|
Post by Huu Le on Aug 4, 2006 17:07:54 GMT 9
Thực phẩm ăn liền không tốt cho sức khỏe Ảnh: Stuff.mit Mì, miến, bún, cháo, phở ăn liền... là những món ăn tiện dụng cho người ít thời gian. Tuy nhiên, theo các chuyên gia dinh dưỡng, nhóm thực phẩm này hoàn toàn không có lợi cho sức khỏe, chứa nhiều tác nhân gây bệnh. Nếu trước đây mì, bún ăn liền chỉ có một vài loại đơn giản như mì tôm cua, bún tôm, mì chay lá bồ đề thì nay có rất nhiều chủng loại, mùi vị như tôm chua cay, lẩu Thái, thịt bằm, thịt bằm xốt cà chua, kim chi, bò kho; phở vị bò, gà, bún cà ri; hủ tiếu bò viên... Tiến sĩ dinh dưỡng Nguyễn Thị Minh Kiều phân tích, thành phần chính của mì gói là mì ép thành bánh và bột nêm. Trên thế giới, mì thường được xử lý qua công nghệ sấy và chiên. Ở Việt Nam hiện nay, mì chỉ được xử lý qua công nghệ chiên. Dầu sử dụng để chiên là loại shortening không có lợi cho sức khỏe. Mì chiên có độ ôxy hóa cao (ôxy hóa là tác nhân gây ra các bệnh tiểu đường, tim mạch, ung thư). Thành phần chính của gói bột nêm là muối và bột ngọt; lượng thịt, tôm (nếu có) rất hạn chế. Dầu trong gói bột nêm cũng được xử lý chiên, bị ôxy hóa. Ngoài ra, trong các loại thực phẩm đóng gói, đóng hộp có rất nhiều muối. Ở mì ăn liền, muối có trong sợi mì và trong gói bột nêm chiếm 1/3 lượng muối cần thiết cho cơ thể mỗi ngày. Các loại mì gói chỉ đem lại năng lượng từ tinh bột trong mì, hầu như không có giá trị dinh dưỡng. Phở, bún, miến không an toàn do lượng đường, bột ngọt trong bột nêm và chất dầu bị ôxy hóa. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, đây là loại thực phẩm thiếu dinh dưỡng, người tiêu dùng nên hạn chế sử dụng. Nếu dùng mì ăn liền, tốt nhất nên trụng nước sôi để giảm bớt độ muối (các loại bún, phở, miến ăn liền không cần trụng nước sôi) và không nên sử dụng bột nêm. (Theo Người Lao Động) Ăn sung có thể phòng chống ung thư.
Đó là nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học. Trong quả sung có chứa glucose, saccarose, quinic acid, shikimic acid, oxalic acid, citric acid, malic acid, auxin, các nguyên tố vi lượng như calci, phospho, kali... và một số vitamin như C, B1... có khả năng ngăn ngừa ung thư và rất tốt cho cơ thể. Theo Đông y, quả sung có vị ngọt, tính bình, là một vị thuốc quí và chữa được nhiều bệnh với cách làm khá đơn giản. - Ho: Sung chín tươi 50-100g gọt bỏ vỏ, nấu với cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Có thể cho thêm ít nho khô hoặc đường phèn cho dễ ăn. Tác dụng rất hiệu quả. - Hen phế quản: Lấy sung tươi rửa sạch, giã nát rồi ép lấy nước cốt uống mỗi ngày 1 lần. - Táo bón: Sung chín ăn mỗi ngày 3-5 quả. Đây là bài thuốc dân gian khá hiệu nghiệm. - Viêm, đau khớp: Sung tươi 2-3 quả rửa sạch thái vụn rồi tráng với trứng gà ăn. Bên cạnh đó,trong quả sung còn chứa axit amino vốn được tin là giúp tăng cường sự hoạt động tình dục và làm tăng sức chịu đựng cường độ ở mỗi người. Ngoài ra, từ quả sung ta có thể chế biến thành những món ăn rất ngon và bổ dưỡng như: sung kho cá, sung xanh ăn gỏi, sung muối chua đóng lọ, sung hầm chân giò...
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 12, 2006 9:08:41 GMT 9
Cơ thể con người Cơ thể con người là một trong những bộ máy kỳ diệu nhất. Cứ thử tưởng tượng quả tim của chúng ta phải làm việc suốt 70-80 năm trời không một giây phút ngừng nghỉ, thì mới thấy được hết sự kỳ diệu đó. Tuy mang tiếng là chủ sở hữu, nhưng không mấy ai trong chúng ta hiểu hết những gì xảy ra trong cơ thể mình.
- Trong suốt một đời người, quả tim đập 3 tỷ lần và bơm 48 triệu gallon máu.
- Mỗi ngày, máu thực hiện một cuộc hành trình dài 96.540 km trong cơ thể chúng ta.
- Bộ não trung bình của một người có 100 tỷ tế bào thần kinh.
- Các xung động thần kinh truyền đến não và từ não truyền đi với vận tốc 274 km/giờ.
- Không bao giờ bạn có thể hắt hơi mà không phải nhắm mắt.
- Khi bạn hắt hơi, mọi chức năng của cơ thể đều ngưng hoạt động, kể cả trái tim.
- Dạ dày của bạn cần phải tạo ra một lớp màng nhày mới cứ sau hai tuần lễ, nếu không, nó sẽ tự "tiêu hoá" nó.
- Cần có sự tương tác của 72 cơ bắp khác nhau để tạo nên tiếng nói của chúng ta.
- Tuổi thọ trung bình của mỗi chiếc gai lưỡi là 10 ngày.
- Tiếng ho văng ra khỏi miệng chúng ta với vận tốc 96 km/giờ.
- Đứa trẻ sinh ra không có xương bánh chè. Phải chờ khi chúng được từ 2 đến 6 tuần tuổi thì bộ phận này mới xuất hiện.
- Chúng ta sinh ra với 300 khúc xương, khi trưởng thành, chỉ còn 206 xương.
- Đứa trẻ lớn nhanh hơn cả vào mùa xuân.
- Trong suốt một đời người, phụ nữ chớp mắt nhiều gần gấp 2 lần đàn ông.
- Một người nháy mắt trung bình 6.205.000 lần mỗi năm.
- Người còn một mắt chỉ bị mất khoảng 1,5 thị lực, nhưng mất toàn bộ cảm giác về chiều sâu.
- Từ lúc sinh ra cho đến khi trưởng thành, mắt của chúng ta vẫn không thay đổi, trong khi đó, tai và mũi không ngừng phát triển cho đến lúc cuối đời.
- Trung bình một đời người, chúng ta đi bộ trên một quãng đường dài bằng 5 lần đường xích đạo.
- Da đầu một người trung bình chứa 100.000 sợi tóc.
- Hộp sọ con người được cấu tạo bởi 29 xương khác nhau.
- Tốc độ mọc dài ra của móng tay tương ứng với chiều dài ngón tay. Móng tay của ngón giữa mọc nhanh nhất. Móng tay mọc nhanh gấp đôi móng chân.
- Tóc và móng tay có cùng một chất liệu cấu tạo như nhau.
- Khi con người chết đi, cơ thể khô lại, tạo ra ảo giác là móng tay và tóc còn tiếp tục mọc thêm sau khi chết.
- Diện tích bề mặt của ruột là 200 m2.
- Diện tích bề mặt của da người là 2 m2.
- Một người trung bình bị tróc đi hơn 18 kg da trong một đời người.
- Cứ mỗi giây qua đi, có 15 triệu tế bào máu bị tiêu huỷ trong cơ thể.
- Mỗi năm qua đi, có khoảng 98% nguyên tử trong cơ thể bị thay thế.
- Quả tim con người tạo ra một áp suất đủ để đẩy máu đi xa 9 m.
- Xương đùi của con người cứng hơn bê tông.
- Dưới lớp da mỗi người có 72 km dây thần kinh.
- Mỗi 2,5 cm2 da người chứa 6 m mạch máu.
- Cứ mỗi 24 giờ, một người trung bình thở 23.040 lần.
Suu Tam
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 5:57:16 GMT 9
Hành tỏi ngừa ung thư: Đã được chứng minh 23.11.2006 Nếu mùi của nó làm bạn khó chịu, hãy ngậm một chút bạc hà. Đó là lời khuyên của các nhà nghiên cứu Italia bởi họ khẳng định rằng việc ăn nhiều hành và tỏi sẽ giúp ngăn ngừa ung thư hiệu quả. Các nhà nghiên cứu Italia đã phát hiện ra rằng những người có chế độ ăn giàu hành tỏi và các loại thực vật họ hành tỏi ít bị ung thư hơn những người ghét chúng. Nhà nghiên cứu Carlotta Galeone, Viện nghiên cứu Ricerche Farmocologiche "Mario Negri" (Milan) và các cộng sự cho biết những lợi ích từ hành, tỏi đã được biết đến từ nhiều thế kỷ trước nhưng rất ít những nghiên cứu khoa học chứng minh được lợi ích thực sự của chúng. Trong nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đã lấy dữ liệu nghiên cứu về ung thư của một số nhà khoa học Italia và Thụy sĩ và xem xét nó trong mối quan hệ giữa các loại hành tỏi với các bệnh ung thư liên quan tới nhiều bộ phận của cơ thể như miệng, thanh quản, thực quản, ruột kết, ngực, buồng trứng và thận. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ cần ăn hành ở mức trung bình (5 -10lần/tuần), con người đã có thể giảm nguy cơ bị ung thư ruột, ung thư thanh quản và buồng trứng. Hiệu quả bảo vệ sẽ tăng lên khi ăn nhiều hành hơn. Những người ăn nhiều hành nhất (22lần/tuần) cũng có nguy cơ bị ung thư miệng và thực quản ít hơn hẳn so với những người ăn ít nhất. Việc ăn lượng tỏi cũng cho kết quả tương tự: những người bị ung thư thường ít ăn tỏi hơn. Những người ăn nhiều tỏi cũng ít có nguy cơ bị ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến nhờ khả năng kết hợp với các hormone trong cơ thể cũng như tái tạo tế bào, các nhà nghiên cứu cho biết. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết việc ăn hành và tỏi có thể xem là liệu pháp đơn giản giú tăng cường sức khỏe và hỗ trợ cho chế độ ăn nhiều rau quả, sử dụng thảo dược để chống lại căn bệnh ung thư. (Theo Bác Sĩ Gia Đình)
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:03:47 GMT 9
Sinh con khi lớn tuổi - Nguy hiểm cả mẹ và con 22.11.2006 Vì nhiều lý do, tỷ lệ bà mẹ sinh con ở tuổi trên 35 ngày càng tăng trong những năm gần đây. Điều này dẫn đến hậu quả là nhiều sản phụ phải đối mặt với những hội chứng nguy hiểm như tiền sản giật, dọa sinh sớm... Đáng lưu ý là tỷ lệ dị tật ở nhóm trẻ sơ sinh “muộn mằn” này cũng tăng cao hơn nhiều so với bình thường... Bác sĩ Nguyễn Viết Tiến - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết. Sản phụ lớn tuổi tăng nhanh Theo ông Tiến, trong 3 - 4 năm trở lại đây, do chịu áp lực trong công việc và xã hội, số sản phụ sinh lần đầu ở tuổi trên 30 đã tăng đáng kể. Điều nguy hại đầu tiên là họ thường đối mặt với các triệu chứng nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và con như tiền sản giật, doạ sinh non... Ngoài ra, phần lớn trong số họ đều rơi vào tình trạng khó sinh và phải nhờ đến các biện pháp hộ sinh do tầng sinh môn còn chắc, sức rặn yếu hơn các sản phụ trẻ hơn nên việc rặn không có hiệu quả cao và phải nhờ đến sự can thiệp bên ngoài của bác sĩ. Phương pháp hộ sinh phổ biến nhất là mổ đẻ. Với cách này, sản phụ sẽ phải chịu một vết thương ở tử cung và buộc phải chờ đợi một thời gian dài nữa mới được phép mang thai lần thứ hai. Tuy nhiên, do đã quá thời kỳ sung mãn trong độ tuổi sinh đẻ nên cơ hội thụ thai của họ cũng giảm đi rất nhiều, chưa kể đến những tai biến có thể gặp với xác xuất lớn khi sinh. Bên cạnh đó sự mệt mỏi trong quá trình thai nghén lần sau của các sản phụ cũng tăng lên đáng kể. Những con số thống kê về sảy thai tăng theo tuổi tác cũng cho thấy, gần 15% phụ nữ bị sảy thai dưới 35 tuổi, tỷ lệ sảy thai tăng lên 20% ở độ tuổi 35 - 37 và tiếp tục cao hơn nữa ở những lứa tuổi lớn hơn. "Phụ nữ có thai ở lứa tuổi trên 30 thường tăng nguy cơ đẻ con bị dị tật và hội chứng đao (Down) cũng tăng lên. Nguyên nhân do tuổi tác làm cho các thể nhiễm sắc ở trứng không tách biệt tốt, chúng dễ kết dính với nhau và khi tạo thành một tổ hợp nhiễm sắc thể nào đó thì có thể dẫn đến hội chứng Down và nhiều bệnh khác do có nhiễm sắc thể thừa"- Ông Tiến cho hay. Những biến chứng dễ gặp khi sinh nở muộn Bác sĩ Lan Hương - Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đưa ra lời khuyên: "Sinh sớm hơn hay muộn hơn về mặt lý thuyết đều không thuận lợi về tâm, sinh lý cho cả sản phụ và thai nhi". Với những phụ nữ sinh nở lần thứ nhất khi đã trên 30 tuổi cần lưu ý thường xuyên đi khám thai định kỳ để phát hiện dị tật và những biến chứng có thể gặp phải. Bên cạnh đó nên đề phòng một số chứng bệnh hay gặp phải như: Tiền sản giật: Là bệnh nhiễm độc thai ngén thường gặp, chiếm tỉ lệ 5% - 8% số phụ nữ mang thai và dễ gặp ở thai phụ lớn tuổi. Bệnh có biểu hiện đặc trưng là cao huyết áp, phù mặt, tay và nước tiểu nhiều chất đạm. Dấu hiệu phù mặt, tay của tiền sản giật rất dễ bị nhầm lẫn với hiện tượng phù nề do xuống máu. Tiền sản giật có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho người mẹ và thai nhi. Người mẹ có nguy cơ bị tổn thương gan, thận, chảy máu (máu chảy không cầm được hay co giật khi chuyển dạ). Bệnh cũng khiến thai nhi chậm phát triển, thậm chí thai bị chết lưu trong tử cung. Nếu được phát hiện và điều trị sớm có thể dẫn đến biến chứng rau bong non, phù phổi, xuất huyết não, rối loạn tâm thần cho mẹ hoặc tử vong. Bệnh tim: Các thai phụ ở mọi lứa tuổi nên lưu ý đặc biệt trong 4 tháng mang thai cuối cùng. Nếu gặp một số triệu chứng như khó thở, nặng ngực, mệt mỏi, thở dốc... diễn ra thường xuyên cần nghĩ đến khả năng thai phụ có bệnh tim dẫn đến tình trạng thiếu oxy mãn tính khiến thai nhi phát triển không tốt. Nếu tình trạng này kéo dài dễ dẫn đến tình trạng bị sảy thai, sinh non, thai chết lưu. Tiểu đường: Nguy cơ mắc tiểu đường khi mang thai thường hay xảy ra ở những người sống trong gia đình có tiền sử căn bệnh tiểu đường, thai phụ tăng cân quá nhiều (tăng trên 20 cân tính đến tháng cuối) hay trước đó hay sảy thai, sinh non. Với những phụ nữ lớn tuổi khi cóá thai kèm theo những cảnh báo trên cần thường xuyên đến các cơ sở y tế để phát hiện những biến chứng có thể xảy ra. (Theo Bác Sĩ Gia Đình)
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:39:06 GMT 9
Bảy động tác những người vợ yêu chồng cần biết Hình 1: Động tác xoa lưng và eo. Khi người chồng bị liệt dương thứ phát, người vợ có thể giúp cải thiện tình hình nếu kiên trì sử dụng các động tác được mô tả trong cuốn "Massage thực hành bảo vệ sức khỏe qua hình vẽ" của tiến sĩ Zhizhizuofu (Nhật Bản). Những động tác này có tên gọi là Thuật massage dành cho vợ chồng. Zhizhizuofu là một đại sư trong lĩnh vực xoa bóp ở Nhật Bản, từng có 40 năm kinh nghiệm hành nghề và nghiên cứu. Cuốn "Massage thực hành bảo vệ sức khỏe qua hình vẽ" ra đời năm 1999 và lập tức trở thành cuốn sách phi văn nghệ bán chạy nhất trong năm. Sau đây là 7 động tác massage chữa bệnh liệt dương được rút ra từ sách này: 1. Xoa lưng và eo (hình 1): Đặt hai tay hai bên sống lưng, vừa xoa vừa di chuyển từ lưng xuống eo, làm tất cả 5 lần. 2. Day bấm các huyệt: - Dùng hai ngón tay cái day các huyệt đảm thự (nằm dưới đốt sống thứ 10, cách sống lưng mỗi bên khoảng 4,5cm), thận thự (tại thắt lưng, dưới đốt sống thứ 2 tính từ dưới lên, cách sống lưng 4,5 cm), mỗi huyệt 100 lần. Hình 2: Đấm mông. - Dùng khuỷu tay ấn các huyệt trung khu (chính giữa lưng, dưới đốt sống thứ 10), huyệt mệnh môn (chính giữa thắt lưng, dưới đốt sống thứ 2 tính từ dưới lên) mỗi huyệt 10 lần. 3. Đấm mông (hình 2) 100 lần. Hình 3: Xoa rốn. 4. Xoa rốn (hình 3) 200 lần. 5. Ấn huyệt hoang thự (khoảng giữa bụng, cách rốn 1,5 cm): Dùng hai ngón tay cái, ấn khoảng 20 giây rồi nhấc lên, làm lại 5 lần (hình 4). Hình 4: Ấn huyệt hoang thự. 6. Lại day bấm huyệt: Dùng các ngón tay day bấm các huyệt sau, mỗi huyệt 100 lần: - Quan nguyên: Bụng dưới, cách rốn 9 cm. - Trung cực: Bụng dưới, cách rốn 4,5 cm, chếch 1,5 cm. Hình 5: Chà xát huyệt dũng tuyền. - Túc tam lý: Bắp chân, phía trước, cách đầu gối một ngón tay. - Tam âm giao: Bắp chân, phía trong, khoảng sau đầu gối 7. Chà xát huyệt dũng tuyền (ở giữa lòng bàn chân): 100 lần mỗi bên (hình 5). Tiền Phong Chủ Nhật
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:44:18 GMT 9
Sự nguy hiểm của nụ hôn Một phương pháp hữu hiệu phòng sâu răng. Có lẽ các đôi uyên ương đành phải chấp nhận chỉ nắm tay nhau trong Ngày lễ Tình yêu năm nay. Bởi vì, khi hôn, người ta truyền cho nhau vi khuẩn sâu răng! Và cũng đừng buồn, nếu bạn chỉ có một mình: "Bớt" một nụ hôn là "bớt" được khoảng 500 vi khuẩn lăm le tấn công. Đó là chưa kể đến virus đấy nhé. "Thời gian và chất lượng" "Hôn nhau là cách tốt nhất để truyền virus". Đó là ý kiến của Giáo sư Lewis Smith, Đại học Northwestern, Chicago (Mỹ). Bởi vì các nụ hôn khác nhau về cường độ và thời gian, nên không thể biết "cần" mấy nụ hôn để bạn "ngã bệnh". Các chuyên gia thì cho rằng có 10 virus là truyền được bệnh. Do đó, hôn nhau càng lâu, càng mạnh thì virus càng dễ tấn công đối tượng mình yêu. Bám chặt, tấn công, xâm nhập Trong "hàng ngũ" các virus gây cúm, virus cúm A được xem là thông minh nhất. Phương châm tồn tại của nó là sao chép phiên bản của mình trong môi trường ấm áp, giàu chất dinh dưỡng như cơ thể người. Để tiếp cận mục tiêu, virus này sử dụng các "phương tiện giao thông" như những cái ho, hắt hơi, hay nước bọt của nụ hôn. Được trang bị bởi một loại protein có khả năng bám dính, nó bám ngay vào bề mặt tế bào lành và phòng thủ ở đó cho đến khi chui được vào trong. Tại đây, các vị khách không mời này dùng năng lượng của tế bào để sản xuất các bản sao của mình. Và như vậy, virus cứ nhân lên, nhân lên mãi, cho tới khi tế bào không thể chứa nổi tất cả những bản sao này và vỡ tung ra. Lúc này, đã có hàng trăm hàng nghìn virus bám chặt lấy các tế bào khoẻ mạnh khác trong cơ thể. Virus "ủ bệnh" trong vài ngày, sau đó nạn nhân bắt đầu hắt hơi, mệt mỏi, sốt nhẹ. Và chẳng bao lâu nữa, chàng (hay nàng) chỉ còn có thể "hôn" mấy chiếc khăn giấy mà thôi! Cuộc chiến Tuy nhiên, cơ thể cũng có cách chống trả. Giáo sư Howard Berg, Đại học Harvard (Mỹ) nói: "Quá trình lành bệnh giống như một cuộc chiến". Bạn có thể hắt hơi, thấy đau cơ, ngạt mũi, đau họng nhưng đó là tín hiệu tốt. Nó chứng tỏ hệ miễn dịch của bạn đã được huy động. Các tế bào lympho, với khả năng tự chuyển động, là thành phần chính của đội quân này. Khi cuộc chiến giữa các tế bào lympho và virus xảy ra, tại phổi sẽ xuất hiện phản ứng viêm. Nhưng cuối cùng, hệ miễn dịch sẽ chiến thắng. Trật tự được lập lại. Toàn bộ quá trình từ khi nhiễm bệnh đến khi khỏi bệnh kéo dài khoảng 2 tuần. Theo thống kê, hàng năm nước Mỹ phải tiêu tốn khoảng 14,6 tỷ USD cho căn bệnh này. Bây giờ, bạn có cảm thấy dễ chịu hơn vì chưa có người yêu hay không? Thu Thuỷ (theo ABC, Reuters,14/2).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 27, 2006 16:01:38 GMT 9
7 quan niệm sai lầm về cảm cúm ở trẻ em
mà các bà mẹ nên tránh
--------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Thị Hồng
khoa: Đông phương học-ĐHKHXH & NV
E-mail: hong48_dongphuong@yahoo.com
14 tháng 12 năm 2006 "www.khoahoc.net"--------------------------------------------------------------------------------
Khi bị cảm, cúm, đau dạ dầy, và viêm tai mỗi người đều có một cách ” xử trí “, phương pháp chữa trị có thể được truyền từ đời này sang đời khác, hoặc dựa vào những hiểu biết khoa học đã có. Một số ít người lại cho rằng đó là chuyện bình thường, không đáng lo ngại. Chỉ riêng bệnh cảm cúm – căn bệnh rất dễ gặp không chỉ ở trẻ em mà cả người lớn, ở cả người sức yếu lẫn người khoẻ thì những hiểu biết về nó của mọi người vẫn còn rất mù mờ. Sau đây là 7 quan niệm sai lầm mà các bà mẹ trẻ rất hay mắc phải khi thấy các bé bị cảm cúm.
1. Cảm thì cho ăn, sốt nên bỏ đói. Đây là một câu nói nổi tiếng của Mark Twain nhưng sự thật đơn giản không phải như vậy. “Tất cả trẻ em và kể cả người lớn khi bị ốm, giả sử bị cảm lạnh, sốt hay cả hai thì đều cần nạp dinh dưỡng và nước để khoẻ hơn”, bà Liegh Ann Greavu – chuyên viên về ăn uống ở phố Paul, Minnessota phát biểu. “Nếu con của bạn không thích ăn cứng thì phở gà, nước hoa quả ép và thậm chí một cây kem cũng là sự lựa chọn tốt “
2. Chất nhầy màu xanh chứng tỏ các con bạn đã mắc phải chứng bệnh gì đó nguy hiểm hơn bị cảm thông thường.
Không phải lúc nào cũng đúng như vậy vì chất nhầy sạch là hiện tượng bình thường thì chất nhầy xanh hay vàng có thể sẽ là triệu chứng của bệnh cảm.Tuy nhiên, nếu chất nhầy không màu lại kèm theo các triệu chứng như sốt cao dai dẳng, chán ăn, ho và chảy máu cam... rất có thể là dấu hiệu nhuyễn trùng, nhiễm trùng khác cảm là đòi hỏi phải dùng đến kháng sinh. Nếu bạn để ý thấy con bạn thường xuyên có nhầy xanh hoặc vàng thì rất có thể con bạn đã mắc phải chứng bệnh nào đó(chẳng hạn như nấm sùi vòm họng ), chính căn bệnh này gây ra sự nhiễm trùng. Trong trường hợp đó, hãy đưa con bạn đến bác sĩ ( đây là cách tốt nhất để phá vỡ chu kỳ tiềm ẩn của mầm cúm).
3. Cảm và cúm chủ yếu bị lây trước khi các triệu chứng xuất hiện.
Hầu như Cảm cúm dễ dàng bị lây khi các triệu chứng xấu đã xuất hiện. Thông thường là lây qua ho hoặc hắt hơi (chứa virut cúm) hoặc lây qua đường tiếp xúc tay với tay. Đặc biệt, trẻ rất dễ bị nhiễm bệnh khi sức đề kháng yếu. Tuy nhiên cho dù thế nào thì nguy cơ mắc bệnh vẫn luôn thường và léo dài dai dẳng. Vì vậy thậm chí khi các bé đã khỏi bệnh, đưa bé đi nhà trẻ. Nhà trẻ có thể vẫn từ chối nhận.
4.Các tốt nhất là cứ để mặc những cơn sốt nhẹ.
Điều này phụ thuộc vào tình trạng của con bạn như thế nào. Những cơn sốt sẽ giúp chống lại sự lây bệnh bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch, giết chết các con vi khuẩn và virut vốn không thể tồn tại ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ bình thường của cơ thể. Nhưng thật khó chấp nhận khi cứ để mặc con bạn chịu đựng như vậy. Hãy cố gắng duy trì sự thoải mái cho bé và để cơ thể của con bạn làm công việc của nó. Daniel Levy, phó giáo sư - bác sĩ tại trường Đại học Dược Maryland ở Baltimore nói. Nếu bé bị sốt nhẹ nhưng nhường như rất mệt, ngủ lịm đi, hoặc đau mỏi thì hãy cho bé uống Acetaminophen hoặc Ibuprofen, thuốc sẽ giúp cho con bạn cảm thấy thoái mái và ngủ tốt hơn. Nếu thấy bé khoẻ và thoái mái hơn mặc dù sốt cao gần 40 °C, thì chỉ việc để mắt đến con bạn ( chỉ để chắc chắn rằng sự trao đổi chất của con bạn vẫn tốt). Trừ trường hợp: Đối với bé dưới 6 tháng tuổi, hễ thấy sốt ,cách tốt nhất là lập tức gọi điện cho bác sĩ.
5.Chế độ ăn kiêng chuối + cơm + táo thắng nước đường + bánh mỳ là tốt nhất khi bé bị bệnh tiêu chảy.
Chế độ ăn gồm chuối, cơm, táo thắng nước đường và bánh mỳ đã từng được sử dụng như một đơn thuốc chuẩn mực để trị bệnh tiêu chảy. Tuy nhiên, một bữa ăn nhiều cơm và chuối tráng miệng không phải là nhu cầu thích hợp với một đứa trẻ đang ốm.
“Con bạn sẽ nhanh khoẻ hơn nếu bạn cho bé ăn những gì mà bé vẫn thường ăn”, Andrea McCoy, Phó Giáo sư-Bác sĩ khoa nhi tại trường đại học Pennsylvania ở Philadelphia phát biểu. (chỉ tránh thức ăn cay, có mỡ và nước ép hoa quả )
6. Đừng hôn bé nếu bạn bị cảm cúm.
“Sự thật thì một cái hôn môi sẽ chẳng gây hại gì “, Neil schachter, Bác sĩ đồng thời là tác giả của cuốn “Sự chỉ dẫn cần thiết của bác sĩ về bệnh cảm cúm” đã nói vậy.
không giống một cái hắt hơi hay một cơn ho làm bắn ra hơi nước có chứa đầy vi rut cúm, nước bọt trong miệng bạn chứa rất ít vi rút cúm. Vì vậy, điều khó tin bệnh cúm rất khó lây khi hôn. Cách tốt nhất để ngăn ngừa bé bị lây bệnh cúm từ bạn là: hãy thường xuyên rửa tay sạch sẽ.
7.Cúm sẽ gây ra viêm tai.
Nó có vẻ là như vậy, nhưng tất cả bệnh cúm đều do vi rút gây ra, trong khi 90 % viêm tai lại do vi khuẩn gây nên. Vậy tại sao con bạn lại thường viêm tai mỗi khi bị cúm? “bệnh cúm tạo ra chất nhầy và sự tích tụ dịch lỏng trong tai, đây là một môi trường tốt cho bệnh viêm tai khi vi khuẩn lớn lên”, Ari Brown, bác sĩ đồng thời là tác giả của cuốn “Dành cho bé khi mới biết đi - 411 những câu trả lời rõ ràng và lời khuyên sáng suốt nhất cho bé của bạn”, nói.
