng những mong xoay đất, Gột giáp sông kia khó vạch trời! Đầu bạc giang san thù chửa trả, Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi. Do mỗi bản dịch chỉ thành công ở một số chỗ, nhưng lại không diễn đạt được cái hay ở những chỗ khác trong nguyên tác, do đó, ngoài bản dịch của Tản Đà, chúng tôi muốn giới thiệu thêm vài bản dịch khác, cũng là của các bậc danh nho, tài tử thuở trước. Bản dịch của Phan Kế Bính: Việc đời bối rối tuổi già vay, Trời đất vô cùng một cuộc say. Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay! Vai khiêng trái đất mong phò chúa, Giáp gột sông trời khó vạch mây! Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày. Bản dịch của Phan Võ: Việc thế lôi thôi tuổi tác này, Mênh mông trời đất hát và say. Gặp thời đồ điếu thừa nên việc, Lỡ vận anh hùng luống nuốt caỵ! Giúp chúa những lăm giằng cốt đất, Rửa đòng không thể vén sông mây. Quốc thù chưa trả già sao vội, Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy! Những bài thơ sáng tác vào thời Trần thường thể hiện sự khẳng định nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Và, ngay cả trong cái buồn của thơ ca cuối thế kỷ thứ 14, vẫn còn phảng phất dư ba hào khí Đông A [theo lối chiết tự, chữ Trần còn có thể đọc là Đông A , vì được ghép từ hai chữ Đông và A ]. Và Cảm hoài, bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung, được chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784) chính là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ấy. Theo Từ điển văn học (bộ mới), Cảm hoài được đánh giá: Tuy là thơ của một người... ôm hận vì bất lực trước thời thế, “người đọc vẫn thấy toát lên ở đây tình cảm cao cả tràn khắp đất trời, đó là lòng yêu nước thiết tha của một tráng sĩ vì nước bôn ba, là niềm tin và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc qua hình tượng rất đẹp, rất thơ: “Mấy phen mang gươm Long Tuyền mài dưới trăng”. Cảm hoài ra đời vào những ngày cuối cùng của nhà Trần, nhưng vẫn mang trọn hào khí dân tộc của những năm đầu dựng nước và giữ nước cả về nội dung lẫn hình thức. Lý Tử Tấn, một danh sĩ thời Lê, nhận xét:"Phi hào kiệt chi sĩ bất năng!" (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi bài thơ này!) Đặng Dung thuật hoài thế sự du du nại não hà vô cùng thiên địa nhập hàm ca thời lai đồ điếu thành công dị sự khứ anh hùng ẩm hận đa trí chủ hữu hoài phù địa trục tẩy binh vô lộ vãn thiên hà quốc thù vị phục đầu tiên bạch kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma thuật hoài tuổi già thêm cuộc đời rắc rối trời đất mang mang dở cuộc say vô học được thời leo cũng khá ? anh hùng thất thế hận càng cay ? vai nâng đất nước phò chân chúa gươm giáp lưng trời khó vạch mây thù chưa trả nổi đầu tóc trắng gươm mài dưới nguyệt bấy lâu nay ? bản dịch của Chuvươngmiện/mai uyển Tên tuổi của Đặng Dung hiện còn lưu lại trên một phố quá nhỏ ở Hà Nội bắt đầu từ phố Phan Đình Phùng, cắt ngang phố Quán Thánh, Nguyễn Trường Tộ đến phố Trấn Vũ (giáp Hồ Trúc Bạch), dài 300 m, thuộc quận Ba Đình. Thời Pháp thuộc đây là phố Đi-ơ-lơ-phít (Rue Dieulefils) và đường 94 (Voie 94). Sau 1945, đổi là Đặng Dung. Phố Đặng Dung được xây dựng trên nền đất thôn Châu Long (giữa thế kỷ XIX đổi là Châu Yên), tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận xưa. Tác giả bài viết: Hàn Mai
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 11, 2020 2:36:31 GMT 9
CỤ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - KIẾN TRÚC SƯ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ DÒNG TU VIỆN SAINT-PAUL
Nguyễn Trường Tộ đã có những công trình đóng góp cho sự hình thành - thành phố Sài Gòn, đó là nhà thờ Saint Enfance, tu viện Saint Paul de Chartres và nhất là bản điều trần trước triều Nguyễn về việc canh tân đất nước, rất tiếc triều đình Huế không nghe theo lời của ông, còn những công trình kiến trúc của ông giờ chỉ còn tu viện Saint Paul de Chartres riêng nhà thờ Saint Enfance đã bị phá hũy từ thời mới thành lập thành phố Sài Gòn, vì những công trạng và sự đức độ của ông người ta đã đặt tên ông cho một con đường ở Khánh-Hội (Q4 ngày nay) và tên một trường kỹ thuật ở số 2 Phạm Đăng Hưng.
Cụ Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô, nhưng Nguyễn Trường Tộ học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo, năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu, năm 1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt, hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ thuật, có trình độ như một kiến trúc sư, một người biết khai mỏ, mà còn đọc rộng về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, v.v... và tìm hiểu được một số hoạt động công nghệ của nước Pháp.
Trên đường đi sang Pháp và trở về Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ còn có dịp ghé qua Rome, dừng chân ở Singapore và Hongkong, năm 1861 cụ Nguyễn Trường Tộ trở về, phải cập bến Sài Gòn, khi tỉnh thành Gia Định đã bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng, gần ba năm sống ở Sài-Gòn, cụ Nguyễn Trường Tộ bất đắc dĩ phải làm việc với người Pháp, phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái thủ Pháp ở Gia Định.
Nhiều lần cụ sửa bớt chữ nghĩa trong công hàm của đôi bên, tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình hoặc phương hại cho việc "tạm hòa" cũng như nhiều lần cụ tìm cách thông báo cho các sứ thần của triều đình như Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.
Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát ra khỏi khu vực chiếm đóng của người Pháp, liên hệ được với triều đình Huế, từ đây cho đến cuối đời ông viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc.
Hơn sáu mươi di thảo của Nguyễn Trường Tộ đã sưu tầm được, bàn về nhiều phương diện:
- Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà dân cũng giàu". Ông khuyên triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được độc lập trong tư thế làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế cấp bẩm từ).
- Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực dụng, dùng quốc âm trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh (nhà trẻ), v.v... (xem Điều trần về cải cách phong tục, Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu...).
- Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt (xem Thiên hạ đại thế luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên triều đình nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với nước Anh, để chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp, khi nước Pháp có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa Pháp phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đình xúc tiến ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn các chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm (xem Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871).
- Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều đình "ra sức cải tu võ bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng võ ngang trọng văn, quý trọng người lính, ưu đãi sĩ quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện tác chiến trong thành phố, tìm cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v...
Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ đại vô giá, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm 1862 - 1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xã Đoài. Mấy công trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu ở Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công trình xưa kia Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn vận động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ ông, cùng nhau dời làng từ trong núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đãng, thuận lợi canh tác.
Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ thuật (năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ bị lãng quên như một luồng ánh sáng rọi vào đám sương mù dày đặc.
Cụ Nguyễn Trường Tộ chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871.
Nguồn: Sài Gòn xưa
|
|