|
Post by Can Tho on Apr 21, 2017 18:03:53 GMT 9
NGÀY THỨ HAI 21 tháng 4/1975. phần 2 tiếp theo và hết >
Chiều hôm đó, ông Thiệu triệu tập hội đồng an Ninh quốc Gia gồm có Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Binh, Tư Lịnh Cảnh Sát Quốc Gia, Thiếu Tướng Đăng Văn Quang, Phụ tá An Ninh, ngoài ra còn có thêm sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Văn toàn, Tư Lịnh Quân Đoàn II và Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lịnh Biệt Khu Thủ Đô dù rằng hai nhân vật nầy không phải là thành viên của HĐANQG. Trong phiên họp nầy, Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng ông sẽ từ chức và ông sẽ loan báo việc nầy với quốc dân đồng bào vào tối hôm đó. Theo cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, lúc đó đang giữ chức Tổng Trưởng Quốc Phòng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn và không được mời dự trong phiên họp nầy, Đại Tướng Cao Văn Viên đã kể lại với ông rằng ông Thiệu nói: “Lý do thứ nhất mà ông từ chức là vì quân đội đưa ông lên ghế tổng thống năm 1967 thì bây giờ ông phải làm vừa lòng quân đội vì quân đội định đảo chánh. Lý do thứ hai là ông ta ra đi để Hoa Kỳ viện trợ trở lại cho Việt Nam Cộng Hòa”. Ông Thiệu không nói rõ tên người nào dự định đảo chánh nhưng theo lời Tướng Trần Văn Đôn thì lúc đó ai cũng nghi là ông ta, tuy nhiên ông minh xác rằng “sự thật không đúng vậy”. Ông Thiệu cũng cho mọi người biết rằng ông sẽ trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương như hiến pháp đã quy định và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã nhận lời. Cựu Đại Tướng cao Văn viên cho biết thêm: “Trong buổi họp ở Dinh Độc Lập ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức. Theo lời giải thích của Tổng Thông Thiệu, Hoa Kỳ muốn ông từ chức và dù ông có muốn hay không thì một số tướng lãnh trong quân đội cũng sẽ ép buộc ông phải ra đi. Ông hy vọng sự từ chức của ông sẽ đem lại hòa bình và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ giúp cho quân dội Việt Nam Cộng Hòa. Theo hiến pháp, ông nhường chức lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cuối cùng, Tổng Thống Thiệu mong muốn quân đội, Cảnh sát quốc Gia ủng hộ vị tân tổng thống”.( ghi chú: Cao Văn Viên: sách đã dẫn, trang 219 ) Chiều ngày 21 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh sài Gòn liên tục đọc thông cáo khẩn cấp của Phủ Tổng Thống mời tất cả các vị nghị sĩ và dân biểu, các thẩm phán trong Tối Cao Pháp Viện và các vị giám sát trong Giám Sát Viện đến Dinh Độc Lập dự phiên họp đặc biệt váo tối hôm đó, tuy nhiên thông báo không nói rõ lý do của phiên họp nầy. Đúng 7 giờ rưởi tối hôm đó, Tổng Thống Nguyễn Văn thiệu đã nói chuyện với đại diện cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng toàn thể quốc dân đồng bào trong gần 2 tiếng đồng hồ và được trực tiếp truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc. Tổng Thống Thiệu trình bày các diễn tiến từ Hiệp Đinh Paris 1973 đến việc cộng sản leo thang chiến tranh năm 1974, việc Cộng sản chiếm Phước Long mà không gặp phản ứng nào từ phía Hoa Kỳ để rồi từ đó tấn chiếm Ba Mê Thuột mở đầu cho sự thất thủ miền Cao Nguyên, miền Trung và Duyên Hải. Ông Thiệu lên án đồng minh Hoa Kỳ không giữ lời hứa tiếp tục viện trợ cho VNCH và ông nói rằng: “Người Mỹ từ chối giúp đở cho một nước đồng minh, bỏ rơi một nước đồng minh như vậy là một điều vô nhân đạo. Các ông để cho chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của VC. Đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo” Ông Thiệu nói thêm rằng: “Người Mỹ thường hãnh diện họ là những kẻ vô địch bảo vệ cho chính nghĩa và lý tưởng tự do trên thế giới và sang tới năm (1976) họ sẽ ăn mừng kỷ niệm 200 năm lập quốc, liệu người ta còn có thể tin tưởng vào những lời tuyên bố của người Mỹ hay không?”. quay sang tình hình quốc nội, ông Thiệu nói rằng: “Tại một vài nơi, quân đội của chúng ta đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng tôi cũng phải nhìn nhận rằng có một vài cấp lãnh đạo quân đội, không phải tất cả, đã tỏ ra hèn nhát. Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ tổng thống để lãnh đạo cuộc kháng chiến tuy nhiên tôi không còn có thể cung cấp vũ khí đạn dược (vì người Mỹ đã cúp viện trợ) để cho quân đội tiếp tục công cuộc chiến đấu. Nhân dân có thể ghét tôi và họ cho rằng tôi sẽ là một chướng ngại vật cho hoa bình và do đó tôi chỉ còn một giải pháp duy nhất, đó là từ chức”. Ông Thiệu nói rằng ông từ chức không phải vì áp lực của đồng minh, cũng không phải vì những khó khăn về quân sự do Cộng Sản gây nên. Ông nói rằng các nhà lãnh đạo một số cường quốc trên thế giới thường tự hào là họ đã vượt qua được sáu, bảy hay mười cơn khủng hoảng và sau nầy đã viết hồi ký tự đề cao mình như những bậc anh hùng, như những chính khách vô cùng lỗi lạc, nhưng trong 10 năm lãnh đạo miền Nam Việt Nam, từng năm, từng tháng, từ ngày, từng giờ ông Thiệu đã đương đầu với mọi khó khăn như lá số tử vi của ông đã nói rõ. Ông Thiệu kết luận rằng: “Tôi sẳn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào nhưng sự sống còn của cả một dân tộc không có thể mang ra mặc cả như con cá ở ngoài chợ. Tôi từ chức nhưng tôi không đào ngũ”. Sau đó ngừng một giây đồng hồ, ông Thiệu nói tiếp “Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương”. Sau khi dứt lời ông Nguyễn Văn Thiệu bước xuống mời Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên tuyên thệ nhậm chức. Trong bài diễn văn ngắn ngủi, tân Tổng Thống Trần Văn Hương nhắn nhủ với quân đội: “Chừng nào các anh em còn tiếp tục chiến đấu, bao giờ tôi cũng đứng tôi cũng sẽ đứng bên cạnh các anh em. Đất nước chúng ta đang rơi vào cơn thảm họa nhưng ước vọng quý giá nhất của tôi là sẽ được đóng góp xương máu và chia xẻ mọi gian nguy của các anh em ở chiến trường. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Sau đó cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngồi vào ghế của Phó Tổng Thống và tân tổng thống ngồi vào ghế của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước đó để nghe Đại Tướng Cao Văn Viên đọc nhật lệnh cho quân đội tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình kêu gọi các lực lượng cảnh Sát tiếp tục nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự trên toàn quốc. Trong khi lễ bàn giao đang diễn ra tại Dinh Độc Lập, các đơn vị cuối cùng còn lại của sư Đoàn 18 bắt đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đã chiến đấu vô cùng anh dũng chống lại một lực lượng chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần lễ. Khi cụ Trần Văn Hương nhậm chức tổng thống thì quân Cộng sản đã tiến về tới Biên Hòa và bộ máy của cơ quan tình báo Mỹ CIA cùng tình báo của Pháp cũng như Đại sứ là ông Jean-Marie Mérillon đã bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa cựu Đại Tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần Văn Hương nhằm thương thuyết với Bắc việt .! ( Nguồn, SQTB ,K10B ,/72.THSQ- QLVNCH )
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:54:01 GMT 9
LỜI PHÂN TRẦN CỦA TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINHongvove.wordpress.com/tag/mua-he-d%E1%BB%8F-l%E1%BB%ADa-1972/Dương Văn Minh được trả tự do tại Dinh Độc Lập VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã trôi qua được trên 31 năm. Thường thì thời gian là yếu tố xóa nhòa mọi nỗi đau của quá khứ, nhưng đối với đa số người miền Nam, vết đau 30 tháng 4 còn tươi rói vì những đau đớn, mất mát xảy ra cho họ và gia đình do Cộng sản gây ra sau ngày 30 tháng 4. Hàng ngàn người bỏ mình trong những trại tù cải tạo độc ác, tàn bạo của Cộng sản, hàng trăm ngàn người bỏ mình trên biển cả khi vượt biển tìm tự do. Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Tổng Thống Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh “nước mất nhà tan ” sau này. Từ trước đến nay đã có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ông Minh không viết sách và tránh né trả lời phỏng vấn của báo chí nên khó ai đoán biết tâm tư, suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đã bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn chánh Thi vào năm 1987 khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đã cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại. Ðại tướng Dương văn Minh nhậm chức Tổng thống do Tổng thống Trần văn Hương trao lại chỉ vài ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.(Dương văn Minh nhậm chức tổng thống vào ngày 27 tháng 4 năm 1975. Bởi vậy người ta thường gọi Dương văn Minh là tổng thống 3 ngày). Buổi chiều nhậm chức Tổng thống trong dinh Ðộc lập thì trời u ám và có mưa…. Phóng viên Nguyễn mạnh Tiến (hiện nay đang làm ở Ðài Á châu Tự Do) lúc ấy đang làm cho Ðài phát thanh Sài Gòn, đã tường thuật buổi lễ nhậm chức này. Phóng viên Tiến đã bắt đầu bài phóng sự tường trình bằng câu nói : “Buổi lễ nhậm chức Tổng thống xảy ra vào buổi chiều trong dinh Ðộc lập trong khi bên ngoài trời mưa u ám như tình thế đất nước hiện tại…” – Trực giác cảm nhận của Phóng viên Tiến thật chính xác vì chỉ vài ngày sau, miền Nam rơi vào tay Cộng sản để rồi đưa đến bao tang tóc, mất mát cho dân chúng miền Nam. Toàn bộ bức thư của Tướng Dương văn Minh viết cho Tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau : 15-4-87 “Thi, Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết. Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân. Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ : – Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh. – Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi. Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ. Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn. Thân mến Dương văn Minh” Ðọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử vì nhìn gương của những bậc tiền bối như quan đại thần Phan thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nhìn những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đã không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định tìm đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ tình huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đã biện luận cho quyết định không tự sát để duy trì mạng sống của ông vì lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Ða số dư luận quần chúng đánh giá tướng Minh thuộc loại người nhu nhược, hèn nhát, tham sống sợ chết. Tướng Minh đã qua đời vào tháng 8 năm 2001 ở California, Hoa Kỳ. Hai tháng sau đó Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston. Biến cố miền Nam rơi vào tay cộng sản miền Bắc đã làm tử thương biết bao nhiêu nhân mạng của chiến sĩ và đồng bào, riêng hai ông Tổng Thống có trách nhiệm là Nguyễn văn Thiệu và Dương văn Minh đều chọn cách chết già êm ả. Thật đáng tủi hổ cho hai ông khi mang tiếng là lãnh đạo quốc gia trong thời ly loạn ! Phải nói rằng khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975 thì tình hình miền Nam đã đi tới giai đoạn hết thuốc chữa. Quyết định không viện trợ khẩn cấp 300 triệu của Quốc Hội Mỹ coi như cái chết của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau này có nhiều dư luận đặt vấn đề là tại sao Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bán đi 16 tấn vàng trong ngân khố để lấy tiền mua vũ khí cho quân đội miền Nam tiếp tục chiến đấu. Dĩ nhiên Tổng thống Thiệu không phải ngu dại gì mà không biết đến điều ấy nhưng phải thấy rằng chuyện giật sập miền Nam năm 1975 là quyết định của Mỹ và chắc chắn Mỹ sẽ không dễ dàng cho phép ông Thiệu bán vàng để mua vũ khí bảo vệ miền Nam. Ông Thiệu thì không bao giờ làm cái gì trái ý Mỹ vì sợ Mỹ. Số vàng 16 tấn này sau này lọt vào tay Cộng sản sau 1975 và theo sự tiết lộ của cựu Ðại tá miền Bắc Bùi Tín thì số vàng này cũng dần dần bị tẩu tán bởi những tay lãnh đạo tham ô ở miền Bắc. Phải nói là ở thời điểm ký Hiệp định Paris năm 1973, chắc chắn ở cương vị lãnh đạo, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng nhìn thấy rõ sự rút lui chạy làng của người đồng minh Hoa Kỳ… Ðáng lý ra ông Thiệu phải lo xây dựng chiến khu ở miền Tây để phòng sau này Sài gòn có bị mất thì ông sẽ về miền Tây lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng ông Thiệu không phải là người lãnh đạo yêu nước, thương dân. Ông chỉ quan tâm nhiều đến mạng sống và của cải của ông và gia đình. Ông tiếp tục bám víu quyền lực ngày nào còn viện trợ Mỹ, nghĩa là ngày nào còn xôi thịt. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 cho thấy ông Thiệu dùng mọi thủ đoạn xấu xa, bẩn thỉu để duy trì quyền lực. Ðến khi đất nước lâm nguy, Mỹ cúp viện trợ thì lúc ấy ông mới từ chức và tính chuyện “được làm vua, thua chạy trước”. Tội làm mất miền Nam là của Tổng thống mặt trơ trán bóng vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu chứ nhất định không phải là tội của tướng Dương văn Minh. Sau này có người đặt vấn đề với ông Thiệu về tội lỗi của ông trong chuyện làm mất miền Nam vào tay Cộng sản thì ông trâng tráo trả lời : “Tôi chỉ có trách nhiệm mà không có tội !”… Thế nào là có trách nhiệm mà không có tội ? Ðó là lối ăn nói của loại người vô liêm sỉ, thiếu tự trọng như Nguyễn văn Thiệu. Hãy nhìn cái hành vi tháo chạy nhục nhã, cam tâm bỏ lại chiến sĩ đồng bào trong vòng lửa đạn thì mới thấy ông Thiệu không có được một chút liêm sỉ và danh dự tối thiểu của người lãnh đạo. Ðám đàn em của ông như Nguyễn tiến Hưng, Nguyễn bá Cẩn, Nguyễn văn Ngân viết sách viết báo nhằm bao che cho tội lỗi của chủ cũ Nguyễn văn Thiệu nhưng ông làm sao tránh khỏi búa rìu dư luận trước hành động hèn nhát bỏ anh em chiến sĩ, đồng bào của ông được. Bản chất của ông Thiệu là tham nhũng xôi thịt nên không ai ngạc nhiên gì khi thấy những hành động hèn kém, nhục nhã của ông trong biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Một con người khó có thể biến từ tiểu nhân thành quân tử trong một sớm một chiều. Khi cầm quyền thì chỉ biết làm tiền, tham nhũng thì làm sao có chuyện hy sinh cao cả cho đồng bào chiến sĩ khi nguy hiểm cận kề. Một điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đã tìm cách liên lạc với chính phủ Dương văn Minh với ý định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp, tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng vì nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi cho đất nước Việt Nam. Cựu dân biểu VNCH Lý quý Chung (vốn là Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách “Hồi ký không tên” xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng gió. (1) Lý do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đã tìm cách viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa nhằm cứu vãn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc. Tại sao Trung cộng đã viện trợ cho Việt cộng trong nhiều năm mà lại tìm cách cứu vãn miền Nam khỏi sự sụp đổ trong những ngày tháng cuối cùng ? Câu trả lời là mặc dù Trung cộng viện trợ cho Việt cộng vì là anh em trong khối xã hội chủ nghĩa nhưng Trung cộng rất ngại chuyện Việt cộng chiến thắng ở miền Nam vì Trung cộng nghĩ rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng cường sẽ là trở ngại cho âm mưu bành trướng bá quyền của Trung cộng. Ðó là nguyên nhân Trung cộng làm một chuyện rất nghịch lý và khó hiểu là tìm cách thương thảo để viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của miền Nam trong những giờ phút hấp hối. Trung cộng tìm cách viện trợ cho miền Nam không phải vì thiện ý mong muốn nhân dân miền Nam được sống trong tự do mà vì không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam thống nhất hùng cường, và chuyện này có hại có âm mưu bành trướng lãnh thổ của Trung cộng. Tháng 12 năm 1976, Cộng sản VN mở Ðại hội Ðảng lần thứ 4 tại Hà Nội. Tất cả những đảng Cộng sản anh em trên thế giới đều gửi phái đoàn tham dự, kể cả đảng cộng sản ở quốc gia tư bản như Ðảng Cộng sản Pháp. Thế mà Trung Cộng không gửi phái đoàn tham dự đại hội Ðảng lần thứ 4 này của Việt Cộng. Nói thế để thấy Trung Cộng rất cay cú trước chiến thắng ở miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Cộng. Không hiểu sau này khi dâng đất, dâng biển tặng cho Trung Cộng thì Việt Cộng có biết được chuyện Trung Cộng đã tìm cách viện trợ cho miền Nam chống lại cuộc tấn công của Việt Cộng năm 1975 hay không ? Sau ngày đổi đời 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản đã không cho “tắm máu” hàng loạt như một số phóng viên ngoại quốc dự đoán nhưng đã cho “phơi xương” từ từ những người miền Nam ngã ngựa trong những trại tù cải tạo. Chính vị sự chết chóc do Cộng sản gây ra cho người miền Nam sau 30 tháng 4 làm cho người ta oán trách quyết định đầu hàng của Dương văn Minh. Nói Dương văn Minh đầu hàng để tránh sự đổ máu cho nhân dân miền Nam là một nhận xét không hoàn toàn đúng. Sài gòn không bị san thành bình địa vì quyết định đầu hàng của Dương văn Minh nhưng máu của người miền Nam vẫn tiếp tục đổ sau ngày 30 tháng 4… Cựu Thủ tướng VC Võ văn Kiệt đã thẳng thắn ca ngợi quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh trong một bài viết kỷ niệm ngày 30 tháng 4 mới đây. Dĩ nhiên quyêt định này đã tiết kiệm nhiều sinh mạng bộ đội miền Bắc. Cộng sản trả ơn cho Dương văn Minh bằng cách không đưa Dương văn Minh vào trại cải tạo và cho ra đi nước ngoài định cư sau này. Nếu sau ngày 30 tháng 4 mà không có sự trả thù tàn bạo của Cộng sản đối với những người miền Nam ngã ngựa thì dư luận phê phán chắc chắn sẽ bớt nghiêm khắc về quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh. Ðỗ Mậu trong cuốn hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” đã phê phán ông Minh vận động để lên chức Tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện “ách giữa đàng, mang vào cổ ” . Ðó là một nhận xét chí lý. Ông Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ông đã sai lầm khi tìm cách giành chức Tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đã phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhã trong ngày 30 tháng 4. Nếu có một người lãnh đạo can đảm, tự trọng thì miền Nam dù có thua trận vì bị Mỹ bỏ cũng không có cảnh đầu hàng ô nhục như ngày 30 tháng 4. Còn nhớ lúc bộ đội VC tiến vào dinh, Tổng thống Dương văn Minh ngỏ lời : “Chúng tôi đang chờ các ông tới để bàn giao”. Tên bộ đội dội ngay một gáo nước lạnh vào mặt Dương văn Minh, “Các anh không có gì để mà bàn giao. Các anh chỉ còn đầu hàng vô điều kiện mà thôi”. Không hiểu ông Minh có nhục nhã khi bị mắng như trên không? Chỉ vì quá quý trọng mạng sống mà ông bị làm nhục quá sức. Một người lãnh đạo có liêm sỉ và tự trọng không bao giờ chấp nhận để cho đối phương làm nhục như thế cả. Mạng sống quý thật nhưng đôi khi danh dự và liêm sỉ của một con người, nhất là người lãnh đạo quốc gia, lại càng quý hơn. Sống đục sao bằng thác vinh là như thế. Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách. Los Angels, một chiều hiu quạnh, đìu hiu đầu tháng 10 năm 2006 TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 16:01:10 GMT 9
CÁC LỮ ĐOÀN NHẢY DÙ TRONG THÁNG NGÀY CUỐI CÙNG ongvove.wordpress.com/2014/04/20/cac-lu-doan-nhay-du-trong-thang-ngay-cuoi-cung/Hàng năm, cứ mỗi độ tháng Tư về, là thiên hạ lại thấy xuất hiện trên báo chí và mạng lưới, những tin tức hình ảnh liên quan đến biến cố tháng Tư năm 1975. Năm nay, cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn bỗng được thấy đặc biệt chiếu cố, khai thác đều trên các mạng lưới. Và tên tuổi Phạm Huấn được đặc biệt nhắc nhở, đề cao. Một nét đặc biệt hơn nữa : đến những chữ nghĩa trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” của răng-đen-mã-tấu Văn Tiến Dũng, cũng được trang trọng trưng bày, xen kẻ với chữ nghĩa của Phạm Huấn! .. Lý do tại sao, xin dành quyền thẩm định phê phán khách quan lại cho quý độc giả, sau khi đọc xong bài viết nhỏ bé này. Khoan thai mà nhận diện tin tức, chúng ta thấy có hai phần khác nhau : Phần 1 là những trích dẫn từ ngay trong chính cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn. Và phần 2, là những bài viết khác, nhưng cũng nhằm vào một hướng: mạt sát Miền Nam Việt Nam ngày trước ! Hãy bắt đầu bằng những trích dẫn từ ngay trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”. Trong phần này, trên nhiều mạng lưới, thấy có trích ra nhiều đoạn, mô tả nhiều diễn tiến dồn dập, ào ạt, nóng bỏng. Trong dòng diễn tiến cuồn cuộn đó, có một đoạn trích dẫn “bắt mắt” tôi nhất. Bắt mắt tôi, vì cường độ chữ nghĩa của tác giả cũng có, và vì giá trị xác tín của nguồn tin cũng có. Xin chép lại nguyên văn đoạn này : “Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù tăng phái cho Mặt trận Khánh Dương, buông súng trưa ngày 1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập, và không còn được tiếp tế, liên lạc được với quân đoàn II. Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù bị tổn thất 70% lực lượng. Đó là thực trạng và tinh thần chiến đấu của các đơn vị chủ lực Quân Đoàn II, và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên, Pleiku, Kontum, Nha Trang : Chưa đánh đã bỏ chạy ! Đúng !”… Nếu là người dưng nước lã, đọc thoáng qua, chắc tôi cũng chỉ dững dưng đọc tiếp. Nhưng riêng tôi, không là người dưng nước lã với LĐ3ND. Tôi đã có những tháng năm phục vụ trong đơn vị này. Sự thật không phải như vậy. Hoàn toàn không. Nhân đây, tôi cố gắng trình bày lại, hầu quý độc giả, tất cả những diễn tiến, mà các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam có tham dự trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến. Trước khi mổ xẻ đoạn văn của Phạm Huấn trên đây, tôi xin thưa trước một điều. Vì nhu cầu trình bày mạch lạc tin tức dữ kiện, để Quý Vị dễ theo dõi, sẽ có đôi lúc tôi phải viết lên liên hệ của cá nhân tôi với các đơn vị này. Xin đừng hiểu lầm, là người viết muốn nói về “cái tôi” của mình. Trong biển lửa mênh mông và cường độ khốc liệt của cuộc chiến bất hạnh đó, tôi nghĩ, và tôi chắc rằng, mỗi chúng ta chưa đáng là con đom đóm. Từ các cấp lãnh đạo, chỉ huy của Việt Nam, cho đến cả Đại Sứ Mérillon của Pháp, ngay cả chính Đại sứ Graham Martin của Mỹ, cũng chỉ là nạn nhân, phục vụ cho quyền lợi kinh tế và chiến lược tối thượng của Hoa Kỳ và Trung Cộng. Ra hải ngoại này, “cái tôi” là điều mà đại đa số qúy vị độc giả, trong đó có chính tôi, đã quá kinh tởm, trong rừng lúc nhúc các “Bút ký chán chường” ! Trọn năm 1973, tôi là Lữ Đoàn Phó LĐ này, hành quân vùng “Động Ông Đô” ở Quảng Trị. Đụng chạm suốt năm, nhiều kỷ niệm mồ hôi xương máu, ký ức còn nóng hổi như mới ngày hôm qua. Tháng Giêng năm 1974, Bộ Tư Lệnh Nhảy Dù bổ nhậm tôi làm Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, thay thế Đại Tá Nguyễn Thu Lương (K4TĐ). LĐ2ND ở lại bắc Quảng Trị, trách nhiệm vùng khoảng phía tây Phong Điền/La Vang, dưới sự phối hợp và kiểm soát hành quân của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh/TQLC. Còn lại, SĐND(-) được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng TL/QĐI điều động về nam đèo Hải Vân để giúp trấn giữ Đà Nẵng. Hòa Đàm Ba-Lê kết thúc ngày 27 tháng giêng năm 1973 : Henry Kissinger và Lê Đức Thọ được giải “Nobel Hòa Bình” sau đó, là bản án bức tử cho “đồng minh” Nam Việt Nam, vì quyền lợi chính trị và chiến lược của chính “đồng minh” Hoa Kỳ ! Cộng sản Hà Nội không còn có nhu cầu nhắm chiếm Huế để làm “Thủ đô” cho Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Thị Bình nữa. Họ dồn áp lực tối đa vào Đà Nẵng và Ban Mê Thuột, và mục tiêu tối hậu là … Saigòn. Sau đúng 1 năm ở lại Quảng Trị, tháng 12 năm 1974, tôi bất thần lại được Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Dù sau cùng, cho lệnh tôi bàn giao LĐ2ND ngược lại cho Đại Tá Nguyễn Thu Lương. Tôi trở về BTL/Phòng 3 Hành Quân (ở Non Nước, Đà Nẵng) nhận lệnh mới. Tiễn tôi ra trực thăng Chỉ huy, là “Moshe Dayan” Tr/tá Lữ Đoàn Phó Trần văn Sơn K8TĐ. Anh em Dù gọi Sơn như vậy, vì Sơn đã bị thương mất một mắt, ngày còn là ĐĐT ở TĐ5ND, nhưng vẫn tình nguyện ở lại với đơn vị. Tại căn cứ Non Nước, công việc của tôi hằng ngày, là bay đi kiểm soát phần Huấn luyện của các đơn vị Nhảy Dù “Đa Năng”. Đây là những Trung đội và Đại đội, được rút ra từ 6 Tiểu đoàn Nhảy Dù cũ đang tham chiến trong vùng Thường Đức và Đại Lộc, phía tây Đà Nẵng, thuộc các LĐ1ND (Tr/Tá Nguyễn Văn Đỉnh K15VB) và LĐ3ND (ĐT Lê Văn Phát). Khi tôi còn trách nhiệm LĐ2ND tại bắc Hải Vân trong năm 1974, chính tôi cũng nhận được lệnh rút các Trung đội và Đại đội từ các Tiểu đoàn Cơ hữu của tôi (TĐ5, 7, và 11ND), gởi đi Huấn luyện “Đa Năng”. Địa điểm Huấn luyện nằm ngay trong vùng trách nhiệm hành quân của LĐ3ND, phía Tây Đà Nẵng, nên tôi gặp “Bố Già” Phát rất thường xuyên. Các đơn vị Huấn luyện, đi “bứng chốt” ban ngày, và chạm địch ban đêm như cơm bữa. Hạ tuần tháng Giêng năm 1975, tôi được lệnh Chuẩn tướng LQ Lưỡng, đưa “Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù”, đơn vị có cái tên mới cáo cạnh, về Saigon nhận lệnh Bộ Tổng Tham Mưu (vì Bộ Tư Lệnh/SĐND còn ở Đà Nẵng). Khi kéo quân ra khỏi vùng hành quân của LĐ3ND, tôi hỏi “Bố Già” Phát : “Đại Tá Lương đang ở đây, sao ông Tướng không để Đại Tá Lương đi, mà kéo tới kéo lui chi rắc rối vậy, Đại Tá có biết không” ? Tôi hỏi vậy, vì các Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Lê Quang Lưỡng, Tướng Ngô Quang Trưởng, và hai ông Đại Tá này là bạn cùng khóa 4 TĐ với nhau. Giọng Bố Già Phát bỗng nghiêm trọng hơn thường ngày : “Ở đây nặng, nhưng đơn giản. Chỉ có thằng Việt cộng trước mặt thôi. Mấy năm nay, TQLC và Dù không được về Saigòn. Về đó, Ngọc nhớ phải thận trọng mọi mặt … ” Sáng ngày 20 tháng Giêng năm 1975, tôi đang ngồi trên xe Jeep tại bến tầu Đà Nẵng để xem các Tiểu đoàn chuyển quân xuống Chiến hạm của HQVN để về Vũng Tầu, thì Chuẩn Tướng Lưỡng đến nơi bằng xe. Ông hỏi diễn tiến công việc ra sao. Tôi trình bày vắn tắt, là suông sẻ như kế hoạch. Và nhân đó, có hỏi “mi mí” ông Tướng, xem nhiệm vụ của tôi ở Saigon trong vài ngày sắp tới, đại khái như thế nào. Tướng Lê Quang Lưỡng đăm chiêu : “Đánh rắn, phải đánh giập đầu. Đáng lẽ phải có Tổng Trừ Bị bảo vệ Biệt Khu Thủ Đô và Tổng Tham Mưu từ sớm hơn, như hồi Mậu Thân vậy. Anh về đó, tình hình sẽ không nhẹ nhàng gì hơn ngoài này đâu. Khác với các Lữ Đoàn còn lại đây, là tình hình có thể đột biến bất ngờ, mà anh chỉ có một mình. Ngoài việc điều binh ra, anh phải cảnh giác luôn luôn, báo cáo chặt chẻ với tôi. Trường hợp thật đặc biệt, phải có lệnh của tôi”. Ông Tướng không nói rõ, nhưng tôi đã hiểu mi mí, qua câu nói của ông anh “Bố Già” Lê Văn Phát. Dĩ nhiên, chuyện loại này, chả ông nào nói rõ trước cả. May quá, thời cuộc không xoay chuyển về hướng đó. Sau này, đọc Hồi ký của Tướng Lê Quang Lưỡng ở hải ngoại, mới thấy ông nói rõ hơn. Và ông tướng vội vả ra đi, trước khi bảo tôi giao cho các Tiểu Đoàn Trưởng đôn đốc việc hải hành. Còn tôi, thì ra ngay phi trường, đã có nhân viên BTL/Phòng Tư lo phương tiện C-130 bay về trước, trình diện Bộ Tổng Tham Mưu nhận lệnh. Tôi ghi lại đoạn này, để quý độc giả theo dõi mạch lạc hơn, vì trong những biến cố sau cùng, các LĐ2ND và LĐ4ND vừa kể, lại sẽ còn dính líu đến hoạt động của LĐ3ND, đơn vị đã bị Phạm Huấn khai tử trước, trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, trước khi lịch sử của cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ thứ 20 bức tử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau đó. Tôi rời Bố Già Phát, nhưng không phải vì thế mà tôi “mất dấu” LĐ3ND. Tình hình điều động và tham chiến của các Lữ Đoàn và Tiểu Đoàn bạn trong binh chủng, đều được ban tham mưu Lữ Đoàn thuyết trình hằng ngày. Sau nhiều trận chạm địch, các Tiểu đoàn được hoán chuyển, để Binh sĩ được về thăm gia đình, đơn vị được bổ sung và chỉnh bị. Cho nên tại vùng hành quân, ít khi các Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn có được đủ mặt các Tiểu đoàn Cơ hữu của mình. Thường thì mỗi Lữ Đoàn Nhảy Dù tham dự hành quân với 3 Tiểu đoàn tác chiến, một Tiểu đoàn Pháo Binh ND, một Đại đội Công Binh ND, một Đại đội Truyền Tin ND, một Đại đội Quân Y ND, một Đại đội Trinh sát ND, và Đại đội Chỉ Huy Công Vụ (Các ban Tham mưu Lữ Đoàn, Quân cảnh, An ninh, Súng cối ..) Đúng 2 tháng sau khi tôi rời Vùng I Chiến Thuật, thì SĐND cũng được Bộ TTM điều động về Saigòn. LĐ3ND xuống tầu Hải Quân, rời Đà nẵng ngày 15 tháng 3. Đang lênh đênh trên biển, thì được lệnh tấp vào Cầu Đá Nha Trang : LĐ3ND được tăng phái cho QĐII, theo đơn xin của Thiếu Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú. Bộ Tư Lệnh/SĐND cùng các Lữ Đoàn 1 và 2 tiếp tục hải hành về hướng Nam. ĐT Lê Văn Phát được lệnh di quân gấp lên đèo Khánh Dương, lập phòng tuyến. Nhiệm vụ là : trì hoãn trục tiến của các đơn vị Cộng quân, bọc hậu cho các đơn vị bạn trong vùng giao phó. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, lực lượng Cộng quân ào ạt trên các trục đông tiến này, gồm có các các Sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV. Trục địch quân đi ngay vào tuyến án ngữ của LĐ3ND trên đèo Khánh Dương, chính là Sư đoàn F10, cùng với một Trung-đoàn chủ lực miền, và Đặc công, Giao liên. Tổng cộng đông gấp 5 lần lực lượng của Nhảy Dù tại đây. Cộng quân có đầy đủ pháo yểm, trong khi LĐ3ND chỉ có hỏa lực của 1 Tiểu Đoàn Pháo binh 105 ly cơ hữu. Đó là tương quan lực lượng chính xác tại đèo Khánh Dương ngày 17/3/75. Lúc bấy giờ LĐ3ND của Bố Già Phát gồm có TĐ2ND (Th/tá Trần Công Hạnh K20/VB), TĐ5ND (Tr/Tá Bùi Quyền K16VB), và TĐ6ND (Tr/tá Nguyễn Văn Thành, K9TĐ). Th/tá Nguyễn Ngọc Triệu là TĐT/TĐ2 Pháo Binh/ND. Lữ Đoàn Phó là Trung tá Trần Đăng Khôi K16VB. Quân Nhảy Dù giữ vững đèo Khánh Dương, chận đứng Sư Đoàn F10 tại đây cho đến ngày 22 tháng 3. Sáng hôm đó, địch giảm cường độ tấn công, chỉ bám sát tuyến đang chạm, nhưng lại tung 2 trung đoàn đánh bọc hông. ĐT Phát xin không yểm. Tướng Phú chấp thuận, nhưng lại không có phi tuần để thỏa mãn yêu cầu. Tướng Phú cho lệnh LĐ3ND tuần tự lui quân về nam, xa nhất là dừng lại Cam Ranh chờ lệnh. Khi về ngang Huấn Khu Dục Mỹ, ĐT Phát có gặp ĐT Nguyễn Hữu Toán, Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ và Đại Tá – BĐQ Nguyễn Văn Đại, CHT/Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, K8VB. ĐT Phát ND cho ĐT Nguyễn Văn Đại BĐQ biết về tình hình địch trước mặt, nói thẳng với ĐT Đại hai điều. Một là, địch đông hơn mình nhiều lần, có đủ tiếp liệu và hỏa yểm hùng hậu. Còn mình thì đến hôm nay, khó còn trông cậy gì vào “ở trên” và “sau lưng” nữa. ĐT Phát hỏi ĐT Đại có phụ giúp được gì trong việc giữ an ninh trục lộ phía sau, dẫn về Ninh Hòa hay không, vì địch thế nào cũng bọc hông đặt chốt để gây khó khăn cho điều động chung của các đơn vị thuộc huấn khu này. Đại Tá Đại đồng ý, và gửi Viễn Thám BĐQ đi thi hành. Nhờ vậy, cuộc lui binh tại đây, thảm cảnh ở Quốc Lộ 7 đã không xảy ra. LĐ3ND chưa về đến Cam Ranh. Ngày 30 tháng 3, mới về đến đèo Rù Rì, phía Bắc Nha trang, thì mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh/QĐ II. ĐT Phát không còn cách nào khác hơn, là phải liên lạc thẳng về BTL/SĐND ở Saigon bằng máy GRC-106 để xin lệnh. Lệnh của Tướng Lưỡng cho LĐ3ND là trực chỉ Phi trường Bửu Sơn Phan Rang, để phối hợp với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ6KQ, tổ chức phòng thủ phi trường này, và tái lập an ninh trật tự tại hai Thị xã Phan Rang và Tháp Chàm. Ổn định vừa được Nhảy Dù phục hồi tại đây, thì Trung Ương cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra đến, đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ của Quân Đoàn III tại Bửu Sơn đúng ngày 1 tháng 4 năm 1975. Trước mặt Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, LĐ3ND vẫn còn cầm súng trên tay, và đang hiển hiện là niềm tin tưởng, là nỗi vững tâm của Quân dân Tháp Chàm Phan Rang, của Tiểu Khu Ninh Thuận. Vậy LĐ3ND nào chưa đánh, đã buông súng bỏ chạy, đầu hàng ?! Ngày 4 tháng 4, LĐ3ND được tướng LQ Lưỡng cho thay thế bằng LĐ2ND, do ĐT Nguyễn Thu Lương đưa ra Bửu Sơn bằng vận tải cơ C-130. Không Quân VN chuyển các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 Nhảy Dù đến Bửu Sơn, và bốc các Tiểu đoàn 2, 5 và 6 Nhảy Dù về Tân Sơn Nhất. Lập tức LĐ3ND được bổ sung và chỉnh bị nhanh chóng. Tr/tá Trần Đăng Khôi được bổ nhậm làm Lữ Đoàn Trưởng/LĐ3ND, thay thế Bố Già Phát (lên Tham Mưu Phó Hành Quân BTL/SĐND). Trở lại với Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tại Vùng III Chiến Thuật. Tôi từ Đà Nẵng bay C-130 về Saigon ngày 20 tháng giêng/75, trình diện Bộ TTM. Gặp Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3. Ông ta hỏi tôi ngay về khả năng tham chiến của LĐ4ND. Tôi thưa, có 2 Tiểu đoàn sẵn sàng ngay, ba Tiểu đoàn nữa (15, 16 và 18) sẽ về đến và sẵn sàng khoảng 2 tuần sau. Và tôi cũng không quên khai thật, là tôi chưa có hậu cứ, chưa có Lữ Đoàn Phó, nhất chưa có Pháo binh Nhảy Dù cơ hữu như các Lữ Đoàn cũ. Tướng Thọ vào đề : “Tôi ghi nhận những điều đó. TTM sẽ phối hợp với hậu cứ Sư Đoàn Nhảy Dù lo tiếp cho anh. Bây giờ tình hình phía tây bắc Biệt Khu Thủ Đô nghiêm trọng. Địch đã vượt sông Vàm Cỏ, chiếm xã Lương Hòa. Vùng Đức Hòa Đức Huệ bị uy hiếp nặng nề. Phải nhờ anh lên đó giúp họ ngay. Anh sang Phòng 2 nghe tình hình chi tiết vùng này. Tôi nhờ Phòng Tư lo phương tiện cho anh lên đó”. Hai ngày sau, tàu HQ cập bến Saigon. Tôi hướng dẫn hai Tiểu Đoàn 12 và 14ND về tạm trú tại sân cờ của TĐ8ND trong Hoàng Hoa Thám. Các Phòng sở của BTL/Hậu cứ đến, nhanh chóng giúp đỡ các trang bị cần thiết. Tôi gọi các Tiểu Đoàn Trưởng đến, trải bản đồ ra, chỉ tình hình và mục tiêu. Và tôi nhấn mạnh trang bị : Bản đồ, Điện trì, Lựu đạn M-26 tối đa, phóng lựu M-79, và ống phóng M-72 (Vì không có pháo binh, khi hữu sự, sẽ phải đánh như đơn vị khinh chiến). Đoàn xe đến, LĐ4ND “xuất hành” trận đầu tay, trực chỉ lên hướng Tây Ninh. Đến “Thành Ông Năm” (Một trại Công Binh trên Quốc lộ 13), xưống xe, lấy đội hình hướng về mục tiêu Vàm Cỏ Đông. Quần thảo 2 ngày ven bờ con sông nổi tiếng, đẩy lui được đầu cầu vẹm về bên kia, tái chiếm được Lương Hòa, an ninh lại trục lộ. Trận đầu tay này, cũng như những lần chạm địch mấy tháng sau đó, LĐ4ND đã “đánh khô”, vì không có pháo cối yểm trợ. Hai Tiểu Đoàn 12 và 14ND bắt được rất nhiều vũ khí đạn dược, dọc theo dãy lùm bụi, ngay vùng đầu cầu mà địch vượt sông hai đêm trước, còn nguyên trong nhiều thùng gỗ bọc giấy dầu, bôi đầy mỡ bò màu vàng của Trung cộng : AK47, B-41, và “Thượng liên nồi” mới toanh (Hộp băng đạn bự và tròn). Tôi cho Ban 2 và Ban 5 đi tìm, liên lạc với giới chức địa phương, để phối hợp việc an ninh, cứu trợ và bình định. Tưởng là ai, hóa ra người trai khói lửa, lại là Thiếu tá Tô Công Thất, cùng khóa 16 với tôi ở Đàlạt ! Bắt tay bắt chân qua loa, hỏi cần gì không? M-79, M-26, Claymore! Tôi kêu đệ tử để hết các loại này lại, rồi bái biệt người trai khói lửa, lội ngược ra Quốc lộ, vì truyền tin báo có Ch/tướng Trần Đình Thọ sắp lên Thành Ông Năm. Tướng Thọ bắt tay tôi : “Đơn vị anh không cần huấn luyện nữa. Vả lại, tình hình không cho phép”. Và ông xỉa cho tôi một phóng đồ hành quân, cho đất đai làm ăn, án ngữ về hướng Bắc và tây Bắc Thủ đô. LĐ1ND vừa đặt chân đến hậu cứ khoảng giửa tháng 3/75, là liền được bổ sung, tái tiếp tế nhanh chóng. Và Tr/Tá Nguyễn Văn Đỉnh được lệnh trực chỉ lên Xuân Lộc ngay, để tăng cường cho SĐ18BB. Theo dõi phần thuyết trình hằng ngày, tôi được biết TĐ8ND của Thanh Râu, tức Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh K19VB, đã làm ăn một trận để đời tại “Vườn cây Ông Tỵ”. Trong tháng này, có Tr/tá Nguyễn Đình Ngọc cầm công điện mang tay, về trình diện tại Thành Ông Năm. Nội dung công điện: “Chỉ định Tr/tá NĐ Ngọc giữ chức vụ Phụ tá Hành Quân LĐ4ND. Quyết định hợp thức hóa Lữ Đoàn Phó sẽ theo sau”. Có ông này về, thật đỡ cho tôi quá. K19VB, nguyên TĐT/TĐ2ND ngày còn ở Động Ông Đô với LĐ3ND hai năm trước. Giữa tháng 3, Biệt Khu Thủ Đô cũng có yêu cầu đến giúp Tiểu Khu Gia Định, giải tỏa xóm Cư Xá Thanh Đa (Bị một đại đội đặc công xâm nhập), đến đầu cầu Thương cảng Xa lộ. Th/tá Nguyễn trọng Nhi K20VB được gởi đi với 2 đại đội của TĐ12ND, và đã thanh toán xong trong cùng ngày 22 tháng 3. Ngày 10 tháng 4, tôi được gọi về họp ở BTL/BKTĐ. Tại đây, tôi gặp Trung tá Trần Đăng Khôi, LĐT/LĐ3 ND, cũng đến họp nhận lệnh. Lữ Đoàn 3 được tăng cường hoạt động cho BKTĐ, thay thế LĐ4ND. Còn tôi được lệnh di quân LĐ4ND xuống tăng phái cho BTL/Quân Đoàn III, trách nhiệm khu vực từ Tam Hiệp, Biên Hòa, vắt qua sông Đồng Nai, hướng về Long Thành. Đấy là lần sau cùng tôi gặp, lần cuối tôi thấy LĐ3ND điều động đi thi hành một nhiệm vụ chiến thuật khác : bảo vệ khu kho xăng Nhà Bè, và an ninh trục thủy lộ Rừng Sát. Tối 13 tháng 4, tôi được tin LĐ2ND chạm địch nặng nề tại Bửu Sơn Phan Rang. Lực lượng tấn công, vẫn là Sư Đoàn F-10, bị chận khựng lại. Ngày 15 tháng 4, Sư Đoàn 325 Cộng Sản Bắc Việt từ quốc lộ 11 tăng cường đến, cùng với đông đảo chiến xa và pháo nặng. Tối 16 rạng ngày 17, ĐT Nguyễn Thu Lương và Tr/tá Trần văn Sơn bị báo cáo mất tích, cùng với Tr/Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Ch/Tg Phạm Ngọc Sang KQ. Bửu Sơn thất thủ, tiếp theo là Tháp Chàm và Phan rang ! Sau cùng, LĐ3ND cũng đã buông súng, cùng với tất cả các đơn vị khác, khi hai ông Vũ Văn Mẫu và Dương văn Minh tuần tự cho lệnh buông súng chiều 29 và sáng 30 tháng 4 năm 1975. Tôi không phải là người xa lạ đối với LĐ3ND. Mặc dù vậy, để đảm bảo sự chính xác của dữ kiện, tôi vẫn điện thoại kiểm chứng chi tiết kỹ lưỡng với những nhân vật trong cuộc, trước khi viết lại những diễn tiến cuối cùng của cuộc chiến, mà các đơn vị Nhảy Dù VN có can dự. Tất cả vẫn còn đấy, chỉ trừ có Ch/tướng Phạm Ngọc Sang SĐ6KQ đã qua đời cách đây 3 năm, và “Moshe Dayan” Tr/tá Trần Văn Sơn đã nằm xuống trong những năm tháng tù đày ngoài Bắc. Bây giờ, mời Quý Vị hãy nhìn lại câu chuyện, kể về cùng một đơn vị đó, trong cùng thời gian đó, bởi đại ký giả chiến trường Phạm Huấn trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, đã phổ biến khắp thế giới, để mà ngán ngẩm cho điều mà chính các ngài viết lách này, gọi là .. Lương Tâm Ngòi Bút :.. “ Buông súng trưa ngày 1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập… Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên,Pleiku, Kontum, Nha Trang : Chưa đánh đã bỏ chạy ! Đúng !” !!! Trong khi đó, chính Đại Tá Nguyễn văn Đại BĐQ, người cùng có mặt tại trận với LĐ3ND lúc bấy giờ, hiện đang cư ngụ tại Oregon, vừa nói điện thoại với tôi đêm qua : “Tình hình đó, địa thế đó, nhiệm vụ đó, LĐ3ND đã làm quá sức mình. Và ĐT Phát còn về ổn định lại Phan Rang Tháp Chàm, giúp Tướng Phạm Ngọc Sang, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nữa, trước khi được thay thế ..”. arvnsoldiersqz6 Đến tháng cuối cùng của chiến cuộc, tác giả Phạm Huấn vẫn còn lĩnh lương Thiếu Tá của QLVNCH, sao lại có thể ăn nói khinh bạc đến vậy ? Đành rằng, chung cuộc vẫn là sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, nhưng vẫn phải xin để cho, sự thật còn được là sự thật … Chỉ trong một đoạn viết ngắn khoảng nửa trang giấy, tác giả đã đề cập đến diễn tiến và số phận của mấy chục đơn vị, một cách ngắn gọn, dễ dàng và tàn nhẫn : Thảm sát hết : “Từ các trung đoàn 41, 42, 47 Bộ Binh, mấy Liên đoàn BĐQ, Lữ đoàn 2 Thiết kỵ, Liên đoàn 6 Công Binh Chiến Đấu, các đơn vị Pháo Binh, đến các đơn vị Lôi Hổ, Thám kích và LĐ3ND”. Đơn vị Nhảy Dù này, sự thật ra sao, tôi là người trong cuộc, đã vừa thưa cùng Quý Vị. Từ sau ngày rời Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tôi về trình diện Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Và tuần tự phục vụ qua các TĐ3ND, TĐ7ND, LĐ3ND, LĐ2ND, LĐ4ND. Tôi chưa hề được gặp gở ký giả chiến trường Phạm Huấn lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đọc sách, thấy hình ông ta mặc quân phục Nhảy Dù ! Còn mấy chục đơn vị khác, mà Phạm Huấn nêu tên ra trên đây, thì sao ? Tôi không rõ là Phạm Huấn hiểu biết thế nào về các đơn vị đó. Và càng không biết, các đơn vị đó, có được Phạm Huấn đến thăm viếng lần nào chưa. Nhưng khi trên giấy trắng mực đen, Phạm Huấn đã viết truyện chiến trường như đoạn viết về LĐ3ND trên đây, thì nếu người đời họ có chọn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, để sắp chung với “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng, cũng là điều hiểu được mà thôi ! Thiếu tá Phạm Huấn suốt đời ở thiên cung, mới trở thành tiên đọa xuống trần-gian Quân Khu II, chỉ vài tháng trước cuộc dầu sôi lửa bỏng, làm sao nắm vững được từng ấy tin tức dữ kiện ? Rừng dữ kiện này, nếu được trình bày bởi các Vị Đại Tá, chức vụ tối thiểu từ Trưởng Phòng Nhì, Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn trở lên, thì họa may mới khả tín … Chua chát chưa chịu dừng lại tại đó. Mãi đến nay, vài chục năm sau, tại hải ngoại, vẫn có những nhà văn, nhà báo, viết theo, lên án gắt gao tất cả, từ lãnh đạo đến thứ dân, từ Tướng xuống Quân ! Và khôi hài đen ở chỗ là, hầu hết đều nhập đề bằng câu “Có đọc Phạm Huấn, chúng ta mới thấy …”, hoặc là : “Cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn đã phơi bày ra tất cả “Sự thật …” ! Với các ông gọi là Nhà báo, Nhà bình luận này, chữ nghĩa cẩu thả trên đây của Phạm Huấn, đã trở thành chữ nghĩa của Thánh kinh ! Rồi tất cả những văn chương, tư tưởng siêu việt này, rốt cuộc hội tụ về một đoạn tiểu sử, được phổ biến rộng rãi trên khắp các mạng lưới toàn cầu. Xin chép lại nguyên văn, để Quý Vị thưởng lãm : “Phạm Huấn là một nhà báo quân đội và trong “Bộ Biên Tập Diều Hâu”, Thành viên Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, đặc trách về Báo Chí, khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, Chủ tịch Hội Phóng Viên Chiến Tranh Việt Nam, 1972-1975. Tác giả đã theo học … Trường Đại Học Quân Sự năm 1963. Và cả Trường Quân sự tại Hoa Kỳ : Infantry School (Fort Benning, GA, 1958), Civil Affairs School (Fort Gordon, GA) và Special Warfare School (Fort Braggs, NC, 1965)… Trong nghề Phóng viên Chiến tranh, Phạm Huấn có một chỗ đứng riêng biệt, dù đi chung với những Phóng viên nổi tiếng hàng đầu của thế giới như Moshe Dayan, thingyey Chapel, hay chỉ đi có một mình, bao giờ anh cũng được đón nhận nồng nhiệt của mọi chiến hữu ở ngoài mặt trận … ” Đọc qua đoạn trên, quý vị có thấy độc giả bị coi thường quá hay không ? Cùng một “Văn phong” này, tôi nhớ đã được đọc đâu đó vài lần. Lần đầu, năm 2005 thì phải. Anh Bùi Đăng, bạn cùng khóa 16 Đàlạt với tôi, ở San Jose bắc Cali, gởi cho tôi nguyên một trang Nhật báo Việt Ngữ khổ lớn. Nguyên trang báo, là bài Phân Ưu Trung Tá Phạm Huấn. Với nửa trang trên, đầy đủ sự nghiệp vĩ đại của người nằm xuống. Toàn là các khóa du học Ngoại quốc, và các việc Văn phòng. Anh Huấn quả đã được Quân đội đãi ngộ, ưu ái, và đầu tư vào kỹ hơn ai hết. Và nửa trang dưới, đầy đủ tên tuổi Quân nhân Nhảy Dù, từ Đại Tướng Cao văn Viên, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi … cho đến em út cấp Úy, trong đó có tên tôi. Cầm tờ báo, tôi mới hay tin ông anh qua đời vì bạo bệnh. Anh bạn Bùi Đăng gởi báo cho tôi, không họ Bùi, mà cũng chẳng tên Đăng. Mùa hè 1972, anh dẫn TĐ6ND nhảy xuống Đồi Gió Bình Long, mở đường máu vào cứu An Lộc. Bị trận địa pháo, Phạm Kim Bằng bỏ lại Đồi Gió một con mắt, đi vào An Lộc với một con. Trở thành Bằng đui, nhưng Bùi Đăng không chịu rời tiểu đoàn tác chiến Nhảy Dù. Đầu năm 2007, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lại ra đi. Trên Internet và báo chí, liền ngay dưới sự nghiệp của Trung Tướng Trưởng, lại có hàng chữ: “tài liệu của Đại Tá Phạm Huấn, Chủ Tịch Hiệp Hội Ký Giả Chiến Trường”(!). Ông lỏi tì nào đó ơi, “Văn phong” này nặng mùi lắm, xin ông dừng tay lại, đừng đem tên tuổi của ông anh mình ra mà diễu dở. Cấp bậc, thì ai cho bằng Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ và Đại Tướng Nguyễn Khánh. Chức vụ, thì ai sánh nổi với Quốc Trưởng Nguyễn Khánh và Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ ! Có thơm tho chi đâu. Phải nói ngay từ bây giờ, kẻo nay mai, có một vì sao sáng nào khác rơi rụng, ông lỏi tì lại lôi ông anh Phạm Huấn dậy, mà truy thăng lên Chuẩn Tướng ! Tội nghiệp cho ông anh. Ông anh đã và đang sám hối về cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” dưới kia. Khó ăn, khó ở khi “hội ngộ” với anh em lính tráng người phàm, đã tham dự Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên ngày xưa lắm. Hởi ông lỏi tì ơi, hãy để cho ông anh được yên nghỉ. Dậu đổ, bìm leo. Viết lách chưởi bới, mạt sát, mọi thứ thuộc Miền Nam Việt Nam ngày trước, đã và vẫn đang là kiểu thời trang thịnh hành. Có nhiều người viết, để vẽ lên hình ảnh mình là … người hùng ! Một số khác viết lên, để tỏ ra mình là người trí giả, là nhà tư tưởng, dựa vào cuốn Kinh Tân Ước Phạm Huấn ! Riêng nhà báo vĩ đại Phạm Huấn, thì hùng dũng tỏ ra mình là nhà siêu Quân sự, siêu lãnh đạo, chê bai xoa đầu từ trên xuống dưới, chả chừa một ai. Chỉ nửa trang giấy, dẹp hết cả lực lượng một Quân đoàn. Phạm Huấn luận về các ông anh, ông thầy, các ân nhân của chính anh ta, như Gia Cát Khổng Minh nói về các mạt Tướng Trương Phi, Ngụy Diên ! Anh Phạm Huấn chỉ quên có một đôi điều nho nhỏ. Thật nhỏ. Nhỏ xíu. Vì tầm mắt anh không thấy. Mặc dù anh vẫn mặc Quân phục tác chiến Nhảy Dù, mang lon Thiếu tá của QLVNCH làm việc tại Ủy Ban Quân Sự 2 bên, 4 bên. Đó là việc Lập Pháp Mỹ, qua Quốc Hội Dân Chủ ngày đó, đã cúp hết Viện trợ Quân sự cho QLVNCH từ mùa Hè 1973 ! Đó là việc Hành Pháp Mỹ, qua tên Do Thái nói ngọng Henry Kissinger, đã công khai đứng về phía Lê Đức Thọ và Nguyễn Thị Bình, để bức thúc Hòa Đàm Ba Lê, bức tử VNCH. Cho nên, chuyện gì phải đến, đã đến. Theo Mỹ và Trung Cộng, chuyện đó, đáng lẽ phải xảy ra sớm hơn … Trong hoàn cảnh đó, nếu rước đại Ký giả Phạm Huấn vào Dinh Độc Lập, liệu đương sự gồng được mấy phút ? Trong hoàn cảnh đó, nếu mời nhà báo Phạm Huấn sang Bộ Ngoại Giao, liệu ông anh gồng được mấy giờ ? Trong hoàn cảnh đó, nếu phong cho Thiếu tá Phạm Huấn thay thế Đại Tướng Cao Văn Viên, Thiếu Tá Huấn có lãnh đạo một Tiểu đội ngày giờ nào chưa ? Các ông lính thợ vịn, ăn lương Quân đội Miền Nam, mạt sát các đơn vị Quân đội Miền Nam, nhưng chả bao giờ biết chút gì về các Đơn vị này. Mạt sát, vì ganh tị, vì mất mát. Bất cứ ai thật sự có trải qua những tháng ngày gạo sấy nước ruộng, đều biết rằng, cùng một cỡ Đơn vị, cùng hỏa lực xấp xỉ nhau, Bộ đội Cộng sản chưa hề là đối thủ của Quân Đội Quốc Gia, dù là Chính quy, hay Địa phương, dù là TQLC, BĐQ, hay Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân. Chiến thuật của Cộng sản, có hai chữ “biển người”, là vì vậy. Một phần ba thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu tài liệu đã được giải mật. Henry Kissinger trước sau ba lần thú nhận, đã bán đứng Nam Việt Nam. Lính tráng chúng tôi, là người phàm mắt thịt, chả nói làm chi. Còn các ông nhà văn, nhà báo, nhà bình luận : chất xám các ông để đâu, nấu bún ốc hết rồi sao ? Bây giờ không có bom rơi đạn réo, mà còn phù thịnh, còn nói vuốt theo Văn Tiến Dũng, thì làm sao ngày xưa các ông dám phù suy, mà đỡ đần phần tí ti nào cho Quân Dân Miền Nam ? Bây giờ mà còn nói vuốt theo Văn Tiến Dũng, là vô liêm, là bất trí … Thảm cảnh tháng Tư, người khách quan, không ganh tị, không càm ràm bệnh hoạn, ai cũng thấy là vì hai lý do : Thứ nhất : Dân chúng nghe quân Cộng sản tiến đến gần, đã kinh hoảng, đưa tới náo loạn. Có đúng vậy không, thưa Quý Vị ? Và thứ hai : các đơn vị Quân đội lại không có được những tiếp liệu, yểm trợ và hỏa lực tối thiểu nữa, để chu toàn nhiệm vụ chiến thuật được giao phó, vì QLVNCH đã bị cúp Quân viện từ năm 1973, chỉ còn cầm hơi, “Liệu cơm gắp mắm”. Mùa Hè năm sau, Trung Tướng Tùy Viên Quân Sự tòa Đại Sứ Anh Quốc ra thăm hỏa tuyến, có ghé qua Bộ Chỉ Huy/LĐ2ND ở phía Nam sông Thạch Hãn. Nghe thuyết trình xong, ông đứng lên trước bản đồ, quay lại nói trước mặt tôi và đông đủ Sĩ quan Tham mưu hiện diện : “Giới quan sát Quốc tế cho rằng, các ông không tồn tại nổi quá 6 tháng, sau Hiệp Định Ba Lê. Bây giờ, hơn một năm đã trôi qua ..”. Bấy giờ, là tháng 7 năm 1974. Suốt chiều dài cuộc chiến, người lính mồ hôi, xương máu. Người dân quằn quại, thống khổ điêu linh. 3004_2 Còn các ông thợ vịn, lính kiểng, sống phè phỡn ngay trong lòng Hòn Ngọc Viễn Đông, ăn tục nói phét, làm chơi ăn thiệt. Bây giờ, mồ ma Miền Nam Việt Nam không còn nữa, các ông muốn ăn thiệt, thì phải bò ra làm thiệt, dù là ăn … welfare ! Nên các ông tiếc nuối cái thời vàng son, sáng Thanh Thế, trưa Givral, chiều Đồng Khánh. Và các ông cay cú, các ông hằn học… Có nhiều lý do làm sụp đổ Miền Nam. Trước hết, là bàn tay lông lá của Mỹ Nga Tàu, và xuẩn vọng của tên đồ tể họ Hồ. Kế đến, là những tham nhũng thối nát, mà các ông đã ngoắc mồm ra chửi bới hơn ba chục năm qua. Mỹ, Pháp, Nga, Tàu, và nhất là Cộng sản Việt Nam bây giờ, có thối nát tham nhũng hay không ? Lý do thứ ba là ai ? Là đám làm chơi ăn thiệt, là lũ kiêu binh hàm thụ. Là đám sâu bọ, dòi mọt, cặn bã của một Quân Đội hào hùng. Quân Đội “cao số” đã bị lịch sử cận đại trao cho một sứ mạng oan khiên, một “Mission impossible” .. Những tên né tránh, đánh bóng chữ thọ, những bụi chùm gởi nặng trĩu trên thân cây gầy yếu Nam Việt Nam trước cơn giông bão, không có tư cách mở mồm về đoàn quân này … Các cụ thường nói “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Các ông suốt đời chỉ trích ta bà thế giới. Sao các ông không dám nói, chính các ông mới là thủ phạm, mới là tội đồ thiên thu, làm Miền Nam nước Việt sụp đổ vào tay Cộng sản. Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc lầm lỗi. Vả lại, cái “lỗi lầm” của Miền Nam Việt Nam, nếu có, là phần chính do cái thân phận nhược tiểu mà ra. Hàng trăm nước nhỏ trên thế giới, đã và còn đang đau khổ về cái “lỗi lầm” này. Miền Nam Việt Nam không còn nữa. Bây giờ đây, trách nhiệm đối với Lịch sử và Dân tộc, đang treo trên đầu bọn cầm quyền ở Hà Nội. Năm 1965, tôi đi học khóa “Tác Chiến Trong Rừng” ở Mã Lai, Singapore. Việt Nam lúc bấy giờ đang khói lửa mịt mùng, nhưng tôi thấy vẫn còn “văn minh” hơn năm nước Đông Nam Á. Bây giờ, các nước đó đã là “Ngũ Long Thái Bình Dương”. Cộng sản chiếm trọn lãnh thổ hình chữ “S” đã một phần ba thế kỷ qua, không còn chiến tranh, lại được “Việt Kiều Phản Động” hằng năm giúp nhiều tỉ đô-la. Vậy mà bọn cầm quyền Cộng sản đã đưa Việt Nam, cũng vào thứ hạng số 5 trên thế giới : nhưng là thứ năm, đếm từ dưới lên trên ! Tiếng nói của Hải ngoại rất cần thiết. Quý Vị nào có sức, có trí, có “gu”, muốn phân tách, muốn sửa sai, muốn dạy dỗ, thì Hà Nội mới là hướng để quý vị trổ tài. Xin hãy thôi đè Miền Nam Việt Nam ra mà xỉa xói, mà kiêu binh cái lổ mồm ! Thê thảm thay, chỉ vì một lý do : dối gạt luôn chính lòng mình. Tôi không dám nói là, dối gạt chính lương tâm mình ! Vì chỉ có trời, họa chăng mới biết, các ông có lương tâm hay không ! Tội nghiệp cho Miền Nam Việt Nam, đã bao năm tháng cưu mang, nâng niu, đãi ngộ các ông, kaki cũng như dân chính ! Hít thở không khí tự do của Miền Nam, Trịnh Công Sơn đã dệt lên được những tình khúc bất hủ. Ngày Miền Nam sụp đổ, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh, phừng phừng Guitar hát bài “Nối Vòng Tay Lớn”. Rồi lặn ngụp trong vòng tay lớn của Xã hội Chủ nghĩa một thời gian, Trịnh Công Sơn đã mửa ra một ca khúc, chưa bao giờ nghe thấy trong Âm nhạc nhân gian : “Tiến Thối Lưỡng Nan” ! Sau cùng, trên đỉnh cao trí tuệ của thời trang mạt sát Miền Nam Việt Nam, là các … Chiến lược gia. Thôi thì, Xuân Thu nhị kỳ, luận đủ thứ chuyện chiến lược Thiên trời địa đất. Cũng chỉ cùng một kiểu : mạt sát hết mọi sự của Miền Nam Việt Nam. Để mình cố nhón cao lên. Vì biết chắc rằng mình không đủ cao. Để tỏ ra mình là người thức giả. Vì biết mình đang tơ lơ mơ, không thức thật. Càng phải trực diện với việc áo cơm thân phận hằng ngày, nổi nuối tiếc mất mác thời vàng son, càng điên cuồng gào thét, dằn vặt, gậm nhắm. Khổ một điều, không biết đọc địa bàn, nên không phân biệt nổi hướng Đông với hướng Tây, để mà bắn cái hỉ-nộ ái-ố vô duyên đó đi. Và cứ nhằm mọi thứ của Miền Nam Việt Nam mà phạng … Đại Sứ Graham Martin, không như vậy. Ông đâu có muốn sự nghiệp Ngoại giao trọn đời của ông, kết thúc cái kiểu này. Giờ phút cuối của Miền Nam Việt Nam, ông cũng chỉ kịp cuốn lấy lá cờ hoa. Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ (MACV) tại Saigon, thì đã nhanh chân “Rút lui trong danh dự” ra soái hạm của Đệ Thất Hạm Đội từ năm trước ! Cho nên, xin lỗi Quý Vị, ông Đại Sứ cũng chạy sút quần, ra tàu USS Blue Ridge ngoài biển Đông, bước đến boong tàu ngồi thở. Được cái là, ông Đại Sứ biết đọc địa bàn. Ông biết rõ phương, để mà ngậm ngùi. Ông biết rõ hướng, để mà trách móc. Thở xong, ông chỉ vào lá cờ hoa, mà mắng cho mấy mắng : “That’ s not the way I saw American Honor” ! Trích từ báo Con Ong Việt số tháng 5.2007 Trung Tá Lê minh Ngọc – Thiếu Tá Nguyễn đức Tâm Tháng tư 2007. Lê minh Ngọc Tháng 4/2007.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 1, 2018 9:08:04 GMT 9
Tạp ghi sau 40 năm (Kỳ 9) 10 ngày cuối cùng của VNCH
10 ngày cuối cùng của VNCH Thứ Sáu 25-04-1975
Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn phòng của hãng hàng không Air America, người lái xe trước tắt đèn, Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội vã tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bỗng Frank Snepp chợt nhìn thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước, tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích gì. Polgar mở cửa xe và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lời cám ơn rồi bước vội đến phi cơ.
Đại tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại sứ Graham Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc phi cơ vận tải C118 bốn động cơ của không lực Hoa Kỳ, ông đại sứ cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn lên phi cơ rồi sau đó phi cơ cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất bay đi Đài Bắc. (...)
Bên lề trận chiến Một thời gian sau đó, bà Anna Chennault tuân hành lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford từ Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc để gặp tổng thống Thiệu và đại tướng Khiêm. Bà Anna Chennault là vợ của vị tướng anh hùng thời Đệ nhị thế chiến, Trung tướng Claire Lee Chennault, tư lệnh Không đoàn 14 của không lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa.
Bà Anna Chennault sau nầy là một nhân vật quan trọng trong bộ tham mưu tranh cử của ông Richard Nixon, bà là người trung gian trong sự liên hệ mật thiết giữa tổng thống Nixon và tổng thống Thiệu trong thời gian đó.
Nhiệm vụ trong chuyến đi này của bà Anna Chennault là chuyển lời tổng thống Hoa Kỳ yêu cầu
cựu tổng thốngThiệu và cựu thủ tướng Khiêm đừng vào nước Mỹ.
(Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn - Nguyễn Tấn Phận)
- :Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu từ Anh sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, và mất tại Boston.
1 Góp nhặt...ghi chép...
Sau khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, vai trò của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được đem ra phê phán. Vài ý kiến cho rằng vì ông quá tin vào người Mỹ nên miền Nam rơi vào tay cộng sản. Về vai trò lãnh đạo, một số ý kiến nói tại ông nắm giữ hết quyền hành, chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Ðộc Lập, nên gây ra nhiều sự bất mãn cho các cấp tướng lãnh.
Tổng thống Thiệu có quá tin người Mỹ không?
Căn cứ vào những hồ sơ được giãi mật, ông chẳng những không tin người Mỹ, trái lại lúc nào ông cũng nghi ngờ và lo sợ về đường lối của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Ông đã có thái độ e dè, nếu không nói là bất thiện cảm với người Mỹ. Trong một báo cáo về cá nhân tổng thống Thiệu do Nha tình báo quốc phòng (Defense Intelligence Agency/ DIA) viết vào tháng 7-1968, họ nhận xét ông là người chống cộng (anti-communist) nhưng đồng thời cũng "chống Mỹ."
So với những những tài liệu phân tích về tâm tính tổng thống Thiệu mà người viết đã đọc qua, có thể nói Hoa Kỳ không hiểu nhiều về ông Thiệu: Phần lớn họ chỉ đoán hay dựa vào những bạn đồng ngũ trong quá khứ. Báo cáo đến từ CIA, DIA, và tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, xử dụng nhiều tỉnh từ như khôn vặt, cáo già, mưu mô, cunning, intelligent, shrew, efficient...để tả cá tính ông. Nhưng sau cùng, họ kết luận họ không đoán được suy nghĩ và hành động của ông.
Trong một vài lần mặt đối mặt với nhiều thẩm quyền Hoa Kỳ, ông bỏ đi cá tính thông thường của ông là sự dè dặt khi được hỏi ý kiến, và nghe nhiều hơn nói. Qua những lần như vậy, giới hữu trách Mỹ thấy ông Thiệu biết nhiều chuyện họ làm nhưng ông làm như không biết. Dựa vào những tài liệu đã trích, chúng ta thấy ông không hoàn toàn tin vào người Mỹ và ông chỉ dựa vào người Mỹ để đạt được những mục đích ông muốn.
(Về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: - Jay Veith một chuyên viên về sử liệu chiến tranh Việt Nam đã cung cấp tài liệu giải mật mới nhất về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mà "cáo già," "khôn vặt" là từ nguyên thủy dùng trong báo cáo tháng 8-1971.