(theo CNN – Health)
Nguyễn thị Hồng
khoa: Đông phương học-ĐHKHXH & NV
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 25, 2007 17:09:56 GMT 9
mùa ngừa cúm Bác sĩ Nguyễn Văn Đức Chà, cuộc đời sao mà mau thế, Thu đã đây rồi, với hơi thu lành lạnh khiến ta bâng khuâng. Lại đến lúc chúng ta bàn chuyện chống cúm trước khi Đông sang. Trong năm, Đông là mùa đáng ngại nhất. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization), mỗi mùa Đông, bệnh cúm đến thăm 20% dân số địa cầu, gây ra 5 triệu trường hợp bệnh nặng, và ít nhất 250.000-500.000 cái chết. Cúm quan trọng đến nỗi, Tổ chức Y tế Thế giới, phối hợp với Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh Hoa Kỳ (CDC), không ngớt để mắt theo dõi sự hoành hành của nó. (Cứ đụng đến cúm là dữ, vùng Đông Nam Á từ năm trước, lai rai có dịch cúm gà, diệt mãi không xong, thỉnh thoảng lây sang người, khiến người chết. Bệnh cúm gà chưa có thuốc ngừa.) Sơ lược về cúm Cúm gây bởi siêu vi cúm “Influenza” (Influenza virus), đến vào mùa Đông mỗi năm, từ tháng 12 tới khoảng tháng 4. [Cảm (cold) thì quanh năm, do những siêu vi hiền hơn siêu vi cúm.] Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hàng năm, cúm gây ra ít nhất 250.000-500.000 cái chết trên khắp thế giới. Riêng ở Mỹ, những năm gần đây, tuy không có dịch lớn, cúm vẫn giết hại 20.000-50.000 người mỗi mùa Đông. 80-90% những người chết vì cúm ở khoảng tuổi trên 65. Thứ đến, những người mang các bệnh kinh niên. Bây giờ, người ta lại thấy cả trẻ em trong khoảng tuổi 6 đến 23 tháng cũng hay có biến chứng nguy hiểm khi nhiễm cúm. Mức độ tấn công của cúm có thể lên đến 20-30% (cứ 10 người, 2-3 người bị cúm), làm xáo trộn hoạt động nhiều giới: trẻ em nghỉ học, người lớn nghỉ việc. Siêu vi cúm có đặc tính gian manh, biết thay hình đổi dạng, mỗi năm mỗi khác, nên việc phòng ngừa cúm cần được thực hiện hàng năm. Thuốc chích ngừa cúm mỗi năm một khác, với hy vọng có thể ngừa được dịch cúm tiên đoán sắp xảy ra trong mùa Đông năm đó. Siêu vi cúm có trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Bệnh truyền từ người bị cúm sang người lành khi những hạt nước nhỏ li ti chứa siêu vi cúm, bắn ra từ mũi, miệng người bệnh lúc họ ho, hắt hơi. Bắt tay, ôm nhau cũng có thể truyền bệnh (tay bạn dính nước mũi, nước miếng người bệnh, rồi bạn vô tình đưa tay lên mũi, miệng mình, thế là xong!). Trong nhà có người nhiễm cúm, bạn khó tránh lây bệnh. Cúm nặng hơn cảm nhiều, gây nhức đầu, nóng sốt (thường trên 38.3 độ C hay 101 độ F), ớn lạnh, yếu mệt, khó chịu trong người, nhức mỏi các bắp thịt. Đi kèm là các triệu chứng hô hấp: sổ mũi, đau cổ họng, ho khan, đau tức vùng giữa ngực. Những trường hợp cúm nặng có thể làm người bệnh mê sảng. Nóng sốt cao nhất trong vòng 24 tiếng đầu (có thể lên đến 41 độ C), sau đó giảm dần 2-3 ngày sau. Thỉnh thoảng, cũng có những trường hợp sốt kéo dài cả tuần. Nhức đầu thường dữ dội, làm người bệnh khó chịu nhất. Các bắp thịt toàn cơ thể nhức mỏi như dần, nhất là ở vùng lưng dưới và chân. Có người đau nhức cả các khớp xương. Nếu không có biến chứng, các triệu chứng nhẹ đi trong vòng 3 đến 5 ngày, nhưng thời gian hồi phục để có thể trở lại làm việc như trước thường chậm hơn khi bị cảm, mất nhiều ngày hay nhiều tuần, nhất là ở người lớn tuổi. Cúm không nguy hiểm vì các triệu chứng, song vì các biến chứng (complications) của nó. Biến chứng thường xảy ra nhất của cúm là sưng phổi. Siêu vi trùng cúm, dữ hơn các siêu vi trùng cảm, làm tổn thương niêm mạc (mucosa) lót lòng các ống phổi. Sưng phổi do chính siêu vi trùng cúm gây ra, hoặc do các vi trùng (bacteria) luôn có sẵn trong đường hô hấp. Các vi trùng này thường ngày không sao, nay nước đục thả câu, bám vào những chỗ niêm mạc bị siêu vi cúm làm tổn thương, tấn công luôn, gây sưng phổi. Biến chứng sưng phổi hay xẩy ra ở các vị lớn tuổi, hoặc người có bệnh tim, bệnh phổi kinh niên. Biến chứng nguy hiểm khác của cúm là hội chứng Reye (Reye syndrome) ở trẻ em. Hội chứng Reye hay xảy ra nhất trong khoảng tuổi 2 đến 16, vài ngày sau khi nhiễm cúm. Khi các triệu chứng của cúm có vẻ như đang bớt dần, trẻ đột nhiên buồn nôn, ói mửa. Sau đó khoảng 1-2 ngày, trẻ lờ đờ, mê sảng, giật kinh phong (seizure), rồi đi dần vào mê sảng và có thể chết. Trước kia, khi người ta chưa biết nhiều về hội chứng Reye, tử vong lên đến hơn 40% (10 trẻ bị hội chứng Reye, hơn 4 trẻ chết). Nay, dù với sự định bệnh mau chóng và các cách chữa trị thích ứng, tử vong vẫn còn khoảng 10% (10 trẻ bị, 1 trẻ chết). Cơ chế gây hội chứng Reye ở trẻ em nhiễm cúm hiện chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, người ta nhận thấy các trẻ nhiễm cúm, nếu dùng Aspirin, sẽ dễ bị hội chứng Reye hơn các trẻ không dùng Aspirin. Con số trẻ em bị hội chứng Reye nay đã giảm đi nhiều, kể từ khi các bậc phụ huynh được báo động, không còn dùng Aspirin cho các trẻ em bị cảm hay cúm. Các biến chứng khác của cúm: viêm sưng các bắp thịt, sưng cơ tim, sưng óc, ... Ngoài ra, ở những người đang có bệnh tim, phổi hay thận kinh niên, cúm cũng có thể làm các cơ quan này, vốn đã yếu sẵn, thành suy yếu hơn, đe dọa tánh mạng người bệnh. Ngừa cúm Phương pháp trị cúm hữu hiệu nhất vẫn là ngừa cúm. Với bệnh cúm, quả “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Từ năm ngoái, ngoài thuốc chích để ngừa như hàng năm, còn có thêm thuốc ngừa Flumist, xịt vào mũi. Thích thật, không phải chích mà vẫn ngừa được cúm! Nhưng tiếc thay, Flumist kém hữu hiệu hơn thuốc chích, chỉ nên dùng ngừa cho người khỏe trong khoảng 5 đến 49 tuổi. Thuốc chích ngừa cúm chế từ các siêu vi cúm A và B đã gây bệnh trong mùa cúm năm trước, cấy vào trứng, cho sinh sôi nảy nở, sau đó bị làm yếu đi để không thể gây bệnh, nhưng vẫn có khả năng tạo kháng thể cho người được chích. Sau khi chích ngừa, dù sự bảo vệ không 100%, ít ra cũng 50-80%. Rủi vẫn bị cúm, triệu chứng thường nhẹ hơn, ít nóng sốt, ít sưng phổi. Thuốc chích và cả thuốc xịt Flumist đều dùng trứng làm chất đệm, nên những người ăn trứng có phản ứng (egg allergy: nổi mẩn đỏ, lên cơn suyễn, chóng mạët, xỉu, ...), không nên chích ngừa hoặc dùng Flumist. * Những ai cần chích ngừa cúm? Tiểu Ban Cố Vấn về Chích Ngừa đề nghị chích ngừa cúm cho các trẻ em (từ 6 tháng trở lên) và những người lớn bị nguy hiểm nếu nhiễm cúm, do cao tuổi hoặc vì đang mang bệnh làm cơ thể yếu sẵn: - Người lớn trên 64 tuổi, dù không có bệnh gì quan trọng. - Trẻ em trong khoảng tuổi 6-23 tháng. - Phụ nữ mang bầu, thai kỳ sẽ vào tháng thứ 4 trở đi khi mùa cúm đến. - Trẻ em tuy ngoài khoảng tuổi 6-23 tháng và người lớn tuy dưới 65, tuy không mang thai, nhưng đang có các bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh phổi (kể cả suyễn), bệnh thận, bệnh tiểu đường, thiếu máu nặng, bệnh AIDS, ..., hoặc người đang phải dùng những loại thuốc khiến sức kháng cự của cơ thể suy giảm (như thuốc Prednisone), thuốc chống ung thư. - Người đang ở trong các viện chăm sóc đặc biệt (nursing homes). - Người dưới 19 tuổi đang phải dùng Aspirin lâu dài (vì họ có thể bị hội chứng Reye nếu nhiễm cúm). - Các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, có nhiệm vụ trực tiếp săn sóc những người thuộc các thành phần kể trên, cả người nhà (household contacts) nữa, cũng nên chích ngừa để tránh nhiễm cúm rồi lây lại cho người thuộc các thành phần cần được chích ngừa cúm kể trên. Ngoài ra, tuy không thuộc các thành phần trên, nhưng sợ cúm dữ, ai trong chúng ta cũng có thể chích ngừa (trừ người nào bị nhạy ứng với trứng). * Chích ngừa cúm lúc nào tốt nhất? Ở Mỹ, thường dịch cúm bắt đầu vào tháng 12. Cúm tấn công mạnh nhất vào khoảng tháng giêng (1) và tháng hai (2), sau đó có thể vẫn còn hoành hành cho đến tháng 4 khi vào Xuân. Khoảng 2 tuần sau khi chích ngừa, cơ thể bắt đầu có kháng thể (antibody) chống cúm. Kháng thể tồn tại trong cơ thể 6 tháng hay hơn. Tuy nhiên, ở một số vị có tuổi, lượng kháng thể giảm dưới mức bảo vệ sau 4 tháng. Việc chích ngừa thường được thực hiện trong khoảng các tháng 10, 11 và 12. Thời điểm tốt nhất để chích ngừa cúm, là vào khoảng tháng 10 đến giữa tháng 11. * Thuốc ngừa cúm có gây phản ứng gì quan trọng? Với người ăn trứng không bị phản ứng, chích ngừa cúm ít khi gây phản ứng quan trọng, trừ hơi đau một chút thôi ở chỗ chích độ 1-2 ngày. Nếu có nóng sốt, uể oải, đau nhức các bắp thịt sau khi chích ngừa, các triệu chứng này cũng chỉ kéo dài 1-2 ngày. Cho những vị chưa kịp chích ngừa mà cúm đã đến, hoặc vì nhạy ứng với trứng nên không thể chích ngừa, có thể dùng thuốc uống Amantadine hay Rimantadine để ngừa. Điều cần biết là khác với cách ngừa bằng thuốc chích (ngừa được cả cúm A lẫn B), thuốc Amantadine hay Rimantadine chỉ giúp ngừa cúm A thôi. Amantadine có thể gây khó ngủ, chóng mặt, người bứt rứt, khó tập trung tư tưởng, sảng, có ảo giác, kinh giật, còn Rimantadine ít gây phản ứng phụ hơn. Hai thuốc mới, Tamiflu và Relenza, cũng giúp ngừa cúm (cả cúm A lẫn cúm B), song đắt hơn nhiều so với Amantadine, Rimantadine. * Chích ngừa cúm có ngừa được cảm? Cảm là cảm (cold), cúm là cúm (flu), chưa có thuốc “chích ngừa cảm cúm”. Cảm xảy ra quanh năm, do những siêu vi trùng khác. Chích ngừa cúm không ngừa được cảm. Xin bạn đừng bắt đền bác sĩ nếu bạn vẫn bị cảm sau khi chích ngừa cúm. Thực, đời là trường tranh đấu, hết đứa này đến đứa khác bắt nạt loài người hiền lành chúng ta, đặc biệt lũ siêu vi. Cúm người, cúm gà, bệnh AIDS, bệnh SARS, ... Trụ sinh không trị được siêu vi. Cách chữa tốt là ngừa bằng thuốc, nếu đã có thuốc ngừa. Thời điểm tốt nhất để ngừa bệnh cúm người, tháng 10 đến giữa tháng 11, nhất là cho các vị cao niên.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 12, 2007 7:06:38 GMT 9
Bệnh cao huyết áp
Nếu còn trẻ và có huyết áp tối thiểu cao hõn 90, bạn nên cố gắng giảm nhẹ con số này nếu không muốn mắc phải chứng cao huyết áp khi lớn tuổi. Ðây là một bệnh hết sức nguy hiểm, nguyên nhân gây ra chứng xây xẩm mặt mày, chóng mặt, xỉu, cõn ðau tim, ðứt mạch máu não... và các chứng bệnh về thận. Các phýõng pháp dýới ðây giúp bạn ðiều chỉnh một cách hiệu quả huyết áp của mình nếu bạn bị cao huyết áp ở mức nhẹ. Nếu bệnh nặng, bạn cần gặp bác sĩ. Ðể ý về trọng lýợng Bác sĩ Norman K. rút ra nhận ðịnh rằng, những ngýời béo phì thýờng có nguy cõ cao huyết áp gấp ba lần ngýời thýờng. Ngýời béo phì là ngýời có số cân nặng cao hõn 20% so với chỉ số bình thýờng. Nếu bị béo phì và cao huyết áp, bạn không cần giảm hết số cân thặng dý. Một nghiên cứu tại Israel cho thấy, những ngýời béo phì chỉ cần giảm một nửa số cân thặng dý là có thể phục hồi huyết áp bình thýờng. Ðừng ãn mặn nữa Khoa học vẫn chýa tìm ra lý do tại sao chất muối có khả nãng làm cho huyết áp trở nên cao hõn. Nhýng kinh nghiệm trên nhiều bệnh nhân cho thấy, có sự liên hệ mật thiết giữa huyết áp và lýợng muối tiêu thụ. Bệnh nhân cao huyết áp nên giảm 5g lýợng muối tiêu thụ mỗi ngày. Không nên kiêng tuyệt ðối, bạn chỉ cần hạn chế nó, ðồng thời ðo huyết áp thýờng xuyên ðể biết kết quả. Nếu bạn uống rýợu, hãy uống ít lại Khác với muối, rýợu ðýợc chứng minh rất rõ ràng là gây nguy hại cho những ngýời có huyết áp cao. Tuy vậy, phần lớn bác sĩ không bắt bệnh nhân kiêng rýợu tuyệt ðối, vì việc uống ít không ảnh hýởng xấu ðến huyết áp. Bác sĩ Norman khuyên rằng nếu bị cao huyết áp, bạn nên giới hạn lýợng rýợu mình uống là không quá hai ly nhỏ mỗi ngày. Dùng nhiều chất kali Kali giúp giảm huyết áp. Một nghiên cứu của bác sĩ George W. (Ðại học y khoa Vermont, Mỹ) cho thấy, trong 100 bệnh nhân cao huyết áp dùng kali, có 30 ngýời hạ ðýợc huyết áp sau 2 tuần. Sau 8 tuần, con số này là 70 ngýời. Bác sĩ George cũng khuyên rằng, chúng ta nên tiêu thụ lýợng muối kali clorua (KCl) cao gấp 3 lần muối ãn (NaCl). Ðể tãng lýợng KCl, nên ãn nhiều trái cây, khoai tây, cá. Trên thị trýờng hiện có một loại muối ðặc biệt dành cho ngýời bị bệnh cao huyết áp, bao gồm KCl và NaCl ở tỷ lệ thích hợp. Dùng nhiều canxi Canxi không chỉ ảnh hýởng tốt cho xýõng và rãng mà còn có ích cho những ngýời bị cao huyết áp do ãn muối nhiều. Bác sĩ Lawrencem R (Ðại học Cornell, Mỹ) nhận ðịnh rằng, ãn muối nhiều là nguyên nhân của khoảng 50% trýờng hợp cao huyết áp. Ðối với những ngýời này, chất canxi có hiệu quả rõ rệt trong việc làm hạ áp. Hãy tập thể dục loại vận ðộng Thể dục ðýợc chia làm hai loại: - Loại vận ðộng (aerobic) gồm chạy, nhảy, bõi, lội..., nói chung là những môn gây chảy mồ hôi nhiều mà không cần gồng hoặc ráng sức. - Loại gồng (isometric) gồm cử tạ, hít ðất, hít xà ngang, các môn nội công, nghĩa là không cử ðộng chân tay nhiều, chỉ dùng sức gồng các bắp thịt lên ðể chống lại một sức ép. Bác sĩ Robert C. ở Ðại học Florida nhận ðịnh rằng, trong lúc vận ðộng chân tay, áp suất máu sẽ tãng lên cao hõn bình thýờng. Huyết áp sẽ hạ xuống thấp hõn mức bình thýờng sau khi vận ðộng chấm dứt rồi có khuynh hýớng trở về bình thýờng, nhýng sẽ thấp hõn mức bình thýờng một chút. Nhìn chung, nếu bạn bị chứng cao huyết áp, việc tập thể dục vận ðộng loại nhẹ nhý ði bộ, cỡi xe ðạp, bõi lội dai sức... có khả nãng làm quân bình áp suất máu. Ngýợc lại, nếu tập các môn thể dục gồng hoặc thể dục vận ðộng mạnh nhý chạy nýớc rút, nhảy cao..., áp suất máu sẽ tãng vọt lên. Cách tập thể dục vận ðộng loại nhẹ: hãy bắt ðầu nhẹ nhàng, kế ðó hõi nhanh một chút rồi trở lại chậm... Thí dụ: Ði bộ một cây số, bạn sẽ ði 1/4 cây số ðầu tiên với tốc ðộ 4 km/h, kế ðó tãng lên 5 km/h cho 1/2 cây số kế tiếp, rồi xuống 4 km/h cho 1/4 cây số cuối cùng. Sự tãng giảm nhịp nhàng nhý vậy giúp cho áp suất máu không bị lên xuống ðột ngột. Ãn nhiều rau Các cuộc nghiên cứu cho thấy, những ngýời ãn chay có áp suất máu thấp hõn ngýời thýờng từ 10 ðến 15 mmHg (cả 2 số ðo áp suất máu cao và thấp). Hiện khoa học vẫn chýa biết ðích xác ðýợc tại sao những ngýời ãn chay lại có áp suất hạ nhý vậy. Nhìn chung, nếu bạn có áp suất máu cao, việc ãn chay rất có ích cho áp suất máu của bạn. Ảnh hýởng của tình cảm Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy, tình cảm con ngýời có ảnh hýởng rất quan trọng ðến áp suất máu của họ. Một thí nghiệm tại bệnh viện Cornell (Mỹ) cho thấy, khi một ngýời ðang trong trạng thái hồi hộp, huyết áp tối thiểu gia tãng và ngýợc lại, khi một ngýời vui vẻ, huyết áp tối ða hạ xuống. Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận rằng áp suất máu tãng nhanh hõn khi một ngýời bị lo lắng ở bên ngoài nhà của họ, tãng ít hõn khi họ ở trong nhà mình. Có lẽ lúc ðó, ngýời ta có cảm giác an toàn hõn chãng?... Nói nhiều có hại! Một cuộc bàn cãi sôi nổi, một lần cãi cọ với vợ, với chồng; những lần ðụng chạm với ðồng nghiệp trong sở, với chủ, với xếp của mình... ðều làm áp suất máu của bạn tãng vọt... Ðiều này có lẽ bạn ðã từng trải qua, và không làm bạn ngạc nhiên lắm. Nhýng bạn sẽ ngạc nhiên nếu biết rằng, các nhà khoa học ðã thí nghiệm và khẳng ðịnh, khi nói chuyện rất bình thýờng với một ngýời nào ðó, áp suất máu bạn thýờng cao hõn lúc không nói chuyện từ 10 ðến 50%! Bệnh cao huyết áp trầm trọng chừng nào, áp suất khi nói chuyện lại dễ tãng chừng ðó. Sự tãng áp suất này xuất hiện không chỉ khi nói chuyện bằng ngôn ngữ, mà cả khi ngýời ta ra dấu với nhau nữa (trýờng hợp những ngýời câm hoặc ðiếc). Nhìn chung, bất cứ việc gì làm một ngýời phải vận dụng trí óc ðều có thể ðýa áp suất máu của ngýời ðó lên cao. Những kết quả thí nghiệm sau ðây giúp cho bạn có thêm một khái niệm tổng quát về ảnh hýởng của sinh hoạt và tình cảm của một ngýời ðến áp suất máu của họ. - Khi ðọc một cuốn sách, một tờ báo, áp huyết của bạn có khuynh hýớng hạ xuống. Nhýng nếu cũng cuốn sách, tờ báo ðó, thay vì ðọc thầm, bạn lại ðọc lớn lên... việc này làm áp suất máu của bạn tãng cao hõn là không ðọc. - Hành ðông vuốt ve, nựng nịu con chó nuôi trong nhà cũng làm áp huyết hạ xuống, dắt chó ði dạo cũng có tác dụng nhý vậy. Một nghiên cứu cho thấy, 2 ngýời cùng bị bệnh tim giống nhau, nhýng ngýời có nuôi chó lâu chết hõn ngýời không nuôi chó. - Gần ðây, y học chứng minh ðýợc rằng, hai vợ chồng ở chung lâu ngày sẽ có áp suất máu týõng tự nhý nhau!!! Các bác sĩ ðýa ra giả thuyết rằng, sở dĩ có sự giống nhau này vì vợ chồng thýờng hay chia xẻ mọi việc trong ðời sống, vui buồn, lo lắng ðều giống nhau... Những cặp vợ chồng trên 60 tuổi thýờng có áp suất máu chỉ khác nhau 1 mmHg. Ðiều này ðýa chúng ta ðến một kết luận hữu ích: Nếu bạn trên 60, ngýời bạn ðời mắc bệnh cao huyết áp, hãy ðể ý thýờng xuyên về áp suất máu của chính mình! Mẹo vặt: Theo các thí nghiệm tại ðại học Illinois, việc ãn mỗi ngày 4 cọng cần tây (cerlery) có thể giảm hõn 12% số ðo áp huyết.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 7, 2008 7:32:33 GMT 9
Phương Thuốc Thần Cho Bệnh "Gout" PHẠM HOÀNG CHƯƠNG . Việt Báo Thứ Tư, 2/13/2008, 12:02:00 AM Tác giả: Phạm Hoàng Chương
Bài số 2221-2013-786vb4130208
(Bài Viết Về Nước Mỹ năm 2007)
*
Tác giả đã góp bài viết về nước Mỹ từ năm đầu và hiện vẫn liên tục góp thêm nhiều bài viết giá trị. Là cựu giáo sư trung học ở Việt Nam trước 1975, vượt biên đến Mỹ năm 1984, ông đi học và trở lại nghề cũ. Sau nhiều năm dạy tại một trường công lập Mỹ ở San Jose, tác giả về hưu tại Riverside, Nam California.
*
Một trong những giấc mộng lớn của tôi lúc thiếu thời là học được nghề thuốc đông y, châm cứu, bấm huyệt để chữa bệnh cứu đời, mà đức kém, không đủ nhân duyên gặp thầy dạy, chỉ xem xém có mấy lần thân cận học lóm quí nhơn , có bạn thân làm bác sỹ, đọc nhiều sách thuốc, biết qua loa để đủ sức tự chữa bệnh mình thôi.
Năm 1971, tôi mới sinh con trai đầu lòng , đang dạy học ở Phanrang. Nhân thầy châm cứu Thich tâm Ấn ở Saigon ra ghé chùa Tỉnh Hội chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nửa tháng vào dịp hè, tôi tình nguyện theo giúp thày rút kim cho bệnh nhân hàng ngày lấy công đức, và xin dạy cho nghề châm cứu. Thầy nói phải có nhân duyên mới học được. Thày cho cuốn sách "Châm cứu học" do thầy biên soạn, giới thiệu tôi cho con trai là Cao xuân Quang ở lại Phanrang coi sóc Phòng châm cứu do thầy xây cất, rồi trở vào Saigon lo công việc. Quang tuổi Mùi, hơn tôi một tuổi, đã có 2 con. Tôi lân la tới phòng thuốc của Quang chơi, học được một ít về thuốc Bắc và các huyệt chính. Tôi nhờ Quang châm cứu cho cô vợ hay mất ngủ. Hai đứa chẳng bao lâu trở thành bạn rất thân, và do môt nhân duyên huyền bí kỳ lạ nào trong tiền kiếp xa xưa không biết, mà vợ Quang lúc có mang đứa con thứ ba, cứ nằng nặc nhờ tôi nhận nuôi đứa bé trong bụng làm con, vì thày bói nói nó khắc tuổi cha mẹ, phải đem cho người tuổi Thân mới nuôi được . Bằng không, nếu cứ giữ đứa bé, trong 3 người cha mẹ và con, sẽ có một người chết.
Tôi vốn không tin những chuyện bói toán tuổi tác như vậy, nhưng cũng hứa cho chị yên lòng. Quả nhiên, thằng bé vừa đầy tháng, chưa kịp cho, thì chị đã lăn ra chết. Cùng một ngày, một giờ hôm đó, đứa con trai đầu của tôi bấy giờ đang nằm mê man vì biến chứng sởi ngoài bệnh viện Nhatrang cũng hấp hối qua đời.. Hai anh em tang gia bối rối, mạnh ai nấy lo, một bên chôn vợ, một bên chôn con. Quang khóc nức nở, còn tôi thi đau đớn khôn cùng. Quang nhờ tôi mang baby Cao xuân Minh còn đỏ hỏn về nuôi giùm, rồi gửi 2 đứa con lớn cho một người bạn khác trông coi, bươn chải đi làm ăn. Được một năm thì tôi sinh con khác, nên Quang cưới vợ kế, đem cu Minh và 2 đứa lớn về nhà, tập trung một chỗ cho tiện bề coi ngó.
Sau 1975, ở tù cải tạo về, sợ bị bắt đi kinh tế mới, tôi nhờ Quang xin cho 1 job trong Ty Y tế, chuyên trồng thuốc Nam, lương có 38 đồng 1 tháng, chỉ vừa đủ ăn sáng cho 2 ngày là hết. Khi vượt biên qua đến Mỹ năm 1984 thì tôi vẫn còn khỏe mạnh, đủ sức lao động và đi học lại kiếm sống. Năm 1990 bảo lãnh vợ con qua, mua nhà. Nhưng đến năm 1995 thì vợ tôi tự nhiên đang đi làm, bị sưng phồng lên một bắp chân và bàn chân mặt, phải đi cà nhắc bằng chân trái, tay chống gậy, mặt mày nhăn nhó đau khổ. Bạn tôi, bác sĩ Đệ, lắc đầu nói: "Thôi rồi, chị xui quá, bệnh này bên Mỹ gọi là rheumatism, không thuốc nào chữa được hết, nhiều ông bà già bị, đau nhức kinh niên cho tới chết". Tôi đưa bà xã qua Wesminster đi bác sĩ Quyết đông y, châm chích nặn máu ra đen bầm 2 ngày thứ bảy liền, chân bớt sưng, bệnh có thuyên giảm, nhưng vẫn còn đau. May sao bà trung tá Tài cho một bịch bột nghệ vàng xây nhuyễn mua ở Vietnam qua, khuyên nấu nước sôi, hay vo viên với mật ong uống sẽ hết. Theo tôi biết thì NGHỆ có tính chất sát trùng mạnh, trị lở và đau bao tử, lọc máu huyết, chữa lành vết thương không để lại vết sẹo. Nghệ hăng hăng khó uống, nhưng bà xã kiên trì uống luôn 1 tuần thì đi đứng trở lại bình thường, uống luôn 1 tháng thì tuyệt nọc tê thấp cho đến bây giờ 15 năm sau không hề trở lại. Bác sĩ Đệ kinh ngạc lắc đầu, không tin ở sở học Tây y nữa. Thật là 1 phương thuốc thần, rẻ tiền mà công hiệu vô song. Một lấn khác, vì lười đánh răng ban đêm, một chiếc răng cửa dưới tôi bị nhiễm trúng, sờ ngón tay vô lắc xục xịch, tưởng như sắp rụng. Tôi hoảng quá, nhét đại một nhúm bột nghệ vô kẽ răng để sát trùng. Một ngày nhét nghệ vô răng 4 lần, được 2 ngày thì chao ôi, răng nằm cứng chắc yên vị, lắc không còn rung rinh nữa. Thật là phép màu. Từ đó tôi bắt đầu đánh răng bằng bột nghệ mỗi sáng. Răng miệng vàng khè, nhưng súc nước sạch thì chất vàng trôi hết, răng trắng như bắp non.
Có một dạo thất nghiệp, ưa thích nghề thuốc, tôi ghi danh college học một khóa ra làm nurse assistant, săn sóc các cụ già trong một nursing home ở Redlands. Thấy nhiều cụ nằm co quắp trên giường suốt tháng này qua tháng khác, da mỏng như giấy, nói năng lảm nhảm, bài tiết bừa bãi hôi thối, con cái trốn biệt,... mà rùng mình nghĩ đến chuỗi ngày cuối của đời mình. Ước chi chỉ sống 75 tuổi thôi mà khỏe mạnh minh mẫn, còn hơn 80, 90 mà quằn quoại đau khổ như thế.
Năm 2000, một sáng tôi ngủ dậy, thòng chân xuống thảm để đứng dậy thì cả 2 lòng bàn chân đau buốt nhói như kim chich. Kinh hoảng rút chân lên, không biết là bệnh gì. Lúc đó tôi 56 tuổi, công ăn việc làm đang thăng tiến khả quan, nhà mới mua. Nếu bệnh nặng phải vào nhà thương nằm lâu thì mất việc, bay cửa bay nhà, không biết tương lai đi về đâu. May sao chỉ đau có 1 ngày rồi êm, đi đứng lại bình thường. Không biết bệnh gì mà quái quỷ như vậy, cũng chả đi bệnh viện hỏi bác sỹ, vì có còn đau nữa đâu mà hỏi. Sau đó mấy tháng, một lần ngón chân thứ 3 bên mặt lại tự nhiên sưng vù lên, đỏ tím, đau lắm. Tôi tưởng là vô ý đánh rơi cái búa trúng mấy ngón chân lúc nào mà không nhớ, chắc gẫy xương mới đau dữ vậy, bèn đi nhà thương Kaiser rọi X-ray. Họ coi phim, nói không có sao cả, nhưng không biết tại sao sưng. Tôi nghĩ "hay là ăn cái gì độc, bị phong thấp". Cả tháng sau mới từ từ lành. Cũng coi thường. Nhớ má nói ông nội ngày xưa làm quan, chơi cô đầu mắc bệnh phong tình dây dưa, nên bà nội đẻ ba bốn người con đều chết non, sau gặp thày thuốc giỏi trị khỏi, mới sinh được ba và cô Khê. Chắc là chất độc còn, nên di truyền xuống đời cháu, lâu lâu bị sưng chân. Một lần khác, bà chủ nhà nấu món rau muống xào thịt bò non rất ngon, tôi ngon miệng ăn luôn 3 chén cơm, thế là cả 2 ngón chân cái sưng vù lên đỏ au,đau đớn, rồi sưng lan ra mắc cá và gót chân trái. Đi dạy phải nhảy cò cò 1 chân, có khi chống gậy, đồng nghiệp ai nhìn thấy cũng lắc đầu thương hại. Check Internet thì biết là đây là triệu chứng bệnh "gout", tiếng Việt gọi là thống phong. Lớn tuổi thận yếu, lọc không hết chất độc của thịt cá, đồ biển, tôm mực, nên chất độc acid uric lẩn vào máu, chảy xuống chân, tụ vào các khớp ngón chân và mắc cá, kết thành thủy tinh bén nhọn gây đau buốt lên tới óc. Bác sĩ ở Kaiser nói bệnh này là bệnh "nhà giàu", ăn nhậu uống rượu thường xuyên mà gây ra, chỉ cho thuốc viên giảm đau, khuyên uống nước nhiều cho loãng chất acid, ngủ ghếch 2 chân lên vách tường cho chất độc khỏi tụ xuống chân. Thuốc giảm đau có phản ứng phụ hại gan, nên tôi không dám uống nhiều, xin nghỉ dạy 2 ngày, chịu trận nằm nhà mấy ngày. Sưng 1 chân còn nhảy cà thọt, hay chống gậy. Nhưng sưng 2 chân thì chịu thua. Đau lắm, đau đến nỗi đi toilet phải chống 2 tay xuống đất, lết bằng mông đít tới bathroom. Thấy ở tiệm thuốc bắc quen có thày Tàu châm cứu tốt nghiệp Đại học Bắc kinh qua, tới xin anh chàng châm cứu, nặn máu độc ra, mỗi lần 40$. Anh này tiếng Anh không rành lắm, chỉ lắc ngón tay trỏ, nói: "No meat" (Không được ăn thịt) rồi im.
Nặn 2 lần thấy cũng không bớt gì lắm, nghe lời cô bán hàng, mua 1 loại cao dán của Nhật về dán chỗ sưng, một hộp 25$ có 20 hay 25 gói gì đó. Áp "túi chứa dược thảo hút chất độc" (giống như túi trà Lipton) này vào nhượng chân, hay dưới ngón sưng, rồi dán miếng cao lên dính chặt vào da để giữ khỏi xục xịch. Theo đông y, tất cả dây thần kinh, máu huyết gì cũng chạy xuống 2 lòng bàn chân, nên dán thuốc dưới 2 lòng bàn chân là trị bá bệnh, nhức mỏi, nhiễm độc, mất ngủ... Trời lạnh phải mang vớ ngủ là lý do đó, giữ cho lục phủ ngũ tạng yên ổn, khỏi ho,cảm,mất ngủ...Tối đi ngủ dán túi "trà"vào chân trắng tinh, nhưng sáng ngủ dậy thi túi "trà" hút độc ra bầm đen, nhớp nháp hôi hám, tháo vứt đi, dán miếng khác. Vậy mà bớt. Bớt đau, bớt sưng. Sau một tuần thì đi đứng bình thường.
Tình cờ nói chuyện bệnh "gout" với một người bà con ở San Jose, họ cũng bị chứng này, họ khuyên tới hiệu thuốc bắc trước Century Mall mua lọ thuốc dược thảo viên chỉ có 4$ của Trung quôc chế, tên là URI-pH formula. Mỗi lần ăn thịt bò hay sea food, phải đề phòng uống ngay 4 viên để chất acid uric theo đường tiểu mà ra ngoài, khỏi thấm vào máu. Thuốc này không phải trị, mà chỉ là ngừa. Tôi thấy đây không phải là thuốc mình mong đợi,cũng mua để dành phòng hờ. Tới các tiệm bán dược tháo hỏi, ai cũng lắc đầu nói bệnh này không có cách gì chữa khỏi hết, phải kiêng cữ ăn uống hay dùng thuốc giảm đau như Cochinchin... mà thôi. Họ giới thiệu thuốc dược thảo viên "Gout well" của bác sĩ Việt nam tên BA nào đó rất nổi tiếng, nhưng kết quả nghe nói cũng chậm.
Một hôm tôi mua được thứ mắm nêm nguyên chất, ăn với bánh hỏi rất ngon. Ngon miệng ăn liên tiếp 2 ngày thì sưng vù mấy ngón chân. Ngày sau 75, đạp xích lô sáng nào cũng điểm tâm bánh hỏi cuốn bánh tráng nướng chấm mắm nêm đâu có sao, mà bây giờ sanh chứng. Đi Kaiser, bác sĩ la."Trời ơi, sao lại ăn mắm nêm?" rồi lại cho toa thuốc giảm đau. Như vậy là mắm nêm độc hơn mắm nước. Lớn tuổi cơ thể yếu đi, nhạy cảm hơn, mới phân biệt thức ăn nào độc,thức nào lành. Nghỉ dạy nằm nhà mấy hôm, lôi "túi trà" Nhật và Korea ra dán. Mãi 10 ngày sau mới khỏi hẳn. Ngon miệng có mấy phút mà nó hành đau đớn điêu đứng cả 10 ngày, nửa tháng, thật là lợi bất cập hại.Thế là tôi tuyệt đối thề không ăn phở, thịt bò, hay mắm nêm nữa. Cũng chả thấy thèm nữa. Con chim đã bị tên bắn 1 lần, thấy bóng cái cung là sợ.
Năm 2003, tình cờ một bà cô họ ở Atlanta cho hay có ông thày châm cứu nổi tiếng trị nhiều bệnh nan y ở Carolina, hàng trăm bà con bệnh nhân Việt Hoa ở các vùng xa xôi miền Đông cuối tuần lái xe tới nhá thày nằm chữa trị ngủ lại đêm, kêt quả rất tốt. Cô bị cái bướu ở bắp tay, châm cứu điện có 2 lần mà xẹp hẳn.Thày không nhận thù lao, chỉ đặt cái thùng "phước sương", ai muốn cho bao nhiêu thì cho. Tiến này thấy gom lại mỗi năm về Vietnam cho cô nhi và chữa bệnh miễn phí làm phước. Tôi nghe, cứ ao ước được gặp thày một lần. Ngờ đâu, 'dream comes true'. Hai tháng sau, con gái tôi lấy chồng ở N.Carolina, tôi sang dự đám cưới , được con rể chở tới gặp thày. Té ra đây là thầy dạy võ cho con rể tôi trước kia, nên thày vui vẻ nhận lời chữa trị ngay, mặc dù lúc đó tôi đang khỏe mạnh bình thường. Thày có hai người con trai đều là bác sĩ, ở Florida và Georgia. Thày nói bệnh này chỉ cần chữa 1 lần là khỏi luôn ("one time-treatment"), rồi bắt tôi nằm xuống, châm điện vô 10 đầu ngón chân giựt tê tê, Nửa giờ sau, nằm sấp lại cho thấy để 1 cái "bàn ủi" trên vùng thận để hút chất độc cho thận khỏe trở lại, đủ sức lọc hết acid uric, khỏi phải lan vào máu chạy xuống chân.
Một hôm, ở San Jose, tôi đi tập thể dục ở Bally , tình cờ gặp một ông bạn già cũng bị "gout", kể chuyện thày Tâm. Ông nói có lần nó trở nặng, đau lên tới đầu gối, nằm không nhúc nhích được, lúc đó đang ở Việt nam , bác sĩ phải đâm kim vào giữa 2 khớp xương đầu gối, hút nước xanh lè ra mới bớt đau. Ông còn nói:
-Bệnh nặng có khi nó chạy lên háng thì vô phương cứu chữa...
Tôi rùng mình:
-Thôi, thôi, ghê quá, đừng nói nữa...
Ông xin số phone thầy Tâm. Một lần khác, tôi thu xếp về Viet nam cùng thời gian với thầy Tâm, để nhờ thầy chữa bệnh "vảy nến" cho người em trai út ở Saigon. "Vảy nến" là bịnh nan y, không lây, nhưng khắp người lốm đốm các vết đỏ chảy nước ngứa ngáy, lúc nào ra đường cũng phải mặc áo dài tay che kín, tây y bó tay, mà đông y cũng chưa có thuốc gì trị dứt. Có một dạo nó bị mất việc nằm nhà, buồn quá uống rượu liên tu, bị sưng gan, rồi chuyển qua vảy nến. Ờ nhà nghi là rượu chế ở VN bậy bạ, có pha thuốc xịt rày, nên chất độc mới sinh ra bệnh này. Tôi gửi thuốc đau gan của Phạm hoàng Trung về, báo cáo hình như bớt, thấy hết ngứa, nhưng vảy nến vẫn còn.Tôi đọc báo thấy thày X. ở Wesminster quảng cáo trị hết vảy nến, bỏ ra 500 bạc mua 4 lọ gửi về, trong uống ngoài ngâm, nó hậm hực báo cáo" tiền mất tật mang". Về Việt nam, ra Hà nội chơi, nghe đồn thuốc cao gia truyền, làm bằng cỏ quí mọc ở biên giới Hoa Việt, trị hết vảy nến của thày nào ở ngoại ô Hà nội , lặn lội mướn taxi đi, mua hơn 3 triệu bạc đem về bôi cho nó,chỉ nhạt màu hồng hồng chứ không lặn hết. Thày Tâm hỏi:
-Em bị bao lâu rồi?
-Dạ hơn 10 năm nay.
Thày bảo cởi áo quần xem, lắc đầu ái ngại nói "Tội nghiệp em, nặng quá, bao nhiêu vảy nến của thiên hạ tập trung vào một mình em. Châm cứu có thể hết , bệnh này tôi đã trị qua, nhưng cũng không dám hứa chắc,vì để lâu quá rồi". Thế là 2 anh em chở nhau từ Saigon lên Thủ đức mỗi ngày cho thấy châm. Gọi là "thủy châm", vì cắm kim vô thuốc mà châm. Thay đổi vị trí châm mỗi ngày. Được 13 ngày thì thày phải trở về Mỹ, nên không tiếp tục được, nhưng thật tình mà nói, các vết "vảy nến" nhạt trắng dần, không còn sần sùi nữa. Em tôi mừng lắm, tôi cũng mừng, nhưng về Mỹ lại được hơn nửa năm thì nghe báo cáo qua nói bệnh trở lại, có lẽ vì trị chưa đủ lâu để khỏi hẳn. Tôi cũng bó tay. Bệnh ở bên VN , mà thày bên Mỹ, lâu lâu mới về một lần, làm sao mà có hy vọng trị dứt.
Phần tôi, tưởng bệnh 'gout' thày Tâm chữa như vậy là tuyệt nọc, ai dè sau 2 năm khỏe mạnh, ăn uống cẩu thả trở lại, mấy ngón chân lại bị sưng. Đi khám ở Kaiser, bác sĩ nói đây không hẳn là "gout", mà là 1 dạng tê thấp, và cho thuốc giảm đau. Tôi không thèm uống, quen lệ ra tiệm mua cao Nhật và Đại hàn dán, sau 1 tuần thì hết. Có lần ăn sầu riêng, hay mực xào, nhượng bàn chân thịt cộm dày lên, nhưng chất độc chưa lan ra tới ngón cái vì chưa đủ nhiều và mạnh để làm sưng . Đứng trên 2 bàn chân, rõ ràng cảm thấy lòng bàn chân bên phải cộm lên, cấn cái khác thường. Lật đật lôi thuôc "túi trà" Đại hàn ra dán. Vài ba ngày thì trở lại bình thường. Anh Lương, bạn thi sĩ ở San Jose , ăn mực luộc quấn bánh tráng chấm mắm nêm, đau "gout "phải lết vô toilet; Tuấn, cháu họ tôi, ăn toàn mới 30 tuổi, ăn toàn hamburger và đồ Mỹ bò gà tôm nướng ở MacDonald và Sizzler, không ăn rau, cũng bị "gout", đau gần tháng trời phải nằm nhà, tôi đều chỉ mua thuốc cao Nhật dán,và tới thày Tâm châm cứu cho mau khỏi. Tuấn bị nặng, nên cứ dán 1 giờ là nước đỏ nhầy nhụa tuôn ra ướt đẫm chân, phải thay miếng khác, thày Tâm phải châm cứu 3 lần luôn 2 ngày liền mới bớt. Tôi thấy bệnh này , căn bản ở chỗ biết kiêng khem, ăn uống thanh đạm, không cần phải thuốc men, châm cứu, uống nước, dán cao... gì cả. Nhớ câu "Người ta tự đào huyệt chôn mình bằng hàm răng của mình"của nhà văn Pháp nào đó, rất là chí lý, hay câu của ông bà ta, "ngừa bệnh hơn chữa bệnh", là lời khuyên bổ ích còn quí hơn bất cứ thuốc men, yến sào, mật gấu, lộc nhung... nào hết.
Hè 2005, tôi 61 tuổi về hưu, lợi dụng bảo hiểm còn ba tháng cuối cùng, đi Kaiser khám đủ thứ trong người, soi ruột, thử máu, soi tim, gan, cholesterol, tiểu đường, áp huyết, tấc cả đều tốt hết, trừ chất acid uric trong máu khá cao. Không lo, vì tôi đã biết cách trị bệnh "gout" rồi.
