|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:46:23 GMT 9
7. Nhận thức thay đổi của Âu châu và Trung quốc về Đông và Tây
Một số bình luận gia cho TQ đã có một định nghĩa quá uyển chuyển về Đông và Tây. Họ giải thích điều nầy như 'quyết tâm của TQ không để cho các khu vực quan trọng khác trên thế giới vô tình trôi dạt vào quỹ đạo ảnh hưởng của Hoa Kỳ'. Một chuyên gia khác lại cho đây là một dạng hiện đại của ý thức hệ Maoist 'Hổ Trợ của Phương Nam' (a modernized version of the Maoist 'South Solidarity' ideology) của thập kỷ 1960s và 1970s. Sự giao hảo của TQ với Phi châu sub-Sahara đã được ghi nhận. Quan hệ với Bắc Phi và vùng Trung Đông cũng khá quan trọng. Ngoài những sáng kiến đã được bàn đến trước đây, ở Sudan và Lebanon, công ty Thăm Dò Dầu Khí Quốc Gia TQ đã đầu tư vào nhà máy khai thác dầu Zarzaitine ở Algeria, với khả năng sản xuất 1,3 -2,5 triệu tấn dầu mỗi năm, và sẽ khởi công xây nhà máy lọc dầu gần Adrar. TQ cũng có sự hiện diện đáng kể ở Libya, lắp đặt một đường ống dẫn dầu và hơi đốt dài 500 cây số. Ngoài ra, từ lâu TQ đã có nhiều trao đổi , đầu tư và quyền lợi quan trọng về dầu khí, cả về bán vũ khí cho Saudi Arabia, và trên hết, với Iran.
Âu châu và Hồi giáo, cả hai đều được người TQ hiểu như những thành tố của thế giới địa lý và tôn giáo của văn minh Tây phương, vì vậy, Bắc Phi và Trung Đông là những phân bộ trong quỷ đạo chiến lược của Âu châu. Tuy nhiên, hậu quả đặc trưng của tình trạng nầy là gì thì chưa rõ ràng. Có lẽ, như một quan sát viên ở Singapore đã nói thẳng thắn: 'Hồi giáo là một vấn đề của Âu-Mỹ'. Tuy nhiên, một cái nhìn như vậy hình như đã quên bẳng không những kinh nghiệm của Ấn Độ mà cả kinh nghiệm dài lâu và cực kỳ quan trọng của TQ về thiểu số Hồi giáo, chưa nói gì đến Malaysia và Indonesia - những kinh nghiệm rõ ràng vô cùng quan trọng đối với quyền lợi của TQ.
Sự kiện TQ sẵn sàng tin tưởng Tây phương đang thay đổi có lẽ đã được chứng minh một cách rõ ràng nhất qua quan hệ với Nam Mỹ. So với Phi châu, quan hệ nầy sâu xa hơn rất nhiều, mặc dù châu Mỹ La Tinh rõ rệt là gần gũi với văn hóa Âu châu hơn hẵn Phi châu sub-Sahara. Gần 50% FDI của TQ tập trung ở Nam MỸ và nhiều người tiên liệu thương mãi hai chiều sẽ đạt 100 tỉ trong vòng 5 năm tới. TQ cũng hoan nghênh ảnh hưởng gia tăng của Á châu ở Nam Mỹ nói chung ( chẳng hạn, tháng 9-2007, Nhật đã ký một thỏa ước đối tác kinh tế chiến lược và thương mãi tự do với Chile, thỏa ước đầu tiên loại nầy trong vùng, trong khi Brazil là xứ thứ 11 cho đầu tư trực tiếp của Nhật), như một 'báo hiệu cho những gì sẽ xẩy ra trong trường kỳ, ngay cả ở Bắc Mỹ' với 'những hậu quả địa chính trị vô cùng quan trọng'.
Điều TQ quan tâm hơn cả là sự hội nhập và liên kết chặt chẻ của Á châu, nhất là Đông Á. Vài người xem đây là cách giải quyết chính sách bao vây họ cảm nhận qua quan hệ ngày một gần gủi hơn giữa Nhật và Ấn Độ. Một số khác giải thích theo chiều hướng ý thức hệ, như một sự thức tỉnh của tinh thần liên đới Á châu.Theo Wu Jianmin, viện trưởng Viện Đại Học Ngoại Giao Trung Quốc, quan hệ Hoa-Nhật cần được un đúc trong tinh thần 2.000 năm lịch sử giao thương giữa hai nước. Suốt thời gian đó, bang giao giữa hai quốc gia xét chung khá tốt. TQ nên đi theo dòng suối hòa bình với Nhật. Khi làm như vậy, gương thành công lớn lao của EU - đã làm cho chiến tranh ở Âu châu không thể xẩy ra, đặc biệt là giữa Pháp và Đức - được xem như rất đáng noi theo.Theo một chuyên gia khác, sự chấm dứt chiến tranh lạnh ở Âu châu, và sự tái thống nhất của Đức cũng là những kinh nghiệm điển hình khác cho bán đảo Triều Tiên, và quan hệ của Triều Tiên với TQ và Nhật. Như vậy, kinh nghiệm dùng hội nhập kinh tế như một phương tiện giải quyết những thù nghịch chính trị và bất ổn là một nguồn cảm hứng để theo đuổi một sự hợp tác chặt chẻ hơn giữa TQ và Nhật Bản, cũng như ý tưởng hội nhập lớn lao hơn cho phần còn lại của Á châu.
8. Sự bánh trướng của EU
Chính vì lý do nêu trên, các chuyên gia TQ rất quan tâm đến cơ chế mở rộng EU. Một số xem đây như lợi thế chính trị và kinh tế lớn nhất của EU đối với Hoa Kỳ. Họ còn thấy con đường mở rộng Âu châu hơn nữa là yếu tố quyết định cho qui chế tương lai như một thực thể hùng cường có ảnh hưởng toàn cầu. Tuy nhiên, một số khác lúc đầu lại băn khoăn trước sự gia nhập của các quốc gia cộng sản Đông Âu trước đây (bởi lẽ điều nầy phương hại đến nhận thức của họ về EU như một câu lạc bộ của các nước giàu). Mặc dù ngại ngùng còn dai dẳng, hiện nay, ngày một nhiều người hơn công nhận diễn tiến mở rộng là một thành công và viễn ành quá trình mở rộng tiếp tục là một biểu lộ tiềm lực lớn lao của Âu châu. Vài chuyên gia còn hăm hở trước triễn vọng gia nhập EU của Thổ Nhi Kỳ, xem đó như một diễn tiến tự nhiên. Một số khác lại nhấn mạnh có lẽ TQ còn hiểu rõ hơn Âu châu: 'Thổ Nhị Kỳ không chỉ là một cầu nối với Trung Đông mà cả với Trung Á'. Cùng một cảm nghĩ và mong mỏi cũng được bày tỏ về mối quan hệ gần gũi hơn của Âu châu với các xứ trong vùng Maghreb, Tây Bắc Phi châu, và có lẽ với nhiều xứ khác ở Trung Đông. Một nhà quan sát TQ còn muốn EU nên cố gắng nhiều hơn để giao hảo với cả Israel song song với các xứ Hồi giáo, để cân bằng ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là liệu EU rồi ra có mở rộng đến tất cả các xứ Đông Âu, Belarus và Ukraine và, lâm thời, có lẽ cả Liên Bang Nga?
Như vậy, phải chăng TQ xem Nga như Âu châu? Nga luôn là đối tác truyền thống của TQ, xứ cung cấp vũ khí và năng lượng quan trọng hơn cả. Nga đã cung cấp 80% vũ khí nhập khẩu của TQ và là nước cung cấp dầu lớn thứ năm trong năm 2006. Trong năm 2005, TQ và Nga đã có cuộc tập trận chung lớn đầu tiên kể từ khi Mao Trạch Đông cắt đứt quan hệ với Liên Bang Xô Viết. Nhiều người nghĩ,'trong mắt người Nga, mối lợi bán vũ khí cho TQ chưa chắc đã tương xứng với nỗi lo âu về quyền kiểm soát Siberia trong tương lai - mối lo âu ngày một gia tăng với sự hiện diện ngày một đông đảo người Hoa trên lãnh thổ Nga, nhất là Vladivostok, Khabarovsk, Irkutsk, và ngay cả Moscow. Phía TQ cũng có nhiều e ngại. Mặc dù có nhiều thỏa ước quan trọng với Nga trong những năm gần đây, chẳng hạn thỏa ước năm 2006 thiết lập một đường ống dẫn 80 tỉ thước khối hơi đốt mỗi năm nội trong 5 năm, Bắc Kinh cũng khá dè dặt khi lệ thuộc quá nhiều vào số năng lượng do Nga cung cấp. Quan hệ của TQ đối với Nga liên kết chặt chẻ với quan hệ với Trung Á . TQ rất tin tưởng sự liên kết nầy trong Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation Organization - SCO). Tuy nhiên, như một bình luận gia Âu châu nhận xét, từ khi thành lập vào năm 2001, SCO đã phát triển được rất ít sự hợp tác tăng cường nầy.
Vài chuyên gia TQ hình như tin nền kinh tế Liên Bang Nga vẫn ở trong tình rạng mất thăng bằng, lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất năng lượng và rất dễ tổn thương trước những hậu quả bất lợi của một dân số sụt giảm. Giới thức giả Nga cũng bị đánh giá là bất cập trước những thách thức hồi sinh của một quốc gia vĩ đại. Những nhược điểm nầy, mặc dù gây nghi ngờ về khả năng duy trì địa vị một đại cường, vẫn chưa phải là chỉ dấu cho thấy trong tương lai Nga sẽ hướng nhiều hơn về Tây phương hay Đông phương. Các chuyên gia thường trú ở Bắc Kinh nghiêng về giả thuyết của TQ - Nga là Âu châu. Điều nầy có nghĩa là sau Ukraine, Nga rất có thể trở thành một đối tác thân cận , ngay cả một thành viên của EU. Đã hẵn, một khi Nga gia nhập EU, nếu điều đó thực sự xẩy ra, đó sẽ là một thành tựu lớn và tích cực của Âu châu. Tuy nhiên, các nhà quan sát thường trú ở Thượng Hải, có lẽ chú tâm về kinh tế nhiều hơn là xu hướng chính trị hay văn hóa, tin tưởng Nga đã thất bại như là một quốc gia dân chủ kiểu Tây phương. Mặc dù Nga có thể tự xem là Âu châu hay chưa có quyết định, Nga chắc chắn đang chuyển dịch về hướng Á châu.
9. Triển vọng của EU
Nhu cầu một viễn kiến chiến lược mạch lạc cho Âu châu
Những phân tích trên đây hình như chỉ đưa đến một nhận thức chính trị thiếu mạch lạc về Âu châu, một nhận định cùng lúc rất bi quan và cũng rất lạc quan. Nói chung, các chiến lược gia TQ cảm nhận một Âu châu thống nhất hơn có thể thích ứng dễ dàng vào quan niệm một thế giới hài hòa của TQ. Mặc dù duy trì những quan hệ song phương với từng nước thành viên riêng lẻ có nhiều điều lợi, nhiều người TQ vẫn nghĩ cuối cùng họ thà giao hảo với một Âu châu thống nhất, một Âu châu có chung một tiếng nói. Một số đồng ý với các bình luận gia Âu châu, theo đó, nếu Âu châu không muốn bị lép vế bởi Hoa Kỳ trong những giao dịch với TQ, Âu châu phải đủ sức thay đổi đường lối đơn thuần kỷ thuật để bao trùm cả khía cạnh chính trị , nhưng điều nầy chỉ thực hiện được khi khai triển được một tiếng nói chung về chính sách ngoại giao mạnh mẻ hơn cho Âu châu. Nói chung, thỏa ước cải cách định chế mới là một bước tiến đáng kể theo chiều hướng nầy. Với sự giải quyết các vấn đề thủ tục gặp phải trong quá trình mở rộng Liên Hiệp, điều đó sẽ cho phép Liên Hiệp điều hành nội bộ một cách hiệu quả hơn. Thỏa ước dự liệu nhiệm kỳ chủ tịch EU là hai năm rưởi, tối đa hai nhiệm kỳ, và một quan chức đại diện chính sách ngoại giao cao cấp với quyền hạn gia tăng, sẽ đem lại cho Âu châu thêm một cơ chế quan trọng cần thiết trong lãnh vực đối ngoại.
Quốc phòng, đồng Euro, và mở rộng Liên Hiệp
Ba địa hạt chính sách đặc biệt sau đây sẽ quyết định uy tín của EU trong những năm tới:
(1) Tiến bộ trong việc hình thành chính sách an ninh và ngoại giao chung cho Âu châu. TQ sẽ đặc biệt quan tâm đến chiều hướng biến chuyển thuận lợi cho Âu châu trong cán cân quyền lực giữa người Âu và người Mỹ bên trong NATO , với một thành tố Âu châu hùng mạnh hơn, và vai trò những định chế EU trong việc hoạch định và thi hành một chính sách thống nhất và mạch lạc về ngoại giao và an ninh chung . Điều nầy đòi hỏi trước hết những quan hệ chặt chẻ hơn giữa Anh quốc và Pháp.
(2) Tiến bộ của đồng Euro như một phương tiện dự trử toàn cầu ( nhiều chuyên gia xem đây như là một tiến bộ chính trị cũng như kinh tế).
(3) Nhịp độ và kích thước mở rộng Liên Hiệp. TQ mong muốn được thấy tiến trình mở rộng sẽ diễn tiến theo chiều hướng gia tăng thay vì giảm bớt trình độ kết hợp nội bộ và mục tiêu đối ngoại mạch lạc và rõ ràng. Trong trung hạn, một xứ đặc biệt quan trọng là Ukraine, như một bước tiến tới một quan hệ EU-Nga chặt chẻ hơn.
Tưởng cũng cần nhắc lại là nhiều nhà quan sát TQ vẫn nghi ngờ EU có đủ khả năng vượt qua các nhược điểm vừa nói. Âu châu rất chia rẽ và đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn chuyển tiếp. Tuy nhiên, nhiều người tin với thời gian, những khó khăn nầy có thể được khắc phục. Vì vậy, mặc dù không ai có thể tiên đoán thời gian chuyển tiếp sẽ kéo dài bao lâu, nhưng cuối cùng, tương lai của Âu châu vẫn luôn sáng sủa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ VĂN HÓA ÂU CHÂU 1. Tha hóa hay Di thất văn hóa (Cultural estrangement)
Một sự kiện rõ ràng là mặc dù rất quí mến người Âu, người Hoa từ lâu đã tích lũy một số cảm nghĩ khó chịu mang tính lịch sử - một di thất hay tha hóa văn hóa nhuốm màu sắc nghi ngờ. Cảm nghĩ khó chịu nầy đôi khi được bộc lộ dưới hình thức giận dữ trước sự đưa tin của các cơ quan truyền thông Âu châu về một số vấn đề như nhân quyền, sản phẩm nhái, tình báo kỹ nghệ, hay ô nhiễm môi trường . Họ tin, đối với các cơ quan truyền thông Âu châu, 'TQ chẳng bao giờ làm được điều gì đúng'.Người Hoa đặc biệt có cảm nhận các nhà bình luận Âu châu về TQ 'thường không mấy quan tâm đến văn hóa hoặc lịch sử TQ' và 'càng ít quan tâm hơn đến những khía cạnh phức tạp và mâu thuẩn trong quá trình phát triển của TQ hiện nay'. Như một chuyên gia đối ngoại TQ đã nói, 'thái độ cao ngạo đó được xem như quá tầm thường và nhàm chán'. Ngược lại, người ta rất ưa thích những nổ lực của Âu châu giao lưu với văn hóa TQ đương đại, như 'Năm Trung Quốc' ở Pháp vào các năm 2003-04, tiếp theo đó là những chương trình tương tự ở Ý năm 2006 và Liên Bang Nga năm 2007. Như Kerry Brown, một chuyên gia Âu châu về TQ, đã gợi ý, 'một Năm Âu châu ở Trung Quốc cũng cần được cổ súy'.
Mặc dù những sáng kiến vừa nói trong từng quốc gia là đáng trân quí, nhiều người TQ nghĩ 'có nhiều địa hạt và cơ hội để hợp tác chân thành giữa EU và TQ trong lãnh vực văn hóa'. Như một sử gia TQ đã phát biểu:' Chúng tôi cảm thấy phần lớn sự ngộ nhận hiện nay giữa chúng ta và người Âu bắt nguồn từ chỗ Âu Châu gặp khó khăn nắm bắt tầm cở những gì chúng ta đang làm để hiện đại hóa đất nước, và từ đó, tầm cở những trở lực chúng ta phải vượt qua. Điều nầy hình như không phải là một vấn đề đối với người Mỹ'. Nếu người Âu hiểu được 'tầm cở dự án to lớn hội nhập toàn lục địa của họ', nếu họ dấn thân nhiều hơn vào dự án của họ ở cấp quần chúng, ngay cả ở cấp thức giã, 'họ sẽ có thể thấu hiểu được nhiều hơn về TQ'. Trong hiện tình, nhiều người nghĩ sự ngộ nhận được hiểu đang làm cho Tây phương - và một lần nữa, đặc biệt là Âu châu - e ngại sự trổi dậy của TQ'. Và sợ hải không phải là 'một cơ sở tốt cho giao lưu văn hóa rộng sâu hơn'.
2. Trung Quốc và Liên Hiệp Âu châu: âm và dương của văn minh thế giới
Cơ sở của cái gọi là Weltanschauung 'luỡng cực' của TQ là ý niệm có hai thành tố căn bản của văn minh nhân loại, thành tố Đông phương do TQ đại diện và thành tố Tây phương do văn hóa Âu châu đại diện. Cả hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Toàn cầu hóa đã đưa đến giao lưu văn hóa, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng ý nghĩa của dị biệt văn hóa.Theo một nhà quan sát TQ, hậu quả văn hóa chính của sự trổi dậy cuả TQ là phá vở huyền thoại (myth) của cái gọi là "chung điểm của lịch sử"(end of history) như là một 'trường phái chủ thắng nông cạn của Tây phương' (superficial Western triumphalism). Trong mọi trường hợp, nhiều người Hoa tin, kể từ ngày kỷ nguyên thuộc địa cáo chung, đa số người Âu, trái với một số người Mỹ, đã từ bỏ sự bất bình thường nầy. Họ xem EU, một phần, đã được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ sự đa dạng văn hóa và là một phản ứng chống lại quá khứ đế quốc của Âu châu, một quá khứ chỉ đưa đến thảm họa, ngay chính bên trong châu Âu.
Nét đặc trưng của văn minh Âu châu được nhận diện qua cội nguồn tôn giáo của nó . Người Âu đánh giá thay đổi (tiến bộ) cao hơn là ổn định, bởi lẽ họ tin tưởng ở ý nghĩa thiêng liêng mang tính định mệnh của lịch sử (a divinely determined meaning to history). Điều nầy trái ngược với người Hoa luôn trân trọng giá trị của ổn định (hài hòa) hơn là thay đổi. Nền tảng của văn minh TQ là ở triết lý. Văn hóa Âu châu hiện có chiều hướng bớt tin vào 'thay đổi' và đánh giá 'ổn định' cao hơn - điều nầy khá nguy hiểm, bởi lẽ, mặc dù Âu châu ngày nay về hình thức là thế tục, các giá trị vốn bắt nguồn từ tôn giáo có thể tái khẳng định, như trường hợp quan tâm của Âu châu đến khoa học hiện đang sụt giảm. Trái lại, TQ có thể trở nên quá thiết tha với thay đổi , và lơ là với ổn định - đây cũng là điều khá nguy hiểm, vì thiếu những giá trị vốn bắt nguồn từ triết lý, những giá trị có thể tự tái khẳng định và bào mòn tính nhất trí của xã hội. Như vậy, cả hai nền văn minh cần trở về cội nguồn nhiều hơn. Nói một cách khác, Âu châu và TQ cần giao lưu trao đổi văn hóa nhiều hơn. Được vậy, người Âu có thể thấu hiểu những ý niệm của người Hoa phân biệt rạch ròi giữa ổn định đơn thuần với hài hòa; và người Hoa cũng có thể hiểu rõ những ý niệm của người Âu phân biệt giữa thay đổi đơn thuần với tiến bộ.
3. Giao lưu văn hóa giữa Âu châu và Trung Quốc
Về phía TQ, phương tiện chuyển tải sự khả dĩ hiểu biết lẫn nhau là phát huy tư tưởng của nhà triết học quốc gia lỗi lạc người Hoa - Khổng Phu Tử. Sau khi tố cáo cuộc Cách Mạng Văn Hóa trong thập kỷ 1960s, học thuyết Khổng Tử (Confusianism) đã dần dà hồi phục được địa vị một cách bình lặng và hiện được xem như một học thuyết triết lý quốc gia. Vào ngày 28-9-2007, sinh nhật thứ 2557 của Khổng Tử đã được chính thức cử hành lần đầu tiên kể từ ngày đảng Cộng Sản lên cầm quyền. Riêng buổi lễ tại Qufu, nơi sinh của ngài, đã được cử hành một cách trang trọng với sự hiện diện của các hậu duệ của chính vị sư tổ. Sự kiện nầy bắt nguồn từ việc chính quyền ngày một âu lo TQ đương đại cần một ý niệm mới để phát huy các giá trị căn bản chung và đem lại sự đoàn kết quốc nội kể từ ngày chủ nghĩa Maoism tan loảng thành Chủ Nghĩa Xã Hội với Những Nét Đặc Thù của TQ (Socialism with Chinese Characteristics). TQ vô cùng hãnh diện với lịch sử thống nhất dài lâu độc nhất vô nhị của mình. Nhưng sự đa dạng của TQ cũng rất đáng chú ý và ngày nay, trong nhiều phương diện, với sự cách biệt giàu nghèo ngày một gia tăng và ảnh hưởng của công cuộc hiện đại hóa giữa các vùng, còn lớn hơn cả EU.Thật là một điều đáng ngạc nhiên khi các chuyên gia TQ luôn dò hỏi: 'ý niệm đoàn kết của Âu châu là cái gì? Phải chăng đó là giấc mơ của các nhà lập Liên Hiệp Âu Châu - EU?'.
Người TQ đã khai triển một mạng lưới các Viện Khổng Học (Confucius Institưtes), bắt đầu ở bên trong TQ, và từ năm 2004, ở hải ngoại. Nguồn hứng khởi cho sáng kiến nầy đến từ sự quan sát các phong trào tương tự ở Anh quốc, Pháp và Đức, với tới nhiều quốc gia trên khắp thế giới - như British Council, Alliance Francaise, Goethe-Institut. Cho đến năm 2007, tất cả có đến 190 Viện Khổng Học đã mở cửa trên thế giới , kể cả 10 ở Anh và 5 ở Pháp. TQ dự định thành lập trên 1.000 Viện như thế vào năm 2020. Vài nhà bình luận tin những viện như thế được xem như một phương tiện để nâng cao 'thế lực mềm' văn hóa TQ trên thế giới. Người TQ rất quan tâm đến việc tìm kiếm những phương cách tốt hơn , chẳng hạn, để phổ biến phim ảnh, sách báo ,nhất là ở Âu châu, và khuyến khích nhiều du khách Âu châu đến thăm viếng xứ sở của họ. Trong những năm gần đây, TQ chỉ xuất khẩu một số lượng hạn chế phim ảnh , trong khi sách báo chỉ vào khoảng chưa đến 1% con số của Hoa Kỳ và Âu châu vào năm 2004. Ngược lại, theo Tổ Chức Du Lịch Thế Giới, TQ sẽ trở thành điểm đến lớn thứ hai của thế giới vào năm 2010, trên cả Tây Ban Nha, và thứ nhất vào năm 2020, nếu không sớm hơn, vượt qua Pháp. Cũng như các tổ chức tương tự của Âu châu, ngày nay, vai trò chính của các Viện Khổng Học bên ngoài TQ là dạy tiếng Hoa. (Chính vì điểm nhấn nầy, các quốc gia Âu châu đã không thể phối hợp những hoạt động văn hóa của họ một cách chặt chẻ ở TQ). Tuy nhiên, theo các nhà bình luận TQ và Âu châu, các mạng lưới đại diện văn hóa nầy có thể tạo thành hạ tầng cơ sở cho một sự tương tác sâu xa hơn giữa TQ và EU.
Một phương cách để làm được việc nầy có thể là đi theo gương của Trường Thương Mãi Quốc Tế TQ-Âu châu ở Thượng Hải (được thành lập năm 2004 và tài trợ bởi Ủy Hội Âu châu và chính quyền TQ). Tháng 1-2007, hai bên đã đồng ý thành lập thêm Trường Luật Khoa Âu châu-TQ (với 23,5 triệu tài trợ từ EU). Một phương cách khác là nới rộng sáng kiến gần đây (9-2007) của Charles de Gaulle Foundation, bảo trợ những quan hệ văn hóa giữa những nhà lãnh đạo trẻ Pháp-Hoa thành một sự giao lưu cho toàn khối EU. Phần lớn các nhà nghiên cứu TQ đều đồng ý, địa hạt quan trọng nhất cho sự hợp tác Âu châu-TQ là nhu cầu bảo vệ sự đa dạng văn hóa trong một thế giới toàn cầu hóa. Một nhu cầu khác là trao đổi văn hóa rộng lớn hơn. Jean-Pierre Raffarin, nguyên thủ tướng Pháp, đề nghị EU nên thiết lập một Chương Trình Khổng Học với TQ, theo mẩu Chương Trình Eramus, nhằm bảo trợ những quan hệ trong giới đại học trong toàn bộ Âu châu.
4. Trung Quốc đánh giá cao văn hóa Âu châu
Mặc dù phần lớn được đại diện bởi người Anh, người Pháp và người Đức, Âu châu có một ảnh hưởng văn hóa sâu rộng, chí ít là trong giới kinh doanh thượng lưu TQ. Các tỉ phú TQ xây những biệt thự theo kiểu Điện Versailles. Giai cấp trung lưu mới bị ám ảnh bởi những sản phẩm xa hoa Âu châu và đi nghỉ thư giản ở Âu châu. Như một nhà quan sát TQ nhận định, người Hoa gần gũi với ý tưởng về lối sống Âu châu hơn là lối sống Mỹ. Tuy nhiên, vì những lý do thực tế, năm 2005 Hoa Kỳ đã là nơi được các sinh viên TQ lựa chọn đến du học. Số sinh viên TQ du học ở Âu châu trong thực tế đã sụt giảm. Các nhà bình luận TQ thường hay tỏ ý mong muốn Âu châu cải tiến chế độ phân chia số hộ chiếu giữa các xứ thành viên để xử lý song phương. Họ đặc biệt thích mở rộng khu vực các thỏa ước Schengen (ký kết năm 1985 và 1990 tại Schengen, Luxembourg). Nếu khu vực nầy bao gốm cả Anh quốc, đó sẽ là một cải tổ mang tính rất tích cực đối với sinh viên, nhân công, và du khách TQ.
Đã hẵn vẫn còn rất nhiều nghi vấn về chiều rộng cũng như chiều sâu của mối giao lưu văn hóa thực sự của TQ với Âu châu. Chẳng hạn, khi được hỏi họ ước mơ gì cho tương lai xứ sở của họ, nhiều người Hoa rất sẵn sàng cho biết họ muốn có dân chủ hơn. Nhưng khi đi sâu vào vấn đề, ước mơ đó khác xa với các quan niệm của người Âu về chính quyền đại diện và phổ thông đầu phiếu, cũng như pháp trị. Nếu những phương tiện để thành đạt ước mơ thường bị hiểu lầm, thì ngược lại, cứu cánh - lối sống Âu châu - họ lại nhận thức rõ ràng và ưa thích. Như một vị thức giả ở Bắc Kinh giải thích: 'Mô hình Âu châu với chúng tôi là mô hình công bằng xã hội và sự quân bình giữa chất lượng môi trường và hiệu quả kinh tế. Mô hình nầy khác với Hoa Kỳ và gần gủi với lý tưởng của chúng tôi vế một trật tự hài hòa'. Điều nầy cho thấy lịch sử về các nhận thức văn hóa hình như đã hoàn tất một tiến trình vòng tròn. Trước đây một số người Âu hâm mộ TQ, như Ruggieri, Leibniz, Montesquieu và Voltaire, tin họ tìm thấy nhiều giá trị và nguyên tắc của TQ rất gần với lý tưởng của họ hơn là ngay ở Âu châu. Ngày nay, các trí thức TQ hình như đang khen đáp lễ. Liệu điều nầy có đem lại cho người Hoa những kết quả chất lượng như Âu châu trước đây, chúng ta phải chờ xem.
5. Những nền văn minh lớn bị thương tổn nhưng không bao giờ mai một
Chẳng bao lâu sự khâm phục và hâm mộ của người Âu đối với TQ vào thế kỷ 18 đã phải nhường chỗ cho sự khinh thường hay thương hại vào thế kỷ 19. Nhiều người TQ ngày nay tự hỏi Âu châu đương đại phải chăng 'là một lâu đài của lịch sử hay của tương lai'. Với họ, Âu châu tỏ ra thụ động, hướng nội, thoái hóa,và mệt mỏi, còn quá trù phú để mạo hiểm, quá êm ấm để chấp nhận đổi thay, một lục địa đã đánh mất tham vọng và vị trí của mình trên thế giới'. Hay như một nhà phân tích chính sách ngoại giao đã nhận xét: 'Thật đáng buồn khi thấy Âu châu gặp khó khăn vì chia rẽ nội bộ. Chỉ ở cấp EU, các quốc gia thành viên mới có thể có ảnh hưởng và một chỗ đứng trong trật tự thế giới tương lai, cả về mặt kinh tế lẫn địa chính trị, và có đủ sức mạnh cần thiết để trở thành một đối tác chiến lược với TQ'. Nhiều nhà bình luận TQ cảm thấy Âu châu đang đối diện với một nhu cầu khẩn thiết phải hồi sinh, một quá trình đòi hỏi phải tự tái khẳng định bản sắc của mình trong đó di sản và giá trị cơ đốc kế thừa từ Thời Đại Khai Sáng là một thành tố quan trọng'. Xét cho cùng, 'đó chính là chất keo văn hóa của Âu châu , một yếu tố quyết định khả năng duy trì uy thế một đại cường trên thế giới'.
Những cảm nghĩ đó cũng không mấy khác sự thẩm định bi quan, hay thực tế, của các nhà quan sát ngoài Âu châu về EU và Âu châu như một tập thể. Đó cũng là thẫm định thường gặp ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật, châu Mỹ La Tinh và Đông Nam Á. Nhưng chỉ có nhận định của TQ là đặc biệt và độc nhất về phương diện sau: ngay cả nếu Âu châu, trong đoản kỳ hay trung hạn, không thành đạt được một sự đoàn kết chặt chẻ hơn và một tham vọng thiết yếu cho một đại cường trên thế giới, 'điều đó cũng chưa phải là chung cuộc'. Chính TQ trước đây cũng trong cùng tình cảnh: Một nền văn minh lớn, đã một lần bị mờ nhạt, nhưng bây giờ 'đã tìm lại được sức mạnh bẩm sinh của mình', bừng dậy một lần nữa 'lên đúng vị trí nổi trội tự nhiên của mình'. Âu châu là nền văn minh duy nhất TQ công nhận có thể sánh vai với chính mình. Đến một thời điểm nào đó, sự kiện nầy sẽ trở thành quyết định trong sinh hoạt của thế giới.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:46:55 GMT 9
Appendix 1. EU-25-China trade Year Exports(billion) % change Imports (billion) % of change EU-25 Trade deficit with China(billion) 2002 34.9 89.6 -54.7 2003 41.2 18 105.4 18 -64.2 2004 48.2 17 127.5 21 -79.3 2005 51.6 7 158.5 24 -106.9 2006 63.5 23 191.8 21 -128.3 Source: Eurostat ( September 2007) 2. Mainland China’s imports with major trading partners Largest trading Partners 2006 (billion $) % growth % of total 2006 Japan 115.7 15 15 EU(then 25) 90.3 23 11 Korea 89.8 17 11 Asean10 89.5 19 11 Taiwan 87.1 17 11 USA 59.2 22 7 Latin America 34.2 28 4 Africa 28.8 37 4 Hong Kong 10.8 -12 1 Source: Customs General Administration of the People’s Republic of China (December 2006) 3. Mainland China’s exports with major trading partners Largest trading Partners 2006(billion $) % growth % of total 2006 USA 203.5 25 21 EU(then 25) 182.0 27 19 Hong Kong 155.4 25 16 Japan 91.6 9 9 Asean10 71.3 29 7 Korea 44.5 27 5 Latin America 36.0 52 4 Africa 26.7 43 3 Taiwan 20.7 25 2 © GS Nguyễn Trường Irvine, CA, USA 25-9-2008 ----------------------------------------------------------- Chú thích: Karine Lisbonne-de Vergeron tốt nghiệp Đại Học London School of Economics, HEC-Paris và Bocconi University Milan, chuyên về quan hệ quốc tế và chính trị Âu châu, nhất là khía cạnh bản sắc văn hóa. Phúc trình nầy là kết quả một công trình nghiên cứu từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2007 sau 22 cuộc phỏng vấn, mỗi lần dài 2 giờ, ở Trung Quốc, phần lớn với các nhà làm chính sách, các học giả và các vị lănh đạo doanh nghiệp. Phúc trình đồng thời được xuất bản Ở Anh, năm 2007, bằng Anh ngữ, bởi Royal Institưte of International Affairs Chatham House, 10 St James's Square, London SW1Y4LE; và ở Pháp, năm 2007, bằng Pháp ngữ, bởi Fondation Robert Schuman, 29, boulevard Raspail - 75007 Paris, France. NOTES 1 Hubert Védrine, Rapport pour le président de la République sur la France et la mondialisation, Fayard, October 2007. 2 According to the International Monetary Fund, October 2007 forecast. It is expected that its GDP growth will slow between 10.5% and 10% in 2008. 3 Measured at purchasing power parity, according to the Economist Intelligence Unit. Other experts estimate that China will have increased its current GDP by three times by 2025, and will become second then behind the United States. (Le Monde en 2025, directed by Nicole Gnesotto and Giovanni Grevi, Robert Laffont, October 2007.) 1 Chinese economic views of Europe 1 According to Chinese estimates (Customs General Administration of the People’s Republic of China, Mainland China, Statistics with the World), from January to September 2004, bilateral trade amounted to $128 billion, above the $122 billion for China’s trade with the United States over the same period. 2 Eurostat.http://ec.europa.eu/trade/issues/bilateral/countries/china/index_en.htm. Chinese statistics are consistently lower than US and European sources on account of the exclusions of re-exports through Hong Kong. 3 The GSP scheme allows the EU to grant autonomous trade preferences to imports from a list of beneficiary developing countries. 4 The European Commission’s delegation in China, trade statistics. www.delchn.cec.eu.int/en/. 5 Xinhua.net, 10 January 2007. 6 The European Union Chamber of Commerce in China, China’s Position Paper 2007-2008, October 2007. 7 Eurostat, EU-25 Foreign Direct Investment in Brazil, Russia, India, and China, No. 111-2007, 13 September 2007. 8 Statistics from Invest in China, www.fdi.gov.cn/. 9 French economic mission in China, Les investissements chinois en France et en Europe, 18 October 2006. 10 According to Chinese statistics (Customs General Administration of the People’s Republic of China, Mainland China, Trade Statistics with the EU (then 25)). 11 Statistics from the German embassy in China. 12 Le Monde, 5 December 2005. 13 ‘EPR chinois: la commande finalisée prochainement’, Challenges, 20 September 2007. 14 Already, China is set to replace Germany as the third-largest national economy in the world by the end of 2007, having overtaken Britain as the fourth-largest in 2005. In the next 10-15 years or so, most analysts predict that it will surpass Japan to achieve second place and by 2020 will have matched the US and the EU, finally overtaking the United States a decade later on a purchasing power parity basis, when it will also have the largest technology sector in the world. 15 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’, Survival, IISS Quarterly, Vol. 49, No. 3, Autumn 2007, p. 203. 16 The US Congress has legislation pending penalizing China for its currency controls. 17 China is currently running both an external commercial and financial surplus. 18 Whilst China has accumulated in excess of $750 billion of FDI, important sectors still remain restricted, notably the limitations on investment in certain industries such as automotive telecoms, petrochemicals and energy, and finance. In the latter, foreign companies are limited to a 20% shareholding or up to 25% through an international consortium. Technical barriers are still placed in the way of foreign companies and there is an emerging trend towards unequal treatment by some Chinese regulatory bodies. (The European Union Chamber of Commerce in China, China’s Position Paper 2007-2008, October 2007.) 19 On 18 October 2007, the G7 called for the revaluation of the Chinese currency. 20 In speech delivered by Peter Mandelson, EU Commissioner for external trade, at the European Parliament in Strasbourg on 10 July 2007. 21 From January to May 2007, the EU deficit with China increased by nearly 53% (primarily due to a 138% increase to reach €61.1 billion. Eurostat, in External and Intra-European Union Trade, monthly update, Monthly statistics, Issue number 9/2007 and French economic mission in China in ‘Note de conjonctưre Chine’, Economic Review, August 2007. 22 Since 2002, it has depreciated by 30% against the euro, with a deprecion of 1.8% from January to August 2007. By contrast, it has steadily appreciated against the dollar since July 2005 by around 8.8%. 23 For example, a few experts wondered whether Peter Mandelson’s influence as Commissioner for external trade had diminished since the departưre of Tony Blair from the office of British Prime Minister. Or they would analyse the dispute between France and Germany over the monetary policy of the European Central Bank as the critical determinate of the euro/dollar exchange rate. 24 In 2006, China displaced Japan as the largest foreign exchange reserves in the world, estimated to $1.43 trillion in September 2007, a 5% growth from June 2007 (then estimated at $1.33 trillion). It is believed that over 70^ of these are held in US dollars, mostly in Treasury bonds. 25 While it is obvious that full convertibility of the renminbi would require further improvements in China’s banking sector, most European experts do not see this as being a prerequisite for a managed revaluation of 10% or 20%. There is even less sympathy for the other two arguments for inactivity, which the Chinese sometimes advance: that they resisted Western calls for a devaluation during the 1998-99 Asian financial crisis and were vindicated, and that the successful US campaign to force the revaluation of the yen in the 1970s led to the Japanese asset bubble of the 1990s. Neither case really bears comparison with China’s current circumstances. 26 Such predictions assume the disappearance certainly of sterling and probably also of the yen. 27 This follows a spectacular rise in Chinese strategic investments abroad – for example, in May 2007, $3 billion in the American private equity group Blackstone and in July 2007 a 3.1% in the British Barclays Group for €2.2 billion. 28 On 28 September 2007, Joaquín Almunia, the European Commissioner for economic and monetary affairs, indicated that sovereign wealth funds investment will be restricted in Europe unless they are more transparent. 29 How this squares with Chinese assessments of the modalities of a potential Asian currency union is unclear. 30 This would be ‘the modern geopolitical meaning for China of “the Middle Kingdom”’. 31 The Association of South East Asian Nations currently comprises Brunei, Cambodia, Vietnam, Thailand, Singapore, Philippines, Burma, Malaysia, Laos and Indonesia. 32 Given the scale of China’s requirements, some analysts expect these to be overtaken by joint energy projects. Important recent agreements include that signed during the Sino-Japanese Energy Forum held in April 2007 by Nippon Oil and China National Petroleum Corporation for joint oil and gas exploration production and supply both in China and overseas; and that between Japan’s Sumitomo Corporation and Kyushu Electric Power Corporation the China Datang Corporation to build and operate wind power generators in Inner Mongolia. 33 Garteh Price, China and India: Cooperation and Competition, Asia Programme Briefing Paper, Chatham House, May 2007. 34 See also Jaram Ramesh, Making Sense of Chindia, India Research Press 2005. 35 There is also the redevelopment of the old Stilwell Road connecting China and India through Burma, currently being restored as a highway to boost bilateral trade. China and also India, are expected to help rebuild the Burmese Section (Financial Times, 19 October 2007). 36 To date, the most considered proposal has come from the Asian Development Bank, which mooted an Asian Currency Unit (ACU) based on a weighted index of the currencies of ASEAN + 3 countries i.e. included Japan, South Korea and China. 37 ‘New attempt at East Asia financial cooperation’, People’s Daily, 6 February 2006. 38 ‘Asean deal with China paves way for free-trade zone’, The Times, 15 January 2007. 39 ‘New free-trade harbor area approved for trade with ASEAN’, China Daily, 11 October 2007. 40 French economic mission in China, in ‘Note de conjunctưre Chine’, Economic Review, August 2007. 41 In 2004, research and development amounted to 1.93% of the EU’s GDP against 2.59% for the United States. By contrast, 1.44% of the Chinese GDP is devoted to research amounting for nearly €20 billion in 2006, a sharp increase from respectively 1.31% of GDP in 2004 and 0.6% of GDP in 1996. China now ranks 5th worldwide among scientific publications, behind the United States (30.5%), Japan (8.9%), the United Kingdom (8.5%) and German (8.1%). It is also qualifying over 300,000 new engineers a year. By contrast, there were some 30,000 new engineers qualified in Britain and 28,000 in France in 2006. 42 According to Chinese statistics, in 1999, China already allocated 9% of its national crop research budget to biotechnologies (Shanghai Daily, 7 September 2007). 43 Investment in high technology has been reasserted in the wake of the 17th Congress of the National Communist Party of China in October 2007 as the key priority for China’s development with the concept of’a scientific view of development’ to be enshrined into the Chinese party’s constitưtion. 44 There is particular emphasis on the positive achievements of the French-Chinese Scientific House in Beijing created in 2001. 45 ‘Hungary: gateway to Europe for Chinese business’, China Daily, 3 September 2007. 46 ‘Chinese firm, Polish road’, China Daily, 12 September 2007. 47 As embodied in the traditional Chinese saying, ‘everybody is responsible for the rise or fall of the country’. 48 For example, the admission of the serious problem of corruption in the opening address of the Chinese president to the 17th Congress of the National Communist Party of China on 15 October 2007 (Le Monde, 16 October 2007). 49 Food Policy Report, Foresight 2020, International Food Policy Research Institưte, October 1999. 50 Sixteen out of the twenty most polluted cities in the world are Chinese. 51 World Bank, Statement on the ‘Cost of Pollution in China’ Report, 11 July 2007. www.worldbank.org/. 52 ‘China must come clean about its poisonous environment, Financial Times, 3 July 2007. 53 It is also expected that the urbanization rate will increase from 41% in 2007 to 57% by 2025 with an overall 824 million people living in the cities. 54 The 11th Five-Year Plan has set targets to reduce energy consumption and to meet 10% of China’s energy needs from renewable sources by 2010. It has also pledged to reduce total discharge of major pollutants by 10% by 2010. See Changing Climates: Interdependencies on Energy and Climate Security for China and Europe, Chatham House Report (November 2007). 55 The Chinese middle class will comprise some 300 million by 2011 (out of a total of 1.3 billion) and 520 million by 2025, according to McKinsey estimates, June 2006. www.mckinseyquarterly.com. Also some 35% of multinational companies’ senior management teams are made up of mainland-born executives. 56 One element of the 11th Five-Year Plan is to set out the need to achieve five balances: between rural and urban development, interior and coastal development, economic and social development, people and natưre, and domestic and international development. 57 European Commission, IP/06/1502, 31 October 2006, europa.eu/rapid/. 58 The retired population of China will rise from 7% in 2007 to 20% in 2025, with a dependency rate of 25 young people to 24 elderly by 2030, against respectively 26 and 13 in 2015. By contrast, by 2050, the EU will have lost 48 million people of working age and the over-65 population would have increased by 77%, when there will be approximately one inactive person for every two of working age against one inactive for every four in 2004. (Le Monde en 2025, directed by Nicole Gnesotto and Giovanni Grevi, Robert Laffont, October 2007.) 59 Projections by the United Nations. India will have overtaken China by 2030 with estimate of 1.59 billion in 2050. One of the principal reason for this has been China’s ‘one child policy’ which has also led a growing gender imbalance. A ‘bride shortage’ of some 30 million is expected within the next 15 years or so. 2 Chinese political views of Europe 1 European Commission, A Matưring Partnership – Shared Interests and Challenges in EU-China Relations, Brussels COM (2003) 533 final, 10 September 2003. 2 Joint Statement of the 8th EU-China Summit, Beijing, IP/05/478, 5 September 2005. ec.europa.eu/external_relations/. 3 Galileo has been developed jointly with the European Space Agency as an alternative Global Navigation Satellite System. Unlike the current American GPS, it will be administered and controlled by civilians. 4 Jean-Pierre Cabestan, in European Union-China Relations and the United States: Asian Perspective, Vol. 30, No. 4, 2006, p.15. 5 The Joint Dialogue on Human Rights has continued to be held regularly twice a year even though China has yet to ratify the International Covenant on Civil and Political Rights, which it signed in 1998. 6 Stephen Green, ‘China’s quest for Market Economy Statưs’, Briefing Note, Chatham House, May 2004. 7 For example, in August 2007 the US government requested the initiation of the WTO dispute settlement proceedings against China over deficiencies in the Chinese legal regime for protecting and enforcing copyright and over its barriers to trade in cultưral goods. 8 Jean-Pierre Cabestan, op. cit., p. 26. 9 It is worth noting that the latest EU position on the matter highlighted that ‘the EU has agreed to continue to work towards lifting the embargo’. Communication from the Commission to the Council, and the European Parliament, EU-China: Closer partners, growing responsibilities, COM(2006) 632 final, 24 October 2006. 10 The near-Zero Emissions Coal (nZEC) project has been developed around a threefold process beginning with a three-year feasibility stưdy, examining the viability of different technology options for the captưre of carbon dioxide emissions from power generation, leading towards a demonstration project between 2010 and 2015. Britain is leading the first phase of this project, with a £3.5 million funding. www.defra.gov.uk/environment/climatechange/internat/devcountry/china.htm. 11 ‘China admits Three Gorges dam danger’, Financial Times, 26 September 2007. 12 ‘Merkel presses China on climate change’, Reuters, 27 August 2007. On 9 September 2007, China signed, along with the United States and the members of the Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), the APEC leaders’ declaration on climate change, energy security and clean development (setting an ‘aspirational goal’ to increase energy efficiency by a quarter by 2030). 13 The ITER agreement signed on 26 November 2006, came into force on 24 October 2007. The agreement aims to show the feasibility of fusion as an energy source. The first session of the ITER Council is planned on 27 and 28 November 2007. ITER currently comprises seven members: the European Union, China, India, Japan, South Korea, the United States and Russia. 14 ‘China to play major role in ITER’, China Daily, 30 November 2006. 15 www.iter.org/newsline/issues/06-10-18/ITERnewsline.htm. 16 The European Commission recently proposed a regulation providing that the deployment phase of Galileo would be fully funded by the European Community acting on its own. The budgetary resources required for funding the last phases of development for the period running from 1 January 2007 to 31 December 2013 for Galileo have been set at €3.4 billion (European Commission, IP/07/1358, 19 September 2007.) 17 ‘China launches navigation satellite’, Financial Times, 4 February 2007. 18 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre, Fayard, October 2007. 19 NewScientistSpace, 3 February 2007. 20 Communication from the Commission to the Council and the European Parliament, 24 October 2006, op. cit. 21 Seventh Annual Report of the EU Code of Conduct on Arms Exports, Council of the European Union, December 2005. The currect EU Code of Conduct on Arms Exports (adopted in 1998) is based on the principle of sharing information with other member states when a country denies an export license to a company. 22 ‘Major step in military opening’, China Daily, 3 September 2007. 23 On 2 September 2007, China eventưally agreed to participate in the United Nations Military Transparency Mechanism and to consume providing data on trade in conventional weapons to the United Nations register on an annual basis, stopped since 1996. There is still concern, however, over the accuracy and transparency of China’s military statistics. According to US estimates and the International Institưte for Strategic Stưdies, China’s annual military spending in 2006 was between $80 billion and $122 billion, an increase of up to 18.4% over the previous year (in Military Balance 2007, January 2007). 24 The recent Chinese documentary broadcast twice in winter 2006 on the Chinese CCTV, ‘The Rise of Great Nations’, emphasized how historically Japan, the United States and European countries, in particular Britain, became dominant by sea power. 25 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre, op. cit. 26 China Daily, 29 September 2007. On 19 September 2007, the Chinese Navy held a similar exercise with the Spanish navy in the Atlantic. 27 ‘Coming over the horizon’, The Economist, 6 January 2007. 28 The EU is currently Africa’s largest trading partner, with trade totaling more than €200 billion in 2006. China ranked third the same year, with trade amounting to €43 billion. However, China’s share is growing over three times faster than that of Europe. 29 Recently, China granted a $5 billion loan to the Democratic Republic of Congo to develop its infrastructưre network. 30 ‘L’heure de la Chine’, Le Monde, 2 October 2007. 31 For example, on 24 April 2007, the attack of the Ogaden National Liberation Front in Ehtiopia’s Somali region at an oil field in Abole, in which nine Chinese oil workers from China petroleum and Chemical Corporation were killed. 32 China recently granted a $200 million loan to the Sudanese government for compensation payment to the Darfur region. 33 There is, however, deep skepticism by European observers about such an exposition. 34 Pang Zhongying, ‘On Sino-European strategic partnership’, International Review, Shanghai Institưte for International Stưdies, Vol. 46, Spring 2007. 35 Though it is felt that the European position on Taiwan is very similar to that of the United States. While recognizing the ‘One China Policy’’, the EU has taken ‘a significant stake in the maintenance of peace and stability’. (Communication from the Commission to the Council and the European Parliament, 24 October 2006, op. cit.) 36 Though this Chinese commentator added: ‘We Chinese have a great respect for the power of ideas.’ 37 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’, Survival, op. cit. 38 Information report No. 400, Central Asia, Foreign Affairs Committee of the French Senate, 15 June 2006. www.senat.fr/noticerap/2005/r05-400-notice.html. 39 Marcin Zaborowski, ‘US-China relations running on two tracks’, in Facing China’s Rise: Guidelines for an EU Strategy, Chaillot Paper No. 94, December 2006. 40 This has led some Western observers to question the reliability of China in addressing the problem of terrorism in the Middle East and more widely, which Beijing, of course, strenươusly denies. 41 The Chinese commentator who compared Europe and America to China and Japan also drew a parallel between Europe’s relationship to the Middle East and China’s relationship to India. China is indebted cultưrally and ethically to India, above all as the home of Buddhism, ‘like Europe’s debt to the ancient cultưres of Mesopotamia and Egypt to the Middle Eastern monotheism’. 42 In 2004, China announced a $100 billion investment in Latin America by 2014. 43 Japan Ministry of Foreign Affairs. www.mofa.go.jp/. 44 There is some wariness about the new initiative in the form of a ‘quadrilateral’ grouping to discuss security issues in Asia between the United States, japan, India and Australia, termed by some critics the core of ‘an Asian NATO’. This followed the four respective foreign ministers’ meeting in the margins of the ASEAN Regional Forum held in Manila in May 2007. In May 2007, India participated in military exercises with the United States and Japan, not far from China’s eastern coast. 45 Wu Jianmin, ‘A broad perspective on common interests’, excerpt of a speech given during the Third Beijing-Tokyo Forum, China Daily, 30 August 2007. 46 The Chinese are proud of the huge influence their ceramics have had on Ottoman art. They are also very interested in Tưrkey’s post-Ottoman history and especially very recent developments, both economic and political, where they see issues of modernization in some ways comparable to those they face themselves. 47 Information Report No. 400, Foreign Affairs Committee of the French Affairs Committee of the French Senate, op. cit., p. 15. 48 François Godement, ‘Neither hedgemon nor soft power: China’s rise at the gates of the West’, in Facing China’s Rise: Guidelines for an EU Strategy, Chaillot Paper No. 94, December 2006, p. 53. 49 There is also the potential negotiation to build a $11.5 billion pipeline from Anagarsk in Russia’s Siberia to the Pacific Ocean, with a connection to the Daqing oil fields in eastern China, a very contentious issue for Japan. ‘Russia signs gas deal with China’, BBC, 21 March 2006. 50 For example, in August 2007, a large-scale exercise was conducted in the Ural mountains, with some 6,000 Chinese and Russian troops taking part, together with smaller contingents from all the other SCO States. The SCO was created in 2001 (as a successor to the Shanghai Five grouping formed in 1996) as an intergovernmental organization between Russia, China, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan and a sixth new member, Uzbekistan. It is primarily centred around security-related concerns in the region, and particularly counterterrorism and drug trafficking. Mongolia, since 2004, as well as Iran, Pakistan, and India, since 2005, have been granted an observer statưs. 51 The United Nations estimates Russia’s population of about 140 million in 2005 could fall by a third by 2050. 3 Chinese cultưral views of Europe 1 In China Daily, 7 June 2007. 2 As the Chinese Premier, Wen Jiabao, put it: ‘Our unique 5,000-year-long, uninterrupted civilization is the source of pride of every Chinese.’ Tưrning your eyes to China, Speech delivered at Harvard University, 10 December 2003. 3 Although this commentator notes: ‘The end of history is a very Asian idea as we would perhaps expect from M. Fukuyama’. 4 As one commentator explained: ‘Chinese do not believe in original sin but in cultivated virtưe as the fundamental human characteristic’. 5 To many Europeans, however, the Chinese seem particularly superstitious, as evidenced, for example, in the fact that the site of the Olympics has been chosen in alignment of two of the greatest Chinese cultưral centres, the Temple of Heaven and the Forbidden City, and that the opening has been scheduled at 8:08 pm on 8 August 2008. 6 It is possible that this exposition is highly coloured by current Chinese concerns about Buddhism, especially groups such as Falun Gong, which are presented as fostering selfish and anti-social values in contrast to the much more officially favoured Confucianism. 7 ‘Party Chief admits that what Confucius says … is good for the nation’, The Times, 29 September 2007. 8 One Chinese commentator suggested that one of the best ways to understand China was to imagine Europe if the Roman Empire had not fallen. ‘Our wall worked’. 9 ‘Confucius Institưtes Taking Chinese to the World’, China-gate, 24 march 2007. 10 Estimates from the office of the Chinese Language Council International. 11 Gong Yidong, ‘China featưres’, Chinese embassy in the United Kingdom, 29 September 2006. 12 There were some 21.5 million visitors to China for the first five months of 2007 a 10% increase over 2006, which saw 3 million visitors from Japan and Korea. According to the latest estimate of the World Tourist Organization, China could even become the first destination as early as 2014. 13 According to the Chinese Ministry of Education, in 2006 there were 30 million foreigners stưdying Chinese worldwide. Some 2,500 colleges and universities offer Chinese courses in more than a hundred countries, while the number of foreign stưdents stưdying in China has increased from 8,000 in the mid-1980s to 110,800 in 2005. 14 The Chinese have a great reverence for General de Gaulle, not least because he ensured that France was the first Western power to recognize the People’s Republic of China. 15 Jean-Pierre Raffarin, ‘Pour un programme euro-chinois’, Les Echos, 18 April 2006. 16 There was extensive media coverage, for example, on 19 October 2007, for a Fendi fashion show held on the Great Wall. 17 China Daily, 16 July 2005. 18 According to Britain’s university admissions body (UCAS) acceptances from China for undergraduate degrees for the 2006 academic year were down by 21.3% from 2005, from 4,4401 to 3,464. This fall was considered by some to be mainly due to visa constraints. 19 One common formulation is that democracy is ‘the apparent process of legitimization of good governance’. 20 It is, however, plainly of considerable significance that the new 7th most senior member of the ruling politburo of the Chinese Communist Party and the man seen by some as likely to be the next premier, Li Keqiang, translated the British jurist Lord Denning’s The Due Process of law.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 4:52:59 GMT 9
Trung Quốc nằm gai nếm mật, chờ ngày phục hận? The Economist Sử Gia Edward Carr nhận định: Trung Quốc khẳng định rằng tăng cường sức mạnh quân sự và ảnh hưởng ngoại giao không là mối đe dọa đối với ai. Thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, không đoan chắc như vậy. Vào năm 492 trước Công Lịch, vào cuối Thời Kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa, Vua Câu Tiễn của nước Việt tại vùng Chiết Giang ngày nay bị bắt làm tù binh sau một trận chiến chống lại Vua Phù Sai của nước Ngô, một quốc gia láng giềng về phía Bắc. Câu Tiễn bị bắt làm việc ở chuồng ngựa của Vua Ngô, nhưng vẫn giữ nhân cách của mình trong thời gian bị giam giữ nên được Vua Phù Sai dần dần kính nể. Sau vài năm, Vua Phù Sai cho phép Câu Tiễn trở về quê quán với tước hiệu của một chư hầu. Sức mạnh của Trung Quốc Câu Tiễn không bao giờ quên được nỗi nhục. Đêm nằm trên giường kết bằng cành cây và hàng ngày liếm một túi mật treo ở trong phòng để nuôi dưỡng ý chí trả thù. Nước Việt xem ra trung thành với Vua Ngô. Nước Việt lại có nhiều thợ thủ công khéo léo và gỗ tốt nên Vua Ngô xây nhiều cung điện và lâu đài khiến mang nợ. Câu Tiễn làm Vua Ngô lãng trí với nhiều gái đẹp nhất của nước Việt (trong đó có Tây Thi), hối lộ quan chức của nước Ngô, mua ngũ cốc để làm cạn kho lương thực của Vua Phù Sai. Trong khi vương quốc của Phù Sai suy sụp, nước Việt trở nên giàu có và gây dựng một đạo quân mới. Câu Tiễn chờ đợi thời cơ trong suốt 8 năm trời. Vào năm 482 trước Công Lịch, tin tưởng vào ưu thế của mình, Câu Tiễn đưa gần 50,000 quân tiến về phía Bắc. Sau một vài trận chiến, Câu Tiễn đánh bại Phù Sai và nước Ngô. Câu chuyện nằm gai nếm mật rất quen thuộc đối với người dân Trung Hoa như câu chuyện Vua Alfred và những chiếc bánh đối với người Anh, và Tổng Thống George Washington và loại cây anh đào đối với dân Mỹ. Vào đầu thế kỷ 20, Vua Câu Tiễn trở thành một biểu tượng của sự phản kháng của Trung Hoa chống lại những thương ước buộc nước này phải mở rộng hải cảng và những nhượng bộ khác do ngoại quốc đòi hỏi trong những năm Trung Hoa bị hạ nhục biến thành thuộc địa. Câu chuyện ngụ ngôn về Vua Câu Tiễn được kết luận bởi một số người như là một báo động đối với việc Trung Quốc trở thành một đại cường quốc hiện nay. Kể từ khi Đặng Tiểu Bình quyết định cải tổ kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc chỉ nói về hòa bình. Còn quá yếu về mặt quân sự và kinh tế để có thể thử thách Hoa Kỳ, Trung Quốc chú trọng vào việc làm giàu. Ngay cả khi Trung Quốc tăng cường sức mạnh và xây dựng lại quân đội, Tây Phương và Nhật Bản mắc nợ và bán kỹ thuật cho Trung Quốc. Cho đến nay Trung Quốc vẫn kiên nhẫn, nhưng cái ngày quốc gia này có thể thực hiện ý muốn của mình đã gần kề. Tuy nhiên cũng có một cách giải thích khác về chuyện vua Câu Tiễn. Học giả Paul Cohen của Đại Học Harvard viết về vua Trung Quốc giải thích rằng người dân Trung Quốc nhìn Vua Câu Tiễn như một tấm gương kiên trì và tận tụy. Học sinh được dạy rằng nếu muốn thành công thì phải như vua Câu Tiễn, nằm gai nếm mật – những thành quả lớn đòi hỏi sự hi sinh và phải có mục đích vững chắc. Vua Câu Tiễn này tượng trưng cho sự tự cải tiến và tận tụy, không phải là sự trả thù. Vào thế kỷ 21 này Trung Quốc sẽ theo Vua Câu Tiễn nào? Trung Quốc sẽ hội nhập hay không vào thế giới Tây Phương nơi mà mọi người không mong muốn gì hơn là có cơ hội thành công và thụ hưởng kết quả của sự làm việc vất vả? Hay là khi sự giàu có và sức mạnh của Trung Quốc vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa – một quốc gia tức giận muốn phục thù những sai trái trong quá khứ và buộc những nước khác phải uốn mình theo ý muốn của Trung Quốc? Ông Jim Steinberg, Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao của Hoa Kỳ nhận xét rằng sự lựa chọn vai trò của Trung Quốc là “một vấn đề to lớn của thời đại của chúng ta”. Nền hòa bình và thịnh vượng của thế giới phụ thuộc vào con đường lựa chọn của Trung Quốc. Một số người lập luận rằng hiện nay Trung Quốc vướng mắc quá sâu vào mạng lưới toàn cầu hóa để có thể làm đảo lộn kinh tế thế giới bằng chiến tranh hoặc áp bức. Thương mại đã mang lại sự thịnh vượng. Trung Quốc mua nguyên liệu và bộ phận ở nước ngoài và bán sản phẩm chế tạo trên thị trường ngoại quốc. Hiện nay Trung Quốc có trong tay $2,600 tỉ usd dự trữ ngoại tệ. Tại sao Trung Quốc lại muốn phá sập hệ thống đã phục vụ nước này một cách khá tốt đẹp? Tuy nhiên quan điểm này quá lạc quan. Trong quá khứ sự hội nhập đến trước xung đột. Thật vậy, châu Âu nằm trong biển lửa vào năm 1914 mặc dù Đức là thị trường xuất cảng lớn thứ hai của Anh và Anh là thị trường lớn nhất của Đức. Nhật Bản trở nên giàu có và gia nhập vào nhóm các cường quốc châu Âu trước khi muốn biến châu Á thành thuộc địa một cách thô bạo. Một số người khác có quan điểm cực đoan trái ngược lập luận rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt buộc là kẻ thù của nhau. Theo những người này kể từ khi Đế Quốc Sparta lãnh đạo Liên Minh Peloponnesian chống lại Athens (theo lịch sử Hy Lạp 600 năm trước Công Lịch), những cường quốc suy thoái không chịu nhượng bộ nhanh chóng để thỏa mãn những cường quốc đang vươn lên. Theo kịch bản này, khi sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên, quyền hạn và tham vọng của Trung Quốc cũng sẽ tăng lên. Cuối cùng, Trung Quốc không còn kiên nhẫn được nữa vì Hoa Kỳ sẽ không muốn từ bỏ vai trò lãnh đạo. Trung Quốc và các nước lân cận Lý do để lạc quan Quan điểm trên quá đơn sơ và bi quan. Trung Quốc quyết tâm đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ về Đài Loan, Nam Hải, một số hải đảo và tranh chấp về biên giới với Ấn Độ. Tuy nhiên không giống những đại cường quốc trước 1945, Trung Quốc không tìm thuộc địa. Và khác với Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc không có chủ thuyết để xuất cảng. Thật sự, lý tưởng cấp tiến của Hoa Kỳ có sức thuyết phục hơn là chủ nghĩa Cộng Sản, đạo Khổng hâm nóng, hoặc bất cứ cái gì khác mà Trung Quốc cống hiến. Khi hai nước đều có võ khí nguyên tử, không đáng công để họ giao chiến với nhau. Trên thực tế, sự giao tiếp giữa những cường quốc đang vươn lên và những cường quốc đang suy thoái không đơn giản. Hai lần nước Anh lo sợ một nước Đức bành trướng chế ngự châu Âu và cả hai lần nước Anh đã tham chiến. Tuy nhiên, Hoa Kỳ giành vai trò lãnh đạo thế giới khỏi tay của Anh và hai nước vẫn tiếp tục là đồng minh của nhau. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản và Đức vươn dậy từ đám tro tàn và trở thành cường quốc kinh tế thứ hai và thứ ba của thế giới mà không có một dấu hiệu nào muốn thử thách Hoa Kỳ. Những lý thuyết gia về bang giao quốc tế dành nhiều suy nghĩ về sự suy tàn của những đế quốc. Sự hiểu biết sâu xa về “lý thuyết về chuyển tiếp quyền lực” (power-transition theory) cho thấy rằng những cường quốc như Đức và Nhật Bản sau chiến tranh không thách thức trật tự thế giới khi họ vươn lên. Nhưng những cường quốc bất mãn như Đức và Nhật Bản thời tiền chiến nghĩ rằng hệ thống bố trí và duy trì của những cường quốc đang ngự trị tìm cách chống họ. Trong thời đại hỗn loạn của địa chính (geopolitics), những quốc gia này tin rằng những quyền lợi chính đáng của mình sẽ bị phủ nhận, trừ khi họ ép buộc các nước khác phải tôn trọng. Theo nhận định của Gs. David Lampton thuộc School of Advanced International Studies, Johns Hopkins University, trong gần cả một thập niên vừa qua hai đại cường quốc tiến gần đến tình trạng được gọi là hai cuộc đánh cá. Một cách tổng quát, Trung Quốc nằm trong trật tự hậu chiến của Hoa Kỳ, đánh cá rằng những nước khác trên thế giới cần sự giúp đỡ và thị trường của Trung Quốc, sẽ cho phép Trung Quốc làm giàu hơn và mạnh hơn. Hoa Kỳ không ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc với niềm tin rằng sự thịnh vượng cuối cùng sẽ biến Trung Quốc thành một trong những quốc gia ủng hộ chế độ - một “cổ đông có trách nhiệm” theo cách nói của Ông Robert Zoellick, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush và nay là Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới. Trong gần cả một thập niên vừa qua, bỏ ra ngoài những xích mích nhỏ, hai cuộc đánh cá trên đã thành công. Trước 2001, Trung Quốc và Hoa Kỳ tranh cãi nhau về Đài Loan, Hoa Kỳ ném bom vào Tòa Đại Sứ Trung Quốc tại Belgrade và vụ đụng độ làm chết người giữa phi cơ do thám EP3 của Hoa Kỳ và một chiến đấu cơ của Trung Quốc. Nhiều bình luận gia vào lúc đó nghĩ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc ở trong chiều hướng nguy hiểm, nhưng những nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ đã không theo đuổi con đường này. Kể từ đó, Hoa Kỳ bận rộn với việc chống khủng bố, và chọn lựa cách ứng phó một cách đơn giản với Trung Quốc. Những công ty Mỹ vui vẻ được tiếp cận với thị trường của quốc gia này. Trung Quốc cho chính phủ Hoa Kỳ vay một số tiền lớn lao. Điều này rất phù hợp với Trung Quốc. Đã từ lâu Trung Quốc kết luận rằng cách tốt nhất để xây dựng quyền lực quốc gia toàn diện là phát triển kinh tế. Theo sự phân tích của Trung Quốc qua những sách trắng và những bài diễn văn vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Trung Quốc cần một “Quan Niệm An Ninh Mới.” Phát triển cần sự ổn định. Điều này đòi hỏi rằng những quốc gia lân cận với Trung Quốc không cảm thấy bị đe dọa. Để làm các nước láng giềng an tâm cũng như để chứng tỏ mình là một công dân tốt, Trung Quốc gia nhập những tổ chức quốc tế mà một thời họ đã xa lánh. Đây là cách an toàn nhất để đối phó với ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Trung Quốc lãnh đạo cuộc thương thuyết giữa sáu nước để ngăn chặn chương trình nguyên tử của Bắc Hàn. Chính phủ Trung Quốc ký kết Hiệp Định Chống Việc Thử Nghiệm Võ Khí Nguyên Tử Toàn Diện (Comprehensive Test-Ban Treaty) và một cách tổng quát chấm dứt phổ biến võ khí (mặc dù những công ty đểu cáng vẫn tiếp tục việc này). Trung Quốc gửi nhiều nhân viên tham dự vào những hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hiệp Quốc hơn là các thành viên thường trực của Hội Đồng An Ninh hoặc bất cứ quốc gia nào trong tổ chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Chắc chắn là vẫn còn có những tranh chấp và khác biệt. Nhưng những nhà ngoại giao, những người làm chính sách, và giới học giả tự cho phép mình tin tưởng rằng trong thời đại nguyên tử, Trung Quốc có thể trỗi dậy thành một đại cường quốc mới một cách hòa bình. Tuy nhiên, sự tin tưởng đó đã yếu đi. Trong vài tháng qua, Trung Quốc đã tranh cãi với Nhật về việc một chiếc thuyền đánh cá của Trung Quốc đã đâm vào ít nhất một lần, nếu không phải là hai, hai chiến hạm bảo vệ duyên hải ngoài khơi của một chuỗi đảo mà Nhật Bản gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu (Điểu Ngư). Trước đó, Trung Quốc đã không ủng hộ Nam Hàn về vụ một chiến hạm của Hải Quân Nam Hàn bị bắn chìm và 46 thủy thủ bị thiệt mạng – mặc dầu một nhóm chuyên viên quốc tế đã kết luận rằng chiến hạm Cheonan bị tấn công bởi một tàu ngầm của Bắc Hàn. Khi Hoa Kỳ và Nam Hàn phản ứng lại bằng cách tổ chức một số cuộc tập dượt hỗn hợp ở Hoàng Hải (Yellow Sea), Trung Quốc đã phản đối và đã buộc một cuộc tập dượt phải dời qua biển Nhật Bản. Và khi Bắc Hàn nã đạn vào một hòn đảo của Nam Hàn vào tháng vừa qua, rõ ràng là Trung Quốc lên án Bắc Hàn một cách miễn cưỡng. Trung Quốc cũng đã bắt đầu xếp việc dành chủ quyền trên những phần rất lớn của Nam Hải vào danh sách sáu “quan tâm hàng đầu” của Trung Quốc – một ngôn ngữ mới đã làm những nhà ngoại giao lo ngại. Khi các nước hội viên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of South-East Asian Nations - ASEAN) than phiền tại buổi họp tại Hà Nội vào mùa Hè, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tức giận tuyên bố: “Tất cả quý vị nên nhớ bao nhiêu thịnh vượng kinh tế của quý vị dựa vào chúng tôi”. Theo báo cáo, ông ta cũng phản ứng bằng cách nhổ nước bọt. Năm ngoái, một bài xã luận đầy ác ý của tờ Nhân Dân Nhật Báo của Trung Quốc đã tấn công Ấn Độ sau khi Ông Manmohan Singh Thủ Tướng của nước này viếng thăm một địa điểm trong vùng tranh chấp gần Tây Tạng; Tổng Thống Barack Obama bị đối xử một cách bất xứng, lần thứ nhất trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh và lần thứ hai tại Hội Nghị về biến đổi khí hậu tại Copenhagen. Tại đây một viên chức ngoại giao cấp thấp của Trung Quốc chỉ chỏ ngón tay vào nhà lãnh đạo của thế giới tự do như để quở trách. Những chiến hạm của Trung Quốc liên tiếp quấy nhiễu tàu của hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản, kể cả khu trục hạm USS John S. McCain và tàu tuần thám USNS Impeccable. Những điều này xem ra nhỏ bé nhưng mang tính cách quan trọng vì cả đôi bên đều dò dẫm ý đồ của nhau. Hoa Kỳ liên tục tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chấm dứt quan hệ bình thường và trở thành gây hấn – Trung Quốc cũng tìm kiếm những dấu hiệu chứng tỏ rằng Hoa Kỳ và các nước đồng minh cấu kết với nhau để ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc. Mọi sự việc đều bị chi phối bởi sự ngờ vực có tính cách chiến lược. Chăm chú nhìn qua ống kính này, những người theo dõi tình hình Trung Quốc phát hiện một sự thay đổi. Ông Richard Armitage, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush nói: “Chính sách ngoại giao thân thiện đã qua rồi”. Yukio Okamoto, một chuyên viên về an ninh Nhật Bản nhận xét rằng: “Khát vọng quyền lực của Trung Quốc đã quá rõ rệt”. Những nhà ngoại giao yêu cầu được giấu tên tuổi nói về những ngờ vực và lo ngại trong sự giao tiếp với Trung Quốc. Mặc dù sự liên lạc hàng ngày giữa các bộ của hai chính phủ vẫn trôi chảy, nhưng “sự ngờ vực chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng” theo nhận xét của chuyên gia về Trung Quốc Boonie Glaser của Trung Tâm Nghiên Cứu chiến Thuật và Quốc Tế (Centre for Strategic and International Studies) tại Washington-DC. Chẳng có gì là bất khả vãn hồi với sự suy thoái ngoại giao này, hòa bình vẫn còn ý nghĩa. Trung Quốc phải đối phó với những vấn đề to lớn ở trong nước. Trung Quốc hưởng lợi từ thị trường Hoa Kỳ và liên hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, cũng giống như vào năm 2001. Đảng Cộng Sản Trung Quốc và những nhà lãnh đạo Tòa Bạch Ốc dù thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào cũng đều thu thập được nhiều lợi ích từ phát triển kinh tế hơn bất cứ cái gì khác. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ điều này. Vào tháng 11/2003 và tháng 02/2004, Bộ Chính Trị của Trung Quốc đã nhóm những phiên họp đặc biệt về sự hưng thịnh và suy thoái của các quốc gia kể từ thế kỷ 15. Những chính trị gia Hoa Kỳ dư hiểu biết rằng mặc dù việc đối phó với một Trung Quốc hùng mạnh sẽ khó khăn, việc đối phó với một nước Trung Quốc bất mãn và hùng mạnh sẽ vô phương. Tuy nhiên ngày nay nhiều yếu tố trên nhiều mặt, từ chính trị nội bộ đến hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chánh, kết hợp lại làm cho mối quan hệ trở nên tồi tệ hơn. Nguy cơ không phải là chiến tranh – vào giai đoạn hiện nay hầu như không ai nghĩ đến việc này, chỉ vì rủi ro quá to lớn, rất bất lợi cho mọi người. Mối nguy là các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tạo ra nền tảng cho sự đối kháng sâu đậm trong thập niên sắp tới. Điểm này được Ông Henry Kissinger mô tả rành mạch nhất. Khía cạnh đen tối Dưới thời Tổng Thống Richard Nixon, ông Henry Kissinger đã tạo điều kiện cho 40 năm hòa bình ở Á châu bởi nhìn thấy rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng hưởng lợi khi hợp tác làm việc với nhau thay vì cạnh tranh lẫn nhau. Ngày nay, ông Henry Kissinger lo âu. Tại buổi họp của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế về Chiến Lược (International Institute for Straregic Studies) vào tháng 9 vừa qua, ông Henry Kissinger nhận xét rằng đưa Trung Quốc vào trật tự thế giới còn khó hơn là đưa Đức quốc vào cách đây một thế kỷ. Theo ông Henry Kissinger: “Đây không phải là một vấn đề kết hợp một quốc gia thuần nhất mà là một cường quốc to lớn phát triển toàn diện… Vòng xoắn DNA của cả hai quốc gia có thể tạo ra một mối quan hệ thù nghịch ngày càng lớn rất giống như hai nước Đức và Anh chuyển từ bạn sang thù… Washington hoặc Bắc Kinh đều không thực tập một quan hệ cộng tác trong sự bình đẳng. Những nhà lãnh đạo của hai nước không có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn là thực thi chân lý cho thấy không bao giờ một nước này có thể chế ngự nước kia và sự xung đột giữa hai nước sẽ làm kiệt quệ xã hội và di hại cho triển vọng hòa bình thế giới”. Không có nơi nào mà sự kình địch chớm nở lại rõ rệt nhất giữa quân lực của Hoa Kỳ và quân lực của Trung Quốc, một lực lượng đang được hiện đại hóa nhanh chóng. Về toàn bộ, quân lực của Hoa Kỳ siêu việt hơn nhiều. Nhưng quân lực của Hoa Kỳ sẽ không còn có thể chiến thắng một cách dễ dàng ở trong vùng duyên hải của Trung Quốc. The Economist Nguyễn Quốc Khải dịch