Góp nhặt...ghi chép... (..trích lục lại)
Ngày 29 là ngày có nhiều góp nhặt...để ghi chép...như ngày 29-9-2001, ông Thiệu nằm xuống. Ngày 29-3-1975, ngoài Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm tử trận, còn chuyện Đà Nẵng di tản với tướng Trưởng, tướng Khánh, tướng Thoại, tướng Lân, và tướng Hình...
2 Góp nhặt...ghi chép...
Sau khi ông Thiệu trở thành tổng thống, người Mỹ dồn mọi liên lạc để tìm hiểu thêm về ông. Nhưng tài liệu của CIA tự thú là họ thất bại. CIA không còn cách nào khác hơn là phải xử dụng phương tiện nghe lén. Trong tài liệu giãi mật mới nhất, CIA thú nhận đã dùng phương tiện nghe lén để tiên đoán về ý định của ông. Không gây ảnh hưởng được thẳng với ông, họ gây ảnh hưởng với hai cộng sự viên tin cẩn nhất của ông: Trung tướng Ðặng Văn Quang và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm. CIA cho biết, đôi khi thẩm quyền Mỹ không thuyết phục được ông, nhưng khi họ dùng ông Khiêm và tướng Quang "chuyển lời" thuyết phục, thì ông lại nghe theo.
Ông biết CIA thâu âm, nghe lén bên trong dinh Ðộc Lập và một số nhân viên chung quanh ông làm việc cho CIA. Nhưng ông làm như không biết và lợi dụng những phương tiện đó để "chuyển lời" lại với Mỹ ý nghĩ thật của ông và đôi khi ý nghĩ giả dối để đánh lừa người Mỹ. CIA đi đến kết luận vì qua nhiều trường hợp, ông đã nói thẳng với thẩm quyền Mỹ những gì ông biết về hoạt động sau lưng của họ. Trong hai tháng cuối cùng năm 1972, ông nói thẳng vào mặt Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger, là: "Tại sao tôi phải tin ông?" Và: "Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi".
(Về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: - Trưởng sở CIA Thomas Pogar nói lên sự vô lý về hành vi của Hoa Kỳ (ít ra là qua hành vi của Kissinger) trong cuộc thương nghị: Trong khi Hà Nội thông báo cho nhân sự ở hạ tầng cơ sở thấp nhất biết mọi chi tiết và diễn biến của cuộc thương lượng. Trong khi phía Hoa Kỳ thì chỉ có một số tối thiểu thẩm quyền tối cao mới biết được diễn tiến của cuộc thương lượng.
Góp nhặt sỏi đá
Tướng Kỳ cho đáp trực thăng xuống Bộ tổng tham mưu, không thấy tướng lãnh nào ngoài tướng Trưởng đang...trầm ngâm nhìn bản đồ và...hút thuốc lá. Tướng Trưởng nhờ tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau buổi trưa ngày 29-4.
Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
- Nhờ tướng Kỳ nhà tôi mới đi được. (Nguyễn Tường Tâm)
3 Góp nhặt...ghi chép...
Liên hệ với các tướng lĩnh VNCH
Một số tác giả Mỹ và Việt dùng tỉnh từ "khôn vặt" cho tổng thống Thiệu. Khảo sát cuộc đời ông, người viết không nghĩ ông chỉ khôn vặt. Sự khôn ngoan của ông cao hơn khôn vặt nhiều. Tổng thống Thiệu phải là một người khôn hơn "khôn vặt" khi ông loại trừ những đối thủ chính trị và quân sự, để nắm quyền lãnh đạo. Nhìn qua sự nghiệp chính trị của ông, chúng ta thấy ông có những đức tín cần thiết để "biết" mà sống.
Không nhiều thì ít, chắc chắn tướng Thiệu phải có ý kiến về số tướng lãnh bị ông cho lưu đày hay bị giải ngũ và tất cả các vị tướng đó đều thâm niên hơn ông về cấp bậc (lên cấp tướng trước, sau). Nguyễn Hữu Có, thâm niên cấp bậc cùng ngày với ông Thiệu, trong một chuyến công du ở Ðài Loan năm 1967, bị bỏ lại và sau đó cấm trở về nước. Ðể củng cố thế lực, năm 1968, ông triệu hồi tướng Trần Thiện Khiêm về nước, bổ nhiệm làm tổng trưởng nội vụ, rồi thủ tướng. Cùng năm, ông đưa tướng Ðỗ Cao Trí về làm tư lệnh Vùng III. Tháng 7-1970 ông ban hành một sắc lệnh, thay đổi cơ cấu quân sự trong tương quan giữa bộ Tổng tham mưu và Quân đoàn/Quân khu. Nói một cách khác, đến cuối năm 1970, các tướng lãnh đã "vào hàng" theo lệnh tổng thống Thiệu.
Để đề phòng những biến động có thể xảy ra, ông tập trung quyền lực trong tay. Sự lo sợ đảo chính khiến ông giữ lại một số tướng lãnh lẽ ra ông phải cho họ giải ngũ từ lâu. Cũng vì sợ đảo chính, ông có những liên hệ với một số tướng lãnh không có khả năng chung quanh ông. Ông bất cấn hệ thống quân giai và chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Ðộc Lập. Thay vì chỉ cần "đề nghị" với tổng tham mưu trưởng, hay tư lệnh vùng theo đúng tinh thần của hệ thống quân giai, ông Thiệu đích thân ra quân lệnh từ phủ tổng thống.
(Về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: - Các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân đoàn, Quân khu, cùng với các tư lệnh binh chủng như không quân và hải quân được diễn ra trong dinh Độc Lập, thay vì ở bộ Tổng tham mưu như thường lệ. Từ đó tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng cho các nơi. (Giao Chỉ)
: - Vai trò của bộ Tổng tham mưu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến chỉ là một hộp thư liên lạc giữa tổng thống Thiệu và các tư lệnh quân đoàn.
(Những ngày cuối của VNCH, nguyên tác "The Final Collapse"
của cựu Đại tướng Cao Văn Viên – Dịch giả: Nguyễn Kỳ Phong)
Tháng Ba buồn ... hiu!
(...tiếp ở bãi biển dưới chân núi Sơn Trà)
Mặt trời khuất bóng về hướng tây, cái váng vàng úa của buổi chiều tàn phản chiếu lại lên bầu trời một mầu ảm đạm thê lương! Hay tại tôi "lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ"!
Màn đêm bắt đầu bao phủ cũng là lúc tư lệnh TQLC đến rồi lần lượt các vị tư lệnh quân binh chủng khác đáp trực thăng về đây mở cuộc họp ngay tại TOC/HQ (Trung tâm hành quân hải quân). Ngồi ở cửa hầm TOC với Tr/úy Tạ Hạnh, chúng tôi nhận diện được quý tướng lãnh vào họp trong TOC là Trung tướng tư lệnh QĐ1 Ngô Quang Trưởng, Trung tướng tư lệnh tiền phương QĐ1 Lâm Quang Thi, Thiếu tướng tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh tư lệnh SĐ3 BB, tướng tư lệnh.HQ Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi không biết rõ cấp bậc hải quân nên cứ gọi là...ông tướng cho chắc ăn
Cũng cần nói thêm là trong các vị tướng tư lệnh đến họp, tôi không thấy 2 vị tư lệnh "không quân", (nói lại cho rõ là tôi không thấy chứ chưa hẳn là nhị vị này vắng mặt), Đó là tướng "không quân" tư lệnh SĐ1 BB (1), đại đơn vị của ông đã bị cái "cầu phao" lừa, còn tướng Khánh, tư lệnh không quân Vùng 1 chả nhẽ cũng..."không quân" nên không cần đến dự? Có cũng như không chăng? Vì mấy ngày này chẳng thấy phản lực bỏ bom đâu cả mà bỏ đi đâu! Chằng thấy chuồn chuồn chuyển quân, tiếp tế, tải thương đâu cả! Chẳng lẽ "mắng mí phí táy, thiểm zường tú lọoc tài zi?", có nghĩa là chuồn chuồn bay mất thì mưa ngập bờ ao!
Trong khi các vị tướng lãnh đang họp trong TOC thì bộ đội nón cối bắt đầu pháo kích vào BTL/HQ, cường độ tăng dần, lúc đầu có những trái rớt ngoài vòng đai nhưng rồi tiền sát viên của chúng nằm gần đâu đây để điều chỉnh dần vào mục tiêu, nhiều trái nổ gần chỗ chúng tôi. Tài xế Ngọc báo cho biết xe jeep của tư lệnh bị pháo không còn sử dụng được nữa. Cuộc họp chấm dứt, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi ra trực thăng trước, thiếu tướng tư lệnh TQLC ngoắc tôi và bảo mang máy theo trung tướng TL/QĐ1. A-lê-hấp, tôi quảy máy PRC25 lên lưng và tức tốc chạy theo, ra đến nơi trực thăng đậu, còn đang chờ một vị thiếu tá lên trước rồi tôi mới lên. Ngồi trên trực thăng ngó xuống, thấy tôi trung tướng hỏi:
– Chú đi đâu đây? – Thưa trung tướng, thiếu tướng tư lệnh tôi bảo tôi mang máy theo trung tướng. Suy nghĩ trong giây lát rồi ông tướng khoác tay bảo: – Thôi, không cần, chú trở lại với tư lệnh đi, cho tôi gửi lời cám ơn ông.
Rồi tất cả mọi người trong phòng họp lần lượt bước ra và rời BTL/HQ, lúc đó vào khoảng gần 10 giờ đêm, bộ đội nón cối vẫn còn pháo lai rai vào sân cờ. Thiếu tướng tư lệnh bước tới chỗ tôi và Tr/úy Hạnh, gương mặt tư lệnh đăm chiêu, suy nghĩ, Tr/úy Hạnh vội trình với tư lệnh: – Thưa thiếu tướng, mình phải bám theo tư lệnh HQ thôi, vì tất cả phương tiện không còn nữa, xe trúng pháo hư rồi, trực thăng cũng hư... Tư lệnh suy nghĩ đôi phút rồi gật đầu, Tr/úy Hạnh quay sang tôi: – Tiểu Cần, chạy sang gọi tất cả anh em lên đường.
Đi vòng dưới chân núi Sơn Trà chừng 2 tiếng thì chúng tôi ngồi nghỉ, tư lệnh HQ làm tín hiệu bằng đèn pin cho tàu vào rước, có lẽ đến hơn 30 phút sau mà cá lớn cá nhỏ vẫn lặn mất tiêu, không có tàu nào vào đón cả nên tư lệnh HQ Hồ Văn Kỳ Thoại nhờ tôi liên lạc bằng hệ thống TT. Trời đất! Một giới chức đứng đầu Vùng 1 duyên hải mà không có một ATV hay hệ thống LL/TT đi theo? Cũng may là trưa nay, trong lúc rỗi rảnh chờ lệnh mới, và qua nhiều năm tháng trong nghề đã dạy cho tôi những kinh nghiệm và lanh lợi nên tôi đã xin được tần số nội bộ của HQ nên bây giờ tôi vô tình lại kiêm nhiệm thêm vai trò một ATV của tư lệnh HQ nữa, một ATV, hai tư lệnh! Chuyện hi hữu như các tướng lãnh họp hành quân mà không có (2) tướng KQ, như tư lệnh HQ mà phải hành quân bộ trong đêm bên bờ biển!
Sau khi liên lạc được với HQ, họ gửi vào 2 tàu chiến, không phải để chở quân, hình như là giang tốc đỉnh. Vì có nhiều đá ngầm và sóng biển nên tàu chỉ đậu cách xa bờ chừng 10 m nên chúng tôi phải bơi ra. Muốn giữ cho máy PRC25 khỏi ướt, tôi phải đội máy lên đầu, vì vậy chuyện bơi ra tàu khá vất vả và mệt nhọc, và tư lệnh cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng an vị trên boong tàu. Thiếu tướng tư lệnh, Tr/úy Hạnh và tôi ngồi trên boong, cuối đuôi tàu, bộ quân phục ướt sũng, gió thổi mạnh, hơi nước biển, sương đêm phủ trùm càng làm tăng thêm cái lạnh suốt một đêm dài, ba thầy trò bó gối nhìn nhau. Người ta thường nói "bụng đói cật rét" nhưng chúng tôi bụng đói thì có, nhưng không phải cật rét, rét bên ngoài mà là rét từ trong, tự đáy lòng. Hai hàm răng lập cập vào nhau, cố mím môi cắn lợi để kềm lại mà không được, vậy mà tư lệnh luôn nhắc tôi phải cố giữ liên lạc với hải quân, với HQ 802, tư lệnh nói:
– Chú cố gắng giữ liên lạc với HQ 802, không có tôi họ không vào bốc anh em mình đâu.
Nhắc lại điều này chắc hẳn một số bạn lính biển không vui, nhưng sự thật nó là vậy mà. Điển hình là khi phó đề đốc TL/HQ phải nói rõ tên thì "tàu trưởng" mới tin và cho tàu vào đón. Điển hình là sau khi họp xong, tại sao phó đề đốc không đi ra hướng cầu tầu ngay trong BTL/HQ mà lại phải đi bộ, mò mẫm trong đêm dưới chân núi Sơn Trà? Vì cầu thì có mà tàu thì không!
Theo lời yêu cầu của TL/TQLC, chiếc tàu chở tư lệnh và anh em chúng tôi cứ ngược xuôi ngoài khơi trước cửa bãi biển Non Nước. Mãi tới 8 giờ sáng ngày 29-3-75, sau khi được biết đã có 2 tàu vào đón TQLC tại bãi biển Non Nước thì giang tốc đỉnh mới chuyển chúng tôi sang tàu lớn HQ 802, đậu ở ngoài khơi để đón các TQLC chuyển đến. Tới xế chiều không còn thấy tàu thuyền nào từ trong bờ chuyển quân ra nữa thì HQ 802 nhổ neo, trực chỉ hướng nam, nối đuôi nhau vượt trùng dương! Vĩnh biệt vùng đất địa đầu giới tuyến! Vĩnh biệt anh em LĐ147/TQLC nằm lại hay bị bắt trên bãi cát Thuận An!
Để chấm dứt ở đây những gì tôi chứng kiến, tôi xin được mượn lời của Đại tướng Cao Văn Viên khi được báo chí phỏng vấn: – Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, 100 chứng nhân có 100 sự thật (hoặc sai sự thật). Định kiến làm cho lịch sử sai lệch.
Vì thế tôi đã hết sức cố gắng loại bớt những chi tiết không cần thiết để tránh suy diễn bàn cãi mất thì giờ, nhưng cũng sẽ không thể tránh được một số sự kiện khác với cái nhìn của người khác. Nhưng cái chính xác không thể phản bác được mà ai cũng phải công nhận là SĐ1/BB đã bị tan hàng bất dắc dĩ một cách đau khổ. LĐ147 TQLC với hơn 3.000 quân đã bị lùa vào bước đường cùng, đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Và cuộc lui binh này nếu dựa theo trục chính là QL1 thì hẳn sẽ tránh được những thảm họa và không có thảm họa tiếp theo ở Đà Nẵng.
Tiểu Cần tôi ước mong được đọc những sự thật về "Hell on Thuận An Beach" của Lâm tướng quân (3) trước khi (tôi) nhắm mắt...! (MX Tiểu Cần)
MX Tiểu Cần tên thật: Nguyễn Thế Thủy. Tác giả là hạ sĩ quan truyền tin cho Thiếu tướng tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân. (...trích lục lại)
(1) Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm bay đi Quảng Ngãi, một ngày sau đó tử nạn máy bay.
(2)Chuẩn tướng tư lệnh Sư đoàn 1 KQ Nguyễn Đức Khánh, vì trực thăng hết xăng phải đáp xuống bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu HQ 404 cùng trung tướng Trưởng về Sài Gòn.
(3) Trung tướng tư lệnh tiền phương QĐ1 Lâm Quang Thi.
Góp nhặt sỏi đá
Tướng Kỳ cho đáp trực thăng xuống Bộ tổng tham mưu, không thấy tướng lãnh nào ngoài tướng Trưởng đang...trầm ngâm nhìn bản đồ và...hút thuốc lá. Tướng Trưởng nhờ tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau buổi trưa ngày 29-4.
Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
- Nhờ tướng Kỳ nhà tôi mới đi được.
(Nguyễn Tường Tâm)
Quân sử ngoại truyện
26-4-1975, Quân đoàn 2 có mặt trước cửa ngõ Sài Gòn ở một địa danh có tên là Rừng Lá.
5 giờ chiều 26-4, quân đoàn xin được nổ súng (sớm 1 ngày so với toàn mặt trận) trên hướng đông-nam của Sài Gòn. Từ các hướng F304 đánh Nước Trong, Long Bình, Thủ Đức... F325 tiến công Long Thành, Nhân Trạch... F3 nổ súng ở Bà Rịa, Vũng Tàu.
Vị tướng già tóc bạc hơi nghiêm nét mặt nói:
"Hiện nay có ý kiến sai trái cho rằng lúc này địch đã như trái sung chín rụng, không cần đánh cũng phải đầu hàng. Hoàn toàn sai. Sáng 30-4, chúng còn cố thủ quyết liệt tại cầu Sài Gònvà bắn cháy của chúng tôi 2 chiếc xe tăng... Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đến phút chót".
(Hồi ký "Đời chiến đấu" – Nguyễn Công Trang)
- : Ký hiệu phân cấp của quân đội Bắc Việt:
A: tiểu đội. B: trung đội. C: đại đội.
D: tiểu đoàn. E: trung đoàn. F: sư đoàn.
Góp nhặt...ghi chép...
Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân đoàn 3 từ Pleiku bôn tập xuống phối hợp với 2 trung đoàn của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 từ Đà Nẵng kéo xuống dọc ven biển và hợp lực đánh Phan Rang. Xong, hợp quân này theo Quốc lộ 1 xuyên qua Phan Thiết qua ngả Bình Tuy ngang Xuyên Mộc để đánh Biên Hòa và Sài Gòn. Vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ phải đi đường vòng về hướng đông của Sài Gòn bọc qua Vũng Tàu và Bà Rịa.
Ngày thứ 48 : 26-4-1975
Bà Rịa
Ngày 26-4, khoảng 6 giờ Bắc quân pháo kích kéo dài 3 tiếng vào thị xã Bà Rịa, bộ chỉ huy tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng, Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp.
Khoảng 10 giờ đêm, Bắc quân (1) tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp phối hợp đánh vào trung tâm tiếp vận tiểu khu và tư dinh tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc
theo xa lộ mới ở phía nam thị xã Bà Rịa.
Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, điều động 1 tiểu đoàn dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Băc quân ra khỏi
trung tâm thị xã. Tiểu đoàn dù đã bắn cháy 5 chiến xa Bắc quân ngay trong đêm 26-4.
- :Tại Bà Rịa, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3/BB từ Quảng Ngải vào đụng trận với Sư đoàn 3 Sao Vàng (1)thuộc Quân đoàn 2 của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo. Trung đoàn 141 của sư đoàn này và Đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa chiều ngày 27-4-1975.
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ Bảy 26-04-1975
Ngày 22-4-1975, Bộ chính trị của đảng cộng sản đã quyết định chấp thuận kế hoạch cuối cùng của cuộc tổng tấn công, và ngày 14-4-1975, "Chiến dịch 275" được chính thức cải danh là "Chiến dịch Hồ Chí Minh", tức là chiến dịch đánh chiếm thủ đô Sài Gòn.
Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đặt ở Lộc Ninh soạn thảo kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn: Khởi sự tấn công vào ngày 27-4.
Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu sau đó đã soạn thảo kế hoạch (1) hành quân chớp nhoáng sử dụng các đơn vị chiến xa và cơ giới tiến chiếm 5 mục tiêu trong thành phố Sài Gòn:
Dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia và phi trường Tân Sơn Nhất.
Tướng Văn Tiến Dũng trình kế hoạch hành quân này cho 2 uỷ viên Bộ chính trị là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, nhân vật số 2 và số 4 trong bộ chính trị của đảng cộng sản. Cả hai nhân vật này chấp thuận kế hoạch và ra lệnh các cuộc tấn công vào vùng ven biên sẽ khởi sự vào ngày 27-4 và giai đoạn cuối cùng tấn công vào Sài Gòn sẽ khởi sự vào ngày 29-4-1975. Trong các kế hoạch của Bắc Việt cũng như chỉ thị của Bộ chính trị, không hề có một điều nào, một câu nào nói đến việc"có thể thương thuyết với chính quyền mới của Dương Văn Minh (2)".
(Trần Đông Phong)
(1) Kế hoạch hành quân trên đã có từ trước ở Hà Nội do tướng Võ Nguyên Giáp soạn thảo. Xem Thâm u bí sử ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.
(2) Cựu Đại tướng Cao Văn Viên sau này cho biết: Tồng Thống Dương Văn Minh thú nhận ông bị Cộng sản lừa. Ông khuyên những cố vấn thân cận và con rể là Đại tá Nguyễn Hồng Đài nên rời Việt Nam. (*** Cao Văn Viên, trang 225). - :Sau này ông Dương Văn Minh cũng qua Mỹ, ông sống chung với vợ chồng con rể Nguyễn Hồng Đài ở miên nam California và mất tại Rose Hill.
Góp nhặt...ghi chép...
Ngày 26-4, Bắc quân bao vây Sài Gòn bằng 5 cánh quân do 4 quân đoàn và Đoàn 232.
Đoàn 232 quân số tương đương với một quân đoàn gồm: 3 sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng 16 sư đoàn. Ngoài ra Bắc quân còn có vào khoảng 15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn, toàn bộ chủ lực quân chính qui của Bắc quân vào khoảng 20 hoặc 21 sư đoàn bộ binh với trên 100 nghìn người chưa kể 20 trung đoàn pháo binh, thiết giáp và phòng không, v...v...
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ Bảy 26-04-1975
Sáng ngày 26-4-1975, Văn Tiến Dũng cùng đoàn tùy tùng của ông rời Lộc Ninh di chuyển bằng quân xa về Bến Cát khoảng gần 50 cây số ở phía tây-bắc Sài Gòn, tại đó ông ta thảo luận với tướng MTGPMN Trần Văn Trà về những chuẩn bị cuối cùng cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Cấp chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, hai ủy viên Bộ chính trị không đi theo bộ tư lệnh tiền phương của Văn Tiến Dũng mà ở lại Lộc Ninh để phối hợp mọi hoạt động cả chính trị lẫn quân sự trong giai đoạn cuối của chiến dịch.
Tại trại Davis trong phi trường Tân Sơn Nhất, tối 25-4, phái đoàn MTGPMN trong Ủy ban liên hợp bốn bên đã nhận được mật điện của Văn Tiến Dũng cho biết quân đội Bắc Việt sẽ khởi sự tấn công Sài Gòn, do đó Đại tá MTGPMN Võ Đông Giang đã ra lệnh cho tất cả các nhân viên trong phái đoàn Việt cộng phải đào hầm để tránh pháo kích. Bức mật điện của Văn Tiến Dũng kết thúc bằng câu "chúc các đồng chí may mắn. Hẹn gặp các đồng chí tại Sài Gòn".
Đúng 5 giờ chiều ngày 26-4, được lệnh của Lê Đức Thọ (1) qua Văn Tiến Dũng (1), tướng Bắc Việt Lê Trọng Tấn ra lệnh cho 6 sư đoàn dưới quyền chỉ huy của ông ta tấn công vào quận Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hoà cùng các vùng nằm về phía đông Sài Gòn.
(...)
Xuân Lộc tháng Tư (...tiếp tục với TĐ82 BĐQ từ Long Khánh về Bà Rịa)
Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng tư lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy, cánh quân của TĐ82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ chuẩn tướng tư lệnh trên đường di chuyển.
Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay bay đi. Không rõ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với những pháo thủ dù, họ quay sang tiến về phía TĐ82 BĐQ. Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, tướng Toàn đi một vòng, bắt tay từng người lính trong hàng. Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,
- Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát căn cứ Mây Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào.
Trưa hôm đó tôi vào gặp chuẩn tướng Đảo trong hội đồng xã Bình Ba, ông cho biết Lữ đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình Ba. Tôi mượn xe và tài xế của chuẩn tướng Đảo để ra Bà Rịa, vào trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì cả.
Khi tôi về lại hội đồng xã Bình Ba thì đại tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngã ba Xà Bang, Đại tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) tỉnh trưởng Long Khánh bị địch bắt ở địa điểm này.
Ngày hôm đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Đó là ngày 21-4-1975.
(Vương Mộng Long)
Góp nhặt sỏi đá
Chuẩn tướng Lê Minh Đảo được giao nhiệm vụ trấn giữ Xuân Lộc, với hy vọng có thể chặn được đà tiến quân như vũ bão của quân đội Bắc Việt. Ở Xuân Lộc, tướng Đảo có 12.000 quân chọi lại 40.000 quân của tướng Hoàng Cầm. Cũng may cho tướng Đảo, tướng Hoàng Cầm của Hà Nội là một vị tướng xoàng, nên ông Đảo có thể đối phó không khó lắm.
Dựa theo nhận xét của Hà Nội về tướng Hoàng Cầm:
(...) Nếu Hà Nội cứ tiếp tục để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của ta bị cầm chân ở Xuân Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay đổi lớn. (...) - (...trích lục lại: Chiến tranh Việt Nam toàn tập).
Lạc đạn
Nhưng "bếp Hoàng Cầm" thì không...xòang! Năm 1951-1952 khi trận Điện Biên Phủ đang tiếp diễn, có anh "bộ đội" ở Sư đoàn 308 sáng tạo ra bếp không có khói. Chuyện là bộ đội phải đào hầm trú ẩn, công sự chiến đấu, trong hầm phải nấu nướng nếu có khói thì lộ mục tiêu. Vì vậy trên bếp, anh bộ đội phủ cành cây trải một lớp đất mỏng rồi tưới nước để giảm độ khói của bếp nấu nướng. Khói len lỏi qua các rãnh cây ẩm ướt chỉ là một dải nước tan nhanh khi rời mặt đất. Vì bộ đội là "anh nuôi" tên Hoàng Cầm nên được gọi là...bếp Hoàng Cầm.
Còn "anh nuôi Hoàng Cầm" 1951-1952 có phải là tướng Hòang Cầm 1975 chăng thì không thấy....quân sử ngoại truyện nói tới?! Nhưng chỉ biết rằng với chuyện bếp núc, "bộ đội" học theo Hồng quân Trung Hoa thì tiểu táo: 1 hay 2 người ăn và đại táo: ăn tập thể.
Xuân Lộc tháng Tư
Tháng 3-1979 tôi được đưa từ trại cải tạo Phú Sơn 4, Thái Nguyên về trại Nam Hà A, Phủ Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên tay. Khi chúng tôi nhập trại, anh em tù cải tạo chào đón những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng.
Hôm sau có người nhắn với tôi rằng chủ nhật tới Thiếu tướng Lê Minh Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở buồng số 1. Trưa chủ nhật đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng tướng Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 KQ, và đại tá Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh.
Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất vui khi bắt tay tư lệnh. (...)
Tàn cuộc binh đao
Đa số các tướng lãnh VNCH bị giam giữ ở trại Hà Tây (Hà Nội-Sơn Tây), cách Hà Nội 25 km về phía tây, Sau các tướng Nguyễn Hữu Có, Lê Minh Đảo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Nam Định-Hà Nam) nằm về phía tây Phủ Lý 30 km.
&&&
30 tháng 4! Ký ức của một người chưa cầm súng
Từ ngày mấy ngày nay, lính nhảy dù đã có mặt nhiều trên các tuyến đường vùng Hố Nai, Biên Hòa. Vùng đất mấy tháng trước chỉ có mặt các đơn vị biệt động quân và Sư đoàn 18. Hai ngôi làng quê tôi vốn là hai giáo xứ Công giáo. Giáo xứ Lộ Ðức, qui tụ đa số là dân công giáo di cư gốc gác từ tỉnh Hòa Bình, Bắc Phần. Giáo xứ Ðông Hải, tên làng từ thủa xa xưa còn giữ lại vốn là một ngôi làng từ tình Bắc Ninh, Kiến An, Hải Phòng và Kẻ Sặt, Hải Dương.
Chiến cuộc đã ập đến sát với chúng tôi. Ngoài Quốc lộ 1, đoạn cây số 9 tính từ thị xã Biên Hòa ra hướng bắc, từ chiến khu D đã có đạn pháo cối ùng ục dội vào phi trường Biên Hòa, đường đạn bay qua làng tôi những buổi mờ sáng khét lẹt. Loại đạn cối này cho chúng tôi hiểu là thế thượng phong của lính chính qui miền Bắc đã hiện lên rõ rệt. Vì thông thường từ mấy năm nay, pháo kích từ chiến khu D rót vào phi trường Biên Hòa bằng hỏa tiễn, loại pháo giàn, phóng hàng loạt vài chục quả hỏa tiễn trong chỉ phút đồng hồ. Sau đó là trực thăng từ phi trường Biên Hòa lên quần thảo nhưng đương nhiên là không còn dấu tích gì nơi vách rừng chiến khu D, cách làng tôi chừng 4, 5 km. Nghe tiếng pháo cối dội vào làng, nhìn hàng đoàn lính rằn ri màu xanh đóng các chốt quanh làng, Thầy tôi nói với cả nhà:
– Thu gom gọn nhẹ những thứ cần thiết để chạy loạn.
U tôi hỏi lại.
– Giờ chạy đi đâu bây giờ? Ðây chỉ cách Sài Gòn có hai giờ xe máy. Sau Sài Gòn là bể rồi, đi làm sao được?
– Cứ thu xếp để đi. Ðến đâu biết đến đấy. Ra bể cũng đi ...
Thầy tôi vừa nói vừa lẩm nhẩm đọc kinh. Tôi dáo dác nhìn mẹ. U tôi lật đật thu gom mớ quần áo. Bà lọng cọng nhấc cái này bỏ cái kia, cuối cùng cũng xong ba cái bao vải lính của quân đội Pháp mà thầy tôi còn giữ lại từ 1954.
Có tin lính chính quy Bắc Việt làm chủ tính từ bên này sông Sài Gòn, tức cầu Sài Gòn sẽ là điểm phân ranh. Thầy tôi bảo chị tôi thuê một xe tải để chở hết thóc gạo chạy loạn. Thuê xe tải lúc này là điều vạn nan nhưng chị tôi có quen biết một gia đình có xe tải và cũng cần chạy loạn vào Sài Gòn nên ý định của thầy tôi đã được thực hiện ngay. Chiều 27, các dàn pháo hỏa tiễn và pháo cối của lính chính qui Bắc Việt nã đạn vào phi trường Biên Hòa cực kỳ ác liệt. Làng tôi mịt mù khói pháo của hai phía bắn qua bắn lại. Trực thăng đã có vẻ rất e dè, bay thường là hai ba chiếc cặp kè nhưng không còn chúi sát xuống rừng nữa. Mẹ tôi cùng xe thóc lúa đã ra ngoài quốc lộ, đậu gần nhà thờ Kẻ Sặt đoạn cây số 7 Quốc lộ 1. Hàng xóm đã di tản hết. Thầy tôi quyết định ở lại cố thủ sau khi linh mục Nhật đi một vòng làng tới nhà tôi.
– Ði đâu bây giờ! Phải giữ làng chứ. Còn đi đâu được nữa mà đi.
– Thế thì con cũng ở lại.
– Ừ, cha cũng ở lại đây. Ðào xong "tăng-xê" rồi.
Thế là thầy tôi quyết định không đi. Tôi vơ nhanh cái xẻng chạy ra hiên nhà đào cái hố cá nhân hình chữ L, ba con chó lăng xăng cào cào bơí bới khi thấy tôi đào cật lực. Thầy tôi đào một hầm phía sau nhà, có chận nắp bằng những bao cát và gỗ vuông chắc chắn. Hố đào sắp xong thì một ông lính đến bên cạnh sân nhà tôi, hỏi vọng vào.
– Bộ muốn tử thủ hả?
Tôi đáp "Dạ", vừa đáp vừa lúi húi đào. Người hạ sĩ quan này thường ngồi trước sân nhà tôi mỗi tối vừa đàn vừa hát. Ông hỏi thêm khi thấy thái độ của tôi là thái độ muốn "chơi tớí cùng".
– Súng ống gì không thằng em?
– Dạ, "Cặc–bin".
Ông ta phá ra cười ngặt nghẽo rồi hỏi.
– Biết chơi M16 không?
– Dạ biết.
– Vậy để lát tụi anh đưa cho, còn ba cây,...cặc bin chơi sao nổi.
Ðúng lúc ấy, trên đường có bốn năm người lính nhảy dù thúc súng đẩy một bóng người đàn ông bước sâm sấp trên đường cái dẫn về phía cuối làng. Tôi chợt dưng sởn tóc gáy. Năm Trình! Ông Năm Trình tay bị trói giật khuỷu, chiếc áo đen đẫm máu. Chắc chắn kiểu này là ông Năm sẽ bị bắn! Tôi bỏ xẻng bỏ cuốc, lặng lẽ bước theo sau bốn năm người lính và ông Năm Trình. Ông bước thấp bước cao đi theo hướng mũi súng của mấy người quân nhân mặc đồ rằn ri. Khoảng chừng 500 mét tính từ cổng cuối làng, những người lính nhảy dù nơí dây trói rồi bảo ông Năm Trình tự bắn mình sau khi đưa cho ông khẩu súng M16 chỉ có một viên đạn. Ông lắc đầu, quỳ hai gối xuống bờ ruộng. Hoàn toàn không thấy ông nói một lời nào, mắt nhìn về hướng ngọn núi Chùa phía gần bờ sông Trị An. Mấy ngưới lính lùi lại cách ông chừng 5 mét. Hai ngươì cầm súng cúi gập mình như chào ông Năm Trình. Khi hai cái đầu hất thẳng lên là đồng thời với một tiếng nổ chát chúa. Thân thể ông Năm giật lên rồi té sấp. Hai người lính cúi mình một lần nữa rồi quay lui, không xem xét xem ông Năm đã chết hẳn hay chưa.
Thấy tôi còn đứng lần khân gần đó, một ngườì bảo.
– Về thôi thằng em. Nó pháo bá thở bây giờ!
Tôi tần ngần, rất muốn đến xem ông Năm đã chết thật chưa. Cái dáng té sấp mặt của ông xuống mặt ruộng làm tôi xao xuyến lạ lùng. Bỗng tiếng quát sau như dựng cả hồn vía tôi dậy.
– Nằm xuống! Thằng nhóc!
Tôi còn đang quờ quạng thì một bóng người nhào đến tôi, một tay ôm ngang lưng vật tôi xuống bờ ruộng, đúng lúc hàng ngàn tiếng rít đinh tai nhức óc xẹt ngang qua đầu. Chưa bao giờ tôi ngửi thấy mùi thuốc đạn gần và nhiều đến như vậy! Một dàn pháo hỏa tiễn vừa bắn đi sát ngay phía đồi chuối bên bìa làng, tầm đạn bay qua đầu chúng tôi nhắm lên đồi Pháo Binh. Ðường đạn đi vun vút muốn rách màng tang. Người lính vật tôi xuống chính là người hạ sĩ quan ban nãy bảo đưa cho tôi cây M16. Dưới làn khói pháo mù đặc, ông túm áo tôi kéo chạy về đầu làng, vừa chạy vừa gào bên tai tôi.
– Coi chi ba chuyện giết người vậy thằng em!
– Em biết ông ấy!
– Quên đi! Chiến tranh là vậy! Sống nay chết mai. Ta không giết người thì người giết ta!
– Mà sao bắn ông ấy. Sao không nhốt lại?
– Giờ này, đến tụi mình còn không biết sống hay chết đêm nay, nói chi đến ổng. Số chả phải chết trước thôi ...
Tôi và người lính dù về đến nhà, ông bỏ đi về phía nhà thờ, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của lính dù. Trên gờ hố cá nhân một cây M16 bốn băng đạn, ba trái lựu đạn mini móc ở một dây ba chạc. Tôi ráp đạn kéo chốt cho bật ra ba bốn viên rồi lại tháo băng xếp lại đạn, cài chốt an toàn, ngồi vật ra, đầu đầy ắp hình ảnh ông Năm Trình với khuôn mặt úp sấp lên mặt ruộng. Mặt ruộng tháng tư khô nứt nẻ!
Ông bị bắt đâu hồi 11 giờ trưa. Hai cái làng này, ai cũng biết là ông hoạt động cho Mặt trận giải phóng miền Nam, nôm na gọi là Việt Cộng nằm vùng. Ông không tỏ ra ác ôn bao giờ. Ông dữ hay ông hiền, chẳng ai biết được vì ông không sống trong làng. Ông cất một cái chòi sát chân núi, nơi được coi là cửa ngõ để giao liên với trong bưng, lâu lâu đi vào làng mua dăm thứ lặt vặt hoặc đi qua làng ra vùng Hố Nai. Trưa nay, từ vọng canh rất cao, những người lính địa phương quân đã nghi ngờ khi ông từ lối núi Chùa đi thẳng vào đường làng. Những bước đi mang nhiều sự tần ngần. Từ rừng đi vào làng rồi đi qua khu trung tâm bộ chỉ huy tiểu đoàn tiền phương của sư đoàn dù, hướng ra Quốc lộ 1. Có lẽ người ta sẽ để cho ông đi ra phía quốc lộ nếu như ông giữ con đường bình thường ấy. Ðàng này ông lại quay trở lại bằng một ngõ xóm khác, sau khi đi qua bộ chỉ huy tiểu đoàn chừng 300 mét. Ông bị bắt. Bộ chỉ huy tiểu đoàn dù gọi trưởng ấp tên là Thái. Ngoài việc hỏi ông Thái, bên bộ chỉ huy tiểu đoàn còn hỏi bốn năm người khác. Ai cũng nói là ông Năm Trình từng được biết là một cán binh Vệt Cộng nằm vùng. Với kinh nghiệm trận mạc, bên bộ chỉ huy kết luận dứt khoát ông Năm Trình là một "đề–lô" chấm tọa độ cho đơn vị pháo! Thời cuộc đang nóng lên từng phút! Mặt trận Xuân Lộc thất thủ, Biên Hòa Sài Gòn nghìn cân treo sợi tóc! Số ông Năm Trình rơi vào tuyệt lộ ngay khi ngày chiến thắng của những người bên phía ông chỉ còn hơn 48 giờ đồng hồ!!!
***
Tiếng xe Honda cua rất gấp từ mặt đường quặt vào trong sân xi măng. Mùi khét của cao su từ lốp xe bốc lên hòa với khói pháo thật khó chịu. Ðó là xe của anh tôi. Tôi chưa thấy ông chạy như thế này bao giờ. Vừa chống càng xe anh tôi quát ngay.
– Thầy đâu?
– Thầy ở sau nhà – Tôi luống cuống.
– Sau nhà làm gì?
– Ðào hầm!
– Ðào cái con khỉ gì mà đào!
Quay nhìn tôi, nhìn mớ súng đạn lỉnh kỉnh. Ông gắt.
– Ðồ dở hơi! Mặc ngay quần áo vào. Ði!
Bố tôi rất nể anh tôi, nên đang lấm lem, anh tôi nói tắm rửa để chạy là bố tôi kéo nước giếng tắm ngay. Chừng chưa đến 5 phút, ba cha con tôi đã trên chiếc xe Honda 67. Anh tôi mặc đồ bay, mũ ca-nô nghiêm chỉnh, cũng là lần đầu tiên ông đeo súng tòn ten bên hông.
Chiếc Honda nhấc đầu phóng đi với ba con chó chạy theo sau.
Bàu trời kĩu kịt khói pháo. Ðàng sau là những những người lính dù đang tất bật với những hố công sự chiến đấu. Ðâu đó, những bàn tay giơ lên đầu, có lẽ để chào anh tôi, người phi công lạc lõng nơi chiến địa trong những giờ phút dầu sôi lửa bỏng gần như cuối cùng của một trận chiến đang ở những phút khởi đầu tràn ngập sát khí.
***
Quốc lộ 1 cơ man nào là người! Ðủ mọi thứ xe. Từ máy cày máy kéo bám đầy bụi đất đỏ của vùng Gia Kiệm, Long Khánh đến xe lam xa ba gác! Từ người đi bộ đến người thồ xe đạp. Từ những khuôn mặt cháy nắng đến những đôi môi nứt nẻ. Tất cả đều xốc xếch! Tất cả đều thảm thương! Tất cả như một đoàn người ma đi tìm thiên đường nơi xa lắc! Tuyệt không một tiếng cười trong đoàn người mênh mông ấy.
Anh tôi lạng lách, lúc đâm ngang, lúc xiên dọc, lúc leo bờ lúc thúc xe. Tôi nhìn đoàn người chung quanh, chỉ sợ những con chó của tôi bị thất lạc. Nhưng không. Có lẽ chúng cũng đã bị cộng hưởng với hoàn cảnh hoang mang cực độ của hàng trăm con người đang trong giờ cùng quẫn bi thảm. Chúng bám sát bên hông xe, miệng thè lưỡi nhọc mệt vừa chạy vừa nhìn bố con tôi. Ánh mắt chúng như nói lên sự van xin đừng bỏ chúng, lại như khuyến khích bố con tôi đừng sợ hãi. Thấy tôi có vẻ nhì nhằng với mấy con chó, anh tôi bắt đầu bực.
– Mày làm ơn ngồi cho ngay ngắn. Chó nó tự biết theo.
Tôi ngồi trên bình xăng vì Thầy tôi ôm nguyên một cái túi lính Tây chứa toàn những ảnh tượng chúa. Tôi biết anh tôi rất khó lái vì tôi 15 tuổi nhưng là dạng cao lớn hơn bình thường, ngồi lại quay trước quay sau vơi mấy con chó nên ông quạu cũng là phải. Dù bị ông quát nhưng lòng tôi rất biết ơn ông, vì ông biết tôi rất thương chó nên lúc bắt đầu rời nhà, tôi gọi chó theo mà ông không nói gì. Ông biết tôi rất khó thể xa chúng ...
Chỉ có 2 km quốc lộ từ nhà thờ giáo xứ Hòa Bình đến nhà thờ giáo xứ Hà Nội mà bố con tôi vật lộn hơn tiếng đồng hồ với rất nhiều lần phải đâm vào những đường ngang ngõ tắt. Ðến nhà thờ Ðại Lộ là leo lên xe tải đã thuê khởi hành nhằm vượt cầu Sài Gòn ngay.
Trên xe, ba con chó và tôi nằm gọn ngay góc cửa đóng phía cuối xe.
Anh tôi rồ máy chiếc Honda 67 phóng ngược về phía phi trường Biên Hòa. Dáng áo bay nổi bật lên trong dòng người hỗn độn. Nhìn theo anh, tôi không cầm được nước mắt. Ra là anh đã rời phi trường cấp tốc, áo bay, súng ống còn vắt cả trên người khi nghe bảo rằng bố con tôi tử thủ nơi căn nhà đầy kỷ niệm. Anh tôi vượt ngược dòng người đang như thác lũ, phóng xe vào vùng đất đã báo động chiến sự sắp xảy ra trong gang tấc giữa bầu trời mịt mù khói pháo ven rừng chiến khu D. Giờ này anh lại phóng đi với những chuyến bay bất định, chơi vơi lời ca của đời phi công ra đi không tìm xác rơi.
Cực kỳ vất vả chiếc xe tải mới bò đến được cầu Sài Gòn. Xe nhích từng bước một. Lính trên cầu đủ mọi thứ binh chủng. Không khí sắt máu sát rạt. Anh rể tôi mặc quân phục với giấy chứng thực đặc biệt của Căn cứ Long Bình, xin đường để qua cầu. Một người lính mặc đồ đen đeo khẩu súng rất lạ yêu cầu mở cửa xe tải. Cửa mở, tôi và ba con chó ôm nhau sát ngay cửa, bên cạnh là u tôi và chị tôi. Người lính nhìn vào khoang xe rồi nhìn tôi, cuối cùng là nhìn ba con chó. Ông lấy tay cầm lấy tai của con chó bé nhất. Con chó không hề sợ cũng không hề làm dữ, ngẩng mặt lên liếm láp bàn tay xương xẩu đen đủi đầy mồ hôi của người lính đặc biệt này. Tôi im lặng không nói gì, phó mặc số phận đưa đẩy theo gia đình. Bỗng một loạt đạn bắn chiu chíu từ phía mặt sông thốc lên vọt qua sát mí nóc xe. Người lính lạ nhảy xuống hô kéo bửng cửa rồi chạy trước xe nhà tôi, tay vẫy vẫy cho xe vượt lên trước hàng trăm xe khác.
Xe nhà tôi qua cầu Sài Gòn. Cầu Sài Gòn như một nút thắt cổ chai kinh khủng, chỉ cần qua hết cầu là có thể dễ dàng đi lại. Xe chúng tôi nhắm về phía Hóc Môn, Trung Lương.
Sáng 28-4 (1975) gia đình tôi vào tới sát căn cứ Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tá túc tại một xứ đạo qui tụ rất nhiều người cộng giáo gốc Kiến An, Hải Phòng. Xứ đạo có tên Chợ Cầu. Tôi sống quen với không gian rộng từ ngày bé tí nên không thể nào chợp mắt được trong hoàn cảnh này. Ba con chó từng bước không rời cậu chủ nhỏ. Ðời sống tỵ nạn chiến tranh đây là lần đầu tôi phải chịu đựng. Tuổi 15 nội tâm sớm, vơí tôi, đây là cú sốc rất nặng. Ngay đêm đầu tiên, tôi khóc thầm và trách sao mình đã bỏ nhà, bỏ làng mà đi.
Ðêm 29. Các đơn vị tăng của lính chính qui Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngang qua căn cứ huấn luyện. Cơ man nào là các lằn đạn bắn ra từ trung tâm huấn luyện, đặc biệt là M72, một lọai hỏa tiễn cầm tay chống tăng. Rất nhiều phát đạn bắn hụt xe tăng và bay sát các nóc nhà ở xứ đạo này. Tôi vốn đã quen với pháo kích từ ngày nhỏ nên không cảm thấy nao núng, nhưng những người chung quanh thì mặt cắt không còn giọt máu.
30. 4. Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Người hàng xóm mở radio khá lớn và ra bờ giếng sau nhà ngồi một mình. Tôi từ trong khoảng tối của căn buồng hẹp chăm chú quan sát ông. Mấy hôm nay tôi không thấy ông này, tuổi khoảng 60 mặt rắn rỏi tóc húi cua. Ông ngồi bên gờ bờ giếng, mặt cúi xuống, hai vai gồ cao. Tôi thấy vai ông rung lên. Tôi thật sự cô độc.
Chiều 30-4. Tôi đi một mình ra doanh trại Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Trên đường vài ba chiếc tăng T54 cháy rụi nằm bổ ngửa. La liệt quần áo lính vứt ngổn ngang. Tôi đến sát cổng quân trường, mấy người bộ đội áo quần xanh lụng thụng dép râu, mình còn cài lá ngụy trang, răng mặt vàng lườm... bắt tôi đứng lại, không được đến sát cổng vì đoàn phim đang quay. Tôi nhìn theo hướng tay chỉ và thấy một đoàn khóa sinh tân binh từ trong trung tâm đi ra. Tất cả đều phải đứng lại trước các máy quay phim, khi được lệnh từ phía sau máy thì từng người cúi xuống lột hết giày và quần áo lính, chỉ mặc độc mỗi quần lót. Những đoàn lính bộ đội đứng cười cợt khoái chí, một số ít thay vì cười cợt sảng khoái thì quay sang nói chuyện với những người dân hai bên đường. Có những câu hỏi và trả lời khắc mãi trong lòng tôi mà sau này nhiều người lấy đó làm giai thoại.
Với tôi, ngay lúc bấy giờ, tôi không thể cười được. Có cô hỏi:
– Sao anh trẻ thế?
– Trẻ gì nữa. Mười sáu mà còn trẻ.
Cô đang cầm que kem, hỏi anh bộ đội:
– Anh thích ăn cà-rem không?
– Không?
– Thế Hà Nội có cà-rem không?
– Có. Khối gì. Còn phơi để dành nữa.
– Hà Nội có Ti-vi không?
– Khối gì. Tivi chạy đầy đường.
(Phạm Văn Thành)
- : Tác giả Phạm Văn Thành không ở Hố Nai nữa mà đang ở...Paris.
Một cơn gió bụi
Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung chết trong tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.
Ngày thứ 49 : 27-4-1975
Tân Cảng – Sài Gòn
Ngày 27-4, Sài Gòn sôi động khi Bắc quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng Biệt khu thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch.
Đến chiều ngày 27-4, Bắc quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
(SQTB K10B/72)
- :Ngày 27-4 là ngày Bắc quân dự định 5 quân đoàn tấn công cùng một lúc và dự trù đánh chiếm Sài Gòn ngày 29-4-1975.
10 ngày cuối cùng của VNCH
Chủ Nhật 27-04-1975
Rạng sáng ngày chủ nhật 27-4, vào lúc 3 giờ rưỡi, Bắc Việt pháo kích 5 trái hỏa tiễn vào Sài Gòn gây cho 6 người chết và 22 người bị thương, tuy nhiên tình hình vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối loạn. Theo ông Trần Văn Đôn thì vào lúc 3 giờ chiều, đại sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông và báo tin cho biết rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi thì quân cộng sản sẽ pháo kích vào Sài Gòn bằng đại bác 130 ly.
Theo Jean Lartéguy trong cuốn L’Adieu à Saigon thì sau ngày 30-4, một sĩ quan Bắc Việt đã tiết lộ với ông Vũ Văn Mẫu rằng các đơn vị họ được lệnh bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu vào lúc 11 giờ tối 30-4 nếu Sài Gòn tiếp tục chống cự và họ dự tính rằng họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7-5 tức là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ của họ 21 năm về trước.
Theo Frank Snepp vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm đã chống lại việc Tổng thống Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh. Người đầu tiên là Thương tọa Thích Trí Quang, kế tiếp là cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Linh mục Trần Hữu Thanh. Cựu phó tổng thống Kỳ lên án những kẻ hèn nhát đã bỏ nước di tản theo người Mỹ và hô hào tử thủ bảo vệ Sài Gòn. Ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu chứ không đi đâu cả, không di tản ra ngoại quốc vì ở bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm mà ăn?
8 giờ 45 tối ngày 27-4, dân biểu và nghị sĩ bỏ phiếu thuận Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đuờng vãn hồi hòa bình cho Việt Nam? (Trần Đông Phong)
- : Theo Frank Snepp, đại sứ Martin chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang căn cứ không quân Clark tại Phi Luật Tân. Trong số những hành khách trên chuyến bay này có cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã và cựu Thiếu tướng tư lệnh cảnh sát Nguyễn Khắc Bình. (*** Frank Snepp, Sđd, trang 448)
Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
Ngày 21-4, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía đông. Tiếng "womp-womp-womp" của pháo binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng tiếng "dit-dit-dit" của súng cá nhân, ngoại trừ vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết (Mậu Thân) 1968, đã dung tha cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh, cái mà bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy. Về quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, tổng thống Thiệu và bộ tham mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.
Chỉ còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn. Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những tháng trước đó. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu, rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người. Phần lớn người dân trong phần còn lại của miền Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh Sài Gòn và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, hy vọng vào một điều kỳ diệu: Hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm lặng pháo binh Bắc Viêt đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và nhà ngoại giao. Rằng Phnom Penh đã bị Khmer đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa.
Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng.
Đội ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến gần tới mức có thể nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng của khách sạn cao tầng Caravelle. Thay cho các thông tin về chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị "mật" cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng. Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách sạn lớn Caravelle, Continental và Majestic. Tín hiệu, các nhà báo được thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn cấp, đài phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức "every hour on the hour", sẽ thêm vào câu: "The temperature is 105 degrees and rising", tiếp theo sau đó là bài "I am dreaming of a white Christmas" của Bing Crosby. Người ta sẽ chờ nhà báo tại địa điểm tập trung với nhiều nhất là một món hành lý.
Chính sếp CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một "Giải pháp Lào", để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn. "Giải pháp Lào", đó là: Một chính phủ trung lập, bao gồm các nhân vật của "lực lượng thứ ba", phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.
Nguồn thứ hai, dường như xác nhận các thông tin của CIA, bắt nguồn từ sứ quán Pháp mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của de Gaulle, đã tự mình tin rằng "Grande Nation" thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng Bắc Việt thông qua tiếp xúc với người Pháp đã đưa ra "Giải pháp Lào": tước quyền "bè lũ Thiệu", thành lập một chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền "Big Minh" và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị mới ở Nam Việt Nam.
Vòng vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26-4, buổi chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Đài phát thanh của Mặt trận giải phóng từ chối lời đề nghị ngừng bắn của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Hương đại diện cho một "chế độ Thiệu không có Thiệu". Vào ngày 26-4, thứ bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, quốc hội đã họp biểu quyết yêu cầu Tổng thống Trần Văn Hương nhượng quyền lại cho tướng Dương Văn Minh. Đại sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để cho "Big Minh" bước ra hoạt động.
Vào tối ngày chủ nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng thống được bổ nhiệm, không cương quyết yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện Bắc Việt, sau hiệp định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt, để tự mình thăm dò cơ hội của một "chính phủ hòa bình Big Minh" qua sếp của phái đoàn, Đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như một cái máy nói không có xúc cảm. Tuy vậy, viên đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết định: Liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như là đối tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.
Mặc dù không có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và những người đi theo "Big Minh" vẫn bắt đầu làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều kiện.
Xe tăng Bắc Việt đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, lúc này phần lớn các quốc gia phương Tây đã di tản các sứ quán của họ và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá vứt đi. Người Mỹ, dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar, vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường hàng không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn của một cuộc chạy trốn.
Sáng chủ nhật, 2 giờ trước khi mặt trời mọc, Bắc quân bắn vài hỏa tiển vào thành phố, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.
Chỉ các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong đại sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những dấu hiệu đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình chính trị. Bắc Việt, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ "mất thể diện", nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ Bắc Việt.
Sài Gòn, 21-4-1975. Lần bắn hỏa tiển đầu tiên là vào lúc 4 giờ 30 sáng, đánh vào trung tâm Sài Gòn và đốt cháy 150 căn nhà bằng gỗ. 14 người chết và hơn 40 người bị thương.
Các chính trị gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm đều nghe được tiếng "womp-womp-womp" của đạn pháo. Bây giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ có chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.
Khi một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì "Giải pháp Lào" cho phép ông bay về quê hương để hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành phố, và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi (?). Đó là "tuyên truyền của CIA", người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.
Công việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28-4, buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh được bật lên khi những người của "lực lượng thứ ba", nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai. Hàng ghế đầu dành cho phó tổng thống Hương và các bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.
Chống gậy khập khiễng, phó tổng thống Hương bước vào gian sảnh, có "Big Minh" đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì, những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về chuyên môn có nhiệm vụ bổ sung cho Big Minh, thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư xã hội chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang.
Cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Nhiều câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà không giao quyền lực thật sự cho ông. Còn lại là một sự cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.
Ông diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ "Big Minh", chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa bình mà người cộng sản muốn chấp nhận. Hương khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới "Big Minh". Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.
Rồi cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính, đeo thắt lưng trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống VNCH ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.
Giới chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng. Ông đã tạo khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.
Đối với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500.000 lính Mỹ đã được gởi tới đây để củng cố cho Nam Việt Nam mà 50.000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.
Hàng triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch sử.
Người lính quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu tổng thống mới trên hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của tổng thống "Big Minh" vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.
Chỉ sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, "Big Minh" đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra. Như đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về "những người cộng sản" nữa, mà là về "những người bạn của chúng ta ở phía bên kia...Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn...Tôi không hứa hẹn nhiều."
Lúc đó, tôi không nghe bài diễn văn của "Big Minh" cho tới khi kết thúc. Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: Nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.
Để đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một "dự thảo văn bản" cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng 6 giờ chiều, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều. Tới khách sạn Continental có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh tổng thống. Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp lần nhậm chức của "Big Minh" trước các màn hình. Những chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước Continental như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.
Sau hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A37 bay ở phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A37 bị Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét đông bắc Sài Gòn, và được gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào ngũ.
Hiệu ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của (nhà đạo diễn) Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu. Lần bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới nghiêm bắt đầu sau đó. VNCH đã chấm dứt tồn tại trước khi bị xâm chiếm. Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.
Các cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29-4, vào trong trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của "người da trắng" ở châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo của người Nhật trong "chuyến bộ hành tử thần Bataan" để đi tới các trại tù binh; và "Cầu sông Kwai" đã quan tâm tới sự tưởng tượng của phương Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaya và Singapore.
Thật sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà "Big Minh" đã đứng tại tâm điểm của nó, được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm lý và chính trị. Ngay sau bài diễn văn của "Big Minh", đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một yêu cầu dứt khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài phát thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy "nổi dậy".
Qua đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. "Giải pháp Lào" giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết cuộc. Lần ném bom phi trường vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển. Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ ba: lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa đại sứ quán Mỹ. Bốn giờ sáng ngày thứ tư, 30 tháng Tư, đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính thủy quân lục chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh tổng thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ của "chính phủ cách mạng lâm thời" lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu hiệu của chiến thắng.
Lá cờ cũ đã được lấy ra từ lâu rồi.
(Những ngày cuối cùng của Sài Gòn - Winfried Scharlau) - : Winfried Scharlau là một nhà báo, sử gia người Đức. Ông là phóng viên chiến trường đã từng bị thương ở gần vĩ tuyến 17 vì chiếc trực thăng chở ông đáp trúng mìn.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:19:40 GMT 9
HQ 231: Những ngày cuối
Nguyễn Văn Phước
Lời giới thiệu: Tác giả, cựu HQ/Đại Uý Nguyễn Văn Phước, thẳng tính, tự trọng, rất can trường, được bạn bè rất quý mến. Chức vụ cuối Hạm Trưởng HQ231. Sau 30/4/75 HQ231 di tản tới Subic Bay, Phước qua tới Guam rồi theo thương thuyền VN Thương Tín, do Cưụ HQ Trung Tá Trần Đình Trụ chỉ huy lái về. Nguyễn Văn Phước bị tù hơn 12 năm, đã bị đưa ra tới trại Cổng Trời ngoài vùng thượng du miền Bắc.Tới Mỹ năm 1995 theo diện HO. Sở dĩ Phước bị tù lâu như vậy vì tính khí can cường hay chống đối, thêm nữa 2 lần vượt trại bị bắt lại. Nghĩ cho cùng, tính khí ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống con người. Nguyễn Văn Phước là một điển hình. Từ đời quân ngũ cho tới đời thường, anh đã gặp "hoạn nạn" nhiều hơn "hanh thông". Câu chuyện Nguyễn Văn Phước thuật lại sau trí nhớ của 35 năm,được như vậy cũng là khá đầy đủ và trung thực. Về HQ605, là người trong cuộc, xin được bổ túc thêm vài chi tiết sau. HQ605 rời Sàigòn chiều ngày 23 Tết (1975) ra Phú Quốc, chưa đầy tuần lễ sau, từ Phú Quốc tăng phái ra Vùng Hai Duyên Hải, khoảng đầu tháng 3/75, tăng cường ra Vùng 1 Duyên Hải,dần dà yểm trợ cho các công tác "di tản chiến thuật" theo từng Tiểu Khu cuả Vùng Một, về lại tới Vùng Hai. Về lại Cam Ranh,sáng 2/4/75,chiến hạm nhận lệnh Đô Đốc Hoàng Cơ Minh (lúc này ông giữ chức vụ Tư Lệnh Tiền Phương Mặt Trận Quân Khu Hai) ra thám sát lại vùng biển Nha Trang (Nha Trang mới bị bỏ ngỏ vào đêm tối 31/3). Cùng nhận lệnh công tác này, thêm HQ231 do Phước chỉ huy. Tời Nha Trang,hai chiến hạm chạy dọc theo bãi biển để quan sát thành phố, HQ605 xuôi xuống mạn Cầu Đá trước,trong lúc đang chặn lại mấy ghe dân để dò hỏi tình hình, chiến hạm bị VC pháo kích từ phiá trên đỉnh Hòn Tre (nơi Đài Kiểm Báo 202 cũ). Chiến hạm phản pháo bằng 76ly2 và súng cối 81 ly và gọi cho Phước đề phòng và báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Chiến hạm được lệnh trở lại Cam Ranh, bị thiệt hại phía sau sân lái,bị sức ép của đạn pháo, chiến hạm đã bị một đường nứt, nước vào nơi tả hạm, phải thường xuyên dùng bơm điện chìm để bơm nước ra ngoài. Sau chiến hạm còn phải lênh đênh yểm trợ cho mấy toán ghe các Duyên đoàn & ghe dân di tản. Cho tới ngày 22/4,Đô Đốc Minh mới cho lệnh chiến hạm tiếp nhận bốn quan tài cuả 4 vị Sĩ Quan Bộ Binh cấp tá tử trận tại Phan Thiết,để chở về Sàigòn. Nhắc lại mấy chuyện này mà tưởng chừng như chuyện mới xẩy ra ngày hôm qua... Những ngày biển tháng 3, tháng 4/75 thường êm ả,thỉnh thoảng mới xen vào có những ngày gió mưa, biển hơi động. Ghe dân di tản chi chít ngoài khơi, một số chiến hạm và ghe Duyên Đoàn HQ thường đã phải dùng dây nylon dòng kéo theo cả chục ghe dân, vì những ghe này hết nhiên liệu & lương thực... Vài hàng giới thiệu bài viết của Nguyễn Văn Phước. Đây cũng chỉ là 1 trong hàng trăm ngàn sự kiện xẩy ra trong những ngày cuối của miền Nam. Cơn bão đen tối cuả Lịch Sử VN hiện nay rồi cũng sẽ tới ngày phải tan biến. Mong chúng ta hãy vững niềm tin vaò giới trẻ mai sau.
Trịnh Như Tòan
***
Hải Quân VN 30-4: Nghiệt Ngã, Kiên Cường
Bài của cựu Hải Quân Nguyễn Văn Phước, Hạm Trưởng HQ 231
Lời nói đầu: Tôi chưa hề có ý định viết lại cũng như không muốn nhớ tới những ngày cuối cùng của tháng tư đen. Vì đến bây giờ , lịch sử đă phô bày rỏ ràng là các nổ lực chiến đấu của QL/VNCH nói chung và các thành viên trong đó nói riêng , đều vô vọng trong một ván bài đã được định sẵn của các cường quốc. Họ tạo ra một không khí hoảng loạn để các đơn vị QL/VNCH buông súng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, vẫn có những nổ lực kiên cường và những quyết tâm đơn độc để duy trì sức chiến đấu cho đơn vị đến tận giây phút cuối cùng trong những ngày của "tháng tư gọi là nghiệt ngã" đó.