Qua đầu 2006, hết bảo hiểm sức khỏe, một hôm nhân chạy tới lui giúp dọn nhà cho ông anh họ ở Wesminster, nhịn đói từ sáng đến 7 giờ tối mới đưa anh vào tiệm phở ăn. Ăn được 3 muỗng thì cắn trúng miếng ớt xanh cay, mùi hăng xông thẳng lên óc, tôi choáng váng tức bụng, ngộp thở, mới đứng dậy lần ra ngoài cửa để thở. Bỗng cả người xoay đi 1 vòng rồi té ngửa xuống đất, không còn biết trời trăng gì nữa. Khi mở mắt tỉnh dậy, thấy lố nhố ba bốn mặt người ta nhìn xuống, có tiếng hối chở đi cấp cứu. Tôi nghe ngóng thấy trong người bình thường, chống tay ngồi dậy, thấy mắc cá chân trái sưng vù đau lắm, bước vào tiệm soi gương thấy mặt trắng bệch. Bỗng thấy choáng váng chóng mặt, lảo đảo té xuống 1 lần nữa. Lần này tôi khô miệng, đòi uống nước trà. Một phút sau thì tự đứng dậy được, ngồi vào bàn, thấy tô phở lạnh ngắt, ớn không muốn ăn nữa. AI cũng nói là " tai biến mạch máu não" nhẹ. Một thanh niên ở đâu rất tốt bụng xin tình nguyện lái xe chở tôi về Riverside, sợ dọc đường đêm tối tôi lại xỉu trên tay lái thì xe tung chết. Tôi cảm động lắm, nhưng cám ơn, sợ phiền. Chân tôi sưng vù to và đau lắm, hình như là trật gân ở mắc cá lúc té không "control" được bàn chân, xoa dầu không ăn thua gì, đi phải chống gậy. Tuần sau tôi phải lên máy bay về VN ăn Tết, con trai tôi khuyên "delay" chuyến bay lại, "chân ba như vậy làm sao mà đi đứng, khiêng xách hành lý". Tôi kiên quyết cứ đi, máy bay họ cung cấp xe lăn và có người đẩy xe lên xuống ở các trạm. Cao xuân Minh, con nuôi tôi ngày xưa khi còn đỏ hỏn, bấy giờ là bác sĩ 34 tuổi, ra Tân sơn Nhứt đón,dìu tôi ra taxi.
-Chân chú sao vậy?
-Té, bị trật gân, 10 ngày rồi mà vẫn đau.
Minh nghi không phải trật gân mà là gẫy xương, bèn đưa tôi đi rọi X-ray, thì quả nhiên gãy xương thật, phải băng bột "casting" 1 tháng. Em trai tôi ở Úc, nghĩ là tôi bị "stroke" nhẹ, khuyên ãn uống cẩn thận, coi chừng cholesterol cao. Cholesterol tôi có 173, đâu có cao. Cô nha sĩ Thanh và bà sui gia tôi làm cho văn phòng bác sĩ đều quả quyết là tại lượng đường trong máu ( blood sugar) xuống quá thấp (vì từ sang tới tối không ăn uống gì), nên chóng mặt xây xẩm mà té. Chính cô mới có 40 tuổi mà trước kia cũng bị té 1 lần như vậy, không phải nghẽn mạch máu đâu. Chắc có lẽ đúng, vì từ nhỏ tới già, tôi ăn ngọt dữ lắm mà glucose trong máu vẫn thấp. Thì ra tùy tạng mỗi người, không phài hễ thèm ngọt là bị tiểu đường. Kinh nghiệm từ rày về sau sáng sớm phải lót lòng một chút gì, tách trà nóng, bát cháo gạo lứt, chén súp, hay trái chuối, đừng bao giờ để bụng trống.
Ở Việt nam về lại Mỹ, thấy thiên hạ dọa không có bảo hiểm sức khỏe coi chừng, lỡ đau, vô bệnh viện nằm mổ xẻ nhiều ngày, phải bán nhà , trả nợ tiền thuốc, tôi mua loại bảo hiểm rẻ tiền PPO cho 2 vợ chồng, có 160$ một tháng, nhưng cả 13 tháng trời chẳng ai đau bệnh gì cả, trừ một lần lỗ tai tôi kêu vo vo, tưởng "ear infection", đi bác sỹ, khám có 2 phút, nói tại mùa đông nên cảm cúm nó khiến như vậy, không sao, office charge hết 154$, mình phải trả trước, rồi chờ tiền "rebate"bảo hiểm gửi về sau. Giấy tờ, gọi phone tới lui lôi thôi, mà lâu lắc, chẳng thấy "rebate" đâu hết. Văn phòng bác sỹ chuyển hồ sơ qua Collection nhờ đòi, Collection đòi thêm tiền lời. Tôi bực mình, trả quách hết, rồi gọi cancel bảo hiểm. Sáu tháng sau mới thấy bảo hiểm gửi cho 50$ rebate. Tôi vẫn không nghĩ chuyện mua bảo hiểm khác, ỷ lại cung Tật Ách trong tử vi của 2 vợ chồng đều bị Triệt và có sao Thiên không, rất tốt. Thế là, bà xã hễ có bệnh, đi khám ở Nhơn Hòa trả tiền mặt, còn tôi được người bạn học cũ thời trung học làm bác sĩ giải phẫu ở Bolsa, kêu "hễ có đau gì cứ tới bệnh viện gặp tui, 4 ngày 1 tuần, tui sẽ lo cho ông, đừng ngại gì cả. Mình còn sống tới tuổi này, gặp nhau là quí rồi." Thế là tạm ổn, chờ 2 năm nữa 65 tuổi hưởng medicare. Tạm thời ăn uống rau cỏ thanh đạm, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, hít đất thường xuyên là được rồi.
Tuổi già ngoài 60, cơ duyên lại khiến tôi quen được anh bạn độc thân võ sư, kiêm đông y sĩ, rất thân, cũng ở Wesminster, kêu tới nhà mỗi sáng chủ nhật dạy tập khí công, hít thở, gồng mình, để ngăn ngừa bệnh tật,không lấy tiền. Anh bấm huyệt, nắn gân, trị bệnh cho nhiều người bị tai biến mạch máu não, méo miệng, tê liệt, khỏi hẳn, tiếng đồn vang khắp nơi. Lại còn khuyên nên mua áo quần, mền gối, sản phẩm NEFFUL của Nhật có "negative ions" mặc , tuy đắt tiền, nhưng lọc sạch máu, kích thích, tái tạo tế bào, điều hòa hệ thống miễn nhiễm, trị nhiều chứng bệnh nan y. Tôi bấm bụng nhịn ăn mua hơn 2000 bạc áo quần pyjamas, mền, nón, vớ..Nefful. Kết quả rất khả quan, ngủ ngon, sáng sáng thân thể căng cứng, sinh lý sung mãn, không hắt hơi cảm mạo sổ mũi, mùa hè không thấy nóng, mùa đông không thấy lạnh. Lớp teviron 100% ở mặt trong quấn áo che chở thân thể ấm áp như 1 lớp"cửu dương thần công" vô hình bao bọc cơ thể, mặc quen ấm áp rồi không muốn cởi ra. Chưa hết, mới đây, em rể tôi lại tình cờ biết được một "clinic" trên đường nhỏ Dillow, phía sau tiệm"Dollar delivery",góc đường Bolsa, song song với đường Moran, cho bệnh nhân nằm giường massage FREE, có tia hồng ngoại tuyến đấm bóp , ngồi máy trị bệnh trĩ. Clinic này, do công ty chuyển tiễn Dollar Delivery bảo trợ,có dây nịt cắm điện hút mỡ bụng, có thau nước muối gắn cục điện giải, ngâm 2 bàn chân trong đó nửa tiếng đồng hồ, hút chất độc trong lục phủ ngũ tạng ra đen thui,màu cam, xanh đậm, đỏ, hay vàng khè... Mỗi màu tương ứng với một bộ phận trong cơ thể. Vàng là thận suy, đen là gan nhiễm độc, cam là thấp khớp ..v.v... Tôi tò mò theo em rể tới quan sát, nằm thử giường massage, thấy có chùm ngọc sáng đỏ rà rà từ dưới xương cụt theo xương sống lên đến ót rồi đi trở lại, kế đến cũng chùm ngọc đó châm cứu bằng tia sang hồng ngoại, nghe mấy người bệnh nằm bên kể nằm nhiều lần thì hết nhức mỏi, tê bại, méo miệng. Nửa giờ sau, qua ngâm chân trong thau nước coi có bệnh gì không. Cái món này thì phải trả tiền, 15$ ngồi nửa giờ. Thoạt đầu, mấy ngón chân tê tê, sau 30 phút, nước ra vàng, rồi biến ra màu cam, trên nước lềnh bềnh những miếng vàng lợn cợn như nước béo phở bò. Bà trông coi máy nói:
-Màu cam là chất độc ở các joints (khớp xương). Anh nói anh bệnh "gout" phải không, đúng là sau khi dán cao Nhật hút acid ra khỏi sưng, chất độc vẫn còn sót bám ở các joints, nên mới ra vàng cam. Còn mỡ vàng lềnh bềnh là "bad cholesterol" trong người anh tiết ra... .
Hai bà Mễ ngâm chân cạnh tôi, nước ra đen thui như bùn. Đó là chất độc trong gan. Có thể là bị "xơ gan", hepatitis B, C gì đó. Ngâm nhiều lần thì chất độc ra hết, nước sẽ nhạt màu dần. Thật là một lối trị bệnh khoa học thần kỳ. Ai thấy hiệu nghiệm, muốn mua giường, thau hút độc, belt tiêu mỡ bụng, đem về nhà xài khỏi tới đây, họ cũng order hàng cho.
Đúng là chịu khó sục sạo,"đường đi ở miệng", nghe đâu chữa hay cũng mò tới thì mới biết được nhiều điều bổ ích, giúp mình, giúp người... Có thử mới biết hiệu nghiệm hay láo khoét. Ngồi ở Nhân Hòa có 1 lúc, bô bô kể chuyện đi ngâm chân ra nước đen thui, mà có 2 ba người tới hỏi nhỏ xin địa chỉ Dollar Delivery ở đâu để đưa cha đưa mẹ tới chữa, thật là tội nghiệp. Còn cứ ngồi 1 chỗ ôm bệnh, bi quan, nghi kỵ chỗ này gạt, chỗ kia xạo, sợ " tiền mất tật mang", thì cứ "đau khổ vì bịnh trĩ" suốt đời. Chưa chết mà cũng như chết rồi. Nhớ câu châm ngôn "Có nhiều người không dám đi vì sợ gãy chân, nhưng nếu không đi thì có khác nào như đã gãy chân rồi." thật là hay.
Trong lãnh vực nào cũng vậy, giáo dục, business, kỹ nghệ, cũng như y học..., tôi quan niệm phải "try everything", phải thử, phải "take risks", thì mới tìm ra chân lý nhiệm màu.Bài này chính yếu tôi nói về kinh nghiệm chữa bệnh "gout", để giúp những ai hằng đau khổ vì bệnh này, nhưng cũng lan man "lạc đề" ra một vài bệnh khác để làm thày lang vườn, "mách thuốc chữa bệnh", giúp ý kiến, tin tức, mẹo vặt, cho một số bà con tham khảo... Biết đâu chẳng những giúp được phần nào cho sức khỏe an lạc bà con đồng hương kiếp này, mà còn tạo nhân duyên lành cho mình kiếp sau được làm thày thuốc cứu đời, who knows? PHẠM HOÀNG CHƯƠNG
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 9, 2008 16:39:20 GMT 9
TMJ :Bệnh rối loạn khớp Thái Dương Hàm và đau đầu kinh niên. Bệnh Khớp Thái Dương Hàm và hậu quả đau nhức của nó được Bác sỹ Y Khoa ngày nay càng ngày càng được sự chú ý chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị nhiều hơn trước đây. Ngày nay bệnh này đã và đang được thảo luận nhiều trên các trang báo về Y Khoa phổ thông. TMJ viết tắt cho chữ Temporo Mandibular Joint , là chỉ về hai khớp xương hàm Thái Dương tận cùng của xương hàm răng dưới , nằm phía trước hai lổ tai. Khi hai khớp này bị " rối loạn " thì chúng ta sẽ bị riêng biệt triệu chứng sau đây hoặc biểu hiện qua vài triệu chứng kết hợp một lúc : * Chứng nhức đầu thường xuyên, tập trung ở vùng trán màng tang , vùng khớp xương hàm Thái Dương , hay vùng trong sau hốc mắt phía sau đầu. Ta có cảm giác như đầu nhức như có một " vòng xiết chặc quanh đầu ". * Nhức đầu Migraine. * Hàm có tiếng kêu" cộp" khi nhai thức ăn hoặc ngáp. * Cảm thấy căng cứng ở khu vực cổ , và đôi vai. * Ngón tay bị tê cứng , đau lưng , chóng mặt thường xuyên , đầu bị cảm giác nhẹ lâng, choáng váng. Khi có triệu chứng như trên , chúng ta thường đi khám với các Bác sỹ chuyên khoa tuần tự như : Otologist ( Chuyên khoa về lỗ tai ), Radiologist ( Quang tuyến ) , Neurologist and Psychiatrist ( Chuyên về hệ thần kinh ,và tâm trí ). Nếu sau nhiều cuộc thử nghiệm ( tests ) và Bác sỹ vẫn không tìm thấy nguyên nhân rõ căn bệnh , nhất là sau khi dùng khá nhiều loại thuốc nhức đầu , triệu chứng nhức đầu vẫn không thể triệt tiêu tận gốc , lúc ấy chắc chúng ta sẽ được an ủi là " nên tập sống và chịu đựng " với cơn đau đầu triền miên vô hình này hoặc phải dùng thuốc nhức đầu trường kỳ. Hoặc sau cùng có thể có Bác sỹ ý kiến về nguyên nhân cơn đau là do một sự bất ổn về " khớp cắn " của hàm răng và đề nghị về khám lại với nha sỹ gia đình . Tuy nhiên, không phải tất cả các nha sỹ tổng quát đều có thể chẩn đoán và điều trị được bệnh khớp Thái Dương Hàm TMJ này, mà chỉ có một số ít Nha sỹ nghiên cứu chuyên sâu là hội đủ kiến thức để chẩn đoán rõ hoặc giúp đở điều trị căn bệnh TMJ này. Thử làm sao để nhận ra là ta có bị bệnh khớp TMJ không? * Muốn tự thử xem khớp TMJ của chúng ta bình thường hay rối loạn gây ra các triệu chứng nhức đầu như trên , bằng cách đặt 2 đầu ngón tay trỏ vào chổ vị trí của 2 khớp TMJ , vùng phía trước 2 lỗ tai khoảng 3 cm, và há miệng lớn , xong ngậm miệng lại , nếu ta cảm thấy đau , hay có tiếng kêu " cộp " hay tiếng " xì xào " trong khớp, điều này có nghĩa là khớp TMJ của chúng ta đã bị bất ổn rồi. Một cách thử thêm nửa là đặt 2 ngón tay út vào trong 2 lổ tai , với phần mặt ngón tay day về phía trước mặt ,dang 2 khủy tay để lên cao , ngón tay đè về phía trước trong khi miệng há rộng và ngậm miệng lại , nếu chúng ta củng nghe tiếng kêu " cộp " ở khớp TMJ . Điều đó báo động cho ta biết TMJ là nguyên nhân của cơn nhức đầu triền miên . Tại sao ta lại bị bệnh khóp TMJ này? Ngày nay chúng ta sông trong môi trường làm việc bên ngoài rất căng thẳng ( external stresses ) mà phản ứng của cơ thể chúng ta ứng với những căng thẳng này là các cơ , bắp thịt sẽ co cứng lại : cổ vai căng rút cứng ,răng hàm nghiến căng cứng lại .... Nếu xương hàm nghiến cứng thường xuyên do sự căng thẳng của đời sống và khi hai hàm răng ngậm lại của chúng ta không thể giúp một cách thích hợp cho việc giải tỏa lực căng đóng lại của xương hàm ,làm cho khớp xương hàm này bị kẹt và đóng sâu ổ khớp xương gây hư hại cho sự cấu tạo tại khớp này . Điều này có thể không những xảy ra cho răng thiên nhiên toàn phần ( trẻ tráng niên ), hay mất răng từng phần , hoặc mất răng toàn phần .
Do nguyên nhân chính là sự căng thẳng thường trực kéo rút mạnh của cơ bắp xương hàm , nên việc thả lõng và không nghiến chặt, căng kéo xương răng hàm sẽ giúp các triệu chứng TMJ sẽ biến mất đi . Câu nói đơn giản : Thói quen " Môi ngậm , răng hàm trên và dưới hở ra " nếu việc này đã thành thói quen thì sẽ giúp không còn những triệu chứng bệnh TMJ . Thật ra , câu trả lời chính xác nhất phải là tìm vị trí ngậm lại của xương hàm dưới thích hợp . Ngày nay với phương tiện máy móc mới , hay nhiều phương cách dò tìm thích hợp vị trí đúng và thích hợp giúp các cơ căng rút xương hàm mặt ở vị trí hài hòa , cân bằng, không làm cho ổ xương kẹt cứng hay cọ xát , căng cứng quá đáng và hư huỷ ổ khớp xương hàm ảnh hưởng đến phần xương sọ . Một Nha sĩ được huấn luyện và kinh nghiệm sẽ có thể giúp chẩn đoán và đo lường sự huỷ hoại của khớp xương . Nha sĩ có thể tìm lại vị trí thích hợp cho khớp xương hàm để điều trị TMJ , với dụng cụ nha khoa MỎRA chỉnh mặt phẳng khớp cắn bằng nhựa cho phép ổ khớp xương được chận đứng sự tự hủy , hầu giúp cho ổ khớp xương được lành mạnh . Thực phẩm dinh dưỡng không thích hợp củng là một tác nhân khác gây sự căng thẳng nội tại cho cơ bắp củng là một nguyên nhân gây phản ứng căng thẳng tạo ra bệnh TMJ . Việc chính yếu là định vị lại cho xương hàm dưới thích hợp , và giải tỏa áp lục quá đáng vào khớp ổ xương hàm , và thực hiện chế độ ăn uống dinh dưỡng không gây căng thẳng nội tại là có thể làm chận lại sự tệ hại tăng lên của bệnh TMJ . Chúng ta củng nên cân nhắc đến phương pháp huấn luyện phục hoạt sinh học của cơ thể và những phương pháp hài hòa thư giản . Trừ khi cấu trúc khớp được thay đổi cho lành mạnh , thì với bất cứ điều gì làm mất quân bình nơi xương hàm , và mất sự nới lõng tạo khớp cắn sự căng thẳng cho cơ bắp xương hàm kéo theo sự căng ép củng đều làm cho triệu chứng bệnh TMJ tệ hại trở lại . Sự kết hợp của nhiều lãnh vực y khoa giúp tâm trí , cấu trúc thân thể cân bằng , cơ chế sinh học dinh dưỡng cân bằng đều dẫn đến mục đích chính của đời sống là sức khỏe cường tráng ,và cuộc sống hạnh phúc làm giàu cho ý nghĩa của cuộc sống cá nhân . Trong đó việc loại bỏ được bệnh TMJ đóng vai trò chính yếu nhất .
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:35:47 GMT 9
Y KHOA VÀ KHOA HỌC
Hữu học sinh họ Vương ghi lại
BỆNH TĂNG NHÃN ÁP
Hiện nay trên thế giới có trên 67 triệu người mất thị giác vì loại bệnh này. Vì áp suất huyết trên con mắt khá cao nên những dịch chất trong lòng con mắt không chảy đều và vì thế mà đưa đến chứng bệnh mù lòa mà bệnh nhân không tài nào biết được. Áp suất tăng cao như thế sẽ tác hại đến dây thần kinh thị giác, tức là những dây thần kinh có trách nhiệm chuyển những hình ảnh nhận được từ mắt đến thần kinh óc trong não bộ.
Loại bệnh này thường gặp ở những người bệnh nhân tuổi từ 40 trở lên. Những ai có thân nhân trong gia đình bị bệnh này thì rất có thể có hy vọng vướng bệnh này. Những người bị bệnh tiểu đường và bị cao máu cũng có thể vướng bệnh này. Những dấu hiệu sơ khởi là mất chút thị giác từ vùng mắt ngoài rìa. các bác sỉ cho rằng đa số những người bị bệnh tăng nhãn áp mà họ không biết cho đến khibị mù. Khi bị mù thì không còn cách nào chạy chữa được.
Tuy nhiên nếu phát hiện sớm thì có thể giúp bệnh nhân kiểm soát được bệnh và có thể giúp bệnh nhân được nhìn thấy một phần nào.
Các chuyên viên về nhãn cầu có thể dùng loại thuốc chữa mắt để giãm bệnh tăng nhãn áp,họ cũng có thể dùng tia laser giãi phẩu cho người bệnh.
Năm vừa qua Cơ quan Lương Thực và Y Dược Hoakỳ vừa mới chấp nhận 3 thứ thuốc chữa bệnh tăng nhãn áp. Hai trong ba loại này thuốc có công dụng làm tăng lưu lượng chuyển dịch chất ra khõi mắt, nhờ vậy mà giãm được áp suất của mắt. Loại thuốc thứ ba gia tăng mức độ dào thãi dịch chất và giãm bớt số lượng dịch chất sinh sãn trong mắt.
Các nhà nghiên cứu tại Israel đang bào chế một loại thuốc chũng đễ trị bệnh tăng nhãn áp này. Bácsỉ Michael Schwartz dạy tại Đại học Weizmann ở Rechovot, cho biết bà đã thử trên nhiều con chuột và thấy thuốc “Copaxone” bảo vệ được dây thần kinh thị giác. Trong vòng một hai năm tới, các nhà nghiên cứu có thể bắt đầu có thể thử chũng loại thuốc này cho con người. Copaxone trước tiên được các chuyên gia bào chế tại Israel dùng đề trị bệnh "Multiple Sclerosis” (bệnh đa sơ cứng thần kinh) mà chúng ta vừa biết qua một nữ ca sĩ khả ái vừa qua đời tại Santa Ana gần đây. Một nhà nghiên cứu người Canada đã phát minh ra một dụng cụ giúp chúng ta tự đo nhãn áp ở nhà, như vậy rất tiên lợi cho bệnh nhân. Dụng cụ này đo nhãn áp qua mí mắt, giúp người bệnh và Y sĩ điều trị biết đuộc rõ hơn về việc các chất thuốc sử dụng kiểm soát được áp suất trong mắt như thế nào. Theo họ thì người trên 40 tuổi cần gặp Bác sĩ nhãn khoa hàng năm một lần để xem có bệnh hay không.
2.- Việc tái tạo Tim cho những người bị bệnh Tim:
Tuần qua, tại Đại Học New York Ban Tim Mạch Người ta phát giác được nhiều chuyện quan trọng đối với những bệnh nhân được chuyển tới Phòng ghép Tim. Họ thấy một số người được dùng thuốc thì có một số cơ tim hay thịt tim được tái tạo lại phần nào. Bác sĩ Piero Anversa, người thủ lãnh trong nhóm chuyên viên nghiên cứu Tim Mạch tại Đạihọc Y Khoa New York, cho biết toán nghiên cứu của ông đã nhận ra những tế bào mới này ở tim của 8 người được chuyển tới ghép tim. Họ còn thích thú khám phá hay phát giác ra những tế bào này tương tự như các tế bào nguyên thủy đã được biến thành tế bào tim. Các nhà nghiên cuứ cũng nhận thấy các tế bào non mới đó đã xuất phát từ bệnh nhân và đã tạo mộ mới trên cả trái tim cũ lẫn trái tim mới được gán ghép. Bác sĩ Anversa cho biết các tế bào của chính các bệnh nhân nầy được tái tạo được đến 1/5 quả tim được ghép đến.
Sau đây là vài lời của bác sĩ Anversa "chúng tôi nhận được ra điều nàyvì những bệnh nhân được chuyển ghép tim là đàn ông nhưng những trái tim họ nhận là trái tim của các bà. Nhờ xử dụng phương cách truy tầm nhiễm sắc thể Y (nên nhớ chúng ta có 2 loại nhiễm sắc thể Y và X trong loài người) chúng tôi có thể nhận được xuất xứ của một tế bào nào đó là từ tế bào cơ thể đàn ông hay từ cơ thể phụ nữ. Tuy nhìn thấy các tế bào này kết tụ trong buồng tim, Bác sĩ Anversa nhìn nhận là ông chưa biết thật rõ có phải từ tế bào chính quả tim hay không? Ông nói tiếp: "Điều mới lạ lùng này rất đáng chú ý là có thể chúng ta đã có một tế bào nguyên thủy đang nằm đâu đó trong quả tim. “Bác sĩ nói rằng nếu thực sự các tế bào đó là tế bào nguyên thủy thì các tế bào đó có thể biến thành bất cứ các loại tế bào nào trong cơ thể con người như vậy nó có thể sửa chữa mọi chỗ trống, nọi chỗ hư hỏng của trái Tim. Bác sĩ còn kể thêm: "bước kế tiếp là chúng ta sẽ xác định chúng có phải là tế bào nguyên thủy hay không, tế bào đó mạnh đến đâu và nhiều đến đâu, cùng mức độ sửa chữa của chúng. Điều cần nhất là chúng ta xem những tế bào bí mật này đang ẩn ở đâu, hay đang tập trung ở đâu có thể nào chúng ta có thể tập trung nó đến nơi mà hay sửa chữa ở chỗ bệnh hay không.
Hiện nay nhóm của Ông đang có một nổ lực tìm phương cách vận động hay nói đúng là là động viên những tế bào này và ra lệnh chúng nó đến nơi mà các Bác sĩ cần đến cứu chữa mà những chỗ này loài người chưa đến được nghĩa là dao kéo hay mổ xẻ chưa đến nơi nguy hiểm và thâm sâu nằm trong tận trái Tim. Nếu làm được như vậy thì chúng ta không cần đến sự gán ghép trái tim nữa.
Nếu nhóm nghiên cứu của Ông (chuyên về Tim) khi mà phát hiện được loại tế bào nguyên thủy trong trái Tim mà các tế bào này nó nẩy nở đến vá trái tim bị thương tổn thì tại sao chúng ta không bước đến những cơ phận khác của con người như Gan, Thậnvà Xương.
Nếu phát giác được điều này có thể chúng ta tạo các tế bào nhiều thêm và nó động viên chúng đến nơi mà sữa chữa. Các vị bác sĩ này gọi đùa là chúng nó như một đoàn công binh cơ giới mà Tạo Hóa cho nằm sẵn trong con ngườimà con người phải có bổn phận là tìm chúng ra bằng đủ mọi cách nếu không thế kỷ này thì thế kỷ sau vậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 19, 2009 10:08:16 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 19, 2009 10:19:59 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 19, 2009 10:25:45 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 19, 2009 10:34:44 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 19, 2009 10:49:14 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 2:51:13 GMT 9
Nhiếp Tuyến, Tuyến Tiền Liệt hoặc Nhiếp Hộ Tuyến là một tuyến sinh dục phụ của nam giới.
Mang danh là TUYẾN nhưng nó không tiết ra kích thích tố như các tuyến khác, không trực tiếp khích lệ sự giao hoan, nhưng góp phần quan trọng vào sự nối dõi tông đường và tột đỉnh của cảm khoái tình dục.
Tuyến cung cấp một ít chất lỏng kiềm tính để cùng Túi Tinh sản xuất tinh dịch. Mà tinh dịch lại rất cần thiết cho sự sinh tồn và di chuyển của cả dăm ba trăm triệu chú tinh trùng trong mổi lần giao hợp, xuất tinh.Tinh trùng do ngọc hành tạo ra.
Tinh dịch có đường fructose để cung cấp năng lượng cho tinh trùng; có prostaglandins kích thích tử cung co bóp, giúp tinh trùng di chuyển tìm kiếm Noãn Tiên Nữ ; trung hòa acid tính nước âm hộ để bảo vệ tinh tử. Chức năng này lại chịu sự chi phối của kích thích tố testosterone và kích thước lớn nhỏ của nhiếp tuyến cũng lại do kích thích tố này quyết định một phần nào
Trong trạng thái lành mạnh, bình thường, nhiếp tuyến to bằng trái hạt dẻ, sờ vào thấy mềm mềm. Tuyến nằm dưới bàng quang, bao quanh niệu quản dẫn nước tiểu ra ngoài cơ thể. Tuyến cũng nằm ở mặt trước của trực tràng, nên khi lang y cho ngón tay vào hậu môn khám thì cũng biết được tình trạng to nhỏ, cứng mềm, nhẵn nhụi hoặc sần sùi của tuyến. Ở tuổi trẻ, tuyến này là môi trường mầu mỡ cho sự nhiễm trùng, viêm, có sạn mà khi về già lại hay sưng và đưa tới u bướu lành hoặc ung thư.
Hôm nay lang tôi xin cùng quý thân hữu tìm hiểu xem tuyến sẽ gây khó chịu gì cho nam giới chúng ta và phe ta phải đối phó như thế nào với cái chuyện u sưng này.
Trước hết là chuyện Sưng Nhiếp Tuyến mà tiếng Hồng Mao kêu là Benign Prostatic Hyperplasia. Thực ra đây không hẳn là một bệnh mà trong nhiều trường hợp là một thay đổi hầu như tự nhiên của tuyến với sự gia tăng tuổi đời của con người. Các tế bào bình thường trong tuyến sẽ tăng sinh sản và tăng trưởng (Hyperplasia) nhưng tuyến vẫn có hình dạng nguyên thủy và khác với sự tăng sinh bất thường của tế bào mới trong ung thư . Hiện tượng này cũng giống như sự lớn lên của nhũ hoa khi người nữ mang thai.
Ở tuổi thiếu niên, nhiếp tuyến bé tý xíu, rồi dưới ảnh hưởng của kích thích tố nam, nó lớn dần lên bằng đầu ngón tay. Từ tuổi 20 đến 40, tuyến giữ nguyên kích thước, nhưng đến tuổi ngoài 45 thì 15% tuyến to lên. Khi đạt tới tuổi 65 trở lên thì 60% người cao tuổi phe ta đều có nhiếp tuyến lớn bằng trái quýt.
Nguyên Nhân
Lý do mà nhiếp tuyến tăng sinh- trưởng chưa được xác định rõ ràng. Có nhiều ý kiến cho là tuổi càng cao thì các tế bào nối tiếp ở giữa tuyến tăng trưởng mạnh, như là mới được bón phân mầu mỡ. Ý kiến khác cho là do tác dụng của kích thích tố đàn ông vì quan sát cho thấy tuyến của những người bị thiến (hoạn quan ) không sưng. Ngoài ra sự cắt ống dẫn tinh trùng, xơ cứng gan, cao huyết áp, hút thuốc lá cũng được nêu ra như có thể là nguy cơ sưng nhiếp tuyến.
Triệu chứng
Vì bao bọc chung quanh ống dẫn tiểu, nên khi sưng to, tuyến sẽ đè vào tiết niệu khiến cho sự tiểu tiện bị tắc nghẽn. Trong đa số các trường hợp, nhất là ở người trên 45 tuổi, sự nghẽn tiểu tiện xẩy ra từ từ: nạn nhân thấy vòi nước tiểu không vọt ra xa, yếu dần, nhỏ giọt, phải rặn mới đái ra hết. Nhiều khi nạn nhân phải ngồi trên bàn cầu để cơ bắp dưới xương chậu thư giãn, giúp cho sự đái được dễ dàng.
Các triệu chứng thường thấy gồm có:
Bất chợt có một thôi thúc cấp bách muốn đi tiểu mà ta không kiểm soát, kiềm chế được. Lý do là bàng quang bị căng đầy nước tiểu;
Mót là vậy mà khi vào nhà cầu thì nước chẳng chịu ra ngay, phải rặn, vì ống dẫn bị nhiếp tuyến đè nghẹt;
Nếu có ra thì vòi nước cũng yếu sìu, ngắt quãng vì „giao thông hào“ quá hẹp;
Tiểu xong mà thấy như bọng đái vẫn như còn tưng tức có nước, muốn „pi“ thêm;
Nước tiểu sót lại trong bàng quan kích thích nên ta hay đi đái rắt, nhất là ban đêm;
Nước tiểu đôi khi có máu vì huyết quản dãn nở đứt vỡ;
Nhiều khi vì nằm lâu trong bọng đái nên nước tiểu cũng bị nhiễm vi khuẩn, đưa tới bệnh đường niệu.
Hiệp Hội Niệu Khoa Hoa Kỳ đã đề nghị một số câu hỏi để phe ta ước lượng sự rối loạn của nhiếp tuyến. Đó là trong tháng vừa qua:
a- có bao giờ ta thấy có cảm giác như vẫn còn nước tiểu trong bọng đái sau khi tiểu xong?
b- có khi nào ta phải đi tiểu lại vài giờ sau khi vừa mới tiểu ?
c- bao nhiêu lần trong khi tiểu ta phải ngưng rồi lại tiếp tục tiểu?
đ-bao nhiêu lần ta thấy rất khó khăn để nín đái?
e-bao nhiêu lần ta thấy vòi nước tiểu yếu đi?
g-bao nhiêu lần ta phải rặn để bắt đầu tiểu tiện ?
h- bao nhiêu lần ta phải thức dậy để đi tiểu từ lúc chập tối tới sáng?
Nếu dăm câu trả lời đều là CÓ thì nhiếp tuyến của ta bắt đầu có vấn đề.
Để định bệnh, bác sĩ căn cứ vào lời khai những triệu chứng kể trên rồi xác định bằng cách khám hậu môn coi nhiếp tuyến lớn tới mức nào. Nước tiểu được phân tích coi có lẫn máu hoặc bị nhiễm khuẩn, thử nghiệm máu Prostate-Specific Antigen (PSA) xem có bị ung thư không.
Điều trị
Sưng nhiếp tuyến có thể được điều trị bằng dược phẩm hay giải phẫu.
Tháng 6 năm 2003, The American Urological Association đã đưa ra một hướng dẫn mới để điều trị Sưng Nhiếp Tuyến Lành. Khi các dấu hiệu nhẹ thì bệnh nhân được theo dõi ; khi trầm trọng thì bệnh nhân vừa được theo dõi vừa trị liệu.
Có nhiều dược phẩm làm nhiếp tuyến teo ( Proscar) hoặc làm thư giãn cơ thịt ở vùng xương chậu (Hytrin), khiến tiểu tiện được thông. Thào mộc Saw Palmetto cũng được y giới mang ra áp dụng với nhiều hứa hẹn tốt.
Y giới cũng khuyên không nên ăn thực phẩm có nhiều gia vị cay, cữ uống rượu, giảm tiêu thụ cholesterol, e rằng những chất này kích thích khiến tuyến sưng to hơn. Ngoài ra nên ăn nhiều rau trái, vận động cơ thể, đừng ngồi quá lâu cũng như xuất tinh thường hơn để ống dẫn tinh khỏi nghẹt.
Nếu tuyến quá lớn, khiến người bệnh thấy khó chịu thì cần giải phẫu để hoặc gọt nhỏ hay cắt hẳn tuyến sưng đi.
Sau giải phẫu, vết nơi mổ có thể đau cả tháng, và có thể bị chứng vãi đái trong vài tuần. Một vài người bị loạn cương dương tạm thời, đôi khi tinh khí chạy ngược lên bọng đái, nhưng không gây trở ngại gì tới việc giao hoan.
Thứ đến là Ung Thư Nhiếp Tuyến
Ung thư nhiếp tuyến là bệnh rất hay xẩy ra. Với nam giới, đây là loại ung thư thường có nhất và là nguyên nhân tử vong thứ hai trong số các bệnh ung thư, sau ung thư phổi.
Trung bình, trên 80% ung thư nhiếp tuyến được phát hiện ở lớp người 65 tuổi trở lên, nhất là từ 70 tới 72 tuổi. Cho nên nhiều người nói đây là bệnh của người già. Tuy vậy, 30% người ở tuổi 50 cũng có thể bị bệnh. Tỷ lệ ung thư cao ở người châu Phi, rất thấp ở dân Á châu.
Trong ung thư nhiếp tuyến, các tế bào tăng sinh một cách bất bình thường và không kiểm soát nổi. Chúng họp thành từng cục nhỏ trong tuyến. Rồi chúng lan tràn tới các bộ phận xa gần với tuyến như xương, hạch, lục phủ ngũ tạng. Khi ung thư đã lan xa như vậy thì kết quả sự chữa lành rất là mong manh.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây bệnh chưa được xác định. Có ý kiến cho là do tác dụng của hóa chất vào người làm việc trong kỹ nghệ cao su, dệt vải, phân bón, làm bình điện, tiêu thụ thực phẩm có nhiều chất mỡ. Cũng có thuyết cho là do tác dụng của kích thích tố đàn ông testosterone hoặc là do nhiễm trùng. Có điều may mắn là sự sưng nhiếp tuyến bình thường ở người cao tuổi không đưa tới ung thư của tuyến này.
Triệu chứng
Bệnh phát triển từ từ, âm thầm và ban đầu hầu như không có triệu chứng gì. Rồi vào một thời điểm nào đó bệnh nhân thấy tia nước đái yếu, không vọt thành vòi như trước; đái nhiều lần, nhất là về ban đêm, đôi khi nước tiểu có máu. Khi đái ra máu thì tế bào ung thư đã lan ra bọng đái và ống dẫn nước tiểu.