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 4:57:34 GMT 9
Chiến đấu cơ J-20 Trung Quốc:Đồ thật hay đồ đểu? The Wall Street Journal quangtrinet.com/forum/archive/index.php/t-16313.htmlKhi những tấm hình chụp mờ nhạt đầu tiên của chiến đấu cơ J-20 được đăng tải trên internet, chúng đã gần như củng cố mối quan ngại tiềm tàng trong giới quan sát và nghiên cứu Trung Quốc: Dường như Bắc Kinh đang thành công trong việc sáng chế loại máy bay thuộc thế hệ thứ năm. Loại chiến đấu cơ này có đặc tính thoát được khỏi tầm rà soát của hệ hống radar, tương tự như loại chiến đấu cơ Hoa Kỳ F-22 Raptor. J-20 trang bị loại ‘cánh vịt’ sẽ giảm đi khả năng ‘tàng hình’ Tuy nhiên, khả năng ‘tàng hình’ của J-20 đạt đến mức độ nào? Trung Quốc có khả năng tranh tài với Hoa Kỳ trong cuộc thi đua kiểm soát không phận? Trả lời phỏng vấn của nhật báo (The Wall Street Journal, nhà phân tích hàng không Richard Aboulafia – thuộc Công ty Tư vấn Teal Group, chuyên về ngành không gian và quốc phòng – đã nhận định rằng Trung Quốc sẽ phải còn mất rất nhiều thời gian để hoàn chỉnh loại máy bay ‘tàng hình’. “Nó (J-20) có dáng vóc của loại chiến đấu cơ ‘tàng hình’ ”, ông Aboulafia cho biết. Thí dụ như đầu máy bay J-20 có hình thù của chiến đấu cơ F-22. “Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ, chúng ta sẽ nhận ra rằng loại cơ giới này chỉ là một loại chắp ráp vụng về, ông Aboulafia cho biết thêm. Hãy lấy loại ‘cánh vịt’ làm thí dụ. Đôi cánh này còn được gọi là ‘cánh mũi’ vì được ráp ở đầu mũi của máy bay để nâng cao tính linh hoạt (dễ điều khiển) của chiến đấu cơ. Theo ông Aboulafia, nếu muốn hủy hoại khả năng ‘tàng hình’ và làm cho hệ thống radar truy lùng được một chiến đấu cơ thì không có gì bằng ráp loại ‘cánh vịt’ này vào cơ giới. J-20 là một dữ kiện mở màn cho chuyến công du của chu tich Hồ Cẩm Đào Lý luận tương tự cũng có thể áp dụng cho cái mõm của máy bay. Theo ông Aboulafia, bộ phận này cũng không được thiết kế để máy bay có thể ‘tàng hình’. Kích thước kềnh càng của chiến đấu cơ J-20 cũng là một trở ngại để máy bay có thể dễ dàng ‘mất dạng’ khi phải đương đầu với hệ thống radar. Thật ra, sự xuất hiện của nguyên mẫu J-20 là một dữ kiện gây nhiều chú ý để mở màn cho chuyến công du của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tại Hoa Thịnh Đốn trong tuần này. Theo ông Aboulafi, ngoài một một chiến đấu cơ ‘tàng hình’ ra, Trung Quốc chưa có được hệ thống chỉ huy và kiểm soát. Trung Quốc còn thiếu khả năng tiếp vận nguyên liệu trên không và còn thiếu nhiều hệ thống khác. Chính những phương tiện này đã giúp Hoa Kỳ mở rộng tầm kiểm soát không phận trên toàn thế giới. Ông Aboulafia cho rằng hình như mục tiêu Trung Quốc đang dần dần đạt đến là chế tạo được loại chiến đấu cơ tương tự như chiếc F-22 mà Hoa Kỳ đã có được trong thập niên 80. “Trong vòng 10 năm nữa, có nhiều xác suất Trung Quốc sẽ chế tạo được một loại chiến đấu cơ như chiếc F-22. Nhưng từ đây đến đó, Tây Âu cũng sẽ tiến xa và sáng chế được loại cơ giới tối tân và oai vệ hơn”, ông cho biết. The Wall Street Journal Nguyễn Huy Đức dịch Trung Quốc vừa tổ chức sinh nhật lần thứ 60 của mình. Sau 60 năm dặc biệt là 30 mở cửa sau này Trung Quốc đạt được những thành tự to lớn về mọi mặt. Công nghệ đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển thần kỳ này. Tuy nhiên không phải mọi nơi ở Trung Quốc mọi người đều được hưởng lợi từ sự phát triển này. Con người cũng như sự chênh lệch giàu nghèo đang là những vần đề mà đất nước rộng lớn và nhiều dân tộc này đang phải đối mặt. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bec7e3e8.jpgVới khoảng 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp hầu hết người dân Trung Quốc chưa hưởng được các thành quả của một nước có GDP đứng hàng thứ ba trên thế giới. Anh chàng trong tấm hình dưới đang cố gắng chỉnh chiếc ăngten để bắt tín hiệu truyền hình Analog trong khi cả nhà đang xem lễ quốc khánh. Trong tấm hình tiếp theo chụp ảnh người dân Trung Quốc tập trung tại một của hàng điện máy để theo dõi buổi lễ. TV phẳng đang là một trong những món hàng xa xỉ mà hầu hết người dân chưa thể sở hữu được. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac5bfcf71955.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c57995c8.jpgHình ảnh quân đội Trung Quốc hùng mạnh qua màn hình khổng lồ ngoài trờ tại một trung tâm thương mại ở Bắc Kinh. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac5c0f148649.jpgSự kiện kỷ niệm này cũng là dịp Trung Quốc biểu dương lực lượng quân đội hùng hậu. Theo Tân Hoa Xã, Bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã trình làng 52 hệ thống vũ khí mới, do Trung Quốc sản xuất, trong đó có mặt hầu hết các thế hệ xe tăng, tên lửa và máy bay hiện đại nhất và 90% số vũ khí đó lần đầu tiên xuất hiện. Thông qua sự kiện đánh dấu 60 năm hình thành Nhà nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Bắc Kinh muốn gửi một thông điệp rõ ràng cho cộng đồng quốc tế rằng: Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, đã trỗi dậy như là một thế lực lớn trên trường quốc tế. Xin giới thiệu chùm ảnh về sự kiện kỷ niệm của Trung Quốc được các phóng viên của các hãng thông tấn nước ngoài ghi lại ngày 1 tháng 10 năm 2009 vừa qua. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bed8a351.jpgToàn cảnh khu vực trung tâm. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c56962ff.jpgVới đông đảo sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân Trung Hoa. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf37f7dd.jpgCác lãnh đạo cấp cao. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf03f474.jpgChủ tịch nhà nước CHDCND Trung Hoa - Hồ Cẩm Đào đi đầu đoàn diễu binh. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bee7e001.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c56e7f9b.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bef77f03.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf1c162a.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bef23689.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bee2e692.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c574fa1c.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c55528f8.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf136fa0.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c55f1405.jpgTái hiện lại thành công trong công nghệ vũ trụ của mình. Diễu hành mừng đại lễ sau khi trình diễn hàng loạt các khí tài và sức mạnh quân sự. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf412177.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59befde6fb.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bed3f41b.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf089b86.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf30fe4c.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59bf2aba83.jpgVà vào buổi chiều tối cùng ngày những màn pháo hoa hoành tráng, rực sáng bầu trời liên tục được trình diễn. www.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c58465ae.jpgwww.tinhte.com/forum/imagehosting/97594ac59c5892297.jpgCầu cảng tiếp giáp HongKong cũng rực sáng pháo hoa hai bên bờ. Ảnh: tổng hợp từ Getty Image, AFP, Tân Hoa Xã, Reuters. (tinhte.com)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:00:52 GMT 9
Chiến lược truy tìm kỹ năng tiên tiến của Trung QuốcNguyễn Minh Chiến lược thu thập tin tức và kỹ năng cao cấp Ngày 07/01/2011, hãng sản xuất xe hơi Renault của Pháp cho biết đã đình chỉ công tác ba chuyên viên cao cấp. Liền tức thì báo chí và giới truyền thông Pháp cho biết ba chuyên viên cao cấp nói trên bị tình nghi bán cho Trung Quốc những họa đồ kỹ thuật sáng chế các loại xe sạch chạy bằng điện. Để tránh mọi khủng hoảng về ngoại giao, Nha Trung ương Tình báo Nội chính (DCRI-Direction Centrale du Renseignement Intérieur) của Pháp đã tỏ ra dè dặt và cho biết vụ việc này chỉ liên quan đến một tổ hợp quốc tế nước ngoài chuyên thu thập tin tức, kỹ thuật sáng chế và chiến lược phát triển kinh tế của các nước khác, nhưng không nêu đích danh nước nào. Theo báo chí Pháp, tổ hợp này là một cơ sở quốc doanh có trụ ở chính tại Trung Quốc, được tổ chức rất là tinh vi gồm nhiều công ty vệ tinh có mã số đăng ký và trương mục riêng tại khắp nơi trên thế giới. Tin hành lang cho biết, nhiều khoản tiền lớn đã được tổ hợp này chuyển vào trương mục bí mật của ba chuyên viên cao cấp hãng Renault tại Thụy Sĩ và Lichtenstein. Xe Renault chạy điện tại cuộc triển lãm xe Paris 2010 Từ một vài năm trở đây các hãng sản xuất xe hơi lớn trên thế giới đều tập trung sản xuất các loại xe hơi sạch, không gây ô nhiễm và tiết kiệm nhiên liệu, đặc biệt là loại xe hơi chạy bằng điện. Hiện nay loại xe này chỉ được trưng bày trong các hội chợ triển lãm xe hơi quốc tế chứ chưa được bán ra trên thị trường. Ai là người tiên phong trong lãnh vực này sẽ dẫn đầu thế giới và chiếm lĩnh một thị phần quan trọng. Trong kinh doanh, bước đi tiền khởi luôn quyết định cho sự thịnh suy. Trong lãnh vực sản xuất xe hơi chạy bằng điện, Renault (Pháp) và Nissan (Nhật) đã bỏ ra hơn 5 tỷ USD để nghiên cứu. Hơn 400 bằng sáng chế đã được đăng ký cầu chứng độc quyền. Theo dự trù, Renault sẽ tung ra thị trường hai kiểu xe (Fluence và Kangoo) vào giữa năm 2011 và hai kiểu khác (Twizy và Zoe) vào giữa năm 2012. Với các kiểu xe này, Renault và Nissan hy vọng sẽ chiếm giữ một thị phần quan trọng và dẫn đầu thế giới về loại xe sạch chạy bằng điện. Tham vọng này đã không thoát khỏi sự chú ý của giới kỹ nghệ gia quốc tế, đặc biệt là giới sản xuất các loại xe hơi sạch. Cũng nên biết, bí mật của các loại xe hơi chạy điện không phải ở cơ phận máy mà là từ bình điện. Thực ra bình điện trong các loại xe không có gì mới, xe nào cũng có bình điện. Nó có tác dụng giúp nổ máy, chiếu sáng, điều hòa không khí, sưởi ấm, v.v. Gần đây một số hãng sản xuất xe hơi khác đã tung ra thị trường một vài kiểu xe hybrid kết hợp nhiên liệu với điện, hay nhiên liệu với khí đốt. Khác với các loại xe cổ điển, bình chứa năng lượng của các loại xe hơi chạy bằng điện là bình điện. Sự hơn thua giữa các xe điện là thời gian tự túc của các bình điện. Thời gian tự túc càng lâu, khả năng chinh phục thị trường càng lớn. Hiện nay thời gian tự túc trung bình của các bình điện là hai giờ, quá ngắn để có thể chạy liên tục trên một đoạn đường dài như các loại xe chạy bằng nhiên liệu. Renault và Nissan đang tìm ra giải pháp cho bài toán khó khăn này: các bằng sáng chế bình điện tự túc lâu dài. Vì là một quốc gia công nghiệp sinh sau nở muộn, Trung Quốc đang cố gắng bắt kịp sự chậm trễ của mình bằng mọi cách, từ liên doanh để nhận chuyển giao kỹ thuật đến mua bằng sáng chế. Cái bất lợi là các quốc gia phát triển phương Tây chỉ bán hoặc chuyển giao cho các công ty Trung Quốc kỹ năng sản xuất những mặt hàng đã lỗi thời hoặc thiếu tính sáng tạo và không mang lại hiệu quả kinh tế cao, mặc dù được bán với giá thật rẻ, đôi khi dưới cả giá thành. Ý thức sự yếu kém này, từ năm 2000 trở lại đây ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc áp dụng một sách lược mới: tung người ra nước ngoài học tập và tung gián điệp đi khắp nơi thu thập tin tức. Sách lược mới này đã mang lại một vài hiệu quả tích cực: nhờ của một đội ngũ chuyên viên có trình độ kỹ thuật cao, chấp nhận làm việc với đồng lương thấp, các công ty Trung Quốc đã gần như độc quyền về các trang thiết bị sản xuất điện năng sạch: quạt gió, pin mặt trời. Các công ty kỹ thuật cao của Trung Quốc bắt đầu nhận đơn đặt hàng sản xuất các loại máy vi điện tử cao cấp: GPS, SmartPhone, Labtop... Nếu doanh nhân Trung Quốc nắm được kỹ thuật sản xuất các loại bình điện tự túc lâu dài, lượng xe hơi sản xuất tại Trung Quốc không những sẽ chiếm lĩnh các thị trường quốc tế vì giá rẻ mà còn giải quyết được nạn ô nhiễm không khí tại chính quốc. Năm 2009, thị trường nội địa Trung Quốc đã có thêm 16 triệu chiếc. Chỉ riêng Bắc Kinh và Thượng Hải thôi, với 20 triệu dân đã có đến 4 triệu xe chạy bằng xăng dầu. Lượng khí thải CO2 từ khói xe cộng với các ống khói từ các lò điện chạy bằng than đá gây ô nhiễm cả bầu trời. Xe chạy bằng điện là một lối thoát cho dân chúng trong các đô thị lớn, đồng thời cũng giảm được ngoại tệ để nhập nhiên liệu mà Trung Quốc không có. Cái khác biệt giữa các quốc gia văn minh và các quốc gia kém văn minh là phương pháp thu thập Tung gián điệp thu thập những bí mật về đối thủ của mình không có gì mới, nó đã xuất hiện từ khi xã hội loài người biết qui tụ thành nhóm. Hiện nay không quốc gia nào, không công ty nào không quan tâm đến những phát minh do đối thủ hay đồng minh của mình vừa mới phát minh. Pháp là một trong những quốc gia tung người đi khắp nơi dò tìm những cái mới để mang về nước. Cái khác biệt giữa các quốc gia văn minh và các quốc gia kém văn minh là phương pháp thu thập. Các quốc gia văn minh gởi sinh viên di du học tại các đại học lớn, tham gia nhiều chương trình khoa học cao cấp, sau về về lại nước giảng dạy lại cho các sinh viên hay làm việc trong những công ty bản xứ. Với những kiến thúc vừa hấp thụ, những chuyên viên này khuyến khích người bản xứ phát huy sáng kiến và sáng chế ra những cái mới để bổ túc vào kho tàng văn hóa chung nhân loại, như đã từng xảy ra trong các lãnh vực y khoa và khoa học, điển hình là các giải Nobel. Các quốc gia kém văn minh thì ngược lại, họ cũng gởi người ra ngoài để thu thập những cái mới để mang về nước, nhưng toàn là sao chép để sau đó sản xuất ra những hàng hóa y hệt để cạnh tranh bất chính với giá rẻ hơn. Đó là trường hợp của Nhật Bản thập niên 1960, Đài Loan, Nam Hàn và Singapore thập niên 1970, Hồng Kong thập niên 1980 và Trung Quốc thập niên 1990. Cái khác biệt lớn giữa Trung Quốc và các quốc gia sao chép trước đó là khối lượng sản xuất. Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore và kể cả Hồng Kông đã sao chép và xuất khẩu sang các quốc gia phương Tây phát triển với lượng hàng vừa phải để không giết chết sinh hoạt kinh tế của quốc gia nhập khẩu hàng hóa của mình. Không những thế họ còn đầu tư vào các quốc gia phát triển để sản xuất hàng hóa và tạo ra công ăn việc làm mới. Trung Quốc thì ngược lại, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc được tung ồ ạt vào các quốc gia nhập khẩu không những giết chết sinh hoạt sản xuất địa phương mà còn thống lãnh luôn các thị trường bản địa. Hành động này chỉ làm gia tăng sự bất mãn của người bản xứ không những đối với hàng hóa mà cả đến người Trung Quốc. Chiến lược phát triển các nguồn năng lượng phi than đá Cái bất hạnh của Trung Quốc là không có tài nguyên hóa thạch (dầu khí), tất cả đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nguồn tài nguyên khá dồi dào vừa rẻ vừa làm nhiều người chết khi khai thác là than đá. Sự độc hại của than đá là lượng CO2 thải ra, có tác dụng hâm nóng bầu khí quyển đồng thời làm giảm tuổi thọ của loài người. bầu không khí xám xịt do khói từ các lò nhiệt điện than đá phun ra Cho đến năm 2010 than đá vẫn còn chiếm 70% nguồn năng lượng cơ bản của Trung Quốc. Tình trạng này không thể tiếp tục. Cả một vùng trời rộng lớn quanh các đô thị lớn bị bao bọc bởi một bầu không khí xám xịt do khói từ các lò nhiệt điện than đá phun ra. Sự ô nhiễm không những làm thiệt hại nông nghiệp mà còn gây nhiều chứng bệnh ung thư cho con người. Tìm nguồn năng lượng sạch là một bắt buộc. Nhưng ở Trung Quốc cái gì cũng phải vượt bực mới xứng đáng với tầm vóc của một quốc gia trung tâm của thiện hạ. Chỉ trong hơn 10 năm, 11 lò phát điện nguyên tử đã đi vào hoạt động và 24 lò khác đang được xây dựng. Đến năm 2020, Trung Quốc sẽ có tất cả 100 lò phát điện nguyên tử. Về lượng số lò phát diện này không cao, nhưng sự mất cân đối là chúng chỉ tập trung vào các tỉnh ven duyên Nam Hoa hay các đô thị có mật độ dân số cao, như Bắc Kinh, Tây An, Trùng Khánh, Vũ Hán... Mặc du nắm vững kỹ thuật sản xuất bom nguyên tử, Trung Quốc đang còn chậm trễ trong việc xây dựng các lò phát điện nguyên tử. Cái nguy hiểm của các lò phát điện nguyên tử này là chúng đã được xây dựng một cách cấp bách để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất. Tại một số nơi, do thiếu khảo sát sâu rộng, nhiều lò được xây dựng cạnh những khu vực có nguy cơ địa chấn cao như tại Tứ Xuyên, tỉnh có nhiều nguy cơ động đất lớn. Đó là chưa kể trình độ kỹ thuật của các chuyên viên bảo quản hay vận hành các lò điện nguyên tử. Nhiều sự cố tuy chưa bằng biến cố Tchernobyl đã được ghi nhận. Dư luận chỉ biết đến khi được một cơ quan thông tấn ngoài quốc doanh công bố trong khi Bắc Kinh hoàn toàn im lặng. Điểm đặc thù của các chế độ độc tài là ở chỗ đó. Chẳng hạn như ngày 14/06/2010, giới truyền thông Hồng Kông cho biết một sự cố trọng đại đã xảy ra tại nhà máy phát điện nguyên tử Đại Á, thuộc thành phố Thẩm Quyến, tỉnh Quảng Đông. Ngay khi tin này vừa được loan báo, dân chúng Hồng Kông đã rất hoảng sợ vì vị trí của nhà máy này chỉ cách Hồng Kông có vài chục cây số. Cơ quan quản trị lò phát điện nguyên tử Đại Á này là Tập đoàn Điện nguyên tử Quảng Đông thừa nhận các thanh nhiên liệu nguyên tử có vết nứt nhỏ nhưng cho biết sự cố nhiễm phóng xạ đã hoàn toàn bị cách ly không gây ảnh hưởng ra ngoài. Một sự cố khác xảy ra tại gần Thượng Hải ngày 23/05/2010 (lúc Hội Chợ Thượng Hải vừa mới khai mạc) nhưng phải đợi đến ba tuần sau Bắc Kinh mới xác nhận. Điều này làm cho dư luận trong và ngoài Trung Quốc lo lắng về khả năng bảo đảm an toàn và sự trung thực trong cách thông tin của chính quyền Trung Quốc. Cùng với việc định giấu nhẹm tai nạn nhà máy phát điện nguyên tử này và những chỉ trích về công trình xây dựng cẩu thả các lò phát điện nguyên tử đang lần lần được tiết lộ ra bên ngoài. Bên cạnh việc xây dựng ồ ạt các lo điện nguyên tử là khả năng sản xuất các loại pin năng lượng mặt trời. Năm 2009, Trung Quốc của 7 công ty sản xuất pin năng lượng mặt trời có năng lực sản xuất 4 KW điện, hơn tổng sản lượng của công ty năng lượng mặt trời thế giới của Mỹ First Solar 1,113 KW và hơn cả tổng cộng sản lượng của các công ty Nhật (1,5 KW) chừng 2,7 lần. Thứ tự sản xuất năng lượng pin mặt trời của các công ty Trung Quốc năm 2009 như sau: Trina Solar – 1,550 KW; CS – 1,420 KW; Samtech – 1 KW; JA Solar – 800 kW; Yingi Solar – 600 kW; Sun Energy – 320 kW. Điều quan trọng là sự tăng trưởng dị thường của 6 công ty này ở chỗ năm 2009 chỉ sản xuất được 1,6 KW, 2 năm sau đã tăng lên gấp 2,5 lần (4 KW). Gần như tổng sản lượng pin năng lượng mặt trời của Trung Quốc được xuất khẩu sang các quốc gia khác. Thị trường nội địa chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Yếu tố chính của sự tăng trưởng của 7 công ty sản xuất pin mặt trời là chỉ chuyên tâm vào việc sản xuất pin mặt trời mà thôi. Trong khi đó các công ty sản xuất pin mặt trời khác của thế giới như Sharp (Nhật) có tỉ trọng sản xuất đồ điện gia dụng cao hơn, công ty Kyocera (Nhật) có tỉ trọng máy chụp hình và video cao hơn, công ty First Solar (Mỹ) từ 2010 cũng đặt nặng tỉ trọng cung cấp phụ tùng cho Toyota và GM cao hơn tỷ trọng sản xuất pin mặt trời. Tuy pin mặt trời silicon liên kết sản xuất tại Trung Quốc có phẩm chất kém hơn của Nhật, nhưng với giá rẻ giới tiêu thụ phương Tây có khuynh hướng muốn dùng thử hàng cho biết, nếu hỏng hóc cũng không sao. Năm 2008, qui mô sản xuất pin mặt trời của Trung Quốc đứng đầu thế giới, năm 2009 chiếm 37% sản lượng thế giới. Thị trường chính của pin mặt trời sản xuất tại Trung Quốc được xuất khẩu qua Đức. Theo hiệp hội kỹ nghệ pin mặt trời Châu Âu (EPIA): năm 2009 Đức chiếm 53% thị trường pin năng lượng mặt trời của thế giới với 3,8 KW. Trước đó, cho đến 2008 Tây Ban Nha dẫn đầu thế giới với 1,26 KW, sang năm sau chỉ còn 69 kW. Thị trường sử dụng pin năng lượng mặt trời của thế giới từ 411 KW năm 2009 lên 900 KW năm 2010. Nhật Bản và Trung Quốc có nhu cầu quốc nội ngang nhau trong năm 2010 là 700 KW. Công ty Kyocera nhận đặt hàng 2,040 KW cho công ty Solar Power (Thái Lan) trong năm 2010-2015. Bên cạnh khả năng sản xuất năng lượng nguyên tử và pin mặt trời, Trung Quốc đang hướng tham vọng truy tìm các nguồn năng lượng khác ở ngoài lãnh thổ. Cơ hội đã đến khi Iceland (Băng Đảo, gần Bắc Cực) gặp khủng hoảng tài chánh. Ngày 09/09/2010, Trung Quốc đã ứng tiền cho Iceland để trả nợ cho Anh Quốc và Hòa Lan, qua đó đã cùng Iceland ký kết những hiệp ước mậu ịch tự do (FTA) hợp tác khai thác Bắc Cực. Cụ thể là việc hợp tác điều tra giữa hai nước về khả năng lưu thông hàng hải xuyên qua Bắc Cực để rút ngắn tuyến đường vận tải hàng hóa từ Trung Quốc đến Đại Tây Dương. Nhưng các nhà chuyên môn đều hiểu Trung Quốc nhìn xa hơn về việc cùng Iceland chung sức khai thác tài nguyên phong phú về dầu mỏ và khí đốt của vùng Bắc Cực. Tham thì thâm! Bắc Kinh cho rằng Biển Bắc Cực không phải chỉ của các nước xung quanh mà còn là tài sản chung của loài người. Được sự hợp tác toàn diện của Iceland, Trung Quốc đã có chỗ đứng quan trọng trong vùng Bắc Cực. Từ năm 2004 đến tháng 08/2010, Trung Quốc đã thực hiện bốn cuộc điều tra vùng Bắc Cực. Cường độ điều tra của Trung Quốc tại Nam Cực còn nhanh hơn : từ 1980 đến nay Trung Quốc đã thực hiện 30 cuộc điều tra. Hiện nay Trung Quốc đã lập xong ba căn cứ ở Nam Cực và đang tiến hành kế hoạch xây dựng thêm căn cứ thứ 4. Từ mùa xuân năm 2010, Trung Quốc cũng bắt đầu việc đóng Tàu Xuyên Phá Băng dài 200 mét với trọng tải 10.000 tấn. Hơn thế nữa, Trung Quốc còn có tham vọng khai phá các nguồn năng lượng xa hơn nữa trong vũ trụ. Mấy năm gần đây, Bắc Kinh đã dành một ngân sách rất lớn vào việc phóng liên tiếp các tàu không gian và vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ. Ban lãnh đạo đảng cộng sản dự trù sẽ đưa phi thuyền có người điều khiển lên mặt trăng để lập căn cứ vào thập niên 2020. Mục đích chính là sớm tìm được tài nguyên và năng lượng từ mặt trăng. Dư luận thế giới đang rất thắc mắc về những tham vọng quá lớn của ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Họ thực sự muốn truy tìm các nguồn tài nguyên không hay muốn làm bá chủ thế giới? Người Việt Nam có câu: tham thì thâm, xin cẩn thận! Nguyễn Minh (Tokyo) Thông Luận số 254, tháng 01/2011
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:13:40 GMT 9
Trung Quốc táo bạo từ bỏ chính sách đối ngoại của ong Đặng Tiểu Bình Wu Zhong Lời người dịch: Bài báo này điểm qua một thái độ xét lại đang manh nha giữa một số viên chức quân sự Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, khi họ phê phán lời tuyên bố “Biển Nam Trung Hoa là quyền lợi cốt lõi” do một số viên chức tại Bắc Kinh đưa ra là đe doạ “môi trường hoà bình” tại đây. Thái độ xét lại này sở dĩ có được là do sức ép của việc Hoa Kỳ tìm cách hồi sinh ảnh hưởng quân sự của mình trong vùng Tây Thái Bình Dương với sự đồng tình của một số quốc gia ở trong vùng, trong đó có Việt Nam.Những cuộc tập trận trên bộ và trên biển gần đây của Quân Giải phóng Nhân dân (QGPND) Trung Quốc được thế giới coi như là một phản ứng giận dữ đối với cuộc diễn tập hải và không quân Hoa Kỳ-Hàn Quốc, được cho biết là sẽ diễn ra trong biển Hoàng Hải [Biển Tây, theo Hàn Quốc], và đối với điều mà Trung Quốc cho là âm mưu của Hoa Kỳ nhằm thách thức lời tuyên bố của Bắc Kinh cho rằng Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông, theo Việt Nam] là “quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc”. Động thái miếng-trả-miếng của Bắc Kinh cho thêm một bằng chứng là Trung Quốc có thể đang từ bỏ chính sách “thao quang dưỡng hối” [che giấu ánh sáng, nuôi dưỡng bóng tối] của Đặng Tiểu Bình trong các quan hệ quốc tế – nghĩa là ẩn mình khi tình thế chưa thuận lợi và kiên trì chờ thời cơ để ra tay trong thế mạnh – mặc dù Trung Quốc chính thức tuyên bố đây chỉ là những cuộc diễn tập quân sự bình thường, có định kỳ và không nên diễn dịch ra ngoài ý nghĩa này. Theo Tân Hoa Xã của nhà nước Trung Quốc, QGPND đã tổ chức cuộc tập trận hậu cần trong biển Hoàng Hải vào cuối tuần tức ngày 17-18 tháng Bảy. Cụ thể là, Tổng cục Hậu cần và Phòng Quân vận Ứng chiến đã tổ chức cuộc thao diễn “ở ngoài khơi Hoàng Hải”. Mang mã hiệu “Chiến trận 2010”, cuộc thao diễn có mục đích cải thiện khả năng phòng thủ chống lại các cuộc tấn công từ xa, mà trọng điểm là việc vận chuyển quân nhu cho các chiến trường hỗn hợp gồm nhiều binh chủng trong tương lai. Cuộc diễn tập này được tổ chức một tuần sau khi Trung Quốc tuyên bố sẽ cương quyết phản đối bất cứ tàu chiến hay máy bay nước ngoài nào đi vào biển Hoàng Hải cũng như các lãnh hải lân cận để tham gia các hoạt động có ảnh hưởng đến an ninh và lợi ích của Trung Quốc, ngụ ý nói đến cuộc tập trận hải quân Hoa Kỳ-Hàn Quốc sắp diễn ra ở trong khu vực, như đã được thông báo. Rồi vào ngày 26 tháng Bảy, Hải quân Trung Quốc thực hiện một cuộc thao diễn bằng đạn thật trên qui mô lớn tại Biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông Việt Nam), theo Nhật báo QGPND. Các chiến hạm lớn, tàu ngầm và máy bay chiến đấu từ ba hạm đội của Hải quân Trung Quốc đều tham dự vào một cuộc diễn tập được coi là lớn nhất từ năm 1950 khi Hải quân Trung Quốc được chính thức thành lập. “Trong cuộc diễn tập này, tàu chiến và tàu ngầm của Hạm đội Nam Hải thực hiện các cuộc tấn công chính xác vào các mục tiêu trên biển bằng tên lửa điều khiển từ xa (guided missiles) trong khi các tàu chiến thực hiện các trận phòng không chống tên lửa”, theo nhật báo chính thức của QGPND. Giám sát cuộc thao diễn, tham mưu trưởng QGPND, tướng Chen Bingde nói rằng Quân đội phải “chăm chú theo dõi các diễn biến của tình hình [quốc tế]” và “chuẩn bị vững vàng phòng khi phải đấu tranh quân sự”. Trong từ vựng Trung Quốc, “đấu tranh quân sự” có nghĩa là chiến tranh. Theo Tân Hoa xã, ngày 3 tháng Tám, QGPND mở màn một cuộc thao diễn quân sự 5-ngày tại hai tỉnh, trong đó có 12 ngàn binh sĩ và 7 loại máy bay từ Quân khu Tế Nam tham dự. Những cuộc điều binh, thực hiện cùng lúc tại 7 thành phố của tỉnh Hà Nam trong lục địa và tỉnh Sơn Đông trên biển Hoàng Hải, sẽ biểu diễn các cuộc sơ tán khẩn trương, lên kế hoạch tác chiến, thám thính, các hoạt động báo động sớm, phòng vệ địa-không, và di tản các trạm chỉ huy, trong một “môi trường điện từ phức tạp” (complicated electromagnetic environment). Những cuộc diễn tập này đang diễn ra chung quanh lần thứ 83 kỷ niệm ngày thành lập Quân Giải phóng Nhân dân, tức ngày 1 tháng Tám. Ở cuộc họp báo trước Ngày Quân lực, đại tá Cảnh Nhạn Sinh, người phát ngôn của Bộ Quốc phòng, nói rằng các bản tường trình thường xuyên về các cuộc thao diễn quân sự gần đây là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang cải thiện tính trong sáng. Vì thế, giới truyền thông không nên diễn giải quá đáng những cuộc tập trận này và đưa ra những suy đoán chủ quan về bất cứ “tình hình căng thẳng nào”. Tuy nhiên, đại tá Cảnh cũng nói rõ rằng Trung Quốc chống lại mọi âm mưu “quốc tế hoá” vấn đề Biển Nam Trung Hoa. Đây là lần đầu tiên bộ quốc phòng Trung Quốc công khai bình luận về một cuộc tranh cãi đang sôi nổi tiếp theo sau một tuyên bố trước đó của ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton khi bà cho rằng những vấn đề trong vùng này nằm trong “quyền lợi quốc gia” của Hoa Kỳ. Đại tá Cảnh nói rằng Trung Quốc có “chủ quyền không thể tranh cãi” trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông Việt Nam) và lãnh hải chung quanh. “Chúng tôi chống lại âm mưu quốc tế hoá biển Nam Trung Quốc”, ông Cảnh tuyên bố và nói thêm rằng Trung Quốc tôn trọng tự do đi lại của tàu bè và máy bay của các “quốc gia liên hệ” trong Biển Nam Trung Hoa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tại cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao tại diễn đàn ASEAN ở Hà Nội ngày 20 tháng Bảy, bà Clinton nói rằng Hoa Kỳ “có quyền lợi quốc gia trong việc tự do thông thương, tự do tiếp cận các vùng biển quốc tế tại Châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế trong Biển Nam Trung Hoa”. Bà bày tỏ hậu thuẫn cho một “tiến trình ngoại giao có sự hợp tác đa phương” về các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Nam Trung Hoa. Lời bình luận của bà Clinton rõ ràng là một phản ứng trước nguồn tin Trung Quốc tuyên bố Biển Nam Trung Hoa là “quyền lợi cốt lõi” của mình. Hãng tin Kyodo của Nhật Bản vào ngày 3 tháng Sáu đã trích dẫn một vài viên chức Trung Quốc giấu tên đã đưa ra xác quyết như trên với ông Jeffrey Bader thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ và ông James Steinberg thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Bắc Kinh vào tháng Ba năm nay. Như vậy, bề ngoài có vẻ như là, cuộc tranh chấp Biển Nam Trung Hoa được khởi động do Trung Quốc tuyên bố vùng này là “quyền lợi cốt lõi” của mình. Nhưng thực chất bên trong là, bà Clinton đã nắm lấy cơ hội này để triển khai một chính sách của Washington nhằm trở lại Châu Á tiếp theo sau việc bành trướng ảnh hưởng quá nhanh của Trung Quốc. Tuy nhiên, bằng cách nêu rõ Biển Nam Trung Hoa là “quyền lợi cốt lõi” của mình, Trung Quốc đã tự đặt mình vào một vị trí rất bị động, bằng cách thu hẹp tính cơ động chính trị và ngoại giao của mình và tạo ra nguy cơ đối đầu quân sự với các nước láng giềng và Hoa Kỳ. Đưa ra một tuyên bố quả quyết như vậy có nghĩa là Trung Quốc đang liều lĩnh từ bỏ những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại do cố lãnh tụ vĩ đại Đặng Tiểu Bình đề ra. Năm 1978, họ Đặng đến thăm Nhật Bản để ký Thỏa ước Hoà bình và Hữu nghị Trung-Nhật. Khi được hỏi về tình trạng đảo Điếu ngư (người Nhật gọi là Senkaku) mà hai bên đang tranh chấp, họ Đặng trả lời rằng cả hai nước nên gác qua một bên cuộc tranh chấp này: “Thế hệ chúng ta chưa đủ khôn ngoan để tìm một sự đồng thuận về vấn đề này. Các thế hệ tiếp theo chắc chắn sẽ khôn ngoan hơn chúng ta, lúc đó nhất định họ sẽ tìm ra một giải pháp mà cả hai bên đều chấp nhận”. Tháng Sáu 1979, Bắc Kinh chính thức đưa đề nghị yêu cầu Tokyo cùng hợp tác khai thác các tài nguyên ở vùng tiếp giáp đảo Điếu Ngư. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai tuyên bố lập trường là Trung Quốc sẵn sàng giải quyết tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng theo quan niệm “gác tranh chấp qua một bên để theo đuổi việc hợp tác phát triển”. Khi Trung Quốc mở quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á vào thập niên 70 và 80 thế kỷ trước, họ Đặng một lần nữa đề nghị gác lại các cuộc tranh chấp về quần đảo Trường Sa sang một bên để theo đuổi việc hợp tác phát triển (joint development). Hai bên tranh chấp có thể tìm kiếm một giải pháp đồng thuận về sau. Sau khi các chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào đầu thập niên 1990, họ Đặng đưa ra chính sách “thao quang dưỡng hối” gồm 24 chữ Trung Hoa có nghĩa là: “Bình tĩnh quan sát tình hình; giữ vững lập trường; bình tĩnh đối phó với mọi vấn đề; che giấu tiềm năng của mình để chờ thời cơ; duy trì một lối ứng xử khiêm nhượng; và đừng bao giờ cố gắng đi hàng đầu”. Về sau, một cụm từ 4-chữ nữa được thêm vào chính sách 24-chữ nói trên: “Cố gắng thực hiện cho kỳ được một số việc”. Nhờ họ Đặng soi đường dẫn lối như vậy, Trung Quốc đã nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng bị thế giới cô lập sau vụ đàn áp Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu 1989, bằng cách tiếp tục cải tổ kinh tế và mở cửa thị trường. Nhưng trong thập niên vừa qua, nhờ sức mạnh kinh tế ngày càng gia tăng, dù muốn dù không, Trung Quốc có khuynh hướng nắm vai trò chủ động hơn trong các vấn đề quốc tế. Vì vậy, nhiều nhà phân tích chính trị cho rằng Bắc Kinh đang dần dần từ bỏ chính sách “thao quang dưỡng hối” của Đặng Tiểu Bình. Nhưng liệu Trung Quốc đã có đủ điều kiện để giữ một vai trò lãnh đạo nổi bật trong các vấn đề quốc tế chưa? Có lẽ chưa. Trung Quốc cần tiếp tục phát triển thêm nữa, việc này đòi hỏi một môi trường hòa bình. Để duy trì hoà bình, Trung Quốc phải tạm gác một bên các cuộc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng và duy trì một lối ứng xử khiêm nhượng trong nhiều vấn đề quốc tế. Việc Trung Quốc tuyên bố rõ ràng Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông Việt Nam] là một “quyền lợi cốt lõi” của mình có thể đã đe doạ nghiêm trọng môi trường hòa bình trong vùng này. Theo định nghĩa, “quyền lợi cốt lõi” là quyền lợi quốc gia cao nhất, một quyền lợi, nếu cần, phải được bảo vệ bằng xương máu của nhân dân. Liệu Trung Quốc đã sẵn sàng để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong biển Biển Nam Trung Hoa bằng bạo lực hay chưa? Chưa đâu. “Một số cửa khẩu của đảo Nam Sa [Trường Sa] và Tây Sa [Hoàng Sa] vẫn còn bị các quốc gia khác chiếm đóng” một sĩ quan QGPND đóng tại Quảng Châu, không chịu tiết lộ danh tính, đã nói như vậy. “Ngay bây giờ, hình như không có cách nào khác hơn để giành lại chúng ngoài việc phải sử dụng các lực lượng quân sự. Việc này nhất định sẽ dẫn đến chiến tranh lâu dài. Những đảo nhỏ này lại ở quá xa lục địa Trung Quốc và nhiều đảo không thể cư ngụ được, điều này có nghĩa là nếu có giành lại thì cũng khó mà bảo vệ được chúng”. Ví như một cá nhân hoặc một số viên chức nào ở Bắc Kinh có thực sự tuyên bố Biển Nam Trung Hoa là một “quyền lợi cốt lõi” của Trung Quốc, thì chắc họ chỉ muốn nhắn nhe rằng người Mỹ phải biết ứng xử trong các hoạt động quân sự ở trong vùng, viên sĩ quan nói trên phát biểu. “Nếu chúng tôi thường xuyên gửi các hạm đội đến chạy dọc theo miền duyên hải Hoa Kỳ thì chính quyền Washington sẽ nghĩ sao?” Một điều kỳ lạ đáng ghi nhận là, một số nhà chiến lược quân sự Trung Quốc chống lại việc tùy tiện sử dụng ý niệm “lợi ích cốt lõi của quốc gia” trong các quan hệ quốc tế. Chẳng hạn, trang Quan điểm của Tân Hoa Xã tuần qua có đăng một bài bình luận nhan đề “Không được lạm dụng cụm từ ‘quyền lợi cốt lõi của quốc gia’” được viết bởi đại tá Han Xudong, phó giáo sư chiến lược quân sự tại Đại học Quốc Phòng – thường được mệnh danh là “chiếc nôi của những tướng lãnh của QGPND”. “Gần đây, cụm từ ‘quyền lợi cốt lõi của quốc gia’ đã trở nên rất ‘thời thượng’, được sử dụng thường xuyên, như thể mọi chuyện đang xảy ra đều có liên quan tới ‘quyền lợi cốt lõi của quốc gia’, cơ hồ như ai không dùng tới quan niệm này thì không đủ nhiệt tình yêu nước. Nhưng chúng ta phải biết rằng ý niệm ‘quyền lợi cốt lõi của quốc gia’ không được phép sử dụng một cách quá hời hợt”, bài bình luận đã mở đầu như thế, mặc dù không trực tiếp bàn về lời tuyên bố về Biển Nam Trung Hoa, được tường thuật [là của một số quan chức Bắc Kinh]. Thậm chí sau Chiến Tranh Lạnh, sức mạnh quân đội của một nước vẫn đóng một vai trò then chốt trong việc bảo vệ và bành trướng lợi ích quốc gia. Mặc dù đã lớn mạnh rất nhanh, “nhưng cơ bắp quân sự của ta vẫn còn yếu kém so với Hoa Kỳ”, đại tá Han viết. Nếu Trung Quốc nhất định tuyên bố một quyền lợi cốt lõi mà nước khác cũng nói là thuộc về họ, thì cuộc xung đột sẽ khó giải quyết bằng đường lối ngoại giao và chiến tranh rất dễ xảy ra. Ở giai đoạn này, Trung Quốc chưa có đủ khả năng để bảo vệ tất cả mọi quyền lợi cốt lõi của quốc gia. Vì thế, bây giờ chưa phải là lúc để khẳng định các quyền lợi cốt lõi của mình. Một khi đã phát triển hơn nữa sức mạnh quân sự, Trung Quốc mới có thể cân nhắc đến việc dần dần công bố các “quyền lợi cốt lõi” nào mà quốc gia đủ sức bảo vệ, đại tá Han viết trong bài bình luận. Từ quan điểm này, chính sách “thao quang dưỡng hối” và đề xuất “tạm gác [các tranh chấp lãnh thổ] để cùng hợp tác phát triển với các nước láng giềng” của Đặng Tiểu Bình vẫn chưa lỗi thời –ít nữa cũng chưa hoàn toàn lỗi thời. Wu Zhong Nguồn: “A daring departure from Deng”. Asia Times, ngày 06/08/2010 Bản tiếng Việt của Trần Ngọc Cư
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 30, 2011 7:21:37 GMT 9
Biến động Bắc Phi, Trung Đông và Trung Quốc Nguyễn Trường Trong hơn ba tháng qua, quần chúng "xuống đường" đã lật đổ hai chế độ ở Tunisia và Ai Cập, châm ngòi cuộc nội chiến ở Libya, và gây biến động trong nhiều xứ khác ở Bắc Phi và Trung Đông. Nhiều người đã tự hỏi: Phải chăng các chế độ độc tài vọng ngoại hiện đang bị đe dọa bởi làn sóng dân chủ mới? CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA HOA KỲ Chính quyền Bắc Kinh rõ rệt đang lo ngại. Nhiều biện pháp khắt khe đã được áp dụng nhằm theo dõi, kiểm soát, kiềm chế hoặc ngăn chặn tin tức về các biến động ở Bắc Phi và Trung Đông, các nhà hoạt động đối lập và phóng viên báo chí ngoại quốc, kể cả các lời cổ súy vô danh trên Internet về Cách Mạng Hoa Nhài ở TQ. Trang bình luận gần đây trên Bắc Kinh Nhật Báo, cơ quan chính thức của đảng bộ thành phố, đã viết: phần lớn quần chúng ở Trung Đông không mấy hài lòng với các vận động đối kháng trong xứ họ - những "biến động tự lừa dối"[1] do một thiểu số giàn dựng. Riêng chủ tịch Hồ Cẩm Đào cũng đã thúc đẩy tăng cường Bức Tường Lửa - một guồng máy kiểm duyệt và giám sát tinh vi mạng Internet. Các động thái vừa nói của giới lãnh đạo TQ không phải không có lý do. Chỉ cần tỉnh táo phân tích những gì người Mỹ đã và đang theo đuổi ở Iraq, Iran, Afghanistan, Pakistan, Honduras, và gần đây ở Bắc Phi và Trung Đông, nhất là ở Libya, chúng ta cũng có thể thông cảm một phần nào với thái độ thận trọng của TQ. Thực vậy, người Mỹ, trong thực tế, khó lòng làm được gì khác sau những phiêu lưu quân sự tai họa ở Iraq, Afghanistan, Pakistan, và nhất là sau Đại Suy Thoái Kinh Tế 2008. Cũng như các đế quốc trong thời mạt vận trước đây, Hoa Kỳ đã tỏ ra dễ bị lôi cuốn vào các phiêu lưu quân sự ở hải ngoại. Có lẽ đã đến lúc Hoa Kỳ nên từ bỏ bá quyền và đóng cữa trên dưới 800 căn cứ quân sự trên khắp thế giới, khả dĩ tập trung mọi nổ lực chấn chỉnh nội bộ và giải quyết gánh nợ khổng lồ đối với các nước ngoài. Tuy vậy, gần đây chính quyền Mỹ hình như đã tìm được một chiến lược mới, ít tốn kém hơn: những chiến dịch xây dựng dân chủ. Dưới nhiều hình thức, và qua trung gian các tổ chức phi chính phủ -NGO, họ đã tài trợ và huấn luyện hàng nghìn cán bộ về các kỹ năng xã hội trong nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt ở Á, Phi, Nam Mỹ, nhất là Trung Đông, những xứ TQ đang có nhiều ảnh hưởng chính trị và quyền lợi kinh tế. Nói rõ hơn, qua các phương tiện truyền thông xã hội, social media, như mạng Internet, Facebook, Twitter..., người Mỹ đã tiến hành cuộc chiến truyền thông và kiểm soát tự động, cyberwar. Mục tiêu là len lỏi hay cài người vào giới lãnh đạo địa phương để thể hiện nghị trình kinh tế, chính trị của Mỹ dưới chiêu bài Cách Mạng Dân Chủ. Cho đến nay, hình như họ đang khá thành công, và đang trông chờ ở ripple effects hay hiệu ứng làn sóng lan truyền. Theo những công điện ngoại giao do WikiLeaks tiết lộ gần đây, những hoạt động nầy đã được chuẩn bị qua các chương trình huấn luyện và tài trợ bởi The International Republican Institute, The National Democratic Institute và Freedom House - một "tổ chức nhân quyền bất vụ lợi" ở Hoa Thịnh Đốn. Những Viện Cộng Hòa và Dân Chủ - hai tổ chức liên kết với Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ - do Quốc Hội Hoa Kỳ sáng lập và tài trợ qua The National Endowment for Democracy, thành lập năm 1983, để phân phối ngân khoản tài trợ các hoạt động "phát huy dân chủ" trong các quốc gia đang phát triển. The National Endowment nhận 100 triệu USD mỗi năm từ Quốc Hội. Freedom House cũng được chính quyền tài trợ, phần lớn qua Bộ Ngoại Giao. Stephen McInerny, giám đốc Dự Án Dân Chủ Trung Đông, có trụ sở ở Hoa Thịnh Đốn, cho biết:"Chúng tôi không tài trợ để khởi động các cuộc phản đối, nhưng chúng tôi đã giúp phát triển các kỹ năng và cách kết nối. Việc huấn luyện đã giữ một vai trò trong những gì cuối cùng đã xẩy ra, nhưng đó là cuộc cách mạng của chính họ. Chúng tôi đã không giữ vai trò khởi động"[2]. Không một nhà khoa học xã hội hay phân tích tình báo nào đã dự báo thời điểm chính xác và tiềm năng lan tràn của "làn sóng cách mạng dân chủ Á Rập" - sự kiện cuộc phản kháng đầu tiên đã xẩy ra ở Tunisia, thay vì ở bất cứ nơi nào khác, đã được khởi động bởi sự tự thiêu của một người bán rong hoa quả ; hay những biến động buộc quân đội Ai Cập đã phải bỏ rơi Tổng Thống Hosni Mubarak. Trong nhiều thập kỷ, thế giới Á Rập đã tỏ ra ổn định một cách kỳ lạ. Tại sao các cuộc xuống đường phản đối lại bất thần bùng nổ vào năm 2011 ở các xứ nầy là một điều chỉ có thể hiểu được sau khi đã thực sự trải nghiệm. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ - LÝ THUYẾT SAMUEL HUNTINGTON Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa chúng ta không thể quan niệm có thể có các cuộc cách mạng xã hội được tổ chức cẩn mật hơn. Ngay cả những sự kiện bất khả dự đoán cũng phải diễn ra trong một khung cảnh nào đó, và tình trạng Trung Quốc và Trung Đông hiện nay hoàn toàn khác biệt. Hầu hết các chỉ dấu đều chứng tỏ TQ khá an toàn trước làn sóng dân chủ đang diễn ra ở rất nhiều nơi trên thế giới, ít ra cho đến nay. Có lẽ tư tưởng gia thích ứng nhất có thể hiểu rõ Trung Đông hiện nay và TQ mai sau là Samuel Huntington - không phải Huntington tác giả cuốn "Sự Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh" - The Clash of Civilizations, người đã đưa ra luận cứ có những dị biệt hay bất thích ứng căn bản giữa Hồi Giáo và dân chủ, mà là Huntington tác giả tác phẩm kinh điển Trật Tự Chính Trị Trong Các Xã Hội Đang Thay Đổi - Political Order in Changing Societies, xuất bản lần đầu năm 1968, trình bày lý thuyết hố cách biệt trong phát triển - the development gap. Quan sát tình trạng bất ổn định chính trị lan tràn trong thế giới đang phát triển trong các thập kỷ 1950 và 1960, Huntington đã ghi nhận: trình độ phát triển kinh tế và xã hội cao thường đưa đến các xáo trộn như đảo chính, cách mạng, và quân đội cướp chính quyền. Theo tác giả, điều nầy có thể được giải thích bởi hố cách biệt giữa những thành phần vừa mới được khích động, có học vấn, và có khả năng kinh tế, và hệ thống chính trị hiện hữu, nói một cách khác, giữa những kỳ vọng tham gia vào sinh hoạt chính trị và các định chế không cho phép họ thể hiện những ước mơ của mình. Theo Huntington, sự kiện chống đối trật tự chính trị hiện hữu ít khi do các người nghèo khó nhất trong giới nghèo, mà thường do các tầng lớp trung lưu bức xúc vì thiếu cơ hội tham gia vào sinh hoạt chính trị và kinh tế trong các xã hội liên hệ. Những nhận xét vừa nói hình như khá đúng với Tunisia và Ai Cập. Cả hai đã ghi được nhiều tiến bộ xã hội quan trọng trong những thập kỷ gần đây. Chỉ Số Phát Triển Nhân Văn (Human Development Indices) thu thập bởi Liên Hiệp Quốc (một mực thước đo lường hỗn hợp về y tế, giáo dục, và lợi tức) đã gia tăng 28% ở Ai Cập và 30% ở Tunisia trong các năm giữa 1990 và 2010. Số người đến trường cũng đã gia tăng đáng kể. Đặc biệt ở Tunisia, số sinh viên tốt nghiệp đại học khá đông. Thực vậy, các biến động đối kháng ở Tunisia và Ai Cập đã được phát động trước hết bởi các thành phần trung lưu trẻ tuổi, có học, có kỹ năng, sẵn sàng bày tỏ với những ai lắng nghe những bức xúc của họ đối với xã hội - chẳng hạn, không được phép trình bày quan điểm; không thể buộc cấp lãnh đạo chịu trách nhiệm về tệ nạn tham nhũng; và bất lực, hay không thể kiếm được việc làm nếu không có thế lực chính trị. Huntington nhấn mạnh đến khả năng gây bất ổn của những nhóm xã hội mới đang tìm cơ hội tham gia vào sinh hoạt chính trị. Trước kia, người dân thường được khích động bởi báo chí và truyền thanh. Ngày nay, họ thường được thúc đẩy hành động qua điện thoại di động, Facebook và Twitter, những phương tiện giúp họ chia sẻ những ấm ức, bất bình đối với hệ thống chính trị, và học hỏi những điều mới lạ ở thế giới rộng lớn bên ngoài. Sự thay đổi ở Trung Đông đã đến rất nhanh, và đã thay thế các sự thật xa xưa như tính thụ động của văn hóa A Rập và tính đề kháng trước nhu cầu canh tân của Hồi giáo. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ VÀ TRUNG QUỐC Nhưng liệu những phân tích trên đây có thể giúp chúng ta được gì trong việc tìm hiểu các nguyên do khả dĩ gây bất ổn định trong tương lai ở TQ? Quả thật mồi lửa bất bình xã hội luôn hiện diện ở TQ cũng như ở Trung Đông. Nguyên do khởi động phong trào phản kháng ở Tunisia là sự cố tự thiêu của Mohamed Bouazizi, người đẩy xe rau cải, hoa trái ... đi bán rong, bị nhà cầm quyền tịch thu nhiều lần, và bị cảnh sát tát tai và sỉ nhục khi khiếu nại. Đây là điều luôn xẩy ra trong các chế độ thiếu thượng tôn luật pháp: nhà cầm quyền thường có hành động thiếu tôn trọng nhân phẩm của người dân. Lối đối xử nầy luôn gây căm hờn trong mọi nền văn hóa. Đây là một vấn đề lớn và phổ biến ở TQ. Một phúc trình gần đây của Đại Học Jiao Tong cho biết đã có 72 vụ biến động xã hội nghiêm trọng ở TQ trong năm 2010, tăng 20% so với năm trước. Hầu hết các quan sát viên bên ngoài đều đồng ý con số các vụ biến động trong thực tế vượt xa con số nói trên. Những biến động loại nầy rất khó kiểm chứng bởi lẽ thường xẩy ra trong các vùng nông thôn, những nơi báo chí thường bị nhà cầm quyền kiểm duyệt gắt gao. Trường hợp điển hình nhất liên quan đến vi phạm nhân quyền ở TQ ngày nay là chính quyền địa phương toa rập với giới kinh doanh bất động sản tước đoạt đất đai của dân quê để thực hiện các dự án hoành tráng, hay một công ty xử lý chất thải gây ô nhiễm cho nguồn nước một cách vô trách nhiệm mà chẳng có biện pháp chế tài, bởi lẽ cá nhân cấp lãnh đạo đảng ở địa phương có nhiều quyền lợi trong công ty. Mặc dù không đến mức cướp đoạt trắng trợn như ở nhiều xứ Phi châu hay Trung Đông, nạn tham nhũng vẫn tràn lan ở TQ. Người dân chứng kiến và phẫn uất trước lối sống với nhiều đặc quyền đặc lợi của giới thượng lưu và gia đình. Phim Avatar đã rất được ưa thích ở TQ một phần vì nhiều người Hoa đồng cảm với dân địa phương có đất bị một đại công ty thiếu trách nhiệm cưởng đoạt, như đã được phản ảnh trong phim. Hơn nữa, hố cách biệt giàu nghèo lớn lao và ngày một gia tăng cũng là vấn đề gây nhiều phẫn nộ ở TQ. Hầu hết lợi ích từ tỉ suất tăng trưởng choáng ngợp ở TQ đã được phân phối bất cân xứng - tập trung trong các tỉnh ven biển và bỏ quên nhiều khu vực nông thôn nằm sâu trong lục địa. Chỉ số Gini - một chuẩn mực đo lường trình độ chênh lệch lợi tức phân phối trong xã hội - đã tăng lên mức không mấy khác các xứ Mỹ La Tinh trong vòng một thế hệ. Để so sánh, phân phối lợi tức ở Ai Cập và Tunisia tương đối ít chênh lệch hơn. Tuy nhiên, theo Huntington, cách mạng thường được khởi động, không phải bởi người nghèo, mà bởi giai cấp trung lưu đang đi lên - hiện rất đông ở TQ - với nhiều khát vọng không được đáp ứng. Tùy theo định nghĩa, giai cấp trung lưu ở TQ còn vượt quá tổng dân số của Hoa Kỳ. Tương tự với giai cấp trung lưu ở Ai Cập và Tunisia, giai cấp trung lưu ở TQ cũng chẳng có nhiều cơ hội để tham gia vào sinh hoạt chính trị. Nhưng khác với giới trung lưu ở Trung Đông, giai cấp trung lưu ở TQ đã được thụ hưởng nhiều lợi ích từ một nền kinh tế tăng trưởng ngày một nhanh và một chính quyền luôn chú tâm vào việc tạo công ăn việc làm cho chính tầng lớp họ. Trong chừng mức công luận được đo lường qua các cuộc thăm dò, như Phong Vũ Biểu Á Châu (Asia Barometer) ở TQ, một đa số lớn lao người Hoa cảm thấy đời sống kinh tế của họ ngày một được cải thiện trong những thập kỷ gần đây. Đa số người Hoa cũng tin dân chủ là hình thức chính quyền tốt nhất, nhưng đồng thời họ cũng nghĩ TQ đang có dân chủ và tỏ ra thỏa mãn với tình trạng hiện hữu. Điều nầy chuyển hóa thành một trình độ hậu thuẫn tương đối thấp dành cho bất cứ cuộc vận động dân chủ tự do đích thực nào. Thực vậy, chúng ta có lý do để tin giai cấp trung lưu TQ có thể e ngại một loại dân chủ đa đảng, bởi lẽ nó có thể phát động những đòi hỏi tái phân lợi tức lớn lao ngay từ giới đang bị bỏ lại phía sau. Những người Hoa trù phú thấy sự phân cực bình dân trong sinh hoạt chính trị gần đây ở Thái Lan, như một cảnh cáo về những bất ổn định và biến động, dân chủ có thể mang lại. Trong thực tế, chất lượng của chủ nghĩa toàn trị ở TQ vẫn có một giá trị cao hơn rất nhiều so với Trung Đông. Mặc dù không chính thức chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân qua các cuộc bầu cử trực tiếp, chính quyền TQ luôn cẩn trọng theo dõi những bất mãn của quần chúng và thường đáp ứng bằng cách xoa dịu thay vì đàn áp. Chẳng hạn, Bắc Kinh đã thẳng thắn công nhận hố cách biệt ngày một gia tăng trong phạm trù phân phối lợi tức, và trong nhiều năm gần đây đã tìm cách giảm thiểu tình trạng bất cân xứng qua biện pháp chuyển hướng đầu tư qua những vùng sâu vùng xa nghèo khó bên trong đại lục. Trong các trường hợp rõ ràng có tham nhũng hay lạm quyền, như vụ sữa bột trẻ em bị nhiễm melamine hay chuẩn mực xây cất trường ốc tồi tệ đã được phơi bày qua tai họa động đất ở Tứ Xuyên, chính quyền thường không nương tay nghiêm trị các quan chức địa phương, đôi khi ngay cả xử tử hình. Một nét đặc trưng đáng ghi nhận khác của chính quyền TQ là quy luật tự nguyện chi phối quá trình thay đổi cấp lãnh đạo. Cấp lãnh đạo A Rập như Zine al-Abidine Ben Ali ở Tunisia, Mubarak ở Ai Cập, và Muammar Gadhafi ở Libya, chẳng bao giờ tự hiểu lúc nào phải ra đi, thay vào đó đã bám lấy quyền hành liên tục trong 23, 30, và 41 năm. Kể từ thời chủ tịch Mao Trạch Đông, cấp lãnh đạo TQ luôn chấp hành đứng đắn nhiệm kỳ khoảng 10 năm. Theo lịch, đương kim Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào sẽ hưu trí vào năm 2012 và nhường chỗ cho Phó Chủ Tịch Xi Jinping. Thay đổi lãnh đạo có nghĩa đem lại nhiều cơ hội để canh tân chính sách, trái ngược với các xứ Tunisia và Ai Cập luôn bị kẹt cứng trong lối mòn của chủ nghĩa tư bản thân thuộc (crony capitalism) trong nhiều thập kỷ. Chính quyền TQ cũng tỏ ra khôn khéo và cứng rắn hơn trong phương cách trấn áp. Khi đối diện với một đe dọa rõ ràng, nhà cầm quyền không bao giờ để cho các kênh truyền thông Tây phương loan truyền trước. Facebook và Twitter bị ngăn cản, nội dung các mạng internet, websites, và các phương tiện truyền thông xã hội có trụ sở ở TQ được sàng lọc bởi đội quân kiểm duyệt. Đã hẳn, lời đồn về những việc làm tội lỗi của chính quyền rất có thể lọt ra bên ngoài trong khoảng thời gian từ khi lên mạng một micro-blogger và khi bị xóa bỏ bởi một nhân viên kiểm duyệt, nhưng trò chơi trốn tìm nầy đã gây khó khăn và trở ngại cho một không gian xã hội có đủ thì giờ xuất hiện. Một nét đặc trưng khác mang tính quyết định: bản chất của quân đội TQ. Do nét đặc trưng nầy, tình hình TQ sẽ rất khác với Trung Đông. Số phận các chế độ toàn trị đối diện với sự phản kháng của quần chúng cuối cùng cũng phụ thuộc ở trình độ trung thành của các tổ chức quân sự, cảnh sát và tình báo. Quân đội Tunisia đã sớm từ chối ủng hộ Ben Ali; sau chút ít do dự, quân đội Ai Cập cũng đã quyết định không nổ súng đàn áp dân biểu tình và lật đổ Mubarak. Ở TQ, Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân (PLA) là một tổ chức khổng lồ và ngày một độc lập với nhiều quyền lợi kinh tế đòi hỏi phải duy trì hiện trạng. Như trong cuộc trỗi dậy ở Thiên An Môn năm 1989, PLA có nhiều đơn vị trung thành ở khắp TQ có thể được huy động về Bắc Kinh hay Thượng Hải, và các đơn vị nầy có thể không mấy do dự khi phải đàn áp người biểu tình. PLA tự xem có sứ mệnh phải bảo vệ "tinh thần quốc gia" ở TQ. PLA đã khai triển một tự truyện thay thế cho lịch sử thế kỷ 20 với địa vị của chính mình ngay trung tâm các biến cố: đánh bại phát xít Nhật trong cuộc chiến Thái Bình Dương và sự trỗi dậy của một Trung Quốc hiện đại. Thật khó lòng quan niệm PLA có thể thay đổi lập trường để hậu thuẫn một phong trào dân chủ manh nha trong thời tuột dốc của đế quốc Hoa Kỳ. Một nền dân chủ - trong đó Bộ Chính Trị Đảng chỉ định các ứng viên để cử tri lựa chọn, nhưng đã từng đối phó thành công với cuộc Đại Suy Thoái 2008 và giữ vai trò đầu tàu kinh tế đối với các quốc gia khác trên thế giới - khó lòng chấp nhận đi theo một nền dân chủ - trong đó Wall Street sàng lọc và đề cử các ứng viên cả Dân Chủ lẫn Cộng Hòa để cử tri chọn lựa - đang trên đà tuột dốc. Xét cho cùng, TQ sẽ không lây nhiễm căn bệnh biến động đang lan tràn ở Bắc Phi và Trung Đông, ít ra trong một tương lai gần. Tuy vậy, TQ vẫn có thể đối mặt với nhiều vấn đề trọng đại trong tương lai dài lâu. TQ chưa hề trải nghiệm một cuộc khủng hoảng quan trọng hay suy thoái kinh tế kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế năm 1978. Nếu bong bóng bất động sản hiện nay xì xẹp và hàng chục triệu người mất việc, tính chính đáng của chính quyền, vốn cơ sở trên căn bản khả năng quản lý kinh tế, rất có thể sẽ bị xói mòn. Hơn nữa, kịch bản các chờ đợi đang lên nhưng chưa được thỏa mãn của tầng lớp trung lưu vẫn còn đang tiếp diễn. Mặc dù hiện nay TQ đang thiếu nhân công ít khả năng chuyên môn, nhưng số thanh niên nam nữ tốt nghiệp đại học lại thặng dư. Mỗi một năm, trên 7 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, so với con số trên dưới một triệu trong năm 1998, và nhiều người trong số nầy đang tranh đua kiếm việc làm thích ứng với khả năng của chính mình. Một vài triệu thanh niên tốt nghiệp đại học thất nghiệp còn nguy hiểm đối với một chế độ đang canh tân hơn hàng trăm triệu nông dân nghèo nàn. Ngoài ra, còn có vấn đề người TQ thường gọi: " bạo chúa" hay quốc vương xấu . Những thành tích trong lịch sử TQ qua nhiều thế kỷ đã là thành quả của sự kiến tạo một chính quyền trung ương xuất sắc. Khi người trị vì chuyên chế có đủ khả năng và trách nhiệm, mọi việc có thể rất tốt đẹp. Thực vậy, việc lấy quyết định, trong trường hợp nầy, thường hữu hiệu hơn trong một thể chế dân chủ. Nhưng chẳng có gì bảo đảm hệ thống sẽ luôn đem lại những "minh quân" như vua Nghiêu vua Thuấn, và khi thiếu vắng tinh thần thượng tôn luật pháp và giám sát bởi cử tri đối với quyền hành pháp, không có một phương cách nào khác để loại bỏ một bạo chúa như Tần Thủy Hoàng. Chúng ta không thể biết một bạo chúa hay một lãnh tụ tham ô nào đang chờ đợi lên nắm quyền ở TQ trong tương lai. Sự thật là dù chúng ta có thể đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau về các nguyên nhân đưa đến cách mạng xã hội, xã hội con người vẫn luôn phức tạp và đổi thay nhanh chóng, để một lý thuyết đơn giản có thể cung cấp một sự hướng dẫn khả tín. Biết bao quan sát viên, căn cứ trên kiến thức uyên thâm về Trung Đông, đã loại bỏ lý thuyết sức mạnh của đường phố A Rập có thể đem lại thay đổi chính trị, họ đều luôn đúng trong mọi năm cho mãi đến năm 2011. Điều khó tiên đoán nhất đối với bất cứ quan sát viên chính trị nào là yếu tố đạo đức. Tất cả các cuộc cách mạng xã hội đều được khởi động bởi một sự giận dữ mãnh liệt khi một nhân cách bị thương tổn. Một nổi oan ức hay căm hận, đôi khi kết tinh của một biến cố đơn độc hay một hình ảnh đau thương, có thể động viên nhiều cá nhân trước đó rời rạc và kết nối họ thành một cộng đồng. Chúng ta có thể đưa ra các con số thống kê về giáo dục hay tăng trưởng trong việc làm, hay đào sâu vào kiến thức về lịch sử và văn hóa một xã hội, và vẫn hoàn toàn không hiểu nổi phương cách ý thức xã hội đang diễn biến nhanh chóng qua vô số những thông điệp, những videos chia sẻ hay những câu chuyện trao đổi đơn thuần. Yếu tố đạo đức then chốt khó đo lường ở TQ là giai cấp trung lưu, cho đến nay, hình như luôn bằng lòng đánh đổi tự do chính trị để đổi lấy mức lợi tức ngày một gia tăng và ổn định. Tuy nhiên, đến một thời điểm nào đó, sự đánh đổi rất có thể thất bại; chế độ không còn khả năng đem lại món hàng trao đổi, hay thiếu tôn trọng nhân quyền ở TQ trở nên quá lớn để có thể tha thứ. Chúng ta không nên lầm tưởng chúng ta có thể tiên đoán chính xác thời điểm khả dĩ bùng nổ. Tuy nhiên, như Samuel Huntington đã gợi ý, sự kiện khả dĩ đó luôn buộc chặt với logic của chính quá trình canh tân. Trong thực tế, hình như Samuel Huntington đã không tiên liệu được yếu tố nằm ngoài logic - chiến lược mới của Hoa Kỳ và các đồng minh trong khối NATO: Chiến Dịch Xây Dựng Dân Chủ và Nghị Trình Chặn Đứng Ảnh Hưởng của Siêu Cường Trung Quốc ở Á châu, Phi châu và châu Mỹ La Tinh. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 19-4-2011 -------------------------------------------------------------------------------- [1] ...a self-delusional ruckus. [2] Stephen McInerny: "We didn't fund them to start protests, but we did help support their development of skills and networking. That training did play a role in what ultimately happened, but it was their revolution. We didn't start it".