Ăn cơm xong, tôi cầm túi xách nhỏ, từ biệt mẹ tôi để xuống tàu đi công tác. Bà nói: "Má thấy kỳ nầy nguy hiểm lắm nghe con. Đà Nẳng mất rồi. Má mua mấy bao gạo để dành. Con rán giữ gìn nghen". Tôi gắt lời với bà cụ: "Má lúc nào cũng lo, làm tụi bán chợ đen có dịp thao túng." Bà thẩn thờ nhìn tôi rời nhà chiều ngày 30/3/1975. Tàu tôi, HQ 231, đang sửa chữa đại kỳ, theo chương trình đến tháng 5/1975 mới xong. Nhưng vì biến động miền Trung, Bộ Tư Lịnh Hạm Đội [BTL/HD] ra lịnh HQCX sửa chữa gấp để HQ 231 lên đường tham dự chiến trận. Sau đây là những ngày giờ sau cùng của HQ 231. Tàu tách bến lúc 5 giờ chiều, từ từ chạy qua tượng Đức Trần Hưng Đạo. Tôi đưa tay chào kính Ngài. Tôi thấy Ngài đưa tay chỉ xuống dòng sông và hình như Ngài nói :" Không đuổi được giặc đừng về đây". Tôi nhận được lịnh hành quân đi Cam Ranh [BTL/ V2DH]. Cảm thấy chuyến đi nầy nhiều bất trắc, tôi ngồi thừ trên đài chỉ huy đến 12 giờ khuya. Lại có công điện thay đổi công tác:"Neo Vủng Tàu chờ lịnh mới". Sáng hôm sau, tôi lên trình diện BTL/V3DH tại Cát Lở, để nhận lịnh công tác khác. Tham Mưu Phó HQ là Thiếu tá Lê khánh Dư bảo:"Cam Ranh đang di tản, HQ 231 chưa ra đó được, chờ lịnh mới. Tạm thời đi tuần bảo vệ dàn khoan ."Cầm lịnh hành quân về tàu, tôi chuẩn bị nhổ neo đi công tác thì nhận được lịnh hủy bỏ. Tối hôm đó, tàu nhận được lịnh pháo mấy điểm ở Gành Ráng, mật khu địch quân. Tiếng đại bác 76,2 ly ầm ì, tôi có cảm giác như tiếng gầm rống cuối cùng của con sư tử, chúa tể rừng xanh, trước khi hậm hực bỏ vào rừng mất dạng. Mấy ngày sau đó, chiến hạm được lịnh tuần tiễu canh chừng các thương thuyền và xà lan chở người di tản từ miền Trung về. Trên đó lúc nhúc đầy người. Các bà mẹ ôm các đứa con gầy rạc, thiểu não dơ lon ra xin nước uống. Tôi nhận được lịnh không được cập vào các xà lan và thương thuyền vì trên đó có bọn cướp giết người, đoạt của. Chúng tôi tận dụng mọi thứ, cái gì đựng nước được là đem ra xử dụng, rồi quăng qua các xà lan, tiếp tế một cách tuyệt vọng cho động bào trên đó để chia xẻ một chút tình người. Cảng Vủng Tàu náo động hẳn lên, đầy nghẹt thương thuyền và chiến hạm. Ngoài khơi, 2 chiếc LST của Đài Loan, im lìm đang neo chờ đón kiều bào của họ. Lính TQLC Đài Loan canh gác trên tàu, đứng im như các pho tượng. Cuối cùng HQ 231 được lịnh đi Cam Ranh. Tàu rời Vũng Tàu cùng lúc với một Tuần Dương Hạm [WHEC] tiến vào. Đại Tá Nguyễn xuân Sơn, Tư Lịnh Hạm Đội (TL/HD), đang đứng trên đài chỉ huy của chiếc WHEC .Khi hai chiếc chạy ngang qua, tôi đưa tay chào kính. Tiếng Đại tá Sơn vang vang lên, hòa trong gió biển, vọng xuống :" Rán lên nghe Phước". Đây là một hảnh diện vì trong bốn, năm chục ông hạm trưởng dưới quyền, ông vẫn nhớ đến tên tôi . Trên đường đi Cam Ranh, công điện BTL/HD gởi ra tới tấp, dặn các hạm trưởng đích thân giữ chìa khóa kho súng, đề phòng phản loạn. Tôi bình tỉnh, kín đáo dặn riêng trung úy Hiển, sỉ quan trọng pháo, bảo ông giữ chìa khóa thay vì hạm trưởng, xem như tình hình vẫn bình thường. Mỗi sáng có công điện kỷ thuật, báo cáo tình trạng kỷ thuật của chiến hạm, tôi dặn hạm phó, tất cả các mục đều ghi tốt để tỏ thiện chí phục vụ và tránh gây ra ưu phiền cho BTL/HD. Vì vậy mà tàu phục vụ liên tục ngoài khơi gần một tháng. Chiếc HQ 08 báo cáo hai máy bất khiển dụng, neo khẩn cấp ngoài khơi Phan Rang. Tôi cặp tàu vào, ghé thăm hạm trưởng thiêu tá Nguyễn Trường Yên. Anh là sỉ quan, chuyên nghiệp giỏi nhưt khóa tôi. Tàu đến Cam Ranh, BTL/V2DH đã di tản còn chơ vơ lại chiếc HQ605, hạm trưởng thiếu tá Trịnh như Toàn. Trên tàu có thiếu tá Đặng quang Lạc TMP/HQ/BTLV2DH. Tôi phỏng vấn anh Lạc, tình hình ra làm sao. Anh Lạc, một người năng nổ, đã từng bắt sống VC lúc còn là thiếu úy, bây giờ xuống sắc thấy rỏ: "Tình hình kỳ cục lắm. Tao theo Đề Đốc Minh để đổ bộ Qui Nhơn. Đến nơi thì Qui Nhơn mất rồi. Lẹ không thể tưởng tượng được". Tôi cười cười với anh: "Mất rồi thì lấy lại". Bây giờ mới thấy là tôi quá ngốc nghếch. Nha Trang vào tay địch, HQ 605 và HQ231 nhận lịnh án ngữ phòng tuyến phía bắc Cam Ranh, đề phòng tàu địch xâm nhập. Toàn rủ tôi vào vịnh Nha Trang quan sát, nơi mà chúng tôi theo học suốt hai năm, xem bây giờ ra sao. HQ 605 chạy trước khuất vào trong vịnh giữa Bãi Dài thuộc Cam Ranh và Hòn Lớn. Tôi chuẩn bị quẹo theo anh thì nghe tiếng đại bác rít lên và tiếng Toàn trong máy:"Nó bắn tao Phước ơi". Còi nhiệm sở tác chiến dồn dập, đại bác 76,2 ly và các khẩu 40 ly chỉa vào Cầu Đá Nha Trang tìm kẻ địch. Chiếc HQ 605 chạy ngược chiều trở ra, vải bố phía sau tàu bị bắn tơi tả. Tôi nhìn ông dòm quan sát, không thấy kẻ địch đâu, chỉ thấy dân chúng đi qua lại trên bờ thong thả. Trong tích tắc tôi quyết định quay ngươc lại trở ra vì tiến vào chỉ đưa đầu cho kẻ địch núp bắn, còn bắn ẩu thì chỉ chết dân. HQ 605 được lịnh về Sài Gòn, HQ 231 ở lại đơn độc thi hành nhiệm vụ. Cam Ranh mất, tôi được lịnh về Phan Rang. Môt chiếc tàu buôn Mỹ 20.000 tấn, tiến vào vịnh Phan Rang. Tàu tôi chớp đèn hỏi, nó trả lời, đến để di tản dân chúng. Cần ghi nhận ở đây, lúc đó Phan Rang chưa mất. Lúc đó thì ngạc nhiên, nhưng bây giờ thì thấy chương trình đã xếp đặt sẵn. Chiến hạm đi liên tục ngoài khơi nửa tháng, thức ăn tươi đã hết. Tôi xin cho tàu đi chợ Phan Rang. Chiếc tiểu đỉnh của tàu chở nhân viên đi chợ. Hai tiếng đồng hồ sau trở về. Mặt họ lộ vẻ hoảng hốt: T54 của địch xuất hiện ở chợ Phan Rang. Trên bầu trời, một trực thăng bay vần vũ gần một chiếc WHEC rồi một bóng người nhảy xuống biển. Sau đó mới biết là Thiếu Tướng Trần văn Nhựt TL/SD2BB. Mặt trận Phan Rang tan vở. Tàu tôi về trấn ở eo biển Cà Ná, phía nam Phan rang. Trên tàu, ngoài khơi, đặt ống dòm nhìn thấy quốc lộ 1 chạy dài dọc song song với bờ biển. Một làn không khí hăm hở thổi đến khi HQ 11 xuất hiện, ham trưởng là Trung Tá Phạm đình San, ông là một sỉ quan dũng cảm, đã từng là hạm trưởng PT chở biệt kích ra Bắc. Ban đêm, quốc lộ 1 sáng rực lên, kéo thành một vệt dài như con rắn, uốn khúc theo sườn núi. Quân xa của địch, mở đèn sáng trưng, chạy nườm nượp như vào chỗ không người. Tôi thở dài: Phan Thiết chắc chắn rồi sẽ mất. Nhưng là chiến sỉ là phải chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. HQ 11 và HQ 231. tắt đèn tối om, tiến vào bờ và bắn trực xạ vào cái đám lúc nhúc đó. Nghe tiếng đại bác, chúng vội vàng tắt đèn đứng im. Chúng tôi cũng ngừng bắn vì không thấy bọn chúng. Khi chúng mở đèn tiếp tục chạy, chúng tôi lại bắn. Thỉnh thoảng một chiếc xe cháy đõ rực lên là biết trúng đạn của chiến hạm. Địch hoạt động suốt đêm. Chúng tôi cũng bắn phá suốt đêm không biết mệt vì nghỉ đến sự sống còn của đất nước. Chắc có lẻ địch bị thiệt hại nặng và bị ngăn chận không tiến nhanh được. Sáng tờ mờ đã thấy nhiều chiếc T54 của chúng xuất hiện. Trung Tá San quả thật là một hạm trưởng gan lì và nhiệt huyết. Ông cho tàu tiến gẩn sát bờ đấu súng với T54. Nhưng chiến hạm bị bất lợi vì mục tiêu lồ lộ, còn bọn chúng núp vào khe núi bắn ra. Chúng tôi còn môt bất lợi nữa là muốn tác xạ chính xác, chiến hạm phải luôn luôn di chuyển để giữ đúng huỡng. Ngừng tại chỗ, gió và sóng biển sẽ làm chiến hạm xoay, không thể bắn chính xác được. Còn nếu tiếp tục chạy đưa mủi tàu vào bờ, đến một lúc nào đó, phải quay ra, lúc đó là mục tiêu cho địch bắn. Cho tàu chạy song song với bờ thì cũng là mục tiêu tốt cho địch. Chúng tôi chỉ có hai ,còn chúng vô số kể. Tàu HQ11 bị bắn trúng pháo tháp 40 ly và hầm máy. Một thượng sỉ đứt đầu chết tại chỗ, vài thủy thủ bị thương nặng. Trong khi đó, một trung đoàn của sư đoàn 2 bộ binh, án ngữ mủi Cà Ná, bị VC tràn ngập, các đơn vị của ta rút xuống biển, Dương vận hạm HQ503, Ham trưởng Trung tá Nguyễn văn Lộc, có nhiệm vụ bốc các chiến sỉ của ta lên. Địch quân đặt đại bác trong khe núi bắn ra. Một viên trúng đài chỉ huy, hạm trưởng bị thương nơi đầu bất tỉnh . Chúng tôi được lịnh rút ra khơi. HQ11 về Sài Gòn còn HQ231 đi Phan thiết. Trên đường đi, một máy bay thám thính không biết từ nơi đâu xà xuống trên đầu chiến hạm, lúc đó đang ở tình trạng ứng chiến. Thủy thủ chưa bao giờ đối phó với không chiến, có vẻ hoảng sợ. Tôi trấn an bằng cách truyền đạt cho thủy đoàn biết:"Can đảm thì có cơ hội sống còn và máy bay địch luôn luôn tìm cách bắn đài chỉ huy trước". Thủy thủ lên tinh thần. Máy bay đi một vòng xa, quay trở lại lượn trên đầu chúng tôi. Các khẩu pháo chỉa lên trời tua tủa. Máy bay vội vàng lánh xa. Sau đó mới biết là máy bay Không Quân/VNCH vì trong lúc hoảng loạn, truyền tin không liên lạc lẫn nhau được nên tưởng lầm chúng tôi là Hải Quân Bắc Cộng Tàu về Phan Thiết vào buổi chiều, lại nhận lịnh pháo kích núi Tà Cú ở phía nam Phan Thiết. Có thể đây là điểm tập trung của Cộng quân. Đo trên hải đồ, tầm xa khoảng 22.000 yards trong khi đó tầm bắn của 76,2 ly là 20.000 yards .Tôi báo cáo cấp trên. Lại nhận lịnh cứ thi hành .Mệt mỏi vì pháo suốt đêm, tôi ngủ gà ngủ gật trên đài chỉ huy. Sáng hôm sau bừng tỉnh dậy, một cảnh tượng thật huy hoàng, khoảng 30 chiến hạm HQ/VNCH đang chỉa mủi tàu vào bờ biển phía nam Phan Thiết, các khẩu đại bác với tư thế sẵn sàng nhả đạn. Cảnh tượng hùng vỉ giống như trận đổ bộ của Đồng Minh ở Normandie. Hào khí dâng lên trong lòng tôi. Đang ngất ngây với cảnh tượng đó thì nhận được lịnh về Vũng Tàu nhận tiếp tế nhiên liệu và đạn dược. Buổi chiều về neo ở Vũng Tàu. Sáng hôm sau, một số đoàn viên lên bờ nghỉ xả hơi vì đi liên tục 20 ngày rồi. Vũng Tàu hơi lao xao nhưng sinh hoạt vẫn bình thường. Tôi và một số sỉ quan vào ăn hủ tiếu ở bồn binh trước chợ gần phòng thông tin. Khi xong, tôi từ giã các sỉ quan đi thăm một người bạn. Bước ra ngoài, có một người chận tôi lại. Anh ăn mặt tươm tất và trông phương phi .Anh nói:"Tôi muốn nói chuyện với hạm trưởng". Tôi ngạc nhiên hỏi lại:"Làm sao ông biết tôi". Anh chỉ vào huy hiệu hạm trưởng mà tôi đeo trên nắp túi áo bên trái. À ra thế, tôi cười cười với anh ta:"Như vậy là anh có nghiên cứu trước". Anh đưa tôi vào tiệm kem kế bên rồi đề cập thẳng: "Miền Nam sẽ mất, tôi là người Hoa kiều buôn bán, tôi không thể sống dưới chế độ cộng sản. Tôi muốn đi Singapore. Ông có phương tiện. Tôi trả tiền ông mỗi đầu người 5 lượng vàng. Qua Singapore, tôi giúp ông kiếm việc làm". Tôi lại cười cười hỏi: "Bao nhiêu người?". Anh trả lời: "Khoảng 40 người, có thể hơn". Tôi nhẩm tính:"200 lượng vàng". Lúc đó tôi không mường tượng được một lượng vàng ra làm sao. Tôi có bao giờ thấy nó đâu, tính là tính vậy thôi. Tôi trả lời cho qua chuyện:"Ông ở chỗ nào, cho tôi biết tôi sẽ liên lạc sau". Anh đưa tôi một visiting card đề tên phía trước, mặt sau anh viết tay tên khách sạn và số phòng ở tại Vũng Tàu. Tôi từ biệt, anh bịn rịn cứ nhắc:"Nhớ nghe ông hạm trưởng". Nhưng tôi có nhớ gì đâu rồi quên hẳn đi. Tôi đi Cát lở, ghé Duyên Đoàn 32 thăm thiêu tá Nguyễn hữu Thiện Chỉ Huy Trưởng Duyên Đòan. Ở đó bảo anh đi hành quân ở Bình Tuy rồi. Tôi trở về tàu. Buổi chiều tôi vận chuyển tàu cập vào HQ802 để tiếp tế nhiên liệu và nước ngọt. Tôi ở lại tàu vì không quen ai ở HQ802. Một sỉ quan qua chơi vể cho tôi biết Tổng Thống Thiệu nói chuyện trước Quốc Hội, trực tiếp truyền hình. Tôi trèo qua HQ802, đến phòng ăn sỉ quan đông nghẹt người. Hình ảnh Tổng Thống Thiệu thấp thoáng, hình như ông ấy khóc. Tôi thẩn thờ, bao nhiêu biến cố dồn dập. Tôi không biết suy nghỉ gì chỉ cảm thấy đất nước đang lâm nguy . Sáng sớm hôm sau, HQ231 nhổ neo đi Căn Cứ Hải Quân Đồng Tâm trình diện BTL/Lực Lượng Thủy Bộ, cùng lúc với HQ228 đi Cần Thơ (BTL/V4SN ), Hạm trưởng là thiêú tá Nguyễn hoàng Be. Gần đến Mỷ Tho, tôi nhận lịnh xuống cù lao An Long ( Long Xuyên) biệt phái cho Bộ Chỉ Huy Liên Giang Đoàn ở đó, Chỉ Huy Trưởng là thiếu tá Nguyễn Thìn ( nhạc sỉ Trường Sa ). Tàu vừa neo, một chiếc LCVP chờ sẵn đón tôi qua Cơ xưởng hạm gần đó, CHT là đại úy Phạm văn Bảy. Anh có một bửa cơm nhỏ chờ tôi. Anh cho biết ở đây yên tỉnh, dân xung quanh theo đạo Hòa Hảo, VC không hoạt động được. Tôi cũng cảm thấy thế, không khí thật thanh bình. Sáng sau, tôi gặp thiếu tá Thìn .Ông ngạc nhiên: "Không biết tại sao họ đưa ông xuống dưới nầy. Tình hình ở đây yên lắm đâu cần tàu ông". Tôi cũng thắc mắc tình trạng kỳ quái đó. Tình hình chiến sự và chính trị ở đất liền dồn dập hàng ngày. Tôi ở ngoài biển suốt gần một tháng đâu biết gì. Sẵn dịp tôi nói với thiếu tá Thìn:"Nếu không cần, cho tôi về Sài Gòn một, hai ngày, xem sao". Thiếu tá Thìn nói:"Ờ, ông đi đi. Tôi cấp cho ông một PCF đưa ông về Bac Mỷ Thuận, từ đó ông đi đường bộ về Sài Gòn cho lẹ". Ông viết một bức thơ nhờ tôi đưa về gia đình. Về tàu, tôi dặn Hạm Phó chăm sóc tàu và chọn một sỉ quan đi theo tôi để mang thơ từ của sỉ quan và đoàn viên về Sài Gòn. Tôi đặt chân về nhà xế chiều ngày 26 tháng 4, ăn một bửa cơm gia đình ấm áp. Sáng 27 tôi vào BTL/HQ thì gặp thiếu tá Toàn, hạm trưởng HQ605. Chúng tôi đi ăn sáng, Toàn ra vẻ thạo về chánh trị:"Sẽ có giải pháp chánh trị, mầy yên tâm về tàu đi". Tôi yên chí, vui vẻ đi thăm người anh ruột làm việc ở sở Hàng Hà. Anh ngây thơ, hiền lành không có suy nghỉ gì chỉ biết làm việc thôi. Tình hình Sài Gòn rất lộn xộn, người nói nầy, kẻ nói khác. Không ai nghỉ rằng người Mỷ sẽ rút bỏ. Riêng tôi cứ cho là chánh phủ sẽ rút về Cần thơ tiếp tục đánh . Sáng ngày 28, tôi ra bến xe đò Phú lâm để đi Long Xuyên. Bến xe đầy nghẹt người, không có chiếc nào khởi hành được vì cầu Bến Lức bị VC chận. Tôi trở về Sài Gòn đến hãng HKVN gần chợ Bến Thành xếp hàng mua vé đi Cần Thơ. Đến đúng phiên tôi lại hết vé, cô nữ tiếp viên nhả nhặn xin phépđóng cửa quày. Tôi lại trở ra Phú lâm, cũng không có kết quả. Bổng nhiên có người nói lớn:"Ngả Gò Công đi được". Tôi trở về đến bến xe Gò Công ở Ngả Bảy. Người ta chạy tới chạy lui nhộn nhịp. Tôi kiếm một quán nước ngồi xem tình hình. Bổng có một anh chàng lái xe Honda, phía trước ôm một sac marin. Anh rồ ga rùum ...rùum...rùum, hất hàm hỏi tôi:"Anh đi Gò Công hả?".Tôi gật đầu. Anh bảo: lên đây đi với tôi. Tôi phóng lên ngồi phía sau anh. Sau đó anh cho biết anh là nhân viên quân cảnh, rời đơn vị từ Tây Ninh về đơn vị ở Gò Công, đi một mình lạnh cẳng, anh rủ tôi đi cùng cho vui. Quốc lộ 4 vắng tanh, một vải chiếc xe đò bị giật mìn nằm dọc đường. Anh lái bạt mạng, lạng qua bên nầy, lạng qua bên kia, tôi ôm cứng eo ếch anh. Vậy mà cũng đến được bến phà Gò Công. Anh quân cảnh bỏ tôi ở đó. Tôi qua phà, đến Mỷ Tho trời chạng vạng tối. Ngủ đêm tại Mỷ Tho, 5 giờ sáng ngày 29, tôi lò mò ra bến xe. Hai bửa rồi không có chiếc nào chạy được, tài xế đói meo .Trời xui đất khiến thế nào, chiếc xe đò tôi mua vé, tài xế quyết định chạy. Quốc lộ 1 vắng tanh, không khí chiến tranh thấy rỏ. Không một xe đạp, không một xe gắn máy, không một bòng người, Xe chạy được một đoạn đường lại ngừng, chờ xe đò đi ngược chiều, hỏi thăm có sao không rồi chạy tiếp. Đoạn đường qua Cai Lậy mới là hồi hộp. Cuối cùng tới Bắc Mỷ Thuận, tôi thở phào một cái . Qua Bắc, không khí khác hẳn, cảnh vật thật thanh bình, người dân hình như không biết đến chiến tranh là gì. Rồi đến Long Xuyên, rồi đến Tân châu vào chiều tối. Tôi gặp thiếu tá Ngô như Chương, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn Tuần Thám đóng tại đây. Tôi và anh nói chuyện tới 10 giờ khuya rồi anh đưa tôi về tàu. Bước lên tàu, sỉ quan trực đưa mấy công điện "hỏa tốc", là độ khẩn cao nhứt, bảo nhổ neo về Đồng Tâm, Mỷ Tho. Công điện cuối cùng bảo thi hành ngay và báo cáo. Điểm danh nhân viên, thiếu hạm phó và vài thủy thủ. Tôi quyết định nhổ neo vì nếu chậm trễ trong khi căn cứ Đồng Tâm bị tấn công thì sao?. Cứu binh còn hơn chửa lửa. Vả lại, những người vắng mặt, ngày mai có thể liên lạc với Cơ xưởng hạm tìm biết vị trí của chiến hạm để tìm đường về, nếu họ muốn. Tàu giang hành ban đêm, tôi thức suốt đêm trên đài chỉ huy. Vào khoảng 2 giờ sáng, gặp một đoàn công voa của Quân Vận đi ngược chiều, dài mấy cây số. Đi sát gần bên, tôi hỏi lớn:"Từ đâu đến, đi về đâu". Họ trả lời:"Từ Sài Gòn, đi Cần Thơ". Tôi lại đinh ninh là chánh phủ sẽ di chuyển về Cần Thơ. Tự suy diễn để an tâm chiến đấu . Sáu giờ sáng, tàu đến Đồng Tâm. Căn cứ Hải Quân Đồng Tâm đồn trú bên một cái hồ rất lớn, thông ra dòng sông cái. Tôi chuẩn bị quẹo tàu vào thì ở trong ùa ra hàng trăm tiểu đỉnh đủ mọi loại: thủy bộ, ngăn chận, LCVP... giống như một đàn cá tuồn qua một cổ chai. Không phải một cuộc di chuyển bình thường mà là một cuộc tháo chạy. Tôi ngạc nhiên quá, cho tàu ngưng máy và thả trôi lềnh bềnh. Một chiếc tiểu đỉnh cặp vào tàu, một viên trung úy đến chào tôi:"Trong căn cứ không còn ai. Một thiếu tá trở cờ, đang khống chế căn cứ. Họ sẽ kêu hạm trưởng vào để bắt giữ chiến hạm. Hạm trưởng ở đây thâm niên nhứt. Chúng tôi đặt dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng." Tôi mất bình tỉnh, không ngờ sự việc xảy ra diễn tiến như vậy. Giải quyết sao đây? Tôi bảo ông trung úy: "Ông ra lịnh cho các tiểu đỉnh ủi bãi vào cù lao, chờ đó". Ở đây cần nhấn mạnh đến tinh thần chiến đấu của chiến sỉ Hải Quân, đồn trú ở CCHQ/Đồng Tâm, là bằng chứng hùng hồn lòng kiên cường của binh sỉ QLVNCH . Tôi bảo phòng vô tuyến liên lạc với BTL/HD. Phòng vô tuyến trả lời, tất cả đều đổi tần số không liên lạc được. BTL/HD là nơi chỉ huy chính gốc của tôi, BTL/LLTB là nơi biệt phái. Một nơi không liên lạc được, một nơi bị khống chế. Làm sao đây? Vào lúc đó CCHQ/ĐT gọi qua máy âm thoại PRC25: "Yêu cầu HQ231 vào cặp cầu căn cứ để nhận tiếp tế và nhận chỉ thị". Tôi cầm ống liên hợp hỏi lại: "Cho tôi nói chuyện với ông số 1". Tiếng trên máy trả lời: "Ông sô 1 đi họp với sư đoàn 7 rồi". Tôi hỏi tiếp ông số 2 đâu. Trả lời: ông số 2 cũng đi rồi. Tôi hỏi dồn, còn ông số 3. Trên máy trả lời là không có luôn. Như vậy là quá rõ ràng, họ muốn bắt giữ HQ231. Tôi gằn giọng:"Anh là ai, anh không có thẩm quyền chỉ huy tôi". Tiếng trên máy đổi giọng đe dọa:"Anh không tuân lịnh, tôi kêu mấy con chuồn chuồn bắn anh". Tôi biết tỏng tòng tong là hắn hù tôi. Trên trời có mấy chiếc trực thăng, nhưng họ cũng lo bấn xúc xích, hơi đâu mà đi bắn đơn vị bạn. Tôi cười thành tiếng trên máy "Anh lòi đuôi anh ra rồi, anh không phải là sĩ quan Hải Quân chính cống, không biết một tí gì về Hải Quân. Anh không biết hỏa lực con cá tôi mạnh đến mức nào. Hai con chuồn chuồn không ăn thua gì đâu, anh phải kêu 10 con chuồn chuồn mới hạ được tôi". Tiếng nói trên máy im bặt, hình như hắn bối rối. Tôi nạp thêm: "Anh cho tôi biết ý định của anh đi, nếu anh còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẵn sàng yểm trợ anh. Còn không, anh đừng gọi tôi". Đến phiên tôi, tôi bối rối khủng khiếp. Bây giờ làm sao đây. Tôi cảm như rơi xuống một vực thẳm tối om, có một lực nào đó lôi tôi tuồn tuột xuống, không bám víu vào đâu được. Các tiểu đỉnh bơ vơ, còn bám lấy tôi. Còn tôi bơ vơ, tôi bám vào đâu? Chiến hạm vẫn chạy tới, chạy lui trước Mỹ Tho và căn cứ Đồng Tâm. Một thủy thủ mang một radio lên đài chỉ huy, mở lớn cho tôi nghe. Tiếng Tổng Thống Dương văn Minh làm nghẹn lòng người: yêu cầu QLVNCH buông súng ngừng chiến đấu, ai ở đâu thì ở đó. Lời nói của Tổng Thống Minh như muôn ngàn mủi tên cắm vào thân thể tôi. Tôi như Từ Hải chết ngoài trận tiền. Một làn khí lạnh chạy suốt xương sống. Mồ hôi đổ ra đẵm ướt đầy mình. Tôi ngồi bất động, không biết bao nhiêu lâu, có thể là 5 phút, có thể là 10 phút mà cũng có thể hơn. Hoàn hồn lại, tôi nghỉ ngay là phải cứu con tàu. Biết đâu được, có một lực lượng nào còn chiến đấu thì sao? Sực nhớ tới hàng trăm tiểu đỉnh đang ủi bải ở cù lao, nhưng Tổng Thống Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi, tôi không còn trách nhiệm nữa. Còn sinh mạng họ? Tôi không thể tập họp, hỏi ai đi ai ở. Vì như vậy, cộng quân đủ thời giờ phong tỏa một khúc sông nào đó trên đường tàu ra cửa biển . Tôi quyết định quay tàu ra cửa biển. Hai máy tiến full, động cơ nổ ầm ầm, nước rẻ sóng hai bên mủi tàu trắng xóa. Tàu đang ở nhiệm sở tác chiến. Khi nghe Tổng Thống Minh tuyên bố đầu hàng, thủy thủ đoàn tự động tan hàng. Họ đứng tụm năm, tụm ba bàn tán, có người mang hành lý ra sân tàu. Tôi biết tình hình bất ổn, không khéo có nổi loạn. Cuối cùng việc gì đến sẽ đến. Họ cử thiếu úy Long lên nói chuyện với tôi. Ông đứng dưới cầu thang nói vọng lên đài chỉ huy, giọng nói to tiếng hơn ngày thường: "Hạm trưởng, quay tàu về Mỷ Tho cho tụi tôi lên bờ". Nghỉ cho cùng, cách cư xử và lời nói của thiếu úy Long hoàn toàn đúng. Quân đội tan hàng rồi, thủy thủ có quyền đòi hỏi trở về với gia đình. Mục đích của tôi là muốn gìn giữ con tàu. Nếu tàu cặp bến Mỷ Tho, thủy thủ rời tàu, lập tức HQ231 sẽ là đống sắt vụn. Mục đích thứ hai là tôi thầm mong được tiếp tục chiến đấu, dại gì nộp con tàu cho kẻ địch. Làm theo lời thiếu úy Long là không được mà cứng rắn với thủy thủ đoàn lại càng không xong. Phải dùng tình cảm thôi. Tôi nghiêm sắc mặt nói với thiếu úy Long:"Mặc dù chúng ta ở tình hình như thế này, nhưng truyền thống của Hải Quân, một sỉ quan đàn em nói với đàn anh như vậy sao?". Bình thường thiếu úy Long là một sỉ quan năng nổ, làm việc chăm chỉ và rất kỷ luật. Ông đã trui rèn hai năm ở quân trường, thấm nhuần truyền thống của Hải Quân, vì vậy ông thấm ý lời tôi nói. Ông đứng im. Tôi nói tiếp:"Thôi ông tập họp nhân viên cho tôi nói chuyện". Quân số thủy thủ đoàn vào khoảng 80 người. Họ đứng im phăng phắc, gương mặt rất nghiêm trọng. Chỉ có mình tôi là còn mặc áo giáp, đội nón sắt. Bổng nhiên hôm đó, tôi nói rất hùng hồn. Đại khái:"Mọi người thấy rõ, tôi làm việc cho con tàu, cho Hải Quân, cho Quân Đội. Thủy thủ đoàn ở dưới tàu được chăm sóc đầy đủ quyền lợi. Tôi quyết định ra biển có 2 lý do: thứ nhứt là gìn giữ con tàu. Quay trở lại cặp bến, người ta sẽ phá con tàu, đây là tài sản của quôc gia. Thứ hai là bảo vệ sinh mạng các anh. Mặc dù quân đội tan hàng rồi, tôi vẫn còn trách nhiệm. Trong lúc tranh sáng, tranh tối các anh lên bờ có thể bị giết. Tôi hứa với các anh là, khi ra biển rồi, tình hình bình yên, ai muốn về tôi cho về. Phương tiện ghe đánh cá nhiều lắm. Tôi hứa". Tôi biết, phần đông các cuộc loạn trên tàu là do hạm trưởng hoặc thuyền trưởng o ép quá đáng. Tôi muốn làm cho rỏ trắng đen để mọi người đều hả dạ. Nhưng để lái theo ý mình, phải khôn khéo một tí xíu cộng them một tí tình cảm. Tôi quyết định trưng cầu dân ý. Tôi nói: "Bây giờ, tôi lấy ý kiến các anh, bên nào đa số tôi làm theo. Tôi đặt ra 2 câu hỏi, thứ nhứt, ai muốn quay lại Mỷ Tho lên bờ, thứ nhì, ai theo tôi ra biển rồi sau đó muốn về thì về". Tôi biết cái gì đưa ra đầu tiên, người ta bở ngỡ, ngập ngừng, ngại quyết định. Tôi nắm tâm lý đó. Vả lại, ý kiến thứ hai hấp dẫn hơn, đi thì cứ đi rồi sau đó muốn về thì về. Tôi biết chắc là tôi sẽ thắng. Nhưng để chắc ăn, tôi nêu câu thứ nhứt trước:"Ai muốn quay tàu lại Mỷ Tho". Không ai đưa tay lên. Tôi lập lại lần thứ nhì rồi lần thứ ba. Không có người nào đưa tay. Tôi mừng thầm trong bụng vì biết là mình thắng rồi. Tôi nói tiếp:"Bây giờ tôi sang câu thứ hai, ai theo tôi ra biển rồi muốn về thì về". Một người đưa tay, hai người rồi ba rồi cả tàu. Một chiến thắng tuyệt đối. Nhấn mạnh ở đây là không có cò mồi. Tôi vẫn trầm tỉnh, nhẹ nhàng: "Như vậy là các anh đồng ý với tôi hết rồi, phải không? Các anh tiếp tục làm việc. Nhớ là ai muốn vào bờ cứ gặp tôi. Thôi tan hàng". Mọi người vui vẻ mà tôi không bận tâm nữa. Chiến hạm ra cửa biển bằng cửa Tiểu vào buổi chiều. Nhạc sĩ Trường Sa bập bềnh sóng nước trên chiếc Coast Guard. Ông gọi tôi, tôi ngừng lại để ông lên tàu. Tối hôm đó, bắt được tần số của Hạm Đội, tất cả tàu đang tập trung tại Côn Sơn. Trên đường đi, tôi gặp HQ228, hạm trưởng thiếu tá Vương thế Tuấn, cũng lạc loài bơ vơ như tôi. Chúng tôi ngừng lại cứu hai chiếc LCM, chết máy thả trôi lềnh bềnh, từ cửa Định An đi ra. Mỗi chiếc khoảng hai trăm người. Chúng tôi đến Côn Sơn rồi theo đoàn tàu qua Subic. Đến Subic, tôi là người cuối cùng rời tàu. Một viên đại úy bộ binh, trong đám người di tản trên chiếc LCM, cố chờ tôi trên bờ, đến bắt tay tôi: "Tôi di tản từ miền Trung về, chưa thấy tàu nào có kỷ luật như tàu của ông". Tôi cầm tay ông siết nhè nhẹ. Tôi thẩn thờ không nói được lời nào. Tôi muốn chia xẻ tình chiến hữu với ông. Nhưng trong lòng trăm mối ngổn ngang. Tình nước, tình nhà còn đó. Nhưng từ đây tất cả bỏ lại sau lưng. Bỏ lại quê hương yêu dấu, bỏ lại Hải Quân, bỏ lại biển xanh lồng lộng, bỏ lại Mẹ già và bỏ lại con tàu thân yêu.
Nguyễn Văn Phước (30/4/2010)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:23:17 GMT 9
Chuyến hải hành sau cùng của Hải Quân VNCH Tháng 4-1975
Trần Lý
LTG: Trong tập sách nhỏ 'Tổ Quốc Đại Dương', viết năm 1999 để tặng một số thân hữu Hải Quân tại Portland, Oregon (Hoa Kỳ), chúng tôi đã dành chương sau cùng để viết về cuộc di tản của Hải Quân VNCH trong những ngày sau cùng của cuộc chiến. Bài viết, khi đó, dựa trên một số tài liệu sưu tầm được (rất hạn hẹp), đa số từ các sách báo Mỹ-Việt ở vào thời điểm chưa có Wikepedia, và Internet chưa phát triển như ngày nay. Bài viết đã đưa ra một số vấn đề mà các nhà nghiên cứu Hải sử (trong Hội đồng Hải sử, tập Hải sử Tuyển tập chỉ phát hành vào năm 2004) cho là chưa thật chinh sac, nhất là các đoạn viết về vai trò của HQ Đại Tá Đỗ Kiễm., của Ông Richard Armitage trong việc 'tổ chức di tản'.. Đến nay đã hơn 37 năm, một số tài liệu về cuộc chiến tranh VN đã được giải mật, đồng thời rât nhiều nhân chứng đã sông và đã chứng kiến cuộc di tản viết lại những sự kiện đã xẩy ra.. trên nhiều bài hồi ký phổ biến trên nhiều tạp chi, tập san tại hải ngoại. Tựa đề bài viêt ' Cuộc Hải hành sau cùng' có lẽ thich hợp hơn là 'Di tản' (Riêng Tác giả Điệp Mỹ Linh, trong tập Hải Quân VNCH ra khơi, đã dùng một tựa đề khác, rất chính xác là ' Chuyến Ra khơi cuối cùng của Hải Quân VNCH . Để tránh việc trùng lập, chúng tôi xin chỉ 'thu gọn' một số sự kiện đã viết trong 'Tổ Quốc Đại Dương'.
* * *
Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã thực sự chấm dứt từ ngày họ ký Hiệp Định Paris (28 tháng Giêng 1973) và số phận VNCH chỉ còn là vân đề thời gian. Những lời hứa hẹn 'riêng' của TT Nixon với TT Thiệu về việc sẽ 'can thiệp' khi BV vi phạm Hiệp Định Paris chỉ là..hứa cho có, cho xong việc. - Phó Đô đốc (Tướng 3 sao) Chung tấn Cang được chuyển từ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô về làm Tư lệnh Hải Quân, nhậm chức ngày 24 tháng 3 năm 1975, Tướng Cang được xem là người 'tín cẩn' của TT Thiệu, và có thể TT Thiệu đã nghĩ dến việc phải di tản Chính phủ về Miền Tây? (Tâm tư TT Thiệu-Nguyển Tiến Hưng trang 125). - Ngày 29 tháng 3 năm 1975, VNCH rút bỏ Đà Nẵng : Vùng 1 tan rã và sau đó là những cuộc lui binh liên tục. Tình trạng Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 ở vào giai đoạn tuyệt vọng. - Ngày 21 tháng 4: Tuyến phòng thủ Xuân Lộc tan rã - Ngày 23 tháng 4: TT Thiệu từ chức và sau đó rời VN ngày 25 tháng 4 cùng với cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc bằng chiếc phi cơ C-118 (phi cơ riêng của Đại sứ Martin). - Tổng Thống kế nhiệm Trần văn Hương, chỉ được 2 ngày đã phải nhường chức vụ TT cho Ông Dương văn Minh (28 tháng 4 năm 1975). Đại tướng Cao văn Viên TTM Trưởng QL VNCH từ nhiệm và ra Hạm đội Mỹ từ 27 tháng 4. Trung Tướng Đổng văn Khuyên, Tổng Tham mưu Phó, xử lý thường vụ TTM trưởng di tản vào 29/4. - Chiều 28 tháng 4 Ông Dương văn Minh nhận chức Tổng thống VNCH.. - Sáng 29 thàng 4, Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu đọc bản văn yếu cầu Hoa Kỳ..rút khỏi VNCH..Kế hoạch di tản hay đúng hơn ..tháo chạy 'Frequent Wind' của HK bằng trực thăng bắt đầu. - 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4: Bộ TTM QL VNCH hoàn toàn tan rã và không còn ai có thẩm quyền quyết định (Phạm Bá Hoa- Đôi dòng ghi nhớ, trang 270) - 3 giờ chiều 29/4, Tường Vĩnh Lộc vào nhận chức TTM trưởng ... nhưng chẳng còn ai.Tường Vĩnh Lộc phong cho bất kỳ sĩ quan nào còn lại những chức vụ cần thiết. Ngày 24 tháng 4 năm 1975, theo yêu cầu của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Erich von Marbod, Richard Armitage đã đáp chuyến bay cuối cùng của PanAm để đến Sàigòn với nhiệm vụ 'tối mật' là tìm cách đưa ra khỏi VN các chiến cụ 'càng nhiều càng tốt'. Von Marbod lo phần Không Quân, và Armitage lo phần Hải Quân. (Armitage vốn là một sĩ quan hải quân HK, đã từng phục vụ tại VN 4 nhiệm kỳ liên tiếp, có nhiều liên lạc mật thiết với các sĩ quan hải quân VNCH cao cấp. Tuy chỉ đóng vai trò sĩ quan liên lạc giữa HQ Mỹ và HQ VN, nhưng trên thực tế, Ông là một giới chức quan trọng tại Bộ Quôc Phòng Mỹ) Armitage đã tìm gặp HQ Đại Tá Đỗ Kiểm (Tham mưu Phó Hành Quân có trách vụ điều hành và theo dõi các hoạt động của các chiến hạm từng ngày tùy theo kế hoạch hành quân) để hoạch định một kế hoạch di tản tổng quát. Armitage cũng bàn một số công việc với Phó Đô đốc Cang (Counterpart-Đỗ Kiểm trang 198) Công việc tổ chức 'di tản' cần phải giữ 'bí mật' tối đa, tránh mọi sự hoảng loạn rất dễ xẩy ra. Để sửa soạn 'ngầm', các cuộc tuần phòng của HQ được thu hẹp để các chiến hạm tuần duyên có thể được tập trung nhanh hơn. Các nhu cầu tu bổ đại kỳ được tạm ngưng để tập trung tu sửa cho các chiến hạm có thể ra đi được. Các Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4, Tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão HQ 15, Hai Hộ tống hạm Kỳ Hòa HQ 09 và Hà Hồi HQ 13, Dương vận hạm HQ 503 và Hai Hải vận Hạm Ninh Giang HQ 403, Tiền Giang HQ 405 đang nằm trên ụ tàu để đại tu sẽ phải bỏ lại. Số phận chiếc Lam Giang HQ 402 với một máy đang hỏng ... chưa được quyết định.. Duyệt xét sơ khởi cho thấy khoảng trên 30 chiến hạm trong tổng số 45 chiếc cở lớn của HQ/VNCN có thể ra đi được ... Và số chiến hạm này được phân bố vừa tại bến Sàigòn, vừa tại vùng biển Vũng Tàu và tại vùng biển Phú Quốc. Việc di tản khó khăn nhất được đặt ra cho những chiến hạm đang đậu tại bến Bạch Đằng, ngay trước Bộ Tư lệnh HQ.
Diễn tiến cuộc Di tản Tại Bến Bạch Đằng: - Chiều 26 tháng 4, HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư lệnh Hạm đội bị cách chức do tin tức chuẩn bị di tản bị lộ. Người thay thế là HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê. - 5 giờ chiều 28 tháng 4, TT Dương văn Minh họp với Phó Đề đốc Tư lệnh phó HQ Diệp Quang Thủy (đại diện Tướng Cang) đồng ý để HQ di tản và gửi theo các Tướng Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Hữu Xuân và Đại tá Nguyễn hồng Đài (con rể Ô. Minh). Lệnh di tản HQ được công bố vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4. Thủy thủ được cho phép về nhà sắp xếp và nếu muốn ra đi có thể đem theo gia đình trong khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ. Tướng Cang quyết định HQ sẽ chính thức ra đi vào lúc 6 giờ chiều ngày 29 tháng 4 và cuộc di tản dự trù sẽ hoàn tất vào lúc 22 giờ đêm. Điểm hẹn là Côn Sơn. Nhìn xuống bờ sông : 8 chiến hạm đang nằm chờ : - 5 chiếc tại cầu tàu A (không theo thứ tự): HQ601, HQ11, HQ504, HQ502, HQ501. - 3 chiếc tại cầu tàu B đậu từ trong ra ngoài : HQ1 (tại vị tri số 1 gần sát đường lộ, mặt tiền Bộ Tư lệnh HQ, bên cạnh là HQ3 và ngoài cùng là HQ2. - Xa hơn nữa là cầu tàu C. Các cầu tàu D và E nằm trong HQCX cách sân cờ Bộ Tư lệnh khoảng 200m. - Tại cầu tàu E của Hải Quân Công Xưởng có HQ400 (đậu trước Câu lạc bộ HQ) và HQ500 HQ402 đậu tại cầu tàu D - Ngoài ra còn một số chiến hạm thả neo tại Nhà Bè.. Lúc này bên Bạch Đằng đông nghẹt người đang chờ được di tản. Tại Cầu tàu B: Tuần dương hạm HQ2 Trần Quang Khải là chiến hạm đầu tiên do HQ Tr/Tá Đinh Mạnh Hùng điều khiển.. tách bến. Trên chiến hạm có Phó Đề đốc Nguyễn Hữu Chí , Phụ tá Hành quân lưu động biển của HQ/VNCH. Trên tàu còn có một số tướng lãnh như Lâm Quang Thi, Lâm Quang Thơ, Nguyển Bảo Trị, Nguyển Đức Thắng, Phạm quốc Thuần, Nguyển Đức Khánh (KQ) ( theo Nguyễn Kim: Di tản về Miền Tây và Hy vọng ; tuy nhiên trong The Twnty-five Year Century, Tướng Lâm Quang Thi cho biết ông và các Tướng trên được HQ Trung Tá Văn Trung Quan đưa lên HQ1 ?). Sau khi tập trung tại Côn Sơn, HQ2 được giao nhiệm vụ vơt một sà lan, nhưng đã từ chối thi hành; sau đó trợ giúp HQ402 và sau cùng kéo HQ329 ... và sau đó tự động tách riêng không còn nhận lệnh từ Hạm đội để đi thẳng đến Subic Bay (Hải sử tuyển tập trang 53-536) Khoảng 7 giờ chiều, Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ3 do Hạm trưởng HQ Tr/Tá Nguyễn Kim Triệu điều khiển, rời bờ. Trên chiến hạm có các Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng và Hoàng Cơ Minh. Tàu chở đầy người. Khu trục hạm HQ1 Trần Hưng Đạo, tuy được dự trù sẽ là soái hạm, kéo cờ Tư lệnh trên kỳ đài, nhưng chưa tách bến vì còn chờ Hạm trưởng HQ Trung tá Nguyển Địch Hùng vắng mặt, do đón gia đình chưa về đến. Trên tàu đã có mặt Đề đốc Lâm Nguơn Tánh (Cựu Tư lệnh HQ), Phó Đề đốc Nguyễn Thanh Châu. Do dân chúng tràn ngập trên bờ nên các Tướng Cang và Thủy không thể lên tàu. Cuối cùng Phó Đề đốc Châu ra lệnh tách bến (khoảng 8 giờ chiều). Trên đường ra biển, HQ1, do một máy bị hỏng, đã lủi vào bờ và mắc cạn tại bờ hữu ngạn sông Lòng Tảo, phải nhờ HQ801 (hạm trưởng HQ Tr/tá Nguyễn phú Bá) sau khi nghe lời kêu cứu của Đề đốc Tánh đã quay lại và giúp kéo ra. Sau đó chiến hạm do HQ Đ/tá Phan Phi Phụng điều khiển đã ra đến điểm hẹn Côn Sơn. Tại Cầu tàu A: Tình trạng hỗn loạn và căng thẳng diển ra trên bờ. Trong khi đó dưới sông, ba chiến hạm còn chờ : Dương vận hạm Qui Nhơn HQ504 đậu ngoài cùng trống trơn vì Hạm trưởng (HQ Tr/ tá Nguyễn như Phú) không chịu ra đi, và cũng không tách rời để 2 chiến hạm phía trong có thể tách bến. Nhờ uy tín cá nhân, Đại Tá Đỗ Kiểm đã giúp giải quyết tình trạng bế tắc kể cả việc dùng tiền VNCH thu góp của người di tản để mua chuộc các thủy thủ của HQ504 chịu tháo giây, dời tàu để các chiến hạm phía trong có thể ra đi. Hệ thống chỉ huy của HQ cũng rối loạn: Nhiều Đ/ Tá như Trịnh Xuân Phong 'tự phong' thành Tư lệnh Hạm đội để ra lệnh cho các tàu..phải ở lại. Đ/Tá Trần Bình Phú (TM Phó Nhân viên), cũng trở thành Tư lệnh Hành Quân để bắt các tàu giữ nguyên vị trí chờ lệnh. Đ/Tá Nguyễn văn Tân (Trưởng Khối An Ninh). Tư lệnh HQ sau cùng (do Tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mu trưởng sau cùng của QL/VNCH, phong) ... cũng xuất hiện để cấm di tản .(?) (Tình trạng hỗn loạn tại Bến Bạch Đằng cũng như các sự việc xẩy ra được kể lại trong các tác phẩm Counterpart của Đ/Tá Đỗ Kiểm, Hải Quân VNCH ra khơi của Điệp Mỹ Linh và Bút ký 'Di tản về miền Tây' của Phạm Kim) Các Tướng HQ Cang và Thủy sau khi không lên được HQ1 đã lên Tuần duyên hạm Tiên Mơ HQ601. HQ601 do Hạm trưởng HQ Đ/úy Trần Minh Chánh (Con Đề đốc Trần văn Chơn, cựu Tư lệnh HQ) điều khiển, tuy đã quyết định sẽ không di tản, ở lại cùng gia đình gồm cả Tướng Chơn, vẫn điều hành chiến hạm và đưa các Tướng Cang và Thủy (trên tàu còn có HQ Đ/Tá Nguyễn xuân Sơn, cựu Tư lệnh Hạm đội) ra Vũng Tàu. Sau khi chuyển đoàn, tư lệnh HQ lên HQ3. Hạm trưởng Chánh đã đưa tàu trở lại Bến Bạch Đằng (Trần Minh Chánh-Chuyến hải hành cuối cùng của Chiến hạm PGM HQ 601- Đặc san Lướt sóng số 51) (Tuần duyên hạm PGM là loại tàu nhỏ nhất để được gọi là chiến hạm.) Sau khi HQ504 chịu tháo dây: Hộ tống hạm Chí Linh (II) HQ11 cũng ra đi vào khoảng 11 gìờ đêm, do hạm trưởng HQ Thiếu tá Phạm Đình San điều khiển, mang theo Đại Tá Đỗ Kiểm. Trên đoạn đường từ Sài gòn ra biển, Ông đã tạm dùng hệ thống vô tuyến của chiến hạm để chỉ huy việc di chuyển của đoàn tàu. (Theo Counterpart, chiến hạm neo bên ngoải HQ11 là chiếc HQ503, trong khi đó theo 'Hải quân VNCH ra khơi' thì là chiếc HQ504) Dương vận hạm Thị Nại HQ502, sau những điều đình với thủy thủ của HQ504, cột giây bên ngoài nhưng không chịu ra đi và sau cùng HQ502 do HQ Tr tá Nguyễn văn Tánh làm hạm trưởng cũng rời bến vào khoảng 1 gìờ đêm 29, rạng sáng 30 tháng 4. Sau một số trục trặc về máy móc, tàu được sự trợ giúp của một tàu dòng của Ty Quân Cảng đã ra được giữa giòng sông để theo ra cửa biển. Trên đường đi, vớt được Đ/Tá Trịnh Quang Xuân (Tư lệnh vùng 3 Sông ngòi) từ một PBR. Sau cùng với tình trạng hỏng máy, HQ502 được HQ17 kéo đi Subic Bay. (Phan Lạc Tiếp -'Giã từ Saigon' trên KBC số 19) Tại Hải Quân Công Xưởng : Các chiến hạm HQ406 và HQ500 rời bến khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng 4. Hải vận hạm Lam Giang HQ402 đang trong giai đoạn tu sửa, đã được một số sĩ quan và thủy thủ sửa chữa gấp rút và sau cùng đã tách bến được vào lúc 3 giờ chiều ngày 30 tháng 4 (sau khi DV Minh đã ra lệnh đầu hàng. HQ Trung Úy Cao thế Hùng đã điều khiển chiến hạm ì ạch ra đi, chở theo trên 1000 người. 5 giờ chiều ngày 30 tháng 4, tàu còn đón được HQ Đ/ tá Lê Hữu Dõng từ một LCM8 và sau đó Phó Đề đôc Nghiêm văn Phú. Sau cùng sáng 1 tháng 5, HQ402 cũng ra được biển Vũng Tàu.. Sau khi liên lạc được với Hạm đội VN và Hạm đội Hoa Kỳ, những người trên HQ402 đã được chuyển sang HQ2 và HQ402 đã được đánh chìm vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng 5 ngoải khơi Côn sơn (Những bài về HQ402 : 'Hải vận hạm Lam Giang HQ 402, một huyền thoại-Điệp Mỹ Linh; 'Chuyến Hải hành cuôi cùng'-Đỗ Kim Bảng-KBC số 60). Các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung đến Bến Bạch Đằng vào sáng 30 tháng 4 và dùng một LCM của giang cảnh để tìm đường ra biển. LCM được Tuần duyên hạm Tây Sa HQ615 vớt vào tối 30/4. Nhưng đến sáng 1/5 HQ615 bị hết dầu khi còn đang ở trong hải phận Vũng Tàu. Sau cùng được HQ17 chịu quay lại cứu. HQ17 vớt được trên 300 người từ HQ615 và 200 người từ HQ470. Sau đó cả 2 chiếc 615 và 470 đều bị đánh chìm.. Tại Nhà Bè : Dương vận Hạm Mỹ Tho (HQ800) , do dự định sẽ được dùng làm Bộ Chỉ huy HQ khi cần, nên được trang bị đầy đủ cùng nhân viên cơ hữu. Hạm trưởng HQ Trung Tá Dương Hồng Võ mới được bổ nhiệm ngày 26 tháng 4, thay vị tiền nhiệm vì đưa gia đình lên chiến hạm trước (ngày 25 tháng 4). HQ800 nhận lệnh trực tiếp từ Tư lệnh HQ..và cũng lặng lẽ ra đi.. Tại vùng biển Vũng Tàu : Tại vùng biển Vũng tàu, những chiến hạm hiện diện gồm HQ5, HQ802, HQ16, HQ7, HQ12, HQ505, HQ400.Các tàu chở dầu HQ470, HQ471 .Tất cả đều thả neo ngoài khơi.. Cuộc di tản tại Vũng Tàu tuy không gặp những hỗn loạn như tại Bến Bạch Đằng SàiGòn , vì chiến hạm đậu ngoài khơi : dân chúng di tản phải dùng các ghe đánh cá để chạy ra tàu..Tuy nhiên sự ra đi của các chiến hạm..tùy thuộc vào từng Hạm trưởng. Tư lệnh Vùng 3 Duyên Hải, Phó Đề đốc Vũ Đình Đào không có những quyết định chính thức nào về vấn đề di tản. Sáng sớm ngày 29 tháng 4, Ông đã cùng bộ tham mưu lên chiến hạm HQ802. Ngày 29 tháng 4, hai Tuần dương hạm Ngô Quyền HQ17 và HQ14 , về đến Vũng Tàu, sau khi được lệnh bỏ dở chuyến tuần tiễu Trường Sa. Trưa 29 được lệnh từ Hải đội 3..cho tự do vận chuyển..toàn quyền tự quyết định, không cần thông báo.. (một hình thức..rã ngũ ?) HQ17 do Hạm trưởng HQ Tr/Tá Trương Hữu Quýnh đành quay đầu về hướng Côn Sơn. Tại đây tàu tiếp nhận khoảng 3000 người tỵ nạn..một số thủy thủ xin rời tàu trở về với gia đình.. HQ17 theo đoàn tàu HQ/VNCH di chuyển đi Phillipines, và trong khi di chuyển còn trở lại vùng biển Vũng Tàu để tiếp cứu chiếc PGM hết dầu chết máy đang trôi dạt.. Đây là chiếc (PGM) HQ615 có chở trên 300 người trong đó có các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung. Dương vận hạm Nha Trang HQ505 (Hạm trưởng HQ Tr Tá Nguyễn văn Nhượng) thả neo bên ngoài Cửa Vũng Tàu..chờ đợi. Từ sáng 28/04, ghe của dân chạy ra rất nhiều và xin lên chiến hạm. Trưa 29, xe tăng tại bãi biển Vũng Táu bắn ra nên HQ505 lui ra xa hơn. Trực thăng KQVN cũng đáp xuống. Ngày 29/04, HQ505 rời vùng biển Vũng Tàu theo lệnh' Vận chuyển tự do'.của Vùng 3 Duyên hải di chuyển về Phú Quốc. Tại vùng biển này HQ505 vớt thêm được một số người và quyết định trở lại Côn sơn sau khi đã dàn xếp chuyển những người muốn trở về qua các tàu thuyền đánh cá. HQ505 về đến Côn Sơn trưa ngày 2 tháng 5, lúc này đoàn tàu HQ/VNCH đã đi về hướng Philippines. Sau cùng HQ505 đã liên lạc được với một chiến hạm của HQ Hoa Kỳ và được hộ tống đi Subic Bay (Nguyễn Nhật Cường- 'Tháng Tư, Cả một đời người trước' Biển Khơi Số tháng 4/2009). HQ505 di chuyển về Phú Quốc để đón Tr/Tá Hậu Chỉ huy trưởng căn cứ An Thới đang bị kẹt lại trên đảo. HQ505 đã đón được nhóm này chạy ra biển bằng một LCM8, lúc 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5, miễn cưỡng phải nhận thêm những người cùng chạy theo Tr/tá Hậu. Hạm trưởng HQ505 dự trù đi Pháp nên không muốn vớt thêm người tuy nhiên sau đó quyết định đi Phi và những thủy thủ, đoàn viên muốn trở về đã dùng chiêc LCM8 để vào bờ..(Lê văn Mạnh-'Cuộc trùng phùng kỳ diệu'. Tac giả ghi nhầm số hiệu của chiến hạm đã vơt LCM8 là HQ504 thay vì HQ505, chiếc 504 ở lại Saigon không di tản). Tại Căn cứ Hải Quân Cát Lở (nơi trú đóng của Bộ Tư lệnh HQ Vùng 3 Duyên hải) : Phó Đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại đã dùng PCF rời căn cứ để ra Cơ Xưởng hạm Vĩnh Long (HQ802) neo sẵn ngoài khơi vào đêm 29 tháng 4, cùng đi có Tướng Trần văn Nhựt. Trên tàu đã có Tướng Nguyễn duy Hinh và còn thêm 2 Tướng Hoàng Xuân Lãm, Phan Hòa Hiệp được Tướng Nguyễn văn Toàn gửi theo (Hồ văn Kỳ Thoại trong Can trường trong chiến bại). Tư lệnh vùng 3 Duyên hãi cũng di tản trên chiến hạm này. HQ802 rời Vũng Tàu và đi thẳng đến Subic Bay, không đến điểm hẹn Côn Sơn (Giờ thứ 25 của Người linh biển-Nguyễn Hữu Chí trong Hải sử Tuyển tập) Hải vận hạm Hát giang HQ400, nhổ neo lúc 3 giờ chiều ngày 24 để lui ra xa. Tàu chở đầy đạn và người. Hạm trưỡng xin lệnh vứt đạn xuống biển, nhưng không giới chức nào ... cho lệnh . Tàu tự di chuyển đi đến điểm hẹn Côn Sơn.. HQ7 : Khi có lệnh 'tự do vận chuyển' Hạm trưởng quyết định ra đi, nhưng gặp sự chống đối của một số nhân viên nên đã dùng phương thức trao hết tiền trong quỹ dự trữ của chiến hạm đồng thời thả tàu nhỏ (wizard) cho những người muốn trở về vào lại bờ.. Tại vùng biển Phú Quốc : Tình hình Phú Quốc bắt đầu suy sụp khi có tin nhân viên Đài Việt Nam được đưa ra đảo bằng phi cơ. Phú Quốc đã phải tiếp nhận gần 40 ngàn dân tỵ nạn từ Miền Trung.. Chiều tối (19 giờ 31) Chiến hạm Dubuque của HQ HK đến vùng biển Phú Quốc, để nhận một nhiệm vụ đặc biệt : yểm trợ, tiếp tế xăng dầu cho các trực thăng của KQ VNCH cần bay sang Thái Lan, đồng thời dùng làm Đài Không lưu hướng dẫn cho các phi cơ VNCH di tản sang Thái.. Ngày 29 tháng 4 , nhân viên Đài Mẹ VN được đưa ra Thương thuyền American Challenger đậu ngoài khơi. Trong vùng biển Phú Quốc còn có các thương thuyền và tàu vận tải của Mỹ khác như Greenville Victory, Sergeant Miller, Pionneer Contender. Trên đảo đã trở thành rối loạn hơn. Và sau đó trưa 30/4 khi TT Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng thì Hải Quân Vùng 4 Duyên hải cũng tự động tan hàng và tự tìm đường thóát thân, chỉ những người thân tín với HQ Đại Tá Nguyễn văn Thiện, Tư lệnh, mới có phương tiện di tản mang theo cả những hành lý 'cồng kềnh'. Đa số nhân viên Hải Quân chạy thoát bằng ghe đánh cá, tiểu đỉnh sang Thái Lan (Nguyễn Tấn Hưng-Trong cảnh sống còn) (Nguyễn tấn Hưng còn cho biết Tướng Đỗ Mậu và gia đình cũng ở tại trại tạm cư Thái, nhưng không cho biết đến Thái bằng phương tiện nào?) Trong những ngày cuối cùng của VNCH, lực lượng Hải Quân tại Phú Quốc gồm 4 chiến hạm: - Trợ Chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ230 Hạm trưởng HQ Th tá Nguyễn Nguyên - Giang pháo hạm Tầm sét HQ331 (Th/ tá Phan Tấn Triệu) - Giang pháo hạm Lôi công HQ 330 (Th/ tá Nguyễn văn Anh) - Tuần duyên hạm Minh Hòa HQ 602 (Đại Úy Ngô Minh Dương). Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải có 2 cầu tầu lớn : HQ330 đậu tại cầu phía Nam và HQ230, cầu phía Bắc. Các chiến hạm rời bến ngay khi HQ tan hàng. Đ/ Tá Thiện và gia đình lên HQ230. Sau khi tách bến HQ330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để về điểm hẹn ngoài khơi Hòn Khoai. HQ331 bị cháy cả 2 máy, trên tàu có khoảng 200 người, nên được HQ330 kéo theo. Sau khi mất liên lạc với nhóm tàu dự trù đến Côn sơn, đoàn tàu 4 chiếc do HQ330 dẫn đầu kéo theo 331, tiếp đó là HQ230 và sau cùng HQ602 quyết định đi Singapore.. Đoàn tàu thả neo tại Singapore để xin tỵ nạn, tại đây HQ330 tiếp nhận thêm một số người từ 2 LCM của Quân vận VNCH (rời Tân Cảng Sài gòn ngày 30 tháng 4) cũng vừa đến đây. Tư lệnh phó Vùng 4 DH cũng từ HQ230 chuyển sang HQ330. Sau 5 ngày chờ đợi, Singapore từ chối yêu cầu tỵ nạn, cung cấp thêm nước và yêu cầu đoàn tầu rời Singapore. Đoàn tàu quyết định đi Úc. Trên hải trình đi Úc, thủy thủ của HQ602 đã nổi loạn, giết hạm trưởng, vứt xác xuống biển và lái tàu trở về. Khi được tin Úc công nhận MTGPMN, đoàn tàu còn lại 3 chiếc đành đi về hướng Philippines. Sau 17 ngày lênh đênh đến được Subic Bay (Nguyễn Hữu Duyệt-'Vùng 4 Duyên hải, những ngày cuối' - Lươt sóng Số 51) Tại Cần Thơ (Hạm đội 21) : Hạm đội đặc nhiệm 21 Vùng 4 Sông ngòi được đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng. Bộ Tư lệnh đặt tại Bến Ninh Kiều trong Căn cứ HQ Cần Thơ. - Trưa 29 tháng 4, Tòa Lãnh sự Mỹ tại Cần Thơ đã dùng 2 LCM để chở nhân viên di tản ra ngoài khơi. 2 LCM bị chặn lại nhưng sau đó qua sự can thiệp trực tiếp của Tổng Lãnh sự Terry Mc Namara Tướng Thăng đã đồng ý để 2 chiếc LCM này tiếp tục ra đi..(theo Marc Leepson trong 'Escape to the Sea', VietNam Veterans of America Publications) thì khi đoàn LCM bị HQ VNCH chặn xét theo lệnh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lãnh sự MacNamara có mặt trên 1 trong 2 LCM đã từ chối không cho HQ lên lục soát và yêu cầu gặp Phó Đề đốc Thăng để giải quyêt. (MacNamara đã giúp di tản gia đình Tướng Thăng từ nhiều ngày trước) 2 LCM này chở khoảng 300 người Việt, 16 người Mỹ và 6 người Phi. Các LCM này sau đó cặp vào được Thương thuyền Pionneer Contender..đây là chiêc tàu Mỹ duy nhất có mặt trong vùng..) - 6 giờ chiều 29/4 Trợ Chiến hạm Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 do Hạm trưởng HQ Th /Tá Nguyễn Hoàng Be chỉ huy được điều động về Bộ Tư lệnh. - 10 giờ đêm: Liên lạc với Bộ Tư lệnh HQ tại Sài Gòn, tin trực tiếp cho biết.. Hải Quân VNCH.. rã ngũ.. - 11 giờ đêm: Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng tập họp nhân viên trong phạm vi Bộ Tư lệnh Hạm đội 21 và công bố tan hàng, tùy nghi quyết định ra đi hay ở lại - 0 giờ 20 sáng 30 tháng 4. Những người di tản cùng gia đình xuống HQ228 và HQ228 đi ra biển. - 1 giờ 15 phút sáng: Trên đài chỉ huy của HQ228, qua máy khuếch đại âm tần của máy PRC46, tướng Nguyễn Khoa Nam phát ra lệnh 'kêu gọi cácTư lệnh Quân, Binh chủng, quân nhân các cấp không được tự ý rời nhiệm sở sẽ bị kết tội 'đào ngũ trong thời chiến. Tất cả đều im lặng vô tuyến. Trên HQ228 còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.(Nguyễn Tạ Quang-'Hạm đội 21, những ngày cuối cùng" - Lướt sóng Số 51) HQ231 : Trợ chiến hạm Nguyễn đức Bổng HQ231 do HQ Đ/úy Nguyễn Văn Phước điều khiển, 10 giờ đêm ngày 29 tháng 4 có lệnh di chuyền từ Cần Thơ về Căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Khi DV Minh tuyên bố đầu hàng, Hạm trưởng quyết định rời vùng Mỹ Tho, ra đi và ra biển theo đường Cửa Tiểu. Nhân viên và thủy thủ không muốn ra đi đều được đưa vào bờ để tùy nghi di tản. HQ 229 : Trợ chiên hạm Lưu Phú Thọ HQ229 cũng rời vùng trách nhiệm ra đi sau lệnh buông súng của DV Minh, tàu đi ngang Căn cứ Đồng Tâm, hương dẫn một số PCF chạy theo sau và cũng theo Cửa Tiểu để đến điển hẹn ngoài khơi Côn Sơn.
Từ Côn Sơn đi Philippines : Các chiến hạm VNCH tập trung tại Côn Sơn và hoàn toàn chưa có chương trình..kế tiếp cho đến khi liên lạc với Hạm đội Hoa Kỳ (ngoại trừ HQ802 đã lên đường đi thẳng sang Subic Bay). - Ngày 2 tháng 5, Hạm đội HQVNCH gồm 26 chiếc, đặt duới quyền chỉ huy của Tướng Cang, chia thành 3 hải đội : Một do Tướng Cang chỉ huy Một do Tướng Lâm nguơn Tánh (trên HQ1) chỉ huy Một do Tướng Hoàng cơ Minh (trên HQ3) Chạy theo đoàn tàu còn có thêm 2 tàu đánh cá tư nhân. Hải Quân Hoa Kỳ đã thành lập một lực lượng đặc nhiệm: Hạm đội Destroyer's Squadron 23 do Đề đốc Donald Roane, đặt bộ chỉ huy trên Chiến hạm Kirk (DE-1097) để yểm trợ cho Hạm đội VNCH. Các chiếc hạm trong lực lượng này ngoài USS Kirk ( DE-1087), còn có USS Tuscaloosa (LST-1187), USS Cook, USS Deliver (ARS-23), USS Abnaki (ATF-96), USNS Lipan (T-ATF-85). Một số chiến hạm khác tuy không thuộc lực lượng đặc nhiệm này nhưng cũng góp phần vào công tác y tế và tiếp liệu cho đoàn tàu VNCH: USS Mobile (LKA-115), USS Balbour County (LST-1195) USS Vega (AF-59) và USS Denver (LPD-9). USS Kirk đã trực tiếp yểm trợ cho HQ3, HQ402 trươc khi bị đánh chìm và thương thuyền Tân Nam Việt..USS Vega tiếp tế cho các tàu YFU-69, HQ3 , HQ800, HQ801.. Chuyến hải hành từ Côn Sơn đi Phi dự trù sẽ kéo dài trong 5 ngày. Ngay trong ngày đầu, các phi cơ phóng pháo Liên sô đã bay trên đoàn tàu, tuy nhiên không có những hành vi thù nghịch. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tuy đã sắp xếp trước để yêu cầu Chinh phủ Phi trợ giúp trong việc nhận khoảng 50 ngàn người tỵ nạn Việt và Campuchia tạm trú và sau đó sẽ được chuyển từ Phi sang Guam, nhưng lại không xin phép Chinh phủ Phi để đưa một đoàn chiến hạm đến Subic Bay. Tổng Thống Phi Ferdinand Marcos và Ngoại trưởng Carlos Romulo đều không muốn 'đụng chạm' với Chế độ 'mới' tại Nam VN. Trong khi hạm đội VNCH đang từ từ di chuyển về hướng Phi, chính Phủ HK đã tìm được giải pháp: viện dẫn một điều khoản ghi trong các văn kiện chuyển giao chiến hạm từ HK sang cho VNCH là 'chủ quyền của chiến hạm sẽ được giao hoàn lại cho HK khi VNCH không còn dùng chung trong các hoạt động quân sự nữa..Và theo tinh thần này thì đoàn tàu HQ/VNCH nay thuộc HK và có quyền đến Căn cứ Subic Bay. Tuy nhiên Cộng Sản Nam VN cũng chính thức lên tiếng đòi chủ quyền trên các chiến hạm đang di tản. Trong khi các cuộc thương thuyết ngoại giao đang tiến hành, HQ/HK đã nghĩ đến việc đưa cả đoàn tàu đi Guam, nhưng với số lượng người khoảng gần 30 ngàn và tình trạng thiếu an toàn về kỹ thuật của một số chiến hạm VNCH, kế hoạch này khó thực hiện được. Ngày 7 tháng 5, khi đoàn tàu gần đến hải phận Phi, cuộc tranh chấp vể chủ quyền giữa HK và CS Nam VN vẫn chưa được giải quyết. Ngoại trưởng Phi dọa sẽ 'bắt giữ' đoàn chiến hạm nhưng khi Đại sứ HK tại Phi bàn đến số phận của gần 30 ngàn người tỵ nạn trên các tàu sẽ là một'gánh nặng' mà Phi chưa bao giờ ..nghĩ tới và cũng chưa sửa soạn để đối phó thì Ngoại trưởng Romulo đành chấp nhận giải pháp chuyển các chiến hạm VN thành chiến hạm HK và theo đó trước khi vào lãnh hải Phi, đoàn tàu sẽ phài vứt bỏ đạn dược, xóa bỏ tên và số hiệu của từng chiến hạm , thay thế cờ VNCH bằng cờ Hoa Kỳ 12 giờ trưa 7 tháng 5, những buổi lễ 'hạ kỳ' đã được tổ chức trong trang nghiêm và buồn thảm trên từng chiến hạm VNCH. Mỗi chiến hạm có sự hiện diện của 2 nhân viên HQ HK để nhận bàn giao. Cờ Mỹ được kéo lên, và các tàu nhỏ của HQ/HK tiến hành việc xóa số hiệu..Các quân nhân HQ/VN tự thay bỏ quân phục ... HQ VNCH không còn nữa. Và nếu theo công pháp quốc tế : 'chiến hạm là lãnh thổ quốc gia' thì VNCH tồn tại cho đến trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975.