Sau vài tháng, người bệnh mệt mỏi, xuống cân, đau nhức xương sống lưng và xương hông.Tới lúc này thì bệnh đã lan rộng ra xương và cơ bắp ở chung quanh. Người bệnh cũng có rối loạn về đại tiện vì ung thư lan vào ruột già; loạn cương dương vì ung thư làm tổn thương giây thần kinh kế cận; sưng phù chân vì nghẹt máu lưu thông ở hạ chi; thiếu hồng huyết cầu vì tủy sống bị hư hao.
Ung thư nhiếp tuyến thường được chia ra thành từng giai đoạn tùy theo nặng nhẹ. Giai đoạn nằm thu gọn trong tuyến, chữa khỏi được; giai đoạn mới lan ra ngoài pham vi tuyến, còn chữa được; giai đoạn tế bào ung thư xâm nhập các hạch ở gần rồi lan đến xương cốt và các bộ phận xa xôi thì dường như đã quá trễ
Định bệnh
Hiện nay, ngón tay khám trực tràng (digital rectal exam) và thử máu prostate-specific antigen (PSA) là hai phương tiện hữu hiệu để truy tầm ung thư nhiếp tuyến. Ung thư nhiếp tuyến cần phải được nghĩ tới mỗi khi khám sâu trong hậu môn mà thấy tuyến sưng to hoặc cứng như đá.
Thử máu PSA là một thử nghiệm không tốn kém, dễ thực hiện nhưng hữu ích để coi tuyến sưng có là ung thư không và để theo dõi kết quả của điều trị. Bình thường kết quả là từ 0 tới dưới 4.0ng/mL; tăng cao dần cho tới mức 6.5ng/mL vào tuổi 80. Kết quả trên 4.0 ng/ml là không bình thường với người từ 50 tới 70 tuổi; người trẻ thì trên 2.5 ng/mL. Cũng nên lưu ý là thử nghiệm này không phải đặc biệt cho ung thư hoặc sưng nhiếp tuyến, vì nhiều nguyên nhân khác có thể làm PSA lên cao.
Với sự phối hợp của hai phương pháp này, có nhiều triển vọng là ung thư nhiếp tuyến được phát hiện sớm sủa. Hiệp Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyên người trên 50 nên hàng năm làm hai thử nghiệm này.
Sau đó, tìm thấy tế bào ung thư trong một miếng nhiếp tuyến dưới kính hiển vi là đủ để xác nhận bệnh. Muốn biết ung thư đã lan ra xương, thì thử nghiệm acid phosphase test cũng được thực hiện khi PSA lên quá cao.
Điều trị
Nếu được khám phá sớm khi chưa lan, ung thư nhiếp tuyến có thể chữa lành bằng giải phẫu cắt bỏ tuyến và tế bào lân cận hoặc chữa bằng tia phóng xạ.
Với người ngoài 70 tuổi mà lại có thêm các bệnh tim, tiểu đường, thận thì nhiều ý kiến cho là nên theo dõi mỗi ba tháng. Lý do là trị liệu có một số ảnh hưởng không tốt cho tuổi và tình trạng sức khỏe.
Khi ung thư đã chạy ra ngoài tuyến, sự điều trị tập trung vào việc làm dịu đau xương thịt, cải tiến sự bài tiết nước tiểu, làm chậm sự phát triển của bệnh và giải phẫu cắt bỏ tuyến ung. Việc giải phẫu này hay gây ra chứng loạn cương dương.
Kích thích tố testosterone đẩy mạnh sự sinh sôi nẩy nở tế bào ung thư, nên có thể chặn sự việc này bằng cách cắt bỏ ngọc hành hay dùng thuốc ngăn chặn sự sản xuất kích thích tố trên.
Sau khi giải phẫu, bệnh nhân cần được theo dõi mỗi ba tháng, sáu tháng rồi hàng năm .
Hậu quả của điều trị
Sau giải phẫu cắt bỏ tuyến và trị ung thư bằng tia phóng xạ, có hai hậu quả không tốt mà bệnh nhân phải gánh chịu suốt đoạn đời còn lại : 70% bị chứng loạn cương dương vì giây thần kinh điều khiển sự cương cứng bị cắt bỏ hoặc tổn thương và 5% không kiềm chế được tiểu tiện. Ngoài ra, người bệnh còn bị lên cân, mặt nóng bừng nếu được chữa thêm bằng kích thích tố.
Giải phẫu thường cắt bỏ toàn bộ nhiếp tuyến.
Tài nghệ thủ thuật giải phẫu gia dù có cao, đôi khi cũng làm tổn thương tới giây thần kinh điều khiển sự cường dương, nằm ngay cạnh nhiếp tuyến và đưa đến sự liệt dương. Nhiều khi để tránh sự lan tràn của tế bào ung thư, hai sợi thần kinh này cũng được cắt bỏ. Thành ra nhiều bệnh nhân thường coi như khi nhận giải phẫu nhiếp tuyến là đã đem thú vui sắc dục đổi lấy mạng sống.
Để giải quyết vấn nạn này, năm 1999, các bác sĩ ở viện ung thư M.D Anderson, Texas, đã giải phẫu nối ghép giây thần kinh vào dương vật để cơ quan này có thể cương trở lại được. Họ lý luận rằng, y khoa học đã thành công trong việc ghép cơ thịt, ghép giây thần kinh ở mặt, thì tại sao không ghép giây thần kinh điều khiển sự cường dương ở cơ quan sinh dục.
Các khoa học gia bắt đầu nghiên cứu và thử nghiệm ở chuột thì thấy kết quả tốt. Họ đã thử trên con người bằng cách lấy một đoạn dây thần kinh cảm giác ở gót chân để nối với giây thần kinh gần nhiếp tuyến bị hư. Chừng hơn một năm sau thì giây thần kinh ghép mới phát triển hoạt động. Kết quả rất khả quan vì sau đợt ghép cho 14 bệnh nhân đầu tiên thì 4 người đã lấy lại được khả năng làm tình, 7 vị có cường dương nhưng chưa đủ mạnh để giao hợp và phải dùng thêm Viagra để hỗ trợ. Nói chung, kết quả rất đáng khuyến khích.
Ngoài Viagra, hai thuốc mới Levitra, Cialis cũng hữu hiệu lấy lại cương lực cho nhiều vị nam mi hùng dũng lên cương mà „trên bảo, dưới chẳng chịu nghe“, nên sớm bùi ngùi ngã ngựa.
Không kềm tiểu tiện được tuy không đưa tới hậu quả tai hại, nhưng làm người bệnh bối rối, ngượng ngùng. Vừa mới vào thăm người bạn mà đã phải đi tiểu vài ba lần. Nếu không thì đái ra quần. Hoặc phải lủng lẳng đeo cái bịch cao su hứng nước tiểu, coi bộ cũng kỳ.
Cả hai hậu quả này đều ảnh hưởng tới nếp sống cá nhân và sự liên hệ của người bệnh với thân nhân, bạn bè cũng như là trở ngại cho khả năng kiếm kế sinh nhai.
Hy vọng rằng trong tương lai, y khoa học sẽ kiếm ra được phương pháp trị ung thư nhiếp tuyến công hiệu hơn để hạ số tử vong và làm giảm tác dụng phụ của các phương pháp điều trị hiện có, đặc biệt là rối loạn cương dương.
Để phe ta tiếp tục „enjoy“, kẻo rồi lại „phí của Trời“ ban cho!
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas tháng 11- 2004
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 2:59:31 GMT 9
Tiêu Hóa Thực Phẩm của cơ thể Chúng ta thường cứ nhắc nhở nhau ăn uống cho đủ chất dinh dưỡng để có sức khỏe tốt, mà đôi khi lại quên rằng: dù tiêu thụ nhiều thực phẩm nhưng tiêu hóa rối loạn thì bệnh tật cũng vẫn có thể xẩy ra. Vậy thì xin cùng ôn lại bài học Cách Vật Trí Tri về sự Tiêu Hóa Thực Phẩm của cơ thể. Thực phẩm mà ta tiêu thụ đều là những hợp chất phức tạp. Chúng cần được cơ thể phân ra thành những phần tử đơn giản hơn để chuyển qua vách ruột, vào máu rồi tới các tế bào. Từ tế bào, chúng sẽ cung cấp năng lượng và vật liệu thích hợp để duy trì sự sống. Đó là diễn tiến của sự tiêu hóa, sự hấp thụ và sự chuyển hóa thực phẩm. Tiêu hóa là tiến trình trong đó thực phẩm được phân hóa thành dạng mà tế bào có thể hấp thụ và đồng hóa được Hấp thụ là sự chuyển chất dinh dưỡng từ bộ máy tiêu hóa sang hệ tuần hoàn để rồi từ đó được phân phối tới các tế bào hoặc được tích trữ tại một vài bộ phận. Chuyển hóa là sự biến đổi các chất dinh dưỡng đã được tiêu hóa thành năng lượng và vật liệuđể cấu tạo tế bào. Cuối cùng là sự phế thải chất bã của thực phẩm ra khỏi cơ thể. Bộ máy tiêu hóa. Nói một cách tổng quát, bộ máy tiêu hóa có nhiệm vụ tiếp nhận thực phẩm, làm cho mềm tan ra bằng cách ngâm (maceration) trong diêu tố (enzymes), chất chua, mật và nhiều hóa chất khác. Diêu tố là những hợp chất đạm có khả năng làm thay đổi hóa tính của một chất khác mà nó vẫn không thay đổi. Mỗi diêu tố chỉ có tác dụng vào một chất dinh dưỡng. Thí dụ, diêu tố chuyển hóa chất đạm thì không có tác dụng gì với tinh bột hoặc ngược lại. Diêu tố do bốn bộ phận tiết ra: hạch nước miếng trong miệng, bao tử, tụy tạng và ruột non. Bộ máy tiêu hóa là một hệ thống ống chạy dài từ miệng xuống hậu môn, dài khoảng 8 thước. Tiếp theo miệng là thực quản, bao tử, ruột non, ruột già trực tràng và hậu môn. Dọc theo ống là các bộ phẫn hỗ trợ tiết ra dịch vị tiêu hóa như tuyến nước bọt, túi mật, gan, tụy tạng Lần lượt, thực phẩm sẽ đi qua các bộ phận sau đây. 1-Miệng . Miệng có ba chức năng chính: tiếp nhận thực phẩm, nhai thực phẩm cho nhuyễn nhỏ và khởi sự việc tiêu hóa tinh bột. Các động tác này cần sự hiện diện của nước bọt từ ba hạch nước miếng trong miệng tiết ra mỗi ngày khoảng 1,5 lít. Nước bọt có diêu tố alpha - amylase để bắt đầu biến đổi tinh đường. Chất nhớt trong nước miếng làm các phần tử thực phẩm quyện với nhau thành cục, chơn để nuốt cho dễ. Ngoài ra nước miếng còn có công dụng tiêu diệt các vi khuẩn có thể gây nhiễm độc cho răng, miệng và giữ niêm miệng lành mạnh. Răng và lưỡi có vai trò rất quan trọng ở giai đoạn này. Răng xé, nghiền thực phẩm. “Ăn có nhai” mà. Lưỡi đưa đẩy, nhào trộn thức ăn trong miệng cho răng nhai; nụ nếm trên lưỡi phân tách hương vị thức ăn; lưỡi khởi sự động tác nuốt thức ăn xuống thực quản. 2-Thực quản chuyển thực phẩm nước uống xuống bao tử mà không tham dự vào sự tiêu hóa. Nơi đây, thực phẩm di chuyển theo một làn sóng nhu động (peristaltis) nhờ sự thay phiên co bóp từ trên xuống dưới của bộ phận này. Thực quản dài độ 25 phân. 3-Bao tử là kho chứa tạm thời và cũng là nơi tiêu hóa thức ăn. Các tế bào riêng biệt trong bao tử tiết ra nhiều hóa chất khác nhau nhưng hòa lẫn với nhau gọi là dịch vị bao tử. Thành phần chính là hydrochloric acid, một acid rất mạnh, để làm mềm các mô liên kết của thức ăn và để tiêu diệt vi sinh vật có hại; pepsin, một loại diêu tố để tiêu hóa chất đạm. Ngoài ra bao tử còn sản xuất yếu tố nội (intrinsic factors) cần cho sự hấp thụ sinh tố B12; lipase, gastrin làm thức ăn thành khối chất bán lỏng; chất nhờn mucous để bảo vệ niêm mạc dạ dầy. Nếu không có chất nhờn thì acid sẽ gậm mòn niêm mạc, đưa đến loét bao tử. Mỗi ngày có chừng 2000 tới 2500 phân khối dịch vị bao tử được tiết ra. Tùy theo loại, thực phẩm thường lưu lại trong bao tử từ 1 đến 4 giờ. Theo thứ tự, carbohydrates rời khỏi bao tử trước tiên, rồi đến đạm và chất béo. Thức ăn lỏng tiêu hóa mau hơn đặc. Nước hầu như chỉ lướt qua bao tử để xuống ruột. Hai đầu bao tử có cái van hom (valves) để chặn thực phẩm khỏi dội ngược lên thực quản hoặc thực phẩm từ ruột tá (duodenum) chạy vào bao tử. 4-Ruột non là phần dài nhất của bộ máy tiêu hóa.Chiều dài ruột non là 3 thước khi ta còn sống và 6 thước khi ta chết, ruột được kéo thẳng ra. Đoạn đầu của ruột non gọi là tá tràng, dài 25 phân. Ðây là nơi mà từ 90-95 % thực phẩm được hấp thụ. Ruột non tiếp nhận thực phẩm đang trong chu kỳ được chuyển biến. Tế bào ruột non tiết ra nhiều diêu tố để tiêu hóa chất đạm và tinh bột. Nếu có chất béo thì mật từ gan được đưa vào để chuyển hóa và hấp thụ mỡ. Khi túi mật được cắt bỏ, như trong trường hợp có sạn, thì mật trực tiếp chạy xuống ruột non, nên sự tiêu hóa chất béo vẫn không có trở ngại. Các diêu tố trypsin, chymotrypsin, lipase, amylase, nuclease từ tụy tạng cũng được đưa vào ruột non để hỗ trợ sự biền đổi rồi hấp thụ chất dinh dưỡng. Trung bình, sự tiêu hóa này kéo dài từ 3 tới 10 giờ. 5- Ruột già. Dài khoảng 150 phân, ruột già là nơi hấp thụ nước, muối khoáng, sinh tố. Sinh tố được vi sinh vật sản xuất tại lòng ruột và gồm có K, B 12, thiamine, riboFlavine. Ruột già và trực tràng không tiết ra diêu tố, không tham dự trực tiếp vào việc phân hóa thực phẩm mà chỉ hút giữ nước, chất điện phân và là nơi dự trữ chất bã trước khi đẩy ra khỏi cơ thể Phẩn có 75% nước, 25% chất đặc.1/3 chất đặc là xác của vi sinh vật; 20 tới 40% là chất vô cơ và mỡ; chất đạm chiếm từ 2 tới 3%. Phần còn lại là chất xơ, tế bào chết, mật. 6-Gan. Dù là cơ quan hỗ trợ cho sự tiêu hóa thức ăn nhưng gan có vai trò rất quan trọng. Ở gan, có nhiều thứ diêu tố giúp thay đổi các phân tử dinh dưỡng ra hình thức mới với công dụng khác nhau ở mỗi loại tế bào. Một số phân tử này được chính gan sử dụng; một số khác dược dự trữ ở gan và sẽ được chuyển sang máu khi nào cần. Phân tử vào máu sẽ được tế bào thu nhận và xử dụng. Như vậy, gan có các nhiệm vụ sau đây: a-Nơi dự trữ đường đơn glucose dưới dạng glycogen. Khi mức độ đường trong máu xuống thấp hơn mức bình thường (70-110mg/100dL), thì tế bào gan chuyển glycogen ra glucose và đưa vào máu. b- Tổng hợp chất urea, phế thải trong sự chuyển hóa của đạm chất. Urea sẽ được chuyển sang máu và bài tiết ra ngoài qua nước tiểu. c- Tạo ra chất đạm cho huyết tương như là albumin, globulin và các yếu tố làm đông máu. d- Chuyển hóa chất đạm, carbohydrates và chất béo, khiến chúng được các tế bào sử dụng hữu hiệu hơn e- Sản xuất mật, rất cần thiết cho sự chuyển hóa chất béo. Mật được chứa trong túi mật và được chuyển sang ruột tá khi cần, như là để tiêu hóa chất béo. g- Hủy hoại các hồng huyết cầu già nua, chế biến và phế thải các sản phẩm do sự tiêu hóa như bilirubin, thải ra trong phân. h- Giải độc các chất như alcohol và vài dược phẩm. i- Là nơi tích trữ một số sinh tố và khoáng chất sắt. 7-Tụy Tạng Tụy tạng tiết ra một số diêu tố như lipase để tiêu hóa chất béo; amylase để chuyển tinh bột ra đường; trypsin để tách protein thành những phần tử amino acid nhỏ hơn. Bình thường thì từ 92 tới 97% thực phẩm ăn vào sẽ được tiêu hóa và hấp thụ. Nước, sinh tố, khoáng chất, đường đơn (monosaccharides), rượu được hấp thụ trong tình trạng nguyên thủy. Đường đa dạng, chất béo, đạm đều được chuyển sang dạng giản dị hơn để dễ hấp thụ. Diễn tiến sự tiêu hóa các chất dinh dưỡng 1-Carbohydrates. Sự tiêu hóa bắt đầu từ miệng, với diêu tố amylase của nước miếng. Tinh bột được biến thành dextrine và maltose. Ở bao tử, diêu tố amylase tiếp tục chuyển tinh bột thành phân tử đơn giản hơn, nhưng sự tiêu hóa trong ruột non mới đáng kể. Ở tá tràng, dưới tác dụng của amylase từ tụy tạng, tinh bột chuyển thành dextrin, maltose rồi diêu tố maltase ở ruột biến maltose ra glucose. Glucose và các đường fructose, lactose theo mạch máu nhỏ ở ruột mà chuyển qua dòng máu chính vào gan. Một số glucose được đưa từ gan tới tế bào, một số tích trữ trong gan và cơ thịt dưới dạng glycogen. Các đường fructose và lactose cuối cùng cũng biến hóa thành đường glucose. Một số carbohydrates như chất xơ, cellulose không được tiêu hóa và được thải ra theo phân. Động vật nhai lại có thể tiêu hóa cellulose, chất xơ nhờ tác dụng của vi khuẩn trong bộ máy tiêu hóa của chúng. 2-Đạm chất. Tuy là chặng đầu tiên để tiêu hóa chất đạm, nhưng bao tử chỉ có phần đóng góp rất nhỏ. Đa số chất đạm được tiêu hóa ở tá tràng. Dưới tác dụng của diêu tố trypsin từ tụy tạng, chất đạm được phân nhỏ thành các phân tử amino acids rồi được chuyển sang máu và dự trữ trong gan. Hầu hết chất đạm tiêu thụ đều được hấp thụ ở ruột non, chỉ có khoảng 1 % thất thoát ra ngoài trong phân. 3-Chất béo. Cũng như chất đạm, hầu hết chất béo đều được tiêu hóa ở ruột non, nhất là trực tràng dưới tác dụng của diêu tố lipase từ bao tử và tụy tạng. Sau khi tiêu hóa, chất béo được chuyển sang máu dưới dạng fatty acid, cholesterol. Mật từ gan cũng có nhiều tác dụng trong sự tiêu hóa chất béo. 4-Các chất dinh dưỡng khác. Sinh tố, muối khoáng và chất lỏng được lần lượt hấp thụ ở ruột. Mỗi ngày, khoảng 8 lít chất lỏng trong cơ thể thẩm thấu qua lại từ ruột để duy trì chất dinh dưỡng ở trong tình trạng dung dịch loãng. Sinh tố cũng được hấp thụ nguyên dạng từ ruột. Sự hấp thụ của khoáng phức tạp hơn qua sự chuyên trở của các protein và albumin. Sự Hấp thụ. Sự hấp thụ là diễn biến trong đó các chất dinh dưỡng đã tiêu hóa được ruột non đón nhận và chuyển sang máu để đưa vào tế bào. Chất dinh dưỡng gồm có: glucose từ carbohydrates, amino acid từ chất đạm, fatty acid và glycerols từ chất béo. Sự chuyển hóa. Chuyển hóa là quá trình hóa học trong đó chất dinh dưỡng được biền đổi sang các vật liệu để cấu tạo, tu bổ tế bào và sản xuất năng lượng cho nhu cầu các chức năng cơ thể. Thức ăn gồm có chất đạm, chất béo và carbohydrates. Mỗi nhóm có chức năng riêng để bảo trì cơ thể nhưng tất cả đều cho năng lượng. Sinh tố, muối khoáng nước không cho năng lượng nhưng lại cần thiết cho sự chuyển hóa. Ngoài năng lượng, sự chuyển hóa cũng tạo những cặn bã không tốt cho cơ thể và cần được thải ra ngoài. Sự chuyển hóa diễn ra cùng một lúc dưới hai hình thức: a- Dị hóa (catabolism): chất dinh dưỡng hữu cơ được đốt cháy để cho năng lượng. b-Đồng hóa (anabolism): các phản ứng hóa học chuyển đổi chất dinh dưỡng thành các vật liệu cấu tạo tế bào và các hóa chất khác như kích thích tố, diêu tố, máu. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự tiêu hóa. 1-Yếu tố tâm lý. Chỉ với sự nhìn thấy món ăn mầu mè, ngửi thấy mùi thơm hoặc nghĩ tới một món ăn hấp dẫn cũng đủ làm cho dịch vị bao tử và nước miếng tiết ra rất nhiều để sẵn sàng cho sự tiêu hóa. Đồng thời các cơ thịt ở bao tử và ruột cũng co bóp liên hồi để sẵn sàng nhào bóp nhuyễn nát thực phẩm. Ta có cảm giác đói là do bao tử liên tục co bóp. Ngược lại những cảm xúc lo sợ, buồn rầu lại khiến hypothalamus trên não bộ bị kích thích và làm giảm tiết dịch vị tiêu hóa cũng như giảm sự co bóp ruột, bao tử. Sự tiêu hóa do đó bị đình trệ. 2- Ảnh hưởng của hệ thần kinh. Khi kích thần kinh giao cảm, thì sự tiêu hóa chậm lại vì máu huyết được chuyển cho các công tác ngoại vi. Thí dụ như sau khi ăn mà lao động chân tay ngay thì máu sẽ được chuyển ra cơ thịt nhiều hơn là cho bao tử. Ngược lại, khi kích thích thần kinh đối giao cảm thì hoạt động tiêu hóa gia tăng. 3- Ảnh hưởng của kích thích tố. Ngoài các hóa chất do hệ tiêu hóa tiết ra, một số hóa chất khác cũng ảnh hưởng tới việc biến hóa thực phẩm thành năng lượng. Thí dụ kích thích tố tuyến giáp tăng sự chuyển động của ruột; glucocorticoid từ nang thượng thận tăng dịch vị bao tử trong khi đó epinephrine của nang này lại giảm dịch vị bao tử. 4-Tác dụng của vi sinh vật. Trong bộ máy tiêu hóa, nhất là ở ruột non và ruột già, có cả trăm loại vi sinh vật khác nhau. Lúc mới lọt lòng mẹ, các vi sinh vật này chưa có, nhưng sau đó, qua sự ăn uống, vi sinh bắt đầu xuất hiện. Đứng đầu là loại Lactobaccillus, rồi dến Escherichia coli, Bacteroides. Bao tử ít có vi sinh vật vì nơi đây có nhiều acid hydrochloric. Các vi sinh vật ở ruột có ảnh hưởng tới sự tiêu hóa và tạo ra một số chất hơi như khí hydrogen, oxygen, carbon dioxide, amonium, methane và một số chất có hại như indole, phenol và làm cho phân có mùi hôi. 5-Tác dụng của nấu nướng, chế biến thực phẩm Nói chung, thực phẩm được nấu kỹ thì dễ được tiêu hóa hơn thực phẩm sống hay chưa chín. Lý do là khi nấu, nhiệt đã làm các mô liên kết của thực phẩm tách xa nhau, khiến nhai dễ dàng và các dịch vị cũng dễ dàng tác dụng lên. Thực phẩm nhiều chất béo và đạm cần thời gian lâu hơn để tiêu hóa. Thức ăn lỏng cũng dễ tiêu hóa hơn đặc. 6-Ăn làm nhiều bữa nhỏ dễ tiêu hơn là ăn một bữa thịnh soạn. Ðó cũng là lời khuyên mà các nhà dinh dưỡng thường dành cho quý vị cao niên. Kết luận Coi vậy thì sự tiêu hóa rất ư là quan trọng trong việc duy trì một sức khỏe tốt. Rối loạn tiêu hóa đưa tới suy dinh dưỡng, không năng lượng điều hành các chức năng cơ thể, không vật liệu tu bổ cấu tạo tế bào, sản xuất hóa chất cần thiết. Trung bình, từ khi một bát cơm, con cá, miếng rau, cục thịt được đưa vào miệng, tới khi phế thải chất bã ở hậu môn, thời gian kéo dài, từ 10 tới 12 giờ. Trong diễn tiến phức tạp này, có sự tham dự của nhiều bộ phận, chất liệu khác nhau. Nhưng tạo hóa đã khéo sắp đặt để hoàn thành sự việc một cách tài tình, tuyệt hảo. Ðôi khi, do sự lơ là bất cẩn của con người, mà sự tiêu hóa bị trắc trở, rối loạn. Như ăn uống quá nhiều, ăn khi không cần, no bụng đói con mắt hoặc ăn uống thất thường, không đủ chất dinh dưỡng, có lượng mà không có phẩm. Chẳng thế mà người xưa vẫn nhắc nhở: “Ăn uống có điều độ thì sự tiêu hóa mới được điều hòa và con người mới được khỏe mạnh”-Luân Lý Giáo Khoa Thư lớp Sơ Ðẳng-1941. Và “Bệnh tùng khẩu nhập”. Suy cho cùng thì lời nói của cổ nhân cũng thập phần chí lý. Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 3:11:52 GMT 9
Phòng ngừa Tai Biến Động Mạch Não
Từ thuở xa xưa, nhất là từ giữa thế kỷ 20, y học đã liên tiếp có những chiến thắng lớn để cố gắng không những chữa khỏi bệnh mà còn phòng ngừa bệnh tật cho con người. Môn học Y Khoa Phòng Ngừa đã thành hình và rộng rãi được áp dụng. Khoa học này đang đóng vai trò rất quan trọng trong việc phổ biến sự hiểu biết về các loại bệnh, giảm các rủi ro gây bệnh tật, thương tích, cổ võ duy trì sức khỏe tốt, và ngay cả kéo dài tuổi thọ. Sự phòng ngừa này có thể thực hiện qua các tổ chức, cơ sở y tế công tư hoặc qua phòng khám bệnh của bác sĩ.Người thực hiện là nhân viên y tế và mọi người dân. Một cách tổng quát, có ba cấp độ chính để phòng bệnh: a-Phòng bệnh cấp một bao gồm các hành động với mục đích không cho bệnh hoặc tác hại xấu có cơ hội gây ra bệnh tật. Thí dụ chủng ngừa các bệnh truyền nhiễm, khích lệ mọi người vận động cơ thể, không hút thuốc lá. Riêng việc chủng ngừa đã xóa sổ biết bao nhiêu là bệnh nhiễm từng một thời gây ra tử vong cho cả triệu sinh mệnh trên trái đất, như bệnh dịch hạch, dịch tả .. b- Phòng bệnh cấp hai với mục đích khám phá ra bệnh ở giai đoạn mới phôi thai chưa có triệu chứng. Nhờ đó khi áp dụng, các phương thức điều trị có thể trì hoãn hoặc chặn đứng không cho bệnh xẩy ra. Quý bà làm Pap Smear, chụp X quang nhũ hoa, quý ông khám nhiếp tuyến theo định kỳ đều nhằm mục đích này. c-Phòng ngừa loại ba là để tránh các biến chứng xấu của bệnh mà mình chẳng may đang mắc phải. Thí dụ một người bị bệnh tiểu đường cần được điều trị đúng thuốc, ăn uống điều độ và giữ gìn nếp sống họp lý để tránh hậu quả hư hao thị giác, tuần hoàn, tiết niệu. Trong tai biến Ðộng Mạch Não, sự phòng ngừa rất quan trọng và hữu ích. Y khoa đã tìm biết một số rủi ro đưa tới tai biến, mà nếu mọi người áp dụng thì đe dọa của bệnh này giảm đi rất nhiều. Những rủi ro. Sau đây là những rủi ro chính: a-Tiền sử đột quỵ. Nếu đã bị cơn đột quỵ thoảng qua TIA mà không được điều trị thì 5 năm sau, một trong ba người sẽ bị tai biến. Tương tự như vậy, nếu đã bị đột quỵ và thoát hiểm cũng có thể bị lại. b-Cao huyết áp- Ðây là một trong những nguy cơ đưa đến bệnh tim thận và đột quỵ. Cao huyết áp cần được điều trị đúng đắn bằng dược phẩm, thay đổi nếp sống, hoạt động cơ thể. c-Bệnh tim- Nhịp tim không đều, bệnh van tim, suy nhược tim là những rủi ro thường thấy; d-Bệnh tiểu đường. Ðường huyết cao gây tổn thương cho thành mạch máu đồng thời cũng can thiệp vào sự biến hóa chất đông máu fibrin, khiến máu dễ đóng cục. e-Thuốc viên điều hòa sinh đẻ- Phụ nữ dưới 35 tuổi dùng thuốc viên ngừa thai mà gia đình có người bị đột quỵ cũng có nhiều rủi do bị tai biến hơn một chút. g-Có thai- Trong thời kỳ có thai, huyết áp thường lên cao và máu cũng dễ đóng cục nên rủi ro đột quỵ cao hơn. h-Kích thích tố thay thế- Phụ nữ ở tuổi mãn kinh dùng kích thích tố từ hai năm trở lên có rủi ro bị đột quỵ, ung thư nhũ hoa và cơn đau tim.heart attack cao hơn một chút . Tuy nhiên nếu quý bà mãn kinh với khó chịu trầm trọng vẫn có thể thảo luận với bác sĩ để uống kích thích tố với lương nhỏ nhất, trong một thời gian ngắn. i-Hút thuốc lá. Chất nicotine trong thuốc lá có ảnh hưởng không tốt với mạch máu và là rủi ro đưa tới stroke. Nếu đã hút thuốc dăm năm mà ngưng ngay cũng giảm nguy cơ tai biến não rất nhiều. k-Cao cholesterol trong máu. Cholesterol cao đưa tới đóng chất béo vào thành động mạch, đưa tới giảm lưu thông máu nuôi não bộ. l-Mật phì làm tăng huyết áp, bệnh tim và tiểu đường mà các bệnh này đều là rủi ro của đột quỵ; m-Ðời sống tĩnh tại, không vận động cơ thể; n-Uống nhiều rượu, ghiền thuốc cấm; o-Tuổi tác. Ðột quỵ có thể xẩy ra cho mọi người bất kể tuổi tác nhưng thường thấy nhiều ở người tuổi cao hơn trung niên. Các nghiên cứu cho hay 80% tai biến xẩy ra ở lớp người từ 65 tuổi trở lên. p-Giới tính. Cho tới tuổi 75, nam giới bị stroke hơi nhiều hơn nữ. Nhung sau tuổi đó thì tỷ lệ bị bệnh như nhau. q-Gia đình.Trong gia đình có bố mẹ hoặc anh chị em đã bị tai biến, đặc biệt là với anh chị em sinh đôi đồng nhất, từ một hợp tử (identical twins) với cùng gen di truyền và giới tính. r-Chủng tộc.- Dân da đen từ tuổi 35 tới 75 thường có nhiều tử vong vì stroke nhiều gấp đôi dân da trắng. Một lý do có thể là họ bị cao huyết áp nhiều hơn và họ cũng hay bị bệnh thiếu máu hồng cầu liềm sickle cell anemia trong đó tế bào máu dễ đóng cục. Phòng ngừa đột quỵ. Tai Biến Động Mạch Não là một tai nạn trầm trọng, xẩy ra không hẹn trước. Nó cũng có thể tái phát trong vòng 5 năm sau khi thoát khỏi cơn tai biến. Nhưng y giới vẫn xác quyết là có thể phòng ngừa tai biến nếu ta giảm thiểu các nguy cơ gây bệnh. Như là: 1-Huyết áp cao. Huyết áp cao là nguy cơ thứ nhất gây ra tai biến. Các nhà y học đã coi nó như tên sát nhân thầm lặng. Ở người cao huyết áp, nguy cơ bệnh tăng lên gấp 3 hoặc 4 lần so với người bình thường. Cả hai áp suất tâm thu và tâm trương đều quan trọng như nhau và đều là nguy cơ gây tai biến này. Huyết áp cao làm tăng xơ cứng mạch máu, gây tổn thương và bứt vỡ các động mạch nhỏ ở não, chẳng khác chi chiếc ruột xe đạp bể vỡ vì bơm hơi quá căng. Ðây có lẽ là rủi ro lớn nhất gây ra đột quỵ trong cả hai lãnh vực huyết cục và băng huyết. Theo thống kê dịch tễ, quá nửa đột quỵ là do cao huyết áp lớn nhỏ không được kiểm soát mà ra. Vì thế mỗi người cần theo dõi huyết áp đều đặn, đo ít nhất hai lần mỗi năm. Nhiều người không biết huyết áp mình cao vì bệnh thường thường không có triệu chứng. Huyết áp nên có là dưới 120/80. Trên mức này đã được coi như tiền-cao-huyết-áp và cần được theo dõi. Trên mức 140/90 là cao. Theo bác sĩ Harold P. Adams Jr, Đại Học Iowa, thì sự duy trì huyết áp ở mức độ bình thường là yếu tố quan trọng trong việc ngăn ngừa Tai biến. Cao huyết áp là nguy cơ gây tai biến quan trọng nhất mà ta có thể điều chỉnh được. . Do đó, nên có khám sức khỏe tổng quát hàng năm, đo huyết áp đều đặn. Nếu HA cao thì điều trị đến nơi đến chốn với: a- dinh dưỡng lành mạnh, giới hạn tiêu thụ muối, giảm uống rượu các loại; b- năng vận động cơ thể; c- giảm ký nếu mập phì; d- bỏ thuốc lá; e-sống tâm thân an lạc; và g- dùng thuốc hạ huyết áp theo hướng dẫn của bác sĩ, đừng bỏ sót một ngày nào dù thấy khỏe mạnh huyết áp xuống. Nếu cho rằng có thể giảm liều lượng thuốc thì hãy hỏi ý liến bác sĩ. 2- Bỏ hút thuốc lá vì chất nicotine làm co mạch máu, đẩy mạnh xơ cứng động mạch, gây tắc nghẽn. Sau khi ngưng thuốc 2 năm, nguy cơ giảm đáng kể; nếu ngưng được 5 năm thì nguy cơ tai biến giống như ở người không hút thuốc. Bác sĩ Harold P. Adams khuyến cáo là phải ngưng toàn bộ thuốc lá ngay chứ không phải là chỉ cắt giảm hút. Theo vị bác sĩ này, thuốc lá không những là nguy cơ gây Tai Biến mà còn làm tăng bệnh tim mạch, xơ cứng động mạch. 3- Vận động cơ thể đều đặn để giúp giữ lượng cholesterol thấp, kiểm soát cao đường trong máu, tránh phì mập. Nhiều chuyên viên bệnh tim coi đời sống quá tĩnh tại là nguy cơ Tai Biến, và chỉ cần tập thể dục 20 phút mồi ngày, 3 ngày một tuần, là bớt được nguy cơ. Họ cũng cho hay là càng tập dượt sớm càng tốt, nhưng không bao giờ là trễ cả. Ở tuổi 40-55 mới bắt đầu tập cũng làm giảm nguy cơ tai biến tới trên 35 %. 4-Giảm căng thẳng tâm thần vì stress tăng huyết áp và có thể gây ra đột quỵ. Áp dụng vài phương pháp thư giãn sẽ giúp đời sống thoải mái hơn cũng như tránh tai biến não. 5- Bớt tiêu thụ chất mỡ. Mặc dù chưa có bằng chứng rõ rệt về sự liên hệ giữa cao cholesterol và Tai Biến. Tuy nhiên kinh nghiệm dịch tễ cho hay khi hạ cholesterol thì nguy cơ tử vong vì Tai Biến do các bệnh tim mạch gây ra sẽ giảm rất nhiều. 6- Một số nhà dinh dưỡng y học khuyên uống một lượng vang đỏ hai lần mỗi ngày cho nam giới, một lần cho nữ giới. Lượng rượu vừa phải ( 350cc la-de, 150cc rượu vang, 50cc rượu nặng 80 độ ) có thể có tác dụng tốt ngừa tai biến. Nhưng khi uống quá nhiều thì nguy cơ tai biến tăng lên gấp 4 lần. 7 - Khi bị bệnh tiểu đường, cần duy trì đường ở mức độ trung bình, vì bệnh này làm tăng nguy cơ tai biến từ 2 đến 4 lần cũng như tăng số tử vong. 8- Aspirin với Tai Biến Aspirin có ảnh hưởng tới sự đông đặc của máu. Khi chẳng may đứt tay, chẩy máu thì cơ thể biệt phái những tiểu cầu tới đó, tụ lại với nhau tạo thành một cái nút để bịt lỗ rỉ của mạch máu. Tuy nhiên tiểu cầu cũng kết tụ bất thường trong mạch máu nuôi dưỡng trái tim, bộ não và gây ra Tai Biến Não hoặc Cơn Suy Tim. Aspirin giảm sự cấu kết của tiểu cầu, do đó được dùng để phòng ngừa một vài bệnh tim mạch. Nhưng việc sử dụng này là vấn đề khá tế nhị, cần được sự hướng dẫn của chuyên viên y học. Ủy Ban Đặc Nhiệm Phòng Bệnh Hoa Kỳ đã có những gợi ý nên theo sau đây về việc dùng Aspirin để phòng ngừa (primary prevention) bệnh tim mạch. Ủy Ban thành khẩn gợi ý rằng các bác sĩ nên thảo luận về khả năng ích lợi và bất lợi của Aspirin với người lớn có nhiều nguy cơ mắc bệnh động mạch vành ( Coronary Heart Disease). Ủy Ban đã thu thập được nhiều bằng chứng rằng Aspirin làm giảm tỷ lệ bệnh động mạch vành mới phát ở người lớn có nguy cơ bị bệnh tim mạch. Ủy Ban cũng có nhiều bằng chứng là Aspirin làm tăng tỷ lệ xuất huyết bao tử và cũng làm tăng phần nào tỷ lệ tai biến mạch máu não vì xuất huyết. Trước khi dùng Aspirin cho mục đích phòng ngừa tai biến não, cần uớc lượng các nguy cơ bệnh tim như tuổi tác, nam hay nữ, bệnh tiểu đường, cao tổng số cholesterol, thấp cholesterol HDL, cao huyết áp, bệnh sử thân nhân, và có hút thuốc lá hay không. Đàn ông trên 40 tuổi, phụ nữ ở tuổi mãn kinh, giới trẻ mà có yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành đều dễ mắc bệnh tim thì nên dùng Aspirin. Phân lượng Aspirin để phòng ngừa hữu hiệu có thể là 75 mg/ngày, 100 mg/ngày, hoặc 325 mg/mỗi hai ngày. Phân lượng cao hơn không mang tới ích lợi tốt hơn mà lại tạo ra nhiều tác dụng phụ không muốn. Để cho phù hợp với tình trạng của mình, ta nên tham khảo ý kiến bác sĩ về liều lượng ngõ hầu tránh tác dụng phụ của Aspirin. Nhân tiện đây, xin nhắc lại vài tác dụng phụ của viên thuốc đa năng aspirin.Dù đa năng nhưng không phải ai cũng uống được. Dùng lâu ngày có thể bị xuất huyết bao tử và các phản ứng dị ứng khác. Theo bác sĩ Daniel Deyken, Đại Học Y khoa Boston, Aspirin là nguyên nhân khá quan trọng gây ra xuất huyết. Uống một viên có thể làm chẩy ra một muỗng canh máu ở bao tử đã bị loét. Người bệnh đã có rối loạn về đóng cục máu hoặc dễ bị bầm da đều phải cẩn thận trước khi dùng thuốc Aspirin vì xuất huyết sẽ trầm trọng hơn. Một số điều kiện không dùng Aspirin được là có tiền sử mắc bệnh loét bao tử, dị ứng với Aspirin, huyết áp cao không kiểm soát được, bệnh gan và thận trầm trọng hoặc bệnh xuất huyết. Trẻ em không nên uống Aspirin vì nhiều quan sát cho thấy thuốc này có thẩy gây một bệnh hiếm cho não bộ, đó là hội chứng Reye. Ðây là rối loạn trong đó gan bị sưng với nhiều tế bào mỡ, não bộ sưng đưa tới kinh phong, đường huyết xuống thấp. Bệnh nhân có thể rơi vào hôn mê. Thường thường, đa số chúng ta có thể uống một lượng nhỏ aspirin mỗi ngày mà không ngại rối loạn cho bao tử. Tuy nhiên nếu ở người mà bao tử nhậy cảm thì nên uống sau khi ăn hoặc dùng loại Aspirin có bọc đường, vì bọc này ngăn Aspirin khỏi hòa tan trong bao tử trước khi xuống ruột. Hiện nay có cả nhiều chục triệu người uống Aspirin để ngừa bệnh tim. Các nhà bào chế vội vã tung ra nhiều loại Aspirin viên với phân lượng nhỏ: 81 mg . Công ty McNeil Pharmaceuticals sản xuất St Joseph Aspirin mà một thời được gọi là Baby Aspirin. Hãng Bayer tung ra loại Bayer Women's Aspirin Plus Calcium vừa để tăng cường xương cốt vừa bảo vệ trái tim của phái nữ. Kết luận Coi vậy thì Ðột Quỵ có thể giảm thiểu nếu ta áp dụng các hiểu biết về những rủi ro đưa tới bệnh. Sức khỏe ta sẽ được bảo vệ, tiền tài được tiết kiệm, gia đình được hạnh phúc. Áp dụng phương thức phòng ngừa là công việc của cả y giới lẫn dân chúng. Cho nên, thiên tài sáng chế Thomas A. Edison đã nói: “Các bác sĩ của tương lai sẽ không cho thuốc mà khích lệ hướng dẫn bệnh nhân vào sự chăm sóc cơ thể bằng dinh dưỡng, bằng hiểu biết về nguyên nhân và sự phòng ngừa bệnh” Ngoài ra, bị tai Biến Động Mạch Não không có nghĩa là cuộc đời chấm dứt. Khi nhà bác học Louis Pasteur bị stroke nặng ở tuổi 46, tình trạng bệnh ông suy sụp rất mau. Nhất là khi được biết, vì ông đau, người ta ngưng xây cất phòng thí nghiệm riêng của ông. Bạn bè bèn tâu xin với Hoàng Đế Napoleon III ra lệnh cho hoàn tất phòng thí nghiệm. Tinh thần Pasteur lên cao, ông kiên trì điều trị, phục hồi khả năng cơ thể và tiếp tục làm việc, thực hiện nhiều công trình khoa học đáng kể cho tới khi ông mất ở tuổi 73. Diễn viên sân khấu tài danh Patricia Neal bị tai biến trầm trọng, đã kiên tâm điều trị, hồi phục hoàn toàn và tiếp tục biểu diễn tài nghệ cho khán giả mộ điệu. Cho nên, điều cần thiết là người bệnh phải có thái độ tích cực, tin tưởng ở phương tiện trị liệu, phục hồi và chủ động trong việc tự săn sóc. Và với sự hỗ trợ, chăm sóc của người thân. Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 3:14:57 GMT 9
Tội nghiệp anh Bình vừa mới bị Tai biến não. Chị Bình không chăm sóc nổi nên phải đưa anh vào nhà dưỡng lão.