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2011 3:22:12 GMT 9
Trung Quốc phản ứng ngầm nhân cuộc cách mạng Ai Cập Mặc Lâm, biên tập viên RFA Một bài báo vừa xuất hiện trên trang mạng của Ấn Độ đăng lại bài viết đầy cay cú lên án những nỗ lực của Mỹ đang cố lôi kéo nhiều nước trong khu vực nhằm bao vây Trung Quốc. Ý nghĩa thật sự của bài báo này là gì? Bài báo này được biết đã đăng trên một tạp chí chính thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và được trang mạng DNA của Ấn Độ trích đăng lại. Nội dung bài viết đáng chú ý ở chỗ người viết nhận xét những động thái gần đây của Hoa Kỳ nhằm kết hợp những bất đồng của các nước trong khu vực đối với Trung Quốc để ngấm ngầm thúc đẩy các nước này ngồi lại với nhau sau lưng Hoa Kỳ. Bài báo nhấn mạnh ở điểm Trung Quốc cần phải nhìn thấy những hiểm nguy tiềm ẩn phía sau những điều mà bài báo cho rằng là không thể chịu đựng nỗi. Tờ báo gợi ý rằng trước những ý đồ rõ ràng này thì Bắc Kinh cần phải đưa ra một thông điệp trực tiếp đối với các nước đang có biểu hiện tiến gần về phía Mỹ, mà trước nhất là Ấn Độ, đối trọng tiềm năng nhất đối với Trung Quốc về quân sự lẫn kinh tế. Bài báo không đưa ra một chính sách cụ thể nào để Trung Quốc lôi kéo Ấn Độ hay các nước nhỏ hơn trong khu vực về phía mình mà tờ báo làm người đọc hết sức ngạc nhiên khi luận điểm chính của bài viết là Trung Quốc cần tỏ rõ sức mạnh của mình qua các hoạt động quân sự, nói thẳng ra tờ báo cỗ vũ cho một cuộc chiến nếu cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho Bắc Kinh. Hiếu chiến hay không? Bài báo không ngần ngại khi viết rằng:“Chúng ta phải gửi một tín hiệu rõ ràng tới các quốc gia láng giềng, rằng Trung Quốc không sợ chiến tranh, và sẵn sàng tiến hành chiến tranh vào bất kỳ thời điểm nào để bảo vệ lợi ích quốc gia” Nguy hiểm hơn bài viết đưa ra quan điểm mà khi đọc lên bất cứ ai hiểu rõ chủ thuyết bá quyền của nước này đều không khỏi giật mình nhớ lại những gì từng xảy ra trong thời gian gần đây, bài báo nhắc: “Trong suốt lịch sử của nước Trung Hoa mới từ năm 1949 trở về sau, hòa bình ở Trung Quốc chưa bao giờ có được bằng cách nhượng bộ, mà chỉ có được thông qua chiến tranh. Việc bảo vệ lợi ích quốc gia chưa bao giờ đạt được thuần túy thông qua đàm phán, mà phải bằng chiến tranh” Lời lẽ hiếu chiến này nêu lên vào lúc này có ý nghĩa gì khi Trung Quốc chính thức nêu trực tiếp đến Ấn Độ, một nước có đường biên giới rất dài với Trung Quốc và đồng thời có những tranh chấp biên giới không thể hàn gắn từ nhiều chục năm qua. Giáo sư Ngô Vĩnh Long một chuyên gia về Trung Quốc hiện đang giảng dạy tại đại học Main của Hoa Kỳ đưa ra nhận xét về những hiềm khích này: "Các vấn đề biên giới chung quanh với nước khác thì Trung Quốc đã dàn xếp với nhiều nước rồi, còn riêng với Ấn Độ thì nó luôn luôn hiềm khích và nước này luôn nhượng bộ rất nhiều lần. Năm ngoái, một ông tướng Ấn Độ muốn sang thăm Trung Quốc nhưng Trung Quốc không cho, thành ra tôi nghĩ chuyện này Trung Quốc chỉ dàn dựng để mà đe dọa hay là lấy sự ủng hộ của dân chúng trong nước mà thôi." Bài viết cũng nhắc đến những nước trong vùng Đông Nam Á khác có liên quan đến nỗ lực mà bài viết gọi là theo chân Mỹ chẳng hạn như Nhật bản, Hàn quốc, Philippines, Ấn độ, Úc, Indonesia và kể cả Việt Nam. Bài viết chừng như quên hẳn Việt Nam đã và đang là đồng chí của Trung Quốc kể cả trên chủ thuyết lẫn chính sách. Hà Nội gần như là một phiên bản của Bắc Kinh và mọi thời tiết chính trị thế giới đều khiến hai nước phản ứng gần như tương tự. Lịch sử gần đây tuy cho thấy hai nước không còn nồng ấm nhưng kết luận Hà Nội đang quay đầu con tàu quốc gia sang phương Tây, chủ yếu là Mỹ thì rõ ràng là một kết luận không thể gọi là tỉnh táo và chính xác nếu không muốn nói là đầy ác ý. Trung Quốc luôn luôn canh chừng người láng giềng của mình một cách cẩn thận vì thừa biết tuy nhỏ nhưng Việt Nam không dễ bắt nạt qua hàng ngàn năm chiến tranh. Sự thật lịch sử cho thấy lúc nào thì chiếc hạt tiêu bé tí này cũng đủ khả năng làm cay mắt người khổng lồ phương Bắc và nhiều lúc phải cay đắng quay đầu chạy ngược về hướng xuất phát. Trong bài viết của cơ quan Đảng Cộng Sản Trung Quốc người đọc nhận thấy bài viết kết luận khá rõ ràng rằng các nước đang lợi dụng tình hình để lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc diện mới chứ không hẳn là do Mỹ chủ động. Bài viết cho rằng các nước đang lợi dụng tối đa để lôi kéo Mỹ vào cuộc chơi đầy nguy hiểm cho Bắc Kinh. Kinh nghiệm từ ngoại giao Trước những lập luận như vậy, bao nhiêu phần trăm là sự thật đang xảy ra trước hiện tượng mà bài viết cho là nhiều nước đang chủ động tập trung sức mạnh để chống Trung Quốc? Từ Hà Nội, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho biết ý kiến ngắn gọn của ông thông qua kinh nghiệm ngoại giao mà ông có đối với nước này. Trước câu hỏi về sự thật phía sau 16 chữ mà hai nước ký kết ông nói: "Lãnh đạo của chúng tôi chưa dám nói gì đâu, còn quan điểm của tôi đối với Trung Quốc thì đã rõ ràng là Trung Quốc nói 16 chữ nhưng trong hành động thực tế thì nó trái với 16 chữ. Tôi đã vạch ra rồi tôi nói rằng là: Hãy xem người Trung Quốc làm chớ vội nghe người Trung Quốc nói. Việt Nam cần phải làm gì trước những biến chuyển ngày càng bất lợi cho đất nước khi mà không thể mãi mãi chịu đựng sự chèn ép ngày một vô lý hơn của người đồng chí bất đắc dĩ này, Giáo sư Ngô Vĩnh Long gợi ý: "Trước hết, Việt Nam từ trước đến giờ nhiều người nghĩ đến Trung Quốc như một ông anh cả cho nên họ không nghĩ đến chuyện có thể liên kết với nước ngoài trong đó có các nước tại Đông nam á kể cả ASEAN. Nhiều người chê Asian là một tổ chức hỗn tạp, không đồng nhất nhưng vấn đề không phải chỗ đó, vấn đề là nếu có một vài nước lớn trong ASEAN ủng hộ Việt Nam và cho thấy rằng Việt Nam là đúng thì các nước lớn khác ở ngoài khu vực như Mỹ, Hàn quốc, Nhật hay Úc...cũng sẽ có cái cớ để mà có tiếng nói. Năm qua, khi chuyện biển Đông xảy ra, trước hết Mỹ lên tiếng rồi Việt Nam lên tiếng và khi Việt Nam lên tiếng thì nhiều nước đã ủng hộ Việt Nam. Đó là một bài học. Tôi không nghĩ chỉ có một mình mình ở sát Trung Quốc, khi nhận thấy vấn đề phải làm thì cần phải làm ngay cho sớm đừng để nước tới chân mới nhảy." Trong thế giới đa cực như hiện nay, việc một nước lớn xâm lăng một nước khác thật không dễ dàng xảy ra. Tuy nhiên trước những răn đe đầy hiếu chiến của Bắc Kinh các nước ASEAN một ngày nào đó sẽ nhận ra nguy cơ và lúc ấy liệu có muộn không khi ngay bây giờ khối 10 quốc gia này không có bất cứ một hành động cụ thể nào cả? Tuy nhiên câu hỏi đặt ra liệu bài báo có thật là đang lo ngại cho sự kết hợp các nước trong khu vực để chống Trung Quốc hay không? Khi làm một việc khá phức tạp như thế Hoa Kỳ có lợi gì, và liệu Trung Quốc có đáng để Hoa Kỳ lo ngại như vậy hay không? Có phải vì lo ngại từ cuộc cách mạng Ai cập? Người ta có thể không khó khăn lắm để thấy rằng bài báo tung ra vào lúc này thật ra phát xuất từ biến cố Tunisia và Ai Cập. Hai chính phủ cùng lúc sụp đổ trong vòng vài tuần lễ là điều mà trước nay không ai dám nghĩ tới. Sự bức bối của người dân đặc biệt là giới trẻ đã khiến Trung Quốc giật nảy mình khi nhớ lại biến cố Thiên An Môn, một biến cố đầy máu và nước mắt mà người dân Trung quốc không thể nào quên. Sự lo sợ này khiến cơ quan ngôn luận của Đảng không ngần ngại gì khi đưa ra một chủ đề kêu gọi tính tự tôn dân tộc của người Hán nhằm gây mê cho một bộ phận dân chúng không hề biết gì đến những quyền căn bản của mình bị xâm hại mà chỉ nghĩ đến quyền lợi dân tộc đang bị đe dọa trước thế lực của Mỹ và các nước kết hợp nhau lại nhằm chống Trung Quốc. Giáo sư Ngô Vĩnh Long cũng đồng tình với nhận xét này, ông nói: "Thật ra bao nhiêu năm qua thì Trung Quốc là nước gây hấn với các nước láng giềng chứ không phải ngược lại. Biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc thì Trung Quốc rất căng thẳng với Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng Trung Quốc lo sợ các mối hiểm họa vì nước này có cái câu là "nầy loàng quầy hoàn" nghĩa là "nội loạn thì ngoại hoãn". Trung Quốc sợ người dân có thể bắt chước Ai Cập để đòi tự do nên dùng vấn đề đe dọa của nước ngoài để đàn áp ở bên trong, làm cho dân chúng cảm thấy bị đe dọa từ bên ngoài nên ủng hộ chính phủ." Dù sao thì sự lo ngại của Trung Quốc là điều có thể hiểu được, chỉ khó hiểu khi nước này lại sử dụng đến dân tộc chủ nghĩa, một thứ vũ khí rất nguy hiểm để đánh lạc hướng dư luận thì rõ ràng là không thích hợp trong hoàn cảnh khá nhạy cảm hiện nay nhất là trong vấn đề biển Đông đang ngày càng dậy sóng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 4:55:54 GMT 9
Mô hình kinh tế chính trị Trung quốc Vietsciences-Nguyễn Trường KỶ NGUYÊN TÂN TRUNG QUỐC Tại trung tâm Trùng Khánh, ở miền Tây Trung Quốc trên bờ Sông Dương Tử, một tháp tưởng niệm sáu tầng đã được xây cất dành cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến chống Nhật. Sau khi ngưởi Nhật phát động cuộc chiến xâm lăng vào năm 1937, chính quyền TQ đã phải di chuyển thủ đô từ Nam Kinh lên Trùng Khánh. Quyết định dời đô đã lôi kéo theo chiến dịch oanh tạc của Nhật, và Trùng Khánh đã bị tàn phá trong chiến tranh. Một năm sau ngày thành lập Tân Trung Quốc (1949), Chủ Tịch Mao Trạch Đông đã chính thức khai trương Tháp Tưởng Niệm Nhân Dân Giải Phóng (People's Liberation Memorial Tower). Cách đây 20 năm, Tháp Tưởng Niệm là kiến trúc cao nhất thành phố. Ngày nay, ngôi tháp bị bao che bởi ít nhất cũng ba tòa nhà chọc trời khổng lồ trong khu trung tâm thương mãi. Tọa lạc tại góc một khu phố dành cho du khách tản bộ, tòa tháp nhìn chẳng khác một tiệm hotdog ở Manhattan. Sáu thập kỷ vừa qua đã được đánh dấu bằng hai giai đoạn: giai đoạn I (1949-1978), dưới thời Mao, giai đoạn đói kém và cách mạng văn hóa; giai đoạn II, cũng kéo dài ba thập kỷ, dưới thời Đặng Tiểu Bình, giai đoạn cải cách và mở cửa, như người TQ thường gọi. Tuy vậy, sau sáu thập kỷ, TQ vẫn còn là một xứ tương đối nghèo nàn. Theo IMF, TQ đứng thứ 100 trên thế giới dựa trên lợi tức theo đầu người (per capita income). Yang Jiemian, chủ tịch các Viện Nghiên Cứu Quốc Tế ở Thượng Hải, đã gián tiếp nhắc đến tiềm năng bất ổn trong quá trình phát triển của TQ. Ông nói: "Thiểu số thượng lưu cầm quyền đã đồng thuận, TQ cần phải giữ đúng hướng: ba mươi năm qua đã đem lại nhiều thành tựu trong mọi mặt. Chúng tôi hy vọng trong cùng đường lối, nhưng với trọng tâm hơi khác, TQ có thể tiếp tục như thế 30 năm nữa"[1]. Nhưng liệu TQ còn có thể có thêm một giai đoạn 30 năm giống ba thập kỷ vừa qua hay không? Giai đoạn 30 năm thứ ba của Tân Trung Quốc bắt đầu, khi cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới phơi bày những nhược điểm quan trọng của chủ nghĩa tư bản tân tự do toàn cầu, khi nguồn cung nhiên liệu hóa thạch tiệm giảm, hiện tượng rối loạn khí hậu tiệm tăng, và sự cạnh tranh kiểm soát các tài nguyên chiến lược ngày một tăng tốc. Trong khi đó, TQ đang trong giai đoạn thực thi một chương trình kỹ nghệ hóa và đô thị hóa lớn nhất trong lịch sử nhân loại, một đề án đòi hỏi những ngạch số đầu tư và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Chẳng khác gì chúng ta đang chứng kiến một cuộc đua xe đường núi khi băng tuyết từ đỉnh sụp đổ, đang tuôn tràn xuống trước đoàn xe. Trong một dịp tiếp đón du khách tham quan nhà máy sản xuất xe hơi ở Trùng Khánh, hướng dẫn viên của hãng Chang'an Motors, chỉ các minivans hình hộp đang tuôn ra từ dây chuyền lắp ráp, đã hãnh diện tuyên bố: "có khoảng 800 triệu dân quê cần những xe như thế!"[2]. Đã hẳn, anh ta nói đúng. Như Yu Qingtai, đại diện thương thuyết đặc biệt về thay đổi khí hậu, đã có dịp nói: "Không nên chờ đợi TQ mãi mãi là một vương quốc xe đạp"[3]. Nhưng thử tưởng tượng 800 triệu xe hơi mới! Những gì đang diễn ra ở TQ thật lớn lao và gây 'sốc'. Sự pha trộn giữa hoạch định và thị trường, giữa độc đoán và phân quyền, giữa kỷ năng và tham nhũng, vừa củng cố vừa bài bác mọi luận cứ về mô hình kinh tế chính trị. Vì vậy, sau nhiều lần viếng thăm ngắn hạn một xứ 1,4 tỉ dân, người ta rất dễ đi đến những kết luận sai lầm. Nguy cơ sai lầm càng tăng khi khách tham quan thường được tháp tùng bởi những hướng dẫn viên có thể là đảng viên đảng Cộng sản hoặc các cựu quan chức nhà nước. Điều cần ghi nhớ, ở TQ, giới thượng lưu có rất nhiều ảnh hưởng. Thực vậy, họ thường là mẫu người Leninist tiên phong với phong cách trí thức kiểu Mỹ (meritocracy). Như Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và đương kim chủ tịch Viện Hàn Lâm Kỷ Sư TQ (Chinese Academy of Engineering) đã nói, " Cho phép tôi nói một cách gẩy gọn, hầu hết các doanh nhân thành công hay học giã hay kỹ sư - họ đều đã trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CPC)"[4]. QUAN HỆ GIỮA CHÍNH QUYỀN VÀ NGƯỜI DÂN Trong thực tế, một khế ước xã hội bất thành văn chi phối quan hệ giữa cấp lãnh đạo và quảng đại quần chúng. Theo đó, chính quyền bảo đảm đem lại một tỉ suất tăng trưởng từ 8 đến 10% GDP, và 24 triệu việc làm mới mỗi năm. Để đổi lại, người dân sẽ không đặt nặng vấn đề chính đáng của CPC. Đây không phải một khế ước dễ thực hiện đối với chính quyền, thực ra, cũng đã có nhiều dấu hiệu rắc rối. Thực vậy, năm 2007 khoảng 80.000 vụ biểu tình phản đối đã được ghi nhận ở TQ, và mạng Internet đã đem lại một diễn đàn phê bình ngày một ồn ào các chính sách của nhà nước. Đề tài nóng bỏng nhất là nạn tham nhũng , đã được công luận chú ý nhiều tiếp theo sau cuộc động đất ở Tứ Xuyên năm 2008, khi theo nhiều người, chính tham nhũng đã là nguyên nhân và phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của các trường ốc được xây cất không theo đúng luật lệ. Một vài quan chức nhà nước đã phải thú nhận, đe dọa lớn nhất đối với Đảng là nạn tham nhũng, một đe dọa từ bên trong. Mặc dù đã có vài vụ truy tố các viên chức cao cấp, chẳng hạn, vụ án liên quan đến 9.000 nghi can đang tiếp diễn ở Trùng Khánh, một cuộc thăm dò của Cơ Quan Thông Tấn TQ (China News Agency) cho biết: tham nhũng là đề tài quan tâm số một của người TQ. Ngoài tham nhũng, còn phải nói đến nhiều thách thức kinh tế thuần túy như duy trì tỉ suất tăng trưởng cao, đặc biệt trong tình trạng suy thoái toàn cầu; xuất khẩu, chiếm 35% GDP của TQ, trong năm 2009, đã sụt giảm 25%; sáu triệu sinh viên tốt nghiệp đại học đang cần tìm kiếm việc làm. Được hỏi liệu điều gì sẽ xẩy ra nếu tỉ suất thất nghiệp ở TQ tăng lên mức 10%? Một viên chức chính quyền địa phương gần Đập Tam Hợp (Three Gorges Dam), đã quả quyết: điều đó sẽ không thể xẩy ra trong hệ thống hiện nay. Các quan chức TQ luôn tỏ ra tin tưởng ở tình trạng ổn định. Tuy nhiên, đôi khi các nhà quan sát vẫn có thể bất chợt bắt gặp dấu hiệu những bất trắc và đe dọa đối với trật tự công cộng. Wen Tianping, phát ngôn viên của chính quyền Trùng Khánh, đã tiết lộ, "các quan chức chính quyền TQ đang đối đầu với rất nhiều áp lực. Chúng tôi làm việc dưới nhiều áp lực nặng nề và chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn"[5]. Khó khăn lớn nhất là vấn đề di trú. Nếu các xứ phát triển như Hoa Kỳ và thành viên Liên Hiệp Âu châu luôn đối diện với dân nhập cư từ thế giới đang phát triển, TQ cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Điểm khác biệt là TQ luôn đối diện với cả hai thế giới, phát triển và đang phát triển, ngay bên trong biên giới của chính mình. Phương cách đối phó với dòng nhập cư của TQ cũng không mấy khác các quốc gia phát triển. Giấy phép cư trú hay chế độ "hộ khẩu" ràng buộc người dân với quê quán, qua hình thức buộc chặt các dịch vụ xã hội - y tế, hưu bổng, và quan trọng hơn cả, trường học - vào nơi cư trú. Nếu những tường rào cản và luật lệ khó lòng chận đứng dòng di dân từ Mexico đến Hoa Kỳ vì động lực kinh tế quá chênh lệch, những quy luật nội bộ của TQ cũng không ngăn chặn được dòng chảy di dân từ nông thôn ra thành thị. Như Paul Mak, một doanh nhân Mỹ gốc Hoa, làm việc cho công ty Mary Kay Hoa Kỳ ở Thượng Hải 12 năm qua, đã nói: "những di dân nầy mãi mãi vẫn là nhân công du cư. Một nhân công du cư không thể trở thành một thường trú nhân ở Thượng Hải. Ngày nay, nếu có bằng đại học, bạn có thể đến, bằng thiếu học vấn, bạn vô phương. Bạn thuộc tầng lớp vô danh bất định"[6]. Lớp người đông đảo sống bên lề xã hội đã khiến chính quyền TQ luôn trăn trở, bởi lẽ nhà cầm quyền muốn tránh kinh nghiệm của nhiều xứ đang phát triển, từ Brazil đến Ấn Độ, từng trải nghiệm sự lan tràn của những khu nhà ổ chuột, chen chúc, nghèo khổ, và khó lòng kiểm soát, trong những thành phố lớn của họ. Wen, phát ngôn nhân Thành Phố Thượng Hải, đã nói, "Chúng tôi đã học được nhiều bài học từ các xứ khác, kể cả cái gọi là bẩy sập của các xứ Mỹ La Tinh trong quá trình đô thị hóa. Chính quyền các xứ nầy đã không suy nghĩ chính chắn về chương trình đô thị hóa. Đông đảo dân quê đổ ra thành thị và đã không thể kiếm được việc làm. Chính vì vậy, nhiều khu nhà ổ chuột đã xuất hiện ở các xứ nầy"[7]. Như một thú nhận đã không thể kiểm soát dòng nhân công du cư, chính quyền Thượng Hải gần đây đã loan báo những cải cách, cho phép các nhân công du cư gửi con đến các trường công lập trong thành phố nơi họ làm việc. Dù ngăn chặn các nhân công nhập cư trái phép là vấn đề rất quan trọng, nhưng tạo một tầng lớp lao động thấp kém từ các con em thiếu học cũng là một hậu quả nhà cầm quyền Thượng Hải quyết định phải cố tránh bằng mọi giá. Bên cạnh hố cách biệt thành thị-thôn quê còn có một hố cách biệt giữa các tầng lớp xã hội. Dân nông thôn là tầng lớp cách mạng nguyên thủy của TQ. Trong khi hàng trăm triệu thôn dân còn bị buộc chặt vào cuộc sống thiếu thốn tiền kỹ nghệ, các tầng lớp thiểu số cầm quyền ở Thượng Hải và Bắc Kinh đang sống cuộc đời vương giả, còn hơn cả các ngân hàng gia Goldman Sachs. Một món khai vị, ở nhà hàng ăn toàn bằng kính, trên lầu thượng bảo tàng viện mỹ nghệ, giá 40 USD, trong khi lợi tức theo đầu người của khoảng 800 triệu nông dân TQ vào năm 2007 chỉ 50 USD mỗi tháng. Quản lý dòng chảy nhân công và định cư các di dân từ nông thôn ra thành thị cũng là phương tiện quản lý một cội nguồn căng thẳng xã hội rất dễ bùng nổ. TRÙNG KHÁNH - THÍ ĐIỂM ĐẦY THAM VỌNG Trùng Khánh là một TQ thu hẹp. Với một diện tích bằng bang Maine ở Hoa Kỳ, Trùng Khánh có một dân số 31 triệu, với môt thị trấn lớn 5 triệu dân và một số thành phố vệ tinh. Trên phương diện hành chánh, năm 1997, Trùng khánh đã được nâng cấp thành tỉnh thí điểm. Và chính quyền địa phương đã tập trung nổ lực giải quyết vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị ngay trong phạm vi lãnh thổ tỉnh. Chính quyền tỉnh hy vọng dùng Trùng Khánh làm mô hình thí điểm để tìm giải pháp cho các vấn đề TQ đang phải đối phó. Trong nhãn quan chính quyền Trùng Khánh, hoạch định là yếu tố then chốt. Theo Qian Lee, nhân viên Phòng Kinh Tế Đối Ngoại, "Chúng tôi có sẵn trong đầu kế hoạch, thời khóa biểu , và mục tiêu mỗi khi làm bất cứ việc gì"[8]. Wen nói: "Chúng tôi, chính quyền cấp tỉnh, hướng dẫn và giúp phân loại những ai có thể đến các thành phố. Di dân được xếp vào vài tầng lớp. Nhóm đầu tiên sẽ đến trung tâm thành phố. Nhóm thứ hai đến sáu trung tâm cấp khu vực chúng tôi đang xây cất. Và nhóm thứ ba sẽ đến những khu phố kế cận làng quê của họ, như các thành phố nhỏ ...Chúng tôi có 31 khu trung tâm và 103 thành phố nhỏ"[9]. Đối với mỗi nhóm - trung tâm Trùng Khánh, sáu thành phố vệ tinh, và 31 khu trung tâm - chính quyền quyết định mức dân số hằng năm cho ba năm sắp tới. Trùng Khánh, rất tự hào với viễn kiến hoạch định của chính mình, đã xây một phòng triển lãm 50 triệu USD trên bờ sông Dương Tử, để trưng bày mô hình quá khứ, hiện tại, và tương lai của tỉnh. Trọng tâm của phòng triễn lãm là mô hình thành phố rộng 892 thước vuông. Nhân viên hướng dẫn bấm nút đầu, màn ảnh buông xuống mô hình, các con sông với mầu xanh da trời chói sáng; bấm một nút khác, các khu phố bật sáng cho thấy những công trình xây cất sẽ hoàn thành trong 5 năm tới, rồi 10 năm tới. Cuối cùng, hướng dẫn viên bật tất cả đèn, một Trùng Khánh tương lai thu nhỏ đầy ánh sáng xuất hiện. Sau hết, nhân viên hướng dẫn đưa tới một phòng với màn hình 360 độ, kiểm soát bởi hệ thống vi tính, chiếu toàn cảnh đô thị tương lai. Không giống Trùng Khánh bên ngoài, luôn ảm đạm và mù sương, Trùng Khánh trong mô hình ngập đầy ánh sáng mặt trời, và có lẽ do sơ suất của tác giã mô hình, không một bóng người trong thế giới Trùng Khánh mới - với các căn hộ chung cư dọc bờ sông đắt tiền, vận động trường lộ thiên, và các hành lang trong các tòa cao ốc - là người Trung Quốc. Những nét đặc trưng sống động dọc các hành lang trong khu triễn lãm, phản ảnh một niềm tin cao độ vào hoạch định khoa học tiến bộ, đem lại cho du khách một cảm nhận khác xa bộ mặt chán chường buồn tẻ của nước Mỹ năm 2009. Không có gì phản ảnh niềm tin sinh động tốt hơn là Đập Tam Hợp. TQ đã bỏ ra 15 năm và 30 tỉ USD để xây dựng công trình, ước lượng sẽ cung cấp 4% điện lực TQ, tương đương với 500 nhà máy nhiệt điện. Và 1,25 triệu cư dân dọc bờ sông Dương Tử đã phải giải tỏa, 1.500 địa điểm cổ kính, kể cả đền chùa, đã bị nhận chìm. Đối với thiểu số quyền lực ở TQ, tương lai là tất cả. Mặc dù văn minh TQ đã trải dài trên 5000 năm, chằng ai buồn để ý đến những gì đã xẩy ra trước năm 1978. Chủ nghĩa tương lai cực đoan đó rất dễ trở thành đề tài diểu cợt, nhưng hình như đây là thế giới quan duy nhất người ta có thể bám víu trước những thử thách các nhà hoạch định TQ đang phải khống chế. Thử chọn bất cứ thành phố lớn nào ở Hoa Kỳ và bắt đầu nhận thêm 500.000 người mỗi năm. Không lâu, thành phố đó sẽ sụp đổ. Không dễ gì thiết kế một hệ thống cống rảnh cho một thành phố tăng trưởng theo nhịp đó. Thử hỏi 10 triệu cư dân trong các khu ổ chuột ở Mumbai, đời sống của họ chìm đắm trong rác thải hôi hám chỉ vì không ai có thể tiếp cận một hệ thống cống rãnh. Vì vậy, mô hình Trùng Khánh đang đem lại hy vọng, ít ra trên bình diện kỹ thuật, và là viễn kiến xem như đã đạt trình độ tuyệt tác đầy ấn tượng, đang được theo đuổi và thực hiện. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VỚI NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG TRUNG QUỐC Thái độ luôn bị ám ảnh bởi hoạch định đô thị của người TQ dính liền với niềm tin ở tính ưu việt của hoạch định kinh tế. Theo diễn giải của Phái Tân Tự Do Hoa Kỳ, mô hình TQ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản đã giúp giải phóng hàng triệu người dân khỏi đói rách: những cải cách thị trường đã đưa đến tăng trưởng và thịnh vượng qua sự cởi bỏ các xiềng xích can thiệp của nhà nước. Lối giải thích "câu chuyện ngụ ngôn TQ" trên đây có quá nhiều thiếu sót: các định chế nòng cốt của kinh tế như viễn thông, năng lượng, vận tải, nhất là tài chánh, đều do nhà nước kiểm soát. Chẳng hạn, bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất ở TQ đã chiếm tới 80% thị phần. Hoạch định như chính quyền TQ thực thi được người Mỹ xem như một đường lối lỗi thời tai họa và mất hết uy tín, chẳng khác gì sở khí tượng quốc gia hoàn toàn dựa vào chiêm tinh. Trong thực tế, tạm quên các nhược điểm của sự can thiệp của chính quyền, khu vực tài chánh phần lớn do chính quyền kiểm soát đã giúp TQ tránh khỏi chẳng những các hệ lụy tai họa của khủng hoảng tài chánh 2008, mà còn các sai lầm tệ hại trong sự phân phối tài nguyên như hệ thống tài chánh toàn cầu đã gây ra ở các quốc gia Tây phương trong mười năm qua. Do đó, Qian Lee, một quan chức chính quyền Trùng Khánh, đã không ngăn được vui mừng trước những thành quả ngoạn mục của đường lối TQ: "Điều nầy đã được giới sử dụng Internet ở TQ thảo luận và họ gợi ý: khi đến TQ, Obama nên thảo luận với Hồ Cẩm Đào về tầm quan trọng của các kế hoạch. Đây là điều tôi nghĩ chúng ta có thể trình bày với người bạn Mỹ của chúng ta"[10]. Để đối phó với hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính quyền TQ đã tập trung nổ lực duy trì tỉ suất tăng trưởng cao và ngăn ngừa tỉ suất thất nghiệp gia tăng. Chính quyền trung ương đã chấp thuận một gói kích cầu 4.000 tỉ nhân dân tệ - 70% ngân sách hàng năm, và các ngân hàng quốc doanh được chỉ thị không được sa thải nhân viên. Kết quả: hầu hết tỉ suất tăng trưởng của TQ trong năm rồi là do đầu tư công của Nhà Nước. Chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụp đổ trong thị trường tiêu thụ Hoa Kỳ kể từ khi TQ bắt đầu các cải cách, chính quyền TQ đã thành công duy trì tỉ suất tăng trưởng 8,7% GDP, giữ được phần cam kết của mình trong khế ước xã hội bất thành văn. Đây là một thành công không nhỏ. Tuy nhiên, liệu TQ có thể duy trì tỉ suất tăng trưởng trong năm tới, nếu số cầu toàn cầu tiếp tục suy giảm, là một vấn đề chưa ai có giải đáp. Trong mọi trường hợp, kinh tế TQ, tuy là một nền kinh tế khổng lồ và phồn thịnh, vẫn không phải không có nhiều nhược điểm. Sự thiếu vắng đáng phiền trách một mạng lưới an sinh xã hội, mặc dù đã giúp đem lại một tỉ suất tiết kiệm cao, theo nhiều kinh tế gia, cũng là vật cản lớn nhất trên đường chuyển tiếp cần thiết đến một nền kinh tế lấy tiêu thụ quốc nội làm đầu tàu (đó là chưa kể công bằng và an sinh căn bản đối với hàng trăm triệu công dân). Điều nầy nối kết với vấn đề phân phối lợi tức quan trọng hơn nhiều, một vấn đề kinh tế chính trị đầy thử thách, mặc dù cả hai có một quan hệ kỳ lạ, đôi khi bí ẩn. Yang Jeimian, Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Thượng Hải, thú nhận: "Chúng tôi cũng âu lo về vấn đề bình đẳng. Chúng tôi cũng cần chú ý đến các vấn đề phân phối, phân phối quyền hạn, thuế, bệnh viện, săn sóc y tế"[11]. Khi được hỏi về đề tài phân phối lợi tức, các quan chức TQ xác nhận họ đang có vấn đề, nhưng họ luôn cảnh cáo: thành đạt một xã hội công bằng hơn sẽ đòi hỏi thời gian. Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và người có uy tín trong CPC, chỉ là một trong số vài người luôn nhắc đến lời khuyên các đảng viên của Đặng Tiểu Bình khi họ Đặng phát động phong trào cải cách: "Cứ để vài người làm giàu trước"[12]. Ở đây một vấn đề cần được đặt ra: bao nhiêu là "vài", bao nhiêu tài sản mới gọi là "giàu", và kéo dài bao lâu mới gọi là "trước"? Đã hẳn, TQ đã đạt nhiều tiến bộ trong các địa hạt nầy: cải thiện dịch vụ y tế ở nông thôn, bỏ nhiều loại thuế đối với nông dân, và ban hành luật lao động ấn định lương tối thiểu, giờ phụ trội, và nhiều biện pháp bảo vệ khác (phải nói rõ trước sự chống đối của Phòng Thương Mãi Hoa Kỳ). Nhưng trong khi mọi việc về phía doanh thương ở TQ đều tiến rất nhanh, dự án đem lại bình đẳng, công lý và an sinh xã hội lại diễn tiến chậm hơn rất nhiều. Theo Xu, tất cả đều trong kế hoạch: "Hãy nhìn các xứ láng giềng ở Á châu của chúng tôi. Nam Hàn: tỉ suất phát triển cao nhất đã diễn ra dưới chế độ quân phiệt...Indonesia đã thành công dưới thời Suharto, nhưng gần đây đang gặp trì trệ và khó khăn"[13]. Lý do : dân chủ là một trở ngại cho tiến bộ kinh tế, người nghèo muốn chia tài sản của người giàu... Xu nói "Nếu người TQ chúng tôi, bắt chước bầu cử trực tiếp ngay bây giờ, dân chúng sẽ nói, tôi muốn mọi người đều có việc làm tốt. Vài người khác sẽ nói, tôi sẽ chia tài sản của người giàu cho người nghèo, và anh ta sẽ đắc cử. Tất cả đều vô ích: bình đẳng sẽ không giải quyết vấn đề phát triển kinh tế. Vì vậy, chúng tôi đang theo chính sách cải cách tiệm tiến, từng bước một. Như ông Đặng đã nói,chúng ta sẽ vượt qua sông bằng cách lần bước trên các tảng đá. Chúng tôi sẽ không bị chết đuối, và chúng tôi sẽ qua được bên kia sông"[14]. Trong khi Xu, một lãnh tụ đảng, có đủ quyền hạn để phát biểu rõ ràng, hầu như không một ai khác có thể thảo luận chính trị một cách thẳng thắn như thế. Ở TQ, kinh tế đã thay thế chính trị - đem lại chất lượng cho các cuộc tranh luận công cộng. Bạn không thể đòi hỏi bầu cử hay một Tây Tạng tự do, nhưng bạn có thể phổ biến các cuộc bút chiến nóng bỏng về các quyết định của chính quyền tiếp tục mua trái phiếu ngân khố của Mỹ. ĐÔNG VÀ TÂY Nhưng Wang Hui, nhân vật bất đồng chính kiến đơn độc, lại nói, các cố gắng của chính quyền duy trì một ranh giới rõ rệt - giữa những chỉ trích chính đáng quá trình làm chính sách kinh tế và các chỉ trích không chính đáng nền tảng của quá trình nầy - sẽ không luôn thành công. Wang lập luận, xu hướng xã hội chủ nghĩa, trên danh nghĩa, đã đem lại cho người dân ngôn từ để chỉ trích chính quyền. Tình trạng nghịch lý là nhiều người dân có thể dùng chũ nghĩa Mác-Lê để bảo vệ quyền lợi của chính mình, bởi lẽ có một mâu thuẩn thực sự giữa chủ trương lý thuyết và những gì xẩy ra trong thực tế. Rõ ràng thảo luận chính trị là một điều cấm kỵ. Nhưng theo Wang, nếu một đề tài được quần chúng quan tâm, chính quyền ngày nay cảm thấy buộc lòng phải đáp ứng. Vấn đề là chúng ta cần phải có đủ khả năng và bản lĩnh tạo ra một không gian cho các tranh luận công cộng. Người Mỹ có khuynh hướng xem TQ như đang theo đuổi một mô hình thay thế mang tính đe dọa cho tương lai, một mô hình vừa quyến rủ vừa ghê tởm, đáng thèm muốn và đáng khinh. TQ đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một quốc gia độc tài, chuyên quyền, nghèo đói, đến một tập đoàn lãnh đạo kỹ nghệ (industrial, corporatist oligarchy) chấp nhận thảo luận sôi nổi, gay gắt, trong khi vẫn nổ lực bám lấy quyền hành. Có lẽ, một cách nào đó, người Mỹ cũng đang di chuyển về cùng một điểm, từ hướng dân chủ, thảo luận công cộng ồn ào, và phân cực chính trị, che mờ một thực tế quyền hành và tiền bạc tiếp tục tập trung trong tay một thiểu số thượng lưu cầm quyền (Corporate America) luôn cảm thấy đang bị bao vây bởi một quần chúng khó kiểm soát và cũng chẳng biết tri ân. Một bên, một Nhà Nước với đất đai và tài nguyên thiên nhiên được tái xã hội hóa. Bên kia, một chính quyền" dân chủ, tự do, đa nguyên đa đảng, tư hữu trên nguyên tắc", trong khi quyền hành thực sự nằm trong tay tập đoàn quân sự kỹ nghệ thiểu số. Xét cho cùng, thật khó lòng thẩm định chính xác mô hình nào ưu việt hơn, hữu hiệu và hoàn hảo hơn mô hình nào. GS Ngyễn Trường Irvine, CA 92606, U.S.A. 23-02-2010 [1] It has become the consensus of the elites that China should stay on the right track: the past thirty years have resulted in remarkable achievements in all aspects of China. We hope that in the same vein, but in different emphasis, China could have another thirty years.
[2] There are 800 million Chinese peasants who need these cars!
[3] [China] should not be expected to stay forever as a bicycle kingdom.
[4] Let me put it simply. Most successful businessmen or scholars or engineers - they have become party members of the CPC.
[5] Chinese government officials face a lot of pressures. We work under extreme pressures and we have a lot of difficulties.
[6] They can be migrant workers forever. A migrant worker cannot become a resident of Shanghai. Now if you have a college degree you can come but not without education. You have a class of people in this limbo.
[7] We have learned many lessons from other countries, including the so-called Latin American trap during the urbanization process. The government didn't think throughly about urbanization. Huge numbers of villagers cà to the cities and they couldn't find a job. That's why they are so many slums.
[8] We have plans, timetables and goals in our minds whenever we do anything.
[9] We as a government give guidance and sort of categorize those who want to come to the cities. There are several tiers... The first group of villagers will go to the downtown center. The second group will go to six regional centers we are building. And the third group will go to the urban places that are closest to their home villages, such as the country towns and townships...We have thirty-one district centers and 103 towns.
[10] This has been discussed by Internet users in China who say, when Obama comes to China, that he can discuss with Hu Jintao about the importance of plans. This is something I think we can present to our American friend.
[11] We do worry about equality. We do need to focus on distribution, allocation of rights, taxes, hospitals, healthcare.
[12] Let some people get rich first.
[13] Let's look at our neighboring Asian countries. South Korea: its peak developing speed was reached using military rule...Indonesia was successful during the reign of Suharto but recently it faces stalemate and difficulties.
[14] If we Chinese copied the directly elected situation today, people will say, 'I want everyone to have a good job'. Someone will say, 'I will devide the property of the rich people to the poor people', and he will be elected. It is useless: parity will not solve the problem of economic development. That is why we are taking a gradual and step-by-step approach in reform. As Mr. Deng said, we will cross the river by touching the stones. We will not get ourselves drowned, and we will cross the river.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 13, 2011 7:47:59 GMT 9
Trung Quốc dàn trận Trần Khải Trung Quốc đang có vẻ như đang thi hành một chính sách thực dân kiểu mới tại Phi Châu, theo cái nhìn của một số nhà phân tích Tây Phương. Có phải Trung Quốc thực sự muốn khai hóa Phi Châu, hay chỉ vì muốn khai thác tài nguyên nhân vật lực nơi này với giá rẻ? Hay phải chăng, trong khi giới tu sĩ Ki-Tô Giáo trước giờ đã tràn vào Phi Châu với chính sách truyền giáo, và bây giờ lại gặp một chủ nghĩa thế tục kiểu Trung Quốc đang tràn vào để cạnh tranh với các thế lực nhà thờ? Hay chỉ đơn giản vì Trung Quốc có thừa nạn nhân mãn, thế là bằng mọi cách phải tràn sang Phi Châu, nơi đất còn rộng và người còn thưa? Thực tế là, hiện đang có một triệu người Trung Quốc, từ kỹ sư cho tới đầu bếp, đã sang Phi Châu làm việc trong thập niên vừa qua. Mọi chuyện y hệt như trong phim, với kịch bản người dân Trung Quốc rủ nhau sang Phi Châu tìm vàng, và được hưởng lợi vì Hoa Kỳ và Châu Âu bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố nên có vẻ như để trống nơi đây, nơi trước giờ chỉ có các giáo sĩ sang cắm thập tự giá và rồi bị lôi cuốn hay bó tay với các cuộc chiến – hoặc là nội chiến hay cuộc chiến khu vực, hoặc là chiến tranh vì kim cương hay mỏ dầu, hoặc là các trận thảm sát và hiếp dâm để trả thù sắc tộc, để cố tình lây bệnh HIV/AIDS... Nhân loại sầu thảm như thế ở đây, có vẻ như Thượng Đế, nếu có, vẫn đang hằn học trả thù cả nhiều triệu người dân các nước Phi Châu. Trong hoàn cảnh đó, người Trung Quốc ôm tiền tới, và thế là được đón nhận nồng nhiệt. Báo The Guardian hôm 06/02/2010 đã có bài viết nhan đề là “China’s economic invasion of Africa”, trong đó ghi lại cuộc phỏng vấn nhiều người Trung Quốc tới làm việc ở Phi Châu, giảỉ thích được một số khía cạnh của hiện tượng này. Kỹ sư Liu Hui giám sát công trường xây cất xã lộ giữa Nairobi và Thika Vào tháng 12/1999, có chàng thanh niên 24 tuổi tên là Zhang Hao đã rời bỏ mùa đông băng giá ở quê nhà Shenyang để bay sang Uganda. Zhang lúc đó lo lắng, vì không biết chữ tiếng Anh nào. Chàng không nghĩ tới chuyện đi, nhưng là do người cha, từng làm việc ở Uganda mấy năm trước đó trong dự án đánh cá liên hệ tới chính phủ Trung Quốc. Ông bố nói với Zhang, “Nếu con muốn khởi sự cái gì – và muốn làm chủ – Phi Châu là nơi để tới làm được”. Zhang đã bỏ ngang trường đạị học để bay sang Phi Châu, và anh thấy không cần văn bằng nào để thấy rằng tiền quá dễ kiếm nơi này, ngay khi vừa đặt chân tới Kampala: hàng hóa ở Trung Quốc quá rẻ, nhưng nơi đây lại quá đắt, hoặc kiếm không ra. Thế là Zhang liền khởi nghiệp bằng nhập cảng giày. Rồi túi đi học cho học trò, rồi lưới để ngư dân đánh cá, rồi đinh và xe đạp. Zhang kể lại, “Tôi nhập cảng mọi thứ. Lúc đó, họ cần tất cả”. Kinh doanh tăng vọt mau chóng, sau vài năm, hai vợ chồng Zhang mua khoảnh đất lớn ở Kampala. Trên đó, họ xây một nhà hàng kiểu nửa Trung Quốc, nửa Đại Hàn, có các phòng ăn riêng, có các phòng ca nhạc karaoke, và có một hội trường tiệc ăn với 500 chỗ ngồi. Bên hông tiệm ăn, họ xây một phòng ngủ, rồi trở thành nhà ở. Rồi thì, Zhang mở thêm một lò bánh, một công ty bán máy truyền hình màn ảnh phẳng, và lập một công ty an ninh. Zhang nói, bây giờ Zhang là công ty Trung Quốc lớn nhất ở Uganda, với 1,200 nhân viên địa phương. Zhang được mời tặng một thẻ hộ chiếu Uganda, nhưng Zhang từ chối, cũng như từng từ chối việc chọn một tên tiếng Anh cho dễ gọi, “Tôi là người Hoa, và chúng tôi cần xây dựng một cái tên Trung Quốc nơi đây – để mọi người biết rằng Trung Quốc không phải như ngày xưa. Chúng tôi giàu hơn rồi, bắt kịp thế giới rồi.” Thực ra, Zhang không cần nói, vì ai cũng thấy thế. Hồi năm 1999, khi Zhang tới, chỉ có vài trăm người Trung Quốc ở đây, kể cả nhân viên sứ quán Trung Quốc. Bây giờ là khoảng 7,000 người Trung Quốc, từ người bán đủ thứ bên các vỉa hè khu phố Tàu, cho tới các kỹ sư đã và đang xây các tòa nhà cao tầng ở Kampala, và các giám đốc hãng dầu hỏa thường tới tiệm ăn của Zhang. Không phảỉ chỉ ở Kampala của Uganda, mà các chuyện tương tự đã xảy ra khắp lục địa Phi Châu. Con số thật khó tìm chính xác, nhưng một thập niên trước thì chưa tới 100,000 người Trung Quốc làm việc ở Phi Châu. Bây giờ là khoảng 1 triệu người Trung Quốc. Thương mại giữa Trung Quốc và Phi Châu tăng từ 6 tỉ đôla năm 1999 để tới hơn 90 tỉ đôla trong năm 2009, quân bình là nửa nhập cảng và nửa xuất cảng. Tài nguyên thiên nhiên Phi Châu – dầu, sắt, bạch kim (platinum), đồng, và gỗ – rủ nhau chở sang các hãng xưởng ở Trung Quốc, để chế biến thành những sản phẩm từ đồ gỗ nội thất cho tới xe vận tải từ Trung Quốc xuất cảng sang lại Phi Châu. Năm ngoái (2010), giao thương hai chiều Trung Quốc với Phi Châu ước tính đã tới mức 100 tỉ đôla. Nhưng không phảỉ là chính phủ Trung Quốc đứng ngoài các luồng giao thương này. Chính phủ Trung Quốc liên hệ sâu đậm tới giao thương nơi đây. Cụ thể, là thò tay dàn dựng yểm trợ giao thương. Mỗi năm, Bắc Kinh bơm nhiều tỉ đôla tiền hỗ trợ và tiền cho vay cho các chính phủ Phi Châu để bôi trơn, nhằm thắng các hợp đồng mua nguyên liệu thô hay là để tài trợ các dự án xây cất hạ tầng và làm lợi các công ty Trung Quốc . Thực tế, cũng chính một số quốc gia như Uganda đã tích cực chào mời Trung Quốc vào đầu tư. Trong năm 2010, Trung Quốc đã thay thế Anh Quốc để trở thành nước bơm tiền đầu tư trực tiếp (tiền FDI) nhiều nhất vào Uganda. Một trong những công ty lớn Trung Quốc tại Uganda là ZTE, công ty thiết bị viễn thông lớn thứ nhì của Trung Quốc. Trong năm 2010, hãng ZTE đã bán hơn 500,000 điện thoại ở Uganda. Dù vậy, vẫn có những mặt trái của vấn đề. Tại nhiều nơi ở phía nam Phi Châu, nhiều con buôn Trung Quốc đã tới bằng chiếu khán du lịch và ở lại bất hợp pháp. Tại Zambia, các quản đốc một mỏ than Trung Quốc mới đây đã bắn 2 công nhân Zambia đang biểu tình phản đối về lương bổng, gây phẫn nộ khắp nước này. Và tại Sudan và Ethiopia, các nhóm phiến quân đã giết các công nhân Trung Quốc vì họ cho là các người Trung Quốc là tay chân thân tín của các chính quyền địa phương. Xu Hui đã rời bỏ chức biên tập cơ quan thông tấn nhà nước Tinhua để sang Kenya, mở hãng nhập cảng đồ chơi hồi giữa thập niên 1990. Rồi Xu nhập cảng máy điện toán, rồi máy truyền hình hiệu Trường Thành, và nhập cả các khối giấy nhà cầu để sang đây gói lại và bán ra. Xu nhìn Kenya như quê hương của ông, và mới đây thì do dự gửi gia đình về lại Trung Quốc vì lý do học đường. Với cương vị từng làm biên tập viên thông tấn, Xu nhìn thấy người Tây Phương nghi ngại vì Trung Quốc chạy đua vào Phi Châu. Xu nói, “Các nước Tây Phương cũng mua dầu, và có các hầm mỏ khắp thế giới. Người ta không nói thế là “vơ vét tài nguyên” hay là “chủ nghĩa thực dân kiểu mới” ở các nơi đó. Vậy sao lại nghĩ thế cho người Trung Quốc? Chúng tôi không gửi quân đội sang các nước và nói, “Hãy bán chúng tôi thứ này, thứ kia”. Khi quý vị không cạnh tranh nổi chúng tôi, quý vị cứ biện hộ này nọ để giải thích. Y hệt như hai đứa con nít đánh nhau, đứa thua chạy tới khóc với ba mẹ là bị chơi gian lận...” Hãy nhìn lại Việt Nam. Đúng vậy, Trung Quốc không gửi quân đội tới Việt Nam – nhưng vẫn được cưa đôi Thác Bản Giốc để khai thác du lịch, được tới Tây Nguyên để khai thác bauxite, được hợp đồng 50 năm thuê 300,000 cây số vuông rừng đầu nguồn để khai thác lâm nghiệp... Mà đó là do chính phủ CSVN tự giác cống nạp. Hãy nhìn lại Đàì Loan, vụ một ông Tướng bị bắt vì làm gián điệp cho Trung Quốc. Đúng vậy, Trung Quốc không hề đưa quân đội bắt cóc ông Tướng La Hiền Triết để cưỡng ép làm gián điệp, mà chỉ đưa một tuyệt sắc giai nhân người Úc gốc Hoa sang dâng hiến thân xác cho chiến dịch bông hồng đỏ. Hãy nhìn thêm, khi Trung Quốc dàn trận bơm tiền để mua ưu thế ở Phi Châu, dàn trận mỹ nhân để bắt hồn các tướng lãnh Đàì Loan... hãy tin rằng Trung Quốc cũng sẽ dàn đủ thứ trận đồ bát quái tại Việt Nam. Trần Khải
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 1, 2012 4:41:46 GMT 9
Nước Tầu Hôm Qua - Trung Quốc Hôm Nay
Tác giả : Đào Như Những ai quan tâm đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới hôm nay đều phải ngạc nhiên trước những gì đang diễn ra trên cùng khắp địa cầu từ cuôc chiến Syria đến cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu với nguy cơ vỡ nợ, đều không ít thì nhiều có quan hệ mật thiết với Trung Quốc - một đất đất nước của Hán tộc - cách đây hơn 30 năm vẫn còn xa lạ với nhân loại . - Tại Sảnh Đường Nhân Dân Bắc Kinh, Trung Quốc, hôm 14-2-2012, ông Ôn Gia Bảo, Thủ tướng của nước này, tiếp đón, bắt tay nồng hậu Chủ tịch Liên Hiệp Châu Âu, Herman Van Rumpy, và Chủ Tịch Ủy hội Châu Âu, Jose Manuel Barroso. Bằng những ngôn từ ngoại giao ôn hòa và mỹ miều nhất, Thủ tướng Trung Quốc nói rằng: Trung Quốc và Châu Âu cần phải hợp tác với nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu…Trong lúc phải đối mặt với những khó khăn và thách thức, đôi bên nên cùng thông hiểu nhau và cùng hợp tác để cùng phát triển kinh tế… Trong đáp từ, ông Herman Van Rompuy, Chủ tịch Liên Hiệp Châu Âu, nói rằng Châu Âu và Trung Quốc đã trở nên lệ thuộc vào nhau nhiều cho đến độ sư thay đổi của tốc độ tăng trưởng của một trong hai đối tác chiến lược có những tác động trực tiếp và sâu sắc lẫn nhau. Trong thực tế, phái đoàn đại diện chậu Âu đến Bắc Kinh hôm 14-2 nhầm cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ Châu Âu về tài chánh kinh tế để Châu Âu khỏi rơi vào tình trạng vỡ nợ. Về phiá Bắc Kinh, cũng phải hiểu rằng nếu Châu Âu vỡ nợ, thì là một đại họa cho nền kinh tế xuất khẩu của Trung Quốc vì châu Âu và Mỹ hai thị trường lớn nhất thế giới tiêu thụ hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Trong tình hình hiện tại, kinh tế Châu Âu bị suy trầm nghiêm trọng, đồng EURO xuống giá nặng nề làm tỷ giá của đồng Yuan (nhân dân tệ) tăng cao, lôi theo các mặt hàng xuất khẩu của TQ tại thị trường Châu Âu trở nên mắc mỏ, mãi lực xuống thấp đến mực độ nguy hiểm đã đưa đến sự giảm thiểu tối đa các mặt hàng xuất khẩu của TQ làm cho nền kỹ nghệ xuất khẩu của TQ trở nên trì trệ. Thêm vào đó vì chính sách bảo hộ mậu dịch và sự phục hồi ì-ạch của nền kinh tế Mỹ, đã khiến cho Trung Quốc đang đối diện với nguy cơ thâm thủng lớn trong cán cân mậu dịch. Do đó việc cứu nạn nền kinh tế châu Âu là việc làm tất yếu của Trung Quốc- Cứu Châu Âu trung lúc này cũng là Trung Quốc tự cứu mình. Nhưng với dòng máu “Lã Bất Vi”, bất cứ hành động kinh tế hay nhân đạo nào của Hán tộc luôn luôn mang nặng tính chất đầu tư: Đầu tư kinh tế-Đầu tư chính trị-Hay cả hai. Bây giờ còn quá sớm để nói rằng Liên Hiệp Âu châu và toàn thể Âu châu, sẽ lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc đến mực độ nào? - Cùng ngày 14-2-2012 tại Hoa Kỳ, Phó Chủ Tịch Nhà nuớc Trung Quốc Tập Cận Bình đang trên đường trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ. Tại đây, Phó Chủ tịch nhà nước TQ có hai cuộc hội đàm cùng ngày tại tòa Bạch Ốc : - Phó Tổng Thống Mỹ, Joe Biden, người chính thức đại diện Hoa Kỳ tiếp ông Tập Cận Bình tại Tòa Bạch Ốc. Trong buổi gâp gỡ này, Phó Tổng thống Joe Biden có nói với ông Tập Cận Bình rằng Hoa Kỳ cam kết sẽ tiếp tục hợp tác với Trung Quốc để phát triển kinh tế của cả hai quốc gia và hai bên cùng có lợi… Liền sau đó, cùng ngày, tại phòng Bầu Dục của Tòa Bạch Ốc, Phó chủ Tịch TQ, Tập Cận Bình, trong cuộc gặp gỡ Tổng thống Barack Obama, đã chủ động đưa ra lời cam kết là Trung Quốc sẵn sàng đối thoại thẳng thắng về nhân quyền và ông cũng không quên đưa ra lời cam kết rằng Trung Quốc tiếp tục hợp tác với Mỹ trong các vấn đề về kinh tế. Đáp lại Tổng thống Barack Obama nói rằng chúng tôi muốn làm việc với Trung Quốc về vấn đề kinh tế: Mọi người đều phải tuân thủ cùng những luật lệ như nhau trong hệ thống kinh tế toàn cầu… Các giao thương kinh tế cần phải được cân bằng, không những chỉ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, mà còn cho cả thế giới nữa. Về vấn đề nhân quyền: Chúng tôi tiếp tục nhấn mạnh với Trung Quốc về nhân quyền, vì vấn đề tôn trọng và công nhận những khát vọng và quyền lợi của tất cả mọi người là vấn đề quan trọng hàng đầu của xã hội, của các quốc gia tự do dân chủ. Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng thống Obama cũng thuyết phục Bắc Kinh biết rằng việc di chuyển lực lượng quân sự Hoa Kỳ về châu Á Thái Bình Dương không có nghĩa là Hoa Kỳ đang cố bao vây hay kiềm hãm sự vươn lên của Trung Quốc. Về vấn đề nhân quyền, trong đáp từ với Tổng thống Obama, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình biện hộ rằng: Đến nay TQ đã đạt những thành quả to lớn về nhân quyền và được công nhận rộng rãi hơn 30 năm trước. Mặc dầu có sư đa dạng văn hóa của nhiều vùng khác nhau của hơn 1,3 tỷ dân, TQ vẫn vượt được nhiều thách thức trong cải thiện dân sinh và thăng tiến nhân quyền. TQ vẫn đang tiếp tục theo đưổi những chính sách và các biện pháp để thăng tiến, công bằng xã hội. Trong thực tế, với lập luận chặt chẽ dựa trên những dữ kiện lịch sử, Tập Cận Bình đã bảo vệ tích cực vấn đề nhân quyền tại đất nườc của ông. Về vấn đề thương mại và kinh tế, ông Tập Cận Bình nói rằng Trung quốc cũng như Hoa Kỳ đều mong muốn tiến tới mức quân bình hơn trong cán cân thương mại và đầu tư, và tìm cách giải quyết những mâu thuẫn, những khác biệt qua đối thoại chứ không phải bằng chính sách bảo hộ mậu dịch. Trong thực tế trước khi đến Washington, Tập Cận Bình chủ động nói rằng Washington phải có những hành động và biện pháp củng cố lòng tin lẫn nhau và không nên tăng cường quân sư tại châu Á Thái Bình Dương. Đến đây chúng ta thử ôn lại những chứng liệu lịch sử: - “Năm 1949: Nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được chính thức thành lập. Báo chí thế giới Tây phương đều ngợi ca: Chỉ có chủ nghĩa Cộng sản mới cứu được Trung Quốc… ..Năm 1949-1976- Hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sống dưới sự lãnh đạo tàn bạo của một người Cộng sản chuyên chính, Mao Trạch Đông. Tự do dân chủ coi như điều cấm kỵ. Tư bản chủ nghĩa là kẻ thù không đội trời chung…Suốt trong thời kỳ này Mỹ thẵng tay phong tỏa và cấm vận kinh tế. Hơn 500 triệu người dân Trung Quốc trong tình trạng một cổ hai trồng, sống đói rách nghèo khó, cô lập với thế giới bên ngoài, tưởng chừng như sẽ sống ngàn năm lạc hậu… …Ngày 21-2-1972: trong buổi gặp gỡ ở Nhân Dân Đại Sảnh tại Bắc Kinh, Richard Nixon Tổng thống Hoa Kỳ bày tỏ cùng Mao Trạch Đông: Vì lợi ích của nước Mỹ, Chính phủ Mỹ muốn có quan hệ tốt với Trung Quốc. Mao Trạch Đông đáp từ: Cũng vì lợi ích của nhân dân Trung Hoa, chúng tôi hoan hỉ chấp nhận đề nghị của Chính phủ Mỹ. …Năm 1976: Mao Trạch Đông qua đời, để lại đất nước Trung Hoa một Xã Hội Hậu Vệ Binh Đỏ, hoàn toàn đổ nát từ kinh tế, vật chất đến tinh thần chính trị và đạo lý.. …Năm 1978: Đứng trên đất nước Trung Hoa đổ nát đó, Đặng Tiểu Bình với triết lý kinh tế thâu gọn trong 4 chữ “Mèo trắng-Mèo đen” đã thay đổi bộ mặt đất nước Trung Hoa một cách kỳ diệu, đến chính ông ta cũng phải ngạc nhiên, không dám tin mình có thể mang đến đất nước một phép lạ như vậy! …Năm 1991: Thành trì kiên cố của Vô Sản Thế giới, Moscova, sụp đổ. Chủ nghĩa Cộng Sản bị xóa sổ không còn đất sống ở châu Âu. Thế giới Tây phương ngoãnh mặt lại nhìn về đất nước TQ, vẫn thấy chân dung Mao Trạch Đông sừng sửng giữa quảng trường Thiên An Môn. Cờ đỏ búa liềm vẫn tung bay khắp đất nước TQ và Công Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Trung Quốc vẫn đi lên. Một lần nữa báo chí thế giới Tây phương mới ngộ ra rằng chỉ có Trung Quốc mới cứu được chủ nghĩa Cộng Sản. …Năm 1998: Chính phủ Trung Quốc đón tiếp phái đoàn không lồ hơn cả ngàn người từ Hoa Thinh Đốn đến dưới sự lãnh đạo của Bill Clinton, Tổng Thống Mỹ. Cuộc thương lượng Kinh tế, Chính trị, Quân sư, Xã hội.. lần này giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra tại Bắc Kinh từ 25-6-1998 đến ngày 3-7-1998 ghi nhớ trong một biên bản gần một ngàn trang được thâu tóm lại trong bản tuyên bố chung dày 47 trang. Nhưng không ai biết được sự thật phía sau bản tuyên bố chung vì còn nhiều thỏa ước trong bóng tối, ngoại trừ Bill Clinton, Giang Trach Dân và những yếu nhân của hai phe. Báo chí thế giới thường hay nhắc lời cam kết giữa Mỹ và Trung Quốc trong bản tuyên bố chung năm 1998: Mỹ và Trung Quốc sẽ giải quyết những xung đột xảy ra trong tương lai, nếu có, bằng cách hòa bình: đàm phán và thương lượng, nhất quyết sẽ không giải quyết bằng chiến tranh và vũ khí. Có một điều chắc chắn mà toàn thể nhân loại đang chứng kiến là sau cuộc thương lượng lịch sử 1998 ấy, nền kinh tế và quân đội Trung Quốc phát triển mạnh và nhanh hơn bao giờ hết….” (1) - Năm 2012- Từ năm 1998 đến nay vừa ngoài một thập kỷ, 14 năm, một khoản thời gian không đáng kể đối với Trung quốc, đất nước có hơn 4000 năm biên niên sử, nhờ biết lợi dụng tối đa sự hợp tác và giúp đỡ của Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thay hình đổi dạng, hóa thân đất nước Trung Quốc lớn mạnh như Phù Đổng Thiên Vương, tiến lên thành một cường quốc thế giới, đang thật sự cạnh tranh gay gắt với Mỹ trong vị thế lãnh đạo thế giới hôm nay. Hơn 3 thập kỷ trước, châu Âu, xem Trung Quốc như một đất nước lạc hậu, một xó xỉnh ít được ai biết đến. Ấy vậy mà hôm 14-2-2012 cả một phái đoàn đại diện các quốc gia tư bản hàng đầu Châu Âu và Châu Âu Thống Nhất-E.U-đến Bắc Kinh, cầu cứu chính chính phủ Trung Quốc ra tay giúp đỡ kinh tế và tài chánh để châu Âu khỏi rơi vào cảnh vỡ nợ! Sau khi đọc qua những dữ kiện lịch sử Trung Quốc tiến hóa qua 3 thập kỷ như chúng ta thấy ở trên, khiến chúng ta nhớ lại câu nói của nhà báo James Reynolds, phóng viên BBC-London nhân nhà báo này tháp tùng chuyến viếng thăm Trung Quốc của tân Thủ Tướng Anh quốc, Gordon Brown, hôm 18-1-2008: “Trong một thời gian dài các lãnh đạo thế giới coi Trung Quốc như một mảnh đất nào đó xa xôi khó gần. Chuyến viếng thăm Trung Quốc của ông Brown ngày 18-1-2008 chứng tỏ điều này: là nếu quí vị muốn hoàn tất một công việc có tính chất toàn cầu hoặc quí vị muốn công việc này tiến triển thì quí vị không có sự lựa chọn nào khác là phải tới Trung Quốc…” Viết tới đây, tôi dừng lại, tự hỏi: Cùng chung hoàn cảnh lịch sử, tại sao Trung Quốc có được một Đặng Tiểu Bình. Nga có được một Mikhail Gorbachev! ViệtNam! Nguyễn Tấn Dũng đang ở đâu?...Tôi đứng dậy, nhìn qua khung cửa sổ, ngoài trời… khuya…Chicago…tuyết lạnh../. Đào Như thetrongdao2000@yahoo.com Oak park, Illinois,usa 23-2-2012 Chú Thích Nguồn (1)- Đoạn chữ viết nghiêng trong vọng kép, trích từ bài tham luận của cùng tác giả Đào Như: Trung Quốc Đang Ở Đâu? (Vietnam Nhật Báo—Vietnam daily News) www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=57375 Hay là: Trung Quốc-Trật Tự Mới-Thế Giới Mới (Trên Báo Tổ Quốc) www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=25847(2) Thủ Tướng Anh đến Trung Quốc-BBC-London-James Reynolds bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2008/01/080118_uk_china.shtml
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2012 4:06:55 GMT 9
Trung Hoa và Khó khăn văn hoá
Hà Dương Dực Vài năm trước đảng Cộng sản Trung Hoa (CSTH) để tượng Đức Khổng Tử ở quảng trường Thiên An Môn, được ít lâu rồi cất đi. Năm nay đại hội Đảng CSTH lại có chủ đề : Văn Hóa.