Vai trò của Richard Armitage và Hoa Kỳ trong cuộc di tản của HQ VNCH Theo 'Hải sử tuyển tập' (trang 511-515) trong bài 'Phỏng vấn Phó Đô đốc Chung tấn Cang : Một đời quân ngũ và cuộc lui binh vẹn toàn' một số sự kiện đã được đưa ra : 'Đoàn tàu VN rời Sài gon, đem theo hầu như tất cả chiên hạm khiển dụng với hơn 27 ngàn quân nhân và đồng bào. Ra đi đúng lúc, không sớm, trước khi quá muộn. Đó là cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ luật' (trên thực tế, chỉ có khoảng trên 10 chiến hạm, ra đi từ Sàigòn, số còn lại từ Vũng Tàu, Phú Quốc ... Cuộc di tản cũng gặp những trường hợp vô kỷ luật như đã mô tả trong phần trên; trong Counterpart trang 208 có kể lại khi Tướng Cang, không lên được HQ1, dự trù làm soái hạm, Đ /tá Kiểm phải thay đổi kế hoạch đưa Tướng Cang và gia đình lên HQ601. Nhưng HQ601 lại do Hạm trưởng Chánh, con Đề đốc Chơn cựu TL/HQ làm hạm trưởng, lúc đầu Đ/ úy Chánh từ chối nhưng sau đó chịu sự thuyết phục yêu cầu giúp để đưa Tướng Cang ra đi. Ngoài ra một câu hỏi được nêu là trong khi Tướng Cang đang ở trên Chiến hạm trên đường di tản, có nhiều Đại Tá đã lên hệ thống liên lạc vô tuyến tự phong là Tư lệnh HQ ra lệnh cho các chiến hạm phải ở lại hay trở vể bến nhưng không thấy Tướng Cang, tuy là Tư lệnh chính thức ban hành lệnh nào cả ?) Về kế hoạch di tản, bài viết: 'Khi đất nước đã đến lúc phải tính chuyện đi hay ở, người giúp tôi soạn thảo kế hoạch là ông Chí, ông Sơn, ông Kiểm, ông Luân và ông Khuê.. (Trong 'Counterpart, từ trang 195 đến 199, Đ tá Đỗ Kiểm đã ghi lại khá nhiều chi tiết về kế hoạch di tản, kể cả buổi họp riêng giữa Ông và TướngCang. Riêng Ông Sơn (Đ/ tá Tư lệnh Hạm đội, người có 'tần số liên lạc với Hạm đội HK' đã bị cách chức ngày 28/4). Kế hoạch di tản đã được bàn thảo khá nhiều trong bí mật giữa Ông Kiểm và Richard Armitage, kể cả điểm hẹn ngoài khơi Côn Sơn.) Về vai trò của ông Richard Armitage, Tướng Cang cho biết: "Mới đây có người nói là Ông Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ta chỉ là một sĩ quan liên lạc giữa HQ/HK và đoàn tàu HQ/VNVH không hơn, không kém". Tướng Cang cho biết thêm: "...Khi đoàn tàu vào hải phận Phi, Chánh phủ Phi không cho vào, chính tôi đã đề nghị trả lại tàu chiến cho Mỹ". Trong 'Hải Quân VN ra khơi' của Điệp Mỹ Linh, trang 276-277 có bài phỏng vấn ông Richard Armitage (có tên VN là Trần văn Phú) về cuộc di tản của HQ VNCH, sau khi xác nhận là ông tháp tùng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng HK Erich von Marbod đến VN để lo di chuyển quân cụ. Những đoạn đáng chú ý như :'..kế hoạch HK giúp HQ di tản rất hạn hẹp. HK chỉ chuẩn bị một cách tổng quát cho một cuộc di tản với nhân số phỏng định chứ không có kế hoạch tỉ mỉ. Chương trình giúp HQ/VN được phác hoạ vào giờ phút chót..' 'Lúc đó vì chính phủ HK chưa dự trù một phương kế nào cho HQ/VNCH cả nên tôi chỉ thông báo với HQ/VNCH là : nếu tình thế bắt buộc, hãy cố gắng đến Côn Sơn, tôi sẽ gặp tất cả ở đó' (ghi chú của người viêt: Armitage có cho một số sĩ quan cao cấp HQ/VNCH, biết tần số liên lạc với Hạm đội 7 của HK). Armitage cũng cho biết thêm 'Mọi quyết định liên quan đến Hạm đội VN từ Côn Sơn cho đến Phi đều do những biến chuyển tình hình lúc đó tạo nên chứ không hề có một sự chuẩn bị nào cả..'. Bài viết 'Frequent Wind ' của USS Kirk (Chiến hạm chính đã trợ giúp và hộ tống đoàn tàu VNCH) Association có một số chi tiết về vai trò của Armitage. Richard Armitage rời Sàigon chiều 29/4 bằng trực thăng và đáp xuống chiến hạm USS Blue Ridge, soái hạm của Hạm đội 7. Tuy không có giấy tờ tùy thân, ông vẫn yêu cầu gặp Đô đốc Donald Whitmire, Tư lệnh Hạm đội 7 tại Thái Bình dương, và xin liên lạc với Ngũ giác đài, xác nhận lý lịch đồng thời xin phép trợ giúp HQ/VNCH. Sau khi được phép của Ngũ giác đài, Richard Armitage đã được chuyển từ Blue Ridge sang USS Kirk vào nửa đêm ngày 30 rạng 1/5. Tuy chỉ là một nhân viên dân sự, nhưng Armitage vẫn có thẩm quyển đề yêu cầu hạm trưởng USS Kirk, một tướng 2 sao quay tàu trở lại Côn Sơn, nơi tập trung của đoàn tàu VN và sau đó Armitage sang HQ3 để giúp di tản đoàn tàu VNCH đi Philippines. (Richard Armitage sau đó trở thành Phụ tá cho Bộ trưởng Quốc Phòng HK Colin Powell, thời TT Bush)
Tổng kết : Theo các bài viết của Tác giả Phan Lạc Tiếp thì đoàn tàu VN gồm 27 chiếc đã từ vùng tập trung tại Côn Đảo để cùng dự chuyến hải hành cuối cùng đi Phillipines. Cùng đi theo trong đoàn còn có thêm 2 tàu đánh cá. Báo cáo của Khu trục hạm Cook về cho TF76 ngày 2 tháng 5 ghi nhận: ' Đoàn tàu di tản của HQVN gồm 26 chiến hạm và một Khinh tốc đỉnh. Vị trí đoàn tàu tại Vĩ độ 09* 35'N và kinh độ 108* 55'E.. Hải sử Tuyển tập, trang 553: Danh sách các chiến hạm di tản vào tháng 4 năm 1975 liệt kê 43 chiến hạm trong đó có các chiếc trở về như HQ 602, HQ 609 và những chiếc hư hỏng phải đánh chìm gồm HQ 402, HQ406, HQ604, HQ470 và 702. (xem chi tiết về ngày cuối cùng của HQ406) Tập Dự án Hải Sử ghi lại trong đoạn Từ Hạm đội/HQ VNCH sang Hạm đội HQ Phi số hiệu và tên của 30 chiến hạm VN. Đối chiếu với các tài liệu ngoại quốc như Jane's Fighting Ships, danh sách các Chiến hạm chạy khỏi VN (bao gồm những Chiến hạm đi theo đoàn từ Côn sơn, hoặc tự đến Subic Bay (như HQ802), hoặc tự tách khỏi đoàn (HQ2), hoặc đến trễ hơn như nhom tàu từ Phú Quốc..) gồm: 1 Khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ1 (chuyển thành BRP Rajah Lankandula-PS-4) 5 Tuần dương hạm (WHEC): - Trần Quang Khải HQ2 (thành BRP Diego Silang PS-9) - Trần Nhật Duật HQ3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác của HQ Phi) - Trần Bình Trọng HQ5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10) - Trần Quốc Toản HQ6 (cùng số phận như HQ 3) - Lý thường Kiệt HQ16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7) - Ngô Quyền HQ17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8) 5 Hộ tống hạm (PCE) : - Đống Đa II HQ07(thành BRP Sultan Kudarat PS-22) - Chi Lăng II HQ08 (thành BRP Magat Salamat PS-20) - Chí Linh HQ11 (thành BRP Datu Tupas PS-18) - Ngọc Hồi HQ12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19) - Vạn Kiếp HQ14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23) 5 Dương vận hạm (LST) : - Cam Ranh HQ500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86) - Thị Nại HQ502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87) - Nha Trang HQ505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54) - Mỹ Tho HQ800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57) - Cần Thơ HQ801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516) 1 Cơ Xưởng hạm (ARL) - Vĩnh Long HQ802 (thành BRP Yakal AR-617) 3 Hải vận hạm (LSM) : - Hát giang HQ400 (thành BRP Western Samar LP-66) - Hàn giang HQ401 (dùng lấy cơ phận) - Hương giang HQ404 (thành BRP Batanes LP-65) 3 Trợ chiến hạm (LSSL) : - Đoàn Ngọc Tảng HQ228 (thành BRP La Union LF-50) - Lưu Phú Thọ HQ229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác) - Nguyễn Đức Bổng HQ231 (thành BRP Camarines Sur LF-48) 3 Giang pháo hạm (LSIL) : - Thiên kích HQ329 - Lưi công HQ330 - Tầm sét HQ331 (Hai chiếc HQ329 và HQ330 có trong danh sách của HQ Phi, chiếc HQ331 được ghi là..không rõ số phận) 2 Hỏa vận hạm (YOG)= sà lan tự hành để chở dầu : - HQ470 và HQ471 1 Tuần duyên hạm (PGM) : - Hòn trọc HQ618 (thành BRP Basilan PG-60) (Xem chi tiết các chiến Hạm HQVNCH di tản tháng 4 năm 1975) Ghi chú : Trong danh sách Chiến hạm HQ Phi tiếp nhận vào tháng 5-1975, có một Chiến hạm của HQ Kmer : Chiếc PC Submarine Chaser , số hiệu E-312. Sau đó đổi thành Negros Oriental PS-26. Không thấy có tài liệu nào viết về chiến hạm này khi chạy sang Phi ? Trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ230 không ghi trong danh sách trên, nhưng được ghi trong Hải sử Tuyển tập trang 564 là do HQ Tr tá Nguyễn Nguyên làm hạm trưởng, không thuộc đoàn tàu di tản của Bộ Chỉ Huy HQ . Chiến hạm được chuyển thành BRP Sulu LF-49) Trong danh sách Hỏa vận hạm YOG HQ Phi tiếp nhận có ghi thêm HQ474 WPB Chiến đỉnh Huỳnh văn Đức HQ702 đến được Philippines và phế thải tại Subic Bay ngày 19 tháng 5 năm 1975. 'Dự án Hải sử' không ghi về các PGM HQ600, HQ604 và HQ605, tuy nhiên 'Hải sử tuyển tập' ghi các chiến hạm này có mặt trong đoàn tàu của Bộ chỉ huy HQ (?) : Phú Dự (HQ600), Keo Ngựa (HQ604), và Kim Quy (HQ605) không có tên trong danh sách các chiến hạm HQ Phi tiếp nhận?
Trần Lý (3/2012)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:32:49 GMT 9
Hải Quân VNCH Di Tản Sau 30 Tháng Tư 1975Đinh Mạnh Hùng Phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng Khởi hành từ Sài Gòn lúc 7:00 giờ tối ngày 29 tháng 4 năm 75, các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Hòa tập trung tại Côn Sơn từ chiều ngày 30 tháng Tư. Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, Phi Luật Tân trưa ngày 1 tháng 5 và đến Phi Luật Tân vào chiều ngày 7 tháng 5. Chuyến hải hành cuối cùng của Hải Quân VNCH mang theo được hơn 30,000 người Việt di tản. Sau đây là phần trích lược nguyên văn từ bài viết. Việt Báo trân trọng cám ơn tác giả. 1. Bộ Tham MưuNăm 2001, Ban Hải sử Tổng hội Hải quân Việt Nam Cộng Hòa có hỏi tôi một số câu hỏi, trong đó có câu sau: “Xin Đề đốc cho biết, khi rời Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh nổi trên đường di tản được tổ chức ra sao? Một cách cụ thể, bên dưới Đô Đốc Cang, các giới chức Hải quân trên HQ 3 đã được phân nhiệm như thế nào?” Tôi đã trả lời như sau: “Bây giờ thì gọi là Bộ Tham Mưu chứ trên thực tế lúc đó thì tùy cơ ứng biến. Có việc gì thì họp nhau cùng bàn, sau khi có sự đồng ý của Đô đốc Cang thì chia nhau mà làm, miễn sao có kết quả êm đẹp”. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Trên HQ 3 – Tuần dương hạm Trần Nhật Duật – mà Hạm trưởng là HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu, ngoài thủy thủ đoàn, thành phần BTL/HQ gồm có, theo thứ tự thâm niên: Phó Đô đốc Chung Tấn Cang, Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn. Về sau, có Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng đến từ Vùng 4 Sông ngòi, Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú từ Lực lượng Tuần thám. Bây giờ nghĩ lại, thấy có vẻ khôi hài. Người thì ít mà toàn là tướng không, vậy ai làm lính. Chắc có người thắc mắc nhân viên đâu cả? Xin thưa: họ cùng với gia đình ở rải rác trên các chiến hạm khác. Sau buổi họp tham mưu cao cấp trên HQ 3 chiều ngày 30 tháng 4, khi giải tán, các giới chức đến họp đã trở về chiến hạm chở gia đình họ. Như vậy mặc nhiên ngầm có sự đồng ý để các nhân viên ở gần gia đình họ. Biết rằng hầu hết các sĩ quan đều mang theo gia đình họ nên không ai có ý nghĩ gọi họ lại nhiệm sở. Tôi nghĩ rằng, nếu không vì gia đình, chắc chắn mọi người sẽ tự động trở về nhiệm sở của mình. 2. Vấn đề truyền tinKể từ lúc Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố hạ súng vào sáng ngày 30 tháng 4 thì hệ thống truyền tin như một cái chợ vỡ. Đủ mọi chuyện được đem ra trao đổi hỏi han, nhất là các đề tài sau: bàn về tình hình, hỏi han tin tức gia đình, bàn chuyện di tản hay không, than van về tình cảnh cá nhân… chứng tỏ một tình trạng lo lắng hoang mang cực độ của các thủy thủ đoàn. Để giải quyết tình hình này, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh được chỉ định đảm trách điều hành hệ thống liên lạc, chỉ huy và là người độc nhất được sử dụng hệ thống truyền tin để tránh khỏi bị cướp phá. Tóm lại, Phó Đề đốc Minh thường trực đích thân theo dõi hệ thống truyền tin để: bảo đảm an ninh truyền tin, theo dõi tình hình, giải quyết các vấn đề có thể giải quyết ngay, nêu lên các vấn đề cần giải quyết, chuyển các quyết định của BTL cho các đơn vị và theo dõi thi hành. Phó Đề đốc Minh đã có nhiều kinh nghiệm điều quân trong sông nên ông rất hữu hiệu trong trách vụ liên lạc chỉ huy… Đúng vậy, Phó Đề đốc Minh đã hoàn thành nhiệm vụ này một cách tối hảo. Tiếng nói của ông vang vang trên hệ thống truyền tin suốt ngày đêm cũng như sự duy trì được kỷ luật và an ninh truyền tin trong suốt cuộc hành trình là một kỳ tích ít người làm được. Và “bộ tư lệnh nổi” trên soái hạm HQ 3 hướng dẫn đoàn chiến hạm ra khơi. Chuyến hải hành cuối cùng của Hải Quân VNCH. 3. Đi hay ở lại?Đối với hầu hết các thủy thủ đoàn, khi các chiến hạm thi hành lệnh tập trung tại Côn Sơn thì việc đi hay ở lại chưa thành một vấn đề. Nhưng từ lúc Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố buông súng thì tình hình trở nên sôi động. Chuyến đi này trở thành chuyển đi sau cùng và một chiều của hạm đội. Sẽ không có ngày trở lại. Trong suốt đêm 30 tháng 4, giải quyết vấn đề đi hay ở lại là công việc chính của bộ tham mưu. Vấn đề này bao gồm hai mặt: mặt cá nhân và mặt chiến hạm. Về mặt cá nhân tương đối dễ giải quyết. Từ chập tối 30 tháng 4, đã có những cá nhân tỏ ý không muốn rời Việt Nam và muốn trở lại Sài Gòn. Đến trưa hôm sau thì số người muốn trở về Sài Gòn mỗi lúc một đông, trở thành một vấn đề cần phải được giải quyết. Để trấn an mọi người, quyết định cung cấp phương tiện cho những ai muốn về lại Sài Gòn được ban hành và thông báo ngay đến toàn thể chiến hạm. Một hỏa vận hạm được chọn và đến từng tàu bốc người muốn trở về. Ngoài chiếc hỏa vận hạm, một số tuần duyên đỉnh (PCF) cũng xin về theo… Kể đến lúc Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, tất cả những ai không muốn di tản đã được thỏa mãn nguyện vọng và được chuyển vận trở về Vũng Tàu. Về mặt chiến hạm, vấn đề không còn là cá nhân mà trở thành tập thể. Vì chiến hạm gồm thủy thủ đoàn sẽ không di tản, mà ở lại Việt Nam. Giải quyết các trường hợp này thì dễ hay khó tùy thuộc vào mức độ phân vân của đơn vị liên hệ. Đa số trường hợp được giải quyết thỏa đáng qua thảo luận trên hệ thống truyền tin giữa đơn vị trưởng và Phó Đề đốc Minh hoặc đại tá Sơn. Điển hình là trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế Tuấn, Hạm trưởng HQ 229 (DVD CHHCC). Sáng ngày 1 tháng 5, trong khi chuẩn bị khởi hành, thì có một chiến hạm báo cáo không muốn di tản và thủy thủ đoàn không muốn rời Việt Nam. Trên chiến hạm chỉ huy, Phó Đô đốc Cang nhìn chúng tôi dò hỏi. Đại tá Sơn đề nghị cho tàu đó cặp vào HQ 3 và để ông đi qua giải quyết. Rất lâu không thấy ông trở về. Đô đốc Cang sốt ruột và lo lắng ra mặt. Tôi lên tiếng đề nghị cho tôi sang đó xem xét tình hình. Sau một lúc ngần ngừ, Phó Đô đốc Cang bảo để ông cho cận vệ đi cùng tôi. Tôi suy nghĩ thật nhanh, là có cận vệ với tình hình này chưa chắc đã an toàn hơn nên từ chối và rời đài chỉ huy. Bây giờ hồi tưởng lại lúc đó, tôi cũng thấy là lạ. Bước qua hạm kiều, ngoài mấy thủy thủ đứng gác, chiến hạm thật vắng lặng, có lẽ tất cả thủy thủ đoàn đang hội họp với đại tá Sơn. Càng lạ hơn là không thấy dân chúng hiện diện. Có thể tàu này đang công tác ngoài biển và được lệnh đến thẳng đây. Sau khi chào hỏi, một thủy thủ đưa tôi xuống phòng ăn đoàn viên. Bước vào, không khí thật kỳ lạ. Đại tá Sơn ngồi bàn chủ tọa, thủy thủ đoàn ngồi đối diện. Không ai nói năng gì. Một sự im lặng hoàn toàn. Trước tình hình đó, tôi chỉ biết nhìn thủy thủ đoàn rồi quay sang đại tá Sơn nói: “Đã đến giờ khởi hành, phải về tàu”. Nói xong tôi rời phòng hội, trở về HQ 3. Ít lâu sau đại tá Sơn cũng về tàu chỉ huy. Hạm đội lên đường đúng giờ ấn định. Đến nay thì tôi vẫn không biết chuyện gì xảy ra trên chiến hạm đó. Qua đây, tôi có vài dịp gặp lại đại tá Sơn mà quên hỏi. Sự việc này đã được tôi trình bày ngắn gọn trong tập Hải Sử đề cập trên. Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ3 thành Bộ Tư Lệnh Nổi “Người thì ít mà toàn là tướng không. Vậy ai làm lính?” 4 Hành trìnhLàm gì bây giờ? Kể từ lúc đại tướng Minh ra lệnh đơn phương ngừng bắn thì công cuộc di tản đã trở thành rõ rệt. Đây là chuyến đi một chiều của Hải quân VNCH, không có ngày quay trở lại. Nhưng làm gì tiếp thì chưa biết, ngoại trừ một nguyên tắc đã được Phó Đô đốc Cang đề ra trong khi chuẩn bị: “Nếu có làm gì thì cũng làm như một tập thể”. Chiều ngày 30 tháng 4, ngay sau khi đến Côn Sơn, một buổi hội đã được triệu tập trên HQ 3 gồm các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp có mặt tại điểm tập trung. Buổi hội tương đối ngắn và không có gì phải thảo luận và bàn cãi nhiều. Sau khi xem xét tình hình chính trị và tình trạng hạm đội, mọi người đồng ý là phải liên lạc ngay với Hoa Kỳ. Đến đây gặp khó khăn là không ai có tần số hay hay biết cách liên lạc với Hoa Kỳ. Trong khi mọi người đang suy nghĩ thì đại tá Sơn lên tiếng than phiền mình bị cách chức Tư Lệnh Hạm Đội một cách bất công. (Uẩn ức này kéo dài đến ngày nay và tôi sẽ trở lại vấn đề này sau). Không đợi Phó Đô đốc Cang giải thích, đại tá Sơn cho biết luôn là ông có tần số liên lạc với Hoa Kỳ. Trở ngại được giải quyết và buổi họp chấm dứt. Các giới chức trở về chiến hạm có chở theo gia đình mình… Đi đâu? Sáng sớm ngày 1 tháng 5, ông Armitage đại diện Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đến HQ 3. Ông ngỏ lời là Hoa Kỳ đồng ý tiếp nhận hạm đội Việt Nam và đề nghị hạm đội di chuyển đến Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại đảo Guam. Khi duyệt lại tình trạng hạm đội, thấy rằng nếu đi Guam xa gần 2 ngàn 500 hải lý thì nhất định sẽ gặp một số trở ngại quan trọng, đáng kể là tình trạng kỹ thuật của một số chiến hạm không được khả quan và hạm đội phải đi theo vận tốc của chiến hạm có tình trạng máy tệ nhất là khoảng 5 gút (hải lý/giờ), thời gian hải hành quá lâu. Thêm nữa các chiến hạm chở quá đông dân chúng di tản, ước lượng khoảng 30 ngàn người, chắc chắn là sẽ gặp nhiều khó khăn về ăn uống. Do đó Bộ tham mưu đề nghị đưa hạm đội đến Subic Bay xa chỉ khoảng trên 900 hải lý. Mặc dù ông Armitage luôn luôn nhấn mạnh đến mong muốn của Hoa Kỳ là phải đi Guam, Phó Đô đốc Cang vẫn nhất định đi Phi Luật Tân… Ngày giờ khởi hành. Sau khi cân nhắc tình hình chung, Phó Đô đốc Cang cho lệnh khởi hành di tản ngay sáng ngày 1 tháng 5. Có nhiều lý do đưa đến quyết định này. Một là để mọi người có việc làm, chấm dứt bàn tán, từ đó những hoang mang dao động sẽ tan dần, tinh thần trở nên ổn định. Hai là nếu ai còn do dự chuyện đi hay ở, sẽ đương nhiên chấm dứt và trở lại sinh hoạt bình thường. Ba là Côn Sơn trở nên không còn an toàn dưới áp lực tù cộng sản được giải thoát, chính quyền mới có thể gây khó khăn cho hạm đội (Hải Sử trang 527-528). Quyết định khởi hành sớm này dù đã không thỏa mãn được yêu cầu của một số cá nhân, như trường hợp đại tá Đỗ Kiểm còn thất lạc gia đình và dù phải bỏ lại một vài đơn vị như Vùng 5 Duyên Hải, nhưng cho thấy là một quyết định đúng, đem lại sự an toàn và thành công của chuyến di tản. Hải hành. Nhờ thời tiết thật tốt, sóng yên biển lặng, nên chuyến di tản thuận buồm xuôi gió. Hạm đội sắp thành đội hình hai hàng dọc, tốc độ trung bình 5 gút. Trên phương diện tiếp vận, các tàu đã được cung cấp đầy dầu nước và thực phẩm trước khi rời Sài Gòn. Tuy vậy, vì số dân di tản quá đông nên vấn đề ăn uống cũng gặp một số trở ngại. Nhờ óc sáng tạo và tinh thần kỷ luật cao của các thủy thủ đoàn, mỗi chiến hạm đã tự giải quyết các khó khăn. Hải quân Hoa Kỳ trợ giúp phần thực phẩm và y tế trong trường hợp thật cần thiết… Nhìn chung, đối với tập thể thì các trắc trở không có là bao. Sau vài ngày hải hành, không tuần Hoa Kỳ cho biết là hạm đôi không còn giữ được đội hình hai hàng dọc, các chiến hạm cũng không giữ khoảng cách đều nhau. Để chấn chỉnh, Phó Đô đốc Cang chia hạm đội thành 2 phân đội và Đề đôc Lâm Ngươn Tánh đi trên HQ 1 được chỉ định chỉ huy phân đội 2. Từ đó đội hình hải hành được duy trì tốt đẹp. Vài biến cố nhỏ xảy ra trên chính chiếc soái hạm HQ 3. Một đám cháy trên sân thượng và cả hai máy chánh bất ngờ đều hư hỏng khi đến gần lãnh hải Phi nên phải cần đến tàu kéo của Hoa Kỳ. Đối với từng cá nhân thì chuyến đi vất vả đau buồn. Có người gặp phải hoàn cảnh nan giải thương tâm. Cũng có người phải gánh chịu những hoàn cảnh đau xót riêng tư cần sự trợ giúp của đồng đội. Một số các trường hợp này- trường hợp Dương vận hạm HQ 502, Hải vận hạm HQ 402, Giang pháo hạm HQ 329 – đã được nhắc đến trong tập Hải Sử… Sau khi chuyển người hết sang tàu khác để rời Côn Sơn, vận tải hạm HQ 402 sẽ bị đánh chìm. 5 Đến bến.Chuẩn bị vào bến. Khi sắp gần đến Phi Luật Tân thì nhận được tin là chính phủ này không chấp thuận cho hạm đội VNCH vào vịnh Subic. Bộ tham mưu họp bàn tìm giải pháp. Quả là một trường hợp ngoại giao phức tạp, không dễ dàng giải quyết.
Giải pháp đưa hạm đội đi Guam được đề cập, cân nhắc. Hoa Kỳ lãnh trách nhiệm đưa 30 ngàn đồng bào đến Guam bằng các tàu dân sự để hạm đội dễ điều động cho một hải trình tiếp tục dài này. Trong lúc còn đang thu xếp thì Phó Đô đốc Cang đưa ý kiến là với tình hình hiện tại, Hạm đội của Hải quân VNCH nên được trao trả cho Hải quân Hoa Kỳ vì trên danh nghĩa đó, các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ vào căn cứ Hải quân Subic của mình. Ý kiến này được chuyển đến giới chức Hoa Kỳ. Một vài giờ sau, hạm đội được thông báo là giải pháp được chấp thuận với điều kiện:
– Tất cả đạn dược phải được ném xuống biển.
– Cờ VNCH phải được thay bằng cờ Hoa Kỳ.
Để thi hành điều kiện này, mỗi chiến hạm sẽ tiếp nhận một toán sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ và thực hiện lễ hạ quốc kỳ VNCH và trương quốc kỳ Hoa Kỳ. Lễ hạ cờ VNCH được cử hành cùng một lúc trên tất cả chiến hạm vào đúng 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975. Buổi lễ hạ cờ lịch sử trong không khí trang nghiêm và đầy xúc động, đã được kể lại trong nhiều bài viết trong mấy chục năm qua…
– Xóa bỏ danh hiệu và danh số Việt Nam. Để thực hiện công việc này, trong lúc thủy thủ đoàn Việt Nam vận chuyển con tàu theo khẩu lệnh của sĩ quan hải hành Hoa Kỳ, các tiểu đỉnh Hoa Kỳ chạy cặp sát sườn chiến hạm để sơn lấp bỏ các danh số và danh hiệu VN dọc hai bên hông.
Chiều ngày 7 tháng 5, hạm đội VNCH vào thả neo trong vịnh Subic. Chuyến di tản an toàn, bình yên và đầy đủ. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Sau khi tàu bỏ neo thì việc điều hành lên bờ thuộc phía Hoa Kỳ. Vị sĩ quan liên lạc yêu cầu các sĩ quan cấp tướng rời tàu trước vì lý do an ninh. Theo kinh nghiệm, trong trường hợp triệt thoái như thế này có thể có những binh sĩ uất ức, gây gổ với giới lãnh đạo, làm mất trật tự. Dĩ nhiên ta phải nghe theo nhưng để thủy thủ đoàn đỡ xôn xao thắc mắc, hai Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú và Hoàng Cơ Minh tự nguyện ở lại.
Đồng bào được các viên chức Hoa Kỳ thu xếp và hướng dẫn sang các thương thuyền để chuyển sang đảo Guam. Họ làm việc có tổ chức cao, lớp lang, khoa học và thực tế. Vì vậy công tác di chuyển rất tốt đẹp. Hai vị Phó Đề đốc cùng với đồng bào sang tận Guam và chỉ trở lại cùng gia đình khi mọi người được tiếp nhận./.Đinh Mạnh Hùng Con tàu ngày xưa là HQ 800 VNCH đã bị phế thải ở bãi Cỏ May, quần đảo Trường Sa. Hình CNN. Hơn 40 Năm Sau: Số Phận Những Con Tầu Di Tản tới tại Phi Luật Tân Sau chuyến hải hành cuối cùng, một đi không trở lại, đoàn chiến hạm HQVNCH trên 30 con tàu đủ loại đã đến được Subic Bay, một căn cứ Hải quân của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân. Trước đây những chiến hạm này được Hoa Kỳ chuyển giao cho HQVNCH trong chương trình viện trợ quân sự để bảo vệ đất nước, giờ thì họ phải thu hồi. Từ tháng 11 năm 1975 đến năm 1977, Hoa Kỳ lần lượt chuyển giao hết số tầu này cho Hải Quân Phi. Sau 40 năm hoạt động trong hải quân Phi, trên 30 con tầu từng là chiến hạm VNCH di tản sau 30 tháng Tư 1075, tính đến năm 2016, đến nay chỉ còn “sống sót” được 5 chiếc. Năm chiến hạm của HQVNCH còn lại trong HQPLT hiện nay có lẽ cũng sắp bị phế thải nay mai vì đã quá già lão! Riêng con tầu BRP Sierra Madre LT-57 nguyên là Yểm Trợ Hạm Mỹ Tho HQ 800, năm 1999 đã chính phủ Phi cho phế thải tại bãi Cỏ Mây quần đảo Trường Sa (nơi đang bị Trung Cộng đòi chiếm) để làm dấu các nhận chủ quyền của Phi. Lược tríchnguyên văn từ chienhuuvnch.com LIST OF RVNN SHIPS EVACUATED TO THE PHILIPPINES ON APRIL 30, 1975Cập nhựt Friday, April 13, 2012 (xin xem Chuyến Hải Hành Cuối cùng của HQ/VNCH tháng 4/1975) SHIPNAME & NUMBER / COMMANDING OFFICER / REMAKSHQ 1 TRẦN HƯNG ĐẠO / CDR Nguyễn Địch Hùng was actually the commanding officer (C.O) of this ship. He was left behind when Mr Lâm Ngươn Tánh (Admiral 2 stars) and Mr Nguyễn Thành Châu (Admiral 1 star) took command of this ship and then left Saigon while Mr Hung went home to find his family members for evacuation. HQ 1 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 746 people (crew: 154, refugees: 592). She was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as PF 4 - Rajah Lakandula. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 2 TRẦN QUANG KHẢI / CO: CDR Đinh Mạnh Hùng HQ 2 left Vietnamfor Subic Bay on Subic Bay on 4/29/75, carried aboard 1573 people (crew: 89, refugees: 1484) including Lt Gen Pham Quoc Thuan, Lt Gen Nguyen Bao Tri, Lt Gen Lam Quang Thi, Lt Gen Lam Quang Tho, VNAF Brigadier Gen Khanh ( Commander of the First Air Division) and Commodore Nguyen Huu Chi. -She was transferred to the Philippines in 5/76 by the USN and was renamed as PF 9 - Diego Silang. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 3 TRẦN NHẬT DUẬT / CO: CDR Nguyễn Kim Triệu HQ 3 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 1589 people (crew: 76, refugees: 1513) including Vice Admiral Chung Tan Cang, Commodore Diep Quang Thuy, Commodore Hoang Co Minh, Commodore Dinh Manh Hung and Commodore Nghiem Van Phu. She was transferred to the Philippines in 5/76 by the USN. Her new hull number and new name were not found in Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 5 TRẦN BÌNH TRỌNG / CO: CDR Phạm Trọng Quỳnh HQ 5 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 1500 people (crew: 80, refugees: 1420). She was transferred to the Philippines in 5/76 by the USN and was renamed as PF 10 - Francisco Dagohoy. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 6 TRẦN QUỐC TOẢN / CO: CDR Nguyễn Phước Đức HQ 6 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 1316 people (crew: 112, refugees: 1204). The US Navy transferred HQ 6 to the Philippines in 5/76. Her new hull number and new name were not found in Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 16 LÝ THƯỜNG KIỆT / CO: CDR Lê Văn Thì HQ 16 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 474 people (crew: 119, refugees: 355). She was transferred to the Philippines in 5/76 by the USN and was renamed as PF 7 - Andres Bonifacio. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 17 NGÔ QUYỀN / CO: CDR Trương Hữu Quýnh HQ 17 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 794 people (crew: 81, refugees: 713) included Lt Gen Tran Van Trung and Lt Gen Vinh Loc. She was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as PF 8 - Gregorio De Pilar. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 07 ĐỐNG ĐA II / CO: LCDR Trần Nam Hưng HQ 07 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 504 people (crew: 73, refugees: 431). She was transferred to the Philippines in 11/75 by the USN and was renamed as PS 22 - Sultan Kudarat. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 08 CHI LĂNG II / CO: LCDR Nguyễn Trường Yên HQ 08 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 497 people (crew: 26, refugees: 471). She was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as PS 20 - Magat Salamat. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 11 CHÍ LINH/ CO: LCDR Phạm Đình San HQ 11 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 458 people ( crew: 48, refugees: 410) and a number of evacuees transferred from HQ 402 at Con Son. She was transferred to the Philippines on 4/5/76 by the USN and was renamed as PS 18 - Datu Tupas. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 12 NGỌC HỒI / CO: CDR Lê Xuân Thu HQ 12 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 235 people (crew: 84, refugees: 151). She was transferred to the Philippines in 4/5/76 by the USN and was renamed as PS 19 - Miguel Malvar. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 14 VẠN KIẾP II/ CO: LCDR Phạm Thanh Khoa HQ 14 left Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 249 people (crew: 184, refugees: 65). HQ 14 was transferred to the Philippines on 4/5/76 by the USN and was renamed as PS 23 - Datu Murikudo. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 329 THIÊN KÍCH / CO: LCDR Nguyễn Thành Danh HQ 329 left Phu Quoc Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as LS 36 - Sersogon. Ref: Jane’s Fighting Ships (1976-1977 and later). HQ 330 LÔI CÔNG CO: LCDR Nguyễn Văn Anh HQ 330 left Phu Quoc Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as LS 52 - Camarines Norte. Ref: Jane’s Fighting Ships of Editon 1976, 1977 and later. HQ 331 TẦM SÉT CO: LCDR Phan Tấn Triệu HQ 331 left Phu Quoc for Singapore then Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed LS 53 - Misamis Occidental. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976-1977 and later. HQ 228 ĐOÀN NGỌC TẢNG CO: LCDR Nguyễn Hoàng Be HQ 228 left Phu Quoc Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 149 people (crew: 37, refugees: 112). She was transferred to the Philippines on 11/17/75 and was renamed as LF 50 La Union. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 229 LƯU PHÚ THỌ CO: LCDR Vương Thế Tuấn HQ 229 left Phu Quoc Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 37 people (crew: 34, refugees: 3). From Guam LCDR Tuan returned to Viet Nam aboard the merchant ship “Viet Nam Thuong Tin” to find his family. This ship left Guam on 10/16/75 and arrived at Vung Tau on 10/25/75. All returnees were sent to concentration camps. LCDR Tuan spent over 7 years in the prison. HQ 230 NGUYỄN NGỌC LONG CO: LCDR Nguyễn Nguyên HQ 230 left Phu Quoc Vietnam for Singapore then Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 145 people (crew: 40, refugees: 105). HQ 230 was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as LF 49 - Sulu. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 231 NGUYỄN ĐỨC BỔNG CO: LCDR Nguyễn Văn Phước HQ 231 left Phu Quoc for Singapore then Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 126 people (crew: 58, refugees: 64). HQ 231 was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as LF 48 - Camarines Sur. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976, 1977 and later. HQ 600 PHÚ DỰ CO: LCDR Phạm Văn Chí HQ 600 left Saigon for Con Son and then scuttled in the vicinity of Con Son island on 4/30/75 due to poor engine conditions. HQ 604 KEO NGỰA CO: Unable to identify HQ 605 KIM QUY CO: LCDR Trịnh Như Toàn HQ 605 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75 HQ 618 HÒN TRỌC CO: LCDR Trần Văn Dùng HQ 618 left Vietnam on 4/30/75 for Subic Bay. She was transferred to the Philippines in 1976 by the USN and was renamed as PG 60 – Basilan. Ref: Jane’s Fighting ships of Editon 1976, 1977 and later. HQ 500 CAM RANH CO: CDR Lê Quang Lập HQ 500 left for Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 4/5/76 and was renamed as LT 86 Zamboanga Del Sur. HQ 502 THỊ NẠI CO: CDR Nguyễn Văn Tánh HQ 502 successfully left Saigon under extremely poor conditions in early morning of 4/30/75. HQ 502 was towed by HQ 16 to Subic Bay, carried aboard 3070 (crew: 70, refugees: 3000). She was transferred to the Philippines on 4/5/76 by the USN and was renamed as LT 87 - Cotobato Del Sur. HQ 505 NHA TRANG CO: CDR Nguyễn Văn Nhượng HQ 505 left Phu Quoc Vietnam for Subic Bay on 4/30/75 carried aboard1840 (crew: 72, refugees: 1768). She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and then became LT 54 - Agusan Del Sur. HQ 800 MỸ THO CO: CDR Dương Hồng Võ -CDR Duong Hong Vo took command of the HQ-800 in late evening on 4/29/75 when LCDR Truong Van Thinh chose to stay behind. HQ 800 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 1164 people ((crew: 64, refugees: 1100). She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as AL 57 - Sierra Madre. HQ 801 CẦN THƠ CO: LCDR Nguyễn Phú Bá HQ 801 left Saigon around midnight on 4/29/75. En route to Con Son, LCDR Ba transferred the command of HQ 801 to his X.O and then returned to Saigon on board a PGM to find his wife and children. Captain Bùi Cử Viên the commanded HQ 801 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried aboard 2200 people (crew: 80, refugees: 2120) included Commodore Nguyen Thanh Chau and Brigadier Gen Truong Dzenh Quay. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as AE 516 - Apayao. HQ 802 VĨNH LONG CO: CDR Vũ Quốc Công HQ 802 left Vung Tau Vietnam on 4/29/75 foe Subic Bay carried aboard 1227 persons (accounted for at Subic Bay by US personnel in charge). She was transferred to the Philippines on 01/24/77 by the USN and was renamed as AR 517 – Yakal. Ref: Jane’s Fighting Ships of Edition 1976 up to 1990. HQ 400 HÁT GIANG CO: CDR Võ Quang Thủ HQ 400 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as LP 66 - Western Samar. HQ 401 HÀ GIANG(ex-USS LSM 335) CO: Unable to identify HQ 401 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75. She was transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamed as LP 66 - Western Samar. HQ 402 LAM GIANG CO: LCDR Nguyễn Thiện Lực HQ 402 left Saigon without CO and X.O. Her Engineering Officer was LTJG “Hung” who led the ship out with only one main engine at the last minute when enemy tanks appeared already near VNN Headquarters in Saigon. -Scuttled at Con Son Island due to engine problems. The crew of HQ 402 and the refugees aboard were transferred to HQ 2 and HQ 11. -Commodore Nghiem Van Phu and Captain Le Huu Dong were two senior officers among the evacuees transferred to HQ 11. HQ 404 HƯƠNG GIANG CO: CDR Nguyễn Đại Nhơn HQ 404 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried on board 730 people (crew: 35, refugees: 695) included Commodore Dang Cao Thang who left Can Tho aboard a LCM (PCF?). HQ 404 was then transferred to the Philippines on 11/17/75 by the USN and was renamedas LP 65 -Batanes HQ 406 HẬU GIANG CO: CDR Nguyễn Quốc Trị HQ 406 scuttled at Con Son island 4/30/75 due to poor engine conditions. HQ 470 CO: LCDR Nguyễn Văn Kỳ HQ 470 left Vietnam for Subic Bay on 4/30/75, carried on board 112 people (crew: 32, refugees: 80). HQ 470 was transferred to the Philippines in 1976 but her new hull number and new name were not found in Jane’s Fighting Ships of Edition 1976-1977 and later. HQ 471 CO: Unknown HQ 471 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried on board 500 people (crew: 30, refugees: 470). HQ 471 was transferred to the Philippines in 1976 but her new hull number and new name were not found in Jane’s Fighting Ships of Editon 1976-1977 and later. HQ 474 CO: Unknown HQ 471 left Vietnam waters for Subic Bay on 4/30/75, carried on board 500 people (crew: 30, refugees: 470). HQ 471 was transferred to the Philippines in 1976 but her new hull number and new name were not found in Jane’s Fighting Ships of Editon 1976-1977 and later. Documented on August 25, 2003 Updated on April 13, 2012 by Phạm Đình San (Former Commanding Officer of the RVNNS HQ-11)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2019 2:42:24 GMT 9
DINH ĐỘC LẬP, Tiếng Súng Cuối Cùng Trung úyTrương Văn Hùng, phòng hành quân bộ chỉ huy trường VBQGVN
Ba cái ly thủy tinh trong suốt lung lửng rượu vang, chạm nhau kêu lách cách, chúc mừng, chúc mừng ngày bọn mình tái ngộ, tôi nhìn qua khung cửa sổ cảnh ba người đàn ông ngồi bệt dưới đất, bao quanh chai rượu và đĩa mồi, hình ảnh quá quen thuộc. Tôi đoán ngay, ngày xưa họ là lính trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Như để xác nhận sự suy đoán của tôi là đúng, người trẻ tuổi nhất trong bọn cất giọng :
-Hai ông có công nhận không? Sư đoàn 18 của bọn mình, lấy một chọi mười, đã đánh một trận oanh oanh liệt liệt. Tôi cho đó là trận đánh cuối cùng, trận đánh để đời của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.
Người bận áo jacket đen, tay nâng ly rượu ậm ự.
-Tôi biết chứ, chuyện rõ như ban ngày, mình khen mình có khác gì mẹ hát con khen hay, hãy quên mình tìm những cái hay cái đẹp của người khác. Chẳng hạn sáng ngày ba mươi tháng tư, khoảng sáu giờ sáng tại ngã tư Bảy Hiền, Biệt Kích 81 vẫn còn chiến đấu, tiêu diệt thêm mấy chiếc T54 của vc. Họ chỉ thực sự buông súng khi nghe lịnh kêu gọi đầu hàng trên đài phát thanh Saigon. Biệt Kích 81 bị bức tử và họ đã chết trong hào hùng.
Người già nhất, với gương mặt đầy đặn phúc hậu, cuốn mình trong chiếc áo nỉ dàỵ cộm, uống thêm một hớp rượu rồi mới bắt đầu lên tiếng:
-Mấy anh bạn à, cũng sáng ngày ba mươi tháng tư, nếu tôi nhớ không lầm lực lượng Nhảy Dù đã bắn hạ thêm mấy chiếc T54 tại Lăng Cha Cả trước khi gạt lệ giã từ vũ khí, lột bỏ quân phục để đi vào lịch sử.
Ông ta ngừng nói, lần trong cái bị da nhỏ lấy ra một ít thuốc rời nhồi vô cái tẩu. Ánh lửa của que diêm bùng sáng trong đêm, soi rõ mái tóc dài lấm tấm bạc. Trông ông ta giống như một nghệ sĩ hơn là lính.
Tôi biết rằng ba người nọ, mỗi người nhìn ngày lịch sử ba mươi tháng tư qua góc cạnh của mình. Mỗi người nắm trong tay một mảnh puzzle, vẫn còn hàng trăm, hàng ngàn mảnh như vậy nữa đã thất lạc đâu đó. Nếu như mình có đủ, ráp lại, sẽ có được bức tranh toàn mỹ của ngày ba mươi tháng tư.
Tôi nghĩ đến mảnh puzzle trong tay của mình: Dinh Độc Lập với những tiếng súng cuối cùng.
***
Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức khi vừa hai mươi tuổi, ba lô lên vai, tôi trình diện đơn vị mới: Tiểu khu Darlac.
Suốt thời gian thụ huấn trong quân trường, tôi chỉ mong cho mau đến ngày mãn khóa để xin đi Nhảỵ Dù. Thật lòng mà nói tôi hơi nhát gan, ngại gian khổ và cũng sợ chết, thế nhưng bộ đồ rằn ri, thêm cái mũ nồi màu huyết dụ quá sức hấp dẫn đối với tôi. Lòng ham muốn vẻ đẹp bên ngoài đã thắng được con thỏ chết nhát trong tôi. Tôi lén mua sẵn bộ đồ dù, giấu tận đáy túi quân trang chỉ chờ ngày mãn khoá sẽ tình nguyện đi Nhảy Dù. Bộ đồ như một chứng tích của ước mơ, ước mơ không bao giờ thành sự thật vì khoá của tôi gần hai ngàn sinh viên sĩ quan, Nhảy Dù chỉ chọn mười sáu người. Tôi hơi thấp và nhỏ con, đó có thể là lý do tôi không được chọn.
Tôi đến Ban Mê Thuột trong bộ đồ trận của bộ binh với chiếc mũ lưỡi trai trên đầu. Mặc dù Ban Mê Thuột là thủ phủ của cao nguyên, nhưng tôi vẫn thường nghe người ta nói với nhau rằng, thành phố gì mà Buồn Muôn Thuở, mùa nắng Bụi Mù Trời, mùa mưa Bùn Một Tấc. Bước chân xuống phi trường Phụng Dực, tôi được chào đón ngay bằng những cơn gió với cát bụi đỏ trời và cái nóng âm ẩm, oi nồng của tháng tư.
Sau hơn bốn tuần chờ đợi ở Hội quán sĩ quan, tôi nhận được sự vụ lệnh về chi khu LOK.
Trung sĩ Bé phòng nhân viên của tiểu khu, đưa sự vụ lệnh cho tôi kèm theo câu nói đầy ái ngại:
-Tôi biết, chuẩn úy chẳng có gốc gác gì trong quân đội.
-Sao trung sĩ biết ?
-Chỗ của ông sắp đến là địa ngục trần gian, lưu đày biệt xứ, người có gốc ai mà đến đó.
-Chỗ đó có gì mà ghê vậy?
-À … nó là một quận lỵ nhỏ xíu với vài chục gia đình người Kinh, bị cô lập hoàn toàn, không có đường bộ để vô ra. Con đường duy nhất để đến LOK là trực thăng của cố vấn Mỹ, nhưng đó không phải là chuyện quan trọng, người ta gọi là đi đày vì ở đó tuần nào cũng lãnh hàng chục trận pháo kích.
-Bộ không có hầm chống pháo kích hay sao?
-Có chứ, súng cối tám mươi hai ly của Việt Cộng không phá nổi hầm chống pháo kích ở LOK, nhưng với sơn pháo thì thua, trời kêu ai nấy dạ.
-Sơn pháo là súng gì?
-Tới nơi ông sẽ rõ, mà thôi, tôi có chuyện này muốn nói riêng với chuẩn úy.
-Chuyện gì vậy?
Trung sĩ Bé kê miệng gần tai của tôi:
-Ông đừng trình diện đơn vị liền, ở Ban Mê Thuột chơi năm mười ngày rồi đi, xuống điạ ngục chẳng có gì phải gấp gáp, không ai nỡ la mắng, ký củ khi sĩ quan trình diện trễ. Xa mặt trời cũng có cái lợi đó chuẩn úy.
Ngừng lại một chút như đợi cho tôi hiểu rõ vấn đề sau đó trung sĩ Bé thong thả tiếp:
-Ở tiểu khu này người ta thường nói: “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK”, cứ từ từ mà đi. Chúc chuẩn úy lên đường bình an.
Theo lời dặn của trung sĩ Bé, tôi lặn một hơi mười ngày, sau đó mới tà tà theo trực thăng của cố vấn Mỹ đến đơn vị.
Trước mặt tôi là Bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tôi đi dọc theo dãy nhà tôn vách ván, phòng nào cũng trống không, tôn lợp mái nhà tấm nào cũng vài chục lỗ thủng do miểng pháo kích. Ánh nắng mặt trời xuyên qua những lỗ thủng, chiếu xuống thành muôn ngàn sợi nắng vàng kẻ song song làm tôi hoa cả mắt. Nhìn quanh không một bóng người thêm vào cái im ắng của buổi trưa hè oi bức, khiến tôi có cảm tưởng là mình đang ở trong một vùng đất chết.
Tôi đi hết dãy nhà, vòng sang bên hông. Dưới bóng mát của hai gốc cây rừng, một ông chuẩn úy (một trăm phần trăm là huynh trưởng của tôi) mặt mày đen sạm, râu ria xồm xoàm, tóc dài quá mang tai nằm đu đưa trên chiêc võng, taỵ cầm lon bia Mỹ, dưới đất thêm vài cái lon không nằm lăn lóc.
-Mới ra trường?
Giọng nói nhừa nhựa đầy men bia, câu hỏi trống không nhưng tôi biết dành cho tôi, vì tôi là người duy nhất đứng trước mặt ông ta.
-Vâng, tôi mới ra trường. Xin hỏi chuẩn úy, Bộ chỉ huy tiểu đoàn ở đâu?
-Tôi là Hòa, chuẩn úy Hòa. Hai giờ chiều rồi ai mà làm việc nữa, ngồi xuống đây làm vài lon, bia Mỹ mà không uống, phí cả cuộc đời.
-Ở chốn khỉ ho cò gáy này làm sao chuẩn úy có bia Mỹ để uống?
-Cái bọn cố vấn Mỹ, khi có việc cần nhờ vả gì mình bọn nó lại vác qua cho vài thùng bia, gọi là có qua có lại ấy mà.
-Thế bọn mình làm gì ở đây?
-Làm gì tôi cũng chả biết, lính cũng giống như thiên lôi, cấp trên sai đâu mình đánh đó, nói vậy chứ thiên lôi coi bộ còn sung sướng hơn bọn mình, chỉ làm việc vào những ngày mưa mà thôi. Lính tráng bọn mình bất kể mưa, nắng, đêm, ngày cày đủ.
Đang nói chuyện ngon lành đột nhiên chuẩn úy Hòa im bặt, ông ta đứng lên lục lọi khắp mọi túi quần như muốn tìm cái gì đó.
Tôi đưa chuẩn úy Hòa gói thuốc Lucky còn non một nửa.
-Ông giữ lấy mà hút, tôi còn nguyên một cây trong ba lô.
Chuẩn úy Hòa vừa đốt thuốc vừa nói.
-Ngày xưa, đây là căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt với một tiểu đoàn Biệt Kích Biên Phòng trấn giữ. Khi Mỹ rút, họ bàn giao căn cứ này cho tiểu khu, thế là tiểu đoàn của mình có công ăn việc làm, nằm cố thủ ở đây đợi pháo kích.
-Cho tôi hỏi ông một câu. Ông để tóc dài như vậy không bị phạt sao?
-Ông này chỉ được cái vớ vẩn, nãy giờ ông hỏi tôi bao nhiêu câu rồi? Ở đây có tất cả ba sĩ quan người Kinh, mỗi người một đại đội, nay có thêm ông nữa là bốn, chắc ông sẽ về đại đội một. Tất cả đại đội trưởng của bốn đại đội đều là người Thượng, trong đó có một ông là Fulro đầu thú. Họ chấm tọa độ điểm đứng còn chưa xong, hơi đâu mà lo đến quân phong với quân kỷ.
Ngửa cổ nốc cạn lon bia, chuẩn úy Hòa nói tiếp :
-Chiều rồi, xuống hầm của tôi kiếm chút cơm dằn bụng, xong đâu đấy tôi còn phải đi lo chuyện phòng thủ ban đêm. Ông nên nhớ núi rừng cao nguyên đêm xuống rất lẹ, chưa kịp làm gì trời đã tối thui cho mà xem.
-Hầm ở đâu?
-Ngay đây thôi, nguyên tắc căn bản ở đây là, muốn làm gì cũng được nhưng luôn luôn cách miệng hầm không quá mười thước.
-Tại sao vậy?
-Khi nghe tiếng đạn pháo đầu tiên của địch đề pa, mình chỉ có tối đa năm giây là phải ở dưới hầm, trễ hơn là bể gáo.
Đưa tay chỉ vào cuối hầm chuẩn úy Hòa nói:
-Đêm nay ông ngủ tạm nơi chiếc ghế bố đàng kia.
Nhìn vào góc hầm tối thui như cái hũ nút, tôi chợt hiểu, hóa ra “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK” có nghĩa là ở dưới hầm, chỉ có vậy mà trung sĩ Bé còn bày đặt chơi chữ. Đang mò mẫm đi vào góc hầm chợt tiếng của chuẩn úy Hòa nhắc tôi :
-Nếu có pháo kích ông nhớ đội nón sắt, mang súng M16 đứng giữ cửa hầm, bất cứ ai chạy trên mặt đất ông cứ bắn thoải mái.
-Làm sao phân biệt được địch và bạn?
-Lính mình chỉ di chuyển dưới giao thông hào, trên mặt đất là vc. Nói vậy thôi chứ ông đùng lo, đó là trường hợp căn cứ bị tràn ngập.
***
Chuẩn úy Trần văn Đạt, số quân ….. trình diện đại úy.
-Ông mới ra trường mà đã bày đặt ba gai phải không? Tới đây từ hôm qua sao hôm nay mới trình diện?
-Thưa đại úy, hôm qua tôi đi qua văn phòng của Bộ chỉ huy không thấy ai làm việc hết.
-Làm việc ở đó để ăn pháo rồi chết à. Tất cả mọi người ở đây đều ăn, ngủ, làm việc dưới hầm ông hiểu chưa?
-Thưa đại úy tôi có gặp chuẩn úy Hòa, ông ấy bảo để mai hãy trình diện.
Vung tay đập bàn cái rầm, vị đại úy gằn giọng:
-Tôi là tiểu đoàn trưởng hay chuẩn úy Hòa là tiểu đoàn trưởng?
-Thưa đại úy, ông là tiểu đoàn trưởng.
-Trung sĩ Kim đâu? Đưa ông chuẩn úy này về đại đội một, mà thôi chở ông ấy ra tiền đồn luôn.
Quay qua nhìn tôi, vị đại úy nói tiếp:
-Ồng ra nằm tiền đồn, một tháng sau tôi sẽ điều ông về đại đội. Ông đi ngay lập tức, tôi không muốn thấy mặt ông ở đây.
Theo chân trung sĩ Kim, tôi rời hầm chỉ huy mà lòng đầy khoan khoái. Tôi cười thầm trong bụng, lặn một hơi mười ngày không mắng một câu, không ký một củ, không la một tiếng. Trong khi chỉ trễ chút xíu lại đày đi tiền đồn, đã xuống địa ngục rồi tầng đầu hay tầng cuối cũng là địa ngục mà thôi, đang miên man suy nghĩ…
-Chuẩn Úy à, ông làm thằng em kẹt theo rồi.
-Sao vậy?
-Từ đây ra tiền đồn, tám cây số đường rừng quanh co khúc khuỷu với hàng ngàn cái ổ gà, cái nào cái nấy to như cái thúng, không biết mấy ngày qua Việt Cộng có chôn mìn không? Nếu bọn họ gài mìn, ông và tôi kể như chết chắc.
-Đại úy Châu vừa mới hù tôi xong, bây giờ đến ông phải không?
-Chuẩn úy mới tới nên không biết đó thôi, trong vòng một năm, bốn chiếc xe, vừa GMC, vừa Jeep của chi khu bị trúng mìn, thêm hai xe đò dân sự với hơn năm mươi thường dân vừa Kinh, vừa Thượng, vừa đàn bà, vừa trẻ em bị chết. Từ đó đến nay xe cộ không được phép di chuyển, mà dù có cho cũng chẳng ai dám đi. Đường bộ từ Ban Mê Thuột vào bị đắp mô, đóng chốt, rồi bỏ phế, mỗi khi cần chuyển quân hoặc tiếp tế, phải hành quân mở đường và dò mìn trước đã.
Tôi quẳng cái ba lô lên xe Dodge 4×4 trèo lên ghế trưởng xa mà lòng đầy ngao ngán, than thầm cho cái số con rệp của mình. Những gì trung sĩ Bé ở phòng nhân viên tiểu khu nói với tôi hầu như là đúng hết, chỉ thiếu một điều ông ta không nói đến là: mìn.
Tiếng động cơ của xe Dodge nổ giòn, xe lăn bánh chầm chậm ra cổng của căn cứ rồi đột nhiên ngừng lại.
-Chuẩn úy, tôi có chuyện muốn đề nghị với ông.
-Chuyện gì?
-Tôi nghi quá, linh tính báo cho tôi biết có sự chẳng lành. Không dò mìn mà đi ra tiền đồn thế nào cũng dính mìn, mà mìn chống chiến xa chứ chẳng phải chơi đâu. Xe tăng còn nát bét huống hồ gì cái xe Dodge nhỏ xíu này.
-Làm như có một mình trung sĩ biết sợ chết, tôi cũng sợ thấy mẹ.
-Hay là để tôi mượn xe Honda chở ông ra tiền đồn, đi xe hai bánh là an toàn trên xa lộ, mình có thể lách được không sợ ổ gà, vì ổ gà chính là chỗ vc chôn mìn.
-Sao mày không nói sớm? – Vì mừng quá tôi kêu trung sĩ Kim bằng mày, quên giữ gìn cách ăn nói lịch sự, xưng hô theo cấp bậc.
***
Tiền đồn nằm trên đỉnh đồi sót, khá cao với hàng chục lớp kẽm gai bao bọc, một con đường mòn nhỏ cong quẹo, uốn lượn theo sườn đồi dần lên đỉnh.
Đón tôi dưới chân đồi là hai binh sĩ, súng đạn đầy người, họ đứng nghiêm chào tôi rồi nói:
-Bọn em được lịnh xuống đón chuẩn úy.
Theo chân hai người lính, tôi cứ từ từ vừa đi vừa ngắm cảnh, tiện thể quan sát cách phòng thủ của đồn. Những vỏ lon bia, vỏ lon thịt hộp treo lửng lơ trên những lớp hàng rào kẽm gai, thỉnh thoảng chạm vào nhau kêu lẻng kẻng khi có cơn gió nhẹ thoáng qua, tiếng kêu như nhắc nhở cho tôi biết là mình đang ở trong một tiền đồn nơi biên giới, xa thật là xa, xa lắc xa lơ, xa hẳn xã hội loài người.
Khi lên tới nơi tôi mới giật mình hoảng hốt, mồ hôi ướt như tắm không biết tại leo núi hay vì sợ. Chỉ có hai binh sĩ đón tôi là người Kinh còn tất cả là người Thượng. Quân trường có bao giờ dạy tôi cách chỉ huy người Thượng đâu. Những binh sĩ này trước kia là Biệt Kích Biên Phòng, lính không có số quân, lãnh lương của Mỹ. Khi các trại Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, đổi thành Biệt Động Quân biên phòng, họ đào ngũ gia nhập Địa Phương Quân.
Tôi đang đứng ngay trên đỉnh đồi, nhìn quanh môt vòng cả một thung lũng bao la bát ngát, xung quanh là núi rừng bao bọc, cây liền cây, núi liền núi, cao ngút từng mây. Bề ngang thung lũng ước chừng năm cây số, bề dài khoảng hai mươi cây số khiến tôi nhớ đến kích thước của thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày xưa quân đội Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ với khoảng vài chục ngàn quân, cộng thêm phi cơ, chiến xa và đại bác, đã bị thất thủ. Giờ đây, tôi phòng thủ cái tiền đồn bé tí ti với độ hơn chục người lính, coi bộ cuộc đời của mình không được khá cho lắm. Tôi đã đi đến tận cùng của trái đất, đã xuống tới tầng chót của địa ngục, từ đỉnh của tiền đồn quay một vòng ba trăm sáu chục độ không một mái nhà, không một bóng người, đây là khu oanh kích tự do.
Tôi tập họp trung đội, trung sĩ nhất trung đội trưởng báo cáo quân số, chỉ vẻn vẹn hai mươi hai người. Nghe cũng an ủi được phần nào, hai mươi hai người dù sao cũng nhiều hơn con số mà tôi ước đoán. Súng cộng đồng trong đồn gồm có hai đại liên M60, hai súng cối 81 ly, đạn dược đầy đủ nếu không muốn nói là dư thừa. Sau khi tìm hiểu cách bố trí phòng thủ của tiền đôn, tôi kêu mấy tay xạ thủ súng cối, là người Thượng nhưng họ nói và nghe được tiếng Việt tuy không rành lắm.
-Các ông có thấy cây cổ thụ ở ngoài xa, dưới chân đèo hay không?
-Thấy chớ.
-Điều chỉnh tác xạ, nhắm vào cây cổ thụ bắn cho tôi vài quả.
-Tuân lệnh.
Sau một hồi loay hoay tính toán về khoảng cách, cao độ, thuốc bổi, bốn viên đạn 81 ly thoát ra khỏi nòng súng hướng về phía cây cổ thụ. Tôi đang dùng ống dòm quan sát mục tiêu, bất chợt ngựời hạ sĩ truyền tin vác máy PRC25 chạy ào đến, đưa ống liên hợp cho tôi.
-Đại úy tiểu đoàn trưởng trên máy, muốn nói chuyện với chuẩn úy.
-Cải cách, Ủng hộ, Đống đa.
-Ông dẹp mẹ nó mấy cái chữ ngụy hóa tào lao đó đi được không? Đang làm gì ngoài đó?
-Thưa đại úy, tôi đang điều chỉnh tác xạ súng cối tám mươi mốt ly.
Tiếng của đại úy tiểu đoàn trưởng gằn giọng trong máy:
-Dạ thưa ông chuẩn úy, ông muốn điều chỉnh tác xạ thì kệ ông nhưng trước khi bắn ông phải báo cáo về căn cứ, ông có biết tất cả mọi người ở đây khi nghe súng cối đề pa là xuống hầm hết hay không? Họ đang báo động là vc pháo kích. Tôi chỉ tiếc là không còn chỗ nào nữa để đưa ông đi, không lẽ lệnh cho ông dẫn vài thằng lính, ôm lựu đạn đi kích ở chân đèo?
Ngừng một chút như để dằn cơn giận (tôi đoán như vậy), đại úy tiểu đoàn trưởng rên rỉ.
-Chuẩn úy ơi là chuẩn úy, ông làm ơn quên cái quân trường của ông được không? Đợi ông tính toán xong xuôi, bắn được một viên đạn súng cối, tụi vc đã tràn ngập mẹ nó cái đồn của ông rồi.
***
Mãn hạn trấn thủ lưu đồn, tôi được gọi trở về căn cứ. Chuẩn úy Hòa đã chuẩn bị sẵn một bữa tiệc thịnh soạn với đủ món ngon để đón người về từ đỉnh núi. Một nồi canh rau muống nấu với tôm khô trong đó có thêm mấy trái cà chua đỏ tươi, cá lóc kho tiêu, một đĩa trứng chiên. Hơn một tháng ở tiền đồn chỉ toàn cá khô, thịt hộp, cơm sấy và rau rừng gồm đủ mọi thứ lá, từ đăng đắng, nhân nhẩn đến chua chua, giờ đây được ăn canh rau muống, quả thật đây là thứ rau ngon nhất trần đời. Cơm nước xong xuôi lại đến màn cà phê phin với sữa đặc có đường hiệu ông Thọ đàng hoàng, mùi cà phê thơm lừng, vị ngọt của đường, chút béo của sữa, hòa với cái đăng đắng của cà phê mới hớp một ngụm đã thấy sảng khoái cả tâm thần, bao nhiêu là mệt mỏi khổ cực biến đi đâu mất.
Bum..bum..bum.
-Pháo kích, pháo kích.
Tiếng la của ai đó từ bên ngoài vọng vào, âm vang chưa kịp dứt tôi đã nghe.
Ảm..ầm..ầm.
Không biết bao nhiêu là trái đạn súng cối 82 lỵ tới tấp thi nhau nổ, những tiếng nổ liên tiếp kéo dài liên tu bất tận. Hình như có một trái 82 ly rơi trúng ngay nóc hầm, tôi cảm nhận được sự rung chuyển khác thường của mặt đất, bụi từ trên nóc hầm lã chã rơi xuống mù mịt căn hầm khiến tôi tưởng như mình đang đứng trong một con tàu lắc lư, chao đảo, ngả nghiêng trong cơn bão tố. Lần đầu tiên trong cuộc đời, thật sự với chiến trường, đứng trước mũi tên hòn đạn, thấy được cái chết sừng sững trước mắt, tôi lặng người đi vì sợ hãi, hoảng hốt thì đúng hơn. Khi đạn pháo bắt đầu thưa dần, tôi mới bình tỉnh trở lại. Trời đánh tránh bừa ăn, nhìn ly cà phê váng bụi, tiếc của trời tôi bưng lên ực một hơi, cà phê thoang thoảng mùi con gián chết. Tôi vơ vội cây súng M16 cùng với chuẩn úy Hòa chạy ra giao thông hào.
Lúc này, hai khẩu đại bác 105 ly của căn cứ bắt đầu phản pháo, đạn 105 ly vụt đi, chưa biết có trúng được nơi vc đặt súng hay không nhưng âm thanh của nó nghe thật là phấn chấn, đã cái lỗ tai.
Lại đến đợt pháo thứ hai, lần này ít hơn chỉ độ vài chục trái. Người lính đứng bên cạnh tôi nói:
-Không sao đâu chuẩn úy, ở đây pháo ban ngày, không sợ cái màn “tiền pháo hậu xung” lát nữa lên dọn dẹp là xong chuyện, coi như không có gì xảy ra.
-Ha sĩ ở đây bao lâu rồi?
-Gần một năm, lúc đầu khi mới tới đây sợ pháo kích quá sức, riết rồi thành quen đâm ra lờn, có pháo cũng như không. Mà nè, làm một điếu thuốc cho ấm phổi đi chuẩn úy.
-Làm thì làm, sợ gì.
Đang say sưa tán gẫu, tôi bỗng giật mình.
-Chuẩn úy Đạt, có lịnh gọi ông đi trình diện.
Tôi vội vàng đi qua hầm của bộ chỉ huy. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một người lính nằm bò càn dưới đất, chân mang đôi giày bốt đờ sô to quá khổ so với thân hình của ông ta. Ông đang dùng lưỡi lê để đào một trái đạn súng cối 82 ly chưa nổ.. Khi moi được một nhúm đất, ông ta dùng tay gạt nhẹ qua một bên rồi lại đào tiếp, khi đào được phân nửa trái đạn, cái đuôi viên đạn súng cối đã hiện nguyên hình, bất ngờ người lính rút hai tay lại xoa vào nhau rôi nói một mình “hãy còn nóng”.
-Anh đang làm gì vậy? Tôi hỏi.
Quay đầu nhìn tôi, người lính nói:
-Đào đem đi dụt, chuẩn úy.
Giọng nói của người miền Nam chứa đầy chơn chất, thoải mái, nghe sao lạc loài xa lạ, bởi vì đa phần lính ở cao nguyên thường là dân gốc miền Trung. Tôi đoán là anh ta ở trong toán tháo gỡ đạn dược. Không muốn hỏi nhiều khi anh ta đang thi hành công vụ, tôi lặng lẽ quan sát hiện trường. Nhìn gương mặt của anh ta đỏ gay đỏ gắt, mồ hôi nhễ nhãi chảy dọc theo hai bên thái dương, nhìn trái đạn còn nóng hổi, tôi suy nghĩ một chút rồi lẹ làng dọt mau mau cho được việc, đứng đó lạng quạng lỡ trái đạn nổ bất thình lình, mình bị chết lây lảng nhách.
Tôi trình diện trung úy đại đội trưởng, ông ta là người Thượng nhưng nói tiếng Kinh khá sõi.
-Chuẩn úy sẽ là trung đội trưởng trung đội một. Ông đi gặp hạ sĩ quan tiếp liệu lãnh địa bàn, bản đồ và vật dụng cần thiết. Hôm nay đại đội của…
Ầm…chỉ một tiếng nổ vang lên từ bên ngoài,
Trung úy đại đội trưởng nghiêng đầu như nghe ngóng rồi hỏi.
-Cái gì nổ vậy?
-Trung úy có muốn tôi ra coi không?
-Thôi kệ nó đi, hôm nay đại đội của mình đi hành qụân bảy ngày, mục tiêu là lục soát vùng vc đặt súng cối, ông về chuẩn bị.
Trên đường về, tôi thấy mấy người lính quân y bu quanh xác một người lính không đầu với mảnh hình hài nhầy nhụa nát tan. Nhìn xuống đôi giày bốt đờ sô to quá khổ, tôi biết anh ta là ai rồi. Mới nói chuyện với tôi đó mà, cuộc sống phù du, sống đó rồi chết đó, dễ dàng như chuyện uống miếng nước, ăn chén cơm, hút điếu thuốc.
***
Trung đội phó báo cáo quân số của trung đội, tôi kiểm soát lại cấp số đạn và bảy ngày lương khô của binh sĩ. Trong lúc tôi đang dùng viết chì mỡ khoanh vùng đỉnh núi, chỉ cho trung sĩ nhất trung đội phó mục tiêu của cuộc hành quân.
-Chuẩn úy, em là Năm Thẹo, ông đưa hết đồ đạc cá nhân của ông em mang cho. Từ đây về sau ông thầy cứ yên tâm, mọi chuyện đã có Năm Thẹo lo hết.
Tôi nhìn anh binh nhì đang đứng trước mặt, trạc tuổi tôi nhưng thân hình to lớn kềnh càng, tóc quăn, da mặt ngăm ngăm đen với đôi mắt sáng quắc, thoạt nhìn đã thấy rõ cái ngang tàng ngạo nghễ trong con người của anh ta. Một vết thẹo dài chạy dọc theo bên má trái từ chân mày đến cằm, vết thẹo làm tăng thêm phần lì lợm, bụi đời trên gương mặt của Năm Thẹo. Thật sự mà nói nếu không nhờ vào bộ đồ lính với cặp lon chuẩn úy nơi cổ áo, có cho kẹo tôi cũng không dám nhìn anh ta. Tôi lấy gân, gồng mình hỏi:
-Ngày xưa em ở đâu?
-Dạ, Tôn Đản, Khánh Hội ông thầy.
-Có phải du đãng không đó?
Năm Thẹo chắt lưỡi, gãi đầu.
-Dạ, cũng có dính líu chút ít.
-Năm Thẹo nè.
-Có gì chuẩn úy.
-Mày vén áo lên tao coi, còn bốn cái thẹo nữa ở đâu?
-Ông thầy ơi, một cái thẹo trên mặt, thêm hai cái xương sườn gãy khi bị du đãng Cầu Muối thanh toán khiến em nằm nhà thương cả tháng trời, nếu lãnh thêm bốn cái thẹo nữa chắc em chết từ cái đời nào rồi. Em tên Năm, vì có cái thẹo trên mặt nên bạn bè gọi là Năm Thẹo, riết rồi chết tên luôn.
Tôi chọn NămThẹo làm đệ tử và biết rằng kể từ đây mạng sống của tôi và Năm Thẹo sẽ buộc chặt lấy nhau. Tôi cần đến sự giúp đỡ của Năm Thẹo trong khi đi hành quân. Ngược lại chưa hẳn Năm Thẹo cần đến sự bao che của tôi.
Sau hai ngày leo núi, tối ngày thứ ba đại đội đóng quân trên đỉnh núi với thế đất hình yên ngựa, chuẩn bị sáng hôm sau sẽ lục soát đỉnh núi bên cạnh, nơi vc đặt súng cối.
Suốt đêm, trên đỉnh núi cao vời vợi, tôi nằm một mình trên chiếc võng nghe gió hú, từng hồi, từng cơn, tiếng gió hú nghe như từ cõi âm vọng về lạnh lùng đến rợn gáy.
Năm Thẹo bất chợt nói với tôi, giọng nói nhỏ như là tiếng muỗi kêu.
-Ông thầy, lần đầu nghe gió hú phải không?
-Ừ, nghe nó rờn rợn làm sao ấy.
-Nghe riết rồi cũng quen thôi ông thầy à, gắng ngủ đi, lấy sức mai còn lội tiếp.
Mờ sáng ngày thứ tư, khi sương mù còn bao phủ dày đặc trên đỉnh núi, tôi dẫn trung đội một đi đầu tiến đến mục tiêu. Tiểu đội một báo cáo có nhiều đường mòn, họ tránh không dùng đường mòn vì sợ mìn bẫy. Khi trung đội của tôi đã chiếm đóng mục tiêu, bố trí phòng thủ xong, ba trung đội còn lại lần lượt đến. Lịnh của đại đội trưởng cho các trung đội bung rộng ra để lục soát, tìm nơi chôn giấu súng cối và đạn.
Ầm …ầm..