- Ấy, chú tư Hanh cũng bị stroke năm ngoái, nhưng nhẹ nên còn đi lại được.
Tai Biến Ðộng Mạch Não!!! Stroke!! Ðột Quỵ !!!!!!!!
Những tiếng mà khi nghe tới nhiều người đã rùng mình e ngại. Chỉ sợ là một lúc bất hạnh nào đó, nó sẽ đến thăm mình. Vì hậu quả đáng ngại của nó. Chẳng thế mà hai tháng sau khi bị nạn, nhà thơ Phượng Ly đã thất vọng kêu lên:
“Từ sau ngày tai biến mạch máu não
Tôi dật dờ tựa chiếc bóng đơn côi
Không tìm đâu lẽ sống của cuộc đời
Hồn héo mòn theo tháng ngày tàn lụi”
Vâng, Tai biến vẫn còn là một bệnh gây ra tàn phá nghiêm trọng cho cơ thể và là một trong ba nguy cơ tử vong cao. Một trăm người bị bệnh thì khoảng mươi người mới có hy vọng gần- hoàn- toàn- phục- hồi. Lý do là bệnh nhân thường đi cấp cứu hơi trễ để được khám nghiệm và điều trị sớm.
Bên Mỹ, hàng năm có cả triệu nạn nhân mới của tai biến này. Một số lớn may mắn thoát khỏi lưỡi hái tử Thần thì lại kéo dài cuộc đời tàn phế thần kinh. Số người sống sót tăng với tuổi thọ và nhờ ở các phương pháp trị liệu hữu hiệu. Nhưng chi phí chăm sóc hậu tai biến cũng nhiều. Và là một vất vả cho gia đình, một đau khổ cho bệnh nhân.
Bên Việt Nam ta, số người bị tai biến cũng cao, người tàn phế không phải là ít, và sự chăm sóc chắc cũng khó khăn giới hạn hơn.
Stroke gây ra do sự đột ngột ngưng tuần hoàn tới một vùng nào của não bộ. Ngưng vì một mạch máu bể vỡ, một cục máu chặn lối giao thông, một u bướu đè xẹp mạch máu.Tế bào thần kinh nơi đó thiếu dưỡng khí và đường glucose, chỉ cần vài phút là hết sống. Đó là các tế bào điều khiển sự di chuyển, suy tư, hành động, phát âm... Con người trở thành tàn tật.
Tàn tật vì:
-Liệt yếu nửa thân đối diện với bên não hư hao là tật nguyền thường xẩy ra nhất sau tai biến. Nạn nhân đi đứng loạng choạng, mất thăng bằng, dễ té ngã;
-Rối loạn khả năng nói, viết và hiểu tiếng nói, chữ viết. Nạn nhân nói lơ lớ khó khăn, không thành ngôn từ;
-Kém trí nhớ, nhận thức, suy luận và giải quyết sự việc;
-Thị giác rối loạn;
-Mất cảm giác về nóng, lạnh, đau, tê dại ngón tay, chân;
-Ăn trệu trạo, nuốt không xuôi, nước miếng trào ra;
-Mất kiểm soát tiểu tiện ngay sau khi bị tai biến;
-Có những xúc động như sợ hãi, bực bội, tức giận, buồn rầu, nuối tiếc sự mất mát về sức khỏe tinh thần, thể chất;
- Giảm khả năng tự chăm sóc trong đời sống hàng ngày...
-Và hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào người khác.
Một đời người đang khỏe mạnh như anh Vọi thuyền chài, như một bà nội trợ quán xuyến mọi việc trong nhà, mà chỉ một giây một phút trở nên tàn tật. Nhiều khi cũng chỉ vì quá lơ là với sức khỏe của mình: Huyết áp cao thì coi thường “thách đố” với bệnh tật, thuốc khi uống khi ngưng. Cholesterol phi mã mà vẫn tái nạm vè gầu, thêm chén nước béo, hai trứng gà non. Thuốc lá hút mỗi ngày vài ba gói, rượu uống dăm vò. Cơm no rượu say xong ngọa triều nhiều hơn là vận động. Cho sướng thân đời.
Biết đâu rằng: “Bệnh tùng khẩu nhập”, người xưa nhắc nhở chẳng sai chút nào. Vì đó là một số trong những nguy cơ đưa tới tai biến.
Cơ sự đã xẩy ra, bây giờ đành đương đầu, đối phó với hậu quả. Phải kiên nhẫn, tích cực phục hồi tối đa khả năng đã mất. Đừng buông xuôi, bai bải chối dấu “tôi có sao đâu”. Và cả nhà cũng như người bệnh phải tiếp sức để phục hồi các chức năng đã suy giảm.
Mục đích điều trị phục hồi là giúp nạn nhân lấy lại được sự độc lập tối đa trong đời sống của mình.
Thành công của phục hồi tùy theo vài điều kiện: mức độ hủy hoại của não bộ, áp dụng phương pháp phục hồi sớm hay trễ, tâm trạng thái độ của người bệnh, kỹ thuật của nhóm điều trị và sự hợp tác của gia đình bạn bè.
Vài ngày sau khi áp dụng các trị liệu hiện đại với mục đích hoặc làm tan huyết cục hoặc chặn xuất huyết, bệnh tình đã được kiểm soát, thầy thuốc sẽ hướng dẫn phương thức lấy lại các chức năng đã bị tai biến lấy đi. Các phương pháp này rất hữu hiệu để giúp ta phục hoạt sức mạnh, khả năng điều hợp cử động, sự bền bỉ và niềm tự tin, tránh phụ thuộc cũng như hội nhập với các sinh hoạt của gia đình, chòm xóm.
Ta phải học lại cách nói làm sao, nghĩ thế nào, đi sao cho vững và làm sao để tự mình hoàn tất được các sinh hoạt thường lệ. Tắm rửa, đánh răng; ăn cơm mặc quần áo; đi vệ sinh...Ôi thôi thì trăm việc cần thiết để sinh tồn.
Xin hãy kiên tâm. Đa số bệnh nhân đều phục hồi khá hơn; nhanh hay chậm cũng tùy thuộc stroke nặng hay nhẹ. Nhiều khi diễn tiến phục hồi bắt đầu ngay sau khi bị tai biến, khi bệnh tình ổn định, não bắt đầu lành vết thương.
Trong phục hồi, có sự tiếp tay của nhiều người thuộc các ngành chuyên môn khác nhau:
a-Bác sĩ gia đình.
Vai trò của bác sĩ gia đình rất quan trọng trong việc phục hồi chức năng cho người bệnh. Vị này tiếp tục điều trị và phối hợp sự chăm sóc lâu dài cho nạn nhân như là: coi xem phục hồi như thế nào cho thích hợp, giới thiệu khám chuyên môn, theo dõi sức khỏe, hướng dẫn để ngăn ngừa tai biến tái phát, duy trì huyết áp và đường huyết bình thường, giảm cân nếu mập, hướng dẫn dinh dưỡng...
b-Ðiều dưỡng viên phục hồi
Các y tá này đã được huấn luyện để giúp người bệnh học lại cách thức thực hiện các công việc hàng ngày như tắm rửa, thay quần áo, vệ sinh cá nhân. Họ cũng hướng dẫn bệnh nhân về sử dụng thuốc, dinh dưỡng, ngừa tai biến tái phát, chỉ dẫn thân nhân cách chăm sóc người bệnh. Một điểm quan trọng là tránh nhiễm trùng da ở phần cơ thể nằm bất động lâu ngày.
c-Chuyên viên Vật Lý Trị Liệu.
Mục đích của vật lý trị liệu là giảm thiểu sự đau đớn gây ra do các khớp và bắp thịt nằm im, lấy lại sự cử động và ngăn ngừa thương tích, bệnh tật có thể xẩy ra.
Chuyên viên Vật lý trị liệu có kiến thức về cấu tạo cũng như chức năng của cơ thể nhất là đối với sự cử động của tứ chi, mình mẩy. Họ sẽ ước lượng sức mạnh, sự chịu đựng, tầm cử động, dáng đi, cảm giác của nạn nhân rồi phác họa chương trình tập luyện phục hồi. Bệnh nhân sẽ học để cử động phần cơ thể bị liệt, tập đi lên xuống cầu thang, tập giữ thăng bằng cơ thể, đi lại an toàn. Từng khớp xương, cơ bắp được thoa nắn, giúp co vào ruỗi ra để tránh đóng băng, cứng nhắc, viêm sưng. Bệnh nhân cũng được hướng dẫn cách sử dụng nạng, xe lăn, cử động trong nước, dùng hơi nóng lạnh để giảm các cơn đau nhức.
d-Chuyên viên trị liệu sáng tạo (occupational therapist), giải trí
Nhóm này sẽ hướng dẫn bệnh nhân làm các công việc thông thường như chải đầu, đánh răng, dọn nhà, nấu ăn, học lái xe an toàn, tìm thú vui giải trí thích hợp. Nhiều nạn nhân không biết cách và cơm vào miệng, không nhai nuốt được, khó khăn cài khuy áo, cầm đồ vật, viết lách, đánh chữ trên bàn phím máy vi tính. Một số lớn bị co cứng các ngón tay gây trở ngại cho việc cầm dụng cụ. Họ sẽ được hướng dẫn sử dụng vài thiết bị giản dị trợ lực cho bàn tay, bàn chân.
Các chuyên viên cũng giúp người bệnh tìm những thú vui giải trí thích hợp như chơi domino, đố chữ để luyện trí óc; tập vẽ, tập viết cho các ngón tay được dùng đến; đánh banh trong khi bơi lội dưới nước...
Trị liệu này mang nhiều ích lợi cho người tuổi cao, người phải ngồi xe lăn, người kém thị giác, hay té ngã.
e-Chuyên viên ngôn ngữ
Dậy nạn nhân dùng lại các lời nói, nhớ lại những chữ căn bản, học cách diễn tả ý muốn bằng dấu hiệu, cách nuốt thực phẩm, nước uống. Nhiều bệnh nhân quên tên cả từ những vật thường dùng tới tên bạn bè, thân thuộc.
g-Chuyên viên huấn nghệ. Sau tai biến não, một số bệnh nhân muốn làm việc trở lại. Ðây là điều đáng khuyến khích để bệnh nhân không bị coi là tàn phế, vô dụng. Nhưng trở lại với nghề nghiệp cũ có thể gặp khó khăn. Các chuyên viên nghề nghiệp sẽ hướng dẫn bệnh nhân điều chỉnh hoặc kiếm công việc thích hợp với tình trạng sức khỏe hiện tại. Nhiều quốc gia đã có đạo luật bảo vệ giúp đỡ nạn nhân tàn phế.
Phục hồi chức năng có thể thực hiện ngay tại bệnh viện, các cơ sở phục hồi, nhà điều dưỡng hoặc tại gia.
Ða số bệnh viện có phòng phuc hồi với đầy đủ dụng cụ, nhân viên để điều trị cho bệnh nhân. Chương trình tập luyện rất chi tiết đòi hỏi sự cố gắng và chăm chỉ của bệnh nhân.
Bệnh nhân cũng có thể điều trị tại gia, với sự tới lui của chuyên viên trị liệu. Lợi điểm của cách này là bệnh nhân được hướng dẫn để làm lại các công việc trong đời sống hàng ngày ngay tại nơi mình sống.
Ngoài áp dụng phục hồi, cũng cần phòng ngừa stroke trở lại, nhất là trong thời gian một năm sau khi bị lần đầu.
Nguy cơ tái phát tăng với tuổi cao, nếu ta tiếp tục hút thuốc lá, uống nhiều rượu, có bệnh cao huyết áp, cao cholesterol, mập phì, tiểu đường, suy tim hoặc đã bị gián đoạn máu não thoảng qua( Transient ischemic attack- TIA).
Cần đi khám sức khỏe theo định kỳ. Chữa các bệnh đang có nhất là kiểm soát huyết áp, một “tên sát nhân thầm lặng”(Silent Killer); bỏ thuốc lá; nhâm nhi chút chút rượu thôi; giảm chất béo; giảm tiểu đường; bớt nặng kí; mỗi ngày uống viên aspirin nhỏ bé và các thuốc khác mà bác sĩ cho. Và cũng năng vận động cơ thể theo lời khuyên của thầy thuốc để máu huyết lưu thông, gân cốt thư giãn.
Một vấn đề thường xẩy ra cho người bị tai biến là bệnh trầm cảm, hậu quả của tổn thương tế bào não và sự bất khiển dụng một số chức năng.. Cảm xúc sẽ lên xuống, buồn nhiều hơn vui, đôi khi thất vọng, nhỏ lệ, bực tức rồi buông suôi.
Cũng dễ hiểu thôi. Đang xốc vác khỏe mạnh mà giờ đây xe lăn, nạng chống; ăn phải nhờ người bón, tắm rửa cần người phụ; nói không ra câu, nhìn một hóa hai...Thì ai chẳng buồn rầu, chán nản.
Nhưng dù trầm cảm đến đâu, khoa học hiện đại vẫn có cơ hóa giải được. Nói cho thầy thuốc hay cảm xúc của mình và sẵn sàng nhận sự chữa chạy. Nhiều dược phẩm công hiệu cũng như phương thức trị liệu điện tử có thể giúp ta vượt qua sự “sầu đong càng lắc càng đầy này”.
Với thân nhân thì sự hỗ trợ, chăm sóc, khuyến khích người bệnh đều vô cùng cần thiết. Đây là việc làm lâu dài, đòi hỏi sự hy sinh, thông cảm và thương yêu tột độ.
Mà thương yêu thì ai chẳng có. Đầu gối tay ấp trên dưới nửa thế kỷ. Công ơn sinh thành dưỡng dục cả vài chục năm. Bây giờ là lúc chứng tỏ tình nghĩa phu thê mặn ngọt có nhau cũng như báo hiếu song thân. Ta có thể tham dự vài khóa huấn luyện cách chăm sóc, cách giúp người thân phục hồi, học lại những chức năng đã mất.
Xin gợi ý:
-Cần có một phân chia việc săn sóc cho mỗi người trong gia đình để tránh ôm đồm quá sức cho một người;
-Giúp bệnh nhân uống thuốc đều đặn;
-Khích lệ để bệnh nhân tập cử động, làm vài việc chính để gây niềm tự tin;
-Ca ngợi bất cứ một cố gắng mà người thân đã thực hiện được, để khỏi nản lòng;
-Mời kéo thân nhân tham dự góp ý vào các sinh hoạt gia đình, cho họ một niềm tin là vẫn còn một vai vò quan trọng; Giúp thân nhân giữ mối liên lạc với bạn bè, cộng đồng;
-Tránh để thân nhân lủi thủi một mình với chiếc TV hay radio; dành thì giờ nói chuyện cũng như nhờ bạn bè thăm hỏi;
-Chịu đựng sự khó tính, đòi hỏi, cằn nhằn đôi khi tưởng như “vô ơn” của người bệnh;
-Liên lạc thường xuyên với thầy thuốc để trình bày diễn tiến phục hồi cũng như nhận thêm hướng dẫn chăm sóc.
Và không quên chăm sóc chính mình, ăn uống ngủ nghỉ đầy đủ, có thời giờ thư giãn giải trí. Vì con đường hỗ trợ người thân còn dài.
Thay lời kết
...“ Ông ơi, Sáng nay bác sĩ cho tôi nằm dọc trên một chiếc gối dài, rồi lần lượt dơ hai tay hai chân lên cao. Tôi đều làm được. Mấy cô y tá cũng chịu khó ngâm bàn tay bàn chân tôi trong nước nóng, thoa nắn kéo từng khớp xương cho duỗi ra. Tôi bắt đầu viết thư trên vi tính được rồi...” bạn trung tiểu học TTT định cư ở Tokyo.
...“ Mình báo tin mừng cho chị: mình mới đan xong chiếc khăn foulard tặng ông xã nhân dịp Noel. Nét đan coi cũng khá thẳng hàng. Mất cả tháng đấy. Các ngón bàn tay phải của mình đã tự co vào ruỗi ra được. Bữa nào anh chị lên chơi, mình biểu diễn thái khế, thái thịt ba chỉ ăn cơm với mắm tôm chua cho vui...”Chị Vân, vợ hiền một đồng nghiệp.
...“Sự thăm hỏi và vấn an tình trạng sức khỏe của anh chị trong lúc tôi lâm bệnh đã là những khích lệ châu báu, tràn quý tình bằng hữu giúp tôi qua khó khăn. Sau những chương trình Hồi phục, tôi đang trên đà bình phục và đã trở lại làm việc bán thời gian 6 giờ/ ngày, lái xe 60 dặm đi về trên xa lộ”.
Ðó là tâm trạng Phượng Ly vào Noel năm nay, bẩy tháng sau tai biến, với kiên tâm tập luyện, với hỗ trợ của người vợ hiền và bầy con cháu. Pilot ta phấn khởi hơn:
“Lòng reo vui thấy mình còn Hạnh Phúc
Hơn bao người...đời bất hạnh hơn ta
Tim Hồng xưa chợt lóe sáng chan hòa
Những Niềm Vui...trong Thu Vàng Xác Lá”.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas – Hoa Kỳ
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 7:05:29 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:09:37 GMT 9
Phương pháp ăn uống để phòng chống bệnh ung thư của người Nhật
- Phạm Thị Ngọc Trâm - Nhà xuất bản Văn hóa - Hà Nội – 2004
Xem Video
MỤC LỤC
• Lời nói đầu...........................................................5 • Phương pháp ăn uống để chống bệnh ung thư........7 • Tôi đã tự chữa lành bệnh ung thư.........................25 • Mì chính - kẻ thù ngọt ngào..................................51 • Những hiệu nghiệm chữa bệnh.............................83
LỜI NÓI ĐẦU
Đối với nhiều dạng bệnh tật, đặc biệt là bệnh ung thư – hàng năm cướp đi bao nhiêu sinh mạng con người một cách vô nghĩa lý. Y học hiện đại đã và đang làm hết sức mình để khắc phục căn bệnh hiểm nghèo, bằng: cắt bỏ, chiếu tia, hoá chất... để nhằm tiêu diệt bệnh tật. Bên cạnh đó y học cổ truyền cực Đông lại coi bệnh tật như những tín hiệu đèn báo cho người bệnh biết họ đã đi chệch khỏi trật tự vũ trụ và cần phải biết quay về với thiên nhiên.
Với cách đặt vấn đề như vậy nền y học cực Đông đã đối đãi với bệnh tật như một người bạn, và người “bạn” đó đã thông báo rõ ràng tình trạng “đang là” của cá nhân bạn. Nếu đã thông báo nhiều lần rồi mà bạn vẫn không hay biết, cho đến khi bệnh quá rõ thì bạn mới hay. “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” và bệnh tật sinh ra là để nhắc nhở cá nhân đó điều chỉnh lại nếp sống, sinh hoạt, ăn uống không “thuận thiên” của mình. Nền y học cực Đông cung cấp cho bạn một sự thật là bệnh tật, trong đó có bệnh ung thư không phải đến một cách bất ngờ vô lý như chúng ta vẫn tưởng mà trái lại: Cấu tạo tố chất, lục phủ ngũ tạng, khí chất, môi trường sống, điều kiện sinh hoạt, trang thái tinh thần, những cảm xúc nặng nề... đều là những lý do để bệnh tật xuất hiện. Vì thế không có nạn nhân của bệnh ung thư mà chỉ có những kẻ tự tạo cho mình bệnh ung thư mà thôi. Đó là điều mà người thực hiện quyển sách nhỏ này mong muốn khuyến cáo cùng độc giả.
Chúng tôi xin giới thiệu một cách nhìn nhận bệnh ung thư của GS. Michio Kushi người Nhật Bản và cách điều trị bệnh ung thư của ông áp dụng theo nền triết lý cực Đông đã tỏ ra hữu hiệu ở khắp thế giới, trong đó có một số người Việt Nam áp dụng đã thành công để bạn đọc cùng tham khảo.
Nắm vững và thấu đạt được những điều được nêu trong quyển sách này mỗi chúng ta sẽ tôn trọng cơ thể sự sống của mình hơn.
Hàng triệu người Pháp đã thấy và nghe một giáo sư Nhật Bản trình bày trên màn hình phép dưỡng sinh “mầu nhiệm” mà căn bản là ăn gạo lứt muối mè. Giới y khoa Pháp, các bác sĩ về chuyên môn dưỡng sinh, các bác sĩ chuyên trị bệnh ung thư và tất cả dân chúng Pháp không ngớt bàn bạc về phương pháp Macrobiotique của giáo sư Michio Kushi. Do đó báo Paris Match mới phái ký giả Sabine De La Brosse đến phong vấn giáo sư Michio Kushi tại viện nghiên cứu của ông ở Boston. Kỹ thuật ăn uống có tiến bộ từ 50 năm nay thì bệnh ung thư cũng bành trướng từ 50 năm nay. Vào tháng 8 năm 1982, toàn nước Mỹ chấn động vì một bài báo Life trên 8 trang giấy tường thuật trường hợp một bệnh nhân ung thư nặng được cứu chữa bằng phương pháp Macrobiotique: tại Philadelphia, một bác sĩ y khoa tên là Antony Satilaro loan tin rằng ông đã dứt bệnh ung thư nặng (khối u đã di căn toàn cơ thể) nhờ phép dưỡng sinh “Macrobiotique draconian” một phương pháp ăn uống loại bỏ tất cả thực vật do động vật cung cấp. Tháng 3 năm 1984, một lực sĩ trứ danh, 26 tuổi tên là Dirk Benedietos viết trên nhật báo Time rằng ông đã bị ung thư bọng đái, nay được cứu chữa nhờ phép dưỡng sinh của Michio Kushi. Vào tháng 7 năm 1984, tờ báo East West Journal có đăng một trường hợp tương tự. Một thương gia tên Norman Alnold sống tại Columbia bị ung thư gan: “Bác sĩ điều trị tôi bảo tôi chỉ có thể cầm cự trong 6 tháng nữa thôi. Tôi đau khổ và tuyệt vọng, tôi đành chịu phép cầu cứu cuối cùng là ăn uống theo phương pháp Macrobiotique như bác sĩ Antony Satilaro, nghĩa là từ này tôi chỉ ăn những thức ăn từ thảo mộc và rông biển. Tôi tìm đến giáo sư Nhật Michio Kushi và ông này đã trị dứt bệnh cho tôi. Hôm nay, tôi trở nên mạnh khoẻ, da dẻ hồng hào, tình thần minh mẫn, tôi trở lại đời sống bình thường, làm việc, chơi thể thao, yêu đời, vui sống còn hơn xưa nữa”. Ba trường hợp trênn gây ảnh hưởng không ít trong giới y khoa; các bác sĩ bệnh viện hết sức tin tưởng và cũng bắt đầu ăn uống theo phưong pháp Macrobiotique. Rồi dần dần số người bệnh ung thư được chữa lành và thoát chết nhờ phương pháp Macrobiotique tăng lên không ngớt. Các trường đại học Harvard, Erooklyn, Cambridge, các viện nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Trung Quốc hết sức tin tưởng vào thuyết “Giữ gìn sức khoẻ, tránh bệnh tật bằng cách ăn uống”. Tại Boston, giáo sư Michio Kushi và phu nhân là bà Avelyn (chuyên dạy cách nấu bếp Macrobiotique) sống với 5 người con. Sabine De La Brosse ký giả của Paris Match, đến thăm giáo sư và phu nhân tại viện nghiên cứu của giáo sư. Sau đây là cuộc phỏng vấn: S.B (Sabine De La Brosse) hỏi: Dân chúng đang chờ nghe giáo sư nói chuyện trên đài truyền hình về bệnh ung thư. Chẳng hay, theo giáo sư những việc nào làm cho con người mắc phải bệnh ung thư? M.K (Michio Kushi) đáp: Chúng ta thường nghe nói “nạn nhân” của bệnh ung thư. Câu nói ấy có nghĩa là người mắc bệnh ung thư phải có cơ thể lành mạnh đáng lý ra không mắc phải bệnh ấy bao giờ. Ý nghĩa này không đúng mà còn vô lý nữa. Thành kiến cho rằng người mắc bệnh ung thư là nạn nhân, là kẻ vô phước, mắc phải bệnh hiểm nghèo và sẽ chết nay mai, nên bạn bè thân quyến đến thăm viếng, nuông chiều, tặng hoa, biếu kẹo bánh, sôcôla. Nạn nhân sẽ ăn, để rồi bệnh ung thư vì thế mà nặng thêm. Sự thật khác hẳn: Bệnh tật, trong đó có cả bệnh ung thư không phải hiện đến một cách vô lý như chúng ta tưởng, mà trái lại bệnh tật có lý do rõ rệt và đến một cách đương nhiên và hữu lý. Từ 50 năm nay, bệnh ung thư lan tràn, chúng ta hãy xét xem có cái gì thay đổi trong thời gian ấy? Kỹ thuật làm việc, môi trường sống và nhất là cách ăn uống có thay đổi nhiều. Khi xưa tổ tiên ta không ăn gạo xay quá sạch, bánh mỳ quá trắng, không uống Coca Cola, không ăn chất đường nhiều. Khi xưa khôgn có chất hoá học thêm vào thức ăn như bột ngọt, mì chính, thức ăn được chế biến....Thật ra, đến 90% thói quen ăn uông của chúng ta hiện nay có thay đổi hoàn toàn so với thế kỷ 19, thời của ông bà ta. Nhân loại khi xưa đã sống qua hàng triệu năm bằng những món ăn đầy đủ chất bổ, gốc từ nông sản nguyên chất. Những thức ăn “văn minh” hiện nay bắt đầu gây tạo cho cơ thể ta những chất độc như chất dơ, chất ươn thói, chất hoá học, chất đường chứa đựng trong các bữa ăn của chúng ta . Chúng ta bài tiết chất độc qua đường tiểu, qua máu, qua mồ hôi, qua hơi thở, qua thể dục thể thao. Bởi vậy, từ lâu mỗi chúng ta đã nuốt vào cơ thể nhiều chất độc và làm tiêu diệt chất độc ấy bằng sự bài tiết. Nhưng khi số lượng chất độc quá cao, thì cơ thể làm sao tiêu diệt cho hết được. Thế thì rất đơn giản, cơ thể tự vệ bằng cách riêng: tiêu diệt chất độc bằng cách tự tạo ra một cơn bệnh, để đốt cháy chất độc quá nhiều cho cơ thể được rửa sạch và trở lại quân bình. Đó là thế thủ tự nhiên bảo tồn sự sống. Nhưng khi số lượng chất độc quá cao so với khả năng bài tiết, nếu mỗi ngày chúng ta cứ tiếp tục nuốt vào cơ thể những thức ăn có hại hơn là có lợi (nghĩa là độc nhiều hơn bổ dưỡng), chúng ta ăn nhiều chất hoá học, chất đường, thịt thú vật, kem lạnh...thì cơ thể ta phải làm sao? Nếu ta cứ tồn thêm chất độc thì cơ thể ta gom chất độc ấy vào một chỗ, ấy là bệnh ung thư hiện ra Nếu ta cứ tiếp tục ăn vào những chất độc, chất thừa (thừa calori, thì khả năng bài tiết do mệt quá thành bất lực vì chất độc quá nhiều so với khả năng bài tiết) thì cơ thể ta chỉ còn phương cách cuối cùng để sinh tồn là gom những chất độc ấy vào một cơ quan của cơ thể thường là ở vú, bộ phận sinh dục, phổi.... Những khối chất độc ấy ứ đọng thành những mạng mỡ dễ ung thối và ấp ủ vi trùng; vi khuẩn nảy nở thành khối u còn gọi là bướu (kyste, tumeur). Thế là bệnh ung thư xuất hiện. Bệnh ung thư chỉ là một cách chống đỡ tự nhiên của cơ thể để cứu vãn sự sống. Phương cách này tuân theo luật thiên nhiên không thể tránh được, luật này áp dụng cho tất cả sự vật trong vũ trụ. Không có nạn nhân của bệnh ung thư chỉ có những kẻ tự tạo cho mình bệnh ung thư mà thôi. Khi người ta tiêu thụ quá số nhu cầu cho sự sinh hoạt của cơ thể, thì bệnh ung thư sinh ra để che chở cho cơ thể. S.B: Vậy thì làm sao bây giờ, thưa giáo sư? M.K: Nếu bệnh ung thư chợt đến, ta không nên quá chú tâm lo lắng cho khối u, mà ta phải để tâm xem xét đến thức ăn, sớm kiểm soát chất lượng và phẩm chất của thức ăn để số chất độc thặng dư tồn trữ tỏng cơ thể dưới hình thức của bướu sẽ bị tiêu diệt dần dần. S.B: Giáo sư nói số thặng dư đã có trong quá khứ. Vậy thì trẻ sơ sinh nào có bao nhiêu chất độc mà cũng bị ung thư? M.K: Những trẻ so sinh khi còn là bào thai được nuôi dưỡng bởi chất độc trong thức ăn của người mẹ. S.B: Giáo sư đã nghiên cứu cách nào để khám phá ra điều này? Ông là một bác sĩ y khoa đã dày công nghiên cứu?