Rõ ràng là đảng CSTH, nước Trung Hoa, đang cảm thấy bế tắc và đang đi tìm một biểu tượng, một cơ sở, một nền tảng văn hóa để chấn chỉnh lại cuộc sống xô bồ, vô cảm hiện nay.
Thật không thể ngờ một nước có cả gần ngàn năm văn hiến, có Đức Khổng Phu Tử được xưng tụng là vạn thế sư, có bách gia chư tử bàn về triết lý và văn hóa... Một nước tự nhận là trung tâm văn hóa của Á Đông từ ngàn năm rồi mà ngay nay lại đang đi tìm một nền tảng văn hóa.
Tại Đảng CSTH đã quá lơ là với vấn đề văn hóa trong một thời gian dài nên nay gặp khó khăn? hay tại văn hóa của Trung Hoa ngày nay cần hợp với tình trạng toàn cầu hóa?Trắng và đen Không cần mèo đen hay trắng, Trung Hoa đã có trên 20 năm phát triển kinh tế rất ngoạn mục với tỉ số phát triển rất cao, trên dưới 10% một năm. Phát triển đó đã đưa Trung Hoa thành một nước hùng mạnh về kinh tế, chỉ đứng sau Mỹ về tổng sản lượng quốc gia (GDP). Số dân nghèo đã giảm bớt rất nhiều, đã có nhiều tỷ phú, đã tự hào là thành phố Thượng Hải tân tiến và vượt trội New York về nhiếu mặt (1) doanh nhân và sản phẩm Trung Hoa ngày nay có mặt trên khắp thế giới, Trung Hoa đã có tàu sân bay, đã chắp nối được vệ tinh trên trời... Nếu mặt tích cực kể ra không hết thì mặt tiêu cực cũng nhiều không kém và mức độ trầm trọng lại có vẻ quan trọng hơn: tham nhũng tràn lan, chênh lệch giàu nghèo quá lớn, ô nhiễm môn trường trầm trọng v.v. Trung Hoa đứng thứ 78/179 về trình độ tham nhũng, nó gây tổn thất chừng 86 tỷ Mỹ kim một năm, theo một thăm dò trên online của báo People's daily thì 91% người được hỏi tin là gia đình giàu ở Trung Hoa đều xuất thân từ giới chính trị (2). Cách biệt giàu nghèo trong xã hội vốn là bình thường, ở Trung Hoa nó lại nói lên sự thiếu an ninh khi có tới 3000 công ty tư lo cung cấp vệ sĩ cho người giàu (3). Môi trường sống đã ô nhiễm ở mức báo động, Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health Organization) ước lượng có trên 700,000 người Trung Hoa chết hàng năm vì khí trời hay nước uống bị ô nhiễm. Chính bộ trưởng về nguồn nước của Trung Hoa ước lượng có chừng trên 300 triệu người không có nước sạch dùng (4). Năm 2005 có chừng 227 triệu người bị bệnh tâm thần, 287000 người tự tử (tỷ lệ vào loại cao nhất thế giới) (5). Vì chính sách:" mỗi gia đình chỉ được có một con" được áp dụng từ năm 1980 nên tới năm 2020 dân số Trung Hoa sẽ mất cân bằng khi sẽ có chừng ba chục triệu thanh niên nhiều hơn thanh nữ (6). Vì luật một con, vì tập tục trọng nam khinh nữ, nên nhiều gia đình Trung Hoa đồng ý phá thai khi biết rằng sẽ sinh con gái. Họ hy vọng lần thụ thai sau sẽ là con trai. Con gái sinh ra lại không được nuôi dưỡng đúng nên chết nhiều hơn con trai...Không đào sâu thêm vào vấn đề tâm lý của những cặp có con gái đi phá thai trễ, con gái bị chết non... thì cũng phải nhìn nhận rằng sự mất cân bằng nam-nữ đó sẽ là một tai họa cho xã hội Trung Hoa. Tai họa đó có thể lây sang lân bang? Trung Hoa với địa dư quá khác biệt, nhiều dân tộc, nói nhiều thứ tiếng, 3 tôn giáo chính là Phật, Gia Tô và Hồi giáo (7), vốn cực kỳ nan giải trong đời sống hài hòa, nay lại thêm các tệ hại kể trên thì thật khó tiên đoán rồi tương lai nước Trung Hoa sẽ ra sao ? Nhân dân Trung Hoa sẽ sống ra sao ? Nói rằng xã hội Trung Hoa hiện rất xô bồ và vô cảm thì sợ rằng đó là nói chưa tới. Phát triển không cần văn hoá? Sau Liên Xô sụp đổ, Đặng Tiểu Bình với tư duy của người cộng sản: kết quả biện minh cho phương tiện, nên đã đưa ra khẩu hiệu mèo trắng mèo đen; nó trái ngược hẳn với văn hóa cổ truyền của Á Đông, nền văn hóa có hàng ngàn năm chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Với người tin theo Đạo Phật thì một ý niệm nảy sinh trong đầu đã phân biệt được thiện và ác rồi. Trắng đen trong văn hóa Trung Hoa (và Việt Nam) khác nhau như đen và trắng, như phải và trái, như thiện và ác, không thể nói rằng không cần phân biệt. Nếu hiểu mèo trắng hay mèo đen là tượng trưng cho chủ nghĩa cộng sản và tư bản thì nước Trung Hoa chỉ còn có một đảng lo làm giàu, không còn ranh giới giữa vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa và tinh thần cộng đồng tương trợ. Chủ nghĩa nào cũng được, phương tiện nào cũng được, cách thức nào cũng được miễn là bắt được chuột. Đặng Tiểu Bình đã a tòng với Mao Trạch Đông xóa bỏ luân lý xã hội, xóa bỏ mọi niềm tin của xã hội, xóa bỏ văn hóa của xã hội, chỉ cốt để phát triển kinh tế, phát triển bằng mọi giá. Đặng Tiểu Bình đưa vài trăm triệu người vào công xưởng làm gia công cho thế giới, với đồng lương tối thiểu. Những công nhân đó bước ra khỏi cơ xưởng, nhìn bầu trời âm u, ô nhiễm, nhìn đường phố ồn ào chật chội, nhìn những xe hơi bóng nhoáng, rồi về ngôi nhà chật hẹp không có làng xóm thân quen, không có cha mẹ, vợ con. Họ nghĩ gì? Người người tranh nhau kiếm tiền trong xã hội rộng lớn nhiều sắc dân, nhiều tiếng nói mà không có nền văn hóa chủ đạo, hay nền văn hóa lỏng lẻo thì đương nhiên cuộc sống trở nên nặng nhọc, bất trắc, người giàu đi một bước vệ sĩ theo một bước, phần đông giới bình dân thì cảm thấy bị bóc lột, bị đè nén, cách biệt, trơ trọi. Trong 4 năm qua, mỗi năm Trung Hoa có chừng 90,000 vụ biểu tình khiếu nại, chống đối (8). Vì thế Đảng CSTH phải đưa ông Khổng Tử ra, rồi cất ông Khổng Tử đi (vì thấy Khổng học không đủ đáp ứng cho nhu cầu hiện đại ?), để đại hội lại lo bàn về văn hóa. Trí thức Trung Hoa và thế giới góp ý không kém sôi nổi. Trương Duy Vi ca tụng mô hình Trung Hoa. Trương Duy Vi cho rằng lãnh đạo Trung Hoa đã được đảng đào tạo từ dưới lên trên và đã ấn định nhiệm kỳ là 4 năm, được tái ứng cử một lần nữa là 8 năm, như vậy sẽ tránh được tệ nạn tham nhũng và có hôn quân. Trương Duy Vi nhắc lại lịch sử nhiều triều đại Trung Hoa đã tồn tại trên 2, 300 năm để nói rằng cái "vận khí"(?) cái xu hướng chủ đạo mới (?) sẽ giúp Trung Hoa phát triển lâu dài (9). Vương Tập Tư (Wang Jisi) trong bài bàn về Đại Chương Trình (10) thì nghĩ rằng Trung Hoa phải lo về kinh tế, an ninh, an sinh xã hội và những giá trị căn bản của Trung Hoa (China's values). Những giá trị căn bản nầy phải phù hợp với quy tắc luật pháp (the rule of law)(11), dân chủ, nhân quyền, và các giá trị phổ quát đã được thế giới công nhận. Học giả Úc, Salvatore Babones cho rằng điều quan trọng nhất để Trung Hoa có thể phát triển bền vững lâu dài là có tự do tư tưởng thì mới có các phát minh, sáng chế để cạnh tranh với Âu Mỹ (12). Học giả Mỹ, Ross Terrill sau khi phân tích, tìm hiểu Trung Hoa muốn gì trong một bài dài thì có nhắc tới sự thiếu vắng một nền tảng triết lý (13). Còn có rất nhiều tác giả khác bàn về Trung Hoa nhưng tựu trung chỉ nói về vấn đề kinh tế, hay là tranh cãi về tầm mức quan trọng giữa khía cạnh tự do hay phát triển hay an ninh, hầu như vấn đề văn hóa hay giới hạn hơn là vấn đề tâm linh hay tôn giáo (với ý nghĩa là một khía cạnh chủ đạo cho cuộc sống của một quốc gia) thì không được nhắc tới. Có nhẽ đây là điểm cần bàn luận khi nói về vấn đề văn hóa của Trung Hoa. Làm sao có đời sống tâm linh tốt đẹp trong khung cảnh phát triển kỹ nghệ? Khoa học ngày nay dầu đã có tiến bộ vượt bực cũng vẫn chưa xác định được 100 phần trăm chắc chắn là con người từ đâu mà sinh ra, bào thai khi nào có phần hồn? (từ bào thai thành bé nhỏ nằm trong bụng mẹ), vũ trụ như thế nào và sống chết ra sao? Con người từ đâu mà có? chết rồi linh hồn đi về đâu? nếu tin có linh hồn.Và hàng trăm câu hỏi liên quan tới phần xác, phần hồn, tới hạnh phúc... Tất cả những thắc mắc đó cộng với khó khăn, bất trắc của cuộc sống đã khiến con người phải tự tìm cho mình một niềm tin, phải chọn cho mình một điểm tựa, phải định cho mình một điểm đến. Tạm gọi điểm đi tìm đó là nền tảng tâm linh ta có thể tóm tắt nền tảng tâm linh gồm: luân lý gia đình, giáo điều/lời khuyên/răn của các tôn giáo, điều lệ của các đảng phái, các đoàn thể độc lập trong xã hội, được một số đông tương đối trong xã hội đó/trong quốc gia đó nghe theo. Nền tảng tâm linh như vậy có vẻ có những chỉ tiêu không thống nhất, nói quá đi thì có vẻ hơi ôm đồm. Nhưng như thế mới đủ để lựa chọn, có tự do lựa chọn, tránh được vấn đề độc tài lý thuyết, độc tài đạo giáo, độc tài niềm tin. Nền tảng tâm linh của xã hội/quốc gia chính là niềm tin, không phải một mà là nhiều niềm tin, nếu nó dung hòa với nhau thông qua luân lý, qua luật pháp thì quốc gia sẽ có cuộc sống ổn định, hài hòa, rất cần cho phát triển bền vững. Nhìn vào bất cứ xã hội nào, quốc gia nào ta đều thấy rất nhiều dạng sinh hoạt: gia đình, đảng phái, hội đoàn, tôn giáo, thể thao, văn nghệ... Ngày xưa ở Trung Hoa và Việt Nam đại đa số dân sống trong làng mạc, các ngày giỗ, tết, cưới xin là những dịp con cháu gần nhau, để nghe lời giáo huấn về luân lý về cách cư. xử. Ngày hội, ngày Tết là dịp dân làng tụ tập gây tình thân, tình đoàn kết. Mùng một, ngày rằm là ngày đi lễ Chùa nghe giảng giải về đạo lý. Thể thao là môn giải trí, đồng thời nó giúp mọi người biết thế nào là tuân thủ luật chơi. Điểm thắng của anh chỉ được công nhận khi anh theo đúng luật chơi, rõ ràng có sự khác biệt giữa trắng và đen...Người chơi thể thao hay khán giả đều biết điều đó. Các sinh hoạt trong xã hội đã giúp con người và con người cần có nhiều sinh hoạt đa dạng đó, vì ở đó nó cho con người một mục đích đến, một niềm tin, một nền tảng tâm linh, hay ít nhất cũng có những giây phút thoải mái làm nhẹ mọi gánh nặng trên vai. Nó giúp cho con người không sợ sống, không sợ chết, giúp cho con người có đời sống tinh thần bình ổn... Tụ tập ra ở chúng cư làm kỹ nghệ thì có phát triển về kinh tế như Trung Hoa đã làm. Nhưng sự kiện đó làm xáo trộn mọi sinh hoạt xưa, mọi giềng mối của nền tảng tâm linh. Nếu không dung hòa với/hay đổi mới được phong tục tập quán xưa, không bảo vệ quyền lợi người nông dân khi họ phải bán ruộng đất để xây khu kỹ nghệ, không thấy sự khác biệt trong cấu trúc gia đình của hai loại xã hội nông nghiệp và kỹ nghệ, không hiểu rằng cấu trúc đó đi theo tâm lý khác biệt rất quan trọng ...không dự trù những biện pháp để thích nghi với các vấn đề xẩy ra thì chỉ nhìn sơ qua các con số ở đầu bài đã thấy cái giá mà nhân dân Trung Hoa đã/sẽ phải trả là rất cao. Xưa, có nhà hiền triết Trung Hoa đại khái nói rằng làm văn hóa sai thì di hại cho nhiều đời. Bỏ quá khứ qua một bên, thì cũng phải tìm ra câu trả lời cho câu hỏi:"Làm sao có đời sống tâm linh tốt đẹp trong khung cảnh phát triển kỹ nghệ?" Các nước phát triển kỹ nghệ như Mỹ, Nhật, Anh ...họ có nền tảng tâm linh của họ và trong các quốc gia đó nền tảng tâm linh giữ một phần trong vai trò hướng dẫn nhà lập pháp để soạn thảo ra các đạo luật. Luật pháp và nền tảng tâm linh là hai thực thể có ảnh hưởng hỗ tương. Tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ tin rằng Tạo Hóa đã tạo dựng nên con người, Anh và Nhật tin vào đạo giáo mà tượng trưng cho tâm linh đó là nhà Vua của họ. Trợ lực cho nền tảng tâm linh đó họ có hiến pháp và luật pháp theo đúng quy tắc luật pháp (The rule of law). Các nước đó đã tiến từ quân chủ hay đang bị đô hộ, và phải trải qua nhiều trận chiến quốc tế hiểm nghèo vẫn vươn lên là nước tự do, độc lập và giàu mạnh như hiện nay, mà không phải kinh qua những bất ổn lớn của xã hội. Lịch sử Trung Hoa thời Đông Châu Liệt Quốc đã biện minh cho sự cần thiết một nền tảng tâm linh.Khi Thiên Tử nhà Chu đã không còn chu toàn nổi bổn phận của mình thì thiên hạ đánh nhau, tranh giành làm vua, nhưng chỉ là vua chư hầu vì không ai dám giết Thiên Tử, còn tin rằng Thiên Tử là con Trời, không thể giết. Phải đợi đến khi Mạnh Tử và Tuân Tử đưa ra lý thuyết: Thiên Tử nếu không làm tốt bổn phận của mình thì cũng nên giết, có thể giết được thì Tần Thủy Hoàng mới dám chấm dứt nhà Chu để thống nhất nước Tàu, tiếp theo là nhà Hán dài trên 400 năm. Dầu cho định nghĩa văn hóa như thế nào; mô tả, định nghĩa xã hội có văn hóa ra làm sao thì ngày nay hiển nhiên là văn hóa của quốc gia, của xã hội đó cần được xây dựng dựa trên sự nhuần nhuyễn các yếu tố: a/ Nền tảng tâm linh. b/ Hiến Pháp và Luật pháp theo đúng quy tắc luật pháp (The rule of law). c/ Tuyên ngôn nhân quyền của liên hiệp quốc. d/ Và sau cùng là luật pháp quốc tế mà quốc gia mình sống đã ký kết. Sau khi đi theo kháng chiến giành Độc Lập, thi sĩ Quang Dũng của VN đã nói rất thâm thúy: "Ta như những người chán một bờ nhỏ hẹp, thèm một đất đai khác, mê biển rộng, ra đi mà thiếu một địa bàn vững chắc. Nên có cái hào hứng cái nhiệt thành của người đi mà chưa có cái phong thái vững vàng và trong sáng của người đến" (14). Cái phong thái vững vàng và trong sáng đó chính là phong thái của con người sống trong xã hội có văn hóa; một xã hội có tâm linh, có luân lý, có luật pháp minh bạch, trong sáng. Với quá khứ cả ngàn năm văn hiến như Trung Hoa thì chuyện vượt qua khó khăn hiện tại không phải là chuyện không thể, nhưng đòi hỏi sẽ cực kỳ cao. Hà Dương Dực Cước chú: 1/ Theo Trương Duy Vi trong bài đối thoại với Francis Fukuyama về Mô hình Trung Quốc. Phạm Gia Minh dịch và đăng trên Viet-studies 11/6/11. 2/ Đọc Wikipedia tìm trên google.com mục China Corruption. 3/ Tin đăng trên BBC ngày 14/11/11 4/ Salvatore Babones dẫn trong bài "The Middling kingdom", Foreign Affairs 9-10/2011 5/ Theo bài The Sick Man of Asia của Yanzhong Huang đăng trên Foreign Affairs 11-12/2011. 6/ Theo báo cáo được công bố hồi tháng 4/2011 của ủy ban "State population and family planning" của chính phủ Trung Hoa 7/ Trung Hoa có trên 1.300 triệu dân, 53% dân nói tiếng quan thoại (mandarin), còn lại phần đông nói 7,8 thứ ngôn ngữ khác, không kể các nhóm dân thiểu số ở mìền núi (như vùng rừng núi biên giới VN...). Trung Hoa có trên 50 triệu tín đồ Gia Tô Giáo, 20 triệu Hồi Giáo, Đạo Phật được thống kê là có trên 100 triệu (?), chắc là nhiều hơn. 8/ Báo The Economist tháng 10/2010. 9/ Trương Duy Vi bài dẫn trên. 10/ Bài China's Search for a Grand Stategy của Wang Jisi trên Foreign Affairs tháng 3-4.2011 11/ The Rule of Law là một thành ngữ rất khó dịch, có người dịch là Pháp Quyền (dịch là pháp trị là sai). Đại cương thành ngữ nầy để chỉ Luật đã được dân chúng chấp nhận thông qua các định chế dân chủ, và khi đã được dân chấp nhận thì luật có giá trị cho tất cả mọi người, kể cả Vua. 12/ Bài đã dẫn (4). 13/ Bài What does China Want đăng trên Wilson Quarterly mùa thu 2005. Viet-studies phỏng dịch đăng ngày 22-7-2011. 14/ Trong bài "Mấy ý nghĩ về thơ" Quang Dũng viết đăng trên báo Văn Nghệ 1956. Lại Nguyên Ân sưu tầm và đăng trên Viet-studies tháng 11.2011.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2012 4:09:59 GMT 9
Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương Duy Vi
Nguồn: The China Model: A Dialogue between Francis Fukuyama and Zhang Weiwei
Bản dịch của Phạm Gia Minh Francis Fukuyama là thành viên cao cấp Olivier Nomellini, thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Freeman Spogli, Đại học Stanford, đồng thời là tác giả các cuốn sách nổi tiếng “Sự cáo chung của Lịch sử”; “Con người cuối cùng và cội nguồn của các trật tự chính trị”. Trương Duy Vi (张维为, Zhang Weiwei) là giáo sư tại Đại học Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế Genève (Thụy Sĩ), thành viên cao cấp tại Viện Xuân Thu (Chungqiu) và giáo sư thỉnh giảng của Đại học Phục Đán, Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của cuốn sách “Làn sóng Trung Quốc: sự trỗi dậy của một nhà nước văn hiến ”. (Chú thích của THD: Trương Duy Vi từng là người thông dịch cho Đặng Tiểu Bình khi Đặng sang Mỹ) Francis Fukuyama: Trong lịch sử thế giới, sự phát triển của nhà nước Trung Quốc có một tầm quan trọng đặc biệt. Ở Phương Tây, người ta quen mô tả sự phát triển của các thể chế theo những chuẩn mực dựa trên thực tiễn Châu Âu, trong khi đó lại quên một sự thật: Trung Quốc là nơi đầu tiên mà nhà nước đã được hình thành, tức là khoảng 1700 – 1800 năm sớm hơn Châu Âu. Cho tới nay có 3 loại hình thể chế chính trị trên thế giới. Loại thứ nhất là nhà nước – một tổ chức được xây dựng theo cấu trúc thứ bậc có chức năng tập trung, thâu tóm và sử dụng quyền lực nhằm thực thi luật lệ trong một số lĩnh vực cụ thể. Xưa nay, nói đến nhà nước tức là nói đến năng lực buộc người dân phải thực thi luật lệ. Thế còn nhà nước hiện đại thì sao? Ở đây tôi dùng định nghĩa của Max Weber cho rằng nhà nước hiện đại thì không dựa trên quan hệ bạn bè và gia đình. Việc tuyển dụng vào làm việc không được căn cứ vào mối quan hệ riêng với người nắm quyền lực. Thay vào đó, họ cần phải được đối xử khách quan với tư cách là những công dân có những khoảng cách nhất định đối với người cầm quyền. Điều này là đi ngược lại với các nhà nước thời xưa được điều hành bởi các mối quan hệ gia đình hay dòng tộc của kẻ cầm quyền. Loại hình nhà nước thứ hai là thể chế pháp trị. Đó không phải chỉ đơn thuần là có luật pháp bởi lẽ mọi quốc gia đều có các bộ luật của mình, tuy nhiên ở đây, luật phải phản ánh được sự đồng thuận về mặt đạo đức trong cộng đồng và phải là mục tiêu cao hơn ý chí của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào đang điều hành nhà nước. Nói cách khác, nếu như hoàng đế, tổng thống, vua hay thủ tướng mà soạn ra luật theo ý riêng của mình thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Thể chế pháp quyền đòi hỏi chính quyền ở cấp cao nhất cũng phải tuân thủ luật pháp. Thể chế chính trị cuối được đặc trưng bởi nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm chính trị, nơi mà chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước nhân dân. Điều này hoàn toàn đối lập với tình trạng điều hành đất nước nhưng chỉ nhằm phục vụ các mục đích riêng của giới cầm quyền. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới nơi mà những kẻ cầm quyền coi đất nước như phương tiện để làm giàu cho bản thân và gia tộc. Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia có sự giải trình minh bạch. Ở Hoa Kỳ và các nước Phương Tây chúng tôi liên kết tính giải trình và chịu trách nhiệm với các giá trị dân chủ. Tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị luôn có ý nghĩa rộng hơn bầu cử dân chủ. Hình thức giải trình và chịu trách nhiệm sơ khai đã hình thành ở Anh vào thế kỷ 17 khi mà Quốc vương phải giải trình trước quốc hội đại diện cho vẻn vẹn có 1% dân số Anh. Theo cách hiểu ngày nay thì không thể coi đó một hình thức dân chủ. Thế nhưng tôi tin rằng ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không phải giải trình và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải thấy được trách nhiệm trước công chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân, rèn luyện theo tinh thần của các bậc hoàng đế và vua chúa. Điều này, theo tôi nghĩ mới chính là ý nghĩa bao trùm của sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị ở Trung Quốc - đó là giải trình có nội dung và sắc thái đạo đức. Nhà nước thì luôn có xu hướng tập trung quyền lực, còn thể chế pháp quyền và giải trình và chịu trách nhiệm chính trị thì lại đặt ra những hạn chế theo phương thức, đó là, cho dù chính quyền có mạnh đến đâu chăng nữa thì nó vẫn phải được kiềm tỏa bởi pháp luật và chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân. Tôi đã phát biểu rằng nhà nước đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trung Quốc với một động cơ cũng tương tự như ở Châu Âu – đó là trước áp lực của cạnh tranh quân sự. Cả một giai đoạn dài Xuân – Thu và Chiến quốc trong lịch sử cổ đại Trung Hoa đã có rất nhiều thế lực và thực thể chính trị Trung Quốc đấu nhau quyết liệt suốt hơn 700 năm. Và chính áp lực cạnh tranh về quân sự đã buộc phải hình thành nên các thể chế chính trị hiện nay. Cần phải đánh thuế và tuyển dụng nhân viên thu thuế cũng như cần khen thưởng công trạng.Nếu chỉ tuyển dụng trong số người thân và họ hàng thì chưa chắc đã có được những tướng lĩnh quân đội tài giỏi nhất và như vậy, khó có thể thắng trận. Ngay từ thời nhà Tần - triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Quốc, thì Trung Quốc đã phát triển một nhà nước có nhiều nét tương đồng với nhà nước hiện đại tới mức đáng ngạc nhiên Các kỳ thi tuyển người làm quan được định kỳ tổ chức khi cần thiết bên cạnh một hệ thống quan liêu được sắp xếp hợp lý theo tuyến và quân đội tuy được bố trí trên một lãnh thổ rộng lớn nhưng được tổ chức chặt chẽ bởi những quy định chung. Sự ra đời của nhà nước hiện đại nhưng lại diễn ra cách đây tới 2300 năm, tức là trước Công nguyên 231 năm rõ ràng là một thành tựu lịch sử vĩ đại. Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là thể chế chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm chính trị công khai. Nguyên nhân vì sao Trung Quốc không có thể chế pháp quyền lại nằm ở một đặc điểm lịch sử quan trọng: ở Trung Quốc không có một tôn giáo nào mang tính áp đảo. Cá nhân tôi vẫn cho rằng ở đa số các quốc gia, thể chế pháp quyền được hình thành bên ngoài tôn giáo bởi lẽ tôn giáo thường đóng vai trò như ngọn nguồn của những quy định đạo đức và được trông nom bởi một trật tự thứ bậc có tính pháp lý riêng biệt – đó là tòa án tôn giáo với các thẩm phán, hội đồng xét xử và linh mục. Điều này là có thực ở Do thái Israel cổ đại, Phương Tây Thiên Chúa giáo, Ấn Độ Hồi giáo và Hindu.Trong các xã hội đó mặc nhiên đã hình thành những ràng buộc pháp lý mang dấu ấn tôn giáo đối với các đại diện chính quyền.Tuy nhiên Trung Quốc đã không có được sự hỗ trợ tôn giáo độc lập như vậy và nó cũng vắng mặt trong truyền thống Trung Quốc. Bởi lẽ đó sự giải trình và chịu trách nhiệm một cách dân chủ dân chủ đã không xảy ra nơi đây, dù chỉ là hình thức. Phương Tây lại phát triển theo cách hoàn toàn khác. Dưới thời phong kiến ở Châu Âu đã bắt đầu có hình thái pháp quyền. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phát minh ra Bộ Luật vào thế kỷ 11, tức là trước cả khi ra đời nhà nước Châu Âu kiểu cận đại. Các vị vua, chúa ở Âu châu cũng giống như vua chúa ở Trung Quốc đã khởi đầu một quá trình hình thành nên những nhà nước tập trung, quan liêu hùng mạnh vào thế kỷ 16 và 17. Tuy nhiên họ đã làm những điều đi ngược với nền tảng được tạo nên bởi các ràng buộc pháp luật (mang dấu ấn tôn giáo – ND) từng hạn chế khả năng tập trung quyền lực của họ. Cội nguồn của dân chủ Phương Tây là sản phẩm của những ngẫu nhiên lịch sử. Tất cả các quốc gia Âu châu phong kiến thời trung cổ đều có hình thức định chế có tên gọi là nghị viện, quốc hội hay tòa án tối cao. Đó là những cơ quan mà Vua chúa phải cần đến khi họ muốn tăng thuế. Ở Anh Quốc, nghị viện trên thực tế đã tỏ ra hữu hiệu, mạnh mẽ và đã tuyên chiến với Vua. Vua James II đã bị lật đổ năm 1688 và sau đó nghị viện đã chọn ra một vua khác để thay thế. Bởi vậy, ý tưởng về một sự giải trình và chịu trách nhiệm trước một nghị viện được bầu ra thực chất đã có từ thời cuộc cách mạng vẻ vang năm 1688. Xét theo nhiều góc độ, sự ra đời của dân chủ ở Âu châu là kết quả của những diễn biến tại Anh. Ở một mức độ nhất định, điều này rất đáng được ghi nhận bởi lẽ thể chế pháp quyền và sự giải trình đã đặt nền móng vững chắc cho chế độ bảo vệ tác quyền ở Anh, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và sự trỗi đậy của chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp. Ở Phương Tây ngày nay chúng ta có thể nhận thức được một số cơ sở của thể chế quản trị xã hội. Hiển nhiên có rất nhiều sự khác biệt giữa Phương Tây và Trung Quốc. Trung Quốc ngày nay là do Đảng Cộng sản lãnh đạo dựa trên học thuyết Marxism mà không phải là tư tưởng Khổng giáo. Nhưng ở nhiều khía cạnh khác, cơ cấu quản trị xã hội ở Trung Quốc ngày nay lại rất giống với những gì đã từng tồn tại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Đó là một chính phủ quan liêu tập trung có chất lượng cao được xây dựng trên sự tuyển chọn khách quan và các luật lệ mang tính hình thức. Bối cảnh lịch sử là như vậy. Bây giờ cho phép tôi được trình bày về mô hình Trung Quốc. Vậy mô hình này đã được hình thành như thế nào? Điểm mạnh và yếu của nó ra sao? Và hệ thống Trung Quốc thuộc vào loại hệ thống kiểu gì? Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và toàn trị. Di sản đó được truyền lại từ thời xa xưa trong lịch sử Trung Quốc khi mà chính quyền đã đạt được mức độ thể chế hóa cao trong nội bộ cũng như đối với bộ máy quan liêu rất phức tạp có chức năng cai quản cả một xã hội rộng lớn. Ngày nay trong chính phủ Trung Quốc tính giải trình và chịu trách nhiệm chủ yếu được thực hiện theo chiều từ cấp dưới lên cấp trên trong hệ thống do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thay vì Hoàng đế hay vua như trước kia. Đó là cách thể hiện tính giải trình và chịu trách nhiệm của hệ thống này. Nếu anh là một quan chức và chính phủ muốn trừng phạt anh thì họ có thể bắt anh phải giải trình và chịu trách nhiệm. Tuy nhiên lại không có sự giải trình theo chiều từ trên xuống dưới để cho thấy cấp trên sẽ chịu trách nhiệm ra sao đối với những người bị lãnh đạo ở cấp dưới. Tình trạng này đối lập với tính giải trình và chịu trách nhiệm thực hiện theo quy trình thông qua bầu cử dân chủ. Đó là tính giải trình và chịu trách nhiệm dân chủ hiện nay. Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức nhiều hơn là thủ tục. Tính chịu trách nhiệm về đạo đức có nghĩa là người lãnh đạo phải biết cảm nhận về trách nhiệm đạo đức của mình trước người dân. Nếu các bạn quan sát trên thế giới các chế độ toàn trị hiện đại khá thành công thì sẽ thấy chúng đều tập trung ở Đông Á, chẳng hạn như Hàn Quốc, Đài Loan dưới thời Quốc Dân Đảng, Singapore dưới thời Lý Quang Diệu, Nhật bản trong giai đoạn đầu của sự phát triển tư bản, khi chưa có dân chủ, và tất nhiên cả nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc nữa. Nói cách khác, kiểu giải trình và chịu trách nhiệm này hoặc ít hoặc nhiều là một nội hàm của văn hóa Trung Quốc, bởi lẽ theo Khổng giáo thì chịu trách nhiệm về đạo đức là một truyền thống. Cũng có nhiều chính quyền toàn trị nơi mà kẻ cầm quyền cho rằng làm chính trị có nghĩa là lấy của cải từ người khác về cho gia đình mình hoặc bạn bè. Thế nhưng Trung Quốc không có truyền thống đó. Yếu tố thứ hai trong mô hình Trung Quốc đó là kinh tế. Ở đây tôi không cho rằng Trung Quốc khác các quốc gia tăng trưởng nhanh ở Đông Á nhiều. Cũng như họ, mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích cực của các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa.Tuy vậy, cũng có một số khác biệt trong chính sách của Hàn Quốc và Nhật Bản. Đối với trường hợp Trung Quốc thì chính sách công nghiệp không đặt ra các mục tiêu một cách rõ ràng lắm, ví dụ như chỉ tiêu cho các ngành bán dẫn, thép hay đóng tàu. Nói chung, chính phủ Trung Quốc chú trọng nhiều hơn tới các phương tiện hạ tầng cơ sở, tài chính, đồng thời áp dụng một chế độ tỷ giá giúp cho xuất khẩu của Trung Quốc cạnh tranh, hơn là lựa chọn những người chiến thắng trong thi đua kinh tế. Tuy nhiên, Trung Quốc không nghiêng về xu hướng dựa hoàn toàn vào kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mình.(tức là vẫn dựa chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp nhà nước – ND) Yếu tố tiếp theo trong mô hình Trung Quốc đó là một hệ thống an sinh xã hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển, cụ thể là Tây Âu và Scandinavia (là các nước theo xu hướng Xã hội Dân chủ kiểu Bắc Âu có một số điểm gần với CNXH – ND). Trung Quốc cố gắng đạt mức đảm bảo việc làm cao với khởi điểm ban đầu khá thấp. Vẫn còn nhiều việc phải làm để giúp những người nghèo và giảm bớt sự cách biệt về của cải cho dù về danh nghĩa Trung Quốc vẫn là một xã hội Marxist. Một trong những kết quả phát triển của Trung Quốc đó là hệ số Gini mà các nhà kinh tế dùng để đo độ bất bình đẳng đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy thế hệ gần đây. Rõ ràng là chính phủ Trung Quốc thừa nhận đó là một vấn đề. Sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị, chẳng hạn như Thương Hải và các vùng nội địa quả là rất lớn. Các nước Bắc Âu, ví dụ như Đan mạch, Nauy là những quốc gia có chế độ an sinh phát triển đã hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp trong khi đó Trung Quốc làm được rất ít trong lĩnh vực này. Bây giờ hãy thử so sánh hai thể chế vừa nêu để thấy những ưu và nhược điểm của chúng. Một bên là mô hình Trung Quốc, còn bên kia là mô hình dân chủ tự do được hiện thân bởi các quốc gia dân chủ như Anh, Mỹ, Pháp, Italy và một số các nước đang phát triển, ví dụ như Ấn Độ. Mô hình Trung Quốc có những ưu điểm cơ bản, một trong số đó là quá trình ra quyết định. Đứng về góc độ này thì sự khác biệt giữa Trung Quốc và Ấn Độ là quá rõ ràng. Trung Quốc rất mạnh trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng: sân bay lớn, đường sắt cao tốc, cầu và đê đập nhờ vào cơ cấu chính quyền tập trung nên có thể thực hiện nhanh hơn các dự án đó. Ấn Độ là một đất nước vùng nhiệt đới sẵn mưa nhưng hạ tầng cơ sở của thủy điện lại kém xa Trung Quốc. Tại sao vậy? Câu trả lời là: bởi vì Ấn Độ là đất nước có chính phủ dân chủ đặt nền móng trên pháp luật. Khi mà Trung Quốc xây đập Tam Hiệp thì đã rất nhiều ý kiến phê phán và chống đối, tuy nhiên chính phủ vẫn cứ làm theo ý định riêng của mình. Trái lại, mấy năm trước, công ty Tata Auto dự tính xây một nhà máy sản xuất ôtô ở Tây Bangalore và đã gây nên những cuộc biểu tình phản đối, bãi công và thậm chí các công đoàn và tổ chức nông dân còn đâm đơn kiện. Cuối cùng thì ý tưởng đó đã phải hủy bỏ trước sự phản kháng chính trị mạnh mẽ. Quả thực trong một số quyết định kinh tế, hệ thống độc đoán kiểu Trung Quốc đã tỏ rõ ưu điểm của mình. Trong trường hợp của Mỹ, chúng tôi có một chính phủ hoạt động theo luật pháp và chịu trách nhiệm giải trình trước các cử tri. Tuy không đến nỗi tồi tệ như Ấn Độ trong quá trình ra quyết định nhưng chúng tôi cũng có những vấn đề trong hệ thống chính trị của mình, ví dụ như thâm hụt ngân sách dài hạn. Bất cứ chuyên gia nào cũng đều biết rằng tình trạng thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế thiếu bền vững và sẽ còn tồi tệ hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Thế nhưng hệ thống chính trị hiện nay của chúng tôi đang bị tê liệt trong việc ra quyết định bởi vì còn vướng vào chuyện đối đầu giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ. Các nhóm lợi ích của chúng tôi rất mạnh và có khả năng phong tỏa một số quyết định. Ngay cả khi các quyết định đó là hợp lý xét về dài hạn nhưng cuối cùng lại không được chấp thuận, đơn giản chỉ vì gặp phải sự chống đối của một số nhóm lợi ích khác. Đó là một vấn đề đau đầu mà nước Mỹ đang gặp phải. Nếu chúng ta có khả năng thay đổi tình trạng bế tắc này trong một vài năm tới thì mới có thể khẳng định rằng hệ thống dân chủ của Mỹ sẽ thành công trong tương lai dài hạn. Trung Quốc có rất nhiều ưu điểm khác không bắt nguồn từ lịch sử và văn hóa. So với thế hệ trước, người Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ cũng đã thử nghiệm nhiều đổi mới. Những đổi mới này nếu hiệu quả sẽ được đưa vào áp dụng, còn nếu không, sẽ bị loại bỏ. Trong khi đó chính phủ Mỹ lại cứng nhắc trong việc ra các quyết định kinh tế. Mặc dù Hoa Kỳ được coi là rất thực dụng và có ý chí thử nghiệm những cái mới, nhưng tôi lại không chia sẻ cách nhìn nhận đó. Vậy là hệ thống Trung Quốc có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên giờ đây cần đặt ra câu hỏi về sự bền vững của nó. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã hành động có hiệu quả còn Hoa Kỳ thì còn đang trầy trật vật lộn với thâm hụt ngân sách. Thế nhưng hệ thống nào sẽ bền vững trong hai đến ba thập niên sắp tới? Sự ưu tiên của tôi vẫn sẽ dành cho hệ thống Hoa Kỳ hơn là hệ thống Trung Quốc. Có một số vấn đề thu hút sự quan tâm của chúng ta đến hệ thống chính trị Trung Quốc. Đầu tiên, đó là sự thiếu tính giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với cấp dưới. Nếu các bạn nhìn vào lịch sử các triều đại Trung Quốc thì điều thường thấy đó là hệ thống tập trung quan liêu đó luôn thiếu thông tin và kiến thức về xã hội bên ngoài dẫn đến kết cục là một sự quản trị kém hiệu quả. Đặc tính quan liêu luôn mang lại tình trạng tham nhũng và điều hành yếu kém. Trong chừng mực nào đấy,vấn đề này vẫn còn ở Trung Quốc hiện nay. Tất nhiên là có nhiều cơ hội để thu thập thông tin, chẳng hạn như chúng ta vẫn dùng Internet và nhiều hình thức công nghệ truyền thông hiện đại để làm việc này. Tuy nhiên vấn đề lại chính ở chỗ liệu chính quyền có khả năng đáp ứng nguyện vọng và tình cảm của quần chúng cũng như tôn trọng ý kiến của họ về cách quản trị xã hội hay không. Do vậy, tính giải trình và chịu trách nhiệm đối với quần chúng cần phải được thể chế hóa thông qua bầu cử để làm sao các nhà lãnh đạo luôn có cảm giác biết sợ. Nếu họ không làm việc đúng đắn thì họ sẽ không được bầu nữa. Vấn đề thứ hai tuy không còn tồn tại trong hệ thống Trung Quốc nhưng vẫn thu hút sự quan tâm, đó là câu truyện muôn thưở về “ngụy vương” (hay ông vua tồi tệ, kém cỏi – ND) trong lịch sử Trung Quốc. Không có gì phải nghi ngờ khi bộ máy chính quyền có các quan chức được đào tạo tử tế, đủ năng lực hoặc những chuyên gia kỹ thuật đáp ứng nhu cầu xã hội thì sẽ hiệu quả hơn một chính quyền dân chủ trong ngắn hạn. Có được một vị “vua anh minh” chưa thể đảm bảo rằng sẽ không còn “ngụy vương” xuất hiện sau này. Chưa có hệ thống giải trình và chịu trách nhiệm để thay thế “ngụy vương” một khi con người này xuất hiện, và làm sao có thể tìm được một vị “vua anh minh”? Và có cách nào để đảm bảo rằng vị vua anh minh sẽ giúp tái hiện những vị vua anh minh nối tiếp hết thế hệ này sang thế hệ khác? Không có lời giải sẵn cho những câu hỏi này. Còn một vấn đề khác nữa trong mô hình kinh tế. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung Quốc khi nền kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ thống phù hợp và hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Hiện nay Trung Quốc đã là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới thì mô hình hướng vào xuất khẩu đơn giản là không thể tiếp tục được nữa. Chúng ta nhận thức rõ rằng mô hình kinh tế dựa trên nợ tiêu dùng ở Mỹ và Châu Âu cũng không bền vững và điều này đã được cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chứng minh là đúng. Và còn nhiều vấn đề khác đang ngổn ngang, ví dụ như hệ thống Trung Quốc bị lệ thuộc nặng nề vào “sự kiềm chế tài chính” – hay nói cách khác là mức tiết kiệm chi tiêu cao sẽ dẫn đến suy giảm hiệu quả của thị trường. Bởi vậy tôi cho rằng cần phải xem xét lại mô hình kinh tế này trong dài hạn. Điểm cuối cùng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vấn đề đạo đức. Tôi cho rằng chính phủ cần phải làm nhiều hơn là đưa ra những chính sách kinh tế đúng đắn. Ngay cả khi chính phủ có thể đảm bảo một sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì đó hoàn toàn chưa thể coi là mục tiêu tối thượng. Chính phủ còn có những yêu cầu về mặt đạo đức cần đáp ứng. Ngay cả khi một hệ thống có khả năng đáp ứng đời sống vật chất dư giả cho các công dân nhưng nếu họ không thể tham gia vào quá trình phân phối của cải xã hội hoặc không được tôn trọng nhân phẩm đầy đủ thì sẽ có nhiều vấn đề phát sinh. Mùa xuân năm nay tại các nước vùng Trung đông, chúng ta đã chứng kiến một chuỗi các cuộc nổi dậy chống lại các chính phủ độc tài. Suy rộng ra, điều này cho thấy rằng quần chúng đòi hỏi được tôn trọng phẩm giá. Cuối cùng thì tôi vẫn không nghĩ rằng sự thành công chỉ phụ thuộc vào một mô hình này hay mô hình khác, và có lẽ tôi là người đầu tiên thú nhận rằng ngay cả hệ thống dân chủ của Mỹ thực sự cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết. Trương Duy Vi: Trong phần trình bày của mình, TS Fukuyama đã nêu lên bốn vấn đề có liên quan tới mô hình Trung Quốc, cụ thể là tính giải trình và chịu trách nhiệm, pháp quyền, “ngụy vương” và tính bền vững. Tôi muốn được đáp lại quan điểm của TS Fukuyama. Những gì mà Trung Quốc đã và đang làm quả thực rất đáng quan tâm. Có lẽ Trung Quốc ngày nay là một phòng thí nghiệm lớn của thế giới về cải cách chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp. Điều mà TS Fukuyama nói đã làm tôi liên tưởng tới cuộc đàm luận với tổng biên tập tờ báo Đức Die Zeit tháng 2 vừa rồi. Chủ đề lúc đó cũng là mô hình Trung Quốc. Sau chuyến thăm Thương Hải gần đây, ông tổng biên tập tờ báo đã có cảm nhận rằng có rất nhiều điểm tương đồng giữa Thượng Hải và New York. Trong mắt ông ta Trung Quốc có vẻ như đang bắt chước mô hình Mỹ. Thậm chí ông ta đã đặt câu hỏi: “phải chăng không có mô hình Trung Quốc mà chỉ có mô hình Mỹ?” Tôi khuyên ông ta nên quan sát Thương Hải kỹ hơn và hiểu thành phố sâu sắc hơn. Một người quan sát cẩn thận sẽ thấy rằng Thương Hải đã vượt New York trên nhiều phương diện. Thượng Hải không chỉ có hạ tầng “cứng” tốt hơn New York, chẳng hạn như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương mại mà còn cả hạ tầng “mềm” nữa. Tuổi thọ trung bình ở Thương Hải cao hơn ở New York từ 3 đến 4 năm, tỷ lệ tử vong trong trẻ sơ sinh ở Thương Hải thấp hơn ở New York. Thương Hải là nơi an toàn hơn nhiều để các cô gái có thể đi dạo trên phố vào nửa đêm. Thông điệp mà tôi gửi tới cho học giả Đức là chúng tôi đã học nhiều điều ở Phương Tây và sẽ vẫn tiếp tục học trong tương lai, nhưng có một sự thật là chúng tôi đã nhìn xa hơn cả mô hình cả của Mỹ và phương Tây. Trong một chừng mực nào đó, chúng tôi đang tìm tòi các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp cho thế hệ kế tiếp. Trong quá trình đó, những vùng đã phát triển cao hơn của Trung Quốc như Thương Hải sẽ đóng vai trò tiên phong dẫn đầu. Còn bây giờ tôi muốn chia sẻ ý kiến của tôi trước những mối nghi ngại của GS Fukuyama về mô hình Trung Quốc. Thứ nhất, nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương Tây. Từng sinh sống ở Phương Tây hơn 20 năm, tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị hầu như không hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, theo quan điểm của cá nhân tôi thì hệ thống chính trị Mỹ có cội rễ từ thời kỳ tiền công nghiệp hóa cho nên nhu cầu cải cách chính trị ở Mỹ cũng cấp thiết như ở Trung Quốc, nếu như không nói là nhiều hơn. Sự phân quyền trong lĩnh vực chính trị nói riêng đã tỏ ra kém hiệu quả để giải quyết các vấn đề của xã hội Mỹ ngày nay. Thực tế là hệ thống đó đã bất lực không thể ngăn cản cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Tôi cho rằng xã hội hiện đại có lẽ cần những hình thức kiểm tra và đối trọng. Cần những đối trọng giữa các lĩnh vực chính trị, xã hội và vốn tư bản chứ không chỉ riêng một lĩnh vực chính trị. Sự phân quyền ở Mỹ có những nhược điểm của nó. Như GS Fukuyama đã phát biểu, có những nhóm lợi ích bất di bất dịch như các tổ hợp công nghiệp-quốc phòng sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình, và như vậy sẽ ngăn chặn các sáng kiến cải cách mà Mỹ đang cần. Tôi cho rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm mà Trung Quốc đang thực hiện bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn hơn ở Mỹ. Cuộc thử nghiệm ở Trung Quốc bao gồm cả một loạt các lĩnh vực như kinh tế, chính trị và pháp luật. Chẳng hạn, chính quyền các cấp của chúng tôi đều có ban hỗ trợ phát triển kinh tế và tạo việc làm. Cán bộ của ban sẽ không được thăng chức nếu nhiệm vụ không hoàn thành. Tôi đã đọc bài báo của Paul Krugman, nhà kinh tế đã từng đoạt giải Nobel, trong đó ông viết rằng tăng trưởng kinh tế và việc làm hầu như ở mức “chết” – con số 0 trong 10 năm qua ở Mỹ. Tuy nhiên không một huyện, tỉnh, thành phố nào của Trung Quốc trong suốt hai thập niên qua lại phải ghi nhận một kỷ lục nghèo nàn như vậy. Trái lại, thành tựu kinh tế trên toàn Trung Quốc rất ấn tượng. Điều này củng cố thêm cho thực tiễn của Trung Quốc về tính giải trình và chịu trách nhiệm trong kinh tế. Tất nhiên chúng tôi cũng có những vấn đề riêng của mình. Cũng tương tự đối với tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Chẳng hạn như chúng tôi đang tiến hành đối thoại ở quận Jingan ở Thượng Hải, đó là một quận kiểu mẫu của thành phố. Năm ngoái xảy ra một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một tòa nhà chung cư trên địa bàn quận dẫn đến kết cục là khoảng 20 quan chức cấp quận thuộc các ban ngành có liên quan đã bị trừng phạt vì tội vô trách nhiệm hoặc sơ xuất trong công vụ. Đó là hiện thực của tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp ở Trung Quốc. Tương phản với những gì ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã làm cho các công dân Hoa Kỳ mất từ 1/5 tới 1/4 tài sản của mình. Đã 3 năm trôi qua nhưng đâu có ai ở Mỹ bị quy trách nhiệm về chính trị, kinh tế hay pháp lý. Để góp phần làm cho tình hình tồi tệ thêm, các nhà tài phiệt – những nghi phạm đã gây nên cuộc khủng hoảng tài chính lại được trọng thưởng hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu Đôla. Tuy nhiên điều làm tức giận công chúng Mỹ và cả Tổng thống Obama là những khoản tiền thưởng đó vẫn tiếp tục được trao cho các ông trùm tài phiệt đó theo điều khoản hợp đồng pháp lý mà họ đã ký kết. Điều này làm tôi nhớ tới vấn đề thứ hai liên quan tới khái niệm pháp quyền mà GS Fukuyama đã nêu lên. Chúng tôi xúc tiến pháp quyền ở Trung Quốc, bởi vậy trên thực tế có rất nhiều thứ cần được cải thiện. Tuy nhiên tôi cho rằng có một vài nguyên lý cơ bản trong triết học truyền thống của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị và còn phù hợp. Chẳng hạn, khái niệm truyền thống về chữ “Thiên” hay “Thiên đàng- Trời” với ý nghĩa là lợi ích cốt lõi và lương tâm trong xã hội Trung Quốc. Đó là điều không được vi phạm. Ở Trung Quốc luật pháp được áp dụng nghiêm chỉnh trong 99.9% các trường hợp, chúng tôi chỉ dành một không gian nhỏ, nơi mà các giải pháp chính trị trong khuôn khổ pháp quyền vẫn được áp dụng trong khi “thiên” hay các lợi ích cốt lõi và lương tâm của xã hội bị xâm hại. Nói cách khác, cách thưởng tiền của phố Wall như đã nêu trên không bao giờ có thể xảy ra ở Trung Quốc. Bởi vậy chúng tôi cố gắng phá vỡ sự cân bằng giữa pháp quyền và “thiên”. Đó là cái mà Trung Quốc muốn tìm kiếm cho chế độ pháp lý trong tương lai. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân của cái được gọi là chủ nghĩa tuân thủ pháp luật thái quá rất có thể gây tổn hại cho một xã hội phức tạp và lớn như Trung Quốc. Về vấn đề “ngụy vương” đã có ngay lời giải. Theo ước tính sơ bộ của tôi trong lịch sử có cả “ngụy vương” và “minh vương” thì ít ra cũng có tới 7 triều đại kéo dài được hơn 250 năm. Nói cách khác, đó là quãng thời gian dài hơn cả toàn bộ lịch sử Hoa Kỳ. Đúng ra thì toàn bộ lịch sử cận đại của Phương Tây mới chỉ được khoảng hai- ba trăm năm nhưng đã chứng kiến nào là chế độ nô lệ,chủ nghĩa phát xít, vô số xung đột và hai cuộc thế chiến. Theo quan điểm của tôi, sự đổi mới thể chế chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ngụy vương”. Điều đầu tiên và trước hết, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc được chọn lựa theo phẩm chất, công trạng mà không theo “cha truyền con nối”. Thứ hai là, nhiệm kỳ công tác được quy định nghiêm ngặt, lãnh đạo tối cao không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Thứ ba là, lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể, có nghĩa là không cá nhân lãnh đạo nào có thể đi quá lệch khỏi sự đồng thuận của nhóm. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tuyển chọn người tài là một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc và các nhà lãnh đạo cao cấp hoặc các ủy viên thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc được bầu chọn với tiêu chí thông thường là đã phải qua hai nhiệm kỳ là chủ tịch tỉnh hoặc bộ trưởng. Như các bạn biết, không hề dễ dàng để lãnh đạo một tỉnh ở Trung Quốc, thường có tầm cỡ của 4 tới 5 quốc gia Châu Âu. Hệ thống này có thể có những nhược điểm nhưng có một điều chắc chắn rằng với hệ thống tuyển chọn nhân tài đó thì Trung Quốc khó có thể lại bầu ra một lãnh đạo tầm cỡ quốc gia bất tài như George W. Bush hoặc Naoto Kan ở Nhật Bản. Thực ra, tôi không quan tâm đến vấn đề “ngụy vương” ở Trung Quốc bằng vấn đề “George W. Bush” ở Mỹ. Nếu hệ thống chính trị Hoa Kỳ vẫn sẽ như hôm nay thì tôi thực sự lo rằng Tổng thống Mỹ sắp tới sẽ còn bất tài hơn cả George W. Bush. Với tư cách là một siêu cường, các chính sách của Mỹ có ảnh hưởng toàn cầu cho nên một sự thiếu vắng lãnh đạo hay tính giải trình và chịu trách nhiệm ở Mỹ sẽ có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Tôi muốn nghe quan điểm của GS Fukuyama về vấn đề “George W. Bush”. Tổng thống Bush đã điều hành đất nước tồi nên Mỹ đã suy thoái mạnh sau tám năm cầm quyền. Ngay cả một đất nước như Hoa Kỳ cũng không thể chịu đựng nổi thêm tám năm suy thoái nữa. Về tính bền vững của mô hình Trung Quốc, trong cuốn sách mới đây của tôi nhan đề “Làn sóng Trung Quốc”, tôi đã đưa ra luận điểm rằng Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một không hai, với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình. Bởi thế cho nên ý tưởng về các “triều đại” là rất có ích ở đây. Một triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc thường kéo dài từ 200 đến 300 năm, có khi lâu hơn và logic này đã được kiểm chứng trong 4000 năm qua. Từ viễn cảnh đó thì Trung Quốc hiện nay mới đang ở giai đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Đó cũng là lý do vì sao tôi lại lạc quan về tương lai của Trung Quốc đến vậy. Sự lạc quan của tôi còn có chỗ dựa là khái niệm “khí ” hay còn gọi là xu hướng chủ đạo là thứ mà rất khó quay ngược lại, một khi đã được bắt đầu. Xu hướng phát triển được khởi đầu ở Nhật bản nhờ cải cách của Minh Trị vào cuối thế kỷ 19, trong khi đó Trung Quốc đã không làm được điều này do sức ỳ bên trong quá lớn, tức là “âm khí” vượng. Ngày nay “vận khí “hay xu hướng chủ đạo mới đã được bắt đầu và tạo được đà mạnh mẽ sau 3 thập kỷ cải cách và mở cửa. Xu thế chủ đạo này khó có thể bị đảo ngược cho dù vẫn có những làn sóng ngược chiều. Vận khí này đang định hình xu hướng chủ đạo đại chu kỳ phát triển của Trung Quốc. Điều không hay là có nhiều học giả Phương Tây không hiểu điều này nên đã đưa ra những dự báo bi quan về một sự “sụp đổ” của Trung Quốc từ 20 năm nay. Thay vào sự sụp đổ của Trung Quốc thì chính những dự báo đó đã sụp đổ. Một số người Trung Quốc trong nước vẫn còn nghiêng về lập trường bi quan này, nhưng tôi nghĩ rằng lập trường đó cũng sẽ “sụp đổ” mà không phải đợi tới 20 năm nữa. GS Fukuyama có nhắc tới sự quá lệ thuộc của mô hình Trung Quốc vào thương mại. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng. Ngoại thương chiếm một tỷ trọng lớn GDP nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức. Thế nhưng ngoại thương được tính theo US$, phần còn lại của GDP thì lại được tính theo Nhân dân tệ được định giá thấp hơn thực tế. Do vậy, theo tôi thì sự phụ thuộc vào ngoại thương bị đánh giá quá cao so với thực tế. Nhìn về tương lai thì có thể nhu cầu nội địa của Trung Quốc sẽ lớn nhất thế giới. Quá trình đô thị hóa Trung Quốc cho tới năm 1998 còn chưa được khởi động. Nhưng từ nay trở đi sẽ có tới 15-25 triệu dân cư chuyển ra thành thị hàng năm ở Trung Quốc. Một mức độ đô thị hóa chưa từng có trong lịch sử loài người sẽ tạo ra nhu cầu khổng lồ của thị trường nội địa, theo ước tính sẽ còn lớn hơn cả nhu cầu gộp lại của toàn bộ các nước phát triển trong tương lai. Nếu nói về sự tôn trọng các giá trị cá nhân, tôi không nghĩ là có sự khác biệt lớn giữa Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Mục tiêu cuối cùng thì đâu cũng vậy, đều là tôn trọng và bảo vệ những giá trị và quyền con người. Nhưng sự khác biệt chính là ở phương tiện để đạt mục tiêu đó. Trung Quốc có truyền thống triết lý riêng tương phản với triết lý về cá nhân ở Phương Tây và cách tiếp cận của Trung Quốc dựa trên truyền thống của mình mang lại những kết quả tốt hơn để khuyến khích các giá trị và quyền con người.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2012 4:10:58 GMT 9
Tôi mô tả vấn đề này qua ví dụ về các cách tiếp cận khác nhau giữa Đặng Tiểu Bình và Mẹ Teresa. Cách của Đặng đã giúp cho gần 400 triệu người Trung Quốc thoát cảnh nghèo đồng thời mang lại giá trị cũng như quyền con người,chẳng hạn: họ có thể xem TV, lái xe trên đường cao tốc, lướt Internet hay Blog để bình luận về đủ mọi vấn đề. Thế nhưng ở Ấn Độ, dù bằng phương pháp cá nhân của Mẹ Teresa đã có rất nhiều người đã được giúp đỡ và Mẹ được vinh dự nhận giải Nobel về Hòa bình, nhưng bức tranh về đói nghèo ở Ấn Độ vẫn không thay đổi nhiều.