Hai tiếng nổ liên tục, tôi biết có chuyện chẳng lành. Qua máy PRC 25, trung đội ba báo cáo với đại đội trưởng, hai binh sĩ chết, hai bị thương do mìn vc gài lại. Cùng lúc đó tôi nhận được lịnh dùng mìn phá rừng, dọn bãi đáp cho trực thăng tải thương.
Sau gần hai tiếng đồng hồ làm việc cật lực, chúng tôi phát quang được một khoảng trống khá rộng đủ chỗ cho trực thăng sà xuống bốc người.
Vẫn biết rằng “Xưa nay chinh chiến mấy ai về”, bài Lương Châu Từ còn đó nhưng khi nhìn hai xác chết được cuốn gọn trong tấm poncho, đầu đuôi cột chặt, thêm phiếu tải thương cột bên hông khiến tôi nghĩ đến chuyện da ngựa bọc thây tưởng chỉ có trong điển tích của Tàu, giờ đây nó ngay trước mắt mình. Những ngày đầu vào lính, khi lãnh quân trang có thêm cái poncho, tôi chỉ nghĩ là nó dùng để che mưa, không biết được công dụng khác là dùng như tấm da ngựa để bọc thây khi chết. Tôi nói với Năm Thẹo:
-Nếu tao có phải cuộn mình trong tấm poncho, mày làm ơn nhắn lại với ba má của tao là: “Tao thương ông bà”, chỉ có thế thôi.
***
Hai đại đội phòng thủ căn cứ, hai đại đội hành quân di động tiêu diệt địch ở bên ngoài, có nghĩa là cứ lội mười lăm ngày trong rừng, sau đó về phòng thủ căn cứ dưỡng quân mười lăm ngày.
Một năm rưỡi trôi qua, một năm rười dãi nắng dầm mưa, hít thở cái lạnh lẽo của cao nguyên, cơm chỉ là gạo sấy thịt hộp, nước có suối cạn trong rừng, đụng độ với địch năm bảy lần, tôi lãnh được hai cái huy chương, cộng thêm cái biệt danh “ Đạt Húc”.
Ngày tôi lên chức thiếu úy cũng là lúc thực thụ nắm đại đội trưởng, cũng ăn tục nói phét như điên, chửi thề uống rượu như máy. Tôi là đại đội trưởng sáng giá nhứt của tiểu đoàn, là cánh tay mặt của tiểu đoàn trưởng, ông ta coi tôi như thằng em nhỏ, tình thân giữa ông và tôi là cái tình nửa nhà binh nửa là người anh lớn lo cho thằng em.
Tôi tưởng rằng cuộc đời của mình sẽ cứ như vậy mà đi qua, không ngờ có một ngày đặc biệt khiến tôi nhớ mãi suốt đời, ngày mà cuộc đời lính của tôi bước sang khúc quanh mới. Hôm ấy, tôi với tiểu đoàn trưởng cùng vài người lính trong tiểu đoàn uống rượu tiêu sầu, ở chốn thâm sơn cùng cốc này ngoài rượu ra còn có gì để mà giải sầu đâu? Sau vài ly xây chừng, tôi hỏi đại úy:
-Ngày mới ra trường khi trình diện, tại sao ông giận dữ đày tôi đi tiền đồn?
-Có gì đâu, tao không thích chuẩn úy Hòa vì nó đánh đấm chẳng ra cái con mẹ gì, đã vậy suốt ngày cứ say sưa. Chú mày mới chân ướt chân ráo đến đây đã có vẻ muốn theo chân chuẩn úy Hòa, cho nên tao đày đi tiền đồn cho bỏ ghét.
-Nếu lúc đó trên đường ra tiền đồn, xe Dodge bị trúng mìn nát bét thì sao?
-Chú mày nhắc tao mới nhớ. Sau khi chú mày đi rồi tao mới hết hồn, trong lúc nóng giận tao quên mất chuyện mìn gài đầy đường. Đang còn bực bội chưa hết, tiếp theo chuyện chú mày lại điều chỉnh tác xạ súng cối khiến tao giận cành hông, vc pháo kích vào căn cứ là chuyện thường tình, đàng này phe ta pháo kích phe mình, không giận sao được.
-Đại úy à, tôi còn thêm câu hỏi này nữa. Ngày đó tôi còn ngơ ngơ ngáo ngáo như con ngỗng đực lại thêm không gốc, không rễ cho nên mới bị đày xuống đây. Đại úy chắc cũng vậy chứ gì?
-Chú mày chỉ được cái giỏi là suy bụng ta ra bụng người. Đúng, tao bị đày xuống đây nhưng lý do thì khác, tao đâu có phải là con ngỗng đực.
Đại úy Châu xé miếng khô nai to bằng bàn tay đưa lên trước mặt, lật qua rồi lật lại, ông nói mà như là than thở
-Cuộc đời của tao nó cũng bầm giập như miếng khô này, bị phơi không biết bao nhiêu là nắng, sấy cho đên lúc khô queo khô quắt, giờ đây lại bị nướng trên lửa than rồi hun khói, cháy đen thui là phải. Chú mày biểu Năm Thẹo xé nhỏ miếng khô này, dầm trong tô nước mắm ớt, chanh đường rồi đem lên đây.
-Đại úy cần gì nữa không?
-Không.
Đưa tay với lấy cái zippo có hình con cọp nâu nhe hàm răng đủ mười ba cái, đại úy Châu đốt một điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ, khói thuốc màu trắng xám chập chờn uốn lượn trong không gian, lan tỏa khắp căn hầm, ông nhắm mắt như muốn thả hồn theo khói thuốc.
-Thiếu tá Nguyễn Văn Tinh Châu, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Biệt Động Quân là tao.
Tôi lặng người đi vì không ngờ sếp của mình trước kia là thiếu tá, mà lại là thiếu tá tiểu đoàn trưởng của một binh chủng lừng danh.
-Đại úy, ông bị giáng cấp phải không?
Không buồn trả lời câu hỏi của tôi, đại úy Châu nâng ly rượu nốc một hơi, ông uống rượu mà mặt nhăn mày nhíu như là đang uống cạn đắng cay của cuộc đời. Đặt cái ly không xuống bàn, đại úy Châu thong thả nói, giọng nói nghe trầm trầm như âm vang từ quá khứ vọng về.
-Ở một vùng biên giới, chú mày có biết nơi mà giòng sông chảy ngược hay không?
-Đại úy nói gì? Nước chảy ngược?
-Ừ, tất cả sông ở miền Trung của Việt Nam đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy về hướng đông, tức là chảy ra biển, riêng khúc sông này nó lại chảy về hướng tây, tức là đổ qua Lào, cho nên người ta gọi nó là sông chảy ngược. Tại đây, một đại đội đi đầu của tao đụng độ nặng với Việt Cộng. Địch quân đông như kiến, hỏa lực hùng hậu, hàng chục khẩu cối tám mươi hai ly pháo như mưa vào cái đám con của tao. Chú mày biết rồi, bên kia biên giới là an toàn khu của Việt Cộng, nơi mà họ dưỡng quân, nghỉ ngơi thiếu điều dựng lều hát chèo, xây sân khấu cho văn công trình diễn văn nghệ cũng chẳng có ai làm gì.
Trong lúc đại đội bị nguy khốn cần yểm trợ hỏa lực, tao yêu cầu cố vấn Mỹ xin không yểm, nhìn gương mặt lạnh lùng như cái xác chết của thằng cố vấn, kèm theo giọng nói tĩnh bơ như không phải chuyện của nó “Bên kia biên giới, không quân Mỹ không yểm trợ được vì vi phạm luật trung lập của Lào”.
Rừng núi bao la, cây cối xanh um, mây trắng ngút ngàn một đường kẻ cong quẹo trên bản đồ, nhỏ như sợi chỉ gọi là đường biên giới nó quá sức mù mờ, đẩy qua phía bên kia dăm ba cây số cũng được, kéo lại bên này vài câỵ số cũng xong, biết đâu là chân lý? Giận thằng cố vấn Mỹ cứng ngắt theo nguyên tắc, nóng ruột vì của đau con xót, đám con của tao đang khắc khoải đợi chờ yểm trợ từng giây từng phút, cứu binh như cứu lửa, chậm một phút kể như ôm hận ngàn đời. Tao nổi điên rút cây colt 45, lên đạn.
Tôi nghĩ rằng mình biết về sếp của mình nên lanh chanh hớt lời.
-Chỗ này tôi biết, ông bắn chết thằng cố vấn Mỹ chứ gì?
-Nói tầm bậy, ai nói với chú mày như vậy?
-Bọn lính vẫn thường thầm thì, to nhỏ với nhau là ngày xưa ông đã từng bắn chết một viên cố vấn Mỹ.
Một thoáng không vừa lòng hiện ra trong đôi mắt của đại úy Châu, ông chỉ vào cây cột to chần dần giữa hầm.
-Chú mày qua dựa lưng vào cây cột đó rồi nói chuyện cho đở mỏi.
-Tôi còn khỏe mạnh, có mệt mỏi gì đâu.
-Ông bà mình có nói “Biết thì thưa thốt, không biết thì …”
Tôi ngậm câm như thóc rồi tự hứa với mình là phải học hỏi thêm nhiều nơi ông, bỏ đi cái tính nhanh nhẩu đoảng.
Đại úy Châu rót thêm rượu vào cái ly của tôi.
-Thói đời, có ít cứ nới cho nhiều, thêm thắt, vẽ vời cho lắm, có một đồn mười, dám tụi nó đồn tao là hung thần giết người như ngoé cũng nên. Tao chỉ bắn què giò thằng cố vấn Mỹ sau đó phải tự lực cánh sinh, đem mấy đại đội còn lại cấp tốc đi đường vòng đánh thẳng vào nơi đặt súng cối của Việt Cộng, giải vâỵ cho đám con của tao. Tao cứu được đám con đem về bên này biên giới nhưng không cứu được bản thân tao.
Ra tòa án quân sự vì tội bắn cố vấn, tao bị lột lon, giáng một cấp và đuổi ra khỏi binh chủng. Tao mang lon đại úy và đi đày ở đây như mày thấy. Đã ba năm qua rồi, giờ này tất cả đã chìm sâu vào dĩ vãng. Tao không bao giờ ân hận về việc làm của mình, cũng như không bao giờ quên binh chủng, máu của cọp mũ nâu vẫn còn chảy trong huyết quản của tao. Mỗi khi nhớ tới đơn vị cũ tao lại bận bộ đồ Biệt Động Quân, bận để thương nhớ binh chủng của mình hơn là tiếc cho cái lon thiếu tá.
Nhưng mà thôi, chuyện xưa dẹp qua một bên để dành làm kỷ niệm. Tao có món quà đặc biệt, chú mày sinh quán ở đâu ?
-Đalat.
-Tao chỉ muốn hỏi lại thôi, không có gì bàn cãi nữa. Đây là công điện từ bộ Tổng Tham Mưu gởi tiểu khu Darlac với nội dung là trường Võ Bị Đalat cần một sĩ quan tham mưu, tao đã dành chỗ này cho chú mày. Sau khi nhậu xong, qua bên cố vấn Mỹ theo trực thăng về tiểu khu để hoàn tất thủ tục thuyên chuyển. Lẹ lên, không được bỏ lỡ cơ hội, cờ tới tay mà không chịu phất, chần chờ sẽ có đứa khác nó chộp mất.
-Tôi có biết gì về tham mưu đâu. Nghề của tôi là húc mà.
-Đừng có lo, trước đây hai năm, có bao giờ chú mày nghĩ rằng chú mày là một thằng đại đội trưởng có hạng haỵ không?
-Ông nói cứ như thiệt, đâu phải điền đơn xong là được thuyên chuyển, trường Võ Bị Đalat, chỗ đó là nơi mơ ước của không biết bao nhiêu là người.
-Hùm chết để da, người ta chết đế tiếng. Tao đi đày ở đây, coi như là chết rồi nhưng tên tuổi, tiếng tăm của tao vẫn còn. Ở cái tiểu khu này có ai mà không biết tao. Khi phòng nhân viên thấy chữ ký của tao, hồ sơ của chú mày sẽ chạy nhanh như gió, hơn nữa chú mày cũng nên học hỏi chút đỉnh việc đời, dầu gì Đại tá Tỉnh trưởng với tao cũng là chỗ thân tình, tao với ông ấy vốn là bạn cùng khóa.
Vui buồn lẫn lộn, về quân trường đúng là nơi an toàn cho bản thân, khỏi phải đi hành quân lội suối băng rừng nhưng những ân tình của lính cũng như là của tiểu đoàn trưởng đã dành cho mình thì sao? Tôi còn sống cho đến ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh của họ, lấy gì báo đáp đây?
-Đại úy, tôi có một thỉnh cầu xin đại úy giúp cho.
-Gì nữa đây?
-Tôi đi rồi bỏ Năm Thẹo bơ vơ một mình, tội nghiệp nó.
-Tao vẫn thích những đứa thủy chung, có trước có sau như mày. Tao sẽ đem Năm Thẹo về Bộ chỉ huy tiểu đoàn với tao, mày vừa ý chưa?
-Chưa, đại úy à, thằng em đi rồi ông ở với ai ?
-Chú mày khéo lo bò trắng răng. Khi nào vc ũi sập cái căn cứ này, lúc đó mày hãy lo.
Ngày rời khỏi địa ngục trần gian, tôi ôm đại úy tiểu đoàn trưởng khóc ròng.
***
Cổng Nam Quan của trường Võ Bị Đalat không to lớn, không đồ sộ, trên nóc cổng là ngọn cờ Quốc Gia tung bay phất phới, dưới chân cột cờ là phù hiệu của trường với thanh kiếm bạc chỉ thẳng lên trời, thêm hàng chữ “Tự thắng để chỉ huy” nổi bật trên nền gạch đỏ, nhờ sự phối hợp hài hoà khiến cổng trường trông oai nghiêm, hùng dũng. Hình ảnh cổng Nam Quan, biểu tượng của trường Võ Bị Đalat như in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Tôi bước chân qua cổng. Bắt đầu từ đây, tôi là sĩ quan cơ hữu của trường.
Theo con đường tráng nhựa sạch bong, không một cọng rác, hai bên vệ đường cỏ mọc xanh rì, được cất tỉa gọn gàng, tôi đi thẳng đến phòng nhân viên. Trên đường đi, tôi chào kính mệt nghỉ, chào mỏi tay. Sau này tôi mới rõ thêm, trường Võ Bị Đalat là nơi quần anh tụ hội. Hình như ở đây quan nhiều hơn lính, quan cấp úy đếm không hết, quan cấp tá phải vài chục ông, đã vậy có lúc trong trường còn thêm hai ông tướng, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, Chuẩn tướng Chỉ huy phó.
Mang một cái bông mai trụi lũi như tôi, chào kính mỏi tay là phải. Chưa chi tôi đã nản chí anh hùng, muốn hát bài “Hổ nhớ LOK”, một mình một chợ, tha hồ múa gậy vườn hoang, dẫn gần trăm người lính, lội nửa tháng trong rừng nhìn khắp bốn phương, tìm khắp tam hướng chỉ thấy cái bông mai của mình là lớn nhất.
Trường Võ Bị Đalat xây trên ngọn đồi thấp với cao độ 1500 mét, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5km, được kiến trúc theo kiểu Mỹ gồm nhiều dãy nhà bốn tầng. Dùng làm nơi ở cho sinh viên có bốn doanh trại, mỗi doanh trại có khoảng một trăm phòng ngủ, phòng ăn rộng mênh mông bát ngát, đủ sức dọn ăn cho trên một ngàn sinh viên cùng ăn một lượt, thư viện với đầy đủ sách cho sinh viên nghiên cứu, riêng nhà thí nghiệm nặng được xây âm dưới đất. Sân cỏ của vũ đình trường Lê Lợi lúc nào cũng xanh mướt với con đường tráng nhựa bọc quanh, tất cả đều sạch sẽ ngăn nắp. Qua cái nhìn đầy chủ quan của tôi, khó có học viện quân sự nào ở Đông Nam Á có thể sánh bằng.
Điều hành trường gồm có ba khối: Văn hóa, Quân sự và Tham mưu, phòng làm việc của tôi ở tầng hai ngay cầu thang xoắn ốc của Bộ chỉ huy, đối diện với phòng của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng.
Đang từ một chỗ quanh năm suốt tháng sống dưới những căn hầm chật chội, ẩm thấp đêm cũng như ngày lù mù lờ mờ trong ánh sáng của ngọn đèn dầu hột vịt bé tí tẹo, giờ đây tôi ngồi làm việc trong căn phòng rộng rãi, thoáng mát với tất cả đầy đủ tiện nghi. Hơn mười cái điện thoại trước mặt, gồm hai hot line dùng để liên lạc trực tiếp với phòng Ba của bộ Tổng Tham Mưu, hai class A liên lạc khắp miền Nam, hai class C liên lạc trong tỉnh và năm điện thoại nội bộ, phải mất cả tháng trường tôi mới tạm quen với công việc.
Có những buổi chiều thu, khi mây xám giăng đầy bầu trời Đalat, từng cơn mưa phùn kéo nhau qua quân trường, mưa nhè nhẹ, từng hạt mưa nhỏ, nhỏ như hạt bụi vướng vào cửa kính, trong phòng hơi nước phủ mờ mặt gương, thoải mái với không khí ấm cúng của căn phòng khiến tôi bồi hồi nhớ lại những cơn mưa ở LOK. Nhớ những buổi chiều trên cao nguyên vùng biên giới với bầu trời xám xịt, nằm trên chiếc võng nhìn từng giọt nước theo sợi dây cột ở đầu võng rơi tóc tách, âm thanh nghe buồn đến nát ruột, nhớ đến những người lính co ro, run rẩy trong bộ quần áo sũng nước mưa. Nhớ Năm Thẹo vác tôi chạy như bay đến trực thăng tải thương, dưới cơn mưa pháo của vc. Nhớ đại úy tiểu đoàn trưởng quay người bước đi như trốn chạy khi ông ta tiển tôi rời khỏi LOK. Đột nhiên ý tưởng xin trở về LOK hiện ra trong đầu tôi.
Gần năm năm ở trường Võ Bị Đalat, tôi chưa một lần đụng đến cây súng treo ở góc phòng. Phải đợi cho đến cuối tháng ba năm 1975, tôi mới cầm lại cây súng M16 cùng với quân nhân cơ hữu và khoảng một ngàn sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đalat di tản về Long Thành, tạm trú chung với sinh viên sĩ quan của trường Bộ binh Thủ Đức.
Giã từ đồi Tăng Nhơn Phú, sau bảy năm lưu lạc, tôi trở về để tình cờ thấy lại hình bóng của mình ngày xưa với mồ hôi nhễ nhại, cát bụi lấm lem đầy người, đang thi hành lịnh phạt hai mươi cái bơm dầu, bên cạnh ông huynh trưởng đứng phùng mang trợn mắt huấn luyện đàn em. Trở về đây để thấy thuở còn là sinh viên sĩ quan, đang thực tập tác xạ ở sân bắn dưới cái nóng như thiêu đốt của Thủ Đức. Tôi trở về trong lúc đất nước đang ở trong tình huống cực kỳ bi thảm. Hai mươi bảy tuổi, cái tuổi lo chưa tới, tôi trở về trường mẹ để rồi phải ngậm ngùi, buồn thấm thía với câu nói của cổ nhân: “Lá rụng về cội”.
***
Khi nghe đọc lời tuyên bố buông súng chờ bàn giao trên đài phát thanh Sàigon, tôi hơi bàng hoàng sửng sốt mặc dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước.
Tôi mượn ông cậu của tôi bộ đồ dân sự tròng vô người, bộ đồ rộng thùng thà thùng thình trông chẳng ra làm sao cả, nhưng nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ. Tôi phóng Honda ra đường, chạy ngang qua trại Hoàng Hoa Thám, nơi tôi đã cùng hai trăm Sinh viên Võ Bị Đalat về đây học nhảy dù, suốt năm tuần lễ, sáng, trưa, chiều, tối lúc nào cũng vừa chạy vừa đếm nhịp.
Nhảy dù cố gắng Cố gắng nhảy dù.
Qua Lăng Cha Cả với mấy chiếc tăng T54 cháy đen thui, chứng tích sự kháng cự của Nhảy Dù. Dọc theo đường Công Lý, đây là con đường một chiều, thế nhưng hàng ngàn chiếc Honda cái chạy xuôi, chiếc chạy ngược cứ loạn cả lên, mạnh ai nấy chạy. Hình như người ta chạy để mà chạy chứ chẳng biết chạy đi đâu. Hai bên lề đường giày bốt đờ sô, nón sắt, súng M16 cùng với những bộ quần áo rằn ri vứt lăn lóc, lòng tôi chợt quặn đau khi nhớ tới bộ đồ dù, trong đáy túi quân trang của tôi khi còn ở quân trường.
Đến trước Dinh Độc Lập tôi hơi rợn người, xe tăng của vc đã đậu khắp trong sân. Bên ngoài cũng tăng và lính Cộng Sàn bố trí khắp công viên, kéo dài qua tòa Đại sứ Mỹ thẳng về phía Sở Thú, trùng trùng điệp điệp xe tăng và lính Cộng Sản.
Trên nóc Dinh Độc Lập cờ Quốc Gia đã được thay bằng lá cờ hai màu xanh đỏ của Mặt Trận Giải Phóng. Tôi cố nhìn một lần cuối cùng, muốn ghi lại trong trí nhớ của mình hình ảnh Dinh Độc Lập trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Trong lúc tất cả mọi chuyện hình như đã đặt dưới sự kiểm soát của vc, đột nhiên từ cánh phải bên trong Dinh Độc Lập nhiều loạt đạn M16 thi nhau nổ giòn giã, xé tan cái bầu không khí ngột ngạt, khó thở. Tiếng súng nghe như đầy căm phẩn, xen lẫn với đau thương uất hận, khiến tôi nghĩ đến hình ảnh con mãnh sư mang thương tích trầm trọng khắp mình, cất tiếng hú bi ai trước giờ tử biệt. Qua kẽ hở hàng rào dinh, tôi thấy lính Cộng Sản rối loạn hẳn lên, người ta chen lấn, đổ dồn về phía hàng rào. Tôi đoán ngay đó là những tiếng súng của Liên Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, tiếng súng của những người lính có nhiệm vụ bảo vệ Dinh Độc Lập.
Khoảng năm phút sau từ cánh cửa nhỏ bên hông của dinh, một ông thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến hai tay ôm vòng ra phía sau đầu bước ra, theo sau ông ta khoảng một trung đội Cảnh Sát Dã Chiến. Không tin vào đôi mắt của mình, Cảnh Sát Dã Chiến lại phòng thủ Dinh Độc Lập, chuyện khó tin nhưng những bộ đô bông da báo, màu nâu đậm và vàng nhạt, thêm chiếc mũ nồi màu đen đã xác nhận họ là Cảnh Sát Dã Chiến.
Tất cả xếp hàng một dọc theo hàng rào, mặt quay vào tường, quỳ xuống, riêng viên thiếu úy không chịu quỳ, ông ta đang nói gì đó với đám lính Cộng Sản. Trong lúc bất ngờ một cán binh vc giáng nguyên cái báng súng AK vô đầu viên thiếu úy, thêm một cái đạp sau bắp chân. Tôi thấy ông ta qụy xuống đất, thân hình lao đảo, ngả nghiêng nhưng vẫn cố gắng gượng lại, cuối cùng như một con báo vàng với vết thương đâm ngay tử huyệt, cả thân hình của viên thiếu úy đổ dài xuống đất. Ông ta nằm bất động, một dòng máu tươi chảy dọc theo mang tai, lan dần như một vết dầu loang để rồi cuối cùng nhuộm đỏ cái bông mai vàng nơi cầu vai áo.
Mắt của tôi cay. Môi của tôi mặn, bất lực đứng nhìn, thương cho viên thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến, thương cho mình, thương cho Việt Nam.
***
Bất tuân thượng lệnh khi đối đầu với địch quân sẽ bị đưa ra tòa án quân sự mặt trận xét xử.
Viên thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến, đứng trước hàng trăm chiếc tăng T54, PT76 với đại bác, đại liên, trước hàng ngàn lính Cộng Sản với đầy đủ AK và B40, ông ta cùng với trung đội của mình đã không chịu buông súng đầu hàng theo lệnh của cấp trên. Có nên đưa ông thiếu úy và trung đội Cảnh Sát Dã Chiến của ông ta ra tòa án quân sự hay không ?
Câu trả lời xin nhường lại cho quý vị. Phần tôi, tôi chỉ thuật lại những gì tôi thấy.
Khi mà tôi biết được bộ đồ bông da báo của Cảnh Sát Dã Chiến cũng đẹp và oai hùng như bộ đồ rằn ri của Nhảy Dù thì mọi chuyện đã trễ rồi. Đồng hồ đeo tay của tôi chỉ 1 giờ kém 5 trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Dinh Độc Lập từ đây chỉ còn trong ký ức.
Huy Văn Trương
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 2, 2019 1:08:40 GMT 9
CHUẨN-TƯỚNG HUỲNH THỚI TÂY
MỘT hôm, vào đầu tháng 3 năm 1975, tôi được Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia/Ngành Đặc-Biệt gọi vào mà không cho tôi biết trước lý-do hay mục-đích gì.
Cũng được xe-hơi dân-sự đón từ phi-trường, nhưng đến văn-phòng của Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương thì viên thiếu-tá bí-thư mời tôi qua gặp Trung-Tá Phạm Văn Ca, Giám-Đốc E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính), theo lệnh của Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Tôi đã từng cùng Trung-Tá Ca đi tu-nghiệp về “Chống Khuynh-Đảo” tại Úc-Đại-Lợi vào năm 1970 nên quen thân nhau.
Ca bảo tôi:
‒ Ông Tướng muốn biết trong thời-gian qua anh có làm gì sai trái hay không. Anh hãy ngồi đây, viết bản tự-thuật, kể hết những gì mà anh thấy là khuyết-điểm, xong rồi hãy qua gặp ông.
*
Tôi ngồi ôn lại mấy việc lớn/nhỏ mà tôi nghĩ là có thể đã làm Tướng Tây bất-bình về tôi....
Trung-Tá Nguyễn Mâu
Trong một buổi họp các cấp Trưởng E (Giám-Đốc Nha tại Trung-Ương và Nha tại các Vùng), Đại-Tá Huỳnh Thới Tây hỏi về “Biệt-Đội Thiên Nga” cùng các cơ-cấu không thấy có ghi trong Sắc-Lệnh tổ-chức của Ngành. Tôi trình-bày về “Chiến-Dịch Đại Phong” và “Ký-Giả Tự Do”.
“Chiến-Dịch Đại Phong” là tên gọi của một phương-thức hoạt-động, theo đó thì nhân-viên Đặc-Cảnh sử-dụng người chỉ-điểm, là cán-bộ/bộ-đội/cơ-sở Việt-Cộng bị bắt mà tự-nguyện hợp-tác với ta, bằng cách ngụy-trang và tạo ngụy-tích cho đương-nhân không bị công-chúng, nhất là đối-phương, nhận ra.
“Ký-Giả Tự Do” là một/vài viên-chức Đặc-Cảnh hoặc cảm-tình-viên của Ngành, có năng-khiếu viết báo, làm phóng-sự, được giao nhiệm-vụ bí-mật trà-trộn vào giới ký-giả hiện đang ào-ạt săn tin giật gân, trong đó có nhiều phần-tử phản-chiến, thân-Cộng và cả là cộng-sản trá-hình. Ngành Đặc-Biệt can-thiệp với Bộ Thông-Tin, cấp “Thẻ Ký-Giả” cho họ, để phòng có ai thắc-mắc thì đưa ra cho họ xem. “Tự Do” nghĩa là gửi bài đăng trên bất-cứ báo nào, không hẳn là cộng-tác-viên nhất-định của một báo nào.
Tôi đã thật-tình và vô-tình nói rằng đó là những sáng-kiến của Trung-Tá Nguyễn Mâu.
Đại-Tá Tây ném mạnh cây bút xuống bàn, dằn giọng:
‒ Tôi là Huỳnh Thới Tây; làm việc với tôi thì hãy chỉ biết có tôi; tôi không cần biết Nguyễn Mâu là ai.
Việc Thăng-Thưởng Nhân-Viên
Một lần khác, cũng họp tham-mưu như trên, bàn về vai trò của “Cán-Bộ Điều-Khiển” (Case Officer: Điệp-Trưởng) trong các công-tác xâm-nhập (nguời của ta, do ta xây-dựng rồi cài vào hàng-ngũ địch) và nội-tuyến (người của địch, được ta móc-nối, sử-dụng làm tay-trong cho ta).
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây ngỏ ý muốn nâng-đỡ giới này.
Tôi lấy tư-cách là người thực-sự đi sát và hiểu-biết nội-tình tại chỗ, trình-bày:
‒ Trước đây, Người Bạn Đồng-Minh đã nghĩ đến việc cấp một ngân-khoản phụ-trội hàng tháng cho tất cả viên-chức Ngành Đặc-Biệt, nhưng bên Cảnh-Sát Sắc-Phục phản-đối, nên việc không thành. Theo tôi, đáng khuyến-khích nhất là Cán-Bộ Điều-Khiển, như đại-tá vừa nêu ra. Nhưng đa-số Cán-Bộ Điều-Khiển thì là hạ-sĩ-quan.
“Nếu dùng sĩ-quan thì không những dễ-dàng hơn trong việc tiếp-xúc và nhờ-vã sự giúp-đỡ của người khác, mà còn có nhiều uy-tín và được tin-tưởng hơn đối với chính mật-viên của mình. Nhưng sĩ-quan Cảnh-Sát Đặc-Biệt thì đa-số đều mong được giữ chức-vụ chỉ-huy, mà khi đã là cấp chỉ-huy rồi thì họ lại mong được qua Sắc-Phục, hay nói đúng hơn là họ mong được hưởng những lợi-lộc như bên Sắc-Phục. Thí-dụ, ngay cả khi đã được cấp một chiếc xe Jeep rồi, mà xe lại có màu sơn và mang bảng số của xe thường-dân, thì họ vẫn thấy thua-kém xe Jeep sơn 2 màu lục+trắng của Cảnh-Sát (Sắc-Phục), vì bên Sắc-Phục vẫn được dân-chúng nể-sợ và dành cho nhiều ưu-tiên hơn.
“Còn muốn tưởng-thưởng các hạ-sĩ-quan CBĐK hữu-công thì cách xứng-đáng nhất là thăng cấp cho họ; nhưng họ vẫn nằm ở dưới các Trưởng G (Phòng), Trưởng H (Ban), nên họ còn lâu mới được thăng lên sĩ-quan..”
Đại-Tá Tây dằn mạnh cây bút xuống bàn, thốt lên một tiếng chửi thề, bỏ ra khỏi phòng.
Mọi người lặng im, lo sợ giùm tôi. Trung-Tá Nguyễn Văn Thuận, Trưởng D3 (Phụ-Tá Chuyên-Môn của Trưởng Ngành ĐB Trung-Ương) đưa tay ra dấu cho tôi chú ý đến anh. Trước kia, anh cũng đi Úc cùng chuyến với Ca và tôi.
Thuận nói:
– Mọi sự thưởng/phạt―thăng ai, giáng ai―đều nằm trong tay của ông. Nếu anh xin ông ban ơn đặc-cách thăng cấp cho các phần-tử hữu-công, thì ông sẽ mát lòng hơn.
Hệ-Thống Liên-Lạc Cảnh-Sát Hình-Sự
Trong vụ phi-cơ “Air Vietnam” bị nổ lựu-đạn tại Phi-Trường Phú Bài, Huế, khi tôi biết được thủ-phạm là Nguyễn Cửu Viết, tôi liền gửi điện cho Bộ Chỉ-Huy CSQG Quận liên-hệ tại Sài-Gòn, là nơi cư-ngụ của một người bạn của thủ-phạm (mà theo tin-tức tôi nhớ từ hồi còn ở Vùng II thì Viết đã nhờ chính người bạn này tìm-kiếm cho y một quả lựu-đạn) yêu-cầu trong đó chấp-cung “người-bạn” ấy.
Đại-Tá Tây cho rằng tôi đã vượt quyền, không trình lên ông là cấp trên, để ông ra lệnh cho các cấp dưới hữu-trách ở địa-phương khác thi-hành.
Theo tôi thì đây là thủ-tục hình-sự; tôi, với tư-cách Hình-Cảnh-Lại (danh-xưng mới, trước kia là Tư-Pháp Cảnh-Lại), Phụ-Tá Biện-Lý (Công-Tố-Viên) của Tòa Án Sơ-Thẩm, tại Đà-Nẵng (tôi cũng là Phụ-Tá Chưởng-Lý của Tòa Án Thượng-Thẩm Vùng I, tại Huế), tôi có thể phát lệnh truy-nã, trực-tiếp nhờ sự tiếp tay của các Hình-Cảnh-Lại khác (Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Khu, Tỉnh, Thị, Quận, v.v...) trên khắp nước, trong những vụ án cần được khẩn-cấp tầm+tra.
Huống chi CSQG của Việt-Nam Cộng-Hòa đã là Hội-Viên của Cảnh-Sát Quốc-Tế (InterPol).
[Hoa-Kỳ đã giúp Việt-Nam Cộng-Hòa tuyển-dụng viên-chức có bằng đại-học luật-khoa, nghiên-cứu về luật quốc-tế, hướng-dẫn tham-gia tổ-chức Cảnh-Sát Quốc-Tế [InterPol], thành-lập chi-nhánh Việt-Nam của Cảnh-Sát Quốc-Tế, đặt trụ-sở tại Tổng-Nha (nay là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.]
Trong một số trường-hợp khẩn-cấp các Hình-Cảnh-Lại còn có thể liên-lạc phối-hợp hoạt-động với nhau, không những vượt quản-hạt hành-chánh trong một nước, mà còn có thể vượt cả biên-giới quốc-gia.
Cấp-Hiệu CSQG cho Thám-Sát Đặc-Biệt
Vì đã huy-động Thám-Sát Đặc-Biệt* đi hoạt-động chung với Cảnh-Sát Dã-Chiến, Cảnh-Sát Sắc-Phục, và cả Nghĩa-Quân, Địa-Phương-Quân, nên tôi đề-nghị với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, và đã được ông chấp-thuận, cho một số cấp chỉ-huy của Thám-Sát Đặc-Biệt tại Vùng I được mang cấp-hiệu CSQG, để có uy-tín đối với các đơn-vị bạn mỗi khi đi phối-hợp hành-quân.
Họ mặc sắc-phục Cảnh-Sát Dã-Chiến, đội mũ-nồi bằng nỉ màu lục của Thám-Sát Tỉnh (PRU= Provincial Reconnaissance Unit) cũ, nhưng cấp chỉ-huy không mang dấu-hiệu gì để các cơ-quan đơn-vị bạn nhận biết rõ-ràng.
Nay thì tại Vùng I họ được mang thêm cấp-hiệu CSQG: Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Khu I mang cấp-hiệu thiếu-tá. Chỉ-Huy-Phó của đơn-vị này mang cấp-hiệu đại-úy. Các Chỉ-Huy-Trưởng của Đội Thám-Sát Đặc-Biệt thuộc các Tỉnh/Thị trong Vùng I cũng mang cấp-hiệu đại-úy..
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây cho rằng tôi đã lạm quyền, vì Quyết-Định của Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc là do đề-nghị của tôi.
Riêng về việc này thì tôi tự nhận là đã xúi ẩu để Đại-Tá Lộc chấp-thuận, vì nếu chờ-đợi Trung-Ương thì chắc khó có kết-quả, bởi lẽ Thám-Sát Đặc-Biệt chưa có quy-chế thực-thụ CSQG―không có cấp-bậc, chỉ có chức-vụ và còn hưởng lương theo mức cố-định từ thời còn ở dưới quyền của CIA. Vả lại, việc mang cấp-hiệu này chỉ có giá-trị đối với 2 viên-chức tại cấp Vùng, và một viên-chức tại mỗi Tỉnh/Thị, và chỉ trong khi tham-gia hành-quân phối-hợp mà thôi.
[Hồi tôi còn làm Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng II, tôi đã trình xin và được Tư-Lệnh Quân-Đoàn II/Vùng II Chiến-Thuật chấp-thuận cho một trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Tỉnh Bình-Thuận được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-bên. Nay làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng I, tôi cũng đã xin và đã được Tư-Lệnh Quân-Đoàn I/Quân-Khu I chấp-thuận cho vài trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi ở Đà-Nẵng được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-bên.]
Một Khẩu K-59 Tước Được của VC
Trong một cuộc hành-quân, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam có tịch-thu được của Việt-Cộng một khẩu súng lục mới lạ, Địa-Phương chưa thấy lần nào.
Thiếu-Tá Chánh-Sở Lâm Minh Sơn báo-cáo lên tôi, tôi báo-cáo lên Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương..
(Lệnh trên ban xuống từ trước là trong trường-hợp tương-tự thì hãy chụp ảnh, mô-tả đặc-điểm hình dáng khẩu súng để xem nó thuộc loại nào.)
Sau đó, tôi nhận được lệnh nạp trình chiến-lợi-phẩm ấy lên Trung-Ương.
Gặp lúc có một cuộc họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi được mời vào tham-gia.
Sau phần thuyết-trình tổng-quát của tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây hỏi tôi về khẩu súng trên.
Tôi có mang theo bản sao của tờ báo-cáo kèm theo hình-ảnh mô-tả của khẩu súng lục―gửi rồi nhưng chắc chưa đến tay ông―nên tôi lấy ra đưa cho ông xem. Tướng Tây đọc báo-cáo và nhìn hình-ảnh, xong hỏi khẩu súng đâu rồi, hãy trao cho ông.
Tôi đâu có khẩu súng ấy mà trao.
Số là Đặc-Cảnh ở Tỉnh đồng-thời cũng có báo-cáo kết-quả hành-quân lên Tỉnh, nên viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đòi xem khẩu súng ra sao. Thấy khẩu súng quý, vì mới bắt được lần đầu, viên đại-tá Tỉnh-Trưởng bèn giữ lại, nói là mượn xem ít hôm. Liền đó, gặp dịp Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng-Nam, viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đưa khẩu súng ấy ra khoe; và thấy Tổng-Thống tỏ ý thích nó nên viên Tỉnh-Trưởng tặng luôn.
Thường thì chúng tôi báo-cáo tóm-tắt sự-việc ngắn gọn ra ở phần trước, còn các chi-tiết phụ-thuộc thì ghi ra ở phần sau, với các tài-liệu liên-hệ kèm theo.
Do đó, tôi đáp (như có ghi ở phần sau báo-cáo):
– Trình thiếu-tướng, Tổng-Thống đã lấy khẩu súng ấy rồi.
Nhưng Chuẩn-Tướng Tây chưa đọc phần sau của bản báo-cáo, không hỏi chi-tiết làm cách thế nào mà khẩu súng ấy lại đến thấu tay Tổng-Thống; ông nghĩ là tôi đã “qua-mặt” ông, tự ý vượt cấp tâng công trực-tiếp với vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia.
Ông tức, gằn giọng:
– À, anh đã muốn “kiếm điểm” trực-tiếp với Tổng-Thống thì từ nay trở đi có gì anh cứ lên thẳng Tổng-Thống, đừng cần thằng này nữa nghe!
Vài Ngoại-Lệ
Tôi nghĩ cũng cần báo-cáo cả những việc-làm ra ngoài nguyên-tắc, phần thì để tỏ là mình thành-thật, phần thì để phòng Cấp Trên đã biết cả rồi (?).
1. Đời công: Tôi đã tự-ý thành-lập một “Phòng Tình-Hình” (không có trong sơ-đồ tổ-chức chính-thức của Ngành), để nhân-viên thay phiên nhau cùng làm việc 24 giờ/7 ngày với tôi, bắt cả nhân-viên trực máy tại các Tỉnh/Thị cũng cùng ở trong tình-trạng sẵn-sàng làm việc bất-cứ lúc nào liên-tục suốt ngày+đêm như tôi.
2. Đời tư: Có lần một viên Thanh-Tra Trung-Ương ngỏ ý muốn xem sinh-hoạt ban đêm tại Đà-Nẵng. Trong thời-gian đó, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng cấm các sĩ-quan quân-nhân không được đến khiêu-vũ tại các vũ-trường, nên các Tỉnh/Thị-Trưởng cấm chung mọi người, mặc dù các chủ tiệm-nhảy đã được chính-quyền cấp cho giấy phép hành-nghề. Tôi đã đưa viên Thanh-Tra ấy vào một phòng trà+ca+vũ+nhạc; gặp lúc không có nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục, các cô vũ-nữ đã ào ra sàn, ông cũng ôm eo một cô lả-lướt như ai.
*
Tôi nhờ đả-tự-viên tại văn-phòng E2 đánh máy, xong ký tên, đưa bản Tự Thuật ấy cho Trung-Tá Phạm Văn Ca.. Anh mang ngay vào trình cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Lát sau, Ca trở lại, nói rằng Ông Tướng đang bận, bảo tôi tiếp-tục tường-trình các hoạt-động tại các Tỉnh/Thị thuộc Miền Trung.
*
Công-việc của tôi không phải chỉ là gửi+nhận công-văn & công-điện và đi thanh-tra, bình-thường như một số cấp chỉ-huy trung-gian khác, nhất là cấp Vùng..
Tôi đã tích-cực thực-hiện công-tác an-ninh & phản-gián của chính cấp Vùng. Có như thế mới xứng-đáng với sự hiện-diện và hiện-hữu của một cơ-quan cấp Vùng.
Đồng-thời tôi cũng hòa-nhập hoạt-động với các địa-phương, góp phần cụ-thể cùng họ vượt khó, tiến nhanh.
Tôi chỉ ghi lại một số sự-việc thí-dụ mà thôi. Tính từ Quảng-Trị vào đến Quảng-Ngãi. [Đã viết trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa” (trang 137-240) nên không nhắc lại ở đây.]
Tôi đưa bản thảo nhờ đả-tự-viên đánh máy giùm, xong nghĩ là mình cũng nên ghi ra những gì mà các thuộc-viên có thể hiểu lầm, dẫn đến bất-mãn, xuyên-tạc gì chăng.
Đại-Úy Cao Viết Song của Tỉnh Quảng-Tín
Không hiểu vì sao mà Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, và Đại-Úy Cao Viết Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Tín, được Bộ Tư-Lệnh CSQG thuyên-chuyển vào Sài-Gòn; xong rồi Sơn được trở lại với trách-vụ cũ, còn Song thì không.
Nhân dịp vào Bộ Tư-Lệnh, tôi hẹn với Song hãy đến gặp tôi, để tôi dẫn vào trình-diện và xin với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, cho anh trở lại nhiệm-sở cũ.
Nhưng Song trễ hẹn.
Tôi chỉ có thể nhân lúc báo-cáo thành-quả công-tác mà xin cho Song.
Tôi vào gặp Đại-Tá Tây―như một diễn-viên xuất-hiện trên sân-khấu vào một lúc nào đó nhất-định trong một vở tuồng―chứ đã ra khỏi phòng-giấy của ông rồi, đã đóng xong vai tuồng của tôi rồi, thì diễn-viên-tôi không thể tự-dưng vào lại sân-khấu. Tôi không thể nào trở lại, vào gặp bất-thường mà xin cho Song, bởi lẽ Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương bận rất nhiều việc―có lần tôi thấy buổi chiều ông vẫn ở lại làm việc cho đến tối đêm―vả muốn vào gặp thì phải trình xin phép trước―mà tôi thì không phải là một người thân-cận của ông. Thế thôi.
Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên của E Khu I
Vì Đại-Úy X, Chánh Sở Nghiên+Kế tại E6 (Ngành Đặc-Biệt Khu I) của tôi, được Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, cử đi làm CHT/CSQG một Quận trong Vùng, tôi chọn một trong các đại-úy giảng-viên tại F4 (Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản Khu I), là các sĩ-quan chưa giữ chức-vụ chỉ-huy, lên thay.
Tôi không quen biết ai, mà chỉ xét qua hồ-sơ cũng như nhận-xét của cấp chỉ-huy trực-tiếp là Trưởng F4, thấy họ đều tốt như nhau, nên tôi chọn Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên. Tuyên là người có nét chữ viết tay khá đẹp, viết nhanh như tốc-ký (phòng khi tôi cần đọc gấp cho anh viết một văn-bản gì), và là tín-đồ Đạo Ki-Tô (để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị ai―Ngay chính một viên vệ-sĩ và hai viên tài-xế của tôi, tôi cũng chọn người theo Đạo Kitô).
Nhân dịp cuối năm, có đợt thăng-thưởng chung cho mọi người, tôi đề-nghị cho anh lên thiếu-tá.
Tôi đích-thân thảo một Phiếu Trình đặc-biệt, bảo Tuyên cho đánh máy ngay, ghi số, đóng dấu, rồi trao tận tay cho tôi ký, để sáng hôm sau tôi mang vào Sài-Gòn, định sẽ nhân lúc tường-trình công-việc với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây thì trao cho ông mà xin cho Tuyên.
Rồi tôi lo làm hồ-sơ thuyết-trình đến khuya, sáng lại là lên phi-cơ, vào gặp Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương.
Khi tôi đã làm xong việc tại Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt, nhân-viên biệt-phái tiếp-phát văn-thư tại Sài-Gòn mới tìm đến nơi tôi tạm-trú ở Sài-Gòn mà trao Phiếu Trình nói trên.
Cũng như trường-hợp của Cao Viết Song, tôi không thể nào vào lại, xin riêng cho Nguyễn Văn Tuyên. Hồ-sơ (bình-thường) đề-nghị thăng cấp cho anh, nằm chung danh-sách với các ứng-viên khác, đã không qua lọt hội-đồng tuyển-lựa bình-thường tại Nha Viên-Chức/Tiếp-Trợ, vì không có kèm Phiếu Trình đặc-biệt của tôi―đáng lẽ, nếu có, thì có bút-phê chấp-thuận đặc-biệt của Trưởng Ngành rồi.
Một Đại-Úy Muốn Có Chức-Vụ Chỉ-Huy
Có một đại-úy, tôi không nhớ tên, trong số các giảng-viên tại F4, có vợ là người quen thân với vợ của Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, đã nhờ bà này xin cho chồng mình được giữ chức-vụ chỉ-huy.
Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc ngỏ ý với tôi.
Tôi hứa là sẽ thu-xếp giùm.
Nhưng đối với Ngành Đặc-Cảnh thì việc đề-cử trách-vụ có phần khó-khăn hơn bên Sắc-Phục.
Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, hồi đó, có sự thi-đua hoàn-tất bổ-nhiệm, ổn-định chức-vụ, giữa các Khối, Nha, Sở, Phòng; từ Trung-Ương xuống các địa-phương.
Trưởng Ngành Đặc-Biệt tại Bộ Tư-Lệnh không muốn bị chê là mình làm chậm, hoặc không chính-xác―nếu cứ thường-xuyên thay-đổi phương-vị người này, kẻ kia, nếu không có gì khẩn-thiết―tức là xáo-trộn hệ-thống quản-trị, thống-kê, kế-toán―vì mỗi chức-vụ (có hưởng phụ-cấp) đều cần được hợp-thức-hóa bằng một Nghị-Định của Bộ/Trung-Ương.
Rất tiếc là mãi rất lâu tôi vẫn chưa thể đề-cử anh được vào một vị-trí chỉ-huy nào, vì chưa có chỗ nào khuyết―điều này hẳn là không làm vừa lòng bà vợ, và ngay cả cấp chỉ-huy trực-tiếp hàng ngang của tôi tại Vùng này...
*
Vì mọi người rất sợ Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, không dám trình ông nhiều hơn những gì ông đã chỉ-thị, nên Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây cũng theo cách đó, ít ai dám hỏi nhiều hơn những gì ông đã nói ra.
Tôi nhớ có lần Đại-Tá Tây ra lệnh cho Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn-quốc báo-cáo về vấn-đề “giành lấn đất-đai”. Các nơi đua nhau thu-thập tài-liệu về chuyện chủ đất tranh-tụng nhau về bất-động-sản, công-thổ, tư-điền. Tôi hỏi Nha Tình-Báo (E1) là nơi phát ra lệnh ấy, thì trung-tá Giám-Đốc Nha ấy cũng chỉ nhắc lại lệnh của Cấp Trên như thế mà thôi.
Riêng tôi tự nghĩ chủ-quyền đất-đai là một hộ-sự, không thuộc Cảnh-Sát Quốc-Gia―coi về hình-sự―huống gì Ngành Đặc-Biệt là cơ-quan chính-sự. Chắc-chắn là việc Việt-Cộng nhân dịp ngưng bắn theo Hiệp-Định Paris mà lấn chiếm lãnh-thổ ở vùng xôi-đậu, nên đã bảo riêng các Tỉnh/Thị tại Vùng I tường-trình thêm về vụ này. Quả-nhiên, trong buổi họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương mà Đại-Tá Tây cho mời cả các Phụ-Tá Đặc-Biệt cấp Tỉnh/Thị tại Khu I vào dự, tất cả các Chánh Sở Đặc-Cảnh liên-hệ đều thuyết-trình giống như tài-liệu cấp Vùng của tôi; lúc đó mới biết là đúng nhu-cầu của ông.
Do đó, tôi không biết―vì hẳn Trung-Tá Phạm Văn Ca cũng không hỏi nên không biết―thực-sự Chuẩn-Tướng Tây muốn tôi trình-bày những gì.
*
Cuối cùng tôi được mời vào gặp Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Ông cười hỏi tôi:
– Anh ngạc-nhiên lắm hả?
Tôi chưa biết phải nói gì thì Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương đã nói ngay:
– Chính tôi mới là người ngạc-nhiên, về anh.
“Ở Vùng I: Chánh Sở An-Ninh Quân-Đội đề-cao anh; Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn & Quân-Khu khen-ngợi anh; Trung-Tướng Tư-Lệnh Ngô Quang Trưởng ban-thưởng Anh-Dũng Bội-Tinh cho anh 3 lần, 2 với ngôi sao bạc, 1 với ngôi sao vàng. Cộng chung, tại Vùng I, cũng như tại Vùng II, ngoại-trừ các sĩ-quan quân-đội biệt-phái qua, thì anh là sĩ-quan Cảnh-Sát có nhiều huy-chương nhất, cả các loại của các quân-chủng bên quân-sự lẫn các loại của các Bộ bên dân-chính, và các loại huy-chương của Cảnh-Sát Quốc-Gia.
“Ở Trung-Ương: tôi hỏi các phụ-tá của tôi, Giám-Đốc các Nha, thì không ai chê-trách gì anh, mà họ còn tỏ ra quý-mến anh.
“Tôi đã phái Trung-Tá Phạm Trọng Tú, Thanh-Tra-Trưởng, ra tận nơi dò xét về anh, nhưng không tìm thấy điều gì sai trái, chỉ toàn ưu-điểm mà thôi...”
Ông cười, khiến tôi―từ chỗ thoạt đầu lo-ngại, tiếp đến ngạc-nhiên, rồi là vui-mừng―cũng cười theo ông.
Rồi ông đứng dậy, khiến tôi cũng đứng dậy theo.
Ông kết-luận:
– Tôi chỉ trực-tiếp trắc-nghiệm, để anh tự mình nói ra, rằng mình đã có làm gì bậy-bạ hay không. Mà không thì là tốt rồi. Thiếu-Tướng Tư-Lệnh cũng có đường dây kiểm-soát riêng, và cũng nhận thấy là anh có tài, có công, có tư-cách, đáng được tưởng-thưởng. Thiếu-Tướng đã ra lệnh thăng cấp cho anh vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975* này. Bộ Tư-Lệnh đã dự-trù sẽ bổ-nhiệm anh vào một chức-vụ nào đó, quan-trọng và xứng-đáng hơn cương-vị hiện-thời.
“Thôi, chúc mừng anh. Tiếp-tục cố gắng.
“Và vui-vẻ ghé Nha-Trang thăm gia-đình nha!”
*Ngày ấy chưa đến thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã tiêu-vong.
LÊ XUÂN NHUẬN
Ghi chú: Cựu Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt toàn-quốc (mà tôi gọi là Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương), sau ngày mất nước, đau nỗi đau chung, đã lặng-lẽ ẩn mình trong bóng tối, không xuất-hiện nơi công-cộng, không tuyên-bố, phát-biểu điều gì. Ông mất tại Westminster, CA, USA, ngày 12-9-2010, hưởng-thọ 78 tuổi.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 9:13:49 GMT 9
30 tháng Tu* Tình hình tại Tây Ninh-Sau khi lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc, An Lộc và Chơn Thành, áp lực của Cộng quân gia tăng đáng kể từ nhiều hướng nhắm vào Sài Gòn. Quốc lộ 22 nối Củ Chi và Tây Ninh bị Cộng quân chốt nhiều đoạn. Các đoàn quân xa chở tiếp phẩm lên Tây Ninh thường xuyên bị phục kích. Cùng với các hoạt động trên quốc lộ và tỉnh lộ, trong ngày 22/4/1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của Lực lượng VNCH trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. *Cộng quân gia tăng áp vòng đai Sài Gòn. -Tại các tỉnh Bình Dương, Biên Hòa,Cộng quân gia tăng các đợt pháo kích bằng hỏa tiễn và đại bác 130mm. Các tin tức tình báo cho biết Cộng quân đang siết chặt vòng vây quanh Sài Gòn bằng nhiều mũi dùi, mỗi mũi là một quân đoàn có từ 2 đến 3 sư đoàn bộ binh có thiết giáp và pháo binh yểm trợ. -Cũng trong ngày 22/4/1975, lực lượng VNCH tại Long Khánh đã hoàn tất cuộc triệt thối, rút về bảo vệ vòng đai Sài Gòn và Biên Hòa.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 9:30:29 GMT 9
Lữ Đoàn 147 TQLC Từ một cuộc di tản chiến thuật 1975 Vì chúng tôi là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ miền Nam tự do Mũ Xanh Phạm Văn Tiền Đầu tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngỏ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 LTG: Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của SĐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi. Đầu tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SĐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 SĐ tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng t1i chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. SĐ Nhảy Dù được điều động về mật trận Đức Dục, Quảng Nam. SĐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dãi Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ĐPQ tiểu khu Quảng Trị được đặc dưới quyền điều động của BTL/SĐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SĐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TĐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tah1ng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đạc biệt Lữ Đoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thưà sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt. Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ TTM – QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lục lượng TQLC về Nam gồm các LĐ-258, LĐ-369 và LĐ-486 vừa mới được thành lập. LĐ-147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TĐ Pháo binh, 2 đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Đoàn BĐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngỏ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Đơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng ĐĐP/ĐĐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn TĐT/TĐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, tiểu đoàn 121/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Điền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Máng Cá Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và hậu trạm cũng được BTL/SĐ mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ĐĐ2/TĐ5/TQLC. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại-úy Trần Văn Loan ĐĐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Đại Tá LĐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ĐĐ4 của Đại-úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TĐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển Đông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LĐ. Đại-tá Lương, LĐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biện Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch…Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nổi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận. Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm đuợc đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu-tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Đại úy Gianh Văn Nhân, ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiển TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Đại đội 1 của Đại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tự tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Đông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trể nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ bgày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc đường. Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóc lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu. chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khác tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”. Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại tá LĐT), ông giao cho một sấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi: - Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh. - Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu nhẹt. Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta. - Coi chừng việt cộng đó Đại Bàng. Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàng cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng nữa, bắt đầu tẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đấm trong màn đêm u tịch. đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vường trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường. - Phá hủy xe đi ông thầy. - Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ. Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói: - Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…hì…hì… Đến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mêng mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo xấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bải bốc để lên tàu. Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi các trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trôn trong đòan quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QĐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn lộn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh dành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của cáo lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè kên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển. Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rơi đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dể nhận ra nhất là Đại úy Ân, ĐĐT/ĐPQ Tiểu khu Quảng Trị. Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên LĐ có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buôn xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. TĐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TĐ3 phía Nam, TĐ5 chúng tôi phía Bắc. Đại uý Tô Thanh Chiêu, ĐĐT/ĐĐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn mhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa. định mệnh! Tin từ BCH/LĐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LĐ, TĐ2PB, TĐ4, TĐ3, TĐ5, TĐ7…Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càn sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LĐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây. Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên ca, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi. Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LĐ và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài…Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến. Để bớt căn thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây“. Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Đằng Phương, TĐT/TĐ2/PB/TQLC, Đại uý Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu. - 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái. - Vâng! Nhận rõ 416! 207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá Nguyễn Đằng Tống LĐP/LĐ147. Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tần số BTL/SĐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Đà Nẳng. Người tiếp tôi là Đ/U Đan, tùy viên tư lệnh: - Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SĐ/TQLC). - Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển. - Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp. - Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh! Mặt mày tối tâm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát…self service…có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai náy lo, có thể là tan hàng! Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chùng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TĐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Đinh Long Thành, tân TĐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”. - Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân. Nam do dự mếu máo: - Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc. - Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà. Đầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đ/U Đan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏa mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Điều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ĐĐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TĐT/TĐ7 cùng Thiếu Tá Sử TĐT/TĐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát. Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo…” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng thep kịp đòan quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của TĐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đung tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ nghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Đây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ muời mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao! Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ saág hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu? Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn rất dã man! Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố "làm tay sai cho đế quốc". Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy…27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi. Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 3:28:44 GMT 9
BANMÊTHUỘT THẤT THỦ: CÂU CHUYỆN BÊN LỀ Nguyễn Định
Banmêthuột thất thủ là việc không ngờ được hay không thể nào, đối với những dân đinh của thị xã này. Về phía Quân, Cán Chính của tỉnh Darlắc, họ cũng không chấp nhận nỗi sự thất bại nhanh chóng của các lực lượng phòng thủ như Tiểu Khu, Hậu cứ Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB hay Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh. Và vì vậy, người ta vẫn còn hy vọng quân đội sẽ đến giải tỏa, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi.
Tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn còn chiến đấu ở vòng đai mặt Bắc thị Xã, Xã Đạt Lý, và hai Trung Đoàn Bộ Binh 44, 45 của Sư Đoàn 23 đã đổ xuống Quận Phước An. Tin đồn 2 Tiểu đoàn Nhảy Dù đã đổ xuống Chi Khu Khanh Dương đang tiến về Chi Khu Phước An . . . Và cho đến lúc nhận được tin Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II di tản về Nha Trang, lúc đó tâm trạng của họ thực sự đã rơi vào cảnh bi thảm đầy tuyệt vọng! Riêng tại Thị Xã Banmethuột những sĩ quan Quân Báo, Kỷ thuật vẫn còn hoạt động, nhưng không một ai nhận ra, nếu anh H. không bị bắt tại khu vực Cư Xá Lam-Sơn, đường Hai Bà Trưng và Võ Tánh khi đang cắt đường dây điện thoại của cộng Quân. Anh bị tuyên án tử hình, và vợ anh bị xử chung thân trong phiên xử ngày 20 tháng 4, 1975 tại Hội Trường Thăng Long, (Rạp Hát Thăng-Long, khu bến xe củ). Những quân nhân của các đơn vị đồn trú tại thị xã Banmêthuột và Chi Khu Đức Lập bị tản lạc còn ẩn núp quanh quẩn trong các khu rẩy Cafe, quanh vòng đai thi-xã, lần lượt trốn ra khỏi Banmêthuôt. Trong số những người may mắn trốn thoát, có những người bất hạnh bị bắt và dẫn bộ bằng đường rừng đến Thanh An, Pleku, qua bao nhiêu đồi núi, đường mòn với đôi chân trần, mà dày, vớ, bị bắt buộc cởi ra đeo trên cổ, đi chân không qua một dãi đường rừng dài hơn 420 km, len lỏi qua các đồi tranh và mật khu của cộng quân, mà mỗi dấu chân đặt lên đường đi, đã in nguyên bàn chân máu . Và mỗi ngày được ăn một bận, là hai miếng lương khô của Trung Quốc, mỗi miếng bằng hai ngón tay . Hơn một tháng sau, kế từ 30 tháng 4, 1975, hầu hết những người lính của Vùng II Chiến Thuật đều bị bắt và tập trung đưa đến 3 trại tù lớn nhất của vùng II : - Mê-Van, cách thi xã Banmêthuột về hướng Tây Bắc 68 Km . - Thanh An, Tỉnh Pleiku, - Đồng Bò, Tỉnh Phú Yên . Và cũng từ các trại tù nầy, những người lính biết được tường tận về các mặt trận và khả năng hay lòng can đảm của các cấp chỉ huy từng đơn vị, qua lời kể của những nhân chứng sống là huynh đệ chi binh của mình: Tại Banmêthuột, Tiểu khu Darlắc, Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tiểu Khu Trưởng, đã không trực tiếp chỉ huy Tiểu Khu từ 6g30 sáng ngày 10/3/1975, Ông qua Hậu Cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, vì Trung Tâm Hành Quân của Hậu Cứ BTL/SĐ 23 BB kiên cố, và hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB phòng thủ có kỷ thuật hơn (?)! Người trực tiếp chỉ huy Tiểu Khu là Trung Tá Vĩnh Hy, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu, vì vậy mà ngay sau khi Trung Tâm Hành Quân của Tiểu Khu bị cộng quân pháo sập, không liên lạc được với các đơn vị bạn và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Tham Mưu Tiểu Khu đã bối rối, và tinh thần chiến đấu của đơn vị bị ảnh hưởng nghiêm trọng . Người ta cũng đồn rằng, Tướng Phú chỉ Huy Quân Đoàn từ NhaTrang là Bộ Tư Lệnh Quân Khu, mà không có mặt tại thành Pleime, nơi Bộ Tư lệnh Quân Đoàn II đồn trú với các Phòng Ban Tham Mưu, Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn, và bên cạnh là các đơn vị chủ lực như Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh, Pháo Binh 175 . . . Có lẽ trong đời chúng ta chưa một ai nếm được nỗi đau đớn và nhục nhã hơn hoàn cảnh của những người lính này, những chiến sĩ chiến đấu cho tự do bị bức tử vì sự phản bội, mà không biết mai sau các thế hệ kế thừa và lịch sử dân tộc Việt sẽ nhận định thế nào . 2 Nhưng điều ngạc nhiên làm một số Sĩ quan tham mưu và các sĩ quan tham chiến tại mặt trận Banmethuột suy nghĩ là " Tại sao cho đến ngày 7 tháng 3, 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Tướng Phú vẫn tin là cộng quân sẽ đánh pleiku mà không phải là Banmêthuột (? !), và toàn bộ lực lượng cơ hữu của Sư Đoàn 23 BB, Thiết Giáp, (Thiết Đoàn 8), Biệt Động Quân . . . chỉ tập trung bảo vệ Pleiku . Trong khi đó, tin tức tình báo của các đơn vị chuyên môn, của các Biệt đội Kỷ Thuật, Quân Báo, Không Ảnh, tin khai thác tù binh bắt được tại các cuộc hành quân, tin của Hồi Chánh Viên . . . ( đã được trình bày trong phần trước) đều cho biết cộng quân sẽ đánh Banmêthuột. Đặc biệt là tin do tù binh, quân hàm Thiếu Úy, thuộc Sư Đoàn 320 chính quy Bắc Việt, bị bắt tại Buôn EA-Súp, (cách thị Xã Banmêthuột 11 Km về hướng Tây, thuộc Xã Cư Ming, BanDon, Quận Banmêthuột, trong khi y đang giăng Dây Điện Thoại, cũng xác nhận các tin đã ghi nhận: "cộng quân sẽ đánh Banmêthuột" ! Thế nhưng các tin ấy vẫn chưa làm thức tỉnh các cấp chỉ huy thẩm quyền, và tệ hại hơn nữa là khi biết Sư Doàn 320 (Nông Trường 3 Sao Vàng) của cộng quân đã có mặt trên lảnh thổ tỉnh Darlắc, mà vị Tiểu Khu Trưởng, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB, vẫn không có biện pháp thích đáng, đáp ứng với tình hình khẩn cấp và nghiêm trọng lúc bấy giờ. Đặc biệt là không thuyết phục được cách nhìn của vị Tư Lệnh Quân Đoàn và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn . Việc đánh gía sai trận liêt và tình hình địch, đã đưa đến nhận định sai về ý đồ của địch là sai từ căn bản của nguyên tắc chỉ huy và hành quân, nhất định sẽ bị thất bại cho dù ở chiến trường nào hay bất cứ trận đánh nào, cả về chiến thuật lẫn chiến lược ! Mặt khác, những trận đánh của cộng quân nổ ra trong cùng thời điểm trên khắp lảnh thổ tỉnh Darlắc, Banmêthuột đã chỉ dấu thật rõ ràng ý đồ của cộng quân : - Đêm ngày 4 tháng 3 năm 1975, cộng quân đánh chiếm quận Thuận Mẫn, tỉnh Phú Bổn, nằm trên Quốc Lộ 14, giáp ranh quận Buôn Hô, cắt đứt liên lạc của Banmêthuột với Pleiku, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II qua QL. 14 . - Đêm ngày 6 tháng 3 năm 1975, cộng quân mở mặt trận Khánh Dương, ở cây số 52, Quốc Lộ 21, giáp ranh Quận Phước An, Banmêthuôt. Cách thị xã Banmêthuột 65 Km, cắt đứt liên lạc giữa Banmêthuột với Nha Trang, tức là cắt đứt huyết mạch của vùng cao nguyên với duyên hải qua cửa ngỏ Khánh Dương, Nha Trang . - 4 giờ sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1975, cộng quân tiến đánh Chi Khu Đức Lập, thuộc tỉnh Quảng Đức, nằm trên Quốc lộ 14, cách thị xã Banmêthuột60 Km về phía Nam . 9 giờ 30 sáng cùng ngày, Chi Khu Đức Lập thât thủ, liên lạc giữa Banmêthuột với Quảng Đức về Sài Gòn bi cắt đứt . Banmêthuột như cá nằm trong chậu ! Những người lính, hay đúng ra những tù binh như chúng tôi, hôm nay 21 tháng 4 năm 1975, không hiểu có quyền, hay có nên đặt một câu hỏi " Phải mô tả cách nào hay hình dung ra sao về khả năng của các cấp thẩm quyền có trách nhiệm với chiến trường Banmethuột từ trước và cho đến khi Banmêthuột rơi vào tay cộng quân ? " CƠ HỘI NGÀN VÀNG Ngày 1 tháng 3 năm 1975, 9 ngày trước khi cộng quân tấn công Banmêthuột, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, ra lệnh cho chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đưa 2 Trung Đoàn 44 và 45 về phòng thủ Banmêthuột . Cả hai Trung Đoàn được lệnh khẩn cấp di chuyển về Banmêthuột rất vội vàng, nhưng khi đoàn quân xa vừa đến ranh giới tỉnh Phú Bổn, Tướng Phú lại ra lệnh cho hai Trung này quay trở lại Pleiku "cộng quân chỉ làm kế nghi binh giả bộ đánh Banmêthuột", lời tướng Phú. Đó là cơ hội lần thứ nhất . Ngày 4 tháng 3 năm 1975, một lần nữa, tướng Phú lại ra lệnh đưa Trung Đoàn 45 BB về phòng thủ Banmêthuột, Trung Đoàn 45 BB lại một lần nữa lên xe về phòng thủ Banmêthuột, nhưng không may, khi đoàn quân xa vừa lăn bánh, lại là lúc cộng quân pháo kích Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn (Thành Pleime) và phi trường Cù Hanh (Pleiku), Tướng Phú được Phòng 3 Quân Đoàn báo cáo, liền từ Nha trang gọi về, ra lệnh cho Trung Đoàn 45 BB ở lại phòng thủ Pleiku . Đó là cơ hội lần thứ 2 . 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3, 1975, một đơn vị Biệt Động Quân xâm nhập vào thị Xã Banmêthuột, đóng quân ở khuôn viên trường Trung Học Tổng Hợp Banmêthuột, khu vực đường Hùng Vương - va Bà 3 Triệu, rồi tiến vào Trung Tâm Thị Xã ở Ngã 6, để chỉ giải cứu gia đình vợ, con của Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB, mà không được lệnh ở lại làm đầu cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang trên đường đến giải vây cho thị xã, hoặc là tham chiến, đánh bọc hậu lực lượng cộng quân đang tấn công tiểu khu từ khu vực vực Ngã 6, Cư Xá Sĩ Quan và Câu Lạc Bộ Biên Thuỳ . Bỏ mất cơ hội này, Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã không còn cơ hội tiến vào Thị Xã Banmêthuột một lần thứ 2 . Đại tá Nguyễn Duy Tất, Trung Tá Dậu, hay tướng Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB đã ra lệnh cho đơn vị Biệt Động Quân này hộ tống vợ con của tướng Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà không phải là ở lại tham chiến giải nguy cho Tiểu Khu Darlắc? Với kinh nghiệm chiến trường, chúng tôi đoan chắc rằng, nếu đơn vị Biệt Đông Quân này được lệnh tham chiến, đánh giải toả áp lực địch cho Tiểu Khu vào giờ phút đó, thì tình hình đã được đảo ngược lại, và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã có thể tiến vào thị xã giải cứu Banmêthuột kịp thời. Nhưng không hiểu giới chức nào chịu trách nhiệm về vụ việc này, và bây giờ Banmêthuột mất rồi, qúi vị thẩm quyền nào ra lệnh lúc đó lại đã suy nghĩ gì? Và đó là những cơ hội ngàn vàng mà các cấp chỉ huy lúc bấy giờ đã bỏ mất . Không hiểu vì quan điểm chỉ huy hay hoặc đã vì tình cảm cá nhân mà quên đi sinh mạng của các chiến sĩ đang tham chiến và vận mệnh của tổ quốc ! Mặt khác, chúng ta thử điểm lại việc phối trí lực lượng phòng thủ Banmêthuột lúc bấy giờ : - An ninh nội vi thị xã và các chốt cửa ngỏ, các trọng điểm và cao óc đều giao cho Lực Lượng Cảnh Sát Quốc gia đảm trách, một lực lượng được xem là đơn vị bán quân sự có hỏa lực rất hạn chế . - Phòng thủ Phi trường Trực thăng L.19 là chốt điểm quân sự cực kỳ quan trọng, vì Phi trường L 19 là một dãy vòng đai mặt Bắc thị xã, được giao cho đại đội Thám Sát Tỉnh . Đơn vị này nguyên là lực lương PRU sát nhập vào Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh. - Đại đội 224 Địa Phương quân là đơn vị trừ bị được phối trí tại Khu vườn hoang của Bác sĩ Tôn Thất Niệm, sát vòng đai Tiểu Khu, nhưng khi Đại đôi thám sát bị cộng quân tấn công và tràn ngập, Đại đội 224 đã không thể tiếp ứng và cứu viện kịp thời . Thêm vào đó, Đại tá Tiểu Khu Trưởng không có mặt tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu là điểm đặc biệt đáng quan tâm, nên khi Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị cộng quân pháo sập, quyết định tối hậu lúc đó “tử thủ hay rút lui” là quyết định thành bại của chiến trường. Người ta cho rằng, Banmêthuôt thất thủ là vì Tư Lệnh Quân Đoàn và Bộ Tham Mưu đã nhận định sai về “điểm” và “diện” và nhầm kế nghi binh của cộng quân. Một điền cần ghi nhớ là trong dịp Tết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến Pleiku ăn Tết, sau khi nghe thuyết trình về tình hình địch tại Vùng II, Tổng Thống đã chỉ thị cho Tướng Phú trả 2 Trung Đoàn 44 và 45 BB về hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB phòng thủ Banmêthuột, lúc đó Tướng Phú đã trả lời là “tuân lệnh”, nhưng rồi đã không chấp hành mệnh lệnh này. Tất cả những sự kiện trên đã góp phần tạo nên những điều kiện không thuận lợi cho chiến trường Banmêthuột. Và câu chuyện tiếu lâm mà người tù nghe được là Tướng Tường Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB xin không ra mặt trận nữa, Ông xin từ chức Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ vì trên đường từ Chi Khu Khánh Dương về Nha Trang, trực thăng của ông bị cộng quân bắn tỉa, vào khoảng 2 giờ chiều ngày 16 tháng 3 năm 1975, ông bị thương nhẹ, nhưng đã vào Quân Y Viện Nha Trang điều trị, và lấy cớ này để xin từ chức với Tư Lệnh Quân Đoàn. Tướng Phú đã tá hỏa tam tinh tìm người thay thế, trong khi mặt trận Banmêthuột còn trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng . Trong khoảng thời gian này, tôi lại nhớ đến khoảng đầu thập niên 1970, Sư Đoàn 22 BB gặp khó khăn tại chiến trường Kontum, Đại tá Lý Tòng Bá được lệnh đem Sư Đoàn 23 BB lên giải tỏa Kontum . Ông đã giành chiến thắng trên từng con đường phố, và đẩy cộng quân ra khỏi Kontum, Tình hình Kontum lúc đó còn khó khăn hơn tình hình Banmêthuột hôm nay , nhưng chỉ là may mắn, vì Sư Đoàn 23 BB lúc đó do Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư Lệnh . NGUYỄN ĐỊNH
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 3:36:17 GMT 9
Bí Ẩn 30.4.1975: Tại sao Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam?Phạm Trần Hoàng Việt 1) Mở đầuĐối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên. Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới. Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975 Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế. Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan ( Ireland ) và sắc tộc gốc Do Thái (quỷ satan). - Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống. - Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái. Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái. Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow… với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( – World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright. Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam . Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!). Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger. 2) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam ?a) Thế lực Do Thái tại Hoa KỳĐối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như: - trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton… - trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton. - trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan. - trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay. Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh…Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood , nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website: en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers ). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái. Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ . b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam ?Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine . Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái. Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam . Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một. c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam .Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975. Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas !) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác . Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam! Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam . Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: “Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất“. Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”. Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận. 3) Kết luậnBiến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam . Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt. Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh . Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh ” nướng quân ” hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng ” Đồng Minh tháo chạy ” ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975. Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ” Về miền đất hứa / Exodus ” của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ” Bài học Israel ( Do Thái ) ” . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng. Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay ! Phạm Trần Hoàng Việt
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 3:39:36 GMT 9
Nói Về 30 Năm Cuộc Chiến Việt Namhay là Chính Nghĩa Thuộc Về Ai ?Lê Duy San Đối với những người có một trình độ học vấn trung bình và được sống tại thành thị, thì hầu hết đều cộng nhận rằng cuộc chiến Việt Nam kéo dài suốt 30 năm, từ 1945 tới 1975 giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến, ngoại trừ Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn, mà là một cuộc chiến ý thức hệ: Cuộc chiến giữa Cộng Sản, độc tài chuyên chế và Quốc Gia, tự do dân chủ hay nói cho đúng hơn, giữa Chủ Nghĩa Cộng Sản và Chủ Nghĩa Tự Do. Bọn Cộng Sản miền Bắc Việt Nam được cả khối Cộng Sản mà trong đó, hai nước lớn nhất là Nga Sô và Trung Quốc hỗ trợ tối đa. Còn miền Nam Việt Nam chúng ta tức khối người Việt quốc gia thì được các nước trong thế giới tự do hỗ trợ mà đứng đầu là Hoa Kỳ. Nói về chính nghĩa thì không người Việt quốc gia chân chính nào nói là Cộng Sản có chính nghĩa còn chúng ta, những người Việt quốc gia, là không có chính nghĩa. Bởi vì chúng ta chiến đấu để bảo vệ cho người dân và đem lại tự do và dân chủ thực sự cho người dân chứ không phải để phục vụ cho bất cử quyền lợi của bất cứ quốc gia nào hay chủ nghĩa ngoại lai nào. Còn Cộng Sản Việt Nam, với nhãn hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc” chỉ là bánh vẽ. Tuy miệng nói đem tự do dân chủ hạnh phúc cho dân nhưng thực tế chúng chủ trương độc tài và tước đoạt hết tất tài sản cùng các quyền tự do của con người. Mục đích của chúng là thi hành nghĩa vụ quốc tế, gieo rắc chủ thuyết Cộng Sản hòng nhuộm đỏ toàn thể thế giới . Bởi vậy có thể nói chúng ta lúc nào cũng có chính nghĩa. Nhưng hầu hết những người nông dân ở thôn quê cũng như những người lao động nơi chốn thị thành và ngay cả một số trí thức u mê, ham danh, hám lợi, bị Cộng Sản tuyên truyền và bịp bợm, lại lầm tưởng rằng Cộng Sản có chính nghĩa. Đọc lại lịch sử, chúng ta thấy năm 1945, ngày 9 tháng 3, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Nếu bọn Việt Cộng không cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim và rước Pháp trở lại thì đây có thể nói là chính phủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam, một chính phủ tự do, độc lập và có chủ quyền vì chỉ ít lâu sau Nhật đã phải đầu hàng đồng minh. Nhưng vì chính phủ Trần Trọng Kim qúa yếu hay nói cho đúng, các đảng phái quốc gia qúa yếu, lại không được nước nào hỗ trợ, trong khi đó thì bọn Cộng Sản VN không những được Cộng Sản Quốc Tế hỗ trợ, mà lúc đầu còn được cả Mỹ giúp đỡ. Vì thế chúng đã cướp được chính quyền một cách dễ dàng, rồi rước quân đội Pháp vào để rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Sau khi đã đạt được mục đích đen tối này, chúng mới mở cuộc chiến chống Pháp vào ngày 19/12/46 để giành chính nghĩa. Vì thế đối với người dân ít học, thấy chúng với chiêu bài chống thực dân Pháp đã cho rằng bọn Việt Cộng có chính nghĩa. Người Pháp biết không thể nào thắng được Việt Cộng nên đành phải đã trao trả phần nào chủ quyền cho người Việt Quốc gia mà người lúc bấy giờ, Hoàng Đế Bảo Đại, được coi như là đại diện. Các đảng phái quốc gia vì yếu thế đành phải chấp nhận Giải Pháp Bảo Đại. Dựa vào người Pháp, để lập chính phủ, làm cho chính nghĩa của chúng ta bị lu mờ vì tuy là một quốc gia, nhưng vẫn còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, nói khác đi là vẫn còn lệ thuộc phần nào vào người Pháp. Vthế Việt Minh (Việt Cộng) đã vin vào đó để tuyên truyền. Do đó tuy có chính nghĩa mà người Việt Quốc Gia vẫn không được đa số người dân, nhất là giới nông dân, thợ thuyền công nhận. Năm 1955, sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm truất phế vua Bảo Đại, yều cầu quân đội Pháp phải rút về nước và thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa tuy phải dựa vào hỗ trợ của Hoa Kỳ, nhưng Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn độc lập và có chủ quyền, không hề lệ thuộc một nước nào. Ngay cả Hoa Kỳ là nước hỗ trợ tích cực và mạnh mẽ nhất cũng phải tôn trọng. Vì thế chúng ta có thể nói, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã làm cho chính nghĩa của chúng ta bừng sáng trở lại. Nhưng tiếc rắng chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ kéo dài đươc 8 năm, đến năm 1963, một số tướng lãnh bất hảo đã nghe theo lời xúi dục của Hoa Kỳ làm đảo chánh, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Rồi cho phép Mỹ đưa quân đội vào Việt Nam để bọn Việt Cộng lại có cớ tuyên truyền là Hoa Kỳ xâm lược miền Nam VN và miền Nam VN chỉ là tay sai của Hoa Kỳ. Đây có thể nói là lần thứ hai chính nghĩa của chúng ta lại bị lu mờ khiến người dân lại không còn tin tưởng vào chính nghĩa của chúng ta. Đó là đối với quốc nội tức đối với nhân dân Việt Nam. Còn đối với thế giới thì sao? Chiến tranh 1946-1954, quân đôi Pháp đánh nhau với Việt Cộng là chính, quân đội Quốc Gia Việt Nam nằm trong quân đội Pháp chứ không phải là quân đội độc lập, riêng rẽ. Vì vậy đối với thế giới, chúng ta vẫn không được coi là một quốc gia độc lập và có chủ quyền. Hãy nhìn vào cuộc hòa đàn Genève 1954. Mặc dầu Cộng Sản Việt Nam được cả khối Cộng Sản hỗ trợ, nhất là hai nước Nga Sô và Trung Quốc, nhưng trong bàn hội nghị, chúng (Nga So và Trung Cộng) vẫn để Cộng Sản Việt Nam ngồi ở vị trí quan trọng nhất để nói chuyện trực tiếp và ngang hàng với Pháp mặc dầu mọi quyết định của Việt Cộng đều phải được Nga Sô và Trung Quốc chấp nhận. Còn chúng ta (Việt Nam) chỉ được ngồi bên cạnh người Pháp cho có chứ không hề được trực tiếp thương thảo. Mọi chuyện, Pháp lại giành vai trò chính để nói chuyện trực tiếp với Việt Cộng và quyết định. Quốc Gia Việt Nam đóng vai phụ và ngồi ở vị trí thứ yếu, làm cho thế giới có cái nhìn là Quốc Gia Việt Nam lệ thuộc nước Pháp và không có chính nghĩa, không có chủ quyền. Cuộc hòa đàm Paris 1973 cũng vậy, Cộng Sản Quốc Tế đứng đầu là Nga Sô và Trung Quốc, hỗ trợ hết mình cho Cộng Sản Việt Nam, không những về vật chất, súng đạn, mà cả quân đội và chỉ huy cả trận chiến, nhưng chúng cũng không hề để lộ diện trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị. Tại bàn hội nghị, chúng cũng để cho Cộng Sản Việt Nam ngồi ở vị trí quan trọng nhất để nói chuyện trực tiếp và ngang hàng với Hoa Kỳ, còn bọn chúng (Nga Sô và Trung Cộng) chỉ ngôi ở những vị trí thứ yếu để hổ trợ tinh thần mà thôi, mặc dầu trên thực tế, nhất cử, nhất động, bọn Việt Cộng đều phải hỏi quan thầy Nga Sô và Trung Cộng. Trái lại, Hoa Kỳ thì luôn luôn chường mặt ra, không những ở trên chiến trường mà cả trong bàn hội nghị cũng giành lấy ngồi ở vị trí quan trong nhất và nói chuyện trực tiếp với Cộng Sản Việt Nam, để Việt Nam Cộng Hoà ngồi ở vị trí thứ yều và chỉ đóng vai phụ làm cho thế giới có cảm tưởng là Việt Nam Cộng Hòa cũng là một nước lệ thuộc Hoa Kỳ, không có chủ quyền vì vậy chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa cũng bị lu mờ. Ngày nay, với những bí mật được phơi bầy ra trước ánh sáng, với những biến cố mất đất, mất biển, mất trên 10,000 cây số vuông ở biên giới Việt Trung, mất ải Nam Quan, mất thác Bản Giốc, mất Trường Sa, Hoàng Sa và ngay cả một phần trung tâm lãnh thổ Việt Nam, vùng Cao Nguyên Trung Việt, mà bọn Cộng Sản Việt Nam đã để cho Trung Quốc tự do khai thác Bô Xít và coi như vùng tự trị của bọn chúng. Sinh viên học sinh và đồng bào trong nước biểu tình chống Trung Quốc xâm lược đã bị ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam cấm đoán và bắt bớ. Với vụ rước đuốt thế vận hội 2008 của Tầu Cộng ngay tại Hà Nội, Saì Gòn, bọn Cộng Sản Việt Nam đã cho công an bảo vệ, để lòi bộ mắt bán nước và lệ thuộc Trung Cộng thật rõ ràng. Chúng không còn có thể lừa bịp đồng bào trong nước cũng như thế giới được nữa; Chính nghĩa mà bọn Cộng Sản Việt Nam rêu rao do sự tuyên truyền và lừa bịp mà có được, không còn nữa. Ngay nay, không phải chỉ có những người Việt Hải Ngoại tỵ nan Cộng Sản mới chống Cộng, mà người trong nước và ngay cả những người đã từng đi theo Việt Minh, Cộng Sản từ 1945 và có tới 4, 5 chục tuổi đảng cũng chống Cộng. Điển hình là cựu Trung Tá Quân Đội Cộng Sản Trần Anh Kim, nguyên bí thư đảng ủy tỉnh Thái Bình, trong một cuộc phỏng vấn của ông Hoàng Hà (Tiếng Nói Đa Nguyên) ông Trần Anh Kim nói “Không phải là Mỹ xâm lược Việt Nam mà là Trung Quốc xâm lược Việt Nam và gọi bọn lãnh đạo Việt Nam là môt “lũ hèn nhát”, là một “Tập Đoàn Lừa Đảo”. Ông công nhận trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, quân đội VNCH giữ Hoàng Sa là những người anh hùng của dân tộc. Xin click vào đây để được nghe trực tiếp những lời phái biểu của ông: www.esnips.com/doc/c39aa743-0876-465e-ad78-3a628a88b9e4/Bai-Phong-VanTran-Anh-Kim/?widget=flash_player_noteAnh Đặng Xuân Khánh, một sinh viên trẻ hiện đang sống tại Việt Nam trong bài “Đâu là sự thật” đã viết: “Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Diệm”,”miền Nam bị Mỹ, nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v…Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường”. Chính Trần Độ, một tướng lãnh của Việt Cộng, trong một cuộc phỏng vấn của LS Trịnh Hội cũng đã phải cộng nhận: “Tôi (Tướng CS Trần Độ) đã bỏ ra trên 50 năm để đánh đuổi thực dân, dành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng sau hơn 50 năm tôi mới nhận thức ra được rằng cái thể chế mà tôi giúp tạo dựng lên nó còn tệ hơn chế độ thực dân của 60 năm trước”. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một người bất đồng chính kiến ở trong nước, trong bài “Lập Lờ Đánh Lận Con ĐenLộng Giả Thanh Chân” đăng trong “danlambao” viết: “Hồi còn học phổ thông và cả khi học đại học, khi học về giai đoạn lịch sử của Việt Nam từ 1956-1975, chúng tôi luôn được dạy rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là của những kẻ “ngụy quyền bán nước”, hoặc “quân tay sai, bán nước” cho “kẻ xâm lược Mỹ” ………………………….. Nhưng sau này khi tự tìm hiểu thêm thì chúng tôi không thấy một tư liệu hay một nguồn tin nào cho thấy Việt Nam Cộng Hòa “quân tay sai bán nước” đã ký hiệp định hay đàm phán gì với Mỹ hay với bất kỳ quốc gia nào dẫn đến để mất lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc. Ngược lại, các tư liệu còn cho thấy chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn thể hiện một lập trường dứt khoát, cương quyết trong việc phản đối và bảo vệ Hoàng Sa khi Trung Quốc cộng sản của Mao Trạch Đông tấn công chiếm Hoàng Sa năm 1974”. Đối với lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không phải chỉ những người những miền Nam, đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà hay được hưởng được hưởng những ân huệ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới trân qúy và bảo vệ mà ngay cả những người sinh ra dưới chế độ Cộng Sản và được dậy dỗ bởi Cộng Sản cũng mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày tung bay khắp vùng trời Việt Nam. Trong bài “Còn Cờ Đỏ Sao Vàng Thi Không Bao Giờ Có Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” đăng trong tờ báo chui trong nước, tờ “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, tác giả nói “lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam”, Gần đây, một người nhạc sĩ trẻ trong nước, nhạc sĩ Việt Khang, mặc dầu sinh ra và lớn lên trong chế độ Cộng Sản, nhưng anh cũng đã nhận thức được bọn Việt Cộng chẳng có chính nghĩa gì cả. Thái độ hèn nhát, tinh thần nô lệ và hành động bán nước của ngụy quyền Việt Cộng cũng như tình trạnh đất nước đang mất dần bởi sự xâm lấn của Trung Cộng đã làm cho anh uất hận và phải hét lên qua hai bài nhạc “Việt Nam Tôi Đâu ?” và “Tôi Là Ai ?” và anh đã bị ngụy quyền bắt giam ngay lập tức. Tuy nhiên, một phần vì sự bưng bít thông tin của Việt Cộng, một phần vì chính sách hủ hoá của chúng vẫn còn nhiều đồng bào trong nước không biết nhiều về hiện tình đất nước, nhất là các đồng bào ở các vùng thôn quê hẻo lánh. Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải làm sao cho đồng bào cả nước, nhất là giới nông dân, thợ thuyền, thấy rõ được cái tội buôn dân, bán nước của bè lũ Cộng Sản Việt Nam cũng như bản chất nô lệ của chúng. Chúng ta phải hỗ trợ những người có tinh thần yêu nước như Việt Khang có như thế sự vùng dậy đứng lên của đồng bào trong nước để lật đổ chế độ Cộng Sản Việt Nam mới sớm bùng phát để lật đổ chế độ CSVN, một chế độ nô lệ cho Trung Quốc, một chế độ hại dân, hại nước, chỉ biết mãi quốc cầu vinh, chỉ biết tham nhũng và ức hiếp đồng bào, để xây dựng một chế độ tự do dân chủ thực sự, một chế độ mang lại sự ấm no, hạnh phúc thực sự cho dân tộc, giầu mạnh cho đất nước. Tưởng niệm ngày 30/4 Lê Duy San
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 3:55:13 GMT 9
30 THÁNG TƯ – CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi đang ở cuối đường 14 cũ và đầu đường Trường Sơn mới, tức sông A Vương, tỉnh Quảng Đà (cũ). Lúc đó tôi nghe BBC kể về một bức biếm hoạ đăng trên báo Mĩ, vẽ ngôi mộ có bia khắc dòng chữ "VNCH" (Việt Nam Cộng Hoà) và "nơi đây yên nghỉ một quốc gia vừa chết trong tức tưởi". Tôi cũng nghe đài Sài Gòn đọc tuyên bố buông súng, giao lại chính quyền của ông Dương văn Minh, sau đó là bài hát Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong - "ngoài hiên gịot mưa thu thánh thót rơi, trời vắng…u buồn…mây hắt hiu ngừng trôi", lát sau có tiếng người đọc: "Đây là tiếng nói của Quân Giải phóng khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn" và tôi nghĩ: chiến tranh đã kết thúc. Đêm đó nằm trên võng với ánh đèn hạt đậu, tôi ghi sổ tay: “ Lịch sử dân tộc sang trang mới. Nghệ thuật với “tiếng lòng” cáo chung . Tiếng nhạc Đặng Thế Phong như tiếng nức nở than khóc một thực thể vừa trút hơi thở cuối cùng. Đó là tiếng kèn đưa đám chế độ Việt Nam Cộng Hòa , tiếng thở than cuối cùng, tiếng thở hắt ra của một nền nghệ thuật tự do. Thôi thế từ nay hết cái buồn mênh mang, hết cái sầu vạn cổ, hết cái bơ vơ trong cõi vô cùng…Mai tới là những điệu kèn đồng hối hả thúc giục lao động….Nghệ thuật, nghệ thuật và nghệ thuật…cũng đút tay vào còng..” Sáng hôm sau xảy chuyện: Bên trạm giao liên, cô Hoa đẻ non, con mới 15 ngày còn đỏ hỏn, đã phải ngồi xe tải vượt Trường Sơn ra Bắc. Cô van xin ở lại để mẹ con cứng cáp. Đâu có được. Cô và đứa con cô là biểu tượng của tội lỗi, của sự mất thanh danh tiểu đoàn, mất danh dự quân đội. Lòng tôi như xát muối nhìn cô ẵm con lên xe , ngoái nhìn phương trời xa, bố đứa bé chưa biết mặt con vẫn đang lặn lội chiến trường. Cô sẽ về một vùng quê nào đó, ôm con mỏi mắt đợi chờ . Nhưng cô chờ ai, người đàn ông chỉ sau một lần yêu chớp nhoáng đã lại đi vào lửa đạn. Mai sau còn sống trở về và liệu lúc đó có còn của cô ?” 10 ngày sau, tôi cùng đại úy Lê Tử Kỳ - sau này là Viện trưởng Viện thiết kế dầu khí, chạy commăng ca về Sàigon tìm tới nhà ông anh là nhà văn Nhật Tiến, nhờ báo Thiếu Nhi tôi biết được địa chỉ 159 Thiệu Trị , cạnh cổng xe lửa số 6. Vào một buổi chiều, một chiếc xe con quân sự đỗ xịch trước cửa, hai ông “lính chiến” quân trang quân dụng đầy mình nhảy trên xe xuống gõ cửa ầm ầm. Xấp nhỏ chạy ra, tôi hét: “ Mở cửa…cách mạng xét nhà…” . Ôi chao, ngày đó như thế là chuyện lớn lắm. Tôi vào phòng khách nhìn thấy hình bố mẹ treo trên tường , yên trí nhà ông anh đây rồi. Tôi hét: - Bố mẹ đâu rồi? Xấp nhỏ sợ xanh mắt, mếu máo : - Bố mẹ cháu ở nhà in… - Gọi điện về ngay… Lát sau ông Nhật Tiến chạy về. Nhìn thấy hai ông bộ đội ngồi lù lù, ông tái mặt. Tôi lại gần ôm lấy ông anh : - Em Tuấn đây mà… Ông Nhật Tiến đẩy tôi ra : - Vâng vâng…mời hai ông ngồi chơi… Tới lúc đó ông Nhật Tiến vẫn chưa dám nhận thằng em xa cách từ năm 1954. Mãi sau khi tôi vào toa lét tắm rửa , mặc bộ pyjama bước ra, hai anh em mới ôm nhau khóc nức nở. Chiều hôm đó sau bữa tiệc hàn huyên, tôi mặc quần tây , áo sơ mi lẻn ra lăng cha Cả tìm … “chị em ta”. Mãi sau này tôi khó quên được cái cảnh “vui vẻ” trên giường với cô gái , nhìn vào cánh tủ gương thấy trên chiếc chiếu trải dưới đất đứa bé gái chừng 3 tuổi đang ngủ mê mệt. Tôi đoán cô gái là vợ lính cộng hòa đã nằm xuống đâu đó để lại hai mẹ con. Khi chia tay, cô gái cười buồn: - Chắc anh là…bộ đội cụ Hồ ? Tôi trợn tròn mắt: - Ối trời ôi…sao em đoán hay vậy? Cô gái lại cười : - Thì bị hãm trên rừng lâu ngày , riết rồi thành con chó đói….lính cộng hòa đâu có vậy! Tôi phải thưởng thêm cho em một tờ bạc “bác Hồ” nữa. Tối đó mãi 10 giờ khuya chưa thấy ông em mò về , ông Nhật Tiến đánh xe hơi đi rà rà dọc đường Võ Tánh, chợt tá hỏa thấy ông em ngồi vỉa hè nói cười ngả ngớn , vỗ đùi vỗ vế mấy em đứng đường. Ông phóng vội xe đi sợ tôi “mặc cảm” . Đêm đó tôi về khuya, ông anh đã “tế nhị” để sẵn trong toa lét một chai cồn 90 để ông em “tổng vệ sinh”. Tối hôm sau, ngồi uống càphê, hai anh em bàn chuyện chính trị, thời sự. Ông đưa ra mấy cuốn Mác Lê, mấy cuốn nghị quyết đại hội đảng coi ytôi ra sao. Tôi bật cười : - Thôi ông ơi, những cuốn này không nhá được đâu, đến tôi cũng còn chịu nữa ông. Tốt hơn hết ông tìm cách trốn ra nước ngoài . Người tử tế như ông sống sao được với cộng sản ….” Ôi thôi thôi , thế là bao nhiêu thu hoạch sau đợt thành ủy Sàigòn tổ chức học tập nghị quyết chính trị cho văn nghệ sĩ Sàigòn trôi sạch. Thế rồi sau mấy năm nhếch nhác làm nhà giáo, ông anh tôi mới bước chân xuống tàu di tản sang Mỹ sau một chuyến đi trên hải đạo kinh .
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 3:58:06 GMT 9
Ai Đã Thắng trong Cuộc Chiến Việt Nam?Tác giả: Michel Chossudovsky Người dịch: Ngọc ThuNgày 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc bằng lực lượng Cộng sản chiếm giữ Sài Gòn và sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và nội các của ông ấy trong Dinh Tổng thống. Khi đội quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn, các nhân viên Hoa Kỳ và lính thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng đã vội vã sơ tán từ nóc tòa nhà Đại Sứ quán Mỹ. Hai mươi năm sau, một câu hỏi cơ bản vẫn chưa có lời giải đáp: Ai đã thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam? Việt Nam chưa bao giờ nhận được khoản tiền bồi thường nào cho chiến tranh từ Mỹ về các tổn thất nhân mạng rất lớn và sự tàn phá [của chiến tranh], nhưng một thỏa thuận đã đạt được ở Paris vào năm 1993, yêu cầu Hà Nội nhận các khoản nợ của chính quyền Sài Gòn, một chính quyền không còn tồn tại nữa của Tướng Thiệu. Bản thoả thuận này có nhiều chỗ tương đương với việc bắt buộc Việt Nam bồi thường cho Washington các phí tổn chiến tranh. Ngoài ra, việc áp dụng sâu rộng cải cách kinh tế vĩ mô dưới sự giám sát của các định chế Bretton Woods cũng là một điều kiện cho việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ. Những cải cách thị trường tự do này hiện đã định đoạt học thuyết chính thức của Đảng Cộng sản. Qua việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Washington vào năm 1994, việt nhắc đến vai trò tàn bạo của Mỹ trong chiến tranh đang ngày càng được xem như không đúng lúc và không thích hợp. Không ngạc nhiên, Hà Nội đã quyết định dịu giọng trong lễ kỷ niệm Sài Gòn đầu hàng để không phải xúc phạm đến kẻ thù trong chiến tranh trước đây của họ. Lãnh đạo Đảng Cộng sản gần đây đã nhấn mạnh "vai trò lịch sử" của Hoa Kỳ trong việc "giải phóng" Việt Nam từ chế độ Vichy (Pháp) và sự chiếm đóng của Nhật Bản suốt Đệ Nhị Thế chiến. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các đặc vụ Mỹ của Cục Tình báo Chiến lược (OSS: tiền thân của CIA ngày nay) đã có mặt bên cạnh Hồ Chí Minh. Trong khi Washington đã cung cấp vũ khí và hỗ trợ tài chính cho phong trào kháng chiến Việt Minh, chiến lược này phần lớn được thiết kế để làm suy yếu Nhật Bản trong giai đoạn cuối của Đệ Nhị Thế chiến, mà không có cam kết gửi lực lượng bộ binh Mỹ tới với số lượng lớn. Ngược lại với bầu không khí dịu giọng và hạn chế trong kỷ niệm đánh dấu chiến tranh Việt Nam kết thúc, lễ kỷ niệm 50 năm ngày độc lập được cử hành long trọng, với một loạt các nghi lễ và các hoạt động chính thức bắt đầu từ tháng 9 và kéo dài đến Tết âm lịch. Việt Nam bồi thường chiến tranh Trước khi "bình thường hóa" quan hệ với Washington, Hà Nội đã bị buộc phải trả các khoản nợ xấu phát sinh của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn. Tại hội nghị các nhà tài trợ tổ chức ở Paris hồi tháng 11 năm 1993, các khoản vay và số tiền viện trợ tổng cộng gần 2 tỷ Mỹ kim đã được cam kết để hỗ trợ cho cải cách thị trường tự do ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris (Paris Club). Tại cuộc họp này, có sự góp mặt của đại diện các chính phủ phương Tây. Về phía Việt Nam, TS Nguyễn Xuân Oánh, cố vấn kinh tế cho Thủ tướng, đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán. Tiến sĩ Oánh, một cựu quan chức của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đã giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính và sau đó là Quyền Thủ tướng trong chính quyền quân sự của Tướng Dương Văn Minh, mà Mỹ đưa vào hồi năm 1963 sau vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em trai. Tiến sĩ Oánh, trong khi giữ vai trò trung gian, chính thức thay mặt chính quyền cộng sản, dù sao cũng đã đáp ứng được nhu cầu của các chủ nợ phương Tây. Các thỏa thuận đã được ký kết với IMF (đã được công bố) phần lớn chỉ là tượng trưng. Số lượng không đáng kể: Hà Nội buộc phải trả cho IMF 140 triệu đô (thuộc sở hữu của chính quyền Sài Gòn) như một điều kiện để nối lại các khoản vay mới. Nhật Bản và Pháp, những chủ nhân thuộc địa cũ của Việt Nam giai đoạn Vichy, hình thành cái gọi là "Những người bạn của Việt Nam" để cho Hà Nội vay số tiền cần thiết để hoàn trả cho IMF. Tuy nhiên, sự sắp xếp gia hạn các khoản nợ song phương (của chế độ Sài Gòn) không bao giờ được tiết lộ. Nhưng cuối cùng thì thỏa thuận bí mật này (đạt được dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris) là công cụ quyết định để Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa các quan hệ ngoại giao. Việc sắp xếp này cũng là yếu tố quyết định trong việc tháo khoán các khoản vay đã được cam kết tại hội nghị các nhà tài trợ năm 1993, do đó Việt Nam bị đặt dưới sự ủy thác của các chủ nợ Nhật Bản và phương Tây. Như vậy, chỉ 20 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã đầu hàng về mặt kinh tế. Bằng cách công nhận hoàn toàn tính hợp pháp của các khoản nợ, Hà Nội đã đồng ý hoàn trả các khoản vay đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, chính phủ của ông Võ Văn Kiệt cũng đã chấp nhận thực hiện đầy đủ các điều kiện thông thường (giảm giá, tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, v.v…) của một chương trình điều chỉnh cơ cấu do IMF tài trợ. Những cải cách kinh tế này ra mắt vào giữa thập niên 1980 với các định chế Bretton Woods, trong hậu quả chiến tranh tàn khốc, đã khởi đầu một giai đoạn mới về sự tàn phá kinh tế và xã hội: lạm phát đã dẫn đến phá giá liên tục, bắt đầu từ năm 1973 dưới chế độ Sài Gòn, năm theo sau sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Ngày nay, một lần nữa Việt Nam tràn ngập các ghi chú bằng đô la Mỹ, đã thay thế phần lớn tiền đồng Việt Nam. Với giá cả tăng cao, thu nhập thực tế đã giảm xuống tới mức thấp nhất. Lần lượt những cải cách đã ồ ạt giảm năng lực sản xuất. Hơn 5.000 trong số 12.300 doanh nghiệp nhà nước đã bị đóng cửa hoặc được chỉ đạo phá sản. Các hợp tác xã tín dụng đã bị loại bỏ, tất cả các khoản tín dụng dài hạn và trung hạn cho ngành công nghiệp và nông nghiệp đã bị đóng băng. Chỉ tín dụng ngắn hạn là có sẵn, với lãi suất 35%/ năm (năm 1994). Ngoài ra, thỏa thuận IMF đã cấm nhà nước cung cấp hỗ trợ ngân sách, hoặc cho nền kinh tế nhà nước hoặc cho một khu vực tư nhân mới chớm nở. Chương trình nghị sự về những cải cách đã bị che giấu này bao gồm nền tảng công nghiệp mất ổn định ở Việt Nam. Các ngành sản xuất công nghiệp nặng, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và khai thác khoáng sản, xi măng, sắt thép sẽ được tổ chức lại và được thực hiện dựa trên số vốn nước ngoài. Tài sản nhà nước có giá trị nhất sẽ được chuyển giao để củng cố và duy trì cơ sở công nghiệp, hoặc để phát triển một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuộc sở hữu và kiểm soát bởi dân chúng. Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, hơn một triệu công nhân và hơn 20.000 công nhân viên chức (trong đó đa số là nhân viên y tế và giáo viên) đã bị sa thải. Lần lượt, nạn đói địa phương đã nổ ra, ảnh hưởng đến ít nhất một phần tư dân số cả nước. Những sự đói khát này không giới hạn ở các khu vực thiếu lương thực. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, 25% số dân trưởng thành tiêu thụ chưa tới 1.800 calories mỗi ngày. Ở các thành phố, sự mất giá của tiền đồng cùng với việc loại bỏ trợ cấp và kiểm soát giá cả đã dẫn đến giá gạo và các nhu yếu phẩm khác tăng vọt. Những cải cách này đã dẫn đến việc cắt giảm mạnh mẽ các chương trình xã hội. Với việc áp dụng học phí, ba phần tư trong số một triệu trẻ em bỏ học khỏi hệ thống trường công trong vài năm (từ 1987-1990). Các trạm y tế và bệnh viện sụp đổ, sự hồi sinh của một số bệnh truyền nhiễm như sốt rét, lao phổi và tiêu chảy được Bộ Y tế và các nhà tài trợ nhận ra. Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới xác nhận rằng, số người tử vong do bệnh sốt rét tăng gấp ba lần trong bốn năm đầu của thời kỳ cải cách, cùng với sự suy sụp của việc chăm sóc sức khỏe và giá cả các loại thuốc chống sốt rét tăng vọt. Chính phủ (dưới sự hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế) cũng đã ngưng hỗ trợ ngân sách để cung cấp các thiết bị y tế và bảo trì dẫn đến tình trạng tê liệt toàn bộ hệ thống y tế công cộng. Tiền lương thật sự của nhân viên y tế và điều kiện làm việc đã giảm đáng kể: tiền lương hàng tháng của các bác sĩ y tế tại một bệnh viện huyện thấp tới mức $15 một tháng. Mặc dù Mỹ đã bị đánh bại trên chiến trường, nhưng hai thập niên sau đó Việt Nam dường như đã đầu hàng kẻ thù chiến tranh trước đây của mình về mặt kinh tế. Không có những quả bom viên bằng thép hay màu cam, không có bom napalm, không có hóa chất độc hại: một giai đoạn mới của sự hủy diệt kinh tế và xã hội đã diễn ra. Những thành tựu của cuộc đấu tranh trong quá khứ và nguyện vọng của một quốc gia toàn vẹn chưa hoàn thành và đã bị xóa gần như với một nét bút (chữ ký). Điều kiện nợ và điều chỉnh cơ cấu dưới sự ủy thác của các chủ nợ quốc tế tạo ra do hậu quả của chiến tranh Việt Nam, một công cụ thuộc địa bất bạo động chính thức và hiệu quả như nhau và sự bần cùng hóa ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người. ------ Tác giả: Michel Chossudovsky là giáo sư kinh tế tại Đại học Ottawa và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa. Bài viết trên đã được viết năm 1995, đầu tiên được đăng tải vào ngày 30 tháng 4 năm 1995, trong bối cảnh kỷ niệm 20 năm “Giải phóng Sài Gòn”. Một bài phân tích sâu hơn dựa trên những nghiên cứu thực tế được tiến hành ở Việt Nam, tập trung vào những cải cách tân tự do của Hà Nội, sau đó đã được đăng trong cuốn sách của Michel Chossudovsky, The Globalization of Poverty, ấn bản đầu tiên năm 1997, ấn bản thứ hai vào năm 2003. Who won the Vietnam War? By Michel Chossudovsky On April 30, 1975, the Vietnam War ended with the capture of Saigon by Communist forces and the surrender of General Duong Vanh Minh and his cabinet in the Presidential palace. As troops of the People's Army of Vietnam marched into Saigon, U.S. personnel and the last American marines were hastily evacuated from the roof of the U.S. embassy. Twenty years later a fundamental question still remains unanswered: Who won the Vietnam War? Vietnam never received war reparations payments from the U.S. for the massive loss of life and destruction, yet an agreement reached in Paris in 1993 required Hanoi to recognize the debts of the defunct Saigon regime of General Thai. This agreement is in many regards tantamount to obliging Vietnam to compensate Washington for the costs of war. Moreover, the adoption of sweeping macro-economic reforms under the supervision of the Bretton Woods institutions was also a condition for the lifting of the U.S. embargo. These free market reforms now constitute the Communist Party's official doctrine. With the normalization of diplomatic relations with Washington in 1994, reference to America's brutal role in the war is increasingly considered untimely and improper. Not surprisingly, Hanoi had decided to tone down the commemoration of the Saigon surrender so as not to offend its former wartime enemy. The Communist Party leadership has recently underscored the "historic role" of the United States in "liberating" Vietnam from Vichy regime and Japanese occupation during World War II. On September 2, 1945 at the Declaration of Independence of Ba Dinh Square in Hanoi proclaiming the founding of the Democratic Republic of Vietnam, American agents of the Office of Strategic Services (OSS, the predecessor of today's CIA) were present at the side of Ho Chi Minh. While Washington had provided the Viet Minh resistance with weapons and token financial support, this strategy had largely been designed to weaken Japan in the final stages of World War II without committing large numbers of U.S. ground troops. In contrast to the subdued and restrained atmosphere of the commemoration marking the end of the Vietnam War, the 50th anniversary of independence is to be amply celebrated in a series of official ceremonies and activities commencing in September and extending to the Chinese NewYear. Vietnam Pays War Reparations Prior to the "normalization" of relations with Washington, Hanoi was compelled to foot the bill of the bad debts incurred by the U.S.-backed Saigon regime. At the donor conference held in Paris in November 1993, a total of nearly $2 billion of loans and aid money was generously pledged in support of Vietnam's free market reforms. Yet immediately after the conference, a secret meeting was held under the auspices of the Paris Club. Present at this meeting were representatives of Western governments(f.1). On the Vietnamese side, Dr. Nguyen Xian Oanh, economic advisor to the prime minister, played a key role in the negotiations. Dr. Oanh, a former IMF official, had been Minister of Finance and later Acting Prime Minister in the military government of General Duong Van Minh, which the U.S. installed 1963 after the assassination of President Ngo Dinh Diem and his brother(f.2). Dr. Oanh, while formally mediating on behalf of the Communist government, was nonetheless responsive to the demands of Western creditors. The deal signed with the IMF (which was made public) was largely symbolic. The amount was not substantial: Hanoi was obliged to pay the IMF $140 million (owned by the defunct Saigon regime) as a condition for the resumption of new loans. Japan and France, Vietnam's former colonial masters of the Vichyperiod, formed a so-called "Friends of Vietnam" committee to lend to Hanoi" the money needed to reimburse the IMF. The substantive arrangement on the rescheduling of bilateral debts (with the Saigon regime), however, was never revealed. Yet it was ultimately this secret agreement (reached under the auspices of the Paris Club) which was instrumental in Washington's decision to lift the embargo and normalize diplomatic relations. This arrangement was also decisive in the release of the loans pledged at the 1993 donor conference, thereby bringing Vietnam under the trusteeship of Japanese and Western creditors. Thus twenty years after the war, Vietnam had surrendered its economic sovereignty. By fully recognizing the legitimacy of these debts, Hanoi had agreed to repay loans that had supported the U.S. war effort. Moreover, the government of Mr. Vo Van Kiet had also accepted to comply fully with the usual conditions (devaluation, trade liberalization, privatization, etc.) of an IMF-sponsored structural adjustment program. These economic reforms, launched in the mid-1980s with the Bretton Woods institutions, had initiated, in the war's brutal aftermath, a new phase of economic and social devastation: Inflation had resulted from the repeated devaluations that began in 1973 under the Saigon regime the year after the withdrawal of American combat troops(f.3). Today Vietnam is once again inundated with U.S. dollar notes, which have largely replaced the Vietnamese dong. With soaring prices, real earnings have dropped to abysmally low levels(f.4). In turn, the reforms have massively reduced productive capacity. More than 5,000 out of 12,300 state-owned enterprises were closed or steered into bankruptcy. The credit cooperatives were eliminated, all medium and long term credit to industry and agriculture was frozen. Only short-term credit was available at an interest rate of 35 percent per annum (1994). Moreover, the IMF agreement prohibited the state from providing budget support either to the state-owned economy or to an incipient private sector. The reforms' hidden agenda consisted in destabilizing Vietnam's industrial base. Heavy industry, oil and gas, natural resources and mining, cement and steel production are to be reorganized and taken over by foreign capital. The most valuable state assets will be transferred to reinforce and preserve its industrial base, or to develop a capitalist economy owned and controlled by Nationals. In the process of economic restructuring, more than a million workers and over 20,000 public employees (of whom the majority were health workers and teachers) have been laid off(f.5). In turn, local famines have erupted, affecting at least a quarter of the country's population(f.6). These famines are not limited to the food deficit areas. In the Mekong delta, Vietnam's rice basket, 25% of the adult population consumes less than 1800 calories per day(f.7). In the cities, the devaluation of the dong together with the elimination of subsidies and price controls has led to soaring prices of rice and other food staples. The reforms have led to drastic cuts in social programs. With the imposition of school fees, three quarters of a million children dropped out from the school system in a matter of a few years (1987-90)(f.8). Health clinics and hospitals collapsed, the resurgence of a number of infectious diseases including malaria, tuberculosis and diarrhea is acknowledged by the Ministry of Health and the donors. A World Health Organization study confirmed that the number of malaria deaths increased three-fold in the first four years of the reforms alongside the collapse of health care and soaring prices of antimalarial drugs(f.9). The government (under the guidance of the international donor community) has also discontinued budget support to the provision of medical equipment and maintenance leading to the virtual paralysis of the entire public health system. Real salaries of medical personnel and working conditions have declined dramatically: the monthly wage of medical doctors in a district hospital is as low as $15 a month(f.10). Although the U.S. was defeated on the battlefield, two decades later Vietnam appears to have surrendered its economic sovereignty to its former Wartime enemy. No orange or steel pellet bombs, no napalm, no toxic chemicals: a new phase of economic and social destruction has unfolded. The achievements of past struggles and the aspirations of an entire nation are undone and erased almost with a stroke of the pen. Debt conditionality and structural adjustment under the trusteeship of international creditors constitute in the aftermath of the Vietnam War, an equally effective and formally nonviolent instrument of recolonization and impoverishment affecting the livelihood of millions of people. Michel Chossudovsky is an economics professor at the University of Ottawa.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 4:03:46 GMT 9
Giờ Phút Cuối của Một Đơn Vị QLVNCH tại Sài Gòn
Không bao giờ chúng ta có thể ngờ được có ngày 30/04/1975 và không bao giờ, trước đó, chúng ta nghĩ rằng ngày 30/04/1975 chính là ngày vành khăn tang phủ lên đầu Bà Mẹ Việt Nam. Đơn vị chúng tôi đang đùa giỡn với địch quân tại vùng ngoại ô Sài Gòn, khu xa lộ Đại Hàn nối liền từ ngã tư Quân Vận (Trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến xa cảng Phú Lâm. Được lệnh nguyên Tiểu Đoàn phải về phòng thủ dọc theo Quốc lộ 1 từ ngã tư Quân Vận đến ngã ba Bà Quẹo trong đêm 27/4/1975. Thưa quý vị độc giả vì vài lý do riêng mà lý do chính vẫn là anh em đồng ngũ của chúng tôi, một số đông vẫn còn trong vòng kềm tỏa của bọn cộng sản khát máu, vậy những tên tuổi trong cốt truyện này chỉ là tên giả cũng như tên của đơn vị chúng tôi xin được tạm quên, trong câu truyện đầy đau thương thống khổ, cười ra, mà nước mắt lại là máu huyết của chúng tôi, vì chúng tôi tan hàng trong lúc địch quân đang bạt vía kinh hồn không hiểu chúng tôi đang ở đâu, không hiểu chúng tôi còn hay rã, nên bước chân vào Sài Gòn mà vẫn còn run rẩỵ Nếu không được bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản chỉ lối đưa đường thì chúng cũng chưa có hoàn hồn khi bước chân vào Dinh Độc Lập. Và sau đó nhân loại đâu có ngờ được những sự dã man, tắm máu khô, khủng khiếp đang bao trùm lên dân tộc tôi, những đơn vị Mũ Đỏ, những đứa con chỉ biết sống chết cho vinh quang của đất nước, chết để bảo vệ quê hương "Quê Mẹ Việt Nam" đành phải gạt nước mắt tan hàng trong ngỡ ngàng, trong đau đớn tột cùng, trong tiếng cười khan pha lẫn máu bạn bè, đồng đội.
Với 15 tiểu đoàn tác chiến (chắc có người lấy làm lạ): Vâng đúng như vậy, 15 tiểu đoàn tác chiến, 4 tiểu đoàn pháo binh, 4 đại đội trinh sát 15 đại đội đa năng với kỷ luật cao độ, tác phong đứng đắn, lúc nào cũng hiên ngang đùa giỡn với tử thần, và châm ngôn "Thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân" được chúng tôi ghi khắc trong tâm hoà khẩu hiệu "CỐ GẮNG" để hoàn thành mọi vấn đề khó khăn trầm trọng. Chúng tôi không sao quên được những cánh tay gầy guộc của bà mẹ Trị Thiên đã ôm chúng tôi run run dâng lệ vì sung sướng khi thấy chúng tôi trở lại Trị Thiên năm 1972. Các bà mẹ, các em gái đón chúng tôi tại đầu đường, không do chính quyền tổ chức mà do tình cảm của con người đối với con người: của các bà mẹ, của các em gái đón những đứa con yêu, những người anh can trường mang thân mình để bảo vệ đồng bào, quê hương đọa đầy. Ôi những em bé Huế dưới làn mưa đạn của quân thù đã đem đến cho chúng tôi những nắm cơm sấy trong biến cố Mậu Thân. Những vòng hoa chiến thắng của nữ sinh Quảng Ngãi đã choàng cho chúng tôi trong dịp Xuân 1966 sau Liên Kết 81, miền Trung đậm đà, miền Nam thương yêu, ở bất cứ chiến trường nào chúng tôi cũng tôn trọng kỷ luật của Quân đội và kỷ luật sắt thép của binh chủng là phải tôn trọng dân được dân mến, dân thương thì chiến thắng quân thù chỉ còn là bước chân nhẹ nhàng để đón nhận vinh quang. Tại những vùng tiền tuyến, đi đâu dân cũng mến, dân cũng thương đoàn quân Mũ Đỏ.
Tại chiến trường cam go Quy Nhơn, Bình Định đoàn quân nào ngoại quốc tới đó cũng khựng lại, nhưng đoàn quân Mũ Đỏ dễ dàng lấn chiếm các mật khu mà chúng tự cho là đời đời bền vững. Tại miền Đông chiến khu D, tam giác sắt trở thành những vùng quang đãng, thanh bình sau khi những cánh Thiên Thần lướt qua. Tại miền Tây Cầu Kè đến U Minh, Đông Tháp, nơi nào ngập lụt, nơi nào khó khăn nhất,chúng tôi ít nhất cũng qua đó một lần trong vinh quang. Vậy mà năm 1975, chúng tôi phải tan hàng, phải tù tội phải chịu đựng mọi sự trả thù thấp hèn, đón mạt dã man mà loài người không tưởng tượng nổi. Chúng tôi không một oán hờn với những người lầm đường lạc lối, nhưng nay đã thức tỉnh. Chúng tôi không một ngạo mạn với những bạn bè cùng chung chí hướng, những ân tình của dân chúng đã vun đắp chúng tôi thành một ý chí sắt đá nguyện đem tấm thân còn lại trở về quê hương.
Xin hãy đừng vơ đũa cả nắm, xin hãy dành một ý niệm tốt cho những thanh niên miền Nam Việt Nam, những người đã dâng hiến cả cuộc đời thanh xuân của mình cho Quốc gia dân tộc, quyết không bao giờ lừa dối, man trá được. Xin hãy dùng tất cả mánh lới thủ đoạn, dù lớn hay nhỏ, dù hời hợt hay sâu xa cho quân thù. Xin linh hồn bạn bè hãy soi sáng cho đường đi lối về của những người con yêu của đất nước, xin hãy bỏ bớt những trò múa may quay cuồng, để gồm thâu tình nghĩa gần lại với quê hương dân tộc, xin hãy lấy tâm gan cộng tác với nhau, xin đừng dèm pha xấu xa, con đường trở về Thiên nan, vạn nan, đầy dẫy những chướng ngại của quân thù. Xin đừng giúp quân thù cài thêm chướng ngại cho chiến hữu, bạn bè. *** Đúng 10 giờ sáng ngày 30/04/1975, tôi nhận được lệnh rút lui, lúc đó Đại đội của tôi là tuyến đầu của Tiểu đoàn tại vùng ngã tư Quân vận đến cầu Tham Lương cách hãng dệt Vinatexco 300 mét về hướng Hóc Môn. Cùng lúc đó đứa con đầu đàn của tôi báo cáo đoàn xe địch đang di chuyển vào phòng tuyến xin lệnh tôi. Tôi xin lệnh trên, được lệnh vắn tắt ("Tiêu diệt xong rút về Lăng Cha Cả chờ lệnh kế tiếp. Không thu chiến lợi phẩm, bảo toàn lực lượng"). Tôi cũng xin một ả thêm Tiểu đoàn chúng tôi rải quân như sau: Đại đội thứ 4 của tôi từ ngã tư Quân Vận đến cầu Tham Lương, Đại đội thứ 3 khu Bình Thới đến ngã ba Bà Quẹo, Đại đội thứ 2 từ ngã ba Bà Quẹo đến ngã tư Bảy Hiền, Đại đội thứ 1 từ ngã tư Bảy Hiền đến Lăng Cha Cả và Trương Minh Ký. Tôi cho lệnh chi tiết cho C/úy Nhiên Trung đội Trưởng Trung đội 1 của tôi, Nhiên nhanh nhẹn trả lời "hiểu và thi hành."
Đoàn xe địch dẫn đầu bằng 3 chiếc PT 76 thư thả tiến vào Sài Gòn không gặp một sức kháng cự nào, qua ngã tư Quân Vận, qua khu gia binh của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tôi đưa ống nhòm theo dõi từng vết xích của chiến xa dẫn đầu đang nghiền nát quê hương tôi. Hai cột khói nâng bổng hai chiến xa dẫn đầu kèm theo tiếng nổ của mìn chống chiến xa, một loạt hoả tiễn M72 phóng ra, 3 chiến xa dẫn đầu tan nát, kèm theo 10 xe vận tải chở đầy Bộ đội Bắc việt bị lật nghiêng. Đoàn xe sau đụng nhau dồn cục gây thêm một số thương vong cho chúng. Những Cán Ngố chỉa súng bắn loạn xạ, nhưng chúng không thấy chúng tôi. Chúng tôi rút về tới ngã ba Bà Quẹo, một giờ vất vả và vô sự. Đúng lúc đó địch quân cũng đã hoàn hồn và tiếp tục di chuyển, lần này chúng thận trọng di chuyển thật chậm, vừa đi vừa bắn những chỗ chúng khả nghi. Đơn vị chúng tôi tiếp tục di chuyển về ngã tư Bảy Hiền. Một số phóng viên ngoại quốc bu lấy tôi hỏi đủ chuyện. Lúc đầu tôi trả lời bằng tiếng của họ "Tôi không biết", nhưng sau đó một phóng viên ngoại quốc hỏi tôi bằng tiếng Việt: - Anh thuộc đơn vị nào? - Nhảy Dù - Tôi muốn hỏi anh thuộc Tiểu Đoàn nào? - Anh cứ biết một Tiểu Đoàn Nhảy Dù đủ rồi. Thấy tôi không muốn trả lời họ không hỏi nữa. Họ thi nhau chụp hình đơn vị đang rút của tôi rồi bỏ đi về hướng tiền quân. Nhảy Dù! Không hiểu ai đặt ra cái luật khắc khe,"Không được tự ý trả lời phóng viên dù là tên của mình". Quý vị thấy những đơn vị bạn có những tên thật đẹp như Cọp Vằn, Hắc Báo, Kình Ngư... Nhưng Nhảy Dù có những tên vô cùng đẹp như: Con Gà tử mị, Sư Tử mắc nước, Con Cù lần vv... Còn tên các Tiểu Đoàn Trưởng như: Trưởng ấp, Xã trưởng, Bồi bàn, Cao bồi vv... Đại Đội Trưởng: T... sốt rét, N. Lai H... ghẻ vv... Có một Đại Đội Trưởng may mắn hơn có cái tên đẹp Út Bạch Lan. Thường những tên như vậy cấp dưới biết nhưng không ai dám gọi cả. Mặc dầu địch quân tiến thật chậm, và thận trọng nhưng chúng tôi nhất định không tha, nếu chúng nắm vững tình hình tiến chậm hai giờ nữa để đơn vị chúng tôi rút lui xong, thì chắc chắn chúng sẽ vào Dinh Độc Lập như vào chổ không người. Khi tới gần Vinatexco, 2 thiết giáp đi đầu bắn xả vào những "Lô cốt" trong phi trường, nhưng các lô cốt này đã bỏ trống, đơn vị phòng thủ phi trường đã bỏ ngõ từ lúc trưa ngày 29/04/75. Các loại súng trên thiết giáp thi nhau nhả đạn vào những chỗ chúng nghi ngờ. Chúng đâu có ngờ một pháo đội ngụy trang kín đáo tại vị trí vãng lai của TĐ 1 PB đang sẵn sàng tiêu diệt chúng, 4 viên đạn chống chiến xa ra khỏi nòng súng 105 ly các pháo thủ đầy kinh nghiệm chiến trường rang muối thêm 2 con Cua sắt và 2 vận tải. Lần này chúng có kinh nghiệm, chúng không bị dồn cục, nên không bị tổn thất thêm, nhưng đau cho chúng là chúng không biết từ đâu để bắn lại trả thù. Xong nhiệm vụ các pháo thủ Mũ Đỏ cũng rút lui sau khi phá hủy súng. Đối với chúng tôi, đánh giặc phải tiêu diệt chúng xong, chiếm mục tiêu, thu chiến lợi phẩm thì đơn vị mới có tổn thất, còn diễn trò như hôm nay, gây cho chúng tổn thất rồi mình chạy làng, thì không bao giờ anh em chúng tôi phải hy sinh. Nhưng trò đùa này của chúng tôi cũng làm chúng điên đầu nhức óc, mỗi lần như vậy, chúng lại phải điều quân lại, tổ chức lại đội hình thật lâu chúng mới dám dè dặt tiến quân tiếp. Chúng bắn tứ tung, mất tinh thần thấy rõ, chính vì vậy mà những đơn vị của chúng ta trước đây mỗi khi đi hành quân bảo vệ đồng bào, nếu không cẩn thận dễ bị tổn thất, vì địch không đương đầu chống lại, chúng vừa đánh vừa rút, hoặc phải đương đầu với ta là vì chúng không còn ngõ để chạy nữa. Nhất là những vùng rừng núi rộng rãi chỗ cho chúng chạy thì: Kỹ thuật tác chiến yếu, tinh thần suy sụp là đơn vị hành quân rất dễ bị nướng lắm. Từ ngã 3 Bà Quẹo dân chúng còn lại, hối hả chạy dọc theo đường hướng về phía Sài Gòn, sự sợ hãi, hốt hoảng lộ ra trên nét mặt, không còn một nụ cười trên môi các thiếu nữ, không còn tiếng nô đùa trên miệng các em bé vui tươi. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ đầy u uất, lòng tôi se lại trong đớn đau nát da, đứt ruột. Đồng bào tôi đây, đang cần sự che chở của quân đội, của chúng tôi, nhưng chúng tôi lại "Khiếp nhược" rút lui! Không thể được, việc trước mắt như cứu lửa, phải bảo vệ đồng bào như một phản ứng tự nhiên. Có bao giờ chúng tôi phải rút lui cay đắng như thế này đâu? Có bao giờ đồng bào nhìn chúng tôi xong lặng lẽ chạy tiếp đâu? Bây giờ giặc đã đến ngõ cụt của Thủ Đô. Những giọt mồ hôi quái ác làm mắt tôi cay cứng lấy tay áo quệt mồ hôi; mặc dù chưa rõ tình hình chung, nhưng tôi biết đây là trận chiến cuối cùng để dân tộc này, quê hương này sẽ đi vào con đường u tối miên man, không một ánh sáng cuối đường hầm. Chiến binh Nhảy dù Dư Quốc Đống, tư lệnh Binh chủng Nhảy Dù Chúng tôi cố tình trì hoãn rút lui để đồng bào chúng tôi đi được một khoảng cách xa an toàn, tôi cho lệnh rút lui tiếp tục, đứa con đầu của tôi, trước công hoàng Hoa Thám chậm chạp di chuyển về phía sau đồng bào. Tôi đang từ Trung đội 4 trước Hội đồng xã Tân Sơn Hòa lướt qua Trung đội 3, những anh em chiến hữu của tôi đã xả thân tại khắp các chiến trường đất nước, từng làm quân thù bạt vía kính hồn từ trận nhỏ đến trận lớn. Tôi nhìn vào tận mắt của từng người như cầu van tha thứ cho tôi, "vì đã cho lệnh họ rút lui trước quân thù"; nhưng những ánh mắt nhìn tôi như oán hờn, như trách móc. Tôi cúi mặt tránh những ánh mắt thân thương, lầm lũi bước đi trên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc, trước cổng trại Thạch Văn Thịnh (TĐ II Nhảy Dù) con đường rộng thênh thang, không còn bóng người dân di chuyển, chỉ còn lại chúng tôi và một số phóng viên ngoại quốc. Tới cổng Hoàng Hoa Thám tự nhiên chân tôi chồn lại, tưởng như một khói chì nặng nề níu chân lại. Đứng lại trong thế nghiêm tự nhiên, cay đắng nhìn cổng trại thân yêu, cách đây 10 năm tôi vui mừng rạng rỡ bước qua để chính thức trở thành một quân nhân Mũ Đỏ, chiếc cổng vô tri này nhưng ma lực của nó đã có sức hút vô cùng mạnh mẽ đối với biết bao thanh niên anh hùng ở lứa tuổi đôi mươi. Hình ảnh chiếc cổng hoang tàn với hàng rào Concertina ngổn ngang như hoang phế lâu ngày, nhìn sâu vào trong trại, tôi thấy thấp thoáng những bạn bè, chiến hữu chúng tôi đang vội vã di chuyển trong đó. Tôi không hiểu tôi đang là một thứ người gì, nhưng tôi đang đứng sững nghiêm chỉnh trước chiếc cổng như đại diện cho đơn vị, đơn vị tôi tôn thờ như thánh thần trong tâm khảm. Những ngày tung hoành ngang dọc nào có mơ ước gì hơn là tiêu diệt kẻ thù để đồng bào được yên ổn làm ăn.