M.K: Ông sẽ ngạc nhiên khi biết rằng tôi không hề tốt nghiệp y khoa mà tôi lại tốt nghiệp luật khoa ở đại học Tokyo, chính trị khoa ở Columbia Univercity tại New York và tôi có nghiên cứu nhiều năm triết học Đông phương, Đông y và phương pháp Macrobiotique. Tôi say sưa nghiên cứu phép dinh dưỡng. Tôi đã tìm cách thích nghi phương pháp dinh dưỡng với nếp sống của thế giới văn minh hiện đại. Sau đó, tôi dịch nhiều sách về ung thư trong 7 năm liền. S.B: Xin giáo sư cho biết vài điểm thiếu sót và sai lầm trong ăn uống của thế giới hiện đại so với phép dưỡng sinh của ông bà ta thuở xưa? M.K: Chúng ta đã bỏ quên một số bột chứa đựng nhiều khoáng chất như lúa mỳ, lúa mạch, bắp, các loại đậu (leguniaeuses) giàu sinh tố như đậu (poes, đậu lentilen...(, chúng ta ăn quá ít rau, củ tươi như củ cải trắng, củ cải đỏ pissenlita. Thức ăn của chúng ta hiện giờ chỉ toàn là thịt thú (thịt bò, thịt heo, thịt vịt, chim). Tất cả các loại thịt thú chứa nhiều chất mỡ khó tiêu. Lại nữa, chúng ta chê bỏ dầu thảo mộc để ăn toàn mỡ thú (mỡ heo, mỡ bò). Còn về nước uống: toàn nước ngọt đựng trong hộp, trong chai như coca cola. Cách nấu nướng cũng thật sai lầm vì chúng ta loại bỏ hết vỏ, lá, rễ cây, ấy là những phần chứ nhiều sinh tố C, và để bù đắp lại, chúng ta uống thuốc viên vitamin khó tiêu hoá hơn bội phần vitamin thiên nhiên. Lại nữa, gạo trắng chúng ta đang ăn bị mất lớp vỏ chứa nhiều chất đạm, nhiều sinh tố và chất khoáng. Bánh mì trắng là một món ăn xấu nhất. Ở Nhật Bản, nơi mà nếp sống càng ngày càng theo lối Mỹ, người ta thấy rằng càng ngày bệnh ung thư càng có nhiều, nhất là ung thư bao tử vì người ta ăn nhiều thịt, trứng, phomat. S.B: Tôi nghe nói, phụ nữ thường hay bị ung thư vú, có thực vậy không? Phương pháp Macrobiotique có thể cứu họ không? M.K: Có chứ, vì cách dinh dưỡng thanh đạm, ăn uống đúng cách, có mục đích lập lại sự quân bình của cơ thể. Những bà ấy cần kiêng ăn thịt, có thể ăn cá thay vào, bớt ăn đường và phải kiêng uống rượu. Bù lại, họ nên ăn nhiều rau củ cải, rau cải đủ loại, rau tươi luộc chín, không nên ăn quá nhiều rau sống. Nếu người ta nhận thấy hiện nay ở Nhật Bản các bà bớt bị ung thư vú, ấy là nhờ các bà bớt ăn thịt heo, bớt ăn phomat, bớt ăn đường và bớt ăn dầu. S.B: Xin giáo sư cho tôi một mẫu thực đơn Macrobiotique? M.K: Được, tôi sẽ đề nghị như thế này: - Bữa ăn điểm tâm: Dùng một chén bột lúa mạch với vài miếng mì đen và một tách trà (không ướp thơm). - Bữa ăn trưa: Một món salade, một đĩa rau luộc chín, cá, bột mì nguyên chất (bột mì lứt) (nếu là người Âu), cơm gạo lứt (nếu là người Á), trà không ướp hương. Người Pháp thích uống rượu nho, họ có thể uống vừa phải. - Bữa ăn chiều: Xúp rau, đậu lentilen với poiseasses, cá, trái cây, bánh taeta aux pommer không có đường, salade trộn với dấm làm bằng ngũ cốc (đừng dùng dấm hoá học) và trộn với ít dầu thôi. S.B: Giáo sư đã chữa lành bệnh ung thư bằng phương pháp Macrobiotique? M.K: Tôi đã đạt được nhiều kết qua khả quan với phương pháp Macrobiotique. Hàng năm, tôi nhận lời chữa 3000 bệnh nhân và phần nửa là bệnh ung thư, có đến 40% số bệnh nhân ung thư đến giờ chót (vô vọng). Bác sĩ của họ đã chạy, họ không còn chút hy vọng sống sót, họ mới tìm đến tôi. Tôi có thể nói, phần nửa số bệnh nhân “chờ chết” ấy hiện nay đã bình phục hẳn, khoẻ mạnh và trở lại vui sống bình thường. S.B: Vậy còn phần nửa kia thì sao? M.K: Số người ấy không theo đúng phương pháp Macrobiotique mà tôi đã vẽ cho họ. Họ ăn uống sai, họ không kiêng ăn được, họ ăn uống trái phép, họ tiếp tục tồn trữ chất độc. Phải nói rằng đối với người mắc bệnh ung thư, thì phải theo đúng phương pháp Macrobiotique. Họ cho rằng khó ăn, khó theo, khó kiêng cữ. Phải nhìn nhận rằng sự hợp tác của người xung quanh nhất là người trong gia đình là rất cần. Trong gia đình, người vợ nấu bếp phải nâng đỡ tinh thân người chồng bằng cách cùng ăn với chồng theo phương pháp Macrobiotique. Cách thức nấu ăn hiện nay đã tiêu huỷ tất cả những chất bổ dưỡng cho cơ thể. Khi lần đầu tiên tôi đến thăm một bệnh nhân trong gia đinh, tôi có thể đoán trước bệnh nhân ấy sẽ lành mạnh hay sẽ chết. Nếu vợ ăn một miếng thịt băm viên trong khi ông chồng ráng ăn bột, ăn rau thì hỏng cả rồi. Muốn cho một bệnh nhân hết bệnh, người xung quanh cũng phải ăn theo phương pháp này. S.B: Chỉ có một phương pháp Macrobiotique duy nhất cho tất cả bệnh ung thư hay là có thay đổi tuỳ bệnh nhân? M.K: Có một phương pháp mẫu, những chuyên viên Macrobiotique trị bệnh cho người có thể thay đổi thực đơn tùy trường hợp, có người thì cần ăn nhiều rau luộc, có người thì chỉ cần ăn nhiều ngũ cốc. S.B: Những bác sĩ chuyên môn trị ung thư có đồng ý với ông về phưong pháp này không? M.K: Y khoa Mỹ hiện nay nghiêng về phương pháp mới này nhiều lắm. Mới đây có một bài báo đề xướng cách ăn uống rất giống phương pháp Macrobiotique. Tôi hợp tác chặt chẽ với nhiều bác sĩ chuyên môn trị bệnh ung thư như Cohem, Iehman De Boston. Phương pháp của tôi không ngược lại lối trị bệnh của họ từ bấy lâu nay như Chimiothéraple (chữa ung thư bằng cách tiêm ngay vào khối u), chiếu tia cobalt hay giải phẫu. Lạ thật, khi tôi thảo luận với họ thì họ chấp nhận phương pháp của tôi là hay là đúng, mà hễ khi họ được phỏng vấn trên đài truyền hình, truyền thanh thì họ cố tránh phát biểu ý kiến riêng. Dẫu sao tôi vẫn tin tưởng nơi tôi. Tôi tin chắc rằng, trong 8 năm nữa y khoa sẽ nhìn nhận rằng bệnh ung thư có thể chữa trị được bằng lối dinh dưỡng đúng cách. S.B: Khi ông săn sóc một người bệnh ung thư, ông có đồng ý cho họ tiếp tục uông thuốc, tiêm thuốc hay chiếu tia cobalt như đã làm từ trước hay không? M.K: Thông thường, tôi săn sóc bệnh nhân, tôi thảo luận với y bác sĩ điều trị về phương pháp Macrobiotique của tôi. Nếu tiếp tục cho chiếu tia cobalt, hoặc dùng Chimiothéraple thì có thể làm dịu cơn đau nhưng chắc chắn làm suy yếu cơ thể rất nhiều. Vì lẽ đó, phải dùng thuốc cẩn thận, phải theo dõi bệnh nhân rất kỹ và chớ nên lạm dụng thuốc. Còn nếu phương pháp dinh dưỡng mới có kết quả tốt thì tôi nghĩ nên giảm thuốc từ từ. S.B: Ngoài viện của giáo sư ở Boston, ông còn thành lập trung tâm truyền dạy Macrobiotique nữa không? M.K: Tôi có thành lập tại Mỹ 5 viện khác cho dân chúng, cho các giáo sư tương lai. Chính là những sinh viên cũ của tôi đã theo Macrobiotique. Khoá học kéo dài từ một năm đến một năm rưỡi, và sẽ phải có thêm nhiều tháng thực tập và thí nghiệm nữa. Tôi sáng lập những trại hè ở những vùng có cảnh đẹp ở Hoa Kỳ và Châu Âu, có tới 7000 người sống trong đó, họ ăn uống theo lối Macrobiotique, thử thích nghi với lối sống theo thuyết mới. S.B: Xin giáo sư cho biết vài điểm hay báo hiệu sức khoẻ dồi dào của một đệ tử của phương pháp Macrobiotique? M.K: Phương pháp Macrobiotique giúp cho con người chóng khỏi sự sợ sệt, lo lắng, kinh hãi. 1. Độ đường trong máu trở lại bình thường. 2. Áp huyết hạ xuống. 3. Độ colesteron thấp. 4. Nhịp tim tốt. 5. Sự tiêu hoá, sự bài tiết điều hoà. Người đệ tử Macrobiotique trước kia nóng nảy, nay trở nên kiên nhẫn. Họ trở nên dễ hoà hợp với kẻ quanh mình hơn, và đó là người không ganh ghét, bình tĩnh, tinh thần vững mạnh. Trong những gia đinh Macrobiotique, mỗi người cư xử hoà nhã với nhau, dịu dàng và hiền lành với nhau hơn, ít khi cãi vã, giận dỗi. Những người theo phương pháp Macrobiotique ít khi cảm thấy lo âu, chán nản, sợ sệt. S.B: Khi một bệnh nhân ung thư được chữa lành nhờ phương pháp Macrobiotique nghĩa là chỉ dùng những thức ăn thảo mộc và hải sản, khi họ ăn uống trở lại trước nghĩa là ăn thịt thú, thì bệnh ung thư có thể tái phát không? M.K: Muốn được lành hẳn, cần phải có thời gian 7 năm ăn uống theo phương pháp Macrobiotique và sau đó 8 năm dưỡng bệnh ( nghĩa là có thể ăn thịt thú trở lại nhưng ít thôi). Nếu một bệnh nhân lơi kỹ thuật Macrobiotique trước khi bệnh dứt hẳn, thì bệnh ung thư có thể tái phát. S.B: Ngoài bệnh ung thư, phương pháp dinh dưỡng của giáo sư có giúp cơ thể tránh những bệnh khác nữa không? M.K: Những người theo phương pháp Macrobiotique thường thì được che chở khỏi tất cả các bệnh tật, như bệnh đau khớp xương chẳng hạn. 15% người Mỹ mắc bệnh này. Tại học đường Harvard nhiều sự nghiên cứu sưu tầm chứng nhận rằng phương pháp Macrobiotique là phương thuốc thần hiệu để chữa các bệnh đau khớp xương và các bệnh về tim. S.B: Theo ý ông, nước nào trong tương lai sẽ tiến triển trong vấn đề chống bệnh ung thư? M.K: Tôi nghĩ rằng nước Trung Hoa có thể qua mặt Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua này (cuộc chạy đua thắng bệnh ung thư). Điều này do sự phối hợp chặt chẽ của hai nền y khoa: Đông y và y học cổ truyền. S.b: Vợ ông và 5 con ông chỉ dùng những thức ăn thảo mộc, những thức ăn biển, vậy vợ con ông có khỏi bệnh tật hay không? M.K: Đã 35 năm nay, tất cả người trong gia đinh tôi không xài một xu để mua thuốc uống (chỉ trừ khi vợ tôi sinh đẻ). Dĩ nhiên con cái tôi cũng có bệnh vặt, bệnh nhẹ, nhưng chúng tôi săn sóc nhau bằng lối ăn đúng cách thôi (sửa đổi thức ăn cho từng trường hợp). S.B: Phép dinh dưỡng Macrobiotique có ảnh hưởng gì đến trí óc? M.K: Có nhiều thí nghiệm về vấn đề này. Tôi có liên lạc với một người bạn thân thiết, giám đốc một trung tâm cải huấn cho trẻ phạm pháp tại Virginin. Một hôm ông quyết định bỏ hẳn những món ăn có nhiều chất đường. Ít lâu sau, người ta thấy trẻ bớt hung hăng, dữ tợn. Còn những cậu thiếu niên thần kinh suy nhược buồn rầu, không ăn đường thì lại có thêm nghị lực muốn sống vui, sống hoà mình với người xung quanh. Những sự nghiên cứu khác cho thấy phương pháp Macrobiotique làm cho con người được nhanh trí. sáng suốt, tăng thêm trí óc. Người theo phương pháp Macrobiotique hiểu tâm lý hơn, cởi mở hơn. Trong khi giáo sư Michio Kushi trình bày lý thuyết Macrobiotique thì nhiều người đến nghe, lặng lẽ bước vào phòng họp, ngồi rải rác trên sàn nhà quanh lò sưởi. Giáo sư Michio Kushi mỉm cười và nói tiếp: Nếu tương lai, thế giới văn minh hiện đại không trở về phép tương dưỡng sinh theo thiên nhiên dù không hẳn là phương pháp Macrobiotique hay phép dưỡng sinh tương tự, thế giới sẽ đi đến một sự sụp đổ khủng khiếp. Về hình thức: mỗi gia đình sẽ có nhiều người đau yếu luôn, dù bệnh ung thư hay bệnh khác, rồi ta sẽ thấy có một số cuộc giải phẫu để cắt bỏ các cơ quan trong cơ thể, thay vào đó cơ quan nhân tạo như tim, cuống phổi, cuống bao tử...Về mặt tinh thần, tư tưởng sẽ bị chi phối bởi những phương cách nhân tạo, uống thuốc vitamin viên, dùng máy điện để giúp trí nhớ. Phương pháp “Cách sinh trẻ nhân tạo” khiến giống người của thiên nhiên sẽ tiêu dần để thay thế vào lớp người “tiền chế”. Ý niệm gia đình, tôn giáo, tình cảm con người sẽ mất hẳn. Trái lại, nếu con người trở về phép dưỡng sinh Macrobiotique hay gần như Macrobiotique thì nhân loại sẽ sống dậy, tiến lên, đời sống tinh thần được nâng cao và thế giới sẽ được cứu vãn. Muốn sống khoẻ, sống vui, chúng ta phải nghĩ rằng vũ trụ rất đẹp và kiếp người rất quý. S.B: Sau khi trình bày vè phép màu nhiệm Macrobiotique, xin giáo sư cho biết vài nguyên tắc cơ bản? M.K: Nguyên tắc cơ bản thứ nhất là dùng những thức ăn toàn phần (complet), nghĩa là không bỏ bớt phần bổ dưỡng như vỏ cám gạo, vỏ lá, rễ của rau củ. Nhu vậy, thay vào ăn bánh mỳ tráng, chúng ta chọn bánh mỳ đen, ta sẽ ăn gạo lứt thay vào gạo trắng và ăn đủ loại ngũ cốc để nguyên chất không xay, không giã trắng, không chế biến; phải ăn rau cải từng ngày; về thức ăn thảo mộc ta có thể ăn nhiều thứ, nhưng khi rửa rau ta nên giữ nguyên rau từ rễ đến lá, đừng bỏ bớt những phần của cây rau vì mỗi phần đều chứa những chất bổ riêng cần cho cơ thể. Tất cả những phần của rau đều cần vì mỗi phần chứa một thứ sinh tố và khoáng chất, và vi tất cả đều ăn được. Tôi có phổ biến nhiều cách nấu rau cải. Lời khuyên của tôi là hãy ăn rau cải chỉ trồng bằng đất thường chứ không trồng bằng phân hóa học (có thể dùng phân thiên nhiên). Nói về dầu ăn, khi chúng ta dùng dầu để ăn theo phương pháp Macrobiotique, chúng ta hãy chọn dầu vừng là tốt nhất. Chúng ta nên dùng dầu thảo mộc để chiên xào, không nên dùng bơ hay mỡ heo để ăn, nấu ăn. Hãy giảm bớt hay bỏ hẳn những thức ăn từ gốc động vật, nhất là thịt thú. Bù lại chúng ta có thể ăn cá, nếu chúng ta thèm ăn thịt, chúng ta nên ăn thịt thú có lông như gà, vịt, chim. Muối là món cần sau nước, chúng ta nên chọn muối có phẩm chất tốt (vừa phải, không quá đen; không quá trắng). Rong biển rất tốt, rong biển là món ăn quan trọng, chứa nhiều chất đạm, và chứa nhiều khoáng chất và sinh tố B12. Có nhiều loại rong biển, và cũng nhiều cách thức nấu ăn với rong biển. Chúng tôi khuyên các anh hãy ăn ngũ cốc nguyên chất, nên ăn những thứ rau cải tươi theo mùa vì nó tươi tốt. Tuỳ theo đông, hạ, xuân, thu, thiên nhiên cho gì ta ăn nấy. Còn về ngũ cốc thì có thể ăn quanh năm vì nó khô, giữ lâu được. Tóm lại, ngũ cốc, rau đậu, trái cây là những món ăn chính của ta
Trong khi Michio trầm ngâm suy nghĩ, tất cả mọi người yên lặng, một thứ yên lặng thiêng liêng như ở thánh đường, một phụ nữ lục tuần hiện ra khung cửa, da dẻ mặn mà, tóc hoa râm, có vẻ mạnh khoẻ, yêu đời. Bà nói: “Xin chào quý vị, xin lỗi tôi đến trễ, nhưng tôi quyết đến để tường thuật trường hợp của tôi được cứu sống nhờ phương pháp Macrobiotique. Tên tôi là Virginin Brown, là y tá ở bệnh viện Turnbridge trong vùng Verment. Hồi năm 1978, tôi hay tin mình bị bệnh ung thư đã di căn toàn cơ thể (thời kỳ 4). Khi ấy, nghĩ rằng không sống được bao lâu nữa, tôi cảm thấy một nỗi chán nản. Tôi đã chứng kiến nhiều người chết vì bệnh ung thư như tôi, mặc dầu đã được điều trị bằng Chimiothéraple, hay chiếu tia cobalt, hay đã được giải phẫu. Vì vậy, tôi không thể dối toi được, tôi nói cho chồng con tôi biết là tôi sắp sửa vĩnh biệt những người thân yêu của tôi, thế là tất cả đều khuyên tôi đến giáo sư Michio Kushi để chữa theo phương pháp Macrobiotique. Lúc ấy, tôi còn nghi ngờ lắm, hơn nữa, lần đầu tiên tôi gặp giáo sư Michio Kushi, người đã nói với tôi một cách giản dị rằng: “Chính bà đã tạo ra ung thư cho bà, thì cũng chính bà hãy làm tiêu mất ung thư của bà đi”. Khi tôi trở về nhà, con gái tối nấu cho tôi một bữa ăn đầu tiên theo phương pháp mới, thú thật là tôi khó ăn, vì không ngon miệng, nhưng từ từ tôi quen dần, ăn dễ dàng, rồi lại thấy ngon. Sau ba tuần, tôi nghe trong người dễ chịu, bớt bệnh. Sáu tháng sau, tôi trở lại gặp giáo sư Michio. Ông tuyên bố rằng: “Bệnh của bà đã lui tới 75% rồi đó, nhưng bà phải tiếp tục theo đúng phương pháp này trong ba tháng nữa để bệnh dứt hẳn”. Rồi đến năm 1981, khi tôi đến bệnh viện để xin khám tổng quát, các bác sĩ hết sức ngạc nhiên vì trong cơ thể tôi không còn một dấu vết gì của bệnh ung thư cả. Tôi đã đạt được kết quả, cơ thể tôi được rửa sạch, khối u ung thư tiêu mất. Giáo sư Michio Kushi giải thích “trường hợp của V. Brown là độc đáo vì Virginin là bệnh nhân duy nhất chưa hề dùng thuốc trị liệu trước khi theo phương pháp Macrobiotique”. Một thanh niên có vẻ yêu đời, cởi mở, tươi tắn, hồng hào, ăn mặc thật sang trọng, xin trình bày trường hợp của cậu. Cậu tên là John Carter, 42 tuổi, xuất thân từ một gia đình thượng lưu danh tiếng ở Boston. Trong lúc cậu đang tiến mạnh trên con đường công danh sự nghiệp, thì bỗng nhiên cậu ngã bệnh, cậu bị ung thư não, khối u bằng cườm tay trong đầu, do bệnh viện Boston Maxsachusetta General Hospital khám phá. Cậu nói: “Tôi thấy nhức đầu kinh khủng, bác sĩ Ogomen quyết định giải phẫu để cắt bỏ cục bướu trong não. Cuộc giải phẫu này rất nguy hiểm vì có thể động dây thần kinh hệ. Hệ quả có thể lường là tôi có thể bị bại liệt trọn đời. Cuộc giải phẫu kéo dài 18 tiếng đồng hồ, người ta chỉ lấy ra một chút tế bào khối u để thử nghiệm chứ không thể lột hết khối u ấy. Tôi được chăm sóc chu đáo trong 2 ngày. Thật là khủng khiếp, tôi chịu không nổi đau nhức. Khi tỉnh dậy, bác sĩ phẫu thuật nói với tôi rằng: “Nếu không cắt bỏ, khối u đó sẽ lan tràn ra”. Tôi phải chịu 7 tuần lễ chiếu tia Cobalt. Sau đó, người ta cho tôi xuất viện về nhà chờ chết, tôi hoàn toàn kiệt sức và đau khổ vì tuyệt vọng. Vào tháng 12 năm 1984, bạn bè quanh tôi khuyên tôi thử một giải pháp cuối cùng, tìm đến giáo sư M. Kushi để theo phương pháp Macrobiotique. Tôi hết sức ngạc nhiên trước hiệu quả rõ rệt, tôi trở nên mạnh khoẻ, hết nhức đầu, ăn ngon, ngủ được, tinh thần tỉnh táo, sáng suốt, tôi trở lại vui sống. Hôm nay, các bác sĩ điều trị cho tôi khi xưa hết sức ngạc nhiên khi chụp hình não tôi vì thấy khối u đã tiêu mất. Giáo sư Michio nói: “Chính anh đã tạo ra ung thư cho anh và cũng chính anh làm mất khối u ấy”.
Những người có mặt hôm nay trong phòng họp của giáo sư Michio chắc chắn là những bệnh nhân cũ của ông. Đó là những người sống sót nhờ phương pháp Macrobiotique, nên hết người này đến người khác lần lượt tường thuật trường hợp của mình và khoe mừng họ được cứu sống nhờ phưong pháp dưỡng sinh Macrobiotique của giáo sư Michio Kushi, kẻ bị ung thư máu, người bị ung thư gan, ung thư phổi, ung thư vú. Nhìn những con người đang vui khoẻ, yeu đời, háo ăn tiến đến bàn ăn dó bà Kushi nấu bếp và dọn ăn, chúng ta khó nghĩ, khó tin rằng đã có một thời họ đã ở trong tình trạng tuyệt vọng chờ chết.
* Sabine de la Brosse là một phóng viên dày dạn kinh nghiệm của tờ tuần báo "Paris-Match" từ hơn mười lăm năm nay. Trước đây, bà bị bệnh ung thư, bất ngờ vì phải đối mặt với thử thách khó khăn, đòi hỏi người bệnh phải sống với cuộc chiến đấu thực sự. Phải tự mình vươn lên phấn đấu để vượt qua. Sabine de la Brosse đã thực hiện một cuộc điều tra qui mô về các bác sĩ lỗi lạc chuyên về ung thư tại Châu Âu và Hoa Kỳ. Năm 1979 bà được trao giải văn chương y học Medec cho cuốn “Force de vaincre” (thuộc loại sách “nhân chứng")
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:11:09 GMT 9
TÔI ĐÃ TỰ CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ. Đối với bác sĩ trưởng một bệnh viện, không gì đáng ngạc nhiên và khó chịu cho bằng khi hay tin mình đã mắc bệnh ung thư, không còn sống được bao lâu nữa. Các vị cộng sự của ông còn ngạc nhiên hơn khi biết rằng vị thủ trưởng của họ đã áp dụng phương pháp thực dưỡng OHSAWA, tự chữa lành bệnh mà không cần họ giúp đỡ. Cuộc mạo hiểm này là của bác sĩ Anthony Sattilaro, Giám đốc một bệnh viện lớn ở Philadelphia (Hoa Kỳ). Ông đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này với vẻ chân thành và không có ý đem mình ra làm gương. Tuy thế, một hội nghị gồm 8000 bác sĩ ung thư vừa nhóm tại Seattle (Hoa Kỳ) phải công nhận tầm quan trọng của ăn uống trong việc chữa trị và phòng bệnh ung thư. Sau đây là câu chuyện do Anthony Sattilaro tự kể. Cũng phải nói thêm rằng: câu chuyện về ông đã được đăng tải trên:
• Tạp chí Paris Match (Pháp) tháng 10 năm 1982. trang 17, 19, 24, 26, 29, 34, 37, và 42.
• Tạp chí LIFE (Hoa Kỳ) tháng 8 năm 1982 trang 62, 63, 65, 66,68, 70.
• Tạp chí Atarashiki (Nhật) tháng 10 năm 1982 trang 10
• Báo “Đại Đoàn Kết”(Việt Nam) số 43-51 tháng 11-1988. Như thường lệ, từ hai năm nay, sáng ngày 23-5-1978, tôi thức dậy thì nghe nơi lưng đau âm ỉ. Nuốt xong hai viên thuộc chấn thống, tôi cạo râu, thay quần áo và dắt xe đạp vào thang máy của khu nhà tôi đang ở, cạnh công trường Rittenhouse. Gần đây, tôi có thói quen đạp xe đến Unio League ăn sáng rồi đi làm luôn. Sáng hôm đó, đường xá rất đông người, vừa đến một ngã tư, bất ngờ có người băng qua trước mặt tôi. Tôi lách càng xe cố tránh thì đâm vào một ổ gà trên đường và ngã xuống. Tay và hông tôi bị xóc mạnh. Tôi đứng dậy, phủi bụi và gỡ mấy viên nhựa đường còn dính ở lòng bàn ta. Dịch hoàn bên phải đau nhức dữ dội, nhưng tôi cố đạp xe đến nơi làm việc. Khi đến bệnh viện, lưng và hang vẫn còn đau. Tôi liên lạc ngay với phòng quang tuyến. Vài ngày sau tôi cho rọi kính, thử gan và máu rồi trở lại văn phòng làm việc. Tôi mới nhậm chức giám đốc bệnh viện Methodist 6 tháng nay, còn trước đây tôi làm trưởng phòng gây mê suốt 13 năm trời. Ngày hôm đó, tôi phải lo đối đầu với cuộc sát hạch đầu tiên đúng nghĩa của nó: Bộ y tế Pennysylvania mở cuộc thanh tra nha sở, các phòng ban và nhân viên. Tôi đang lo lắng về cuộc thanh tra này hơn là việc khám nghiệm cơ thể tôi, thì chuông điện thoại reo lên. Bác sĩ Anthony Renzi, trưởng phòng quang tuyến đang đợi tôi ở đầu dây, ông hỏi: - Tony này, anh thấy trong người ra sao? - Khoẻ lắm, có chuyện gì vậy? - Này, tôi xem phim chụp thấy ngực anh không được bình thường. Anh nên ghé qua tôi một chút. Khi tôi đến, Renzi đặt phim trên máy rọi, tôi thấy nơi sườn phải có một vết lớn. Trong lúc cùng Renzi thảo luận về mấy tấm phim thì tôi thấy phổi bên phải như khác lạ. Hơi thở của tôi như nghẽn lại, miệng khô rang. Tôi ráng dằn, nới lỏng cà vạt ra. Sau khi tôi xem hết các phim quang tuyến, Renzi bàn với tôi nên cho khám xương ngay, tôi đồng ý. Một giờ sau, tôi trở lại phòng quang tuyến. Renzi và người phụ tá tiêm vào người tôi một thứ chất thuốc nhuộm. Tôi phải đợi suốt ba tiếng đồng hồ cho chất thuốc ngấm khắp cơ thể. Sau đó họ treo phía sau tôi một cái máy giống như các công tơ Geiger dùng theo dõi sự phản ứng của thuốc nhuộm. Trong trường hợp, một người bị ung thư thì chất thuốc nhuộm này sẽ tụ lại những nơi có tế bào ung thư. Khi máy rà xương chĩa vào những nơi có thuốc nhuộm tụ lại thì kêu lên ròn rã, ồn ào. Nếu không có ung thư thì thuốc lan đều khắp cơ thể và máy chỉ phát ra những tiếng tích tắc nhẹ nhàng, đều đặn. Tôi nằm dài trên chiếc bàn hẹp bên dưới cái máy, người gần như trần truồng, chỉ mặc độc chiếc áo bệnh viện. Tôi cảm thấy lạnh và sốt ruột. Người run cầm cập như đang nằm trên một khối nước đá. Tôi ngước mắt nhìn cái máy. Đầu cảm ứng của cái máy hình thù như một cái trống nhỏ được nối liền với một máy điện tử (computer) dùng để phân tích dữ kiện, một bộ phận dao động gắn trên máy điện từ sẽ cung cấp hình rọi của bệnh nhân. Ung thư sẽ hiện lên màn ảnh của bộ phận dao động, dưới hình thức những vết đen. Nếu người khoẻ mạnh, máy sẽ chiếu một hình người trong và rõ. Tôi thầm khấn nguyện trời đất. Ngay trước khi Renzi cho máy chạy, để trấn an, tôi thầm nhủ với mình rằng: Đã là bác sĩ thì không bao giờ có bệnh. Renzi bật cần mở máy. Như một con vật khổng lồ đột nhiên tỉnh giấc, máy bắt đầu phát ra những tiếng tích tắc chậm rãi như đang thu lấy những phân tử phóng xạ trong không khí. Đầu cảm ứng hình cái trống nhỏ được treo ngay đầu tôi. Bỗng nhiên tiếng tích tắc êm dịu và rời rạc biến thành những âm thanh cuồng loạn như tiếng súng liên thanh. Tim tôi đập mạnh, da sởn ốc và căng ra vì adrenaline đột nhiên được phóng thích và thân nhiệt bốc cao. Tôi liếc nhìn màn ảnh và sợ hãi khi thấy cái gì như là một vết đen ở ngay đỉnh đầu. Renzi đưa máy xuống vai phải của tôi. Tiếng kêu im lặng đi chốc lát rồi lại vang lên thật man rợ...nơi xương ức, lưng, sườn phải của tôi cũng đều như thế. Tôi co rúm người lại như thể bị sốc, nhưng những âm thanh đó vẫn tiếp tục xoáy sâu vào người tôi. Dường như chúng phát ra từ chính giữa não tôi và chính đấy là tiếng kêu của các tế bào ung thư báo cho biét sự hiện diện của chúng. Tôi ngồi dậy, bước xuống bàn và cảm thấy buồn nôn. Nhưng tôi vẫn cố nén lại và cùng Renzi xem lại các kết quả. Theo máy rà thì tôi có những vết ung thư ở sọ, ở xương sườn số 6 bên phải, vai phải, xương ức và lưng. Sau đó, Renzi đến tìm tôi tại văn phòng và tìm cách an ủi tôi. Dáng điệu của ông ta không được tự nhiên dường như ông ta muốn thở mạnh mà không thở được, ông nói với tôi: - Tony này, thật tình mà nói thì chúng ta cũng chưa kết luận được gì qua buổi khám xương này. Hy vọng máy rà đã phản ứng theo một hoạt động còn lành của mô xương. Chúng ta chưa thể quyết chắc được trước khi giải phẫu. Xin anh đừng suy luận vẩn vơ trước khi biết rõ sự thật. Đồng ý không Tony? - Đồng ý! – Tôi lẩm bẩm nói và mơ hồ nghe tiếng mình lẫn lộn trong mớ âm thanh của máy còn vang vọng trong đầu tôi. Sáng hôm sau, tôi đem tất cả các kết quả thử nghiệm đến cho vị bác sĩ riêng, bác sĩ Sheldon Lisker. Là một bác sĩ nội khoa và ung thư, một chuyên viên chẩn đoán và trị liệu u bướu, bác sĩ Lisker vừa là bác sĩ riêng, vừa là bạn thân của tôi từ cuối năm 1960. Ông khám người tôi và chú trọng đến hòn dái sưng bên phải lúc bấy giờ cũng cứng cách khác thường. Ông nói với tôi là những thử nghiệm máu cho thấy mức phosphatase lên rất cao, chứng tỏ khả năng bị ung thư, gan cũng có những hoạt động không bình thường, cũng có những dấu hiệu mà ông đã thấy trong lần thử gan cho tôi vào dịp hè năm ngoái. Rồi ông cầm những tấm phim của máy rồi đặt vào giấy rọi. Ông nói: Anh Tony này, sau khi xem xét kỹ tất cả, tôi đành phải cho anh biết là tôi ngờ anh bị ung thư ở hòn dái và nhiếp hộ tuyến. Nguy hiểm là ung thư phân tán ở nhiều nơi trong cơ thể như mấy tấm phim cho thấy. Tôi khuyên anh nên cho cắt bỏ hòn dái và mổ nhiếp hộ tuyến ngay.
Bác sĩ Lisker và tôi còn bàn bạc thêm về các dữ kiện. Có hai điều trong bệnh tình của tôi xem ra có vẻ mâu thuẫn với mô hình cổ điển của bệnh ung thư dịch hoàn và nhiếp hộ tuyến. Ung thư dịch hoàn thường không lan qua xương, trong khi phim quang tuyến lại cho thấy có vết u ở xương. Còn ung thư nhiếp hộ tuyến thường không có ở những người da trắng cỡ tuổi tôi, mới 46 tuổi. Người da trắng ít khi mắc bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến trước tôi năm 50. Nếu óc những người dưới 50 tuổi thì khác với trường hợp của tôi và nguy hiểm hơn nhiều so với bệnh ở những người cao tuổi, nó thường giết nạn nhân trong vòng 2-3 năm sau khi phát hiện. Lisker cố an ủi tôi, nhưng cả hai chúng tôi đều biết rằng, dầu chịu đựng giải phẫu đi chăng nữa, tôi cũng không thể ăn mừng thọ ngũ tuần của tôi. Phòng mạch của Sheldon Lisker ở gần nhà tôi. Từ biệt ông, tôi thả bộ về quảng trưòng Rittenhouse. Hôm đó là ngày đầu tháng 6, trời xuân nắng ấm. Ghế đá công viên đầy những người ngồi ăn trưa dưới bóng cây. Một làn gió nhẹ lào xào lướt qua mấy tán lá. Tôi thầm nghĩ rõ là một ngày lý tưởng để căng buồm lướt gió. Ở góc đường, một nghệ sĩ đang trưng bày các tác phẩm. Tôi dừng lại xem tranh và chú ý đến bức tranh dầu vẽ hai người đang chơi quần vợt, trong lòng muốn mua, toi sắp hỏi hoạ sĩ giá cả thì một ý nghĩ mà tôi cố gắng xua đuổi ra khỏi tâm trí một cách vô vọng chợt đến với tôi: mày sắp chết đến nơi rồi, mua sắm làm gì? Tôi vội quay gót về nhà. Chiều hôm đó, tôi gọi điện đến bác sĩ John Prehatry, trưởng khoa giải phẫu thuộc bệnh viên của tôi, để nhờ mổ dịch hoàn và nhiếp hộ tuyến, tôi đành phải cắt bỏ hòn dái. John và tôi thoả thuận cho cuộc mổ xẻ vào thứ 3 tới. Sau đó tôi thu xếp để ngày thứ hai vào nằm bệnh viện Methodist như là những bệnh nhân khác. Vào cuối tuần, tôi lái xe về nhà nghỉ hè của tôi ở Long Beach Island NJ để nghỉ ngơi và để ghé thăm cha mẹ tôi sống gần đó. Thật là trớ trêu, cha tôi đang chết mòn chết dần vì bệnh ung thư từ 6 tháng nay, nên tôi không dám cho cha mẹ tôi biết là tôi cũng đang mang bệnh ung thư. Lẽ ra tôi phải nói rõ với bà là tôi sắp đi nằm bệnh viện thì tôi chỉ nói thác đi là tôi đi công tác trong 2,3 tuần và khi tôi về sẽ gọi điện cho bà hay. Tuần sau, tôi được chính nhân viên trong bệnh viên của tôi giải phẫu hòn dái bên phải, các u hạch tuyến nằm bên hang cũng đã bị cắt bỏ, nhiếp hộ tuyến cũng được mổ xuyên qua ruột. Khi đem phân tích, nhiếp hộ tuyến cũng bị ung thư. Bước tiếp theo cũng quá rõ ràng, xương sườn số 6 bên phải rồi đây cũng được cắt bỏ nếu ung thư lan sang những nơi được máy rà chỉ định. Chỉ còn một cách duy nhất là mổ xương sườn ra khám nghiệm. Ngày 13 tháng 6, tức là sau lễ sinh nhật lần thứ 47 của tôi một ngày, xương sườn bị mổ ra xem, trên mặt xương có một cục u to bằng quả mận, xương sườn có cục u được gửi tới phòng xét nghiệm nghiên cứu. Nếu cục u là u lành thì hy vọng máy rà đã phản ứng theo hoạt động còn lành của bộ xương và ung thư nhiếp hộ tuyến được chữa lành bằng phẫu thuật. Kết quả của phòng thí nghiệm sẽ kết luận và quyết định điều đó. Một tuần sau, bác sĩ Prehatry, người đã mổ xẻ cho toi, đến thăm tôi tại phòng bệnh. Ông ngồi cạnh giường và trước khi ông nói, ông nhìn thẳng vào tôi, có lẽ toi kịp nhận ra những điều bất thường trên mặt ông, John nói: - Anh Tony này, thật đáng buồn khi phải cho anh hay điều này, xương sườn đã bị ung thư.