Tôi muốn đề cập tới sự tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định. Quả thực tôi rất hy vọng là GS Fukuyama sẽ có cơ hội nghiên cứu trên thực địa tại Trung Quốc. Vậy quá trình ra quyết định một cách dân chủ được tiến hành như thế nào ở Trung Quốc?. Cho phép tôi đưa ra một ví dụ, ở Trung Quốc cứ 5 năm một lần chúng tôi lại xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Đó là một quá trình kết tinh của hàng chục ngàn đợt góp ý, thảo luận trên mọi cấp độ trong xã hội Trung Quốc. Theo tôi, đó mới thực sự là một quá trình ra quyết định dân chủ, có thể bảo đảm chất lượng cho các quyết định. Sự chênh nhau giữa Phương Tây và Trung Quốc nhìn theo góc độ này, chân thành mà nói, là rất lớn. Theo thiển ý của tôi thì Trung Quốc đã đạt tới “mức sau đại học” còn Phương Tây có thể còn đang “học đại học” hoặc thậm chí còn đang “ở cấp độ trung học”, nếu lấy việc này để làm cơ sở so sánh.
Những bất ổn ở Trung Đông, thoạt nhìn có thể nghĩ là người dân theo đuổi tự do. Thế nhưng một trong những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, theo tôi hiểu lại không nằm ngoài lĩnh vực kinh tế. Tôi đến Cairo 4 lần. Hai mươi năm trước thành phố này tụt hậu khoảng 5 năm so với Thương Hải, còn giờ đây sự chênh lệch là 40 năm. Một nửa số người độ tuổi thanh niên thất nghiệp. Nếu không nổi loạn thì họ còn biết làm chi đây?
Quan sát tình hình Trung đông đã đưa tôi tới kết luận rằng, trong khi có nhiều người ở Phương Tây ăn mừng Mùa xuân A rập thì đừng quá lạc quan. Tôi hy vọng rằng khu vực này sẽ ổn thỏa nhưng sẽ khó khăn trước mắt và Mùa xuân Ả rập ngày hôm nay có thể sẽ biến thành mùa đông Ả rập không lâu nữa với việc quyền lợi của Hoa Kỳ sẽ bị suy yếu.Tình hình ở khu vực không khá hơn Trung Quốc hồi cách mạng Tân Hợi 1911 bởi một giai đoạn hỗn loạn kéo dài sau đó. Trung đông còn phải đi qua một con đường dài và chúng ta hãy đợi và thấy điều gì sẽ tới.
Fukuyama: Tôi xin phép trả lời từng câu hỏi một. Trước tiên,khi so sánh những hệ thống chính trị khác nhau thì tôi nghĩ rằng nên tách bạch các chính sách riêng ra khỏi các thiết chế.Có nghĩa là phải nhìn thấy sự khác nhau giữa những chính sách cụ thể do một vài lãnh đạo nào đó đưa ra với cả hệ thống tổng thể nói chung. Rõ ràng là những người ra quyết định ở Hoa Kỳ đã từng phạm rất nhiều sai lầm, ví dụ như chiến tranh Iraq buộc chúng tôi phải trả giá đắt. Hay như cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ phố Wall là kết quả của hệ tư tưởng thị trường tự do, tiêu dùng gia đình quá trớn và sự sự mở rộng quá mức của thị trường bất động sản. Tuy nhiên những lỗi lầm trong chính sách là điều có thể xảy ra với mọi chế độ vào bất kỳ lúc nào. Tôi không nghĩ rằng các chế độ dân chủ lại có xu hướng đưa ra những chính sách sai lầm nhiều hơn các nhà nước độc tài. Thực tế là, các chế độ độc tài và toàn trị luôn gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng hơn. Những sai lầm có thể tiếp tục níu kéo toàn xã hội vì không thể dễ dàng đuổi cổ những kẻ đã ra quyết định. Bởi vậy cái giá phải trả rốt cục sẽ rất lớn.
Ngài nói rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ lựa chọn một nhà lãnh đạo quốc gia như George W. Bush. Thôi được, kể cũng hơi nặng nề khi nói như vậy. George W. Bush làm Tổng thống trong 8 năm, nếu ngài quay trở lại với vấn đề “ngụy vương” thì ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc, nói rất chân thành, chính là Mao Trạch Đông. Sự tàn phá mà Cách mạng Văn hóa đã gây ra cho xã hội Trung Quốc còn nghiêm trọng hơn rất nhiều những gì mà George W. Bush đã làm đối với xã hội Mỹ.
Ngài cũng có nhắc tới một vài đặc trưng của lãnh đạo Trung Quốc. Tôi công nhận những mặt tích cực của lối lãnh đạo tập thể và việc hạn chế nhiệm kỳ đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Nếu Gaddafi hoặc Mubarak bị hạn chế nhiệm kỳ thì Libya và Ai Cập đã không bất ổn như vậy.
Ngài cũng phát biểu rằng sự đồng thuận cần đạt được trong nội bộ lãnh đạo trong khi đưa ra những quyết định quan trọng. Theo ý tôi, điều này chính là một bài học được rút ra từ Cách mạng Văn hóa. Trong quá khứ, sự đồng bóng, trái tính của một cá nhân đã gây tổn hại cho cả xã hội. Bởi vậy Đảng Cộng sản đã phải lập ra những thiết chế, trong đó có quy định về nhiệm kỳ.
Tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với hệ thống của Trung Quốc. Có nhiều người Mỹ không thể nhận thấy một thực tế: mặc dù Trung Quốc là quốc gia độc tài nhưng lại được thể chế hóa cao, có sự kiểm soát và đối trọng trong hệ thống của mình. Tuy nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ về dài hạn.
Cơ cấu của thể chế hiện nay trong Đảng Cộng sản Trung Quốc được tạo nền móng từ ký ức và kinh nghiệm của những người từng sống qua cuộc cách mạng văn hóa. Cho tới giờ ở Trung Quốc người ta vẫn chưa thể nói nói hết những gì về giai đoạn lịch sử đó. Các ngài không dạy thế hệ trẻ về những gì đã diễn ra trước đây, họ chưa hề trải nghiệm cách mạng văn hóa và rồi sẽ quên sự kiện đó. Nhưng vấn đề ở chỗ là điều gì sẽ xảy ra nếu như thế hệ mới không có kinh nghiệm và hiểu biết về những vết thương tâm lý trong một xã hội của nền độc tài toàn trị. Liệu họ có sẵn sàng sống với sự kiểm soát sử dụng quyền lực hiện nay không?
Bởi vậy vì sao tôi vẫn tin rằng một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ. Nếu chẳng may thế hệ tiếp theo không có những thứ đó thì họ rất có thể lặp lại sai lầm. Thể chế pháp quyền và dân chủ chính là phương tiện để gìn giữ những gì được coi là tốt, là tích cực, tiến bộ của ngày hôm nay và truyền lại cho những thế hệ sau.
Trong cuốn sách mới hoàn thành của tôi có một điều được nêu lên như một luận cứ, đó là tất cả chúng ta đều có bản chất chung của loài người. Chính vì có những đặc tính đó nên con người như chúng ta mới yêu thương gia đình, anh, chị em và con cái. Quý trọng bạn bè và gia đình là cách tự nhiên trong quan hệ xã hội giữa người với người. Tuy vậy, chúng ta không thể đặt nền móng của các hệ thống chính trị trên quan hệ bạn bè và gia tộc được. Bởi vậy, một trong những kỳ tích của nền chính trị Trung Quốc là đã thiết lập nên được hệ thống chính trị mang tính thể chế cao, không phụ thuộc vào quan hệ bạn hữa và gia đình, giòng tộc cũng như các mối quan hệ cá nhân khác.
Theo cách đó, để được nhận vào các cơ quan công quyền thì phải thi bất kể người đó có ảnh hưởng thế nào. Hệ thống tuyển chọn này đã được thể chế hóa đầy đủ từ đầu thời Tiền Hán vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nhưng vào cuối thời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 3, hệ thống chính trị bị tầng lớp quý tộc soán quyền, chủ yếu đó là những gia tộc giàu có và nắm nhiều quyền lực. Sau đó là thời kỳ Tam quốc rất phức tạp và rối ren trong lịch sử Trung Quốc. Chủ yếu là các gia tộc giàu có đã soán quyền đồng thời thủ tiêu chế độ tuyển dụng người tài đương thời. Tôi cho rằng điều này có thể xảy ra đối với bất kỳ hệ thống chính trị nào.
Đó cũng là điều mà tôi lo ngại cho chính hệ thống của Mỹ hiện nay bởi lẽ có những tầng lớp siêu giàu. Họ có thể chăm sóc con cái họ trong những điều kiện rất hoàn hảo và gửi chúng tới những trường học rất tốt. Tất nhiên đó chưa phải là những gì đang diễn ra ở Trung Quốc nhưng có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với hệ thống Trung Quốc.
Bằng cách nào để có thể đảm bảo rằng tầng lớp tinh hoa lãnh đạo đất nước được tuyển chọn trên cơ sở tài năng lại không thiên vị gia tộc và bạn bè mình? Tôi cho rằng trong mấy thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm tốt công việc. Tuy nhiên vẫn tồn tại vấn nạn tham nhũng trong toàn bộ hệ thống, vì ai mà chả muốn quan tâm nhiều hơn tới họ hàng, bạn bè và con cái của mình. Tôi cho rằng một trong những vấn đề nội tại của hệ thống thiếu sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị của cấp trên đối với cấp dưới và đa số quần chúng đó là rất khó ngăn cản sự len lỏi của những mối quan hệ riêng tư vào hệ thống chính trị. Đó là nan đề mà tôi cho rằng cho tới nay vẫn chưa có lời giải.
Tuy vậy, trong dài hạn, để duy trì hệ thống cho hai hay ba thập niên nữa tôi cho rằng Trung Quốc cần đẩy mạnh sự giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với quần chúng ở dưới nhằm giải quyết nan đề này. Ít ra thì trong một hệ thống dân chủ, nếu có sai thì vẫn có thể sửa sai, đôi khi cũng mất một vài năm.
Cho phép tôi nói qua về một nhận định liên quan tới nước Mỹ. Chúng tôi đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính. Như GS Trương Duy Vi đã phát biểu là không ai bị trừng phạt. Tôi cũng nghĩ rằng điều này thật là khủng khiếp vì chúng tôi đã không buộc những người có trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này phải chịu trách nhiệm. Tại sao lại xảy ra điều này quả là rất phức tạp.Nhưng tôi không cho rằng nó liên quan tới hệ thống chính trị dân chủ của chúng tôi. Năm 1930 đã có một cuộc khủng hoảng tài chính còn lớn hơn hiện nay dẫn tới việc bầu chọn Roosevelt làm Tổng thống và thiết lập hệ thống an sinh xã hội và điều hành chính quyền đổi mới. Người ta đã đưa ra nhiều biện pháp mạnh bởi lẽ nhân dân tức giận về những gì đã xảy ra. Hệ thống của chúng tôi đã thiết lập được một sự giải trình và chịu trách nhiệm thực sự để đối phó với những sai lầm trong chính sách như thế đó.
Theo một nghĩa nào đó, tôi thậm chí còn nghĩ rằng trong vài năm vừa rồi ở Mỹ một cách chính thức, cuộc khủng hoảng vẫn chưa tới mức quá lớn, bởi vì trên thực tế,các nhà hoạch định chính sách trong phạm vi nào đó đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của nó. Bởi vậy động năng chính trị có lợi cho cải cách đã bị xói mòn và điều này giải thích tại sao chúng tôi đã không kịp thời có những cải cách chế độ điều hành. Nhưng dù sao tôi không nghĩ rằng hệ thống dân chủ của chúng tôi đã gây nên cuộc khủng hoảng hiện nay.
Trương Duy Vi: Quốc gia nào cũng có những sự kiện hoặc lỗi lầm khủng khiếp trong lịch sử phát triển của mình, kể cả Trung Quốc. Cách mạng Văn hóa và Đại Nhảy vọt quả thực là những thảm họa. Tôi từng trải qua cách mạng Văn hóa và có những ký ức của riêng mình. Tuy vậy cần phải nhấn mạnh lại rằng không có quốc gia nào là ngoại lệ. Hoa Kỳ có một trang sử của sự thảm sát người da đỏ và chế độ nô lệ cũng như tệ kỳ thị chủng tộc được thể chế hóa kéo dài hơn một thế kỷ. GS Fukuyama cho rằng các sai lầm được khắc phục bởi chính hệ thống Hoa Kỳ thì Cách mạng văn hóa và Đại nhảy vọt cũng đã được sửa sai bởi chính hệ thống Trung Quốc. Vấn đề “ngụy vương” cũng được giải quyết bởi hệ thống Trung Quốc. Ngày nay không một cá nhân lãnh tụ nào có thể đi ngược lại quy định thể chế bởi lẽ ở Trung Quốc đã hình thành hệ thống chuyển giao quyền lực kết hợp giữa lựa chọn và bầu chọn.
Tôi cho rằng hệ thống hỗn hợp này có thể là tốt hơn việc bầu cử đơn thuần ở Phương Tây, đặc biệt trong bối cảnh tìm kiếm một hệ thống chính trị cho thế hệ sau.. Cái mà Phương Tây đang thực hành đó là tăng cường hệ thống bầu bán qua tranh cử mà tôi gọi là “những cuộc trình diễn dân chủ” hay “dân chủ kiểu Hollywood”. Đó là sự thể hiện khả năng trình diễn nhiều hơn là khả năng lãnh đạo. Chừng nào mà quy trình này vẫn hoạt động thì không quan trọng ai sẽ trúng cử, dù là ngôi sao điện ảnh hay vận động viên điền kinh chuyên nghiệp. Ngược lại, theo truyền thống quản trị xã hội truyền thống có một ý tưởng rất quan trọng cần tuân thủ, đó là quốc gia chỉ có thể được điều hành bởi những người đủ tài năng và kinh nghiệm, được lựa chọn theo chế độ tuyển dụng nhân tài. Điều này đã ăn sâu vào tiềm thức của người Trung Quốc.
GS Fukuyama có nhắc tới Chủ tịch Mao. Một mặt, đúng là ông đã có những lỗi lầm nghiêm trọng. Nhưng mặt khác, chúng ta không nên bỏ qua một sự thật là ngày nay ông vẫn được tôn trọng khắp nơi trên đất Trung Quốc. Điều này nói lên rằng Mao đã làm gì đó đúng đắn. Sẽ không sòng phẳng nếu phủ nhận thành tựu chủ yếu của ông, đầu tiên là thống nhất một đất nước rộng lớn như Trung Quốc; hai là, giải phóng phụ nữ và ba là, cải cách ruộng đất. Đặng Tiểu Bình đã có lần phát biểu công của Mao so với tội sẽ là tỷ lệ 70% trên 30%. Chính tai tôi đã nghe thấy những lời này và cho rằng như vậy mới công bằng. Có lẽ sự khác biệt trong nhận thức của Mao xuất phát từ sự khác biệt về truyền thống văn hóa: Trung Quốc có truyền thống thay đổi chính trị trong khi đó Phương Tây lại thay đổi pháp lý.
Nhờ có ba thập niên cải cách và mở cửa một tầng lớp trung lưu đã hình thành và ổn định vị thế. Tôi chia xã hội Trung Quốc ra làm ba giai tầng: thượng, trung và hạ. Cơ cấu này có thể ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan trên diện rộng như dưới thời Mao. Thứ chủ nghĩa cực đoan đó vẫn có ở các quốc gia như Ai cập bởi lẽ ở đó còn thiếu tầng lớp trung lưu. Cơ cấu xã hội này cho thấy lý do vì sao Trung Quốc sẽ không nghiêng về chủ nghĩa cực đoan.
Về vấn đề tham nhũng, tôi cho rằng cần phải làm một sự so sánh theo “chiều dọc” và cả “chiều ngang”. Tham nhũng ở Trung Quốc là nghiêm trọng và không dễ ngăn cản. Tuy nhiên khi nhìn lại lịch sử thế giới các bạn sẽ thấy rằng tất cả các cường quốc, kể cả Mỹ đã trải qua những giai đoạn tham nhũng tăng cao và thường trùng hợp với quá trình hiện đại hóa nhanh chóng. Như thầy dậy của ngài là Samuel Huntington đã quan sát thấy rằng quá trình hiện đại hóa nhanh nhất thường đi kèm tình trạng tham nhũng tăng cao nhất. Điều này xảy ra chủ yếu là do chế độ điều hành và giám sát không theo kịp sự tăng trưởng về tài sản và vốn khi diễn ra quá trình hiện đại hóa nhanh chóng.
Rốt cục thì nạn tham nhũng ở Trung Quốc sẽ bị chặn đứng và được giải quyết thông qua sự thiết lập những thiết chế giám sát và điều hành hữu hiệu hơn.
Tôi từng qua Mỹ nhiều lần và thấy rằng cách định nghĩa thế nào là tham nhũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong cuốn sách mới viết, tôi đã đưa ra khái niệm “tham nhũng 2.0” khi mà cuộc khủng hoảng tài chính đã làm phát lộ rất nhiều vấn đề nghiêm trọng của “tham nhũng 2.0”. Chẳng hạn như các cơ quan đánh giá mức tin cậy về tài chính đã thu lời qua kinh doanh trên thị trường chứng khoán bằng cách trao cho các sản phẩm và định chế tài chính thiếu minh bạch chứng chỉ AAA. (là mức có độ tin cậy cao trên thị trường chứng khoán quốc tế - ND). Tôi coi đó là tham nhũng. Thế nhưng ở Mỹ người ta lại gọi đó là “rủi ro đạo đức” trong hệ thống pháp lý Mỹ. Tôi cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính có thể được ngăn chặn hiệu quả hơn nếu vấn đề này bị xử lý như là tham nhũng.
Chúng ta cũng có thể so sánh theo chiều ngang. Tôi đã đi thăm hơn 100 quốc gia. Thực tế sinh động cho thấy, mặc dù ở Trung Quốc người ta phàn nàn rất nhiều về tham nhũng, nhưng ở các nước khác tình hình còn tồi tệ hơn rất nhiều. Để so sánh chúng ta tìm hiểu các quốc gia có kích cỡ từ 50 triệu dân trở lên và đang ở cùng trình độ phát triển, chẳng hạn như Ấn Độ, Ukraina, Pakistan, Brazil, Ai cập và Nga. Kết quả đánh giá của tổ chức Minh bạch quốc tế cũng đồng thanh với nhân định của tôi.
Hơn thế nữa cần phải nhìn Trung Quốc theo các vùng miền khác nhau. Các vùng đã phát triển của Trung Quốc miễn dịch tốt hơn với tham nhũng. Có lần tôi làm việc ở Italy với tư cách là giáo sư mời, nhân tiện tôi thăm Hy lạp vài lần và nghĩ rằng Thương Hải dứt khoát ít tham nhũng hơn Italy và Hy lạp. Ở miền nam nước Ý, Mafia nghiễm nhiên hợp pháp hóa sự tồn tại của mình thông qua hệ thống dân chủ. Lần đầu tiên tôi tới thăm Hy lạp cách đây 20 năm , khi đó thâm hụt ngân sách rất cao. Còn giờ đây Hy lạp đang phá sản và cần sự hỗ trợ quốc tế. Tôi nói với các bạn Hy lạp của mình rất chân thành: “hai mươi năm trước, Thủ tướng của các bạn là Papandreou. Hai mươi năm sau Thủ tướng của các bạn vẫn là Papandreou. Nền chính trị của các bạn có vẻ như là công việc của một vài gia đình và nền kinh tế Hy lạp bị phá sản bởi lẽ hệ thống an sinh xã hội thì quá cao còn thực tiễn quản trị lại quá nghèo nàn, kém cỏi.” Có lần tôi còn đùa rằng chúng tôi cần gửi một đội ngũ các nhà quản trị từ Thương Hải hoặc Trùng Khánh để giúp đỡ Hy Lạp quản trị tốt hơn. Quả thực, bất kể là hệ thống chính trị nào, độc đảng, đa đảng hoặc không đảng phái thì rốt cục vẫn là vấn đề quản trị hiệu quả và mang lại được gì cho nhân dân của mình. Bởi vậy, quản trị tốt là điều quan trọng hơn dân chủ hóa theo phong cách Phương Tây.
Điều này đã đưa tôi tới chính đề “sự cáo chung của lịch sử” mà GS Fukuyama nêu lên. Tôi chưa công bố quan điểm của mình, tuy nhiên nó hoàn toàn đối lập với GS Fukuyama. Tôi nhìn nhận rằng: không phải một sự cáo chung của lịch sử mà phải là chấm hết cho sự cáo chung của lịch sử.
Dân chủ Phương Tây có thể chỉ là một hình thái mang tính giai đoạn trong lịch sử lâu dài của loài người. Tại sao tôi lại nghĩ vậy? 2500 năm trước, một vài thành phố- quốc gia chẳng hạn như Athen đã thực hiện dân chủ trong số các công dân nam giới của mình và sau đó lại bị khởi nghĩa Sparta đánh bại. Từ đó cho tới nay, hơn 2000 năm trôi qua từ “dân chủ” chủ yếu mang một nghĩa rộng tiêu cực, thông thường là tương đương với “chính trị của đám đông dân chúng”. Các quốc gia Phương Tây không thực thi hệ thống mỗi người một lá phiếu ở nước họ mãi cho tới khi quá trình hiện đại hóa ở nước họ đã hoàn thành.
Thế nhưng ngày nay hệ thống chính trị dân chủ kiểu này không thể giải quyết các vấn đề lớn sau đây.
- Thứ nhất là, thiếu vắng văn hóa “tài năng phải là đầu tiên”. Bất cứ ai được bầu lên đều có thể điều hành đất nước. Điều này đã trở nên quá đắt đỏ tới mức không chịu nổi thậm chí đối với Mỹ. - Thứ hai là, gói dịch vụ an sinh xã hội chỉ có thể tăng thêm chứ không giảm đi. Bởi vậy không thể tiến hành những cải cách như Trung Quốc đã thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng và các xí nghiệp nhà nước. - Thứ ba là, càng ngày càng khó khăn để tạo ra sự đồng thuận ở các quốc gia dân chủ. Ngày trước, đảng thắng cử với 51% phiếu bầu đã có thể tập hợp toàn xã hội ở các nước phát triển. Ngày nay, xã hội Mỹ đang bị chia rẽ sâu sắc và phân cực. Đảng nào thất cử, thay vì thừa nhận thất bại lại tiếp tục gây cản trở. - Thứ tư là, những vấn đề đơn giản có tính chất dân túy có thể làm giảm sút mối quan tâm vào các vấn đề dài hạn của đất nước và xã hội. Ngay cả Mỹ cũng đang bị mối đe dọa này rình rập.
Năm 1793, Vua George III của Anh Quốc đã phái đặc phái viên của mình tới Trung Quốc để mở mang thương mại hai chiều. Thế nhưng vua Càn Long đã quá ngạo mạn vì tin rằng Trung Quốc mới là quốc gia nhất thế giới. Bởi vậy Trung Quốc chẳng cần học hỏi ai. Điều này khi đó đã được định nghĩa là “sự cáo chung của lịch sử”, và từ đó Trung Quốc bị tụt hậu. Còn giờ đây tôi lại nhận thấy một tư duy tương tự ở Phương Tây.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2012 4:11:41 GMT 9
Cần phải tới Trung Quốc để tận mắt chứng kiến Trung Quốc đã tự cải cách như thế nào trong ba thập kỷ qua. Mỗi bước đi nhỏ nhưng cuộc hành trình không ngừng, không nghỉ. Phương Tây vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào hệ thống của mình, tuy nhiên đó cũng chính là cái hệ thống ngày càng trở nên có lắm vấn đề. Hy lạp, cái nôi của nền dân chủ Phương Tây đang phá sản, còn nợ ngân sách của Anh đã cao tới 90% tổng sản phẩm quốc dân.
Vậy còn Hoa Kỳ thì sao? Tôi làm một con tính đơn giản, cuộc tấn công 9/11 làm hao tổn cho Mỹ 1000 tỷ $. Hai cuộc chiến không khôn ngoan lắm làm tốn gần 3000 tỷ $ và khủng hoảng tài chính khoảng 8000 tỷ $. Hiện nay nợ ngân sách của Mỹ vào khoảng từ 10000 tỷ $ tới 20000 tỷ $. Nói cách khác, nếu đồng Đôla Mỹ mà không phải là đồng tiền dự trữ quốc tế - mà vị thế này có thể không kéo dài mãi- thì Mỹ đã bị coi là đã phá sản rồi.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều mà chúng tôi vẫn gọi là “vận khí ” hay xu hướng chủ đạo có tầm cỡ và tốc độ chưa có tiền lệ trong lịch sử loài người. Cảm nhận của riêng tôi là hệ thống Phương Tây đang trượt dốc nên cần cần đại tu và cải cách. Một số người Trung Quốc luôn miệng ca ngợi và tôn thờ mô hình Mỹ, thế nhưng đối với những ai đã sống ở Châu Âu và đi Mỹ nhiều lần thì điều này là quá giản đơn và ngây thơ. Cần phải khách quan khi so sánh Trung Quốc với các nước Phương Tây. Cái gì là điểm mạnh và điểm yếu của Phương Tây? Đâu là ưu điểm và nhược điểm của chúng ta và điều gì đáng học hỏi hay ghi nhận từ Phương Tây? Đó mới là lối tư duy đúng.
Fukuyama: Một lần nữa tôi muốn nói rằng ngài cần phân biệt giữa hệ thống chính trị và chính sách trong ngắn hạn. Khỏi phải nói cũng biết trong nhiệm kỳ trước, Hoa Kỳ đã vay nợ quá nhiều. Nhưng quả thực tôi lại không nghĩ rằng đó lại là vấn đề của hệ thống dân chủ.
Nước Đức rất giống Trung Quốc ở một điểm là nền kinh tế lớn, liên tục có xuất siêu và một thị trường việc làm bùng nổ. Nhưng đồng thời Đức lại không bị ám ảnh bởi những đổi mới quá đáng trong lĩnh vực tài chính, điều đã làm suy thoái nền kinh tế Mỹ và cũng là nguyên nhân của bong bóng bất động sản. Đây cũng là một đất nước dân chủ, có điều là Đức đã có những lựa chọn khác Mỹ. Bởi vậy tôi không nghĩ rằng việc xác định một quốc gia là dân chủ hay không dân chủ ở đây là cần thiết. Mọi quốc gia đều có thể phạm sai lầm.
Một lần nữa tôi muốn đặt sự vật vào viễn cảnh tương lai. Thực sự tôi không muốn xem thường những kỳ tích mà Trung Quốc đã đạt được. Tuy nhiên theo quan điểm của tôi thì ngài không thể suy đoán cho tương lai dài hạn nếu chỉ căn cứ trên những kết quả ngắn hạn. Nhật bản đã là một nước tưởng như không biết dừng bước vào những năm cuối của thập niên 1980 trước khi bong bóng bất động sản vỡ tung. Sau khi bong bóng vỡ và tiếp theo những chính sách sai lầm là 20 năm kinh tế trì trệ và tăng trưởng thấp. Thế mà nhiều người vào những năm 1980 đã tin rằng Nhật bản sẽ tăng trưởng cao hơn, cao nữa và sẽ vượt Hoa Kỳ. Hồi đó trên thế giới đã nảy nở một đức tin vào uy thế Nhật bản. Còn giờ đây, nếu nhìn vào tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì điều gì sẽ là thách thức lớn nhất đối với Trung Quốc cũng sẽ chính là điều sẽ thách thức mọi nền kinh tế khác.Thoạt tiên trong giai đoạn đầu, tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa rất nhanh thu hút nhiều cư dân nông thôn ra thành thị.
Châu Âu cũng đã tăng trưởng rất nhanh trong giai đoạn này, Hàn Quốc và Nhật bản cũng vậy. Có lẽ 25 năm trước Trung Quốc cũng đã bước vào quá trình này. Đến một điểm nào đó, sự chuyển dịch này đã thu hút hết nhân lực ra khỏi khu vực nông nghiệp thì sẽ nảy sinh một thách thức mới về năng suất trong một nền kinh tế trưởng thành hơn. Tôi cho rằng có lẽ đây là một sự thật có tính toàn cầu và chẳng có quốc gia nào có thể duy trì liên tục mức tăng trưởng 2 con số cho tới khi đạt cái mốc đánh dấu sự ra nhập danh sách các nền kinh tế đã công nghiệp hóa. Điều này rồi cũng sẽ xảy ra với Trung Quốc.
Giai đoạn tới đây nền kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển chậm lại. Mọi quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Á sẽ phải đối mặt với vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ, thậm chí đó sẽ trở thành một gánh nặng lớn. Số người già cả ngày càng lớn do tuổi thọ được nâng cao đồng thời tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cũng thấp, đó là chưa kể đến chính sách một con. Điều này là một sự thật ở Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc lục địa.
Gần đây tôi có dự một cuộc họp, tại đó một nhà kinh tế phát biểu rằng vào những năm 2040-2050 Trung Quốc sẽ có khoảng 400 triệu người trên 60 tuổi. Quả thực đó sẽ là một thách thức khủng khiếp mà các quốc gia phát triển khác cũng đang gặp phải. Bởi vậy, khi chúng ta nói về tính dẻo dai của một hệ thống chính trị, chúng ta phải luôn nghĩ trong dài hạn. Với tỷ lệ sinh sản giảm và dân số tuổi già ngày càng tăng thì hệ thống của chúng ta sẽ phải tỏ ra linh hoạt ra sao? Tuy nhiên tôi không thể nói rằng các quốc gia dân chủ có mọi lời giải. Đó là thách thức đối với mọi người.
GS Trương Duy Vi có nêu lên vấn đề về chủ nghĩa dân túy với hàm ý rằng quần chúng không phải bao giờ cũng quyết định đúng trong các xã hội dân chủ. Tôi nghĩ là có rất nhiều ví dụ liên quan đến nhận định này trong các chính sách của Hoa Kỳ hiện nay. Đã đôi lần tôi phải lắc đầu vì những quyết định ngu ngốc của các nhà chính trị. Thế nhưng, Abraham Lincoln, người mà tôi cho là Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ đã có một câu nói nổi tiếng:” Anh có thể lừa một vài người suốt đời, tất cả mọi người trong một lúc nào đó, nhưng không thể lừa tất cả mọi người mãi mãi.”
Đặc biệt cùng với sự gia tăng của giáo dục và thu nhập thì tôi nghĩ rằng chủ nghĩa dân túy mà ngài nói đến, theo một số khía cạnh, cũng đã thay đổi. Đó là phép thử của nền dân chủ thực sự. Đúng là quần chúng trong ngắn hạn có thể quyết định sai hoặc chọn nhầm lãnh đạo. Nhưng trong dài hạn, nhân dân sẽ quyết định đúng đắn. Tôi nghĩ rằng trong lịch sử Hoa Kỳ chúng tôi có thể chỉ ra nhiều quyết định ngắn hạn sai lầm, nhưng cuối cùng thì nhân dân sẽ hiểu quyền lợi của họ ở đâu và điều này sẽ hướng họ tói những quyết định đúng đắn.
GS Trương Duy Vi cũng đề cập tới tầng lớp trung lưu. Ông nói rằng họ sẽ đẩy lùi khả năng quay trở lại của chủ nghĩa cực đoan dân túy hoặc sự nổi loạn.
Một trong những người thầy của tôi là GS Samuel Huntington năm 1968 đã viết một cuốn sách có tựa đề “Trật tự chính trị trong những xã hội đang thay đổi”. Trong đó có một điều đáng lưu ý khi ông phát biểu rằng các cuộc cách mạng không bao giờ được tạo ra bởi những người dân nghèo. Thực sự là tầng lớp trung lưu mới kiến tạo ra các cuộc cách mạng vì lẽ để cách mạng thành công phải có những người được đào tạo biết cách tận dụng các thời cơ, vận hội. Thế nhưng những cơ hội đó bị các hệ thống chính trị và kinh tế ngăn cản nên mới nảy sinh sự chênh lệch giữa kỳ vọng và khả năng của hệ thống đáp ứng chúng, và điều này làm phát sinh sự bất ổn chính trị.
Bởi vậy theo tôi thì sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu không phải là đảm bảo đẩy lùi tình trạng nổi loạn mà chính là nguyên nhân của bất ổn.
Những gì đã xảy ra ở Ai Cập và Tunisia chính là do sự gia tăng của giai cấp trung lưu và vì càng ngày càng có nhiều người được học hành biết sử dụng Internet. Khi đã được kết nối với thế giới bên ngoài, họ mới hiểu ra các chính phủ của họ mới kém cỏi làm sao.
Nói về sự tăng trưởng bền vững ở Trung Quốc tôi không nghĩ rằng nguồn gốc của sự bất ổn sẽ bắt nguồn từ những người nông dân nghèo ở các vùng quê. Cách mạng về chính trị được thiết kế bởi giai tầng trung lưu có học bởi vì hệ thống chính trị hiện nay đang ngăn cản họ kết nối với thế giới bên ngoài rộng lớn hơn và cho họ vị thế xã hội mà họ xứng đáng được hưởng.
Tôi biết rằng hàng năm có tới 6 – 7 triệu sinh viên mới ra trường ở Trung Quốc. Và một trong những thách thức lớn nhất đối với sự ổn định không phải là dân nghèo ở Trung Quốc mà là lệu xã hội có khả năng đáp ứng những kỳ vọng của tầng lớp trung lưu có học.
Về vấn đề tham nhũng, tôi không muốn thuyết phục mọi người rằng dân chủ thì có thể giải quyết vấn đề tham nhũng hiệu quả hơn bởi một thực tế rất hiển nhiên đó là rất ít chế độ dân chủ đồng thời lại có mức độ tham nhũng cao. Đứng về nhiều góc độ, Trung Quốc có thể ít tham nhũng hơn nhiều nước trong số các nước dân chủ đó. Tuy nhiên tôi lại phải nghĩ rằng một trong những con đường đấu tranh chống tham nhũng chính là tự do báo chí, nơi mà người dân có thể phơi bày tham nhũng mà không lo bị đe dọa hoặc trả thù.
Cứ cho là ở các quốc gia dân chủ không phải lúc nào cũng được như vậy đi, chẳng hạn như ở Italy, Thủ tướng sở hữu toàn bộ truyền thông. Tuy vậy tôi vẫn nghĩ rằng dù sao đi nữa, được tự do phát ngôn mà nhờ vậy mà quần chúng có thể phê phán những người có thế lực trong hệ thống chính trị có phân cấp mà không sợ bị trả thù cá nhân là một ưu điểm. Đó chính là ưu điểm khi có một hệ thống dân chủ tự do.
Trương Duy Vi: Cảm ơn GS Fukuyama. Ngài nói rằng chúng ta cần đánh giá theo một khuôn khổ thời gian dài hơn. Năm 1985 tôi đến Mỹ với tư cách là một phiên dịch cho lãnh đạo Trung Quốc, chúng tôi được gặp TS Henry Kissinger. Khi được hỏi về mối quan hệ Trung - Mỹ ông ta đã nói rằng ông thà nghe chúng tôi trước vì chúng tôi tới từ một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến. Tất nhiên đó là biểu hiện của sự nhã nhặn. Tuy vậy chúng ta cần nhớ rằng Trung Quốc đã từng là một quốc gia tiên tiến nhất về sức mạnh và hệ thống chính trị trong gần 2000 năm qua. Tôi trân trọng TS Fukuyama vì không giống với nhiều học giả Phương Tây khác, ngài đã dành nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu các thiết chế chính trị của Trung Quốc cổ đại, bằng chứng là kết luận của TS về việc Trung Quốc đã xây dựng nên nhà nước hiện đại đầu tiên trên thế giới.
Trung Quốc bị tụt hậu so với Phương Tây trong khoảng 200-300 năm gần đây. Thế nhưng Trung Quốc đang đuổi kịp nhanh chóng, đặc biệt tại các vùng đã phát triển. Tôi sợ rằng Phương Tây hơi quá ngạo mạn và không thể nhìn Trung Quốc với một tư duy rộng mở. Theo tôi thì Phương Tây đã có thể học hỏi ở Trung Quốc một số điều. Tổng thống Obama có thể đúng khi ông thúc giục Mỹ xây dựng đường sắt cao tốc, quan tâm nhiều hơn đến giáo dục cơ sở, giảm thâm hụt ngân sách, tiết kiệm nhiều hơn, phát triển công nghiệp chế tạo và vực dậy khu vực xuất khẩu. Ông đã nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không thể xếp hạng 2 thế giới. Rõ ràng là ông ta đã cảm nhận được áp lực từ sự trỗi dậy của Trung Quốc.
GS Fukuyama có vẻ lạc quan về vấn đề chủ nghĩa dân túy và rất tin tưởng rằng Hoa Kỳ có thể học trên những lỗi lầm của mình, thay vì bị dẫn dắt bởi chủ nghĩa dân túy. Tuy nhiên tôi thiên về quan điểm cho rằng chủ nghĩa dân túy hầu như đã trở nên lan rộng hơn trên thế giới nhờ truyền thông hiện đại. Ngày nay một đất nước hay một xã hội quả thực là có thể đổ vỡ sau một đêm chỉ vì chủ nghĩa dân túy quá mức, và điều này còn ý nghĩa hơn vấn đề thể chế chính trị.
Ở Trung Quốc, truyền thống hàng ngàn năm đã để lại dấu tích ở mọi thứ. Tôi không nói truyền thống là luôn tốt hay xấu, quan điểm của tôi là không thể hoặc không thực tế nếu loại bỏ truyền thống đã in dấu lên mọi thứ mà chúng ta đang làm hôm nay. Bởi vậy tôi luôn nói rằng, dù thích hay không thích thì tính cách Trung Quốc và những “gien di truyền lịch sử” vẫn luôn tồn tại cùng chúng tôi. Điều mà chúng tôi có thể làm là phát huy các ưu điểm trong truyền thống của mình đồng thời ngăn ngừa những nhược điểm. Những gì đã diễn ra trong Cách mạng văn hóa cho chúng ta thấy rằng rất khó để phá hoại truyền thống. Trung Quốc thừa hưởng nhiều truyền thống rất tốt đẹp trong đó có niềm tin vào chế độ sử dụng nhân tài. Bởi vậy tuyển chọn kết hợp với một số hình thức bầu chọn đang hứa hẹn một tương lai ở Trung Quốc và chúng tôi sẽ làm tốt việc này khi đã có hàng ngàn năm truyền thống tuyển chọn nhân tài.
GS Fukuyama nói về những hình thái thay thế của dân chủ. Đó chính là lĩnh vực mà quan điểm của chúng ta khác biệt. Trung Quốc không có ý định tiếp thị mô hình của mình như một hình thái thay thế cho các quốc gia và dân tộc khác. Mục tiêu của chúng tôi chỉ đơn giản là điều hành, quản trị đất nước mình hiệu quả, cũng có nghĩa là hoàn thành sứ mệnh đối với 1/5 nhân loại, và không có gì hơn là đạt được mục tiêu đó. Nhưng có một sự thật là nếu anh làm tốt việc gì đó thì những người khác sẽ noi gương. Ngày nay thực sự tất cả các nước láng giềng Châu Á của Trung Quốc, từ Nga cho tới Ấn Độ, từ Việt Nam cho tới Lào, Cămpuchia và các dân tộc Trung Á đang học hỏi mô hình Trung Quốc bằng cách này hay cách khác.
Quan điểm của GS Huntington về sự xung đột giữa tầng lớp trung lưu với nhà nước được đa số học giả Phương Tây và một số học giả Trung Quốc ủng hộ xã hội dân sự độc lập chia sẻ. Tuy nhiên Trung Quốc lại có một truyền thống văn hóa lâu đời của riêng mình mà theo đó tầng lớp trung lưu có những ảnh hưởng khác biệt. Đa số người Phương Tây nhìn nhận chính quyền như là “điều không muốn nhưng phải chấp nhận”, thế nhưng đa số người Trung Quốc lại coi chính quyền như một sự “bất đắc dĩ phải có”. Với di sản văn hóa như vậy, tầng lớp trung lưu có nhiều khả năng trở thành những người ủng hộ trung thành nhất vị thế ổn định của Trung Quốc trên thế giới. Hơn nữa, thay vì đối đầu, quan hệ giữa tầng lớp trung lưu với nhà nước Trung Quốc nói chung là tích cực. Điều này làm nảy sinh sự dính kết xã hội không có ở các xã hội Phương Tây.
Bây giờ tôi sẽ nói về vấn đề tham nhũng. Chúng ta ai cũng biết bốn con rồng Châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hongkong. Sau khi quá trình hiện đại hóa (có thể hiểu là công nghiệp hóa – ND) hoàn thành trên diện rộng, Đài Loan và Hàn Quốc đã tiếp thu hệ thống chính trị Phương Tây trong khi Họng kong và Singapore lựa chọn ít nhiều vẫn giữ nguyên hệ thống hiện hành. Hãy nhìn vào tình hình hiện nay: Hong kong và Singapore ít tham nhũng hơn Hàn Quốc và Đài Loan theo nhận định của tất cả những ai nghiên cứu về tham nhũng. Trong những năm 1960 tình trạng tham nhũng ở Hong Kong là trầm trọng, nhưng vấn nạn này đã được ngăn chặn thành công khi thành lập Ủy ban độc lập chống tham nhũng (ICAC). Nói cách khác, hệ thống dân chủ Phương Tây không phải là giải pháp tốt nhất đối với vấn nạn tham nhũng, ít ra là trong thế giới ngoài Phương Tây.
Tổ chức minh bạch quốc tế đưa ra chỉ số về tham nhũng cho thấy trong các nền “dân chủ” với dân số 50 triệu trở lên tình trạng tham nhũng trầm trọng hơn Trung Quốc. Thực tế là tham nhũng ở Đài Loan trở nên tồi tệ hơn sau khi có dân chủ. Nếu không thì lãnh đạo Trần Thủy Biển đã không chịu kết cục phải ngồi tù. Liên tiếp 5 tổng thống Hàn Quốc được dân bầu đều dính líu vào các vụ tham nhũng tai tiếng. Trái ngược lại, Hong Kong và Singapore không cần phải tiếp nhận mô hình chính trị Phương Tây lại thành công trong nỗ lực giảm tham nhũng đáng kể nhờ chế độ pháp quyền và đổi mới các định chế.
Một số người Trung Quốc đã biến tấu câu nói nổi tiếng của Churchill về dân chủ thành câu “dân chủ là hệ thống ít tồi tệ nhất “. Tôi đã kiểm tra lại bối cảnh mà Churchill phát biểu câu này và thấy câu nói được phát ngôn trong cuộc tranh luận ở Westminster vào năm 1947. Rõ ràng là ông ta nói về dân chủ kiểu Phương Tây và được thực thi ở Phương Tây. Winston Churchill bản thân cũng mạnh mẽ chống lại nền độc lập của Ấn Độ. Vậy thì làm sao ông ta có thể ủng hộ Ấn Độ tiếp nhận nền dân chủ kiểu Phương Tây? Tôi tự mượn câu nói của Churchill để mô tả mô hình Trung Quốc giống như một “mô hình ít tồi tệ nhất”, có nghĩa là tuy có những yếu điểm nhưng nó cho kết quả thực tế tốt hơn những mô hình khác.
Fukuyama: Cho phép tôi được bắt đầu từ vấn đề về tầng lớp trung lưu. Phải chăng tầng lớp trung lưu Trung Quốc khác biệt với tầng lớp trung lưu ở những xã hội không Trung Quốc? Đó cũng là vấn đề mà tôi đã tranh luận rất nhiều với GS Huntington. Năm 1990 GS viết cuốn sách có tựa đề “sự xung đột giữa các nền văn minh” trong đó về cơ bản ông dựa trên luận cứ cho rằng văn hóa quyết định hành vi. Bất chấp những đổi thay do quá trình hiện đại hóa mang lại, ông cho rằng, văn hóa vẫn quyết định hành vi của con người, dù đó là người tân tiến.
Tôi tin rằng văn hóa rất quan trọng. Lý do vì sao tôi nghiên cứu chính trị quốc tế chính là tôi thích quan sát những người khác mình. Bởi lẽ sự đa dạng văn hóa là một thực tế và thật tuyệt vời khi mọi người không ai giống ai. Nhưng có một câu hỏi lớn hơn đó là phải chăng văn hóa tỏa sáng xuyên thời gian theo cách thức phản kháng lại sự phát triển của chính trị, xã hội và kinh tế hay là quá trình hiện đại hóa sẽ dẫn tới một sự hội tụ về văn hóa?.
Cho phép tôi viện dẫn một ví dụ. Nhìn quanh căn phòng thấy có nhiều phụ nữ ngồi hẳn có người sẽ tự hỏi: sao lại có nhiều thính giả nữ thế nhỉ?. Thời trước, vị thế của người phụ nữ bị hạ thấp và họ bị hạn chế nhiều cơ hội trong những xã hội mà tài sản thừa kế chỉ được truyền cho nam giới. Điều này từng là hiện thực ở Mỹ và Châu Âu vào thời kỳ mới phát triển. Nhưng khi bạn tới thăm các quốc gia phát triển và nơi đây ở Đông Á bạn sẽ thấy phụ nữ khắp nơi. Tại sao lại như vậy? Tại sao vị thế của phụ nữ lại được nâng cao như vậy? Vì sao họ làm việc ở các văn phòng và nhà máy? Vì sao họ được hưởng quyền bình đẳng với nam giới về kinh tế và xã hội? Nguyên nhân chính là quá trình hiện đại hóa. Ngày nay không ai có thể vận hành một nền kinh tế mà lại thiếu sự tham gia của lực lượng lao động nữ.
Saudi Arabia không cho phép phụ nữ lái xe, bởi vậy họ phải thuê gần nửa triệu lái xe từ Nam Phi tới chỉ để đưa đón phụ nữ nơi đây.Nếu như họ không có dầu lửa thì có lẽ không thể tượng tượng nổi hệ thống kinh tế này sẽ ra sao. Mặc dù văn hóa đạo Hồi có những quy định về vai trò của người phụ nữ, thế nhưng ở Trung đông phụ nữ đang trở nên mạnh mẽ và được tổ chức tốt hơn về chính trị. Họ đòi hỏi những quyền lợi bình đẳng như nam giới. Điều này đối với tôi có vẻ như một trường hợp mà các nền văn hóa khác nhau đều đi tới những giải pháp tương đồng về vấn đề vai trò người phụ nữ. Điều đó diễn ra chẳng phải vì văn hóa là yếu tố quyết định, mà bởi quá trình hiện đại hóa buộc xã hội phải tìm được lời giải.
Tôi không nghĩ rằng chúng ta có một xã hội hiên đại mà không dành cho phụ nữ quyền bình đẳng. Tất nhiên đó vẫn là một vấn đề còn để ngỏ. GS Trương Duy Vi nói rằng tầng lớp trung lưu được học hành, tương đối an toàn, có tài sản riêng sẽ khác với tầng lớp trung lưu ở nơi khác chỉ bởi vì họ sống trong môi trường văn hóa Trung Quốc. Có thể đúng như vậy.
Nhưng theo quan sát của tôi thì tầng lớp trung lưu trong các nền văn hóa khác nhau thực ra lại ứng xử rất giống nhau. Trong thế giới Ả rập, người ta nghĩ rằng dân Ả rập là khác biệt do chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Thế nhưng năm vừa qua nhân dân các nước A rập đã xuống đường biểu tình chống chính phủ. Bởi thế tôi cho rằng một số giả thuyết về vai trò của văn hóa có thể không còn đúng nữa. Có thể văn hóa quyết định một số hành vi trong quá khứ, nhưng trong điều kiện hiện nay, điều này đã khác rồi. Dưới ảnh hưởng của Internet và du lịch có lẽ hành vi của con người được định hình bởi nhu cầu và khát vọng của thế hệ đương đại, nhiều hơn là bởi những truyền thống sâu nặng của quá khứ.
Cho phép tôi phát biểu một điều cuối cùng về những gì tôi đồng tình với GS Trương Duy Vi. Tôi cho rằng có sai lầm trong nhân dân Mỹ và Châu Âu khi đánh giá những thành tích của Trung Quốc, kể cả trong quá khứ và hiện tại. Cuốn sách gần đây của tôi viết có sáu chương thì ba chương về Trung Quốc. Riêng Trung Quốc đã chiếm nhiều chương hơn những khu vực khác của thế giới. Tôi thực sự đã dành nhiều thời gian để bản thân mình giảng thật nhiều giờ về lịch sử Trung Quốc ở mức có thể được, vì tôi nhận thấy sức mạnh của lịch sử Trung Quốc rất quan trọng đối với người Mỹ và cả người Trung Quốc.
Không có nền văn hóa nào có thể tồn tại với các giá trị và định chế vay mượn. Điều mà tôi nhận thức được là Trung Quốc đang tìm lại những cội rễ xác thực của mình. Đó là một việc tốt mà Trung Quốc cần phải làm. Thách thức ở đây là trong khi đi tìm lại niềm tự hào trong lịch sử và truyền thống, cần phải tương thích chúng với những định chế hiện đại. Chúng ta phải làm việc này theo cách không dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa Sôvanh nước lớn.
Một nước Nhật hiện đại sẽ phải như thế nào? Nó sẽ không giống Mỹ, Anh hoặc Pháp mà phải giàu đặc trưng Nhật. Tôi nghĩ rằng một Trung Quốc hiện đại cũng cần có những đặc trưng rất Trung Quốc. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng là phải chỉ ra những gì thực sự là đặc trưng Trung Quốc và những gì mà xã hội hiện đại đòi hỏi. Đó cũng là một phần của trật tự quốc tế rộng lớn hơn. Và chỉ có cách đó chúng ta mới có thể chung sống trong hòa bình.
Trương Duy Vi: Nhiều nhà khoa học chính trị Phương Tây có quan điểm rằng hiện đại hóa sẽ dẫn đến sự hội tụ văn hóa. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy không hẳn là như vậy. Lấy Trung Quốc là một ví dụ. Người Trung Quốc ai cũng biết là luôn bận bịu với hiện đại hóa, tạo tài sản và kiếm tiền. Thế nhưng mấy năm trước có một bài hát đã nhanh chóng trở thành nổi tiếng toàn quốc vì đã động viên mọi người hãy thăm cha, mẹ của mình thường xuyên hơn. Bài hát đó đã sưởi ấm trái tim mỗi người Trung Quốc và đề cập trúng nỗi trắc ẩn trong lòng công chúng. Nói khác đi, bất chấp những bước đi hối hả của hiện đại hóa và sự gia tăng của chủ nghĩa cá nhân, cốt lõi của truyền thống Trung Quốc vẫn là gia đình. Và vì nó mà người Trung Quốc sẵn sàng hy sinh nhiều hơn đa số người Phương Tây.
Bản sắc văn hóa không thể thay đổi được bởi hiện đại hóa. Nếu không thì thế giới này sẽ thật là nhàm chán. Mà làm sao có thể làm thay đổi bản sắc của một nền văn hóa lực lưỡng như văn hóa Trung Quốc? Một khi nói đến văn hóa McDonald thì cũng có Tám trường phái ẩm thực Trung Quốc và quả thực, chúng rất khác nhau. Thực tế là kẻ đi trước mà không đủ sức chinh phục kẻ đến sau thì kẻ đến sau sẽ đồng hóa người đi trước. Tôi đánh giá cao quan điểm của Edmund Burke, một nhà triết học chính trị Anh thế kỷ 19, người cho rằng mọi thay đổi trong hệ thống chính trị phải xuất phát từ chính truyền thống của dân tộc.
Ngoài ra, tôi nghĩ rằng nguyên nhân chính của sự đề cao văn hóa chính là thái độ ngưỡng mộ của chúng tôi đối với minh triết gắn kết với văn hóa. Minh triết và tri thức là hai thứ khác nhau. Ngày nay chúng ta có nhiều tri thức hơn bất kỳ lúc nào trong quá khứ. Trẻ em học phổ thông có thể biết nhiều hơn Khổng Tử hay Socrate. Tuy nhiên minh triết của nhân loại hầu như không thay đổi. Ở đây tôi có một lời khuyên giản dị không biết GS Fukuyama có chấp nhận hay không: nên chăng cần thêm yếu tố minh triết vào ba yếu tố cơ bản của các thể chế chính trị hiện đại mà GS đã nêu, cụ thể là nhà nước, tính giải trình, chịu trách nhiệm và pháp quyền . Hoa Kỳ đã từng thắng trong nhiều cuộc chiến tranh đứng về phương diện chiến thuật, nhưng lại thua nếu nhìn từ góc độ chiến lược, ví dụ như cuộc chiến Việt Nam, Afghanistan và Iraq chỉ là một vài minh chứng. Đó là các tình huống có liên quan tới minh triết và tôi nghĩ rằng tầm quan trọng của minh triết là không thể bỏ qua.
Mới đây tôi qua Đức giảng bài. Có một nhà kinh tế Đức kể cho tôi một câu chuyện, đó là Thủ tướng Angela Merkel hỏi một nhà kinh tế Đức khác rằng tại sao không có nhà kinh tế của Đức nào đoạt giải Nobel về kinh tế. Câu trả lời là “thưa Bà Thủ tướng, xin đừng lo lắng về điều đó vì ở đâu có những nhà kinh tế hạng nhất thì nơi đó sẽ không có nền kinh tế hạng nhất”. Nói cách khác, ở nơi đó nền kinh tế có vấn đề.
Trong số các môn khoa học xã hội mà Phương Tây đã xây dựng nền móng, tôi cho rằng môn kinh tế là gần với sự thật nhất vì nó giống khoa học tự nhiên ở chỗ phải dựa trên các mô hình toán. Với quan niệm đó, thành thực mà nói môn khoa học chính trị và các môn khoa học xã hội khác được khởi đầu ở Phương Tây có thể được coi là xa sự thật hơn môn kinh tế. Bởi vậy đó cũng là lý do vì sao chúng ta cần phải dũng cảm hơn trong tư duy và can trường hơn trong những nỗ lực để có những bài diễn thuyết mang tính đổi mới
Tôi chia sẻ một điểm tương đồng với GS Fukuyama đó là cả hai chúng ta đang nỗ lực soạn ra một chương trình cho môn khoa học chính trị Phương Tây. Cuốn sách mới của GS đã kết nối cả nhân chủng học, xã hội học, kinh tế học, khảo cổ học và nhiều môn khoa học nữa. Những nỗ lực của GS xứng đáng được chúng ta tôn trọng và ghi nhận, mặc dù tôi không đồng tình với GS về tất cả mọi thứ.
Về phần mình, tôi và các cộng sự thực ra đang tiến xa hơn GS Fukuyama và chúng tôi đang đặt dấu hỏi (xét lại – ND) đối với toàn bộ các bài giảng về chính trị Phương Tây. Tuy nhiên chủ ý của chúng tôi không phải là lấy điểm chính trị hay chứng minh Trung Quốc hay và Phương Tây dở hoặc ngược lại, mà là cố gắng tìm những lời giải mới trước các thách thức toàn cầu như giảm đói nghèo, sự xung đột giữa các nền văn hóa, sự thay đổi khí hậu và nhiều vấn đề khác có liên quan tới quá trình đô thị hóa. Minh triết của Phương Tây quả thực là chưa đủ và minh triết Trung Quốc sẽ có những đóng góp của mình.