Tôi đưa tay chào chiếc cổng thân yêu, các phóng viên muốn thu hình này nhưng quá muộn, tôi lững thững bước đi như xác không hồn. Nước mắt tôi dàn dụa xen lẫn mồ hôi cay đắng, cơn nấc nghẹn ngào làm tôi nghẹt thở. Giã từ Hoàng Hoa Thám, giã từ đơn vị thân yêu, đơn vị đã được chúng tôi dâng trọn cuộc đời thanh niên cho Hoàng Hoa Thám, dâng trọn cho đoàn quân Mũ Đỏ. Bây giờ với cái thân tàn tạ, hèn nhát này, dẫn đơn vị rút lui, dù theo lệnh trên, nhưng trước sức tấn công ào ạt của địch quân vào Thủ Đô. Ôi những chiến tích nức lòng dân như: A Châu, A Lưới, Tân Cảnh, Quảng Ngãi, Chương Thiện, Tây Ninh, Kiến Phong, Bình Long, Kom Tum, Quảng Trị vv... có chăng chỉ còn là một cơn gió thoảng qua trong cơn nóng nung lửa của tâm hồn. Sự dằn vặt tột cùng của sự tháo lui. Ôi cấp chỉ huy của tôi ơi! Ôi bạn bè của tôi ơi! Ôi những chiến hữu Mũ Đỏ kiêu hùng của tôi ơi! Chúng ta đã chạy thật hay sao đây? Đồng bào của chúng ta kia! Quê hương của chúng ta đó! Doanh trại của chúng ta đây! Hồn thiêng của bạn bè ẩn hiện đâu đây có ai cảm thông nỗi thống khổ này? Những khuôn mặt của Hiền, Được, Khiêm, Nhượng, Tống, Hùng, Hoà và hàng ngàn các chiến hữu Mũ Đỏ đã ra đi giận dữ nhìn tôi. Tôi nhắm mắt bước đi theo đoàn quân chậm chạp rút lui như tử tội nặng nề bước chân lên bực thang máy chém. Tôi cố gắng im lặng để thanh thản bước đi nhưng hình ảnh anh em bạn bè, họ là những chiến sĩ vô danh cứ soi mói nhìn tôi như oán trách, như căm hờn. Bảy điều tâm niệm khi mới bước chân vào quân ngũ tôi vẫn còn thuộc lòng từng câu từng chữ: Luôn nêu cao danh dự của Quân Đội ............................................................. Phải thân dân bảo vệ dân và giúp đỡ dân. Nhưng giờ đây lúc này không phải một điều nào chúng tôi cũng giữ được, thế hệ sau sẽ nguyền rủa. Chúng tôi không phủ nhận, xin nhận tất cả tội lỗi nhưng phải làm gì khác hơn đây. Từ ngày bước chân vào quân ngũ là đã sẵn sàng chấp nhận tấm Poncho gói gém thân mình, hay vinh hạnh hơn nữa là "lá Quốc kỳ phủ lên thân", sống chết chẳng qua là cuộc đổi đời, quan niệm như vậy nên sự sống, sự chết đối với những người Mũ Đỏ thật cụ thể và nhiệm vụ Quân đội, nhân dân giao phó mới đáng kể, nhưng bây giờ nhiệm vụ của Quân đội giao phó là rút lui hay sao đây? Lằn tên nào cản được bước chân chúng tôi, bom đạn nào làm chùn chân chúng tôi, quân thù nào ngang cấp số với đơn vị dám đương đầu. Thân xác chúng tôi ai mà chẳng có vết tích của chiến tranh để lại trên thân thể. Thương xót cho bạn bè, cho đồng bào, cho dân tộc không biết sẽ phải đi về đâu đây? - Thưa Đích Thân "Ba" vừa đánh cháy thêm hai chiến xa nữa. Tiếng của Hòa người mang máy cho tôi. Hiện nay Hòa đang ở Úc Châu. - Ở đâu? Tôi hỏi vắn tắt. - Ngã ba Bà Quẹo. Tôi vừa băng qua Đại đội 1 của đơn vị, được lệnh trực chỉ theo đường Trương Minh Giảng về hướng Sài Gòn đến ngã 3 Trương Tấn Bửu chờ lệnh.Dọc theo bên đường dân chúng ngơ ngác nhìn chúng tôi, người chạy theo lên hướng Sài Gòn, người ngơ ngác đứng nhìn. Tôi vừa dừng chân tại Trương Tấn Bửu, trước bót Cảnh sát. - "Hai" đánh cháy 1 chiến xa và 3 xe vận tải tại ngã tư Bảy Hiền, "Ba" đã qua Lăng Cha Cả, cùng bộ chỉ huy Tiểu Đoàn. "Một" còn nằm tại chỗ. Tôi im lặmg nghe Hoà báo cáo. - Thưa Đích Thân, "Hai" đã qua Lăng Cha Cả. Cùng lúc đó tôi nhận được lệnh kiếm chỗ trống trải để tập họp cả Tiểu Đoàn. Trung đội 4 của Hạnh cho biết có sân trường Đại Học Vạn Hạnh có thể tập họp được. Năm phút sau Hạnh báo cáo có một xe jeep mang huy hiệu Biệt Động Quân, nhưng do bọn mang băng đỏ bên tay trái lái. Tôi cho lệnh chận xe đó lại khai thác tin tức. Trung đội 4 báo cáo xe đó là của một Trung tá BĐQ nhà gần đó bị bọn mang băng đỏ (sau này đồng bào gọi là bọn 30-04 ) cướp xử dụng, trên xe có 6 tên đa số là sinh viên của Đại học Vạn Hạnh. Chúng xử dụng súng của Nhân dân tự vệ. Đồng bào thấy chúng tôi mồ hôi nhễ nhãi, người tiếp tế nước đá lạnh, người mang ra bình trà, có người mang cả đồ ăn. Lúc đó mặc dầu khát dữ dội nhưng cầm ly nước lạnh, không sao tôi có thể nuốt trôi được; Tôi đang căm tức bọn băng đỏ, bọn đê tiện phản bội. Ý tưởng thịt bọn chúng lẩn quẩn trong đầu tôi, nhưng tôi nghĩ sau này có thể bị xuyên tạc và dân chúng sẽ hiểu lầm đơn vị, hiểu lầm binh chủng. Một điều chúng tôi tối kỵ, làm gì cũng được, nhưng nếu danh dự binh chủng bị xúc phạm, dù có chiến thắng hay lợi lộc mấy đi chăng nữa, chúng tôi cũng phải suy xét lại. Tôi nhớ Tết Mậu Thân, đơn vị chúng tôi trên đường về giải cứu cố đô Huế, Tiểu Đoàn của tôi bị Tiểu đoàn VC bố trí trên Cổ Thành Huế chận lại; trong khi chúng tôi ở dưới thấp lại còn vướng một dẫy lạch sâu trồng sen chung quanh Cổ Thành này. Thành cao không thể leo lên dễ dàng, khó khăn không thể nào vượt qua, nhưng vị chỉ huy của chúng tôi cầm chiếc "nón đỏ" và nói: "Đây là lần đầu tiên nón đỏ này bị ô nhục." Đơn vị nghe thấy máu nóng bừng bừng ai cũng tưởng như mình thêm cánh, thêm sức. Không đầy 30 phút sau sức lực huyền bí dũng mãnh của tinh thần bảo vệ danh dự đơn vị bùng lên, những Thiên Thần sát cộng đã hiên ngang bay qua từng chốt của địch diệt trọn phòng tuyến chính để vào Thành nội Huế. Chính nhờ vậy chúng tôi tiếp cứu được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I BB trong trại Mang Cá Huế. Cùng lúc đó Hòa báo cáo "1 vừa đánh cháy một chiến xa tại Lăng Cha Cả và 2 xe vận tải". Vào khu Đại học Vạn Hạnh, tôi cho lệnh đứa con thứ tư của tôi đóng chốt giữ an ninh chung quanh khu Đại học và từng đơn vị vào sân Đại học Vạn Hạnh tập họp chờ lệnh. Tôi thấy bọn băng đỏ lố nhố trong khuôn viên ĐHVH, chúng có vũ khí nhưng không một tên nào dám nhố nhăng, vì sau chúng có anh em của tôi kềm súng sẵn sàng hỏi tội chúng. Ý tưởng phải thanh toán hết bọn này lại hiện ra trong trí. Nhưng vị anh cả của chúng tôi im lặng, lầm lì quan sát, tôi thấy môi anh mím chặt, cặp mắt giận dữ nhìn chúng nhưng chưa một phản ứng, thì một tên mặc áo tu hành Phật Giáo tay cầm loa đưa ngang miệng dõng dạc trong câu nói điên rồ: "Đất nước đã Thống nhất, yêu cầu các anh em Nhảy Dù hãy buông súng trở về với Cách mạng, cách mạng sẽ khoan hồng cho anh em". Phản ứng tự nhiên, tôi rút súng chĩa về phía hắn, hắn thụt lùi vào trong hành lang, và hàng trăm cây súng sẵn sàng nhả đạn. Nhìn lên những anh em trên cao ốc, tôi thấy anh em đều chĩa súng sẵn sàng chờ lệnh. Tôi biết rằng nếu tôi siết cò súng là súng nổ rền trời ngay lập tức, để đưa bọn cộng con về với thiên đường Cộng sản. Nhưng thấy chúng cụp đuôi khiếp vía chạy trốn tôi cho súng vào bao, thầm nghĩ may mắn cho chúng gặp tôi, chứ gặp đơn vị khác thì hẳn là ĐHVH này chắc chắn phải trở thành ĐH "Bất Hạnh" ngay lập tức... Anh cả của chúng tôi im lặng, đứng sững như trời trồng, sau đó anh cho lệnh Đại đội 1 tìm bãi đất trống trải để tập họp Tiểu Đoàn, và cả đơn vị rút ra khỏi khu ĐHVH. Đơn vị tôi là đơn vị sau cùng ra khỏi khu Vô hạnh này. Tôi không thể hiểu nổi ngay tại nơi huấn luyện đào tạo ra lớp người Tổ Quốc mong cho mai sau lại có đuôi chồn đỏ như thế này hay sao? Thua địch quân không đau, buông súng không tủi bằng phải thua ngay những người mình hằng quý mến. Người tình lang mất người yêu chắc cũng chỉ đau đớn thấm thía như chúng tôi lúc này. Quê Hương ơi! Tổ Quốc ơi! Đồng bào ơi! Lỗi tại ai đây? Tại chúng tôi hèn nhát? Tại chỉ huy tồi? Tại vận nước suy đồi? Hay nó đã ruỗng ra từ bên trong.....! Chúng tôi chỉ còn là cái vỏ mỏng bên ngoài làm sao chống đỡ nổi đây? Đại đội tôi đi sau cùng và vừa ra khỏi khu phản bội được 3 Trung đội, Trung đội sau cùng và tôi rút ra khỏi khu Vô Hạnh mà phải đi giật lùi như trong vùng địch, cẩn tắc biết đâu chúng giở trò cắn trộm. Tâm hồn tôi chùng xuống xen lẫn cơn giận vô bờ. Bọn chồn đỏ lại ló đầu ra, tôi định cho đơn vị khai hoả, vì cơn giận trong tôi lại bừng lên, nhưng cùng lúc đó danh dự của đơn vị trồi lên lấn át, tôi cho súng vào bao cho lệnh đơn vị tiếp tục rút lui ra vùng tập trung mới. May cho bọn chúng nếu không nghĩ đến danh dự có thể sẽ bị hiểu lầm, bị nguyền rủa thì chắc chắn chúng phải đền tội. Nếu không thì tôi, phải chính tôi, vì căm hận chắc chắn không thù hằn, nhưng vì uất ức trước sự phản bội phũ phàng, một phút không kềm hãm được sự nóng giận, tôi chỉ cần nhẹ nhàng vẫy tay thôi bọn chúng sẽ phải theo Cáo Hồ của chúng. Ôi danh dự của đơn vị sao cao siêu quá, sao dũng mãnh quá, chế ngự được tất cả. Tôi không hiểu bọn chúng có biết rằng chúng vừa thoát chết hay không? Chúng có hiểu rằng nếu danh dự của đơn vị không chế ngự được chúng tôi thì hậu quả sẽ đến với chúng như thế nào?! Những dòng chữ này chắc chắn sẽ được một hay nhiều tên trong bọn chúng tại chốn Vô Hạnh hôm đó đọc được, để chúng hiểu rằng hôm đó không may súng nổ: Chính là vì chúng đã không khôn ngoan, đã phản bội trắng trợn, đã ngoại tình đê tiện hèn hạ trước mặt người yêu thương quý mến mình. Bước ra khỏi khu đê hèn, hai Trung đội Trưởng của tôi có ý trách móc tại sao tôi không giết bọn chúng. Tôi im lặng, tôi muốn anh em giải bày để vơi đi niềm uẩn ức của những anh em đang bị phản bội trắng trợn đê hèn. Bọn vô lương tâm đó ngày nay không hiểu chúng có còn được như Trịnh Công Sơn hay đang lần mò trong những trại giam cầm cho đáng đời bọn xảo trá gian manh. Vùng tập họp mới của chúng tôi ngay tại ngã tư Yên Đổ và Trương Minh Giảng. Chúng tôi vừa vào hàng ngũ, đơn vị nghiêm chỉnh trình diện anh cả của đơn vị. Huynh Trưởng của đơn vị gương mặt thểu não nói trong nghẹn ngào. Tôi có cảm tưởng như tiếng nói của anh bị đứt đoạn nhiều lần vì tiếng nấc đau thương: "Tôi xin chào tạm biệt các anh em. Xin báo cho các anh em biết chúng ta đã nhận được lệnh buông súng đầu hàng từ cấp chỉ huy tối cao của chúng ta. Cấp chỉ huy trực tiếp của chúng ta hoàn toàn mất l/l từ ngày hôm qua. Nhưng chúng ta không thể đầu hàng chúng được, vì danh dự của đơn vị tôi điều động anh em đến đây để bảo vơi anh em một lệnh cuối cùng: Chúng ta chào tạm biệt nhau tại đây ai về nhà nấy; tất cả quân trang, quân dụng tuỳ anh em định liệu; quyền chỉ huy của tôi đến đây đã chấm dứt.” Cả đơn vị im lặng không một tiếng xì xào bàn tán. Chúng tôi lặng người trong ngỡ ngàng tột độ, những lời lẽ thiếu mạch lạc của vị huynh trưởng phát ra từ xúc động. Tiếng nói của anh chấm dứt sau 5 phút đơn vị vẫn đứng im, từ trên xuống dưới không ai muốn xa nhau, không ai muốn tan hàng. Cái im lặng xa vắng, cái im lặng khủng khiếp. Tôi cũng đã biết giờ phút này phải đến, nhưng không ngờ nó đến trong bẽ bàng thế này!!! Nhìn hàng quân oai hùng, súng đạn còn đủ dùng, mặt mũi âu sầu. Cặp mắt mọi người đỏ hoe, tất cả đều gục mặt như mặc niệm bạn bè, mặc niệm đơn vị. Cơn đau đớn ê chề xâm chiếm dần dần như làn hơi thổi vào chiếc bong bóng tới độ không chịu được phải phát nổ. Sự phản bội từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như cơn lốc bạt ngàn tạt vào mặt chúng tôi, cả hàng quân đang im lặng; vị huynh trưởng vẫn còn đứng đó, anh đang cúi mặt chận cơn đau đại nạn. Tôi biết hàng ngày anh ăn nói rất văn hoa, nhưng hôm nay làm sao lời anh cộc lốc. Anh còn muốn nói nhiều, có lẽ anh còn muốn nói thật to, gào thét thật lớn, để một lần, một lần thôi rồi không bao giờ được tâm sự nữa. Thình lình Trâm một Trung đội Trưởng của tôi, nước mắt dàn dụa nhảy ra ngoài hàng quân Trâm dơ cao trái lựu đạn quát to: 'Xin các vị huynh trưởng kính mến của tôi hãy ra về. Các anh em của tôi hãy tan hàng, để một mình Trâm ở lại thôi. Tôi đã thề không đội trời chung vớ bọn vô thần, chúng vào đây thì tôi phải đi." Trâm vừa nói xong khoảng 10 anh em vừa bước tới chỗ Trâm vừa nói: - Để tụi tao (tụi em) chơi chung với. Chúng ta không đầu hàng và cũng không tan hàng. Nhảy Dù chỉ có tiến không có lùi.' Hoàng Đại đội Trưởng đại đội thứ nhất la lớn: - Để tao chơi chung với tụi bay. Vị huynh trưởng cũng chạy lại chỗ Trâm. Tiếng Trâm sang sảng nhưng nghẹn ngào đứt quãng: - Không được Đích Thân còn nhiều việc phải lo, còn nhiều việc phải làm, nhất là gia đình của Đích Thân. - Ai cũng có gia đình tao chỉ biết có Gia Đình Mũ Đỏ, Gia Đình của Mũ Đỏ là gia đình của chính tao. Một số anh em khác từ từ rời bỏ hàng ngũ, súng đạn, quân phục vứt ngổn ngang. Nhất là những anh em lớn tuổi, từ từ rời bỏ bãi tập họp mỗi người một phương, tôi không biết họ có mang theo vũ khí hay không, hay bỏ lại những gì? Còn lại từng tốp một ôm nhau nói chuyện. Tôi không biết họ đang nói gì nhưng nhìn khuôn mặt ai ai cũng chứa đựng đầy uất hận hiện rõ ràng trên khoé mắt đỏ ngầu rực lửa. Trên bãi, súng đạn, ba lô, nón sắt nằm ngổn ngang và trải dọc theo 4 hướng ngã tư. Con phố hiền hoà của Đô Thành không ngờ nay lại chứng kiến cảnh tan hàng của một đơn vị. Tôi chắc rằng đây là một đơn vị lớn nhất và là đơn vị sau cùng của Biệt Khu Thủ Đô giã từ vũ khí đi theo định mệnh của dân tộc. Đơn vị đã tan hàng có trật tự và kỷ luật của đơn vị thực sự bãi bỏ sau tiếng nói nghẹn ngào của một vị huynh trưởng đơn vị. Tôi quyết dịnh phải khuyên Trâm và anh em chúng tôi đang bu lại quanh Trâm. Tôi linh cảm thấy, chậm trễ sẽ xảy ra hậu quả không lường đưọc. Tôi chen vào đám đông và la lớn: - Chúng ta đàng nào cũng chết, nhưng phải chết cho xứng đáng mới được. Chúng ta hãy l/l với nhau trở về Long Khánh. Lâm Đồng rồi cùng chiến đấu. Trâm đưa trái lựu đạn cho anh. Trâm đưa trái lựu đạn cho tôi sau một hồi giằng co. Chúng tôi cùng thỏa thuận hãy tan hàng rồi kiếm kế sau. Bất chợt hai tiếng lựu đạn nổ chát chúa ở gần bức tường cuối bãi. Chúng tôi chạy vội lại quan sát. Tổng cộng 11 anh em đã ôm nhau từ giã, mắt người nào cũng mở như gửi lại những thông điệp bất khuất, không đội trời chung với cộng sản. Trong số 11 anh em cấp bậc lớn nhất là Thiếu úy Trung đội Trưởng, người cấp bậc nhỏ nhất là binh nhì khinh binh. Không có thì giờ cùng địa điểm để chôn cất họ, chúng tôi chỉ còn biết sắp xếp họ nằm ngay ngắn, cùng nhau nghiêm chỉnh chào họ. Anh em đã tự chọn con đường vinh quang cho mình, tôi thầm khấn nguyện trước mặt anh em: "Chúng tôi cần phải sống, vì chắc chắn chúng tôi vẫn còn phải tranh đấu với bọn quỷ hại nước hại dân". Sau này tôi được tin Trâm về Bảo Lộc hoạt động nhưng bị nội phản, bị xử tử tại đó. Hoàng về Xuân Lộc hoạt động cũng bị tử thương, còn tôi lưu lạc khắp nơi, nhất quyết không trình diện bọn chúng, tôi vượt biên bằng đường bộ qua Khe Sanh, Lao Bảo, Hạ Lào. Hỡi các bạn trong Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam; Thưa các bạn Quân Nhân QLVNCH; Bạn bè chúng ta đã chết, một số đang bị đầy đọa cực hình, Quê hương chúng ta còn trong tay bọn quỷ đỏ. Xin các bạn đừng vì xe hơi, nhà cao cửa rộng, ham chơi phù phiếm, mà quên đi những người thân yêu, những Vong Hồn bạn bè đã khuất, những cô nhi tử sĩ đang đón chờ từng giờ từng phút, mong mỏi bước chân nhịp nhàng của quý bạn tiến về quê hương. Hỡi các bạn thanh niên, lịch sử 4.000 năm văn hiến không lúc nào, không thời đại nào dân tộc chúng ta khiếp vía trước móng vuốt tàn ác của quân thù, không khi nào thanh niên Việt Nam lại đê hèn, quên đi gông cùm đỏ dã man đang siết chặt dân tộc ta. Xin hãy cùng nhau bước lên tiến tới và đừng bao giờ quên bọn quỷ đỏ đang lẩn khuất đâu đây đang ra sức ngăn cản bước chân oanh liệt của chúng ta. Nghiêm ơi, Trâm ơi, Hoàng ơi, linh hồn các bạn có linh thiêng hãy soi sáng bước chân chúng tôi, máu của các bạn đã chảy, thân xác của các bạn đã nằm xuống, nhưng tấm gương can đảm của các bạn sẽ còn mãi mãi. Trận chiến vừa qua chúng ta tạm lùi, tạm thua giặc. Nhưng chúng ta không đầu hàng giặc, đơn vị chúng ta không buông súng để qui hàng giặc. Tinh thần chúng ta còn đó, chúng ta bỏ nước ra đi bằng áp lực của ma quỷ. Xin hãy hứa cùng nhau "Chúng Ta Sẽ Trở Về." CHI LANN Viết theo lời Hùng kể Mùa Đông năm 1987
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 15, 2019 1:20:50 GMT 9
30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI tac gia: Trần Gia Phụng Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.
Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.1.- AI THẮNG AI? Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản. Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc. Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969. Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3) Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5) Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương. Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.“(7) Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9) Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc. Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh. 2.- THỰC TẾ SAU 30-4 Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.) Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa. Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước. Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11) Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách. Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.) Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12) Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991? 3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13) So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14) Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa. Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống. Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15) Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16) Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn. 4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trung, cô lập, bắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam. Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế… Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18) Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “”Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20) Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay. Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc. Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây: · Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt. · Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản. · Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư… · Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời. Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt. Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây. Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21) Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.” Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto) CHÚ THÍCH: 1. Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold L. Schester, The Palace File, Harper & Row, Publishers, New York, 1986, tr. 350. Nguyên văn: “North Vietnam will lose the war when it takes over Saigon.” [Sách The Palace File được các ông Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Ðàm chuyển dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Hồ sơ dinh Ðộc Lập, vơi một số những thay đổi do Nguyễn Tiến Hưng; Chu Xuân Viện nhuận sắc, Nxb. C & K Promotions, Inc., Los Angeles, không đề năm xuất bản. Trong sách nầy, câu nói của Moshe Dayan được trích dẫn ở trang 594.] 2. Nguyễn Ðình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 19. 3. Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334. Sách nầy được chọn là sách hay nhất về bang giao quốc tế của Câu lạc bộ Overseas Press, Hoa Kỳ. 4. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “that it might be worthwhile to sacrifice South Vietnam. Rather than squander more American lives and billions of dollars trying to prop up South Vietnam, with little chance of succeeding, why not accede to its failure in exchange for an opening to China, in order to weaken the real ennemy, the USSR?“. 5. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “So I came to the conclusion, and this may sound thoroughly cynical to you, that we would be better off not ro win this war. Particularly because the Chinese had made a breakthrough to us, and it was far more important to get the Chinese broken off from the Soviets and leaning to one side in our favor than for us to win in Vietnam.” [Bill Sullivam là một nhà ngoại giao kỳ cựu của Hoa Kỳ, đã từng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Ai Lao, thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, phụ tá và sát cánh cho đến phút chót với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.] 6. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190. 7. Roger Warner, sđd. tr. 333. Nguyên văn: “that losing the Vietnam War would be healthier for the U.S. than winning it. That losing was in the national interest. That it was a plus… It was a radical notion at the time, that by losing the war and by abandoning our Southeast Asian allies to their fate we would be doing the right thing.” 8. Lời của Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng Việt Nam. (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.) 9. Một ví dụ rõ rệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là vào năm 1801, nhà Tây Sơn đem quân vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu của lực lượng Nguyễn Phúc Ánh trấn giữ. Theo kế hoạch của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh chịu thua trận nầy, bỏ Quy Nhơn, tung quân ra đánh chiếm Phú Xuân, rồi ra Bắc hà dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước. 10. Ðạp đồng đài: tức xe đạp, đồng hồ, và radio transistor. (Lúc đó có nhiều từ ngữ rất lạ lùng về việc nầy: ví dụ đồng hồ không người lái tức đồng hồ tự động, đồng hồ có đèn tức đồng hồ dạ quang, đồng hồ có cửa sổ tức đồng hồ có khung ngày.) 11. Chuyện nầy do một cán bộ tên Phương, thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Hà Nội, được gởi vào Nam để nghiên cứu kế hoạch văn hóa, kể tại nhà của nhà văn Phan Du tại Ðà Nẵng vào thời điểm trên, người viết có mặt trong buổi nói chuyện nầy. 12. Một câu chuyện mà người viết nghe kể tại Sài Gòn trước năm 1980: Khi thủ tướng Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức), ông Erich Honecker (1912-1994), qua thăm Việt Nam, ghé Sài Gòn, lúc đó đã có tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Honecker đề nghị thuê các trí thức Sài Gòn sang làm việc tại Ðông Ðức, trả bằng ngoại tệ qua nhà cầm quyền cộng sản. Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM lúc đó là Võ Văn Kiệt đồng ý ngay vì nhà nước cộng sản rất cần ngoại tệ. Theo nhu cầu về chuyên viên của chính phủ Ðông Ðức, ông Võ Văn Kiệt lên danh sách các chuyên viên đã tốt nghiệp các trường đại học Ðông Âu, Liên Xô và Trung Cộng, nhưng Honecker lắc đầu từ chối, và tự mình đưa ra một danh sách nêu đích danh tên tuổi những chuyên viên khoa học kỹ thuật miền Nam đã tốt nghiệp tại miền Nam, cũng như ở Âu Mỹø còn ở lại miền Nam. 13. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 76-77. 14. Nguyễn Hiến Lê, Hồi kí tập III, Nxb. Văn Nghệ, California, 1988, tt. 17-18, 25. 15. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000. (tài liệu rút từ Internet, http//www.Imvntd.org/vndc0100/bai06.htm). Những chữ in đậm do người viết bài nầy muốn nhấn mạnh. 16. * Ngô Nhân Dụng, “Jane Fonda hối tiếc”, www.nguoi-viet.com/spcl/0622/binhluan.htm * Xin xem thêm về Jane Fonda: www.rjgeib.com/thoughts/fonda/fonda.html17. Số người Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975 chưa từng được cộng sản tiết lộ. Sau khi thăm dò nhiều người bị tù ở nhiều trại học tập tại các tỉnh khác nhau, người viết chỉ đưa ra con số ước chừng mà thôi. Nhiều người cho biết con số thật sự bị tù nhiều hơn, phải trên 1.000.000 người, vì chẳng những quân nhân, công chức, mà cán bộ xã ấp ở nông thôn, và cả phụ nữ nữa, cũng bị đi tù nhiều năm 18. Việt Mercury, San Jose, California, 9-3-2001, www.vietmercury.com/2001/week10/News/Story01.html)(Nữ ca sĩ Phương Thanh, trả lời phỏng vấn của thông tín viên Ðức Hà) 19. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 303. Lời nói trên là của ông Vũ Ðình Huỳnh nói với con là nhà văn Vũ Thư Hiên năm 1986. Ông Vũ Ðình Huỳnh gia nhập đảng CS năm 1930, từng chứa chấp, nuôi ăn trong nhà tại Hà Nội những cán bộ cộng sản, kể cả ông Hồ Chí Minh. Ông Vũ Ðình Huỳnh còn là bí thư của ông Hồ, Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao cộng sản cho đến khi hưu trí năm 1964. 20. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 345. 21. Thành Tín, “Pháp du phiêu lưu ký”, Thông Luận. ____________________________________________________ Những Ngày Cuối Cùng Tại Saigon năm 1975 Những Trận Đánh Cuối Cùng 1975 Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People www.facebook.com/media/set/…................................................................. Hành Trình Tìm Tự Do Tác giả: Lời Anh Bằng & Nhạc Trúc Hồ Tháng Tư gió lộng, Nước nhà Việt Nam nát tan. Tháng Tư gió lộng, Quay cuồng, thuyền trôi bốn phương. Sao người dân tôi trốn quê hương mình, Vượt đại dương khốn nguy cam đành, Bỏ lại đây trái tim của mình ? Sao mẹ ôm con khát khô môi gầy, Chị thương em đ ói cơm bao ngày, Lời cầu xin thiết tha từng giây ? Cánh tay yếu mềm, Vẫy vùng ngoài khơi biển đông. Tiếng kêu thất vọng, Cuối cùng nào ai biết không. Đêm biển khơi hoang vắng vây tứ bề Thuyền mong manh khó đi không về Vùi thân trong đáy sâu não nề Đêm từng cơn sóng dữ trôi hy vọng Từng cơn giống tố reo kinh động Đường vượt biên khát khao đợi mong Những gian khó này, Sẽ thành lửa nung trái tim. Những đôi mắt buồn, Sẽ nhìn đời tươi sáng hơn. Như bầy chim tung cánh đi mọi miền Đời bao hương sống quên ưu phiền Người Việt Nam bước theo ước nguyện Trong tình thương đem sẵn cho con nguời Tình yêu thương trái tim nhân loại Người Việt Nam tiến lên ngày nay Đây người sinh nơi tiến nơi học đường Cùng đem tin báo tin xây dựng Thành công van khắp nơi lẫy lừng Đây bàn chân đi tới con đường dài Mồ hôi chăm tưới cho cuộc Chờ ngày vui sớm quê Việt Nam Những đêm tối vừa Thắm lại ngàn tia nắng mai. Những tan vỡ phường Cấy lại niềm tin khắp nơi. Ước mơ chính bàn tay này,bàn tay chúng ta... Thắp xây đắp lại Nước Việt Tự Do Ấm No....!!! (Tài liệu của Phóng Viên Chiến Trường sưu tầm) www.facebook.com/NguoiNhapCuoc1975/
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 20, 2019 18:49:56 GMT 9
SỰ THẬT về.. THÍCH TRÍ QUANG qua.. BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG ..và PHÁP NẠN của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT Hôm Nay
Tác giả : Tôn Nữ Hoàng Hoa Chuyển Từ Nguồn Trang.. Ba Cây Trúc
Gần đây chúng tôi đã nhận rất nhiều email và điện thoại về cùng một câu hỏi "Tại sao Phật Giáo mình lung tung vậy ?" Khi một số người con Phật thắc mắc về đạo của mình đang ở vào tình trạng "lung tung" tức là ở đó họ đang cần thấu hiểu hiện thực của tình trạng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) . Cho đến nay trước những mưu toan xâm chiếm GHPGVNTN bắt nguồn từ những vị Sư Quốc Doanh đã trà trộn trong Phật Giáo VN đã từ từ lộ diện. Tuy những tổ chức trá hình Thân Hữu Già Lam, Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại đi từ Giao Điễm, Giao Điễm Về Nguồn đã cho thấy lực lượng Sư Quốc Doanh trong GHPGVNTN đã lặn sâu để hôm nay nhất định phải trèo cao hầu thực hiện giai đoạn chót của những kẽ đạo tặc trong GHPGVNTN đang biến Đạo Vào Đảng hôm nay. Một khi nói đến giai đoạn chót chắc chắn chúng ta phải nhắc đến giai đoạn đầu : Giai đoạn của các Sư Quốc Doanh thực hiện kế hoạch đưa Đảng vào Đạo. Cho dù đứng dưới lăng kính nào. Cho dù bất cứ một suy nghĩ nào dù cho các vị cao tăng trong GHPGVNTN cũng phải đồng ý ngầm một điều rằng bất cứ những biến cố nào đang xảy ra hôm nay cũng đều được điều hướng bởi "Thái Thượng Hoàng". Một Thái Thượng Hoàng mà trong bức tâm thư cùa TT Thich Chơn Tâm đã gởi ra cách đây không lâu đã có nhắc đến trước âm mưu soán ngôi của Đại Lão Hoà Thương Thích Quãng Độ của nhà thơ , nhà tu , nhà ước mơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây ca khúc khải hoàn Thích Tuệ Sỹ. Thái Thượng Hoàng đó mà Thích Chơn Tâm ám chỉ là ai ? Xin thưa cùng qúi vị đó chính là Thích Trí Quang. Một thời đã "chống Mỹ cứu nước lẫy lừng" qua biến cố Miền Trung 1963-1966. Thích Trí Quang hiện cư ngụ tại Chùa Già Lam của Thích Trí Thủ,ở Việt Nam (giờ này đã chết và đang bị Diêm Vương phán tội.) Cho nên khi qúi vị có ý nghĩ là "Sao Phật Giáo mình lung tung", đó chính là ý đồ của Việt Cộng muốn tạo ra cho qúi vị sự suy nghĩ đó, để chúng dễ dàng đánh phá Phật Giáo, giam giữ qúi vị cao tăng chánh tâm cầu đạo hay thảm sát qúi vị chân tu, bức tử đầu độc qúi Thầy sau khi nhìn ra chân tướng của chúng trong kế hoạch Biến Đạo Phật vào Đảng tiếp nối một giai đoạn lịch sử của Phật Giáo qua Biến Cố Phật Giáo tại Miền Trung năm 1963 -1966. Sau việc chỉ huy điều hành Thanh niên và Sinh Viên Phật Tử Tại Huế để lật đổ chính quyền Đệ Nhất VNCH và cuộc thảm sát cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người dân Miền Trung đã không còn nhìn thấy Thích Trí Quang là hình ảnh của một ông Thầy Tu mà là một hình ảnh của một vị TưóngTrận Bận Áo cà Sao để thao túng chính trường Nam Việt Nam. Nếu bảo là Chính quyền Đệ Nhất VNCH đàn áp Phật Giáo và Thích Trí Quang phải lãnh đạo cuộc xuống đường để bảo vệ Giáo Pháp? Vậy thì sau khi chính quyền Đệ Nhất VNCH sụp đổ và Cố TT Ngô Đình Diệm đã bị Tướng Dương Văn Minh thảm sát, Thích Trí Quang vẫn tiếp tục xuống đường đuổi Mỹ về nước, tiếp tục chống đối Chinh Quyền Đệ Nhị VNCH với mục tiêu gì? Trở lại giai đoạn thương đau đó, nếu chính quyền Đệ Nhị VNCH không cương quyết với Thích Trí Quang thì chắc chắn Nam Việt Nam đã bị bọn VC "Giãi phóng" sớm hơn 1975 mười năm. Kính mời qúi vị Phật Tử nói riêng và Tập Thể Người Việt Quốc Gia quyết tâm diệt Cộng trở lại vụ biến cố Miền Trung do Thích Trí Quang chỉ huy chiến trường bạo động: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị Tướng Dương Văn Minh lấy chỉ thị từ Thich Trí Quang thảm sát cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 2 thánng 11 năm 1963 . Ngay sau đó, Thích Trí Quang và Liên phái Phật Giáo họp tại chùa Xá Lợi vào 2 ngày 31 tháng 12 năm 1963 và ngày 1 tháng 1 năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và đã được ông Dương Văn Minh ký giấy cho phép hoạt động ( Tất cả qúi Thầy chánh tâm cầu đạo và Sư Quốc Doanh (trong thời gian này chưa lộ mặt) đã cùng chung một mái nhà Giáo Hội. Sau hai ngày ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN,Tướng Dương Văn Minh trong ngày 16 tháng 1 năm 1964 đã ra lệnh thả hết tù Việt Cộng trong đó có tên gián điệp Vũ Ngọc Nhạ và tên Bảy Liêm chí huy tổ đặc công của VC tại Sài gòn Chợ Lớn chuyên ám sát và phá hoại chính quyền VNCH. Người Mỹ biết Tướng Dương Văn Minh là "Đệ tử thứ thiệt " của Thích Trí Quang và lấy chỉ thị của Thích Trí Quang để thi hành do đó họ rất quan tâm trước hành động thả tù VC của Dương Văn Minh. Trước hiện tình đó người Mỹ đã liên kết với Tướng Nguyễn Khánh để làm cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964 loại trừ những Tướng VN thân với Giáo Hội Phật Giáo lúc bấy giờ. Trước cuộc Chỉnh Lý chớp nhoáng của Tướng Nguyễn Khánh, Thích Trí Quang rất tức giận và hụt hẫng cho kế hoạch tiếp nối . Sau khi tiêu diệt Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách thành công tốt đẹp, Thích Trí Quang chỉ chờ Tướng Dương Văn Minh thi hành kế hoạch tiếp nối thì Miền Nam cũng từ tay Tướng Dương Văn Minh đã bị " Giãi Phóng" sớm hơn 10 năm. Nhưng người Mỹ đã phá tan kế hoạch của Thích Trí Quang và vì không đạt được mục tiêu chính trị , do đó Thích Trí Quang phản công người Mỹ bằng một công cuộc " Chống Mỹ cứu nước" và công khai đánh phá chính quyền Nam Việt Nam và Người Mỹ dưới cái lốt Áo Cà Sa. Kính mời qúi vị Phật Tử nói riêng và Tập Thể Người Việt Quốc Gia quyết tâm diệt Cộng trở lại vụ biến cố Miền Trung do Thích Trí Quang chỉ huy chiến trường bạo động: Trong cuốn "Việc Từng Ngày" của học giả Đoàn Thêm đã có ghi chép rằng: Ngày 27 tháng 3 năm 1964 Thích Trí Quang ra lệnh thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Huế. Sau đó thành lập thêm Lực Lượng Tranh Thủ cách Mạng (LLTTCM) với mục đích đấu tranh bằng vũ trang bạo động với mục đích chiếm được Thừa Thiên Huế. Sau khi chiếm được Thừa Thiên Huế thì đã có Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tiếp quản và cai trị ( Mô Phật). Ngày 20 tháng 11 năm 1964 Thích Trí Quang cùng một số họ Thích khác mở đầu một cuộc tuyệt thực để xách động Phật tử tại Saigòn và quần chúng đến biểu tình tại Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Trong cuộc biểu tình này có khẩu hiệu đòi hỏi " Hãy để cho dân tộc VN tự quyết". Ngày 23 tháng 11 năm 1964 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang đã điều động và chỉ huy một đoàn biểu tình gồm Thanh niên Sinh Viên Phật Tử kéo đến Phòng Thông Tin Mỹ Tại Huế, đốt cháy thư viện Mỹ. Phó lãnh sự Mỹ là ông Anthony Lake đến chửa cháy đã bị ném đá khủng khiếp. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 trong khi các toán quân Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ quân tại Đà Nẵng thì Thích Trí Quang chỉ thị Thích Quảng Liên mở một cuộc thuyết pháp và trong buổi thuyết pháp đó đã kêu gọi là Mỹ không được đổ bộ đến VN và đòi hỏi vấn đề nam VN phải để cho người VN tự quyết. Ngày 9 tháng 4 năm 1965 Hội thảo tại Dinh Gia Long giữa Quốc Trưởng, Thủ Tướng và Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp về cuộc khủng hoảng chính trị do Phật Giáo VNTN dưới sự điều hướng của Thích Trí Quang gây ra. Để ổn định tình hình tại Nam VN do Thích Trí Quang thao tung qua chiếc áo cà sa một chính quyền Quân Sự đã ra đời qua sự thành lập của Hội Đồng Tướng Lãnh và Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu giữ chức Uỹ ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Uỹ Ban Hành Pháp Trung Ương. Ngày 21 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang điều động Thanh niên, sinh viên Phật tử xuống đường, biểu tình liên miên chống " Chính quyền Quân phiệt" Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ và chống Mỹ không cho yễm trợ chính quyền Nam VN ( Tu sao không ở trong chùa mà sao cứ đi gây rối cho chính quyền miền Nam chi vậy hả Thích Trí Quang. Thiệt tình). Ngày 13 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang chỉ thị cho Viện Hoá Đạo họp báo và ra lệnh cho chính quyền Nam VN là các tướng nào có công với cách mạng ( là lật đổ cơ cấu đệ nhất VNCH và giết TT Ngô Đình Diệm như Tướng Dương Văn Minh lúc bấy giờ ở nước ngoài hay ở trong nước như Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Trần văn Đôn, Tướng Mai Hữu Xuân ,Tướng Lê Văn Kim phải được trở lại quân đội để lập chính phủ đoàn kết (Mô phật không biết Thích Trí Quang tu cái kiểu gì đây ?) Ngày 31 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang qua danh hiệu PGVNTN Ấn Quang đã xách động thanh niên sinh viên Phật tử đã tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại trước chợ Bến Thành ngay tại Quãng Trường Quách Thị Trang với những biểu ngữ " Down with U.S. obstruction. We want independence” và hình nộm của hai Tướng Thiệu Kỳ bị treo trước pháp trường cát trước chợ Bến Thành ( Không biết Thích Trí Quang có vừa tụng kinh cầu siêu vừa muốn giết 2 tướng Thiệu Kỳ không nhỉ??) Cũng cùng trong ngày đó, tại Đà Nẵng, tại Huế cũng có biểu tình với những câu khẩu hiệu như trên) Ngày 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng của Thích Trí Quang tổ chức biểu tình đồng loạt và hô to khẩu hiệu "Đuổi Mỹ về nước" (cái này sao giống y chang VC với chiêu bài Chống Mỹ cứu nước phải không qúi vi?) Ngày 4 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang biểu tình đốt cháy Đài Phát Thanh Đà Lạt Ngày 5 tháng 4 năm 1966 tại Huế và tại Đà Nẵng Lực Lượng Tranh Thủ cách mạng của Thích Trí Quang đã võ trang dao gậy để chận đường vào thành phố Đà Nẵng . Bác Sĩ Mẫn đệ tử thứ thiệt của Thích Trí Quang Thị trưởng Đà Nẵng đã đem 400 binh sĩ theo Lực Lượng cách mạng của Thích Trí Quang đóng quân tại chùa Phổ Đà (Lại Phổ Đà tổ chức đại hội tiếm danh) xách động quần chúng dao gậy chống lại chính quyền. Cũng cùng ngày đó tên Bác Sĩ Mẫn đệ tử thứ thiệt của Thích Trí Quang đã bị cách chức và bị bắt. Ngày 8 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ cách Mạng của Thích Trí Quang nhất định đòi hỏi chính quyền của 2 Tướng Thiệu Kỳ phải rút lui. Ngày 9 tháng 4 năm 1966 sau khi Tướng Tôn Thất Đính được cử ra Huế thì ngày 17 tháng 4 Thích Trí Quang bay từ Sài Gòn ra Huế để trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh bằng bạo lực và cũng trong ngày 17 tháng 4 đó Lực Lượng Tranh Thủ Cách Nạng của Thích Trí Quang đã bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chí, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quãng Nam và ông Quận Trưởng Quận Hoà vang cùng một số rất đông được coi là thân chính quyền Quốc Gia. Ngày 16 tháng 5 năm 1966 Tướng Đính đào ngũ vì vắng mặt không có lý do bỏ nhiệm sở do đó chính quyền Trung Ương đã điều động Tướng Huỳnh Văn Cao ra thay thế Tướng Đính. Vừa khi máy bay của trực thăng chở Tướng Cao đáp xuống thì một Thiếu Úy Phật tử tên Nguyễn Đại Thức đã nổ súng bắn máy bay trực thăng. Xạ thủ của trực thăng sợ Thiếu uý đó nổ súng giết Tướng Cao nên đã hạ Thiếu uý đó tại chỗ. Hai ngày sau, Thích Trí Quang ra lệnh cho sinh viên Phật tử khiêng xác của Thiếu Uý Thức đi cùng khắp thành phố Huế với mục đích gây ấn tượng căm thù Mỹ để xách động quần chúng xuống đường cướp chính quyền. Ngày 20 tháng 5 năm 1966 Quân Đội của Chính phủ VNCH không thể để cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích trí Quang ngang nhiên nổ súng bắn giết trong thành phố nhất là bắn hạ một chiếc máy bay quan sát L19 trong khi Lực Lượng Tranh Thủ của Thích Trí Quang khai pháo tấn công chính quyền VNCH tại chùa Vĩnh Hội Đa Nẵng. Trước sự bắn giết dân chúng một cách vô tội vạ của Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang. Quân đội của chính quyền địa phuơng đã trực diện công khai đối đầu với sự bạo động bằng võ trang của LLTTCM của Thích Trí Quang. Thích Trí Quang bèn gọi Tổng Thống Johnson yêu cầu can thiệp. Đòi Mỹ phải bảo vệ Thích Trí Quang nếu không Thích Trí Quang sẽ phá nát phi trường Đà nẵng . Đồng thời Thích Trí Quang đòi hỏi chính quyền phải rút quân ra khỏi Đa Nẳng và bắt buộc Thiệu-Kỳ phải từ chức ngay (Mô Phật tu cái kiểu chi ri không biết?) . Ngày 21 tháng 5 năm 1966 cảnh sát đã tịch thu rất nhiều truyền đơn đòi đưa Thích Trí Quang lên làm Tổng Thống và Ráo sư ý quên Giáo Sư Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng (Mô Phật còn ai thắc mắc về GS Trần Quang Thuận nữa không? và Tại sao Thích Tuệ Sỹ phải nhất quyết đòi đưa GS Trần Quang Thuận thay thế Ông Vo Văn Ái) Ngày 25 tháng 5 năm 1966 Thích Trí Quang lần thứ ba lại kêu gọi Tổng Thống Johnson và Quốc Hội Mỹ ủng hộ Phật Giáo VN Thống Nhất Ấn Quang và đừng có ủng hộ chính phủ Thiệu- Kỳ (Sao lạ vậy. Thích Trí Quang biểu tình liên miên chống Mỹ cứu nước sao lại đi kêu gọi Mỹ giúp đỡ ?? cái này người ta gọi là gì thưa qúi vị? Vừa đánh, vừa đàm phải không?) Tội nghiệp Thích Trí Quang kêu Mỹ 3 lần mà Mỹ chả thèm trả lời trả vốn chi cả. Cũng trong ngày 25 tháng 5 năm 1966 một Đại Đức "tu" ở chùa Bạc Liêu bị Cảnh Sát bắt đã cung khai là Cán bộ của Mặt Trận Giãi Phóng Miền Nam, có nhiệm vụ sửa soạn chiến dịch "Nước Lũ" của VC kéo Phật Tử ùa về Sài Gòn cướp chính quyền. Trong cuộc "đại náo bạo động võ trang" của Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã nhiều lần can gián, nhưng Thích Trí Quang có công tác riêng, do đó sự ôn hoà của Thích Tâm Châu là con đường trở ngại cho Thích Trí Quang. Do đó Thích Trí Quang xài chiêu Tiên hạ thủ vi cường gieo nghi ngờ vào các Thích khác bằng cách cho rằng Đại Đức Thích VC Nhất Trí là do Thích Tâm Châu mật chỉ với cảnh sát để bắt. Từ đó Phật Giáo VN Thống Nhất đã chia hai phe: Việt Nam Quốc Tự do Thượng Toạ Thích Tâm Châu lãnh đạo Và Ấn Quang do Thích Trí Quang cầm đầu. Ngày 3 tháng 6 năm 1966 nhóm Tăng Ni Phật Tử phản đối chính sách ôn hoà của Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang ra thông cáo Thích tâm Châu chỉ là kẽ thừa hành. Sau đó cả Thích Tâm Châu cùng với Thích Hộ Giác từ chức. Ngày 6 tháng 6 năm 1966 Thích Trí Quang vẫn phát động Phong Trào Chống chính phủ QG và kêu gọi Phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường để cản lối đi trong thành phố hầu làm trở ngại lưu thông. Nhận thấy hành động của Thích Trí Quang đã làm cho chính quyền bất ổn, xã hội bất an, đời sống dân chúng càng ngày càng xáo trộn trong khi Cộng sản Bắc Việt đang sửa sọan tấn công. Do đó Thiếu tá An Ninh Quân Đội Chu Văn Sáng đã đề nghị bắt Thích Trí Quang giãi về Sài gòn thì mới ổn định được tình thế. Ngày 21 tháng 6 năm 1966 Thích Trí Quang được đưa về Bịnh Viện của BS Tài trên đường Duy Tân và có Cảnh Sát canh giữ bên ngoài. Kính thưa Qúi Vị.. bài viết đã quá dài và độc giả cũng đã phàn nàn như vậy. Anh Bùi Đạt Chủ Tịch câu Lạc Bộ Lính ở Houston Texas nói mỗi lần đọc bài của chúng tôị mất 15 phút ngồi trên NET. Cho nên yêu cầu viết ngắn lại. Do đó chúng tôi xin dừng lại ngang đây và trong kỳ tới chúng tôi sẽ bàn tiếp kế hoạch thứ hai của CSVN trong việc chiếm GHPGVNTN để Biến Đạo thành Đảng hầu sau này có bị toàn dân VN lật đổ thì bọn CS sẽ cạo đầu bận áo cà sa trốn vào chùa cho qua cơn tai nạn để sau đó ra sao thì qúi vị biết quá rồi. VC mà, như con đĩa hút máu có bao giờ chịu nhả ra. Chúng tôi cũng sẽ bàn tới cái chết của Thích Trí Thủ có nghi vấn do Thích Trí Quang đầu độc cũng như Thích Trí Quang đã ra lệnh bắt cố Hoà Thượng Thích Thiện Minh và đã bị Công An VC đánh cho tan xương, nát thịt, vỡ óc , chết tức tưởi vì không chịu giãi tán GHPGVNTN như Thích Trí Quang chỉ thị. Đồng thời chúng tôi cũng sẽ nói đến nghi vấn về sự liên hệ cha con? chứ không phải Cậu cháu của Thích Trí Quang (tên tục Phạm Văn Quang ở Lệ Thủy, Quãng Bình) và Thích Tuệ Sỹ (Tên tục Phạm Văn Thương quê quán Quãng Bình) đang cầm đầu Thân Hữu Già Lam cùng Lê Mạnh Thát đang viết lại giáo lý nhà Phật (thành giáo lý nhà Hồ) cùng Ráo Sư Trần Quang Thuận Thủ tướng hụt của Thích Trí Quang trong công cuộc cướp chính quyền Nam VN bất thành trong những năm 1963,1964, 1965 và 1966. Đó là những nhân vật đang điều hợp Phật Giáo Về Nguồn và Đại hội Tam Hợp sắp tổ chức nay mai tại Việt Nam . Trên đây chúng tôi xin trả lời một số độc giả là Phật giáo ta không phải lung tung mà là đang ở trong cơn pháp nạn . Pháp nạn hôm nay của GHPGVNTN cũng là Quốc nạn cho dân tộc VN như tác giả Đinh Nguyên đã trình bày trước đây . Tôn Nữ Hoàng Hoa
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 1:56:01 GMT 9
Lữ Ðoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến
Phạm Văn Tiền
Từ một cuộc di tản chiến thuật tháng Ba 1975
Cuộc chiến đấu một mất một còn với chủ thuyết cộng sản toàn cầu đã chấm dứt hơn 34 năm về trước, nhưng niềm đau xót khôn nguôi luôn ám ảnh vào tâm khảm của mỗi chiến sĩ miền Nam Tự Do. Người lính Việt Nam Cộng Hoà bị buộc phải thua đau trong niềm tức tưởi nghẹn ngào. Còn kẻ chiến thắng thì bàng hoàng ngơ ngác, không biết từ đâu mà mình chiến thắng quá nhanh và dễ dàng như vậy.
Niềm oan ức về một sự sụp đổ một thể chế Cộng Hòa suốt hơn 20 năm gầy dựng, ngày nay đã được minh oan bằng những chứng cớ lịch sử. Chính nghĩa của một chế độ đã được phục hồi cùng những chiến sĩ can trường bất khuất trong cuộc chiến đó. Những người lính VNCH đã nằm xuống trên mọi miền đất nước nay đã được vinh danh, cùng những Thương phế binh đã mất một phần thân xác mình cũng đã được phục hồi danh dự, bằng những buổi ca nhạc gây quỹ “Cám ơn Anh” với sự tham dự vài chục ngàn người. Cờ vàng chính nghĩa đã được công nhận trên rất nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, cùng rất nhiều đài tưởng niệm chiến sĩ Việt Mỹ đã được dựng lên, để tôn vinh và mãi mãi ghi nhớ công lao của những anh hùng đã nằm xuống, và máu xương đã đổ ra trong cuộc chiến đấu bảo quốc an dân đó.
Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày mà đơn vị tôi đã phải tan hàng tại cửa biển Thuận An, Huế. Một cuộc bại trận không phải do những người lính chúng tôi không chịu chiến đấu, mà do từ lệnh trên của các cấp thẩm quyền, ngoài khả năng hiểu biết của anh em chúng tôi. Một cuộc lui binh chưa từng được viết ra trong binh pháp, và cũng chưa đơn vị nào đem ra áp dụng bao giờ. Ðó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong Quân sử miền Nam VN.
Bài viết nầy xin dành tặng các chiến hữu TQLC của tôi, những người đã may mắn không hiện diện tại mặt trận phía Bắc Quảng Trị vào những ngày cuối tháng Ba gãy súng. Các anh có lệnh xuôi Nam còn chúng tôi những Kình Ngư, Hắc Long, Mãnh Hổ, Sói Biển, Thần Tiễn còn ở lại. Những diễn biến có thật mà máu và nước mắt tưởng chừng như không đủ để nói lên những oan trái xót xa đã dành sẵn cho thân phận của một người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ðầu tháng 3 năm 1975, cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam.. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân Ðoàn II về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SưÐoàn TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau
Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 Sư Ðoàn Tổng Trừ Bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Ðông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. Sư Ðoàn Nhảy Dù được điều động về mật trận Ðức Dục, Quảng Nam. SÐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Ðông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dải Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Ðộng Ông Ðô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ô…
Liên Đoàn 911 và các đại đội biệt lập ÐPQ Tiểu Khu Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của BTL/SÐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SÐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TÐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đặc biệt Lữ Ðoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973.
Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa sức ngăn chặn mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của cs Bắc Việt.
Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lực lượng TQLC về Nam gồm các LÐ 258, LÐ 369 và LÐ 486 vừa mới được thành lập. LÐ 147 do Ðại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TÐ Pháo binh, 2 Đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm Tango do Ðại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Ðoàn BÐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Ðây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngõ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị.
Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Ðơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sáng ÐÐP/ÐÐ1 Tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù.
Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn TÐTrưởng/TÐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc Không Lực vùng I Chiến Thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngỗn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẫn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, Tiểu đoàn 121/ÐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Ðiền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Măng Cá, Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Ðà Nẵng và hậu trạm cũng được Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh.
Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi VC đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ÐÐ2/TÐ5/TQLC, vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Ðại Úy Trần Văn Loan ÐÐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Ðại Tá Lữ đoàn trưởng ra lệnh là bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất.
Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ÐÐ4 của Ðại Úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngõ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TÐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Vân Trình ra biển Ðông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam.
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LÐ. Ðại Tá Lương, LÐTrưởng cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biển Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch… Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó.
Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” Máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng ngàn chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Ðô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu cs. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nỗi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận!
Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm được đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu Tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn Phó và Ðại Úy Gianh Văn Nhân, Ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều Đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiễn TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông.
Ðại đội 1 của Ðại Úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến Cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế Quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Ðã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M-48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chỉa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Ðến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Ðông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trễ nãi sau cùng. Ðiều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người Trung đội Trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ ngày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi.
Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa cộng sản bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc đường.
Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngõ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóe lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Ðông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này.
Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp, con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng luẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Ðạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Ðường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.
Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Ðại Bàng Long Mỹ (Ðại Tá Lử Ðoàn Trưởng), ông giao cho một xấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi:
– Nhậu đi Ðại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
– Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt!
Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
– Coi chừng Việt cộng đó Ðại Bàng.
Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàn cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy!
Qua khỏi cầu Ðập Ðá một quãng nữa, bắt đầu rẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đắm trong màn đêm u tịch, đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vườn trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Ðến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
– Phá hủy xe đi ông thầy.
– Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.
Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:
– Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn… hì… hì…
Ðến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mênh mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa đủ để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo sấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay.
Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bãi bốc để lên tàu. Ðó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Ðoàn tập họp trên bãi cát trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Ðâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trộn trong đòan quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TưLPhó/QÐ1), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn độn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ.
Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh giành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của chiếc lò xo, tất cả ùa nhau tràn ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè lên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lịm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Ðịch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Ðịch đã bắt sống một số lính phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.
Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Ðể được an toàn hơn, Lữ Ðoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dễ nhận ra nhất là Ðại Úy Ân, ÐÐT/ÐPQ Tiểu khu Quảng Trị.
Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Ðông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên Lữ Đoàn có hơn 3,000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ lưng chịu trận.
Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi? Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Ðơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buông xuống. Lữ Ðoàn quyết định rải quân phòng thủ. TÐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TÐ3 phía Nam, TÐ5 chúng tôi phía Bắc. Ðại Úy Tô Thanh Chiêu, ÐÐT/ÐÐ2 và Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TÐPhó/TÐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Ðiều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa, định mệnh!
Tin từ BCH/LÐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LÐ, TÐ2PB, TÐ4, TÐ3, TÐ5, TÐ7… Ðúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càng sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LÐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Ðiều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.
Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên cao, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.
Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Ðông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Ðã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/Lử Ðoàn và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Ðịch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Ðây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính cộng sản Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt.
Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài… Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến.
Ðể bớt căng thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vòng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “bên em vẫn đang có ta đây!” Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Ðằng Phương, TÐT/TÐ2/PB/TQLC, Ðại Úy Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.
– 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.
– Vâng! Nhận rõ.
416!207 là biệt hiệu của Thiếu Tá Phạm Cang TÐT/TÐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung Tá Nguyễn Ðằng Tống LÐP/LÐ147.
Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Ðạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tầng số BTL/SÐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Ðà Nẵng. Người tiếp tôi là Ðại Úy Ðan, Tùy viên Tư Lệnh:
– Ðại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SÐ/TQLC).
– Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
– Nhờ Ðại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
– Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!
Mặt mày tối tăm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát… self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai nấy lo, có thể là tan hàng!
Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papa Zulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chúng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TÐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu Tá Ðinh Long Thành, tân TÐTrưởng của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “Uy tín cấp chỉ huy”.
– Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.
Nam do dự mếu máo:
– Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
– Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.
Ðầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Ðại Úy Ðan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghe thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Ðiều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ÐÐT lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TÐT/TÐ7 cùng Thiếu Tá Sử TÐT/TÐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.
Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít lối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo….” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng theo kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Ðứa con đầu của TÐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đùn tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ ghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là tên Việt cộng nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu dọa nạt là thượng sách nhất.
Ðây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ ghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên vc chín rõ mười mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhiều người dọa đánh hắn tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!
Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, Hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn.
Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?.
Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam Tự Do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi…
Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
Nguồn Cánh Thép
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 14:57:43 GMT 9
Những cánh dù không về điểm hẹnNgười đi Tây tiến mùa Thu ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.*** Kính tặng các anh chiến sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù, để hoài niệm đến những cánh Dù không về đến điểm hẹn. Anh bảo tôi viết lại những kỷ niệm về Tiểu Đoàn 7, về Dương Thuyết Phong, về “Cuối cùng cho một tình yêu“.. Anh Phi thân mến, những năm tháng bình yên nơi xứ người đâu phải ngắn ngủi, đã gần ba mươi năm rồi phải không Anh , chiến tranh đã chấm dứt từ lâu, nhưng mặt trận miền Tây nơi tôi vẫn không… yên tĩnh nổi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ.. Lòng tôi thương nhớ quặn đau khi nghĩ linh hồn Phong còn vất vưởng nơi chiến trường Campuchea xa lạ ấy, người ta nói rằng người chết ở đâu, linh hồn sẽ lẩn quẩn ở mãi nơi đó, như luyến tiếc, như cầu mong cái hình hài ấy thức dậy chuyên chở cho minh về lại kiếp người, để gặp mặt vợ con, thân nhân, bạn bè. Chiến tranh đi nhanh và khốc liệt quá, nhiều khi mình không kịp nhận thức được cả tuổi xuân của tụi mình. Tôi nhìn ảnh Tuấn Phi ngày đó trẻ quá, anh Phong chết khi tuổi đời chắc cũng độ. bằng anh dạo ấy, cũng cấp bậc Thiếu úy, Phong học Trung học Võ Trường Toản SG, trường sát ngay bên cạnh Trưng Vương. Rồi học năm thứ nhất ban Khoa học, thi rớt, động viên vào Thủ Đức năm 1968. Về binh chủng Nhẩy Dù, đi hành quân liên miên, thường vắng nhà đến nỗi, sau khi anh ấy chết, gia đình anh em xót thương nhưng không cảm thấy trống vắng, đó là sự thiệt thòi của những người lính ngoài mặt trận, họ vắng mặt nơi mái ấm gia đình quá nhiều nên người thân cũng quen dần đi. Đâu đó trong tâm tưởng vẫn còn lẫn lộn tưởng chừng như các anh đang đi hành quân chưa về.!!! Anh Phi ơi, Phong chết tôi không được thấy mặt, nên tôi sống trong hoài nghi đau khổ chập chờn, tôi hy vọng một tố i nào đó có tiếng chuong reo cửa của Anh về, tôi hy vong Anh lạc trong rừng như chuyện kể của những người lính tìm đường về đơn vị sau chiến trận Hạ Lào, sau khi đơn vị đã báo tin chết không tìm thấy xác. Tôi hy vọng ác đức và ích kỷ là xác ấy không phải là Anh Phong mà là của một người nào đó. Tôi chờ đơi mãi, ngày tháng nguội dần, chợt bùng lên như ngún lửa mong manh sau hiệp định ngưng bắn 73, trao trả tù binh đôi bên, tôi mua báo đọc hàng ngày với một hy vọng nhiệm mầu có tên Dương Thuyết Phong trong danh sách trao trả tù binh, ngày qua ngày, tháng qua tháng tiếp nối, và bảng danh sách cứ ngắn dần rồi chấm dứt trong vô vọng. Nỗi trông đợi không tưởng ấy như tôi tự đánh lừa chính tôi. Phong ơi, dù bạn bè và gia đình Phong xác nhận đúng là Anh đã chết, nhưng em vẫn chờ đợi, mỗi một mùi hương, một bài hát là một kỷ niệm nhớ thương. Anh hiền lắm, tụi mình chẳng mấy khi giận nhau, có đôi khi cãi nhau vu vơ, rồi em lại nghĩ … ngày phép chẳng có là bao, giận hờn làm chi, giận nhau rồi kẻ ở nhà cũng hối hận, người ra đi cũng chùn bước hoang mang, Hùng Phi cứ nói giỡn với em, “.. Anh trở về viên đạn đồng đen, Em sang sông cho làm kỷ niệm..”., em có làm gì cho nó giận không, mà Anh cứ thấy nó hát hoài câu ấy nghe rét quá..” Bạn bè trong Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, cấp Th/úy, Tr/úy đều biết chuyện. Có lần, gần ngày thi Tú Tài 2, em cúp cua nhiều quá, nên bài vở ứ đọng, dịp đó Tiểu Đoàn về Sài Gòn đóng quân ở Tao Đàn, em phải nhờ Anh giúp. Chiều hôm sau, em đến tìm Phong, chú lính cười cười, ”Thiếu úy mới chép bài cho cô xong rồi, chắc ổng đi uống cafe’ bên quán, cô ngồi đợi một chút.” Sau khi anh chết, mỗi lần nhìn lại những trang vở với bút tích của Anh, em không thể nào cầm được nước mắt, nước mắt nhạt nhòa rơi xuống trang giấy, trong bóng đêm em ngậm ngùi mong hư ảnh Anh về, chiếc áo anh mặc cuối cùng em còn giữ, mùi hương vẫn còn đây, nhưng hình hài đã vùi lấp nơi miền gió cát thê lương. Em không hiểu là Anh có biết mình bị thương, hay cái chết đế’n quá bén ngọt đến nỗi Anh chưa kịp nhận thức ra , thì đã vội từ giã cõi đời. Em mong một lần nào cho em được gặp Anh để hỏi: Anh chết thật rồi sao ? Em không tin là Anh đã xa em …. thật xa như vậy.!!! Em đi học, những giờ học trở thành buồn tênh vô nghĩa, em không còn nỗi náo nức nhìn đồng hồ mong cho sớm hết giờ, em tủi thân khi trên đường nhìn thấy áo hoa nón đỏ đâu đó ở phố phường,… Em có gặp Chuẩn Úy Đàm đứng bâng khuâng nơi đường phố Lê Lợi, một cánh tay băng vải trắng quàng vai, khuôn mặt ngỡ ngàng của người lính trẻ về thành phố sau cuộc thử lửa Mùa Hè 1972 quá kinh hoàng … Sàigòn sống vội sống cuồng , nhức nhối với tin chiến trận hàng ngày đưa về hậu phương…” Hỡi người chiến sĩ đã để lại chiếc nón sắt bên bờ lau sậy này ” …Không,!!! Anh Phong là người tình bằng xương bằng thịt của em, không phải là ảo ảnh của một người tình không chân dung !!!!, Em không nghĩ là em đã mất Anh trên cõi đờì này. Em trông đợi Anh về hằng đêm, em nghe đâu đây tiếng đàn của Anh nơi chỗ đóng quân vườn Tao Đàn, em nghe mơ hồ bên tai lời Anh hát .”.Người ơi, chiều nào có thu về cho tôi nhặt lá thu rơi. Tình có ghi lên đôi môi , Sầu có phai nhòa cuộc đời…” Và em vĩnh viễn thương tiếc .. Những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ. Dù đã quên lời hẹn hò. ….. Thời hoàng kim xa qúa chìm trong phôi pha. Chờ đến bao giờ tái sinh cho Người…” Vâng, em chờ, chờ đến bao giờ tái sinh lại cho em một tuổi thanh xuân không ngớt lệ. trần. vì cuộc chia tay nghiệt ngã của hai đứa mình. Anh Tuấn Phi thân mến, những kỷ niệm bao năm ấp ủ, sầu không nguôi, tình không quên, tóc xanh đã phai mầu với thời gian, nước mắt vẫn không ngừng rơi khi nhắc đến chuyện của đồng đội Anh, một người trai đã làm tròn bổn phận với núi sông, nhưng lại lỗi hẹn với người tình. Tôi đã đi hết hai phần ba của đoạn đường trần, tôi vẫn còn hoài nghi thắc mắc, có phải chết là hết không ? Sao Anh Phong không một lần hiện về trong mơ với hình hài tan vỡ vì mảnh đạn hận thù, để chứng minh với tôi thật sự là Anh đã chết, để tôi yên tâm sống cho hết những ngày cuối đời khôngg day dứt, và chờ gặp lại nhau, nối lại dòng đời của tuổi hai mươi. Em tiếp tục đi học trường tư, làm thư ký cho Ngân Hàng Đông Phương và thi đậu Tú Tài 2. Và em lấy chồng không cưới hỏi với một chàng Thiếu Úy Nhẩy Dù, sống hùng, sống mạnh …mà không có sống lâu! Chàng tên là Dương Thuyết Phong, gia đình là dân Công Giáo, đạo gốc, gia đình có người làm linh mục, nên họ quan niệm rất cổ nệ và gia giáo. Ra trường Thủ Đức, Anh Phong chọn ngay binh chủng Nhẩy Dù rồi Tiểu Đoàn 7, để xa nhà và được sống theo ý mình. Tụi em vừa gặp lại nhau (vì Phong là bạn của anh ruột em, cùng ở xóm cũ) rồi lấy nhau chỉ có 11 tháng, Và Phong tử trận ngày 29 tháng 11năm 1971 tại chiến trường Campuchia khi tuổi đời vừa được 24, trong khi em một người – nửa đàn bà nửa nữ sinh – mới vừa 19. Em không được đến nhà nhìn mặt Phong lần cuối, Em nhờ Mỹ và Tuệ Tâm, là hai chứng nhân của cuộc đời em, mang hộ em vòng hoa đế’n viếng tang chỉ vỏn vẹn hai chữ Thương Tiếc trên băng vải tím buồn. Em nhớ lá thư cuối cùng Phong viết về cho em, thầy bói nói là Anh không có số xuất ngoại. Vậy là sai rồi! Anh vẫn xuất ngoại; không những vậy mà còn mang theo cả em, đó là tấm ảnh của em lúc nào anh cũng để nơi túi áo ngực ….. Đâu thể ngờ rằng Anh đã đi vĩnh viễn không về nữa. Kỷ vật cho em là một tấm thẻ bài và hai tấm ảnh của em, loang thẫm máu của Anh vào mặt sau tấm ảnh, mặc dù bạn của anh là Trung Úy Võ Hùng Phi đã cố gắng phơi khô nhưng vẫn không hết mùi tanh của máu. Và ngày đưa anh Phong đi về lòng đất, em đi lặng lẽ như bao người khách khác, bạn bè Anh, những người lính mà em cùng sống trong trại gia binh nơi Tam Hiệp, họ không có mặt ở đó, vì họ còn đang miệt mài hành quân nơi sình lầy đất ruộng của xứ Campuchea xa lạ. , chỉ có hai người bạn thuở còn đi học của Phong là biết chuyện của em và Phong. Đám tang xong, mọi người đi về hết. Em một mình đứng lại ngẩn ngơ với cây thánh giá gỗ chơ vơ: Như vậy là Anh chết thết thật rồi sao Phong? Tại sao anh chết? Em và anh, chẳng ai dám nghĩ có ngày hai đứa mình phải xa nhau oan nghiệt như thế này, vậy mà hôm nay anh lại là kẻ đào nhiệm vĩnh viễn., khi cuộc hành trình của em và Anh mới chỉ ở bước khởi đầu? Tại sao mảnh áo đài trang của người nữ sinh bỗng chốc lại trở thành mầu áo tang bay phất phới nơi đồi trọc với hàng hàng lớp lớp tuổi trẻ trong khoảng khắc bỗng ngưng đờì? Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ phủ quan tài Anh giờ che nắng cho khối đất vô tri ấp ủ hình hài của chàng trai hiền lành không ngoan đạo. Anh nằm đó, bên cạnh người lính truyền tin của anh cùng chết với anh bởi quả đạn pháo kích, anh nằm xuống nước ruộng bùn của xứ Campuchea phủ ngập người anh, Trung Úy Phi chạy đến xốc Anh lên..: miệng nó còn cười như đang nói chuyện với ai.. Tối hôm qua nơi chỗ dừng quân, nằm toòng teng trên võng, tôi còn hỏi nó “Mày có thấy lạnh cẳng không Phong? “ Bàn tay vỗ lên ngực áo, nó trả lời “Tao có bé Hằng đây, đâu có thấy lạnh lẽo gì…” Anh chết như đi vào giấc ngủ của trẻ nằm nôi. Anh giờ đã yên phận Anh, còn em thì sao ? người ở lại biết làm gì cho qua những buổi sáng chờ thư từ mặt trận …..11 tháng làm người yêu lính em chẳng có được mấy ngày vui., dăm bẩy buổi cine’ chạy trốn giả tạo vào Đất trời Phương Tây bình yên và tự do trong phim xứ người, một vài lần đi nghe nhạc Trả lại em yêu con đường học trò …với nhiều luyến tiếc, những quán cà phê thịnh hành với lờì nhạc Anh trở về dang dở đời em, Ta nhìn nhau ánh mắt không quen… Không! Ta đã không còn `được nhìn nhau nũa! Số phận đã chia em và Anh .mỗi người một nơi, người đi về với lòng đất vô thức, kẻ ở lại với quay quắt nhớ thương từng kỷ niệm của tháng ngày đã qua. Em không còn nước mắt để khóc cho anh, em không còn nước mắt để khóc cho em, một người con gái nhẹ dạ của thời chiến tranh: Túy ngoạ sa trường quân mạc vấn, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi … Xưa nay chiến trận có mấy ai về Phong ơi.!! Đứng bên cạnh mộ Anh, em không được vật vã khóc như những người vợ tử sĩ khác, em không được khóc ngã qụy với thân nhân dìu đỡ hai bên. Em một mình can đảm khóc ngậm ngùi cho sự chia tay qúa ngắn ngủi của tụi mình, em ngước mặt nhìn trời dấu lệ với mọi người, em oán ai bây giờ !!!, Trời cao rất cao, trời xanh rất xanh, nơi khoảng trời trong xanh ấy có thấy chăng một cánh dù bay mãi không về điểm hẹn Delta , bỏ lại nơi đây cuộc tình dang dở của mình em, những tưởng được làm lại cuộc đời , chỉ xin một cuộc đời tầm thường của người vợ lính như bao người khác mà trời chẳng chịu thuận cho. Liên tiếp 3 năm, để làm tròn một lời hứa, thứ bảy hàng tuần, em một mình đem hoa lên Nghĩa Trang Quân Đội, em thắp một tuần hương, em nhổ cỏ dại quanh mồ. Đôi khi em chập chùng với ý nghĩ mình đến đây để làm gì, em tiếc thương anh, điều ấy không hề phủ nhận, hay em tội nghiệp em còn lại bơ vơ những ngày tháng chẳng biết làm gì, hay là em “kên” đời thách thức với gia đình anh đã không chấp nhận em, nên giờ em làm cho nư giận để chứng minh tình yêu của em Có khi em lên thăm mộ, gặp lúc gia đình Phong cũng lên thăm, em phải tránh mặt ngồi xa xa ngồi nhờ nơi ngôi mộ khác, người sống còn có thể đứng trú mưa nhờ nhà người lạ., đến thăm kẻ chết rồi có còn gì đâu, nhưng em vẫn phải tìm chỗ tránh mặt nơi ngôi mộ một người không quen… Những ngôi mộ mới vẫn tiếp nối nhau không phân biệt quan hay lính, những lá cờ Vị Quốc Vong Thân rồi cũng dãi dầu với nắng mưa ngày tháng, và em. .… vẫn một mình lầm lũi đi cho hết đoạn đường trần. (Sài Gòn trong tôi - Nguyệt Hằng)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 16:39:55 GMT 9
Tưởng Niệm 30 Tháng 4-1975: Ngày Tổng Thống Trần Văn Hương Từ ChứcPosted on April 25, 2020 Vương Hồng Anh dongsongcu.wordpress.com/2020/04/25/tuong-niem-30-thang-4-1975-ngay-tong-thong-tran-van-huong-tu-chuc/Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “30 tháng 4-1975”, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tổng hợp lược trình một số sự kiện về tình hình chiến sự quanh vòng đai Sài Gòn và thực trạng chính trị Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối của cuộc chiến. Bài tổng hợp được biên soạn dựa theo các tài liệu: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, một số bài viết phổ biến trên các đặc san của các hội cựu chiến binh QL.VNCH, tài liệu riêng của Việt Báo. *Tình hình chiến sự trong ngày 28-4-1975, ngày Tổng Thống Trần Văn Hương từ chứcTại Bình Dương, sau khi đã đưa một sư đoàn vào khu Đông Nam và tấn công vào các khu vực Phú Giáo, Tân Uyên, Cổ Mi, Cộng quân đã điều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 do Nguyễn Hóa, thiếu tướng Cộng quân chỉ huy tiến sát đến các tuyến phòng tuyến do các trung đoàn 7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ binh. Trong các trận đánh tại Bình Dương vào 10 ngày cuối của tháng 4/1975, nổi bật nhất là trận Bến Sắn giữa Sư đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn chủ lực Quân đoàn 1 của Cộng quân. Cộng quân muốn chiếm Bến Sắn để từ đó chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa nhưng đã bị sự kháng cự mãnh liệt của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân bị tổn thất nặng. Chien si QLVNCH vung tay sung bao ve thu do Saigon sang ngay 30 thang 4 nam 1975 Vừa chận đứng được đợt tấn công tại khu đông tỉnh Bình Dương thì Sư đoàn 5 Bộ binh lại phải đối đầu với 1 sư đoàn Cộng quân từ hướng Chơn Thành-An Lộc. Phòng tuyến Chơn Thành-An Lộc đã bị bỏ trống trước khi Xuân Lộc thất thủ. Trước tháng 4/1975, phòng tuyến chính ở An Lộc và Chơn Thành do 2 liên đoàn Biệt động quân, 2 tiểu đoàn Địa phương quân án ngữ, tổng chỉ huy lực lượng này là Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 3. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, trước áp lực của Cộng quân, lực lượng Biệt động quân đã rút từ An Lộc về hợp cùng các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân của Chơn Thành lập phòng tuyến mới tại nam Chơn Thành và đã chống trả quyết liệt các đợt tấn công của địch quân muốn chọc thủng phòng tuyến này. Cộng quân đã áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng những tràng pháo kích bắn tới tấp rồi sau đó là các đợt xung phong bằng bộ binh và thiết giáp. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công vào một trung đoàn của Sư đoàn 5 Bộ binh đang từ Bầu Bàng cố tiến về Chơn Thành theo hướng quốc lộ 13 để tăng viện cho quân trú phòng. Tại mặt trận Chơn Thành, nhờ có sự yểm trợ của Không quân rất chính xác và liên tục, lực lượng Biệt động quân tại Chơn Thành đã gây cho Cộng quân nhiều thiệt hại đáng kể: hơn 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa, 14 xe tăng bị bắn cháy trong hai ngày liên tục. Tuy nhiên Cộng quân không chịu dừng lại và tung thêm nhiều đợt tấn công biển người vào khu đông nam Chơn Thành cốt sao đẩy cho bằng được lực lượng Biệt động quân tại đây ra khỏi chiến hào, đồng thời Cộng quân còn tung quân chận đường rút về Lai khê. Cuối cùng để bảo toàn lực lượng, các lực lượng phòng thủ tại Chơn Thành đã bỏ phòng tuyến Chơn Thành và rút về Lai Khê mà không bị tổn thất nặng. * Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh:Trong khi Cộng quân áp lực nặng quanh vòng đai Thủ đô Sài Gòn, thì một sự kiện trọng đại đã xảy ra trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này, Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương đã công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng của Tướng Viên). Sau nghi lễ nhậm chức, ông Dương Văn Minh đã giới thiệu ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng. Theo hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, trong buổi lễ bàn giao, ông Dương Văn Minh đọc bản tuyên bố đường lối của mình là “sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách thương thuyết”. Để giúp bạn đọc một số thông tin đặc biệt về sự kiện lịch sử này, chúng tôi xin lược ghi các diễn biến chính trường trong những ngày cuối cùng của tháng 4/1975: Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Tòa Đại sứ Pháp đã nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp Cựu Tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng của nội các Nguyễn Bá Cẩn. Nhà ngoại giao này đã cho Phó Thủ tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh thêm: “Nếu có thương thuyết thì Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Minh cần sự hợp của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn. Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã gặp ông Minh và sau đó gặp đại sứ Martin để nhờ vị Đại sứ này thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh. Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Tướng Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, ông Minh đã đến gặp Tổng thống Trần Văn Hương tại tư dinh Đại tướng Khiêm trong bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Trần Thiện Khiêm để tìm hiểu tình hình, ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên-cựu Phó thủ tướng và ông Nguyễn Văn Hảo, phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của Nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lý thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật nói trên đã cho biết là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đã thất bại vì ông Minh từ chối ghế “Thủ tướng toàn quyền”. Ông Minh muốn Tổng thống Trần Văn Hương giao ghế Tổng thống để có thể toàn quyền nói chuyện với Cộng sản Hà Nội. Trước tình hình như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị Tướng Đôn nên nhận chức vụ Thủ tướng để thương thuyết. Cựu tướng Đôn đã kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand- cố vấn chính trị của Sứ quán Pháp là Pháp đã liên lạc với Cộng sản Hà Nội và phía Cộng sản chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó Tướng Đôn đến thẳng tòa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp của sứ quán này lặp lại ý kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27 tháng 4/1975, nếu không có tiến triển gì thì họ sẽ pháo kích vào Sài Gòn. Theo lời kể của Tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa bãi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để tìm một giải pháp tạm thời. Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho Tướng Đôn biết là Tổng thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm thủ tướng. Theo Tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể hòa giải được. Cựu Tướng Đôn điện thoại báo cho ông Dương Văn Minh, ông Minh mời Tướng Đôn lại nhà để bàn tính tìm một giải pháp. Trong cuộc gặp riêng này, Ông Minh nói với Tướng Đôn là ông muốn được ông Trần Văn Hương trao chức vụ lại để thương thuyết gấp. Khi đó Tướng Đôn nghĩ rằng nên có áp lực của quân đội để Tổng thống Hương có thể nhượng bộ. Tướng Đôn đã điện thoại mời Đại tướng Khiêm và Đại tướng Viên đến nhà ông Minh, nhưng khi đó hai vị này đã đến Dinh Độc Lập. Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, Tướng Đôn vào Dinh Độc Lập thì gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong,Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn phòng Tổng thống Trần Văn Hương đi ra. Ttướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng Đại sứ Mỹ đã trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho Tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm Thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào trình bày cho Tổng thống Hương tình hình quân sự: Cộng quân đang tiến sát vòng đai Sài Gòn, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe xong phần trình bày, Tổng thống Hương nhìn Đại tướng Viên và nói: Ông sẽ Tổng tư lệnh Quân đội. Tổng thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia sẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ. Trước khi rời Dinh Độc Lập, Tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ nghiên cứu lại, vì bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm đó, Tướng Đôn trở lại nhà ông Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Tướng Đôn giải thích với ông Minh: Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn Hiến pháp, còn Quốc hội. Ý kiến của Tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ý, còn ông Minh và ông Mẫu thì cho rằng ông Hương trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận. 8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng thống Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ý muốn gặp ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, TT Thiệu vẫn còn ở trong dinh Độc Lập). Khi gặp Tướng Đôn, cựu Tổng thống Thiệu nhờ ông Đôn lấy cho bạn của ông ấy một giấy chiếu khán đi ngoại quốc và sau đó hai người bàn về tình hình. Cựu Tổng thống Thiệu cho biết là ông đã hiểu rỏ diễn biến. Câu chuyện nửa chừng thì cựu Tổng thống Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và nói: “Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm thủ tướng toàn quyền thì cụ tìm một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Đôn”. Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với Tướng Đôn: “Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đã biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đã mời ông làm thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay thì tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc”. Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu Tổng thống Thiệu: Ông có nghĩ là bây giờ đã trễ không” Cựu Tổng thống Thiệu im lặng không trả lời. Trước khi từ giã, cựu Trung tướng Đôn nhìn thẳng cựu Tổng thống Thiệu, một thuộc cấp của ông ngày trước, một đại tá đã được Trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, gắn cấp bậc thiếu tướng tại Dinh Gia Long trong cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, rồi nói:-Còn phần ông, chừng nào ông đi” Tôi biết Mỹ không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu tôi làm thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đòi bắt ông và tôi làm theo. Từ giã cựu Tổng thống Thiệu, Tướng Đôn ghé nhiều nơi để trao đổi ý kiến với một số yếu nhân và sau đó trở về nhà. Đến nhà, Tướng Đôn được biết TT Thiệu điện thoại cho ông mấy lần và có để số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại thì cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giã với cựu tướng Đôn: Chúc anh thành công và cám ơn anh. Tướng Đôn nhắc lại những gì đã nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói:Ông đừng quên những gì tôi đã nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi. Sau đó, Tướng Đôn được báo là người Mỹ đã giúp cựu Tổng thống Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đình hai vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến Đài Bắc, thủ đô của Đài Loan. (V) Nguồn: vietbao.com/a86713/tuong-niem-30-thang-4-1975-ngay-tt-tran-van-huong-tu-chuc
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 16:48:18 GMT 9
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 – Chuyến Ra Khơi Bi HùngPosted on April 25, 2020 Điệp Mỹ Linh bienxua.files.wordpress.com/2020/04/sach-hai-quan-vnch-ra-khoi-1975-diep-my-linh.jpg?w=396&h=594&zoom=2Vào giữa tháng 4, ông Erich Von Marbod, phụ tá Bộ-Trưởng Quốc-Phòng (Assistant Secretary of Defense) Hoa-Kỳ cùng phụ tá của Ông là ông Richard Lee Armitage, đến Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân bàn về vấn đề di tản Hải-Quân Việt-Nam. Ông Marbod và ông Armitage yêu cầu Hải-Quân soạn thảo một lệnh hành quân di tản, nhằm mục đích di tản tối đa Lực-Lượng Hải-Quân, gồm tất cả chiến hạm, chiến đỉnh, binh sĩ và gia đình. Hải-Quân được yêu cầu đặt mìn phá những ụ nổi và cơ sở truyền tin của Hải-Quân. Hải-Quân từ chối, vì: Nếu phải di tản, Hải-Quân sẽ ra đi sau cùng; vì vậy, cơ sở truyền tin rất cần thiết cho Hải-Quân. Phá các ụ nổi sẽ gây nhiều tiếng nổ lớn và nhiều đám cháy, khiến đồng bào càng kinh hoàng thêm, tình trạng càng rối ren thêm. Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, yêu cầu Hoa-Kỳ giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng để binh sĩ, gia đình và chiến cụ Hải-Quân không lọt vào tay Cộng-Sản. Ông Marbod và ông Armitage hứa sẽ lo tất cả nếu lực lượng Hải-Quân ra khỏi bờ 12 hải lý. Điểm tập trung là Côn-Sơn. Một vấn đề đáng lưu ý là, cho đến giờ phút đó, Hải-Quân Việt-Nam, ông Marbod cũng như ông Armitage vẫn chưa nghĩ đến, hoặc đề cập đến, một giải pháp nào cho Hải-Quân sau khi Hải-Quân rời hải phận Việt-Nam. Trong thời gian hai vị dân chính cao cấp của Hoa-Kỳ đang bàn tính kế hoạch di chuyển số lượng khổng lồ quân dụng ra khỏi Nam Việt-Nam thì, tại Xuân-Lộc, nhiều đại đơn vị Bắc quân do tướng Việt-Cộng Văn-Tiến-Dũng điều động từ Phan-Rang vào, gặp ngay sự chống cự mãnh liệt của Sư-Đoàn 18 Bộ-Binh V.N.C.H., dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê-Minh-Đảo. Thấy khó phá vỡ phòng tuyến Xuân-Lộc, Tướng Văn Tiến Dũng liên lạc trung ương Đảng, xin triển hạn ngày kéo quân vào Thủ-Đô Nam Việt-Nam. Nhưng Bộ-Chính-Trị đảng Cộng-Sản lập lại quyết định: Phải tiến chiếm Saigon trước tháng 5 để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, 19 tháng 5! Ngày 17 tháng 4, trong buổi họp sĩ quan các cấp tại câu-lạc-bộ-nổi, Khối Hành-Quân nhấn mạnh rằng kế hoạch di tản được thi hành tốt đẹp. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại nhiệm sở cho đến phút chót; nếu phải ra đi thì cùng đi. Ngày 21 tháng 4, tuyến Xuân-Lộc vỡ! Thủ đô Saigon rúng động! Tiếp theo là sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Những biến chuyển đó khiến Hải-Quân phải có những quyết định cấp kỳ. Ngày 25 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn cùng đi với một sĩ quan thân tín, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, đến cơ quan MAV (Navy Section) – trong khi Mỹ đang thiêu hủy tài liệu – để nhận mật mã liên lạc với Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ. Thời gian này, vài Hạm-Trưởng đưa gia đình lên chiến hạm khi chưa có lệnh khiến thủy thủ đoàn bất mãn. Bộ-Tư-Lệnh cho điều tra. Kết quả, hai Hạm-Trưởng bị cách chức. Một trong hai vị đó là Hạm-Trưởng HQ 800. Cùng ngày, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh tiếp nhận các kho xăng tại Nhà-Bè; vì tất cả giám đốc đã bỏ đi. Lúc này, Liên-Đoàn 33 tại Nhà-Bè, do Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh chỉ huy, gồm các đơn vị: Giang-Đoàn 28 Xung-Phong Giang-Đoàn 30 Xung-Phong Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi Nhiệm vụ và vùng hoạt động của Liên-Đoàn 33 là tuần tiễu, giữ an ninh các thủy lộ quan trọng như sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp và quanh Saigon. Ở phần vụ này, suốt thời gian di tản, những đơn vị kể trên đã tịch thu vũ khí và rượu mạnh trên các thương thuyền từ miền Trung vào. Ngày 26 tháng 4, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 800. Lúc này Hạm-Phó HQ 800 cũng vắng mặt bất hợp pháp. Trung-Tá Võ chỉ định một Đại-Úy tạm thời thay thế Hạm-Phó. HQ 800 là loại LST lớn hơn và mới hơn các loại LST 500. HQ 800 được trang bị ba giàn “bô-pho” 40 ly đôi bắn tự động và nhiều súng phòng không, chưa kể một số 20 ly. HQ 800 dự trữ 200 ngàn lít xăng máy bay (JP4) và có chỗ đáp an toàn cho hai trực thăng. Với dự định sẽ đưa bộ chỉ huy xuống HQ 800 để chỉ huy và điều động phản công lại Việt-Cộng, nếu trường hợp Saigon bị tấn công, Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh bổ sung nhân viên và trang bị HQ 800 một trăm phần trăm. HQ 800 neo tại Nhà-Bè và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân và Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chứ không trực thuộc Hạm-Đội. Lúc này HQ 403 – sau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu – được lệnh trở về Saigon. Thời điểm này mặt trận Tây-Ninh, Long-An và liên tỉnh lộ 15 bùng nổ dữ dội. Sáng 27 tháng 4, trong khi Việt-Cộng tấn công cầu Tân-Cảng, đốt kho hàng PX của Mỹ và đặt súng máy bắn bừa vào dòng người tỵ nạn đang kéo về Saigon thì, tại phi trường Biên-Hòa, ông Richard Armitage đang vận dụng tất cả mọi phương tiện để di chuyển chiến cụ và nhân viên Việt-Nam ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng. Trưa cùng ngày, ông Armitage từ Biên-Hòa về Saigon bằng trực thăng. Sau đó ông Armitage cùng ông Erich Von Marbod đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Hai Ông hối thúc Hải-Quân ra đi. Ông Armitage còn lo ngại rằng có thể chính phủ Dương Văn Minh sẽ giữ những sĩ quan cao cấp Hải-Quân để buộc Hải-Quân phải ở lại. Chiều 27 tháng 4, tại tư dinh của Đại Tướng Minh, số 3 Trần-Quý-Cáp Saigon, trong phiên hội của Nội Các đang được thành lập, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân, tiếp xúc riêng với Tướng Minh để bàn luận về tình hình quân sự. Tướng Minh cho Phó-Đô-Đốc Cang biết tình hình vẫn chưa biến chuyển gì cả, vì “bên kia” chưa chấp nhận tiếp xúc với V.N.C.H. Phó-Đô-Đốc Cang đề nghị Tướng Minh nên chuyển Nội Các về Cần-Thơ, bỏ ngõ Saigon và ra lệnh tất cả đại đơn vị rút về Vùng IV Chiến-Thuật; vì hiện tại Tướng Minh không có tư thế nào để thương thuyết. Lực-Lượng Hải-Quân còn nguyên vẹn, Phó-Đô-Đốc Cang sẽ tận dụng tất cả Lực-Lượng Hải-Quân để chận sông Tiền-Giang và Hậu-Giang. Tướng Minh im lặng, không có một quyết định nào cả. Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng cùng ông Richard Armitage bay thám sát tình hình phía Bắc Saigon. Tình hình lúc này bi đát vô cùng, vì nhiều đơn vị đã rã ngũ, theo đoàn dân di tản, tràn về Saigon bằng đường bộ. Đến cầu Bình-Lợi, thấy một Giang-Đoàn vẫn còn tuần tiễu trong vùng trách nhiệm, Phó-Đề-Đốc Hùng ra lệnh cho Giang-Đoàn đó rút về hậu cứ. Căn-Cứ Hải-Quân Long-Bình đang chuẩn bị “đón nhận” một cuộc tấn công quy mô của Bắc Quân. Dấu tích cuộc đột kích sáng nay của địch vào Căn-Cứ là xác của tên cảm tử Việt-Cộng còn nằm tênh hênh ngay cổng ra vào. Sau khi thị sát, Phó-Đề-Đốc Hùng cùng ông Armitage trở về Saigon bằng xe Jeep. Và ông Armitage tường trình những sự việc đã thấy cho ông Van Marbod. Cũng thời điểm này, tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn triệu tập một phiên họp gồm hầu hết Hạm-Trưởng để thông báo hạn chế về việc Hải-Quân sẽ tạm trú tại Côn-Sơn, chờ một biến chuyển thuận lợi sẽ quay vào chiến đấu. Đại-Tá Sơn chỉ thị tất cả Hạm-Trưởng mang theo đầy đủ gạo và lương khô, càng nhiều trứng vịt và cá khô càng tốt. Không ngờ, cũng ngày hôm đó, Đại-Tá Sơn bị thuyên chuyển khỏi chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Người bạn cùng khóa với Ông, Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê, đang là Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Lưu-Động-Biển, nhận chức Tư-Lệnh Hạm-Đội. Sự thuyên chuyển Đại-Tá Sơn là do sự hiểu lầm và sự thiếu liên lạc mật thiết giữa Đại-Tá Sơn và Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân về vấn đề di tản Hạm-Đội tránh pháo kích. Chiều 28 tháng 4 năm 1975, lúc 5 giờ 15, Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh khi ngoài trời cơn mưa giông đột ngột trút xuống! 6 giờ chiều cùng ngày, Hải-Quân Công-Xưởng hoàn tất mấy vòng rào sắt cho hệ thống phòng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng. 6 giờ 20, phi công Việt-Cộng – do Trung-Úy phi công V.N.C.H. Nguyễn Thành Trung huấn luyện cấp tốc và hướng dẫn – lấy 5 chiếc phản lực Dragonfly A37 của Không-Quân V.N.C.H. bỏ lại Phan-Rang, bay vào, thả bom phi trường Tân-Sơn-Nhất! Sau khi dội bom, 5 phản lực cơ bay ngang HQ 800. Hạm-Trưởng HQ 800 biết 5 phản lực đó vừa tấn công phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng Hạm-Trưởng HQ 800 tưởng là một biến cố chính trị nào đó đang diễn ra, cho nên Hạm-Trưởng HQ 800 chỉ ra lệnh nhiệm sở tác chiến chứ không ra lệnh bắn. Nhờ vậy 5 phi cơ đó mới bay thoát. Tối 28 tháng 4, Phó-Tổng-Thống Nguyễn Văn Huyền, trong chính phủ Dương Văn Minh, đến thăm Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, rồi cả hai Ông đến thăm Tổng Thống Dương Văn Minh. Trong lần tiếp xúc này, Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh về những biện pháp thích nghi cho tình hình hiện tại. Tổng Thống Minh cho biết không có giải pháp nào cả. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi thẳng: “Thưa Tổng Thống, nếu vậy, mỗi quân binh chủng phải tự quyết định lấy, phải không?” Tổng Thống Minh chán nản: “Ôi! Toa làm sao đó toa làm!” Vì lẽ đó, Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân họp khẩn. Lúc này Phó-Đô-Đốc Cang có dự định đưa gia đình Hải-Quân ra Phú-Quốc lánh nạn để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Nhưng tình hình biến chuyển quá nhanh khiến ý định của Ông không thực hiện được. Hải-Quân ra đi là một quyết định tập thể, gồm Phó-Đô-Đốc Cang và Tư-Lệnh các đại đơn vị, để bảo toàn Lực-Lượng Hải-Quân. Nhưng Phó-Đô-Đốc Cang cũng biết rằng, nếu quyết định đó sai lầm thì chính Ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử! Sáng sớm 29 tháng 4, phi trường Tân-Sơn-Nhất bị pháo kích nặng nề. Không-Quân náo loạn. Hầu hết phi cơ A37 và F5 được cất cánh để tránh thiệt hại. Công cuộc di tản nhân viên của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ không thể tiếp tục thực hiện bằng phi cơ vận tải mà phải dùng trực thăng. Ngay khi phi trường bị pháo kích, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó-Tổng-Thống trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đáp trực thăng riêng quan sát. Tướng Kỳ gọi Sư-Đoàn IV Không-Quân tại Cần-Thơ, ra lệnh tăng viện gấp bốn chiến đấu cơ với bom hạng nặng. Khi bốn chiến đấu cơ đến không phận Saigon, Tướng Kỳ hướng dẫn bốn phi cơ đó phá hủy những giàn hỏa tiễn Việt-Cộng gần đài radar Phú-Lâm và phía Tân-Cảng. Sau khi diệt xong các ổ trọng pháo của địch, Tướng Kỳ đáp trực thăng xuống Liên-Giang-Đoàn 33 tại Nhà-Bè lấy xăng. Lúc bấy giờ có cả trăm chiếc trực thăng đậu tại Nhà-Bè. Nhiều trực thăng và phi cơ đủ loại bay lượn trên không phận thủ đô. Tất cả liên lạc, xin chỉ thị của Tướng Kỳ. Tướng Kỳ bảo tất cả phi công bay ra Đệ Thất Hạm-Đội; nếu còn đủ nhiên liệu thì bay sang Thái-Lan. Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên không phận thủ đô thì Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, ông Graham Martin, nhận được công văn khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Ngày 28 tháng 4 năm 1975 Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa Kính gửi: Ông Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ chỉ thị cho tất cả nhân viên cơ quan tùy viên quân sự Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4 năm 1975 để vấn đề hòa bình cho Việt-Nam được giải quyết sớm hơn. Trân trọng kính chào ông Đại-Sứ. Dương Văn Minh Đại-Sứ Graham Martin phúc đáp: Kính thưa Tổng Thống, Tôi vừa nhận được văn thư đề ngày 28 tháng 4 năm 1975 yêu cầu tôi ra lệnh cho nhân viên Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Văn thư này gửi đến Ngài để xác nhận là yêu cầu của Ngài đang được thực hiện. Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của các cơ quan liên hệ thuộc chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa để sự di chuyển nhân viên D.A.O. được hoàn thành tốt đẹp. Trân trọng kính chào Tổng Thống. Graham Martin Đại-Sứ Hoa-Kỳ Ngày 29 tháng 4, khoảng 10 giờ sáng, Tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân và thấy gần 30 sĩ quan cao cấp Không-Quân trong văn phòng Tư-Lệnh Không-Quân. Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh, giải thích với Tướng Kỳ là người Mỹ muốn chuyển vận tất cả phi cơ phản lực sang Phi-Luật-Tân hoặc Thái-Lan. Vì vậy mọi người đang chờ để được sang cơ quan D.A.O. rồi ra đi. Tướng Kỳ bay đến Bộ-Tổng-Tham-Mưu và thấy chỉ một mình Tướng Đồng Văn Khuyên đang điều động các mặt trận quanh Saigon. Lúc này, cựu Phó-Tổng-Thống Nguyễn Cao Kỳ mới biết Đại-Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., đã rời Việt-Nam ngày hôm qua! Tướng Kỳ gọi tất cả đơn vị trưởng của những đại đơn vị quanh Saigon, nhưng không gặp ai cả. Tướng Kỳ đi xuống tầng dưới thì gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi nói cho nhau hay là vợ con của hai Ông đã được di tản từ tuần trước, Tướng Kỳ vừa bước đến trực thăng vừa nói với Tướng Trưởng: “Đi với tôi.” Rồi cả hai Ông cùng một số sĩ quan thân tín của Tướng Kỳ lên trực thăng, bay ra Đệ Thất Hạm-Đội, đáp xuống chiến hạm USS Midway. 10 giờ 47 sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm hành quân Hải-Quân, hỏi đường sông từ Saigon ra biển còn an ninh hay không? Đại-Tá Đỗ Kiểm cho biết đến giờ phút đó Hải-Quân vẫn còn kiểm soát được sông Lòng Tào. Tướng Khuyên chào vội vàng và cúp máy Tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, sau khi liên lạc với Đại-Tá V. Không-Quân và được biết Không-Quân vẫn còn kiểm soát phi trường Tân-Sơn-Nhất, Khối Hành-Quân Hải-Quân tiếp xúc với các Hạm-Trưởng. Lệnh di tản dự trù sẽ ban hành khoảng 10 giờ tối 29 tháng 4. Sau khi hội ý với các Hạm-Trưởng, Đại-Tá Đỗ Kiểm gọi Đại-Tá Ước, Tham-Mưu-Phó hành quân Không-Quân. Đại-Tá Ước cho Đại-Tá Kiểm biết rằng lúc nào Không-Quân không giữ được Tân-Sơn-Nhất thì sẽ cho Hải-Quân hay. Trong khi đó, tại Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh cùng vài vị Tướng và các sĩ quan chờ hoài không thấy Mỹ liên lạc, đành đi bộ sang cơ quan D.A.O. xin được vào danh sách di tản. Được báo cáo rằng nhóm sĩ quan Không-Quân Việt-Nam đều mang vũ khí cá nhân, Tướng Homer Smith ra lệnh cho Trung Tá Richard Mitchell tước vũ khí của nhóm sĩ quan đó và đưa tất cả vào một phòng nhỏ, canh gác cẩn mật trong khi chờ đợi di tản. Cũng thời điểm này, tại Nhà-Bè, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên, Hải-Quân Đại-Tá Lê Quang Mỹ, cùng gia đình đến Căn-Cứ Hải-Quân xin di tản, nhưng lính gác không cho vào! Sau đó, một sĩ quan nhận diện được Ông và cấp cho Ông cùng gia đình một LCM để ra tàu lớn. 11 giờ sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên rời Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Không-Quân vẫn còn kiểm soát được phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng rất nhiều phi cơ trúng đại bác của Việt-Cộng. 12 giờ trưa, được báo cáo nhiều thương thuyền chạy ra, chạy vào sông Lòng Tào và sông Soài Rạp, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt chỉ thị Liên-Giang-Đoàn 33 mở cửa sông để thương thuyền ra vào tự do. Cũng thời điểm này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, cả mấy ngàn người thuộc gia đình Hải-Quân di tản từ Vùng I và Vùng II vào, tạm trú trong vòng thành. Dọc các cầu tàu và bờ sông, tàu bè từ các tỉnh miền Trung kéo về neo ngổn ngang. Việt-Cộng phao tin là sẽ pháo kích một ngàn quả đại bác vào Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái và kho đạn Thành Tuy-Hạ vào lúc 6 giờ chiều 29 tháng 4. Tin này loan ra khiến Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp, ra lệnh hai Tiểu Đội Người Nhái đang tuần tiễu bên kia sông trở về Căn-Cứ; đồng thời Ông cũng chỉ thị những LCU và Trục Vớt đón gia đình Người Nhái và gia đình Hải-Quân thuộc Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, đưa ra sông, chờ. 1 giờ chiều, Trung-Tâm Hành-Quân Không-Quân bỏ trống. Những biến động dồn dập khiến Hải-Quân quyết định nên di tản vào khoảng 6 giờ chiều – thay vì 10 giờ đêm như đã dự định. Ông Richard Armitage lại điện thoại về Trung-Tâm Hành- Quân Hải-Quân, thúc hối Hải-Quân ra đi. Nhận thấy Hải-Quân không phải là một lực lượng chiến đấu thuần túy, bây giờ, Bộ-Tổng-Tham-Mưu và Trung-Tâm hành quân Không-Quân bỏ trống, Hải-Quân không thể ở lại chiến đấu đơn độc. Vì vậy, lệnh di tản được ban hành lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4! Sau khi được thông báo là đến giờ Hải-Quân phải ra đi, rất nhiều binh sĩ ngồi bệt trong sân Trại Bạch-Đằng, ôm đầu, khóc! Một số binh sĩ khác vội vàng chạy đi. Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân kêu gọi những ai không muốn ra đi, hãy giúp canh gác phía công trường Mê-Linh, giúp người ra đi được di tản trong trật tự. Bấy giờ không còn hệ thống chỉ huy nữa mà chỉ còn uy tín cá nhân mới có thể giúp điều động một khối nhân sự khổng lồ của một quân chủng tan hàng vào giờ phút chót. Trên không, trực thăng bay ngập trời. Trên bờ, đồng bào và quân nhân đổ xô xuống bến Bạch-Đằng và Hải-Quân Công-Xưởng. Trên sông, một số chiến hạm đã vào vị trí và một số khác đang trên đường về. Súng bắt đầu nổ quanh vòng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Toán Nhảy-Dù có bổn phận canh gác kho đạn Thành Tuy-Hạ rời vùng trách nhiệm, sang sông, xin Hải-Quân cho di tản. Hải-Quân yêu cầu toán Nhảy-Dù phối hợp với Quân-Cảnh Hải-Quân lo trật tự phía công trường Mê-Linh, sau đó Hải-Quân sẽ giúp phương tiện cho họ di tản. Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị tất cả sĩ quan cao cấp: Đến 7 giờ tối, nếu không có biến chuyển nào thay đổi cuộc diện, Hải-Quân sẽ ra đi. 5 giờ chiều 29 tháng 4, Tổng Thống Dương Văn Minh gọi Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh cần gì, Ông sẽ đến. Nhưng Tổng Thống Minh bảo thôi, đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đến cũng được. Tại tư dinh, Tổng Thống Minh tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp lớn lao của Hải-Quân trong những cuộc triệt thoái dọc duyên hải. Tổng Thống Minh cũng hết lời khen ngợi tinh thần kỹ luật cao của Hải-Quân. Sau đó, Tổng Thống Minh nói qua về tình hình nghiêm trọng hiện tại và khuyên Phó-Đề-Đốc Thủy nên đưa Hải-Quân rút trong đêm, trước khi Việt-Cộng đủ thì giờ bế sông Lòng Tào. Phó-Đề-Đốc Thủy đề nghị Tổng Thống Minh đi luôn, nhưng Tổng Thống Minh từ chối – như đã từ chối lời đề nghị của của Tướng Charlie Timmes lúc sáng. Tổng Thống Minh bảo: “Thôi, tình thế này moa không đi được! Đời người có chết cũng chỉ chết một lần thôi!” Sau đó, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H., Tướng Dương Văn Minh, nhờ Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đưa Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Đại Tá Nguyễn Hồng Đài – rể của Tổng Thống Minh – và Tướng Mai Hữu Xuân theo Hải-Quân ra đi. Sau khi từ giã Tổng Thống Minh, đi chưa đến chỗ chiếc Jeep đậu, Phó-Đề-Đốc Thủy đã thấy hai vị Tướng và một vị Đại-Tá ngồi sẵn trên băng sau chiếc Jeep của Ông rồi! Lúc này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp triệu tập phiên họp khẩn cấp. Vào lúc 6 giờ chiều, buổi họp vừa tan thì Việt-Cộng pháo ngay vào Căn-Cứ Hải-Quân, đúng như tin họ đã loan! Trên hệ thống truyền tin, Trung-Tá Hiệp điều động những LCU Trục Vớt đưa gia đình binh sĩ về Nhà-Bè, hướng ra biển. Chiếc LCU dành riêng cho Ông và toán Hải-Kích chiến đấu đậu ngay bồn dầu, suýt trúng đạn. Trung-Tá Hiệp ra lệnh chặt giây, tách bến. Trong cảnh hỗn loạn như vậy Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi vẫn bình thản chạy qua, chạy lại giữa sông, phản pháo dữ dội. Tại đường Cường-Để, từng thác người tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng. Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, đứng nhìn mọi người chạy loạn bằng đôi mắt lạnh lùng từ sau cánh cổng sắt của Hải-Quân Công-Xưởng. Cau B BTL Hai Quan ngay 30 thang 4 1975.Tại bến Bạch-Đằng, cầu B, ba chiến hạm đậu sát nhau, theo thứ thự, từ trong ra ngoài: HQ 1, HQ 3 và HQ 2. Vì đậu ngoài cùng, HQ 2 là chiến hạm đầu tiên tách bến, chỉ với một nửa số nhân viên cơ hữu. Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, có mặt trên HQ 2. Sau 7 giờ, chiến hạm đầy người và thấy tình hình không thay đổi, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành-quân Lưu-Động-Sông, ra lệnh HQ 3 tách bến. Lúc này trên HQ 3 còn có Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cựu Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải. Theo lịch trình di tản, HQ 1 được chọn làm Soái Hạm, với cờ Tư-Lệnh trên kỳ đài, để đón Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy. Nhưng dân chúng tràn lên quá đông, gia đình Phó-Đô-Dốc Cang và gia đình Phó-Đề-Đốc Thủy không thể nhập hạm được. Lúc này trên HQ 1 có cựu Tư-Lệnh Hải-Quân, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh và cựu Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu. Nhưng lại vắng mặt Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Địch Hùng. Xuất thân khóa 4 Brest, Trung-Tá Hùng có nhiều đức tính mà ít sĩ quan cao nào áp dụng để chỉ huy. Chính một trong những đức tính ấy đã khiến Ông vắng mặt vào giớ phút chút. Nguyên nhân sự vắng mặt của Hạm-Trưởng Hùng là, ngày 29 tháng 4, Hạm-Trưởng Hùng tuyên bố trước tất cả nhân viên HQ 1: Nhân viên nào có cấp bậc thấp nhất trên chiến hạm sẽ là người đầu tiên đưa gia đình lên chiến hạm. Người nào mang cấp bậc cao nhất trên chiến hạm sẽ đem gia đình lên chiến hạm sau cùng. Vì lẽ đó, trong khi những chiến hạm khác đã tuần tự tách bến mà Hạm-Trưởng HQ 1 đi đón gia đình vẫn chưa trở lại được! Vì không biết Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh có mặt trong số người lúc nhúc trên sàn chiến hạm, và cũng vì Hạm-Phó HQ 1 không phải là một sĩ quan Hải-Quân nguyên thủy, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu lấy quyền sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh HQ 1 tách bến. Trong khi đó, tại cầu A, Phó-Đô-Đốc Cang cùng gia đình và Phó-Đề-Đốc Thủy cùng gia đình – sau khi không thể lên được HQ 1, cả hai Ông và gia đình phải sang HQ 601 – thì bị kẹt trên cầu tàu; vì Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, không cho lên tàu. Một lúc sau, nhận diện được hai vị sĩ quan cao cấp Hải-Quân, Đại-Úy Chánh cho Phó-Đô-Đốc Cang và gia đình cùng Phó-Đề-Đốc Thủy và gia đình nhập hạm. Tối 29 tháng 4, lúc 10 giờ, HQ 11 không thể rời bến, vì HQ 504 đậu bên ngoài không chịu đi. Tuy hệ thống chỉ huy đã tan rã, nhưng quanh đài chỉ huy của HQ 504 lính gác cẩn mật, không ai tiếp xúc được với Hạm-Trưởng – một sĩ quan từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhập học và tốt nghiệp khóa 11 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Cuối cùng, một sự giàn xếp êm đẹp với thủy thủ đoàn của HQ 504 và chính những thủy thủ này tháo giây, giúp HQ 11 vận chuyển. Vừa khi đó, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Xuân Phong lái xe Jeep xuống bến tàu, tự xưng là Tư-Lệnh Hạm-Đội, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại! Từ HQ 11, Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm khuyến cáo Đại-Tá Phong nên rút lui trước khi những điều đáng tiếc có thể xảy ra. Đại-Tá Phong lặng lẽ lên xe, lái đi. Đại-Tá Kiểm xử dụng đài-chỉ-huy HQ 11 như một trung tâm hành quân lưu động để điều động tất cả chiến hạm. 11 giờ đêm, giữa lúc kho xăng Nhà-Bè trúng đại bác, nổ tung, gây một đám cháy ngất trời thì trên hệ thống truyền tin của hầu hết chiến hạm người ta nghe tiếng Hải-Quân Đại-Tá Trần Bình Phú, Tham-Mưu-Phó nhân viên, từ trung tâm truyền tin Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, tự xưng là Tham-Mưu-Phó Hành-Quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh cho tất cả chiến hạm không di chuyển, chờ lệnh! Đại-Tá Kiểm bảo Đại-Tá Phú im đi và Đại-Tá Kiểm ra lệnh đoàn tàu tiếp tục di chuyển theo kế hoạch đã định và không nhận lệnh bất cứ từ ai khác. Trong khi kho xăng Nhà-Bè trúng đạn và phực cháy, Chỉ-Huy-Trưởng căn cứ Hải-Quân Nhà-Bè, Đại-Tá Cơ-Khí Lê Kim Sa họp tất cả sĩ quan; nhưng đến quá nửa đêm vẫn không quyết định được gì cả. Tiếp đến, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, lên máy vô tuyến, tự nhận là Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại. Đại-Tá Đỗ Kiểm lại lên tiếng cản ngăn Đại-Tá Phú. Nhưng điều tai hại là Đại-Tá Phú và Đại-Tá Tấn xử dụng máy của trung-tâm truyền tin Hải-Quân, có làn sóng mạnh, những đài xa như Poulo Obi hoặc Phú-Quốc nghe được; trong khi Đại-Tá Kiểm dùng máy của HQ 11 yếu hơn, vì vậy, chỉ những chiến hạm gần mới nhận được lệnh của Đại-Tá Kiểm. Đại-Tá Kiểm cũng liên lạc được với nhiều đơn vị sông và hẹn gặp nhau tại Côn-Sơn. Hạm-Đội lầm lủi tiến và vô số chiến đỉnh, giang đỉnh chạy hai bên. Nhiều loạt súng của nhiều nhóm quân nhân căm phẫn từ trên bờ bắn lên tàu. Sau khi tắt hết đèn để khỏi lộ mục tiêu, tất cả chiến hạm được chỉ thị phải vớt đồng bào và quân bạn trên các ghe thuyền. Chiến đỉnh và giang đỉnh được khuyến khích cố chạy ra đến biển, sẽ được tiếp cứu sau. Những chiến hạm ngoài khơi Vũng-Tàu được lệnh tập họp tại Côn-Sơn, chờ Hạm-Đội ra. Nhưng HQ 505 lại tách rời, chạy ra đảo Poulo Dama, mang theo hơn 2.000 người và hai trực thăng. Thấy HQ 505 tách rời và không liên lạc vô tuyến với những chiến hạm khác, nhiều sĩ quan và đoàn viên nghi ngờ Hạm-Trưởng. Tất cả âm thầm đặt kế hoạch đối phó trong trường hợp Hạm-Trưởng quay tàu về. Trong khi đó, một nhóm khác lại muốn đem chiến hạm về lại Saigon. Tình hình nội bộ rất căng thẳng. DUONG VAN HAM NHA TRANG HQ505 DI TAN DEN SUBIC BAY 1975.Lúc này, trên tần số truyền tin, không biết “phe” nào đã gọi đích danh nhiều Hạm-Trưởng, bảo đừng đi, hãy ở lại với chính phủ mới để được trọng vọng! Từ HQ 3, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng bắt được liên lạc vô tuyến với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy từ HQ 601 của Đại-Úy Trần Văn Chánh. Đại-Úy Chánh được chỉ thị đưa Phó-Đô-Đốc Cang và Phó-Đề-Đốc Thủy sang HQ 3. Từ giây phút đó, HQ 3 trở thành Soái-Hạm. Phó-Đề-Đốc Hùng phụ tá Phó-Đô-Đốc Cang chỉ huy Hạm-Đội. Hạm-Đội Việt-Nam được chia thành nhiều nhóm nhỏ; mỗi nhóm do một sĩ quan thâm niên hiện diện chỉ huy. Trên đường ra biển, vì một máy bất khiển dụng, HQ 1 lủi vào bờ, mắc cạn! HQ 1 kêu cứu trên tất cả tần số truyền tin nhưng không một chiến hạm nào trả lời! Khi được báo cáo có hai vị Tướng Bộ-Binh và cựu Tư-Lệnh Lâm Ngươn Tánh trên chiến hạm, Phó-Đề-Đốc Châu mời Đề-Đốc Tánh lên đài chỉ huy và nhờ Đề-Đốc Tánh cố đem chiến hạm ra. Tất cả cơ khí viên được huy động xuống hầm máy để sửa chữa. Vừa khi đó HQ 801 trờ tới. Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, cho chiến hạm vào kéo HQ 1. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Châu rời HQ 1, sang HQ 801. Bằng vào nỗ lực vượt bực của các cơ khí viên và sự trợ lực hữu hiệu của HQ 801, HQ 1 được kéo ra. Sau đó, HQ 1 vừa chạy, các cơ khí viên vừa sửa chữa. Khi ra đến biển, hai máy của HQ 1 đều tốt cả. Khuya 29 tháng 4, nhận thấy thời gian ấn định cho Mỹ triệt thoái khỏi Việt-Nam vừa đủ, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng xin chỉ thị Hà-Nội để tấn công Saigon. Ngay sau khi thỉnh cầu được chấp thuận, Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh những đơn vị Pháo-Binh ngưng pháo kích vào thủ đô để Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào! Trong khi Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào Saigon thì ngoài biển khơi, nhiều Hạm-Trưởng nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn – từ HQ 3 – và Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu – từ HQ 801 – điều động trên máy vô tuyến. Càng về sáng thì chỉ còn một mình Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy Hạm-Đội. 30 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Sông Ngòi, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, từ một PBR, lên HQ 502. Lúc này HQ 406 chỉ còn chạy được một máy. Sau khi ra đến Vũng-Tàu, HQ 406 phải cặp vào HQ 800, sớt người sang. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Minh ra lệnh tháo ống cho HQ 406 chìm. Nhiều ghe thuyền và tàu nhỏ vây quanh mấy chiến hạm Hoa-Kỳ, nhưng không ai được lên tàu. 5 giờ 30 sáng, Lữ-Đoàn Thiết-Kỵ 203 Việt-Cộng tiến vào Tân-Cảng, tìm đường về thủ đô. Tổng Thống Dương Văn Minh phái Tổng Trưởng Thông-Tin Lý Quý Chung đến Camp David nhiều lần để tìm hiểu những yêu sách của phái bộ Việt-Cộng. Tổng Thống Minh cũng liên lạc với Thượng-Tọa Thích Trí Quang, nhưng Thượng-Tọa cũng tỏ vẻ bi quan, không thể giúp Tổng Thống Minh. Ông Lý Quý Chung trình với Tổng Thống Minh rằng Việt-Cộng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu. Cả ông Chung và Thượng-Tọa Thích Trí Quang đều khuyên Tổng Thống Minh nên đầu hàng. Đây không phải là lần đầu tiên Tổng Thống Dương Văn Minh nghe nói đến giải pháp đầu hàng. Trong mấy ngày qua, Pierre Prochand, một nhân viên tin cẩn của Đại-Sứ Pháp, và ngay cả Đại-Sứ Pháp, Mérillon, cũng đã cố thuyết phục Tổng Thống Minh nên chấp nhận điều kiện của Việt-Cộng! Trong khi tại Saigon, Tổng Thống Minh bị thuyết phục phải đầu hàng thì, ngoài khơi, HQ 17 được chỉ thị ra Phú-Quốc cứu một xà-lan đầy người. Nhưng vì biết tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chẳng còn ai và cũng vì gia đình còn kẹt lại Saigon, Hạm-Trưởng HQ 17 không thi hành lệnh! HQ 403 không thể đi xa vì thiếu nhớt, được Đại-Úy Xuân và Trung-Úy Tý đem về. HQ 601 được chính Hạm-Trưởng Trần Văn Chánh đem về. Cùng về với HQ 601 còn có Hạm-Trưởng HQ 801. HQ 502 chạy chậm vì chỉ còn một máy, vừa chạy vừa sửa. Nhiều người tình nguyện đứng xếp hàng từ đài-chỉ-huy xuống hầm lái để chuyền khẩu lệnh. Liên-Đoàn Người Nhái chạy đến Nhà Bè thì dừng, chờ Trung-Tá Trịnh-Hòa-Hiệp. Lúc đó, Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái và toán Hải-Kích Chiến-Đấu lội qua nhiều con lạch và chạy bộ đến Nhà Bè, được một nhân viên đưa một hors-bord vào đón, đưa lên LCU. Từ LCU, Trung-Tá Hiệp điều động toán LCU ra biển. Ra đến biển, toán Người Nhái, tổng cộng khoảng 60 người, một số là học viên khóa 8, thấy HQ 502 vừa ra tới cửa sông, vội cập vào, xin nhập hạm. Trong khi HQ 502 ì ạch tiến, bỗng một L19 bay đến và lượn vòng quanh chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp hơn, cách mũi tàu khoảng 50 thước và phi công phụ nhảy ra. Lập tức nhiều phao nổi được vất xuống. Biển tương đối êm, nhưng những lượn sóng do HQ 502 tạo nên đã đùa người phi công phụ về phía sau chiến hạm. Biết không thể nào ông phi công phụ bơi theo chiến hạm được, Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, vòng vào người một áo phao và mang theo một phao nữa cho nạn nhân, rồi ông Kiệt nhảy xuống biển. Sau khi vớt được ông phi công phụ, ông Kiệt cố bơi theo tàu. Nhưng vì nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến ông Kiệt bơi theo rất khó khăn. Trong khi ông Kiệt gặp khó khăn trên triền sóng thì trên không trung, chiếc L19 đảo lại một vòng nữa và phi công nhảy ra. Thân người của ông phi công vừa chạm mặt nước liền bị hất nhẹ lên rồi chìm lỉm! Thấy bạn gặp nạn, ông phi công phụ van nài ông Kiệt hãy bỏ ông ấy ra, đến cứu giùm người bạn. Nhưng, ông Kiệt lượng sức mình. Ông Kiệt chưa biết có thể đem được người phi công phụ lên chiến hạm hay không thì làm thế nào ông Kiệt dám vớt ông phi công nữa! Cuối cùng, HQ 502 quay lại, vớt ông Kiệt và ông phi công phụ trong tiếng reo hò của hơn 3.000 người trên chiến hạm. Trong thời gian này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, nguyên Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, từ một PBR, liên lạc truyền tin với các chiến hạm để tìm gia đình! Khi biết gia đình ở trên HQ 502, Phó-Đề-Đốc Phú lên gặp. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Phú lầm lủi trở xuống PBR, quay lại sông Soài Rạp, chờ những đơn vị Hải-Quân từ Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây ra. Cũng thời điểm này, tại Saigon, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng V.N.C.H., Trung Tướng Vĩnh Lộc, tiếp Đại-Tướng Pháp – Vanuxem – tại tòa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi này, Đại-Tướng Vanuxem cho Trung-Tướng Vĩnh Lộc hay rằng Tổng Thống Dương Văn Minh đang soạn văn bảng ra lệnh quân đội V.N.C.H. buông súng đầu hàng! Quá thất vọng, Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung – Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-trị – và Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận dùng xe có bảng sao dành cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tìm phương tiện di tản! Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn, “Tân Tư-Lệnh Hải-Quân”, đích thân đưa Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Trung và Đại-Tá Nhận xuống một LCM Giang-Cảnh để ra biển. Trong khi LCM Giang-Cảnh đưa Trung Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cuối cùng của Quân-Lực V.N.C.H. rời bến Bạch-Đằng thì, từ xa lộ Biên-Hòa, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng tiến vào thủ đô. Đến ngã tư Hàng-Xanh, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng gặp sự kháng cự của Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi kéo quân qua Thị-Nghè, Sư-Đoàn 324 lại gặp sự ngăn chận của sinh viên sĩ quan Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến tại các yếu điểm ở sở thú. 10 giờ 20, sau khi lệnh đầu hàng được truyền đi trên đài phát thanh, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H., Đại Tướng Dương Văn Minh, nói với ký giả Pháp, Jean Louis Arnaud: “Hãy nói hộ với Đại-Sứ Mérillon rằng tôi đã làm tất cả những gì mà chính phủ Pháp đòi hỏi nơi tôi!” Trưa 30 tháng 4, lúc Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng trương cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam lên kỳ đài dinh Độc-Lập cũng là lúc Hạm-Đội Hải-Quân vào đội hình, trực chỉ Côn-Sơn. Chiều 30 tháng 4, HQ 2 được chỉ thị quay lại Phú-Quốc cứu người trên chiếc xà-lan mà HQ 17 từ chối lúc sáng. Đến Phú-Quốc, lúc sắp cặp vào, vì thấy quá nhiều người và biết trong số đó có một số tù phạm, Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng ra lệnh chiến hạm tách ra, chạy thẳng! Tối 30 tháng 4, HQ 615 đón Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung và những người rời Saigon lúc sáng, từ LCM Giang-Cảnh. Sáng 1 tháng 5, HQ 615 bị hết dầu trong hải phận Vũng-Tàu. Lúc này Hạm-Đội đã đi xa. HQ 615 kêu cứu bằng bạch văn chứ không bằng ám từ truyền tin nữa! Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận hoàn toàn mất bình tĩnh, cứ ôm con khóc và tỏ ý muốn tự tử! HQ 17 vừa mới đến nhập đoàn với Hạm-Đội lại được lệnh quay lui cứu HQ 615. Đến nơi, HQ 17 vớt khoảng 300 người từ HQ 615 và hơn 200 người trên HQ 470. Sau đó, cả HQ 470 và HQ 615 đều bị đánh chìm! Khi đến Côn-Sơn, từ hệ thống truyền tin của HQ 1, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh tìm Hải-Quân Đại-Tá Phan Phi Phụng và chỉ định Đại-Tá Phụng làm Hạm-Trưởng HQ 1. Lúc này HQ 801 cũng vừa đến Côn-Sơn. Vợ của Hạm-Trưởng HQ 801 không muốn di tản. Hạm-Trưởng HQ 801 muốn đem chiến hạm trở về Saigon. Nhưng nhờ sự giàn xếp của nhiều người, Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, nhận HQ 471 để đưa vợ con và những người không muốn ra đi, trở về Saigon. Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 801. Riêng HQ 505 – sau khi vớt thêm hơn 200 người và giàn xếp cho số nhân viên muốn trở về được xuống ghe về – quay lại Côn-Sơn. Vô tình, Hạm-Trưởng HQ 505 bắt được liên lạc vô tuyến trên đài siêu tần số của những người vừa tiếp thu Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. Nhóm người này bảo Hạm-Trưởng HQ 505 đem chiến hạm về. Nhưng Hạm-Trưởng HQ 505 đã liên lạc được với Tiếp-Liệu-Hạm Vega, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ, và được Vega tiếp tế nước ngọt, thực phẩm. Sau đó, một chiến hạm khác, cũng thuộc Đệ Thất Hạm-Đội, hộ tống HQ 505 đi Subic Bay. Nguồn: www.diepmylinh.com/chuyen-ra-khoi-bi-hung
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 16:51:33 GMT 9
Ngày 30 Tháng Tư – Phạm Văn Bản Posted on April 25, 2020 by dongsongcu Phạm Văn Bản Hình Phạm Văn Bản, Phi Đoàn 520, Sư Đoàn 4 Không Quân chụp tại Phi Trường Trà Nóc vào năm 1975 Các con thương yêu, Từ ngày ba cởi chiếc áo bay, buộc bước vào nằm tù Cộng sản, không còn trông thấy mặt các con của ba khôn lớn, tới nay là bao lâu nhỉ? Bảy năm. Thân phận con người tù hàng binh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 khiến ba chịu bao nhục hình, tra tấn đánh đập, cùm xích tay chân trong những khu nhà lao, biệt giam u tối. Những tháng năm cứ thế, lặng lẽ trôi qua mà ba tưởng rằng như mình đang chịu kiếp luân hồi vào thời Bắc Thuộc: “Lên rừng tìm ngà voi – xuống biển mò ngọc trai” của ngàn năm đô hộ giặc Tàu! Nhìn ra cổng trại tù U Minh ngoài kia, cờ đỏ sao vàng lộng hành phất phới tung bay – Các con có biết không? Đó là biểu trưng nguồn gốc đã xuất phát từ cuộc Vạn Lý Trường Chinh Trung Quốc, mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam nhận cờ giặc làm cờ tổ quốc để thống trị dân ta qua bao thập niên! Ôi ngàn đời trước sau như một, người xưa đã nói: “Nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không lo là bất trung, lo mà không làm là bất dụng!” Ðêm nay trăng vằng vặc, tỏa rộng bầu trời, ba mơ màng ngắm ánh trăng rơi qua khe lán tả tơi, vượt sương thu huyền ảo, trở về mái ấm gia đình gặp má và các con thương yêu. Bao năm đô hộ Cộng Sản, ba không nhìn thấy mặt các con khôn lớn, không nghe tiếng cười hồn nhiên trẻ thơ, không tập viết chữ “tự do” cho các con để giúp các con sống trọn vẹn kiếp người. Hình ảnh của gia đình ta mà ba mang theo trong ký ức, đó là cái đêm mà mọi người trong nhà thu xếp vội vàng mùng mền chiếu gối, bao bọc lương thực, kiểm điểm hành trang cho ba sáng hôm sau ra “trình diện học tập cải tạo,” nghe nhà cầm quyền nói rằng thời gian là một tháng trời. – Một tháng của các con là ba mươi lần mặt trời lặn mọc. – Một tháng của “Bác-Đảng” là ba mươi đời toàn trị dân lành. – Một tháng của ba là cái ngày mà người đời thường nói: “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại!” Bảy năm tù đày cải tạo, nhưng sổ tay “Bác-Đảng” tính là bảy ngày. Khi thời gian ngừng đọng, khi nét mực tuôn trào, khi giòng chữ cuốn theo tim óc đang đậm nét trên trang thư viết về cho con. Tất cả mang theo sức nóng nung đúc trong lòng ba, phát hỏa tợ ngọn diệm sơn sắp nổ tung nhằm thiêu đốt “Thiên Đường Cộng Sản” bóc lột. bất công của bè lũ tay sai bán nước. Khi xưa ba viết tình thư cho má cũng không trằn trọc thổn thức khắc khoải như đêm nay. Tình yêu mà ba gởi đến với má thì đẹp như bình minh nắng ấm, êm như trăng thu huyền diệu, nhẹ như gió thoảng nụ hôn qua. Các con có biết không, ngày ấy gia đình mình còn sống trong thể chế tự do, xã hội công bằng trong tình nghĩa đồng bào theo linh huấn của Tổ Tiên trong Chánh Thuyết Tiên Rồng với nguyên lý Một Bọc Trăm Con. Nhưng đêm nay ba lại viết tình thư trong nghịch cảnh đau thương mất nước, mất đạo, mất hồn. Đồng thời còn mang tâm trạng thảm họa của con cháu phải chịu gánh nặng nô lệ Cộng Sản Bắc Thuộc. Những ý tưởng ấy sao mãi chập chờn trước mắt ba, vùi dập ba, hành hạ ba! Ba thấy các con! Ba thương các con! Ba cứu các con! Tình thư mà ba đang viết ắt đậm nét hơn cả mực tím, hơn cả giấy trắng, hơn cả thưở học trò trinh nguyên ngày trước. Ý tưởng ấy đang tuôn trào máu lệ với tình thương Biển rộng Thái Bình của má, với tình yêu cao ngất Núi Trường Sơn của ba, và tất cả mang trọn tình thương Cha Mẹ gởi về cho các con. Ba nghe văng vẳng đâu đây tiếng khóc chào đời của con, nhìn chập chờn từng bước tập đi tập đứng, thấy xa xa giọng cấp cứu của các con… ba chạy về đánh giặc và ôm con vào lòng. Nhưng chỉ là giấc mộng điệp! Cứ mỗi lần ba mươi tháng tư đen, hình ảnh của các con lại hiện ra trong trí óc ba. Ôi, thời gian sao tàn ác! Những phút giây đói lả, những trận đòn thù khiến ba gục ngã giữa chốn công trường, những đêm trần trụi với giá lạnh thấu xương, và đời người mất nước như ba sao cứ kéo dài lê thê, tưởng chừng bất tận. Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba chỉ nghe tiếng thét của quản giáo diêm vương, tiếng chửi rủa của bộ đội lâu la, và âm thanh lanh lảnh tử thần của tiếng kẻng trại giam. Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba chỉ thấy màu xám ngắt của loài khỉ vượn, màu tro tàn của Bác-Đảng, và màu đen tối của thân phận con người như ba đang ngụp lặn trong địa ngục Mác-Lê. Các con ơi, ba thèm khát màu sắc, âm thanh, ánh sáng, bao giờ mới được thấy hả con? Quê hương ta hôm nay không màu sắc, không âm thanh, không ánh sáng. Có chăng là màu đỏ, máu me mà Bác-Đảng đã nhuộm vành khăn quàng cổ của các cháu thiếu nhi Việt Nam thơ ngây, với lời tuyên truyền đầu độc, “Ðêm qua em mơ gặp Bác Hồ!” Âm điệu ma quái ấy cũng làm cho đám nông dân và thợ thuyền run rẩy. Ngày đêm trôi qua ở trại giam ba ước ao nghe tiếng chuông giáo đường ngân nga trong nắng chiều buông xuống màn đêm u tịch. Ba khao khát thưởng lãm khúc dương cầm réo rắc với bài thánh ca Kinh Hòa Bình của con gái ba đang dạo đàn. Ba ba thèm nghe tiếng cười hồn nhiên trong sáng của con trai ba đang khúc khích, để giúp cho hồn ba lắng đọng. Ðã bao năm ba không thấy tà áo dài tha thướt, không ngắm màu cờ vàng mà má con ưa thích, không thấy đôi mắt bồ câu đen nhánh của các con… Ba bị cướp đi tất cả! Mất tất cả! Chỉ còn đôi mắt thù giặc phát hỏa và cái đầu bất khuất bốc cháy của ba. Khi nhớ nhung chất ngất ba đè nén cơn đau xuống vực đại dương, nhưng sức ép lại nổ tung như ngọn sóng thần, nhức nhối trong tim. Thời gian khi xưa học chủ thuyết Mác-Lê, thuật chuyện thế giới đại đồng Cộng Sản, nhìn dòng người di cư Miền Bắc vội vã từ bỏ mồ mả cơ nghiệp Tổ Tiên ngàn đời, đi tìm Tự Do vào Nam với hai bàn tay trắng. Lúc đó chính ba đây cũng không biết, cũng không tin, cũng không ngờ về Cộng Sản, như các con ngày nay đang đọc thư ba, cũng chưa hiểu nỗi lòng trắc ẩn của ba, chưa hiểu về tập đoàn Cộng Sản tam vô! Phải bao chục năm các con cảm nhận được lời ba? Thế mà giờ này ba khóc thương cho dân nước. Cũng như các con sẽ khóc thương ba mấy chục năm sau này, khi nhận biết ý nghĩa hoặc bị rơi vào nghịch cảnh tù đày chính trị như ba, thì các con ắt hiểu thế nào là Cộng Sản lừa bịp. Con ơi, lúc ấy đã quá trễ rồi. Sáng nay, ba nhận tin các con đã vượt biển tìm tự do, và tới miền đất hứa. Con gái cưng, Bàn tay con, ngày sinh ra má từng khen con có bàn tay dầy giống ba! Gái giống cha nhà có phúc. Bàn tay dầy anh dũng tranh đấu chống bất công mà má hằng nâng niu trìu mến… đang đeo bao nhiêu nhẫn ngọc vàng ngà? Ôi! Sao ba sợ vật chất sẽ làm hoen ố bàn tay lãnh đạo chỉ huy kia, mà lãng quên sứ mệnh tổ chức Giúp Dân Cứu Nước! Trương mục ngân hàng, tủ áo kệ giầy có bao nhiêu, hả con? Hạnh phúc con người chỉ khi ta biết nhận diện chính mình, chớ không tăng bằng con số? Ôi! Sao ba sợ tiền bạc lụa là, kim cương hột soàn sẽ làm mất lương tri con gái ba – một đứa con vốn mang dòng máu kiên cường bất khuất của Đức Trưng Đức Triệu. Thôi thì chiều nay học Trường Havard, xin đừng liệng bỏ mảnh giấy dư thừa vào thùng rác, mà gởi về cho ba để ba dạy cho các em Việt Nam tập viết chữ “Tự Do.” Vì đã từ lâu lắm rồi, quê hương ta không còn nghe hai chữ ấy nữa. Con trai qúy, Chiều nay hái đóa hồng vàng, ngắt từng cánh thả trên biển California, theo chiều gió Thái Bình Dương trôi dạt về đây, giúp ba kết lại Cờ Vàng, lá cờ mà ngày xưa má đã may tặng ba làm khăn quấn cổ mỗi đêm trời lạnh trên tuyến trực canh. Ba còn nhớ lúc con vừa sinh ra với làn da vàng. Màu vàng da con là màu má con hằng yêu thích và ca tụng. Chiều nay có tên du đảng nào đánh con, thì ba xin con đừng đánh lại, vì cái đau đớn ấy chẳng thấm bằng cú đá cú đấm của Cán Bộ Cộng Sản đánh ba hằng ngày. Con cần giành sức lực mà đánh lại kẻ thù đang đánh ba, đang đánh gia đình ta, đang đánh dân tộc ta. Con gái đi xi-nê tối nay có đứa nào hỗn với con, cũng xin con đừng oán thù nó. Hãy nhớ rằng má và các em con đang ở nơi quê nhà còn chịu nhục nhã bởi Cộng Sản Việt Nam và đau khổ hơn trăm phần! Ba mong các con thông cảm cho phần nào nỗi nhục của má, của các em mà có nhận thức về đại cuộc cứu má, cứu gia đình ta, cứu dân tộc ta. Hôm nay có kẻ vô thần nào nói động chạm đến tín ngưỡng tôn giáo của các con, xin đừng giận hờn nó, vì trên quê hương ta hôm nay giáo hội của các tôn giáo còn gánh chịu những sự xỉ vả, bôi nhọ, đầu độc bởi bọn Cộng Sản vô thần gấp triệu phần! Các con nên nghe lời dạy của ba má mà thực hiện công cuộc: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo – Đem đại nghĩa mà thắng hung tàn,” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo). Ba vẫn biết “Con hơn cha nhà có phúc,” các con là những người hiếu thảo, thương ba thương má, thương các em đang ở quê nhà, mà suy tính tìm đường Giúp Dân Cứu Nước, sách lược được chỉ dẫn trong Chánh Thuyết Tiên Rồng, nguồn sinh thức của Dân Tộc Việt Nam ngày nay. Gởi về cho ba giấy kẹo Xô-cô-la vừa mở trong lúc coi hát, để ba biết các con đang an vui giải trí. Gởi về cho ba mùi xăng vừa đốt trong lúc lái xe, để ba biết các con đang tự do di chuyển. Gởi về cho ba hơi men trong lúc say xưa bàn chuyện quốc sự, để ba có hy vọng các con sẽ có ngày trở về cứu má, cứu em, cứu gia đình và dân nước ta. Các con thương mến. Khi giòng chữ muộn màng này đến với các con, thì thời gian ngừng đọng và ba không còn sống trên cõi đời này nữa. Xót thương thay! Thân xác ba mang ra làm phân, bón cho gốc chuối, cho củ mì của nhà cán bộ Cộng Sản, tạo giúp thêm lương thực bồi bổ nuôi dưỡng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta. Đớn đau nhất là ba, phải đem hình hài máu huyết của Tổ Tiên giống dòng, mà đi xây đắp chủ trương xâm lăng “Vành Đai Con Đường – Nhất Đái Nhất Lộ” của chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc nhằm đô hộ Việt Nam. Mặc dù xác ba có chết nhưng hồn ba không chết. Khí phách của ba sẽ hòa hợp trộn lẫn với Đất Trời, Hồn Thiêng Sông Núi, Anh Linh Dân Tộc sống mãi và phù độ cho các con, cho gia đình, cho dân tộc hạnh phúc trường tồn. Hãy bình tâm ngạo nghễ đứng lên làm người, nghiên cứu về lãnh đạo và tổ chức! Hãy hiên ngang học hỏi và nhận lãnh trách nhiệm trả thù cho ba, rửa hờn cho nước. Mong các con sẽ cô đọng thời gian, rút ngắn thời gian trong đại cuộc cứu má cứu em, cứu dân cứu nước. Gia đình đang chờ Quê hương đang chờ Tổ chức cứu nước Nguồn: hoiquanphidung.com/showthread.php?29692-Ng%C3%A0y-30-Th%C3%A1ng-T%C6%B0
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:03:17 GMT 9
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 – Bỏ Ngõ Cam-RanhPosted on March 15, 2020 Điệp Mỹ Linh i2.wp.com/www.tranbinhnam.com/story/HaiQuan_RaKhoi_Original_files/image002.jpg?resize=567%2C426&zoom=2&zoom=2 Trong khi Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh thực hiện kế hoạch đổ bộ Qui-Nhơn thì, tại Cam-Ranh, một số Tướng lãnh từ Đà-Nẵng rút vào, xử dụng tư dinh của Phó-Đề-Đốc Minh làm nơi tạm trú.Trong tình cảnh hỗn loạn và không có sự hiện diện của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải tại Bộ-Chỉ-Huy, nhiều quân nhân ngang nhiên vào kho khiêng đi những dụng cụ điện tử Mỹ còn để lại. Về đến Cam-Ranh, chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho đám quân nhân vô kỹ luật này đem tất cả dụng cụ điện tử để lại chỗ cũ; nếu không, Ông sẽ bắn ngay tại chỗ. Sau đó, Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải dùng trực thăng thị sát diễn tiến những cuộc “đổ” và “bốc” quân. Tại vịnh Cam-Ranh, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, dùng một chiến đỉnh ra HQ 404 thăm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Tư-Lệnh Vùng I Chiến-Thuật. Sau đó, HQ 404 được lệnh ủi bãi Tân-Cảng để tất cả Thủy-Quân Lục-Chiến xuống Cam-Ranh; chỉ đưa một mình Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về Saigon. Trong khi Thủy-Quân Lục-Chiến rời HQ 404, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lặng lẽ rời chiến hạm, đi theo những người lính đã cùng chia xẻ những giờ phút cuối cùng trong đời binh nghiệp của Ông! Hạm-Trưởng HQ 404 trình: “Thưa Trung-Tướng, lệnh từ Saigon yêu cầu tôi đưa Trung Tướng về Saigon. Xin Trung Tướng ở lại tàu cho.” Trung Tướng Trưởng đáp: “Xin phép Saigon cho Thủy-Quân Lục-Chiến về Saigon dưỡng quân và chỉnh đốn hàng ngũ. Nếu bắt họ xuống Cam-Ranh thì tôi sẽ xuống luôn.” Yêu cầu của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Bộ-Tổng-Tham-Mưu chấp thuận. Co xuong ham Vinh Long HQ802Ảnh HQ 802 của Jane’s Fighting Ships Riêng HQ 802, sau khi “đổ” tất cả binh sĩ của Sư-Đoàn II Bộ-Binh, Thủy-Quân Lục-Chiến và đồng bào xuống Cam-Ranh, được lệnh trở ra Qui-Nhơn. Nhưng vừa ra khỏi vịnh Cam-Ranh, Hạm-Trưởng HQ 802 nhận được phản lệnh: Hủy bỏ công tác Qui-Nhơn. Về Cam-Ranh trình diện Vùng II Duyên-Hải. Trở lại Cam-Ranh, HQ 802 được lệnh chuyển vận toàn bộ thành phần còn lại của Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến về Vũng-Tàu. Từ Qui-Nhơn vào Cam-Ranh, HQ 403 kéo theo nhiều LCU Quân-Vận, LCVP, LCM và vớt thêm rất nhiều người trên những ghe chạy ven biển. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, cựu Tư-Lệnh mặt trận Kontum, nhập hạm lúc nào, tại hải phận nào, không ai hay. Khi vào đến vịnh Cam-Ranh, biết có sự hiện diện của Tướng Phạm Duy Tất trên chiến hạm, Hạm-Trưởng HQ 403 cặp bên hông HQ 3, mời Tướng Phạm Duy Tất sang HQ 3. Ngày 1 tháng 4, tại Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy hội ý với Trung Tướng Lê Nguyên Khang, phụ tá hành quân Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực V.N.C.H. và Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến. Phó-Đề-Đốc Thủy cho rằng với lực lượng cơ hữu và những đơn vị khác từ Đà-Nẵng và Qui-Nhơn rút vào, V.N.C.H. chỉ cần phá sập các cầu trên quốc lộ I thì có thể giữ được Cam-Ranh, chờ Saigon tăng phái để lập phòng tuyến Cam-Ranh. Tướng Khang và Tướng Lân đồng ý. Phó-Đề-Đốc Thủy liên lạc với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, xin hai đại đội Người Nhái để thực hiện công tác phá cầu. Sau khi nhận được yêu cầu của Phó-Đề-Đốc Thủy, vì tình hình tại Bộ-Tổng-Tham-Mưu rối loạn, Phó Đô-Đốc Cang phải liên lạc trực tiếp với Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm. Chiều 1 tháng 4, Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, thông báo cho Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy: Phải rút khỏi Cam-Ranh theo lệnh trên! Vào thời điểm này, trong lúc lên Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải nhận chỉ thị, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ, Chỉ-Huy-Phó Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Cam-Ranh, gặp Trung Tướng Lâm Quang Thi. Tướng Thi hỏi: – Anh còn bao nhiêu lính? Mình tử thủ. – Thưa, tôi còn một ngàn sáu trăm lính; nhưng vũ khí chỉ là vũ khí để huấn luyện chứ không có súng lớn. – Có đơn vị tiếp vận gần đây, anh ghé lấy. – Dạ, đơn vị đó đi hết rồi. – Nếu nó chạy thì nó chạy mình không chứ nó mang súng ống theo làm gì. Anh cứ tới phá kho. Mình tử thủ. Trung-Tá Võ không biết phải đáp như thế nào, chỉ cười, rồi vào phòng hành quân nhận lệnh. Khi Trung-Tá Võ trở ra, trực thăng chở các vị Tướng đang lấy đà, nâng thân tàu lên! Tối 1 tháng 4, HQ 403 được lệnh đón tân binh, quân nhân và gia đình tại cầu tàu Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Cam-Ranh. Cầu tàu không đèn, nước lại ròng và gió từ trong bờ thổi ra rất mạnh. Ba lần HQ 403 cập vào, cả ba lần đều bị dạt ra. Hạm-Trưởng HQ 403 phải đổi lối cặp lùi. Hạm-Trưởng HQ 403 thường áp dụng lối cặp này mỗi khi về bến, hoặc mỗi khi phải trực cầu Tư-Lệnh mà bị nước xuôi dòng. Những lần đó Hạm-Trưởng HQ 403 thành công. Nhưng lần này, vì không đèn, vị sĩ quan đứng sau lái không cho dấu hiệu kịp thời, cho nên HQ 403 đụng vào cầu và bị thủng một lỗ lớn! Trong khi Hạm-Trưởng và nhân viên HQ 403 tận dụng mọi khả năng để đưa chiến hạm vào cứu nhóm người trên cầu tàu thì, trong nhóm người ấy, một số quân nhân nổi loạn, cướp của, giết người, gây kinh khiếp một vùng. Một Trung-Đội Lôi-Hổ giúp Hải-Quân tước vũ khí đám loạn quân, tái tạo an ninh rồi mới đưa được mọi người lên HQ 403. HQ 403, được lệnh xuôi Nam trong khi nhiều thương thuyền ngoại quốc và xà-lan đầy người vẫn còn neo trong vịnh. Tình cảnh vịnh Cam-Ranh trong thời điểm này không khác chi Đà-Nẵng. Lính nổi loạn, bắn bừa ra chiến hạm. Người từ ghe hay tàu nhỏ hoặc xà-lan leo lên tàu lớn, hụt tay, rớt xuống biển. Trẻ em bị ném từ dưới ghe nhỏ hoặc xà-lan lên tàu lớn. Người trên tàu lớn chụp hụt, em bé rơi vào giữa hai thành tàu. Tiếng thét hãi hùng. Tiếng “bụp” khô khan. Vệt máu đỏ trên thành tàu. Một cơ thể tí ti chập chờn trên mặt nước đã loang màu hồng! Bên Ba-Ngòi, từng suối người cuồn cuộn tuôn về Nam. Ngày 2 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy rời Cam-Ranh bằng HQ 7. Chính chiến hạm HQ 7 này, đầu thập niên 60, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đã từng là Hạm-Trưởng. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, sau khi ra lệnh thiêu hủy kho dụng cụ điện tử do Mỹ để lại, lên HQ 3, vào phòng tuyến Phan-Rang. 2 giờ chiều cùng ngày, quân của Sư-Đoàn 10 Việt-Cộng tiến vào Cam-Ranh không gặp bất cứ một sự kháng cự nào cả! Nguồn: www.diepmylinh.com/cam-ranh
|
|