Cuộc giải phẫu đã xác nhận những điều chẩn đoán: Ung thư nhiếp hộ tuyến vào thời kỳ IV (D). Tôi biết rằng tôi chỉ còn sống được từ 18 tháng đến 3 năm nữa thôi. - Tuyệt vọng quá John ơi! – Tôi vừa nói vừa ứa nước mắt. Prehatry im lặng một lát rồi nói thêm: “Tôi đã bàn với bác sĩ Lisker, ông ta cũng đồng ý là phải cắt bỏ cả hòn dái bên kia”. Sáng hôm sau, tôi lại phải lên phòng mổ lần thứ 3. Chỉ trong 3 tuần, lần giải phẫu lần này, gọi theo danh từ chuyên môn là giải phẫu dịch hoàn, mất gần 1 tiếng đồng hồ. Tôi được trở về phòng lúc 2 giờ. Đến gần trưa, ảnh hưởng của thuốc tê mới hết, nằm dài trên giường, tôi nghĩ miên man. Tôi không còn hoàn toàn nữa, nhân phẩm đã bị giảm sút. Tôi sẽ ra sao? Số phận đó tôi thừa biết. Tôi bật lên khóc nức nở, từng mảng lớn của cuộc sống đã trôi đi. Trong cơn xúc động, bực tức, tôi la lên: “Không, trời ơi, không...!” Tôi nằm điều trị suốt mùa hè hầu như nhờ vào percodan, một loại ma tuý chấn thống. Vào nằm bệnh viện là cốt giảm cơn đau, thế mà giờ đây tôi đau đớn hơn bao giờ hết. Nỗi đau đớn chi phối mọi hành vi của tôi. Cứ 6 tiếng đồng hồ là tôi nốc 2 viên percodan, tác dụng chấn thống an thần của thuốc cũng làm tôi khoẻ khoắn, thoải mái. Kỳ lạ, những ưu tư như được cất vào những ngăn kéo nhỏ trong não. Đời sống trở nên êm dịu. Nhưng sự khoẻ khoắn đó không lâu dài, 2, 3 giờ sau, hiệu quả của percodan giảm đi thì tôi lại rơi vào trạng thái chán chường trống vắng. Người tôi đã suy nhược hẳn, những triệu chứng này quá quen thuộc với tôi vì tôi đã phải chứng kiến nỗi đau đớn mà chết dần mòn. Ngày cuối tháng 7, cha tôi lên cơn đau não, ông cần được cấp cứu, mẹ con tôi quyết định đưa cha tôi vào bệnh viện Methodist. Chính hôm đó, tôi nói cho mẹ tôi hay rằng tôi cũng mắc bệnh ung thư. Tôi nói chắc với bà: - Mẹ đừng lo, bệnh tình nằm yên một chỗ và đã cắt đi rồi. Mẹ tôi bảo: - Thế không phải là mẹ con mình từng nói về bệnh tình cha con đó sao: “Bệnh nằm yên, đừng lo”. Im lặng một lát rồi bà nói thầm: - Cha con biết hết rồi! - Biết cái gì? - Cha con biết con bị ung thư, ông đã nói cho mẹ hay khi cha con gặp con lần cuối. Ông nói: “Tony cũng mắc bệnh đó” và ông vừa lắc đầu vừa nói: “Tony cũng mắc bệnh đó”. Tôi nghĩ thầm, thì ra người bệnh và người hấp hối hiểu rõ nhau. Ngày 7 tháng 8 cha tôi qua đời. Ngày 8 tháng 8, chúng tôi cử hành tang lễ tại nhà thờ St.Prancis ở Long Beach Island. Ngày hôm sau, chúng tôi an táng ông trong nghĩa trang gia đình tại Hopelawn N.J. Buổi chiều nóng và ấm. Người tôi phờ phạc, bệnh ung thư dường như không chịu buông tha, tôi đau nhức vô cùng, đưa đám cha tôi cứ ngỡ như đưa đám mình. Trên đường trở lại Philadelphia, có 2 người đứng bảo vệ xin quá giang, cả hai đều còn trẻ, chạc độ 20, tóc phủ tai, bận quần jean và áo pull. Thường thì tôi lờ đi vì tôi chúa ghét bọn trẻ để tóc dài và có thái độ lấc cấc, nhất là vì họ hay chỉ trích nghề nghiệp của tôi. Nhưng hôm đó, không hiểu sao, tôi lại cho họ quá giang. Tôi không ngờ rằng hai thanh niên này mang sứ mệnh trọng đại bước vào đời tôi. Trên đường trở lại Philadelphia, Sean Me Lean ngồi với tôi phía trước còn Bill Bochbracher nằm dài ở đằng sau mà ngủ. Me Lean cùng tôi trò chuyện. Thì ra hai anh chàng vừa học xong khoá dạy nấu ăn tự nhiên do quán cơm thực dưỡng Seventhinn tại Boston bảo trợ. Về phần tôi, toi cho Me Lean biết là tôi vừa chôn cất cha tôi xong và tôi cũng sắp chết vì ung thư. Người bạn đồng hành đáp lại tôi vẻ bất cần đời: “Thưa ông bác sĩ, xin ông biết cho là ông không cần phải. Bệnh ung thư có quái gì lâ khó chữa đâu”. Tôi nhìn anh ta như một đứa trẻ con còn khờ dại. Tôi thầm nghĩ, một chú bé nấu bếp mới 20 tuổi đầu mà biết gì về bệnh ung thư. Tôi cho rằng do tính bốc đồng của tuổi trẻ mà anh ta có luận điệu như vậy. Tôi bảo cho anh ta biết: - Sean này, thật ra bệnh ung thư rất khó chữa, hàng năm chừng 400.000 người chết vì nó. Nó là tên sát nhân thứ số 2 ở Hoa Kỳ. Không thể giải quyết đâu, chú tin tôi đi!
Sean đáp lại: “Xin ông nghe tôi. Bệnh ung thư chỉ là kết quả hiển nhiên của lề lối ăn uống sai lầm. Khi ông ăn nhiều thịt, hàng lô thức ăn chết từ sữa, trứng, thức ăn tinh chế từ đường và bột trắng, cùng những thứ cho nhiều hoá chất để bảo quản, thì ông phải mang bệnh ung thư, nếu trước đó không chết vì bệnh đau tim”. Anh ta khẳng định: “Chính thức ăn gây ra ung thư, nhưng ông có thể đảo ngược tình hình bằng cách thay đổi ăn uống và chỉ ăn cốc loại lứt với rau cỏ. Rất nhiều người đã làm như vậy và ông cũng nên làm như họ”. Khi người khách qua giang xuống xe, tôi quên ngay lời khuyên nhủ của anh ta. Trong 20 năm lăn lộn ở trong ngành y, tôi từng gặp đủ loại lang băm. Như vậy, tôi bỏ ngoài tai những lời Me Lean đã nói. Vài ngày sau, mang cái lưng đau nhức trở về nhà toi đựơc người gác dan trao cho một tấm giấy báo bưu phẩm và cho tôi biết có một món quà đang đợi tôi ở phòng bưu điện với 67 xu cước. Gói quà của Me Lean. Mở ra tôi thấy một cuốn sách nhan đề: “Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư”. Phương pháp thực dưỡng à? Không biết có phải cái lối ăn uống điên khùng gạo lứt muối mè không? Tôi vào phòng khách, nằm xuống đi văng một cách khó khăn và lật ra xem. Thì ra Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư là một cuốn sách nhỏ đăng những bức thư chân tình của những người nhờ phưong pháp thực dưỡng OHSAWA mà chữa lành bệnh ung thư, đa số là những bệnh nhân bị giới bác sĩ cho là vô phương cứu chữa. Tôi đọc lướt qua toàn bộ cuốn sách rồi chực ném nó vào sọt rác thì tên của bác sĩ Ruth Schaefer làm tôi chú ý. Bức thư cho biết là bà đã nhờ phương pháp thực dưỡng mà chữa lành bệnh ung thư vú. Bà còn cho biết hiện giờ bà là bác sĩ đang hành nghề ở Philadelphia. Tôi đặt cuốn sách xuống, lật danh mục y tế tìm số điện thoại của bà Ruth Schaefer và quyết định gọi cho bà. Có giọng đàn ông đáp lại. Tôi nói: “A lô, có bác sĩ Ruth Schaefer ở nhà không?. - Ông quen với vợ tôi à? – thì ra là ông Schaefer. - Ồ không! Nhưng tôi vừa đọc được bức thư chân tình của bà nhà đăng trong cuốn “Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư”. Xin ông cho được tiếp chuyện với bà nhà về việc này. Ông ta nói: “Rất tiếc là bà xã nhà tôi không có mặt ở đây. Bà ta đang nằm chờ chết vì bệnh ung thư ở bệnh viện”. - Ồ! Tôi biết ngay mà. Cảm ơn ông đã giúp tôi giải quyết được thắc mắc của tôi. Phương pháp thực dưỡng không trị được bệnh ung thư – Tôi sắp gác máy thì ông Schaefer gọi giật tôi trở lại: - Hãy nghe tôi, thật ra nó rất hiệu nghiệm. Trong lúc bà xã nhà tôi áp dụng cách ăn uống này, quả là nó đã giúp ích cho bà ấy. Đúng là bà ấy có dấu hiệu khả quan. Nhung bà ấy không theo nổi, bà ấy ngán mấy cái món đó. Tôi hỏi: Thế ông cho là nó đáng được lưu tâm? Tôi cũng sắp chết vì bệnh ung thư đây. Ông Schaefer trả lời: “Vâng, đúng vậy”. Rồi ông cho tôi số điện thoại của Denny Waxman, chủ nhiệm East West Foundation ở Philadelphia, một cơ sở truyền bá phương pháp thực dưỡng OHSAWA. Tôi quay số gọi Denny Waxman, và thế là tôi bước vào thế giới kỳ lạ của phương pháp thực dưỡng. Suốt 7 tháng tôi ăn cơm chung với gia đình Waxman, chia sẻ thức ăn của họ và nghe giảng lý thuyết của phương pháp thực dưỡng. Vì bệnh tình của tôi quá trầm trọng, nên Denny Waxman và vợ của ông đã cố gắng cho tôi ăn theo phương pháp triệt để. Mọi thứ tôi hay ăn và thích ăn nhất đều bị loại trừ như thịt, thức ăn chế từ sữa, cốc loại đã tinh chế như bánh mỳ trắng và các loại bánh làm bằng bột trắng, đường mỡ, hạt dẻ, trái cây, nước uống có ga, những thức ăn có gia vị hoá chất và chất bảo quản. Rượu là món cấm kỵ. Chế độ ăn uống của tôi chỉ gồm 50-60% cốc loại lứt, nhất là cơm lứt, 25% rau cỏ trồng tự nhiên ở địa phương đã nấu chín, 15% đậu và rong biển, phần còn lại là súp Miso và các loại dùng nêm nếm. Tôi nghĩ đã phó mình vào tay một nhóm lang băm. Nỗi khốn cùng đã dễ dàng biến tôi thành một con mồi. Nhưng lâm vào ngõ bí, tôi không thể nào làm khác được. Hoặc là tôi chết hoặc là tôi phải thử một cái gì đó khác với những cái mà tôi đã thử. Duy có điều chắc chắn, đây là cái khác đó. Đến ăn tại nhà Waxman, tôi có gặp gỡ nhiều bạn ăn lứt nhiệt tình, tôi nghe họ nói về triết lý thực dưỡng mà lòng vẫn hồ nghi. Chứng bệnh này theo tôi biết qua sách vở thì vô cùng phức tạp, ở đây chỉ được xem như một trường hợp điển hình trong muôn vàn bệnh trạng được giải thích bằng quan niệm quân bình âm dương.
Sự thiếu lòng tin ở khả năng chữa trị của phương pháp thực dưỡng đã dần dần biến đổi đi mỗi khi nghe Denny Waxman đào sâu lý thuyết thực dưỡng, ông khởi sự nói về lịch sử dinh dưỡng ở Hoa Kỳ để chứng minh rằng từ đầu thế kỷ đến nay, cách ăn uống của chúng ta đã suy thoái trầm trọng. Vào năm 1990, người Mỹ chỉ ăn cốc loại lứt, rau quả tươi, còn các món ăn như thịt đỏ, các loại chế biến từ sữa, hoá chất nhuộm màu và thuốc bảo quản, chỉ chiếm mọt tỷ lệ rất nhỏ nhoi. Thức ăn nếu nhu vậy, chỉ còn gồm có carbonhyrat phức tạp lấy từ gạo mì lứt, khoai, gạo mạch và gạo tẻ. Do công cuộc kỹ nghệ hoá của thế kỷ 20, sự dinh dưỡng càng nghiêng về những sản phẩm tổng hợp. Hiện nay, phần lớn những thức ăn của ta đều bị nhiễm hoá chất hoặc phân bón hoá học, hoặc thuốc trừ sâu. Rau cỏ bị tụt xuống làm thức ăn phụ trong khi thịt được xem là thức ăn chính. Chúng ta trở nên quen ăn thịt và những thức ăn gốc động vật, đến nỗi, 40% calo mà chúng ta tiêu thụ được lấy từ mỡ động vật, phần còn lại là lấy từ cốc loại xay sát trắng, rau quả đóng hộp, đường và hoá chất nhân tạo. Đồng thời bệnh tật cũng bộc phát dữ dội, nhất là bệnh tim mạch và ung thư. Waxman xác nhận rằng sự tăng vọt của bệnh tật hầu hết là do sự suy thoái từ trong cách dinh dưỡng hiện nay của người Mỹ. Ở nơi nào cách ăn uống gần với phương pháp thực dưỡng OHSAWA thì nơi đó ít bệnh ung thư, và các đồng nghiệp của vị bác sĩ tán dương ông ta đã tự chữa lành bệnh một cách kỳ diệu. Ở những xứ người ta ăn uống nhưu phương pháp thực dưỡng, bệnh tim mạch và ung thư rất hiếm. Phương pháp thực dưỡng quan niệm rằng muốn chặn đứng cơn suy thoái này chỉ cần ăn uống đúng cách và có cuộc sống lành mạnh. Waxman cho rằng bệnh ung thư chỉ là một tình trạng mất quân bình trong cơ thể do ăn uống sai lầm. Sự quân bình sẽ được phục hồi khi ta chỉ ăn những thức ăn giúp cơ thể bỏ được các chất độc do thức ăn tinh chế tổng hợp, mỡ, hoá chất đem vào... Chấp nhận luận cứ của Waxman đối với tôi là cả một vấn đề. Bảo rằng thức ăn là nguyên nhân sâu xa của bệnh ung thư thì quá đơn giản và khó tin so với sự nghiên cứu của y học về nguồn gốc của bệnh này. Waxman lại không đề cập đến những nguyên nâhn khác như di truyền, vi rút và những yếu tố gây ung thư hiện diện trong môi trường sống. Sau cùng, phương pháp thực dưỡng đòi hỏi niềm tin mà tôi lại không mấy tin tưởng. Tôi không thể tin mấy người này (hầu hết không được đào tạo tối thiểu về khoa học) lại có thể giải quyết được một vấn đề đã làm các bậc trí thức sáng suốt nhất nước ta phải bó tay. Tuy vậy, tôi chấp nhận tiếp tục ăn cơm tại nhà Waxman. Tôi không còn quyền lựa chọn khi cái chết đã gần kề. Trong cơn tuyệt vọng, người ta không thể giữ mãi óc thành kiến, sự tự cao vì chúng đã trở nên vô dụng. Tôi chưa bỏ được lối chữa trị theo tây y (mỗi ngày chích kích thích tố nữ oestrogen) nhưng tôi phải cố gắng bỏ thuốc. Phương pháp thực dưỡng là lối thoát duy nhất mà tôi phải đi theo. Thế là kể từ tháng 9, chiều nào tôi cũng đến ăn cơm tại nhà Waxman, còn phần trưa hôm sau thì Judy sắp đặt cho tôi mang về. Buổi sáng tôi tự lo lấy, chỉ có bột gạo lứt và súp Miso. Vậy là tôi có thể yên tâm làm việc đủ giờ tại bệnh viện. Ngày nào toi cũng mang đến sở cái hộp gỗ nhỏ kiểu Nhật đựng bữa cơm lứt và rau. Ở bệnh viện, người ta nhìn tôi với vẻ tò mò lẫn thương hại, mắt họ đượm vẻ ngán ngẩm lạ lùng như thể tôi đã bỏ rơi họ. Hẳn họ nghĩ rằng: “Cha đó tin bọn lăng băm”.
Tôi vẫn bị đau nhức hành hạ, kích thích tố nữ làm tôi phát phì. Chỉ có mấy tuần lễ mà trọng lượng cơ thể tăng từ 70 đến 85 kg. Nước bị giữ lại trong người làm cơ thể trương lên và da bị ngứa ngáy khó chịu. Để giải khuây, tôi lao vào nghiên cứu đề án khuyếch trương bệnh viện, và phương pháp thực dưỡng. Tôi đâm ra mê say triết thuyết này và mỗi lần ngồi vào bàn ăn ở nhà Waxman tôi lại trở thành một cậu sinh viên ngoan ngoãn. Trong vài tuần lễ đầu, tôi nghe bệnh tình có đôi chiều thay đổi. Rồi đột nhiên tấn tuồng sân khấu mở ra. Ngày 26-9-1978, vào ngày thứ 3, như thường lệ, tôi thức giấc vào lúc 6 giờ sáng. Mắt nhắm, mắt mở, tôi vớ tay lấy chai percodan để trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường. Đó chỉ là phản xạ có điều kiện, thình lình tôi sững người ra vì có một cảm giác lạ, chứng đau nơi lưng không còn nữa. Sau hai năm quằn quại vì chứng đau lưng, chỉ có hàng lô thuốc chấn thống an thần mới làm dịu đau đôi chút, thì nay, bỗng nhiên tôi lại hết đau, chẳng khác nào người ta mới cởi hộ tôi cái áo quá chật. Vừa tới văn phòng, tôi gọi điện thoại báo tin cho Waxman ngay. Tôi hỏi ông ta có phải nhờ ăn uống không? Waxman trả lời: “Đúng đó anh Tony. Đấy là dấu hiệu quan trọng. Giờ thì mọi sự đang trở nên tốt lành”. Tuy nhiên, mấy tuần sau đó, niềm hân hoan lại nhường chỗ cho nỗi âu sầu. Cuối tháng 10, tinh thần tôi rơi rụng theo lá úa. Tôi phải chịu đựng hai thử thách, bệnh ung thư và phương pháp thực dưỡng. Nội bệnh ung thư cũng đã đủ làm cho người xung quanh khó chịu. Những người này hoặc tỏ ra quá chú ý đến tôi hoặc xa lánh tôi như là bệnh ung thư rất hay lây. Phương pháp thực dưỡng chỉ làm cho tình hình rắc rối thêm. Tôi tìm cách thoái thác không đi ăn nhậu với bạn bè và đồng nghiệp nữa. Vì lý do ngề nghiệp, tôi buộc lòng phải tham gia bữa tiệc thì tôi mang phần ăn theo. Trong lúc mọi người đang xẻ thịt thì tôi mở hộp gỗ lôi mấy nắm cơm lứt và rau ra ăn. Phần đông các bạn đồng nghiệp tò mò nhìn tôi ra vẻ khoan dung: “Ờ! ờ cũng ngon đấy, Tony!”. Nhưng những người khác lại tỏ ra nghiêm khắc, họ khong còn nói chuyện với tôi. Lẽ tự nhiên, tôi hiểu rõ tình cảm tâm tư của họ. Giới bác sĩ xem lối trị liệu khác với tây y là điều thuộc phường lang băm và mang tính chất phỉnh gạt công chúng. Khi thấy tôi áp dụng lối trị liệu khác lạ, họ cho là tôi đang gây uy tín cho một phương pháp có thể gây nguy hại cho những bệnh nhân khác. Mặc dù có những vấn đề xã giao đắng cay này, tôi đã bắt đầu tin rằng, lối ăn uống có vẻ điên khùng này đem lại cho tôi một thể chất tốt đẹp mà nhiều năm tôi chưa hề biết. Thí dụ 20 năm nay, tôi bị đau ruột kinh niên, tốn biết bao nhiêu là thuốc mà không khỏi. Vậy mà chỉ ăn uống theo lối thực dưỡng đôi tuần lễ, bệnh về đường tiêu hoá đã biến mất, nhất là sinh lực trở lại dồi dào và tinh thần sáng suốt hơn trước kia bội phần. Thoạt tiên, tôi cho là nhờ giải phẫu mà tôi có được thể chất và tinh thần đó. Nhưng càng ngày, sức khoẻ càng tăng tiến khiến tôi phải công nhận rằng thức ăn đã có liên quan phần nào. Ngày 22 tháng giêng năm 1979, tôi cho thử máu và gan tại bệnh viên Methodist. Hôm sau kết quả được chuyển đến bác sĩ Sheldon Lisker để ông này giao cho tôi. Cách đây 7 tháng vào ngày 31 tháng 5 năm 1978, những kết quả thực nghiệm đã xác định bệnh ung thư hiện diện. Mức alkalin phosphatase trong máu là 69, trong khi mức bình thường là từ 9 đến 35. Kết quả về SGOT và SGPT thử nghiệm về gan và xác định mức ung thư là 100 và 273, trong lúc con số bình thường xê dịch trong khoảng 13 và 40. Nhưng ngày 23-1, những kết quả lại cho thấy sự thay đổi khả quan. Mức alkan phosphatase tụt xuống 36, SGOT còn 21 và SGPT còn 27. Tình trạng sức khoẻ của tôi đã cải thiện thấy rõ. Bác sĩ Lisker cho là nhờ cắt bỏ dịch hoàn và chữa bằng oestrogen. Ông cho rằng đấy là những dấu hiệu tốt và đây là trường hợp ngoại lệ. Nhưng ông ta vẫn dè dặt khi giải thích những kết quả thử nghiệm, ông nói “điều này khong có nghĩa là ung thư đã bị loại trừ và thuyên giảm. Có thể bệnh chỉ tạm thời ngừng phát triển”. Dầu sao tôi cũng rất phấn khởi. Tôi đọc lại hồ sơ bệnh lý của những người mắc bệnh cùng loại ung thư như tôi, thì thấy rằng trường hợp của tôi là độc nhất vô nhị. Khi xem xong kết quả thử nghiệm, tôi dè dặt hỏi Sheldon xem ông ta có nghĩ rằng cách ăn uống của tôi có liên quan gì đến sự cải thiện sức khoẻ này không. - Không, Tony ạ. Tôi không thấy một bằng chứng khoa học nào có thể khiến tôi nghĩ rằng cách ăn uống của anh đóng vai trò nào trong việc điều trị bệnh ung thư, dẫu là vai trò khiêm nhường mà anh mới nêu ra. - Thôi được, Sheldon, có lẽ không có bằng chứng nào thật, nhưng tôi bắt đầu tin rằng phương pháp ăn uống này đang giúp tôi. Tôi không rõ nguyên nhân vì sao, nhưng rõ ràng tôi thấy khoẻ ra nhiều, hơn cả những điều anh phỏng định về tình trạng cải thiện sức khoẻ nhờ giải phẫu. Tháng 6-1979, tôi lái chiếc xe đến Phoenxville để nhờ ông Michio Kushi khám lần thứ hai. Michio Kushi là người sáng lập East West Foundation và hãng buôn bán thực phẩm thiên nhiên Erewhon. Ông đã viết nhiều sách về y học cổ truyền Đông phương và là người đứng đầu phong trào thực dưỡng ở Hoa Kỳ. Như những thầy thuốc cổ truyền đã làm từ nhiều thế kỷ nay, Michio Kushi dùng khoa chẩn bệnh Đông phương để xem xét tình trạng sức khoẻ của người bệnh. Chỉ cần xem qua diện mạo mắt, chẩn đoán một vài nơi trên cơ thể, ông biết rõ bệnh trạng không hề sai chạy. Sau khi dùng ngón tay cái ấn nhiều nơi trên người tôi, Michio ngồi thẳng lên và nhìn tôi chăm chú như để ghi nhớ khuôn mặt tôi. - Ông Tony, ông đã khỏi bệnh ung thư, ông đã chiến thắng được bệnh. Một bức tường đầy căng thẳng, chán chường, tuỵêt vọng và đau đớn đột nhiên sụp đổ. Nỗi vui mừng tràn ngập lòng tôi nư một làn nước mát. Tôi hỏi Kushi khi nào có thể khám xương bằng quang tuyến. Tôi muốn có thực chứng khoa học xác nhận tôi đã chiến thắng bệnh ung thư. Michio nói: - Nguy hiểm lắm ông Tony ạ! ông nên biết rằng dùng quang tuyến là đi ngược với đường lối dưỡng sinh - rồi Kushi khuyên tôi nên đợi đến tháng chạp. Tôi giải thích: “Tôi cần giải thích, và chỉ có cách đó thôi”. Bị thúc đẩy bởi vì nỗi nghi ngờ còn vương vấn, tôi quyết định trắc nghiệm cách ăn uống của tôi, vào giữa tháng 6-1079, tôi bỏ hẳn không dùng oestrogen nữa, và kể từ đó đến nay, tôi không bao giờ phải dùng kích thích tố nữa. Đồng thời tôi hẹn khám xương vào ngày 27 tháng 9. Sáng sớm mùa thu hôm đó, trên đường lái xe đến nơi làm việc, tôi thì thầm cầu nguyện như thể đang đi đến đoạn đầu đài. Đến bệnh viện, tôi xuống ngay phòng quang tuyến. Bác sĩ Renzi lại tiêm chất phóng xạ vào người tôi. Trong khi chờ đợi 3 tiếng đồng hồ cho thuốc thấm khắp cơ thể tôi, Renzi đến gặp tôi tại văn phòng để thổ lộ với tôi những gì ông đang mong đợi trong cuộc khám xương này. Đề cập đến những bản thử nghiệm máu và gan, ông nói: “Tony, anh đã chặn được bệnh. Nếu các tấm phim cho thấy bệnh không còn phát triển nữa thì cũng là dấu hiệu tốt rồi”. Tuy nhiên, Renzi cũng khuyên tôi không nên thất vọng nếu thấy những xương vẫn bị bệnh giống tình trạng đã thấy ngày 31-5-1978. “Phải mất nhiều thì giờ để xương lành lặn. Bệnh anh quá nặng nên không thể trông mong có sự thay đổi nào trong vòng 13 tháng”. Renzi rời ghế đứng lên, bắt tay tôi và nói: “Hai giờ nữa mình gặp lại nhau”. Khi đã nằm yên trên phòng quang tuyến, tự dưng tôi thấy bồn chồn lo lắng, tôi nhìn vào máy rà xương và đâm ra sợ hãi một cách phi lý. Không thể mong đợi lòng từ tâm nơi cái máy lạnh lùng này. Tôi biết rằng nó sẽ lục soát khắp người tôi như một con quỷ khát máu cố tìm cho được những u ung thư. Tuy nhiên, khi nhắc lại những lời chẩn đoán của Michio Kushi tôi lại cảm thấy hy vọng.
Renzi cho máy chạy, nó bắt đầu kêu rù rù. Khi ông chĩa cái trống nhỏ vào đầu tôi, tiếng tích tắc phát ra, máy đã bắt được chất phóng xạ tản mát trong người tôi. Những âm thanh vẫn đều đặn bình thường. Tôi nhìn vào bộ phận dao động và thấy hình rọi của đầu tôi. Không thấy vết đen nhu đã thấy trước đây 15 tháng. Sọ tôi không còn u nữa. Renzi dịch đầu cảm ứng xuống vai tôi. Tiếng kêu vẫn không thay đổi, trên màn ảnh vẫn không có vết đen, vai tôi đã lành. Renzi rà từ đầu đến chân, Renzi rà cẩn thận ở những nơi trước đây có ung thư như háng, lồng ngực, xương sống và cơ quan sinh dục. Trong khi máy rà lục lạo khắp cơ thể thì tim tôi, toàn cơ thể phập phồng theo nhịp điệu của máy kêu. Mỗi lần cái trống dừng lại nơi nào, tôi lại nhìn vào bộ phận dao động, tất cả đều bình thường, xương đã lành, ung thư đã biến mất, còn Renzi thì sững sờ. Tôi bước xuống bàn để người ta chụp X quang. Cơ thể chẳng còn dấu vết sưng u. Renzi vô cùng kinh ngạc thú nhận với tôi rằng: Chưa bao giờ ông thấy cảnh như thế. Còn tôi thì quá đỗi vui mừng. Tôi ôm chầm lấy Renzi xiết mạnh. Ông nói: “Anh Tony này, tôi chẳng biết gì về việc anh làm cả. Nhưng cứ tiếp tục đi! Lạy trời, cứ tiếp tục đi”. Chiều lại, tôi mang kết quả quang tuyến đến hco Sheldon Lisker, cũng như Renzi, ông chỉ mong thấy được vài thay đổi nhỏ trong bệnh tình của tôi. Lisker nói: “Anh Tony này, tôi thật sung sướng khi thấy anh được như vậy. Nhưng dù sao tôi cũng cần cho anh hay là chúng mình vẫn phải tiếp tục theo dõi những diễn biến của bệnh”. Rồi ông tuyên bố “Ngày hôm nay tất cả những kết quả của các cuộc xét nghiệm đã cho thấy anh hoàn toàn bình phục. Tôi xin chúc mừng anh”. Ông cười và xiết tay tôi. Tôi hỏi: “Sheldon này, anh nghĩ cái gì đã gây ra tình trạng cải thiện này?”. - Thành thật mà nói, tôi không biết gì hết, tôi chỉ có thể cho rằng sự điều trị lâu nay: cắt bỏ dịch hoàn và dùng oestrogen đã giúp cơ thể anh đủ sức chống lại bệnh ung thư. Tôi hỏi: “Thế có bao giờ anh thấy được trường hợp như tôi không?” - Không, trường hợp của anh rất hiếm, tôi cũng biết một vài trường hợp như thế được ghi trong sách vở Anh quốc. Theo tôi nghĩ có lẽ chúng ta cần nghiên cứu những trường hợp như thế này để xem có điểm nào tương tự. Tôi hỏi thêm: Có bao nhiêu người sống được 5 năm? Sheldon nói: “Anh Tony này, có lẽ chúng ta nên ném hết sách vở qua cửa sổ. Khi xương lành lặn thì bệnh đi về đâu? Về điểm này, chúng tôi không biết cái gì đến với anh, vì vậy, chúng tôi yêu cầu anh xem chừng thể trạng của mình. Lúc đó, Lisker mới nói với tôi rằng: không biết có nên khuyên anh bỏ cách ăn uống theo phương pháp thực dưỡng để dùng lại oestrogen hay không nhưng phương pháp ăn uống này hình như đã giúp anh thành công. Chúc anh ưng ý. Những tháng tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống mới, lòng đầy hân hoan và tin tưởng, thể xác tâm hồn như được tái sinh. Tuy nhiên, cuối năm 1980, tôi lại lo âu. Tháng 9, lưng đau trở lại, thágn 10 phát hiện một vết sưng nhỏ nơi sườn số 8 bên phải. Bệnh ung thư trở lại chăng? U ung thư nổi lên từng đám chăng? Có phải 15 tháng qua tôi không dùng oestrogen nên bệnh ung thư đủ sức tái phát. Các bạn ăn gạo lứt quả quyết rằng: Vết đen đó chỉ là dấu hiệu cơ thể tiếp tục đào thải độc tố, nay mai sẽ hết. Hai ngày sau lễ Nôen, tôi cho rà xương. Vết đen hầu như biến mất. Renzi cho tôi biết cục u giờ chỉ là một vết mờ. Tôi lại tin tưởng. Ngày 6-8-1981, tôi lại cho rà xương lần thứ 6 trong 3 năm. Vết xám mờ ở bên sườn phải đã hoàn toàn tan biến. Khắp người không còn dấu vết ung thư. tôi được các bác sĩ chẩn đoán là hoàn toàn bình phục. Hiện nay, sức khoẻ của tôi tốt hơn bao giờ hết, kể từ 30 năm nay, chức vụ Giám đốc bệnh viện Methodist và những buổi diễn thuyết thường xuyên của tôi về phương pháp thực dưỡng và bệnh ung thư làm tôi bận rộn vô cùng. Lúc nào tôi cũng thận trọng trong cách ăn uống, có điều tôi đã ăn nới rộng, thêm rau củ và trái cây.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:14:20 GMT 9
MÌ CHÍNH - KẺ THÙ NGỌT NGÀO I.LỊCH SỬ BỘT NGỌT – MÓN GIA VỊ CHẾT NGƯỜI Cách đây hàng ngàn năm khi người Nhật bắt đầu dùng rong biển làm thực phẩm, họ phát hiện ra loại rong lá (có tên khoa học Laminaria japonica) còn là một loại gia vị hảo hạng. Vào thời ấy, hoạt chất của loại rong lá làm cho thức ăn có hương vị đậm đà (do acid glutamic) chưa được nhận diện. Vào năm 1980, nhà bác học Rittenhausen ở Humburg (Đức) đang tìm kiếm để xác định cơ cấu của các protêin động vật, đặc biệt là acid amin kể cả acid glutamic. Họ là các nhà khoa học thuần tuý, cố gắng nhận ra các đặc tính hoá học của các protein khác nhau. Tuy nhiên, công trình của họ trở nên thiết yếu cho Kikunae Ikeda nhận diện được hoạt chất của rong biển làm cho thức ăn thêm có vị và việc sản xuất hoạt chất đó. Ikeda là một thanh niên Đông Kinh, theo học Viện đại học Đông Kinh và tốt nghiệp khoa hoá vào năm 1889. Sau một thời gian ngắn dạy trung học, ikeda qua Đức tu nghiệp và có quan hệ với WOff trong nghiên cứu hoá học về protein acid glutamic được tổng hợp trong suốt nhiều năm tập sự. Trở về quê hương, Ikeda làm việc cho khoa hoá của Viện Đại học Hoàng gia Đông Kinh. Vào năm 1908, khi trở nên thành viên thực thụ của giáo sư đoàn, ông bắt đầu nghiên cứu loại rong biển mà vợ ông vẫn dùng để làm cho món xúp thêm ngon,, và chẳng bao lâu ông nhận diện được hai thứ hoạt chất làm cho thức ăn có vị đậm đà đó. Ông khám phá ra thứ hoạt chất trích từ loại rong biển ngon ngọt kia có những đặc tính của acid glutamic, và hoạt chất đó là monosodium glutamate, một muối của acid glutamic. Phát hiện của ông mang nhãn hiệu trình toà của Anh với Paten số 9440 – nhan đề “sản xuất chất liệu gây vị” ngày 21 tháng 4 năm 1909. Kikunae Ikeda biết mình đang nắm trong tay bí quyết có nhiều áp dụng thực tiễn. Trong lúc giảng dạy tại Viện đại học Hoàng gia, ông vẫn nộp hồ sơ để có được những patent bảo đảm quyền sáng chế của mình trên các quy trình công nghiệp mang tính thương mại, trước là dùng protein của lúa mì phân rã về sau dùng protein đậu nành. Vào năm 1909, ông kết hợp với một nhà kinh doanh có khiếu làm ăn tên là Saburosuke Suzuki – nguyên là một dược sĩ - thuyết phục ông này rằng họ sắp phất lớn nhờ cung cấp cho thế giới một chất mới tạo vị. Họ chọn từ “Aji – no – moto” làm tên cho sản phẩm trình toà của mình và về sau nó trở thành tên của công ty có trách nhiệm triển khai sản xuất và phân phối bột ngọt trên toàn thế giới. “Aji” có nghĩa là nguồn gốc, sự khởi phát, hay cơ bản; còn “moto” có nghĩa là vị hay hương vị. Vì vậy Aji – no – moto theo từng từ có nghĩa là “Ngay tại nguồn gốc của hương vị”. Đến năm 1933 sản xuất bột ngọt tại Nhật Bản đạt đến 4 triệu rưỡi kilogram hàng năm, và bột ngọt trở thành món gia vị quan trọng hàng đầu ở Đông phương. Ngày nay Aji – no – moto cung cấp hơn phân nửa nhu cầu bột ngọt trên toàn thế giới. Vào thời kỳ trứng nước của ngành sản xuất bột ngọt thế độc quyền Aji–no–moto chỉ bị thách thức có một lần. Trung Hoa bắt đầu sản xuất bột ngọt những năm 1920, đến năm 1930 sản lượng hàng năm là 200.000 kilôgam. Vào giữa những năm 1930, Trung Hoa là mối đe doạ nghiêm trọng trong việc cạnh tranh thị trường bột ngọt với hai loại bột ngọt mang nhãn hiệu Ve-tsin. Thế nhưng khi chiếm đóng các tỉnh ven duyên hải, Nhật đã dẹp các nhà máy không cho làm bột ngọt nữa. Mặc dù cố gắng rất nhiều từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Aji – no – moto vẫn khó thâm nhập vào Hoa Kỳ. Câu chuyện Aji – no – moto đến Mỹ không gây mấy ảnh hưởng và nhân vật kích cho nó được triển khai bị đi vào lãng quên. Vào năm 1925, James E. Larrowe và Công ty Larrowe Milling tiếp xúc với Công ty gia vị Suzuki yêu cầu giúp đỡ xử lý “nước thải” trong quy trình làm đường củ cải sao cho có lợi vì nước thải có chứa acid glutamic với hàm lượng đáng kể. Người ta gọi loại này là “nước thải của ông Stephen” theo tên của nhà khoa học đã triển khai quy trình xử lý. Vào năm 1925, Hoa Kỳ hay chính xác hơn Công ty Larrowe Milling thặng dư chất này sau Đệ nhất Thế Chiến. Lúc ấy Hoa Kỳ bị cạn nguồn potash (của Đức) để làm phân bón và việc rút các muối kali (potassium) từ nước thải trở nên nguồn lợi hấp dẫn. Nhiều nhà máy chế biến củ cải đường chuyển qua nhà máy potash vì giá potash quá hấp dẫn: 400 Mỹ kim một tấn. Nhưng vào năm 1918, khi cuộc chiến chấm dứt, giá potash hạ xuống đến chóng mặt cho nên Công ty Larrowe bị ứ đọng hàng ngàn tấn “nước thải của ông Stephen” chứa trong các bồn lớn ở thành phố Mason City (bang Lowa). Larrowe đã mở rộng việc sản xuất potash hy vọng đáp ứng nhu cầu về potash và giờ đây bị kẹt vốn nặng nề. Ông phải tìm cho ra cách sử dụng loại nước thải này. • Bột ngọt làm bằng nước thải – phát hiện Hoa Kỳ Bột ngọt hay mì chính, là thứ gia vị phổ biến đến nỗi làm món ăn gì người ta cũng nêm nó cả. Tệ hại hơn nữa, gian thương còn trộn thêm chất độn - kể cả những chất độc hại – hòng trục lợi mặc dù bản thân bột ngọt cũng đủ có hại cho sức khoẻ của chúng ta rồi. Sử dụng nước thải bằng mọi cách - kể cả dùng nó làm chất chống băng giá cho xe hơi đã gặp thảm bại. Trong khi tuyệt vọng, Larrowe đến Viện nghiên cứu Công nghệ Mellon ở thành phố Píttburg, bang Pennsylvania, và trình bày nỗi khổ của mình. Ấy là vào năm 1923, nước thải đã chờ đợi suốt năm ròng. Vốn lên đến hàng triệu Mỹ kim bị giam, còn nước thải thì dường như là loại nguyên liệu chỉ đợi vứt đi. Sau khi suýt làm hư chiếc xe mới toanh hiệu Packard của mình, Larrowe muốn Viện nghiên cứu Công nghệ xác định tại sao không thể dùng nước thải làm chất chống đóng băng giá. Tiến sĩ Đonald Tressler, một nhà khoa học trẻ được cấp một học bổng nhằm phân tích và tìm ra cách sử dụng nước thải có hàm lượng lượng acid glutamic cao này. Sau khi hỏi ý kiến của thầy mình là Giáo sư Elmer Mc Collum, một nhà khoa học nổi tiếng về sinh tố tại Viện Đại học John Hopkins, ông khuyên Larrowe nên bỏ việc dùng nước thải để làm chất chống đóng băng giá mà nên tiến hành việc dùng nó để làm bột ngọt. Larrowe tiếp xúc với Suzuki và Ikeda đề nghị họ nên mua loại nước thải giàu acid glutamic của mình. Năm 1926, Tiến sĩ Ikeda, Suzuki và con trai rời Nhật Bản, vất vả tìm đường qua thành phố Mason (bang Lowa) Đoàn của Công ty cho rằng họ có thể sản xuất bột ngọt và bán nó ở Phương Đông và Hoa Kỳ qua Công ty Larrowe – Suzuki. Về mặt kinh tài mà nói, vụ hợp tác này là một thảm họa đối với Larrowe, nhưng ông vẫn quyết tâm làm cho được bột ngọt từ loại nước thải của mình. Tiến sĩ Ikeda qua đời vào năm 1931, năm năm sau Suzuki cũng quy tiên, việc làm ăn giữa Larrowe và Suzuki chấm dứt. Lúc ấy Larrowe đã vào tuổi thất tuần, sức khoẻ kém mà vẫn chưa sử dụng được nước thải của mình cho có lợi dù đã rót vốn rất nhiều vào rồi. Tiến sĩ Albert Marshall là cố tri của Larrowe, vô cùng khâm phục quyết tâm của bạn. Quả vậy, theo Marshall chỉ có dùng lời của Shakespeare mới diễn tả nổi con người của Larrowe: “Những gì ta mưu cầu, ta sẽ đạt được và đó là một cứu cánh”. Dù có sanh lợi hay không, cuối cùng rồi Larrowe cũng tìm ra cách sử dụng loại nước thải của mình: sản xuất bột ngọt. Công ty của ông, Amino Products, chung cuộc lại về tay Công ty International Mineral and Chemicals (Công ty khoáng và hoá chất quốc tế). Dù được sản xuất ở Hoa Kỳ, bột ngọt vẫn không được chấp nhận làm gia vị cho thức ăn của người Mỹ. Trớ trêu thay, vào Đệ nhị Thế chiến, binh lính Mỹ quan tâm đến việc Nhật Bản dùng bột ngọt trong khẩu phần ăn của lính Nhật. Sau cuộc chiến, có một hội nghị bàn về việc sử dụng bột ngọt, đặc biệt là để làm những thực phẩm dùng trong cuộc hành quân cũng như cho ngành công nghệ thực phẩm đông lạnh ở vào thời kỳ trứng nước. Vào năm 1948, cuộc hội thảo đầu tiên về bí ẩn của bột ngọt được tổ chức tại khách sạn Stevens ở Chicago và được Chỉ huy trưởng Cục hậu cần chủ trì. Muốn hiểu ra niềm phấn khởi phát sinh từ cuộc họp này, chúng ta hãy quay vè dĩ vãng. Năm 1948... Hãy tưởng tượng bạn là một thành viên có tầm cỡ trong nền công nghiệp thực phẩm được mời đến Chicago vào năm 1948 để nghe về điều kỳ diệu của một loại gia vị: một bí quyết làm cho thức ăn của quân đội Nhật bản ngon hơn. Vừa bước vào phòng họp, bạn được Franklin Dove - Trưởng ban thực phẩm và đóng gói thuộc Cục hậu cần, một nhà thông thái – đón tiếp. Rồi lại được Giám đốc Viện hậu cần vồn vã cho biết ông cũng mong đợi sự kiện này mà lòng tràn trề hy vọng. Ông nói: “Tôi rất tò mò về cái chất kỳ lạ này”. Nhìn quanh, bạn nhận ra toàn những khuôn mặt lớn, có vai vế lãnh đạo ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến thực phẩm và phân phối trên toàn nước Mỹ. Cuộc họp này đánh dấu một cuộc cách mạng Hoa Kỳ trong thực phẩm, một sự kiện kéo dài trong tám tiếng đồng hồ có hậu quả liên hệ đến triệu triệu con người qua một thời gian rất dài. Nhìn khắp đại sảnh, bạn thấy ai nấy đều chăm chú hăng say ghi ghi chép chép trong khi từng diễn giả đưa ra các bài tham luận không tiếc lời ca tụng loại bột ngọt thần diệu này, không khí phấn khởi bao trùm lên phòng họp. Bột ngọt đã được đăng quanh. Nền công nghiệp thực phẩm bột ngọt của Hoa Kỳ cất cánh đi vào hoạt động. Và nếu những phát hiện tuyệt vời nêu trên chưa đủ thì những lời phát biểu của diễn giả cuối cùng chả khác gì một lớp kem ngon lành phủ lên trên chiếc bánh tuyệt hảo. Tiến sĩ Carl Pfeiffer thuộc trường Y của Viện Đại học Illinois là một bậc thầy nổi tiếng trong ngành Y dã dành thì giờ đến dự buổi họp này và thông báo rằng nay các nhà khoa học đang bắt đầu thử nghiệm để xem bột ngọt có tác dụng trong việc nâng cao chỉ số trí tuệ thông minh của các người có trí tuệ chậm lụt. Thật ra thì những ai tham dự hội nghị chẳng cần được động viên hơn nữa, thế nhưng thông tin mới này chả khác nào thứ động cơ có sức đẩy mãnh liệt. Còn nền công nghiệp thực phẩm chẳng mảy may nghĩ đến mặt đen tối, xấu xa của loại bột nêm thần diệu này mà hậu quả là gây ra hội chứng bột ngọt.