Thăng long- Hà nội 3/11/2011
Phạm Gia Minh dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2012 4:15:13 GMT 9
Chuyến công du của ông Tập Cận Bình sang Mỹ Chuyến viếng thăm Mỹ mới đây của ông Tập Cận Bình cho chúng ta thấy quan điểm của Mỹ và Trung Hoa về các vấn đề của Á Châu và Thái Bình Dương đã được hoạch định một cách tổng quan. Kế hoạch đó căn bản do các yếu tố sau đây quyết định: Phía Mỹ Tổng Thống Obama cần kinh tế Mỹ phát triển, không có căng thẳng với TH, có nghĩa là không có căng thẳng ở khu vực Thái Bình Dương, ít nhất từ nay tới bầu cử tổng thống; và cùng lúc chứng tỏ Mỹ đã không nhượng bộ TH trong vấn đề TBD hay nhân quyền. Phía TH Ông TCB cần chứng tỏ đây là chuyến công du thành công cho cá nhân ổng và thành công cho TH trong việc mang lại khoảng thời gian an bình cần thiết với Mỹ để TH rảnh tay lo chấn chỉnh nội bộ, lo cho đại đa số dân được hưởng thụ tiến bộ vật chất của thời gian qua và nhất là lo vấn đề văn hóa mà đại hội đảng CS đã đề ra. * Để đánh bóng cho ông TCB bộ quốc phòng Mỹ đã tổ chức việc đón tiếp ông ở Bộ Quốc Phòng rất long trọng, long trọng chưa từng có đối với một vị phó: đó là đầy đủ lễ nghi quân cách với 19 phát súng thần công dàn chào. Trong bữa tiệc tối hôm đó ông TCB đáp lại bằng cách ca tụng lãnh tụ Mỹ khi giúp TH mở cửa. Ông nói: "uống nước phải nhớ người đào giếng". Trong cuộc công du nầy ông TCB cũng có nhượng bộ nho nhò như mở rộng thị trường bảo hiểm xe hơi cho người ngoại quốc, và ông cũng phàn nàn về việc Mỹ giới hạn việc bán đồ điện tử cao cấp, ông cho rằng đó là một trong các lý do khiến có chênh lệch bất lợi về phía Mỹ trong cán cân mậu dịch với TH, nhưng ông nói tới bang giao Mỹ TH như là một sự kiện Win Win. Ở các buổi họp của ông TCB với Tổng Thống Mỹ hay với Phó Tổng Thống và bộ trưởng ngoại giao, phía Mỹ không nhấn mạnh về vấn đề nhân quyền, tuy có nói qua, phía ông TCB cũng chỉ nhắc lại cái gọi là thành tích tiến bộ của TH về vấn đề nầy, không những không có ý đả phá quan điểm của phía Mỹ mà còn nói thêm rằng khía cạnh nhân quyền ở TH còn có thể cải thiện hơn. Khi ông TCB kêu gọi thúc đẩy hợp tác quốc phòng giữa các cường quốc Thái Bình Dương với ông Leon Panetta, bộ trưởng quốc phòng, thì phía Mỹ không có đáp ứng cụ thể, mà chỉ nhắc tới hai chương trình cứu hộ và chống hải tặc. Dĩ nhiên hai nước có bàn vài vấn đề về thương mại, an ninh chung chung, Syrian, North Korea... nhưng TT Obama thì cũng chỉ nói rằng Mỹ không lo TH phát triển nhưng phát triển thì phải theo đúng con đường của nó (có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế như gìn giữ an ninh, môi trường... và có trách nhiệm với người dân như vấn đề nhân quyền...) và TCB thì cũng chỉ phát biểu rằng TH phát triển sẽ không phải là mối đe dọa cho nước nào cả. Nhìn vào các buổi họp và tiếp tân ở Washington như thế nên các báo Mỹ coi như mọi việc bình thường, không nhìn thấy có gì đặc biệt. Cựu ngoại trưởng Henry A Kissinger cũng nhân dịp tát nước theo mưa viết bài bình luận nói rằng hai cường quốc cần phải hợp tác với nhau !!! * Sự đặc biệt cho cả Mỹ và TH chỉ xẩy ra khi ông TCB rời thủ đô HTĐ để đi Iowa, và California. Về Iowa và tiếp tân những người đã gặp 27 năm trước ông TCB muốn chứng tỏ tình cảm sâu đậm của ông với người dân trung lưu, người nông dân Mỹ; tiếp theo là hợp đồng mua thêm đậu nành của Iowa. Về California và ở đây hai ngày, ông chịu khó ngồi coi bóng rổ, nói chuyện với giới thể thao, chắc chắn là ông muốn am hiểu hơn về thể thao, tâm lý người đi coi thể thao và luật lệ thể thao... Sau đó ông nói chuyện với các người trong ngành điện ảnh, kết quả là TH sẽ nhập cảng thêm phim ảnh ngoại quốc và một hợp đồng của một hãng điện ảnh TH với Dreamworks Animation trị giá 330 triêu được ký kết. Phó TT Joe Biden nói kết quả đó có khả năng tạo vài ngàn công việc cho ngành điện ảnh. Kết thúc chuyến công du nầy ta có thể nhắc lại câu nói sau đây của ông TCB trong buổi gặp giới thương gia - kỹ nghệ gia ở Los Angeles (Hiển nhiên ông TCB muốn nói cho dân cả hai nước Mỹ và TH) : TH sẽ chú trọng hơn tới sản phẩm cho tiêu thụ trong nước. Chuyến công du của ông TCB cho thấy cả Mỹ và TH đều muốn duy trì tình trạng hiện hữu, ít nhất vài năm nữa. Cả hai bên đều không nói tới biển Đông. Về thương mại và nhân quyền thì bên nầy thắng một tí bên kia thắng một tí, cả hai bên cùng thắng. * Nhà nước TH sẽ có thời gian để chấn chỉnh nội bộ. Dân TH sẽ được coi nhiều phim ảnh của Mỹ, được chơi thể thao nhiều hơn. Đó là điều rất đáng để ý tới trong chuyến công du của ông TCB vì thể thao và phim ảnh, hai môn giải trí nầy là thành phần trong lời giải đáp cho vấn nạn về văn hóa (vấn nạn mà đại hội đảng CSTH đã đề ra). Thể thao giúp giới thanh niên khỏe mạnh hơn, lấp khoảng trống nhàn rỗi... Phim ảnh cho người ta nhìn thấy khung trời khác bớt đi sức nặng của khung trời hiện hữu... Như vậy cũng tốt thôi, nhưng văn hóa là chuyện cực kỳ khó hiểu, lý thuyết Cộng Sản không đủ, không có khả năng lý giải vấn đề đó đâu. Xem phim của Dreamworks nhiều lại dễ gây nên ảo tưởng"yêu trăng 30"(1); rất không hợp với thực tế khắc nghiệt của kinh tế thị trường cạnh tranh. Dreamworks và lý thuyết CS? Ảo tưởng hơi bị nhiều. Hà Dương Dực (1) Chữ của cô Lê Cát Trọng Lý.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 22, 2012 1:12:34 GMT 9
Bạc Hy Lai Trong Sa Lậu 04/21/2012 Tác giả : Nguyễn Xuân Nghĩa Đồng thuận Bắc Kinh bỗng rung rinh vì Trùng Khánh... Như dòng cát chảy trong cái bình đồng hồ, mà dân Tầu gọi là "sa lậu", hay vụ án Trùng Khánh hay chuyện Bạc Hy Lai ngã ngựa và bà vợ là Cốc Khai Lai có khi vào tù, tiếp tục nhỏ xuống và tràn ra những tin ghê người về sự nghiệp và hành vi của cựu Bí thư Trùng Khánh cùng gia đình. Kỳ trước, trong bài "Trùng Khánh Trùng Trùng" cột báo này đã trình bày bối cảnh của nội vụ và suy đoán về lý do thật khiến Bạc Hy Lai bay chức Bí thư Trùng Khánh rồi bị đuổi khỏi Bộ Chính trị cùng Ban Chấp hành Trung ương đảng Khoá 17. Lý do thật là sự chọn lựa sinh tử của đảng Cộng sản Trung Hoa về chiều hướng lãnh đạo trong tương lai. Chuyện ấy nay đã rõ. Nhiều dịp trước đó, người viết cũng giới thiệu và phê bình mô hình phát triển của thành phố Trùng Khánh, có thời xem là mẫu mực và còn được sáu trong chín Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị ngợi khen. Nó giúp Bạc Hy Lai trở thành khuôn mặt sáng của thế hệ lãnh đạo thứ năm, sẽ thăng quan tiến chức trong Đại hội 18 sắp tới. Chuyện ấy cũng đã xong khi lãnh đạo Bắc Kinh đang cho điều tra lại tình trạng tham ô và nợ nần của Trùng Khánh lẫn hành tung của Bạc Hy Lai khi còn là Bí thư tỉnh Liêu Ninh hiu quạnh rồi Bộ trưởng Thương mại rất nổi cộm. Nhưng, ngoài các chi tiết hấp dẫn được phanh phui, người ta còn cần nhìn ra nhiều chứng tật bẩm sinh của mô thức chính trị Trung Quốc mà bên ngoài gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh", hay "Beijing Consensus". Từ nguyên thủy, xin nhắc lại rằng đó là một chữ do doanh nghiệp du thuyết – chuyên về "lobby" – của Henry Kissinger đặt ra từ năm 2004 với dụng ý ngợi khen và gây ấn tượng tốt đẹp về mô thức Trung Quốc so với các mô thức khác. Trong hoàn cảnh khó khăn chung từ bốn năm nay của các nước đi theo kinh tế thị trường, chính trị dân chủ và xã hội cởi mở - chủ yếu là ba khối kinh tế Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản - giải pháp chủ động phát triển với vai trò lãnh đạo của nhà nước có thể đạt kết quả khả quan hơn, như trường hợp Trung Quốc, với mức tăng trưởng tột bậc. Vì vậy, mô thức Trung Quốc có sức cám dỗ rất cao cho nhiều quốc gia chậm tiến và các chế độ độc tài. Thậm chí, việc nhà nước can thiệp nhiều hơn vào thị trường cũng được nhiều nước dân chủ đề cao, như ta đang thấy ngay tại Hoa Kỳ, với chủ trương của Chính quyền Barack Obama và đảng Dân Chủ. Nhưng chuyện Bạc Hy Lai đang chết kẹt trong cái bình sa lậu là cơ hội cho chúng ta nhìn lại.... Trước hết, trên nguyên tắc, khi được đề cử vào Bộ Chính trị, 25 người cầm đầu đảng Cộng sản Trung Hoa đều mặc nhiên cam kết là khi nào họ còn tại chức thì bản thân không liên hệ vào bất cứ một cơ sở kinh doanh nào. Lý do lý tưởng ở đây là nhờ vậy, họ có thể ở vào vị trí khách quan để thẩm xét những chọn lựa chiến lược về quốc kế dân sinh, chứ không vì tư lợi. Trong thực tế, gia đình và thân tộc của họ vẫn có quyền và nhờ đó có cái thế tham gia vào việc kinh doanh trong một hệ thống kinh tế mà các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo và được ưu đãi. Nhưng trên nguyên tắc, đám thân tộc này vẫn được gọi là "tư doanh" và còn được giới đầu tư quốc tế ve vãn qua các công ty môi giới, hay doanh nghiệp thuyết khách, và các tay cò mi quốc tế. Doanh gia Neil Heywood bị tình nghi là đánh độc dược bằng thạch tín là một loại cò mồi đó – mà vẫn chỉ là cò con – và thi hài được lật đật hoả táng, cho đến khi Giám đốc Công an Trùng Khánh phanh phui làm Bạc Hy Lai và gia đình ngã ngựa. Hiện tượng Bạc Hy Lai, con trai của Bạc Nhất Ba, một trong "bát đại nguyên lão" – các đồng chí cách mạng thời Mao Trạch Đông – hay bà vợ là Cốc Khai Lai, con gái của một viên sĩ quan lừng danh năm xưa khi "cho Việt Nam một bài học" năm 1979, cùng nhiều nhân vật khác trong "Thái tử đảng" không là hy hữu mà là quy luật. Khi vụ Trùng Khánh đổ bể, người ta biết thêm về vai trò "doanh gia" của anh và em Bạc Hy Lai như Bạc Hy Dũng, Bạc Hy Thành, hay các chị em của Cốc Khai Lai là Cốc Hoàng Giang, Cốc Hoàng Ninh, v.v.... Chẳng những vậy, con cháu những Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng – công trình sư của vụ thảm sát Thiên an môn năm 1989 – hay rất nhiều lãnh tụ khác trong khu Trung Nam Hải, kể cả Ôn Vân Tùng, con trai của Tổng lý Quốc vụ viện, là đương kim Thủ tướng Ôn Gia Bảo, đều là loại doanh gia thành công và rất được quốc tế trọng vọng. Sự cấu kết giữa "tư doanh" có thế lực và quan hệ với các tập đoàn nhà nước trong một chế độ tư bản nhà nước tất nhiên dẫn đến "chủ nghĩa tư bản thân tộc", "crony capitalism", một ấn bản hiện đại hơn của quy luật châu Á nay hết là độc quyền Á châu: một người làm quan cả họ được nhờ. Đấy là sự bất công của hệ thống tư bản nhà nước "với màu sắc Trung Hoa" hay "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" vì tạo ra một sân chơi bất bình đẳng. Nhưng... nhập gia tùy tục, tư bản quốc tế vẫn nhảy vào sân chơi đó với cái đòn bảy là mối quan hệ cùng thân tộc của lãnh đạo. Nhiều người còn tô màu ngũ sắc cho sự cấu kết mờ ám bằng khẩu hiệu "Đồng thuận Bắc Kinh". Điều mà người ta ém nhẹm bên dưới là nhìn từ quan điểm quyền lợi của bá tánh hay sự vững bền của mô thức phát triển, các nhóm quyền lợi đó tác động vào sự chọn lựa của lãnh đạo ở trên. Họ thực tế cản trở việc cải cách và đưa xứ sở vào "bẫy xập" là điều mà chính đám trí thức của chế độ đã báo động: Trung Quốc hết dám cải cách khi chiến lược phát triển đã đi hết giới hạn của sự vận hành khả quan từ 30 năm qua. Nay đang bị nguy cơ khủng hoảng! Đấy là lúc không nên thoái lui về chủ trương bảo thủ của Mao Trạch Đông do Bạc Hy Lai minh diễn với sự hùng hồn của một nghệ sĩ. Nhưng vấn đề không chỉ có khía cạnh kinh tế chính học học nhờ nhờ màu đỏ như vậy! Vấn đề sâu xa hơn thế: với quyền lực tuyệt đối của đảng và con mắt tinh tường của Ban Kỷ luật Trung ương, cơ chế tối cao về nhân sự và kỷ cương trong đảng, còn cao hơn cả Ban Tổ chức Trung ương lẫn Ban Chính pháp Trung ương, vì sao một nhân vật như Bạc Hy Lai đã có thể vọt lên như ngôi sao băng? Phải chăng, thành tích hay tỳ vết của họ Bạc khi còn là Bí thư tỉnh Liêu Ninh rồi Bộ trưởng Thương mại trước khi về lãnh đạo Trùng Khánh năm năm về trước là những gì mà ở trên không biết? Hoặc đã biết một cách lệch lạc nên mới sớm đề bạt và còn ngợi ca? Bây giờ Ban Kỷ luật mới lại mở cuộc điều tra - mà càng điều tra càng thấy giật mình. Tệ nạn tham nhũng của họ Bạc đã có từ thời ở Liêu Ninh và thành tích "đả hắc" tại Trùng Khánh – diệt trừ các tổ chức tội ác của xã hội đen – đã che giấu nạn thủ tiêu đối lập và cấu kết với mafia! Ngoài Bạc Hy Lai, còn những ai khác ở nơi khác có thể đang ở trong trường hợp này? Nếu Vương Lập Quân không bò ra và bỏ chạy vào tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Thành Đô để tìm cõi sống, thì trung ương có biết không? Mà có bao giờ mà người dân được biết không? Ngoài cái nạn tư bản thân tộc và việc kiểm tra nhân sự, chuyện thứ ba, còn gai góc hơn cho "Đồng thuận Bắc Kinh" là việc chuyển giao quyền lực. Với cái nhìn lạnh lùng về mọi cuộc đấu tranh giành quyền lực ở mọi thời, mọi nơi, người ta đều phải có thể kết luận một cách phiến diện rằng vụ Bạc Hy Lai là một biểu hiện của chuyện tranh quyền. Có thể họ Bạc được hậu thuẫn của Trưởng ban Chính pháp Chu Vĩnh Khang hoặc một số tướng lãnh, kể cả con trai duy nhất còn lại của Lưu Thiếu Kỳ là Tướng Lưu Nguyên, nhưng gặp trở ngại từ nhiều nhân vật lãnh đạo khác trong Bộ Chính trị. Họ là những ai? Chúng ta khó biết được. Họ có thể là Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo hay Hạ Quốc Cường, Trưởng ban Kỷ luật, là những người thuộc lớp lãnh tụ sắp về hưu. Hay Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, là hai người sẽ lên thay thế cặp Hồ-Ôn. Hoặc Bí thư Quảng Đông là Uông Dương, một cựu Bí thư Trùng Khánh và nhân vật đang hy vọng ngồi vào ghế "thất hiền", bảy Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị sau Đại hội 18. Xuyên qua đó, ta có thể đoán ra một số thế lực bên trong "cái đa số thầm lặng" này. Nhưng hãy nhìn sân khấu chính trị Trung Quốc trong viễn cảnh sâu xa hơn. Từ năm 1981, Đặng Tiểu Bình đề ra nguyên tắc đồng thuận là tập thể lãnh đạo phải giữ vẻ thống nhất – không công khai hóa những dị biệt về quan điểm hay chủ trương – và tuyệt đối gạt bỏ tệ sùng bái cá nhân như dưới thời Mao. Ông ta cũng đề ra nguyên tắc chuyển giao quyền lực một cách ôn hoà khi lãnh đạo chọn trước những người sẽ lên thay thế trong thập niên tới. Vậy mà họ Đặng đã tuột tay trong vụ khủng hoảng Thiên An Môn năm 1989 khiến mấy ngàn người bị tàn sát và đương kim Tổng Bí thư là Triệu Tử Dương bị quản thúc tại gia cho đến chết. Lần đó, các tướng lãnh đã được điều vào thay thế Quân khu Thủ đô để dẹp loạn tại Bắc Kinh. Nhờ đó, Giang Trạch Dân và Kiều Thạch cùng Lý Bằng đã lên ngôi, trong khi cũng theo ý họ Đặng mà chọn trước Hồ Cẩm Đào sẽ lên thay thế trong Đại hội 16 vào năm 2002. Nhưng rồi từ 1991, Trung Quốc đã bảo đảm được sự chuyển quyền tương đối êm ả trong hai chục năm. Thế rồi vụ Bạc Hy Lai bị đột ngột hạ bệ cho thấy nhược điểm của lối tuyển chọn âm thầm đó. Có âm thầm là có mờ ám! Sự mờ ám này làm đảng Cộng sản Trung Hoa đang bị khủng hoảng khi chuyển giao lãnh đạo cho thế hệ thứ năm và chuẩn bị người thay thế trong thế hệ lãnh đạo thứ sáu. So sánh với tiến trình tranh cử ồn ào, tèm lem và đầy bất ngờ của các nền dân chủ, sự ổn định ở bề mặt của mô thức Trung Quốc mới là một bất trắc sinh tử! Sinh tử nhất, nếu ta không mắc bệnh quên trí nhớ là vụ Thiên an môn bùng nổ vì một nguyên nhân đầu tiên: dân chúng biểu tình phản đối nạn tham nhũng và mối lo về lạm phát. Chuyện đấu tranh cho dân chủ chỉ là hậu quả, đến sau.... Sinh tử vì tham nhũng hay lạm phát cũng đang là mối lo hiện đại của lãnh đạo vì là sự bất mãn của quần chúng. Vấn đề ấy dẫn ta về hiện tại là chuyện thứ tư là sự đổi thay của xã hội. Khi Đặng Tiểu Bình còn tại thế, xã hội Trung Quốc chưa lãnh cuộc cách mạng tín học và làn sóng thông tin có thể gọi là vô cương, không biên giới. Nhờ khả năng bưng bít thông tin và tuyên truyền có định hướng, các lãnh tụ ở trên đã có thể âm thầm và nham hiểm kiểm soát nhận thức của mọi người như những đạo diễn có tài, vì mọi diễn viên trong hậu trường đều theo sát kịch bản đồng thuận đã được tập thể chọn lựa. Nhưng qua thế kỷ 21, hiện tượng thông tin vô cương và mạng lưới xã hội điện tử toàn cầu đã đảo lộn trò chơi hắc ám này. Khi nội vụ đổ bể từ hôm mùng bảy Tháng Hai – là lúc Vương Lập Quân đồng ý ra khỏi toà Tổng lãnh sự Mỹ tại Thành Đô để được giải về trung ương là Bắc Kinh thay vì có thể bị tay chân họ Bạc thủ tiêu ngay tại Trùng Khánh – làn sóng thông tin đã phá vỡ những bức vách ngăn cách của lãnh đạo. Ban đầu, các lãnh tụ Bắc Kinh còn tương kế tựu kế mà cho loan truyền một số tin tức có chọn lọc và dụng ý về Vương Lập Quân rồi Bạc Hy Lai. Nhưng trong hai tháng liền, qua các mạng lưới thông tin chằng chịt ở trong và ngoài Trung Quốc, làn sóng đó đã gây phản tác dụng theo đúng quy luật "lộng giả thành chân": có nơi loan tin về nguy cơ đảo chánh quân sự và có nơi phát động phong trào đề cao Mao Trạch Đông – để bênh vực Bạc Hy Lai. Chuyện đồng thuận và âm thầm bỗng dưng chấm dứt và nhiều người loan tin trong các blog bị cầm tù. Vì trò chơi của trung ương mở ra nguy cơ tranh luận công khai không chỉ trên thượng tầng mà ngay trong quần chúng và cả... quân đội. Kết cuộc thì y như trong vụ Lâm Bưu tử nạn năm 1971 sau một vụ đảo chánh hụt và bị phản đảo chánh, các tướng lãnh phải lên tiếng thề bồi là Quân đội Giải phóng vẫn tuyệt đối trung thành với đảng! Khi nhìn lại toàn vụ, từ chuyện tư bản nhà nước, tư bản thân tộc đến tham nhũng và tranh quyền, từ việc kiểm tra nhân sự đến tuyển chọn lãnh đạo và điều hướng dư luận, mô thức Trung Quốc hay cái gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh" chỉ là bi kịch của xã hội đen khoác áo đỏ. Xét cho cùng thì cũng chẳng khác chi tuồng hát đang tưng bừng ở Hà Nội.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 7, 2012 5:21:03 GMT 9
NHỮNG TRIỀU ĐẠI TÀN BẠO TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA Nguyễn Quý Đại Dân tộc Trung Hoa luôn hãnh diện quốc gia họ có nền văn hoá lâu đời, đất rộng dân đông. Trong tiến trình dựng nước của Trung Hoa có hai cuộc cách mạng làm thay đổi toàn diện xã hội: *Cuộc cách mạng thứ nhất do Tần Thủy Hoàng (Qin Shihuangdi) lãnh đạo vào năm 221 trước Công nguyên đã thống nhất đất nước, thành lập chế độ tập quyền về mặt chính trị thống nhất từ trung ương, xây dựng nền quân chủ chuyên chế.
* Cuộc cách mạng thứ hai, là cuộc Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ chế độ phong kiến dưới sự thống trị của các triều đại vua chúa, thành lập chế độ Cộng Hòa dân cử. Chế độ Cộng Hoà do Tôn Dật Tiên Văn (Sun Yatsen) khởi xướng và Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) tiếp tục đã thất bại. Một lần nữa Trung Hoa rơi vào chế độ cộng sản độc tài, chuyên chính vô sản, do Mao Tse-tung lãnh đạo.Những tiến trình lịch sử tóm lược Tần Thủy Hoàng (秦始皇) sinh 259-210 trước CN là vị Hoàng đế đầu tiên (der Erster Kaiser) trong lịch sử Trung Hoa, ông đã có công tiêu diệt các nước chư hầu Thời Chiến Quốc, thống nhất Trung Hoa lập nên một đế quốc rộng lớn. Tuy nhiên, ông cũng được xem là bạo chúa vì chính sách cai trị hà khắc và tàn bạo của mình. Tần Thủy Hoàng trên danh nghĩa là con của Trang Trương Vương nước Tần, nhưng nhiều sử liệu cho rằng sự thực cha của Tần Thủy Hoàng là Lã Bất Vi, đem người ái thiếp của mình đã có thai dâng cho một thái tử, Thái tử yêu thích và kết hôn lúc thái tử lên ngôi, người ái thiếp đó trở thành hoàng hậu khi sinh con là hoàng tử, đó là hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Lã Bất Vi từ một thương nhân và sau trở thành tướng quốc nước Tần. * Tần Thủy Hoàng cai trị một cách độc tài, không chú trọng đến nhân đức, ân nghĩa, trong một thời gian dài không tha tội cho ai, không để ý đến giáo hóa hoặc tuyên truyền cho dân thấu hiểu. Tần Thủy Hoàng tính bướng bỉnh, gàn dở tự đắc, muốn gì được nấy, tự cho rằng từ xưa đến nay không ai bằng mình, từng ra lệnh đốt kinh thi, kinh thư, sách vở trong vòng 30 ngày! Chôn sống 460 người ở Hàm Dương vì không cùng quan điểm. Lã Bất Vi đã bị chính Tần Thuỷ Hoàng con ruột của mình xử tử.. Tần Thủy Hoàng là nhà độc tài muốn đi ngược lại tạo hóa, sai người đi tìm thuốc để được trường sinh bất tử. Lúc còn sống cho xây lăng mộ tốn kém, khu lăng mộ từ trên xuống dưới có ba tầng: trên cùng là ngoại cung, tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung, nằm ở phía Bắc núi Ly Sơn (Lintong) thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi), cách Tây An 50 km về phía Đông. Trên mộ bao bọc đắp đất cao 76 m, từ Nam đến Bắc dài 350 m, từ Tây sang Đông rộng 354 m. Trên mặt đất chung quanh lăng tẩm còn có hai lớp tường thành, diện tích thành bên ngoài là 2 km² có cửa. Giữa hai lớp thành có các giác lâu, cung tẩm, nhà ở... Bên dưới mặt đất là địa cung hình chữ nhật, dài 460 m từ Nam sang Bắc, rộng 392 m từ Tây sang Đông, bốn phía có tường bao bọc cao 27 m, dày 4 m, bốn phía đều có cửa. Tổng diện tích địa cung là 18.000 m². Hành động tàn ác hơn là những người thợ làm máy và cất giấu châu báu dưới mộ phần, sợ họ tiết lộ việc lớn nên sau khi cất giấu xong Tần Nhị Thế (con trai Tần Thủy Hòang) sai đóng đường hầm, chôn sống những người thợ và người cất giấu không sao thoát ra được. Sau đó trồng cây, trồng cỏ lên trên ngụy trang thành cái núi... * Tôn Dật Tiên (孫逸仙), còn gọi là Tôn Văn hay Tôn Trung Sơn (孫中山), (1866-†1925) là nhà cách mạng lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, lật đổ triều đại Mãn-Thanh và khai sinh nước Trung Hoa Dân Quốc theo chủ nghĩa Tam dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc" Ngày 01.01.1912, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống đầu tiên tại Nam Kinh (Nan-ching). Nhưng phải từ chức vào tháng 3.1913 nhường chức này cho Viên Thế Khải: 袁世凱(1858-†1816) là đại thần cuối thời nhà Thanh với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa. Nhưng khi chiếm được quyền lực, Viên Thế Khải đã phản bội, đàn áp lực lượng cách mạng, lợi dụng cả triều đình nhà Thanh và cả những người Cộng hòa Cách mạng Tân Hợi khởi đầu bởi lòng dân Trung Hoa phẫn nộ trước nạn tham nhũng của triều đình Mãn-Thanh, bởi sự bất lực của Nhà Thanh khi đối đầu với các cường quốc Tây Phương: Anh, Pháp, Hoà Lan, Đức, Nhật, Bỉ, Nga, đang xâu xé Trung Hoa và chia nước Trung Hoa ra nhiều vùng. Khi vua Hàm Phong (Xianfeng) bệnh sắp qua đời, biết trước rằng sau này bà Từ Hi (1835-†1908) sẽ là một tai họa cho nhà Thanh nên trước khi chết đã để lại di chúc bảo phải giết Từ Hi đi, nhưng viên thái giám Lý Liên Anh cho bà hay rồi hủy di chúc này, giúp đỡ bà đưa Đồng Trị (Tongzhi) lên ngôi. Lý Liên Anh từ đó thành sủng thần của Từ Hi, tham ô, làm loạn trong cung. Triều đình nhà Thanh do Từ Hi Thái Hậu (Kaiserin Witwe Civi) nhiều tham vọng, quyết đoán và độc tài chuyên quyền nhiếp chính khi con trai là Đồng Trị (1856-†1875) lên ngôi. Nhưng vua Đồng Trị có khuynh hướng cải cách, ảnh hưởng tư tưởng Lương Khải Siêu. Đi ngược lại chủ trương của Thái Hậu dù là con đẻ nhưng Thái hậu không dung tha, để rồi vua Đồng Trị phải chết trong nghi án? Từ Hi lập con của một hoàng thân lúc 4 tuổi lên ngôi niên hiệu Quang Tự (1869-†1908) Quang Tự thực sự cầm quyền (từ năm 1889); Thái hậu Từ Hi lui về nghỉ ở Di Hòa viên 和园/頤和園, dĩ nhiên vẫn theo dõi hành động của ông. Viên Thế Khải giúp Từ Hi thái hậu phá hoại phong trào Duy Tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu liên kết với vua Quang Tự (Guangxu). Từ Hi tuyên bố rằng Quang Tự bệnh nên bà phải tham chính trở lại, và đem giam Quang Tự ở Doanh Đài, trong hồ Tây Uyển. Kẻ thù của Từ Hi Thái Hậu là Tôn Văn, Lương Khải Siêu /Liang Qi Shao (1873-†1929), Khang Hữu Vi/Kang Youwei (1858- †1927) nhưng họ đã trốn thoát được. Trước khi Thái Hậu sắp chết đã ra lệnh giết vua Quang Tự bị chôn sống dưới bàn tay thái giám Lý Liên Anh. Tội ác của Từ Hi Thái Hậu cũng là điểm báo chiếc ngai vàng nhà Thanh đến hồi sụp đổ. Đưa Phổ Nghi (Pu Yi) mới 2 tuổi là con của Hàm Thân Vương lên ngôi năm 1908. Là vị hoàng đế cuối cùng (der letzte Kaiser) phải thoái vị năm 1912. Ngày 10.10.1911 Đồng Minh Hội khởi nghĩa ở Vũ Xương (Wuchang). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng và lan rộng khắp nước, dù trước đó (ĐNH lãnh đạo 10 cuộc khởi nghĩa chống Mãn Thanh, từng bị thất bại 72 liệt sĩ bị giết ở Hoàng Hoa Cương (Huanghuagang). Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng trước phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, triều đình Mãn-Thanh có nguy cơ bị tiêu diệt, nhờ con cáo già Viên Thế Khải (Yuan Shikai) "ra tay giúp nước". Viên Thế Khải chủ trương đàm phán với phe cách mạng và đặt điều kiện với cách mạng, nếu được tôn làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc thì ông sẽ ép vua Thanh thoái vị, bằng không thì sẽ giúp triều đình nhà Thanh trấn áp cách mạng đến cùng. Điều kiện của Viên Thế Khải đặt ra được chấp nhận. Cuộc cách mạng Tân Hợi chấm dứt vào ngày 12.02.1912 khi Long Dụ Hoàng Hậu thay mặt Vua Phổ Nghi ký Thanh Đế Thoái Vị Chiếu Thư Tôn Dật Tiên được bầu làm Tổng thống lâm thời (1.1.1912) Trung Hoa Dân Quốc, cho đến ngày 10.03.1912. Viên Thế Khải được thay thế. Sau khi nắm quyền thâu tóm quyền lực, Viên Thế Khải loại bỏ các dân biểu Quốc Dân Đảng và giải tán Quốc hội, thiết lập nền thống trị độc tài của tập đoàn đại tư sản, quan liêu, quân phiệt, phong kiến, chủ chuẩn bị dư luận lên ngôi hoàng đế.. Tháng 8.1912, trên cơ sở Đồng Minh Hội, Tôn Dật Tiên thành lập một tổ chức mới là Quốc Dân Đảng để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên, khắp nơi phong trào cách mạng nổi lên mạnh mẽ ở các tỉnh miền Nam liên kết với nhau đánh bại quân của Viên Thế Khải, vì lo sợ nên Viên sinh bệnh chết ngày 06-6-1916. Tưởng giới Thạch trở thành lãnh tụ Trung Hoa QDĐ tìm cách loại bỏ phe cộng sản ra khỏi đảng, gây ra cuộc Nội Chiến quốc-cộng (Guomindang & Kommunisten) kéo dài tới Thế Chiến thứ 2, lúc đó ông phải chịu hợp tác với phe Cộng để chống Nhật. Cho đến năm 1949 Hồng quân chiến thắng, đánh bại quân của Quốc Dân Đảng Khúc quanh lịch sử đưa đến chế độ cộng sản *Mao Zedong 毛澤東 Mao Tse-tung (1893-†1976)gốc là phụ táquản thủ thư viện, là thành viên thành lập đảng cộng sản Trung Hoa, năm 1921 tại Thượng Hải (Shanghai). Lúc mới thành lập họ liên kết với Quốc Dân Đảng(QDĐ) của Tưởng Giới Thạch để hoạt động. Mao theo chủ trương riêng dù áp dụng lý thuyết Mác-Lê. Mao tự ví mình như Tào Tháo và coi Tưởng Giới Thạch như Lưu Bị cho rằng mình và Tưởng là anh hùng trong thiên hạ, nhưng Mao sẽ đánh bại Tưởng như Lưu Bị thất bại dưới tay Tào Tháo trong thời Tam Quốc. -Năm 1927 Mao về tỉnh Hồ Nam (Hunan) quê hương của ông, dựa vào lực lượng chính là nông dân liên kết với một số trí thức cũng như công nhân, chủ trương lấy nông thôn bao vây thành thị. Mao được bầu làm lảnh tụ của đảng CS Trung Hoa. Cuộc chiến Quốc Cộng của Trung Hoa càng ngày càng thuận lợi cho phe của Mao - Năm 1947 Mao rút khỏi Diên An và nghĩ ra lối nghi binh, không xuất hiện trước công chúng cho đến tháng 5.1948 Mao thiết lập bộ tư lệnh Hồng Quân, cắt đứt mọi đường tiếp tế cho Bắc Kinh rồi chiếm Mãn Châu (Manzhou), Thiên Tân (Tientin)... Cuối cùng quân QDĐ của Tưởng Giới Thạch bị Hồng quân của Mao đánh bại trong trận Hoài Hải.. Đến ngày 22.01.1949 chính quyền QDĐ đầu hàng ở Bắc Kinh. Ngày 27.5.1949 Thượng Hải bị Hồng quân chiếm. Đầu tháng 5.1949 gia đình họ Tưởng và thân tín của chính quyền QDĐ cùng 1,5 triệu người bỏ lục địa chạy sang đảo Đài Loan/Taiwan [1] Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa chọn Trường An (bây giờ Tây An) làm kinh đô. Tôn Dật Tiên chọn Quảng Châu (Guangzhou). Đời Mao chọn thủ đô Bắc Kinh (Peking) từ năm 1949 thành lập nước Trung Hoa CS ngày 01.10.1949 gọi là "Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa /Volksrepublik China" đến nay đã được 60 năm. Mao đã trở thành một hoàng đế của thế kỷ thứ 20 của Trung Hoa, không khác gì dưới thời Tần Thuỷ Hoàng! Triều đại của Mao -1950 đưa quân tham chiến tại Triều Tiên. Cải cách ruộng đất/ Bodenreform một cuộc cách tàn bộ, Mao ra lệnh giết hàng triệu địa chủ, phú nông. Cuộc cải cách đẫm máu kéo dài cho đến năm 1952. Theo tài liệu từ 3 đến 15 triệu bị kết tội "phản cách mạng". Đây là những nạn nhân đầu tiên của cuộc đấu tranh giai cấp trong chế độ cộng sản Trung Hoa, năm 1951 đưa quân chiếm Tây tạng (Tibet).. -1956 chủ trương "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng/Hundert - Blumen Kampagne / Bách hoa tề khai, bách gia tranh minh/" nghe qua hấp dẫn cho tự do phê bình, nhưng thực tế đó là cái bẫy Mao đưa ra để thanh trừng những thành phần có tư tưởng đối lập. Ai đi ngược lại giáo điều của Mao đều bị giết chết thảm thương tàn bạo hơn thời hoàng đế Tần Thủy Hoàng. -1958 Mao ra lệnh thành lập "nhân công xã" sống tập thể và phát động chiến dịch "Đại nhảy vọt/ Grosse Sprung nach vorn" canh tân đất nước. Việc nầy giống như bắt con rùa phải chạy như con thỏ, hay "biến sỏi đá thành cơm". Sinh hoạt ngành nông nghiệp theo truyền thống gia đình bị biến mất, các xã viên được trả công bằng sức mình đổ ra một tô canh hay bộ quần áo lao động, làm việc tập thể không có đời sống riêng tư, phải ăn ngủ tại công trường nhà máy...Đạo đức của con người bị ảnh hưởng, vì cái bao tử bị hẹp lại. Mao chủ trương sử dụng dân số khổng lồ để đưa Trung Hoa thành một cường quốc sản xuất thép, nhanh chóng chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu nông nghiệp là chính, sang một xã hội công nghiệp cộng sản hiện đại. Chính sách này đã gây ra một đại thảm họa kinh tế, đưa đến nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử Trung Hoa, khiến hơn 40 triệu người chết đói. Người ta ãn bất cứ thứ gì, hầu như nhà nào cũng có người chết. Xác chết nằm la liệt khắp nơi, người ta bắt đầu ãn thịt người, ngay cả người còn sống và thân nhân của mình"! Ngày nay sách giáo khoa gọi thời kỳ đó là "Ba nãm thiên tai". Đến cuối năm 1958 kế hoạch của Mao được đánh giá sai lẩm trong hàng ngũ đảng. Nhưng Mao tiếp tục mắc hàng loạt các sai lầm khác "trời không dung, đất không tha" từ cuộc Đại Nhảy vọt trong thời gian giữa 1958 và 1962. Đại Cách mạng Văn Hóa (CMVH) 1966-1976/ Grosse Proletarische Kulturrevolution. Mục đích của Mao khi đó là sử dụng CMVH để giành lại quyền kiểm soát đảng, vì quyền lực của Mao đã bị sút giảm -1966 Mao cho tổ chức đoàn Hồng Vệ Binh (HVB) để đem "ngọn đuốc cách mạng đến khắp nơi tại Trung Hoa và theo đuổi mục tiêu cách mạng đến cùng.." Hồng Vệ Binh là thứ vũ khí của Mao trong cuộc Cách Mạng Văn Hoá (CMVH). Sau cuộc biểu tình ngày 18.8.1966, khởi động phong trào gây đau khổ tủi nhục cho người dân Trung Hoa của thế kỷ thứ 20. Nhìn lại lịch sử trong cuộc cách mạng được gọi là "văn hoá" của người không có văn hoá như Mao. Các nhà lãnh đạo văn hoá, các di sản văn hoá bị tấn công trước tiên. Sách vở trong thư viện và tại tư gia bị tịch thu đem đi đốt. Các viện bảo tàng bị đóng cửa, các di tích lịch sử lâu đời bị phá phách... Một cuộc tàn phá lịch sử Trung Hoa giống như đời Tần Thuỷ Hoàng! Trong cuộc cách Mạng Văn Hoá, không những người ta chỉ tấn công đấu tố người ngoài, mà ngay trong đạo đức gia đình cũng bị phá huỷ, nhiều trường hợp xảy ra cảnh con chống lại cha mẹ, đấu tố người thân, gây cảnh đau lòng cho hàng triệu người. Con cái từ bỏ gia đình theo phong trào gia nhập HVB chống lại gia đình... Người ta ước tính có tới trăm triệu người trở thành nạn nhân bị tổn thương danh dự, hơn 30 triệu người bị giết. Các nhà văn viết về những thảm kịch gia đình xảy ra trong cuộc CMVH họ gọi đó là "nền văn học vết thương" Các đồng chí một thời chiến đấu với Mao bị cách chức ám hại như: Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi; 1898-1969), Bành Đức Hòa (Peng Dehuai 1898-1974).... không ai dám lên tiếng phê phán cuộc Cách mạng VH. Mao dùng bàn tay của Giang Thanh (Jiang Qing 1914-†1991) lãnh dạo trong phong trào CMVH và nhóm Tứ Nhân Ban / Viererbande gây tang tóc cho dân tộc Trung Hoa... Cho đến thời Đặng Tiểu Bình/Deng Xiaoping 鄧小平 (1904-†1997) làm cuộc cách mạng "Tứ Hiện Đại Hóa của Trung Quốc" đã đưa Trung Hoa bước sang giai đoạn mới phát triển về kinh tế, nhưng vẫn đóng chặt cánh cửa tự do và nhân quyền. Nhưng niềm khao khát Dân chủ của nhân dân Trung Hoa họ phải tiếp tục trả bằng máu. Trong phong trào đông đảo sinh viên, công nhân tham gia biểu tình ở Thiên An Môn đòi hỏi tự do dân chủ, từ ngày 15.04.1989 đến 04.06.1989 dù chỉ là cuộc đấu tranh bất bạo động, đã bị Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho Quân đội dùng xe tăng bắn giết. Hơn 7000 người bị giết, trên 10.000 bị thương và hàng chục ngàn bị bắt đánh đập tra tấn ...(Hình tại Thiên an Môn) Trung Hoa càng bành trướng tham vọng nhiều hơn nhưng thất bại. Họ đã gây ra ba cuộc chiến tranh biên giới (năm 1962 với Ấn Độ; 1969 với Liên Xô và 1979 với Việt Nam). Dân tộc Việt Nam không thể quên cuộc xâm lược tháng 2.1979 của Trung Hoa vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam. Đảng cộng sản Trung Hoa là kẻ gây tội ác đối với người Việt chúng ta. Họ thực hiện mộng bá quyền xâm lăng vùng biển các nước ở Á Châu, đã chiếm các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Trong thời gian qua tàu Trung Hoa xâm nhập vùng biển của Việt Nam và bắt cóc đánh đập, cướp tài sản trên ghe của ngư dân đang đánh bắt cá trong lãnh hải Việt Nam và đòi tiền chuộc, đó là hành động hèn mọn của Hải quân Trung Hoa như bọn cướp biển. Đảng cộng sản Trung Hoa đàn áp các dân tộc Tibet và Tân Cương ( 新疆 维吾尔 自治区 ) cấm hoạt động của môn phái Pháp Luân Công (法輪功 Fulun Gong) là môn thể dục dưỡng sinh "tu dưỡng cơ thể và tinh thần". Cho đến nay có hơn 100.000 người thực tập Pháp Luân Công bị bắt nhốt vào các trại học tập cải tạo... Chỉ cần bị nghi ngờ là thành viên Pháp Luân Công là đã có thể bị bắt giam 3 năm trong các trại lao động mà không được xét xử, họ bị tra tấn dã man, báo chí Tây phương tường thuật có 3163 trường hợp chết vì tra tấn được ghi nhận và chứng minh, phỏng đoán có hơn 7000 người đã bị hành hạ đến chết. Trong khi đó tại Trung Hoa chính quyền tiếp tục bưng bít tội lỗi, những sai lầm của Mao để đánh bóng chế độ, xây lăng để thờ lạy Mao như một vị Thánh. Tài liệu tham khảo Trung Quốc sử cương soạn giả Phan Khoang NxB Đại Nam Sử Ký Tư Mã Thiên nhà XB Văn học Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây Giang Thanh Mao Trạch Đông tình dục và quyền lực nguyễn vạn Lý NxB Đại Nam Từ Hi Thái Hậu Mông Bình Sơn NXB Xuân Thu Lexikon der Geschicte NxB Facktum & Wikipedia (Hình trên internet) -------------- [1] - Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, và Khổng Tường Vi không những là kẻ thù của phe cộng sản, mà ngay cả Quốc dân đảng cũng căm thù ba người nầy, và họ là nguyên nhân đưa tới sự thất bại của quốc dân đảng TH. Tống Tử Văn là anh ruột Tống Mỹ Linh vợ Tưởng Giới Thạch, còn Khổng Tường Huy lấy Tống Ái Linh chị của Tống Mỹ Linh. Nhóm tam đầu chế hối mại quyền thế..làm suy yếu tiềm năng của QDĐ phải thua phe CS.Trong ba chị em họ Tống chỉ có Tống Khánh Linh vợ Tôn Dật Tiên được nhân dân Trung Hoa kính trọng
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 6, 2012 4:34:42 GMT 9
Chủ nghĩa Lê-nin hợp doanh của Trung Quốc * John Lee** Chính trị vẫn là thống soái trong chính sách toàn cầu của Trung Quốc. Ngày 10 tháng 12 năm 2003, trong một diễn văn cho sinh viên đại học Harvard, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã giới thiệu cho cử tọa Mỹ luận thuyết “trỗi dậy hòa bình”của Trung Quốc. Lập luận rằng Trung Quốc là một nước nghèo tính theo thu nhập đầu người và một nền kinh tế còn lạc hậu trên nhiều phương diện, Ôn Gia Bảo khẳng định rằng quốc gia của ông cần một môi trường ổn định để trỗi dậy. Ông nhấn mạnh là Trung Quốc đang trỗi dậy trong một trật tự kinh tế tự do toàn cầu, chọn tham gia vào trật tự ấy thay vì theo chính sách khắc khổ tự cấp tự túc của thời Mao Trạch Đông. Luận thuyết “trỗi dậy hòa bình”của Trung Quốc, sau này được điều chỉnh thành “phát triển hòa bình”, dường như đã tái khẳng định điều mà các học giả danh tiếng đã nói đến trong nhiều năm qua: Mặc dù trật tự kinh tế tự do được Phương Tây thiết kế và xây dựng, nhưng đó là một trật tự mở. Những quốc gia đang trỗi dậy, dù ngoài phương Tây, vẫn có thể trở nên thịnh vượng trong môi trường cạnh tranh này mà không cần thách thức các nguyên tắc và luật lệ cơ bản của trật tự ấy. 1 Có nhận định cho rằng Trung Quốc không muốn mà cũng chẳng có khả năng ngầm phá hoại và thay đổi trật tự quốc tế hiện tại. Đó là một nhận định thuyết phục. Trong hơn hai thập kỷ qua, chính Trung Quốc là * Phỏng dịch bài “China’s Corporate Leninism” của John Lee, tạp chí The American Interest, tháng 5-6 năm 2012, tr. 36-45. ** John Lee là phó giáo sư trợ giảng, đồng thời là nghiên cứu viên theo chương trình Michael Hintze về An ninh năng lượng tại Trung tâm nghiên cứu an ninh quốc tế, Đại học Sydney. Ông cũng là một học giả tại Viện Hudson, Washington, DC. 1 Xem G. John Ikenberry, “The Future of the Liberal World Order: Internationalism After America”, Foreign Affairs (May/June 2011). quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ trật tự này và, vì nhiều lý do thực tế, có vẻ như họ sẽ tiếp tục chấp nhận trật tự ấy trong tương lai trước mắt. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Singapore và Úc, đồng thời cũng là bạn hàng Châu Á lớn nhất của Mỹ và Ấn Độ, thế nên Trung Quốc khó có thể chấp nhận hi sinh đứng ngoài thể chế thương mại toàn cầu này. Quan trọng hơn, Trung Quốc chưa triển khai được một quan niệm nào khả dĩ thay thế trật tự hiện tại ̶ tất nhiên đó phải là một quan niệm mà, về lâu dài, các quốc gia khác cũng sẽ chấp nhận hoặc rập khuôn. Cũng khó mà tưởng tượng Trung Quốc có thể áp đặt một trật tự mới trên các nước láng giềng của họ. Mỹ vẫn là một sức mạnh quân sự vượt trội ở châu Á và một đối tác an ninh được hầu hết các nước quan trọng trong vùng ưa chuộng. Rõ ràng là về mặt chiến lược thì Trung Quốc vẫn còn là một thế lực đang trỗi dậy nhưng cô lập, dù khả năng quân sự của họ càng ngày càng lớn. So với lập luận trên, thì lập luận cho rằng Trung Quốc sẽ quyết định tăng hội nhập vào trật tự kinh tế tự do toàn cầu, hoặc rằng Trung Quốc có thể bị thuyết phục để theo con đường ấy, thì yếu hơn rất nhiều. Có người khẳng định rằng việc Trung Quốc hội nhập vào trật tự kinh tế quốc tế tự do 2 là một xu hướng tất yếu, song khẳng định này phản ánh nhiều nhầm lẫn nghiêm trọng về thế giới quan và các ưu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Những người khẳng định như thế không thấy những ý nghĩa sâu xa của thể chế cai trị hiện nay của Trung Quốc. Họ cũng không thấy những áp lực chính trị và cấu trúc chi phối ĐCSTQ, những áp lực bắt buộc ĐCSTQ phải “bảo đảm”cho các doanh nghiệp nhà nước có được những thành tích kinh tế nhất định. Họ cũng bỏ qua thực trạng các tương tác chính trị, kinh tế và xã hội giữa những chủ thể trong một chế độ mà Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và khống chế. Cơ bản, vấn đề là: Một hệ thống trong đó các chủ thể cạnh tranh với nhau theo quy luật, một sự cạnh tranh mà động lực là thương mại, thì sẽ tìm cách giới hạn vai trò và khả năng can thiệp vào đời sống kinh tế từ nhà nuớc (và các đảng phái chính trị). Hệ thống ấy sẽ tách biệt –trong chừng mực có thể ̶hoạt động kinh tế ra khỏi những can thiệp chính trị của nhà nước, và nó cho phép logic của lợi ích thương mại, thay vì lợi ích chính trị, được hiện thực tối đa. Hệ thống ấy tôn trọng những thị trường có quy củ, nhưng là những thị trường đích thực. ĐCSTQ cuối cùng thì có những mục đích ngược lại . Tất nhiên, thành quả của cạnh tranh kinh tế cũng đem lại lợi ích chính trị tiềm ẩn cho chính phủ các quốc gia dân chủ tự do. Nhưng ở một quốc gia chuyên chế như Trung Quốc thì khác: những chỉ tiêu kinh tế thì đã được định trước, và làm thế nào để đạt đuợc những chỉ tiêu ấy 3 là vấn đề cốt lõi có tính sống còn cho chế độ. Một sự hội nhập thực sự vào trật tự tự do toàn cầu sẽ bắt buộc Trung Quốc điều chỉnh sâu rộng hệ thống kinh tế - chính trị, cũng như cách thức điều hành quốc gia của họ. Những sự điều chỉnh này sẽ làm suy yếu chí tử ĐCSTQ, làm lung lay tận gốc những thoả hiệp vốn đã mong manh giữa Đảng và các tầng lớp kinh tế và xã hội tinh hoa. Bởi lẽ việc duy trì quyền lực vẫn là ưu tiên số một của ĐCSTQ, các chủ thể kinh tế Trung Quốc ̶đặc biệt là những chủ thể do nhà nước trực tiếp sở hữu ̶ vẫn là công cụ ngầm, không chỉ cho phương thức quản trị quốc gia mà còn để bảo vệ an ninh cho chế độ trong “thế giới quan Lê-nin-nít”theo kiểu hiện nay của ĐCSTQ Vì các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc phải đối đầu với nhiều chướng ngại đáng kể (về cách vận hành lẫn văn hóa) để có thể thành công trên thị trường thế giới, ĐCSTQ khó lòng phó thác vận mệnh các doanh nghiệp này vào tay các vị “thần”của cạnh tranh, năng lực và may rủi, trong một hệ thống thị trường xô bồ, song có quy luật. Nói cách khác, trong nhận thức của ĐCSTQ thì cái giá phải trả về chính trị, kinh tế và chiến lược của sự hội nhập thực sự vào trật tự kinh tế tự do toàn cầu sẽ cao hơn rất nhiều, so với những chi phí (mà phần lớn là phí giao dịch 4 ), của sự “ăn theo miễn phí”(free riding) trong trật tự đó. Những cột trụ của trật tự kinh tế tự do toàn cầu Dễ thấy rằng cột trụ của trật tự kinh tế quốc tế tự do hiện nay gồm hai hệ thống: một là một hệ thống mà đặc tính là cạnh tranh và tranh chấp được giải quyết theo luật định, và hai là các hệ thống kinh tế, thương mại mở. Song, các luật định ấy ảnh hưởng ra sao đến vai trò của nhà nước, đến sự phân tán quyền lực, đến các chính sách đối nội lẫn đối ngoại, thì rất ít khi được bàn đến và càng ít được hiểu rõ. Trong trật tự kinh tế tự do, các chính phủ phải cam kết duy trì (i) một hệ thống luật lệ kinh tế toàn cầu, (ii) một khuôn khổ đã được thỏa thuận về sự hợp tác và cạnh tranh kinh tế, và (iii) các quy trình giải quyết tranh chấp mà kẻ thắng người thua không do sắp đặt trước. Lấy một ví dụ, trách nhiệm tuần canh của Hạm đội thứ Bảy của Mỹ trên vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương không ảnh hưởng gì đến sự vận hành và kết quả của các hoạt động kinh tế trong vùng. Washington có thể sử dụng sức mạnh quân sự của mình một cách chính đáng khi bảo vệ các công dân Mỹ ở nước ngoài, nhưng không thể dùng sức mạnh ấy để ép buộc các chính phủ hoặc công ty ngoại quốc thực hiện những mục tiêu kinh tế của Mỹ. Đã qua rồi thời kỳ chiến tranh vì thương mại; và làm sao để chấm dứt những cuộc chiến như thế chính là một trong những trụ cột ý thức hệ của cuộc Cách mạng Mỹ. 5 Bằng cách trông chừng hệ thống, thay vì chính họ can dự vào những cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại, các chính phủ tự ý không dùng quyền lực của họ để đạt được những thành quả kinh tế nào đó. Nói cách khác, trong trật tự kinh tế tự do quốc tế, có sự phân biệt rõ ràng giữa chủ thể chính trị và các chủ thể kinh tế. Đặc tính căn bản của trật tự chính trị nội bộ ở các quốc gia dân chủ tự do hiện nay là sự tách biệt các chủ thể chính trị, kinh tế, pháp luật và hành chính, và theo sau đó là sự phân tán quyền lực nhờ sự tách biệt này. Người dân có thể kiện nhà nuớc, mà thắng bại trên pháp lý là do phán quyết của các tòa án và thẩm phán độc lập. Thể hiện đặc trưng và tối thượng của một quốc gia pháp trị trên thực tế đối với mọi chính thể là khả năng thay thế trong hoà bình chính phủ đương nhiệm nếu chính phủ này thất cử và buộc phải bàn giao tất cả tài sản quốc gia cho chính phủ kế nhiệm. Đó là những cấu trúc và tập quán xử thế tối cần cho sự vận hành trung thực của một trật tự tự do, trong nội bộ một nước cũng như giữa các nước với nhau. Trên phương diện toàn cầu, trật tự này có thể có được nhờ một sự kiện căn bản, đó là các chính phủ tự nguyện tham gia vào cách sắp xếp của trật tự ấy (kể cả những định chế của nó, chẳng hạn như Tổ chức Thương mại Thế giới). Không phải ngẫu nhiên mà những người bảo trì trật tự tự do ở các quốc gia phương Tây cũng có những kỳ vọng tương tự đối với trật tự tự do toàn cầu. Tuy nhiên, không như sự suy diễn thường có của những người phương Tây đối với các thành viên tham gia trật tự toàn cầu, trật tự trong nước không nhất thiết phải đi đôi với trật tự quốc tế. Người phương Tây có thể không ý thức rõ về sự song trùng này bởi lẽ, đối với họ thì sự song trùng ấy hầu như là đương nhiên, thế nhưng giới lãnh đạo ĐCSTQ ý thức rất rõ sự song trùng này và họ rất hiểu hệ quả đáng lo ngại (đối với họ) của liên hệ ấy. Hiển nhiên, một quốc gia chuyên chế vẫn có thể tham gia vào trật tự toàn cầu tự do mà không phải chịu hậu quả có tính quyết định đến chế độ trong nước. Nhật Bản vào cuối những năm 1940, Hàn Quốc, Đài Loan trong những năm 1980, có những chính quyền chuyên chế mới nổi lên trong khuôn khổ của trật tự tự do sau Thế chiến II. Tuy vậy tất cả các quốc gia đó đều nép mình trong liên minh với phương Tây và trông cậy vào cái ô an ninh của Mỹ. Điều này có nghĩa là các chính phủ độc tài ở những quốc gia ấy dễ bị ảnh huởng của Mỹ về cải cách kinh tế, chính trị, hơn là Trung Quốc ngày nay rất nhiều. Một phần của ảnh hưởng này cho thấy, vào cuối những năm 1970, tình trạng thực thi pháp quyền, bảo hộ sở hữu trí tuệ, bản quyền kinh doanh và các bộ máy hành chính độc lập đã được xây dựng vững chắc ngay trong lòng các quốc gia chuyên chế ấy, và còn hơn của Trung Quốc hiện nay nhiều. Một khi tiến trình tự do hóa thực sự diễn ra ở các nước đó thì họ đã thực sự hội nhập vào trật tự tự do ấy, và mạnh tiếng ủng hộ nó. Hoàn cảnh và diễn biến ở các quốc gia đó lúc ấy là hoàn toàn khác với Trung Quốc ngày nay. Cuối cùng, còn một quan điểm nữa cũng rất sai lầm, đó là quan điểm cho rằng, đơn giản, Trung Quốc đang theo đuổi “mô hình phát triển kiểu Đông Á”. Với sự tiến hoá của mô hình kinh tế của các quốc gia Đông Á, những chướng ngại vào quá trình hội nhập trật tự tự do đã giảm đi nhiều. Với cơ cấu chính-trị-là-trên-hết của mô hình kinh tế - chính trị Trung Quốc, Trung Quốc càng ngày càng là thù địch đối với những yếu tố then chốt mà sự hội nhập vào trật tự tự do đòi hỏi. ĐCSTQ rất không sẵn sàng hội nhập thực sự và thích ứng với trật tự kinh tế tự do toàn cầu vì sợ điều này sẽ làm xói mòn chí tử chiến lược trong nước của họ, đó là chiến lược bám giữ quyền lực. Hai giai đoạn cải cách khác biệt của Trung Quốc Chúng ta có thể hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa chính sách trong nước và định hướng quốc tế của Trung Quốc nếu chúng ta xem kỹ bản chất những cải cách sau Mao. Những cải cách này có thể được chia làm hai giai đoạn: trước biến cố Thiên An Môn từ 1978-89, và sau biến cố Thiên An Môn từ 1991 đến nay. (a) Giai đoạn đầu bắt đầu với Đặng Tiểu Bình vào tháng 12/1978. Trước năm 1989, sự bùng nổ tự phát, không theo kế hoạch, những sáng kiến tư nhân ở nông thôn Trung Quốc phần lớn là hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất, được các quan chức khuyến khích và đuợc cả chính sách nhà nước ủng hộ. Nông dân được khuyến khích tự quyết định cách sử dụng phần đất mà họ được giao (dù vẫn là sở hữu của nhà nước) và được phép bán nông sản ở giá thị trường sau khi đạt hạn mức sản xuất. Cuộc cải cách ruộng đất này, dù hạn chế, đã có một kết quả tốt, đó là sự gia tăng tự phát các doanh nghiệp cỡ nhỏ dưới tên “công nghiệp hương trấn” 6 (CNHT), phần lớn là ở nông thôn Trung Quốc. CNHT là kết quả của sự thông đồng giữa các quan chức địa phương và lao động nông thôn. Các quan chức địa phương được khích lệ để dẹp bỏ các rào chắn quan liêu vì CNHT đóng góp vào ngân sách địa phương. Như Đặng Tiểu Bình đã nhìn nhận vào năm 1987: “kết quả đạt được là cái mà tôi và các đồng chí khác chẳng ai có thể dự đoán trước; nó như từ trên trời rơi xuống”. 7 Sử dụng gần 30 triệu người năm 1980 các CNHT đã tạo việc làm cho khoảng 140 triệu người vào đầu những năm 1990. Điều đáng nói là các CNHT đã gây một cú hích cho tiến trình công nghiệp hóa của Trung Quốc. Trong thập kỷ 1980 mức lương trung bình và thu nhập hộ gia đình đã tăng cùng tốc độ, hoặc nhanh hơn, tốc độ tăng trưởng GDP. Một giai cấp trung lưu độc lập hình thành ở Trung Quốc. Thực vậy, 80% trong khoảng 400 triệu người đã thoát vòng nghèo đói là từ năm 1978 đến năm 1989. Do sự xuất hiện của Trung Quốc như là một trung tâm thương mại khu vực và toàn cầu, nhiều người Mỹ đã gắn ý nghĩa đặc biệt cho chuyến đi Nam Trung Quốc 8 của họ Đặng sau biến cố Thiên An Môn năm 1992 để thăm viếng các đặc khu kinh tế thành công nhất, chẳng hạn như Quảng Đông và Thẩm Quyến. Không còn nghi ngờ gì nữa, chuyến đi này đã thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Châu trong vai trò là trung tâm của ngành công nghiệp chế tạo Trung Quốc, đặc biệt là khu vực xuất khẩu. Nói rộng hơn thì có nhiều người tin rằng chuyến đi xuống miền Nam (mà sau này đã được gói gọn trong cách ngôn của Đặng: “làm giàu là vinh quang”) là rất ý nghĩa để đảm bảo rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục mở cửa chứ không quay lại với tư tưởng của Mao và tình trạng tự cấp tự túc. Tuy nhiên cách hiểu này còn chưa đầy đủ. Ngay cả khi thứ chủ nghĩa cộng sản kiểu Mao đã bị dứt khoát từ bỏ thì những cuộc phản kháng dai dẳng ở các vùng nông thôn năm 1989 đã để lại di sản có nhiều ý nghĩa hơn, đó là sự trỗi dậy của “chủ nghĩa tư bản nhà nước”–một diễn biến khác hẳn những gì đã từng xảy ra ở các nền kinh tế Đông Á thành công. Các cuộc xáo trộn năm 1989 thực ra rộng lớn hơn nhiều so với nhận định của người Mỹ và những người nước ngoài khác. Đa số các nhà quan sát ngoại quốc chỉ thấy những diễn biến ở Bắc Kinh, nhưng còn hàng ngàn cuộc phản kháng trên gần 350 thành phố khác, lôi cuốn hàng triệu người tham gia. Sau một thời gian tự kiểm điểm về chính trị, ĐCSTQ đã quyết tâm thay đổi sách lược hành động; tư duy của Đảng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự sụp đổ của bức tường Bá Linh và sau đó là sự sụp đổ từ bên trong của Liên Xô. Khi các lãnh đạo và học giả Trung Quốc phân tích tình hình, họ kết luận rằng ngoài việc phải tiếp tục duy trì bộ máy đàn áp rộng lớn của Đảng, họ cũng phải buộc chặt an sinh tương lai của tầng lớp trung lưu thành thị với hệ thống độc đảng của ĐCSTQ. Thành phần trung thành của Đảng nhận định rằng trong một xã hội nhanh chóng công nghiệp hóa thì vận mệnh của chính quyền chuyên chế sẽ tuỳ thuộc vào tầng lớp ưu tú ở thành thị. Bài học lớn của các cuộc cách mạng Đông Âu và Liên Xô mà Bắc Kinh rút ra là, nếu một chế độ chuyên chế trở nên xa rời với thành phần uu tú của chính chế độ ấy thì chế độ ấy sẽ có nguy cơ sụp đổ (b) Từ giữa những năm 1990 trở đi, ĐCSTQ lập một kế hoạch để giành lại những đòn bẩy quyền lực và quyền lợi kinh tế. Cơ bản, kế hoạch này bao gồm việc tiếp tục phát triển khu vực tư nhân và giảm bớt đáng kể số lượng các doanh nghiệp do trung ương quản lý, nhưng nó cũng giành hơn một chục lĩnh vực quan trọng và béo bở nhất của nền kinh tế cho doanh nghiệp nhà nước nắm vị thế thống soái. Các lĩnh vực này gồm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, hạ tầng, hóa chất, truyền thông, công nghệ thông tin và viễn thông. Mặc dù đầu tư nước ngoài được khuyến khích vào khu vực sản xuất để xuất khẩu, dòng đầu tư này bị đẩy chệch ra ngoài các lĩnh vực có tính sinh lợi cốt lõi kể trên và các khu vực nhạy cảm chính trị. Ngay cả các doanh nghiệp tư nhân trong nước của Trung Quốc cũng không được nâng đỡ, một cách cố ý, về mặt tiếp cận thị trường, vốn vay và đất đai trong các lĩnh vực cốt lõi này. Ở đây nhà nước duy trì sự kiểm soát về chính trị thông qua các doanh nghiệp nhà nước với mục đích bảo đảm sự trung thành của tầng lớp quản trị cao cấp đồng thời đem lại nguồn thu cho ĐCSTQ. Trung Quốc ngày nay có khoảng gần 150 doanh nghiệp cấp trung ương và 120.000 doanh nghiệp địa phương. Nếu tính cả các công ty con thì số doanh nghiệp nhà nước có thể gấp đôi. Khi so sánh con số này với 4 triệu công ty tư nhân thì, nhìn từ bên ngoài, Trung Quốc là một trường hợp thành công nhờ khu vực kinh tế cá thể. Thế nhưng khi nhìn gần hơn thì lại thấy sự trở lại rõ ràng của nhà nước trong nền kinh tế - chính trị Trung Quốc, căn cứ trên một số phép đo và quan sát. Một phép đo, lần theo đường đi của dòng vốn, là đặc biệt có ích vì nó cho thấy các khoản đầu tư cố định trong nước (chủ yếu trong lĩnh vực xây cất) chính là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng GDP. Từ năm 2001 đến 2008 dòng vốn đầu tư này góp phần tạo nên 40% tăng trưởng. Năm 2009 nhờ vào biện pháp kích thích kinh tế khổng lồ của chính phủ mà có tới 80 - 90% tăng trưởng được tạo ra nhờ đầu tư vốn. Con số này hiện giảm xuống còn khoảng 50 - 55%. Trung Quốc khác thường ở chỗ: các khoản vay ngân hàng, lấy từ tiền gửi của dân dồn vào các ngân hàng do nhà nước quản lý, chiếm tới gần 80% mọi hoạt động đầu tư. Đối với một nền kinh tế lớn như Trung Quốc thì nước này có thị trường vốn cổ phần rất kém phát triển. Các ngân hàng do nhà nước quản lý thống lĩnh khu vực tài chính chính thống, trong khi các ngân hàng tư nhân trong nước và ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm 2- 5% tỷ trọng. Sự thiên vị rõ rệt đối với khu vực nhà nước quản lý được thấy từ mối quan hệ giữa các ngân hàng nhà nước và các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh của Trung Quốc. Dù các doanh nghiệp nhà nước (chỉ) sản xuất 30-50% tổng sản phẩm quốc gia, chúng nhận được hơn 75% vốn đầu tư của cả nước, và con số này đang gia tăng. 9 Các doanh nghiệp nhà nước nhận được hơn 95% các khoản tiền trong gói kích thích được chi ra trong các năm 2008-09 và khoảng 85% vào năm 2010. Theo thống kê của Ủy ban Giám sát và Quản trị Tài sản Nhà nước, (gọi tắt là Quốc Tư Ủy 10 ) thì tài sản của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay chiếm hơn 66% tài sản của cả nước, năm 2003 con số này chỉ có 60%. Đây là điều ngược lại với những gì đã diễn ra ở Trung Quốc trong thập niên đầu tiên của cải cách, khi mà đa số tài sản cố định được quản trị trên thực tế bởi khu vực tư nhân mới trỗi dậy. Ngay khi nếu được xem là các doanh nghiệp “cộng đồng”đi nữa thì sự thực là khu vực kinh doanh tư nhân nhận được hơn 70% lượng vốn của quốc gia. Thực vậy, theo Cục Thống kê Trung Quốc, một phân tích kinh tế theo từng khu vực cho thấy các chủ thể do nhà nước quản lý đầu tư vào hầu hết mọi lĩnh vực ở các đô thị Trung Quốc nhiều hơn là đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân. Chỉ có một khu vực mà doanh nghiệp tư nhân khống chế là ngành chế tạo, đó cũng là khu vực mà các doanh nghiệp chuyên về chế tạo để xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các doanh nghiệp do nước ngoài sở hữu chiếm ưu thế. Hơn nữa, một điều đã được công nhận rộng rãi đó là ưu tiên chiến lược phải được dành cho các doanh nghiệp quốc doanh để chúng có thể thống lĩnh tất cả những lĩnh vực mới nổi nào được xem là sẽ quan trọng cho việc hiện đại hóa nền kinh tế Trung Quốc. Chẳng hạn, một tài liệu của Quốc Tư Ủy với tựa đề “Ý kiến hướng dẫn hỗ trợ và điều hành các doanh nghiệp có vốn nhà nước và tái tổ chức các doanh nghiệp quốc doanh”xuất bản tháng 12/2006 đã mở rộng các lĩnh vực chiến lược để bao gồm cả hàng không dân dụng, công nghiệp ô tô và tàu thủy, thêm vào danh sách khoảng một tá các lĩnh vực mà trước đó đã được chỉ định là then chốt. Theo cuốn “Ý kiến hướng dẫn”này, nhà nước sẽ vẫn nắm đa số sở hữu trong các doanh nghiệp quan trọng ở những ngành công nghiệp mới nổi nêu trên. Mặc dù Quốc Vụ Viện không chính thức phê chuẩn tài liệu này nhưng trên thực tế nó vẫn là khuôn khổ hướng dẫn các lĩnh vực mới nổi ấy. Quả thực, Kế hoạch 5 năm (2011-2015) công bố vào tháng 3/2011 đã công khai khẳng định rằng “các quán quân quốc gia” phải dẫn đạo trong “những công nghiệp chiến lược mới nổi”như năng lượng tái tạo, chăm sóc sức khỏe, công nghệ sinh học, sản xuất các thiết bị công nghệ cao, các phương tiện vận tải tiết kiệm năng lượng và công nghệ thông tin. Kế hoạch này nêu rõ rằng chính phủ sẽ “hướng vốn nhà nước vào các ngành công nghiệp phù hợp với phát triển kinh tế và an ninh quốc gia qua việc bơm vốn và rút vốn một cách có cân nhắc và hợp lý”. Các nguồn vốn đó bao gồm ngân sách nhà nước và quan trọng hơn là gồm cả những khoản cho vay từ các ngân hàng quốc doanh. Các phép đo khác cũng cho nhiều thông tin, chẳng hạn như theo Niên giám Thống kê Trung Quốc 2009 thì các chủ thể do nhà nước quản lý chiếm hơn một nửa toàn bộ quỹ lương chi trả cho người lao động ở các đô thị. Không có gì đáng ngạc nhiên, điều này phù hợp với một phát hiện khác, đó là gần một nửa số thuế mà chính phủ thu được là từ các chủ thể do nhà nước quản lý. Cuối cùng, một sự kiện làm vấn đề sáng tỏ hơn nữa, đó là hầu hết đại doanh nghiệp xuất hiện ở Trung Quốc đều là doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Tất cả, chỉ trừ khoảng một trăm trong số 2037 công ty niêm yết trên hai thị trường chứng khoán Trung Quốc, đều do nhà nước nắm đa số sở hữu. Mười công ty lớn nhất Trung Quốc xếp theo thu nhập và/hoặc lợi nhuận đều là quốc doanh. Năm 2009, hai doanh nghiệp nhà nước (China National Petroleum và China Mobile) làm ra khoản lợi nhuận lớn hơn cả 500 công ty tư nhân hàng đầu của Trung Quốc gộp lại. Thực vậy, thu nhập của 20 doanh nghiệp trung ương quản lý chiếm hơn nửa GDP hàng năm của Trung Quốc.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 6, 2012 4:46:03 GMT 9
Chính trị thống soái Như vậy, so với cái gọi là “sự phát triển chuyên chế”dưới sự lãnh đạo của nhà nước ở Châu Á sau Thế chiến II thì tầm cỡ và vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc vượt hơn rất nhiều. Chìa khoá để hiểu những sự khác biệt giữa, chẳng hạn, Bộ Ngoại thương và Công nghiệp (MITI) của Nhật, và những gì đang xảy ra ở Trung Quốc là, không như Trung Quốc, các quốc gia Châu Á khác không dùng lợi nhuận của kinh doanh để củng cố một hệ thống chính trị độc đảng. Ở các quốc gia này, quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng đã gia tốc sự nổi lên của những người tự thân và thực tài thành một tầng lớp tinh hoa kinh tế. Ở Trung Quốc thì ngược lại. Trên đây đã cho thấy sự khống chế của nhà nước trong nền kinh tế Trung Quốc, bây giờ xin minh hoạ cách mà mạng lưới tinh vi của quyền lực chính trị và kinh tế liên kết ĐCSTQ với các doanh nghiệp nhà nước. Thực vậy, cơ cấu của hệ thống kinh tế - chính trị Trung Quốc hiện nay rõ ràng là được xây dựng để bảo đảm ĐCSTQ sẽ luôn luôn là trung tâm chi phối, điều tiết mọi cơ hội trong các lĩnh vực thương mại, kinh doanh, nghề nghiệp và ngay cả xã hội. Mục đích là buộc chặt mọi đặc quyền và cơ hội của tầng lớp tinh hoa Trung Quốc với ý muốn của Đảng. Trong khi sự vận hành của một trật tự tự do trong nước hay quốc tế là được thiết kế để làm yếu đi hay ít ra cũng là để giữ ở mức độ vừa phải mối quan hệ mong muốn giữa, một bên là quyền lợi chính trị và mục tiêu của chính phủ, và bên kia là sinh hoạt kinh tế, thì chủ nghĩa hợp doanh nhà nước ở Trung Quốc lại được suy tính để thực hiện điều ngược lại. ĐCSTQ có một quan điểm, cơ bản là chủ nghĩa Lê-nin, rằng mọi chủ thể và hoạt động kinh tế phải là nhằm củng cố ảnh hưởng kinh tế và sau đó là quyền lực chính trị của chế độ. Những chủ thể và hoạt động như thế không thể chấp nhận đối lập chính trị trong bất cứ hình thức nào. Lấy cảm hứng từ Marx và Lê-nin, ĐCSTQ đã từng được định nghĩa bằng một sự căm thù có tính ý thức hệ chủ nghĩa tư bản. Thứ chủ nghĩa Marx huyên náo ấy thì đã tàn lụi lâu rồi, hạ huyệt cùng với Mao Trạch Đông và các cộng sự sát nhân của ông ta. Thế nhưng, khi chủ nghĩa Marx của Trung Quốc đã qua đi thì chủ nghĩa Lê-nin vẫn tồn tại dai dẳng, và mối liên kết doanh nghiệp nhà nước và ĐCSTQ được phát triển sau biến cố Thiên An Môn giờ đây không khác gì hệ thống đỡ đầu, một cấu trúc kinh tế-chính trị đặc trưng của các chế độ Mussolini ở Italia, Kemal ở Thổ Nhĩ Kỳ và Franco ở Tây Ban Nha. Điều này là hiển nhiên trong nhiều cách. Mặc dù các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc theo lẽ thường phải là những chủ thể sinh lời, thế nhưng rốt cuộc chúng vẫn được coi như là công cụ của chế độ. Điều này được thấy rõ từ cơ cấu chính quyền trong hệ thống Trung Quốc. Cổ phần và do đó là cả tài sản của doanh nghiệp nhà nước là do Quốc Tư Ủy nắm giữ dưới sự chỉ đạo của các Bộ hữu quan. Ngược lên trên, Quốc Tư Ủy lại nằm dưới sự lãnh đạo và phải báo cáo Quốc Vụ Viện (State Council) cơ quan hành chính và lập pháp cao nhất ở Trung Quốc. 11 Cơ cấu này được rập khuôn cho các doanh nghiệp nhà nước ở các tỉnh và địa phương cấp dưới. Thực tế là ĐCSTQ mới chính là người điều hành và nêu các yêu cầu về tài chính đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Việc các doanh nghiệp nhà nước vẫn là những công cụ của quyền lực ĐCSTQ có thể được minh họa qua mối liên hệ giữa đội ngũ quản trị các doanh nghiệp này với Đảng. Một nghiên cứu tỉ mỉ của Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) đã cho thấy các quản trị viên cấp cao của tất cả doanh nghiệp trung ương hầu hết là đảng viên cao cấp của ĐCSTQ. 12 Ban Tổ chức Trung ương có quyền bổ nhiệm trực tiếp ba vị trí chủ chốt nhất (Bí thư Đảng, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị và Tổng Giám Đốc) của 50 doanh nghiệp trung ương. Hiện nay, người đứng đầu Ban này là Lý Nguyên Triều (Li Yuancho), một uỷ viên của Bộ Chính trị. Hầu hết những người được bổ nhiệm đều là đảng viên, trong nhiều trường hợp Tổng Giám Đốc và Bí thư Đảng của doanh nghiệp là cùng một người. Nhiều người trước đây từng là quan chức đứng đầu cấp tỉnh. Tất cả những bổ nhiệm cán bộ điều hành cao cấp còn lại đều được Quốc Tư Ủy điều hành sau khi bàn thảo với Ban Tổ chức Trung ương. Cũng vậy, quy trình bổ nhiệm ở cấp cao được rập khuôn ở các doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh và địa phương. Đó là một bằng chứng không thể rõ ràng hơn về sự kết hợp giữa các ban giám đốc doanh nghiệp. Những phát hiện này cũng trùng hợp với một nghiên cứu gần đây hơn của công ty tư vấn Asianomics có trụ sở đặt tại HongKong trong báo cáo vào tháng 12/2011 nhan đề Bên trong các tập đoàn Trung Quốc. Điều tra kỹ lưỡng gốc gác của các quản trị viên cao cấp ở 10 doanh nghiệp lớn nhất Trung Quốc (9 trong số đó thuộc diện quốc doanh) và các chi nhánh của các doanh nghiệp này, báo cáo cho thấy các quản trị viên cao cấp của tất cả những doanh nghiệp đó đều là đảng viên ĐCSTQ, trong đó có nhiều người từng giữ chức vụ chính trị ở các nhiệm sở cấp tỉnh. Lần theo dấu vết ban lãnh đạo cao cấp của 20 doanh nghiệp kế tiếp lớn nhất Trung Quốc và hàng trăm công ty con của chúng, báo cáo phát hiện nhiều giám đốc và quản đốc đã từng công tác tại Ban Tổ chức của ĐCSTQ. Cuối cùng bản báo cáo kết luận rằng vai trò của chủ tịch doanh nghiệp và Tồng Giám Đốc là “đồng nghĩa với Đảng Cộng sản”. Mặc dù doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh nhau quyết liệt để giành thị phần và lợi nhuận, các Ban Thi Đua mà thành phần là những cán bộ chính trị có quyền đánh giá mức độ mà các quản trị viên cao cấp đã hoàn thành chỉ tiêu về chiến lược và thương mại của chính phủ. Các ban của Quốc Vụ Viện thẩm tra định kỳ kỹ lưỡng các doanh nghiệp mẹ để xem chúng đã thực thi các sáng kiến và chỉ thị chính sách của nhà nước đến đâu. Bởi thế, mặc dù cạnh tranh giữa các quản trị viên của doanh nghiệp nhà nước là quyết liệt, việc tăng thu nhập, lợi nhuận là tiêu chí quan trọng đối với hoạt động của họ, song thước đo dùng để đánh giá hàng ngũ quản trị viên lại được quyết định bởi những lợi ích chính trị nhiều hơn là thương mại. Để có một ấn tượng về cơ cấu của chủ nghĩa Lê-nin hợp doanh ở Trung Quốc, chúng ta có thể nhờ ký giả Richard McGregor trên tờ Financial Times: Cách tốt nhất để thấy ý nghĩa công việc (của Ban Tổ chức Trung ương) là hãy tưởng tượng một cơ quan tương đương ở Washington. Một ban giống như thế ở Mỹ sẽ giám sát việc bổ nhiệm toàn bộ nội các của chính phủ Mỹ, các thống đốc bang và cấp phó của họ, các thị trưởng ở những thành phố quan trọng, người đứng đầu các cơ quan điều tiết liên bang, các tổng giám đốc của General Electric, Exxon-Mobil, Wal-Mart và khoảng 50 công ty còn lại lớn nhất của Mỹ, các quan toà của Tối cao Pháp viện, các tổng biên tập của New York Times, Wall Street Journal và Washington Post, các ông trùm của mạng lưới truyền hình phát sóng và truyền cáp, các hiệu trưởng của trường đại học như Yale và Harvard cùng nhiều đại học lớn khác, và cả người đứng đầu những trung tâm nghiên cứu (think tank) như viện Brookings và Heritage Foundation. 13 Cuối cùng, thành phần của ĐCSTQ với khoảng 80-85 triệu đảng viên cũng nói lên nhiều điều. Công nhân và nông dân hiện nay chỉ chiếm không đến ¼ tổng số đảng viên. Thời nay các doanh nhân thành đạt, người làm công tác chuyên môn và sinh viên có bằng cấp cao chiếm hơn ¾ tổng số đảng viên. Với các sinh viên tốt nghiệp đại học mà là đảng viên thì một trong những điều đầu tiên trong lý lịch mà họ sẽ khai là số thẻ đảng. Có tới 80 tới 100 triệu người khác đã nộp đơn xin gia nhập đảng và đa phần xuất thân từ tầng lớp trung lưu và tinh hoa đầy tham vọng. Họ công khai nói về ý nguyện của họ là gia nhập ĐCSTQ để tiến thân trong kinh doanh và sự nghiệp. Những bằng chứng mang tính giai thoại ấy củng cố mạnh mẽ luận điểm cho rằng hệ thống kinh tế - chính trị Trung Quốc thời nay được thiết kế để bảo đảm ĐCSTQ luôn luôn là người ban phát mọi cơ hội, có nghĩa là tương lai của các tầng lớp tinh hoa, ít nhất là trong lúc này, được gắn chặt với tương lai của Đảng. Chủ nghĩa hợp doanh Lê-nin và trật tự tự do Năm 1997 Bill Clinton công khai ủng hộ lập luận cho rằng tự do hóa về kinh tế ở Trung Quốc sẽ chắc chắn “qua thời gian, gia tăng tinh thần tự do… cũng tất yếu như sự sụp đổ của bức tường Berlin”, và đã nói có phần táo bạo tại cuộc họp báo với sự có mặt của Chủ tịch Trung Quốc lúc ấy là Giang Trạch Dân rằng “các ông đang ở phía sai lầm của lịch sử”. Hai năm sau đó, ứng cử viên Tổng thống George W. Bush, để biện hộ cho việc buôn bán với Trung Quốc, đã tuyên bố rằng: “Tự do kinh tế sẽ tạo ra những tập quán của tự do. Và tập quán của tự do sẽ tạo kỳ vọng dân chủ”. Tổng thống Bush đã lặp lại lập luận đó vào năm 2005 khi ông ta tuyên bố rằng “làn gió tự do trên thị trường (ở Trung Quốc) sẽ làm nảy sinh nhiều đòi hỏi cho dân chủ hơn”. Gần đây nhất, Tổng thống Barack Obama tuyên bố liên quan tới Trung Quốc rằng: “sự thịnh vượng mà thiếu tự do thì chỉ là một dạng khác của bần hàn”và các chính phủ không dân chủ sẽ thất bại bởi lẽ “họ coi thường cội nguồn tối thượng của quyền lực và tính hợp pháp –đó là nguyện vọng của nhân dân.” Các vị Tổng thống Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh (và những người viết diễn văn bận rộn của họ) không phải là những người duy nhất có lòng tin ấy. Từ khi Liên Xô sụp đổ thì nhiều người Mỹ tin rằng sự tham gia của Trung Quốc vào trật tự tự do toàn cầu ắt sẽ dẫn đến việc Trung Quốc hội nhập và đồng hoá với trật tự ấy, và nhất định sẽ kèm theo việc gỡ bỏ những cấu trúc chuyên chế. Logic này giả định một sự phân ly (về lợi ích và hành động) ắt phải đến và ngày càng tăng giữa các cơ quan chính trị, kinh tế trong nội bộ Trung Quốc. Logic ấy cũng giả định rằng cuối cùng thì ĐCSTQ sẽ không thể nào ngăn chặn (hoặc là sẽ phải vô tình cho phép) sự hình thành của một giai tầng độc lập và hùng mạnh về kinh tế, và rằng điều đó sẽ làm rộng thêm cái hố giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế trong lòng Trung Quốc. Sự xuất hiện ngoài ĐCSTQ đa số những lợi ích và các nhóm lợi ích đầy quyền lực sẽ buộc trật tự chính trị chuyên chế phải dãn ra. Các suy đoán ấy dựa trên sự hiểu biết hết sức hạn hẹp về những sắp xếp kinh tế - chính trị có thể diễn ra. Đó là đặc tính của lối nghĩ xa rời bản chất của thời đại Khai sáng khi cho rằng, khả năng logic duy nhất mà theo theo đó Phương Tây đã phát triển là từ trên trời rơi xuống. Cũng là một cách nghĩ tương tự, thậm chí có phần còn sơ đẳng hơn khi khăng khăng cho rằng dân chủ và thị trường tự do là xu hướng toàn cầu không thể thiếu vắng đối với mọi cộng đồng nhân loại, bất kể kinh nghiệm lịch sử. Cách nghĩ này coi nhẹ tài khéo léo của nhân loại sáng tạo ra những lộ trình mới đi tới các điểm cuối rất khác nhau. Nó không đếm xỉa gì tới một thực tế là cơ cấu của hệ thống kinh tế - chính trị Trung Quốc ngày nay được cố ý thiết kế với mục đích đối kháng những hiệu ứng gây biến đổi do sự tham gia và cuối cùng là sự hội nhập vào trật tự tự do. Đối với ĐCSTQ, tham gia vào trật tự tự do hiện tại là cần thiết để Trung Quốc tiếp tục phát triển, nhưng họ cũng cho rằng sự tham gia đó là con ngựa thành Troa mà các nước tự do dân chủ sử dụng để làm suy yếu ĐCSTQ, đẩy nhanh sự xuất hiện một tầng lớp trung lưu độc lập và chủ nghĩa đa nguyên, và, bằng cách đó, vận động cho dân chủ ở Trung Quốc. Duy trì và tăng cường hệ thống kinh tế - chính trị do nhà nước giữ vị trí thống lĩnh vẫn là chiếc khiên hữu hiệu của ĐCSTQ để chống lại cái mà Đảng cho là sự lật đổ công khai. Phân tích này có ba hàm ý quan trọng. Nếu những dự đoán dựa trên các hàm ý ấy là chính xác thì những hàm ý ấy có thể đuợc xem như chứng cứ cho phân tích ở đây. Thứ nhất, Trung Quốc sẽ tiếp tục ngăn cấm các công ty nuớc ngoài xâm nhập vào những khu vực kinh tế mang tính “chiến lược quan trọng”. Bởi lẽ ĐCSTQ có cách nhìn nặng về xu hướng sát nhập quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, những khu vực kinh tế có ý nghĩa “chiến lược quan trọng”có thể bao gồm tất cả khu vực quan trọng cho nền kinh tế hiện nay của Trung Quốc, ngay cả khi chúng không có biểu hiện rõ rệt nào về mặt “bảo vệ lãnh thổ”. Hơn nữa, sự hoà hợp sâu xa các quyền lợi chính trị và các quyền lợi kinh tế có nghĩa là ĐCSTQ xem kinh tế qua lăng kính cạnh tranh chính trị: vị thế kinh tế của các công ty nước ngoài (nhất là phương Tây) càng lớn trên các thị trường có vị trí “chiến lược quan trọng”của Trung Quốc thì tất yếu sẽ làm lỏng lẻo sự kiểm soát của Đảng đối với nền kinh tế trong nước, và như thế là sự lỏng lẻo quyền lực chính trị. Điều này giải thích tại sao chính sách “sáng chế bản địa”của Trung Quốc (mà mục đích là giảm sự lệ thuộc vào các công ty nước ngoài về mặt phát minh) đang được thực hiện hầu như hoàn toàn qua các doanh nghiệp nhà nước. Việc cho phép các công ty nước ngoài hoạt động trong những khu vực “quan trọng chiến lược”của nền kinh tế căn cứ vào nhu cầu gia tăng chuyển giao công nghệ và bí quyết kinh doanh thông qua các cơ cấu liên doanh vẫn được tiếp tục duy trì. Thứ hai, chính sách đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp tục phối hợp với những nhu cầu về tài nguyên nhằm phục vụ các doanh nghiệp nhà nước chủ chốt. Mặc dù ngay cả các chính phủ Mỹ cũng hỗ trợ cho một số khu vực kinh tế cá biệt qua những chính sách toàn cầu về ưu đãi thuế, trợ cấp v.v… nhưng không có chính phủ Mỹ nào lại gắn chặt chính sách ngoại giao với sự lựa chọn “những kẻ thắng cuộc”trong công nghiệp và tài chính. Trong thập kỷ vừa qua, Bắc Kinh đã lập “chiến lược đi ra thế giới”nhằm bảo đảm an toàn cho các kênh tiếp cận tài nguyên, thu nhận công nghệ tiên tiến và tạo ra hoặc mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp nhà nước. Nhận xét trên đây đã giúp giải thích rất nhiều về chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Afghanistan, Iran, Sudan, Châu Phi cận Sahara và nhiều nơi khác. Số liệu của năm 2006 cho thấy các doanh nghiệp nhà nước đứng đàng sau ¾ các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, riêng các doanh nghiệp trung ương quản lý thì đã chiếm 2/3 lượng đầu tư này. Các công ty quốc doanh đứng sau hơn 90% các khoản đầu tư phi tài chính ra nước ngoài. 14 Tất cả các khoản đầu tư lớn do các công ty Trung Quốc tiến hành nếu cao hơn $300 triệu vào lĩnh vực tài nguyên và hơn $100 triệu vào các lĩnh vực khác đều phải có sự chấp thuận công khai của các cơ quan chính phủ. Trên thực tế, một khi doanh nghiệp nhà nước xác định được một cơ hội tiềm năng thì người quản lý cấp cao sẽ tranh thủ sự phê duyệt của các lãnh đạo chính trị. Nếu đã có sự phê duyệt thì doanh nghiệp sẽ được mọi hỗ trợ tài chính cần thiết để hoàn tất thương vụ đồng thời những chỉ thị trợ giúp sẽ được gửi sang Bộ Ngoại giao khi cần thiết. Cuối cùng, ĐCSTQ sẽ vẫn sẵn sàng phân bổ vốn đầu tư một cách cực kỳ không hiệu quả để phục vụ các mục tiêu chính trị. Các doanh nghiệp then chốt của Trung Quốc đều yếu đuối và bấp bênh trên phương diện cơ cấu kinh doanh. Chúng phụ thuộc vào các khoản tín dụng rẻ, thậm chí không phải trả lãi, vận hành trong những thị trường được bảo hộ và thường được điều hành tuỳ tiện bởi những “tay trong”có hậu thuẩn chính trị nhưng không có khả năng chuyên môn. Những doanh nghiệp ấy sống mạnh trong một môi trường văn hóa kinh doanh mà ở đó thành tích kinh tế thường dựa vào các quan hệ và thủ đoạn chính trị hơn là hiệu quả kinh tế và sáng tạo. Đó là lý do tại sao mặc dù có lợi thế về tầm cỡ, ngay cả các doanh nghiệp trung ương quản lý lớn nhất và hiệu quả nhất cũng là kém hơn khi so sánh với những đối thủ cạnh tranh toàn cầu và các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Các nghiên cứu luôn cho thấy ngay cả những doanh nghiệp nhà nước lớn nhất có kết quả hoạt động kém hơn các doanh nghiệp tư nhân từ hai đến ba lần theo các tiêu chí như tính sinh lời, tỷ lệ thu hồi tính trên tổng tài sản, tính trên vốn được cấp, trên lượng hàng bán ra và tổng năng suất lao động. 15 Sự yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc còn rõ rệt hơn khi so sánh với các công ty tư nhân nước ngoài. 16 Tỷ lệ thu hồi tính trên vốn được cấp của 500 công ty đứng đầu Trung Quốc (đều do các doanh nghiệp nhà nước thống lĩnh) là vào khoảng 40% kém hơn mức trung bình của các công ty trong danh sách Fortune Global 500 (500 công ty lớn nhất thế giới theo tạp chí Fortune). Ngay cả khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng đáng kể thì những khuyết tật này sẽ vẫn không mất đi. Chất lượng của nền kinh tế Trung Quốc, như đuợc thẩm định bởi sự quản lý doanh nghiệp, sẽ không có huớng tăng lên trên cơ sở các số liệu thống kê kinh tế dồi dào và chuẩn mực. Một số người phương Tây rất muốn tin rằng thực tế của Trung Quốc có thể được lý giải bằng những nguyên tắc phổ quát về kinh tế - chính trị. Đằng khác, những người có khuynh hướng tư duy triết học, lịch sử hoặc khoa học xã hội thì lại rất muốn nhìn sự khác biệt của Trung Quốc sâu sắc qua lịch sử và văn hóa. Đó có thể là một hướng phân tích có ích vì nó khắc phục được bản chất luận (essentialism) - tức là cứ khăng khăng cho rằng mọi người Trung Quốc đều nghĩ theo một cách nào đó. Nhưng còn một con đường khác, đơn giản hơn, để có những nhận định chính xác hơn là hai cách nói trên. Những luận cứ cho rằng văn hóa Khổng giáo của Trung Quốc là không thích hợp với sự biến đổi tự do trong nước và hội nhập quốc tế, là không cần thiết, dù trên vài phương diện thì những luận cứ ấy là đúng. Nghĩ cho cùng, các xã hội với những đặc trưng truyền thống tương tự,như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và ngay cả Singapore, đã chứng tỏ luận đề trên là sai. Đúng hơn, Lê-nin đã ảnh hưởng đến lộ trình của Trung Quốc nhiều hơn là Khổng Tử. Dù có giải thích sự khác biệt của Trung Quốc thế nào đi nữa thì người Mỹ và những người khác cần chấp nhận cái thực tế là Trung Quốc quá quan trọng để bỏ qua, quá to lớn để hăm dọa, quá ghê gớm để bắt nạt. Trung Quốc sẽ không theo một con đường quen thuộc hướng tới một điểm đến không tránh khỏi, chỉ vì các nhà quan sát Phương Tây quá lười biếng hoặc tự mãn về văn hóa để hình dung những khả năng khác nữa . Bản dịch của Thời Đại Mới******** Chu Thich: * Phỏng dịch bài “China’s Corporate Leninism” của John Lee, tạp chí The American Interest, tháng 5-6 năm 2012, tr. 36-45. ** John Lee là phó giáo sư trợ giảng, đồng thời là nghiên cứu viên theo chương trình Michael Hintze về An ninh năng lượng tại Trung tâm nghiên cứu an ninh quốc tế, Đại học Sydney. Ông cũng là một học giả tại Viện Hudson, Washington, DC. 1 Xem G. John Ikenberry, “The Future of the Liberal World Order: Internationalism After America”, Foreign Affairs (May/June 2011). 2 Hay cũng chính là những người bị thuyết phục bởi ẩn dụ “kẻ dự phần” (stakeholder) của Robert Zoellick (và nhiều tác giả khác). Theo ẩn dụ này, trật tự kinh tế toàn cầu được ví như một đại công ty có nhiều người “dự phần”vào (chẳng những là người đầu tư mà còn là ban quản lý, và cả công nhân trong công ty ấy). Mỗi người “dự phần”như vậy đều đóng góp, chia sẻ lợi lộc, và có trách nhiệm đối với công ty (chú thích của nguời dịch). 3 Qua việc cung cấp những cơ hội mở rộng cho các doanh nghiệp nhà nước và bảo đảm nguồn lực cho các khoản đầu tư được hướng dẫn trước trong nền kinh tế. 4 Transactions cost (chú thích của người dich). 5 Để ý cuốn sách nổi tiếng một cách xứng đáng của Felix Gilbert: To The Farewell Address (Princeton University Press, 1970). 6 Tiếng Anh: TVE (Township and Village Enterprises). 7 Lời Đặng Tiểu Bình, như đuợc trích dẫn trong Michael Ellman, Socialist Planning, 2 nd Edition (Cambridge University Press, 1989), tr. 72. 8 Đó là “Nam tuần”(chú thích của người dịch). 9 Số liệu chính xác là khó tìm vì thiếu sự minh bạch của việc tham gia cổ phần và sở hữu trong các xí nghiệp Trung Quốc. Mặc dù thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước”được sử dụng rộng rãi nhưng đa phần các xí nghiệp này được nhà nước nắm phần lớn cổ phần chứ không sở hữu toàn bộ (Quốc Tư Ủy quản lý các cổ phần này). Ngoài ra rất nhiều công ty do nhà nước quản lý lại thâu tóm phần lớn cổ phần trong các công ty tư nhân Trung Quốc. Nếu chúng ta gộp tất cả các loại doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ và sở hữu một phần thì tỷ trọng GDP do khu vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra sẽ xấp xỉ 50%. 10 Tiếng Anh: SASAC (State-owned Assets Supervision and Administrative Commission) 11 Chú thích của người dịch: Có lẽ tác giả lầm, Quốc Vụ Viện là cơ quan hành chánh tối cao, không phải cơ quan lập pháp tối cao. 12 Pei, China’s Trapped Transition (Harvard University Press, 2006) 13 McGregor, The Party: The Secret World of China’s Communist Rulers (HarperCollins, 2010), tr. 72. 14 Xem Derek Scissors, “Testimony to the United States-China Economic and Security Commission”, 11 tháng 3, 2011. 15 Muốn biết thêm về một số bài gần đây liên quan đến vấn đề này, xin tham khảo Shaomin Li, Yingchou Lin và David D. Selover, “China State-Owned Enterprises: Why Aren’t They Efficient?”, Old Dominion University, July 16, 2010. 16 Xem A Report on the Development of China’s Enterprises 2007 (Enterprise Management House, 2007).
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 25, 2012 4:22:36 GMT 9
Đảng Trung Cộng đã chỉ định xong ban lãnh đạo mới (VienDongDaily.Com - 19/10/2012) Hoài Mỹ/Viễn Đông
BEIJING (Bắc Kinh) - Thông tấn xã Reuters trong bản tin Thứ Sáu, 19-10-2012, đã viết: “Những người đàn ông quyền lực nhất của đảng Cộng Sản Trung Hoa đã chỉ định 7 lãnh tụ để quản lý tiếp tục đất nước này” cho tới năm 2017. Trong những tháng vừa qua, ban lãnh đạo của đảng Trung Cộng - chính đảng lớn nhất thế giới - đã ra công ra sức để tìm ra một nhóm lãnh tụ mới vốn sẽ kết thành Ủy Ban Thường Vụ của Bộ Chính Trị. Ủy Ban Thường Vụ là bộ phận cao cấp nhất trong đảng và thi hành quyền bính vĩ đại trong quốc gia đông dân nhất trên hoàn cầu. Khi toàn giới lãnh đạo của đảng họp Đại Hội Đảng ở Bắc Kinh, ngày 8 tháng 11 tới đây, họ sẽ chính thức chỉ định những ai sẽ ngồi ở 3 cấp bậc cao nhất: Ủy Ban Trung Ương (khoảng 200 người) - Bộ Chính Trị (chừng 25 người) và Ủy Ban Thường Vụ (hiện nay là 9 người). Thế nhưng đại hội này chỉ là một hình thức hay thủ tục mà thôi. Chính sự lựa chọn của ban lãnh đạo đương nhiệm kể như đã xong. Theo thông tấn xã Reuters vốn dẫn lời của các nguồn ẩn danh trong đảng, thì “những lời cuối cùng trong việc tranh luận nay đã được nói hết rồi”.
Xi, Li, Wang, Liu, Li, Zhang và Zhang 3 người đàn ông quyền lực nhất Trung Quốc - cựu Chủ Tịch đảng Giang Trạch Dân, đương kim Chủ Tịch Đảng Hồ Cẩm Đào và Chủ Tịch đảng nay mai, Tập Cận Bình - đã quyết định giảm nhân số thành viên trong Ủy Ban Thường Vụ từ 9 xuống còn 7. Và 7 người này, theo Reuters, gồm có: Tập Cận Bình (Xi Jinping, 59 tuổi), Lý Khắc Cường (Li Keqiang, 57), Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan, 64), Lưu Vân Sơn (Liu Yunshan, 65), Lý Nguyên Triều (Li Yuanchao, 62), Trương Đức Giang (Zhang Djiang, 66) và Trương Cao Ly (Zhang Gaoli, 66). Sự ngạc nhiên lớn lao nhất là trong danh sách trên đây không có tên Wang Yang (57), Bí Thư đảng ở mạn nam tỉnh Quảng Đông. Nhiều người, đặc biệt ở Tây Phương, đã hy vọng nhìn thấy ông này ở trong thành phần ưu tú thượng đỉnh của đảng Trung Cộng, bởi vì đương sự vẫn được xem là nhân vật cao cấp trong đảng vốn có ý chí thực hiện những cuộc cải cách chính trị ở Trung Quốc. Phân tích gia David Zweig hiện định cư ở Hong Kong hôm qua đã trình bày với hãng thông tấn Reuters: “Thế nhưng, Hồ Cẩm Đào tuy đánh giá Wang Yang có đầu óc muốn đổi mới thật nhưng lại lo sợ ông ấy tạo nên một cuộc phiêu lưu khi thúc đẩy những sự thay đổi ấy xẩy ra quá nhanh”.
Một đảng, hai phe Suốt trong năm qua nhiều dấu hiệu đã tiết lộ những sự chia rẽ mãnh liệt trong đảng Trung Cộng. “Sì căng đan” Bạc Hy Lai (Bo Xilai) cho thấy rõ rệt nhất một cuộc tranh chấp quyền lực nội bộ giữa hai phe lớn nhất trong đảng: Một bên được gọi là những “thái tử” và bên kia là một nhóm vốn có căn bản ở liên minh thanh niên của đảng. Giang Trạch Dân đứng đầu các “thái tử”, trong khi Hồ Cẩm Đào cầm đầu nhóm khác vốn được mệnh danh là “tuanpai” (đoàn phái). Nếu Ủy Ban Thường Vụ - theo Reuters đã loan tin trên đây - vào những ngày và phút chót không có gì thay đổi, thì phe của Giang Trạch Dân sẽ có 4 đại biểu (Tập Cận Bình, Vương Kỳ Sơn, Trương Đức Giang và Trương Cao Ly) ở trong nhóm mới. Trong khi phe-tuanpai có 3 người (Lý Khắc Cường, Lưu Vân Sơn và Lý Nguyên Triều). Bởi vậy, quả thật không có gì chắc chắn khả thể bảo đảm là “chòm sao” mới này sẽ mong muốn thực hiện những cuộc cải cách chính trị ở Trung Cộng cho dù có nhiều phân tích gia tại quốc nội lẫn bên ngoài nước cho rằng nay đã những sự cần thiết cao độ để “làm cái gì” cho cấu trúc chính trị ấy ở Trung Cộng.
“Dân đã mất sự tin tưởng nơi đảng” Trong số những nhà khoa bảng vốn đã khuyến cáo những vấn đề nghiêm trọng ở Trung Cộng trong trường hợp “không có gì xẩy ra”, có Giáo Sư Cheng Li hiện làm việc tại viện Brookings-Institute ở Washington D.C. đồng thời vẫn được xem là một trong những tác giả hàng đầu tiên tiến trong lãnh vực này. Trong một bản phân tích mới đăng trên tạp chí China Quarterly, ông Li xác quyết rằng đảng (Trung Cộng) đã “dậm chân tại chỗ” trong cả một thập niên (10 năm) trước những nhu cầu cải cách về chính trị và trước những sự tối cần thiết để khởi sự cuộc chuyển tiếp đến một hệ thống dân chủ hơn. Giáo Sư Li còn nhận định rằng nhân dân Trung Hoa đã mất sự tin tưởng vào đảng; tình trạng này chính yếu là bởi tệ nạn tham nhũng và bởi sự thiếu hẳn một thể chế dân chủ trong việc đề cử các nhân vật lãnh đạo. Kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến do chính cơ quan truyền thông Global Times của đảng thực hiện, cho biết 49 phần trăm trong dân chúng tin là sẽ có “cách mạng” (hay đảo chính) nếu các cuộc đổi mới về chính trị không được tiến hành. Giáo Sư Cheng Li nhấn mạnh: “Nếu đảng muốn tránh một cuộc cách mạng phát xuất từ hạ tầng thì phải ghì chặt lấy một sự thay đổi chính cống, có hệ thống và dân chủ ở đất nước này bằng cách thực thi những bước can đảm tiến đến việc bầu cử nội bộ đảng, sự độc lập pháp lý và một sự cởi trói dần dần cho truyền thông”. Tập Cận Bình, người sắp sửa tiếp quản chức vị Chủ Tịch đảng kiêm quốc trưởng, vẫn biểu lộ quá ít dấu hiệu về việc đổi mới hệ thống chính trị ở Trung Cộng. Ông ta cũng sẽ phải đối đầu với những sự thử thách lớn lao, điển hình là những gì ông ta sẽ phải làm hầu thu hẹp những hố sâu cách biệt về kinh tế ở Trung Cộng và ông phải làm cách nào để nền kinh tế thoát ra khỏi chiều hướng tiêu cực hiện nay mà bởi đó mức phát triển đã xuống dốc nhiều so với thời điểm cách nay một thập niên.
“Hoa... tàn giữa rừng gươm” Chẳng phải ngẫu nhiên mà trên đây chúng tôi viết nhiều lần nhóm chữ “những người đàn ông quyền lực nhất” khi “thượng tầng kiến trúc” của đảng Cộng Sản Trung Hoa từ xưa tới nay vẫn chỉ do những người đàn ông trong bộ Âu phục đen chiếm bá chủ. Kỳ này nhân có sự thay đổi trong Ủy Ban Thường Vụ, dư luận đã “tin chắc” sẽ có một bóng hồng. Đóa hoa biết nói này theo thông tấn xã AP không ai khác hơn là nàng Lưu Diên Đông (Liu Yandong), 67 xuân xanh. Trong bản tin Thứ Năm, 18-10-2012, thông tấn xã NTB vẫn còn viết: “Lưu Diên Đông là phụ nữ duy nhất trong giới ưu tú chóp bu của đảng Trung Cộng. Xưa nay, từ trên đổ xuống trong hệ thống này vẫn chỉ có các ông đoạt ưu thế độc quyền”. Mao Trạch Đông đã một lần quả quyết rằng “nữ giới chiếm phân nửa bầu trời”. 63 năm sau, đảng do Mao Chủ Tịch thành lập vẫn chỉ thực thi... qua loa “danh ngôn” trên đây. Đảng Cộng Sản này hiện nay gồm có khoảng trên dưới 80 triệu đảng viên, nhưng chỉ có 23 phần trăm trong tổng số đó là phụ nữ. Tỷ số này càng xuống dốc khi càng nhìn lên cao hơn trong hệ thống phân cấp. Tháng 11 tới đây, 70 phần trăm của giới ưu tú trong đảng được thay đổi. Các lãnh tụ của một thế hệ mới sẽ tiếp quản. Chưa dám suy đoán con số phụ nữ sắp “lọt” được vào cấp chóp bu, chỉ riêng Ủy Ban Trung Ương đảng ngày nay gồm những 204 thành viên mà trong đó chỉ có 16 phụ nữ mà thôi. Có thể là phụ nữ đầu tiên được ngồi ở cấp đầu đảng: Và ở một cấp cao trong Bộ Chính Trị hiện có một gương mặt khá sáng sủa của một phụ nữ: Lưu Diên Đông. Bà là một trong 5 phụ nữ đã lần lượt ngồi ở nhóm này kể từ ngày đảng cướp được chính quyền ở Trung Quốc năm 1949. Bà Lưu nay cũng hiện diện trong số những đảng viên nỗ lực đấu tranh để được một chỗ ngồi trong cái vòng tròn sâu xa hơn - Ủy Ban Thường Vụ - của giới lãnh tụ thượng đẳng của đảng. Tình trạng cam go đấy, nhưng chuyên gia về đảng Trung Cộng, Giáo Sư Cheng Li Thứ Ba vừa rồi đã nói với nhật báo Anh The Guardian là “cánh cửa vẫn tiếp tục mở”. Nếu bà thành công lọt được vào danh sách 7 thành viên của Ủy Ban Thường Trực này thì bà sẽ trở thành lịch sử. Như trên đã nói, chưa có một phụ nữ nào leo lên chóp bu được trong cái hệ thống này. Và cũng ở các thôn xã: Ở bên ngoài thủ đô Bắc Kinh, phụ nữ cũng “tỏa sáng” bằng sự khiếm diện của mình trong các thành phần lãnh đạo đảng. Theo The Guardian, chỉ có duy nhất một phụ nữ làm Thống Đốc và một phụ nữ nữa làm Tỉnh Trưởng. Ở cấp thôn xã, 98 phần trăm “chủ tịch” là đàn ông. Phụ nữ trẻ Trung Hoa trong khoảng thập niên qua vẫn tìm cách chen chân vào các trường đại học. Theo cô Li Rong (34 tuổi), chẳng nhằm nhò gì lắm khi cái gọi là hệ thống đó tới nay vẫn do nam giới bá chủ. Nữ sinh viên cấp Tiến Sĩ này tâm sự với trang điện tử thông tin Bloomberg.com: “Phụ nữ vẫn thích hợp với các vai trò trong các lãnh vực, chẳng hạn y tế. Tất cả bộ, sở vốn có thực quyền về kinh tế vẫn do nam giới điều hành. Tôi không thấy một cơ hội nào cho tương lai cả”. Ngoài ra, trang điện tử Bloomberg.com còn nêu rõ là không chỉ đảng Cộng Sản do nam giới nắm đầu mà cả ở các công ty, xí nghiệp nhà nước tình trạng cũng y chang vậy. Trong cả thảy 120 công ty quốc doanh ở Trung Cộng ngày nay, chỉ có duy nhất một (1) công ty là do một phụ nữ quản lý. Phụ nữ thành công ở thương nghiệp: Ở lãnh vực tư, ngược lại thì khác biệt. Trong số 19 phụ nữ tỉ-phú-đô-la trên thế giới vốn đã không thừa kế tài sản, 6 bà là người Trung Hoa. Giáo Sư Li Chung thuộc viện đại học Khoa Học Xã Hội phát biểu với Bloomberg.com rằng: “Trong ngành thương nghiệp, phụ nữ có thể tiến thân bằng chính khả năng riêng của họ. Trong guồng máy chính phủ, bạn chỉ có thể được thăng chức nếu sếp của bạn thích bạn”. Tháng Sáu vừa qua, Trung Cộng đã đưa một nữ phi hành gia đầu tiên của họ lên không gian. Thông tấn xã AP khôi hài rằng quả thật dễ dàng cho một phụ nữ Trung Hoa đi dạo chung quanh trái đất hơn là chiếm được một chỗ sâu xa nhất trong cái vòng tròn của giới lãnh tụ thượng đỉnh của đảng. Giáo Sư Willy Lam, một trong những chuyên gia hàng đầu về chính sách của đảng ở Trung Cộng, nhận định là toàn bộ hệ thống đảng là một biểu tượng “câu lạc bộ đàn ông”. Tác giả này vừa tươi cười vừa giãi bày với AP: “Để trở thành Thị Trưởng hay Thống Đốc, bạn phài là một đực rựa đúng nghĩa. Bạn phải uống được rượu, càng như hũ chìm càng tốt, và hay hơn nữa có thêm vài bồ nhí và phải chịu ăn hối lộ. Dĩ nhiên không thiếu phụ nữ tham nhũng ở Trung Hoa, nhưng những vụ này đối với một thằng đàn ông thì đó lại là thứ vũ khí để nắm chân nắm cẳng các đảng viên cái tiên tiến phải lùi lại”. Xue Lihua, nữ Chủ Tịch tổ chức Phụ Nữ Nông Thôn, cho rằng vấn đề “trọng nam khinh nữ” ấy vẫn vươn “cực kỳ” xa ở cả bên ngoài đảng. Bà Lihua nói với nhật báo The Guardian: “Hệ thống phẩm giá của chúng tôi vẫn trình bầy nữ giới là yếu kém. Ngay từ ở vườn trẻ, các bé nữ đã được nhồi sọ là phận gái thì phải biết vâng phục”. Thể chế số lượng: Các chuyên gia khác cũng rêu rõ là phụ nữ ở Trung Quốc, nhất là tại thôn xã, theo phong tục vẫn dường như “kết hôn” với cả gia đình người chồng (làm dâu) và bởi vậy lâm vào một hoàn cảnh phục tùng. Thái độ này cũng được thấy rõ ràng trong hậu quả của chính-sách-một-con; theo đó số con trai được sinh ra trong 30 năm qua đã “thừa thắng xông lên” hơn số trẻ nữ với hàng chục triệu. Chính quyền Bắc Kinh cố gắng tiến hành một số biện pháp để cải thiện tình trạng. Mới đây họ đã tung ra một tổ chức của nhà nước gọi là Trung Hoa Toàn Quốc Phụ Nữ Liên Hợp Hội, trong đó có chiến dịch đưa đẩy nữ giới gia nhập chính trường. Nhật báo The Guardian viết, một thể chế qui định nhân số (quota) được áp dụng, theo đó cứ 4 lãnh tụ ở các thành phố thì bắt buộc phải có một phụ nữ. Tuy nhiên, bà Xie Lihua nhấn mạnh rằng những sự thay đổi ấy cũng phải được thay đổi từ hạ tầng cơ sở: “Chính phụ nữ phải tự thay đổi bản thân. Họ phải can đảm để cạnh tranh”. Xin mạn phép trở lại trường hợp của bà Lưu Diên Đông. Thông tấn xã NTB viết, nếu bà Lưu Diên Đông thành công trong việc leo lên tới chóp đỉnh của đảng, thì dù thế nào đi nữa, nữ giới cũng sẽ được một “siêu sao lãnh tụ” gây cho họ cảm hứng mà noi gương thi đua cùng... leo theo. Nhưng tiếc thay, can đảm thì bà có dư rồi đó, nhưng “mãnh nữ bất địch quần nam”, thành ra bà Lưu Diên Đông đã không có tên trên danh sách “thất đại nhân” trong Ủy Ban Thường Vụ của đảng Trung Cộng mà Reuters đã “trình làng” hôm qua. Quả đúng, “hoa chưa nở đã tàn giữa rừng gươm”. - (HM)
Dự đoán về hậu quả kinh tế nhân chuyển tiếp quyền lực sắp tới tại Trung Cộng (VienDongDaily.Com - 20/10/2012)
IRVINE, California - Hôm 18-10-2012, trường đại học University of California, Irvine (UCI) đã mời Tiến Sĩ Minxin Pei, chuyên gia về tình hình chính trị Trung Quốc, đến thuyết trình. Ông nói chuyện về những gì mà ông tin là sẽ xảy ra, khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc chuyển tiếp quyền lực cho một thế hệ lãnh đạo mới. Hai ngày sau cuộc bầu cử sắp diễn ra tại Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo Trung Cộng sẽ họp từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 11 năm 2012, để thay đổi hàng ngũ lãnh đạo cứ mười năm một lần, chọn người đảm nhận những chức vụ cao cấp và một số thành viên khác của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị. Hiện nay ông Hồ Cẩm Đào giữ các chức vụ Tổng Bí Thư Đảng, Chủ Tịch Nhà Nước, và Chủ Tịch Ủy Ban Quân Ủy Trung Ương. Theo Tiến Sĩ Pei cho hay, vẫn chưa biết rõ tiến trình thực sự mà Trung Quốc đi qua để bầu chọn các nhà lãnh đạo, và chỉ có một tiêu chuẩn rõ ràng cho những chức vụ, đó là ứng cử viên phải ít hơn 68 tuổi. Tiến Sĩ Pei cho rằng những yếu tố khác, chẳng hạn như việc có người đỡ đầu chính trị nhiều thế lực và những mối quan hệ cá nhân, đều là những yếu tố hết sức quan trọng để nhận được sự ủng hộ. Giai đoạn chuyển tiếp này rất quan trọng cho viễn ảnh kinh tế của Trung Quốc. Theo sự đánh giá sơ khởi của ông Pei thì những nhân vật như Tập Cận Bình - người có lẽ sẽ lên làm chủ tịch kế nhiệm Hồ Cẩm Đào - và những “chuẩn” thành viên ủy ban, trong đó có Lý Khắc Cường (Li Keqiang), Phó Thủ Tướng Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan), Phó Thủ Tướng Trương Đức Giang (Zhang Djiang), Bí Thư Đảng Ủy Du Chính Thanh (Yu Chengsheng), và chính trị viên Lý Nguyên Triều (Li Yuanchao), đều có khả năng nhiều hơn một chút so với những người cũ. (Nhật báo Viễn Đông đã loan tin về 7 thành viên Ủy Ban Thường Vụ - hơi khác hơn danh sách này - theo Reuters cho biết ngày hôm qua). Tiến Sĩ Pei nhấn mạnh rằng những thành viên này là những người thuộc thế hệ mới, và họ là những ứng cử viên đầu tiên của đảng được biết là đã vươn lên qua tiến trình học vấn của Trung Quốc, căn cứ theo công trạng của họ, chứ không theo gia thế những mối quan hệ khác. Ông nói tiếp rằng vấn đề lớn nhất là liệu sự thay đổi có làm tình hình khác hơn hay không.
Kinh tế lên, xã hội xuống Tiến Sĩ Pei nói rằng mặc dù nền kinh tế của Trung Quốc tăng trưởng rất nhiều trong vòng 10 năm qua nhưng sức lớn mạnh đang chậm lại và không nhất thiết sẽ phục hồi. Ông nghĩ tình trạng chậm lại như vậy là do những yếu tố cơ cấu. Trong vòng 30 năm qua, Trung Quốc phát đạt là nhờ họ dễ dàng có được thành phần lao động ít tốn kém. Ông tiên đoán rằng trong vòng hai ba năm nữa, yếu tố nhân công rẻ mạt này sẽ không còn nữa, và sẽ cần phải thay đổi. Ngoài ra, sức tăng trưởng nhờ vào xuất cảng đã gia tăng mỗi năm 20 phần trăm, trong vòng 20 năm vừa qua, là nhờ toàn cầu hóa. Trung Quốc là cường quốc đứng hàng thứ nhì về xuất cảng. Tuy nhiên, dù với sức tăng trưởng này, khoản đầu tư quốc nội lại rất ít ỏi. Ngoài ra, Tiến Sĩ Pei nói rằng hệ thống kinh doanh tại Trung Quốc không đạt tới mức độ hiệu quả có thể đạt được, vì nhà nước đóng một vai trò rất lớn trong những ngành kinh doanh quan trọng tại Trung Quốc. Và cách thức nhà nước can dự không tạo điều kiện thuận lợi cho những ngành kinh doanh phát đạt. Thay vì vậy, chính phủ cho các xí nghiệp quốc doanh độc quyền, hạn chế sức tăng trưởng và sự cạnh tranh kinh doanh tại Trung Quốc, và điều này tạo ra chuyện phân phối vốn liếng một cách sai lầm hàng loạt. Chẳng hạn, nhà nước làm chủ những công ty có trụ sở hết sức sang trọng, quá sức xa xỉ. Tiến Sĩ Pei thắc mắc rằng liệu những cơ ngơi xa hoa như vậy có thực sự cần thiết hay không. Ngoài ra, ông nói tiếp rằng chính sách độc quyền tạo ra xung đột về quyền lợi, và các ngân hàng ở Trung Quốc sẽ chiếu cố trước tiên đến những công ty quốc doanh, vì họ thường có xu hướng hỗ trợ trước hết cho chính phủ. Mặc dù Trung Quốc làm cho nền kinh tế tăng trưởng lên rất nhiều, nhưng họ đã phải trả một giá quá đắt cho sự tăng trưởng ấy. Ông cho biết tiếp rằng môi trường sinh thái bị phá hoại, phẩm chất đời sống tệ đi, và dân chúng không biết phải tin vào cái gì hoặc tín nhiệm vào ai. Mặc dù lợi tức tính trên đầu người đạt mức cao, nhưng những con số này trống rỗng, và nhiều vấn đề kinh tế đòi hỏi phải có những giải pháp chính trị. Ông nêu nghi vấn liệu hàng ngũ lãnh đạo sắp lên sẽ có đủ can đảm chính trị để giải quyết những vấn đề này không, rồi ông tự trả lời luôn rằng có lẽ họ sẽ không có được như vậy, vì nhiều đảng viên đồng thời cũng là những người điều hành các công ty quốc doanh. Tập trung đặc biệt vào dân chúng Trung Quốc, Tiến Sĩ Pei nói rằng họ chấp nhận bị nhà nước kiểm soát để đổi lấy những tiêu chuẩn sinh hoạt cao hơn, mặc dù những niềm trông mong của họ lâu nay cứ giảm dần. Ông cho biết tiếp rằng thành phần trung lưu tại Bắc Kinh không có những dịch vụ xã hội, và địa vị trung lưu liên quan với chuyện họ quen biết những ai, nhiều hơn là với công lao của họ. Ông nói thêm rằng sức linh động xã hội đang sút giảm, vì giới trung lưu đang bắt đầu trải qua những điều mà lâu nay dân nghèo và những người không được ưu đãi đã gặp phải. Tiến Sĩ Pei nói tiếp rằng bất chấp những vấn đề kinh tế và xã hội xảy ra tại Trung Quốc, đang có một “cuộc cách mạng chính trị thầm lặng” diễn ra, với chuyện ngôn từ dân chủ theo kiểu khai sáng của thập niên 1980 đang tái xuất hiện. Cuộc cách mạng từ trên xuống dưới đã không xảy ra trong vòng 10 năm qua nên công chúng Trung Quốc hiếm khi tin vào những điều nhà cầm quyền nói, và xã hội dân sự Trung Quốc đã lớn mạnh nhờ những trung tâm độc lập của thẩm quyền đạo đức công cộng. Theo Tiến Sĩ Pei cho biết, chẳng hạn dân chúng Trung Quốc thường có xu hướng kiểm soát lại bằng những nguồn tin tức riêng của họ, vì đã sẵn có Internet và khả năng tiếp cận với thế giới vô tuyến. Những tiến bộ trong lãnh vực kỹ thuật cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc tổ chức và công chúng hiện nay đã bớt sợ nhà cầm quyền. Thế nhưng, vẫn có những điều bất trắc ở phía đằng trước, và nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời. Ông nói thêm rằng việc cầm quyền chuyên chế có thể trở thành ngoại lệ, và nền dân chủ có thể được du nhập, nếu hệ thống này được quản trị. Ông chỉ ra rằng thời kỳ ấy đang trôi qua nhanh, và cánh cửa của cơ hội dành cho Trung Quốc đang khép lại. Tiến Sĩ Pei hỏi: “Chúng ta có thể trông đợi những cuộc cải tổ chính trị nào. Liệu chế độ mới sẽ có khả năng làm được chuyện gì hay không?” - (VĐ)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2012 6:55:57 GMT 9
Mười vấn đề nghiêm trọng trong di sản của Hồ-Ôn
Lời giới thiệu của Geremie. R. Barmé trên tạp chí The China Story: Đầu tháng Chín vừa rồi, ông Đặng Duật Văn (邓聿文, Deng Yuwen), Phó Tổng biên tập tờ Học tập Thời báo (学习时报) của Trường Đảng Trung ương ĐCS Trung Quốc đăng một tiểu luận nhan đề “Di sản chính trị của Hồ – Ôn” trên tờ Tài Kinh (财经, Caijing) gây nhiều chú ý. Tiểu luận này nhanh chóng bị rút xuống, song hiện nay cả bản gốc tiếng Trung và một phần bản dịch tiếng Anh đều đã có trên mạng. Bản dịch tiếng Việt dưới đây dựa theo bản tiếng Anh trên tạp chí The China Story. Tháng 4 năm 1956 Mao Trạch Đông đọc trước Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc bài diễn văn với nhan đề “Bàn về mười quan hệ lớn” (论十大关系). Đấy là giai đoạn có tính quyết định đối với nước Trung Hoa mới. Công cuộc quốc hữu hóa ban đầu nhằm đưa nền công nghiệp và nông nghiệp của đất nước vào tay nhà nước đã biến thành làn sóng của chủ nghĩa xã hội cực đoan sẽ chiếm thế thượng phong trong hai thập kỉ tới. Muốn đẩy nhanh sang giai đoạn tiếp theo, Mao cho rằng quan trọng là cần phải nêu ra những vấn đề mà nước cộng hòa non trẻ đang phải đối mặt. Ông ta liệt kê mười vấn đề quan trọng trong chính sách xã hội, kinh tế, khu vực và dân tộc; trên thực tế, ông ta nêu ra những thách thức mà cuộc thí nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quá trình cải tạo nước Trung Hoa sẽ gặp. Nhận xét nói chung về sự bất định chính trị ở Trung Quốc đều cho rằng khi “bọn thày bói độc mồm độc miệng xuất hiện khắp nơi là dấu hiệu cáo chung”. Ở đâu chúng ta cũng thấy những lời cảnh báo đáng sợ do phái phê bình tả khuynh của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thí dụ như từHội Những Người con của Diên An (延安儿女) hay gần đây là những người chính thống của Nhóm Không tưởng, đưa ra. Trong mấy ngày gần đây, một biên tập viên tờ Học tập Thời báo cho đăng bài báo dài, trong đó ông ta đưa ra mười vấn đề nghiêm trọng của Trung Quốc. Trong năm chuyển tiếp 2012-2013 – diễn ra mười năm một lần – sẽ có sự thay đổi ban lãnh đạo Đảng-nhà nước, các cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã lên giọng và yêu cầu các phương tiện thông tin đại chúng kỉ niệm một cách ồn ào “mười năm vàng son” dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch nước/Tổng Bí thư Đảng Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo (Xin đọc bài “Những lí do của mười năm quang vinh của Trung Quốc” trên tờ Nhân dân Nhật báo, bài “Từ thắng lợi tới thắng lợi” trong Niên giám 2012 của tạp chí này [1], đấy chỉ là vài ví dụ). Đây là giai đoạn cực kì căng thẳng và đặt cược cao, là giai đoạn Trung Quốc trực diện với những quyết định chính trị quan trọng không phải chỉ cho mấy năm trước mắt, mà quan trọng cho một thời gian dài trong tương lai, nhiều người nghĩ như thế. Tại thời điểm này, một đảng viên có địa vị thấp kém hơn vị chủ tịch đã quá cố [2] đưa ra phiên bản của ông ta về những vấn đề mà dân tộc cứng đầu cứng cổ và chia rẽ này đang phải đối mặt. “Mười vấn đề nghiêm trọng” (十大问题) là phần thứ hai trong loạt bài có tên “Di sản chính trị của Hồ-Ôn” (胡温的政治遗产) do Đặng Duật Văn viết, được đăng trên trang mạng của tờ Tài Kinh hồi cuối tháng 8 đầu tháng 9. Mặc dù vẫn phụ họa theo đường lối chính thức của Đảng và tán dương những thành tựu có một không hai của mười năm dưới quyền cai trị của Hồ – Ôn, Đặng Duật Văn cũng phê phán những vấn đề xã hội, kinh tế, khu vực, chính trị và tư tưởng căn bản của Trung Quốc. Ông ta trình bày chúng như là những vấn đề cực kì quan trọng, những vấn đề đã phát triển cả về quy mô lẫn sức nặng vì chính phủ – bị ám ảnh bởi sự ổn định, bên dưới vỏ bọc của sự đồng thuận – đã để cho những vấn đề cấp bách mưng mủ. Đấy là những vấn đề quan trọng sống còn không chỉ cho đảng cầm quyền Trung Quốc mà còn cho toàn thế giới. “Mười vấn đề nghiêm trọng” vừa là bản cáo trạng đối với sự uể oải của nền chính trị, vừa là chương trình nghị sự buộc những nhà lãnh đạo Đảng-nhà nước sắp tới phải lập tức để tâm chú ý. “Mười vấn đề nghiêm trọng” chỉ là một trong những biểu hiện của sự bất bình công khai của hệ thống độc đảng của Trung Quốc. Trong những lần khủng hoảng và chuyển giao lãnh đạo trước đây, các nhà tư tưởng, hay nói theo lối cũ là các chiến lược gia, bao giờ cũng có vai trò quan trọng. Kha Khánh Thi (柯庆施, Ke Qingshi), Trần Bá Đạt (陈伯达, Chen Boda), Diêu Văn Nguyên (姚文元, Yao Wenyuan) và Trương Xuân Kiều (张春桥, Zhang Chunqiao) là những người nổi bật trong những năm 1960; sau đó đến lượt Hồ Kiều Mộc ( 胡喬木, Hu Qiaomu) và Đặng Lực Quần (邓力群, Deng Liqun) cùng với những người khác đã tạo được ảnh hưởng trong những năm 1970 và đầu 80, tức là dưới trào Đặng Tiểu Bình. Cuối những năm 1980 là các nhà tư tưởng như Hà Tân (何新, He Xin), Vương Quân Đào (王军涛, Wang Juntao) và Trần Tử Minh (陈子明, Chen Ziming). Trong lần chuyển giao quyền lực này, khởi động từ năm 2007, các cá nhân và các nhóm ganh đua với nhau nhằm cung cấp lời khuyên về mặt chiến thuật và trí tuệ cho những kẻ đang tranh đoạt quyền lực. Dưới chiêu bài “lo lắng cho Trung Quốc”, những nhà trí thức này đang đấu tranh nhằm định hình tương lai cho Đảng hay nói đúng hơn Đảng-nhà nước, trong khi rèn đúc sự nghiệp mang lại mục tiêu cao quý là người đầu tiên có tiếng nói cuối cùng, hay sử dụng cách nói truyền thống là kinh bang tế thế. Việc tranh giành ảnh hưởng giữa các nhà tư tưởng Trung Quốc càng trầm trọng thêm vì nhiều người cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay tương tự như cuộc khủng hoảng hồi cuối những năm 1980, tức là giai đoạn “khủng hoảng ý thức”. Trong một bài viết cho hãng Reuters, Chris Buckley nói rằng ông Tập Cận Bình, người được cho là sẽ nắm chức Tổng Bí thư Đảng và Chủ tịch nước, đã nhận thấy, thậm chí tìm cách trấn an trước khả năng sự phản bội của các giáo sĩ theo kiểu Trung Quốc, tạo ra một loạt sự kiện không thể lường trước được. (Những người vận động cả phái tả lẫn phái hữu đều kêu gọi phải có những hành động quyết liệt trong việc bài trừ nạn tham nhũng, một số người khác lại cảnh cáo rằng bất kì một hành động có phối hợp nào trong lĩnh vực này không những sẽ gặp sự chống đối nghiêm trọng mà còn báo trước, thậm chí kích hoạt sự bất ổn chính trị-xã hội từ trên xuống). “Mười vấn đề nghiêm trọng” trong tiểu luận của Đặng Duật Văn có thể là bảng liệt kê những thất bại chính trị tồi tệ nhất của giai đoạn Hồ-Ôn từng xuất hiện trên báo chí Hoa lục. Mặc dù đã bị cảnh sát mạng ngăn chặn, nhưng nó vẫn được lưu hành rộng rãi và đã làm bùng lên những cuộc tranh luận. Nội dung tóm tắt của tiểu luận này đăng trên Chinese Elections and Governance, còn nguyên bản tiếng Trung trên Political China. Bản dịch phần tiểu luận này là của Eric Mu trên trang Danwei. ____________________ Mười vấn đề nghiêm trọng trong di sản chính trị của Hồ – Ôn Phần đầu của tiểu luận này đã xem xét, theo quan điểm lịch sử, những thành tựu của chính quyền Hồ-Ôn trong mười năm qua. Nói chung, Trung Quốc đã có tiến bộ đáng kể. Nhưng, như đã nói bên trên, phía sau thành công cũng còn nhiều vấn đề. Nói một cách thẳng thắn, những vấn đề phát sinh và phát triển trong mười năm gần đây có thể che mờ các thành tựu. Đối với Đảng Cộng sản, vấn đề lớn nhất và cấp bách nhất cần phải giải quyết là trong quá trình đưa nhân dân tới một xã hội sung túc và thịnh vượng, Đảng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng về tính chính danh của nó: không giải quyết được khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng gia tăng, nạn tham nhũng ngày càng gia tăng, không đạt được sự thống nhất xã hội và không đáp ứng được đòi hỏi của xã hội về mở rộng dân chủ. Ngoài ra, chính quyền Hồ-Ôn không đạt được tiến bộ – nói cho ngay, có thể còn thụt lùi trong một số lĩnh vực liên quan đến hiện đại hóa Trung Quốc: Không có tiến bộ trong việc tái cấu trúc nền kinh tế Trung Quốc. Không xây dựng được nền kinh tế hướng vào nhu cầu trong nước, không thực thi được chính sách hiệu quả nhằm cải cách việc phân phối của cải và ngăn chặn sự mở rộng khoảng cách trong thu nhập. Mặc dù đã đưa ra một số quy định về quản lí thị trường bất động sản, kết quả vẫn chưa rõ ràng. Hệ thống an sinh xã hội đã được thiết lập nhưng vẫn còn thô sơ. Chưa cải tạo được hệ thống hộ khẩu để nó không còn phụ thuộc vào địa bàn công tác của người dân, đến lượt nó, điều này cản trở, không tạo điều kiện cho người nhập cư hòa nhập vào các thành phố, mặc dù tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Những vấn đề liên quan đến người già càng trầm trọng thêm và chính sách dân số còn có khoảng cách rất xa so với hiện thực xã hội. Ô nhiễm môi trường gia tăng và chưa thấy dấu hiệu cải thiện nào. Không hình thành được nền “văn minh sinh thái học”. Hệ thống giáo dục càng ngày càng quan liêu hơn và cần phải cấp bách tư duy lại một cách căn bản triết lí giáo dục. Nghiên cứu khoa học đã giành được một số thành tựu to lớn, nhưng có ít thành tựu độc đáo hay nằm trong những môn khoa học căn bản. Đạo đức suy đồi: những giá trị căn bản của xã hội càng ngày càng bị lờ đi. Sự phân tầng trong xã hội càng ngày càng cứng nhắc và được định chế hóa. Các cuộc xung đột giữa chính quyền và nhân dân càng ngày càng quyết liệt hơn. Khả năng của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công và quản lí vẫn còn ở mức thấp. Không khuyến khích và không phát triển được tầng lớp trung lưu, v.v… Sau đây tôi xin giải thích một số vấn đề quan trọng nhất: Vấn đề nghiêm trọng số 1: Không có sự phát triển đột biến trong tái cấu trúc kinh tế và xây dựng nền kinh tế hướng vào người tiêu dùng nội địa Mặc dù hiện nay Trung Quốc có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng nó bị méo mó về cơ cấu và kém về chất lượng. Dễ bị tổn thương vì những dao động của môi trường kinh tế bên ngoài, mô hình phát triển hiện nay là trở ngại cho sự thịnh vượng trong dài hạn. Trung Quốc phải chuyển từ mô hình hiện nay, tức là mô hình tập trung vào đầu tư và xuất khẩu và tiêu thụ nhiều nguồn lực sang nền kinh tế kĩ thuật cao, hướng vào người tiêu thụ nội địa cũng như phải giải quyết vấn đề tái cân bằng nội tại của nền kinh tế. Nhưng, do bị những nhóm lợi ích, trong đó có chính quyền địa phương cản trở, chưa làm được bao nhiêu trong lĩnh vực này. Đặc biệt là, theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ưu tiên đã chuyển từ cải cách và tái cấu trúc sang giữ vững tốc độ phát triển. Vấn đề nghiêm trọng số 2: Không khuyến khích và không phát triển được tầng lớp trung lưu Lịch sử các nhà nước hiện đại cho thấy rằng tầng lớp trung lưu là nền tảng của thịnh vượng và ổn định xã hội. Nhưng phải tạo được một số điều kiện nhất định nhằm giúp tầng lớp trung lưu phát triển: tầng lớp trung lưu phải là trụ cột của cơ cấu giai cấp và chính phủ cần phải bảo đảm cho sự phát triển của tầng lớp trung lưu thông qua chính sách liên quan tới điều tiết thu nhập, nhà ở và an sinh xã hội. Trong thập kỉ gần đây, nhờ thu được lợi nhuận từ bùng nổ kinh tế, số người thuộc tầng lớp trung lưu đã gia tăng. Nhưng tốc độ phát triển lại thua xa tốc độ phát triển kinh tế nói chung, đấy là do không có cơ chế khuyến khích tầng lớp trung lưu. Nói về phân phối thu nhập, cải cách đã bị trì trệ, dẫn đến sự gia tăng chưa từng thấy khoảng cách giàu nghèo. Các gia đình có thu nhập thấp thậm chí còn khó tiến lên tầng lớp trung lưu hơn trước. Giá nhà quá cao xói mòn hết khả năng chi tiêu, làm cho họ không thể nào với tới được mức sống của tầng lớp trung lưu. Thị trường chứng khoán giảm giá, hút kiệt những khoản tiết kiệm của người dân, lại không cho họ nhận lãi suất. Đấy là những lĩnh vực đáng lẽ ra chính phủ phải làm tốt hơn. Vấn đề nghiêm trọng số 3: Khoảng cách giữa nông thôn và thành thị gia tăng Hệ thống hộ khẩu thường được dùng như là phương tiện chủ yếu nhằm kiềm chế việc di dân vào thành phố, nhất là việc di cư của những người nông dân. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù số người di cư gia tăng, hệ thống hộ khẩu tiếp tục cột người ta vào nơi công tác và có ảnh hưởng tới thuế thu nhập của các chính quyền địa phương cũng như tốc độ phát triển kinh tế địa phương vì vậy mà ít có sự khuyến khích cải cách. Một số thành phố đã nới lỏng mức độ kiểm soát, nhưng rào cản thì vẫn còn lớn và những người lao động di cư vẫn khó thích nghi với cuộc sống ở đô thị và khó nhận được chứng minh thư ở đô thị. Chậm trễ trong việc cải cách hệ thống hộ khẩu còn làm cho xung đột giữa nông thôn và đô thị thêm căng thẳng, làm trầm trọng thêm việc bán đất của chính phủ và những người nông dân không có ruộng đất rơi vào tình trạng tồi tệ hơn. Quyền lợi của người nông dân bị chà đạp, cơ cấu hai thành phần thị dân-nông dân chuyển hóa thành cơ cấu ba thành phần công nhân đô thị, công nhân nông thôn và nông dân. Vấn đề nghiêm trọng số 4: Chính sách dân số không theo kịp hiện thực Dân số đang già đi nhanh chóng. Sinh đẻ là quyền cơ bản của con người, nhưng trong thập kỉ vừa qua nhà nước vẫn tiếp tục chính sách một con cứng rắn. Chính sách này không chỉ đóng góp vào sự già hóa dân cư và suy giảm tỉ lệ người trẻ mà còn ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, giảm tiền trợ cấp cho người về hưu, làm cho nhiều gia đình chỉ có một con bị mất con càng đau khổ thêm, làm trầm trọng thêm sự mất cân đối tỉ lệ nam nữ ngay từ khi sinh, cũng như những vấn đề xã hội khác. Chính sách hạn chế sinh đẻ chà đạp lên quyền của rất nhiều người. Vấn đề nghiệm trọng số 5: Quan liêu hóa và khuyến khích về mặt vật chất các cơ sở giáo dục và nghiên cứu khoa học chưa cho thấy có sự cải thiện và tiếp tục bóp nghẹt sáng kiến. Giáo dục và nghiên cứu khoa học là nền tảng của quốc gia. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù có nhiều thành tích to lớn, người ta đã chú ý nhiều hơn tới số lượng, thay vì chất lượng. Ít nhà khoa học lớn xuất hiện, những kết quả độc đáo còn hiếm hoi. Tất cả những điều đó cản trở việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước sáng tạo. Việc quan liêu hóa hệ thống giáo dục càng tiến xa hơn. Triết lí giáo dục càng ngày càng hướng tới việc tìm kiếm lợi nhuận, còn các trường đại học và các viện nghiên cứu thì được đánh giá trên cơ sở số bài báo được công bố, điều đó đã gây thiệt hại về mặt tinh thần và khả năng đổi mới của người dân. Vấn đề nghiệm trọng số 6: Ô nhiễm môi trường tiếp tục tồi tệ hơn Không có cải thiện nào trong việc bảo vệ môi trường. “Phát triển kinh tế thô” thường phải trả giá đắt về mặt môi trường, đấy là giá người ta phải trả cho phát triển kinh tế. Trong thập kỉ vừa qua, nhiều dự án tiêu thụ nhiều năng lượng, gây ô nhiễm nặng, được khởi động; điều đó làm cho đất nước của chúng ta bị tổn thất nhiều thêm, chất lượng sống giảm sút hơn nữa. Sự thịnh vượng và đời sống bị nạn ô nhiễm đe dọa. Ngoài ra, xung đột và mâu thuẫn xảy ra thường xuyên hơn và gay gắt hơn, thử thách ngay chính quan niệm về xây dựng “nền văn minh sinh thái”. Vấn đề nghiêm trọng số 7: Chính phủ không thiết lập được hệ thống cung cấp năng lượng ổn định Mô hình phát triển kinh tế hiện nay của Trung Quốc chỉ đứng vững được nhờ có nhiều năng lượng mà thôi. Nguồn năng lượng dự trữ tính trên đầu người ở Trung Quốc rất thấp, việc cung cấp năng lượng phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu. Kết quả là, nếu Trung Quốc không giữ được nguồn cung cấp năng lượng ổn định và đa dạng thì sẽ phụ thuộc vào lòng tốt của các nước khác và kế hoạch dài hạn sẽ bị đe dọa. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù Trung Quốc đã tích cực tìm cách mở rộng thị trường ở nước ngoài và phát triển những công nghệ sản xuất năng lượng mới, nhưng nước này đã không xây dựng được mạng lưới cung cấp năng lượng ổn định hoặc không có sức mạnh quân sự cần thiết để bảo vệ cho mạng lưới đó, trong khi việc phát triển những công nghệ sản xuất năng lượng mới vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai. Vấn đề nghiêm trọng số 8: Suy thoái đạo đức và sụp đổ ý thức hệ. Chính phủ không xây dựng được một hệ thống giá trị có hiệu quả và có sức thuyết phục, được đa số dân chúng chấp nhận Nếu xã hội không thể ngăn chặn được sự suy thoái của các tiêu chuẩn đạo đức, và nếu các thành viên của nó không bị kiềm chế bởi bất cứ tiêu chuẩn đạo đức nào, không có cảm thấy xấu hổ, không có mục đích sống nào khác ngoài lợi nhuận thì chẳng mấy chốc xã hội đó sẽ tụt xuống ngang với rừng rú. Trong thập kỉ vừa qua, trong khi kinh tế phát triển nhanh chóng thì đạo đức lại xuống dốc. Đấy cũng là lúc mà tiêu chuẩn đạo đức cũ đã suy sụp, hệ tư tưởng trong thời cách mạng phá sản, còn hệ thống đạo đức hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường và nền văn minh thương mại thì không lấp đầy được khoảng trống đó. Kết quả là không còn những nguyên tắc dẫn đạo cho xã hội nữa. Thương tổn đối với tinh thần của nhân dân và hậu quả của cuộc khủng hoảng niềm tin diễn ra một cách từ từ và khó thấy. Trong thập kỉ vừa qua xu hướng này hầu như vẫn giữ nguyên. Vấn đề nghiêm trọng số 9: Phong cách ngoại giao theo lối “chữa cháy” và “giữ ổn định” thiếu tầm nhìn và tư duy chiến lược cũng như những biện pháp đặc biệt Nhà nước không tận dụng được những cơ hội diễn ra cùng với sự dịch chuyển trong trật tự quốc tế. Trung Quốc tự xếp mình vào vị trí thụ động. Trong thập kì vừa qua, mặc dù Trung Quốc đã giành được sức mạnh khi nước này tham gia giải quyết những vấn đề quốc tế và đưa ra một bộ nguyên tắc và mục tiêu liên quan tới trật tự thế giới, nhưng lại không biến được tiềm năng thành hiện thực. Nguyên do là nền ngoại Trung Quốc chỉ có những nguyên tắc và mục tiêu, nhưng lại không có khả năng lập kế hoạch chiến lược và đưa ra chương trình nghị sự, hay đúng ra là không có đủ ý chí để thực hiện chúng. Theo thuật ngữ của nguyên tắc ngoại giao thì đấy là nhà nước không có khả năng điều chỉnh công tác đối ngoại cho phù hợp với những thay đổi trong tình hình quốc tế và sức mạnh của chính Trung Quốc. Thay vì thế, lại tự giới hạn trong triết lí [của Đặng Tiểu Bình] “Ẩn mình chờ thời”. Kết quả là nền ngoại giao Trung Quốc không thể hiện được sức mạnh đã gia tăng của nó, điều đó được thể hiện trong phong cách ngoại giao “chữa cháy” và “giữ ổn định” trong khi giải quyết những vấn đề quốc tế. Điều đó là xấu đi địa vị quốc tế của Trung Quốc và xói mòn niềm tin của nhân dân Trung Quốc. Vấn đề nghiêm trọng số 10: Không cố gắng thúc đẩy cải cách chính trị và khuyến khích chế độ dân chủ Phải đi một con đường dài trước khi đến được lí tưởng là trao quyền lực về cho nhân dân. Đây là vấn đề lớn nhất và thách thức nhất. Từ kinh nghiệm hiện đại hóa của các nước khác, có thể thấy rõ ràng là vấn đề không thể giải quyết một lần là xong. Phải thực hiện một cách có phương pháp và với sự thận trọng. Nhưng, ít nhất, nhà nước cũng phải có một số hành động chứng tỏ rằng Đảng chân thành trong những cố gắng nhằm tạo niềm hi vọng cho nhân dân, chứ không phải là lưỡng lự trước những khó khăn. Trong thập kỉ vừa qua, mặc dù chính quyền Hồ-Ôn nhấn mạnh đến dân chủ, tự do, pháp quyền và cải cách chính trị, nhưng chưa có mấy tiến bộ trong lĩnh vực dân chủ hóa. Trên thực tế, giải pháp cho tất cả những vấn đề này nằm trong cải cách hệ thống chính trị, và mức độ sâu sắc của cải cách chính trị. Cho nên chính phủ phải dũng cảm và tiến những bước vững chắc nhằm thực hiện công cuộc cải cách chính trị và dân chủ ở Trung Quốc. Một thời đại đang sắp cáo chung và một thời đại mới đang bắt đầu. Vì những lí do khác nhau, Hồ và Ôn đã không thực hiện được những tiến bộ tích cực trong những lĩnh vực vừa nói bên trên. Cách thức giải quyết những vấn đề này của những người kế tục họ sẽ quyết định liệu Trung Quốc có phát triển một cách hòa bình cũng như tốc độ phát triển của nó và thậm chí có tiếp tục phát triển được hay không. Chúng ta cảm thấy khủng hoảng là vì lí do đó.