II. TÁC HẠI CỦA MÌ CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ THỂ.
1.Lời bạt cho một cuốn sách
Tiến sĩ Y khoa Arthur D.Colman là Giáo sư lâm sàng khoa Tâm thần thuộc Trung tâm Y khoa của Viện Đại học Califonia đã viết lời bạt được trích dịch dưới đây cho một cuốn sách nói về hội chứng bột ngọt đồng thời giúp bạn tự chủ cuộc sống của mình. Bột ngọt (còn được gọi là mì chính) có nguy hiểm cho sức khoẻ bạn không? Và nếu cơ thể của bạn bị mẫn cảm với bột ngọt, không chịu nổi bột ngọt, bạn cần phải làm những gì để loại bỏ bột ngọt, loại bỏ những thực phẩm có dùng bột ngọt ra khỏi những món ăn, thức uống của mình? Cuốn sách này sẽ trình bày đầy đủ những dữ kiện về lịch sử, khoa học, lâm sàng, và dinh dưỡng để cho bạn tự quyết định trước những mối nguy hiểm tiềm tàng của bột ngọt đối với bạn và con cái của mình. Đây là cuốn sách đầu tiên thuộc loại này được xuất bản vừa nhằm vào độc giả mà nghề nghiệp có liên quan đến bột ngọt vừa nhằm vào quần chúng rộng rãi: Bởi vì ước tính có đến 25% dân chúng mà cơ thể có phản ứng nguy hại đối với bột ngọt. Trong số nạn nhân, có nhiều người bị bệnh vì không biết rằng ăn đồ hộp có bột ngọt, dù ít đi nữa – món ăn bày bán tại các quầy hàng – là nguyên nhân của bệnh tật, thậm chí đe doạ tính mang của thực khách. Những nạn nhân này không biết rằng từ 20 năm nay các bác sĩ, nhà khoa học đã cho xuất bản các công trình nghiên cứu nghiêm túc về đề tài này rồi. Ngày nay, các bài báo vẫn tiếp tục xuất hiện trên những tạp chí khoa học có uy tín, có số phát hành cao đề cập chi tiết đến tính độc hại của bột ngọt. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những thông tin cần thiết mang tính giáo dục để cho quần chúng rộng rãi tự mình nhận định về những tác động của bột ngọt. Tôi (Tiến sĩ Arthur D.Colman) ngày càng quan tâm đến biết bao nhiêu thân chủ cùng đồng nghiệp của mình bị nhức đầu, có các triệu chứng đường ruột, trầm cảm, buồn bực và mặt bừng bừng. Vào năm 1978, bài viết chi tiết của tôi về hai ca bệnh: mỗi lần ăn uống thứ gì có bột ngọt là cả hai thân chủ của tôi có những triệu chứng trên cơ thể và cả tâm thần rất rõ - kể cả trầm cảm buồn bực đến ủ dột. Bài viết này được đăng trên tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi (New England Jounal of Medicine, gọi tắt là TCYH)(*) Các triệu chứng tâm thần đặc biệt khó lường bởi những dấu hiệu này chỉ lộ ra hai ngày (48 giờ) sau khi ăn uống thứ có chứa bột ngọt và có khi kéo dài suốt nhiều tuần lễ. Nhưng khi thức ăn của họ không có bột ngọt thì các triệu chứng đó không xuất hiện. Một thân chủ của tôi là một cậu bé gặp muôn ngàn khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà cũng như ở trường: tình trạng u ám như vậy kéo dài suốt bao nhiêu năm do thức ăn em dùng có chứa bột ngọt. Sau khi loại bỏ hoàn toàn bột ngọt ra khỏi thức ăn của em này, thì tính khí của em trở nên ngoan cường đến cả cô giáo dạy em, lẫn bác sĩ tâm thần trị bệnh cho em đều ngẩn người ra vì kinh ngạc. Họ hỏi bố mẹ của em đã làm gì, thay đổi những gì! Mười năm sau, cậu bé ngày xưa bị xếp vào hạng “Ngổ ngáo và bướng bỉnh” thì ngày nay là sinh viên danh dự của khoa hoá Viện Đại học Califonia ở Berkeley. Bài báo đăng trên TCYH tức khắc tạo ra tiếng vang trong quần chúng và được các phương tiện thông tin đại chúng - nhất là báo chí – quan tâm. Tôi đã đọc lại hàng trăm lá thư của bác sĩ, của các nhà chuyên môn gửi đến cho biết các kinh nghiệm lâm sàng của riêng họ cùng thư từ của các nạn nhân bột ngọt kể lể những nỗi khổ đâu mà họ phải chịu đựng. Một tờ báo tiếng Nhật hàng đầu ở một thành phố lớn ở Miền Tây tuy đã dự kiến lên một chương trình phỏng vấn tôi, nhưng đã huỷ bỏ cuộc phỏng vấn vì bị đe doạ mất tiền quảng cáo từ các nhà sản xuất thực phẩm. TCYH này cũng nhận được một lá thư giọng đầy hằn học của Hiệp hội bột ngọt, một tổ chức quốc tế chi hầng triệu Mỹ kim tại hậu trường chính trị, còn nói rằng họ thất vọng và lo lắng khi tạp chí đã in bài của tôi, đề nghị rằng tạp chí này nên đưa ra một chính sách rõ ràng làm tiêu chuẩn cho việc xuất bản. Chiến dịch chống lại bài viết dài vỏn vẹn có ba đoạn của tôi vẫn chưa ngừng tại đây. TCYH còn nhận được một lá thư từ một nhà nghiên cứu chất vấn về những phát hiện lâm sàng của tôi. Ban biên tập dành cho tôi điều kiện để phản bác ngay trên tạp chí. Đối với tôi, đây là một việc đơn giản: ngay trong lá thư của nhà nghiên cứu này có nhiều lời quảng cáo hơn là các nội dung khoa học. Cuối cùng, những lá thư như vậy không còn được gởi đến toà soạn nữa. Điều đó không có nghĩa là tôi không gặp rắc rối: một đồng môn Harvard của tôi mà có hơn mười năm nay không gặp bỗng dưng xuất hiện ở San Franciosco. Chúng tôi gặp nhau cùng ăn sáng và câu chuyên hàn huyên nhanh chóng chuyển hướng về công trình của tôi nghiên cứu bột ngọt gây hội chứng tâm thần. Thoạt tiên, anh bạn của tôi nói với vẻ xem thường các phát minh của tôi, rồi đề nghị tài trợ cho tôi nghiên cứu “các hiện tượng mẫn cảm” khác thay vì hội chứng tâm thần do bột ngọt. Tôi cảm thấy thất vọng, không phải vì bạn tôi xem thường công trình lâm sàng của mình mà vì động cơ thúc đẩy anh ta làm như vậy. Sau khi bị tôi cật vấn về lòng tốt khác thường của anh, anh thú nhận là Tổ chức bột ngọt mướn anh làm tham vấn. Anh ta giận dữ thật sự khi tôi nói thẳng rằng anh là một “con rối”, từ đấy đến nay tôi không còn nghe tăm hơi gì của người bạn đồng môn Harvard của mình nữa! Rõ ràng có một ngành công nghiệp cần bảo vệ tiếng tốt cho bột ngọt. Tuy nhiên dù đã tiêu hàng đống tiền cho quảng cáo và gaio tế nhân sự nhằm ca tụng bột ngọt là loại gia vị có tác dụng “tự nhiên”, nhưng nỗi hoang mang đối với bột ngọt ngày càng tăng. Trong lúc khám bệnh, tôi vẫn đặt thành nếp: nghi ngờ có độc tính của bột ngọt mỗi khi có sự kết hợp giữa các triệu chứng đường ruột, thần kinh và trầm cảm. Đôi khi tôi giúp được cho bệnh nhân của mình khỏi phải chịu đau đớn và tốn kém. Tôi biết các bác sĩ nhi khoa hỏi bố mẹ của các cháu mắc bệnh (bệnh nhi) là thức ăn của các cháu có chứa bột ngọt không. Có bác sĩ còn dùng liều bột ngọt thử cho bệnhnhân để loại bỏ hoặc xác nhận nỗi nghi ngờ của mình. Những cố gắng như vậy dễ bị trắc trở vì mục tiêu quá rộng, đó là: “dị ứng thực phẩm” hơn là các độc tính đặc thù. Điều quan trọng là với liều đủ mạnh thì bột ngọt là chất độc với mọi người. Còn đối với những người không có khả năng biến dưỡng nó, bột ngọt trở thành thứ thuốc độc. Tiếc thay trong hoàn cảnh hiện nay bỏ bột ngọt không dễ dàng gì. Ngay cả khi bố hay mẹ của người bệnh hay chính người tiêu thụ có học vị tiến sĩ dinh dưỡng đi chăng nữa cũng khó có khả năng loại bỏ hoàn toàn bột ngọt! Chính vì vậy, cuốn sách này rất có giá trị. Nếu bạn, hay người bạn quen biết là nạn nhân của bột ngọt, thì cuốn sách này có thể thay đổi cuộc đời của mình: điều đó không hải là lời nói ngoa đâu. ______________________ (*) New England Jounal of Medicine (Tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi) tập hợp được các nhà y học hàng đầu của Hoa Kỳ và Thế giới. Vùng này có Viện Đại học Harvard, MIT (Viện Kỹ thuật Massachusetts)... rất nổi tiếng cho nên rất có uy tín và tầm cỡ quốc tế. 2. Bột ngọt – mì chính – món gia vị hiện đại giết người dần dần.
Sau muối và tiêu, đây là thứ gia vị xếp hàng thứ ba và là thứ gia vị của thời đại chúng ta. Ở Mỹ nó được gọi là Monosodium glutamate, ở Nhật là Aji – no – moto, ở Việt Nam nó là bột ngọt, là mì chính, và còn mang nhiều tên gọi khác nhau ở quốc gia trên thế giới này. Bột ngọt lần đầu tiên được triển khai tại phòng thí nghiệm của Kikunae Ikeda nguyên được phân lập từ rong biển để làm cho vị của món ăn thêm đậm đà. Tiến sĩ Ikeda nào có ngờ công trình của ông, nhằm nhận diện thứ hoạt chất trong rong biển mà các đầu bếp Nhật Bản đã sử dụng hàng ngàn năm nay, lại mở đường cho một ngành công nghiệp có khoản thu nhập lên hàng tỷ Mỹ kim trong thế kỷ XX này. Không bao lâu sau khi phân lập được bột ngọt, Kikunae Ikeda trở thành người hùn vốn trong một cơ ngơi sau này biến thành công ty Aji – no – moto (có nghĩa: bản chất của vị). Sự thật là trên toàn thể các nước phương Đông, ai cũng biết là Aji–no -moto có nghĩa là bột ngọt, và trở thành tên gọi gần gũi dễ hiểu. Và để ghi công cho Tiến sĩ Ikeda, thứ bột nguyên gốc của ông phân lập hiện nay được đóng vào khuôn giữ tại một đài kỷ niệm tại Viện Đại học Đông Kinh. Ngày nay bột ngọt được dùng trong các thực phẩm được chế biến, các thức ăn liền và các món ăn của người Hoa có các vị đặc biệt. Được tìm thấy trong hầu hết các loại súp, nước sốt và các protein thực vật thuỷ giải (*), bột ngọt trở nên là thứ nguyên liệu thô cho nền công nghiệp thực phẩm hiện đại. Vậy sao chúng ta lại lo lắng về cái chất làm cho các thứ thực phẩm nhạt nhẽo thêm đậm đà, làm mất các mùi khó ưa của đồ hộp và kích thích các gai vị giác mệt mỏi của chúng ta? Tại sao lại có người muốn thách thức những đặc tính có vẻ lợi của bột ngọt? Câu trả lời: bột ngọt đơn giản là mọt chất độc với nhiều người mẫn cảm đối với các tác dụng của nó. Các phản ứng của cơ thể đối với bột ngọt là từ nhẹ đến rất nặng. Quả thật vậy, qua bài đầu tiên được đăng trên New England Journal of Medicine (Tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi) vào năm 1968, Bác sĩ Ho Man Kwok tường trình các triệu chứng tương đối nhẹ như nhức đầu, da bừng bừng. Tuy nhiên, càng về sau này các công trình nghiên cứu tích luỹ nhiều tư liệu cho thấy bột ngọt gây ra những hậu quả tai hại hơn và kéo dài hơn như bệnh suyễn, nhức đầu như búa bổ và các tai biến về tim đe doạ tính mạng. Các loại triệu chứng khác thoạt nhìn có vẻ do tâm thần nhưng rà soát lại thì do dùng bột ngọt: tính khí thất thường một cách quá đáng, dễ nóng giận, trầm cảm, thậm chí cảm thấy mình bị thù ghét. Nhiều ca bệnh trầm trọng vì bột ngọt đã được các bác sĩ đúc kết thành tài liệu và ngày càng có nhiều bài xuất hiện trong y văn mà các chuyên gia có thể dùng để nghiên cứu, tham khảo. Tuy nhiên đại đa số những người bị mẫn cảm đối với bột ngọt lại không biết rằng những khổ sở khó khăn trong đời của mình rất có thể là do bột ngọt gây ra: họ đi khám bác sĩ mà vẫn không thấy khỏi, bác sĩ không sao giải thích được những lời than vãn của thân chủ nổi giận dữ và buồn bực do bột ngọt gây ra, thậm chí dẫn tới nguy cơ tự vẫn nếu không tìm ra được nguyên nhân do đâu mà có những rối loạn tâm thần như vậy. Một công trình nghiên cứu qua bản trả lời những câu hỏi đặt ra (được công bố vào tháng 4 năm 1977) cho thấy rất đông mẫu chọn do Tiến sĩ Liane Reif – Lenrer cho thấy có 30% người lớn và có từ 10 đến 20% trẻ em có phản ứng đối với thức ăn có chứa bột ngọt. Như vậy có nghĩa là hiện nay có hàng triệu sinh mạng đang bị đe doạ vì bột ngọt. Bột ngọt được tìm thấy hầu hết trong các thức ăn liền trên quy mô cả nước. Những loại thức ăn liền này lại được trẻ em và thanh thiếu niên rất ưa chuộng, có thể trở thành “chất độc màu xanh” - một cụm từ mà các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia dùng để giải thích cho nguyên nhân gia tăng hội chứng trầm cảm trong số trẻ em và lứa tuổi niên thiếu. Những triệu chứng về thể chất và phong thái của trẻ em – như những cơn động kinh và mất khả năng tự chủ được định bệnh và chữa khỏi khi chúng được xem như là phản ứng đối với bột ngọt. Vào cuối thập niên 60, bột ngọt bị loại bỏ khỏi thức ăn cho trẻ con. TS Jean Mayer, một nhà khoa học thực phẩm hàng đầu thuộc Viện Đại học Harvard đã tuyên bố trong buổi họp phụ nữ tại Câu lạc bộ báo chí Quốc gia rằng: “Dù có cảm thấy hơi áy náy vì chưa có đủ bằng chứng nhưng tôi vẫn mong loại bỏ hẳn cái thứ trời đánh này (bột ngọt) ra khỏi thức ăn trẻ con”. Ngay tức khắc các nhà sản xuất thực phẩm Gerber Heinz và Beechnut tuyên bố không dùng bột ngọt trong việc chế biến thức ăn cho trẻ con nữa. Thế nhưng các cháu vẫn dùng bột ngọt qua các món ăn thường được gia đình nấu nướng. Các sự kiện khoa học thu thập được từ các ca bệnh cần được quảng đại quần chúng quan tâm, chú y. Riêng ở Mỹ có ít ra là 20 triệu người và trên thế giới có ít ra là 100 triệu người có phản ứng đối với bột ngọt. Điều này có nghĩa rằng trong khi có người dùng bột ngọt mà không bị tác hại thì nhiều người lại bị thương tổn về mặt thể chất và tâm thần khi dùng bột ngọt làm gia vị mà không hề hay biết rằng đối với họ, bột ngọt có những tác động của một loại thuốc mạnh. Cuốn sách “Dở - hội chứng bột ngọt” là câu chuyện về những tác động tai hịa của bột ngọt đối với sức khoẻ và sự an lành của họ. Sách trình bày chi tiết những công trình của các nhà khoa học hiến trọn đời mình để khuyến cáo đừng dùng bột ngọt nữa. Cuốn sách còn đề cập đến một nền kinh tế liên hệ phụ thuộc vào việc sản xuất và tiêu thụ bột ngọt, và các nhà tâm lý học, các bác sĩ, các bệnh viện, trường học và luật sư liên hệ với nhau như thế nào trong vấn đề này do tác động sâu rộng của bột ngọt. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng như trên hiện trường đều cho thấy một hình ảnh bất biến: 30% dân số có những triệu chứng khó chịu khi dùng bột ngọt theo liều lượng như được dùng để nêm nếm thức ăn. Những dữ kiện lâm sàng cho thấy rằng đối với một số người những triệu chứng không thuộc loại nhẹ hay chóng qua mà thuộc loại nặng và nguy hiểm, và rất có thể - dù không phải khi nào cũng vậy - dẫn đến những chứng bệnh mãn tính hoặc gây thương tổn vĩnh viễn. Ngày cnàg có nhiều người bị nguy hại do việc sử dụng bột ngọt ngày càng tăng. Hiện tượng không chịu được bột ngọt không phải là phản ứng quá mẫn cảm – nhưng đúng là một tác động do thuốc. Một liều đủ cao có khả năng gây bệnh cho bất cứ ai, và có nhiều người hơn nữa đang tiến dần tới cái liều nguy hại đó – nghĩa là khi có đủ lượng thì triệu chứng bệnh lộ ra – do tiêu thụ bột ngọt. Hội chứng bột ngọt không còn là thứ phản ứng khó tiêu của cơ thể đối với các món ăn Tàu. Những ai có phản ứng với bột ngọt, trước hết phải nhận ra cho rõ các phản ứng đó của mình, và rồi học cách ăn không có bột ngọt. Những ai không chịu được bột ngọt mà có những phản ứng mạnh mẽ thường phải chịu khổ sở liên miên với các triệu chứng tâm lý và sinh lý. Biết né tránh không dùng bột ngọt có khả năng thay đổi cục diện rất tốt đẹp. ________________________ (*) Thuỷ giải protein thực vật là một trong những phương thức hoá học sản xuất bột ngọt. Hỗn hợp này có hàm lượng bột ngọt đến 20%, được dùng rất phổ biến trong các loại thực phẩm được chế biến.
3. Hội chứng bột ngọt – dâu có phải chuyện đùa!
Thoạt tiên khi đọc bài của Bác sĩ Ho Man Kwok viết trên tạp chí Y học (TCYH) miền Tân Anh Cát Lợi (New England Journal of Medicine) vào năm 1968 tường thuật phản ứng cơ thể đối với bột ngọt, nhiều người tưởng lầm chuyện đùa mà thôi. Ông viết: “Hội chứng này thường bắt đầu sau khi dùng món ăn đầu tiên chừng 15 đến 20 phút, kéo dài 2 tiếng đồng hô và không để lại dư chứng gì. Những triệu chứng rõ nét nhất là cảm thấy tê tê sau gáy, và cảm giác đó lan dần xuống hai cánh tay rồi lan xuống lưng, mệt mỏi toàn thân và hồi hộp”. Qua thư bạn đọc gởi cho toà soạn, có độc giả yêu cầu: nếu là người thật việc thật thì Ho Man Kwok hãy ra mặt và thú nhận là ông đã đùa dai. Thế nhưng không những Bác sĩ Ho Man Kwok là con người bằng xương bằng thịt mà triệu chứng bệnh của ông cũng rất cụ thể và rõ ràng. Vào năm 1969, Bác sĩ Herbert Schaumberg thuộc Đại học Y Albert Einstein bắt đầu một cuộc nghiên cứu khoa học tỉ mỉ về hậu quả của bột ngọt, và ông viết: “dù muốn làm bớt đi nỗi lo sợ khủng khiếp và ngăn chặn việc làm cho các chủ tiệm ăn của người Hoa khỏi bị sụp đổ, chúng tôi buộc phải trưng ra những điều cần thông bào về nguồn gốc của bệnh, tâm lý bệnh học và dược lý học lâm sàng về hội chứng do dùng món ăn của người Hoa (đúng là những món ăn nêm bột ngọt). Và Bác sĩ Schaumberg cám ơn vô số nạn nhân đã gọi điện thoại cho ông vào những lúc khuya khoắt để tường thuật trường hợp lâm bệnh của mình. Vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1969, Franz Ingel finger, Tổng biên tập của TCYH viết: “Dù được đặt tên gì cho hay nhất đi nữa thì phản ứng với bệnh nhân Kwok được miêu tả trong số báo ra ngày 16 tháng 5 của chúng tôi đã vén bức màn che khuất biết bao nạn nhân chịu khổ đau thầm lặng. Rõ ràng là rất nhiều người phải ngồi chịu đựng dằn vặt mà không dám hé môi, mỗi nạn nhân đều nghĩ chỉ có mình là bị đoạ đày chớ không bao giờ nghĩ rằng chính người bạn cùng mâm ra vẻ hồ hởi thưởng thức món súp yến sào cũng là người “đồng hội đồng thuyền” đang ngắc ngoải. Ngay cả vợ chống cũng muốn tránh cho nhau cái nghịch cảnh này”. Thế nhưng thật là nực cười biết bao? Sau khi Bác sĩ Herberg Schaumberg và các cộng sự của ông điều tra kỹ hơn, họ đã nhận ra các triệu chứng do dùng bột ngọt như nóng bỏng, mặt nặng, đau ngực và nhức đầu. Họ khám phá ra rằng một chén súp (khoảng 20ml) cũng đủ làm cho những người nhạy cảm với bột ngọt có những triệu chứng bệnh đó rồi. Khi 56 người bình thường có tuổi từ 21 đến 67 được thử nghiệm (30 đàn ông; 26 đàn bà), thì 55 người đều có triệu chứng của hội chứng bột ngọt xuất hiện ngoại trừ một người. Nhưng người này có triệu chứng khi có được tiêm bột ngọt vào tĩnh mạch. Công trình nghiên cứu của Schaumberg phát hiện, một triệu chứng nặng là tức ngực lan khắp và có khi còn lan tới cánh tay hay cổ nữa. Cái cảm giác đáng ngại này đã khiến cho một người trong nhóm là một bác sĩ phải làm điện tâm đồ vì nghĩ rằng triệu chứng này là do cơn đau tim. Qua bài viết đăng trong tạp chí Science (tạp chí khoa học) - tạp chí chính thức của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ - vào năm 1969, Bác sĩ Schaumberg trịnh trọng kết luận “bột ngọt gây ra các tác động bất lợi dù với lượng vẫn được nêm nếm các thức ăn thường dùng”. Tám năm sau, Tiến sĩ Liane Reif-Lehrer, một nhà nghiên cứu thành danh trường Y thuộc Viện Đại học Harvard, thực hiện một cuộc thăm dò và nghiên cứu phản ứng đối với bột ngọt. Trong số 1529 người trả lời một loạt các câu hỏi thì 30% cho biết có những triệu chứng như chóng mặt, buồn nôn, đau bụng, mờ mắt, mệt mỏi, hụt hơi và sức yếu (Federtation Proceeding, tháng 4/1977). Trong nghiên cứu của Tiến sĩ Reif-Lehrer thì triệu chứng phổ biến nhất là nhức đầu và có cảm giác mặt căng. Một số đáng kể còn có triệu chứng chóng mặt, tiêu chảy, buồn nôn và bụng đau thắt. Có 50 người có triệu chứng về mắt: từ cảm giác nóng ở mắt và mờ mắt tới thấy có ánh sáng và thấy nhiều màu sắc khác nhau. Nhiều người có những phản ứng tình cảm: từ ủ dột, mất ngủ đến “cảm giác” căng thẳng. Tiến sĩ Reif-Lehrer còn thăm dò cả lứa tuổi học trò: 317 học sinh từ lớp 2 đến lớp 6 thuộc các thành phố và thị trấn khác nhau. Sau khi ăn các thức ăn khác nhau, các cháu được yêu cầu miêu tả cảm giác của mình. 19% trẻ con có phản ứng bất lợi với bột ngọt, mà phổ biến nhất là đau bụng và buồn nôn. Trong khi hầu hết những người tham gia cho biết triệu chứng trên chỉ kéo dài trong 3-4 giờ thì 10% cho biết chúng kéo dài nhiều hơn. Tiến sĩ Arthur Colman, một thầy thuốc về tâm thần đáng kính ở San Francisco, bắt đầu thu nhập dữ kiện sau khi phát hiện hai ca đầy kịch tính do phản ứng của người bệnh chống lại bột ngọt. Một trường hợp đặc thù là Noah, do bản thân người cha – cũng là một bác sĩ – tường thuật: “Noah lên 9. Khi chúng tôi nhận ra rằng mõi lần cháu ăn những loại thức ăn thuộc nhóm “ăn liền” thì cháu bị nhức đầu và đau bụng. Cháu gặp khó khăn trong việc nín đi tiểu, đi tiêu. Có khi cháu đi ra quần. Với cậu bé lên 9 mà còn đái ra quần thì còn thể thống gì nữa. Cháu còn có những hoạt động quá mức, thậm chí quá quắt trong phong cách cư xử mà không rõ nguyên nhân nào khiêu phát ra nữa”. “Vị bác sĩ khoa nhi trị cho cháu cũng chịu thua. Thường Noah là cậu bé dễ thương, dịu dàng, thông minh và đầy thiện cảm. Nhưng những lúc thay đổi tính khí thì cháu dễ hờn giận, lầm bầm, la hét và không còn biết phải trái gì nữa. Nhà trường cũng thấy rõ những thay đổi của cháu và chúng tôi có trao đổi với thầy, cô giáo: họ đều bảo cháu là một học sinh thường thì rất là hoạt bát và thân thiện, nhưng có những lúc cháu thay đổi đến mức tưởng như cháu là con người khác hẳn. Chúng tôi vô cùng lúng túng. Chưng tiêu chảy và không nín đi tiêu được của cháu có tác động khủng khiếp lên nhân cách của cháu, bởi cháu không còn vui đùa cùng bạn bè đồng trang lứa nữa. Cháu bắt đầu được một bác sĩ tâm thần chạy chữa vì bác sĩ khoa nhi không sao tìm được nguyên nhân gây ra tính cách kỳ cục của cháu. “Chúng tôi nhận ra rằng những triệu chứng của cháu trầm trọng thêm sau khi dùng món gà rán hiệu Kentucky, cuối cùng phát hiện ra rằng trong món gà rán hiệu này, bọt ngọt được nêm rất nhiều để làm gia vị theo lối “bí truyền”. Họ còn nêm vào bột pha với trứng để làm áo gà lúc rán. Suốt hai tuần lễ sau, chúng tôi giữ không cho cháu đụng vào bất cứ thức ăn nào có nêm bột ngọt. Những triệu chứng bệnh của cháu mất đi như có phép lạ và cháu kiểm soát được việc đi tiểu, đi tiêu rất đàng hoàng. “Một hôm gia đình cháu đi nhà hàng dùng món ăn của người Hoa. Noah ăn một to Hoàng thánh, chỉ năm phút sau cháu bị nặng mặt và sau đó bị đau thắt bụng phải chạy vội vào nhà vệ sinh. Suốt tuần lễ sau đó tất cả các triệu chứng cũ trở lại hết. Chúng tôi có cảm nhận rằng nguyên nhân gây bệnh của cháu là bột ngọt cho nên chúng tôi rất thận trọng trong việc ăn uống của cháu. “Chúng tôi không kể cho vị bác sĩ tâm thần về phát hiện của mình mà vẫn để cho cháu được điều trị tiếp. Lúc gặp chúng tôi vào dịp khám cho cháu vào tháng sau, vị bác sĩ ấy hỏi chúng tôi đã làm gì mà nay cháu Noah trở thành một con người khác hẳn. Bác sĩ đề nghị ngưng điều trị nếu tình trạng tiếp tục được cải thiện như vậy. Khi gặp các thầy cô giáo của cháu, các thầy cô cũng đều nhận thấy nay cháu có sự thay đổi nhân cách vừa thuần hậu vừa ổn định. “Nay thì tánh khí của cháu tự nhiên hơn và không còn cảm thấy bị bức bách nữa. Không có lời nào tả nổi sự vui sướng của chúng tôi - kể từ ngày gia đình không cháu Noah đụng tới thức ăn có bột ngọt nữa”. Giá mà các triệu chứng nhẹ hơn hoặc không có những tác dụng lâu dài hay nguy hiểm, ta có thể dễ dàng bỏ qua cho bột ngọt. Nhưng phản ứng của Noah đối với bột ngọt lại trầm trọng cho mạng sống của cháu - về mặt thể xác cũng như xã hội. Tuy nhiên, còn có những trường hợp nặng hơn vậy, làm cho nạn nhân của bột ngọt lâm vào cảnh thập tử nhất sinh.
|
|