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Anh trên tạp chí The China Story ngày 8-9-2012 Bản tiếng Việt: Blog Phạm Nguyên Trường
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2012 7:37:05 GMT 9
Hồi kết cho chế độ chuyên chế dẻo dai của Đảng Cộng sản Trung Quốc? Một đánh giá ba phần về sự thay đổi quyền lực ở Trung Quốc1Cheng Li (Lý Thành) The End of the CCP’s Resilient Authoritarianism? A tripartite Assessment of Shifting Power in China (The China Quarterly, 211, September 2012, pp 595- 623). Bản dịch của Phạm Gia Minh Tóm tắt Bài tiểu luận này thách thức quan điểm đang thịnh hành về cái đuợc xem là “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Quan điểm này khẳng định rằng hệ thống chính trị độc đảng của Trung Quốc có khả năng củng cố năng lực đất nước nhằm quản trị có hiệu quả xã hội thông qua những thích ứng về định chế và điều chỉnh chính sách. Những phân tích cuộc khủng hoảng gần đây vẫn còn tiếp tục được tiết lộ ra về Bạc Hy Lai cho thấy các vết nhơ trong hệ thống chính trị Trung Quốc, đó là tình trạng dung túng người thân và phe cánh cùng những mối liên kết kiểu bảo trợ - đỡ đầu trong quá trình lựa chọn các nhà lãnh đạo; tham nhũng tràn lan, sự lũng đoạn quyền lực chính trị bởi một nhóm quan chức cấp cao ở các công ty thuộc sở hữu nhà nước ngày càng gia tăng, sự coi thường pháp luật của giới chóp bu và thất bại tiềm tàng trong các thỏa thuận mặc cả giữa các phe phái cạnh tranh lẫn nhau trong hàng ngũ lãnh đạo đảng. Bài tiểu luận cho thấy rằng “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai “của đảng cộng sản Trung Quốc thực ra chỉ là một hệ thống trì trệ xét cả trên lý luận và thực tiễn bởi lẽ, hệ thống này chống đối lại những thay đổi mang tính dân chủ rất cần thiết ở quốc gia này. Luận điểm về chế độ độc đoán chuyên quyền có tính bền bỉ và dẻo dai có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng Trung Quốc là một thể thống nhất vững chắc đang đặt ra những vấn đề liên quan tới sự thất bại của nó trong việc đánh giá các xu hướng thay đổi dường như có tính nghịch lý ở quốc gia này. Trong tiểu luận, những nghịch lý đó được khắc họa bởi ba quá trình phát triển đồng thời, cụ thể là: (1) Lãnh đạo yếu nhưng phe phái mạnh, (2) Chính phủ yếu nhưng nhóm lợi ích mạnh và, (3) Đảng yếu nhưng đất nước mạnh. Không nên nhầm lẫn giữa tính bền bỉ và dẻo dai của đất nước Trung Quốc (nếu căn cứ vào vị thế của giới trung lưu đang hình thành, sự khôn ngoan, sắc bén của các nhóm lợi ích mới và tính năng động của toàn xã hội) với năng lực và tính chính danh của đảng cộng sản Trung Quốc để điều hành đất nước. Bài tiểu luận này đưa ra kết luận cho rằng nếu như đảng cộng sản vẫn muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì đảng này phải tránh quan điểm về một “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”, đồng thời đi theo đường lối chuyển đổi dân chủ một cách có hệ thống với những bước đi dũng cảm về phía bầu cử dân chủ trong nội bộ đảng, thiết lập sự độc lập của tòa án và dần dần mở cửa cho truyền thông chủ đạo ** Nếu có một sai lầm mà cộng đồng quốc tế thường gặp khi phân tích tình hình Trung Quốc ngày nay thì đó chính là cái cách mô tả quốc gia đông dân và đang thay đổi nhanh nhất hành tinh này bằng những hình ảnh của một thực thể đồng nhất. Khi đánh giá hiện trạng và quỹ đạo tương lai của nền chính trị Trung Quốc, nhiều nhà bình luận đã không thấy sự khác biệt giữa giới tinh hoa lãnh đạo Trung Quốc với xã hội Trung Quốc. quan sát ngoại quốc ấy, sức mạnh quốc gia ngày một tăng, sự đa dạng về xã hội ngày một phong phú cùng thực tiễn giám sát và đối trọng trong nội bộ đảng đã bắt đầu hình thành chính là những yếu tố giúp củng cố chứ không hề làm suy giảm sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc. 4 Nói chung trong một bối cảnh như vậy thì người ta có xu hướng không đánh giá hết điểm yếu của chế độ độc đảng chuyên quyền khi mà những lực lượng kinh tế - xã hội trong nước đặt ra trước đảng cộng sản Trung Quốc những thách thức nghiêm trọng. Cùng lúc ấy, các phe phái cạnh tranh nhau trong ban lãnh đạo của đảng có thể thất bại trong việc dàn xếp với nhau những thỏa thuận cần thiết để bảo đảm sự thống nhất của đảng. Một vài vết nhơ quan trọng của hệ thống chính trị Trung Quốc đã bị lộ diện qua cuộc khủng hoảng chính trị xảy ra vào mùa Xuân năm 2012 liên quan đến Bạc Hy Lai, một trong những ngôi sao đang lên của đảng và là người đứng đầu một thành phố thuộc hàng lớn nhất Trung Quốc là Trùng Khánh. Ví dụ như mức độ tham nhũng dựa trên quyền lực là chưa hề có tiền lệ xét về quy mô và phạm vi trong lịch sử Trung Quốc thời nay. Điều mỉa mai là họ Bạc lại là nhà lãnh đạo nổi bật về lập trường chống tham nhũng mạnh mẽ với chiến dịch “đập tan xã hội đen”(đả hắc), thế nhưng giờ đây đa số lại coi ông ta như thủ lĩnh của xã hội đen. Kết cục là lòng tin của quần chúng vào lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc có lẽ đã rớt xuống điểm thấp nhất của thời kỳ sau Mao. Đảng đã mất đi nền tảng đạo đức vốn cao đẹp và nếu những lý lẽ đưa ra mà đúng sự thật thì dường như hoàn toàn không có những ràng buộc đạo đức nào trong cách xử sự của Cốc Khai Lai (vợ Bạc Hy Lai) và cựu Giám đốc công an Trùng Khánh Vương Lập Quân và cả chính họ Bạc bị luận tội là đã tham dự vào giết người, ám sát, tra tấn và những lạm dụng quyền lực khác. 5 Bất chấp những nỗ lực từ phía lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc cố đánh dấu sự cố này như một “hiện tượng riêng lẻ và hi hữu”, nhiều nhà trí thức của công chúng đã công khai cho rằng tham nhũng dựa vào quyền lực đang tràn lan, đặc biệt là lại có sự tham gia của gia đình các lãnh tụ đảng cấp cao chứng tỏ rằng đây là một hình thái suy đồi của thứ chủ nghĩa tư bản thân hữu (“quyền quý tư bản chủ nghĩa”) và điều này giống như một thứ luật lệ hơn là ngoại lệ trong hệ thống chính trị Trung Quốc. 6 Chuyện rắc rối của họ Bạc tất nhiên không chỉ phản ánh tính ích kỷ khét tiếng của ông ta, 7 vụ việc xìcăngđan này rõ ràng là một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng nhất kể từ năm 1989 khi xảy ra sự kiện trên quảng trường Thiên An Môn và đặt ra những thách thức lớn đối với tính chính danh của lãnh đạo ĐCSTQ nói chung. Đối với cộng đồng nghiên cứu về Trung Quốc ở nước ngoài thì điều quan trọng nhất phải là tìm hiểu sâu hơn các cuộc tranh luận hời hợt của những màn kịch chính trị theo kiểu Hollywood, bởi lẽ trên thực tế, chúng che lấp những thay đổi quyền lực quy mô lớn hơn đang diễn ra dưới những sự kiện mà bên ngoài chẳng có vẻ liên quan đến nhau. Hoàn toàn tương phản với cuộc khủng hoảng Thiên An Môn năm 1989, kinh tế và xã hội Trung Quốc ít ra là cho đến nay vẫn không bị chia rẽ bởi cuộc khủng hoảng Bạc Hy Lai, điều đó cho thấy một kịch bản là quốc gia này vẫn có thể không bị suy suyển, bất chấp hàng loạt những cuộc đấu đá quyền lực ở Trung Nam Hải. Thế nhưng một số nhà phân tích về Trung Quốc của Mỹ đã nhầm lẫn về sự bền bỉ, dẻo dai của Trung Quốc như là bằng chứng cho thấy năng lực điều hành đất nước và tính chính danh của ĐCSTQ. Những cuộc tranh luận gần đây về chủ đề “vì sao Trung Quốc sẽ không sụp đổ”đã cực kỳ sai lầm, bởi lẽ người ta có thể lập luận có lý rằng vấn đề ngày hôm nay chính là liệu đảng cộng sản sẽ sống sót được hay không chứ không phải là đất nước này có qua được hay không. 8 Tương lai nền chính trị của Trung Quốc, đặc biệt là sự sống còn của hệ thống độc đảng còn là một vấn đề gây tranh cãi và phải là đề tài cho những cuộc thảo luận chính trị tỉ mỉ và trí tuệ. Quan điểm về chế độ chuyên quyền bền bỉ và dẻo dai cùng khuôn khổ lý luận đang chiếm ưu thế hiện nay mà các học giả Phương Tây vẫn áp dụng để nghiên cứu hệ thống chính trị Trung Quốc trong một thập kỷ gần đây cần phải được đánh giá lại dưới ánh sáng của sự kiện chính trị bất bình thường mới diễn ra. Việc đánh giá có cân nhắc kỹ càng trên cơ sở dữ kiện thực tiễn đầy đủ, chính xác về cuộc khủng hoảng chính trị mới bộc lộ ra, hiện nay đặc biệt có ý nghĩa, không chỉ bởi vì Trung Quốc đang ở ngã tư đường của sự phát triển trong nước mà còn bởi giờ đây Trung Quốc có ảnh hưởng tới kinh tế thế giới và an ninh khu vực mạnh hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử hiện đại. Sự hiểu sai bối cảnh kinh tế- xã hội Trung Quốc sẽ kéo theo nguy cơ áp dụng những quyết sách của chính phủ (của các nước khác –ND) kém hiệu quả về vấn đề Trung Quốc. Bài báo này trước tiên trình bày một cách tổng quan có phê phán các luận điểm ủng hộ quan niệm chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai và dẫn giải vì sao chúng không phù hợp để hiểu rõ nền chính trị Trung Quốc hiện nay. Sau đó sẽ nhận dạng ba xu hướng thay đổi ở nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề, ba xu hướng phát triển đó sẽ được nêu tóm tắt trong ba cụm từ: 1). Lãnh đạo yếu, các phe phái mạnh; 2). Chính phủ yếu, các nhóm lợi ích mạnh; và 3). Đảng yếu, đất nước mạnh. 9 Sự thay đổi quyền lực của các khu vực bầu cử khác nhau ở Trung Quốc phản ánh những thay đổi đa chiều và năng động đang diễn ra tại đây. ChuThich 1 Tác giả xin cảm ơn Chris Bramal, Eve Cary, Jordan Langdon về những tư vấn làm sáng tỏ nhiều khía cạnh của bài báo. + Cheng Li, Giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Viện Brookings. Washing ton. Email: cli@brookings.edu
2 Căn cứ vào thực tế là Trung Quốc đang trở nên càng ngày càng đa nguyên với sự góp mặt của nhiều thành phần chính trị - xã hội mới và quá trình ra quyết định cũng ngày càng trở nên phức tạp, thì rõ ràng rằng những sự khái quát hóa cẩu thả ngày hôm nay sẽ gây ra nhiều vấn đề rắc rối hơn bao giờ hết. Trong một thập kỷ qua các nhà phân tích về Trung Quốc có xu hướng khắc họa hệ thống chính trị chuyên quyền Trung Quốc như một thực thể “bền bỉ, dẻo dai”và “mạnh”. 3 Theo lập luận của họ thì Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dường như đã tìm ra con đường bền vững để duy trì sự lãnh đạo của mình trong giai đoạn kinh tế phát triển phi mã. Dưới góc nhìn của các nhà 2 Perry Link, một người chỉ trích chính quyền Trung Quốc đã nhiều năm, mới đây đã phê phán mạnh mẽ và có cơ sở việc một số chuyên gia Mỹ nghiên cứu Trung Quốc thường sử dụng thuật ngữ “Trung Quốc”hoặc “người Trung Quốc”hoàn toàn chỉ để nói về”giới chóp bu trong đảng cộng sản Trung Quốc”. Ông Link đã cảnh báo rằng khi cho phép dùng từ “Trung Quốc” để chỉ một nhóm nhỏ giới chóp bu sẽ là điều nguy hiểm vì nó che khuất gần 1/5 dân số toàn cầu và ngăn cản cách nhìn nhận sòng phẳng về việc liệu chế độ còn tồn tại được bao lâu nữa”( 2012, 27). Đáng quan tâm hơn nữa là Gordon Chang, một nhà phê phán lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc nổi tiếng khác đã tiếp tục phán đoán về “một sự sụp đổ đang đến gần của Trung Quốc”trong khi đó thì sự sụp đổ của đảng cộng sản trung Quốc cũng được đề cập tới trước đó ( 2011). Để tham khảo bài viết đầu tiên của luận điểm của tác giả mời đọc Chang 2001. 3 David Shambaugh chẳng hạn cho rằng đảng cộng sản Trung Quốc là một “thiết chế khá mạnh và bền vững, déo dai”( 2008,176). Xem Nathan 2003; Miler 2008b Miler 2009. 4 Theo Andrew Nathan thì “những thay đổi mang tính thể chế của chế độ cho tới nay có tác dụng củng cố chứ không phải là làm suy yếu sự chuyên quyền”( 2006, 3); xem thêm Fewsmith 2006; Brown 2009;thingyson 2003; thingyson 2008;Tsai 2007;Yang 2004. 5 Điều đã được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Trung Hoa hải ngoại đó là Giang Trạch Dân, nguyên Tổng Bí thư đảng cộng sản Trung Quốc gần đây đã bình luận về vụ xì căng đan Bạc Hy Lai như sau: “Bạc đã vượt qua điểm mốc của văn minh nhân loại “Nhật báo Sing Tao, 28 tháng năm 2012 6 Ví dụ như Trương Minh ( Zhang Ming) hồi tháng 3 năm 2012 đưa ra một phát biểu phê phán kịch liệt nạn tham nhũng tràn lan của các quan chức cấp cao của đảng cộng sản Trung Quốc, chỉ vài tháng trước khi truyền thông quốc tế bắt đầu truy tìm nguồn gốc “phả hệ”của chủ nghĩa tư bản thân hữu trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc. Để tìm hiểu những nỗ lực của các cơ quan quyền lực của đảng nhằm biến vụ Bạc Hy Lai thành sự kiện có tính”riêng biệt và hy hữu” mời xem Sina News lên mạng ngày 25 tháng 5 năm 2012, news.sina.com.hk/news/1617/3/1/2673095/1.html. 7 Họ Bạc từ lâu đã nổi tiếng với những tham vọng chính trị của ông ta ( xem Li 2001,165-66). Mấy tháng trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng thì Su Wei một học giả thân cận Bạc công tác ở trường đảng Trùng Khánh đã sánh Bạc Hy Lai và thị trưởng Trùng Khánh Hoa Quốc Phong với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai trong những lời bình luận được lưu truyền trên truyền thông Trùng Khánh và trung ương. Xem Sina Global Newsnet được đưa lên mạng ngày 20 tháng 10 năm 2011 dailynews.sina.com/bg/chnews/ausdaily/20110920/18402783790.html. 8 Xem, chẳng hạn, Bell 2012
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2012 8:00:19 GMT 9
Sự chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai: Phê phán tổng quan Giới học giả Tây phương nghiên cứu về chế độ chuyên quyền có tính bền bỉ, dẻo dai của nhà nước Trung Quốc ra đời vào giữa những năm 1990 và trở thành quan điểm chủ đạo trong suốt thập kỷ gần đây. Khi mà ĐCSTQ vượt qua những bất ổn chính trị của vụ đàn áp trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989, một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về tính chính danh đã xảy ra khiến nhiều nhà phân tích về Trung Quốc bắt đầu đánh giá sức chịu đựng và khả năng thích ứng mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc vận dụng để đối phó với những thách thức cả ở trong nước và ngoài nước. Sự kế vị chính trị từ Giang Trạch Dân –thế hệ lãnh đạo thứ 3 sang Hồ Cẩm Đào –thế hệ thứ 4 đã diễn ra tại Đại hội đảng cộng sản Trung Quốc năm 2002 được coi là đáng chú ý, bởi lẽ lần đầu tiên trong lịch sử nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc ban lãnh đạo của đảng cộng sản đã chuyển giao quyền lực một cách hòa bình, có trật tự và được thể chế hóa. Một điều đã trở nên rất quen thuộc đối với các nhà phân tích Trung Quốc ở nước ngoài đó là nhìn nhận đảng cộng sản Trung Quốc là một thực thể mềm dẻo linh hoạt, có đầy đủ khả năng thích ứng nhanh với những môi trường thay đổi; trở nên chuyên nghiệp và thành thạo hơn cùng thời gian. ‘Kết quả”, như một số học giả đã nhận định đó là đã hình thành một hệ thống quyền lực được đặc trưng bởi “chế độ chuyên quyền bền bỉ và dẻo dai”. 10 Theo định nghĩa, chế độ chuyên quyền bền bỉ và dẻo dai trong điều kiện hệ thống chính trị độc đảng là chế độ phải có khả năng “gia tăng năng lực của quốc gia để quản trị và điều hành một cách có hiệu quả”thông qua những thích ứng mang tính định chế và những điều chỉnh chính sách. 11 Theo một số nhà phân tích, hệ thống chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai có thể chống lại hoặc ngăn chặn những đòi hỏi dân chủ. Bởi vậy không có gì là ngạc nhiên khi những đại diện bảo thủ trong đảng tìm cách củng cố niềm tin cho rằng “dân chủ là thứ không phù hợp đối với Trung Quốc”, và đó mới chính là chế độ chuyên quyền bền bỉ và dẻo dai. 12 Có thể lấy một ví dụ làm bằng chứng, đó là một tuyên bố gần đây về “năm không đối với Trung Quốc”của Chủ tịch Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Ngô Bang Quốc. 13 Luận điểm về chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai có vẻ như bị bế tắc nếu tìm hiểu sự thay đổi và tính liên tục trong khuôn khổ những chính sách vĩ mô mà mỗi thế hệ các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc theo đuổi trong hơn hai thập kỷ qua. Trong cuốn sách nổi tiếng “Chuyến đi xuống phương Nam”năm 1992, Đặng Tiểu Bình đã kêu gọi cần cải cách theo xu hướng thị trường nhiều hơn nữa và thực hiện tư nhân hóa nền kinh tế trong khi vẫn tiếp tục đàn áp bất đồng chính kiến. Giang Trạch Dân đã mở rộng cơ sở quyền lực của đảng cộng sản Trung Quốc bằng cách kết nạp các nhà kinh doanh và những đại biểu của các thành phần kinh tế- xã hội mới (được gọi là “thuyết ba đại diện”), trong khi đó vẫn tung ra những chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công – Falun Gong, một nhóm những người theo đức tin mới ra đời. Lời kêu gọi mang tính dân túy “xã hội hài hòa”của Hồ Cẩm Đào nhằm giảm bớt những khác biệt về kinh tế và căng thẳng xã hội trong khi đó lại tăng cường kiểm duyệt truyền thông và sự giám sát xã hội của cảnh sát, đặc biệt tại các vùng có những sắc tộc thiểu số sinh sống. Trong tất cả những giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội đó, các lãnh tụ tối cao của đảng cộng sản Trung Quốc đã thúc đẩy một số lĩnh vực một cách có tính toán cả về ý thức hệ và chính trị đồng thời gây áp lực chính trị ở các lĩnh vực khác. Một số phương thức thích ứng của ĐCSTQ lại chính là bài học được rút ra từ những kinh nghiệm của các chế độ độc tài và chuyên quyền khác. Như David Shambaugh đã quan sát, một số chính sách và quy trình mới của ĐCSTQ đã được phát triển trên cơ sở học tập có hệ thống các quốc gia hậu cộng sản và không cộng sản. ĐCSTQ đi tiên phong trong nỗ lực “cải cách và xây dựng lại chính mình theo xu hướng thể chế hóa –và bằng cách đó để duy trì tính chính danh và quyền lực”. 14 Theo Alice Miller, “phong cách lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào với tư cách là người đứng đầu các nhà lãnh đạo khác cho thấy họ đã biết cách tránh sự độc tài chuyên quyền cũng như tình trạng trì trệ (chẳng hạn như do luôn chọn người cao tuổi nhất làm lãnh đạo –ND) mà Liên Xô đã gánh chịu vào đầu những năm 1980, bởi vì Liên Xô đã thất bại khi phải giải quyết cùng một vấn đề này”. 15 Hệ thống chuyên quyền Trung Quốc có bền bỉ và dẻo dai không? Góc nhìn từ bên trong của những người có tư tưởng cấp tiến ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc Giả định là chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai của ĐCSTQ cho phép lãnh đạo đảng vượt qua những cơn bão chính trị trong một số năm và thập kỷ sắp tới. Tuy nhiên, như thế là đã đi quá xa với luận điểm này. Richard McGregor, nguyên trưởng văn phòng của báo Financial Times và đồng thời là tác giả cuốn sách hay được trích dẫn nhan đề: “Đảng”đã cho rằng quan điểm cho rằng “đảng không thể cầm quyền mãi”là một trong “năm chuyện hoang đường về ĐCSTQ”. 16 Theo MacGregor thì “tất nhiên, ĐCSTQ có thể làm được như vậy, hoặc ít ra thì cũng làm được như thế trong tương lai trước mắt”. 17 Điều oái oăm là các chỉ thị chính thức của ĐCSTQ thường ít lạc quan hơn về năng lực quản trị, điều hành và tính bền bỉ, dẻo dai nhưng phi dân chủ của họ. Tháng 9 /2009, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ khóa 17 đã kêu gọi thúc đẩy dân chủ trong đảng và tăng cường đợt vận động chống tham nhũng trong lãnh đạo đảng. Theo những chỉ thị đã được thông qua tại hội nghị thì có rất nhiều vấn đề nội bộ của ĐCS đã trở nên trầm trọng hơn trước tác động của những diễn biến tình hình trong nước và quốc tế mới đây khiến “làm suy yếu nghiêm trọng sức sáng tạo, sự đoàn kết nhất trí và hiệu năng xử lý những vấn đề phát sinh đó. 18 Bởi vậy sự lãnh đạo sâu sát của đảng “chưa bao giờ lại khó khăn, gian khổ và cấp bách như hiện nay”. 19 Chỉ thị đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của dân chủ trong đảng, mô tả điều này như máu trong cơ thể của đảng”(Đảng đích sinh mệnh). 20 Gần đây hơn, tờ Nhân dân nhật báo cơ quan tuyên truyền chính thức của ĐCSTQ đã có một bài xã luận nhân dịp 91 năm ngày thành lập ĐCSTQ kêu gọi tăng cường hơn nữa nỗ lực vượt qua bốn nguy cơ đang đối mặt ĐCSTQ đó là “tư tưởng lung lạc, thiếu năng lực, xa rời quần chúng và tham nhũng lan tràn”. 21 Cũng cần nói rõ rằng đối với các nhà lãnh đạo có tư tưởng cấp tiến trong ĐCSTQ như Ôn Gia Bảo, Lý Nguyên Triều, Uông Dương và các cố vấn của họ thì dân chủ trong đảng chỉ là phương tiện, không phải là mục tiêu tối hậu để hiện thực hóa khát vọng dân chủ hóa đất nước Trung Quốc.Trong nhiều dịp, các vị lãnh đạo Ôn, Lý và Uông đã lập luận dứt khoát rằng dân chủ phản ánh những giá trị toàn cầu và cần được chia sẻ cùng với khát vọng của nhân dân Trung Quốc. Trả lời phỏng vấn truyền thông Trung Quốc, Du Khả Bình –một nhà lý luận xuất sắc của ĐCSTQ đã phát biểu: “sẽ là nguy hiểm chết người nếu cho rằng Trung Quốc chỉ cần dân chủ trong đảng, thay vì một nền dân chủ thực sự hơn cho nhân dân (nhân dân dân chủ) hay một nền dân chủ xã hội (xã hội dân chủ), và cả hai hình thức dân chủ này đều bao hàm bầu cử dân chủ đại chúng và thực hiện từ cơ sở. 22 Đối với Du Khả Bình, dân chủ trong nội bộ đảng và dân chủ đối với nhân dân là những khái niệm bổ trợ nhau. Dân chủ trong nội bộ đảng được thực hiện từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài, còn dân chủ nhân dân được thực hiện từ dưới lên trên. Một cách lý tưởng nhất là hai hình thức dân chủ đó phải gặp nhau ở giữa. Về mặt ý nghĩa chiến lược, Du Khả Bình và những đồng nghiệp cùng chí hướng với ông cho rằng dân chủ trong đảng có một vị trí hết sức quan trọng vì chính điều này sẽ mở đường cho nền dân chủ Trung Quốc theo một nghĩa rộng lớn hơn. Du Khả Bình tin tưởng rằng nỗ lực tìm tòi dân chủ cho Trung Quốc chắc chắn sẽ đưa đến một “cú bức phá về chất”theo một kiểu nào đó. 23 Tương tự như vậy, Vương Trường Giang, một giáo sư kiêm chủ nhiệm bộ môn xây dựng đảng thuộc Trường Đảng Trung Ương gần đây đã lập luận rằng thúc đẩy dân chủ trong nội bộ đảng không được hy sinh dân chủ của toàn xã hội. Giáo sư này cũng dẫn chứng những cuộc khủng hoảng gần đây, ví dụ như căng thẳng sắc tộc ở Tây Tạng và Tân Cương cũng như bạo loạn xã hội khắp nơi để nêu bật sự cần thiết phát triển dân chủ ở Trung Quốc. Theo Vương Trường Giang thì “dân chủ cho xã hội là thứ không thể chờ đợi mà có được”. 24 Những quan điểm vừa nêu của các học giả cấp tiến làm việc tại cơ quan của ĐCSTQ rõ ràng khác xa với nhận định chung của Richard McGregor cho rằng nhân dân và các lãnh đạo Trung Quốc không quan tâm đến dân chủ. McGregor gần đây tuyên bố rằng: “Ý tưởng cho rằng Trung Quốc một ngày nào đó sẽ trở nên dân chủ hoàn toàn chỉ là một khái niệm phương Tây, ra đời từ những lý thuyết của chúng ta về các hệ thống chính trị tiến hóa như thế nào. Cho tới nay có đủ bằng chứng để kết luận rằng chúng đã sai.” 25 Quan điểm của McGregor không tương thích với kết quả thăm dò công luận được thực hiện mới đây ở Trung Quốc. Tờ Hoàn Cầu Thời báo (một chi nhánh của tờ Nhân Dân nhật báo) bằng tiếng Anh thông báo rằng trung tâm nghiên cứu của họ gần đây đã tiến hành một cuộc điều tra trên 1,010 người dân ở 7 thành phố của Trung Quốc và thấy rằng 63.6% người được hỏi ý kiến không phản đối việc chấp thuận nền dân chủ kiểu phương Tây ở Trung Quốc. 26 Từ Trung Quân một học giả xuất sắc nguyên là giám đốc Viện nghiên cứu Hoa kỳ thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc (CASS) có vẻ như không đồng ý với McGregor lẫn với các nhân vật có tư tưởng bảo thủ trong ban lãnh đạo ĐCSTQ. Trong một cuốn sách mới biên soạn gần đây, bà đã thẳng thừng thách thức các quan chức của ĐCSTQ, những người đã phát tán luận điểm sai lầm và tai hại khi cho rằng dân chủ là thứ không phù hợp với nhân dân Trung Quốc và những giá trị phổ quát toàn cầu chẳng là gì nếu không phải là âm mưu của phương Tây chống phá Trung Quốc. 27 Bà đã dùng thuật ngữ “ngu đần”(mông muội chú nghị) để mô tả nỗ lực của những kẻ chống đối thay đổi dân chủ ở Trung Quốc khiến quần chúng bị lạc lối. Bà đặc biệt cảnh báo mối nguy hại của chủ nghĩa dân tộc –một xu hướng chấp nhận những bất công xã hội nhưng lại nhân danh vì quyền lợi quốc gia. 28 Từ Trung Quân quan sát và thấy rằng, vào những thời khắc mang tính sống còn trong lịch sử phong trào kéo dài cả thế kỷ đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa hợp hiến, những thế lực bảo thủ luôn vẽ ra cái gọi là “bản chất Trung Quốc”và chủ nghĩa yêu nước để chống lại ảnh hưởng của phương Tây và tiến trình chuyển đổi chính trị ở Trung Quốc. 29 Cũng cần phải ghi nhận rằng Du Khả Bình, Vương Trường Giang, và Từ Trung Quân đều là những đảng viên ĐCSTQ. Không ai trong số họ thuộc diện bất đồng chính kiến hoặc ủng hộ quần chúng nổi dậy đòi thay đổi chính trị triệt để. Mặc dù cả ba người dường như có lo ngại về sự thiếu vắng một cuộc cải cách thể chế chính trị thực sự trong thời gian gần đây. Chính những nhà tư tưởng đó ở trong đảng vẫn vận động mạnh mẽ cho dân chủ, pháp trị và nhân quyền ở Trung Quốc và họ coi đó là những giá trị phổ quát, toàn cầu chứ không chỉ là những lý tưởng của phương Tây. Tất cả họ đâu có ngưỡng mộ chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai. Có thể lập luận rằng một hệ thống chính trị thực sự là bền bỉ và có sức sống dẻo dai thì nó phải luôn cởi mở chào đón những ý tưởng và thực tiễn mới, bởi lẽ một thứ thay đổi ắt sẽ kéo theo những thay đổi khác nữa.Nếu không đó sẽ chỉ còn là một hệ thống trì trệ. Một số học giả Tây phương cũng đã phủ nhận luận điểm về chế độ chuyên quyền bền bỉ và dẻo dai. Rich Baun chẳng hạn, đã khẳng định rằng dân chủ chính là hệ thống chính trị sẵn sàng nhất để đáp ứng những lực lượng xã hội mới nổi lên, do đó dân chủ cũng sẽ thắng lợi ở Trung Quốc cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. 30 Thể chế chính trị ở Trung Quốc có hiệu quả và bền vững ? Một cách cụ thể hơn, luận điểm về chế độ chuyên quyền bền bỉ đang trở nên ngày càng phải bàn cãi trong bối cảnh của xã hội Trung Quốc hiện nay. Trong bài phân tích của mình về vấn đề tại sao ĐCSTQ lại có thể giữ được quyền lực kể từ sự kiện Thiên An Môn năm 1989, Andrew Nathan đã vạch ra bốn sự phát triển thể chế trong hệ thống chính trị Trung Quốc: 1/. Gia tăng việc áp dụng các chuẩn mực và quy phạm trong chính sách về lãnh đạo kế cận. 2/. Gia tăng cách đánh giá đề bạt giới lãnh đạo chính trị tinh hoa dựa trên cơ sở tài năng, chống lại quan điểm bè phái. 3/. Chuyên biệt hóa và chuyên môn hóa theo chức năng các định chế (cơ quan, tổ chức) bên trong chế độ chính trị, và 4/. Thành lập các thiết chế nhằm tăng cường tính chính danh của ĐCSTQ trong quảng đại quần chúng. 31 Tất cả các cơ chế hoạt động của những thiết chế đó luôn được bàn đến trong chương trình nghị sự của lãnh đạo ĐCSTQ. Một vài cơ chế đã có ảnh hưởng tới phong cách chính trị của các vị lãnh đạo và làm thay đổi cuộc chơi của giới chóp bu chính trị trong thập kỷ vừa qua. Thế nhưng cũng có thể nói rằng cho tới nay, không một cơ chế nào trong số nêu trên lại tỏ ra rất hiệu quả để giúp cho hệ thống thêm bền bỉ và dẻo dai. Liên quan đến điểm đầu tiên của Nathan, quả thực là trong hai thập kỷ qua đã có một số quy tắc và tiêu chuẩn mang tính thiết chế được đưa vào áp dụng, ví dụ như giới hạn về số nhiệm kỳ và yêu cầu về độ tuổi nghi hưu. Những quy định này không những làm tăng ý thức về độ chắc chắn, tin cậy và trung thực trong lựa chọn người làm lãnh đạo mà còn đẩy nhanh sự luân chuyển giới lãnh đạo chính trị của ĐCSTQ. Tuy nhiên có một số vấn đề của ngày hôm nay lại là hậu quả của những quyết định từ ngày hôm qua. Một trong những hiện tượng quan trọng nhất ở Trung Quốc hiện nay là việc có nhiều vị lãnh đạo đã nghỉ hưu càng ngày càng trở nên nói thẳng, nói thật khi họ lên tiếng phê phán các chính sách do ban lãnh đạo đương chức đề ra. Đó cũng là một sự phát triển chính trị lành mạnh sẽ đưa Trung Quốc tới một xã hội minh bạch và đa nguyên hơn. Tuy nhiên, điều đó cũng rất nhạy cảm về chính trị đối với một đất nước luôn đặt sự hài hòa và ổn định ở một vị trí ưu tiên hàng đầu. Trong khi sự phê phán của các vị lãnh đạo đã nghỉ hưu có thể phản ánh ý thức chân thành của họ về nhu cầu phải có những chính sách đúng đắn trong thời điểm rất hệ trọng đối với quá trình phát triển của Trung Quốc thì họ cũng có thể bị nhìn nhận như là một cách để các vị lãnh đạo đã nghỉ hưu bày tỏ nỗi bất bình và bức xúc riêng. Do những hạn chế về nhiệm kỳ và độ tuổi nên nhiều vị lãnh đạo có năng lực và còn khỏe mạnh đã phải từ chức khi đã gần tuổi 60. Một số vị sau này đi theo hướng hoạt động kinh doanh (hạ hải) sau khi về hưu còn một số khác lại tận dụng “cơ hội cuối cùng “để dùng quyền lực chính trị phục vụ lợi ích cá nhân hoặc thực hiện các hành động phi pháp khác, được biết đến ở Trung Quốc dưới cái tên “hội chứng của tuổi 59”(“ngũ thập cửu tế hiện tượng”). 32 Kết cục là việc áp dụng nghiêm ngặt các quy định mang tính thiết chế và các quy chuẩn trong hơn hai thập niên qua đã làm tăng đáng kể số lượng các vị lãnh đạo về hưu và họ đã trở thành một lực lượng chính trị quan trọng một cách chính đáng. Trừ khi các cơ quan của ĐCSTQ chấp nhận thêm những cơ chế tuyển chọn lãnh đạo cao cấp, vấn đề phân biệt đối xử do tuổi tác và sự oán giận của các vị lãnh đạo nghỉ hưu dường như sẽ trở nên ngày càng gay gắt. Trước khi xảy ra vụ khủng hoảng Bạc Hy Lai nhiều nhà phân tích đã cho rằng việc thể chế hóa nền chính trị Trung Quốc đã phát triển khá tốt đủ để lựa chọn được lớp lãnh đạo kế vị ở Đại hội đảng lần thứ 18 một cách êm thấm và trật tự như hồi năm 2002. Một ví dụ gần đây đáng được chú ý nhất là cuốn sách của Robert Lawrence Kuhn, một doanh nhân đã trở thành người viết về tiểu sử của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Qua một số lượng lớn các cuộc phỏng vấn các ngôi sao đang lên của cái được gọi là thế hệ thứ năm các nhà lãnh đạo CHNDTQ, Kuhn không đưa ra lời đề nghị nào mà chỉ ca ngợi tài năng, minh triết và tầm nhìn của họ. 33 Kuhn và những những nhà phân tích cùng quan điểm ở nước ngoài đã bỏ sót những khiếm khuyết của ĐCSTQ –hay nói chính xác hơn là tình trạng trì trệ của hệ thống chuyên quyền mỗi khi phải lựa chọn lãnh đạo tầm cỡ quốc gia. Tầm quan trọng của vụ Bạc Hy Lai có ảnh hưởng trên phạm vi lớn là do ông ta đã xông xáo và bằng những cách chưa có tiền lệ để vận động một ghế trong thường vụ Bộ chính trị khóa tới cho đến khi bị khai trừ khỏi đảng có lẽ do những tội ác được viện dẫn ra cùng “sự vi phạm các nguyên tắc của đảng”. Tới lúc nào mà còn chưa có một cơ chế hợp pháp và chính đáng hơn để lựa chọn lãnh đạo thì những vấn đề tương tự sẽ còn tiếp tục phá hoại sự thống nhất trong lãnh đạo và năng lực điều hành của ĐCS. Về vấn đề giám sát và đối trọng trong nội bộ đảng nói chung thì lãnh đạo chính trị Trung Quốc quả thực đã trải qua một quá trình tăng cường tính thể chế hóa trong suốt thập kỷ vừa qua, đúng như Alice Miller đã quan sát. 34 Nghiên cứu của tôi về khả năng xuất hiện tính lưỡng đảng bên trong tập đoàn lãnh đạo chóp bu của ĐCSTQ cũng tập trung vào những quy chuẩn và thông lệ mới trong đời sống chính trị Trung Quốc. 35 Tuy nhiên một điều rất quan trọng cần nhận rõ đó là các thử nghiệm về thể chế mới được đưa ra có thể hoặc là thất bại hoặc là dẫn đến những thay đổi tiếp theo còn lớn hơn nếu như hệ thống thực sự là bền bỉ và dẻo dai. Nhận định thứ hai của Nathan về chế độ sử dụng nhân tài trong việc hình thành giới lãnh đạo ở Trung Quốc có thể nghe có lý ở phương Tây. Trong nhiều trường hợp, các lãnh tụ chính trị ở những nền dân chủ phương Tây còn chưa được chuẩn bị kỹ cả về giáo dục lẫn nghề nghiệp cho tới trước khi được bầu lên nắm quyền. Nói một cách tương đối, các lãnh đạo Trung Quốc đều được học hành tử tế, đó là chính xác trong trường hợp thế hệ thứ ba các nhà lãnh đạo do Giang Trạch Dân đứng đầu- nhiều người trong số họ được đào tạo ở nước ngoài (ở Liên Xô và các nước Đông Âu từ những năm 1950) –cũng như Hồ Cẩm Đào thuộc thế hệ thứ 4 mà phần lớn có học vấn kỹ sư. 36 Theo nghĩa thông thường thì các lãnh đạo đó được nhìn nhận như một giới kỹ trị. Đối với thế hệ thứ 5 các lãnh đạo. mặc dù họ ít mang tính kỹ trị hơn hai thế hệ trước nhưng một số đã làm việc ở phương Tây và Nhật Bản với tư cách là các học giả - khách mời. Nói chung, họ có vẻ biết nhiều về tình hình thế giới hơn các đồng nghiệp của họ ở các nước khác. Theo một số nhà quan sát ngoại quốc, đa số các nhà lãnh đạo tầm quốc gia ở Trung Quốc trước đó đã phục vụ ở vị trí lãnh đạo các tỉnh, thành trong nhiều năm thậm chí nhiều thập niên, và do vậy họ đã được chuẩn bị kỹ cho phạm vi hoạt động tầm quốc gia. Tuy vậy, trong mắt của công chúng Trung Quốc, đặc biệt là những người hay phê phán đảng, phương pháp chọn lựa lãnh đạo của CHNDTQ là một thứ gì đó nhưng không phải là vì nhân tài. Do thiếu sự cạnh tranh dân chủ nên có nhiều biến dạng của sự dung túng,ưu đãi bà con, bạn bè thân thuộc (ví dụ như quan hệ huyết thống, cùng học, đồng hương hoặc quan hệ bảo trợ - đỡ đầu) vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ yếu. Có ba hiện tượng mới đáng được quan tâm đặc biệt. Thứ nhất, tất cả các ứng viên vào Bộ chính trị khóa tới và đặc biệt là Ủy ban thường vụ sẽ được bầu chọn tại Đại hội đảng lần thứ 18 vào tháng 11 /2012 này đều được biết đến vì những mối quan hệ gia đình, phe cánh hoặc bảo trợ. Có thể lập luận một cách có lý như nhiều người ở Trung Quốc vẫn suy nghĩ, đó là sự thăng tiến lên đỉnh cao quyền lực trong một quốc gia đông dân nhất thế giới này buộc phải trông cậy vào những người đỡ đầu- bảo trợ nặng ký nhiều hơn là bằng phẩm chất lãnh đạo và thành tích trong công tác của bản thân. Thứ hai, một số lớn các lãnh đạo của thế hệ 5 và 6 có bằng cấp trên đại học. Chẳng hạn như trong số 402 thành viên Ủy ban Thường vụ mới bầu ở 31 tỉnh có 298 người (chiếm 74%) có bằng Thạc sĩ và 92 người (22.8%) có bằng Tiến sĩ. 37 Thế nhưng khi nhìn gần hơn vào các vị lãnh đạo đó thì mới thấy tuyệt đại đa số đều tham dự các khóa học sau Đại học trên cơ sở Tại chức – bán thời gian và thường là trong những năm gần đây khi họ đang giữ trọng trách lãnh đạo của chính quyền tỉnh và thành phố. Những văn bằng chứng nhận trình độ học vấn cấp cao đó đã trở thành một thứ trách nhiệm pháp lý đối với các vị lãnh đạo đó. Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) một học giả Mỹ nổi tiếng chuyên nghiên cứu giới tinh hoa trong nền chính trị Trung Quốc đã gọi hiện tượng lạm phát bằng cấp trên Đại học trong hàng ngũ quan chức Trung Quốc là dấu hiệu của “một sự lừa dối có tính hệ thống”. 38 Pei viết tiếp: “có nhiều quan chức Trung Quốc sử dụng bằng giả hoặc có được những thành tích học tập một cách đáng ngờ cốt để đánh bóng bản lý lịch của mình” 39 Cũng theo chiều hướng này, Uông Ngọc Khải một giáo sư của Học viện Quản lý Trung Quốc gần đây đã chỉ ra rằng: “Khi bạn nhìn thấy những tấm bằng Tại chức- bán thời gian của các lãnh đạo cao cấp bạn có thể phán đoán nhiều khả năng họ là những kẻ không trung thực”.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2012 8:07:52 GMT 9
Hiện tượng thứ ba chắc chắn sẽ đáng lo hơn cả và nó đã được công bố rộng rãi ngay cả trên truyền thông chính thống của Trung Quốc. Đó là việc những quan chức không có nền tảng gia đình vững mạnh hoặc các mối quan hệ chính trị (“guanxi”) đã phải đều đặn sử dụng tiền hối lộ để mua chức (“mãi quan”) . 41 Theo báo chí Hong Kong và Singapore (mặc dù vẫn chưa được kiểm chứng), Lưu Chí Quân, cựu Bộ trưởng Bộ đường sắt trước khi bị bắt vì tội danh tham nhũng hồi tháng 2 /2011 định sử dụng hai tỷ nhân dân tệ để “mua”chức Phó Thủ tướng và cả một ghế trong Bộ chính trị khóa bầu năm 2012. 42 Ba hiện tượng vừa nêu, dễ hiểu là đã làm cho ô uế uy tín của ĐCSTQ trong quần chúng về vấn đề chọn và đề bạt người tài. Về vấn đề phân chia quyền lực trong hệ thống chính trị Trung Quốc thì từ năm 1989 sau khi khai trừ ông Triệu Tử Dương ĐCSTQ công khai tuyên bố không quan tâm tới việc đi theo nguyên tắc tam quyền phân lập của phương Tây. Thay vào đó, lãnh đạo đảng đề ra chủ trương phân chia về mặt định chế tổ chức đảng ra thành ba bộ phận,cụ thể là: ra quyết định, thực thi chính sách và giám sát. Như vậy thì quyền lực của ĐCSTQ vẫn sẽ không bị giám sát, và như vậy thì điều mà Andrew Nathan đã mô tả như là “chuyên môn hóa theo chức năng các định chế trong nội bộ chế độ”trên quy mô lớn trên thực tế chỉ toàn là những lời nói rỗng tuếch của lãnh đạo đảng. Lấy ví dụ, quyền lực của Tòa án đã càng ngày càng trở nên thứ yếu trong cấu trúc chính trị của nước CHNDTQ trong thập kỷ vừa qua khi mà đảng mạnh mẽ chống lại tính độc lập của tòa án và trao quyền lực không hạn chế cho Ủy ban trung ương về Chính trị và Luật pháp (CCPL - Chính pháp Ủy) thuộc ĐCSTQ. Cơ quan này trông coi tất cả các tổ chức thực thi pháp luật bao gồm Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ An ninh quốc gia. Quả thực CCPL là một cơ quan nắm rất nhiều quyền lực. 43 Sự thiếu vắng chuyên môn hóa theo chức năng giữa các cơ quan của chính phủ đã làm suy yếu lập luận cho rằng các kênh tham gia về chính trị với quần chúng được mở rộng –lĩnh vực phát triển về thể chế thứ 4 mà Nathan đã mô tả. Theo Bruce thingyson, ĐCSTQ đã lập nên các định chế chính trị mới “để định hướng sự tham gia chính trị và làm cầu nối giữa nhà nước và xã hội “chẳng hạn như các hội đồng làng xã do dân bầu ra, các cơ quan chính phủ tiếp nhận đơn kiến nghị của dân và xuống thị sát cơ sở khi có khiếu nại (được biết đến với tên gọi là hệ thống tín phỏng). 44 Một vài nhà quan sát phương Tây nhận định rằng “ở Trung Quốc các vụ biểu tình phản đối, phát hiện tố cáo tham nhũng và các hội đồng làng xã do dân bầu ra đã đảm bảo ở một mức độ nhất định trách nhiệm giải trình tuy chưa có dân chủ”. 45 Số lượng và quy mô các cuộc biểu tình phản đối tuy nhiên đã tăng trong những năm gần đây và một số cuộc đã gia tăng tính chất bạo động. Để đáp lại, lãnh đạo Trung Quốc cuối cùng cũng đã đưa ra một giải pháp mà Mary Gallagher gọi là “hỗn hợp giữa củ cà rốt và cây gậy”- một mặt là đàn áp chính trị, mặt khác là gia tăng các hàng hóa và dịch vụ công phục vụ quần chúng”. 46 Có một thực tế là lãnh đạo của ĐCSTQ đang bị mắc chứng bệnh hoang tưởng về nhu cầu phải giữ được ổn định xã hội đã cho thấy những hạn chế nghiêm trọng của việc thiết chế hóa quần chúng tham gia vào quản lý xã hội. Người bạn đồng minh hôm nay sẽ trở thành kẻ thách đấu ngày mai ? Vai trò của giới trung lưu Một trong những lý lẽ chủ yếu của luận điểm về “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”là ĐCSTQ đã dựa trên sự phát triển kinh tế và khuyến khích vật chất nhằm ngăn chặn từ cơ sở nhu cầu muốn thay đổi kinh tế- xã hội. “nguyên nhân chính vì sao ĐCSTQ lại mạnh như thế”, một nhà báo nước ngoài nhận xét, “đó là người dân Trung Quốc nhận thức được sự cải thiện rõ rệt đạt được chỉ trong một giai đoạn rất ngắn”. 47 “Các lực lượng kinh tế - xã hội, đặc biệt là những doanh nhân và giới trung lưu mới hình thành hiểu rõ rằng họ là những đồng minh chính trị với chế độ của ĐCSTQ. 48 Thế nhưng giả định ấy cần được soi xét kỹ lưỡng. Có thể đối tượng đấu tranh chính trị hôm qua lại trở thành đồng minh của hôm nay, và cũng vậy, người đồng minh hôm nay có thể sẽ là kẻ kích động quần chúng ngày mai. Những nghiên cứu gần đây được thực hiện ở Trung Quốc cho thấy giới trung lưu Trung Quốc có xu hướng hoài nghi và nhạo báng những lời hứa hẹn chính trị của chính quyền rõ ràng hơn các nhóm dân cư khác, họ cũng tỏ ra đòi hỏi hơn việc nghiêm túc thực hiện chính sách và nhạy bén hơn với nạn tham nhũng của quan chức.” 49 Nếu như giới trung lưu Trung Quốc bắt đầu cảm thấy tiếng nói của họ bị ngăn chặn, sự tiếp cận thông tin bị khóa chặt một cách không công bằng hoặc không gian hoạt động xã hội bị hạn chế vô lối, thì lúc đó, thái độ bất đồng chính kiến bắt đầu hình thành. 50 Thái độ bất bình của giới trung lưu Trung Quốc đối với các chính sách của chính phủ ngày càng trở nên rõ ràng, một phần do tốc độ bành trướng của giới này bị chậm lại và tình trạng chênh lệch, bất bình đẳng kinh tế lại gia tăng trong những năm gần đây. Tỷ lệ thất nghiệp cao trong hàng ngũ sinh viên đại học, cao đẳng (mà đa số họ xuất thân từ các gia đình trung lưu và bản thân họ nhiều khả năng sẽ gia nhập giới đó trong tương lai) nhất định là một tín hiệu đáng lo ngại gửi tới chính phủ Trung Quốc. Tại diễn đàn gần đây với chủ đề “Phản ứng của Trung Quốc trước khủng hoảng tài chính toàn cầu”do Viện Hàn lâm Cải cách và Phát triển tổ chức tại Bắc Kinh các học giả đã lập luận rằng chính phủ cần để ý nhiều hơn đến nhu cầu và các mối quan tâm của giới trung lưu –nếu không, theo lời các học giả, giới trung lưu “nhạy cảm”ở Trung Quốc sẽ có thể trở thành một giới trung lưu “nổi giận”. 51 Các thành viên của giới trung lưu Trung Quốc rất tức giận đối với nạn tham nhũng của quan chức và sự thiếu vắng giải trình trách nhiệm và minh bạch của lãnh đạo ĐCSTQ trong các vụ việc như an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường và tai nạn tàu cao tốc –viên đạn năm 2011 ở Ôn Châu (Wenzhou) làm thiệt mạng 40 hành khách. Cũng giống như các đồng sự của họ ở khắp nơi, giới trung lưu Trung Quốc rất quan tâm tới tự do báo chí và phẫn nộ trước hành động kiểm duyệt của chính phủ. Giới trung lưu Trung Quốc đặc biệt quan tâm tới quyền lực của nhóm đầu sỏ các doanh nghiệp nhà nước (SOE) đang ngày càng gia tăng một cách rõ rệt vì lí do xu hướng này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của khu vực kinh tế tư nhân. Một nghiên cứu do các học giả Trung Quốc tiến hành cho thấy toàn bộ lợi nhuận của 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất năm 2009 còn chưa bằng thu nhập của 2 công ty nhà nước,đó là China Mobile và Sinopec 52 . Một điều trớ trêu là tỷ lệ thu hồi vốn dòng của khu vực tư nhân năm 2009 là 8.2% trong khi đó ở khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có 3.1%. 53 Tốc độ tăng trưởng rất ấn tượng của China Mobile, ít ra cũng một phần nhờ vị thế độc quyền trên thị trường nội địa viễn thông Trung Quốc. Với các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ độc quyền trong khu vực viễn thông nên không có động lực khuyến khích các công ty tiên phong này đi theo con đường đổi mới công nghệ. Hứa Tiểu Niên, giáo sư kinh tế và tài chính của trường Kinh doanh Quốc tế Âu Châu –Trung Quốc tại Thượng Hải đã dùng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản thân hữu”hay “chủ nghĩa tư bản nhà nước”để chỉ sự e dè, lo ngại của mình trước xu thế đang trỗi dậy của sự độc quyền nhà nước. 54 Ông cho rằng, với sự bành trướng nhanh chóng của các doanh nghiệp nhà nước trong mấy năm gần đây, Trung Quốc thực chất là đã bắt đầu quá trình đi ngược lại kế hoạch phát triển đất nước của Đặng Tiểu Bình. Theo Hứa Tiểu Niên, Trung Quốc đang rút ra một cách nhầm lẫn bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính gần đây và đang đi theo hướng sai lầm. Theo vị giáo sư này thì kẻ hưởng lợi chủ yếu khi các doanh nghiệp nhà nước mở rộng chính là các quan chức tham nhũng chứ chẳng phải là nhân dân Trung Quốc. Ông cho rằng ngày nay ở Trung Quốc, doanh nhân đích thực chỉ có ở khu vực kinh tế tư nhân mà không thể là các SOE vì các nhà quản lý SOE không có tinh thần kinh doanh lẫn ý thức trách nhiệm về những mất mát, thua thiệt của doanh nghiệp mình. 55 Nói chung, các doanh nhân tư doanh luôn bị từ chối các khoản vay và những điều kiện ưu đãi. Đồng thanh với phê phán của Hứa Tiểu Niên, giáo sư tài chính Trần Chí Vũ ở đại học Yale đã cho thấy 25.5 % chi tiêu ngân khố ở Trung Quốc năm 2011 được dành cho an sinh xã hội, y tế công cộng, giáo dục và các hàng hóa công khác, trong khi đó 38% chi tiêu ngân khố được dành cho các chi phí hành chính. Ngược lại, ở Hoa Kỳ chi tiêu ngân khố cho hai phạm trù này tương ứng là 73% và 10%. 56 Trần Chí Vũ khuyến cáo tái phân phối nguồn tài chính thông qua các cải cách dân chủ trong hệ thống chính trị Trung Quốc và hỗ trợ cho các giới trung lưu và cấp dưới. Ba xu hướng chuyển biến Bài viết tổng quan phê phán luận điểm về chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai này đã cho thấy lối suy nghĩ cho rằng Trung Quốc là hệ thống chính trị đồng nhất và vững chắc một mặt sẽ dẫn đến tư tưởng giáo điều yếm thế, hoặc, mặt khác có thể là thái độ mơ tưởng xa rời thực tế. Trong khi ĐCSTQ hiện diện ở khắp nơi và tương lai của nó phải là mối quan tâm chủ yếu thì chúng ta cần khai thác những động lực nội tại và những áp lực bên trong đảng một cách cặn kẽ và cụ thể hơn. Đồng thời, những xu hướng chuyển biến theo nghĩa rộng hơn –sự thay đổi quyền lực và các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của các nhân tố khác bên ngoài đảng là những vấn đề đáng được quan tâm nhiều hơn. Khi có một cách nhìn bao quát và hệ thống tất cả các yếu tố đó chúng ta mới có thể hòa hợp trong một cách lý giải chung những hiện tượng rất khác nhau và các phân tích rất trái ngược đã được bàn ở phần trước. Xu hướng một: Lãnh đạo yếu, phe phái mạnh Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã dần dần rời xa phương thức lãnh đạo được điều hành bởi một cá nhân có sức cuốn hút quần chúng và toàn quyền như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình, sang phương thức lãnh đạo tập thể. Sự chuyển biến này đã chấm dứt một kỷ nguyên của nền chính trị dựa trên một người có sức mạnh và trong chừng mực nhất định đó chính là lịch sử Trung Quốc lâu đời nơi mà một nhân vật độc đoán có thể quyết mọi điều tùy ý. Tất nhiên, đó là một quá trình diễn ra dần dần, Mao Trạch Đông, một nhân vật chẳng khác gì ông Trời nơi trần thế có quyền lực vô biên, đặc biệt vào thời Cách mạng Văn hóa. Mao thường xuyên ra các quyết định quan trọng một mình, ví dụ như chính sách Đại nhẩy vọt và Cách mạng Văn hóa đã gây biết bao tai họa. 57 Dưới thời của Đặng, dựa vào sự nghiệp chính trị thần kỳ và những mối quan hệ bảo trợ - đỡ đầu cho nên một loạt các sáng kiến cải cách –tính từ chính sách thành lập các vùng kinh tế đặc biệt đến việc gửi sinh viên sang học tập ở các nước phương Tây đều được thông qua mà không có sự chống đối nào đáng kể. Sau sự kiện Thiên An Môn Đặng vẫn duy trì được vai trò của một nhà lãnh đạo tối cao ngay cả khi ông ta không còn giữ chức vụ lãnh đạo quan trọng nào nữa. 58 Giang Trạch Dân thuộc thế hệ các nhà lãnh đạo thứ 3 và Hồ Cẩm Đào thuộc thế hệ thứ 4 đều là những nhà kỹ trị, thiếu sức cuốn hút quần chúng và ít thành tích cách mạng, nhưng cả hai lại dày dạn kinh nghiệm quản lý, có kỹ năng xây dựng liên minh và thỏa hiệp chính trị. Nói rộng ra, họ không hơn “người thứ nhất giữa những người ngang hàng”trong thế hệ lãnh đạo tập thể cùng thời. Họ khó có thể vận dụng được thứ quyền lực mà Đặng đã nắm, đặc biệt khi điều hành Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Tuy nhiên, cả Giang và Hồ có được quyền lực là nhờ vào sự ủng hộ của Đặng. Giờ đây khi mà thời kỳ của Hồ Cẩm Đào đang chấm dứt, giới tinh hoa Trung Quốc bắt đầu đánh giá tổng kết giai đoạn cầm quyền của ông và đề tài chính lại là cảm giác bất mãn sâu sắc. Hồ bị phê phán –có thể đúng hoặc sai –vì tính cách “thiếu hành động”(“vô vi”) –một thuật ngữ phổ biến trên nhiều blog và chuyện phiếm thường ngày. Một số trí thức của công chúng Trung Quốc công khai đánh giá hai nhiệm kỳ 5 năm do Hồ lãnh đạo là “một thập kỷ đã mất”. 59 Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng bị cho là “yếu”và “không hiệu quả”. Những lời chỉ trích Hồ và Ôn nêu trên có thể phản ánh quan điểm của một số nhóm lợi ích và những người lĩnh xướng dư luận nên không nhất thiết là ý kiến công chúng. Số đông quần chúng nông dân và công nhân nhập cư có thể vẫn coi Hồ và Ôn như những nhà lãnh đạo đã bảo vệ và giúp thăng tiến quyền lợi của họ. Nhiều trí thức dân chủ ở Trung Quốc vẫn coi Ôn là hy vọng đáng tin cậy nhất để tiến tới một cuộc cải cách chính trị đích thực. Tuy nhiên những tình cảm tiêu cực đang lan truyền rộng khắp dù sao cũng làm xói mòn quyền lực và uy tín của chính quyền Hồ - Ôn. Sự thay đổi sâu sắc xét về góc độ nguồn gốc và tính chính danh của lãnh đạo đang là vấn đề nổi cộm nhất đối với những nhân vật đang lên của thế hệ thứ 5. Vào thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ của mình, thế hệ sắp tới các nhà lãnh đạo, đứng đầu bởi cặp đôi kế vị Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường dường như có vẻ lại yếu hơn những người tiền nhiệm do họ còn thiếu thành tích trong quá khứ, nhu cầu tự nhiên phải chia sẻ quyền lực cùng với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng với các đồng chí cùng trang lứa. Chính vì vậy họ sẽ dựa nhiều hơn vào lãnh đạo tập thể khi ra quyết định. Cũng theo chiều hướng đó, chính quyền Trung Quốc ngày càng nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc “lãnh đạo tập thể”được định nghĩa trong tuyên bố của Đại hội ĐCSTQ năm 2007 như là “một hệ thống phân chia trách nhiệm giữa các cá nhân nhằm ngăn chặn những quyết định tùy tiện của một cá nhân lãnh đạo cao nhất”. 60 Lãnh đạo tập thể ắt làm cho nền chính trị phe phái trở nên cần thiết. Ban lãnh đạo ĐCSTQ hiện nay được cơ cấu xoay quanh hai liên minh hay còn gọi là hai phái để giám sát và đối trọng quyền lực của nhau. Hai nhóm đó có thể được gắn mác là “liên minh dân túy”(“dân tuý đồng minh”) do Hồ Cẩm Đào cầm đầu và “liên minh của giới tinh hoa”(“tinh anh đồng minh”) hình thành từ thời Giang Trạch Dân và hiện nay người đứng đầu phái này là Ngô Bang Quốc –Chủ tịch Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (trong ĐCSTQ ông ta là nhân vật đứng thứ 2). Hai thủ lĩnh có nhiều triển vọng nhất sau Đại hội 18 ĐCSTQ, một người thuộc phái tinh hoa là họ Tập còn họ Lý thuộc phái dân túy, mỗi người đại diện cho một liên minh. Cách thức phân chia quyền lực đó có thể được xếp vào loại hình cơ chế chính trị kiểu “một đảng, hai phái”(“nhất đảng lưỡng phái”). 61 Liên minh của giới tinh hoa chủ yếu gồm các đại diện “con ông, cháu cha”(bố mẹ họ là các quan chức cao cấp) và thêm cả nhóm Thượng Hải (gồm các nhà lãnh đạo được thăng tiến trên con đường chính trị ở Thượng Hải khi Giang còn là Bí thư đảng vào những năm 1980). Trong khi đó, liên minh dân túy tập hợp chủ yếu các cựu quan chức Đoàn Thanh niên Cộng sản (được biết dưới tên “đoàn phái”) và là nền móng quyền lực của Hồ Cẩm Đào. Hai liên minh này có những sáng kiến và ưu tiên về chính sách trái ngược nhau. Phái tinh hoa chú trọng vào tăng trưởng GDP trong khi liên minh dân túy chủ trương công bằng và liên kết xã hội. Nhìn chung, phái tinh hoa chiếm ưu thế trong các lĩnh vực kinh tế và tài chính đồng thời đại diện cho lợi ích vùng duyên hải phía Đông, trong khi đó liên minh dân túy lại vượt trội trong các tổ chức đảng và thường phản ánh những mối quan tâm của khu vực nằm sâu trong nội địa. Về vấn đề cải cách chính trị, lãnh đạo thuộc phái dân túy quan tâm nhiều tới việc khuyến khích các cuộc bầu chọn trong nội bộ đảng hơn là các đồng chí của họ thuộc liên minh của giới tinh hoa bởi lẽ ngay cả các thành viên trong giới chính trị, ví dụ như những đại biểu được chọn đi dự Đại hội đảng thường là biểu quyết chống lại xu hướng “con ông, cháu cha”(thái tử đảng - ND). Chẳng hạn như Bạc Hy Lai đã hai lần bị loại trong các cuộc bầu cử vào Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội đảng vào những năm 1990. Nền chính trị phe phái tất nhiên không phải là cái gì mới mẻ ở nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ). Những sự kiện chính thời Mao như chiến dịch Chống phái Hữu, Cách mạng văn hóa và khủng hoảng Thiên An Môn năm 1989, tất cả đều liên quan đến cuộc chiến giữa các phe phái trong nội bộ ban lãnh đạo nước CHNDTQ. Thế nhưng nền chính trị phe phái ở Trung Quốc ngày nay không còn là một cuộc chơi có tổng bằng không - tức là kẻ thắng được cả, người thua thì mất hết. Đó là vì cả hai phe phái chính trị hầu như là ngang sức và họ chia nhau số ghế trong các cơ quan cấp cao theo cái thế gần như là cân bằng. Bảng 1 cho thấy trong mỗi một cơ quan lãnh đạo quan trọng năm 2011 (thời điểm trước khi Bạc Hy Lai thất sủng), liên minh của giới tinh hoa và liên minh dân túy đã đạt được thế cân bằng về phân bổ số ghế xét dưới góc độ cả về đại diện của lãnh đạo thế hệ thứ 5 và cơ cấu chung. Hai liên minh đã thỏa thuận được một thế cân bằng hoàn hảo về quyền lực giữa các ngôi sao đang lên thuộc thế hệ thứ 5 (mỗi phe có một người trong Thường trực Bộ Chính trị, ba người trong Bộ Chính trị và hai người trong Ban bí thư gồm 6 thành viên, một cơ quan lãnh đạo quan trọng điều hành công việc hàng ngày và công tác hành chính của đảng. Thế cân bằng đó cũng được thể hiện rõ trong cơ cấu bốn Phó Thủ tướng, bốn ủy viên (dân sự) Quốc vụ viện, bao gồm cả thế hệ thứ 4 và thứ 5. 62
|
|